| 
                     | 
                    
                     
                        
                         |   | 
                        
                        
                         
                              
                                
   								
                                 
   
   
      
       Thơ, Truyện
 lê trúc khanh Cần Thơ
         - CHS-GS PTG______________________________________  
      
            CUỐI
         NĂM,VỀ CHỢ MỚI                    
                          Gởi Nguyễn
         Hùng Dũng  
                            
                                    Phà An Hòa,
         An Giang   Tôi về như
         máu dạt về tim   Một
         chút tình kia vạn nỗi niềm   Bát ngát trời thơ vào tháng Chạp   Phải mùa hoa sứ nở trong đêm? 
             Mấy chục năm xa lòng vẫn nhớ   Một thời áo trắng- một thời
         tươi   Áo cơm oằn
         nặng mùa chinh chiến    Sao
         vẫn hồn nhiên những nụ cười ?       Chúng
         ta là những dòng sông nhỏ   Chảy bốn phương trời mới gặp nhau   Bởi vậy, khi tôi về cố xứ 
         Qua phà Rạch Miễu, nhớ Vàm
         Nao!       Bạn ở quê nghèo thời chiến
         loạn   Tôi thì 
         lưu lạc  bỏ quê hương   Mỹ Luông  -Tân Thạch xa lăng lắc   Mà rất gần theo mấy dặm đường. 
             Trường xưa nằm cạnh đường liên tỉnh. 
         Rau ngỗ xanh đầy dọc lối
         đi   Một khúc lươn
         thôi là quá đủ   Lai
         rai rượu thuốc nhấp vài ly!       Học
         trò ngang tuổi thầy cô giáo   Tôi thích làm thơ, bạn thích đàn   Một đám thư sinh thời mới lớn 
          Bây giờ đầu bạc nhớ
         mang mang...      
         Theo bạn về quê ngày nghỉ
         dạy   Qua phà, qua mấy
         quảng đường xa   Giáo
         đường xưa vẳng hồi chuông muộn,    Ngọn khói hoàng hôn ấm mái nhà... 
              Mộng ước một thời trơ gió cát  
          Qua rồi ba lượt tuổi hai mươi. 
          Dũng ơi- Đoản khúc rời
         xuân ấy   Trang Đuốc
         Hồng kia phủ bụi rồi!     
           Cần Thơ, những ngày cuối năm.   LÊ TRÚC KHANH   _________________________________________________________________  
            
 
 
  
      
        HÃY
         THẮP LÊN NGỌN LỬA TÌNH YÊU !    Thương gởi tất cả các học trò tôi, thế
         hệ học sinh 1985-1988 với lòng trân trọng. LTK      Chiều ấy- hình như đang
         bão rớt Mà sao rất ấm những tình thân  Các em về
         giữa mùa giông tố  Nhưng lại bình yên gấp vạn lần!    Vạt nắng ban mai vừa trở lại  Khung trời xanh lắm bóng mây
         xa  Tiếng ai rộn rã cầu đi bộ  Sao giữa hoàng hôn mắt
         lệ nhòa?    Ba chục năm dài bao biến động  Những dòng
         trong đó chảy trăm miền  Bến lạ trời xa mù ký ức  Phù sa ân nghĩa vẫn y nguyên...
 
 
 
 Hơn hai mươi
         lớp thời đi học  Ai biết ngày mai sẽ đến đâu  Nên
         rất hồn nhiên thời trẻ dại  Tháng ngày, kỷ niệm cũng
         thêm sâu...    Có bạn ra trường đi dạy học Bạn làm
         công chức, bạn lao đao   Trăm nghề nên cũng trăm lần khổ  Đôi lúc gần nhau chỉ kịp chào.    Có bạn trầm luân
         nơi đất khách Lòng quê đau đáu nỗi hồi hương Có bạn nghỉ yên lòng đất mẹ  Và bao nhiêu bạn giữa
         trùng dương?    Chiều nay, xin bỏ bao phiền muộn  Giai cấp,
         hèn, sang... gởi lại đời  Hãy khoác lên ta màu áo tím  Vạn lòng như một để cùng vui.      Ta vui với bạn
         bè năm cũ.  Bên cạnh thầy cô tự buổi đầu  A một
         (A 1), A mười (A 10), Nga (N) hoặc Pháp (P).  Cần Thơ- Hưng Phú cũng
         như nhau!    Hãy nhắc cùng nhau thời tuổi ngọc  Sân trường
         rưng nắng đẹp như tranh  Tuổi sắp năm mươi đầu sắp
         bạc  Ngậm ngùi trong đáy mắt long lanh...    Bài hát vang
         lên lời quá khứ:  Hành khúc trường ta vẫn tự hào  Tiếng hát học trò mười  tám tuổi  Đêm nầy
         sao vẫn cứ bay cao ?      Ngọn lửa thầy cô gởi các em 
         Cùng nhau ta thắp sáng trong đêm  Lung linh cả một trời thương
         nhớ  Ôi những tình yêu ứa máu tim!      Thầy muốn
         ngồi yên trong bóng tối  Quanh mình ngọn nến bập bùng soi  Học trò tôi đó - thầy cô đó Xin giữ dùm nhau suốt cuộc đời...    Ngày mai chia biệt về muôn ngã  Bạn sẽ rời quê - tôi ở đây  Mong ước bao nhiêu lần
         tái ngộ  Đêm nào - ai biết - giống đêm nay?    Thôi
         giã từ nhau - nhé - các em  Một bình minh lại nối đêm
         đen Vì muôn tia sáng lần tương hội  Sẽ tiếp đường
         bay vạn cánh chim!    Cần Thơ, 17/07/2018.  
         LÊ TRÚC KHANH.     
  
 
 
 
  
      
        KHÔNG GIỮ
         TRƯỜNG, NHƯNG PHẢI GIỮ HỒN XƯA..   2 viên ngói của Trường
         PTG do GS LPN đem qua Houston, tháng 5/2017   -Viết thay học trò tôi, thế hệ 85-88  nhân mùa
         kỷ niệm.   -Gởi Mỹ
         Phượng và A 10  thân yêu.           Ai nhặt dùm ta những chùm phượng đỏ 
          Tháng năm về vang vọng tiếng
         ve ngân   Chưa đến mùa
         thi, dạt dào biển gọi   Ôi
         mùa hè bỗng chốc hóa mùa xuân!       Rồi một
         sớm khi ta mười tám tuổi   Bước
         xuống đời sao lại thấy bâng khuâng   Giã biệt thầy cô - mái trường ân nghĩa 
          Nét hồn nhiên đã mất
         giữa vô chừng....     
          Và chúng ta như những dòng
         sông nhỏ.   Ba mươi năm
         biền biệt chảy trăm miền   Đất
         Mỹ, trời Âu - nặng lòng cố xứ   Cùng ngược nguồn trong một sớm bình yên. 
              Ta về đây, vẫn Cần Thơ nắng đẹp    Như những lần nao nức buổi liên
         hoan   Đêm cắm trại hát
         hò bên ánh lửa   Má
         ai hồng nên ai nhớ mang mang....     
          Rồi ‘'ai đó'' và bao người
         bạn trẻ   Chỉ chung trường,
         chung lớp, chẳng chung đôi.   Xin
         quá khứ một lần quay trở lại   Để ngậm ngùi khi  tuổi chớm năm mươi... 
              Khi về đây, cổng trường xưa đã khép 
           Đường Ngô Quyền mưa
         đẫm gót chân ta   Trời
         tháng bảy có em còn đứng đợi   Lời chia tay gởi lại chốn quê nhà...       Ôi bạn đồng song, người còn kẻ mất   Bốn dãy bàn  - mấy chục chỗ
         ngồi quen   Ba năm học dù
         ít nhiều thay đổi   Nhưng
         bạn bè thì không thể nào quên...       Trường
         mới cất vẫn trên nền đất cũ   Thời học trò phong kín giữa lòng sân.   Thương lớp nhỏ, thương bạn bè
         thuở trước.   Một tình
         yêu hoài niệm đến hai lần!       Ta về đây
         như một người khách lạ   Lớp
         sóng sau đùa mất bãi bờ xa   Muốn tìm lại dãy hành lang thân thuộc   Khung cửa nào gởi trọn trái tim ta ? 
              Đã mất rồi sao, hình hài buổi trước 
          Thế kỷ qua, thương biết mấy
         cho vừa.   Dù gạch đá
         trăm năm là cát bụi,   Không
         giữ trường, nhưng phải giữ hồn xưa !       LÊ TRÚC KHANH.           
   
 
 
 
  
      
            GỞI NGƯỜI TRĂM NĂM CŨ          Tôi về buổi ấy trời hoen nắng 
          Một dãy Tiền
         Giang sóng gợn buồn   Từng chuyến xe qua cầu  Rạch Miễu   Bồi hồi kỷ niệm nhớ quê
         hương....     
          Người vẫn
         nằm đây- vẫn ở đây   Nhói lòng nghe súng vọng phương tây 
          " Bến Nghé
         của tiền tan bọt nước   Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây" 
              Hào khí miền
         Nam vùi đáy mộ   Thành xưa đã bặt tiếng quyên sầu   Một giấc Long Hồ vang chiến
         sử   Xin
         làm mây trắng miệt Ngao Châu...       Thắp vội tuần hương rời Bảo Thạnh 
          Ba Tri tăm tắp
         một dòng trôi   Nhớ người, nhớ cả ngôi trường cũ   Giấc mộng trăm năm lỡ
         hẹn rồi....   LÊ
         TRÚC KHANH                   
 
 
  
      
            TRANG "ĐUỐC HỒNG"
         KIA  PHỦ BỤI RỒI....  LÊ PHƯỚC NGHIỆP --------------------------------------------------- 
                              
                              Sáng thứ
         tư 16/11/2016 , tôi về lại Ô Môn để thực hiện một đề
         tài về Ngày Nhà Giáo Việt Nam cho chương trình Cần
         Thơ Phố. Gặp lại những học trò cũ nay đã là đồng
         nghiệp và cũng sắp về hưu. Lòng chợt rưng rưng vì mới
         hay thời gian đã không chờ đợi. Từ góc quán cà phê
         đến sân trường quen thuộc, thầy trò huyên thuyên nhắc lại
         bao kỷ niệm một thời qua. Trần Ngọc Hải -GV Hóa của trường
         Lưu Hữu Phước hiện nay- cho tôi biết đầu năm 2017, Hải về
         hưu và sẽ lên Sài gòn sinh sống, gần khu vực Phú Mỹ Hưng.Tôi
         chợt nhớ thầy Lê Hùng Dũng  cũng đang
         sống cùng con trai ở  gần đó. Hải mừng rỡ xin số điện
         thoại để sau nầy thầy trò có dịp gặp nhau.                                   
               Buồi trưa về lại Cần Thơ, nhận một lúc
         mấy tin nhắn từ Trần Như Tất Đạt, một dồng nghiệp
         trẻ ở trường THPT Châu văn Liêm, trước kia là học sinh trường
         Trung học Mỹ Luông (chợ Mới-An Giang), báo tin:Thầy Lê Hùng
         Dũng đột ngột qua đời ở tuổi 70 !                                     
         Một chút choáng váng, một chút nghèn nghẹn trong tim không thể
         nào giải thích, bạn qua đời mà cứ ngỡ như giấc chiêm
         bao.Xin được nhắc lại nhựng tháng năm  đầy ân nghĩa
         của riêng mình khi tôi quyết tâm chọn nghề dạy học : 
                                      
               Tháng 12, năm 1970. Mùa đông đến sớm nên
         trên nhữngcánh     đồng hoa lau
         nở trắng đã lãng đãng sương mù.Nơi tôi "khởi
         nghiệp" là một ngôi trường mới vừa hình thành nằm
         ven tỉnh lộ, lúc bấy giờ, nhà cửa, dân cư rất còn thưa
         thớt.Con đường từ Cần Thơ đến Ô Môn  dằn xóc,
         khói bụi mịt mù, chưa được hai mươi cây số mà
         gần trọn tiếng đồng hồ mới tới.Trường có cả cấp
         2,3, mang tên TRUNG HỌC PHONG PHÚ.Bỏ lại sau lưng  bao nhiêu
         vất vả , bao nhiêu điều trăn trở trên một quê hương đang
         chìm trong khói lửa, tôi đã sống ở đây những tháng
         ngày vô cùng hạnh phúc. Thời chiến , học trò đi học tuổi
         tác thường không chính xác, vì thế thầy trò chênh lệch
         nhau chừng dăm ba tuổi, thậm chí có em mới học năm cuối cấp
         hai mà đã lập gia đình!  Trong khi đó, thầy cô giảng
         dạy đa số đều độc thân : Lê Hùng Dũng, Khưu Ngoán,Trần
         Quốc Mậu, Huỳnh Kim Chi, Huỳnh Trung Dung, Nguyễn văn Thọ, Trần thị Ngọc
         Mai, Đỗ Quang Châu, Thái Kim Phụng, Nguyễn thị Thu Cúc,  Thạch
         Ngọc Hải, Nguyễn Đăng Hòa, Vũ Lâm Tùng, Tống văn Ưu,Thái
         Gia Hưng, Trần Nhựt Hưng, Lê Phước Nghiệp.... Bao nhiêu 
         đó đã đủ lực để chúng tôi tạo nên một dàn
         "đồng ca" có hạng của tỉnh Cần Thơ thuở đó!
         Đối với học sinh,  có lẽ vì khoảng cách tuổi tác
         ngắn ngủi, các em cũng có những nghĩ suy, mơ ước như  chúng
         tôi, nên thầy trò rất dễ gần nhau.                                            
         Nhớ biết bao những ngày làm văn nghệ, báo xuân, những lần
         cắm trại  ở Vàm Nhon, Ca My..và xa hơn nữa là ở tận Hòn
         Tre.Các bạn đồng nghiệp thời ấy tuổi cũng còn rất trẻ,
         đa số độc thân, nên chúng tôi đã gắn bó cùng
         nhau trong công tác giảng dạy, trong các hoạt động xã hội, trong
         các cuộc vui ..và thường thường các lớp học của trường
         ban đêm cũng là "quán trọ" tuyệt vời ! Tôi đọc
         cho Lê Hùng Dũng  hai câu thơ cổ đã được "cải
         biên" :                         
                                  Ô
         Môn vô lữ quán,                         
                                  Kim
         dạ đáo thuỳ gia ?                             
                             (
         Ô Môn không quán trọ,                               
                              Đêm
         nay ngủ nhà ai ? )                                            
         Tôi và Dũng gắn bó với nhau còn bởi phog trào văn nghệ
         ,báo chí sôi nổi của trường Trung học Phong Phú.Chỉ cần
         một cây guitar, Dũng có thể tập cho cả mấy chục lớp các
         tiết mục văn nghệ. Khi tôi dàn dựng kịch thơ, thì Dũng tập
         cho học sinh bài "Tiếng sáo  thiên thai" để kết hợp
         trong vở kịch"Một chút lòng quê". Vậy mà anh chị em  chúng
         tôi dám tổ chức văn nghệ gây quỹ giúp đồng bào miền
         Trung trong lũ lụt, đi trình diễn giao lưu với các đơn vị bạn
         khắp nơi. Một trong những điều làm cho thế hệ học sinh Trung học
         Phong Phú nhớ nhất là phong trào Văn Nghệ-Báo Chí của nhà
         trường vô cùng sôi nổi. Thời ấy. cứ mỗi lần tết dến,
         thì trong tất cả các trường Trung học ở Cần Thơ, họa chăng
         chỉ có trường Trung học Tổng hợp Phan Thanh Giản là xuất bản
         được  báo xuân. Thế mà, một trường Trung học thuộc
         hàng "sinh sau đẻ muộn" , lại "cư trú ở một vùng
         quê nghèo -là trường Trung học Phong Phú-  mà  có thể
         xuất bản đặc san "Đuốc Hồng" như một sự lên tiếng
         tuy khiêm tốn mà cũng không thiếu tự hào.Tờ báo xuân thời
         đó còn đơn sơ lắm, quay roneo , mực lúc đậm lúc nhạt
         không đều, nhưng nội dung thì chẳng thua gì với các đơn
         vị thuộc lớp đàn anh       Năm 1974, tờ báo
         Xuân của trường đạt giải Nhì toàn miền Nam trong
         kỳ thi "Báo xuân học đường" cùng
         với nhiều giải cá nhân..Ban tổ chức kỳ thi đã hết lời
         khen tặng- bởi vì trong cùng thời điểm ấy- không có tờ
         báo Xuân học đường nào của khu vực  đồng bằng
         sông Cửu Long đạt giải.            
                                    Tôi
         và Lê Hùng Dũng cùng 4 học sinh là các em XuânThọ , Ngọc
         Hải, Điều,  Bá Nghệ..đi xe đò từ Cần Thơ lên Sài
         gòn lãnh thưởng.Hai thầy trẻ đắt 4 học sinh- tuổi không
         nhỏ hơn bao nhiêu-  đi du ngoạn  Sài Gòn hoa lệ suốt 3 ngày.
         Tội nghiệp biết bao các học sinh của tôi. Các em sinh ra và lớn
         lên ở  vùng quê nghèo khó, chiến tranh..  đã làm
         cho những người bạn trẻ quá nhút nhát trước cảnh phố
         thị ồn ào xe cộ, thậm chí băng qua đường cũng phải đợi
         thầy dẫn bước.                                            
         Tình thầy trò sâu đậm như thế, nên cho tới hôm nay- dù
         có người qua tuổi 60-  các em vẫn nhắc tới thầy Lê Hùng
         Dũng bằng cả lòng trân trọng.                                     
             Thời đó, dù chỉ là lương khởi điểm,
         nhưng chúng tôi sống thật thoải mái. Ngoài phần tiền lo cho
         gia đình, ba má  , các em..còn lại cuối tuần , anh em rủ nhau
         đi du ngoạn. Anh Trần Quốc Mậu có xe 4 chỗ, thường kéo thêm
         anh Lầu, Dũng , Dung và tôi đi Sài Gòn- Vũng Tàu  rồi về
         lại Cần Thơ chiều chủ nhật . Những ngày vui đó qua mau và
         đã phủ mờ lớp bụi thời gian....                                          
         Trên tờ báo Xuân "Đuốc Hồng". Dũng có viết
         một bài tựa đề "Đoản khúc rời",
         với câu "đề từ"là: "Về chuột tý".Tôi
         dư biết người đó là ai nhưng  cũng trêu  chọc bạn
         mình:" Văn chương lủng củng, đã chuột mà
         sao còn tý nữa ?".Mấy năm sau, bạn đã đưa
         con "Chuột tý " đó "về dinh" và
         sống hạnh phúc cho tới bây giờ.                                          
         Sau những biến động lớn lao của lịch sử năm 1975, anh em chúng
         tôi như những nhánh sông đời trôi về muôn nẽo. Người
         trôi nổi đất khách quê người, kẻ còn bám theo nghề
         trong những năm tháng đầy gian lao và nghiệt  ngã. Tôi về
         lại nội ô Cần Thơ, Thọ, Châu, Phụng, Mai về quê cũ Bến
         Tre. Mậu, Dung, Chi , Liêm đang  sống cách một vòng trái đất...Dũng
         về công tác tại trường Trung học Mỹ Luông ( Chợ Mới-An Giang)
         cho đến lúc nghỉ hưu. Khoảng năm 1980, nhớ bạn, nhớ trường,
         tôi có viết một bài thơ khá dài tặng Dũng. Bài thơ
         đăng trên nhật báo Cần Thơ. Tôi cắt trang báo, gửi cho Dũng
         theo đường bưu điện. Về sau, muốn tìm lại thì không
         còn bản thảo. Dũng cho biết còn giữ bài nầy và cả nhiều
         bài khác của tôi, hôm nào ghé Cần Thơ sẽ mang theo. 
                                                  
         Con đường Chợ Mới không xa nhưng đã nhạt nhòa ký ức.
         Khoảng tháng 5/1972, tôi và Dũng đi xe đò về đó. Đến
         Long Xuyên, phải qua "băc" An Hòa rồi đi khoảng vài chục 
         cây số nữa mới đến nhà anh. Con đường nhỏ, nhưng râm
         mát những hàng cây và thật bình yên trong thời khói lửa.
         Bỗng dưng tôi thèm một chỗ dừng chân. Dũng rũ tôi cùng
         xin chuyển về đây dạy học.Anh em tôi còn có cả tham vọng
         mở một trường tư thục ở nơi nầy ! Rồi cái mơ ước
         lãng mạn mà không kém phần ngông nghênh đó cũng nhạt
         phai cùng năm tháng.Chỉ còn hẹn gặp lại trong những lúc hàn
         huyên để nhắc về trường xưa , lớp cũ...Thế mà.....  
                                                  
                                                  
          Nghe tin Lê Hùng Dũng mất, tôi cố gắng nhớ lại bài thơ.
         Tuổi càng cao thì trí nhớ càng sa sút. Cả bài, chỉ nhớ
         hai câu cuối mà thôi :                   
                                                     
         Dũng ơi, "Đoản khúc rời" xuân ấy.                
                                                     
         Trang "Đuốc Hồng" kia phủ bụi mờ..                        
                             Mà
         thôi, tôi muốn quên bài thơ cũng như  muốn quên đi quá
         khứ, quên những năm tháng nhiệt tình sôi nổi của tuổi thanh
         niên để khỏi nhớ  về  những người bạn cũ. Có
         lẽ như thế, ta sẽ bớt cô đơn, bớt buồn trong buổi tàn
         niên. Cố nhân ơi, xin xem mấy dòng tâm sự ngắn ngủi
         nầy như những lời ai điếu...        Cần Thơ, ngày
         17/11/2016.              
                                       
      
        LÊ TRÚC  KHANH   
            "HOA  BẦN THÔI RỤNG XUỐNG
         PHÙ SA"                                          
                                          ( Viết cho tập thơ của nhà thơ Kiên Giang-Hà Huy Hà
         sắp tái bản )    1.        
            Tôi làm quen với "Chương
         trình thi văn Mây Tần" trên đài phát thanh Sài Gòn từ
         thập niên 60 của thế kỷ trước qua bài thơ ‘QUÊ NGOẠI".
         Mấy chục năm dài trôi qua, bây giờ đọc lại, mới thấy
         rõ những vụng về trong vần điệu, ngôn từ...của thơ thời
         học trò hồn nhiên, trong sáng. Nhưng tôi yêu quí bài thơ
         vô cùng , bởi nhờ nó mà tôi mới có cơ hội gặp gỡ,
         gắn bó lâu dài  với một nhà thơ lớn miền  Nam :
         Kiên Giang-Hà Huy Hà.   Bài
         thơ được diễn ngâm liên tục hai kỳ trong chương trình
         "Thi văn Mây Tần". Sau đó, qua phần nhắn tin, anh Kiên Giang muốn 
         gặp tôi để thực hiện môt cuộc phỏng vấn về nhóm Về
         Nguồn-Tây Đô mà tôi và một số anh em văn nghệ tại
         Cần Thơ  như Huyền Vân Thanh, Trân Khanh, Lăng Cảnh Huy... sáng lập
         từ năm 1964..Tôi và anh Lê Hà Uyên lên Sài Gòn để
         trả lời phỏng vấn. Cần Thơ-Sài Gòn chỉ hơn trăm cây
         số, nhưng phải qua hai phà Cần thơ, Mỹ Thuận lại thêm những
         bất trắc của đoạn đường thời chiến, nên dù đi từ
         sáng sớm mà đến xế trưa anh em tôi mới tới Sài Gòn!
         Nơi gặp là môt quán cà phê nhỏ nằm  trên đường
         Phát Diệm, cạnh tòa soạn báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Điều
         tôi không ngờ được  là trong buổi chiều hôm đó,
         tôi lại vô cùng vinh hạnh được diện kiến đến hai ngôi
         sao trên khung trời văn nghệ miền Nam : nhà thơ Kiên Giang và nhà
         văn Sơn Nam. Bằng thái độ hết sức chân tình, hai anh đã
         hỏi thăm chúng tôi về những  hoạt động văn nghệ ở
         Cần Thơ, trao đổi  về các sáng tác của nhóm Về Nguồn.
         Tôi không thể nào quên được buổi chiều hôm ấy dù
         đã trên 40 năm với bao nhiêu sao dời vật đổi. Hình ảnh
         những bậc đàn anh văn nghệ lại rất mực gần gũi, khiêm
         tốn ngay  cả với những thế hệ đi sau-cho đến hôm nay-vẫn
         mãi là một ấn tượng khó phai trong lòng tôi. Suy cho
         cùng, bài học về đạo lý làm người  nầy, chắc
         hẳn đâu chỉ riêng tôi, mà còn cho bao nhiêu người làm
         văn nghệ trong cuộc sống hôm nay. Cũng trong chiếc quán nghèo
         đó, ngồi cạnh bàn chúng tôi , còn có diễn viên điện
         ảnh La Thoại Tân và  nhà văn đang "ăn khách" Nghiêm
         Lệ Quân. Những người "muôn năm cũ" đó, giờ ai còn,
         ai mất, hay đang trôi dạt nơi xứ lạ trời xa?         Từ lần gặp gỡ nầy, tôi được
         hai anh hết lòng giúp đỡ. Qua anh Kiên Giang, tôi  có dịp làm
         quen với bao nhiêu người bạn văn nghệ khắp miền đất nước
         : Trần Ngọc Hưởng, Như Uyên Thủy, Mặc Tuyền, Ngô Nguyên Nghiễm,
         Việt Chung Tử...Năm 1970, tôi và các bạn thực hiện tạp chí
         KHƠI DÒNG, thì cũng chính hai anh Kiên Giang và Sơn Nam góp tiếng
         với các sáng tác của mình mà không hề đòi hỏi
         một đồng nhuận bút. Kiên Giang với bài thơ "Lúa
         sạ miền Nam" và Sơn Nam với truyện ngắn "Người
         đẹp Cần Thơ". Đây là những sáng tác của
         hai anh chưa từng đăng trên bất kỳ tạp chí, nhật báo nào
         ở miền Nam. (Lúc đó, tập thơ "Lúa sạ miền Nam" của 
         Kiên Giang cũng chưa xuất bản). Nếu bạn là những người làm
         văn nghệ ở miền Nam trước 1975, hiểu được vị trí 
         của hai cây  "cổ thụ" nầy trên văn đàn, thì bạn
         mới biết đây là một  góp mặt lớn lao và ý nghĩa
         đến dường  nào. Cũng từ sự động viên của hai anh,
         tôi đã  cùng các anh chị em văn nghệ tại Cần Thơ cộng
         tác với Đài phát thanh Cần Thơ để thực hiện "Chương
         trình thi văn Về Nguồn", hoạt động liên tục từ năm
         1968 cho đến tháng 4 năm 1975.     
          2.           
         Từ sau 1975, anh em chúng tôi như những  nhánh sông đời trôi
         về vạn nẽo.  Nhóm Về Nguồn xẻ đàn tan nghé, mỗi người
         một cuộc đời riêng. Tôi mỏi mòn chạy theo"nghiệp dĩ",
         gắn với nghề dạy học. Con đường xa tăm tắp, nặng nợ áo
         cơm, thêm bao nhiêu đổi thay sau ngày 30-4 ở miền Nam, đã làm cằn  khô trong tôi
         những ước mơ, nhiệt tình về văn nghệ. Đôi  khi nhớ
         quay quắt kỷ niệm một thời, nhớ bạn bè ..nhói lòng, nhưng
         cũng  cố quên...Với ước mơ ngày đất nước thanh bình
         của một người trẻ lớn lên từ ly loạn, trong bài viết nhân
         kỷ niệm 7 năm (1971) thành lập nhóm  Văn nghệ Về Nguồn-một
         nhóm văn nghệ học trò-tôi đã nói lên cảm xúc tự
         lòng mình :" Ngày nào
         thôi làm văn nghệ,tôi sẽ bắt chước Kiều Phong , đưa A
         Châu về bên kia ải Nhạn Môn quan chăn cừu độ nhật. Kiều
         Phong rữa tay gác kiếm, bỏ một bên những ân oán giang hồ. Tôi
         sẽ hứa với nàng là chẳng làm thơ nữa, nếu có chăng
         là đặt vài câu lục bát để nàng thay ca dao hát ru con
         ngủ. "Cái ước mơ
         mang hơi thở " kiếm hiệp Kim Dung" có pha chút ngông nghênh thời
         trai trẻ đến hôm nay phần nào đã bị thời gian ma chiết.
         Nhưng cũng có lẽ chính  ước mơ nầy  đã thắp
         lại  ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Một điều lạ là những
         năm đầu tiên sau 1975, tôi lại gặp anh Kiên Giang nhiều hơn. Anh
         thường xuống Cần Thơ và lần nào cũng ghé nhà tôi.
         Trong những lần đó, anh luôn động viên phải gắng "giữ
         lửa", gắng đi tiếp con đường văn nghệ. Cũng trong những
         lần đó, tôi mới hiểu thêm một phần về sự thủy chung,
         ân nghĩa trong  trái tim nhà thơ lớn. Lần nào , anh cũng rũ
         tôi ( có khi có cả anh Lê Hà Uyên), đến thắp hương
         cho cố nhân trong bài thơ  "Hoa trắng thôi cài trên áo tím". Trong ngôi nhà nhỏ nằm phía sau nhà thờ Chánh
         tòa Cần Thơ, anh thường ngồi yên lặng nhìn lên chân dung
         người đã mất sau làn khói hương nghi ngút. Hai người
         con của chị hiện sống ở đây -đều là giáo viên- rất
         hiền lành, mực thước , rất quí trọng nhà thơ và gọi
         anh là cậu. Một điều cũng rất lạ là tên anh em trong gia đình
         đều bắt đầu bằng vần Tr..( Ba của các em cũng có tên
         Trinh, giống như tên nhà thơ Kiên Giang.Có phải chăng từ một góc sâu thẳm trong
         trái tim người con gái xóm đạo vẫn là nỗi hoài niệm
         khôn nguôi về một mối tình thời học trò thơ dại? 
                Ít  nhất một lần,
         anh Kiên Giang rủ tôi cùng theo anh vào nghĩa trang Công giáo viếng
         mộ người xưa. Nhìn anh đứng lặng lẽ thật lâu trước
         ngôi mộ trong buổi trưa cuối năm vắng ngắt, lòng tôi dâng
         lên bao nỗi cảm hoài tha thiết. Hình như hôm đó, trời đất
         đã chuyển mùa, gió bấc phương Nam đủ làm se lạnh lòng
         người, mái đầu nhà thơ qua mấy mươi năm xuôi ngược
         giang hồ cũng đã ngã màu sương gió. Trong khoảnh khắc đó,
         tôi nhận ra cái phù du của kiếp người, cuối cùng rồi cũng
         lấp vùi trong cát bụi thời gian. Và cũng trong khoảnh khắc đó,
         càng thấm thía hơn hai câu thơ của anh:                                          
         " Trong lòng con- giữa màu hoa trắng,                                            
         Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!".                Mấy
         năm sau nầy,vì tuổi tác, anh Kiên Giang ít có dịp lên xuống
         Cần Thơ. Giật mình khi chợt nghĩ nhà thơ đã vượt tuổi
         tám mươi. Đọc báo, nghe tin anh bị người khác mượn danh
         làm chuyện không tốt do anh ưa để mất điện thoại di động,
         càng ngậm ngùi hơn khi nhớ lại cuộc gặp gỡ năm nào chỉ
         như là giấc mộng! Tuổi già làm cho ta dễ nhớ, dễ quên,
         con đường "phiêu bạt giang hồ" của người thi sĩ tài
         hoa ấy cũng ngắn lại như con đường thời gian của một kiếp
         người mong manh , là hạt bụi trong vũ trụ vô cùng. Nhưng tôi
         tin rằng,với tâm hồn đầy ắp lòng nhân ái đó, Kiên
         Giang vẫn  mãi mãi là một " hạt bụi nghiêng mình
         nhớ đất quê"...   3. 
                     Tôi sinh
         ra ở một vùng quê nghèo nằm ven bờ sông Tiền bốn mùa
         miên man sóng vỗ. Từ những năm thơ ấu, trong tâm hồn đứa
         học trò nhà quê nhiều mơ mộng đã không biết bao lần
         bâng khuâng khi nhìn những cánh hoa bần rụng xuống trường giang.
         Hồi đó, tôi chưa quen và cũng chưa được đọc bài
         thơ nào của anh Kiên Giang. Sau nầy, khi đã vào Trung học có
         dịp biết đến tập thơ "Hoa trắng thôi cài trên áo
         tím", tôi rất tâm đắc mấy câu thơ anh viết trong bài
         "Đẹp Hậu Giang" :                                         
         Nếu cô thôn nữ ngừng câu hát,                                         
         Nếu bạn thương hồ bặt tiếng ca                                         
         Đờn nguyệt không hòa câu vọng cổ                                         
         Hoa bần thôi rụng xuống phù sa.           
         Có lẽ những câu thơ nầy tác giả viết ra từ nguồn rung cảm
         về những tiếng hát câu hò một thời trên sông nước
         miền Nam. Khi tôi vừa lớn lên , cũng là lúc chinh chiến tràn
         lan, tiếng đạn nổ  bom gầm đã giết chết bao âm thanh ngọt
         ngào, trong trẻo của những chàng trai, cô gái miệt vườn cất
         lên trong những đêm trăng trải dài theo từng vàm sông, ngọn
         rạch. Nhưng, bất chấp qui luật khắc nghiệt của những đổi thay
         từ cuộc sống, bất chấp chiến tranh, và ngay khi cả tiếng đàn
         nguyệt lắng sâu vào quá vãng, thì hoa bần vẫn rụng
         xuống phù sa! Có phải chăng đó chính là
         nguồn mạch quê  hương, là tự tình dân tộc vẫn âm
         thầm cuộn chảy trong trái tim ta khi bao lượn sóng  đời cứ
         muốn xô dạt ân nghĩa, thủy chung về cuối trời quên lãng? 
                 Và cũng phải chăng
         cánh bông bần   mang sắc trắng tinh anh đó, cũng chính là 
         tấm lòng của những con người nặng nợ văn chương như Sơn
         Nam, Kiên Giang, như bao nhiêu đứa con của vùng đất phương Nam,
         góp hương làm đẹp cho đời rồi cuối cùng âm thầm
         gửi trọn kiếp nhân sinh cho mạch đất phù sa ngọt ngào ân
         tình quê mẹ?       Bài
         viết ngắn ngủi nầy xin được gửi đến anh, một đàn
         anh văn  nghệ mà tôi vô cùng yêu mến và trân trọng.
         Mấy mươi năm gặp gỡ và quen biết quả thực không nhiều
         so với đất trời vô tận, nhưng riêng tôi, là những tháng
         năm đầy hạnh phúc. Anh Kiên Giang ơi, biết đến bao giờ 
         anh em mình  mới có dịp qua chuyến đò Xóm Chài trong buổi
         hừng đông, bỏ lại sau lưng thành phố Cần Thơ rộn ràng
         xe ngựa để anh viết trọn những dòng thơ đầy lãng mạn:
         "Cô lái đò ngang cười chúm chím-Thầm trêu  hàn
         sĩ lúc sang sông"?....                  
                                                                               Cần
         Thơ, những ngày cuối năm.                                    
                                            
                                       LÊ TRÚC
         KHANH      
      
          NGHĨ VỀ NGÔI TRƯỜNG TRĂM
         TUỔI    Kỷ niệm 100 năm trường Nam tiểu học Cần Thơ    1.    Vào những năm đầu thế kỷ XIX, vùng đất Trấn Giang đã
         được “Gia Định thành thông chí” nhắc đến
         như là một trong những trung tâm thương mại  phồn thịnh
         nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu. Địa danh Tân An, Thới
         Bình đã có rất sớm ngay trong buổi đầu khai hoang mở đất.
         Trong thời điểm này, giao thông chủ yếu vẫn là hệ thống
         sông rạch thiên nhiên “nhiều như mạng nhện”, dẫn
         đến việc hình thành hệ thống làng xã dọc theo các con
         sông với những xóm ấp, chợ búa, đình chùa,… mang nét
         riêng  của văn hóa miền sông nước.    Với những người
         lưu dân sống đời “gạo chợ nước sông” như
         thế, phải đấu tranh với thiên nhiên để tìm cái sống,
         nên buổi đầu - không chỉ Trấn Giang- mà cả vùng Nam Bộ,
         người dân ít chú trọng đến việc học hành, thi cử.
         Cộng đồng dân cư ở Trấn Giang bao gồm: một bộ phận là
         binh lính và gia đình của quân binh Hà Tiên, Rạch Giá và
         một bộ phận là những lưu dân từ miền ngoài vào, từ
         miền Đông xuống. Vì thế, những dấu vết văn hoá truyền
         thống từ miền ngoài còn được lưu giữ trong tập tục
         thờ cúng của nhiều địa phương trong vùng. Nhưng qua năm tháng,
          ý thức hệ Nho giáo cùng với những chế định
         về văn hoá - giáo dục, những quy tắc về đạo đức và
         chuẩn mực ứng xử ngày càng phát triển. Nói như thế, việc
         giáo dục ở phương Nam vẫn theo khuôn mẫu cửa Khổng sân Trình
         như ở miền Trung, miền Bắc. Những bậc trí thức khai khoa làm
         vinh dự cho vùng đất lầy, đất đứng như Phan Thanh Giản, Nguyễn
         Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan văn Trị,...đã góp mặt
         vào giới khoa bảng dân tộc bằng tài năng và nhân cách
         mang đậm “sĩ khí miền Nam”.    Nhưng cuối thế kỷ XIX, đầu
         thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động
         dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền
         Đông theo hoà ước nhượng bộ của triều đình Huế
         năm 1862.     Ngày
         20, 22 và 24 tháng 6-1867, thực dân Pháp đã vi phạm hoà ước
         1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.    Ngày 1-1-1868, Thống đốc Nam Kỳ Bonard
         quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với
         Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành quận, lập toà bố tại
         Sa Đéc.    Ngày 30-4-1872, Thống đốc
         Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập Phong Phú với Bắc Tràng (một
         vùng thuộc phủ Lạc Hoá, tỉnh Vĩnh Long) lập thành một hạt,
         đặt toà bố tại Trà Ôn. Một năm sau, toà bố Trà Ôn
         lại dời về Cái Răng (Cần Thơ).    Ngày 23-2-1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định mới lấy
         huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để
         lập hạt Cần Thơ (Arrondissement de Cantho) với thủ phủ là Cần Thơ
         (làng Tân An, huyện trị của huyện Phong Phú cũ). Năm 1889, Pháp
         đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và
         huyện đổi thành quận.    Như
         vậy, từ năm 1876 đến năm 1954, Cần Thơ – một phần đất
         của Nam Kỳ lục tỉnh - nằm trong sự cai trị của chính quyền thực
         dân Pháp. Khi đã tạm ổn định về an ninh, chính quyền xâm
         lược tiến hành việc khai thác thuộc địa: không chỉ
         tiềm năng kinh tế mà còn cả chất xám của người dân
         bản xứ. Trong chiều hướng đó, tại các địa phương
         nhiều trường học đã được người Pháp lập ra.              2.    Nói đến các trường
         học ra đời tại Cần Thơ, ta thường nghĩ tới trường College
         de Can tho, nay là trường THPT Châu văn Liêm được
         xây dựng từ năm 1917. Thực ra, có những ngôi trường ra đời
         còn sớm hơn cả trường Trung học Cần Thơ. Đó là trường
         Tiểu học Phong Phú (nay là trường Tiểu học Trần Hưng
         Đạo) có mặt đã 101 năm! Và trong thành phố Cần Thơ,
         trường Nam Tiểu học (nay là trường Tiểu học
         Mạc Đỉnh Chi) vừa tròn trăm tuổi.    Trường
         Tiểu học Mạc Đỉnh Chi được xây dựng và đi vào hoạt động cách đây
         đúng 100 năm (1913-2013). Nó ra đời trước trường College de Cantho
          (nay là Trung học phổ thông Châu Văn Liêm) đúng 4
         năm. Trường tọa lạc trong địa phận làng Tân
         An, nay thuộc phường An Hội - Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, là
         một trong những ngôi trường nội ô lâu đời nhất của thành
         phố Cần Thơ và cả miền Tây sông Hậu.    Trường gồm 3 khu vực, địa giới ban đầu gần
         bên nhau với tổng diện tích 6750m2.    Khu
         vực chính (Khu A - vị trí của trường tiểu học Mạc Đỉnh
         Chi hiện nay) xây dựng năm 1913, diện tích rộng 4560,9m2, nằm giữa
         4 con đường chính. Mặt chính của trường hiện nay là đường
         Xô Viết Nghệ Tĩnh (đường Phan Thanh Giản cũ), bên trái là
         đường Trương Định, bên phải là đường Võ Thị
         Sáu (trước là đường Pasteur), phía sau của trường là
         đường Ngô Hữu Hạnh (trước đây là đường Trịnh
         Tấn Truyện). Vị trí này rất thuận lợi cho việc đi lại học
         hành của học sinh và cả việc đưa rước con em của các
         bậc phụ huynh.    Khu B: Trước còn gọi
         là trường Võ Tánh xây dựng năm 1948 (nay là Trung tâm GDTX –
         KTTHHN TP. Cần Thơ tọa lạc ở góc đường Trương Định
         – Xô Viết Nghệ Tĩnh).    Khu C: (tức là Mẫu
         giáo An Hội) xây dựng năm 1949,  hiện nay không còn sử
         dụng.    100 năm qua, những thế hệ học
         sinh đã lớn lên từ mái trường này luôn làm rạng
         danh nhà trường bởi thành tích học tập, rèn luyện của
         mình. Nhiều học  sinh thành đạt ở nhiều lĩnh vực
         kinh tế - xã hội, làm việc ở mọi nơi của Tổ quốc. Nhiều
         cựu học sinh có học hàm, học vị cao, nhiều học sinh giữ cương
         vị lãnh đạo chủ chốt cấp thành phố, cấp quận, các
         tổ chức , đoàn thể, quân đội… Nói không quá lời,
         hầu như những nam công dân cư ngụ trên  địa bàn
         trung tâm thành phố, từ những năm 13 của thế kỷ trước, đều
         bước chân qua cổng trường Nam tiểu học với bao nhiêu kỷ niệm
         ngọt ngào của thời thơ ấu. Sức lan tỏa của ngôi trường
         không chỉ ở địa phương Cần Thơ, mà nó còn đi theo
         bước chân những học sinh ngày nào đến mọi miền Tổ
         quốc để cùng nhân dân góp sức dựng xây, bảo vệ quê
         hương bằng tri thức, bằng cả tuổi thanh xuân đã một thời
         được sự dạy dỗ của bao bậc ân sư đất Cần Thơ
         cây lành trái ngọt.     2.    Khi tôi đến Cần Thơ thì đã trưởng thành
         và cũng qua rất lâu thời học trò tiểu học. Chính vì thế,
         tôi  không có được vinh dự là học sinh của ngôi
         trường tuổi tròn thế kỷ. Nhưng không biết bao nhiêu lần,
         tôi đứng tần ngần trước những dãy phòng học cũ kỹ,
         nằm lặng lẽ dưới những cây còng rợp bóng ban trưa, hay những
         đêm mưa, ánh đèn từ bên ngoài đường Phan Thanh Giản
         hắt ánh sáng vàng vọt vào khoảng sân trường ngập nước.
         Sao mà trường Nam Tiểu học Cần Thơ giống vô cùng trường
         Tiểu học Tân Thạch ở quê tôi, vùng đất Bến Tre trong những
         năm mịt mờ khói lửa. Rồi lại  nhớ lan man đến
         Thầy cô, những người gần gũi biết bao với đám học trò
         quê áo quần không lành lặn, mỗi sáng ôm chiếc cặp đan
         bằng đệm, lội qua mấy đoạn đường ngập nước, qua mấy
         chiếc cầu gãy nát vì bom đạn, rồi lại tiếp tục qua “mấy
         gian đồng” mắt đã mờ vì bụng đói đường xa
         mà ngôi trường vẫn còn xa thăm thẳm!...    Có lẽ vì
         thế mà tôi quý trọng biết bao những thầy cô dạy tại trường
         Nam tiểu học Cần Thơ. Có thầy về sau chuyển sang làm Giám thị
         tại trường Phan Thanh Giản, rất được học trò kính nễ
         vì đức độ, nhân cách, nhất là việc đối xử với
         học sinh bằng cả tấm lòng nhân ái. Quý Thầy Cô ngày
         nào kiên trì tận tụy với nghề, giờ đây hầu hết đã
         bước vào cõi trường sinh. Một trăm năm đi qua đã có
         biết bao thế hệ Thầy Cô nối bước để viết tiếp những
         trang đời. Và... bao lớp học trò lớn lên, rời khỏi ngôi
         trường thân yêu bước xuống cuộc đời, sao khỏi bồi hồi
         khi nhớ về những tháng ngày thơ ấu?    Qua tuổi sáu mươi,
         mỗi sáng tôi lại đến trường Nam tiểu học ngày nào
         với một công việc khác hơn: đưa cháu vào lớp học.
         Ngôi trường đã hoàn toàn thay đổi với những dãy lầu
         cao,  những phòng học khang trang, làm ta hơi hụt hẫng. Nhưng
         trên sân trường như vẫn còn đọng lại chút hồn xưa.
         Đứng bên này nhìn qua cánh cổng, tôi vẫn còn thấy được
         bên kia là mái ngói cổ kính rêu phong, là dãy lầu với
         khung cửa sổ lá sách quen thuộc của trường trung học Cần Thơ.
         Đây cũng là nơi tôi từng đứng hơn 40 năm trước. Từ
         điểm “định vị” này, tôi đã quyết tâm tiếp
         bước thầy cô. Khi tóc bắt đầu nhuốm bạc, khi bỏ lại
         hết ảo vọng phù hoa, ta mới thực sự trải lòng ngược dòng
          kỷ niệm và trong phút giây chợt thấy mình trở
         lại tuổi hai mươi!                
         Phía sau tôi, tiếng cười đùa của các học sinh như
         tiếng chim ríu rít gọi bình minh. Trong vô cùng những âm thanh rộn
         rã đó, chắc chắn có sự góp phần của đứa cháu
         ngoại thân yêu, cũng là một kỳ vọng của riêng tôi cho một
         tương lai rực nắng. Và có lẽ, cũng là cách tôi đền
         ơn bao nhiêu bậc ân sư dù không trực tiếp dạy mình nhưng
         đã cho tôi những bài học sâu xa về cuộc sống thanh cao, về
         điều không gì so sánh được trong trái tim thấm đẫm
         chất nhân văn mãi rạng ngời trước bao biến động của
         thời gian.              Thành
         phố Cần Thơ đang bước vào  những ngày cuối năm.
         Chút nắng lên cho đất trời thêm rạng rỡ. Và càng đẹp
         biết bao, ngôi trường bước qua tuổi đời tròn thế kỷ
         mà vạn tấm lòng vẫn phơi phới mùa xuân !        Lê Phước Nghiệp  
      
      NHỮNG NẼO ĐƯỜNG MÙA
         XUÂN   
 1. Mùa hè năm
         1965, tôi về thăm quê người bạn học ở  Mái Dầm
         trên một chuyến tàu xuôi dòng sông Hậu. Ở quê tôi “chiếc
         tàu” nhỏ bé thế nầy chỉ được gọi là “đò
         máy” và  rất ngại  mỗi lần ngược
         sóng sông Tiền trong mùa gió chướng . Tàu nhỏ, dòng sông
         cuồn cuộn phù sa, lại thêm đất trời trắng xóa một màn
         mưa, nên trong lòng không chút nào yên. Tôi ngồi nhấp nhổm
         trên băng gỗ phía trước , mắt cứ ngóng về phía tay phải
         dòng sông. Theo lời bạn tôi, khi nào nhìn thấy cột ống khói
         lò gạch, cũng có nghĩa là tới Mái Dầm. Một tiếng-rồi
         hai tiếng trôi qua. Dòng sông dậy sóng, hàng đàn lục bình
         trôi tăm tắp,  xuôi về đâu mà hối hả như một cuộc
         đuổi bắt không có điểm dừng chân? Lẫn trong tiếng máy,
         trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu, tôi còn nghe được cả
         âm thanh của những tràng đại liên vang lên đâu đó trên
         bờ. Thời chiến, hình như mọi người cũng ít nói hơn.
         Nụ cười trẻ thơ cũng tắt hẳn trên môi. Cái cảm giác
         phập phòng lo sợ như một ám ảnh không rời.  Khi mọi người trên tàu reo mừng, tôi nhìn qua cửa sổ,
         thấy trước mắt mình là cột ống khói xây bằng gạch
         thức thật cao đang thả từng ngụm khói lên bầu trời tháng
         năm bây giờ sau cơn mưa đầu mùa đã  trong vắt
         gờn gợn mấy làn mây trắng. Bất chợt, nhìn trên bến, dọc
         theo bờ sông, những cánh bằng lăng nở tím đung đưa trong gió.
         Bao nhiêu lo lắng, băn khoăn bất chợt tan biến để trải lòng
         ra hòa nhập cùng đất trời vô tận:
                                     
         Em Mái Dầm sông xa lớp lớp                                    
         Bằng lăng mọc tím lối lên trời                                     Khói
         tàu bay trắng vàm kinh nhỏ                                    
         Đôi mắt em- màu xanh biển khơi… Chút lãng mạn thời học trò được
         gửi qua mấy dòng thơ.Yêu dòng sông Hậu cuồn cuộn phù sa,
         yêu bến nước phủ sắc tím bằng lăng, nhưng không khỏi
         ngán ngẫm vì chuyến hành trình hơn ba tiếng đồng hồ trong
         khi khoảng cách giữa bến Ninh Kiều và Mái Dầm chỉ trên dưới
         mười cây số! Có lẽ không chỉ riêng tôi, mà bao nhiêu
         khách đi tàu buổi ấy, vẫn thầm mong có một con đường
         nối liền phố thị với vùng quê. Nhưng ước mơ nầy sớm
         chìm trong lửa đạn. Thời chiến, sinh mạng con người mong manh, nói
         chi là đắp bồi, xây dựng? Năm tháng dần qua, chiến tranh kết
         thúc. Bao nhiêu gia đình trở về chốn cũ. Buổi đầu còn
         nhiều khó khăn, di chuyển chủ yếu vẫn là sông nước. Con
         đường nối các vùng quê được người dân tự
         lực sửa chửa, nhưng vẫn là những con đường đất mùa
         mưa lầy lội. Họa hoằn lắm mới có một số ít đường
         quê lót xi măng, nhưng thường ngắn  và chủ yếu
         dành cho người đi bộ. Như vậy  có nghĩa là mơ
         ước năm nào của tôi và của những hành khách trên
         chuyến tàu xa xôi kia ví như những cánh lục bình trôi về
         biển cả… Tháng
         12 năm 2010, tôi trở lại Mái Dầm không phải trên chuyến tàu
         năm cũ mà bằng xe gắn máy. Qua khỏi cầu Quang Trung, rẻ phải,
         bỏ lại sau lưng cái ồn ào của một thành phố đang chuyển 
         mình theo bước đi thời công nghiệp hóa, con đường nhựa
         phía trước trải rộng thênh thang.Tháng Chạp phương Nam thoáng
         chút gió mùa Đông Bắc, cái nắng không gay gắt nhưng bầu
         trời thì xanh thăm thẳm làm lòng ta chợt nôn nao khi trời đất
         giao mùa.Về mái Dầm lần nầy, không chỉ thăm người bạn
         cũ mà còn để tiễn bạn tôi vào cõi vô cùng.Thời
         học trò, chúng tôi đã từng mơ ước một con đường
         như thế nầy, nhưng tiếc cho bạn tôi: sau  năm 1975, anh về
         quê sống cuộc đời nông dân bình dị rồi ngã bệnh liệt
         giường suốt mấy năm dài. Điều đó cũng có nghĩa
         là anh không có cơ hội để nhìn và để được
         đi trên con đường dẫn về quê mẹ.Và có bao nhiêu người 
         như bạn tôi - như những  người dân tay lấm chân
         bùn, giống như cánh đom đóm nhỏ bé kia lập lòe mơ
         ước từ một góc quê hương rồi cuối cùng chìm khuất 
         trong bão táp thời gian?  Mấy mươi năm dài sau chiến tranh, còn nhiều
         điều  chưa vừa ý và cần thay đổi, nhưng rõ
         ràng ai cũng nhìn thấy được những thay đổi rất lớn của
         Cần Thơ. Con đường nhựa thênh thang đâu  chỉ đến
         Mái Dầm, mà còn qua Cái Côn, còn về Kế Sách. Cuối
         năm 2011, tôi và các bạn đồng nghiệp cùng làm một cuộc
         viễn du. Từ con đường nầy, chúng tôi qua Kế Sách, ghé Sóc
         Trăng, xuống Vĩnh Châu rồi trở lại Cần Thơ theo quốc lộ. Con
         đường chúng tôi đi qua hai bên là những cánh đồng tăm
         tắp một màu xanh, có lúc là một thị trấn trẻ với cửa
         nhà san sát. Đẹp và tự hào  biết bao quê hương
         tôi trong những năm tháng thanh bình… 2. Thêm một lần đất trời
         chuyển nhịp. Cũng buổi chiều cuối năm se lạnh, Thành phố nhộn
         nhịp chuẩn bị vào Xuân. Con đường Hòa Bình lung linh ánh
         đèn với sắc màu rực rỡ. Xuôi theo dòng người hối
         hả , tôi lại qua cầu Quang Trung, nhưng rẽ trái theo đường dẫn
         cầu Cần Thơ về hướng Hậu Giang. Miền  Nam nhiều sông
         rạch nên đường đi cũng san sát những nhịp cầu! Nhưng có
         lẽ đặc biệt và độc đáo hơn, nếu bạn dừng xe, đứng
         trên cầu và hướng tầm mắt  về xa. Dưới kia là
         dòng sông hiền hòa, đục nước phù sa, uốn quanh những vùng
         quê yên tĩnh. Cặp theo dòng sông, không chỉ một con đường,
         mà có đến năm bảy lối đi, kết lại tựa như những
         cánh hoa tỏa về muôn nẽo. Những con đường nầy dẫn về
         đâu? Một thôn xóm yên bình, một chợ quê ồn ào ban
         sáng, hay một ngôi trường rộn tiếng đùa vui?  Yêu biết bao nhiêu - những con đường quê
         như thế. Những con đường - giống như đường về Mái
         Dầm - là ước mơ từ bao nhiêu năm tháng để hôm nay trở
         thành hiện thực. Chợt nhớ thời thơ ấu, đứa học trò
         nhà quê chân đất đầu trần, mùa mưa phải bấm từng
         bước chân trên con đường trơn trợt, mùa khô đất
         nứt trắng, lại bước thấp bước cao nên hầu như các móng
         chân không bao giờ nguyên vẹn! Con đường đi tìm tri thức của
         thế hệ chúng tôi sao mà vô cùng gian khổ. Có những ngày
         bụng đói, phải vượt mấy “gian đồng”, mắt đổ
         hào quang mà trường tôi vẫn còn xa thăm thẳm. Tuổi thơ hôm nay thật vô cùng hạnh phúc.
         Con đường quê  các em đi bằng phẳng, thênh thang mà
         lối vào đời cũng phủ kín hoa hồng. Xin được ghi ơn những
         hy sinh lặng thầm của bao nhiêu người  khai  hoang
         mở đất. Xin gửi chút ngậm ngùi quá khứ như một hạt
         bụi chôn vùi để nẫy mầm hoa cỏ .Và, để những con đường
         Cần Thơ tôi yêu mãi mãi là những nẽo đường xuân… Cần Thơ, tháng Chạp 2012. LÊ TRÚC KHANH. 
  
      
      LÊ TRÚC KHANH BẾN NINH KIỀU- NĂM THÁNG VÀ
         NỖI NHỚ.   
 
 1. Tôi đến Ninh Kiều lần đầu tiên vào những
         năm 60 của thế kỷ 20.Lúc bấy giờ, dù trong thời chiến, nhưng
         Cần Thơ vẫn là thành phố sầm uất nhất ở vùng đồng
         bằng sông Hậu mà người dân gọi bằng mỹ từ “Tây
         Đô” với tất cả sự tự hào.Suốt những năm học trò
         Trung học,tôi học ở trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu và
         nhà ở cạnh hồ Nước ngọt, cách trung tâm thành phố Mỹ
         Tho chỉ một con đường. Chẳng biết tự bao giờ,câu ca dao quen thuộc
         đã đi vào lòng tôi:                 Đèn
         Sài Gòn  ngọn xanh ngọn đỏ                
         Đèn Mỹ Tho ngọn  tỏ ngọn lu.. Điều đó, chứng tỏ rằng có một
         thời , Mỹ Tho chỉ “thua chị kém em” là so với Sài Gòn,
         chớ Cần Thơ chưa xứng mặt “anh tài”!Thế mà  những
         năm 60, chưa bao giờ tôi thấy nhà lồng chợ Mỹ Tho mở cửa
         quá bốn giờ chiều.Vườn hoa Lạc Hồng  cũng là
         nơi khách nhàn du lui tới, phía bên kia sông là Cù Lao Rồng
         xanh ngắt  những vườn cây, nhưng ánh đèn đêm
         vàng vọt đã giục khách nhanh chân về nhà vì phía cuối
         trời xa, những ánh hỏa châu long lanh trên sóng nước Tiền 
         Giang như nhắc nhở mọi người quê hương còn chìm trong
         lửa đạn.   Với suy nghĩ đó, tôi vô cùng ngạc nhiên khi chợ Cần
         Thơ hầu như buôn bán suốt đêm và bến Ninh Kiều lúc
         nào cũng rộn ràng xe ngựa. Hình như cánh tay bạo lực của
         chiến tranh không chạm  tới nơi nầy?Cũng không cần phải
         đi tìm trong tư liệu về nguồn gốc tên gọi Bến Ninh Kiều.Đó
         là cái tên bắt nguồn từ giai thoại về Chúa Nguyễn Ánh
         trong một lần thả thuyền trên sông Bassac vì mến tiếng đàn
         câu hát mà đổi lại là Cầm thi giang. Đó là những
         năm sau 1955, chính quyền miền  Nam đổi tên Bến Hàng
         Dương thành Bến Ninh Kiều bởi con đường cặp theo dòng sông
         lúc bấy giờ có tên là đường Lê Lợi? Những điều
         nầy với tôi không có gì quan trọng. Cảm nhận trước hết
         của tôi về Bến Ninh Kiều là nét đẹp trong sáng hồn nhiên
         của  cô gái miệt vườn, nhưng đã thay đổi
         y phục người phố chợ cộng thêm một chút trang điểm nhẹ
         nhàng, thành ra vừa dễ gần mà lại đậm đà hương
         sắc  làm say đắm lòng người. Khi đất trời chuyển mùa, tháng Chạp 
         trở về mang theo chút gió heo may từ phương Bắc.Ấn tượng
         rõ nhất của mùa Đông là buổi sáng ngợp mắt vì
         những chiếc áo ấm đủ màu xuôi ngược trên đường.
         Có lẽ những người cùng thế hệ tôi đều có chung suy
         nghĩ: hình như thời đó, mùa đông lạnh hơn bây giờ
         rất  nhiều? Trong những  ngày nầy, Bến Ninh Kiều
         càng rực rỡ hơn với ngàn hoa khoe sắc. Từ Ngã ba cột đèn
         ba ngọn cho đến sát khu vực Hải Quân ( nay là khu nhà hàng
         Ninh Kiều), hàng trăm loại hoa kiểng từ khắp nơi được thương
          lái đưa về bày bán . Hàng đoàn ghe thương
         hồ nối đuôi nhau, cắm sào phía dưới bờ sông.Phía
         bên kia, xóm Chài vốn dĩ ngày thường trầm mặc ,dường
         như cũng rộn rã hẳn lên.Từ các loại cúc đại đóa,
         cúc mâm xôi, cho đến vạn thọ, hoa xác pháo, trạng nguyên,
         ngọc nữ… và bao nhiêu loại hoa vừa lạ vừa quen mà tôi
         không làm sao nhớ hết.Cứ mỗi năm, những nghệ nhân dân gian
         lại  sáng tạo thêm nhiều tên gọi mới, như một
         mong ước: sống lâu, sống giàu sang, hạnh phúc..và các loại
         hoa mang tên như thế cũng rất được người Cần Thơ đón
         nhận nhiệt tình. Bùng binh
         Đại lộ Hòa Bình Tết Mậu Thân 1968 Thời chiến, tiếng súng hòa lẫn
         vào tiếng pháo.Càng  gần đến ngày đưa ông
         Táo về trời , hai thứ âm thanh nầy lại càng chen  nhau
         như một điệp khúc đầy nghịch lý. Nôn nao khi sắp đón
         một mùa Xuân, nhưng tự lòng tôi không khỏi thoáng chút
         ngậm ngùi.Cần Thơ thanh lịch, Cần Thơ rộn ràng xe ngựa, nhưng
         vẫn không che giấu được những ánh mắt đượm buồn,
         nhưng chiếc áo sờn vai, những bàn tay chai sần.. của người dân
         nghèo trôi nổi sông hồ trên  những con  thuyền
         chất đầy hương sắc mùa Xuân để đem bán cho đời! N hưng có lẽ, điều mà tôi nhớ nhất về Bến Ninh
         Kiều vào xuân là những kỷ niệm ngọt ngào của một thời
         thơ mộng. Những năm trước 1975, học sinh các trường công lập 
         ở miền Nam thường được chia tách nam, nữ học riêng.
         Nam sinh thì quần xanh áo trắng, còn nữ sinh thì mới vào lớp
         Đệ Thất ( nay là lớp sáu) đã phải mặc áo dài.Cần
         Thơ có hai trường trung học lớn và nổi tiếng khắp vùng
         sông Hậu : trường Trung học  Phan Thanh Giản   và 
         Trung học Đoàn thị Điểm. Hai trường cách nhau một con đường  
          nhỏ ( trước mang tên Pasteur,  nay là đường
         Võ thị Sáu) mà lại bị cấm đi vì ở gần khu quân
         sự.Biết bao nhiêu chàng “ thi sĩ học trò” đã gửi
         lòng mình qua những sáng tác thơ văn đầy lãng mạn cho
         một bóng hồng nào đó thoáng hiện qua chiếc cầu thang bên
         kia ngôi trường “kín cổng cao tường”.Những mối tình
         thơ câm lặng đó rồi cũng như một con sóng nhỏ trên mặt
         trường giang, sẽ phai dần đi để trở thành kỷ niệm khi chúng
         ta bước xuống cuộc đời.Nhưng , mùa Xuân và Bến Ninh Kiều
         đã khơi một dòng chảy cho nước về nguồn , cho bao nhiêu câu
         chuyện tình học trò cứ tưởng mong manh như sương khói mà
         lại bền bĩ với thời gian. Hạnh phúc nhất với tuổi học trò chúng tôi thời
         đó là những buổi sáng giáp Tết, cũng ôm cặp sách
         tới trường , nhưng không vào lớp , mà điểm hẹn là 
         Bến Ninh Kiều ! Mặt trời lên, mang theo chút nắng ấm, gió từ
         sông Hậu thổi vào lồng lộng,bạn cứ ngỡ đi trong chợ hoa
         mà như lạc tới Đào Nguyên!  Chung quanh ta, hàng trăm
         tà áo dài trắng nữ sinh tung bay trong gió, những nụ cười,
         ánh mắt, những câu chuyện không dứt..Mùa Xuân hình như
         tràn ngập trong mỗi trái tim người.. Giã từ năm tháng học trò, bước 
         vào cuộc sống với bao nhiêu hệ lụy, hình ảnh một thời
         đó đã bị phủ kín bởi lớp bụi thời gian.Mấy mươi
         năm- dù vẫn sống ở Cần Thơ- nhưng rất ít khi tôi đi
         chợ Tết Ninh Kiều. Cuộc sống bộn bề lo toan chuyện áo cơm, con
         cái..Những ngày giáp Tết thì tất bật nên nếu có ghé
         vào phiên chợ tết thì cũng vội vàng . Một điều nữa
         là hiện nay, nữ sinh cũng rất hiếm khi mặc áo dài trắng như
         ngày xưa, nên chợ hoa Xuân -với cảm nhận riêng tôi- hình
         như cũng giãm phần sinh động. 2. Mùa Xuân lại về. Bến Ninh Kiều hôm nay đẹp
         hơn với những công trình xây dựng.  Lối đi rộng
          hơn,  con đường cặp sát bờ sông  thoáng
         đãng  và không còn lồi lõm  như nhiều
         năm trước. Phía bên kia, Xóm Chài cũng đang dần thay chiếc
         áo cũ kỹ năm xưa để bước vào thiên niên kỷ mới.Chợ
         hoa sau bao nhiêu lần đổi chỗ , cuối cùng nơi đây vẫn là
         điểm chính. Thực ra, khách có thể đến chợ hoa Nhị Kiều,
         làng hoa Bà Bộ, hay những con đường hoa tự phát dọc theo lối
         dẫn về Bình Thủy-Long Tuyền. Nhưng có lẽ trong suy nghĩ của những
         cư dân “cố cựu” Cần Thơ, thì không nơi nào phù
         hợp hơn Bến Ninh Kiều.Điểm đặt chợ hoa không chỉ thuận
         tiện cho người mua mà còn cho kẻ bán.Vị trí phải là
         “trên bến dưới thuyền”, để ghe thuyền dễ dàng lui tới,để
         có nước sông tưới mát giữ được sắc hoa bền lâu
         trong suốt thời gian bán Tết. 
  Xuân nầy, tôi lại có dịp đi chợ hoa Ninh Kiều, nhưng bên
         cạnh là đứa cháu ngoại vừa ở tuổi biết cảm nhận cái
         đẹp của hoa và cũng có hàng trăm câu hỏi về hoa mà
         đôi lúc ông ngoại phải chào thua vì không có lời giải
         đáp ! Lại nhớ lan man về những người bạn học,trong đó
         có nhiều  người đã vĩnh viễn ra đi.Một đêm
         nào trong mùa xuân chiến tranh, tôi và Hà Huy Thanh đã đi chợ
         Tết Ninh Kiều với cả tấm lòng phơi phới tuổi hai mươi :
                            
         Ra chợ đêm chờ xem pháo bông                            
         Bến bờ bên ấy vẫn mênh mông.                            
         Hai thằng bạn rũ đi trên pháo                            
         Để thấy tình yêu vẫn đẹp hồng.. Rồi người bạn thân ấy cũng đã
         nói lời vĩnh biệt.Ngày bạn mất, lòng tôi đau nhói vì
         Hà Huy Thanh ra đi là đã mang theo  một phần đời thanh
         niên của tôi ở đất Cần Thơ .Điều đó, hôm nay tôi
         cũng không thể tâm sự với cháu mình mà chỉ giấu kín
         trong lòng .Rồi lại nhớ cô bé học trò mỗi ngày với tà
         áo trắng bay trên đường Phan Thanh Giản để cho ai kia cứ theo bước
         giai nhân, khoảng đường gần mà mắt thì xa dịu vợi ! :                              
         Đại lộ và mười  lăm cột đèn                              
         Bây giờ nghe khoảng cách dài thêm                              
         Dấu chân hai đứa nhòa sương bụi                              
         Anh ngẩn ngơ- thời gian lãng quên… Cố nhân  nay cũng đã là bà
         nội, ngoại, tóc bạc màu theo năm tháng và có lẽ những
         câu thơ vụng về  chắc cũng không còn nhớ nổi
          dù hồi nào tôi đã nắn nót từng dòng trên
         giấy poluer xanh để kín đáo gửi cho nàng.Mà thôi, nhắc
         làm gì cái thời hoa bướm đó. Tôi chợt ngước nhìn
         lên khung trời tháng chạp.Quê hương tôi đang bước vào
         xuân với không gian bát ngát màu xanh,cao vời vợi như nhữn g
         niềm mơ ước không cùng. Lẫn tron g cái nền xanh bình yên
         đó, có một vầng mây trắng phiêu bạt cuối trời xa,trôi
         rất chậm như có chút gì lưu luyến nên bất chợt trong 
         khoảnh khắc dừng lại  phía vàm sông.Có phải
         đó là Hà Huy Thanh, là Lăng Cảnh Huy, …hay bao nhiêu người
         khác nữa, những người cùng tôi góp mặt  trong chợ
         Tết Ninh Kiều mà  giờ đây  đã là
         “bạch vân thiên tải” ?  Đi giữa những hàng hoa “ nghìn tía muôn
         hồng”, lòng ta phơi phới khi đất trời đang chuyển bước
         vào xuân.Đẹp biết bao-quê hương Cần Thơ- nơi tôi đã
         gửi trọn hoài bão một thời thanh niên đầy ắp những ước
         mơ hồng.Nhưng tự sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn thấy nhớ
         tiếc những tà áo dài năm nào như đàn bướm trắng
         mùa Xuân đang hút mật cuộc đời để gửi lại nhân
         gian những dòng thơ ngọt  ngào hương sắc.Những  tà
         áo trắng một thời- cũng như bạn bè tôi- giờ như  vầng
         mây kia trên khung trời xanh thẳm … Nữ sinh các trường Trung học trong Thành phố Cần
         Thơ giờ rất ít khi mặc áo dài (trừ ngày thứ hai), nên
         dù có vào chợ hoa ngày Tết , thì hầu như chỉ là đồng
         phục ngắn.Tuổi trẻ hôm nay hồn nhiên, trong sáng và đẹp
         hơn so với tuổi trẻ ngày xưa, bởi các em lớn lên trên một
         đất nước thanh bình , mà những ám ảnh chiến tranh đã
         lùi xa vào quá khứ.Nhưng đi giữa ngàn hoa Bến Ninh Kiều, lòng
         tôi vẫn có chút bâng khuâng.Giá mà… Bất chợt,  ước ao phải chi trở
         lại thời mười tám tuổi , trở lại một Ninh Kiều hôm nay nhưng
         lại tung bay sắc trắng tinh anh của chiếc áo học trò bên hàng
         trăm loài  hoa đang chào đón mùa Xuân.Để tôi
         được cùng bạn bè chen chân trong rừng người đón Tết,
         để viết trọn những vần thơ thời mới lớn :                                 
         Trên những đường xưa rợp áo dài                                 
         Em về- gió động tóc thề bay…  Hoặc ngồi trên chiếc ghế đá
         nào đó cạnh bờ sông mà mơ một chuyến đi đầy lãng
         mạn : theo đoàn ghe thương hồ trở về các vùng quê khắp
         mọi miền đất nước khi kết thúc chợ hoa vào trưa ngày
         ba mươi tết.Ninh Kiều ơi, yêu biết bao nhiêu….. Cần thơ, những ngày cuối năm. LÊ TRÚC KHANH. _____________________________________________________________ 
 
  
      
       LÊ TRÚC KHANH
 
 “ĐỒNG TƯỚC  XUÂN THÂM  TỎA NHỊ KIỀU” 
                 
          Ngày mới tới Cần Thơ, khi
         xe qua hai chiếc cầu sắt song song nối liền đôi bờ sông Cái Khế,
         trong đầu tôi đã hiện ra một câu thơ Đường quen thuộc:
         “Đồng tước xuân thâm tỏa Nhị Kiều”.                   Dĩ
         nhiên, câu thơ cổ nầy chẳng chút liên quan nào đến hiện
         tại, bởi đó là một giai thoại từ thời Tam quốc! Nhưng chỉ
         vì “Nhị Kiều” lại là một mỹ danh để gọi chiếc
         cầu đôi. Ôi, hiền lành và nhỏ bé biết bao, con sông nối
         mạch Cần Thơ để rồi len lỏi vào tận vườn cây trái
         xanh tươi miệt Bình Thủy, Phong Điền.Trong thời học trò, không
         biết bao nhiêu lần, tôi ngẩn ngơ đứng trên bến Nhị Kiều
         mà trông vời chiều mưa Cái Khế. Những đám mây đen
         đó, rồi sẽ theo gió trôi giạt về đâu, cứ để con
         sông bập bềnh muôn lượn sóng. Sát bờ sông, có một
         công viên nho nhỏ, đặt vài băng ghế đá, bãi cỏ xanh,
         bóng cây mát rượi là chỗ dừng chân cho khách nhàn du.
         Kỷ niệm một thuở trong sáng hồn nhiên chừng như theo con 
         nước lớn, ròng với những đám lục bình vô định
         trôi tăm tắp về đâu.                
         Rồi theo qui luật muôn đời “Sông sâu bên lỡ bên
         bồi”, phía bên nầy bờ bị dòng chảy  Cái
         Khế xoáy mòn và chỉ trong một khoảng ngắn thời gian, công viên
         nhỏ bé kia đã chìm theo bao lượn sóng vô tình. Ở ngay
         giao điểm ngả ba con đường Phan Thanh Giản và Duy Tân (Nay là đường
         Xô Việt Nghệ Tĩnh và Hoàng Văn Thụ) sát bờ sông, có
         một gốc phượng già, đến mùa hè trổ bông rực rỡ.
         Bạn bè tôi đều đồng ý đó là cây phượng
         đẹp nhất thành phố Cần Thơ. Những cánh phượng hồng
         rơi trong gió, bay lả tả trong không gian rồi cũng tự giấu mình
         trên mặt sông dài. Phượng giống như chúng tôi, vùi lấp
         tuổi thơ ở một góc quê hương ngạt ngào mộng tưởng.
         Theo năm tháng, tôi trưởng thành từ trong khói lửa chiến tranh
         và bước vào nghề dạy học. Đôi lúc giữa nợ nần,
         cơm áo vây bủa, chợt nhớ lại ngày thơ, lòng không khỏi
         ngậm ngùi :                                    
         Bảy tám năm rồi xa lớp học                                    
         Xa trường- xa hết cuộc rong chơi                                     
         Dòng sông Cái Khế buồn thiu đó,                                    
         Đã cuốn tình trôi vạn nẻo đời….                  
         Vậy đó,  mà đã gần 50  năm trôi
         qua. Có biết bao cuộc đời, bao thế hệ lớn lên trên một quê
         hương đang từng ngày đổi mới. Cây phượng cũ không
         còn. Hai chiếc cầu sắt hiền lành, nhỏ nhắn được thay bằng
         chiếc cầu bê tông hiện đại, nhưng cái tên Nhị Kiều
         vẫn tồn tại với thời gian. Mấy năm sau nầy, bờ sông Cái
         Khế được kè đá cả hai bên, phía đường Hoàng
         Văn Thụ xây dựng công viên mới, cũng tấp nập trên bến
         dưới thuyền. Đặc biệt hơn, cứ mỗi lần giáp Tết, những
         dãy hàng hoa san sát, nối liền hai đầu cầu bên nầy là
         An Cư, và bên kia là An Hội. Dưới bến sông, chen chúc ghe xuồng
         chở hoa từ các vùng quê tới: An Bình, Long Tuyền, Bình Thủy,
         Vàm Xáng, Phong Điền... Lại có cả người bán hoa Tết từ
         các vùng cù lao, từ Sa Đéc, Đồng Tháp... cũng ghé vào
         đây để góp thêm sắc màu cho mùa xuân mới. Nhị Kiều
         rộn ràng với vạn thọ, hoàng mai, đỗ quyên, trạng nguyên,
         ngọc nữ... và hàng trăm loại hoa mà tôi không làm sao nhớ
         hết. Cái không khí vui tươi, rạo rực ấy bắt đầu sau
         rằm tháng Chạp cho đến xế trưa ngày ba mươi Tết. Khi chiếc
         ghe thương hồ cuối cùng rời bến, Nhị Kiều trở lại với
         bình lặng cố hữu của nó như mọi ngày, để cùng nhân
         gian nhẹ bước vào xuân.            
         Lòng tôi lại bồi hồi vì một cảm xúc mênh mang, như
         muốn ngược dòng ký ức. Vẫn là Nhị Kiều quen thuộc của
         tôi, của một thời học trò hồn nhiên trong trắng. Chắc hẳn
         là do chủ quan, tôi yêu Nhị Kiều hơn cả bến Ninh Kiều! Trong cảm
         nhận của riêng tôi, Ninh Kiều đẹp và sắc sảo như một
         cô gái thành phố, trong khi cái đẹp của Nhị Kiều là một
         nét duyên quê, một thứ “hoa đồng cỏ nội” mà gặp
         một lần ta chẳng dễ gì quên.           
         Lại thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Mùa Xuân trở
         về để Nhị Kiều thêm rực rỡ, để tôi có dịp 
         nhìn từng hàng ghe thuyền san sát mà trở lại ước mơ
         thời trẻ: chờ đợi một chuyến đi xa với điểm khởi đầu
         là con sông Cái Khế thân quen. Tuổi tác, năm tháng, cuộc đời...
         đã làm mòn dần trong ta bao nhiêu khát vọng. Thì thôi, xin
         nguyện làm một giọt phù sa, lắng giữa dòng trong để giữ
         tròn kỷ niệm hôm qua và gởi lại nghìn sau chút lòng yêu
         đất nước…                                                                            
                                 Cần Thơ, những ngày cuối  năm 2011                                                                                                  
                                 LÊ TRÚC KHANH  
      
      MỘT CHÚT LÒNG QUÊ 
                                                   *Tặng Trần Bang Thạch, Lê Cần Thơ và                                                                              
         những người xa xứ.  
 . 
 
 1.     Cuối năm,trời
         mênh mang trở lạnh.Mùa đông đến sớm với chút mưa bụi
         lất phất đường như điểm thêm một nét duyên ngầm
         cho vùng đầt phương Nam chỉ có hai mùa mưa nắng.   
         Buổi tối, xem phóng sự ngắn của Đài THVN về sự chuyển
         đổi đột ngột của thời tiết buổi tàn niên.Người
         miền Nam khi được phỏng vấn “ Bạn nghĩ gì về cái
         lạnh và cơn mưa bụi?” thì thích thú, hài lòng vì
         được cái “ hương vị” của mùa đông chỉ biết
         từ sách vở.Những người miến Bắc, từ một viên chức,
         công nhân ..đến người lao động thủ công đang  ngược
         xuôi mưu  sinh ở đất Sài Gòn , đều có chung
         cảm xúc “thương nhớ mười hai” và nỗi nhớ càng
         thiết tha hơn khi đất trời đang chuyển nhịp.Mới thấy tình
         quê thật là sâu nặng.... 2.  
           Năm 1923, nhà cách mạng Nguyễn
         An Ninh vừa tròn 24 tuổi. Có người nhận xét rằng ông mang tâm
         hồn nghệ sĩ, ít nghĩ tới việc tổ chức lực lượng cách
         mạng.Nhưng chắc chắn ở ông là lòng nồng nàn yêu nước,
         yêu dân  mà cụ thể là tình yêu đất, yêu
         người. Trong bài “Cao vọng của bọn thanh niên An Nam” 
         ông có viết :     “ Ta cần
         phải lên một chỗ non cao, ở một nơi yên tịnh mà tra mình
         cho biết các thân của mình thế nào, rồi lấy con mắt hoà
         hảo, tương ái mà ngó cả vũ trụ, xã hội chung quanh mình.
         Chừng ấy, ta mới bỏ chỗ non cao mà trở về với xã hội,
         cái xã hội ấy ta có thể dùng trọn cái tinh thần tạo
         lập của ta được. Nghĩa là ta đây là người An Nam, ta
         phải trở về với xứ Nam Việt nầy vì ta là người sanh trong
         xứ nầy, ta quen biết với non sông, nòi giống của ta thì ta làm
         việc làm của ta, ta khỏi mất công lần mò vô ích.”     
         Văn phong quốc ngữ những năm hai mươi của thế kỷ trước
         có thể hơi dài dòng, khó hiểu với thế hệ hôm nay, những
         nội dung của nó vẫn là những điều còn tươi rói :
         Yêu nước gắn liền với tình yêu quê và luôn luôn,
         quê hương vẫn là nơi đẹp hơn tất cả.     
         Từ mối đồng cảm với người xưa, lòng ta chợt thoáng
         chút bồi hồi khi cuối năm nhớ về quê cũ.Quê tôi nằm
         bên kia Thành phố Mỹ Tho, cách một dòng sông cửa Đại mênh
         mông bốn mùa miên man sóng vỗ.Hồi đó, chiếc cồn cát
         chắn ngang vàm sông chưa nổi lên, nên tới mùa gió chướng
         thì sóng bủa trắng chân trời. Trên dòng sông, hàng đàn
         le le không biết từ đâu, đúng hẹn trở về dập dềnh bơi
         lội, như báo cho mọi người biết là năm cùng tháng tận.Chúng
         dạn dĩ đến độ chẳng thèm tránh ghe tàu xuôi ngược,
         nên đôi khi chết dưới “chân vịt” mấy chiếc phà.
         Loài vật nầy giống hệt loài “vịt Tàu”, có điều
         nhỏ hơn một chút, và tôi cũng chưa thấy ai săn bắt chúng
         làm thức ăn.Rồi khi mùa đông sắp  hết, tiết
         trời ấm áp chuyển sang xuân, cả đàn rủ nhau bay đi, trả
         lại cái mênh mông của dòng sông với hàng vạn cánh lục
         bình nối nhau trôi về vô tận.       
         Khoảng vài mươi năm nay, tự dưng không còn thấy đàn
         le le xuất hiện ( Nếu có chăng, chúng trở thành một trong
         những món ăn “ cao cấp”  ở các quán nhậu đầy
         dẫy trong thành phố Cần Thơ ! ). Có phải vì nòi giống
         chúng bị tận diệt hay vì cuộc sống ồn ào náo nhiệt của
         thành phố ngàycàng sôi động làm mất đi hình ảnh
         một thời qua ?       Nối hai bờ sông
         lúc đó, là những chiếc phà nhỏ chỉ có 1 đầu để
         xe cộ và khách bộ hành lên xuống. Khi phà cặp bến, khách
         lên xong, mới đến lượt xe di chuyển và dừng lại ở bàn
         cầu gỗ đặt  trên cầu phao. Cái sàn cây nầy
         cũng thật đặc biệt : hình chữ thập, lót gỗ chắc chắn,
         có hệ thống bánh xe lăn phía dưới.Những người công
         nhân bến phà sẽ dùng sức đẩy cầu, để xe được
         trở đầu thuận chiều lên bến. Từ những năm 70 của thế
         kỷ trước, dạng cầu phao nầy cũng đi vào quá vãng, bởi
         đã có  phà 2 đầu và cầu phao cũng vững vàng,
         rộng rãi hơn. Nhiều lúc qua phà, lòng lại chợt bâng khuâng.
         Trong cái se lạnh cuối năm, khoảnh khắc dừng lại trên chiếc cầu
         phao mới, lòng ngậm ngùi nhớ “ người muôn năm cũ”
         !        Rồi những ngày sóng
         lớn, qua phà ướt  đẫm cả người. Công nhân
         phà phải cột chặt các xe lớn bằng dây luộc vào hai bên
         lan can phà. Những bà mẹ, người chị đi chợ tết Mỹ Tho về,
         đang tíu tít nói cười, trong phút chốc mặt mày xanh mét
         ngồi nép mình bên thành phà, miệng lâm râm cầu Trời
         Phật cho được bình yên, phà mau cặp bến. Nhiều bà mẹ
         quá sợ, quăng bớt hàng của mình xuống sông lớn để
         cho “ nhẹ phà, không chìm” ! Khổ thay, đó lại là dưa
         Tết- những trái dưa loại nhứt- chẳng những không chìm mà
         lại dật dờ trên sóng nước. Và suốt thời thơ ấu cho
         đến khi được đi trên những chiếc phà lớn, rộng rãi,
         an toàn như hôm nay, tôi chưa bao giờ nghe có một chiếc phà nào
         chìm trên dòng cửa Đại! Có điều, những hình ảnh
         ngộ nghĩnh, buốn cười với bao nhiêu con người chơn chất, thật
         thà đã mãi mãi chìm sâu trong con sông đời vô tận.....       
         Mùa Xuân miền Nam hình như thường hay đến sớm.Đến
         trong âm thanh tiếng quết bánh phồng từ làng trên xóm dưới.
         Đến trong tiếng guốc rộn rã đường quê.Người dân
         quanh năm đầu trần, chân đất, lối đi thì mùa mưa lầy
         lội, mùa nước nổi thì di chuyển bằng xuồng ghe. Nhưng khi bắt 
         đầu trở gió bấc, con đuờng khô trắng,  buồi
         sáng dẫm lên mát rượi bàn chân.Nhớ biết bao hàng vĩ
         đan bằng lá dừa phơi bánh tráng, gác trên giàn cao, đủ
         cho tôi bóng râm với giấc ngủ bình yên những ngày trưa
         tháng Chạp. .                                               
         Nêu mới vươn trời ru gió bấc,                                               
         Mười lăm tháng Chạp đã vào xuân                                                            
         Bỏ manh áo vá từ năm ngoái,                                                
         Khua guốc đường mơ pháo lại gần.... .           Nhưng
         với thời thơ ấu, kỷ niệm tuyệt vời nhất của tôi là
         những sớm cuối năm qua đò Rạch Miễu. Một vùng sông nước
         trắng xoá sương mù, phà trôi nhẹ nhàng, sóng gợn lăn
         tăn.Tâm hồn cậu học trò nhà quê nhiều mơ mộng như gởi
         tận đâu đâu.Tôi hình dung phía sau vùng sương mù ấy,
         chiếc phà sẽ đưa tôi đến cõi Đào Nguyên! Bồi
         hồi nhớ truyện Từ Thức gặp tiên “Từ buộc thuyền lên
         bờ coi, thì thấy khí núi xanh biếc, vách đá dụng thẳng,
         cao hàng ngàn trượng. Rồi theo lối nhỏ mà lần vào,.Cửa
         vách  đá khép lại ngăn lối về trần.Và từ
         đó, nhân gian bảo rằng Từ Thức đã lạc lối Thiên thai...”   .                                                             
         Tuổi thơ ai lại chẳng một lần ước mơ như thế? Huống
         chi  khi tôi vừa lớn lên thì quê hương mịt mù
         khói lửa.Nhưng khi bước vào cuộc đời nghiệt ngã, trôi
         dạt nơi xứ lạ quê người, mới hiểu rằng Đào Nguyên
         không có thực. Nhưng không thể phủ định rằng chính những
         điều đáng nhớ đáng thương của thời thơ ấu đã
         chắp cánh cho tôi bằng những ước mơ hồng..... . 3.           Cho
         đến hôm nay, câu chuyện cổ tích của hơn 600 năm trước
         vẫn còn nao lòng ngưòi. Có điều, chưa ai lý giải rõ
         ràng nguyên nhân nào Từ Thức lại cương quyết rời bỏ
         cõi tiên để trở về cõi tục. Phải chăng giữa người
         xưa và thế hệ hôm nay vẫn chung dòng suy nghĩ: Đào Nguyên
         đẹp, nhưng thiếu hẳn tình người và Từ Thức quay về
         bởi chàng còn một chút lòng quê?                                                                                                 
         Cần Thơ, đầu năm 2010.                                                                                                              
         Lê Trúc Khanh.      
          
  
      
                          
           
            VÙNG ĐẤT       PHƯƠNG NAM       VÀ      TINH THẦN
               TÔN SƯ
         TRỌNG ĐẠO  .       
              o  Lê Trúc Khanh                
         (Về Nguồn - Tây đô)    
         1           Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá,
         dinh phủ đặt tại làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương,
         Quảng Trị ngày nay. Theo chân ông, những người lưu dân VN đã
         có mặt trên một vùng đất mới, đất của những dân
         tộc Chiêm Thành, Chân Lạp, Bồn Man, Lão Qua, Phù Nam... đầy
         lạ lùng, kỳ bí mà càng tiến về Nam như đi vào thời
         hồng hoang với rừng tràm rừng đước bạt ngàn, sơn lam chướng
         khí, muỗi, mòng, đĩa vắt, "dưới sông sấu lội trên
         rừng cọp đua". Năm 1658 Hiền Vương Nguyễn Phước Tần
         tiếp nối quá trình chinh phục và khai thác, sáp nhập vùng
         Mô Xoài (Bà Rịa - Biên Hoà) vào lãnh thổ VN. Hai mươi
         năm sau (1679) các tôi thần nhà Minh vượt biển Đông sang xin thần
         phục chúa Nguyễn và tiếp tục khai thác vùng Lộc Dã (Đồng
         Nai) và Mỹ Tho. Năm 1695, thêm Mạc Cửu đến khai thác vùng Rạch
         Giá - Hà Tiên. Như vậy, theo đà Nam trấn, từ năm 1757 vùng
         đất về sau được gọi là "Nam kỳ lục tỉnh" đã
         hoàn toàn là một phần máu thịt của đất nước VN.
         Vì đây là vùng đất mới, nên đối với lưu dân,
         không phải là hưởng thụ, thụ động chờ thời vận mà
         phải là tích cực khẩn hoang. Bằng chính nổ lực tự thân,
         qua bao nhiêu năm tháng, người lưu dân đã có thể an tâm
         với cuộc sống vật chất do mình tạo dựng "Ở Gia Định,
         có khách đến nhà lần đầu tiên gia chủ dâng trầu cau,
         sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người
         thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp
         khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem  tiền
         gạo theo, mà lại có nhiều người trốn xâu, trốn thuế đi
         đến xứ nầây ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng
         vậy" (Trịnh Hoài Đức - Gia Định Thành thông chí) cũng
         trong quyển nầy tập Hạ, Trịnh Hoài Đức còn chép "Đất
         Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên trong 10 người 
         đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại
         ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo". Hay
         Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833
         có chép trong Trấn Tây Kỷ Lược. "Cũng có kẻ nghèo
         phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin một lần cũng
         đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi
         người đều có mùng màn riêng. Trộm cắp cũng ít xảy
         ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng... họ rất thích
         ca hát, không ngày nào là không có múa hát".         
         Như vậy, từ một vùng đất đầy những khó khăn,
         trở ngại về thiên nhiên, bao lớp người đi trước như thân
         cây đước cây tràm ngã xuống để cho lớp sau nối tiếp
         màu xanh bất tận. Cuộc sống sung túc đổi bằng mồ hôi, nước
         mắt và cả sinh mạng nữa... phải chăng làm cho họ ít quan tâm
         đến chuyện học hành, thi cử, không chịu ràng buộc bởi lễ
         giáo thánh hiền như ở Đàng Ngoài với niềm tự hào
         "ngàn năm văn vật"? Cũng phải chăng vì thế mà ta vẫn
         nghe cách nói theo kiểu bất cần đời của một điền chủ
         miền Nam nào đó "lấy giạ đong lúa chớ không ai lấy
         giạ đong chữ". Vậy thì, với vùng đất phương Nam, có
         hay không tinh thần "Tôn sư trọng đạo"?     
         2            Cuộc
         sống "gạo chợ nước sông" như thế đã tạo cho người
         lưu dân nhiều tính tốt mà cũng nhiều tật xấu: máu "anh
         chị" trọng nghĩa bạn bè, sẵn sàng kết thân và hy sinh vì
         người khác miễn là người ấy tỏ ra rộng lượng, anh hùng
         như mình. Họ cũng không phân biệt giàu nghèo, chủng tộc,
         đôi khi sống vô kỷ luật, thinh biểu dương võ lực để
         giải quyết mọi xung đột, ưa hài hước và đôi khi lãng
         phí.          Nhưng cũng có một nghịch
         lý lịch sử thật vô cùng độc đáo. Thực ra, nếu như
         giặc Pháp không xâm chiếm Nam kỳ từ những năm cuối thế kỉ
         19, thì dân VN không để tràn xuống Rạch Giá, Cà Mau quá
         nhanh như thế. Các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên, Sóc Trăng... còn
         nhiều vùng phì nhiêu chưa khai phá đến.         
         Có nhận định như thế, chúng ta mới hiểu được
         lòng yêu nước vô bờ bến và sự cố gắng khai hoang của
         họ. Bởi quá căm thù thực dân, họ "sanh nhiều tật kỳ
         khôi": không đóng thuế cho Pháp, không muốn gặp mặt người
         Pháp, lắm cụ già bảy tám mươi tuổi đã giữ trọn
         tiết tháo ấy mãi đến lúc chết. Các cụ cất nhà
         giữa rừng, ở chót núi, vàm sông, ở cù lao cô tịch...
         không bao giờ đi chợ. Không ai biết được danh tánh các cụ.
         Rõ ràng, những con người vô danh đó có thể chưa hề
         xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, chưa hề bước chân
         vào chốn quan trường, thế mà sống đúng đạo lý "uy
         vũ bất năng khuất" đâu khác người xưa?         
         Đó là đạo lý nhân dân, là quan niệm của những
         vị thầy vĩ đại xuất thân từ chốn quần bôù áo
         vải. Người dân kính trọng và ca ngợi họ, xem đó là
         những tấm gương thực tế để noi theo. Người miền
         Nam không gọi cha là "Thầy" như miền Bắc. Hình như từ
         "Thầy" chỉ dùng để gọi những người dạy dỗ, nâng
         bước cho mình không chỉ ở tứ thứ ngũ kinh mà còn ở
         mọi ngành nghề trong xã hội.         
         Đại Nam Nhất thống chí cũng từng ghi lại, "Dân Gia Định
         có tục chuộng khí tiết, khinh tài trọng nghĩa, sĩ phu ham đọc
         sách cốt yếu cho hiểu rõ nghĩa  lý mà lại vụng
         về văn từ". Đánh giá nầy từ những năm 1850 (thời Tự
         Đức) đã khẳng định một quan niệm sống hết sức thực
         tế của người phương Nam. Đối với họ lòng tôn kính
         tuyệt đối luôn dành cho những bậc thầy có công tác tạo
         cho mình. Do đặc thù của đời sống xã hội, ở đây
         có thầy hò (dạy hò hát) thầy tuồng (dạy các tuồng tích
         diễn xướng) thầy đờn (dạy đờn) đều được kính
         trọng như nhau chớ không hề có quan niệm "xướng ca vô loại".
         Nhiều cụ già tuy nghèo tả tơi nhưng dám vay nợ, mua đờn,
         rước thầy về dạy vọng cổ cho con. Đôi khi, cả làng hùn
         tiền mời thầy dạy hò để khỏi mắc cỡ khi có một khách
         thương hồø nào đó lên tiếng trên sông mà trong làng
         không ai đối đáp!. Xa và cao hơn nữa, nhiều vị sáng lập
         tôn giáo ở phương Nam cũng được gọi bằng "Thầy":
         Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ...
         Có phải chăng, với nhiều lưu dân, tinh thần "tôn sư trọng
         đạo" luôn gắn chặt với thực tế cuộc sống, đạo nghĩa
         thầy trò cũng giống như bao thứ ân tình khác mà họ vẫn
         mang theo trong lòng từ buổi đầu khai hoang, vỡ đất?     3           Hơn mười năm trước, tôi có dịp nghe một
         thầy giáo già kể lại một kỷ niệm "kinh khủng" trong cuộc
         đời mình mà thầy đang ngấp nghé giữa lằn ranh sinh tử.
         Đó là khoảng những năm sau 1945, quê hương chìm trong lửa
         đạn. Vào một ngày cuối năm, thầy về thăm quê mình
         ở huyện Bình Minh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long), lúc nầy đang nằm
         trong sự khống chế của lực lượng quân sự thuộc giáo phái
         H... Chẳng may, ngay trong đêm thầy bị bắt cùng một số người
         khác (do nghi ngờ sao đó), và bị nhóm nầy trói tay bịt mắt,
         đưa ra hành hình trên sông Hậu. Thầy đã cầm chắc mười
         mươi cái chết. Những tên đao phủ máu lạnh lần lượt
         kéo từng người ra phía trước mũi ghe, lột khăn bịt mặt
         và dùng dao bầu chặt đứt cổ rồi đạp xuống dòng sông
         đang lặng lẽ chảy xuôi dòng dưới ánh trăng vàng vọt
         cuối năm mà không hề thương tiếc. Thầy giáo là người
         thứ tư sắp bị hành hình. Nhưng điều thầy không ngờ
         được là khi tấm vải che mặt vừa được giật ra thì
         có tiếng kêu khe khẽ từ tên đao phủ "Trời ơi! Thầy!"
         Trong lúc "thập tử nhất sinh" đó, thầy cũng không nhớ
         nổi tên đứa học trò cũ của mình. Anh ta nói nhanh trong hơi
         thở đứt quảng "Con sẽ giả bộ chặt đầu, nhưng đẩy
         thầy qua phía tay phải tức là mé Cần Thơ, thầy rán lội
         vào bờ và nhớ đừng qua đây nữa".         
         Mọi việc diễn ra êm đẹp, không ai biết trừ hai thầy trò.
         Chắc chắn dù anh học trò không  căn dặn, thầy cũng chẳng dám đặt chân lần thứ hai đến
         vùng đất ấy! Hôm nay thầy đã đi xa và anh học trò
         kia cũng không còn trong cõi đời nầy. Nhắc lại câu chuyện
         lòng thoáng chút ngậm ngùi vì qui luật đổi đời dâu
         biển, nhưng cũng vô cùng ấm áp bởi đạo nghĩa thầy trò
         - trong đêm đen của quê hương thời ly loạn - vẫn mãi rạng
         ngời như muôn vì sao sáng cuối trời xa!.         
         Có một điều mà ngay cả các nhà xã hội học chắc
         cũng bất lực đi tìm lời đáp. Đó là trong những năm
         thực dân Pháp đô hộ, miền Nam xuất hiện một tầng lớp
         "anh chị" sống ngang nhiên trong xã hội, hành xử theo kiểu giang
         hồ: đứng bến xe, cờ bạc, trộm cắp, thanh toán lẫn nhau... Ở
         đất Cần Thơ, chắc những người lớn tuổi không thể quên
         tên nhân vật Sáu Thanh. Đây cũng là một tên tuổi vang bóng
         một thời: tiêu xài như nước, có vô số đàn em, sẵn
         sàng cho em út thanh toán những kẻ cậy thế ỷ quyền không chút
         nao núng. Nhưng đối với thầy giáo, thì các nhóm "giang
         hồ" lại có một biệt đãi, không bao giờ để xảy
         ra đụng chạm, xích mích làm mất lòng quí thầy. Nếu có
         một tên đàn em nào đó vì không biết, lỡ "cầm
         nhầm" của thầy một chiếc xe đạp, một số tiền... giữa
         chợ, chỉ cần thầy lên tiếng là lập tức có người mang
         đến trả và xin lỗi! Không chỉ Sáu Thanh mà hầu như các
         tay "anh chị" nào cũng đều cư xử như thế! Có thể
         coi đây là một nét độc đáo của tinh thần "tôn
         sư trọng đạo".      4           Đất trời lại thêm một lần chuyển nhịp. Trong
         cái se lạnh cuối năm, lòng bâng khuâng nhớ về thời thơ ấu.
         Quê tôi nằm ở bên kia sông Tiền, thuộc tỉnh Bến Tre. Ở quê
         tôi, trong những ngày cận tết, bên cạnh bao nhiêu lo toan vất vả,
         người dân quê vẫn không quên hai điều quan trọng: "Tết
         Mụ và tết Thầy".            Nhớ ngày nào - như mới hôm qua - má tôi chuẩn bị cho
         hai anh em đội mâm lễ vật đến nhà "Tết Mụ". "Mụ"
         là tiếng gọi dân dã, là người đã giúp cho đứa
         bé lọt lòng. Thời đó, hầu như không một sản phụ nào
         đến nhà bảo sanh (mà cũng chưa có) nên việc "đi biển
         một mình" của người mẹ đều trông cậy hoàn toàn
         vào những bà "mụ vườn" giàu kinh nghiệm. Có thể nói,
         gần như tất cả trẻ con trong làng, thời anh em tôi, đều được
         bà dắt tay vào cuộc sống qua tiếng khóc đầu tiên.         
         Lễ vật cũng chẳng có gì quí giá: Một gói trà
         "Tam quan kỳ chưởng", một bịt thèo lèo, vài phong bánh
         in... nhưng quan trọng là lòng tri ân sâu xa với người đã
         tạo tác cho mình. Khi đến nhà bà mụ, anh em tôi cũng nhận
         ra không chỉ có mình mà còn biết bao gia đình khác cũng
         bày tỏ lòng biết ơn như thế. Mấy chục năm trời trôi
         nổi, qua nhiều vùng đất nước, tôi chưa gặp ở đâu
         một nét phong tục độc đáo và ngộ nghĩnh như thế. Trong
         đầâu óc non nớt trẻ thơ, ấn tượng sâu sắc về lòng
         biết ơn, về đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" đã
         trở thành những vết khắc vô hình mà trọn đời ta không
         quên được. Chợt nhớ thời thơ ấu, say mê vì bao câu chuyện
         cổ phương Nam. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cọp và
         người. Đó là chuyện cọp rước mụ về sinh cho vợ cọp.
         Người nhà bà mụ kinh hoàng vì nghĩ là bà đã chết,
         không dè mấy ngày sau, cọp cõng bà trả về nhà cũ, lại
         còn đền ơn bằng cả một con heo rừng to tướng! Bà cũng
         kể lại, sau khi sanh xong, sợ cọp cái đói sẽ ăn thịt bà
         mụ nên cọp đực vội vàng đưa bà giấu biệt trong rừng
         sâu để đảm bảo an toàn. Có lẽ trong cuộc sống chung với
         dã thú ở cùng trời cuối đất người lưu dân đã
         nhìn ra được đâu là công ơn của những người đã
         góp phần giúp họ duy trì nòi giống, đảm bảo nhân số
         lao động để chiến thắng thiên nhiên, nên cọp cũng như
         người, đều quí trọng  những "bà mụ vô danh",
         người thầy đầu tiên ở vùng "tràm xanh củi lục"
         ?          Từ
         những suy nghĩ lan man đó, ta có thể khẳng định: tinh thần "tôn
         sư trọng đạo" của vùng đất phương Nam thật là đơn
         giản, bình dị. Nó không là một thứ giáo điều, khuôn
         thước theo lối lý luận, sách vở - mà thấm đẫm trong lòng
         người như bao nhiêu mồ hôi đã thấm vào lòng đất
         theo mỗi bước chân người xưa mở cõi. Để cũng từ
         đó, ta tự hào biết bao về một lớp trí thức, cũng khoa bảng
         mà cũng thật bình dân: Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Huỳnh
         Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa... đã sinh ra và lớn
         lên từ nhân dân nên trọn đời gắn bó với nhân dân,
         để ngọn đuốc "tôn sư trọng đạo" không chỉ thắp
         sáng nơi cửa Khổng sân Trình mà còn soi rọi khắp ruộng
         lúa, cánh đồng, ngọn núi, dòng sông...         
         Xin được lắng lòng nghe lại truyền thống đáng tự hào
         này để tự răn mình và không hỗ thẹn với người
         xưa... .         Lê Trúc Khanh        
             (Về Nguồn - Tây đô) 
 
  
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             | 
                        
                       |