Sổ tay văn hóa
Trần Bang Thạch
___________________________
                     
         
ĐEM
         THEO BÀI VỌNG CỔ
Gần cuối năm 1980
         trong cái lạnh cắt da, gia đình chúng tôi vừa chân ướt
         chân ráo rời trại tị nạn Bataan, tỉnh Morong, xứ Philippines đặt
         chân đến thành phố Houston, xứ cao bồi Texas. Chỗ ăn ở chưa
         yên thì nói chi đến cái tâm lý an bần lạc đạo. Âu
         lo và nhớ nhà vô kể. Cái Tết Âm Lịch lại sắp đến,
         càng thấy nhớ đủ mọi điều. Bây giờ không nhớ năm
         ấy là năm con Tí hay con Sữu, hay con gì; chỉ nhớ mình là
         con chim ly xứ, một loại thiên di đi trốn lạnh. Quê nhà vùng
         nhiệt đới thì dĩ nhiên không lạnh, nhưng 5 năm ở lại
         làm mình lạnh cẳng, lạnh chưn giữa cái oi bức của những
         ngày ngột ngạt dưới một chế độ đỏ như than hồng.
         Tết đầu tiên năm ấy trên xứ người, trong cái tâm trạng
         u ẩn buồn lo cho số phần và cho những ngày sắp tới, tôi đã
         nghe “Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy,
         sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra…chào. Cửa vườn cô
         đã khóa kín tự hôm nào. Tôi vác đôi chiếu bông
         từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc áo nhuộm bùn đã lấm
         tấm giọt mồ hôi…” tại một buổi họp mặt tất niên
         của một hội đồng hương tại thành phố mới Houston. Bài
         hát là bài ca vọng cổ Tình anh bán chiếu của soạn
         giả Viễn Châu. Người hát là một anh bạn độ ấy chắc
         chỉ tròm trèm ba mươi. Giọng ca thật truyền cảm, ngọt ngào.
         Thật “mùi”! Có thể nói niềm thích thú đầu tiên
         của tôi trên xứ Mỹ nầy là được nghe lại bài ca vọng
         cổ hôm ấy. Tôi đã vừa sững sốt, ngỡ ngàng, vừa ngạc
         nhiên thích thú như người đi trên mây. Tiếng hát không
         có đờn, nhưng cần gì, âm thanh bổng trầm đã xoắn vào
         từng lời, từng tiếng và trong từng hơi thở của ca sĩ. Và
         cả trong từng mạch máu, từng nhịp tim thổn thức của người
         nghe. Cái Hồn Tổ Quốc có phải là đây? Có phải là
         đây những gì tôi vừa bỏ lại? Có phải là đây
         khóm tre mái lá, là cây cầu khỉ đong đưa của một
         xóm thôn nhỏ xíu nằm trên hai bờ rạch Bà Vèn của nhánh
         sông Cái Răng tuổi nhỏ? Ngả Bảy, Phụng Hiệp tôi đã
         từng nhiều lần đi ngang qua. Thuở ấy sao tôi đâu có chú
         ý, và đâu có thấy yêu mến như bây giờ. Kể cả
         cái anh bán chiếu cục mịch tình si, lúc ở quê nhà tôi
         cũng mặc kệ để anh tự do si tình. Sao bây giờ tôi thấy thương
         cảm cho anh quá vậy? Tưởng đã bỏ cây cầu Phụng Hiệp
         cho con kinh Ngả Bảy, tưởng đã bỏ anh chàng si tình cho chiếc
         chiếu miệt Cà Mau. Kỳ diệu thay, hôm ấy tất cả đã theo
         tôi, anh bán chiếu và cây cầu Phụng Hiệp đã vượt
         đại dương bằng mấy câu vọng cổ của quê mình nghèo
         khó. Người ca sĩ tài tử ấy nào tôi có quen khi ở quê
         nhà, cớ sao tôi dễ dàng đặt cảm tình của mình lên
         giọng hát ngọt như mía lùi của anh vậy?
Sau nầy tôi có nhiều
         dịp nghe anh hát tại những nơi họp đồng hương hay những sinh
         hoạt văn hóa. Bao giờ cũng là 6 câu vọng cổ. Nhiều khi không
         đờn, không máy vi âm, không ánh đèn màu. Nhưng bao giờ
         cũng “mùi”. Bao giờ tiếng vỗ tay cũng đầy hội trường.
         Nếu bây giờ có Giải Thanh Tâm Hải Ngoại, nhiều người sẽ
         đề nghị tên anh. 
Tuổi nhỏ của tôi là những trưa, những chiều
         treo lơ lững trên nhánh sầu riêng, măng cụt của vườn nhà
         với những điệu Xàng Xê, Thủ Phong Nguyệt, Đão Ngủ Cung,
         Hướng Mã Hồi Thành, Bình Bán Vắn…bắt chước từ
         những tập bài ca 50 xu mỏng dánh, nhỏ như bàn tay, hình bìa
         lòe loẹt. Đặc biệt là 6 câu vọng cổ nhịp 16 thằng bé
         miệt vườn 10 tuổi là tôi cũng ca mùi rệu như ai để rót
         vào tai nhỏ bạn kẹp tóc kế nhà. Biết nhỏ mít ướt,
         thằng bé cứ Mã Chiếm Sơn, Sầu Vương Biên Ải, Tôn Tẩn
         Giả Điên, Đời Cô Lựu… mà gân cổ ca cho kẹp tóc
         chảy nước mắt chơi. “Úy trời đất ơi! Nỗi đoạn…trường…Cũng
         vì quá tin thằng Bàng Quyên là bạn thiết của tôi…”.
         Thằng bé cứ ử ư, còn con bé thì cứ sụt sùi làm
         ướt tay áo bà ba. Rồi lớn lên làm sinh viên Sài Thành,
         học đòi văn minh, bỏ rớt văn minh miệt vườn bên kia bờ
         sông Bassac, và tự nhiên bỏ quên cổ nhạc, chỉ thích nghe The
         Beattles hay Elvis Presley, Sylvie Vartan… Chỉ ghé Arc-En-Ciel nghe Joe Marcel, Mary Linh, Bích
         Chiêu... chớ nào có để mắt tới rạp Hưng Đạo xéo
         bên kia đường Trần Hưng Đạo với Thanh Nga, Ngọc Giàu, Thành
         Được.
Anh bạn làm rung động mãnh tim ly xứ của tôi vào cái
         tết con Thiên Di trốn “lạnh” năm ấy văn minh hơn chàng sinh
         viên Sài Thành năm xưa của tôi nhiều. Văn minh như vậy mà
         anh nào có quên bài ca vọng cổ! Tôi chỉ cách quê nhà
         một con sông nhỏ mà đã quên hết những cống, xự, xang, líu,
         hò. Có lúc trước mặt người đẹp trường Marie Curie còn
         làm bộ quên ai đã chặt chưn Tôn Tẩn! Còn anh thì cách
         quê hương cả một đại dương, xung quanh anh đầy những tóc
         vàng, tóc bạch kim, tóc đỏ.  Anh đi du học Hoa Kỳ
         trước 1975 và trở lại Hoa Kỳ ngay sau khi miền Nam đổi chủ. Ngoài
         cuộc sống nhiều năm trong cái văn minh tột đỉnh của nước
         ngoài, anh còn có học vị tiến sĩ trong ngành Hóa Học, đã
         từng giảng dạy tại Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ thuộc Viện
         Đại Học Sài Gòn; từ sau 1975 là chuyên viên cao cấp của
         City of Houston điều hành kỹ thuật hệ thống lọc nước dày
         như mạng nhện cho toàn vùng Houston với 2,144,491 dân theo thống kê
         vào cuối năm 2006. 
Trước đây tại quê nhà người ta coi cổ
         nhạc được rộng rãi phổ biến và được ưa thích
         nhiều trong giới bình dân. Giới học thức lắm khi còn có cái
         nhìn thiếu trân trọng ngành cổ nhạc. Xưa nữa người ta còn
         có câu “Xướng ca vô loại”. Cái khó bước đầu
         là người có ăn học như anh đã chịu làm quen với những
         bài ca vọng cổ, rồi lần lần “thấm” mùi vọng cổ,
         thương yêu vọng cổ, say mê vọng cổ. Đến cái khó kế
         tiếp là đem vọng cổ đi theo mình suốt đời, đem khắp
         nơi, khắp chốn, nhứt là tại Hoa Kỳ. Chỗ nào có anh là
         có Tình Anh Bán Chiếu, có Thầy Tử Lộ Đội Gạo Nuôi
         Mẹ, có Bên Cầu Dệt Lụa, Lòng Mẹ…. Ba mươi mấy năm
         nay tiếng ca vọng cổ của anh đã bay khắp Houston và chắc cũng
         đã bay xa hơn nữa. Người trung niên năm ấy và người đang
         chớm lão niên bây giờ nào có khác gì đâu: Tình
         quê hương anh vẫn đeo mang trên người và vẫn ấp ủ trong
         lòng anh bài ca vọng cổ. Cái khó tột đỉnh là ý hướng
         đem tình quê hương vào lòng mọi người xa quê, nhứt
         là giới trẻ qua bộ môn cổ nhạc. Cho nên ngoài những nơi
         họp mặt công cộng, người ta còn nghe anh cùng các bạn trên
         làn sóng phát thanh hàng tuần. Các anh, các chị hát và
         mời thính giả nghe đài cùng hát. Hát hay, dở như thế
         nào cũng được. Hát hay không bằng hay hát. Có vọng cổ
         là có hơi hướm của quê hương, có hồn dân tộc,
         có tình quê, tình nước. Nghe những em bé năm bảy tuổi,
         nói tiếng Việt chưa thông mà xuống vọng cổ thì cũng như
         nghe giòng suối ngọt quê hương đang chảy êm đềm trong những
         con tim tuổi nhỏ. Có em còn độc tấu năm nam, sáu bắc bằng
         đàn độc huyền. Có em ngọng nghệu: “Từ là từ phu
         tướng. Bửu kiếm sắc phong lên đàng. Vào ra luống trông
         tình chàng. Đêm năm canh mơ màng. …”
Đẹp quá những con
         chim non soải cánh bay trong hồn dân tộc!
Năm nay tóc anh đã bạc nhiều, gánh càn khôn trên vai
         anh chứa đầy những cung thương, cung oán nghe chừng đã nặng.
         Nhưng bước đường anh đi hình như vẫn xanh màu lá cỏ.
Trân trọng cảm
         ơn anh, Giải Thanh Tâm Trọn Đời. Thân ái chúc anh thượng
         lộ bình an trên hành trình trở về vùng đồng cỏ quê
         nhà trên chiếc xuồng ba lá và trong tiếng nhạc ngũ cung trầm
         bổng.
Trần Bang Thạch
Tháng 3-2008