| 
                     | 
                    
                     
                        
                         |   | 
                        
                        
                         
                              
                                
                                 
                                 
                                 
                                 
   
   
      
       
 THƠ -TRUYỆN 
          NGUYỄN VĨNH LONG        
                   Durham, North Carolina  ______________________________________________________________________________________________________________  
      
      
      Điệu Bolero Tháng Tư
         Buồn                             
                                                    1.   "... Phố nhỏ đường mưa trơn lối về 
         Trăng sầu nhân thế đậu hoen mi 
         Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ 
         Nỗi niềm đầy lại vơi 
         Mỗi mùa tiễn đưa một người"  
         (Nỗi Buồn Gác Trọ - Mạnh Phát & Hoài Linh)       Tiếng hát Cẩm
         Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông
         thả Mi 7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm
         vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên
         ngoài có tiếng gió đêm Sài-gòn vội về, bất chợt.
         Vốn không "mặn" với bolero, nhưng mấy hôm nay tự dưng bọn
         tôi lại vô tình chọn những bài hát loại này. Vậy mà
         "thấm", mà "cảm" vô cùng.  Từ trưa ngày 11 tháng
         4, 1975 thì căn gác trọ của tôi trở thành điểm tụ họp
         và thông tin của cả nhóm. Duy dọn về ở hẳn với tôi. Giảng
         đường trở thành tin hành lang hơn là lớp học. Một số
         giáo sư vắng mặt, có tin đã cùng gia đình di tản ra nước
         ngoài. Sáng cả bọn vào trường, tụ tập, nghe ngóng "ai
         còn, ai mất" rồi kéo nhau quán cà phê dì Năm bàn bạc
         tình hình "chiến sự". Ngồi chán thì kéo nhau về căn
         gác trọ tôi, vừa nấu ăn vừa nghe tin đài VOA, BBC và đàn
         hát vu vơ.  Tất cả năm người chúng tôi đang ngồi bẹp
         dưới sàn nhà, Cẩm Vân, Ngọc Tuyền (khoa hóa sinh, bạn Vân),
         Duy, Từ Dung và tôi.    Đã hơn
         bảy giờ, trời tối mưa lưa thưa hạt, vẫn chưa thấy bóng
         dáng của Trầm Hương. Trong ban chấp hành sinh viên trường, trưởng
         ban ngoại vụ, Trầm Hương họp và đi công tác liên tục.
         Tuần trước, cùng ban đại diện liên trường: văn khoa, khoa học,
         dược và sư phạm, đã quyên góp và chuyên chở thực
         phẩm, thuốc men cứu trợ đồng bào di tản từ cao nguyên và
         miền trung đang được tạm trú tại Long Thành. "Chừng như
         có chuyện "lấn cấn" giữa tổng hội sinh viên Sài-gòn
         và ban chấp hành các trường", Trầm Hương cho biết. Dáng
         dong dỏng cao, khuôn mặt thon rạng ngời, với nụ cười có thể
         "thắp sáng" cả gian phòng khi Trầm Hương hiện diện. Nhờ
         sắc dáng đó, nàng rất dễ thành công trong việc vận động
         quyên góp, kết hợp công tác liên trường. Tôi ngỏ ý
         tình nguyện đi theo, nhưng Trầm Hương ngắt ngay: "Mình em đi
         thôi. Anh ở nhà nghe ngóng tình hình gia đình. Để nếu
         có chuyện gì, mất hết liên lạc thì không được. Nghe
         em đi!". Tôi đành ở lại. Mà quả thật như vậy, ngày
         sau cô Út tôi lên mang tin tức và quyết định của gia đình
         từ Vĩnh Long. "Ở lại, không di tản. Nội dặn, dù xảy ra bất
         cứ chuyện gì, con cứ ở Sài-gòn chờ tin, nhất định không
         được về Vĩnh Long!", cô Út dặn đi dặn lại tôi nhiều
         lần. Sau khi trả tiền trọ hết năm, đưa tôi một sợi dây
         chuyền và một số tiền phòng khi "ly tán", cô Út vội
         trở về Vĩnh Long ngay...    Ngoài phần
         tin tức chẳng đâu vào đâu của đài phát thanh Sài-gòn:
         tháo lui trật tự, bảo toàn lực lượng, là bài họp ca thật
         hùng tráng:   "Trên đầu
         súng ta đi, tổ quốc đã vươn mình   Trên lưỡi lê căm thù, hờn căm như triều
         sóng   Ôi xôn xao... chiêng trống
         hối thúc   Đã giục giã
         khắp chốn rộn ràng   Ôi
         lửa thiêng dậy bập bùng   Tay
         đốt lửa, tay vung kiếm   Trên
         đầu súng xâm lăng, xiềng xích với bạo tàn   Trên lưỡi lê nô lệ, cùm gông phải
         gục ngã   Tay nâng niu cây súng,
         súng thép..."  (Trên Đầu Súng - Anh Việt Thu (*)       Chợt có
         tiếng xe dừng lại dưới đường. Vặn nhỏ radio, tôi đi nhanh
         về phía cửa sổ và nhìn xuống. Phía sau chiếc xe Honda là
         Trầm Hương áo thun nâu quần xanh đậm. Hình như người
         chở là Toàn. Trầm Hương xuống xe, chào Toàn và bước
         vội vã lên gác. Nàng nắm tay Từ Dung, Ngọc Tuyền đứng
         trước cửa rồi chạy vào ôm chầm lấy tôi không "nể
         nang" ai. Mọi người đã quá quen với tính tình sôi nổi,
         tự nhiên của Trầm Hương nên không ngạc nhiên.   -Mọi người cùng ăn cơm nghen. Trễ quá
         rồi...   Duy trong bếp nói vọng ra. Trầm
         Hương vừa ngồi bẹp xuống vừa cười nói:   -Đói muốn xỉu luôn. Hồi nãy mấy anh bên
         khoa dược mời kéo em ở lại cùng ăn, nhưng em từ chối, nhờ
         anh Toàn chở về. Thôi vừa ăn em vừa kể cho nghe. Tình hình lộn
         xộn, nguy hiểm  lắm. .   Tôm khô
         canh cải ngọt và thịt kho hột vịt, đói nên tất cả ăn
         ngon vô cùng. Trầm Hương cho biết đã vận động được
         công ty dược phẩm La Thành rất nhiều loại thuốc thông dụng,
         trụ sinh và nhất là thuốc cầm máu đang quý hiếm. Thực
         phẩm gồm gạo, mì gói, các loại đồ khô và cả rau
         cải, thực phẩm tươi đóng thùng. Tất cả sẵn sàng cho
         chuyến cứu trợ đồng bào di tản ở khu tạm trú Long Thành
         trong ngày tới. Khi đoàn về tới trường đại học khoa học
         thì đã thấy lực lượng cảnh sát dã chiến tăng cường
         trong khu vực chung quanh trường. Vài thành viên trong ban chấp hành sinh
         viên liên trường đã bị bắt vì tình nghi là việt
         cộng nằm vùng. Nói tới đây Trầm Hương nhìn tôi ra
         vẻ "quan trọng":   -Không hiểu
         sao có vài người lạ mặt cứ bám theo em mấy hôm nay. Cả
         anh Toàn cũng nhận thấy như vậy.   -Mật
         vụ thì không sao. Nhưng nếu "bên kia", Hương phải thật
         cẩn thận đó!   Duy nói giọng
         hoài nghi. Tôi nắm tay Trầm Hương:   -Hay
         là từ hôm nay, anh sẽ đi theo em cho an toàn.   -Anh hả? Có anh theo, em càng thêm lo thôi, chứ an toàn gì!
         Một mình, có chuyện em dễ xoay sở hơn, thiệt mà!    -Nhỏ Hương nói đúng, có anh cũng chẳng
         giúp được gì. Hơn nữa, lúc nào bên cạnh nhỏ Hương
         cũng có anh Toàn và mấy anh trong ban chấp hành.   Toàn là anh em chú bác ruột của Trầm Hương
         bên khoa dược. Có lẽ như vậy cũng đúng, tôi đành
         nói xuôi:   -Vậy anh làm gì để
         giúp em?   -Yêu em và nhớ em là
         đủ rồi! Trầm Hương nói, giọng thật nhỏ.       Rồi mọi người
         chợt yên lặng. Tin tức từ đài VOA lập lại việc chuyển giao
         chính quyền và nội các mới của cựu tổng thống NVT và
         TVH. Tất cả diễn biến lịch sử xảy ra quá nhanh, đột ngột.
         Số phận mỗi con người bé nhỏ chúng tôi chừng như chỉ
         chờ đợi. Chờ đợi một cơn bão nổi, chờ đợi vận
         mệnh đất nước cuốn theo dòng chảy của lịch sử không
         ngừng. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai muốn nói ra, nghĩ tới nhưng cũng
         không thể chối từ những đau thương, mất mát đang diễn
         ra từng phút từng giờ chung quanh. Đài BBC loan tin hàng loạt tướng
         lãnh cao cấp, các bộ trưởng, nội các chính phủ di tản,
         đào thoát khỏi Việt Nam sau cựu tổng thống NVT và phó tổng
         thống NCK.  Niềm tin đang cạn kiệt, và hy vọng chỉ là một
         lá bài đã "lật ngửa" trên chiếu bạc.    -Yên lặng kiểu này chắc chết ngột. Từ
         Dung hát bài gì đi, anh đàn cho.    Duy phá bầu không khí ngột ngạt và ôm cây guitar nói
         với Từ Dung.    -Dung hát đi Dung... Dung
         hát bài gì hôm trước Dung hát ở sân trường đó...
         Nhớ rồi, bài Tạ Từ Trong Đêm của Trần Thiện Thanh. 
         Trầm Hương nằm gối đầu trên chân
         tôi, hối thúc bạn mình. Từ Dung gật đầu, ra dấu cho Duy và
         cất tiếng hát:   "... Anh hỏi
         một câu khi trong đêm dài vọng về tiếng súng   Sao em cúi mặt không nhìn đôi mắt hứa
         thương em trọn đời   Đầu
         đường chia phôi anh không nói gì   Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi   Nếu anh có về khi tan chinh chiến   Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em..."  
                Tiếng hát Từ Dung rung nhẹ, hun hút trong đêm chìm khuất.
         Xa xa, văng vẳng tiếng đại bác và hàng loạt tiếng súng
         vọng về, vây quanh thành phố. Điệu bolero thiết tha như đưa
         tiễn đêm tháng Tư buồn lặng lẽ chìm sâu...     
                2.       Hơn bốn mươi năm sau, vào Youtube bạn
         chỉ cần đánh dòng chữ: "chương trình ca nhạc bolero"
         và "nhắp" chuột nút "tìm kiếm". Hàng loạt chương
         trình ca nhạc, chương trình thi ca nhạc bolero sẽ hiện lên kênh
         Youtube. Từ khởi nguồn của đài truyền hình Vĩnh Long (Solo Cùng
         Bolero, 2014) đến nay thì cùng khắp, Hậu Giang, Cần Thơ, thành phố
         Hồ Chí Minh, Hà Nội..v..v.. Khắp mọi miền, mọi tụ điểm
         ca nhạc và đếm không hết các chương trình ca nhạc bolero
         tự phát trên Youtube và các trang "mạng"... Các ca nhạc sĩ
         hải ngoại về nước và được mời làm giám khảo
         cho nhiều cuộc thi truyền hình ca nhạc bolero: Phương Dung, Giao Linh, Họa
         Mi, Phi Nhung, Mỹ Huyền, Elvis Phương, Đức Huy,...      Nhưng điều gì
         đã làm cho âm nhạc một thời "ủy mị", "đồi
         trụy", "phản động"... sống lại mạnh mẽ, rầm rộ từ
         nam chí bắc? Từ "phản động" trở thành "trữ tình"?
         Từ "đồi trụy" trỡ thành "nhân bản", bất chợt?
         Hay trong hoàn cảnh xã hội hiện nay phải cần đến sự "ủy
         mị", "đồi trụy"  để bớt đi phần nào tính
         "bạo lực"  và "vô cảm"? Phải chăng sau hơn 40 năm
         xây dựng và phát triển, nhà nước CSVN mới nhận ra cái
         "nghèo nàn", cứng ngắt, vô hồn của văn học nghệ thuật,
         nhất là lãnh vực âm nhạc. Tính trữ tình, đại chúng
         và nhân bản gần như là những "yếu tố" cội nguồn
         của âm nhạc Viêt Nam, đã vắng mặt trong hơn 40 năm qua? Hay chính
         những "bản án" ủy mị, ru ngủ của dòng nhạc bolero được
         nhà nước cho áp dụng lại trong tinh hình xã hội ngập ngụa
         bất công, đàn áp, tham nhũng và "cái ác" đang lên
         ngôi, ngự trị trong sinh hoạt hàng ngày? Cán cân giàu nghèo
         giữa tầng lớp giai cấp "áp bức" bên trên và quần chúng
         "bị trị" bên dưới, như một con dốc thẳng đứng. "Ở
         đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh", dòng nhạc
         bolero phải chăng sẽ góp phần hiệu quả trong công tác văn hóa
         "tiếng hát át khó khăn", "tiếng hát át đấu tranh"
         cho công bằng, cho sự thật của thế hệ trẻ hôm nay và ngày
         mai? Nếu không có sự "đồng ý", "khếnh mại" của
         nhà nước XHCN "cấp trên", thì liệu dòng nhạc "bolero"
         có tự nhiên phục hồi do nhu cầu âm nhạc của quần chúng?
         Sợi chỉ hồng của chuyên chính vô sản có thật "tình
         cờ" xuyên suốt cả gia tài âm nhạc một thời bị lên
         án "phản động" ngày xưa?           "... Đời còn
         nhiều bâng khuâng   Có ai vì
         thương góp nhặt tâm tình này   Gửi giúp đến cố nhân mua nụ cười   Và xin ghi kỷ niệm một đêm thôi"   
         (Nửa Đêm Ngoài Phố - Trúc Phương)       Tiếng hát ngọt
         ngào, nức nỡ của "sầu nữ" Thúy Huyền trong một chương
         trình bolero đưa tôi về "kỷ niệm một đêm thôi" của
         hơn 40 năm về trước. Lê Thị Từ Dung đã vĩnh viễn nằm
         ở một nơi nào đó của biển Đông trong một chuyến vượt
         biển. Đỗ Thị Ngọc Tuyền đã biệt tích trên một chuyến
         đi đường bộ xuyên qua đất nước Cambodia. Cả hai, Từ Dung
         và Ngọc Tuyền, đều ở lứa tuổi hai mươi bốn.  Cặp
         Cẩm Vân và Duy cũng không thành. Cẩm Vân lấy chồng, đồng
         nghiệp, sau đó nghỉ dạy và hiện làm chủ hai nhà hàng
         nổi tiếng ở Sài-gòn. Duy vẫn độc thân, họa sĩ vẻ phông
         sân khấu, trình bày bìa sách, lịch và hiện nay có phòng
         tranh ở quận 5 thành phố Sài-gòn. Trầm Hương, người con
         gái  dấu yêu một thuở, và chồng là Huỳnh Nam Giao sinh sống
         ở Củ Chi. Hương nay đã về hưu đang cùng gia đình chăm
         sóc cửa tiệm bán sinh tố, trái cây tươi. Giao sau một lần
         lâm bệnh nặng, cũng đã về hưu hẳn và trông coi khu vườn
         trồng cây ăn trái ở Củ Chi cho cửa tiệm. Công việc làm
         ăn khá giả, cuộc sống ổn định. Chúng tôi đã bước
         qua tuổi "tri thiên mệnh", tóc ngả màu bạc trắng đời
         thường. Mọi nỗi vui buồn có chừng mực hơn. Trong câu chuyện
         trùng phùng đã mang nhiều dấu tích của trải nghiệm, của
         an phận trong mỗi nụ cười. Người ở lại, kẻ ra đi cũng
         chỉ là những may rủi kiếp người? Phải chăng đời này
         chúng ta chẳng "nợ nần" gì nhau, hãy để mọi niềm tin
         yêu xuôi theo dòng số phận? Hãy để riêng nhau một góc
         đời và cầu mong hạnh phúc cho người.    Mỗi số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với
         những biến động của hoàn cảnh và lớn rộng hơn, của
         lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta lại lặng yên
         nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía
         nào, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm
         nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không
         có mẫu số chung cho định mệnh. Ý niệm "suy bụng ta ra bụng
         người", như mấy anh mù sờ voi! Hãy mở rộng mọi ý thức
         và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái
         tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có
         thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa
         trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ
         sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Trái
         tim đang đập theo từng nhịp của hôm nay, sao dòng máu tôi cứ
         vẫn luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ?
         Những ngày tháng Tư sao vẫn buồn và khoắc khoải trôi qua:  
            "... Phương trời mình đi
         xa thêm xa   Nghe vạn mùa thu sau lưng
         ta   Em ơi, em ơi! Thu thiết tha 
          Ơi người vì ta qua phong ba   Có còn gì sâu trong tâm tư 
          Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa"  
         (Tinh Lỡ - Thanh Bình)        
          Durham, North Carolina   Những ngày tháng Tư đầy nỗi nhớ,   Nguyễn Vĩnh Long       (*) Nghe bài họp ca: Trên Đầu
         Súng - Anh Việt Thu   https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE     _______________________________________________________________________________  
         
      
      Linh Hồn Gió 
 
       
 
 
     1. 
          Ngôi chùa nằm sâu trong
         con đường nhỏ, ngoại ô thành phố Raleigh, bang North Carolina. Chùa
         mang tên Vạn Hạnh, cách nhà tôi khoảng 1 giờ lái xe. Thiền
         sư Vạn Hạnh, người đã phò Lý Công Uẩn lên ngôi
         hoàng đế (Lý Thái Tổ), tạo dựng triều đại nhà Lý
         kéo dài cả 216 năm và đã để lại bài kệ nổi
         tiếng Thị Đệ Tử:              
         "Thân như điện ảnh hữu hoàn vô   "Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô   "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy   "Thịnh suy như lộ thảo đầu phô   Ngô Tất Tố dịch thơ:               "Thân như bóng chớp,
         có rồi không   "Cây cối xuân
         tươi, thu não nùng   "Mặc cuộc
         thịnh suy đừng sợ hãi   "Kia
         kìa ngọn cỏ giọt sương đông       Hàng năm bà xã và
         tôi thường đi chùa chỉ đôi ba lần, đêm Giao thừa, lễ
         Phật Đản và Vu-lan. Phần ở xa, phần bà xã dựng một bàn
         thờ Phật ở góc, ngay trong phòng khách, nên thường lễ tại
         nhà. Lần này thì ngoại lệ, bà xã muốn đến chùa
         thỉnh một cái phong linh để treo phía sau nhà. Thứ bảy, cuối
         tuần bãi xe không còn chỗ, tôi phải đậu xe dọc ven đường
         phía ngoài chùa. Khuôn viên chính điện thật đông người,
         mùi hương khói ngào ngạt từ xa. Những người quen cười,
         vẫy chào nhau, tay bắt mặt mừng. Nhìn khung cảnh chùa, tôi chợt
         nhớ đến bài thơ "Nhớ Chùa" của thi sĩ, hòa thượng
         Thích Mãn Giác:    "... Biết đến
         bao giờ trở lại quê   "Phân vân
         lòng gửi nhớ nhung về   "Tang thương
         dẫu có bao nhiêu nữa   "Cũng
         nguyện cho chùa khỏi tái tê     
          "Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng 
          "Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung   "Mái chùa che chở hồn dân tộc 
          "Nếp sống muôn đời của tổ tông. 
                Ngày
         xưa tôi hay theo bà nội đi chùa, gần như một hai lần trong tháng.
         Ngôi chùa ở đầu làng, nằm ẩn trong khoảng sân đầy
         cây kiểng và tượng Phật rất đẹp. Tôi thích nhất là
         tượng Phật Quan Âm với nét thanh thoát, diệu hiền và trang nhã
         đứng giữa hồ sen nhỏ. Tuy chưa hiểu những lời kinh kệ, nhưng
         tôi thích nghe tiếng tụng niệm vang dìu dặt theo tiếng mõ. Cho đến
         bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu hết những lời kinh kệ, nhưng mùi
         hương khói trầm tỏa quyện trong tiếng niệm vang theo tiếng mõ,
         như đưa tâm hồn ta thoát khỏi mọi bận phiền tục lụy
         vây quanh.                                       
         Chùa Vạn Hạnh - Raleigh, North Carolina     
          Sau khi cùng bà xã thắp hương trong
         chính điện, tôi hay đi loanh quanh vãng cảnh chùa và gặp gỡ
         vài người bạn đồng hương cùng thành phố. Nhìn nét
         mặt trang nghiêm của bà xã ngồi niệm Phật trong chính điện,
         tôi chợt chạnh lòng. Chừng như suốt cuộc đời, bà ấy
         có nhiều niềm tin để... khổ. Niềm tin chồng, tin vào mọi niềm
         ước vọng của chồng. Bà xã đã hy sinh một đời làm
         vợ, cho mọi mơ ước của tôi được thành hiện thực.
         Rồi niềm tin vào con, đem tất cả nghị lực, lòng hy sinh để
         đưa các con vươn tới những tầm cao nhất mà chúng có
         thể. Riêng mình, bà xã tin số phận, tin vào định mệnh
         đã dành sẵn cho mình. Nhiều lần tôi nói với bà ấy,
         bây giờ đến phiên em tuy muộn, nhưng em muốn làm gì, đi đâu
         hay có điều gì muốn thực hiện, hãy làm ngay đi, anh và
         các con sẽ ủng hộ hết mình. "Làm gì nữa bây giờ.
         Tất cả đã trở thành nếp, thành thói quen. Em sẽ không
         biết phải làm gì, đi đâu nếu không có anh và con",
         bà xã thường nói như vậy. Một lần tôi "đẩy"
         bà ấy đi Seattle thăm người bạn gái thân thiết thời "áo
         trắng", hai tuần lễ. Nhưng vừa đúng một tuần là bà
         xã đã đáp chuyến bay về sớm, dù phải tốn thêm tiền
         thay đổi chuyến bay! "Tâm sự, đi chơi, ăn uống một tuần
         là hết chuyện. Mỗi người đã một cảnh, một góc đời,
         một cuộc sống. Chỉ còn lại với nhau là ký ức, là kỷ
         niệm", bà xã bùi ngùi...     Trời bắt đầu có nắng, hoa cảnh chung quanh chùa rộ nở,
         hoa hồng leo, hoa mười giờ, hoa hiên, hoa cúc Thái, hoa ngọc hân..
         . sắc màu thắm tươi, rực rỡ. Đi quanh đã thấy nhiều
         khuôn mặt lạ, nhiều gia đình thế hệ trung niên đang dần dà
         thay đổi đám đông của cộng đồng người Việt ở
         đây. Hỏi ra, biết được các anh, các bác phần lớn thời
         gian đến chùa đều ở phía "hậu liêu", phòng ăn
         dưới căn bếp. Đã lui vào hậu trường, cả một thế
         hệ "tiền phong", gầy dựng ngôi chùa thuở chỉ là một
         mảnh đất trống. Nay thật khang trang, xứng đáng để lại thế
         hệ mai sau như một thành quả văn hóa tinh thần như hai câu thơ
         của hòa thượng Thích Mãn Giác: "Mái chùa che chở hồn
         dân tộc / Nếp sống muôn đời của tổ tông".       2. 
              Chừng
         như gió và tôi là cả một duyên nợ. Từ thuở nhỏ,
         tôi đã yêu những cơn gió đổi mùa mỗi năm. Bên
         dòng sông nhà nội, mùa gió đổi mang theo thật nhiều ký
         ức. Mùa gió đổi của mùa nước nổi. Nước ngập
         tràn vào sân nhà trước, lúp xúp mí của căn nhà
         dưới. Có thể ngồi câu cá ngay bên cạnh sàn nước hông
         nhà. Mùa gió đổi của những ngày hè oi ả, nghỉ học
         theo đám bạn trong làng đi cắm câu, tát đìa. Mùa của
         ngày nước cạn, có thể đi qua bên kia sông mà không cần
         phải biết bơi. Mùa của cây trái vườn sau, từng liếp chôm-chôm
         sặc sỡ màu, quằng cành ăn trừ bửa. Rồi mùa gió đổi
         cuối năm, đồng ngập lúa vàng, mùi thơm của nồi cơm
         gạo mới. Gió đã theo tôi, thì thầm suốt quãng thời thơ
         ấu...    Những buổi chiều ngồi lặng
         lẽ, cặm cụi chấm bài trong lớp học trống trải, chỉ có
         lũ ghế bàn và gió vọng phía sân ngoài. Gió hắt hiu
         của vùng biển bùn, nặc nồng mùi muối mặn. Gió vẫn thì
         thầm với tôi, và nay tôi đã là bạn gió. Có những
         điều tôi không biết nói với ai hay không thể nói, đành
         tỉ tê cùng những cơn gió mùa trở ngọn. Có khi gió thổi
         từ cuối dãy sân trường. Có khi gió bắt đầu từ ngoài
         cổng, thổi dạt dào vào những khe cửa những buổi học rộn
         ràng. Trò áo mới mừng đầu năm học; thầy tâm hồn mới
         cho một đợt "khách qua sông"! Gió đón người và
         gió tiễn đưa ai?    "Gió... gió
         về là về miền xuôi   "Anh đưa
         em nước lớn nước ròng   "Để
         em qua sông qua suối thăm chồng   "Gió
         về miền xuôi qua bốn vịnh năm vời   "Đò vẫn đưa đưa ngược xuôi   "Em ơi, em ơi!   "Đường
         về quê ta mấy bước, đường về quê xa mấy ngõ 
          "Mà sao người nỡ bỏ quên đường... 
         (Gió Về Miền Xuôi - Anh Việt Thu)           Bên ngoài, bây giờ
         trời cũng đang trở gió. Tiếng chuông ngân nhịp ngắn nối vài
         ba nhịp dài, âm thanh khoắc khoải, thiết tha. Chừng như gió mượn
         chiếc phong linh để nói lên tiếng lòng của mình trong vô lượng
         đất trời, bát ngát. Chừng như vạn vật đều có một
         linh hồn, một cuộc sống trong một cõi riêng của nó. Cuộc sống
         thay đổi, vạn vật cũng không ngừng đổi thay. Gió phía đông
         có nhịp thở không như gió phía tây? Tiếng gió của những
         buổi chiều trên bến sông quê nội có còn không, khi những
         dãy nhà mới xây chạy dài theo bãi nước? Có còn không,
         tiếng linh hồn gió thì thầm đêm chia tay Rạch Giá, không thấy
         rõ mặt người? Thuyền mang chúng tôi ra khơi, chạy dọc theo cơn
         gió mùa định mệnh. Gió đùa với biển, biển đùa
         với bao nhiêu thân phận con người! Gió mãi theo tôi, mang theo bao
         nhiêu thao thức của bến sông chiều ngày tiễn biệt. Có gió
         len lõi dọc theo con nước, dãy nhà ven sông cúi bờ kinh hay chợt
         loay xoay giữa ngã ba sông về phía một bến bờ?  Có bao nhiêu
         hình bóng chợt thoáng qua, một đời người bắt gặp. Như
         thật, như không. Những linh hồn gió ngày đó đã phương
         nào? Vẫn tất bật giữa đời rong ruổi hay đã biền biệt
         dấu này một đời người thương tưởng, cưu mang? Cho dù
         thế nào, gió có hôm trở về như linh hồn của câu chuyện
         kể hôm qua.    Tiếng leng-keng ngắn dài
         chợt rộn rã hơn, linh hồn của gió như trở về bên tôi
         "những ngày xưa thân ái"! Có bước chân ai đang trở
         về từ chập chùng dĩ vãng, mang âm vang  tiếng cười nói
         vọng cố nhân... Bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu nụ cười và
         cả bao nhiêu đôi mắt ướt long lanh dòng lệ đã qua đời
         nhau? Những người con gái ta yêu và những người con gái yêu
         ta, tất cả như đang chợt hiện về trong tiếng ngân vang linh hồn
         của gió? Cảm ơn người, cảm ơn đời và cảm ơn em
         đã cho tôi những ngày tháng một đời không tiếc:  
          "... Ôm lòng đêm,    "nhìn vầng trăng mới về   "Nhớ chân giang hồ   "Ôi
         phù du, từng tuổi xuân đã già   "Một ngày kia đến bờ   "Đời
         người như gió qua...     (Phôi
         Pha - Trịnh Công Sơn)       Đêm chợt tĩnh lặng, sau vài cơn gió
         mùa trở nhẹ. Những tiếng ngân của chiếc phong linh treo sau nhà cũng
         tắt lịm, thoáng qua. Tôi nằm thẳng, cố giữ hai vành tai không
         vật cản, chờ đợi tiếng linh hồn gió sẽ đến bên ngoài.
         Dù là một thoáng nhẹ, bạn có nghe, tiếng linh hồn gió của
         hôm qua. Huyễn hoặc, vô cùng. Có những tiếng lung linh của linh hồn
         gió hôm nay? Không thể. Gió  hôm nay không thể có linh hồn
         nếu không phải là gió của hôm qua. Có lẽ ở một thang
         tuổi nào đó, chúng ta sẽ dễ ý thức hơn cái nhỏ
         bé của kiếp người, cái mong manh của hiện tại. Hãy nghiêng
         tai, lắng nghe lượng từ tâm đất trờ; những linh hồn gió của
         bao tháng ngày trôi xuôi một dòng thoáng chợt:                "... Những người
         muôn năm cũ   "Hồn ở đâu
         bây giờ ?   (Ông Đồ  - Vũ Đình Liên)       Durham, North Carolina 
          Nguyễn Vĩnh Long   ____________________________________________________________________  
         
      
      . Hương Đêm 
                   1. 
                          
         Sống chung được hơn một
         năm thì tôi và Tầm quyết định chia tay. Cũng không có gì
         hệ trọng hay bi đát đến nổi thù địch. Cả tôi và
         nàng đều ở tuổi quá ba mươi, đã trưởng thành
         và ít nhiều dạn dày trong tình trường không ràng buộc
         của trách nhiệm. Tự nguyện và tự do cho mọi lựa chọn của
         bản thân. Không đổ lỗi cho ai, không oán hờn số phận. Yêu
         nhau như đang yêu và cho nhau tất cả những xúc cảm, hạnh phúc
         trong từng giây phút hiện hữu. Ngày mai, như rồi sẽ đến
         với nhiều hoàn cảnh của chính nó, chứ không phải là
         những ước hẹn trói buộc đời nhau... Tầm giữ lại căn
         nhà đang ở, tôi thì dọn ra ngoài. Đơn giản, nhẹ hững
         và buồn tênh.              
            Khu chung cư cũ kỷ nằm trên lưng
         chừng trên ngọn đồi trọc. Năm nay mùa thu đến thật chậm.
         Đã giữa tháng mười mà mấy rừng cây thưa vẫn còn
         xanh lá thấp. Nhiều vùng trong tiểu bang lũ lụt, nước chưa kịp
         rút từ những cơn mưa của mùa bão bất thường phía
         biển đông. Khu chung cư chia từng cụm, mỗi cụm ba căn. Phòng tôi
         ở căn bìa tầng trên, nên được thêm cánh cửa sổ
         rộng bên hông. Mỗi buổi sáng từ đó, tôi có thể nhìn
         thấy sinh hoạt của một góc phố. Tôi bỏ lại hết đồ
         đạc cho Tầm. Thật ra phần lớn là do cả tôi và Tầm mua sắm
         chung. Nằm trên miếng nệm trơ trọi trên thảm, tôi chợt nghe lòng
         tha thiết một tay ôm. Nhớ Tầm bao nhiêu, tôi càng thấy thương
         thân phận mình bấy nhiêu. Không hiểu sao, tôi không tìm được
         một lý do nào đó để tự ái nổi lên, để quên
         Tầm dễ dàng hơn. Người đàn bà biết mình đẹp
         là người đàn bà để trái tim trên khung mắt và lý
         trí nằm trong ngực. Họ thở bằng niềm kiêu hảnh và bước
         đi bằng sự lãng quên. Là Tầm. Qua Tầm, tôi thấu hiểu tình
         yêu không chỉ đơn thuần là những rung cảm của trái tim và
         xác thịt. Tình yêu còn là chiếc áo khoác sắc màu lộng lẫy, cho những đòi
         hỏi của thói quen xã hội chung quanh. Có lẽ, thế hệ của tôi
         cuộc sống vận chuyển bằng những ký hiệu của ngôn ngữ hơn
         là ý nghĩa bao hàm của nó chăng? Tôi không có câu
         trả lời. Dễ hiểu, vì tôi đang dự phần, đang là nạn
         nhân.               
         Tôi biết mình cũng giống như bao nhiêu người đàn ông
         khác, tham lam và ích kỷ trong tình yêu. Trọn vẹn và tất
         cả, từ đầu ngọn tóc đến ngón chân, phải là của
         tôi, phải thuộc về tôi... Tầm là một ngoại lệ, trong nhiều
         ý nghiã khác nhau. Khốn nổi, tôi chỉ làm chủ và thấy
         Tầm tuyệt đẹp từ lỗ rún trở xuống. Điều nầy không
         phải để tôi coi thường và lãng quên nàng, mà ngược
         lại. Giá trị của sự thật bao giờ cũng tồn tại lâu dài
         hơn những điều giả dối, đãi bôi. Tôi yêu thương và không quên được
         Tầm, ít nhất nàng vẫn còn phân nửa của đời sống
         thật. Con người của thế kỷ mới, chắc gì sự thật đã
         có trong giấc mơ?             
         Tầm có quá nhiều khuôn mặt cho đời sống, quá nhiều nhịp
         đập tham vọng trong một trái tim. Tôi chỉ là một dự phần
         quá nhỏ. Những giây phút ngắn ngũi của ngất ngây khoái
         cảm, chính là những giây phút chúng tôi sống hoàn toàn
         chân thật cho nhau. Nàng thật sự tước bỏ tất cả những khuôn
         mặt và trái tim ngừng đập những nhịp giả dối hằng ngày.
         Giây phút đó, những tiếng kêu nguyên thủy không lừa dối
         mới thật sự thuộc về nàng. Để rồi không quá hai mươi
         phút sau, Tầm lại trổi dậy, mở cái laptop và di chuyển "con
         chuột". ' Click..! click..! ' những tiếng khô khan, dẫn Tầm vào thế
         giới con số "ma-quái " của thị trường chứng khoán. Như
         một nổi đam mê cùng cực. Như một loại "cocain" thấm sâu
         vào huyết quản nàng. Tầm quên tôi ngay, nói gì những giây
         phút ngắn ngũi đó, so với những con số thị trường "stock".
         Con số ngự trị đời sống xã hội đã đành, ngày
         nay, con số ngự trị cả tình yêu và thể xác. Tôi lên tiếng
         phàn nàn, Tầm giả đò câm điếc. Để rồi mỗi tháng
         nàng nhìn những con số báo cáo của ngân hàng, vui cười
         ngất ngưỡng và tận thưởng đêm đó với tôi, những
         giây phút dục tình ngút tận... Nhưng mặt đời sống rộng
         hơn mặt đêm, nên tôi và Tầm không có cùng nhiều ước
         vọng. Vậy mà tôi vẫn thương nhớ Tầm, phân nửa thân
         người và phân nửa phần đời tiếc nuối. Vài tuần lễ
         sau, có người gặp Tầm đi chung với một thương gia lớn tuổi
         người Hồng-kông. Tôi mong Tầm sẽ tìm được những con
         số thích hợp cho lòng mình.     
                      
         - Hi, chào ông. Chắc ông vừa mới dọn vào. Tôi tên là
         Kate, người láng giềng của ông đây.                   - Chào cô
         Kate. Tôi tên Hiếu. Rất vui mừng được biết cô là người
         láng giềng của tôi...                 
         - Cám ơn ông Hiếu. Tôi cũng hân hạnh được quen ông. Có
         điều tôi phải nhắc chừng trước, để ông khỏi phiền
         về sau nầy. Tôi có chú mèo đen giống Trung-đông, tên Titan,
         nếu có lạc qua phòng xin ông đừng khó chịu với nó. Tính
         nó hay lén lút, lang thang sang nhà hàng xóm.                 - Cô đừng
         lo. Nếu Titan của cô ăn được cơm Việt Nam thì lúc nào
         tôi cũng đón chào nó mà.             
         Tôi vừa nói vừa cười xã giao. Kate thì cười ngất, cảnh
         cáo:                
         - Để rồi ông coi..! Gặp lại ông.                 - Chúc cô vui vẻ.    
                      
         Nỗi buồn và thất vọng chợt vơi đi, khi tôi khám phá ra
         người láng giềng sát vách là một cô gái da trắng thật
         trẻ và vui tính. Ít ra tôi sẽ có những ngày vui chờ đón
         trước mắt. Những háo hức để chạm mặt người con gái
         có đôi mắt xanh lơ và hàm răng cười tươi, đều
         như những hạt bắp trắng. Lần gặp đầu tiên mà tôi cứ
         nhớ mãi đôi má đỏ hồng và đầy lông măng của
         Kate. Chừng như cô gái ở nhà cả ngày hoặc có đi làm,
         cũng chỉ part-time. Thỉnh thoảng tôi mới thấy Kate rời khỏi nhà
         vào những buổi chiều cuối tuần. Vài lần tôi làm bộ tình
         cờ ra hiên vẫy chào. Nàng liếc nhìn, rồi quay vội đi, như
         chưa hề biết mặt, chuyện trò. Con gái Mỹ trắng, máu lạnh
         như tình, tình vội như mưa. Mà chẳng hề gì tôi, người
         mướn phòng mới tới. Kate làm cho một bar rượu "playboy" rất
         nổi tiếng trong thành phố. Con nhỏ ăn diện như người mẫu và
         rất hãnh diện về nghề nghiệp của mình.               Buổi chiều đi
         làm về ghé chợ, tôi mua thêm vài hộp thức ăn cho mèo.
         Đã mấy tuần rồi, tôi cứ mong con mèo Titan lạc qua phòng tôi
         kiếm ăn. Chắc chắn cô gái rất mê cuốn phim tình cảm dài
         nổi tiếng thế giới vừa chiếu khắp nơi, Titanic. Con người đang
         chìm vào cơn đói khát của sự lãng mạng, Titanic đáp
         ứng kịp thời nhu cầu thời đại nầy chăng ? Với tôi, ngoài
         kỹ thuật vĩ đại
         và tốn kém hằng trăm triệu mỹ-kim cho những thước phim cho cảnh
         đắm tàu, chuyện tình đôi trai gái chẳng làm tôi xúc
         động chút nào. Một thứ bi kịch trưởng giả và đầy
         tính chất "cải lương"... Trên đời tôi sợ nhất là
         thằn-lằn và ghét nhất là con mèo cái. Xúi tôi làm
         gì cũng được, "lận" dao đánh lộn, ngủ bãi tha ma,
         nhưng kêu bắt con thằn-lằn thì tôi đành chạy trước.
         Không hiểu sao tôi ớn sợ cái làn da lạnh tanh và  mềm
         mại của nó đến như vậy. Còn mèo, tôi ghét cay ghét
         đắng cái dáng điệu õng ẹo, làm bộ ngoan hiền đầy
         móng vuốt của nó... Nhưng ghét gì thì ghét, tôi cũng
         phải dụ cho được con mèo Titan sang nhà tôi ăn "vụng".
         Kế hoạch sẵn sàng, tôi chỉ thêm chút kiên nhẫn đợi
         chờ là đủ. Chiều hôm đó, tôi chẳng phải chờ
         lâu, nàng xuất hiện thật dịu dàng, e lệ phía ngoài
         cửa sổ phòng tôi. Nàng không đen hết như Kate miêu tả mà
         nhiều đường viền trắng, vàng như loại mèo tam thể. Tôi
         lẹ tay khui hộp gan gà, bỏ vào cái chén nhỏ và kéo khung
         cửa sổ lên cao. Con mắt Titan cũng giống như chủ nó, xanh lơ. Chờ
         nàng ăn xong, tôi sẽ bồng qua trả lại cho chủ để có dịp
         rũ buổi hẹn hò.              
         Có tiếng gõ cửa. Chủ nhanh hơn tôi. Cánh cửa mở rộng trước
         mặt tôi là hai mẹ con người Á-châu, đứa con gái chừng
         bảy tám tuổi.                 
         - Con Sue, mèo của con có lạc sang nhà chú không ?              Người đàn bà
         có mái tóc dài, khuôn mặt đẹp thật giản dị và
         yếu đuối.                  
         - Xin lỗi ông, tôi đã vô ý để hở cánh cửa sổ.
         Ông là người Việt, tôi thấy họ ông mới dán ở hộp
         thư.                  
         - Dạ phải. Chị gọi tôi bằng tên được rồi. Tôi tên
         Hiếu. Con mèo của cháu đang ăn trong nhà. Cháu tên gì ? 
                        
         - Cháu tên Hà. Để cháu vào bồng nó về, sợ phiền
         chú.                   
         - Mời chị và cháu Hà vào nhà, làm quen hàng xóm mới.
         Biết có gia đình chị người Việt, cũng mừng lắm. Dạ,
         chị tên gì ?               
          - Tôi tên Liên. Gia đình tôi ở căn cuối. Tôi phải về
         có việc, hôm nào rãnh, mời anh Hiếu sang chơi.                Hai mẹ con ôm mèo
         về, tôi đứng nhìn theo ngơ ngẩn. Khuôn mặt đẹp thanh tú,
         bình dị nầy, chừng như tôi đã gặp đâu đây. Tôi
         cố moi mọi ngõ ngách của trí nhớ. Quen vô cùng mà không
         nhớ từ đâu?  Một lúc sau, nhìn lại chồng băng nhạc
         và sách báo trên bàn, tôi chợt nhớ ra khuôn mặt đẹp
         của người đàn bà vừa gặp. Hình bìa băng nhạc của
         một ca sĩ nổi tiếng, với giọng ca quyến rũ và nét đẹp
         thật bình dị, thanh tú. Đúng rồi, Liên có mái tóc và
         khuôn mặt thật giống người nữ ca sĩ mang tên của miền biển
         xanh cát mịn. Người ca sĩ tôi tương tư, từ tiếng hát
         lẫn dáng người... Tại sao mẹ con Liên lại sống trong khu chung cư
         rẽ tiền, cũ kỷ và không mấy an toàn nầy. Tôi lan man, tự
         hỏi.              
         Buổi chiều chợt tắt nắng thật nhanh. Tôi thấy lòng rộn rã
         với bao nhiêu sự tình xảy ra thoáng chốc, bất ngờ. Tôi muốn
         tìm một quán ăn, uống chút bia và ghé quán cà-phê
         nhâm nhi sau đó. Đêm sẽ đẹp vô cùng và nhiều mộng
         mị.     2.    
           	 Chị Hiền gọi điện thoại nhắc
         tôi về mừng năm mới với gia đình. Mẹ lúc nầy không
         được khỏe, đi đứng khó khăn và thường hay nói nhảm.
         Tôi không hứa vì có thể phải trực ở sở làm, nếu
         không, tôi hẹn sẽ có mặt ở nhà trong dịp chào mừng năm
         mới. Chị hỏi thăm Tầm. Tôi nói, hai đứa không hạp nhau và
         đã chia tay. Giọng chị buồn buồn, an ủi tôi vài câu rồi
         hẹn gặp lại. Tôi biết mình đã làm thất vọng nhiều
         ở chị Hiền và mẹ. Bao nhiêu niềm ước vọng lớn lao của
         cả hai đều đặt vào tôi, đứa con trai duy nhất của gia đình.
         Tôi cũng đỗ đạt, bằng cấp đàng hoàng và
         có việc làm tương đối. Nhưng đời sống bản thân
         và tình cảm không làm cho hai người phụ nữ thân yêu nhất
         đời tôi an tâm. Đó là việc lấy vợ có con, làm chồng
         làm cha, và để mẹ tôi có cháu như bao nhiêu người
         thanh niên trưởng thành khác. Hơn ba mươi tuổi mà tôi vẫn
         lông bông, chẳng chịu đeo gông mọc rễ. Chuyện không cưới
         hỏi mà dọn vào sống chung, thì dù có nói, giải thích
         thế nào mẹ tôi cũng không hiểu. Bà chỉ lắc đầu buồn
         bã, thở dài rồi nhìn bâng quơ vào khoảng quá khứ vô
         hình... Mười giờ rưỡi, tôi định nằm đọc một tạp chí
         mua dài hạn vừa mới nhận, thì lại có tiếng gõ cửa hối
         hả. Ngạc nhiên, ai lại tìm tôi giờ nầy. Bên ngoài là
         con nhỏ Kate. Mặt mày hơ hải, nó ngượng ngùng nói nhanh: 
                        
         - Xin lỗi Hiếu, phải làm phiền ông... Tôi... tôi có chuyện rất
         cần ông giúp đỡ. Mong ông đừng nói lại với bất cứ
         ai điều nầy, tôi cảm ơn ông nhiều lắm.      
                       
         - Kate hãy vào trong nhà và cứ yên tâm, tôi không hở môi
         đâu!  Mà Kate cần tôi giúp đỡ điều gì?  
                     Nàng
         bước vào, khép cửa và nhìn tôi thật lâu. Tôi ngửi
         thấy mùi rượu trong giọng nói của Kate:                  - Tôi đang
         cần gấp số tiền... Cần lắm, tôi có thể chết được...
         Nếu Hiếu có thể giúp cho tôi một trăm đô-la ngay bây giờ,
         tôi sẽ... Tôi sẽ trả lại sau nầy hoặc Hiếu muốn giải quyết
         tình dục với tôi cũng được.                Bất ngờ, tôi ngây người
         nhìn đứa con gái da trắng. Kate dễ nhìn và thân hình thật
         hấp dẫn. Nhưng lúc nầy, tôi thấy ái ngại rất nhiều. Kate
         đưa tay nhìn chiếc đồng hồ dạ quang rẻ tiền.                 - Còn
         một giờ nữa là tôi phải đi với số tiền đó. Tôi
         biết ông thích tôi lắm... Nhưng nếu ông không muốn, tôi
         sẽ đi ngay và tìm người khác vậy...               Không chút háo
         hức, nhưng tôi chợt nghĩ đến bộ mặt của tên thương
         gia già Hồng-kông hôn lên mắt môi của Tầm.                 - Tôi có
         tiền, có đủ một trăm tiền mặt.                Tôi trả lời thật
         nhanh và đi vào trong. Kate theo tôi, không nói thêm gì. Vào phòng
         ngủ chưa kịp tắt đèn, Kate đã bắt đầu cởi ngay quần
         áo. Tôi còn loay xoay thì nó đã nằm sẵn trên giường.
         Hai vú Kate vung tròn và căng cứng, mình mẩy đầy tàn nhang
         và  nhám lông con. Kate yêu cầu tôi sờ vú nhẹ tay, không
         được bóp mạnh, vì nó mới "độn silicon" cách đây
         mấy tuần. Tôi càng cụt hứng hơn khi miệng nó vẫn còn nồng
         mùi rượu. Kate tìm mọi cách kích thích tôi cho nhanh, cho xong chuyện.
         Rồi tất cả cũng tới nơi, cũng xong phần đổi chác. Trong đời
         tôi, chưa bao giờ có lần làm tình nào cảm hứng nghèo
         nàn và chán chường đến như vậy. Kate cầm tiền ra khỏi
         phòng, tôi vẫn còn nằm nghĩ ngợi không đâu. Tại sao tôi
         lại không từ chối ngay từ đầu, những chung chạ xác thịt
         giả dối và ghê tởm nầy. Tôi chợt thở dài trong nỗi cô
         đơn cùng tận...                  Không quen chăm
         sóc người bệnh, tôi lúng túng nhìn chị Liên thiêm thiếp
         trên giường. Mặt tái xanh, hằn nét chịu đựng và trán
         chị rịn ướt mồ hôi. Bé Hà ngồi bên giường nước
         mắt tuôn tràng, tập trung hết sức xoa tay mẹ, như đã quen, đã
         lập lại nhiều lần. Tôi ngõ ý đưa chị đi bệnh viện,
         nhưng chị đều lắc đầu. "Quen rồi. Chịu đựng chút
         sẽ qua thôi", chị cố gắng thì thào. Cũng may chiều nay tôi
         về sớm. Chưa kịp lên nhà thì bé Hà đã chận lại
         và cho hay mẹ nó ngất xỉu dưới sàn nhà. Tôi đỡ chị Liên lên giường,
         lấy thuốc cho chị uống theo lời hướng dẫn. Nửa giờ sau khuôn
         mặt chị giảm đau dần và thiếp đi. Tôi ra dấu cho bé Hà
         ra phòng ngoài, để yên cho chị ngủ lấy sức. Bây giờ tôi
         mới ý thức được mùi dầu nóng bay nồng chung quanh. Trên
         bàn cơm nước còn lỡ dỡ, tôi hỏi bé Hà. Con bé
         lắc đầu không đói. Tôi cũng bồn chồn đầy bụng. 
                        
         - Mẹ bé Hà bệnh gì và lâu chưa?                  - Bé Hà
         không biết. Nhưng đôi khi mẹ ngất xỉu làm Hà sợ!  
                        
         - Rồi ba của bé Hà đâu, chú không gặp?                  - Ba Hà
         ở gần đây lắm. Nhưng ba có mẹ và em bé khác. Lâu
         lâu ba mới ghé thăm con.             
                       
         Giọng nó nhẹ và buồn. Tôi chợt thở dài, đầu óc
         trống rỗng. Chính những điều nầy mà tôi không muốn có
         trách nhiệm, trước khi bước vào sự ràng buộc của hôn
         nhân. Nó không chỉ dừng lại cuộc sống của hai cá nhân,
         mà là nỗi ám ảnh
         đau đớn cho tuổi thơ. Đứa trẻ sẽ trở thành người
         lớn, cưu mang bao nhiêu niềm oán hận trong lòng. Nó không có
         tình thương thì lấy gì ban phát. Một đời nối hai, từ
         hai nối tiếp biết bao nhiêu thế hệ buộc chặt ước mơ với
         chính nỗi oán hận của mình. Xã hội ghẻ lạnh và tình
         người mang nhiều dấu ấn của sự hận thù quá khứ. Đôi
         mắt ngây thơ của bé Hà không có cái nhìn tinh khiết
         của tuổi thơ. Tôi không muốn mình đóng góp vào thế
         giới đầy văn minh vật chất và thiếu vắng tình yêu nầy.
         Đã quá đủ, cần phải giảm bớt đi nhiều. Dưng không
         tôi buồn bực và oán trách cuộc đời. Nhìn thấy hoàn
         cảnh mẹ con chị Hà, hay khi nhìn khuôn mặt vật vã, chịu đựng
         của chị Liên. Khuôn mặt của chị trong cơn đau thêm đẹp
         não nùng... Tôi định đứng dậy trở về phòng, nhưng
         lại thôi. Bé Hà đang ngồi yên tâm bên cạnh tôi coi chương
         trình hoạt họa trên màn ảnh truyền hình. Thấy tôi không
         hỏi gì thêm, nó cũng không màng kể lể. Trẻ con ở đây,
         trong thế hệ nầy còn biết dè dặt hơn cả tôi. Chúng nó
         khôn ngoan và lớn rất nhiều hơn trước tuổi. Buổi chiều tắt
         nhanh, đêm vươn rộng cánh tay ngập tràn bóng tối.  
                        
         Tôi giật mình tỉnh giấc. Không biết tôi đã thiếp đi
         tự bao giờ. Bên tay tôi bé Hà cũng đang ngã đầu ngủ ngon. Tiếng động vọng
         ra từ trong phòng chị Liên. Tôi nhẹ tay đỡ đầu bé Hà
         xuống sofa, chưa kịp đứng dậy thì đã thấy chị Liên
         bước ra khỏi phòng. Thấy tôi chị gượng cười nhẹ. Trông
         chị tỉnh táo và có thần sắc. Tôi bồng bé Hà vào
         trong giường, trở ra thấy chị đang lui cui bắt ấm nước. 
                        
         -  Phiền anh Hiếu nhiều quá. Đồ ăn còn nguyên, anh đã
         ăn uống gì chưa ?                 
         - Chị đừng lo. Chị Liên thấy thế nào, khỏe hẳn chưa chị
         ?                 
         - Bệnh lâu rồi anh à. Thỉnh thoảng nó trở chứng, uống thuốc
         và chịu đựng một chút thì cũng qua thôi... Anh Hiếu uống
         chút trà hay cà-phê sữa cho ấm.                 - Chị cho tôi ly cà-phê
         sữa, ít cà-phê nhiều sữa... Chỉ có hai mẹ con như vầy,
         xảy ra chuyện gì thì nguy hiểm quá.                  - Quen rồi anh... 
                      Chị
         Liên bỏ lững câu nói, khuấy ly cà-phê cho tôi và tách
         trà cho chị. Mùi trà quyện lên thơm nhè nhẹ. Tự dưng tôi
         thèm một ly trà hơn. Khuôn mặt mệt mõi của chị trong đêm đẹp lạ lùng. Có
         lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy
         một người đàn bà đẹp thật xa vắng, chiêm ngưỡng.
         Không một vết vẫn đục, không một thoáng chiếm đoạt.
         Tôi biết lòng mình đang rung động như mái tóc dài biếng
         chải, buông lơi trong những phất phơ tình cờ. Ngụm cà-phê
         nóng làm tôi dễ chịu và tỉnh hẳn. Tôi và chị ngồi
         yên lặng, bâng quơ. Tách trà nóng cũng giúp chị Liên tươi
         tắn hơn. Vài lần ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Chút ngượng
         ngùng, chút xót xa.                   ...Lớn hơn
         tôi bốn tuổi, chị lấy chồng lúc tuổi hai lăm. Chị Liên sinh
         khó ngay đứa con trai đầu lòng. Hai mẹ con đều trải qua cơn
         thập tử nhất sinh. Nhưng chỉ được vài năm sau thì đứa
         bé bỏ chị ra đi. Chị buồn da diết, còn anh ấy thì bảo
         lỗi tại chị sinh khó, làm đứa bé không khỏe mạnh, chết
         non. Hơn năm sau, chị có thai lần nữa. Khốn khổ thay, chị lại sinh
         khó. Để bảo vệ đứa nhỏ và cứu chị trong cơn hiểm
         nghèo, bác sĩ phải cắt hẳn tử cung của chị. Vĩnh viễn chị
         sẽ không còn sinh sản được nữa. Bé Hà là đứa
         con gái duy nhất và cuối cùng của vợ chồng chị. Đã vậy,
         sau khi mổ, tuy cứu mạng sống nhưng chị mất sức hoàn toàn. Mấy
         tháng sau khi sanh, chị Liên mới đi đứng lại tương đối
         bình thường. Không khí gia đình bắt đầu nặng nề, lấn
         cấn. Chồng chị  thường vắng nhà, chơi bời nhậu nhẹt
         và khi về nhà chỉ nhìn quanh thở dài. Không đủ sức đi
         làm, nhưng không được chứng nhận mất sức lao động, chị
         lại thêm gánh nặng gia đình. Công việc làm của chồng những
         năm đó lêu bêu, kinh tế nước Mỹ khó khăn, nạn thất
         nghiệp trần trọng. Nay làm mai nghỉ, không chừng. Nỗi lo lắng trao
         trùm không khí gia đình chị vốn đã buồn tanh. Đến
         một hôm anh nói với chị rằng, vợ chồng tạm thời ly dị,
         chị và bé Hà sẽ được hưởng trợ cấp của chính
         phủ theo diện không chồng phải nuôi con nhỏ. Như vậy sẽ đỡ
         gánh nặng cho cả gia đình. Trên mặt giấy tờ thôi, còn
         bên trong vẫn tình nghiã vợ chồng. Nhiều người đã làm
         như vậy. Đợi khi con lớn, hợp thức hoá lại quan hệ vợ chồng,
         không khó gì. Chị đồng ý ngay. Giải pháp chồng muốn,
         vã lại, thuận lợi cho mẹ con chị trong lúc ngặt nghèo nầy...
         Mấy tháng đầu anh ấy thăm mẹ con chị thường xuyên. Rồi
         thưa dần, vài tuần, cả tháng. Không đầy năm sau, anh ấy lập
         gia đình và có đứa con trai với người đàn bà khác.
         Mẹ con chị vẫn còn sống nhờ tiền trợ cấp và chị uống
         thuốc mỗi ngày, vào bệnh viện mỗi tháng. Không ngờ có
         một ngày chị lại trở thành một thứ "nô lệ mới"
         trong cái xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ và đầy nhân
         phẩm nầy..!                   Giọng chị chậm
         rãi, đều đặn và hờ hững như không. Đã quen rồi
         câm lặng. Đã chai lì những xúc cảm trong lòng. Tôi nuốt
         từng ngụm cà-phê khó khăn, chua xót.                    - Sự thật
         đơn giản có vậy. Anh Hiếu có coi thường mẹ con Liên cũng
         đành chịu thôi... Liên còn chống chỏi vượt qua những cơn
         đau, không phải chỉ nhờ những viên thuốc mà còn vì bé
         Hà. Nó còn quá nhỏ để mất cha và luôn cả mẹ. 
                        
         - Chị Liên đừng nói vậy. Mỗi người một hoàn cảnh,
         một cuộc đời. Tốt và xấu của con người không lệ thuộc
         vào những hoàn cảnh rủi may. Tôi luôn quý trọng và yêu
         mến sự thật, cho dù nhiều lúc không phải là điều hoàn
         hảo nhất.                 
         - Cảm ơn anh Hiếu... Mong anh sẽ giữ được mãi mãi điều
         tốt đẹp nầy trong lòng.              
         Đêm đã khuya, thoáng lạnh. Cả tôi và chị đều không
         muốn cúi nhìn đồng hồ, lãng quên nhịp thời gian. Ly cà-phê
         mang lại cho tôi nhiều cảm kích. Kể xong cho tôi, như trút hết
         bao nỗi đớn đau trong lòng, chị phấn chấn hẳn lên. Nhìn
         chị, chừng như tôi không còn thấy cơn đau vật vã đến
         ngất xỉu, mà chị đã chịu đựng vừa qua. Tất cả đã
         trôi xuôi theo dòng định mệnh giữa đời. Như có không
         mờ ảo, như thật giả vô hình... Đêm càng sâu, khuôn
         mặt chị càng thêm đẹp. Chợt ngước lên, chị Liên bắt
         gặp đôi mắt tôi đang nhìn chị đăm đăm. Ánh mắt
         chạm nhau như lượng trời trĩu nặng, vô biên. Tôi biết mình
         phải chào chị ra về. Chị biết đến lúc phải tiễn tôi
         ra cửa. Cuộc đời luôn rộng mở, nhưng những vô tình, đôi
         khi khép chặt những tấm lòng.               
            Cánh cửa hé mở nhỏ. Khoảng
         cách giữa tôi và chị không quá một tầm tay. Khuôn mặt
         chị mơ hồ, thanh thoát. Tâm hồn tôi chợt vời vợi thương
         yêu. Bàn tay tôi muốn đưa lên, vuốt ve mái tóc buông dài
         suốt bờ dĩ vãng. Ánh mắt chị nhìn tôi tha thiết nỗi xúc
         cảm không thể thành lời. Tôi khẻ chào chị. Cánh cửa khép
         lại. Tôi đi dọc hành lang nghe tiếng thở dài tôi nhè nhẹ
         trong ngực và thoảng đâu đây, môi mắt chị thơm ngát
         hương đêm.       3.     
          	Đi ăn trưa về, tôi nhận được voice-mail của Tầm nhắn
         cần gặp tôi chiều nay sau giờ làm. Tầm không nói lý do. Tôi
         gọi lại chỗ làm và nhà Tầm, chỉ có máy nhắn tin. Chắc
         phải có chuyện thật khẩn cấp và hệ trọng. Tôi không chịu
         nổi nhưng biết rõ tánh Tầm. Tham vọng và rất nhiều tự
         ái. Hôm chia tay, không nói ra, nhưng qua ánh mắt của nàng tôi
         biết là lần chia tay cuối cùng. Tôi cũng không có gì luyến
         tiếc. Dường như đã hết mọi cố gắng. Dường như đã
         cạn rồi ngôn ngữ cho nhau. Trong tình yêu, sự ghê gớm nhất của
         cuộc chia ly không phải là lòng oán giận, mà là sự dững
         dưng. Tự ái của sự oán giận không đẩy tình yêu hoàn
         toàn lùi vào bóng tối. Chỉ là lớp sơn thỏa mãn dễ
         trốc lên, lộ mọi nỗi tuyệt vọng của những hờn ghen. Người
         đàn bà không thể quay lưng với tình yêu, họ chỉ lẩn
         tránh sự lệ thuộc đầy thói quen của chiếc bóng. Tầm có
         quá nhiều lệ thuộc của những thói quen đời sống, vật chất
         và nhu cầu.              
         Cuối tháng Mười, trời tối thật nhanh và trở lạnh bất thường.
         Căn phòng Tầm không có ánh đèn. Nhìn đồng hồ, tôi
         đến rất đúng giờ. Tầm chưa kịp về hay còn trong chỗ
         làm, nhìn lại lần nữa những bảng biểu đồ thị trường chứng khoán vừa đóng
         cửa chiều nay. Thất vọng vì những triền dốc. Yêu đời vì
         những đỉnh cao. Tôi vẫn đưa tay gõ cửa như một thói
         quen, hờ hững.                 
         - Anh Hiếu phải không. Vào đi anh, cửa không khóa.              Rõ ràng là giọng
         của Tầm. Căn phòng tối lờ mờ, tôi thấy bóng Tầm trong bộ
         đồ ngủ màu trắng lụa. Tôi hỏi Tầm để đưa tay mở
         đèn. Tầm ngồi co ro, để càm trên hai đầu gối chụm lại
         như đứa con gái nhỏ vừa có cuộc tình lỡ, thoáng qua. Ánh
         đèn soi khuôn mặt Tầm ủ rủ, tâm sắc thất lạc.  
                        
         - Tầm đang bệnh?  Trông em tiều tụy, xanh xao quá.                  - Em không
         có bệnh gì đâu... Nhưng em không muốn sống nữa đây! 
                      Rồi
         Tầm ôm mặt khóc nức nỡ. Tôi ngồi xuống bên Tầm, đỡ
         hai vai nàng, hỏi nhanh:                
         - Có chuyện gì xảy ra? Tầm nói anh nghe đi.                Mùi dầu gội
         đầu quen thuộc từ tóc Tầm tỏa ra thơm nhẹ. Nàng gục đầu
         vào vai tôi, như phản xạ tự nhiên, buông thả. Dễ dàng phán
         đoán, dễ dàng nói từ khoảng cách xa nhưng có ai phân
         biệt ghét thương trong tầm tay ấm. Tôi cũng như bao nhiêu người
         đàn ông khác, quên ngay đối xử của Tầm trong những ngày
         qua. Nước mắt mặn và trong của người đàn bà đẹp
         là một thứ vũ khí, một loại độc dược ngọt ngào
         nhất của bao nhiêu trang tình sử. Biết vậy, mà đành chịu
         vậy mỗi khi. Cũng may Tầm ít nước mắt, nên tôi cũng không
         phải chịu đựng cảnh mũi lòng dài lâu. Nàng chùi nhanh
         nước mắt, ngước nhìn tôi ánh mắt đắng cay, thảm hại.
         Qua đôi mắt ấy, tôi biết Tầm đang ngập đầy tủi nhục
         và hờn căm. Tôi hiểu mình cần phải lấy lại khoảng cách
         cần thiết của tấm lòng. Lắng nghe và đương đầu trong
         những nghịch cảnh cần thiết. Xúc cảm chỉ là kết quả của
         sự nông nổi thói thường, không đáng tin cậy.                 
         - Không phải chỉ mình em, mà nhiều người đàn bà khác
         nữa, đều bị hắn lường gạt. Cả tình lẫn tiền. Thật
         là hổ thẹn và đáng đời cho hạng đàn bà con gái
         như em...                 
         - Tầm nói đến người bạn thương gia Hồng-kông, thường
         đi chung với Tầm.                
         Tôi hỏi thật thận trọng. Bắt đầu câu chuyện không đầu
         không đuôi, thường là dấu hiệu sắp bùng nổ của người
         đàn bà, của Tầm.                 
         - Thằng cha già khốn nạn đó, chớ bạn gì. Hắn làm quen
         với Tầm trong một cái seminar của hãng e-Trade. Có đầy đủ
         giấy tờ chứng nhận hắn là đại diện một công ty mua bán
         thị trường 'stock' lớn nhất nhì Hồng-kông. Hắn tìm mọi
         cách để Tầm mở trương mục và mua bán 'stock' qua công ty
         của hắn. Tuần lễ đầu, lời hơn hai chục ngàn. Dễ dàng,
         tiền bạc kiếm vào như trở bàn tay... Không hiểu ma quỷ dẫn
         đường thế nào, em trút hết tiền bạc để dành vào
         trương mục của công ty hắn. Kể cả cái xe Volvo mới vừa trả
         xong tháng trước. Hắn biến mất. Giấy tờ giả, công ty ma. Nhờ
         luật sư truy tố, không biết hắn ở đâu, chính quyền cũng
         đành chịu. Không làm gì hơn được, chỉ biết điền
         đơn để đó thôi.              
         Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người
         như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực "xương máu"
         của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi
         hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng
         tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm
         đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung
         đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
         Hèn gì, tôi sực nhớ ra, đã không thấy chiếc xe Volvo S70 màu
         xanh đậm đậu trước nhà thường khi.                   - Bây giờ
         em không biết phải làm gì. Món tiền mượn được cuối
         cùng đã thanh toán hết cho luật sư. Không xe, lại phải làm
         thêm job ban đêm... Không còn ai để em than oán, nên đành
         gọi anh. Anh đừng giận Tầm...                 
         - Xui rủi, không giúp đỡ ai nỡ giận Tầm. Anh có thể giúp
         gì, Tầm cứ nói.                 
         - Nhờ anh cho Tầm mượn tạm mười ngàn mua tạm chiếc xe, đi
         làm. Tầm sẽ trả mỗi tháng. Trong vòng một năm em hứa sẽ
         trả lại hết cho anh.                  
            Tôi nhớ lại cái trương mục
         rỗng trơn của mình trong mấy tháng qua. Mỗi thứ mỗi sắm, cơm
         hàng cháo chợ từ khi dọn ra ngoài. Tuần nào xong tuần đó,
         tháng nào sạch tháng đó... Tôi bất chợt nhìn khuôn mặt
         Tầm. Đẹp vô cùng trong nét muộn phiền. Có lẽ, người
         đàn bà đẹp nhất là những lúc buồn bã, yếu đuối.
         Nhất lại là những người đàn bà đẹp như Tầm. Ánh
         mắt chạm nhau. Lặng yên, rung động. Tầm ghì mặt tôi hôn
         lên môi, quyện đầu lưỡi thật sâu, cuồng nhiệt. Mọi vật
         chuyển động, hừng hực. Tầm như dồn nén mọi uất ức,
         tràn ngập, vỡ bờ trong cơn xúc cảm thể xác. Thân thể nàng
         trắng ngần, mịn màn với hai bờ ngực nhỏ đầy, xinh xắn...
         Tôi chợt nhớ đến hành lang vắng lạnh dọc theo căn phòng
         tôi ở. Tôi chợt nhớ đến thân thể nhám lông con và
         hai vú độn 'silicon' to lớn của đứa con gái Mỹ. Trong căn phòng
         tối lờ mờ, tôi ngữi có mùi hương trà thoang thoảng đâu
         đây. Tôi đẩy Tầm ra, bật ngồi dậy. Tất cả bất chợt,
         ngỡ ngàng. Căn phòng và Tầm nằm sẵn sàng, chờ đợi
         như tấm gương soi phiá sau cả đoạn đời tôi dĩ vãng.
         Tôi không thể nhìn lại để đi lùi. Tôi không thể suốt
         đời làm nô lệ cho những xúc cảm của quá khứ. Thôi
         tôi ơi, hãy để những ngày ấy lụi tàn...                 
         - Anh không muốn, Tầm đừng thắc mắc... Anh để lại chiếc xe,
         ngày mai sẽ trở lại ký giấy chủ quyền cho Tầm. Anh đón
         xe bus, Tầm không cần phải đưa.      
                      Thời
         gian nhẹ tênh, trôi ngược. Tôi đi dọc con đường, thư thả
         về một nơi đã định. Gió se sắt lạnh, phả lên khuôn
         mặt tôi nỗi cô-đơn-hạnh-phúc vô cùng. Dưng không tôi
         thèm một tách trà, một bàn tay gầy guộc,  xanh xao. Có chút
         hương đêm loang tỏa, bâng khuâng trĩu nặng những con đường
         dẫn bước chân theo. Chừng như có cửa sổ nhà ai quên khép
         khung che, để vệt đèn khuya soi lệch một góc đời... 
              Durham,
         North Carolina   Nguyễn Vĩnh Long       
      
      . Tiền Kiếp                            
         1.     
                      Căn
         nhà nằm lưng chừng núi, nhìn xuống lòng thung lũng thấp. Chung
         quanh là những cụm rừng thưa, chạy dài theo dãy núi Smocky Mountain
         hình vòng cung. Dân số cả thị trấn miền núi không quá
         một ngàn người. Hai trạm xăng, một siêu thị loại bỏ túi
         và vài ba quán ăn lụp xụp của người da đỏ. Đi bác
         sĩ, khám bệnh phải lái xe hơn cả giờ mới xuống tới thành
         phố Asheville của bang North Carolina. Nhà cửa đất đai rất rẻ và
         không khí trong lành quanh năm. Phần lớn dân chúng trong vùng sống
         nhờ lượng du khách của mùa hè, và nhất là mùa thu.
         Trung dọn hẳn lên căn nhà mướn nầy vào cuối mùa hạ.
         Những cơn nắng dội lửa đã giảm dần, nhường cho vài
         cơn mưa bụi loáng thoáng,  bất ngờ. Buổi sáng Trung bàng
         hoàng trước vẽ đẹp của núi rừng phủ kín trong lớp
         mây mù dưới chân núi. Khí trời chợt chùng lạnh, se sắt
         mù sương đủ để khu rừng thưa khẻ chuyển mình thay lá.
         Những chiếc lá xanh nâu đã cong mình vàng lên sắc đỏ.
                       
         Mùi thảm hăng hắt và ẩm thấp, chứng tỏ căn nhà đã
         vắng hơi người từ lâu. Nipa muốn ở lại lau chùi, dọn dẹp
         nhưng Trung bảo không cần. Ông có nhiều thời gian để bận
         rộn. Người y tá chìu ý ông Trung nhưng vẫn sắp xếp những
         thứ cần thiết trong tủ lạnh và nhà bếp. Nàng cũng không
         quên ghi chú cẩn thận số lượng thuốc men của ông trên đầu
         giường ngủ. Chuyến đi dài không làm Trung mệt mỏi, trái
         lại, ông thấy mình tỉnh táo và phấn khởi hẳn lên. Ít
         nhất ông cũng có những chuỗi ngày trước mặt thong dong, tự
         tại trong cảnh thiên nhiên của núi rừng. Một mình, niềm cô
         đơn sẽ lớn hơn. Nhưng trong cùng tận cô đơn, ông sẽ
         có dịp đối diện với chính mình nhiều và thành thật
         hơn. Đến lúc mà mọi sự hiện diện của tha nhân đều
         tạo cho ông niềm sợ hãi thực tại.                  
         Nipa, cô y tá người Phi-líp-pin có khuôn mặt và nụ cười
         thật trẻ con. Bệnh viện đã cử cô đến chỉ dẫn cách
         tự chích thuốc cần đau và theo dõi bệnh tình của ông
         sau khi rời viện. Lúc đầu Nipa rất dè dặt trước thái độ
         buông xuôi, chờ chết của ông. Cô chỉ giúp ông thành thạo
         việc tự chính giảm đau chớ không tỏ ra thân thiện với bệnh
         nhân. Vài tuần lễ sau đó, một lần Thảo dẫn con đến
         thăm, Nipa mới có dịp hiểu sự lựa chọn đầy nghị lực
         của ông Trung. Cô đã ứa nước mắt trước cảnh chia tay,
         tưởng như tạm bợ bề ngoài mà đã nghìn trùng xa cách
         tận tâm. Ông cô đơn trong hạnh phúc. Ông chờ đợi cái
         chết bình thản như chờ một chuyến đâu đó đi xa. Con
         người rất can đảm trong lời nói, rất sâu sắc với bao nhiêu
         triết lý cao xa. Nhưng khi đối diện với hiện thực hy sinh có máu,
         bằng mạng sống chính bản thân thì họ lại có nhiều phương
         tiện để biện minh cho hành động yếu hèn... Nên đứng
         trước người đàn ông như yếu đuối, vô tư nhưng
         Nipa thấy cả dòng biển ngầm mạnh mẽ. Có khi một vũng nước
         trong nhìn tận đáy, lại nhận chìm những kẻ vô tình. Lắm
         lúc vũng nước như đục ngầu đe dọa, lại không qua khỏi
         mắt cá đôi bàn chân... Họ trở thành đôi bạn, giữa
         làn ranh cận kề sinh tử... Đến một hôm Trung nhờ Nipa giúp ông
         tìm mướn căn nhà nhỏ, rẽ tiền trên vùng núi. Càng
         cao, càng sâu vào rừng núi càng tốt. Ông thao thao nói với
         cô y tá cách chữa bệnh ung thư thiên nhiên của người Nhật.
         Không thuyết phục, nhưng Nipa hứa giúp ông tìm nhà. Vã lại
         cũng vào thu, cảnh núi rừng lá chuyển, biết đâu tái tạo
         cho ông mầm sống mới.               
         Nipa đặt chiếc xe lăn và cây gậy cuối góc nhà rồi chuẩn
         bị từ giả Trung. Ông ngập ngừng cám ơn. Nipa chần chừ, không
         nở. Trong ánh mắt của người đàn bà tràn đầy niềm
         cảm thương, nuối tiếc. Tất cả rồi cũng qua, một lần gặp
         gỡ. Như kiếp người, thoáng chốc mà hệ lụy cưu mang tưởng
         chừng bất tận. Bắt đầu đã khó, chấm dứt cũng không
         phải dễ dàng.  Nipa nhìn quanh, nhiều lần, căn nhà gỗ đơn
         độc giữa lưng chừng núi. Nàng đến như cơn gió lướt
         qua đời ông, không dừng lại.  Niềm hy vọng cuối cùng một
         đời người chính là sự trở về, trở về với chính
         mình trên dòng sông bản ngã. Chạm đáy đời ông, Nipa
         như bắt gặp đời mình. Khác biệt góc thời gian, soi cùng
         đời mặt phẳng. Nàng đã không giữ được lời hứa,
         mặc cho giòng nước mắt rơi thấm mặn khóe môi khô. Người
         đàn bà Phi-líp-pin quay nhìn căn nhà lần cuối, trước khi
         ngược xuống lòng đường. Đầu mùa thu, buổi trưa miền
         núi ngây ngất như ly rượu mạnh.                         ... Sau vài tháng
         hóa trị (chemo-therapy), Trung quyết định không tiếp tục nữa. Lần
         cuối cùng khám bệnh, bác sĩ đã cho ông biết:   
                        
         - Tiếp tục điều trị tại bệnh viện và chemo-therapy, ông có
         thể kéo dài sự sống từ một đến hai năm. Nếu khước
         từ, chúng tôi không dám đảm bảo cho sinh mạng ông trong vòng
         sáu tháng. Mong ông suy nghĩ thật kỷ lưỡng. Tuy nhiên mọi sự
         quyết định đều tùy vào ông và gia đình.                Ông biết
         rõ số phận của mình. Hơn nữa, sự tàn phá những tế
         bào sống trong cơ    thể khiến những
         ngày còn lại của ông sẽ tệ hại hơn. Ông muốn mình
         phải thật sáng suốt và tỉnh táo cho  mọi chuẩn bị, mọi
         sự lựa chọn cần thiết. Thảo đã đưa mấy đứa nhỏ
         về sống với gia đình ở Dallas. Trẻ con nhiều nước mắt nhưng
         cũng dễ lãng quên. Mười bốn năm chung sống vợ chồng, chia
         nhau từng tháng ngày khổ đau, hạnh phúc. Tình yêu ông với
         Thảo lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Nàng và
         các con ông còn phải sống, cho hôm nay, cho ngày mai. Có chăng với
         ông, là từng ngày cuộn trôi gần cái chết. Mấy tháng
         qua, Thảo đã khóc cạn một đời nước mắt. Ông không
         để chứng bệnh ung thư giết chết ông và dần mòn giết
         chết niềm tin và hy vọng ngày mai của những người ông thương
         yêu hết mực. Tất cả những đau đớn dù lớn lao đến
         đâu, rồi cũng qua đi. Thời gian trôi xuôi giữa dòng đời
         không trở lại. Tình yêu Thảo và các con lớn hơn sự hèn
         nhát và lòng ích kỷ. Với Trung, tiền bạc không mua được
         hạnh phúc và niềm hy vọng. Nhưng tương lai của gia đình và
         các con ông không thể lệ thuộc nỗi đau và cái chết dần
         mòn của ông. Thôi thì một lần chia ly còn hơn những ám
         ảnh truyền kiếp.               
         Tất cả cuộc ly dị đều bắt đầu và kết thúc bởi
         những thất vọng và oán hận. Trừ trường hợp của ông
         và Thảo. Cuộc chia tay, dù trên pháp lý, của họ bắt đầu
         bằng những yêu thương và lòng hy sinh vô bờ. Của ông. Của
         Thảo. Của các con. Nước mắt họ không chảy xuôi theo giòng
         đời thường tục. Những giòng nước mắt của họ chảy
         ngược vào tận cùng giòng đời hệ lụy cưu mang. Số tiền
         quá lớn cho sự dằng co với cái chết, rồi cũng phải đến,
         đủ đem lại cho người sống một mai nầy tốt đẹp. Cuối
         cùng rồi Thảo cũng hiểu. Trong cùng tận của đời người,
         cái chết không phải là sự chia lìa vĩnh viễn. Mà chính
         cuộc sống vạch ra nhiều đường ranh của biệt ly. Cánh cửa
         mở rộng cho mọi nghịch cảnh, là cõi vĩnh hằng phía bên
         kia. Sông có chảy trăm giòng cũng xuôi về biển mặn. Không
         ai đứng trước biển xanh mơ về con lạch nhỏ bao giờ. Trong nỗi
         đau cùng tận, ông vẫn ước mơ một ngày nào đó
         Thảo sẽ tìm thấy hạnh phúc. Một hạnh phúc có thật cho
         nàng. Như đời nầy, con người không chỉ đến để chết
         mà để chiêm nghiệm hạnh phúc trong cái chết vĩnh hằng. 
                         
            2.                  
         Ông choàng tỉnh trong tiếng hú vang vọng rừng núi.
         Tiếng hú hãi hùng, tuyệt vọng. Trong giấc mơ ông hay ngoài
         kia thăm thẳm núi rừng. Ông cố nhớ lại, nhưng tất cả chỉ
         là khoảng trống của tiềm thức miên man. Đầu hôm Trung đã
         uống hai thuốc ngủ. Nằm nghiêng tai, ông lắng nghe từng tiếng động
         thênh thang của đêm. Một con sói gọi đàn hay của một đàn
         thú nào đó vang tiếng thách thức nhau. Tiếng hú phải mang
         một cường độ ghê gớm, đẩy mất hiệu nghiệm của hai
         viên thuốc ngủ cực mạnh. Con số màu đỏ thẩm trên mặt
         bàn, hai giờ sáng. Ông chợt cảm thấy cơn lạnh chạy khắp
         cơ thể. Hay là tiếng hú vọng từ cõi " âm ", của thế
         giới bên kia. Nhắm chặc mắt, ông thở ra hít vào nhiều lần,
         ngầm kiểm soát toàn bộ cơ thể. Tất cả đều bình thường,
         không có triệu chứng gì của cơn bạo bệnh. Cái chết vẫn
         còn xa ông, ít nhất là đêm nay. Ngày mai rồi sẽ tốt đẹp
         hơn, cứ tin như vậy, ông xoay trở tìm một thế nằm thoải mái,
         chờ giấc ngủ.... Tiếng hú lại vang lên,  thiết tha, đau đớn.
         Tiếng hú vang vọng như đánh thức cả thung lũng thấp. Ông
         ngồi bật dậy, khoác chiếc
         áo choàng và bước ra ngoài. Ánh trăng sáng lạnh, soi dọc
         con đường mòn dẫn xuống dốc núi.                  
         Có tiếng người, cười nói phía dưới con suối nhỏ. Ông
         nghĩ đến những nàng tiên xuống tắm suối đêm trăng trong
         truyện thần thoại, cổ tích. Cuộc sống giết chết trong ông bao
         nhiêu ước vọng, gần kề cái chết lại mở bao nhiêu cánh
         cửa tin yêu trong mỗi giấc mơ. Khoảng đất và trời. Mặt thật
         và giả. Giữa thực và ảo. Chỉ là những cụm từ ngữ
         nói lên sự bất lực của con người và kiếp sống. Ông
         dò dẫm những bước chân, giữ gìn từng hơi thở. Ánh
         trăng sánh bạc, phả lớp mù sương phủ kín rừng. Tiếng
         cười nói bỗng lặng im, chìm khuất. Rồi từng tiếng nấc khẻ
         vang. Ngậm ngùi, trẻ dại.     
                      Không
         biết tự bao giờ ông đã đứng đối diện với chiếc
         bóng đang khóc cười, nhảy múa. Dưới trăng là khuôn
         mặt tuyệt đẹp của người con gái với mái tóc dài
         óng ả. Nàng chợt quay lại nhìn ông, không chút ngạc nhiên,
         sợ hãi. Chừng như đã quen, đã biết từ lâu.   
                       
         - Sao ông đến muộn vậy ? Em đã chờ đợi nơi nầy quá
         nhiều năm tháng... Người con gái vừa nói vừa di động theo
         cùng những vệt sáng tủa vây.               
           - Cô đã đợi tôi..? Tại sao cô biết tôi sẽ đến
         nơi nầy ?              
           - Phải. Bất cứ điều gì, nếu ông chờ đợi, rồi
         nó sẽ tới... Như em đợi ánh trăng. Có lúc tưởng nó
         đi mất. Em cứ đợi, rồi ánh trăng cũng đến.                  - Nhưng
         nếu cô không đợi, trăng cũng tới mỗi tháng kia mà... 
                        
         - Ông lầm rồi. Biết bao nhiêu người không hề biết trăng về
         mỗi bận. Chỉ có những người chờ đợi như em thôi... Như
         em chờ và ông cũng đã đến.                  - Không. Nhất định
         là tôi không đến đây vì sự chờ đợi của cô.
         Tôi đến đây bởi sự chờ đợi của cái chết.  
                        
         - Thì hẳn vậy đi. Em là cái chết của ông. Đã sao đâu
         ? Con người đến cuộc đời nầy chỉ để chờ đợi
         cái chết kia mà... Thôi, đêm sắp tàn, đến ngồi xuống
         đây với em.              
         Nàng nắm tay ông, ngồi xuống bờ đá. Mùi hương con gái
         thoang thoảng, ngây ngất mọi xúc giác của ông. Tự lúc nào,
         toàn thân ông như căng tràn sự sống. Những cảm giác sượng
         đau ông cưu mang bấy lâu nay chợt tan biến. Tất cả nhẹ tênh,
         mênh mông nỗi hạnh phúc không cùng. Phiến đá ấm áp
         sương đêm như bàn tay ông đang ấm áp trong lòng tay con gái.
         Ông chợt nhận ra toàn thân nàng chỉ phủ một lớp vải mong
         manh tơ trời mờ nhạt. Ngả đầu vào vai, ông nghe từng hơi thở
         nhẹ thơm của nàng phả vào bên má. Chung quanh họ, chỉ còn
         thế giới của trăng.      
                        
         Người con gái nằm ngữa mặt trên hai chân ông dựa theo bờ
         đá. Con suối đêm mùa thu chở ngập đầy một dòng trăng.
         Cũng từ đó, mỗi đêm ông đều cùng người con gái
         gặp nhau dưới bờ thung lũng thấp. Có lúc họ chuyện trò.
         Lắm khi họ lặng im, chừng để lắng nghe sự giao hòa của tâm
         hồn con người và đất trời huyền diệu. Ông không biết
         mình đang sống trong giấc mộng, hay chính giấc mơ ông đang trở
         thành hiện thực đời mình. Tự hỏi. Hoài nghi. Sợ hãi.
         Đôi lúc ông luôn mở trừng đôi mắt, sợ một chớp
         mắt vô tình sẽ đánh mất những gì có thật chung quanh...
         Khuôn mặt đẹp tuyệt trần người con gái như tỏa ra một
         lớp ánh sáng dìu dịu, mơ hồ. Như hiểu lòng ông, áp
         bàn tay ông lên má, người con gái muốn ông nhận thức sự
         hiện hữu có thật của mình. Tất cả lung linh, mầu nhiệm. Ông
         đưa tay nâng niu khuôn mặt và vuốt từng lọn tóc óng tơ
         trời... Đôi mắt mở to, người con gái nhìn ông đắm say
         như nhìn vào giấc mơ tiến kiếp.                   - Tại sao lại có
         ánh trăng, lúc đi lúc về ? Tại sao sông xuôi về biển, sông
         đậm nâu ngọt ngào còn biển xanh mặn bao la..?               Một hôm người
         con gái vô tình, chợt hỏi. Trầm ngâm phút chốc, ông khẻ
         kể cho nàng nghe câu chuyện tình huyền hoặc, tựa chừng ẩn khuất
         đâu đó trong tiềm thức.     
                         
         " ... Ngày xưa, thuở trời đất giao hoà. Đêm chỉ ngàn
         sao lấp lánh và chưa có mặt trăng hiện hữu. Mặt trời ngự
         trị toàn bộ giang sơn của hệ thái dương.  Shiva là con trai
         thần mặt trời. Tính tình phóng khoáng và lãng mạn, Shiva
         luôn có nhiều ước vọng khác thường. Năm mười chín
         tuổi, tục lệ bắt Shiva phải chọn một người con gái làm
         vợ. Tất cả người đẹp của xứ mặt trời không làm
         cho Shiva rung động. Thần mặt trời lo lắng, còn Shiva thì ngày đêm
         buồn bã, u sầu. Một hôm Shiva xin cha cho mình tự đi tìm vợ.
         Thần mặt trời đồng ý với hai điều kiện. Một, không
         được rời khỏi xứ mặt trời. Hai, thời gian đi tìm chỉ
         trong vòng ba mươi ngày. Sau đó, nếu không tìm ra, Shiva phải
         tuân lệnh cha lấy người con gái do chính thần mặt trời lựa
         chọn. Shiva cúi đầu đồng ý.               Lang thang khắp nơi trong xứ
         mặt trời, Shiva chưa lần nào gặp người con gái trong mộng. Thất
         vọng, nhiều đêm Shiva thao thức nhìn những dãy ngân hà lấp
         lánh bao quanh. Chàng tự nhủ, biết đâu trái tim mình đang ở
         nơi chân trời xa xăm đó. Quên mất lời cha dặn, Shiva rời xứ
         mặt trời và bay về một hành tinh khác. Vô tình, Shiva ghé
         vào trái đất. Choáng ngộp trước vẻ đẹp lạ kỳ,
         xanh thẳm của phần đất nầy, Shiva quyết định ở lại để
         tìm người con gái trong giấc mộng.               Không phải tìm lâu,
         Shiva yêu tha thiết ngay người con gái đầu tiên gặp mặt bên
         bờ con suối nhỏ. Thùy Dương, tên nàng. Shiva say đắm với
         mối tình Thùy Dương quên hẳn lời cha dặn. Ba mươi ngày
         lướt qua thoáng chốc. Sứ giả của thần mặt trời tìm kiếm
         Shiva khắp cả chân mây góc trời. Cuối cùng, họ vời được
         Shiva trở về. Trước mặt cha, Shiva xin được cưới Thùy Dương
         làm vợ. Thần mặt lắc đầu và nhắc lại điều kiện
         đặt ra. Shiva không được rời khỏi xứ mặt trời, vì chàng
         không thể cưới làm vợ bất cứ người con gái nào ngoài
         xứ mặt trời. Shiva hỏi, tại sao. "Con là mặt trời chỉ sống
         với sinh thể mặt trời. Những sinh thể của các hành tinh khác
         không thể cùng tác hợp", thần mặt trời trả lời.  
                      Tuyệt
         vọng và buồn chán, Shiva đã chết trong mối tình thiên thu đó.
         Hồn u uất không tan, kết đọng thành một vầng sáng vằng
         vặc, suốt đời ôm trọn lấy trái đất nầy. Con người
         gọi vầng sáng đó là mặt trăng.               Nơi trái đất,
         Thùy Dương chờ đợi người yêu đến héo mòn hương
         sắc. Thùy Dương đã khóc, khóc mãi đến cạn khô
         nguồn nước mắt. Mãi đến lúc vầng trăng chiếu sáng
         trần ai thì nàng gục chết bên bờ suối ngày xưa gặp gỡ.
         Người đời truyền tụng, nước mắt của Thùy Dương đã
         nhuộm xanh và thấm mặn mọi mặt biển thế gian... ".   
                         
            - Chuyện tình thần thoại thật tuyệt vời và thật đẹp,
         phải không ông?   Thật là tuyệt
         vời và đẹp. Chính ông cũng không ngờ mình " bịa "
         ra câu chuyện thần thoại lãng mạn đến như vậy ? Hơn nữa,
         bổng dưng khả năng Anh ngữ của ông hôm nay vượt ra ngoài chính
         sự tưởng tượng của mình. Bình thường ông nói tiếng
         Anh thuộc loại " ăn đong ", lắm khi cô y tá người Nipa phải
         gặn đi gạn lại nhiều lần mới hiểu nổi ông nói gì
         ! Hưng phấn, thừa thắng xông lên, ông tâm sự.    
                        
         - Phải. Tôi tin rằng mọi sự hiện hữu trên thế gian nầy đều
         bắt đầu từ một chuyện tình. Nói chi đến con người và
         các sinh vật, mà ngay cả sỏi đá vô tri. Một nhạc sĩ nước
         tôi đã nói, "... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
         ! ". (1)              
            - Tại sao vậy ông ?              
            - Vì mọi sự vật đều là hóa thân của nhau. "
         Em là tôi và tôi cũng là em..." (2).                  - Ông càng giải
         nghĩa, em lại càng khó hiểu. Mà cần hiểu làm gì, có
         ai đang yêu lại phân tích và định nghĩa tình yêu ? Ông
         hãy hôn môi em, tình yêu sẽ lên tiếng.               Người con gái
         nghiêng mặt, hiến dâng. Ông cúi xuống, hôn lên đôi môi
         óng vàng, mật ngọt. Niềm lạc hoan mảnh liệt tràn vào thân
         thể, nâng cao vút mọi xúc cảm cùng tận trong ông. Mọi nỗi
         đau tan biến. Mọi cái chết chìm sâu. Chỉ còn lại thực
         tại là niềm hạnh phúc mơ hồ, chất ngất. Ông chợt thấy
         ánh trăng hạ xuống thấp dần. Thật thấp, chiếu vàng rực
         rỡ khuôn mặt ông và thân thể người con gái. Muôn vàn
         mạch máu cuộn tràn, ông như nhập vào ánh trăng rồi vút
         cao lên bầu trời bát ngát. Người con gái chợt cong người
         hú lên. Tiếng hú vang vọng khắp cả kiếp người. Ông cũng
         nghiêng người nhìn lại bóng mình. Chiếc bóng rời khỏi
         ông, vươn cao, rồi cũng hú vang niềm hạnh phúc mông lung. Hai tiếng
         hú quyện vào nhau, cuốn hút núi rừng trong giấc mơ truyền kiếp
         ngàn đời.                       
         Ông cúi xuống đặt thân thể người con gái lên trên
         bờ đá, cạnh bờ suối nhỏ. Hơi thở ra từng hồi nhè nhẹ,
         đứt khoảng nàng mở trừng đôi mắt thật to nhìn ông,
         môi mấp máp. Ông cố nghiêng tai thật sát, lắng nghe. Chừng như
         chỉ là những lời vô nghĩa. Ông ôm chặc cơ thể nàng
         mong chuyền sang hết sự sống. Tại sao không phải là ông, người
         mãi đợi chờ cái chết. Mà lại là nàng, người con
         gái của giấc mơ ông, thu mùa tâm tưởng. Buổi chiều hình
         như lá rụng nhiều hơn trên mấy lối mòn xuống suối. Đã
         cuối mùa thu rồi thần thoại mối tình ông. Không hiểu sao, dưới
         những đêm trăng, khuôn mặt người con gái đôi lúc mang
         nhiều đường nét của Thảo. Rồi nhạt mờ đâu đó
         bóng dáng của biết bao người con gái đã qua đời ông.
         Họ vẫn quanh đây trong dáng hình hiện tại. Tất cả bàng
         hoàng, nuối tiếc. Như không hiểu từ tiền kiếp nào đưa
         ông về khu rừng thu lũng thấp mờ sương nầy. Trong tận cùng
         sự sống, ông hiểu nghĩa chia ly nghiệt ngã vô cùng cho người
         ở lại. Đứng trước cái chết, ông thấy thăm thẳm hơn
         ý nghĩa tình yêu của sự ra đi... Ông cúi hôn lên đôi
         môi lạnh giá, ơ hờ. Nàng đã ra đi như ông rồi cũng
         tới. Như tình yêu, không có điểm bắt đầu và không
         có nơi chấm dứt... Ông đứng lên cất tiếng hú đớn
         đau, như đánh thức cả núi rừng. Ánh trăng cuối thu vằng
         vặc, đâu đây tiếng hát ai như ru giấc ngủ yên một kiếp
         người.                                      
                       
                     ".. . Mang ơn em trao tình một lần,
         là kỷ niệm dù không đầm ấm   "Mang ơn em đau khổ thật đầy, là nắng vàng dù nhốt
         trong mây   "Mang ơn trên cho cuộc đời
         ta, vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ   "Trong cơn đau một vùng hương khói, kéo ta về, về
         cõi hư vô...  (3)     
          3.       Nipa ngạc
         nhiên khi thấy mấy ống thuốc cầm đau còn nhiều trên kệ.
         Thường khi chỉ còn vài lọ cuối cùng. Ông Trung có thể
         không sợ chết, nhưng ông cần chống lại những cơn đau. Hơn
         ai hết, Nipa hiểu rõ điều nầy. Hay là ông đã cạn rồi
         sự phản kháng, đã quyết định bước cùng... Căn nhà
         vắng lặng. Nipa nhìn quanh, chiếc gậy vẫn ở góc giường và
         tách trà trên bàn chưa uống cạn. Nắm hồ sơ bệnh lý
         và chăm sóc ông thời gian qua, Nipa hiểu từng chuyển biến của
         cơ thể ông. Dù có một nghị lực phi thường đi nữa, ông
         Trung cũng không thể vượt ra ngoài những tàn phá của chứng
         ung-thư nầy. Nói chi ông đang ở trong thời kỳ cuối cùng. Bao giờ
         đi ra khỏi nhà ông đều mang hờ theo cây gậy, phòng những
         cơn đau tấn công bất ngờ. Nipa chợt nhận ra tờ giấy nhỏ dán
         trên tủ lạnh, với giòng chữ của ông: " Tôi tập yoga và
         thiền, con suối dưới thung lũng. Trung ".                  
         Buổi trưa mùa thu, khí trời tĩnh mịch và nhẹ tênh. Nipa bàng
         hoàng với vẻ đẹp của rừng núi. Thung lủng thấp như được
         phủ tấm vãi tơ lụa màu đỏ, tím và vàng sặc sỡ.
         Như bức tranh vẽ trong truyện cổ tích mà cô đã đọc
         say sưa thuở ấu thơ. Bây giờ trước mặt là cả một tặng
         phẩm tuyệt vời của tạo hóa có thật. Nipa như nhận ra được
         sự mất mát to lớn của đời sống xã hội và ý thức
         thiên nhiên chung quanh. Con người không những đã tự hủy tâm
         cảnh mà ngay cả hiện thực bên ngoài. Giá trị thẩm mỹ
         nhường chỗ cho giá trị kỹ thuật và tiện nghi. Con người
         xa lạ dần với thiên nhiên và lệ thuộc vào ảo giác. Tính
         thích nghi cũng từ đó mất dần, sự phản kháng cơ thể
         dựa vào trợ lực hoá chất của dược phẩm. Từ cỏ hoa,
         thảo mộc, Nipa đã tận mắt nhìn thấy những điều đó
         xảy ra cho bệnh nhân do chính cô chăm sóc.               Từ thận chứng
         di-căn của ông Trung đã chuyển đến cả gan và phổi. Cái
         chết, với ông, chỉ còn là phút chốc thời gian. Điều đó
         không làm cho Nipa ái ngại, cảm thương. Con người rồi ai cũng
         một lần chết, như thể một lần sinh ra đến với đời nầy.
         Đôi khi cái chết lại là một giải thoát hoàn mỹ nhất
         của đời người. Cho ông. Cho Nipa. Cho cả kiếp người vay tạm...
         Nhưng là những cơn đau, những cơn đau khủng khiếp cho thân thể
         sống trong chờ sự chấm dứt, ra đi. Những cơn đau mà mọi con
         người không đủ sức chống trả. Sự hiện diện của cô
         là chỉ nhằm giúp ông vượt qua những giây phút hãi hùng
         nầy. Nipa tin vào nghị lực và lòng can đảm cho mọi hành động
         của ông đối với gia đình, vợ con. Nhưng còn ông, ông
         không thể dùng thứ nghị lực đó chống lại những cơn
         đau nghiệt ngã để sớm chấm dứt một kiếp người. Không
         nói, nhưng cả Nipa và ông điều biết phương pháp chích
         không khí vào mạch máu. Như một giải pháp cuối cùng.
         Điều nầy ám ảnh Nipa nhiều hơn khi nhìn thấy những ống thuốc
         cầm đau còn nguyên nhiều trên kệ.                   Cuối đường mòn, gần con suối trong thung lũng thấp, Nipa hốt
         hoảng, mở trừng đôi mắt khi thấy xác người đàn ông
         nằm trên ghềnh đá tảng. Mắt nhắm nghiền, ông Trung như đang
         trong giấc ngủ thật tĩnh lặng, bình yên. Không biết ông đã
         nằm đây bao lâu, nhưng Nipa không nhìn thấy dấu vết chống
         chỏi nào cho sự đau đớn thể chất. Cơ thể ông Trung đã
         lạnh cứng. " Ông Trung. Ông Trung, tôi đây. Nipa đây mà..!
         ", cô y tá lẩm bẩm gọi tên trong dàn dụa nước mắt.
         Tất cả cũng đã đến, một kiếp người như thể dưng
         không. Núi rừng mùa thu vẫn rực rỡ sắc màu, hanh hanh màu
         nắng nhẹ tênh. Nipa bấm số điện thoại di động: "911".  
                4.              
            Một cột tin nhỏ trên
         trang nhất của tờ báo địa phương - Một Hiện Tượng Y -Học
         Khó Giải Thích: " Asheville, North Carolina - Sáng hôm qua, người ta tìm
         thấy xác người đàn ông nằm trên vực đá, dưới
         một thung lũng của dãy Great Smokey Mountain. Được biết nạn nhân
         mang chứng bệnh ung-thư trong thời kỳ cuối, từ chối mọi chửa trị
         của bệnh viện để chờ đợi cái chết. Điều gây sôi
         nổi trong dư luận là, sau khi thử nghiệm xác nạn nhân, các bác
         sĩ và bệnh viện không tìm được dấu vết nào của
         chứng bệnh ung-thư hiểm nghèo đã giết chết ông. Kết luận
         của nhóm khảo nghiệm, nạn nhân chết vì kiệt sức, không
         ăn uống trong nhiều ngày đêm bên bờ đá tảng.  
                      Hiện
         nay hội đồng y khoa Hoa Kỳ đang thương lượng với gia đình
         và thân nhân nạn nhân để phân chất các nhiễm thể
         của ông mong sẽ tìm ra được nguyên nhân trên. Đây là
         một hiện tượng y học đầu tiên có thể sẽ làm thay đổi
         tận gốc rễ các lý thuyết chửa trị chứng ung-thư của con
         người. Chúng tôi hứa sẽ theo dõi thường xuyên và đưa
         những tin tức mới nhất cho cuộc thử nghiệm lịch sữ nầy đến
         với bạn đọc ! ".                                       
            Durham, North Carolina       Nguyễn Vĩnh
         Long                                                                                                                          
            (1), (2): Diễm Xưa & Tôi Ơi, Đừng
         Tuyệt Vọng - Trịnh Công Sơn   (3):
         Tưởng Niệm - Trầm Tử Thiêng     _________________________________________________
   
      
    
   
                                 
   
   
      
                 1.    	Mùa
         hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại
         một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi
         mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng
         hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo
         đời thường trước mặt với đàn con nhỏ dại. Con mất
         cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn.
         Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi
         dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa
         cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở
         thành "phụ thân". Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền
         tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm
         cha tôi, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến
         xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên
         thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà
         cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nộI, ngoại đều nhiều lần
         đề nghị đem vài đứa về nuôi, đở tay, nhưng bà một
         mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn,
         tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn
         định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không
         muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân.
         Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng
         sau buổI học dồn hết tâm sức đở đần với mẹ cho tiệm
         cơm và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy
         lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía
         sau nhà.           Hơn
         năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn mườn mượp phải mở
         rộng thêm gần hết mặt lộ. Khách quen thuộc hằng ngày, phần
         đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là
         hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần
         dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổI, không
         mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp "mô",
         hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách hành vào quán
         hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc giường ngũ tạm qua
         đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành
         nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên
         mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện,
         cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán
         buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng
         giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới
         quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh
         đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc
         làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được
         chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa.
         Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng
         như bà không mấy quan tâm bởi đàn con bốn đứa. Năm đó
         tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời
         con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và
         biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám
         con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗI lần tôi đi ngang
         qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngũ, nằm lắng
         nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược
         lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo
         tam thể của bà Năm chủ nhà.           
         Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đũ loại bắt đầu treo
         bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn
         nghệ trung thu yễm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi
         được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một
         buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học 12, trên tôi một lớp và
         trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu
         tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa
         tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngâm ngâm, dáng người
         chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông
         minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình
         đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào,
         Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi
         và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm
         nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh
         để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở
         trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng.
         Tôi dọ biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả
         nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào
         ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức
         thư và nói vội, "Gửi cho Loan..!". Tôi chưa kịp phản ứng,
         tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về
         nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm " chảng-xê"
         để đọc thư anh. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều
         lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày
         sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó. 
                     
         Ông là người khách thương
         hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi
         lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe
         nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm
         một trái pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết
         thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sau mình sống
         sót với bao mãnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần
         mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh
         đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy,
         tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp
         mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông
         ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài
         hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ
         phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi
         thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc
         đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm,
         ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi.
         Ông giúp mẹ tôi dựng lại một vách mái loang lổ, đóng
         lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn
         nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều
         lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều
         từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất
         của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ
         tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em
         tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy
         món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông
         kể chuyện sông hồ.            
         - Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi
         và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn,
         nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất
         hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua
         theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy
         chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới
         cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược
         đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết
         người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất
         cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng
         đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá
         nược trên cù lao... Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng.
         Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càng quét mọi sự sống,
         an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không
         chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú... Thôi
         khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy
         đứa lại rầy rà chú nữa.           
         Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú
         Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ
         kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn
         bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên
         nấp hầm "chảng-xê". Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô
         cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay
         và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã
         giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả
         người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn
         sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm.
         Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt
         sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm
         dài trằn trọc.             
         Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm.
         Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự
         bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng thở hổn hển của người
         đàn ông. Đêm vắng lặng, tiếng thở lúc một rõ, dồn
         dập vọng lại cùng âm thanh thịt da, vạt giường chạm lẫn
         vào nhau...  Rồi tất cả trở lại lặng im. Tiếng xột xoạt
         của quần áo, tiếng trở mình khe khẻ từ phía ngoài giường
         ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình,
         ăn ngủ, làm tình với người xa lạ nào đó? Mà không,
         bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người
         kia là ai ? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm
         từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh.
         Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xãy
         ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời
         nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà
         khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên
         khuôn mặt bà... Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi
         tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt
         trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để
         lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt
         vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn
         trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm
         mắt tìm giấc ngũ... Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn
         còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình...  
                     
         Buổi chiều trãi chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng.
         Tôi nén vu vơ vài mãnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai
         đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng
         tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác
         trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ
         vĩnh viễn không trở về vớI cuộc sống và nỗi thương nhớ
         quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục
         ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không
         có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi khẻ liếc nhìn khuôn
         mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và
         có mang tình tôi trong đó.             
         - Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn
         nhớ đến Lộc... Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp
         quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng
         kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn.              Tiếng Lộc trầm buồn, không
         như những lúc ôm đàn hát, "Người con gái Việt Nam
         da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người
         con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu
         mình...", trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc
         thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc.
         Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến
         dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang dãy chết
         trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưởi tôi đông cứng
         trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi
         ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức.              - Loan hứa chờ Lộc
         trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã,
         với Loan. Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết
         chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI
         sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin
         và hy vọng...           
         Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc
         còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và
         tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì,
         nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu
         anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn
         khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh
         sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi,
         Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt. Đừng nói đến
         ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu
         của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để
         em cô đơn giữa bầu trời quá rộng... Lộc quay sang nhìn tôi
         ngây dại và nắm tay tôi, xiết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức
         từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, kép
         chặc vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở.
         Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc
         lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặc bờ môi tôi
         chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết
         đầu lưởi tôi tê dại trong nụ hôn anh mãnh liệt. Chung quanh
         như  xụp đỗ dưới chân, tối tăm mê muội, khi bàn
         tay tham lam của Lộc ngừng trên bờ ngực tôi...       2. 
           	Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ
         nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ
         tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng
         Hai vằng vặc và se sắt lạnh. Cuộc chia tay cuối cùng với dì
         Út thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần
         nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn
         khổ trôi qua. Phiá sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là
         khuôn mặt thẩn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ
         tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại
         tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi. 
                     
         ... Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia
         đình tôi vào ngõ ngoặc mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ
         con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và
         hồi hương những gia đình "ngụy" không phải sinh quán
         tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không
         ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với
         đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu
         thương là mục tiêu đấu tranh "giai cấp" của chính quyền
         mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ
         bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ
         học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày
         đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa
         trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi
         ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt
         hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người
         khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình
         tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng
         đãi của đám chính quyền địa phương. "Cách mạng"
         xóa bỏ tỉnh Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn
         vị huyện thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có
         công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư
         tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú
         đã vô tình giúp đở dấu trên ghe một người đàn
         ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc
         gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư
         thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì,
         cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người
         hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc
         ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các
         đồng chí lãnh đạo tỉnh... Chú Bảy trở thành dượng
         Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ.
         Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng
         bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No.
         Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa.
         Mẹ và dượng mở lại quán cơm. Cuộc sống gia đình tôi
         từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng
         buột bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em
         tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng
         trên tỉnh... Và, tôi đã biết được người đàn
         ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy. 
                  Ngày tháng qua,
         tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng
         kinh mà thương nhớ một người. Đã năm năm rồi thoáng
         chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền
         biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng
         cuốn dần theo năm tháng mõi mòn. Tôi không còn là cô
         học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi.
         Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của
         xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời
         gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi.
         Những cuộc tình đó thật ngắn ngũi và không để lại
         một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên
         tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là
         những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu.
         Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào
         xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người
         trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó,
         có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẫn
         bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ
         chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm
         người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác
         hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần
         tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới
         lớn.           
         Tính về dạy trường cấp 3 thị xã vài tháng sau ngày giải
         phóng. Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông, còn đang chơi vơi với
         những đổi thay thì quen Tính. Chúng tôi rơi vào cuộc tình
         của nhau dễ dàng, vội vã. Ngày mai là đám mây mù của
         bao nhiêu từ ngữ mới, đảng ta vinh quang hạnh phúc, ngụy quân
         ngụy quyền, tội ác với nhân dân... vân vân và vân vân.
         Cùng với hợp tác xã, hộ khẩu, cửa hàng, gạo bán cân
         từng ký, hàng nhu yếu phẩm tính đầu người... còn bao nhiêu
         thứ nữa để tuổi trẻ chúng tôi lao vào những cơn lốc
         của thời cuộc và cả tình yêu. Tôi và Tính ở cơn
         lốc của tình yêu, để quên và cũng để biết mình
         còn hiện hữu. Một đêm tôi đã trao anh những giọt máu
         trinh nguyên từ cửa mình con gái, những mê sảng đầu đời
         của tình yêu thể xác. Nhưng nghiệt ngã thay, trong nỗi đê
         mê dục vọng tôi cứ tưởng mình đang nằm trong vòng tay của
         Lộc và rên xiết gọi tên anh. Chỉ vài tháng sau, Tính bị
         bắt vì tội chứa chấp tài liệu phản động và có mưu
         đồ "chống phá chính quyền cách mạng". Lần cuối vào
         thăm anh trong phòng tạm giam thị xã, tôi đã khóc xót xa còn
         anh thì chỉ lặng nhìn tôi thương cảm. Sau đó nghe nói anh
         bị áp tải lên công an tỉnh. Tôi tìm tới thì được
         trả lời là đã đưa đi nơi khác, nhưng không ai cho biết
         ở đâu. Tính biến khỏi cuộc tình tôi từ đó, vĩnh
         viễn. Tôi hy vọng giữ lại chút gì còn lại của anh, nhưng
         tất cả chỉ là niềm thất vọng. Những buổi chiều một mình,
         ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã
         phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không
         còn ai ở lại..?        3.      
            Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm
         lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui:              - Trạm kiểm
         soát...  Tụi nó kêu ghé vô.             Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại
         chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi
         vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ:              - Nhớ là
         mình về giỗ ngoại ở Giồng Riềng, Kiên Giang nghen con.              - Dạ... 
                   Chiếc ghe máy
         cập sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác
         súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe.               - Đi đâu mà đông dầy
         nè. Có giấy đi đường hông... Chủ ghe đâu ?              - Dạ gia đình
         tôi về quê đám giỗ. Có giấy đi đường đây,
         trình mấy chú.          
         Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn
         trên tay.  Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy,
         còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái.              - Chú cho coi giấy
         chứng minh nhân dân.             
         - Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn
         đám. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi.           Hai người thanh niên cầm giấy
         tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. MọI
         người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc
         xược:             
         - Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ ! 
                      
         - Dạ chuyện gì vậy chú...              
         - Thì cứ lên trạm sẽ rõ.        
         Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ.
         Tay chân tôi lạnh ngắt, nghĩ đến căn buồng tạm giam mà một
         lần tôi đến thăm Tính. Trạm kiểm soát là căn nhà
         lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối
         căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống
         cười mai mĩa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải
         rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác
         với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi
         và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy
         mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất.
         Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ:              - Tụi nó tình nghi mình vượt
         biên.             
         - Làm sao bây giờ...  Mẹ tôi hốt hoảng.              - Đợi tụi nó đi
         gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết.      
                    Giọng dượng
         Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề
         trôi qua. Tôi nhớ đến những vòng kẽm gai của trại tạm gian
         và khuôn mặt gian ác của tên cán bộ giữ tù lần thăm
         Tính, khẻ rùng mình. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy
         tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an
         nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình
         thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự
         an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có
         thể xãy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài
         tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sửng sờ
         ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc.
         Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không
         gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi xạm đen, ráng nắng. Tôi
         chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút
         ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn
         đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy
         thân của gia đình tôi cho Lộc:             
         - Xin báo cáo đồng chí trưởng đồn. Giấy tờ đầy
         đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều
         thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Gía, rất tình nghi
         tổ chức vượt biên.             
         - Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm
         vụ.           Hai người
         công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc
         nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng
         Bảy:             
         - Ông là chủ hộ, chủ ghe.             
         - Dạ phải.          
         Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi
         sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên
         mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ
         là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang
         trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào
         vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ
         đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên.
         Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy
         từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám
         nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ
         tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối
         với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì.
         Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa, "Từ lúc
         đưa em về là biết xa nghìn trùng...", như bao lần ai cất
         tiếng hát em nghe.              
         - Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi.           Tiếng dượng Bảy làm
         chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu
         cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng
         đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn
         lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước
         xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói:               - Xong rồi, mình đi. 
                     - Thiệt
         hả... Ông nói gì với tụi nó vậy.           Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt
         bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh
         tay trái, ôn tồn nói nhỏ:              
         - Nói gì đâu... Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi
         dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ
         cho đi, còn chúc hờ lên đường may mắn.       
                    Chiếc ghe máy
         dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi
         không cầm được nước mắt, cắn chặc môi để không
         ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía
         sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình
         bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Phía
         trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông
         sẽ về với biển... Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn
         mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh,    "Nơi em về ngày vui không em    "Nơi em về trời xanh không em    "Ta nghe nghìn giọt lệ    "Rơi xuống thành hồ nước long lanh... (Như Cánh Vạt Bay
         - Trịnh Công Sơn)       Durham, North Carolina   Nguyễn Vĩnh Long
  
         
      
      Ngày
         Tình Nhân        Bỏ hạt muối vào biển 
          Hỏi biển có mặn thêm? 
          Bỏ nỗi buồn vào mắt 
          Nước mắt có thêm nguồn? 
              Chúc nhau chi trăm tuổi   Cho gương soi muộn phiền   Chúc bao điều hạnh phúc   Tình yêu cao rộng hơn?       Đêm
         về theo chân nắng   Sẽ sáng
         phía bên người   Niềm
         vui và cay đắng   Hai mặt
         của đời thôi!     
          Dấu đường xưa mưa phủ 
          Cho cỏ non chân trời   Tìm chi mùi hương cũ   Khi tàn y muôn nơi!       Mỗi
         năm ngày Tình Nhân   Gửi
         chi triệu đóa hồng   Màu
         hoa rồi cũng úa   Hỏi tay
         người thủy chung?     
          Nguyễn Vĩnh Long 
 
 
  
         
      
      Tết Đã Qua Mùng 
                                  
          Ba Mươi tôi là Mùng Một em 
          Làn khói hương mang nắng qua thềm 
          Trong thiêng liêng có bao hình bóng 
          Theo gió bên ngoài lạnh suốt đêm 
              Qua sáng
         Mùng Ba ngày vẫn vậy   Vẫn nắng
         mong manh thiếu cảnh nhà   Bên mâm
         cúng đủ gà, xôi, rượu   Chỉ
         thiếu mặt người vẳng phương xa     
          Chỉ mới Mùng Năm mà xa lắc 
          Mùa Tết em tôi mắt ngại ngần 
          Như thể bốn ngày chưa đếm đủ 
          Những lần pháo nổ nhớ người ta! 
              Thôi
         đã qua Mùng như thể chẳng   Có
         mùa Tết thuở cúc vàng hoa   Ngõ
         nhà ai đó màu sân nắng   Như
         trải áo tà hương phấn xa...     
          Nguyễn Vĩnh Long     
 
 
   
      
      Những Bóng
         Hình Năm Cũ                          1. 
          "Nhà tôi bên
         chiếc cầu soi nước,   "em đến
         thăm một lần   "Bao lũ chim
         rừng hợp đàn trên khắp bến xuân   "Từng đôi chim trong nắng ríu rít ca u ú ù
         u ú   "Cành đào hoen nắng
         chan hòa   "Chim ca thương nhớ,
         chim ngân xa u ú ù u ú   "Hồn
         còn ngây ngất chẳng vương...  (1)       Tiếng hát trầm ấm,
         ngọt ngào của ca sĩ Cao Minh như vang vọng lại những dư âm của
         cả một khung trời dĩ vãng. Bên ngoài gió đuổi từng cơn
         lạnh buốt người, nhiệt độ xuống -5°C (23°F). Căn phòng như
         co rút lại, cuộn tròn trong nỗi nhớ mịt mùng. Thuở ấy, căn
         nhà trọ tôi ở không nằm "bên chiếc cầu soi nước",
         như căn nhà thơ mộng của cố nhạc sĩ  Văn Cao. Căn
         gác trọ của tôi nằm trong hẽm nhỏ, có thể đi vào từ
         cả hai phía đường. Mặt ngoài là đường Phan Đình
         Phùng rẽ vào và đi ngang qua chùa Phước Hòa. Mặt sau là
         đường Nguyễn Thiện Thuật, theo con hẽm đối diện cà phê
         Năm Dưỡng. Để có những chiều, tôi đều lắng nghe từng
         hồi chuông tĩnh vọng từ phía ngôi chùa đầu hẻm. Để
         có những chiều, người con gái đưa tôi về, dừng trước
         cổng chùa đúng lúc ngân lên từng hồi chuông tĩnh vọng.
         Nàng chấp tay, cúi đầu khấn nguyện. Tôi hỏi. Nàng lắc
         đầu, nói nhỏ: "Hổng thèm cho anh biết". Rồi quẹt đuôi
         tóc vào má tôi: "Cho anh nợ em những hạt bụi đời",
         cười khúc khích và quay xe chạy khuất quanh đầu ngõ. Nắng
         chiều rơi nhẹ, in bóng người bụi phấn sau lưng... Tôi không
         tin đời người sẽ về với cát bụi mà sẽ trở lại
         với nơi chốn bắt đầu? Sống và đi qua bao nhiêu nơi chốn
         bụi trần, người con gái ấy đã để lại trên má
         tôi những hạt bụi đời thương nhớ. Hãy nằm yên nghỉ
         bụi ơi, ở một nơi quê nhà vời vợi...   Đêm cuối năm trong bao nỗi nhớ tưởng chừng như
         đã lãng quên, khuất lấp chìm sâu. Những khuôn mặt, vài
         cái tên mang đâu đó bóng dáng của thời gian nghiệt ngã,
         bóng dáng bao cuộc tình thôi đã mộ phần. Trái tim vẫn
         đập, mơ ước vẫn còn sao kiếp người đã cuối bãi
         đời qua. Để người yêu dấu ơi, tôi như con thú trong đêm
         xa xứ lạ buốt giá, chợt cúi đầu liếm thật sâu vào
         những vết thương mình trở dậy. Nhưng đêm nay, với những
         tờ lịch cận Tết quê nhà, tôi ngồi đây không phải nuối
         tiếc nhớ về những khuôn mặt có tên, những môi hôn còn
         hằn lại đâu đây mùi hương phấn người. Không, không
         phải. Trái tim tôi đang thổn thức, quặn đau một bóng hình
         người con gái tôi không còn nhớ mặt và không biết cả
         tên. Người con gái chợt tình cờ, thoáng qua đời tôi chỉ
         một lần, như chuyến phà ngang trong ngày cuối năm rất cũ. Không
         bóng hình, không tên nhớ, vậy mà đã ám ảnh, đã
         cưu mang hết cả đời này. Đêm chỉ mới bắt đầu và
         ngày vẫn còn khuất sâu trước mặt...          2. 
                   ... Khoảng hơn
         mười giờ, chuyến xe dừng lại bến phà Mỹ Thuận. Tôi ló
         đầu ra cửa, điệu này chắc phải cả tiếng đồng hồ
         mới qua được phà. Hai mươi sáu Tết, không khí thật
         ồn ào, nhộn nhịp. Tiếng còi xe, tiếng rao hàng, tiếng mời gọi
         nức vang dọc theo dãy hàng quán bên đường. Trong cảnh rộn
         ràng của những ngày cận Tết, không khí chiến tranh cũng không
         lắng dịu chút nào. Những đoàn xe nhà binh che đậy bít
         bùng, từng đoàn đang chạy vội vã, vang dậy tiếng còi inh
         ỏi, thúc dục. Cảnh sát, lính địa phương từng tốp xuôi
         ngược theo dòng người dọc hai bên đường, đôi mắt
         lặng lẽ quan sát sẵn sàng cho mọi bất trắc xảy ra.  Vài
         người thanh niên bị chân lại trình hỏi giấy tờ... Gói mười
         ổ bánh mì Sài-gòn, được tôi treo cẩn thận trước
         khi quảy chiếc túi vải xuống xe. Đây là món không thể
         thiếu mỗi lần tôi về thăm nhà. Bánh mì ở đâu cũng
         có, vậy mà phải là bánh mì Sài-gòn mới được.
         Quà cho nhà, cho bà con chòm xóm. Mẹ tôi nói, bánh mì
         Sài-gòn ăn không cũng ngon. Tôi thì không thấy như vậy.
         Bánh mì Sài-gòn hay bánh mì Vĩnh Long, Cái Bè tôi ăn
         cũng thấy như nhau! Mẹ và bà con quê nội nói, chắc tại
         tôi ăn bánh mì Sài-gòn mấy năm nay nên quen miệng, không
         thấy khác. Chứ thật sự, bánh mì Sài-gòn rất đặc
         biệt, có mùi thơm và độ giòn rất là Sài-gòn,
         chỉ có bánh mì Sài-gòn mới có. Tôi tin mẹ và bà
         con quê nội nói đúng. Ly cà-phê và cái bánh tiêu hồi
         sáng sớm vẫn còn no bụng. Thôi thì đợi trưa tới Vĩnh
         Long ăn luôn trước khi xuống đò về nhà nội... Những chuyến
         xe về quê cuối năm người đông như nấm, đi bộ phải
         lách phải luồn mới không đụng vai chạm tay. Dưa hấu màu
         xanh thẳm, bóng lưỡng chất đống dọc hai bên đường. Rồi
         thì mứt, đủ loại đủ màu, bày cùng khắp trong bọc,
         trong những hộp bao giấy kiếng thật đẹp và bắt mắt. Tiếng
         mời mọc, nỳ nèo giá cả, tiếng cười nói rộn ràng
         một không khí Tết gần kề. Đó là chưa kể mùi hủ
         tiếu, cháo lòng, mùi thịt nướng thơm lừng... quyện kín
         cả vùng. Tôi thương vô cùng không khí cuộc sống hai bên
         bờ phà Mỹ Thuận, bận về cũng như bận đi. Có cái gì
         đó bịn rịn quê nhà khi sang phà, trước khi vào Sài-gòn.
         Có cái gì rộn ràng cho nửa đoạn đường gần quê
         nhà hơn, khi bước chân lên chuyến phà qua bên kia bờ chờ
         đợi. Tôi sẽ thấy hình dáng của mẹ gần hơn.      Tiếng còi xe vang dậy,
         kềm theo từng đoàn người tất bật ngược dòng. Chắc phà
         vừa cập bến. Tôi thấy hơi khát, định ghé vào mua một
         bọc nước mía cầm theo. Chợt đâu văng vẳng trong tiếng ồn
         ào, náo nhiệt của bến phà vang lên tiếng đàn với nhịp
         điệu quen tai. Tôi khựng người, lắng nghe. Tiếng đàn gần,
         gần dần và quyện trong tiếng hát giọng nữ ngọt buồn: 
           "... Mưa ơi! Mưa ơi! Mưa gieo sầu nhân
         thế   Mưa nhớ ai,   biết người thương có còn nhớ hay quên 
          Riêng ta vẫn u hoài   Đêm đêm tiếp đêm nhớ mong người 
          Đã cách xa..."  (2)       Người
         con gái dáng gầy gò, chiếc áo màu xanh đậm bạc màu,
         một tay cầm chiếc nón lá rách vành, tay kia cầm chiếc gậy
         theo sau là người đàn ông độ ôm đàn thùng, đeo
         kiếng sậm đen. Tiếng hát ngân dài dịu vợi, bơ vơ  trong
         tiếng ồn ào, nhộn nhịp bao cuộc đời xuôi ngược chung quanh.
         Vài người khách bộ hành dừng lại nhìn cô gái, rồi
         bỏ vội vào chiếc nón lá rách vành những tờ giấy bạc
         vô tình. Âm vang cuối cùng của bài hát đã dứt, khoảng
         lặng yên như xô đẩy dòng người dòng đời náo nhiệt
         hơn lên. Tiếng từng phím đàn lại rão lên một bài
         hát khác. Người con gái ngẩn mặt lên, dưới mái tóc
         bồng bềnh biếng chảy là đôi mắt, đôi mắt u hoài như
         chẳng nhìn ai, sao xé thịt da người. Đôi môi tuổi xuân thì,
         cũng phơn phớt hồng cất giọng, bất chấp gian truân hằn sâu
         trên khóe mắt:     "Mưa rừng
         ơi, mưa rừng!    Hạt mưa nhớ
         ai mưa triền miên   Phải chăng
         mưa buồn vì tình đời   Mưa
         sầu vì lòng người   Duyên
         kiếp không lâu..."  (3)     
          Tiếng hát thơ ngây sao vọng nỗi u hoài
         trong không gian rộn rã vây quanh. Tiếng hát như bóp chặc mỗi
         nhịp đập tim tôi, giữa mùa gió trở. Tiếng còi xe bất chợt
         kéo tôi về thực tại. Chuyến xe tôi đang chuyển bánh về
         phía bến phà. Tôi móc vội những tờ giấy bạc trong túi,
         những tờ giấy bạc dành dụm suốt năm dạy kèm trong đáy
         xách vải. Đi nhanh về phía tiếng hát, tôi bỏ tất cả nắm
         giấy bạc và cả tấm lòng mình vào chiếc nón lá rách
         vành. Tiếng hát bất thần im bặt giữa nhịp đàn. Dưới
         đôi chân mày đen rậm, ánh mắt ngưởi con gái thoáng
         kinh ngạc, chút bừng vui.  Tôi quay đi nhanh, chạy theo chuyến xe hướng
         về phía trước. Trong bước chân vội như trốn, tôi chợt
         ngoái đầu nhìn lại tự dưng, để bắt gặp lại ánh
         mắt thoáng hiện nụ cười cuối khóe, nhẹ tênh. Ánh mắt
         ấy như xô đẩy tôi vào một khoảng không chất ngất xúc
         cảm bất ngờ... Chuyến phà rời bến, thổi hơi nước trong khứu
         giác tôi rộng mở. Tôi muốn la to lên niềm hạnh phúc vỡ
         bờ. Tôi cũng quên mất, trong người tôi trống rỗng, không còn
         gì cả. Không tiền để ăn trưa, không tiền cho chuyến đò
         về nhà nội. Mà cần gì, trong tôi đang căng đầy hạnh
         phúc; căng đầy mọi nỗi niềm, đầy ấp ánh mắt, bóng
         hình của người con gái hát dạo ở lại bên kia bến phà
         Mỹ Thuận.           *** *** ***      Rất nhiều
         năm, nhiều năm sau nầy, trên chuyến xe về thăm lại quê nhà,
         tôi nói với người lái xe dừng lại dưới chân cầu Mỹ
         Thuận. Thời gian không ngừng lại chờ ai. Cuộc sống không ngừng
         trôi trong mọi kiếp người hữu hạn. Tóc tôi đã bạc
         màu năm tháng. Đất nước, quê hương tôi đang trẻ
         lại từng ngày. Trước mắt tôi là hiện tại. Những gì
         tôi nhớ, tôi muốn tìm là quá khứ, là những vùng ký
         ức chìm sâu. Dọc hai bên đường là những công trình
         đang xây cất, là những tấm bảng quảng cáo đầy màu
         sắc của hôm nay. Thỉnh thoảng có vài tán dù bày bán
         những chai nước uống, bánh trái lẻ loi. Chân cầu Mỹ Thuận
         đã hiện ra phía trước. Chiếc xe chậm lại, người tài
         xế trẻ quay qua tôi:   -Đây là
         điểm gần nhất em có thể dừng xe cho chú.   Đó là một trạm xăng Petrolimex. Bên hông trạm
         xăng, phía ngoài là một quán ăn nhỏ. Chiếc xe dừng và
         tắt máy trước cửa quán. Tất cả lục đục xuống xe, bà
         xã nói:   -Mọi người vào quán
         uống nước, để anh ấy đi chụp vài bức ảnh.   Quá quen tính bốc đồng, cũng như những
         cảm xúc riêng tư, bà xã rất tôn trọng giây phút "một
         mình" của tôi. Đi dọc theo lối cỏ ven đường, tôi đã
         nhìn thấy những sợi cáp treo của cầu Mỹ Thuận. Đã thấy
         xa xa mặt nước sông Tiền nâu sậm và mùi hơi nước thoảng
         trong gió lùa. Cảnh vật không còn chút gì để nhận ra,
         nhưng bầu trời vẫn xanh với từng cụm mây trắng lơ lững như
         ngày nào. Và hương vị, cái hương vị của quê tôi
         cũng không hề thay đổi. Mùi hanh hanh của nắng, mùi ngây ngây
         của hương đồng cỏ nội, mùi hơi nước nồng tênh phả
         vào từ phía ven sông. Mùi vị mà không bất cứ vùng đất
         nước nào tôi đã sống, đã đi qua có được.
         Mùi vị của quê hương tôi! Mỗi bước chân tôi như
         đang đi ngược về quá khứ. Ánh mắt tôi như chợt nhạt
         nhòa những hình bóng của ngày xưa. Những chuyến phà ngang,
         những dòng đời xuôi ngược và... một ánh mắt. Ánh
         mắt của tiếng hát một đời tôi cứ hệ lụy, cưu mang.
         Họ là ai? Người con gái hát dạo ngày đó là ai? Tên
         gì? Hay cũng chỉ là một cái tên trên đường đời
         muôn vạn nẽo. Về đâu, hởi người con gái một lần tôi
         gặp giữa trời miên viễn? Họ còn hay mất, có ai nghĩ đến,
         đoái hoài? Người con gái ngày nào có còn nhớ đến
         tấm lòng, tôi đã bỏ lại trong chiếc nón lá rách vành
         một chuyến qua sông? Buổi chiều rơi nhè nhẹ, như vẳng lại
         đâu đây tiếng hát mơ hồ, hư thực. Tiếng hát của
         ai? Tiếng hát tôi tâm tưởng hay tiếng người con gái hát
         dạo ngày xưa của bến phà Mỹ Thuận:          "... Mưa rừng ơi! Mưa rừng 
          Tìm đâu hởi ơi bóng người
         xưa   Mỗi khi mưa rừng về muộn
         màng   Bóng chiều về dần
         tàn   Lòng thương nhớ nào
         nguôi..."  (3)       3.     
          Muốn hay không, chờ đợi hay dững dưng, thời gian vẫn một
         dòng xuôi chảy. Xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tuần hoàn
         theo qui luật của đất trời. Có bao nhiêu mùa xuân cho một đời
         người? Còn bao nhiêu mùa xuân nữa cho mỗi chúng ta? Từng phút
         giây của hiện tại đang lặng lẽ trôi vào quá khứ, vĩnh
         viễn. Mỗi kiếp người, chừng như là mỗi số phận. Để
         mỗi số phận là cả một định mệnh an bài? Chỉ cầm một
         đưa tay, chỉ cầm một bước chân rẽ lối hay chỉ cầm một
         ánh mặt, là cả khúc quanh của đời người? Tôi không
         tin, nhưng cũng không thể giải thích được những số phận
         quanh mình... Đêm cuối năm lạnh buốt, thoáng chợt thắp lên
         bao ký ức của mùa xuân đang trở về phía bên kia bờ biển
         mặn. Linh thiêng làn khói tỏa, hương thơm tà áo mới trong
         không gian sánh đặc của ngày Tết Nguyên Đán. Thương
         tưởng những bóng hình năm cũ, chào đón những ngày
         mới trước mặt, xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Bùi
         Giáng như nén hương trầm tiễn một năm nữa sẽ qua: 
              "Xin
         chào nhau giữa con đường   "Mùa
         xuân phía trước, miên trường phía sau...          Durham, North Carolina 
          Nguyễn Vĩnh Long 
              (1)   Bến Xuân - Văn
         Cao   (2)   Lạnh Trọn Đêm
         Mưa - Huỳnh Anh   (3)   Mưa
         Rừng - Huỳnh Anh   _____________________________________________________________  
          
      
      . Người Con Gái
         Kinh Cấm         1.                         
         Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một
         bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ
         tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy.
         Chỉ biết từ sau ngày "giải phóng", chính quyền địa
         phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc.
         Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện trở lại gọi tên cũ
         là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai
         màng đến tên gọi của cái xóm nghèo xơ xác đó...
         Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá
         lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp,
         bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo
         lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn
         đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của
         người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều
         đời, đến nay người ta cũng rất thận trọng và ái ngại
         phải nhắc đến. Chính quyền địa phương đã tổ chức
         nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về
         ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm
         cùi nữa, mà là bà con của chúng ta và đã có nhiều
         công trạng với "cách mạng" trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những
         cố gắng, kêu gọi chừng như không thay đổi được gì
         trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng
         lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng
         nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện...              
         Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan, vá lưới.
         Phần lớn là người kinh Cấm, trong đó không ai không biết
         đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới
         của Mây khác với ngườI chung quanh, nhưng chỉ vì  Mây đẹp.
         Mây đẹp nổi tiếng cả vùng, cả huyện. Không những với
         nhan sắc rực rở, mặn mà Mây lại được cả nết hiền
         dịu, đảm đang. Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông
         vãng lượn gian hàng lưới của nàng. Từ căn chòi lụp
         xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn
         cau trầu sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây lấy được
         lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng nầy
         cả những đám đàn bà và dân bán chợ cũng ganh ghét,
         tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của
         Mây, là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi
         bộc phát, tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rủi
         ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng
         ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán
         tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm
         nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong tấm gương soi cô
         độc. Họ, đám đàn ông con trai, chỉ lượn quanh ngắm nghía
         hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông. Chưa ai trong đám họ dừng
         lại, cho nàng buổi hẹn hò hay một lần chạm tay đời con gái.
         Mây là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ nhưng đêm
         đêm, bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân
         phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá
         xa xăm còn người đời thì không ai màng đến tiếng khóc
         của nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn,
         thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì
         nàng là con gái kinh Cấm.   "...
         Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ
         nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đời, ông
         ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy giờ mẹ là cô gái trẻ,
         bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại
         cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán
         lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám
         đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm.
         Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc,
         âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh
         Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử
         đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong
         mãnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ
         cũng theo nếp ông bà giao vú nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất
         sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống
         chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, không ngủ cùng
         giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn mẹ đều sắm
         riêng. Mấy chục năm nay cả em và mẹ không có dấu hiệu nào
         của căn bệnh hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, mẹ đau
         nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng.
         Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng
         lại hoặc bỏ đi. Em đã quen, đã sống với sự xa lánh
         của người đời như một cố nhân. Em sẽ không hờn oán
         hay trách cứ gì anh đâu..! ".     
                            
         Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn.
         Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa
         lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây
         như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt
         nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày.
         Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập
         chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ tình yêu trong tay, như một định
         mệnh thiết tha không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt
         Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử
         thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng
         như tôi dễ tin yêu hơn với cuộc đời không rộng lượng.
         Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nổi sợ hãi và sự khinh miệt
         của con người.                    Thế hệ tôi
         lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh
         tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé
         nhỏ đến đâu cũng được che đậy, dấu kín dưới
         bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống
         chung với gia đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn
         bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của
         Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu
         tháng học tập chính trị và triết học Mác Lê-nin, tôi
         được "công lệnh" về dạy trường trung học phổ thông
         huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được
         ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre, vừa che khỏi đầu. Ba cô
         một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm
         trước ngó sau... Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc
         xe đạp thổ tả của tôi đứt "xênh" nằm đường.
         Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già dạn, phong sương
         hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu
         trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia
         đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài,
         là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài
         lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính
         hải quân. Sau ngày "giải phóng", anh trở về đây tiếp
         tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái
         tên Hai Chài đẻ ra từ đó.               
         Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng
         được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa
         trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy
         kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ
         sáng, Hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng
         vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một
         con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối
         nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ,
         làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nổi anh phải
         nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã
         mạn rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha
         thiết...            
                                       - Vĩnh ơi, hãy
         nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối,
         để một đời luôn sợ hải và mọi người lánh xa. 
                     - Ngoài
         tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và
         nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết.              - Nhưng anh có cả
         cuộc đời trước mặt. Còn em, chỉ có bóng tối của ngày
         mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được
         sự may rủi sau này!  Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi
         nỗi bất hạnh, nỗi bất hạnh biết trước.... Còn anh, tình
         yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn
         trong sự xa lánh, ghê tởm của người chung quanh..!               Mây nói thật
         nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy
         trong chính chiếc bẫy lòng mình, xức trầy bao vết thương tuyệt
         vọng.              
         - Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, cần
         tình yêu của em mà thôi. Tình yêu em là hơi thở trái
         tim anh, mất nó, đất trời nầy chỉ là một khoảng trống mênh
         mông, đầy bóng tối. Mây ơi, đừng để anh phải chết
         mòn trong tuyệt vọng và sống vô nghĩa giữa đám đông. 
                       Tôi nói như lời cầu kinh, vang vọng trong gió
         biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng
         tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây ơi, xin đừng
         lừa dối với chính mình! Vì trong mắt em, tôi đã nhìn
         thấy mọi yêu thương, mọi ước vọng cho đời này nghiệt
         ngã. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn
         thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ
         nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn
         sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn
         mặt Mây và nhìn thật sâu vào mắt nàng. Thật sâu như
         để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hải mà người
         đời đã dành cho Mây. Tuyệt nhiên không. Tôi đã nhìn
         thấy tôi, trong tình yêu có thật của Mây. Và Mây đã
         nhìn thấy chính mình có thật, trong tình yêu của tôi. Tình
         yêu của tôi và Mây đứng ngoài thế giới đáng sợ
         này. Nó không hiện hữu trong tấm gương soi và cả ánh mắt
         người đời! Cuộc đời chỉ là huyễn hoặc nếu không
         có tình yêu chúng ta, phải không em?   Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện
         lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là
         tương lai hay chỉ là một định mệnh đợi chờ, tôi không
         màng biết tới. Vì ở đó có Mây, vì ở đó có
         tôi.      - Mây, đây sẽ là
         tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai
         là thời điểm đã định, anh cùng gia đình Hai Chài
         rời bến... Em hãy treo ngọn đèn bão trước hiên nhà vào
         lúc nửa đêm và đợi ở cuối dòng kinh Cấm. Thấy ngọn
         đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu
         không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến
         hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không
         còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão
         đêm nay và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm.                 Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy
         rừng mắm. Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập,
         nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt
         đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền
         hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được
         xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi
         môi nàng hé mở.  Mây như lòng biển đêm bất chợt
         chuyển mình trước cơn giông. Môi nàng bám chặc môi tôi
         tê dại, không rời... Bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn,
         dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá
         chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những
         sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều
         vun vút gió bốc cao, thật cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế.
         Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng
         hạnh phúc và tuyệt vọng...    2. 
          Quá nửa khuya, đêm tối
         đen không thấy rõ mặt người. Dọc bờ kinh Cấm, những dãy
         nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp.
         Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà Mây.  
             3.                               Giọng kể đều đặn của
         tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ
         sáng. Bên cạnh, đứa con gái điếm người Phi-líp-pin giương
         đôi mắt đen tròn nhìn tôi.                
         - Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông ?                 - Vào đêm không
         trăng, cuối tháng Mười năm 1980.                
         - Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không ? 
                       
         - Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn ba mươi năm
         nay.                
         - Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết. 
                       
         - Phải. Đến đó là hết.                Đứa con gái thở dài nhè
         nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi
         để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi
         dậy, nói nhỏ:                
         - Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi. 
                       
         - Nhưng... em chưa làm được gì cho ông ! Vã lại, ông đã
         trả tiền "bao" em hết cả đêm nay kia mà.                 - Tôi biết.
         Cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô
         sao ?                
         - Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật..?          
            Đứa con gái nắm tay tôi giữ
         lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật
         giống như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi
         xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh
         xinh đẹp của Mây hơn ba mươi năm về trước... Tôi hôn
         vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương
         của cô gái.                
         - Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm
         mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn,
         tận cùng khoái cảm !                
         - Không. Tôi không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc
         cô nhiều may mắn.                
         - Cám ơn ông và chào tạm biệt.                          
         Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu
         lần khác, tôi nói dối với đứa con gái điếm người
         Phi. Vài năm trước, tôi đã trở về kinh Cấm để mong tìm
         lại Mây. Tất cả  không còn nữa. Không còn ai nhắc đến
         người con gái kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống
         hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do vài người hàng xóm
         kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện
         nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.
                4.   ... Đêm
         đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người
         đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của
         con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn
         năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong
         bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ
         là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của
         Mây, như chính của bà ngày xưa... Bà nhớ rõ như mới
         hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu
         tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp
         thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã
         tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc
         đời nầy. Thời gian với họ, chỉ là sự tồn tại tạm bợ
         của xác thân. Với tình yêu, họ đã tìm thấy được
         sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà
         bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình
         vô tướng... Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là
         đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai
         cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là
         tất cả  đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà
         mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân
         phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ,
         độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn
         dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa
         ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng,
         giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề
         và ghê gớm nhất đang trừng phạt tâm hồn bà. Làm sao bà
         quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ
         sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ
         vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh
         phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó
         là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng giòng nước mắt khô
         lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái
         chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ
         còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn,
         mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương
         trời biển:                     - Mây, con
         hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó
         không thuộc về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột
         của mẹ.                  Sau ngày chôn cất mẹ,
         người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu
         nữa.  Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng
         cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như
         mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương
         vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển
         hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót
         xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.  
                        
         Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn
         nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không
         trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh Cấm đều
         treo ngọn đèn bão trước hiên nhà.  NGUYỄN VĨNH LONG    ___________________________________________________________________________  
                               
                                   
  
          
      
      Hương trầm cuối
         năm       Thắp nén hương
         xin đưa tiễn thời gian   Đêm cuối
         năm mịt mù trầm tích cũ   Làn
         khói tỏa thấp dần theo dấu trũng   Mặt
         đời cong một vòng kín vội vàng        Nâng ly rượu sao đắng
         tình xứ lạ   Cũng gật gù mừng
         năm nữa đã qua   Cứ như thể
         nhìn gương soi tiều tụy   Mới
         thấy đời nhiều dáng vẻ kiêu xa!       Đón năm mới mùi
         hương trầm khói đọng   Bịn
         rịn đưa người khách lạ sang sông   Dòng luân hồi con đò nhỏ hư không   Dấu tiền kiếp trên môi đời khép cạn 
              Đêm
         cuối năm chợt như chừng quên lãng   Khói hương trầm một nén thắp trăm năm   Bông tuyết trắng lạc về đâu bóng nhạn 
          Mắt ơ hờ thương tưởng những mê
         cung..!   
 
  Đêm tuyết
         rơi,   chợt
         nghe câu vọng cổ     
          Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng
         cổ:  "... Ai đang đi trên đường
         đê,   "tai lắng nghe muôn câu
         hò đê mê   "Vô đây
         em, dù trời khuya anh vẫn đưa em về   
          "Giữa trưa buồn nghe não nuột lòng
         ơi... (*)  Câu hát cũ chạnh lòng
         đêm xứ lạnh   Gió ngoài hiên
         rả rúc những vô cùng   Thôi
         đã lỡ nhịp xề xang cống líu   
          Ai đưa em về chiều khép hoàng hôn...  Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng cổ: 
          "... Qua biên san kìa ai tiễn rượu vừa
         tàn   "Vui ca vang rồi đi tiến binh
         ngoài ngàn     "Người đi ngoài vạn lý quan san  "Người mong chồng còn đứng muôn năm...
         (*)   Tiếng hát ai buồn như chuyến
         phà ngang   Con nước chảy thiết tha
         đời khách lữ     Chiếc nón lá che nghiêng khuôn mặt nửa  Bóng thời gian, phân nửa phấn hương
         tàn!    Đêm tuyết rơi, chợt
         nghe câu vọng cổ:   Hò cống xang,
         cống xế líu xang xề...      
          Nguyễn Vĩnh Long   (*) Sầu Vương Ý Nhạc - Viễn Châu     
 
 
   
      
      Cà Phê Lá Me                     Tôi bắt
         đầu tập uống cà phê và hút thuốc vào cuối năm lớp
         đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Thật lòng mà nói, lúc đó
         tôi chẳng thấy ngon lành gì, vừa đắng lại vừa khó thở.
         Nhưng theo đám bạn, không hút thuốc không uống cà phê là
         chưa thành "người lớn", chưa đủ điều kiện qua cổng
         trường con gái trồng cây si. Cà phê thì tôi uống cà phê
         sữa, cà phê ít sữa nhiều. Thuốc thì tôi thử qua mấy loại
         của đám bạn rủ rê như Ruby, Bastos... khét và nặng chịu
         không nổi. Cuối cùng đành phải chọn loại có đầu lọc,
         thích nhất là Salem, có vị cay the the củạ bạc hà.   Thế mà dần dà trở thành thói
         quen, thành "nghiện". Loại thuốc lá Salem có đầu lọc rất
         được ưa chuộng và thông dụng. Thông dụng đến nổi
         không biết bao giờ, đã được "phụ đề" theo tiếng
         Việt, đọc xuôi và đọc ngược: Sao Anh Làm Em Mệt
         - Mà Em Làm Anh Sướng!
         Điều đáng nói là, những người con gái "tôi yêu
         và yêu tôi", đều là những cao thủ cà phê thứ thiệt:
         phin đen đậm đặc, ít đường! Nên mỗi lần đi cà
         phê với "nàng", nhìn tôi thật tội nghiệp. Vậy mà
         đã thành bao chuyện kể, bao kỷ niệm mai này...       Cà
         phê Năm Dưỡng   Lên Sài-gòn
         tôi ở trọ căn gác trong hẽm chùa Phước Hòa, phía sau trường
         tiểu học Phan Đình Phùng, do một người quen dưới quê giới
         thiệu. Năm đầu tôi ăn cơm tháng của gánh cơm dì Ba,
         bên hông quán cà phê Năm Dưỡng. Đây là quán cà
         phê rất nổi tiếng của nhiều giới của Sài-gòn lúc bấy
         giờ, từ thành phần công nhân lao động đến quân nhân
         công chức và nhất là sinh viên học sinh. Bình dân, cà phê
         ngon hết cở lại giá cả rất "mềm", nên khách sắp hàng,
         ngồi chen chúc, la liệt ra tới mặt đường. Ly cà phê đen đặc
         sệt với một cây tăm có miếng "bơ" trên đầu, quấy
         lên sóng sánh và thơm phức, không thể cầm lòng được.
         Quán Năm Dưỡng trong hẽm đầu đường Nguyễn Thiện Thuật
         và Hồng Thập Tự, nối liền với đường Lý Thái Tổ.
         Từ nhà trọ của tôi, đi bộ khoảng 10 phút là tới, rất
         tiện lợi, vừa ăn cơm vừa uống cà phê luôn thể. Thích
         nhất là tờ mờ 4, 5 giờ sáng, thả bộ ra quán nhâm nhi một
         cà phê sữa nóng, bập bẹ vài điếu thuốc và lắng
         nghe:    "Người ơi, khi cố quên
         là khi lòng nhớ thêm   Dòng
         đời là chuỗi tiếc nhớ   Mơ
         vui là lúc ngàn đắng cay... xé tâm hồn"  (Sầu Lẻ
         Bóng - Anh Bằng)                              
             thì cuộc đời "tựa những
         chiêm bao". Lại có lời đồn cà phê ở đây, chủ
         quán có cho chút chất ma-túy gây nghiện. Thực hư thế nào
         không biết, nhưng có điều cà phê Năm Dưỡng vẫn mãi
         mãi là bao "chuyện kể" của một Sài-gòn xưa, một thời
         vang bóng của tuổi trẻ bọn tôi. Nhưng điều làm tôi thích
         nhất là ở Năm Dưỡng, trên bàn lúc nào cũng để
         sẵn đường và sữa đặc, tha hồ tự làm một ly cà
         phê theo ý mà không cần phải gọi xin thêm. Nhất là đối
         với tôi, hạng uống cà phê ít sữa nhiều! Và đặc biệt
         là quán cà phê Năm Dưỡng hầu hết khách hàng đều
         là phái nam. Hiếm hoi lắm mới bắt gặp một "bóng hồng"
         vào quán. Thêm nữa quán lúc nào cũng ồn ào, nhạc không
         có gì hấp dẫn và uống cà phê như "chạy giặc",
         vì phải nhường bàn cho người khác đang chờ!   Cà phê Cheo Leo   Nằm vạ ở cà phê Năm Dưỡng được nửa
         năm thì tôi quen với Duy, cùng khoa quê ở Trà Vinh. Cùng tuổi
         nhưng Duy từng trải và thổ địa Sài-gòn hơn tôi rất
         nhiều. Hắn không mặn với vị cà phê và không khí của
         quán Năm Dưỡng. Dù giá vừa túi tiền sinh viên nhưng không
         được ngồi lâu, ồn ào và nhất là nhạc thì quá
         đổi nhạt nhẽo, lê thê. Duy rủ rê tôi đến một quán
         cà phê khác nổi tiếng cũng không kém, gần đó: quán
         cà phê Cheo Leo. Nằm sâu trong con hẽm cùng trên đường Nguyễn
         Thiện Thuật gần góc Phan Đình Phùng, quán cà phê Cheo Leo
         đẹp, thanh lịch và hầu như dành cho giới nghệ sĩ, công chức,
         sinh viên học sinh. Cà phê đặc biệt, loại "cứt chồn"
         từ Ban Mê Thuộc được mua về, rang và pha chế tại chỗ. Cà
         phê được pha bằng vợt lẫn phin, nhưng tôi thích pha bằng vợt
         hơn. Độ nóng vừa tới, nguyên vẹn còn phin thì đậm
         đặc thật nhưng đôi lúc phải cho vào thêm nước sôi
         mới đủ độ nóng. Nhạc chọn lọc, không khí phóng khoáng,
         lãng mạng và nhất là hai cô con gái xinh đẹp của ông
         chủ quán. Có lẽ vì những điều này nên một ly cà
         phê Cheo Leo vượt ngoài túi tiên của bọn sinh viên học sinh nghèo,
         ở trọ xa nhà. Chỉ lâu lâu một chầu, nhịn ăn bóp bụng,
         mới tới Cheo Leo một lần để thưởng thức cà phê và
         hai người đẹp. Cô chị đẹp và ăn mặc sexy hơn cô
         em, nên lần nào nàng ra tính tiền là khoản tiền "bo" cũng
         cháy túi biết bao cây si (trong đó hổng chừng có cả tôi).
         Từ ngày theo Duy chuyển qua quán cà phê Cheo Leo, tôi luôn hụt trước
         thiếu sau, biết nói dối để mượn tiền bà chủ nhà trọ.
         Hình như là cô chị tên Nguyệt và cô em tên Cầm (?). Tôi
         thích nét đẹp và dáng dấp dịu hiền của Cầm nhiều
         hơn.    Mỗi lần ghé quán, tôi
         làm bộ để chờ đợi Cầm ra mới kêu cà phê và
         cả lúc tính tiền. Đến nổi những ngày đến quán sau
         này, Cầm không cần phải đến hỏi mà mang ra cho tôi ly cà
         phê sữa nóng, cà phê ít sữa nhiều!  Cũng may tình trạng
         "mê cà phê đến thiếu hụt" không kéo dài được
         bao lâu thì tôi quen với N.T. Lúc đó tôi đang "tập tành"
         viết kịch cho đài truyền hình Đắc-Lộ. Đây là đài
         truyền hình nhỏ, được sự tài trợ của UNESCO nhằm bảo
         tồn và phát huy những phong tục tập quán giá trị cổ truyền
         của quê hương, đất nước. Đang theo học khoa sân khấu kịch
         nghệ trường Quốc Gia Âm Nhạc, N.T làm thêm và có vài
         vai diễn cho ban kịch của đài truyền hình Đắc-Lộ. Thường
         khi viết xong một kịch bản, tôi nhờ N.T đọc lại và đánh
         máy. Những kịch bản được chọn và phát hình, tôi
         được trả một món tiền nhuận bút khá lớn, đủ
         để bao bạn bè và tiêu xài cả tháng.  Một lần nhận
         xong, tôi rủ N.T đi ăn cơm thố Nam Sơn và cà phê quán Cheo
         Leo:   "... Thôi thì thôi đừng
         ngại mưa mau   "Đưa nhau ra tới
         bên cầu nước xuôi   "Sông
         này đây chảy một giòng thôi   "Mây đầu sông thẵm tóc người cuối sông... (1) 
          Tiếng hát tha thiết, vời vợi của Thái
         Thanh vang lên như xô đẩy cả không gian trong quán nhỏ chìm vào
         tận cùng của nỗi nhớ. Tôi và N.T chọn chiếc bàn gần cuối
         dãy, mang theo nhiều ánh mắt nhìn của người chung quanh. Với khuôn
         mặt trái soan đẹp, chiếc cổ thon cao với mái tóc dài, N.T luôn
         thu hút và làm chủ đám đông khi hiện diện. Không phải
         đợi lâu, Cầm bước ra nhìn N.T chút ngập ngừng và hỏi
         uống gì. "Ly cà phê đen, ít đường, để đá
         riêng", nàng gọi sành sỏi, không cần nghĩ ngợi. Cầm ghi
         nhận, quay sang tôi cười cười, rồi đi vào trong. Người mang
         ra không phải là Cầm mà Nguyệt, tóc búi cao với chiếc váy
         ngắn, thật ngắn nếu cúi xuống thấp có thể nhìn thấy trọn
         vẹn cả đôi chân dài nõn nà. "Anh đến đây thường
         xuyên lắm sao? Quán cà phê nghe nhạc hay cà phê ngắm đùi
         trần?", N.T cau mày. Chưa kịp phản ứng, nàng đã kéo ghế
         đứng lên: " Mình đến quán khác, đi anh!". Tôi ngơ
         ngác, chưa hiểu gì, vội trả tiền (vẫn còn tiếc ly cà
         phê sữa nóng). "Mình đi đâu đây em?". "Cà phê
         ngon nhất Sài-gòn, cà phê lá me! Em sẽ chỉ đường cho anh". 
          Cà phê lá me 
          Đó là dãy cà phê vỉa hè
         nằm dọc theo đường Nguyễn Du, dưới những hàng me rợp bóng.
         Từ đoạn phía trước tòa án quận 3 kéo dài qua khỏi
         văn phòng của bà luật sư Ngô Bá Thành, gần đến khúc
         quẹo vào vườn Tao Đàn. Hầu hết khách hàng là giáo
         chức, giới văn nghệ sĩ, nhà báo và sinh viên học sinh. Cà
         phê đủ loại có vợt lẫn phin, gía cả rất ư là bình
         dân, vỉa hè, vừa vặn túi tiền của mọi người. Đặc
         điểm nổi bật của cà phê lá me là bạn có thể ngồi
         "ngâm" một ly cà phê, vài ba bình trà cũng không phiền
         hà ai. Bàn ghế gỗ, nhỏ thấp và có thể tự phục vụ.
         Buổi trưa trời Sài-gòn nóng như lửa đốt, nhưng nhờ
         những tán me cổ thụ dọc bên đường, khách cũng thư thả
         nhâm nhi ly cà phê "đứng gió". Cả mấy cô thư ký
         làm trong tòa án quận cũng lấy giờ nghỉ trưa cùng tách
         cà phê vội. Không ai để ý ai, chỉ tụm ba tụm bốn nhấp
         từng ngụm cà phê và bàn thảo chuyện bên lề. Hòa quyện
         vào tiếng cười nói là từng dòng xe cộ chạy rong ruổi
         trên đường. Tất cả tạo thành không gian âm nhạc của
         dãy quán cà phê lá me chen lẫn giữa đời. N.T chọn chiếc
         bàn sát bờ tường chỉ có hai ghế ngồi gỗ thấp. Người
         chạy bàn là những sinh viên làm thêm, cũng vừa là khách.
         Ly cà phê đá ít đường cho nàng và cà phê sữa
         đá, nhiều sữa cho tôi. Cà phê thơm ngào ngạt và rất
         ngon. Chỉ cần vài ngụm là tất cả giác quan chừng như bùng
         vỡ, lâng lâng. Ngồi dựa vào tường, nhâm nhi từng ngụm, nhìn
         N.T hay nhìn bâng quơ cuộc sống đang từng dòng cuốn quanh, thật
         thú vị, thật "đã". Thỉnh thoảng vài cơn gió nhẹ
         về, thổi lan man từng đợt lá me bay rụng phủ mặt bàn, mặt
         đường và rơi lạc lõng trên tóc người yêu dấu.
         Khuôn mặt N.T đẹp lại càng đẹp thêm. Tôi có thể nhìn
         rõ từng sợi chân mày vén khéo, vắt ngang dài khỏi đuôi
         mắt, từng sợi lông tơ trên hai má của nàng. "Làm gì
         nhìn em dữ dzậy? Anh uống thử chút cà phê của em đi", vừa
         nói N.T vừa đổi vị trí hai ly cà phê. "Đắng quá mà
         em uống được!", tôi nhăn mặt. "Anh uống cà phê như
         người ta ăn chè cà phê", nàng cười, chế nhạo. "Uống
         ly cà phê của em là tối hết ngủ luôn". "Hết ngủ thì
         nhớ em". "Nhớ em, anh sợ mấy anh chàng phi công không quân dội
         bom nát căn gác trọ của anh..! Còn em. Không ngủ được thì
         em làm gì?". "Không ngủ được, thì em nhớ người...
         dưng. Hổng thèm nhớ anh đâu mà sợ!".                    Cà phê vỉa hè là
         cả nét văn hóa của người Sài-gòn. Cà phê lá me
         là cả một "truyền thuyết" thời sinh viên, thời kỳ: "Yêu
         nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài gắn bó đôi lời
         - Ta quen nhau một ngày, thương nhau trọn đời, giữ cho lâu dài
         (Ngăn Cách - Y Vân)", của tuổi tôi vừa lớn. Những tháng
         ngày mơ ước, những bài thơ tình thấm đẫm hương
         môi, những đợi chờ ngóng cổ, những chuyện đại sự "lấp
         biển vá trời"... bên ly cà phê có lá me bay bay vướng
         mờ kỷ niệm. Tuổi trẻ của Sài-gòn, tuổi trẻ của thời
         chiến tranh cùng khắp, tuổi trẻ của những khúc tình ca: 
          "Theo em xuống phố trưa nay đang còn
         chất ngất cơn say    "Theo em bước
         xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau... (2)                                                              
                Và
         cả những âm thanh từ quán bar đèn màu khói tỏa phía
         cuối một góc đường:    "As
         long as I remember   "The rain's been comin' down 
          "Clouds of mystery pourin'   "Confusion on the ground   "Good
         men through the ages   "Tryin' to find the sun 
          "And I wonder, still I wonder   "Who'll stop the rain (3)     
          Cà phê lá me trở thành nơi cà
         phê "xé lẻ" của tôi và N.T. Dần dà tôi đã tập
         uống được phân nửa ly cà phê đen đắng và N.T thì
         "ăn chè" phần cà phê sữa của tôi. Trong đắng có
         ngọt và trong ngọt có đắng. Bên ly cà phê lá me mỗi trưa,
         mỗi chiều có nhau hay chỉ một mình, tôi luôn nhìn thấy cuộc
         sống vây quanh giữa lá bụi đường. Cái vỉa hè như khung
         trời mở rộng, hơi thở tình yêu tự tại khoảng không. Có
         lần N.T đưa tôi tới một quán cà phê cửa kiếng máy
         lạnh nổi tiếng Sài-gòn với nhóm văn nghệ "khá giả"
         của nàng: quán cà phê Cái Chùa (La Pagode), góc đường
         Tự Do và Lê Thánh Tôn. Khách toàn là giai nhân tài tử,
         chính khách tên tuổi, văn nghệ sĩ đi bằng xe hơi... và giá
         ly cà phê là cả tuần nhịn đói của bọn sinh viên ở
         trọ chúng tôi. Không khí mát lạnh giữa Sài-gòn oi bức,
         như nhốt kín mọi tiếng động, mọi hơi thở của cuộc sống
         ngoài kia. Trên đường về: "Lần đầu, đây cũng là
         lần cuối. Anh sẽ chết ngợp vì ly cà phê thiếu khí trời",
         tôi nói với N.T. "Nhìn anh, em biết. Sẽ không có lần nữa,
         anh đừng giận em". "Không đâu. Đó là mặt khác,
         có thật của đời sống thôi!". -- Sau này với T.H cũng vậy,
         cao thủ cà phê, phin đen đậm đặc, ít đường và
         không bao giờ uống có đá. Tính tình mạnh mẽ, bốc đồng
         T.H thích dầm mưa Sài-gòn để... uống cà phê. Khi thì
         ngồi co ro dưới tán me và cơn mưa tạt ướt cả vai lưng
         áo hai đứa. Khi thì chạy tuốt lên quán cà phê Hương
         gần nhà thờ Tân Định ướt mèm tóc tai quần áo, chỉ
         để uống ly cà phê, chỉ để ngồi lặng im nghe hơi ấm trong
         tay và nhìn những sợi mưa giăng giăng phủ mặt đời: "...
         Mưa có buồn bằng đôi mắt em - Tóc em từng sợi nhỏ - Rớt
         xuống đời làm sóng lênh đênh..." (Như Cánh Vạt
         Bay - Trịnh Công Sơn).   Những năm tháng
         bên ly cà phê lá me vỉa hè, tôi học được mọi sự
         sống trên cuộc đời vô thường này đều cần có tự
         do và khí trời. Hạnh phúc, tình yêu cũng không ngoại lệ,
         cần được nuôi dưỡng bởi bầu trời cao rộng của tự
         do. Vết cắn của N.T có sâu, có rướm máu bao nhiêu, môi
         tôi cũng kéo lớp da non theo ngày tháng... Tất cả chỉ còn lại
         những nếp nhăn tận lòng của kỷ niệm, của dĩ vãng lúc
         chìm khuất lúc chập chùng trong giấc mơ xa. Mất mát đôi
         lúc không phải là những khổ đau. "Ai đưa con sáo sang sông
         - Để cho con sáo sổ lồng bay xa", xót xa trách móc, phải chăng
         chỉ là sự ước lệ? Hãy để con sáo bay xa, bay cao trong khoảng
         trời rộng bao la có thể. N.T lấy chồng khi mới vừa hai mươi, chưa
         kịp tốt nghiệp trường kịch nghệ. Chồng nàng không phải là
         mấy anh phi công không quân hằng đeo đuổi, mà một viên chức
         làm trong bộ ngoại giao. Cuối năm 1974, N.T theo chồng sang Tân Gia Ba (Singapore),
         bỏ hẳn cuộc chơi.       *** *** ***     
                      Gần
         đây trong nước với hàng loạt quán cà phê khang trang, sang trọng
         mở ra cùng khắp và phát động chiến dịch "dọn dẹp"
         hàng quán vỉa hè, nhất là ở Sài-gòn. Đọc tin và
         xem nhiều Vlog của các bạn trong nước, tôi buồn, thật buồn và
         nuối tiếc dưng không. Biết rằng thay đổi là quy luật tất
         yếu của thời đại và vạn vật, nhưng sao lại khó cầm
         lòng. Có nhiều nỗi khổ đau con người mong không phải gặp,
         phải đối diện. Những nỗi khổ đau lấp chìm mọi ước
         mơ, mọi nhân phẩm của con người. Nhưng cũng có những niềm
         đau thương nâng cao tâm hồn và mơ ước của chúng ta đến
         tầm cao khác. Nỗi đau thương trong tình yêu là một! Tất
         cả sẽ thoáng qua, sẽ cát bụi đời này. Đến nay, mấy
         chục năm sau, rong ruổi qua bao biển rộng sông dài, tôi vẫn chưa
         quen uống ly cà phê đen ít đường. Tôi vẫn một đời,
         sống với ly cà phê sữa nóng, nhiều sữa ít cà phê. Tôi
         vẫn sống với bao nhiêu cuộc đời đổi mới, sao lòng vẫn
         cũ kỷ, rêu phong. Vẫn nhiều lúc đang ngồi bên ly cà phê
         lá me với N.T, với T.H... nhìn gió cuốn nghiêng nghiêng ngàn vạn
         chiếc lá me bay; rồi tất cả chợt lùi dần, lùi sâu vào
         khoảng không hun hút bụi đời:                
            "Giờ đã xa nhau, những kỷ
         niệm xin vẫy chào   "Vùng
         lá me bay, năm tháng dài thương nhớ ai   "Em cố quên đi, thương nhớ làm gì 
          "Tình mình như lá me rơi, trên
         giòng xuôi biển khơi... (4)      
          Durham, North Carolina   Nguyễn Vĩnh Long     (1)Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng - Phạm Duy, thơ
         Phạm Thiên Thư   https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/dua-em-tim-dong-hoa-vang-thai-thanh.ZYILcQ4i5r.html   (2)Vũng Lầy Của Chúng Ta - Lê Uyên
         Phương   https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-lay-cua-chung-ta-le-uyen-phuong.YZBXzhZnnDXy.html   (3) Who'll Stop the Rain - Creedence Clearwater Revial  
          https://www.youtube.com/watch?v=lIPan-rEQJA   (4) Vùng Lá Me Bay - Anh Việt Thanh 
          https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-la-me-bay-nhu-quynh.1vOXeobFy4lf.html   _________________________________________________________________    
      
                                           
                   
 
    1.                   Tôi
         bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng
         về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào
         tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình
         vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về
         chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông,
         tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm
         sự có mặt của một số khách "nồng cốt", để bắt
         đầu chương trình. Mà bao giờ cũng vậy, các vị khách
         "nồng cốt" cho các buổi sinh hoạt thính phòng nầy luôn
         luôn xữ dụng giờ "dây thun" phơi nhiều nắng. Hơn nữa,
         Khánh sắp tôi hát mở đầu chương trình, nên tôi sẽ
         có dịp chuồn êm sau phần trình diễn... Từng động tác nhỏ,
         mỗi ánh mắt vô tình của tôi cũng đã và đang là
         đề tài thì thào, bàn tán của đám người chung quanh.
         Tôi nhột nhạt đến khó chịu vì những cặp mắt tà tâm
         của đám đàn ông cùng với những cái nhìn soi mói
         của mấy bà trên khuôn mặt đẹp của tôi. Tất cả dù
         quá quen thuộc, đến không còn cảm giác, nhưng lần nào
         tôi cũng thấy nhân phẩm bị xúc phạm nặng nề. Ly nước
         lạnh xoay tròn trên tay tôi, chừng như đang bao quanh với những lờI
         tán tụng của ngườI đàn ông nào đó trong bàn. Không
         hiểu sao, những người đàn ông trí thức, lịch sự và
         sang trọng trước mặt không đem lại một mảy may nào chú ý
         của tôi. Họ trao đổi, bàn luận những vấn đề chính
         trị, xã hội và nghề nghiệp trọng đại thật say sưa, rộn
         rã cố chừng khoe khoang sự thành công để chinh phục sự chú
         ý của tôi. Thật ra đối với tôi, tất cả điều đó
         thật buồn chán và nhạt nhẽo. Nhưng họ lại là khách của
         Khánh, khán giả "chọn lọc" với món tiền thù lao béo
         bở cho tiếng hát của tôi. Vậy thôi. Những buổi trình diễn
         loại thính phòng nầy như một phong trào thời thượng, với
         đám người thưởng thức nghệ thuật thì ít mà để
         phô trương, bộ điệu và kết thành phe nhóm, bè phái
         đả kích lẫn nhau thì nhiều. Không như những lần đi lưu
         diễn những tiểu bang xa, những tên thành phố thật lạ, khán giả
         đó mới thật sự là của tôi, vì tôi và cho riêng
         tôi. Cũng vậy, ở đó tôi hát bằng tất cả rung cảm của
         trái tim và bát ngát của tấm lòng; ở đó, tôi thấy
         tài năng và nhan sắc của mình hiễn lộng trong cùng khắp ánh
         mắt của tình người và sự ngưỡng mộ của đồng bào
         tôi. Và cũng chính nơi đó, tôi đã tìm thấy tôi
         như cơn bão nổi thiết tha từ một tiền kiếp đợi chờ,
         mơ ước. Không như chung quanh đây, tiếng hát tôi như một
         loại thời trang, một thứ hàng trang sức sau đêm dạ vũ. Những
         người đàn ông chỉ là đám thiêu thân lao vào nhan
         sắc tôi như lao vào đám lửa.  Tự dưng tôi thèm khát
         sự hờ hững, dững dưng để được một lần tôi thổn
         thức cho sự lạc lõng cùng tận của chính mình. Không có
         sự tuyệt vọng nào ghê gớm hơn niềm cô đơn trong giữa
         đám đông, giữa những thói quen của đời sống..! 
                       
          Khánh tách đám đông, tiến về
         phía tôi, gật đầu ra dấu. Tôi khẻ mĩm cười, sẵn sàng.
         Tôi sẵn sàng cho Khánh, nhưng cũng để sẵn sàng thoát ra
         khỏi đám đông quen thuộc, chán mắt nầy... Không hiểu sao,
         tôi với Khánh, cho đến bây giờ vẫn sống chung. Anh vẫn sống
         sau chiếc mặt mạ giả dối và bay lượn trong vùng trời tham vọng
         riêng tư. Còn tôi cứ hát ca với nhan sắc rực rỡ phủ kín
         trong chiếc vỏ kén cô đơn đời mình. Chúng tôi vẫn
         đi bên cạnh cuộc đời nhau như hai đường rây nằm song song
         đến vô cùng, cần thiết cho chuyến tàu định mệnh? Tôi
         vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng
         đã hơn bốn năm rồi, hững hờ, phẳng lặng. Khánh càng
         ngày càng trở thành một tay kinh doanh văn nghệ nổi tiếng. Anh thầu
         tổ chức hầu hết các buổi đại nhạc hội lớn nhỏ khắp
         các tiểu bang, thành phố có đông đảo ngườI Việt cư
         ngụ. Ngay cả những kỳ lễ lộc, các buổi văn nghệ bỏ túi
         của các hội đoàn, những buổi dạ vũ tư nhân trong các
         giới đầu tư xứ nầy. Tính nghệ sĩ của Khánh mất dần.
         Anh trở nên cao ngạo và đầy những tham vọng xã hộI chung quanh...
         Căn nhà rộng lớn thênh thang, chiếc xe đắc tiền và những
         bộ quần áo lộng lẫy như chiếc lồng cao sang nhốt kín đời
         con chim sơn ca bé nhỏ. Tiếng chim hót cho người mua vui hay chính tiếng
         lòng tôi cô đơn xa vắng, não nùng. Tôi có trọn vẹn
         bộ mặt vật chất rực rỡ bên ngoài, nhưng trống rỗng và
         thật nghèo nàn hạnh phúc bên trong.               Tiếng vỗ tay vang dội căn phòng,
         sau lời giới thiệu hoa mỹ thường lệ của Khánh. Tôi đứng
         dậy, nụ cười tươi tắn trên môi, lướt qua giữa đám
         đông và bước lên bục sân khấu. Dàn nhạc dạo lên
         bài hát ưa chuộng cho tiếng hát của tôi. Ánh đèn vây
         quanh chỗ tôi đứng chuyển sang màu hồng nhạt dìu dịu. Đám
         đông và căn phòng chợt biến mất. Trong tôi, chỉ còn lại
         là một đồi cỏ xanh mượt trong ráng chiều và gió rừng
         lồng lộng. Tôi nhắm mắt tận hưởng những cảm giác tuyệt
         vời, cất cao tiếng hát của lòng mình tha thiết.                
               "Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về, nhớ
         chân giang hồ...            
           "Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia
         bến bờ,               
         "đời người như gió qua...    
                   "Thôi về đi, đường trần đâu xá
         gì, tóc xanh mấy mùa...      
                 "Có nhiều khi, từ vườn khuya bước về, bàn
         chân ai rất nhẹ,          
             "tựa hồn như những năm xưa...  (1)       2.     
                        Hồ
         nước nằm phía đông nam của thành phố, nửa thiên nhiên
         nửa nhân tạo. Một bên bờ xây gạch, lót đá và cây
         trồng thẳng hàng thẳng lối như một công viên. Bên kia là
         bãi đầm lầy, chạy dài theo phía sau rừng thông bạt ngàn,
         xanh mướt quanh năm. Dựa lưng phía trên là đập nước cao
         ngất, tạo thành mặt thác đỗ ầm ĩ ngày đêm một
         góc bờ hồ. Nhất là những đêm trăng, xa thành phố rực
         đèn, mặt hồ trắng bạc, óng ả dãy ngân hà long lanh. Tình
         cờ trên đường về một mình, tôi khám phá ra vẻ đẹp
         tuyệt vời của hồ nước đêm trăng. Thế là thỉnh thoảng
         những hôm có trăng trong tháng, tôi lái xe đến đây, để
         lặng lẽ đắm chìm với khoảng thiên nhiên của riêng mình.
         Những giây phút nầy, tôi mới thật sự đối diện với
         nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc. Chừng như mọi nỗi mơ
         ước của chúng ta không mất dần theo năm tháng, mà chết
         dần và biến dạng theo nhu cầu của bản năng... Khánh đã
         mất tôi, trong tình yêu và cả ngoài đời sống. Tôi vẫn
         đứng yên, nhưng Khánh thì vùng vẫy. Con người, một sinh
         vật thật trí tuệ nhưng lại sống và bị điều khiển bởi
         bản năng. Khánh dãy dụa không phải vì yêu tôi, mà sự
         thương tổn tự ái. Chưa bao giờ trong đời Khánh 'bị' người
         đàn bà quay lưng. Chỉ có anh quay lưng với họ, ruồng rẫy
         trong nỗi thương hại bề trên. Dễ hiểu, vì Khánh có tất
         cả những ước mơ của phụ nữ. Khánh đẹp trai, lại là
         một nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng trong giới sinh hoạt nghệ thuật.
         Chừng ấy thôi đâu, Khánh còn thành công cả mặt thương
         mại, giàu có vô cùng. Chung quanh anh là bóng sắc giai nhân, mắt
         đầy ngưỡng mộ...                
         Tôi đi dọc theo bờ hồ về phía đập nước. Trăng đêm
         nay sáng lạ lùng, bàng bạc. Tiếng nước đổ ào ạt,
         tạt vào những bờ đá thấp đâu đó vọng về. Chừng
         như tôi nghe cả tiếng lòng mình tan vỡ. Thái độ lạnh nhạt
         của tôi như ngòi lửa châm vào niềm kiêu hảnh của Khánh.
         Có những đêm, Khánh đem hết khả năng đàn ông trong
         tình dục để chinh phục, kiềm chế mọi xúc cảm của tôi.
         Bao giờ cũng vậy, trên giường ngủ, Khánh luôn đưa tôi
         tới những ngất ngây của xác thịt, cực kỳ của khoái cảm.
         Nhưng tất cả chỉ thoáng chốc, qua nhanh, không vang động hoặc níu
         kéo được gì trong tâm não đã lụy tàn của tôi.
                          
         - Em còn muốn gì hơn nửa ở anh. Nhà cửa, danh vọng, tiền bạc
         và cả đời sống vợ chồng, anh cung cấp đầy đủ đến
         dư thừa. Anh không hiểu, thật sự không hiểu..?                  - Khánh
         ơi, anh đã đem lại cho em tất cả. Tất cả những ước mơ
         của một thời con gái. Em sẽ không bao giờ quên ơn đâu...
         Anh đừng bận tâm đến những điều anh không hiểu. Hãy
         quan tâm đến những gì anh đang có chung quanh.                  - Những
         gì anh đang có... Anh muốn trái tim, tâm hồn em kìa. Không phải
         cái thể xác chỉ phản xạ theo bản năng sinh tồn và dục
         cảm. Anh có thể đui mù trong tình yêu, nhưng không thể không
         phân biệt những đòi hỏi của thể xác và 'tham vọng' của
         trái tim.              
         Rồi anh bỏ đi. Ngoài kia là những cuộc vui đang chờ đón,
         mời gọi sự có mặt, nhập cuộc của anh. Vậy thôi, anh sẽ
         quên tôi như một bài thơ đã làm xong, một chiếc xe đời
         cũ... Chỉ còn mặt hồ trăng đêm nay ở lại với tôi, âm
         thầm và mãi mãi. Tiếng tăm, danh vọng tôi lên cao bao nhiêu,
         tự ái tôi càng tổn thương bấy nhiêu. Cứ như giòng
         trăng sáng lạnh đổ từ tầng cao, thăm thẳm một vực đời
         vỡ vụn. Tôi ngước nhìn lên đập nước, mơ cánh chim
         đêm lạc cuối bờ.              
            Chợt lờ mờ trên cao, chừng có
         bóng người vất vưởng, chuyển động trên bờ thành đập
         nước. Tôi đứng hẳn lại, định thần và cố thu ngắn
         tầm nhìn. Rõ ràng một bóng người đang hướng mặt xuống
         đập nước. Một thoáng trong suy nghĩ, tôi hiểu mình phải chạy
         thật nhanh lên những bậc thềm cao... Trước mắt tôi là chiếc
         xe lăn tay dựa sát mặt tường. Tiếng chân và hơi thở đứt
         khoảng của tôi làm bóng người trên thành vực quay lại.
         Ánh trăng đủ chiếu sáng khuôn mặt người đàn ông
         Á châu, tóc phủ hơn nửa trán và đôi chân vắt về
         phía vực nước. Thân hình người đàn ông chơi vơi
         giữa khoảng không, chực rơi xuống đập nước.                 
         - Xin ông cẩn thận. Đập nước rất cao và nguy hiểm.  
                       
         - Dừng lại ! Dừng lại... Nếu không tôi sẽ buông tay.               Giọng nói
         hốt hoảng, đầy đặc âm hưởng Á-đông. Tất cả
         sự việc xảy ra chớp mắt, bất ngờ. Tôi lúng túng, nói
         thật nhanh:               
         - Xin ông bình tỉnh, tôi không quấy rầy ông đâu..! Tôi là
         người Việt Nam. Còn ông là người nước nào?                - Cô
         là người Việt !            
         Giọng nói tiếng Việt rõ ràng, sững sốt. Người đàn
         ông quay hẳn người lại, đối diện với tôi. Một thoáng
         yên lặng bao trùm. Ánh trăng sáng lạnh, soi rõ khuôn mặt tôi
         và người đàn ông. Đôi mắt ông chợt ngây dại,
         nhìn tôi đăm đắm, mê dại.                  - Cô là ai ? Cô
         thật là người..?             
         Đôi môi ông mấp máy, lấp bấp như trong cơn mơ đồng
         thiếp. Trong mắt ông, đêm trăng tôi lộng lẫy như một giấc
         mơ huyền hoặc.                
         - Xin ông yên tâm. Tôi là người... là người Việt thật
         mà! Ông hãy nắm tay tôi bằng da bằng thịt đây.                - Nắm
         tay cô, tôi phải nắm lại cuộc đời. Đó là điều
         duy nhất tôi muốn từ bỏ. Vĩnh viễn từ bỏ, như nó đã
         khước từ tôi.               
         - Cuộc đời khước từ ông, là cả đoạn đường
         dài... Còn ông chối bỏ nó một cách ngắn ngủi, khoảng
         khắc. Như vậy không công bằng. Ông đưa tay tôi nắm, nếu
         ông vẫn còn ý định từ bỏ đời nầy, tôi sẽ thả
         ông ra cũng không muộn!               
         - Cô đừng mĩa mai tôi. Nắm tay cô hay không, là quyết định
         của tôi. Không phải của cô.             
            Tôi lặng lẽ đưa bàn tay về
         phía người đàn ông, chờ đợi. Chung quanh tôi chừng như
         chỉ là một khoảng trống mênh mông của nỗi đợi chờ.
         Người đàn ông di động chậm chạm, mơ hồ. Hơi lạnh
         của bàn tay xương gầy guộc, bấu vào những ngón tay tôi
         dài mềm mại. Khác với thân thể 'tàn tật' của ông, là
         đôi cánh tay rắn chắc đầy sức mạnh lạ thường. Giúp
         chuyển người đàn ông trở lại chiếc xe lăn, mà tôi có
         cảm giác chính  từ đôi cánh tay đó chuyển cả sức
         mạnh vào bản thân mình. Tôi đã nắm lại cuộc đời
         ông, hay tôi đang nắm lại cuộc đời tôi thân thiết.   
                      Chưa
         bao giờ tôi ôm trọn vẹn cuộc sống vào lòng cho đến đêm
         nay. Người đàn ông ngồi trên chiếc xe lăn, gục đầu vào
         vòng ngực tôi khóc ngon lành, như đứa trẻ thơ. Những giọt
         nước mắt nóng hổi thấm vào lòng tôi nỗi hạnh phúc
         vô bờ. Tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc rối bời của ông
         như vuốt lại cuộc đời tôi thẳng tấp.     3.                  
         " Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng 
                         
         " Em là tôi và tôi cũng là em                   " Con diều
         bay mà linh hồn lạnh lẽo                  
         " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo                   " Tôi là
         ai mà còn khi dấu lệ                  
         " Tôi là ai mà còn chân gian thế                    ...  
                         
         " Tôi là ai, là ai. Là ai, mà yêu quá đời này... (2) 
                                             
                      
         Ngả đầu trên vai Phan, tôi hát khe khẻ. Cho anh và cho riêng tôi.
         Mấy tháng nay, vào những đêm có trăng tôi và Phan cũng
         gặp nhau trên đập nước. Tôi đã có lại mầm sống,
         anh đã có lại cuộc đời. Quá khứ và vết thương
         của anh vẫn còn đó, nhưng không là hố thẳm của cái
         chết. Tôi nói với anh, buông tay hoặc dứt bỏ bao giờ cũng dễ
         dàng hơn sự đối diện, đấu tranh. " Có Hằng, giấc mơ
         anh thiêu đốt cả đời nầy !", Phan thách thức. Tôi không
         hỏi lý do đêm hôm đó. Anh cũng không thắc mắc tôi là
         ai và từ đâu tới. Tất cả đều vô nghĩa cho niềm hạnh
         phúc chung quanh của anh và tôi. Sự tệ hại của đời sống
         hiện tại là chúng ta phải cố gắng, mọi cách để lý
         giải cho tất cả hiện tượng và bản chất. Khuôn mặt người
         đàn ông trên chiếc xe lăn trong đêm trăng là cả khuôn
         mặt tình yêu tôi chất ngất, không ngờ. Giọt nước mắt
         nóng hổi của Phan chừng như cuốn sạch trong tôi bộ mặt đời
         sống giả cưu mang. Anh liệt đôi chân, nhưng Phan có cả trái
         tim ngàn dặm. Tôi rực rỡ danh vọng như những bọt nước mong
         manh vỗ vào bờ đá tảng mọi nỗi tuyệt vọng không cùng. 
                          
         - Làm sao phân biệt được giấc mơ và đời thật, Hằng
         nhỉ? Con người cũng hiện hữu trong giấc mơ như sống trong đời
         thật.                 
         - Giấc mơ là phân nửa cuộc đời trong bóng tối. Cuộc đời
         là phân nửa kia của giấc mơ dưới ánh sáng của mặt
         trời.                  
         - Với anh, Hằng là là sự hiện hữu của cả hai mặt.  
                      
         Ánh trăng mờ sáng soi rõ đôi mắt đằm đuối của
         anh đang nhìn tôi. Suốt thời gian qua, Phan và tôi chỉ chuyện trò,
         tâm sự những ước mơ thời bé dại, tuổi mới lớn và
         những nghịch cảnh mà định mệnh dành cho mỗi người chúng
         ta. Chưa bao giờ Phan đi xa hơn quan hệ đó, mặc dầu, tôi không
         có gì để gìn giữ với anh. Trong đáy mắt anh, tôi chỉ
         là một giấc mơ không có thật. Như đêm nay, những đêm
         đã qua và nhiều đêm sắp tới... Đêm càng sâu, trăng
         càng giăng màu sáng lạnh. Một niềm mong ước thoáng qua, tôi
         cởi vội quần áo trong nỗi kinh ngạc của Phan.                - Em muốn tắm.
         Ở đây, ngay bây giờ !               
         -  Hằng... Đừng nổi 'điên' như anh lúc trước. Đập
         nước hồ nầy không trong sạch, không xứng đáng cho thân thể
         của Hằng đâu !  Vã lại, đêm lạnh thế nầy, em tắm
         sao được.                
         - Em có nói tắm nước bao giờ đâu. Đêm nay em muốn "tắm
         trăng" thôi !             
            Mảnh vải cuối cùng rời khỏi
         cơ thể tôi. Không gian trầm lặng, thời gian vỡ tan. Tôi quay lại,
         toàn thân tắm vàng ánh trăng trong ánh mắt dại khờ, chết
         ngất của Phan. Duỗi tay, tôi vuốt từng phần cơ thể mình, như
         đang xối gội trong giòng suối trăng lịm mát, vô ngần. 
                        
         - Tắm cho em đi Phan..!                  
         - Anh...              
         Giọng nói Phan nghẽn đặc như hơi thở anh đứt khoảng từng
         nhịp khó khăn. Tôi nắm tay anh, di chuyển trên mắt, mũi, môi và
         xuống dần bờ ngực tròn săng đứng của tôi. Đã không
         còn nữa bến bờ sự sống. Đã mất hẳn rồi khoảng cách
         của sự thật và giấc mơ. Tất cả hoà tan, trộn lẫn, hồ
         như...              
         Có môi ai cúi hôn đôi mắt tôi tơ lụa. Nụ hôn lướt
         nhẹ xuống bờ môi tôi hé mở, đợi chờ. Tôi hôn trả
         nồng nhiệt, quyện chặc bờ môi Phan nóng hổi. Khác với Khánh
         là sự chiếm ngự, cưỡng chế để đưa tôi đến
         cảm giác chất ngất của dục cảm. Phan nâng niu, trân trọng mọi
         xúc cảm trên từng phần cơ thể tôi dâng hiến. Với Khánh
         là một thói quen, với Phan là một ân sủng... Cuộc chiến tranh
         không để lại cho Phan sự mất mát của cơ thể. Vậy mà
         hoà bình đã lấy đi của anh mất nửa con người. Phan không
         oán trách cuộc sống, anh chỉ thất vọng tình người. Tai nạn
         rừng trong chuyến đi lấy gỗ, cắt lìa anh và tình nghiã vợ
         chồng bao năm nồng ấm. Chiếc vé tàu tìm tự do của vợ dành
         cho, cũng là mãnh giấy vĩnh viễn chia cắt đời Phan với tất
         cả tình yêu. Tình yêu vợ con và cả tình yêu quê mẹ.
         Vậy rồi anh cũng đến. Vậy rồi anh cũng sống. Đến đất
         nước nầy để sống trong chết và để chết trong cuộc sống
         không màng... Trăng tắm đẩm trên cơ thể tôi và Phan hoà
         nhập. Trăng trải rộng giấc mơ tuyệt vời trong mọi xúc cảm
         tràn bờ... Phan chậm rãi, trân trọng hiến dâng từng rung động
         của anh trên mọi vùng thịt da tôi cháy rực, hân hoan. Đôi
         tay anh cuốn hút. Cơ thể tôi tận cùng . Trăng đêm nay ngất
         ngây, vàng óng, vỡ tan.      
          4.     
                      Cuối
         cùng, Khánh và tôi cũng đi đến chung cuộc. Trong lần trình
         diễn tại thành phố Sidney bên Úc, tôi thấy mình khác hẳn.
         Tinh thần lẫn thể chất. Tôi vốn dễ xúc cảm, mũi lòng nay
         tính tình thay đổi bất thường nhiều hơn. Cáu kỉnh, gắt
         gỏng vu vơ và rơi nước mắt dễ dàng, không đâu. Ăn
         uống như 'mèo' và gần như sợ bửa, nhưng ngược lại, cơ
         thể tôi lại càng đẫy đà, nẫy nở. Giọng tôi không
         mất, nên chẳng gì làm tôi quan tâm... Cho đến những cơn
         buồn nôn mỗi sáng và nhớ ra mình mất kinh hơn cả tháng,
         tôi bắt đầu hoảng và đi khám bác sĩ. Kết quả không
         có gì ngạc nhiên, tôi có thai ! Bước ra khỏi phòng mạch,
         tôi thấy mình chơi vơi và nhẹ hẫng như lơ lững trên
         mây. Tôi cảm thấy có điều gì len lén chút hoang mang, chút
         hãnh diện và không biết mình phải vui hay buồn. Câu hỏi lớn
         trong đầu là, đứa con đầu lòng của tôi cưu mang, của
         Khánh hay của Phan đây ? Cuộc sống chừng như đã xây dựng
         cho tôi toà lâu đài của mọi thói quen. Tôi không còn
         điều khiển, làm chủ cuộc sống hằng ngày của mình đã
         quá lâu. Tất cả tùy thuộc vào người chung quanh. Tùy thuộc
         vào Khánh... Những đêm trăng huyền ảo với cuộc tình của
         Phan mang đến tôi nhiều ý nghiã đời nầy, nhưng vẫn chưa
         sắp trước mặt tôi con đường phải chọn.              Giải pháp duy nhất
         cho tôi, là phải thú thật với cả Khánh lẫn Phan? Tôi không
         muốn bất cứ lựa chọn nào trong đời. Điều dễ hiểu, tôi
         chỉ muốn được và không muốn mất. Có lựa chọn nào
         mà không mất mát bao giờ. Tài năng và nhan sắc tôi đem
         lại nhiều tật xấu và cả sự can đảm. Tôi đang ở Úc
         với Khánh. Sau đêm hát thứ ba, tôi quyết định phải thú
         nhận với anh.                  -
         Khánh, em có chuyện quan trọng phải báo cho anh biết. Em đã có
         thai hơn hai tháng nay !                 
         - Hằng nói gì ? Em đã có thai, có thật chắc chắn không
         ? Hằng đi khám bác sĩ chưa ?                
         - Rồi. Em có cả giấy thử máu và nước tiểu của bác
         sĩ.                  
         Nói xong, tự dưng tôi thấy mình thật bình tỉnh, tự tin. Khánh
         không nói nhiều hơn, anh châm thuốc như mọi khi có điều suy
         nghĩ. Bàn tay Khánh run run kẹp điếu thuốc lá và hít thật
         sâu vào lồng ngực, trước khi thả từng đợt khói ra hai bờ
         cánh mũi thẳng, rộng. Khánh vẫn đẹp, thật đàn ông
         như thuở nào. Tôi vẫn yên lặng chờ đợi phản ứng của
         Khánh. Không gì ngạc nhiên trước thái độ suy nghĩ, đến
         độ tính toán của anh, kể cả trong lãnh vực tình yêu.
         Như một phản xạ. Như một thói quen của đời sống... Khánh
         vẫn yên lặng, không nói thêm gì và ra phía ngoài bao-lơn
         khách sạn tiếp tục hút thuốc. Yên lặng là một thái độ
         đối lập và thù nghịch của Khánh. Tôi cảm thấy hơi
         ân hận, hoang mang cho mọi chuyện xãy ra quá nhanh chóng. Tình yêu
         hay sự thỏa mãn, trả thù. Có nhiều trò chơi trong đời,
         tình yêu là trò chơi nguy hiểm nhất. Tất cả trò chơi đều
         có điểm chung cuộc, trừ tình yêu. Nó chỉ có bắt đầu
         và sẽ không bao giờ, không bao giờ có hồi kết cuộc. Tôi
         không tin, từ lâu, khi biết mình có nhan sắc xinh đẹp. Mẹ tôi
         cứ than phiền, thời bà thì cái nết đánh chết cái đẹp.
         Bây giờ, cái đẹp đạp tan mọi tính nết con người. Mỹ
         viện mọc lên như nấm. Vợ chồng đoàn tụ, chồng nhìn
         vợ không ra. Phụ nữ ra đường, nhìn nhau trầm trồ khuôn mặt
         với sóng mũi mới độn thật cao và đôi mắt mới cắt
         thật to. Chỉ còn bề ngoài, cái giả bề ngoài phủ lấp
         mọi giá trị tâm hồn bên trong... Nào ai đâu biết được,
         bên trong lớp nhan sắc rực rỡ của tôi là cả một khoảng
         trống cô đơn và nhiều thất vọng.                   
         Sáng hôm sau tôi thức dậy đã thấy tấm giấy nhỏ ghi lại
         vài hàng vội vã của Khánh. " Thu Hằng, anh có chuyện phải
         trở về trước. Em sẽ cùng đoàn về sau đúng theo chương
         trình dự định. Thành thật xin lỗi em. Gặp lại em sau. Anh, Đoàn
         Minh Khánh ".     5.                     
         Sương bắt đầu xuống mờ lạnh, phủ đầy.
         Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay tôi hiện rõ, đã bốn
         giờ sáng. Tôi ngồi trên bờ đập đá đợi Phan hơn
         ba tiếng đồng hồ. Chưa một lần anh đến trể, bao giờ cũng
         trước giờ tôi đến. Mỗi đêm trời trăng sáng, cho dù
         tôi có đến hay không, anh vẫn ngồi trên bờ đá đợi
         chờ. Phan luôn luôn là người đợi những giấc mơ có thật
         đời mình. Từng đêm, đến sáng. Không sót một lần.
         Vậy mà ba đêm nay, mình tôi, ngồi đây ngóng chờ. Phan không
         đến. Không một dấu vết. Không một tăm hơi. Vầng trăng
         vẫn còn đây một thuở mà tôi đã nghe tiếc nhớ mấy
         mùa. Như mới hôm qua. Như mới giây phút nào. Tôi vẫn rực
         rỡ, sáng ngời sao vầng trăng vẫn hững hờ ngả bóng..? 
                     Từ Úc
         trở về tôi chưa kịp định thần thì luật sư của Khánh
         gọi tôi trong máy nhắn tin. Rằng Khánh đang chờ tôi dọn ra khỏi
         nhà anh, trong vòng bốn mươi tám tiếng. Tạm thời Khánh ở
         tạm tại một khách sạn nào đó. Rằng mọi giấy tờ chính
         thức ly thân đang tại văn phòng và xin mời tôi đến càng
         sớm càng tốt, cho cả đôi bên... Tôi vội vã đến ngay
         văn phòng luật sư của Khánh. Ông giải thích rất ngắn gọn,
         rõ ràng. Tôi phạm tội ngoại tình trong lúc có chồng. Khánh
         chính thức ly thân và chờ thời gian ly dị. Lý do, Khánh đã
         cắt ống dẫn tinh một năm trước khi làm đám cưới với
         tôi. Chứng từ hợp lệ, đầy đủ... Tôi lặng người,
         thờ thẩn. Khánh chưa hề nói đến. Tôi chưa biết bao giờ.
         Cuối cùng, anh vẫn là anh, tôi vẫn là tôi. Hai vòng tròn,
         hai cuộc đời cạnh bên nhau không cùng giao điểm. Nhưng dù
         sao, tôi cũng biết được bào thai trong tôi là của Phan. Chắc
         chắn của Phan !              
         Tôi dọn ra ngoài không lời than van, không tiếng tạ từ. Tôi mất
         Khánh để được lại tôi? Hay tôi đã mất tôi như
         chính ánh trăng trôi giữa giòng đời. Tôi không có câu
         trả lời, mãi mãi không có câu trả lời. Như đêm nay,
         đã ba đêm, tôi không còn có ai để đợi, để
         chờ. Tất cả rồi cũng qua. Tất cả rồi cũng xa. Chỉ còn lại
         tôi, đêm trăng tàn lạnh và ngày mai sẽ đến. Là gì,
         khi tất cả với tôi đều vô nghiã..?              Phan đã trở lại cuộc
         đời thật của anh. Hay chính anh không muốn sống mãi trong giấc
         mơ trăng lạnh, để tàn. Với Phan, anh lăn chiếc xe qua đời tôi
         và không dừng lại giữa đời... Với Khánh, tôi không giữ
         được anh hay tôi không giữ được chính tôi? Nhan sắc tôi
         cho ai, tiếng hát tôi vì ai nếu không phải cho đất trời nầy
         quá rộng? Muôn ngàn vì sao chợt từ đâu, băng thành dãy
         ngân hà xuống tận giữa trời. Tôi đặt tay lên bụng, giấc
         mơ trăng của tôi là đây, có thật. Tôi ơi, con ơi, ta
         là ai mà đến với đời nầy? Hệ lụy, mong manh.                   Bước lên bờ đập đá, tôi đứng
         thật cao, chất ngất trên cuộc đời cô quạnh, cuối đêm
         trăng. Khán giả không còn ai. Sân khấu màn đã hạ. Tôi
         sẽ cất tiếng hát, một lần, một lần để tôi đi và
         cho tôi về vô lượng đất trời.                          
         "... Trong khi ta về lại nhớ ta đi                 
         "  Đi lên non cao, đi về biển rộng                  "  Đôi
         tay nhân gian chưa hề độ lượng                 
         "  Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì... (3)                  
         Thân thể tôi bay bổng, tuyệt vời. Ngọn gió phương nào đang
         thổi ngược, tung bay bờ tóc tôi xanh, xuyên suốt mấy mùa... 
                                                                          Nguyễn Vĩnh Long                                                   
            (1) "Phôi Pha", (2) "Tôi Ơi
         Đừng Tuyệt Vọng" và (3) "Một Cõi Đi Về" của nhạc
         sĩ Trịnh Công Sơn.     _______________________________________________________  
          
      
      Trăng Giữa Ban Ngày            1.                     
         Cơn mưa hắt lên mùi bùn hôi nồng nặc từ con kinh đen ngòm
         phía dưới nhà sàn. Tánh trằn trọc, không ngủ được.
         Phần lạ nhà, phần tiếng cười nói ồn ào vọng lại
         phía trước. Nó không hiểu sao người ta có thể sống chui
         rúc ở đây, chớ đừng nói chi đến việc ăn uống.
         Buổi chiều mới tới, ra tắm phía sau nó phải nín mũi, ọi
         lên ọi xuống mấy lần đến chảy nước mắt. Bên dưới
         nhà tắm là dòng kinh nước đen bùn sền sệt, đầy rác
         rưới.   Tô hủ tiếu có miếng
         bánh tôm chiên là món ưa thích nhất, nó cũng ráng nuốt
         qua loa cho đở cào ruột. Đến tối, chị Ánh đưa mền gối 
         dặn nó, mới lên đường xa nên ngủ sớm và nhớ đừng
         đi lang bang ra nhà phía trước ban đêm. Tánh gật đầu, nhắm
         mắt rồi nằm trăn trở cho tới bây giờ. Nó thắc mắc không
         biết đã mấy giờ mà chung quanh vẫn còn tiếng người ăn
         uống, cười giỡn. Nghiêng tai một bên, nó chợt nghe như có
         tiếng mưa rào rạt bên ngoài. Tự dưng nó muốn về nhà,
         ngay bây giờ. Tánh muốn nằm trên cái chõng tre quen thuộc và
         cuộn tròn trong cái mềm chỉ ngã màu của nó mỗi đêm
         trời đổ mưa...    
                      	Nó giật mình tỉnh giấc bởi
         tiếng cải vã và đồ đạc đổ vỡ. Tánh không hiểu
         mình đã chợp mắt tự bao giờ. Tiếng khóc của người
         đàn bà mỗi lúc một rõ. Rồi giọng quát tháo nhừa
         nhựa của người đàn ông:                  - Đ.m.
         mầy làm đĩ thiên hạ chưa đủ sao còn dẫn thằng con nít
         về ngủ nữa..!              
           - Anh say quá, nói bậy không hà... Tánh là người hàng
         xóm, mẹ em nhờ lên gặp em có chút chuyện nhà... Khuya rồi,
         anh la lớn quá hàng xóm báo cảnh sát thì phiền lắm. 
                       
         - Đ.m., tao chấp đó. Thằng nào dám gọi cảnh sát, tao đâm
         lòi ruột cho biết mặt.                 - Anh ngủ đi cho khỏe.
         Mai thức dậy muốn gì em cũng chiều hết.                 - Hổng
         mai mốt gì hết. Đ.m. đừng làm bộ... Tao muốn làm liền bây
         giờ. Còn sáng mơi, tao hổng muốn thấy bản mặt thằng nhỏ
         đó nữa. Nghe chưa... Đ.m. đưa tao cái bọc áo mưa rồi
         cởi quần ra.                
          Không còn tiếng cải vã của chị Ánh và người đàn
         ông. Vài con mèo đói lang thang trên mái nhà, kêu gào thảm
         thiết. Tiếng vạt giường, tiếng thịt người dội lên, dồn
         dập... Tự dưng nước mắt Tánh ứa ra, ướt mặt gối. Không
         hiểu tại nó nhớ nhà hay khóc thương thân phận chị Ánh.
         Mười bảy tuổi, chưa lần đi xa khỏi huyện nhà, nó nào
         hiểu được cuộc đời đen tối, dơ bẩn còn hơn vũng
         chân trâu. Tánh nghiêng mình cấn cây viết máy Pilot chị Ánh
         mua cho nó hồi chiều. Cây viết có khắc cả tên Tánh và
         chị Ánh. Chị muốn nó học giỏi, nay mai trở thành người
         hữu ích cho xã hội, hãnh diện gia đình, làng xóm trong đó
         có chị. Tánh mắc cở, chỉ biết lí nhí cám ơn. Chị
         và Tánh chụp chung một bức ảnh làm kỷ niệm. Nghiêng đầu
         vào vai Tánh, nó không còn nghe mùi chanh thoảng ra từ tóc chị
         nữa. Mùi dầu thơm và nắng gió cuộc đời đã thay vào
         đó, quyện từng sợi tóc ngày thơ.                 Tánh
         nâng niu cây viết máy, mùi thơm bàn tay chị vẫn còn phảng
         phất đâu đây. Nó áp vào má, hít từng hơi dài,
         nhắm mắt và quên đi cả mùi tanh nồng của dòng kinh đen
         phía dưới.       2.                 
            	Nhà
         chị Ánh phía dưới đầu cầu Dừa. Con rạch chia làng Tánh
         ra làm hai phía. Một bên đất làm ruộng, bên kia là những
         mương vườn thẳng tắp trồng đủ loại hoa quả và cây
         ăn trái. Cha chết sớm, mấy mẹ con chị sống bằng nghề bán
         xôi, chè bắp mỗi buổi chợ. Trong làng ai cũng gọi mẹ chị
         là bà Sáu xôi bắp. Con gái lớn, năm lớp bảy Ánh đã
         bỏ trường theo mẹ tần tảo nuôi nấng đàn em. Đối diện
         phía bên kia cầu là nhà Tánh. Gia đình nó làm ruộng
         nòi, đất đai bề bề mấy đời nội tổ. Sau chính sách
         người cày có ruộng, gia đình Tánh chỉ còn mấy chục
         công đất ruộng hương hỏa phía sau nhà. Tía nó nhìn
         xa, thúc đẩy con cái học chữ, lấy đó làm nghề. Chị
         Ánh lớn hơn Tánh vài ba tuổi, nhưng trước mặt chị, nó
         thấy mình còn con nít nhiều lắm. Có lẽ tại chị đẹp,
         đẹp nổi tiếng cả làng. Phần mồ côi cha, ra đời sớm
         Ánh như loài hoa dại nở rực rỡ, hoang vu giữa chốn đồng
         nội. Sáng nào trước khi đạp xe lên trường huyện Tánh
         đều ghé chị Ánh mua xôi. Không ăn nó cũng mua gói theo
         cho buổi trưa. Chị Ánh luôn dành nhiều tình cảm đặc biệt
         cho nó. Lần nào chị cũng múc xôi nhiều, cho thêm nước cốt
         và kèm theo nụ cười thật tươi tắn. Năm lớp tám, mười
         bốn tuổi, Tánh bắt đầu thấy mình khan khác. Giọng nói
         nó đục khàn khàn, chân tay lòng thòng thừa thải và
         mặt bắt đầu lốm đốm mụn. Mỗi lần gặp mặt chị Ánh,
         Tánh cảm thấy lúng túng, ngượng ngùng. Tối nào học bài
         khuya, trước đi ngủ, nó đều ra phía sau hè ngóng nhìn
         qua ánh đèn nhà chị, bên kia con rạch nhỏ. Tự dưng Tánh
         mong trời mau sáng để được nhìn thấy nụ cười dễ
         thương của chị.     
                     
         Qua mùa khô, lúa đã vào bồ, tía má Tánh bắt đầu
         đốt chân rạ mấy công đất để làm rẩy. Giá lúa
         không lên, tía nó cắn răng phá mấy công ruộng gần nhà,
         lên vồng trồng dưa hấu. Mấy năm gần đây nghề trồng dưa
         trong làng phát triển dữ dội. Sau một mùa Tết, nhà nào cũng
         dư tiền mua sắm đồ đạc, ghe máy và cả máy truyền hình
         chạy bình. Không phải nghề chân truyền, nhưng tía nó sáng
         dạ, biết đất biết phân, chắc bẩm cũng thành tiền thành
         bạc. Giữa lúc đó thì trên chợ huyện tổ chức đại
         hội. Dù công việc chưa xong, tía nó cũng trả tiền công
         cho anh em Tánh đi coi hát. Tánh nghĩ ngay đến chị Ánh, rủ và
         bao chị đi coi đại nhạc hội. Nhưng sáng nào gặp mặt, Tánh
         cũng không nói được thành lời. Cuối cùng Tánh đành
         lủi thủi đi một mình.                Chương trình văn
         nghệ đầy tiết mục hấp dẩn nhưng Tánh vẫn lãng đãng,
         thờ ơ. Vãn hát, nó lang thang vòng quanh chợ huyện. Mấy hàng
         quán dọc bên đường đang chuẩn bị dọn dẹp, đóng
         cửa. Mọi người tản về các làng với nhiều phương tiện
         khác nhau. Ghe, xuồng, đò máy và thắp đuốc đi bộ. Tánh
         mang theo mấy bó đuốc, dấu ở lộ đá trước khúc rẽ
         vào làng. Gió đêm xào xạc, mang theo hơi nước dọc theo
         mé sông. Nó ngước nhìn lên, bầu trời đen nghịt không
         thoáng một vì sao. Không chừng trời sắp đổ mưa. Cả tháng
         nay khô hạn, tối ngợp sao trời. Đợi đến nay nó đi coi hát,
         trời mới đổ mưa cho đáng.                  - Tánh...
         Phải Tánh hông, đợi Ánh chút.                Đúng
         là tiếng chị Ánh, hay xưng tên với nó. Tim Tánh đập thình
         tịch, chân tay nó lạnh hết.                   - May quá, theo
         Tánh kịp. Về một mình, lại gần mưa, Ánh sợ chết quá. 
                     
            - Chị đi một mình sao...                  - Đâu
         dám. Với chị Xuyến. Nhưng chỉ chưa chịu về liền, mà còn
         ghé ăn hàng với đám bạn trên trường huyện. Ánh phải
         về, mai còn thức sớm nữa.               Đi bên cạnh chị
         Ánh, Tánh rộn ràng khó tả. Nó không biết nói gì thêm,
         đếm từng bước chân mình trên lộ đá. Mùi hương
         chanh dìu dịu tỏa ra từ mái tóc chị thoang thoảng trong đêm.
         Tới gần khúc rẽ vào làng thì gió bắt đầu thổi
         mạnh. Hai bó đuốc dài vẫn còn đó. Chị Ánh giúp
         Tánh một tay mồi lửa. Lần đầu tiên nó chạm bàn tay mền
         mại, âm ấm của chị. Dưới ánh đuốc, khuôn mặt chị
         Ánh sáng hồng, đẹp hơn bao giờ hết. Nó vừa đi vừa
         quơ bó đuốc soi đường. Vài khúc nhiều mô, đất
         gồ ghề chị Ánh sợ vấp nắm lấy tay nó.                 
         - Tánh đi chầm chậm lại nghen. Ánh theo hổng kịp, vấp té chết. 
                     
         Nó đi chậm lại. Chị vẫn nắm chặc tay nó không buông. Khuôn
         mặt chị thật gần, vài sợi tóc loà xoà vướng qua má
         Tánh.               
            - Mai mốt Ánh đi xa, Tánh có nhớ chị hông ?              
            - Chị đi đâu ? Nó ngạc nhiên hỏi nhanh.                 
         - Má định gửi Ánh lên trên tỉnh, nhờ người bà con
         kiếm công việc làm khá hơn. Bán xôi bắp vầy hoài, không
         đủ tiền sinh sống. Không chịu cũng không được. Đành
         thôi Tánh à... Đi xa chắc Ánh nhớ làng mình và nhớ
         Tánh lắm..!              
         Tại sao chị phải đi xa, Tánh không hiểu. Nhưng tự dưng nó
         buồn muốn ứa nước mắt. Rồi mai mốt, trước đi đạp xe lên trường huyện
         mỗi sáng, không còn ai gói cho nó gói xôi đặc biệt với
         nhiều nước cốt dừa. Mỗi đêm học bài khuya, Tánh không
         ai để nó háo hức đợi ngày mai gặp mặt. Tánh đi nép
         vào chị gần hơn. Gần để đủ nghe từ chị, một mùi
         thơm kỳ diệu thoáng ra, ngây ngất. Mùi thơm của bộ đồ
         mới và da thịt chị. Tự dưng Tánh thấy mình lớn hẳn ra, 
         muốn che kín những cơn gió thổi lạnh bờ vai chị. Đâu hơn
         nửa đoạn đường, vài hạt mưa rơi thấm áo Tánh. 
                     
            - Chết rồi, trời mưa Tánh ơi. Chắc về không kịp quá. 
                     
            - Không sao. Tháng nầy chắc trời mưa hổng lớn đâu.   
                       
         Tánh dứt câu chẳng bao lâu thì mưa rào lên, lớn hột. Không
         ai bảo ai, cả nó lẫn chị Ánh đi nhanh như chạy, nhìn quanh tìm
         chỗ trú. Cũng may gần đó có cái quán nhỏ bên đường.
         Ánh lửa bập bùng từ bó đuốc soi mặt quán che tạm bởi
         tấm bạt, chừa khoảng hiên hẹp phía ngoài. Cả hai chạy lùa
         vào trú. Bó đuốc lịm tắt. Mưa tạt từ bên hông dữ
         dội.               
            - Tánh nép sát vào đây, ướt hết.               Giọng
         chị Ánh khàn khàn. Tánh nép sát vào. Hơi ấm từ da
         thịt chị tỏa lan, truyền sang. Bờ ngực mềm mại, áp vào bờ
         lưng nó. Tánh bâng khuâng, nhột nhạt. Nó nuốt nước miếng
         khó khăn, ao ước trong đầu. Phải chi nó lớn hơn chị Ánh,
         Tánh sẽ ôm lấy và che chở cho chị lúc nầy. Không biết
         lúc nào, má Tánh kề vào má chị. Tánh nghe hơi thở
         chị nóng hổi, thơm mùi dìu dịu. Nó nghĩ tới trái mận
         hồng đào nhà ngoại nó trồng, nở lứa đầu mùa. Lờ
         mờ trong bóng đêm, Tánh lén len quay qua, mong nhìn thấy mặt chị.
         Nó chợt hốt hoảng khi đôi môi ướt lạnh của nó chạm
         vào bờ môi hé nhỏ của chị. Ngoài hiên, có tiếng chớp
         rền vang, như xé đêm mưa.       3.    	Tánh choàng tỉnh giấc. Miệng khô đắng
         và tê tẩm một bên mình. Trời vẫn chưa sáng. Không biết
         Tánh chợp mắt lúc nào, mộng mị chập chờn. Nó khẻ trở
         mình thì chạm bờ vai ai nằm bên cạnh. Chị Ánh. Tim nó đập
         lên thình thịch. Không biết chị Ánh vào ngủ bên nó tự
         lúc nào. Còn thằng đàn ông khốn nạn đánh chửi chị
         đâu rồi. Nó ngủ say hay đã bỏ đi. Hơi thở chị Ánh
         đều và nhẹ. Chắc chị đang ngủ say. Nó không dám nhúc
         nhích, chỉ mở đôi mắt thật lớn nhìn qua. Khuôn mặt chị
         trong giấc ngủ say, hồn nhiên và thật đẹp. Sóng mũi thon dài
         theo phía dưới đôi chúm nhỏ, hơi hé mở, chị giống
         như mấy hình vẽ trong tập truyện bằng tranh. Cái giường không
         rộng, lại cũ, thở mạnh cũng cong mình kẽo kẹt. Chị Ánh mở
         mắt, bắt gặp Tánh đang nhìn mình đăm đắm. Chị nghiêng
         qua, cười nhẹ:              
            - Nhà lạ, ồn ào. Khó ngủ phải hông Tánh. 
                     
            - Dạ...              
            - Thằng chả đi rồi, Tánh không phải sợ nữa. 
                     
            - Tánh không sợ. Nhưng tại sao chị phải sống với hắn.
                       
            - Một ngày nào đó, lớn lên, Tánh sẽ hiểu. Bây
         giờ, Ánh chỉ muốn Tánh đừng khinh ghét chị.                 
         - Không, Tánh không ghét. Tánh thương... Về lại quê mình
         đi chị.              
            - Quá trễ rồi. Ánh không còn xứng đáng với gia
         đình, làng xóm mình nữa.                Giọng chị Ánh
         trũng nước. Tánh bối rối không biết làm gì. Trong bóng
         đêm, chị Ánh dụi đầu vào nó, nức nở. Dòng nước
         mắt nóng hổi thấm vào da thịt Tánh, như những mũi kim đâm
         sâu tâm hồn nó tơi bời. Đưa tay vuốt mái tóc mượt
         dài, dỗ dành chị đừng làm nó phải khóc theo. Chị Ánh
         ngước lên, kéo mặt Tánh lại gần và hôn nhẹ lên hai
         má nó. Vệt nước mắt vô tình của chị vướng khóe
         môi Tánh mằn mặn. Tánh hôn trả lên má chị, như một
         phản xạ tự nhiên.                   - Con trai lớn mà không
         biết hôn gì hết.                Chị vừa nói vừa cười
         khúc khích. Đôi môi ấm áp chị Ánh áp vào môi
         nó. Tánh ngây ngất khi đầu lưỡi chị chạm đầu lưỡi
         nó quấn quít. Chị kéo bàn tay Tánh đặt trên bờ ngực.
         Trái vú chị mềm mại, no nê. Tánh ghì chặc hai tay vào đôi
         bờ xúc cảm. Chơi vơi, cuộn chảy. Con sông nhỏ quê Tánh đang
         uốn mình qua khỏi khúc sông bồi. Nó mở rộng, chảy thiết
         tha hơn về phía sông cái lớn, sắp chuyển mình ra biển. Nước
         con sông ngọt dịu, đục màu phù sa chợt chan hoà với lòng
         biển đời xanh mặn. Cửa cuộc đời quá hẹp cho những tâm
         hồn trắng trong, chân thật. Vòng tay con người không rộng lượng
         bao giờ. Chỉ có nước mắt và má môi của chị tạo cho
         Tánh bao nhiêu mơ ước đời nầy. Nó đang chơi vơi như
         con diều trên cánh đồng lộng gió quê nhà. Tánh bở ngỡ,
         vươn vai trở thành một dòng sông lớn, cuốn trôi bao nỗi
         khổ đau của chị đêm nay.                     - Tánh ơi..! 
                     
         Tiếng kêu thảng thốt của chị Ánh từ nghìn trùng vọng
         lại. Có vầng trăng vằng vặc tuổi thơ, trải vàng niềm hạnh
         phúc vô biên trên thân thể của Tánh và chị. Đêm
         sắp tàn và ngày mai đang xô đẩy bao kiếp người phía
         trước.          4.              Buổi chiều tháng tư, bầu trời thành
         phố Huntsville, Alabama thấp và nhiều mây. Mấy ngọn đồi thấp,
         xanh mướt nối nhau như căng thành một chiếu võng đong đưa
         những con đường xa lộ đan nhau theo mùa gió. Người đàn
         ông cho xe chậm lại vào bãi đậu. Hampton Inn, cái khách sạn
         đã vài lần ghé, tạo cho người đàn ông cảm giác
         dễ chịu hơn sau mấy giờ bay dài. Một laptop xách tay, một chiếc
         va-li kéo tay là hành trang quen thuộc cho những chuyến đi xa.              
            - Hi, tôi có đặt phòng trước. Tôi họ Nguyễn, tên
         Tony. Tôi sẽ ở lại cho đến    hết tuần.                Bà Linda, phụ tá quản
         lý người da trắng nhận ra Tony ngay. Vài lần trước ghé Huntsville
         cho mấy buổi họp ngắn ngũi, Tony cũng gặp bà. Đưa thẻ chìa
         khóa, bà cũng không quên nhắc Tony khách sạn cung cấp điểm
         tâm mỗi sáng miễn phí. Tóc hoa râm, nhưng dáng dấp ông
         vẫn còn nhanh nhẹn, tự tin. Tony buông người xuống mặt nện, chơi
         vơi. Những căn phòng khách sạn bày trí nhan nhản giống nhau,
         cô đơn và nhàm mắt. Phía bên ngoài khung cửa sổ, nắng
         đã xuống thấp màu vàng nhạt. Ngày mai là những buổi
         họp, những công việc quen thuộc đang chờ ông. Sự tái lập
         của đời sống xứ nầy cho những phát triển không ngừng của
         nền văn minh kỷ thuật, nhưng lại là những đọng vũng, khô
         cạn dần cho biết bao nhiêu sông nước tình người. Những dòng
         sông tâm hồn ông muộn phiền, không chảy. Những vời vợi trời
         xanh dĩ vãng không mây. Bủa vây, tù hãm. Lòng người cửa
         đóng, then cài. Đời sống chính ông cũng hóa trang nhiều
         mặt. Dè dặt, bề ngoài, giả tạo trở thành phản xạ tự
         nhiên trên mọi mặt phẳng cuộc đời. Tony nguội lạnh dần những
         háo hức ban đầu cho những vùng đất mới. Mỗi nơi, một
         thành phố hay một huyện hạt hẻo lánh với những tên gọi
         lạ tai, trước tiên ông đều mở cuốn giám điện thoại
         tìm những họ phổ biến của đồng hương ông. Những Nguyễn,
         Lê, Trần,... Để nói lời hỏi thăm, làm quen bằng ngôn ngữ
         mẹ đẻ của ông. Đáp lại là, những giọng nói nhát
         gừng, thoái thoát hay khước từ cả nguồn gốc cha ông. Họ
         nói bằng thứ tiếng mẹ xa lạ, lạnh lùng, mù mù hàm ý.
         Ông bỏ điện thoại xuống, lòng chùng nỗi thất vọng, đắng
         cay. Từ đó, những chuyến đi xa, Tony không còn thói quen tìm
         kiếm tình đồng hương đó nữa. Tiếng điện thoại reo.
         Đầu dây kia là tiếng quen thuộc của người đàn bà da
         trắng:              
            - Hi Tony, Liz đây. Anh tới lâu chưa. Chuyến bay thế nào, có
         thoải mái không ?              
            - Cám ơn Liz. Mọi chuyện cũng tốt đẹp, ổn thỏa.  
                     
            - Tôi muốn mời anh cùng đi ăn tối. Một tiệm ăn Ý
         tôi biết rất nổi tiếng về đồ biển.               Giọng
         người đàn bà mời gọi. Liz tuy không chung nhóm với Tony, nhưng
         là nhân viên quản lý thương mại cao cấp của công ty. Là
         cố vấn kỷ thuật, Tony thường đi cùng với Liz cho những hợp
         đồng thiết kế quan trọng. Người đàn ông Á-đông
         trí thức, gần năm mươi, không gia đình vợ con là điều
         tò mò hiếu kỳ của những người đàn bà bản xứ
         làm chung. Qua sách vở, tài liệu phong tục tập quán Á-châu,
         con trai lớn lên không cưới vợ vì tình yêu cũng phải vì
         " mối lái ". Chưa kể là cổ lệ tục truyền, trai năm thê
         bảy thiếp. Địa vị và sự thành công của Tony lại là
         mục tiêu của những dòm ngó nhiều hơn. Liz là một trong những
         người đàn bà da trắng tò mò đó. Chưa tới bốn
         mươi, một đời chồng, Liz trải qua nhiều kinh nghiệm của tình
         ái. Người đàn bà nầy không chỉ muốn nhìn ngắm, mà
         nhập cuộc. Cuộc phiêu lưu tình cảm không mất mát phần ai.
         Cuộc vui tự nguyện và luôn mở rộng cửa sau cho những chán chường.
         Với đôi mắt xanh lơ tóc hoe vàng, bờ ngực vung đầy mời
         gọi, Liz chưa từng thất bại trên tình trường. Nàng đến
         với Tony tự tin, " quyết thắng ". Lần đầu tiên trong đời
         Liz vấp ngả, chới với trước một người đàn ông "
         thiểu số ", thẳng thắn và từ tốn. Tony bước vào phòng
         ngủ nàng như dạo chơi trong khu rừng cấm lạ. Không vội vã
         chiếm đoạt, không thêu thân theo từng phút giây tàn lụi.
            	Những
         người đàn ông khác đến với Liz là như vậy và
         chỉ có như vậy. Môi hôn nhộp ngạt, sự tham lam trên bờ ngực
         và cuối cùng là sự biểu hiện lòng kiêu hãnh, chiếm
         đoạt nghèo nàn của họ. Có ba nơi để người đàn
         ông biểu lộ bản năng của họ: tiệc rượu, sòng bạc và
         lúc làm tình... Để ngày mai không muốn thấy mặt. Để
         gặp lại là nỗi dửng dưng, lạnh lùng. Nàng bày da thịt
         cuộc chơi, họ cũng giả dối tìm vui phút chốc.               Tony
         khác. Ông trân trọng trên từng phần da thịt Liz. Ông chậm rãi
         gần đến hững hờ. Tony đưa nàng đến tận cùng mọi
         khoái cảm, ngất ngây. Để ngày mai họ mong gặp mặt nhau. Bên
         quan hệ tình dục đời thường, họ còn cả tình người
         rộng lượng. Ông một mực chân tình, trân trọng những tình
         cảm tốt đẹp của Liz như một tặng phẩm hiến dâng. Rồi
         mỗi người có một vòng tròn trong đời sống họ. Giao điểm
         chính là mặt đời sống hiện tại, với bao đẩy lùi của
         quán tính riêng tư. Những phát triển vượt bực của khoa
         học hiện đại làm trái đất chúng ta thu nhỏ lại. Nhưng
         lòng người cũng từ đó, chật hẹp hơn ?  Ông quý
         trọng giao điểm có được với người đàn bà bản
         xứ. Liz cũng quên mất màu da trong quan hệ tình nhân. Như bao nhiêu
         người đàn ông Việt Nam khác, Liz nghĩ, họ đã trải qua
         những chặng đường lịch sử khổ đau, hùng tráng nhất,
         phải sâu kín bên trong là những hệ lụy vượt khỏi đời
         thường. Liz càng bị ông chinh phục bởi những vết thương thầm
         kín trong lòng. Họ là bạn chân tình ở những phía nhìn
         nhân bản đó.              
         Nhưng chiều nay Tony chợt lười biếng cho lời mời gọi của Liz. Ông
         đang cần sự yên tịnh và niềm cô đơn riêng tư.  
                     
            - Cám ơn Liz. Tôi rất ân hận là vừa ăn lở buổi
         ở phi trường Dallas, vẫn còn no. Chúc Liz buổi ăn tối vui vẽ,
         ngon miệng.              
            - Không có gì. Tony cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Hẹn gặp lại
         sáng mai ở phòng thử nghiệm.               Ông đã nói
         dối. Từ sáng đến giờ ngoài mấy ly cà-phê và bánh
         ngọt trên phi cơ, Tony chưa có bửa ăn trọn vẹn. Bụng ông cũng
         đang đòi hỏi phần mình. Một buổi tối cơm Tàu, vì
         ông biết chắc thành phố nầy không có một quán ăn người
         Việt. Một buổi ăn yên tịnh, lặng lẽ cũng là niềm hạnh
         phúc, đôi khi. Ông quý mến Liz, nhưng cũng cần những khoảng
         cách. Tony rời khỏi phòng, buổi chiều không còn nữa.    
                            Tiệm
         ăn Tàu, China King, nằm khiêm nhường ở một góc đường
         nhỏ. Ghế bọc và khăn trải bàn đều màu đỏ thêu
         rồng phượng. Khách ăn hơn phân nửa tiệm. Tony gọi một dĩa
         đồ xào biển và cơm trắng. Ngụm trà đá cuối ngày
         làm ông dễ chịu và tỉnh táo hơn. Ông cảm thấy có
         chút gì quá đáng trong những đối xử với Liz. Người
         đàn bà da trắng, già nhân ngải non vợ chồng. Liz đến với
         ông hoàn toàn tự nguyện và tự do. Sự ràng buột duy nhất
         của họ chính là mối chân tình ở mỗi người. Ông không
         hứa hẹn, giả dối để lợi dụng sự thỏa mãn thể xác.
         Liz không cần phải bày vẽ cho một cuộc chơi. Họ đã đủ
         trưởng thành để hiểu được giá trị của thời gian,
         của định mệnh cuộc sống dành cho con người. Những khuôn mặt bề ngoài đã làm
         họ mất quá nhiều thời gian để sống. Rữa sạch bộ mặt
         tâm hồn, làm bộ mặt thể chất của họ trong sáng và quý
         giá hơn. Họ giữ lại trái tim và cho nhau cuộc sống.              
            - Thuận muốn ăn gì, shrim hay chicken ?                    - Con
         muốn both.              
            - Ok. Còn anh ?               
         Giọng nói tiếng Việt chen lẫn tiếng Anh của phụ nữ và trẻ
         con từ phía sau làm ông chợt ngẩn người. Một gia đình trẻ
         người Việt Nam ? Không kềm được sự tò mò, ông quay
         lại như một phản xạ không kềm chế được. Họ, cả
         ba, còn thật trẻ. Người thanh niên ngồi đối diện ông, chạm
         mặt, khẻ gật đầu chào. Ông lúng túng, mĩm cười đáp
         lại.              
            - Chú là người Việt.                  Người thanh
         niên tiến đến bàn ông, giọng cởi mở. Ông đứng dậy,
         bắt tay anh, vui mừng.              
            - Dạ. Tôi người Việt... Tôi tên Tánh, từ North Carolina
         đến đây công tác.                  - Em tên Sơn. Nhìn
         chú, Sơn biết là người ở xa đến.               Vừa lúc
         người bồi bàn mang thức ăn ra cho ông. Sơn nói nhanh:              
            - Hay là chú Tánh dời qua ngồi chung bàn với vợ chồng
         Sơn luôn.              
            - Được vậy thì vui quá.               Sơn giới
         thiệu ông với vợ con. Hồng, tên vợ Sơn, có khuôn mặt đẹp
         dịu dàng và nụ cười thật tươi. Nụ cười làm ông
         ngẩn ngơ thoáng chốc.                  - Gia đình Sơn cũng
         mới dọn đến thành phố nầy vài tháng nay. Chú đến
         đây lần đầu.              
            - Không. Lần thứ ba rồi. Tôi đến thiết kế trạm viễn
         thông không gian cho Space Shuttle Assembly Center.               Sơn hớn hở
         cho biết anh cũng làm trong đó, bộ phận lưu trử, database. Hồng
         ít nói hơn, lo chăm sóc thức ăn cho con. Thỉnh thoảng nàng chỉ
         đóng góp vài nụ cười dè dặt, cho đầm ấm bửa
         ăn. Đôi lần ông cũng bắt gặp ánh mắt Hồng len lén nhìn
         ông ngờ ngợ. Sơn thì nhanh nhẹn cho biết có khoảng hơn trăm
         rưỡi gia đình người Việt ở rãi rác chung quanh thành phố
         Huntsville. Hầu hết làm cho trung tâm không gian Nasa và trung tâm viễn
         thông quân đội Hoa Kỳ. Cả ông lẫn vợ chồng Sơn đều
         vui mừng gặp được người đồng hương nhưng họ giữ
         nhiều khoảng cách. Hai thế hệ chừng như có cùng kinh nghiệm
         cho những nhiệt tình hân hở ban đầu sẽ đem đến họ những
         phiền muộn về sau. Đã trở thành một thứ qui ước tự
         nhiên. Ông vẫn còn nghĩ ngợi trong nụ cười của Hồng. Bửa
         ăn cũng kết thúc, bé Thuận phải ngủ sớm cho nhà trẻ ngày
         mai. Nhịp sống không đợi ai, nên họ phải chạy theo cho kịp con
         số thời gian vật lý. Sơn ghi vội cho số điện thoại nhà và
         chỗ làm. Ông hẹn với vợ chồng Sơn buổi cơm chiều ngày
         mai. Họ vui vẽ nhận lời.                 Ông Tánh ngồi vào
         xe vẫn mông lung về nụ cười của Hồng. Ông đã gặp rất
         nhiều nụ cười, nhưng chưa bao giờ ông bị ám ảnh như hôm
         nay. Moi hết tận cùng trí nhớ, ông cũng không tìm được
         một giải đáp nào cả. Đã gặp đâu chăng nụ cười
         thật tươi nầy, đời ông ? Trí nhớ ông chợt trở nên
         tồi tệ. Ông lắc đầu, đành chịu. Cho xe ra đường lớn,
         về phía khách sạn, ông Tánh quên cả mở đèn xe. Đêm
         chơi vơi, bắt đầu. Ông thở dài, thẩn thờ dõi mắt tìm
         một vầng trăng. Bầu trời đêm thấp và đen mờ mịt. 
              	Hơn nửa
         đêm, cả nhà đã ngủ say. Nàng lặng lẽ, nhẹ tay kéo
         mấy cuốn album trong hộc tủ, ôm ra phòng khách. Nàng trằn trọc
         không ngủ được vì khuôn mặt, nhất là ánh mắt của
         người đàn ông đứng tuổi tình cờ gặp trong bửa cơm
         chiều. Đôi mắt tự tin, tha thiết nhìn nàng như quen biết thuở
         nào. Nàng đã gặp ông ta ở đâu rồi chăng ? Cái nút
         ruồi thật đậm dưới đuôi mắt trái của ông ? Chắc
         chắn là không. Vậy mà nó theo nàng đuổi nàng đến
         tận bây giờ. Dưới ánh đèn, nàng dỡ từng trang trong cuốn
         album dầy cộm. Từng trang thậm trọng lướt qua. Không một dấu vết.
         Cuốn thứ nhất. Cuốn thứ nhì. Con nhỏ lẩm thẩn quá chừng.
         Người dưng lạ quắc, bắt họ hàng làm thân. Nàng tự
         cười mình, hờ hững lướt qua cuốn album khác. Thôi cũng lở
         mất ngủ, lâu lâu nhìn lại hình ảnh xưa cũng thú vị...
         Cuốn album cuối cùng xếp lại, nàng thẩn thờ ngã người
         xuống chiếc sofa. Có lẽ đời sống nàng vẫn chờ đợi
         một hình ảnh nhạt mờ nào đó. Một cái tên trùng
         hợp hay một bóng hình không thật. Cái tên của một đoạn
         đường dĩ vãng mà chính nàng chưa hề băng qua. Nàng
         chợt ứa nước mắt. Chồng và con đang yên giấc ngủ say cho
         ngày mai có thật. Hạnh phúc đang ở trước mặt nàng có
         thật. Ánh mắt đọng nước của nàng chợt dừng lại cuối
         phòng. Đúng rồi ở một góc cuối của căn phòng mẹ
         nàng. Nơi mà mỗi đêm bà đều nhìn ngắm hằng giờ.
         Nơi bà treo bức hình họa lớn từ bức ảnh nhỏ trắng đen,
         phai màu bà bọc kỷ lưỡng trong cuốn album. Bức hình mẹ nàng
         chụp chung với người thanh niên, một thời mới lớn. Bức ảnh
         mà bà trân trọng lau chùi hằng ngày, như một kỷ vật thiêng
         liêng bất khả ly thân. Bức hình duy nhất của mẹ nàng chụp
         chung với người đang luân lưu giòng máy trong nàng. Nhiều lần
         hỏi mẹ, bà chỉ thở dài và nức nở thương nhớ như
         mới hôm qua. Chỉ một lần, có nàng và họ chẳng bao giờ
         gặp lại nhau lần nữa. Tại sao ? Tại đời bà trôi nổi theo
         vũng lầy của dòng kinh nước đen cuộc đời nghiệt ngã.
         Tại cuộc chiến tranh bùng nổ dữ dội, tan tát và nhận chìm
         bao nhiêu thân phận con người. Tại hai giòng đời họ mãi
         mãi chảy song song trên cùng mặt phẳng của định mệnh. Nhưng
         đêm nay, nàng chợt nhận ra chừng như ở cuối đuôi mắt
         trái của người thanh niên trong ảnh cũng in vết chiếc nút ruồi
         hệ lụy.              
         Nàng bật ngồi dậy và cầm điện thoại bấm số quen thuộc
         của mẹ. Tiếng reng từng hồi. Hai. Ba. Rồi những hồi sau nối tiếp.
         Không ai nhấc chiếc điện thoại ở phía kia đầu dây. Chắc
         bà đã ngủ say, quá say bởi những viên thuốc giúp bà
         vượt qua bao đêm khó ngủ, bơ vơ. Không biết bà đang trong
         giấc mơ đen tối một đời, hay đang tung bay trong một lần tươi
         đẹp đời bà thoảng khắc... Ngày mai sẽ tới, như mọi
         sự thật sẽ chồi lên theo nắng ban mai. Đêm chợt rộn rã và sâu thẳm.       5.              Bên
         cạnh Liz dựa vào vai ông thở đều. Mấy hôm nay cả ông và
         Liz đều làm việc thật dồn dập, ngày đêm. Ông ăn tại
         chỗ làm, và có ăn ngoài ông phải đi ăn với bạn đồng
         nghiệp. Họ vừa ăn vừa tiếp tục các dự kiến công việc
         sắp tới. Ông đã không có dịp nào để gặp lại
         vợ chồng người bạn trẻ ông gặp ở quán ăn. Cho đến
         một buổi sáng thật sớm, Liz gọi qua phòng ông báo cần gặp
         ông gấp có chuyện khẩn cấp. Giọng Liz không đùa giỡn, làm
         bộ. Ông vội qua ngay và đã thất Liz đứng đón ông ở
         cửa phòng. Trông mặt Liz mệt mõi và thoáng chút lo âu. Không
         phải đợi, Liz báo ông đã mất kinh hơn hai tháng và sáng
         nay ói mửa đến vật vã. Ông sờ sững nhìn Liz, không biết
         phải hành động và ăn nói như thế nào cho hợp cảnh.
         Nàng cười trấn an ông, nếu có, chắc chắn là giọt máu
         của ông. Nhưng không vì thế mà bắt buột ông phải nhận
         hoàn toàn trách nhiệm. Ông có thể chối từ, Liz không oán
         trách. Nàng muốn khám bác sĩ cho an tâm nên mới phiền đến
         ông. Làm sao ông có thể cầm lòng được trước ánh
         mắt dã dượi, xanh lơ của người đàn bà da trắng nầy.
         Và họ đã cùng trở về trên chuyến bay.               Qua
         khung cửa, phía dưới là những thềm mây trắng đang trôi ngược.
         Bầu trời xanh thắm, cùng tận. Ông không dám thở mạnh, nhúc
         nhích sợ đánh thức giấc ngủ say của Liz. Không ràng buột
         nhưng ông đang quằng nặng trên vai trách nhiệm của mình. Bất
         giác ông chạm cuốn sổ đang đặt trong lòng. Bàn tay như một
         thói quen, kéo nâng niu cây viết máy cũ kỷ. Ông cúi mắt
         nhìn thật lâu bốn chữ khắc trên thân bút đã trầy
         trụa, nhạt mờ. " Kỷ niệm Ánh&Tánh ". Chỉ có vậy.
         Võn vẹn chỉ ngần ấy là cả một đời ông đóng
         kín mọi cửa ngõ của trái tim. Tình yêu ông đã dốc
         cạn, từ những buổi đầu tuổi nhỏ. Đến nay, ba mươi năm,
         không chút phai nhạt lãng quên. Những tưởng sẽ quanh quẩn vòng
         đời, nào ngờ là nghìn trùng xa cách. Chỉ cuối một chân
         cầu, mà nửa đời tăm cá mù khơi. " Nhưng lẻ đó,
         ông lại là người hạnh phúc nhất trên thế gian nầy. Người
         có được một tình yêu vĩnh cữu trong tim ", Liz thường
         nói với ông...               
            	Trước
         mặt ông có muôn vàn bão tố. Tận đời ông có vạn
         nẽo đổi thay. Nhưng khuôn mặt và nụ cười đó, mãi
         mãi sẽ là thiên-thần-hạnh-phúc bên suốt đời ông.
         Trái tim người đàn ông dạt dào, thổn thức khi ký ức
         ông chạm lại đôi môi bé nhỏ đọng giọt mưa đêm.
         Cổ chợt khô nghẹn, đôi mắt ông trĩu nặng, nhạt mờ. Ông
         cố giương ánh mắt nhìn ra khoảng trời xanh bên ngoài. Cuối
         cùng ông cũng tìm thấy. Ông đã thật sự tìm thấy,
         một vầng trăng vằng vặc, treo lơ lững giữa ban ngày.     Nguyễn Vĩnh Long  _____________________________________________________________________________________________  
           
 
 
   
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             | 
                        
                       |