Thơ
         văn
CAO VỊ KHANH
          Montreal, Canada
  CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá
          
      
       
Ở một
         chỗ 
  rất 
          gần sao... 
 
 
  Có lần người
         bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi
         uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những
         vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ
         của những "Ông Hoàng bé ". Thử cho anh coi lại điệu vũ
         của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện
         thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống
         được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.
         Chỗ tôi đang ở cũng
         là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông
         bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn
         xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi
         lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến,
         có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và
         lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ
         trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con
         mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách
         thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm
         nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh
         đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì
         sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng
         của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam.
         Chắc quê hương tôi ở hướng đó.
  Thuở mười một mười hai tuổi,
         mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuống
         là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa
         ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời
         vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt
         cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu
         ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy
         nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi
         chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi
         con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở
         đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa như để nháy gọi nhau,
         một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã
         rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như
         tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương hột mẳn đều như
         tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm
         chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ.
         Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có
         một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra
         không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một
         lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì
         sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới
         khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra,
         trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn
         đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi
         bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ
         trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt
         mà không biết vì sao.
  Từ đó, bầy sao  cứ lấp lánh theo tôi như những cặp
         mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở
         thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng.
         Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi
         thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước
         ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Hòa Nghĩa.
  Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê
         đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy
         mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn
         nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con
         người đã làm nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm từng
         cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu
         tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người
         dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một
         thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó
         đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy
         mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của
         ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư
         vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi
         cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không.
         Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu
         vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn
         dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được
         cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước
         mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất
         động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền
         hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép
         lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái
         nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng
         hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một
         lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp
         đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh
         người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay
         tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng
         mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá
         điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của
         thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người.
         Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại
         cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền
         hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy
         không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới
         làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt,
         mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn
         người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người
         mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn
         hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro,
         xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn
         hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này,
         nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước
         đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở
         máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn
         gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước
         đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm
         chiều với vợ và bầy con nhỏ. Một phút trước đó còn
         vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà
         mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong
         mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu
         tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa
         nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh
         không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng
         lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc
         với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng
         thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có
         trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng
         nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện
         trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn
         đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn
         nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung.
         Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương.
         Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau
         khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn
         của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê
         rợn nổi lên ngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn
         gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.
         Có còn lại chăng, những
         ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong
         lòng mọi người.
  Mấy
         ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường
         phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến,
         hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết
         tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt,
         những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của
         một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một
         đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người
         lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong
         tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa
         khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống
         lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra
         nữa. Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...
  Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc
         đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng.
         Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi
         năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi.
         Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa
         bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi
         xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy
         năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ
         về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê
         muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất
         nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được
         tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi
         chờ mà cứ sợ không còn dịp.
  Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa
         đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca
         hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường
         như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở,
         tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của
         lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán
         và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia
         và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc
         sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ
         lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười.
         Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu
         da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi
         tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng
         đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng
         sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn
         độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một
         tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia,
         cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này,
         kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ
         thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn.
         Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm
         đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc
         cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa
         tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng
         tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda.
         Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống
         ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút,
         vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng
         nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi.
         Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của
         tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng
         ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của
         địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng
         như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã
         mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng
         có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi
         làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt
         bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị.
         Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.
  Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm
         buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó
         gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống
         y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của
         thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như
         thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như
         thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch
         sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người
         thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận.
         Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu
         thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang
         động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.
         Hành động sát nhân
         một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì
         đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy
         ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết
         để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng
         nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng
         một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người
         vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy.
         Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người
         này để cướp lấy quyền sống của người khác có
         phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà
         bình, công bằng và bền vững?  Có thượng đế nào
         chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện
         minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và
         nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại
         thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh
         đó.
  Nhiều ngàn
         năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn
         đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa
         đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu
         trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm
         trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn
         còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm
         giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu.
         Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại.
         Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê
         hương?
  Những đêm
         như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời.
         Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt
         ước mơ tôi.
   Cao Vị Khanh
__________________________________________________________________________________________ 
           
                             
                                        
                                
      
      ... tựu trường,
xa xứ
 
Khám phá được
         sự có mặt của một nhân vật tiểu thuyết
         trong đời thật vẫn là một điều thích thú
         thầm kín của người đọc dù rằng điều đó
         chẳng ăn nhập gì hết đến giá trị văn chương
         của tác giả hay tác phẩm. Một chút vui phụ trội vậy
         mà.
 
Trong một truyện ngắn tôi đọc đã lâu, kể
         chuyện những ngày đầu tới Mỹ của một gia
         đình Việt Nam sau cuộc chạy chết năm 75. Người cha,
         người mẹ và đứa con trai độc nhất lên sáu
         tuổi. Chuyện người lớn chắc ai cũng giống
         nhau, không nhiều thì ít. Còn chuyện đám con nít ?
 
Hình dung trở
         lại những năm bảy mươi-tám mươi, đứa bé ba-bốn-năm-
         sáu ... tuổi, rúc trong mình cha mẹ nó dưới những khoan
         ghe tối đen như mực và nghẹt ứ hơi người ...
         Và mịt mù sóng gió. Và chực chờ hải tặc. Và
những đảo hoang trôi lênh đênh giữa
         góc biển với chân trời. Rồi trại tạm cư trên
         bãi bờ hiu quạnh. Chiếc chòi lá giữa đêm mưa rừng
         nhiệt đới. Những hạt cơm khô trộn lẫn với
         cát sỏi... Rồi đất mới tạm dung. Rồi định
         cư vĩnh viễn. Rồi sau đó cũng chính nó chạy lúc
         thúc bên chân cha mẹ cho kịp cuộc đuổi bắt một
         đời sống mới, lạ từ miếng ăn thức uống,
         lạ từ tiếng hỏi câu chào ... Nó nghĩ gì trong đầu
         khi thấy cha mẹ, người lớn tất bật làm lụng,
         tính toán, rầu rĩ, lo buồn ... đến nỗi như muốn
         bỏ quên nó luôn ... dù mục đích của cuộc chạy chết
         một phần cũng vì tương lai của chính nó.
Nó thấy gì trong những giọt nước
         mắt trên mặt mẹ khi trên tay còn cầm lá thư nhòe
         chữ được gởi đi từ một xứ đã
         xa. Nó nghĩ gì khi ngó cặp mắt đăm chiêu của cha khi nhắc
         tới người thân còn kẹt lại đâu đó ... Tội
         nghiệp đứa nhỏ đã mất tuổi thơ khi chưa kịp
         lớn ...
 
Hình dung trở lại những ngày tháng đầu ở
         xứ người, trong căn chung cư hẹp té, tồi tàn, và
         chung quanh thì đầy những khuôn mặt lạ, lạ từng
         cọng tóc đến vóc dáng, nhất là thứ tiếng
         nói đa âm với những âm sắc lạ tai xoắn xuýt
         nhau như một xâu chuổi ... Nó ra vào chơi đùa một
         mình, mớ đồ chơi xin ở nhà thờ, chiếc máy
         ti-vi mua ở tiệm đồ cũ ... giữa bốn bức tường
         cũ xì, ẩm mốc và chiếc cửa khóa kín sau khi cha
         mẹ nó từ sáng sớm đã vội vã xách hộp
         đồ ăn mỗi người mỗi hướng nhảy lên
         những chuyến xe buýt đầu ngày chạy băng ngang thành phố
         ... Hình dung trở lại, nó một mình tới bữa trưa
         lục tủ lạnh tìm miếng xăng-quít mà mẹ đã làm từ
         tối qua. Hình dung trở lại, bữa ăn trưa một mình,
         đứa con nít năm sáu tuổi. Hình dung trở lại những
         buổi sáng buổi chiều buồn tênh sau khi đã chán
         chê mớ đồ chơi cũ kỷ nhàm chán, bắt ghế
         dựa đầu vào khung cửa kiếng, từ một căn
         chung cư cao ngất, nhìn ngó ngu ngơ xuống cái miệng vực
         thẳng đứng giữa hai bức vách lầu cao ngất và
         xám ngắt, dưới đó xe cộ người ta qua lại huyên
         náo để hy vọng bắt gặp một dáng vẻ thân quen
         ...
 
Hình
         dung trở lại bữa tựu trường đầu tiên không
         có sương-thu-và-gió-lạnh. Nó cũng mang cặp sau lưng nhưng
         không có bức-tượng-trắng-trong-vườn-Lục-xâm-bảo
         làm bạn như khi cha mẹ nó tựu trường ... Bởi vì nó
         bắt đầu đi học ở một nơi không phải là
         quê hương của nó nữa ... Nghĩa là nó đã bị bứng
         khỏi cái gốc ruột rà của nó, cái gốc phải có
         của một đứa-bé-việt-nam với chuồn chuồn
         châu chấu, với tiếng dế ngoài bờ cỏ, với
         cánh diều giữa đồng trống, với ngõ trúc quanh
         co, với cầu tre lắt lẻo ... Nghĩa là nó bắt đầu
         đi học làm người, người Mỹ, người Canada, người
         Pháp, người Úc .. mặc dầu cha mẹ nó vẫn muốn
         trước hết và sau cùng nó mãi là người Việt
         Nam ... Có khó cho nó lắm không ?
Hình
         dung trở lại mọi nỗi khó khăn lúng túng của đứa
         nhỏ giữa sân trường, trong lớp học khi chung quanh từ ông
         thầy đến bạn học không ai giống nó, nó cũng không
         giống ai, cái màu tóc cái màu da và nhất là cái tiếng
         nói ...
 
Nghĩa là còn nhỏ xíu nó đã phải chiến đấu
         giống y như cha mẹ nó đã chiến đấu, tả xung hữu
         đột, để tìm một chỗ đứng có chút
         ánh sáng giữa một thế giới đầy những
         nhà chọc trời đã che kín hết mặt trời.
Vậy đó, thằng bé đó đã
         chiến đấu, rất cô đơn ... dù đi học một
         mình, dù tan trường một mình, dù khi về nhà phải
         lục dưới tấm thảm chùi chân tìm chiếc khóa rồi
         nhón gót lách ca lách cách trật vuột mở cho được
         chiếc khóa cửa hoen rỉ ...
Vậy
         đó, thằng bé đó đã chiến đấu, thầm
         lặng như nhiều đứa-bé-việt-nam cùng trang lứa
         với nó, trong những năm tháng lao đao đó đã chiến
         đấu cũng cô đơn và thầm lặng như vậy
         ... ở đâu đó, trên những xứ sở lưu vong ...
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất
         nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho
         cha, cho chú bác nó trên một mặt trận khác để
         chứng tỏ với thế giới rằng đó không phải
         là tàn dư của một đội quân bại trận.
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất
         nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho
         mẹ, cô dì nó trong một cuộc kháng chiến khác để
         cưỡng chống
lại sức
         hút cuồng lưu của một xả hội tân tiến, và
         giữ cho được nguyên tính của giọt-máu-việt-nam.
 
............................................................
 
Hình dung trở
         lại tấm bằng khen đầu tiên nó mang từ trường
         về. Mắt cha nó vụt sáng. Mắt mẹ nó bỗng rướm
         giọt trong veo ...
 
Hình dung trở lại đêm đầu tiên nó xa
         nhà để đến trọ trong một campus đại học. Cha nó
         vui và lo lắng. Mẹ nó mừng và lo lắng.
Hình dung trở lại những chồng bài vở
         cao ngất, xếp qua bên để chạy tới quán ăn đầu
         đường chùi rửa từng chồng dĩa chén cao ngất,
         để khuya về chong đèn ôn luyện có khi tới hửng
         sáng rồi lại ôm sách vở chạy vội tới giảng
         đường. Hình dung trở lại những chiếc bánh pizza cha
         nó chạy giao qua phố xá vắng tanh lúc nửa đêm về
         sáng, sau tám giờ làm chính thức trong nhà máy để
         cho nó thêm chút tiền túi, phòng khi... Hình dung trở lại
         những đống vải mẹ nó ôm về từ hảng may, rồi
         chui vào một góc khuất, may luôn tới khuya lơ khuya lắc
         để sắm thêm cho nó chiếc áo lạnh khi gió đông
         đang vội vã thổi về.
Hình
         dung trở lại ... Hình dung trở lại ...
 
Hình dung trở lại ngày
         tốt nghiệp. Áo thụng mão mủ. Cha nó quằn vai vì sức
         trì của những kiện hàng quá khổ. Mẹ nó hấp
         háy tia mắt lợn cợn bụi mù từ những xưởng
         may kín mít. Cả hai sao bỗng quên hết nhọc nhằn !
...........................................................................
 
Còn nhiều
         chuyện để nói lắm, những chuyện để đời.
Những đứa-bé-việt-nam lớn lên
         ở một chỗ không phải Việt Nam.
....................................
Nhưng
         thôi. Đủ rồi.
 
Vấn đề là tên lính nhỏ can trường
         đó, những tên lính nhỏ can trường đó, đã chiến
         thắng, từng trận nhỏ, rồi trận lớn .. Cấp
         bằng đại học. Vị trí khả dĩ trong một xả hội
         dị chủng. Những đóng góp ít nhiều cho đất nước
         đã đem lòng cưu mang sau khi tương lai nó đã bị hũy diệt
         ngay trên chính xứ sở của nó từ sau cuộc bại trận
         của cha ông. Sự thành công đó còn là dịp cho cha mẹ
         chú bác nó, người đã chết, kẻ lưu lạc, người
         tù tội ... được có lần minh chứng cho lý tưởng
         mà họ đã xả thân để bảo vệ, dù có phải
         thất bại : con người chỉ được phát triển toàn
         vẹn trong một xả hội tự do và nhân bản.
 
Tháng tám
         nhiều năm sau, nhân vật đứa-nhỏ trong truyện đã
         nhảy ra khỏi cái khung truyện cũ chật hẹp để bắt
         đầu viết cho chính nó một cái truyện mới,
         khung truyện lần này chắc chắn sẽ rộng lớn
         hơn, thênh thang những chân trời ... Truyện của nó có
         thêm nhân vật mới, tình tiết mới, như loại feuilleton
         đăng báo mà mỗi ngày được đánh dấu bằng
         mấy chữ ngày-mai-đăng-tiếp như một hứa hẹn
         những khai mở bất ngờ đầy thú vị.
( nó đang làm như cha mẹ nó, bạn bầy
         trang lứa nó, gầy dựng và tiếp tục gìn giữ
         chút di sản ông bà, ở phần đất mới, rất
         xa mảnh đất quê hương )
 
Này chú-bé-nhân-vật mà tôi đã
         cảm mến khi đọc truyện, chú can trường lắm !
 
 
viết thêm
 
Tháng 9 năm nay, tôi lại có dịp ghé qua một
         buổi lễ tựu trường. Trường tiểu học,
         học trò mới cũ trai gái ồn ào và lộn xộn
         như một bầy ong vở tổ. Đám quen mặt tụ năm
         tụ ba ríu rít hỏi han kể lể. Mấy đứa bé
         vừa từ một nhà trẻ gởi sang, níu riết tay cha mẹ
         ông bà đi những bước chân líu ríu như bầy sẻ
         nhỏ.
Bất ngờ, rất bất
         ngờ, tôi gặp lại cậu-bé-nhân-vật cũ của
         tôi. Bao nhiêu năm qua rồi, từ đó. Đã bao nhiêu con nước
         xa dòng. Cũng chẳng hơi sức
đâu
         mà đếm nữa. Chỉ biết trước mặt tôi là
         một người đàn ông trẻ, chững chạc, quần áo
         thẳng thớm, lịch sự. Cạnh bên là một phụ nữ
         tây phương, cũng chừng tuổi, da trắng tóc nâu và
         mắt có màu xanh biếc. Giữa hai người là một
         đứa bé trai, có làn da trắng của mẹ và màu tóc
         đen của cha, vừa đi vừa nhún nhảy theo bước chân người
         lớn. À, cậu-bé-con, nhân vật trong cái truyện ngắn
         theo cha mẹ bỏ nước, vượt biển chết tìm đất
         sống của gần ba mươi năm trước, vừa đi học
         chữ mới vừa ngọng nghệu tập nói tiếng nước
         mình. Đến hôm nay, ngày đầu một năm học mới,
         dắt tay đưa đến trường, đứa con đầu
         lòng, kết tinh của một sự phối ngẫu kỳ diệu
         giữa hai dòng máu lạ chảy từ hai lục địa mênh mông
         xui đâu mà gặp gỡ. Lắm khi cũng chỉ từ những
         trái ngang của lịch sử. Vậy mà rồi, đôi lúc lại
         là những kết cuộc có hậu, đẹp và vui như
         bất cứ một câu chuyện cỗ tích nào được
         kể bằng hai tiếng ... ngày xưa !
 
Buổi sáng hôm nay, trên
         khắp cùng mặt đất, sẽ có bao nhiêu đứa trẻ
         việt-nam-vàng-trắng-đen-đỏ lần đầu theo cha mẹ
         tới trường để học đọc học viết thứ
         chữ không phải ... chữ-việt-nam. Điều đó có
         đáng buồn hơn nếu còn kẹt lại bên đó để
         bị nhồi nhét vào đầu thứ chữ nghĩa câu cú
         đã bị biến thái một cách quái gỡ đến
         đỗi người đi xa mươi năm sẽ phải ngỡ ngàng
         như Từ Thức khi lỡ bước về trần.
Đó là chưa kể đến những
         dụng tâm đầy hậu ý đã loại bỏ hết những
         bài Việt sử vốn dĩ đã là và phải là những
         bài học vỡ lòng của bao nhiêu thế hệ người
         Việt, làm thành chất keo sơn kết chặt họ với
         đất đai xứ sở quê hương tổ quốc. Vậy
         mà ...
 
Nhất là gần đây lại nghe tin có kẻ ( bọn ! ) lại
         còn muốn thay đổi cả cách viết, đánh vần
         ... của chữ quốc ngữ, thứ phương tiện duy nhất
         để phổ biến, gìn giữ, lưu truyền cái vốn
         liếng văn hóa đã ngàn năm của dân tộc. Thứ
         chữ viết đó đã là chiếc cầu bắt qua
         tấm lòng của bao nhiêu thế hệ, là cái gạch-nối
         người đời sau với muôn đời trước, cũng
         như chính là vốn liếng còn lại sau bao nhiêu chắt lọc
         nghiệt ngã của cả một dòng lịch sử đã quá
         đỗi trầm luân. Thứ vốn liếng đầy ắp
         bao nhiêu lời ân cần dạy dỗ,
dặn dò ... của người đi trước đã khuất
         mặt để lại cho người tới sau còn biết đâu
         là gốc tích của chính mình mà hãnh diện mà chiến
         đấu để bảo vệ tới kỳ cùng nền độc
         lập và quyền tự chủ của một mảnh giang san đã
         giành được bằng bao nhiêu máu xương của từng
         bao nhiêu thế hệ. Từ ngàn ngàn câu ca dao tục ngữ
         vốn chỉ là truyền khẩu đến những bản hùng
         văn với hằng hằng câu chữ như đã được
         trích máu từ đầu ngón tay ra mà viết, từ những
         vần thơ minh triết ẩn tàng dưới nóc am mây trắng
         đến uẩn khúc đoạn trường bi thiết qua hơn ba
         ngàn câu lục bát mà hơn ba trăm năm rồi không phai lợt
         chút sắt son ... Còn nữa, còn Nguyễn Trải với Bình
         Ngô đại cáo lấy chí nhân thay cường bạo, còn Bà
         huyện Thanh Quan với thơ Đường mà hồn thơ không
         vướng bận chút luật thơ, còn Hồ Xuân Hương
         tinh quái với mớ chữ nghĩa léo lắt, còn khúc ngâm
         Cung Oán đài các, còn khúc ngâm Chinh phụ ngọt ngào như nước
         suối trong veo, còn bao nhiêu công trình nghiên cứu lịch sử
         địa dư, dịch thuật khoa học tư tưởng từ túi
         khôn của nhân loại mà hằng hà sa số tài năng của
         dân tộc đã nặn tim vắt óc để lại cho đời
         sau.
Cả cái gia tài vô giá đó
         rồi còn được tồn tại tới ngày nay để
         con cháu có dịp học lấy sự tinh khôn, thấm nhuần
         được tấm lòng nhân hậu của cha ông, nối tiếp
         được tính quật cường của tiền nhân là
         do đã được ghi chép lại trong những văn bản kể
         từ khi có chữ viết.
 
( Có cần kể ra không những khổ
         công của cả một lớp tiền nhân những năm cuối
         thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã tìm tòi chăm chút
         uốn nắn để biến thứ chữ mới tượng
         hình mà mục đích chỉ nhằm rao giảng đạo chúa trở
         thành một phương tiện học hỏi và sáng tạo cho cả
         khối dân tộc kịp chân bước vào thời đại
         mới. Những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn
         Trọng Thuật, Nguyễn Bá Học, Nguyễn văn Vĩnh ... rồi
         Phạm Quỳnh với tạp chí Nam Phong, rồi Tản Đà ngoài bắc
         Hồ Biểu Chánh trong nam... rồi ... v.v... và v.v... Kế đó
         tiếp nối những khai phá của những Nhất Linh, Khái
         Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng ... với phong trào Thơ mới như
         sự ngửng mặt của một hồn tính việt nam thức
         tỉnh sau cả ngàn năm lệ thuộc vào ý hệ phương
         bắc ... Chữ nghĩa một ngày một dồi dào, mỗi
         lúc
mỗi hoa gấm. Xảy đến
         cuộc chia cắt đất nước năm 54, nhưng ở miền
         nam là cả một trời sáng tạo nhằm phá vở mọi
         thành trì cổ điển để tạo nên những cổ
         điển mới ... Những đột phá của Mai Thảo với
         nhóm Sáng Tạo, Nguyên Sa với Hiện Đại, Vũ Khắc
         Khoan với Vấn đề, Nguyễn Khắc Hoạch với Thế
         kỷ Hai Mươi, Viên Linh với Khởi Hành ... những Võ Phiến,
         Đinh Hùng, Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình
         Toàn, Tô Thùy Yên, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy
         Vũ v.v ... và v.v... Làm sao kể hết ! Làm sao kể đủ
         ! Còn những người lính vừa đánh trận vừa
         viết truyện. Những anh học trò vừa học bài vừa
         làm thơ. Từ thành phố đến núi rừng, đâu
         đâu cũng rộn ràng những dòng chữ, những khám
         phá và những kết tinh. Thơ văn bay nhiều không thua lửa
         đạn. Còn nhiều nhiều lắm ! Làm sao kể hết
         ! Mà thật ra có kể hết được đâu nét
         tài hoa ngùn ngụt đó.
 
Bây giờ tự dưng rồi đòi hủy
         bỏ thứ chữ viết ruột rà đó để thay bằng
         một loại qui ước mới chẳng hợp lý hợp
         tình mà cũng chẳng một mảy may cần thiết. Làm
         vậy chẳng khác gì thẳng tay chặt đứt chiếc
         cầu bắt qua triệu triệu tấm lòng dân Việt
         từ muôn đời trước đến ngần ấy đời
         sau.
Lịch sử Việt đã trải
         qua hơn hai ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc mà
         người Việt ở trong nước hay biệt xứ khắp
         cùng mặt đất, mà người Việt từ mấy
         ngàn năm trước đến người Việt của mấy
         ngàn năm sau còn hiểu được nhau, còn kết nối
         được nhau, còn có cơ liên lạc được nhau phải
         chăng chính là do thứ chữ Việt đã được
         sáng tạo, điểm xuyết và giảng dạy từ gần
         bốn trăm năm nay. Vậy hà cớ gì mà đòi đổi
         đòi thay. Vậy hà cớ gì mà muốn bứng cả gốc
         rể của một rừng đại thụ vốn toàn là gỗ
         quí.
Nếu không vì thứ tự
         cao tự đại ngu xuẩn thì hẵn cũng vì một thứ
         mưu đồ đen tối nào đó.
 
Dòng sinh mệnh của ngôn
         ngữ cũng y như của con người, cũng sinh diệt thăng trầm
         theo lẽ tự nhiên nhưng lẽ đâu không cố luyện cho
         tinh tuyền lại đem học-đòi-pha-trộn-chắp-vá-vay-mượn-quá-ư-ngu-xuẩn
         với thứ
chữ của nước
         ngoài, nhất là thứ nước ngoài vốn dĩ đã
         là giặc trong từ hơn mấy ngàn năm lập nước
         và giữ nước của cha ông.
 
v.v... và v. v...
 
Còn điều gì để nói thêm,
         buổi hôm tựu trường trên một xứ sở tạm
         trú, cách xa nơi sanh đẻ hơn nửa vòng trái đất, nơi
         bên nây ngày lên thì bên kia đêm xuống, nơi có những
         đứa-trẻ-việt-nam từ sanh ra đã có cha mẹ ông bà
         cứ tha thiết móm cho nó ê a từng dấu giọng sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng
         dù không phải không biết mai kia mốt nọ, thứ tiếng
         mẹ-đẻ-cha-đẻ đó cũng chỉ còn là những hoài
         vọng về một gốc gác đã mù. Nhất là trong
         một thế giới đang trên đà tiến bộ bằng
         những đôi-hia-bảy-dặm.
 
Dẫu vậy, họ vẫn ru, vẫn ầu
         ơ ... từng khuya hôm, vẫn móm đút từng trưa sớm
         ... từng tiếng từng chữ ... dẫu biết rằng
         ... dẫu biết rằng ... !
 
Vui thêm hay buồn thêm, buổi sáng tựu
         trường này, lần thứ bao nhiêu trong đời tôi, biệt
         xứ !
 
Cao vị khanh
______________________________________________________________________________ 
          
      
       
 Lý Bạch: Tương Tiến Tữu. Cao Vị Khanh: Phóng
         dịch 
 
 
將進酒  
 Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
 Bôn lưu đáo hải
         bất phục hồi!
 Cao đường minh kính
         bi bạch phát,
 Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.
 Nhân sinh đắc ý
         tu tận hoan,
 Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
 Thiên sinh ngã tài tất
         hữu dụng,
 Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
 Phanh dương tể ngưu
         thả vi lạc,
 Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
 Thỉnh quân vị ngã
         khuynh nhĩ thính:
 "Chung cổ soạn ngọc bất túc
         quý,
 Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!
 Cổ lai thánh hiền giai
         tịch mịch,
 Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
 Trần vương tích
         thời yến Bình Lạc,
 Đẩu tửu thập thiên
         tứ hoan hước".
 Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
 Kính tu cô thủ đối
         quân chước.
 Hô nhi tương xuất
         hoán mỹ tửu,
 Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ
         sầu.
Này anh có thấy
         hay không
Hoàng Hà chảy miết
         một dòng ra khơi
Mẹ cha sáng
         tóc xanh ngời
Chiều ra bạc trắng
         như vùi tuyết đông
Say đi những
         lúc vừa lòng
Đừng cho chén cạn ngại
         ngùng soi trăng
Tài ta ắt sẽ có phần
Ngàn vàng tiêu
         cạn sẽ hoàn lại thôi
Dê, trâu xẻ
         thịt tiệc vui 
Ba trăm chén đủ cạn
         rồi tính sau 
Này Sầm, này bạn
         Đan Khâu 
Đừng ngưng chén, hãy
         cùng nhau trọn bề
Vì nhau xin hát
         chẳng nề
Mời nghe cho kỹ lời
         quê dông dài
" Chỉ cần rượu
         đủ men say
Sá gì châu ngọc mà
         hoài cuộc chơi
Tiếng tăm
         rồi cũng một thời
Còn chăng thiên
         cổ tiếng người say sưa"
Trần Vương
         mở tiệc vui đùa
Mười ngàn
         đấu rượu thi đua uống tràn
Đâu vì
         tiền ít, ngại ngần
Mau mau mua rượu
         đãi đằng bạn thân
Này ngựa,
         này áo kim ngân
Nhỏ ơi đổi rượu
         phá tan thành sầu 
để tặng
         Hoàng Xuân Sơn và Vũ Hoàng Thư
 
__________________________________________________________________________ 
      
       

Tỳ bà hành  琵琶行
  Bạch Cư Dị 
   
  * Năm
         Nguyên Hòa thứ 10, Bạch Cư Dị bị biếm trích về
         đất Giang Châu. Năm sau, đêm thu tiễn bạn nơi bến
         Tầm Dương, cảm tiếng tỳ bà của người ca kỷ
         về già bỏ thân lưu lạc, làm cám cảnh mình bó thân
         chỗ lưu đày mà viết nên Tỳ Bà Hành.
   
  Năm thất
         quốc thứ 43, tôi vì nạn nước, lưu lạc quê người
         hơn 40 năm, đọc lại hành của Tư Mã Giang Châu mà cám cảnh
         mình, bèn phóng bút dịch ngang ra lục bát. Hay dở đúng sai
         ? Mặc. Chuyện xưa viết lại nỗi mình. Trăm đau nghìn
         hận, mình mình thương vay.
     
 
琵琶行  
   
  潯陽江頭夜送客,
 楓葉荻花秋瑟瑟。
 主人下馬客在船,
 舉酒欲飲無管弦
  醉不成歡慘將別,
 別時茫茫江浸月。
 忽聞水上琵琶聲,
 主人忘歸客不發。
 尋聲暗問彈者誰,
 琵琶聲停欲語遲。
 移船相近邀相見,
 添酒回燈重開宴。
 千呼萬喚始出來,
 猶抱琵琶半遮面。
 轉軸撥弦三兩聲,
 未成曲調先有情。
 弦弦掩抑聲聲思,
 似訴生平不得志。
 低眉信手續續彈,
 說盡心中無限事。
 
輕攏慢撚抹復挑,
 初為霓裳後六么。
 大弦嘈嘈如急雨,
   
  Tỳ bà hành
           
  Tầm
         Dương giang đầu dạ tống khách,
 Phong diệp địch hoa thu
         sắt sắt.
 Chủ nhân há mã khách tại thuyền
 Cử tửu
         dục ẩm vô quản huyền
 Tuý bất thành hoan thảm tương
         biệt
 Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
 Hốt văn thuỷ thượng
         tỳ bà thanh
 Chủ nhân vong quy khách bất phát
 Tầm thanh âm
         vấn đàn giả thuỳ
 Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
 Di thuyền tương cận yêu tương kiến
 Thiêm tửu hồi đăng
         trùng khai yến
 Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
 Do bão
         tỳ bà bán già diện
 Chuyển trục bát huyền tam lưỡng
         thanh
 Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
 Huyền huyền
         yểm ức thanh thanh tứ
 Tự tố bình sinh bất đắc chí
         Đê mi tín thủ tực tực đàn
 Thuyết tận tâm trung vô
         hạn sự
 Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
 Sơ vi Nghê
         thường hậu Lục yêu
 Đại huyền tào tào như
         cấp vũ
   
           小弦切切如私語。
 嘈嘈切切錯雜彈,
 大珠小珠落玉盤。
 閒關鶯語花底滑,
 幽咽流景水下灘。
 水泉冷澀弦凝絕,
 凝絕不通聲漸歇。
 別有幽愁暗恨生,
 此時無聲勝有聲。
 銀瓶乍破水漿迸,
 鐵騎突出刀鎗鳴。
 曲終收撥當心畫,
 四弦一聲如裂帛。
 東船西舫悄無言,
 惟見江心秋月白。
 沈吟放撥插弦中,
 整頓衣裳起斂容。
 自言本是京城女,
 家在蝦蟆陵下住。
 十三學得琵琶成,
 名屬教坊第一部。
 曲罷曾教善才服,
 妝成每被秋娘妒。
 五陵年少爭纏頭,
 一曲紅綃不知數。
 
 
Tiểu
         huyền thiết thiết như tư ngữ.
         Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
 Đại châu tiểu
         châu lạc ngọc bàn.
 Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
 U yết
         lưu cảnh thuỷ hạ than.
 Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
 Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
 Biệt hữu u sầu
         ám hận sinh,
 Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
 Ngân bình
         sạ phá thuỷ tương bính,
 Thiết kỵ đột xuất đao
         thương minh.
 Khúc chung thu bát đương tâm hoạch.
 Tứ huyền
         nhất thanh như liệt bạch.
 Đông thuyền tây phảng tiễu vô
         ngôn,
 Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
 Trầm ngâm phóng bát
         sáp huyền trung,
 Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
 Tự
         ngôn bản thị kinh thành nữ,
 Gia tại Hà Mô lăng hạ
         trú.
 Thập tam học đắc tỳ bà thành,
 Danh thuộc giáo
         phường đệ nhất bộ.
 Khúc bãi tằng giao thiện
         tài phục,
 Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
         Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
 Nhất khúc hồng
         tiêu bất tri số.
   
  鈿頭銀篦擊節碎,
 血色羅裙翻酒污。
 今年歡笑復明年,
 秋月春風等閒度。
 弟走從軍阿姨死,
 暮去朝來顏色故。
 門前冷落車馬稀,
 老大嫁作商人婦。
 商人重利輕別離,
 前月浮梁買茶去。
 去來江口守空船,
 繞船明月江水寒。
 夜深忽夢少年事,
 夢啼妝淚紅闌干。
 我聞琵琶已歎息,
 又聞此語重唧唧。
 同是天涯淪落人,
 相逢何必曾相識。
 我從去年辭帝京,
 謫居臥病潯陽城。
 潯陽地僻無音樂,
 終歲不聞絲竹聲。
 往近湓城地底濕,
 黃蘆苦竹繞宅生。
 其間旦暮聞何物,
 
 
Điền
         đầu ngân tì kích tiết toái,
         Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
 Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
 Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
 Đệ tẩu tòng
         quân a di tử,
 Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
 Môn tiền lãnh
         lạc xa mã hy,
 Lão đại giá tác thương nhân phụ.
 Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
 Tiền nguyệt Phù Lương mãi
         trà khứ.
 Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
 Nhiễu thuyền
         nguyệt minh giang thuỷ hàn.
 Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
 Mộng đề trang lệ hồng lan can.
 Ngã văn tỳ bà dĩ thán
         tức,
 Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
 Đồng thị
         thiên nhai luân lạc nhân,
 Tương phùng hà tất tằng tương
         thức.
 Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
 Trích cư ngoạ
         bệnh Tầm Dương thành.
 Tầm Dương địa tích vô âm
         nhạc,
 Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
 Trú cận Bồn giang địa
         thế thấp,
 Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
 Kỳ gian
         đán mộ văn hà vật,
   
杜鵑啼血猿哀鳴。
 春江花朝秋月夜,
 往往取酒還獨傾。
 豈無山歌與村笛,
 嘔啞嘲哳難為聽。
 今夜聞君琵琶語,
 如聽仙樂耳暫明。
 莫辭更坐彈一曲,
 為君翻作琵琶行。
 感我此言良久立,
 卻坐促弦弦轉急。
 淒淒不似向前聲,
 滿座重聞皆掩泣。
 座中泣下誰最多,
 江州司馬青衫濕。
  Đỗ quyên
         đề huyết viên ai minh.
 Xuân giang
         hoa triêu thu nguyệt dạ,
 Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
 Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
 Âu á triều triết nan
         vi thính.
 Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
 Như thính tiên
         nhạc nhĩ tạm minh.
 Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
 Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
 Cảm ngã thử ngôn
         lương cửu lập,
 Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
 Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
 Mãn toạ trùng văn
         giai yểm khấp.
 Toạ trung khấp hạ thùy tối đa,
 Giang Châu tư
         mã thanh sam thấp.
   
 
Bài hành Tỳ Bà
  phóng dịch
    
   Đêm Tầm Dương,
         tiễn người đi
  Lá mùa thu quạnh thầm thì nỗi riêng.
          Người xuống ngựa, kẻ dưới
         thuyền
  Sáo
         đàn không tiễn rượu phiền không vui.
  Men say càng thấm ngậm ngùi
          Trăng soi mặt nước
         lòng vùi dập đau.
  Vẳng đâu vọng lại tiếng sầu
  Giây tỳ bà, điệu
         kinh cầu ... nghẹn tim !
  Tiếng đàn chìm giữa lòng đêm,
  Người đi kẻ ở buồn
         kềm tay nhau.
  Hỏi
         han cho rõ âm hao.
  Tỳ bà bặt tiếng ly tao ! Ngại ngùng ?
  Ghé thuyền tỏ dạ khiêm
         cung,
  -Bình sinh
         mấy thuở trùng phùng nghiệp hoa
  Khêu đèn, bày tiệc cùng ta,
  Ân cần mời
         gọi gần xa mấy lần.
  Đàn che nửa mặt, phân vân.
          Tay so cần trúc
         tay lần giây tơ.
  Cung cầm vừa mới dạo hờ,
  Mà sầu dạ khách đã
         mờ... sương đêm.
  Thiết tha từng sợi tơ mềm,
  Năm cung réo rắt từng niềm
         bi thương.
  Khúc
         đầu tay lựa Nghê Thường,
  Đàn Lục Yêu chuyển như mường
         tượng mưa,
  Rạt rào âm nhặt âm thưa,
  Khi to khi nhỏ cho vừa nỉ non.
  Lại khi tiếng mất tiếng
         còn,
  Tiếng
         chim lượn gió, tiếng dồn suối xa,
  Lúc róc rách, lúc vỡ
         òa,
  Rồi
         ngưng bặt như nước đà lập đông.
  Tình buồn đọng cứng
         cõi lòng,
  Thinh
         im mà tưởng phiêu bồng cõi mơ.
  Đang khi nín lặng như tờ,
          Dưng không chuyển
         động tưởng cờ lịnh bay.
  Rập rình vó ngựa dặm dài,
          Quân đi cuốn
         gió lung lay đất trời.
  Rồi ...dưng trời đất chơi vơi,
          Tay thuôn bốn ngón
         ghìm hơi tỳ bà.
   
  Đàn kêu tiếng xé lụa hoa.
  Rồi im. Rồi nín. Rồi là ... nghẹn câm.
          Bốn bề lặng
         lẽ, u trầm,
  Sót
         trăng thu lạnh dọi thầm sông thu.
  Gác đàn, gài phím, ôn nhu,
  Rằng:- quê thiếp vốn
         kinh đô thị thành.
  Hà Mô lăng, quê mẹ sanh,
  Mười ba tuổi đã rành cung tỳ bà.
          Danh lừng năm ngón
         tài hoa,
  Mỗi
         nắn phím, mỗi tụng ca rộn ràng.
  Mỗi ghen tức, mỗi điểm
         trang,
  Thu Nương
         cũng phải chịu hàng lánh xa.
  Lời ca đổi vóc lụa là,
  Lược trâm bắt nhịp
         ngọc ngà vở tan.
  Những chàng trai trẻ Ngũ Lăng,
  Nghìn vàng mua lấy cung đàn mỹ nhân.
         
  Quần hồng
         lấm giọt rượu ngon,
  Đời vui cứ tưởng vuông tròn mãi sau.
          Ai ngờ vui chốc
         buồn lâu,
  Tử
         sinh ai biết, cơ cầu ai hay.
  Cô già tuổi hạc vụt bay,
  Tùng chinh em chịu đắng cay
         vạn phần.
  Thoắt
         chiều thoắt sáng, hoa tàn.
  Sắc phai vẻ thắm, hương tan vị mời.
          Cổng nhà sớm
         vắng, chiều lơi,
  Ngựa xe qua chẳng ghé lời hỏi han.
  Ngày qua tháng tới, muộn
         màng,
  Gá thân
         nương dựa khách buôn thương hồ.
  Kẻ trần tục, nhám tay thô, 
         
  Sớm chiều
         quên lãng bỏ cô độc người.
  Khuya hôm thuyền lỡ làng trôi,
          Cảm thân thế,
         mộng lại thời xuân xanh !
  Lệ buồn ướt đẫm từng
         canh,
  Nhòe son,
         nhạt phấn cho đành chiêm bao.
  -Tỳ bà đã giục cơn sầu,
  Kiếp hồng nhan
         lại làm đau nỗi mình !
  Cùng chung kiếp nạn điêu linh,
  Gặp nhau chẳng đợi
         phải tình thân quen.
  Nghĩ mình đã
         lắm ưu phiền,
   Tầm-Dương-đất-trích
         buồn riêng chuyện đời.
   
          Xứ xa lạ cảnh lạ
         người,
  Sớm
         trưa chiều tối khuya thui thủi buồn.
  Ngày qua rồi tháng theo luôn,
          Năm theo vội vã
         như ruồng rẫy nhau.
  Một đời quá nửa chiêm bao,
  Nửa rầu hận nước,
         nửa đau hận mình
  Buồn vui rồi cũng làm thinh,
  Ai chia ai xẻ những bình minh tươi.
          Buồn vui rồi
         cũng ngậm ngùi,
  Ai than thở những chiều rơi quạnh chiều.
          Ở đây vui ít
         buồn nhiều,
  Rượu đơn chiếc đắng trăm điều dở
         dang !
  Mỗi
         ngày mỗi cuộc điêu tàn,
  Ai người san bớt nỗi hoang tịch đời
          (*)
  -Ở
         đây buồn một riêng tôi,
  Sao đem cung oán làm bồi hồi nhau.
          Riêng, chung  cũng
         một điệu sầu,
  Vì nhau gảy lại khúc đau đoạn trường.
          Lặng người,
         lắng lại tang thương,
  Bốn giây bật khóc bài trường hận
         ca.
  Cung trầm
         cung bổng thiết tha,
  Điệu hờn điệu tiếc xót xa điệu
         lầm.
  Tiếng
         đàn dứt, lệ khôn cầm !
  Áo-xanh-một-thuở khóc thầm, từ
         khi ...
   
          Cao vị khanh
  ngày 14 tháng
         5 năm 2018
  9.31 PM
  * thơ riêng ghép với buồn chung,
         một vần.
 
 
_________________________________________________________________________ 
           
                                                                                           
         
    
      
      
 
LỜI TRẦN TÌNH CỦA NGƯỜI THẦY
         CŨ 
 
 
trích...
...........
   
  1.
          
  Tại sao đến hôm nay tôi lại viết những
         dòng này ? Những dòng chữ lẽ ra phải được viết
         ra từ nhiều năm trước. Tại sao tôi đã giữ kín
         trong lòng hơn suốt hai mươi mấy năm nay những điều
         tôi sẽ nói bây giờ. Bởi vì tôi thấy nó tầm
         thường, quen thuộc đến nhàm chán. Nó hao hao giống
         với hàng trăm hàng ngàn câu chuyện đã được
         kể ra. Câu chuyện về một quê hương bị bức
         tử, của hai mươi lăm triệu người bị tước
         đoạt quyền sống một cách ngang nhiên, tức tưởi.
         Câu chuyện tôi kể có khác không ? Chắc là không
         ! Chỉ thay đổi một cái tên, một nhân dáng là
         có một câu chuyện đời thương tâm, quen thuộc
         đến độ cái thương tâm khó còn làm xúc động
         ai nữa. Tội nghiệp cho tôi, tội nghiệp anh, tội
         nghiệp em, những con người đã quen với cái bất
         hạnh đến thành dửng dưng, quen với cái tan nát đến
         độ chai lì. Tội nghiệp trái tim Việt Nam đã 
         quá độ cằn cỗi.
   
         Vậy tại sao tôi còn viết. Tại
         sao trong cái buổi chiều nắng nhạt ở một thành
         phố ven biển miền tây nước Mỹ, bỗng nhiên
         tôi gặp lại em, người học trò cũ. Người thiếu
         phụ trên dưới 40, trong bộ âu phục lịch sự đã
         đến chào tôi bằng tiếng thầy vốn quá xa
         lạ từ hơn hai mươi năm nay, giữa một nơi lạ lẫm
         đến từng cọng cỏ ngọn cây, đã làm tôi thảng
         thốt đến độ sững sờ. Em đó sao, cô học
         trò ngày xưa rụt rè như thỏ con, cứ mỗi lần được
         gọi trả bài là mắt như rươm rướm, ngồi im như
         pho tượng nhỏ, thành khẩn và tin cậy, nghe tôi mở
         đầu bài giảng Chinh phụ bằng cái hình ảnh tuyệt
         vời của tiếng trống trận dập dồn làm lay
         động cả bóng trăng xưa. Cái cô học trò nhỏ vẫn
         thường tung tăng chiếc áo dài chưa-biết-sầu trong
         những quán bán quà vặt ngoài cổng trường, vẫn
         thường len lén cắm vội cánh hoa tươi lên bàn thầy
         như một lời cám ơn nhỏ nhẹ và kín đáo. Tại
         sao hôm đó, giữa những lời thăm hỏi nồng nàn
         hay dửng dưng, giữa nỗi ngậm ngùi của một thân
         quen gặp lại, nỗi hụt hẩng của một cái tên biệt
         tích, cái náo nức của một lời hẹn tái ngộ,
         em bỗng hỏi tôi một cách điềm đạm và ân
         cần, điềm đạm như cánh hoa dại ngắt vội bên
         đường và ân cần như ngón tay vụng lén cắm vội
         lên góc bàn viết, em đã hỏi tôi :
             -Vậy chớ thầy
         đã sống ra sao từ hai mươi mấy năm nay ?
   
  Câu hỏi
         bỗng làm tôi giựt mình. Tôi đã sống ra sao từ
         hai mươi lăm năm nay ? Có lần nào tôi đã hỏi mình
         như vậy ? Cuộc sống như dòng sông phẩn nộ,
         cuốn phăng ta đi không-nghĩ-lại-qua-đêm ! Người xưa
         đã nghĩ vậy, bây giờ tôi thấy còn đúng hơn
         nữa. Con sông Việt Nam chảy tẻ thành triệu nhánh, có
         nhánh dài nhánh ngắn, nhưng nhánh nào cũng chảy miết
         xa nguồn. Có lần nào mỏi mê chèo chống ta ngó lại
         đời ta ? Bến nước nào bỏ lại ? Bãi bờ nào
         đành đoạn xa ? Những cầu sương điếm cỏ ! Những
         quán khách dặm trường ! ... Có một lần nào ngồi
         lại ta tính toán đời ta chưa ? Những được thua còn
         mất ! Những ân oán nợ nần ! Ta đã làm được
         gì đời ta ? Hai mươi lăm năm qua mãi miết như tên bại
         tướng lọt giữa vòng vây, tả xung hữu đột, đến
         lúc kiếm gãy cờ tan mà vòng thù còn trùng điệp,
         tự dưng sao thấy lòng ngao ngán chỉ muốn buông tay ngồi
         bệt xuống vệ đường, bật khóc. Bởi lẻ,
         trong phút giây, tất cả rồi ra sẽ nhạt nhòa như một
         cái gì không có thật. 
   
          Tôi đã sống thế nào trong
         những năm qua ? Sao bỗng dưng tôi thèm được một
         lần tâm sự dù biết rằng ở giữa lòng
         ốc mượn, có nói gì cũng không hết tang thương.
         Hai mươi lăm năm có phải đã đủ khoảng cách và bình
         tĩnh để nhìn lại một chặng đường. 
           
  Tôi,
         thằng sinh viên 19 tuổi năm 65 đến trường Văn Khoa
         để lang thang ngoài hành lang lộng gió thường hơn trong
         giảng đường chật nứt, đã ngồi ở quán
         cà-phê Văn lâu hơn ở thư viện, vẫn viết vội
         những câu thơ bất chợt lên góc mấy bao thuốc
         lá rồi bỏ quên đâu đó mất biệt, đã
         chảy nước mắt nghe Khánh Ly đi chân trần hát tôi-có-người-yêu-chết-trận-Ba-gia
         ... trên nền đất cũ cạnh đường Lê Thánh Tôn,
         đã đọc ngấu nghiến truyện Bắt trẻ đồng
         xanh của Salinger suốt một đêm thức trắng, đã đi
         trình diện vào trường Đại Học Sư Phạm với chiếc
         quần jean bạc thếch và đầu tóc dài ngổ ngáo,
         đã ngồi mò mẫm học nắn nót từng nét chữ
         tàu và cũng hay lang thang ngoài phố để nghe người nhạc
         sĩ già oằn người thổi bản Summertime lúc nửa đêm
         về sáng. Thằng thanh niên lạ lùng, tên giáo sư trẻ ra
         trường năm vừa hai mươi ba tuổi, lãng mạn như một
         bài thơ tình, đứng đắn -hay cố gắng đứng
         đắn- như một nhà giáo lão thành, với những
         mâu thuẩn trùng trùng đó đã sống thế nào
         từ hai mươi lăm năm nay ? Từ cuộc đổi đời
         năm ấy ?
   
  ... Lệnh đầu hàng từ Sài Gòn loan ra
         trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lời báo dữ như tiếng sấm
         trái mùa làm nổ tung giông bão đang giậm giựt giữa
         thinh không. Lòng người cũng giống thinh không buổi đó,
         ngầy ngật cơn nóng sốt thời cuộc, âm ỉ một
         niềm lo nghĩ không nguôi. Người ta chờ đợi một
         cái gì đó xảy ra, một cái gì mơ hồ không dám
         nghĩ tới vậy mà cứ lẩn quẩn trong đầu.
         Từ vài tháng gần đây, tin tức chiến sự và
         chính trị mỗi ngày mỗi tồi tệ. Mùa mưa sắp
         đến. Cộng quân chuẩn bị đánh lớn như mọi
         năm. Ở Sài Gòn thì năm phe bảy phái rình rập nhau tranh
         giành quyền hành. Rồi Cao Miên và Lào lần lượt
         thất thủ. Rồi miền Trung di tản. Cao nguyên bỏ ngỏ. Từ
         giữa tháng ba, những chiếc bè mỏng manh chở người
         lánh giặc từ vùng giới tuyến đã bắt đầu
         tấp vào bờ biển Phan Thiết, Vũng Tàu. Người
         ta xầm xì bàn tán về một giải pháp liên hiệp,
         những cắt đất chia ranh, hoặc tệ hơn nữa, một
         đảo Phú Quốc như trạm tự do cuối cùng cho đám
         người cùng khổ. Người ta lo lắng, nghi ngại, hy vọng
         rồi thất vọng, rồi lại tiếp tục lo lắng, nghi
         ngại ... Những người có tiền của, quyền thế
         thì chộn rộn sửa soạn cho một chuyến đi xa. Còn
         đa số tiếp tục sống trong nỗi hoang mang, trì trệ.
         Trường học vẫn còn mở cửa nhưng chỗ ngồi
         đã thưa trống dần. Sợ chờ đợi kéo lê
         ngày tháng một cách mệt nhọc. 
   
  Cho đến buổi
         trưa ngày 30, trời đất bỗng như tan tành trong một
         giây một phút. Lệnh buông súng xắn xả như viên
         đạn bắn trúng ngay tim. Trong một chốc, cả miền Nam
         như ngừng thở. Người ta sửng sốt, bàng hoàng,
         ngây dại như tỉnh như mê. Người ta thử nghe đi nghe lại
         như cố nghĩ mình nghe lầm, như có một cái gì đó
         không thật. Mọi người chết điếng nhìn nhau, lẳng
         lặng, thất thần. Rồi bỗng như một cơn đau
         kích xúc mãnh liệt ùa tới, mọi người chợt
         hiểu. Cái không dám nghĩ tới đã tới. Tới thật.
         Đến lúc đó, nỗi sợ hãi như một cơn gió
         lạ thổi rút vào người, luồn theo mạch máu làm
         tê liệt châu thân, căng thẳng đầu óc, cổ
         khô, miệng đắng, chân tay rời rã. Người ta biết
         không phải chiêm bao, người ta biết mình đang ở giữa
         một sự thật, cái sự thật mạnh hơn cả đạn
         trái phá, nổ tung hết cả ước mơ của một đời
         người, giựt sập hết mọi niềm tin của bao thế
         hệ. Người ta cảm thấy chới với, hụt hẩng,
         ngơ ngác, bối rối ... Người ta đổ túa ra đường,
         chạy vội về nhà, nhốn nháo một cách vô ích
         như chỉ để có một cái gì đó để làm,
         như chỉ để lấp đầy cái khoảng trống khủng
         khiếp vừa hiện ra giữa đời sống, trong lòng
         người. 
   
  Miền Nam chống giặc từ 30 năm không phân
         thắng bại, vậy mà tự dưng sụp đổ trong vòng
         55 ngày. Dân theo quân kéo nhau chạy chết, dẫm đạp lên
         nhau, trong khi đạn thù xối xả đuổi sau lưng, xác bỏ
         sình thối bên vệ đường mù bụi hay trôi tấp
         theo sóng biển vật vờ. 
   
          Địa ngục ở một chỗ rất
         gần và rất thật !
   
          Anh nghĩ gì, hởi người lính
         trẻ, khi anh kê súng tự bắn vào đầu, buổi sáng
         ngày 30 bên chân cầu xa lộ. Có phải cái hình ảnh cuộc
         tháo chạy thảm hại của cả một chế độ đã
         làm anh hổ thẹn ? Hay cái cao ngạo sừng sững của hồn
         thiêng sông núi đã không cho anh khuất nhục ? Cái chết
         của anh có phải là lời cảnh cáo hay chỉ là lời nhận
         lỗi của cả một thế hệ bị hy sinh ?
   
  Có ai còn
         nhớ không anh ?
   
  Vậy đó mà miền Nam mất.
  Vậy đó mà dâu bể tang thương.
         
  Người cộng sản vào thành
         phố với lời phủ dụ ngon ngọt không-đụng-tới-cây-kim-sợi-chỉ
         của người dân. Tuy nhiên thực tế khác xa cả trời
         cả vực. Ai cũng biết sẽ có nhiều thay đổi nhưng
         không ai ngờ sự thay đổi rốt ráo và tàn tệ
         tới vậy. Người ta bắt đầu một cuộc
         tàn phá mới sau 30 năm tàn phá đất nước và
         con người bằng súng đạn. Cuộc chiến tranh hũy diệt
         mới, ít ồn ào hơn, cũng không kém phần tàn độc.
         Bằng những âm mưu thâm hiểm và những tính toán
         xảo quyệt mà người ta đã tìm cách quân-bình-hóa
         hai miền nam-bắc, thay vì tìm cách nâng cao đời sống
         của miền Bắc, người ta lại kéo tụt đời sống
         của miền Nam xuống cho ngang tận mức kiệt cùng. Bằng
         cách nào thì cũng không che giấu được cái tâm lý
         hèn hạ nhỏ nhen vì ghen tức của đám lãnh tụ mất
         lương tri, sôi sụt ý muốn trả thù trước một
         miền Nam phồn thịnh dù vừa xây dựng vừa phải
         chống giặc. Song song với những cuộc đổi tiền-
         một hình thức phá giá đồng bạc- những cuộc
         cướp giựt tài sản của tư nhân được ngụy
         danh là cải tạo kinh tế xả hội, gom hết mọi tài lực,
         vật lực và nhân lực của đất nước vào
         trong tay một nhóm người vừa ngu dốt vừa cuồng
         tín, người cộng sản tổ chức một cuộc
         tráo đổi " vĩ đại'' và " ngoạn mục ". Hằng
         ngày, hằng đêm từng đoàn xe vận tải bít bùng,
         những chuyến xe lửa dài thậm thượt vội vội
         vàng vàng tháo gỡ máy móc, dụng cụ tân tiến cồng
         kềnh chở rầm rộ về Bắc, để rồi
         chở quay ngược vào Nam những đoàn bộ đội
         ngờ nghệch, những cán bộ xảo quyệt, những
         đám dân nghèo đói từ hai-mươi-năm-xả-hội-chủ-nghĩa,
         đổ xô vào những thành phố mới chiếm để
         tiếp tục cuộc vơ vét, xin xỏ, tráo trở, mua rẻ, hăm
         dọa ... đủ kiểu đủ cách gom góp từ cái chén, đôi
         đủa, cái đồng hồ, chíếc xe đạp, cái ti-vi
         ... đến căn nhà, dãy phố ... Cùng lúc, nhà tù được
         ngụy danh là trại cải tạo mọc lên như nấm dại, trong thành
         phố, ngoài đồng hoang, hay tít trên những vùng rừng
         sâu nước độc. Bằng thông báo chỉ thị mập
         mờ, nhà cầm quyền mới lừa gạt đưa vào
         tù hàng trăm ngàn quân nhân công chức của chế độ
         cũ trong khi hàng giờ hàng phút, từ miệng những chiếc
         loa treo mắc khắp hang cùng ngỏ hẻm ra rả những lời bao
         dung khoan hồng hòa họp hòa giải ... Sau những cuộc sàng
         lọc, kẻ nhốt trong Nam, người đày ra Bắc. Từng đoàn
         tù chất chồng trên những toa tàu chở súc vật
         chạy băng băng trong đêm tối kinh hoàng, từ Nam ra Bắc,
         đổ xuống và dẩn giải qua những xóm làng xa lạ
         và thù nghịch. Hai bên đường, dân chúng được
         tổ chức, xúi giục chửi rủa ném đá vào những
         xác người tả tơi thất thểu. Cuộc trừng phạt
         trả thù không kể ngày tháng, người tù không danh số,
         không bản án một khi bước vào trong cổng trại tự
         nhiên biến mất như chìm lẫn vào những rừng
         cây bạt ngàn, mất hút trong những đồi núi chập
         chùng, không còn lại chút dấu vết. Thế giới không
         hay biết -hay không muốn biết đến- dãy quần-đảo-ngục-tù
         nằm mênh mông ngay trong lòng đất nước như một
         vết chàm ô nhục. Ở đó người tù bị bỏ
         đói ngày này sang tháng khác đến độ phải ăn
         cả côn trùng, củ dại để sống sót, phải lượm
         mót từng bao cát mục nát để chắp vá che thân, phải
         lao động khổ sai bằng tay không và chân trần đến
         kiệt lực. Ở đó, bệnh hoạn không một viên
         thuốc, cô lập bít kín mọi tin tức bên ngoài, người
         tù còn phải chịu đựng một cuộc tra khảo tinh thần
         thường trực bằng những màn tự khai, tự thú,
         phản tỉnh ... Đã không ít người còn có dịp trở
         ra.
   
  Địa ngục trần gian có ở một nơi rất gần
         và rất thật.
   
 
trích
         ......
   
          .........
  2.
   
          Có lẻ để chấm phá cho đủ
         nét bi-hài của vở-tuồng-giải-phóng, tôi và một
         số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tù-cải-tạo
         với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh : " dạy
         học trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh
         phá cách mạng (sic)".
  ....................
          Nhiều đêm, nằm trằn trọc
         trên tấm tôn lạnh buốt, trong ngôi đình làng được
         biến thành trại tù, tôi bật cười khan khi nghĩ tới
         tội danh " khôi hài " đến chết người này.
         Hóa ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái,
         nghĩa yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng
         thức cái đẹp, tôn trọng sự chân thực ... là một
         cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như vậy nếu
         theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù, phản
         trác, lật lọng mới là " cách mạng ". Nghĩ mà thương
         cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn trong thời
         đại dối trá. 
  ....................
          Giữa đêm oan khuất mịt mờ
         âm khí của trại giam, tôi cứ thao thức, mắt mở trao
         tráo, lăn lộn với những thắc mắc không lời
         giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm ? Tại sao hòa bình
         ? Để làm gì đống xương vô định đó ? Chẳng
         lẻ để đánh đổi sự lệ thuộc này
         bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại hơn cả vạn
         vạn lần ?
  ....................
  Trong những lúc cùng quẩn nhất, sao
         tự nhiên tôi nhớ lại cặp mắt thất thần
         của người thi sĩ vô danh trong cuốn phim Docteur Djivago chiếu ở
         Sài Gòn mới vài năm trước. Trên chuyến xe lửa
         chở tù đi lưu đày xuyên Tây-bá-lợi-á vào thời
         kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước Nga,
         chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như
         cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn
         cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một
         góc trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như
         trống hoác, sâu thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động
         như cố chụp bắt cho được con trăng đang chạy vun vút
         ngược đường tàu. Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn
         bao giờ thấy lại vầng trăng lãng mạn đó nữa
         khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay của lũ sát
         nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù
         nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu,
         bơ vơ đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu
         hắt chiếu rọi qua dặm trường thất lạc, như
         một thú nhận cho sự bất lực của những giá
         trị tinh thần trước cơn bạo hành của lịch sử. Cặp
         mắt như một hoi hóp của lương tri, báo hiệu cho thời
         đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ nhìn
         tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi thấy
         mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết.
         Và dân tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối
         chờ chết trong mẻ lưới khổng lồ đó. 
          Những câu hỏi " tại sao " cứ
         tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi trong cuộc sống
         tù đày vốn đã không có gì dễ chịu. Những
         ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô
         tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm,
         những người cầm quyền mới không biết phải
         giải quyết ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã
         bắt nhốt vào đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy
         buồn bực chua chát. Có dịp tiếp xúc với những
         cán bộ chính trị và quân sự của họ, tôi càng
         thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và càng
         thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học
         vấn ấu trỉ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng
         tín vừa nông cạn của họ sẽ đưa đất nước
         tới đâu ? Có lúc nghe họ nói chuyện, tôi có cảm
         tưởng đang đứng trước một đám người
         máy, lập đi lập lại y nguyên, không sai một dấu
         phẩy, không sót một dấu chấm những điều
         đã được cấy nhét vào bộ óc của họ, y
         như một con két nói líu lo mà không biết mình nói gì.
         Rồi ra chúng ta sẽ sống ( hay chết !) ra sao với những
         người chủ mới, cầm quyền với mớ kiến
         thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và
         nhất là đường lối chính trị lỗi thời
         ? Rõ ràng chúng ta đang sống vào một thời kỳ oái
         oăm của lịch sử, mới hết tang thương này đã
         vội sang đoạn trường khác. Những trái ngang đã liên
         tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt
         vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa
         bình, chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng
         ta sẽ tiếp tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái
         cảnh một người học trò cũ, trước giấu mặt
         như một kẻ nằm vùng nay là một cán bộ thành
         danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò chuyện
         bên kia hàng rào kẻm gai một buổi trưa giáp tết có
         phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không ? Đứa
         học trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp
         đệ tam đến đệ nhất. Đứa học trò
         đã cùng tôi tranh luận về những chủ nghĩa chính
         trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở
         bãi Đá bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn
         Sơn rái. Nó có một cái tên khá đặc biệt mà
         tư tưởng và hành động đã làm tôi nghi ngờ
         - không, tôi biết chắc là có liên hệ với phía
         bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật
         đó ? Tại sao tôi không báo với nhà trường ? Với
         chính quyền ? Tôi đồng ý với nó ? Chắc chắn
         là không. Thương nó ? Có thể có. Nhưng ở cương
         vị một người thầy, tôi có làm công việc
         điềm chỉ đó được không ? Điều tôi giữ
         kín có phải không ? Và như vậy tôi sẽ nói thế
         nào về người em họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa
         ra trường được 6 tháng, lãnh nguyên một tràng đạn
         AK  trong đêm hưu chiến tết Mậu Thân, chết không
         kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà chưa có
         được một người yêu để biết thương
         nhớ. Sự kín miệng của tôi có phải là một
         phản bội trắng trợn với những người bạn
         đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong những
         cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún
         sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch
         ba-lô súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày
         di hành tối nằm tiền đồn, để giữ an
         ninh cho một thành phố, một ngôi trường được
         yên lành học tập, một ngôi chợ được yên
         lành mua bán.
  Tôi sẽ nói gì
         về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi
         chỉ là ngày tháng đợi chờ, về người góa
         phụ mới hai mươi tuổi ẳm đứa con sơ sinh đi nhận
         xác chồng, về những người mẹ người cha suốt
         đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác vọng về, về
         viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp Cai Lậy,
         về những hầm chôn người tập thể ở
         Huế, về trái lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ
         đầu xuân ... và sẽ nói gì với người bạn tù
         đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc trong các
         trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người phế
         binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ ?
  Có lời nào để biện hộ cho cái
         thái độ im lặng đó ? 
  Câu
         hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu
         quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho
         được câu trả lời. Nhưng có câu trả lời nào
         đâu em ! Ai nói được cho tôi thái độ của người
         học trò cũ, người cán bộ của tỉnh ủy bây giờ,
         nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín "
         bí mật '' của người thầy cũ dưới thời
         " công an trị ".
  Ai sẽ giải
         thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ,
         thụ hưởng của người-dân-hậu-phương suốt
         cuộc chiến 30 năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện
         mà mỗi gốc cây là mìn bẩy, mỗi bãi cỏ
         che giấu một hầm chông tẩm độc, mỗi lời
         nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn
         dựng thâm hiểm ... 
  Ai sẽ giải
         thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài Gòn xa hoa,
         những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc,
         những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy
         bằng cả tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương
         khô ngày này sang tháng khác ...
  Ai
         sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông
         dân biểu buôn lậu, những ông trí thức ngồi
         xa-lông bàn chuyện quét dọn xã hội, những tuyệt-
         thực-tự-thiêu, những bãi-khóa-xuống-đường,
         những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày, những phong-trào-đòi-quyền-sống
         v.v... và v.v... Ai sẽ chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của
         anh, của chị, của chúng ta trong cơn đổ vở này ? !
          Có ai không ? Hay chỉ là những im lặng
         đồng lõa, những nín thinh cam phận, những lãng tránh
         vu vơ, hay chỉ là những đổ thừa tệ bạc, những
         trốn chạy hèn nhát ... Và tôi, tôi đã đóng vai trò
         gì trong vở tuồng trường hận đó ? !
  Cái trách nhiệm của mỗi người
         trong chúng ta đến đâu, làm sao tính toán đo lường
         được. Chỉ thấy rõ một điều là ngày hôm
         đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía
         kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận,
         người thầy đã từ chối làm một-việc-cần-làm
         . Hằng hà sa số  công-việc-cần-làm khác đã
         bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh ... Và
         bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vở, cảnh
         tù đày, nỗi tiếc hận có phải là cái giá
         của một nền đạo đức mà tôi đã được
         nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ
         thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này
         đã chọn lựa, đã chiến đấu để bảo
         vệ cho dù đó là một trong những đầu mối
         của cuộc thất bại trong cuộc chiến trường kỳ
         giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và
         cái sai . 
  Ai sẽ trả lời ? Và
         trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó ?
   
  Những ngày
         cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường,
         lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám
         tù tụ năm tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ
         chiều để sưởi ấm. Ngọn lửa rọi chập
         chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy buồn
         thắt dạ bởi không ai biết được ngày về.
         Cái lạnh kỳ cục chui rút vào xương tủy làm như để
         nhắc nhở con đường khổ nạn nằm ngay chính trong
         ta. Sân trại rộng mênh mông, rải rác vài đóm lửa
         hiu hắt, mập mờ mấy bóng người quấn khăn
         mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui trông không khác gì
         cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ chịu
         nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở
         thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn
         sàng che giấu giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày,
         ngay cả những lúc cuốc đất đào mương dở
         rào phá cổng, những cặp mắt cú vọ của bọn
         vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm như đã
         thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ
         đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn
         tránh khỏi bị cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt
         giam. Đêm về, chỉ còn ta và bóng tối. Đêm về
         chỉ có ta và gió và mây và tất cả những gì mà
         chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những
         câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước
         đoạt, tự do đã bị cướp mất. Những ngày
         đó tôi làm từng câu thơ vụn vặt, rời rạc giữa
         hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá nặng còng lưng,
         lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi quên, đợi
         đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm
         cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài
         thơ lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt
         nhục nhằn. 
   
  Tôi ba mươi tuổ̉i chế́t không
         mồ
  Giữa trái tim nồng
         nhát chém khô
  Đã khóc
         Khuấ́t Nguyên thời trẻ dại
  Mắ́t giờ cay xé chuyện dời đô
           
  Tôi
         viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi, cho một
         dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu
         khúc cho người còn sống hay đã chết. Tôi viết
         luôn cho người chưa sanh ra, bởi vì đất nước
         mà tôi để lại cho em sẽ không còn là cái quê hương
         hiền lành với tình người rạt rào như sóng lúa
         và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi đã
         khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt
         đã chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra
         có giọt nước mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương
         này.
   
  Ôi vết thương sầu tận đáy tim
          Năm năm vật vã nỗi
         đau chìm
  Đêm đêm
         máu gọi trường thiên hận
  Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm
   
  Cái
         vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn
         mưng mủ nhiều năm về sau nữa. 
   
  trích
         .......
   
          ..........
  3.
   
  Sau hơn một năm nhốt lên nhốt xuống
         và chuyển từ trại tù này sang trại tù khác tôi được
         thả ra khỏi cái nhà tù nhỏ để đẩy vào cái
         nhà tù lớn hơn ngoài xả hội, cũng vô cớ như
         khi bị bắt đi tù. 
   
          Kể từ hôm đó, tôi sống
         lưu vong ngay trên chính đất nước tôi !
  ..................................................
  ............................................
  .....................................
           
  Không
         ! Người ta không còn quê hương khi không còn thấy liên
         hệ gì nữa với mảnh đất vườn rau, công
         viên phố xá ... nhất là với nếp tinh thần đang
         bị ép uổng theo một thứ chủ nghĩa vừa ngoại lai
         vừa quái đản. Cuộc sống từ đó bị hạ
         thấp xuống ngang hàng thú dữ. 
   
  Từ đó, bị dồn
         vào đường cùng, người Việt miền Nam bắt
         đầu tìm lối bỏ nước ra đi, bằng đường
         bộ hay bằng đường biển thì cũng chỉ là tuyệt
         vọng hóa liều, một kiểu đi tìm cái sống trong
         cái chết. Đi mà không biết chừng nào đi. Đi được
         rồi không biết chừng nào tới. Nếu tới cũng
         không biết tới đâu. Chưa kể những bẫy gài,
         những gạt gẫm, những mìn chôn ở bìa rừng,
         những đồn bót hiểm hóc, những dãy đá ngầm
         khôn dò, những mùa chướng không chừng đổi,
         đám hải tặc chực chờ và sau hết biển cả
         như một người tình phản trắc. Ở lại để
         chết dần mòn hay bỏ đi để chết dấp dúi
         ở một bờ bãi nào đó, người ta chọn cách
         thứ hai với chút hy vọng mỏng còn hơn sợi chỉ mành
         treo chuông. Vậy mà người ta vẫn tìm đủ cách để
         ra đi, bán nhà bán cửa, trốn chui trốn nhủi, nhịn đói
         nhịn khát để ra đi. Những người Việt mà nếp
         sống ngàn đời dính liền với ngọn rau tấc
         đất, với mồ mả ông bà, những người Việt
         mà đạn bom mấy chục năm không tách rời họ ra được
         khỏi làng xóm, mà thiên tai bão lụt chỉ làm họ nặng
         lòng hơn nữa với quê hương, đến cùng cũng dứt
         bỏ ra đi. Quả nhiên câu chuyện " Hà chính mãnh ư hổ
         " đâu phải chỉ có trong sách xưa thôi đâu. Đến
         cuối thế kỷ 20 người ta vẫn không sợ gì hơn
         sợ chính trị hà khắc. Người dân Việt vốn
         quen cực khổ như đã ngàn năm cực khổ với
         quê mẹ nghèo nàn, vẫn bám vào mảnh đất cằn
         cỗi như gốc tre già bấu rễ trong lòng đất
         có nghiêng ngã theo gió bão, nhưng vẫn ở đó, dẻo
         dai, bền bĩ, an nhiên tự tại. Có ai bỏ đi đâu, đời
         này sang đời khác, dính liền như núm ruột. Vậy
         mà lần này bỏ đi thiệt, cắt ruột mà đi. 
          Tôi đã thấy những cơn đau
         cắt ruột đó. Có thật trong mắt bà mẹ dặn
         dò gởi gắm đứa con trai 10 tuổi cho người quen dắt
         trốn. Có thật trong cái siết vai vội vàng của người
         chồng chia dẩn hai con đi trước để lại hai đứa
         cho vợ đợi chuyến sau. Có thật trong cái lạy tử
         biệt cha mẹ già. Có thật trong cái vuốt mắt cho đứa
         em kiệt sức giữa đường. Có thật trên xác
         thân trần truồng của em gái bị luân phiên hãm hiếp
         ở đảo Ko-Kra. Có thật ... Mà đúng ra làm sao tôi thấy
         hết được hằng hà cơn đau cắt ruột đó
         ? Hơn 10 năm, bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu người tới
         được một bãi bờ nào đó, còn bao nhiêu người
         đi mà không tới, hay tới mà không kịp lên bờ vì
         thuyền lật chìm ngay nơi bãi đến !
  Ở đảo Bi-đông, trên một góc đồi
         ngó cheo leo ra biển cả có một nghĩa trang sơ sài và những
         nấm mộ không tên. Ở đó ngày đêm gió heo hút
         thổi, cây cỏ lần lữa vàng, 
  Ở đó, trại đã đóng cửa, người
         ta đã bỏ đi hết, những núm đất chắc đã
         lạn mất, những mộng đời bỏ dỡ, giữa đường
         ...
   
  Tôi cũng bỏ xứ ra đi năm 80. Thuyền ra bến khoảng
         3giờ sáng. Đêm mịt mù như tấm lòng bỏ lại. Tiếng
         máy chạy rì rầm không át được tiếng sóng
         vổ ngược rập rền. Khi thuyền chui ngang Cầu đúc
         để ra biển, sao bỗng nhiên tôi nghe tim nhói đau. Có
         phải không, tôi đang chạy trốn lần nữa cái trách
         nhiệm của mình. Năm năm ở đó, dò la nghe ngóng, hy vọng
         rồi thất vọng, tôi chẳng làm được gì ngoài
         cái việc tự cứu mình. Đất nước của tôi,
         đất nước của em, chúng ta bỏ lại mặc dầu có
         ai không tiếc thương. Xứ sở bị kềm kẹp nghẹt
         thở, bên kia biển là tự do hy vọng. Mọi người bỏ
         đi là lối thoát cho mình. Nhưng còn đó nguyên vẹn một
         cơn đau, còn đó đầy ứ những uất nghẹn.
         Ai sẽ cởi ách giùm ta nếu không phải là ta ! Một vài
         nhen nhúm phản kháng bị dập tắt trong trứng nước.
         Rồi thôi, coi như một việc đã rồi, mọi sự
         đã an bày, mọi người đều yên phận. Gục đầu
         ở lại hay cúi đầu bỏ đi cũng chỉ là chấp
         nhận một tình trạng không chấp nhận được.
         Chắc tại ta bất tài thiếu đức. Hay tại ta không
         đủ niềm tin. Hay vì cuộc chiến đã kéo dài quá
         mức, dài hơn cả độ dài của những tấm lòng
         trung kiên nhất, đến lúc kể cả những cánh tay
         rắn chắc và dẻo dai nhất cũng đành bỏ mặc
         buông xuôi ... Nước mất, chúng ta đành làm kẻ thất
         phu bỏ trốn. Chúng ta lần lượt bỏ đi, kẻ trước
         người sau, bất kể nguy hiềm kề cận từng
         bước. Cả thế giới khâm phục nỗi nhục nhằn
         mà người ra đi đã gánh chịu. Tuy nhiên đi mà em thơ
         còn thiếu bầu sửa ngọt, đi mà cha mẹ già còn bữa
         cháo bữa rau, đi mà cả nước vẫn tiếp tục chìm
         đắm trong cảnh ngu dốt nghèo đói, vẫn tiếp tục
         sống trong sự đối đãi bất nhân ... thì quả
         thật có phải là đầu hàng thêm một lần thứ
         hai nữa ? Sao ngày trước có Việt Câu Tiễn nằm
         gai để đừng quên nỗi nhục mà nay kẻ sĩ ít
         người còn chịu nếm mật để nhớ hận
         xưa Có phải tại phần số dân ta không ? Hay chính vì
         tại chúng ta là một dân tộc quá mau quên, lại còn
         nhẹ dạ !
   
  Tôi cũng vậy, tôi đang bỏ đi xa đây, hởi
         quê hương khốn khổ !
   
          Bốn ngày sau, thuyền tới đảo
         Bi-dong. Con thuyền nhỏ và mỏng như chiếc lá khô đổ
         lên bãi 90 người mất hồn, mệt lã. Chân lảo
         đảo vì say sóng, đầu còn lao đao giữa mộng và
         thực, bỗng nhiên tôi ứa nước mắt khi nhìn thấy
         lá cờ cũ bay phần phật trên cổng trại giữa
         một ngày gió lớn. Màu vàng lợt lạt, vải tưa sút
         sổ như đã treo ở đó từ lâu lắm, chắc
         đâu từ ngày người tỵ nạn đầu tiên đặt
         chân lên đảo. Chỉ có ba lằn gạch đỏ là còn đậm
         nét, cuốn bay ngoằn ngoèo, vùng vằng như thể vẫn
         còn giận dữ. Cái màu vàng đã phai, mấy lằn
         gạch đỏ còn đậm sao bỗng làm tôi khóc. Có phải
         tại tôi nhìn thấy màu vàng xơ xác đó trên màu
         da của tôi, của những người bạn đồng thuyền
         đang bở ngở dắt dìu nhau lê lết lên bãi, của
         những người đồng cảnh đến trước đang
         nhốn nháo kéo đến hỏi han tìm kiếm, của hàng
         trăm ngàn người đồng tình đang lưu lạc lang thang trong
         các trại tỵ nạn, và của hàng triệu triệu đồng
         bào tôi còn đang oằn oại ở xứ ngục tù. Có
         phải tại tôi nhìn thấy mấy lằn đỏ đó như
         mấy vệt máu tươi trên xác anh xác chị nằm chết
         la liệt vì miểng đạn pháo dọc Đại lộ kinh hoàng,
         vì viên đạn bắn sẻ lẻ loi từ một gốc cao
         su bên đường 13, vì trái mìn bẫy hèn hạ và mù
         lòa không phân biệt được một quân xa hay một
         chiếc xe đò chở dân đi chợ sớm. Có phải tại
         tôi thấy màu đỏ đó giống như màu máu đang
         chảy mệt nhọc trong huyết quản tôi, cũng giống y như
         màu máu đã chảy lênh láng trên đất nước tôi
         suốt ba mươi năm qua một cách vô lý và vô ích.
         Có phải không chính màu cờ đó mà anh đã tập
         chào kính ngay từ tuổi mới đến trường, đã
         theo anh suốt những năm tháng dài đi giữ nước, đã
         gói ghém thi hài anh buổi đưa anh vào lòng đất, bây
         giờ đây lá cờ đó đang bay vật vờ trên
         một đảo hoang ở giữa chừng biển lạ. Sao tôi
         thấy có một cái gì thảm thiết lắm. Sao tôi thấy
         chừng như mình quá đỗi bội bạc. Những người
         đã chết không còn vui hay buồn. Nhưng những kẻ còn
         sống làm sao vui được !
  Tôi
         mang nặng cái tâm tình đó đi định cư ở một
         vùng đất lạnh. Ở đây có những tháng mùa đông
         dài như bất tận. Gió đồng không khô khốc
         thổi tuyết bay mù mịt. Trời xám ngắt làm thèm
         nhớ một giọt nắng tươi. Mỗi lần ra đường
         là áo khăn trùm quấn sùm sụp từ đầu đến
         chân, nhiều năm sau vẫn không quên được cái hơi
         nóng nồng nàn của trời đất cũ, đêm chiêm
         bao cứ thấy đi về ngồi quanh bếp lửa quê
         nhà. Nhưng riết rồi cũng quen, quen cả cái lạnh nứt
         da bỏng thịt, quen với mùa màng chộn rộn, quen với nếp
         sống tất bật đến nỗi không có thì giờ
         để buồn tủi. Ban ngày làm công cho một tiệm buôn
         của Tàu, tối chạy giao hàng cho tiệm ăn của Ý. Cuộc
         sống kể ra cũng tạm yên. Số tiền kiếm được
         nhín nhút cũng đủ cho mấy miệng ăn ở đây và
         một phần chăm đút cho cha mẹ còn kẹt ở đó.
         Nghĩ ra cũng đáng công băng sông vượt biển ! Mấy
         năm đầu qua mau như sợi giây đàn căng cứng, sống
         chẳng kịp đắn đo. Nhưng rồi càng sống càng
         thấy mình lệch lạc. Nhiều khuya một mình lái xe về
         qua mấy con phố vắng hoe, lòng bỗng nhiên chùng xuống
         như sợi giây đàn lỏng phiếm, có khảy lên cũng chẳng
         nghe được tiếng nào ra hồn. Chẳng lẻ trầy
         trật chạy chết thoát sang đây để suốt đời
         bương chải lo cho mấy cái miệng ăn, còn lời hẹn
         lớn ngày bỏ ra đi sao chẳng lo được cho trót. Theo đuổi
         lắm lần rồi cũng chỉ thấy còn lại toàn đắng
         cay. Những lời thề xưa nghe sao thơn thớt ở đầu
         môi. Bạn đồng tâm một ngày một vắng vẻ.
         Có lắm khi giữa buổi chuyện trò chợt lỡ lời
         nhắc chuyện ngày xưa cũng đủ làm đôi người
         khó chịu. Mấy năm lận đận gồng mình nuôi
         thân nuôi con và nuôi chí cả chỉ làm mình thành cô đơn
         hơn nữa. Dường như đã không ít người quyết
         tình quên cho đỡ phiền toái. Thật ra nói mà không
         trách được ai. Cái nợ nước nặng bằng non
         bằng biển, có một thời hình như ai cũng nhớ
         cũng mang. Nhưng rồi chuyện quê hương mà có lúc đem
         rao bán, đổi chác làm sao cho khỏi chán chường. Người
         thiên hạ cũng giống như chim bị tên sợ ná, đôi
         lần đem tấm lòng son gởi gắm, việc lớn đã
         không thành thì chớ, lắm khi lại thấy cảnh xôi thịt
         tranh giành, thử hỏi làm sao giữ cho bền chí được.
         Chắc tại căn phần của đất nước ta. Hay như đã
         nói tại chính chúng ta, chúng ta là một dân tộc quá
         mau quên. Có phải không, hãy thử nghĩ lại coi. Bỏ quê hương
         chúng ta bỏ cha bỏ mẹ đã xẻ thịt cho ta chào đời, đã
         vắt cạn bầu sửa lép cho ta kháu khỉnh, đã còng
         lưng cho ta đứng thẳng lên làm người, đến ta
         khôn lớn mẹ cha mòn mõi mắt mờ chân yếu ta lại
         bỏ mà đi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ trời bỏ đất
         đã che chở cưu mang, đã cho ta hạt cơm ngon, mùi hương lạ,
         đã cho ta biết tình đầu ngây ngất, biết nghĩa
         nặng vợ chồng, đã cho ta bạn bè chung thủy, dạy ta biết
         buồn vui, nhớ thương, hờn giận ... và còn bao nhiêu
         thứ khác nữa mà ta sẽ không bao giờ tìm được
         ở một nơi không phải là quê hương. Vậy mà
         đến chừng đất nước hoạn nạn, ta lại bỏ
         xứ mà đi. Đi như vậy đâu phải như người
         Tàu ở Đài Sơn Phúc Kiến đi tìm miếng ăn manh
         áo, rồi đến lúc phú quý thì " áo gấm về
         làng ". Dĩ nhiên không ai chối cãi cái chén cơm ăn từng
         bữa, nhưng đánh đổi hết núi sông bằng miếng
         thịt cá, thì kể ra cũng đáng thẹn thùng. Quên lửng
         món nợ mà ta đã vay là không tròn chữ " tín ".
         Tay bắt mặt mừng với kẻ thù hôm qua là không tròn
         chữ " nghĩa ". Làm người không có " tín nghĩa
         " thì lấy gì mà ngẩng mặt lên đối đãi
         với đời !
  Rõ ràng từ
         25 năm trước, chính chúng ta đã lên tiếng kêu gào
         vang dội bằng những cuộc vượt biên hãi hùng
         làm cả thế giới rúng động. Cuộc-bỏ-phiếu-bằng-chân
         như một trả lời dứt khoát ngay mặt lũ tuyên truyền
         láo khoét, mở toang cánh cửa khóa kín che đậy thực-tế-
         Việt-Nam cho nhân loại có dịp nhìn thấy mặt thật
         của cái-gọi-là-lương-tâm-loài-người mà người
         cộng sản vẫn luôn miệng rêu rao. Nếu chúng ta đã
         không trực tiếp đánh đuổi được bạo quyền
         thì ít nữa chúng ta cũng đã gián tiếp làm một
         việc cần-làm, biểu lộ tối thiểu ý thức
         phản kháng của một dân tộc tự trọng. Ít nữa
         cha mẹ ta cũng đỡ phần tủi hổ, bạn bè ta cũng
         có chỗ gởi lòng và đất nước ta còn có
         cơ hy vọng. Rõ ràng thế giới đã mở cửa đón
         chúng ta như những người trốn chạy độc tài.
         Rõ ràng lòng hào hiệp đó là một vinh danh cho ý thức
         tự do. Chúng ta đến đệ tam quốc gia như những
         người tỵ-nạn- chính-trị. Sao không giữ lấy niềm
         hãnh diện đó dù là một hãnh diện rất tội
         nghiệp. Bởi vì dẫu sao đó là chút liêm sĩ còn
         sót lại của một dân tộc có lịch sử và văn
         hiến lâu đời. 
  Tại sao
         lại kéo nhau về khi tình thế vẫn giống y như ngày
         bỏ ra đi ? Làm như vậy có phải chính tay ta bôi lấm
         cái hình ảnh đầy cảm tính của người-thuyền-nhân
         trong lòng thế giới. Chúng ta có đang làm bẽ bàng những
         ủng hộ trước đây hoặc gây ngộ nhận đáng
         tiếc rằng mọi sự đã thay đổi tốt đẹp
         ở đó. Mỗi bước đi về hôm nay là một
         bước đi xa thêm cái ước vọng mà mỗi người
         ở bên này hay bên kia đã thắc thẻo trông ngóng từ
         một phần tư thế kỷ nay. 
  Trở về như vậy có phải là đầu hàng
         thêm một lần thứ ba nữa !
   
  Em thấy đó người
         ta đang lũ lượt kéo nhau về, thản nhiên như mới bỏ
         đi hôm qua hôm kia. Thản nhiên như không có gì đã xảy
         ra ở giữa lòng ta hay ở bên kia biển lớn. Làm như
         những nấm mồ la liệt đã lạn mất dưới
         ba tấc cỏ, những trại tù đã hết sạch, những
         hờn oán đã tiêu tan. Làm như xác tàu nằm chơ vơ
         trên bờ bãi hoang vu là bộ xương cá mục, những trinh
         tiết rơi rớt trên đảo hoang mọi rợ là cái giá
         phải chăng, những xác chết trôi dập rã rời trên
         đầu sóng dữ chỉ có trong ác mộng. Làm như chuyến
         vượt biên bán sống bán chết là cuộc du ngoạn
         đồng tình và lý thú. Làm như cái chuyện anh em ta, bạn
         bè ta bị đày đọa đến bỏ xác trong các trại tập
         trung sau khi đã buông súng là hợp công lý, cái chuyện
         nhẫn tâm mua bán xua đuổi hàng triệu người ra biển
         dữ là thuận đạo trời, cái sách lược chèn
         ép kềm giữ con dân trong sự tối tăm ngu dốt là
         hợp lòng người. 
  Tại sao
         lại hăm hở kéo nhau về khi mà mọi sự mọi việc
         mọi chuyện mọi thứ mọi lối mọi cách mọi kiểu
         mọi điều ... vẫn ù lì trì trệ như nước
         ao tù hãm đã ù lì trì trệ từ ngàn ngàn năm
         xưa năm xửa. Thử bình tâm mà xét coi. Từ chính trị
         đến kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn rặt một
         bài bản cũ xì, mốc thếch, lỗi thời mà thiên
         hạ bốn phương đã đào huyệt chôn bỏ từ
         đời nào. Cái đau lòng là ngay tại đất mẹ của
         nó, người ta cũng đã sáng mắt phủi bỏ cái chủ
         nghĩa tàn hại bất nhân đó như phủi bỏ một loài
         sâu nhặng ghê tởm thì tại Việt Nam những đầu
         óc cầm quyền già nua tối ám vẫn khăng khăng cứng
         đầu cứng cổ nhắm mắt nhắm mủi quơ quào
         bám riết lấy, cương quyết theo đuôi như chưa bao
         giờ cương quyết đến vậy. Trong khi cả thế
         giới đang hào hứng lên đường cho kịp vận hội
         mới, thì tại Việt Nam họ vẫn bịt mắt bịt tai tiếp
         tục chằng giữ dòng sinh mệnh của dân tộc, tiếp
         tục trì kéo dân lành đi cho hết cuộc trầm luân.
         Những chiêu bài " đổi mới ", " cởi trói
         " chỉ là những giả vờ làm mà mắt kẻ ngây thơ,
         còn thật sự thì tiếng nói của lương tâm chỉ
         có thể cất lên đằng sau những chấn song tù
         ngục.
   
  Có ai nghĩ rằng về như vậy là mặc nhiên
         thỏa hiệp với độc tài, là tiếp tay bóp chết
         cái phôi dân chủ còn trong trứng nước. 
  Tại sao lại rủ rê kéo nhau về vô tư như
         một chuyến đi chơi xa. Làm như chốn đó là một
         nơi nào xa lạ lắm, chẳng có một chút liên hệ
         ruột rà. Làm như tai điếc mắt mù nên không thấy
         cái sinh hoạt " ồn ào và náo nhiệt " hiện nay
         chỉ là mặt nổi của một xả hội tuyệt vọng
         đến độ buông thả, cái kiểu ăn chơi " chết
         bỏ " chẳng cần biết đến ngày mai. Bên cạnh
         đó, đại đa số thì nghèo đến độ cũng
         thành ra buông thả, chạy ăn từng bữa nên cũng chẳng
         còn biết đến ngày mai. Bởi vì có một ngày
         mai nào đâu để lo, có một ngày mai nào đâu để
         chuẩn bị. Người ta sống qua ngày nào hay ngày nấy,
         không một mảy may hy vọng vào tương lai. Đó có phải là
         một trong những lý do mà chúng ta phải bỏ đi. Tại sao trước
         đó không chịu nỗi mà bây giờ trở về lại
         khứng chịu ? Hay tại cảnh tình lam lủ đó không có ta, chẳng
         dính dáng gì đến vợ con ta, nên mắt ta bàng quang, lòng
         ta thanh thản. Vậy chớ còn nỗi nhục của lần trốn
         chạy ? Nỗi căm hận cuộc bách hại cha ông ? Nỗi
         đớn đau thắt ngặt của nghèo đói và ngu dốt
         ? Chẳng lẻ 25 năm đã làm mòn trí nhớ để thấy
         thù là bạn. Hay thật sự ta chỉ là một đám cùng
         dân mòn đầu tha phương cầu thực, không ý thức
         chẳng lý tưởng, đến khi có đồng tiền
         rủng rỉnh thì tìm về khoe áo gấm, để thỏa mãn
         cái sở thích " sadique " chỉ khoái lạc khi thấy người
         chung quanh đau khổ. 
  Dĩ nhiên ai
         cũng có cha mẹ già cần về phụng dưỡng, em út cần
         bảo bọc. Nhưng có cần thiết và hợp tình không
         đi thưởng lãm vịnh Hạ Long, lăng tẩm Huế, phố
         xá Sài Gòn ... nhởn nhơ phè phỡn như một đoàn
         du lịch dư ăn dư mạc, khi hai bên đường sông núi vẫn
         xác xơ, cây cỏ còn buồn rầu và lòng người
         nặng nề uất hận. Anh hay chị có gặp không, dài
         theo tam cấp mấy ngôi đền, lấp ló sau mấy hàng
         cột, từng bầy trẻ nhỏ lang thang chờ đợi mấy
         đồng bạc bố thí của anh chị, mà lẻ ra giờ đó
         phải ngồi trong lớp học. Có một cái gì không ổn,
         có một cái gì trục trặc, phải không ? Anh hay chị có
         lần nào ăn uống linh đình trong một nhà hàng sang trọng
         mà trước cửa hàng chục đứa bé lem luốt đang
         chực chờ vét hột cơm thừa húp tô canh cặn của
         anh chị không ? Có một cái gì quá bất nhẫn, phải
         không ? Có khi nào anh chị thả dài nhởn nhơ trên bãi biển
         Vũng Tàu Nha Trang Phan Thiết để nhìn cái hoạt cảnh của
         những cô gái bán hàng rong và bán luôn cả thân xác.
         Có lần nào được nghe kể lại về những
         trò chơi của đám du khách Việt kiều trong các căn phòng
         khách sạn dành cho người nước ngoài chưa ? Những đồng
         đô-la được thảy ra để trả giá từng bộ
         phận trên tấm thân phụ nữ trần truồng giữa
         tiếng cười sặc sụa hơi rượu thịt. Ngay cả với
         một cô điếm thập thành, cái trò mua bán đó
         đã là một cái gì quá ư tàn nhẫn. Biết đâu
         cô gái đó đã không là nạn nhân của một chế
         độ mà chính chúng ta nhờ nhanh chân hơn, nhờ may mắn
         hơn đã chạy thoát. Đùa giỡn như vậy có phải
         là đùa giỡn trên chính sự tan nát của lòng ta không
         ? Dòm quanh coi có những lối rẽ nào cho những cuộc đời
         khốn khổ đó ? Vẫn những mặt người thờ
         thẫn, những cặp mắt u ám, những lưng còng tóc
         rối, những chân tay khẳng khiu, những xác thân gầy
         đét, những cuộc đời buồn hiu ... Xứ nào cũng
         có người nghèo đói, nhưng tại sao người nghèo đói
         ở xứ mình không có một chút may mắn nào để
         thoát ra. Dòm quanh coi những trường học, nhà thương, đường
         xá, cầu cống ... đã có gì là dấu hiệu của
         một sự phát triển đúng đắn có kế hoạch
         cho một tương lai lâu dài chưa ? Hay chỉ là những vá víu
         tạm thời, chụp giựt, những chương trình sớm thay chiều
         đổi hoặc là những bày biện vẽ vời cốt
         để trám cho đầy bảng thống kê, nhất là để
         trám cho đầy cái túi tham không đáy của bọn người
         man trá. Ngó suốt từ nam ra bắc có tìm ra được
         một dấu hiệu nào cho lòng thành khẩn, ân cần
         của kẻ cầm quyền lo cho con dân như những thời thịnh
         trị. 
  Như vậy tại sao lại rầm
         rộ kéo về ?
  Có phải
         tại chúng ta là một dân tộc quá nhẹ dạ. Mới nghe
         giở cái giọng o bế đòi nối liền " khúc ruột
         ngoài ngàn dặm " là đã mũi lòng, mà không chịu
         nhớ đến hằng chục triệu " ruột thịt "
         khác vẫn còn đang tiếp tục bị chèn ép thắt buộc
         đến mức oằn oại ở trong nước. Tại sao họ
         không lo nối cho liền lạc những khúc đời tơi tả
         đó, mà lại phải tốn công vòng vo đi níu kéo những
         kẻ đã bỏ trốn, đã bị giáng cho cái tội phản
         quốc tày trời, đôi khi năm lần bảy lượt mới
         vượt thoát sau khi đã bị cướp hết từ vòng
         vàng đến nhà cửa, nhất là nhân phẩm của
         một con người. Hay là tại vì những kẻ đó đã
         " hết " phản quốc vì trong túi đã có chút đỉnh
         đô la sau nhiều năm cày cục ở xứ người. Và
         vì vậy, một sớm một chiều trở thành khúc
         " ruột tượng " của chế độ. Người
         ta nhân danh hai chữ dân tộc không ngượng miệng, kêu
         gào đến thảm thiết đám con dân đã bỏ trốn
         ở nước ngoài, vốn dĩ đã bị chèn ép xua đuổi
         không chút xót thương trở về để tiếp tế,
         hợp tác, xây dựng lại đất nước sau khi đã
         thẳng tay tàn phá và vẫn đang thẳng tay vơ vét, hưởng
         thụ trên đầu trên cổ của đám dân đen còn
         kẹt lại, những tài nguyên nhân vật lực đang có
         sẵn. Nghĩ ra thấy trân tráo, vô luân một cách thảm
         hại.Vậy mà vẫn có những chuyến trở về
         !!!
  Vâng, vẫn có những chuyến
         trở về.
  Người ta vẫn
         ngang nhiên đi về qua lại vui chơi, mua bán, làm ăn chẳng một
         chút bận lòng. Vẫn tiếp tục qua lại cửa quan với
         tờ giấy năm, mười đô-la kẹp giữa sổ thông
         hành, vẫn tiếp tục coi tờ giấy bạc như tấm
         danh thiếp " passe-partout ". Và như vậy, mặc nhiên tiếp
         tục thông đồng với nhà cầm quyền, phát triển
         và nuôi dưỡng một hệ thống tham nhũng hối
         lộ chằng chịt, tiếp tục nuôi béo cho những cánh
         tay bạo lực đang bóp cổ bịt miệng đám người
         thấp cổ bé miệng, tiếp tục nuôi béo cho những
         bàn chân bạo lực đang dẫm đạp lên những phận
         người vô tội - hay chính là thân phận của anh em bạn
         bè quyến thuộc của chính họ còn kẹt lại. 
  Điều đáng nói là người ta coi
         việc làm đó như một chuyện đương nhiên, không
         thắc mắc, chẳng bận tâm. Một chuyện tầm
         thường như trăm ngàn chuyện tầm thường nhất.
         Nhưng mà có thấy không, cái bi đát là đến một
         lúc cái tầm thường đó nổi tiếng như một
         đặc-điểm-việt-nam . Chúng ta có thấy ray rứt
         gì không ?
   
  Hai mươi lăm năm đã qua, qua nhanh như một cơn
         lốc. Tôi đã già đi nhiều. Những mộng ước
         cũng theo tóc bạc dần. Chuyện nước non vẫn còn
         đó, nguyên vẹn. Mười lăm năm trước tôi đã
         kết thúc một bài thơ bằng cái hình ảnh tuy cay đắng
         nhưng nghe còn rạo rực :
   
          Ta lơ láo giữa bầy chim múa
         rối
  Làm sao về trổi
         kịp khúc hoan ca ?
   
  Mới gần đây tôi lại viết, nhưng
         sao chỉ thấy buồn hiu :
   
          Ôi đất nước có
         còn vui kịp
  Một đời
         tôi héo úa từng giờ !
   
          Thơ tôi cũng bắt đầu thấm
         mệt như đời tôi vậy. Hai mươi lăm mất nước.
         Hai mươi năm lưu lạc rồi còn gì. Chữ hiếu không
         tròn mà chữ trung cũng không trọn. Nghĩ lại còn thua kẻ thất
         phu ngậm than rửa hờn cho chủ cũ. Nhớ đến Bá
         Di Thúc Tề chẳng chịu ăn rau Chu mà thêm thẹn với đời.
         
  Chuyện lớn không làm được,
         chuyện nhỏ càng thêm vụn vặt. Ngó quanh quất chỉ thấy
         lệ cũ đã đóng khô, xếp xó trong từng góc
         bụi nhòa. Sợ mai kia mốt nọ, đám nhỏ lớn lên có
         khi tự hỏi sao mình ở đây, ở một nơi không
         phải chỗ mình ? Có ai không để bắt đầu câu
         chuyện kể : " Ngày xưa, đã lâu lắm, có một
         lũ người bỏ xứ ra đi rồi ... không kiếm được
         đường về ... "
   
           
  ... Độ
         rày, trời sắp sửa vào thu. Ngày bỗng dưng ngắn
         lại và đêm, đêm thì cứ dài ra như không sáng nữa.
         Những cơn gió lạnh chiều chiều từ dãy núi xa ở
         bên kia con sông lớn đã bắt đầu thổi về
         thành phố mang theo cái mông quạnh của những đồng cỏ
         bạt ngàn ở mạn bắc, và đồng thời cũng mang
         đi mất bầy sẻ nhỏ thường làm vui góc phố
         quạnh hiu. Chỉ còn lại những dây thép đen xấu xí với
         hàng cột đèn trơ trụi. Công viên trước nhà vắng
         ngắt, bầy trẻ nhỏ đã rút vào nhà, bỏ trơ lại
         bãi cát vô hồn, chiếc cầu tuột xiêu vẹo và
         những dây xích đu im lìm.  Cái không gian vốn dĩ rất
         lặng lẽ của một góc phố nhỏ với những căn
         nhà kín cửa quanh năm lại càng lạnh lùng hơn khi gió bấc
         trở mùa. Khu vườn sau nhà xao xác gió, lá rụng sớm
         hơn mọi năm. Những chiếc lá úa nằm rải rác trên
         sân cỏ, buồn hiu như xác giấy hoa của một đêm
         vui vừa tàn. Trời đất đang sửa soạn cho một
         cuộc thay đổi lớn, bất tận. Và con người,
         con người ở đâu trong cuộc tuần hoàn miên man của
         vũ trụ ?
  Sao bỗng nhiên tôi
         chùn tay, muốn ngừng viết. Có ích lợi gì không
         những điều tôi đã và sắp viết ra. Sao bỗng
         nhiên giọng văn của tôi trở nên sầu thẳm quá đỗi.
         Có phải tại đứa con trai út vừa đi nhập trường
         ở một thành phố xa, bỏ lại gian nhà đã trống
         lại còn trống hơn ? Tại nó mang đi mất một phần
         thân xác và tâm hồn tôi ? Hay tại vì cái khoảng trống
         lớn giữa đời tôi đã không lấp bớt được
         chút nào lại còn tiếp tục khơi rộng hơn nữa ? Có
         phải đó chỉ là sự tiếp tục bình thường của
         dòng đời miên viễn, chỉ là sự lập lại một
         lần nữa hàng triệu triệu biệt ly ?
  Đưa con đi xa lần này, suốt con đường
         trở về hơn bảy tiếng đồng hồ lái xe, sao
         tự nhiên tôi như thấy lại và hiểu rõ ràng hơn
         lúc nào hết tấm lòng của ba tôi buổi chiều xuân
         năm mậu thân, khi con đường quốc lộ số 4 bị
         cắt đứt, ba tôi phải đưa tôi ra bến tàu xin quá
         giang một đoàn tàu quân đội về Sài-gòn nhập
         học. Năm đó, nhà cháy, của cải tan hoang, ba tôi 58 tuổi,
         tóc sương phơ phất, bộ quần áo bà ba trắng
         quen thuộc sao như rộng hơn thường khi. Ông đứng đó
         không nói một lời nào, tay xách túi quần áo của
         tôi, lo lắng bồn chồn, cặp mắt vắng vẻ...
         Rồi tàu rời bến, mặt sông rộng mênh mông,
         gió lên và chiều xuống. Ông đứng đó, đằng
         sau lưng một mặt trời tẻ lạnh, bỗng nhiên tôi thấy
         ba tôi giống như một pho tượng, im lìm, chịu đựng,
         nhẫn  nhục như suốt một đời đã nhẫn
         nhục nuôi lớn bầy con quá đông. Tàu xa dần, pho tượng
         vẫn im lìm, bất động. Và bỗng dưng, tôi như
         thấy một giọt nước mắt nào đó đọng mơ
         hồ trên khóe mắt ba tôi. Giọt nước mắt mà
         dường như ba tôi đã cố nén tự nãy giờ.
         Từ lâu lắm. Từ câu nói vói " thôi con đi ".
         Từ lúc móc đưa cho tôi xấp tiền cuối. Từ
         lúc nhà cháy. Từ lúc dắt tôi đi thi tú tài. Từ
         lúc dắt tôi đi thi trung học, tiểu học. Từ lúc ẳm
         tôi đặt tôi vào nôi ... Ba tôi có nói gì đâu ?
         Trời đất có nói gì đâu mà dòng đời vẫn
         sinh sinh diệt diệt !
  Vậy
         tại sao tôi lại dài dòng kể lể ? Để làm gì
         ? Để em hiểu tôi hơn ? Để làm gì ? Có cần
         lắm không ?
  Tại sao tôi bỗng
         trở nên sầu thảm thái quá !
  Có cần thiết không em ? Người thiếu phụ đoan
         trang với gia đình gương mẫu, sau ít nhiều lận đận
         với vận nước nổi trôi, cũng đã vói được
         tới bờ hạnh phúc, thứ hạnh phúc bình thường,
         giản dị mà tôi vẫn thường cầu mong cho những người
         thân yêu của tôi, em có phải biết những điều tôi
         đã nói, những gì tôi đã sống ? Mà tại sao em phải
         biết ?
   
                                       
         Những dòng chữ này rồi sẽ có một dịp may nào
         đến với em hay sẽ được xếp lại và cất
         vào một hộc tủ, bỏ quên như hàng chồng bản thảo
         đã bị bỏ quên, đâu đó, quến bụi trong những
         xó xỉnh của đời tôi. Tuy nhiên, lần này, nếu có
         cái dịp may hãn hữu đó, xin em hãy đọc một cách
         từ tốn, điềm đạm, từng chữ từng dòng.
         Hết trang này, rồi trang khác. Hết tờ này lật
         sang tờ khác. Rồi cũng sẽ đến trang cuối cùng.
         Cũng giống như những trang giấy của cuộc đời.
         Giống như tôi, tôi cũng đang lật tiếp, không ngừng
         tay, những trang giấy của đời mình. Sẽ đến một
         lúc chỉ còn những trang giấy bỏ không, lở dở ...
                                               
         Nếu có đọc, hãy coi đây như tiếng kêu chót của
         loài thiên nga tuyệt vọng, một thứ trần tình của
         thế hệ đang tàn lụi dần, cái thế hệ của
         những người thầy sinh bất phùng thời. Cái thế
         hệ dở dang. Cái thế hệ oan trái. Tôi đã được
         hưởng rất nhiều ân huệ của người đi trước,
         nhưng không đáp đền lại được gì cho người
         đến sau như cái lý tưởng mà tôi đã được
         nuôi dạy. Mấy ngàn năm tình nặng nghĩa sâu của dân
         tộc đã un đúc tôi nên người, đã ru tôi bằng
         những vần ca dao trìu mến, đã âu yếm tôi bằng
         những điệu ầu ơ vỗ về, đã tắm mát
         tôi bằng dòng suối cỗ tích ngọt ngào và đã
         nuôi tôi khôn lớn bằng bầu sữa mầu mỡ
         của lịch sử. Tôi đã làm gì được với tất
         cả cái vốn liếng quí báu đó đâu em. Tôi mơ
         mộng năm 18 tuổi, tôi rong chơi năm 25, tôi chững chạc
         năm 30 tuổi. Tất cả cái gia tài truyền thống đó,
         nét tài hoa ngùn ngụt đó, truyện Kiều với hơn ba
         ngàn câu thơ thăm thẳm, Chinh Phụ Ngâm là giọt lệ trong
         veo, Cung Oán đài các ngay trong hận tình uẩn khúc. Còn bao
         nhiêu câu ca dao tươi mát như rau cỏ ngoài vườn. Còn cuộc
         chiến cự Bắc phạt Tây, cuộc Nam tiến là thiên
         trường ca vô tận. Lịch sử máu xương đầy
         dẫy những nấm mồ vô danh, để cho ngọn tre già
         còn phơ phất tiếng ru trưa, để cho bụi lúa còn
         trổ đòng đòng tươm sửa, để bầy trẻ
         nhỏ ê a tiếng đánh vần, để mái đình còn
         thơm mùi hương khói. Những nấm mồ vô danh từ
         thuở Đống Đa, Ngọc Hồi. Những nấm mồ
         vô danh từ thuở Gia Định, Trấn Tây. Những nấm
         mồ vô danh ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Giả, An Lộc,
         Phước Long, Châu Đốc, đường số 9, quốc
         lộ 13 ... dấp dúi bên bờ cát duyên hải, chen chúc giữa
         rừng già cao nguyên, vùi dập dưới bùn lầy châu
         thổ ...
  Tôi đã làm gì
         ? Thế hệ tôi đã làm được gì đâu em !
         Chúng tôi đã bỏ dở một cuộc chiến. Chúng
         tôi đã đầu hàng một kẻ thù. Và như vậy
         có xứng đáng để phàn nàn hay không ? Cái cơ hội
         được đóng góp vào cuộc chiến dựng nước
         và giữ nước của cha ông đã bị bỏ lỡ một
         cách ngây thơ vô tội vạ, cái hạnh phúc tuyệt vời
         của tự do đã bị xem thường khi có nó trong tay, thì khi
         bị tước đoạt, người ta còn có quyền tiếc
         rẻ hay không ? Hay chỉ nên lặng lẽ cúi đầu và ... câm
         nín. Mặc kệ những khuya khoắc trở trăn ! Những
         sớm hôm thắc thỏm!
  Tôi
         có nên viết tiếp hay không ? Có đáng để khượi
         lại một vết thương đã lành - hay tưởng như đã
         lành, gọi dậy một phần đời đã ngủ yên
         - hay tưởng đã ngủ yên, tiếp tục làm khó chịu,
         mệt mỏi thêm những cuộc đời đã quá sức
         mệt mỏi. Có đáng bắt mọi người phải nhớ
         lại, đau khổ, thương xót hoài hoài ngay khi cả chính mình
         cũng chỉ là một nỗi bất lực thảm hại. Dường
         như đã quá trễ nãi để nhắc nhở, đã
         đủ muộn màng để lãng quên ?!
   
  Vậy hãy coi đây
         như một điều rất đỗi riêng tư, một món
         nợ mà tôi chưa kịp trả. Món nợ tôi đã vay 25 năm
         trước mà 25 năm sau vẫn chưa quên, thì câu trả lời
         của tôi hôm đó quả có vô tình quá hay không -" Thì
         tôi cũng đã sống như mọi người "
  Tôi đã trả lời giống như khi trả lời
         với mọi người khác. Điều đó có phật ý
         em không ? Em đâu còn là cô học trò nhỏ, dịu dàng và
         tinh quái, để tôi là ông thầy có thể bắt
         nạt dễ dàng. Em đã là một người lớn, chững
         chạc, điềm đạm và ân cần. Giọng nói tuy nhẹ nhàng
         trong trẻo nhưng dường như đã vẩn đục ít nhiều
         gió bụi của thời gian. Và cặp mắt, tia nhìn sao tôi thấy
         lao đao những dấu hỏi xốn xang. Cặp mắt đó,
         dịu dàng nhưng quyết đoán, tra vấn tôi ngay khi em không nói
         lời nào, sao tôi thấy có một vẻ gì chừng như
         ái ngại. Có phải bằng trực giác em đã nghe được
         từ đâu đó nhịp điệu của những bước
         tàn phai. Tôi có chủ quan quá không ? Sao từ buổi chiều
         hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh hoài về cái tia nhìn
         có một chút ngơ ngác, một chút phiền muộn, một
         chút trách móc, một chút hờn giỗi. Như tôi đã
         không nói thật. Như tôi đã giấu diếm một
         điều gì. Em có quyền nói chuyện ngang hàng vì em cũng
         đã có những ưu tư của người lớn. Có thể
         trong tấm lòng rất nhân ái của em, hình ảnh người
         thầy già cỗi đồng nghĩa với điêu tàn, cái
         bất ngờ bao hàm sự mất mát, sự tình cờ
         có nghĩa rất mong manh và cuộc tái ngộ chỉ là mặt
         trái của chia ly.
   
                                               
         Ôi biết thời gian có chịu ngừng
   
  Tôi đã viết
         một câu thơ như vậy, sau khi chia tay. Và thêm nữa, một
         hẹn hò
                                       
         Rủ nhau mai mốt về quê cũ
                                       
         Giảng nốt bài thơ bỏ nửa chừng 
   
  Có phải chỉ
         là để tự an ủi mình trước vòng quay ác nghiệt
         của thời gian. Đâu còn một buổi học nào nữa.
         Làm sao em mặc lại áo lụa đến trường, tóc bay theo
         gió sớm và lòng mới nguyên như giấy trắng, đâu
         còn chiếc bàn học gỗ thô màu xám, viết mực
         tím và sách vở âu lo. Tôi đâu còn giờ trên bục
         giảng, với phấn trắng bảng đen, để cùng em mở
         cánh cửa đời vạn đại, đưa em vào thế giới
         gấm hoa của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, của
         Nguyễn Du, Phan Huy Vịnh ... tìm bắt lại cái nhịp lòng đằm
         thắm của lớp người đi trước, khơi lại cùng
         em nguồn suối nhân bản của dân tộc để em và
         các bạn lớn lên, vững chải như ngàn thu và tươi tắn
         như tầm xuân mới nụ, chân thành với mình và rộng
         lượng với người, tạo dựng cái thế quân
         bình tuyệt diệu của tâm hồn Á Đông trước
         sức cám dỗ của văn minh Tây Phương. Tôi muốn sửa
         soạn cho học trò của tôi cái sức mạnh dịu dàng của
         ngọn tre Việt Nam trước bão táp, để mai sau dù-có-bao-giờ
         các em vẫn là người Việt Nam trong cái nghĩa thuần
         túy nhất của nó. Tôi có lý tưởng quá không em
         ? Tôi có làm được việc đó chưa ?
  Công việc bị cắt ngang đột ngột.
         " Bài thơ bỏ nửa chừng " có phải là niềm tiếc
         hận khôn nguôi về một lý tưởng bị phản bội,
         một trách nhiệm không chu toàn, một giấc mơ không
         trọn vẹn. Cái nhìn của em, nỗi quan hoài của em có phải
         là đoạn nối dài của bài thơ dang dở đó !
          Thôi thì, xin em hãy đọc ở đây
         như một cố gắng hết lòng của người thầy
         cũ để trả cho xong một món nợ tinh thần. Một
         lần rồi thôi. Món nợ mà tôi đã gây ra khi tạo
         cho các em niềm tín cẩn, lòng kính mến, sự cầu
         toàn ... trong những giờ giảng dạy trước đây. Nhưng
         mà tôi, tôi có làm được gì không ? Năm học đã
         chấm dứt một cách tức tưởi mà không chờ
         tiếng trống bãi trường. 
  Tôi chưa nói hết được điều muốn nói.
         Em chưa học đủ điều cần học. Tôi và em đều
         có một cái gì đó lở dở chưa làm, một
         cái gì ngang ngửa chưa xong. Chắc vì vậy, mỗi người
         đều cảm thấy bất an, thấy thiêu thiếu, thấy
         hụt hẩng ... Có thể cái gì đó mong manh quá nên mỗi
         người đều như ray rứt khi nghĩ lại. Có thể
         cuộc đổi đời phủ phàng quá nên mỗi người
         đều cảm thấy ngỡ ngàng. Giống như cơn mưa bóng
         mây chưa đủ ướt mặt người đã dứt. Giống
         như cơn mơ nửa chừng bị đánh thức. Giống như
         cuốn tiểu thuyết bị xé mất trang sách cuối cùng.
         Người ta bở ngở, bực tức hay tiếc nuối.
         Cái chờ đã không đến. Sự mong mỏi không được
         đền đáp. Người ta thấy xốn xang như đánh
         mất một cái gì quí giá lắm. Người ta cảm
         thấy chới với như bước lỡ vào khoảng trống
         bất ngờ. Người ta cảm thấy bối rối như
         bỏ quên một cái gì thân thiết lắm mà lại quá
         đỗi mơ hồ.
  Tuy vậy
         cứ an tâm đi em. Cuộc đời tự nó rất giản
         dị. "Trời sẽ tối tiếc thương rồi sẽ hết.
         Và dấu giày mai sẽ lá sương che " Từ nhiều năm
         trước tôi vẫn thích câu thơ của Nguyễn Đình
         Toàn. Em thấy đó, có gì rắc rối đâu, cái
         cõi quạnh hiu này. Ngày đến rồi ngày đi, đêm tới.
         Và bóng tối sẽ trùm lên tất cả. Những dấu
         yêu, những ghét bỏ. Những đợi chờ cũng như những
         lỗi hẹn. Những khuôn mặt thân quen, những bóng hình
         xa lạ. Mặt đất này vẫn là nơi để người
         ta đến rồi đi. Cuộc đời này vẫn là chốn
         để người ta tụ hợp rồi ly tán. Tất cả
         sẽ mòn phai dần dần như dấu giày đã qua đây
         một ngày nào, sương sẽ cuốn đi từng lớp mỏng
         và lá sẽ lấp lên từng chiếc một. Con đường
         trước mặt cũng chỉ là một dãy mây trôi, ngã
         rẽ là những khúc quanh vô định, lời hứa hẹn chỉ
         là cơn gió thoảng và ước mơ cũng chỉ là những
         an ủi ngậm ngùi. Tất cả sẽ biến mất kể
         cả sắt son tưởng là thắm thiết, kể cả đá
         vàng đã tưởng là bền chặt. 
  Trời sẽ tối ! Có thời gian nào không
         trôi đâu em. Có dấu vết nào còn mãi đâu em. Những
         tiếc thương, đọng lại như vệt sương trên ngọn
         cỏ, cũng sẽ tan trong một phút một giây. Người ta náo
         nức gặp gỡ. Người ta rạo rực chia tay. Một tháng.
         Một năm. Rồi tất cả sẽ trở lại bình thường,
         rất bình thường. Cái mặt hồ im lìm chợt xao
         động vì một chiếc lá rơi sẽ trở lại im lìm
         như đã tự trăm năm. Mọi người sẽ trở lại
         với nếp sống thường nhật, với trách nhiệm
         bổn phận. Mọi người sẽ trở lại với văn
         phòng, với xưởng thợ, với tiệm buôn, với
         công việc của một người vợ, một người
         mẹ, một người chồng, một người cha. Người
         ta sẽ bận tíu tít với chợ búa, với đồng
         tiền kiếm được hay mất đi, với ngôi nhà
         mới tậu, với chức vụ mới thăng, với việc
         làm mới mất ...
  Vậy đó
         em, trái đất vẫn tiếp tục quay đều cái vòng
         quay của nó. Một năm mười hai tháng. Một tháng ba mươi
         ngày. Một ngày hai mươi bốn giờ. Mùa hè đã
         qua. Mùa thu đang tới. Và mùa đông sẽ chực chờ trước
         cửa. Những người sắp tới, sẽ tới. Những
         người sắp đi, sẽ bỏ đi.
   
  Tất cả cũng chỉ
         là những người khách vô tình trong cuộc tuần hành
         miên man của vũ trụ. 
  Và chúng
         ta, chúng ta cũng chỉ là những sơ sẩy của một toan tính
         định mệnh.
                              
         
  Em đừng khóc, đừng
         buồn đừng nhìn nữa
                                                 
         Cứ cúi đầu, cứ thế rồi ra đi
                                              
         Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
                                                               
         Và dấu giày, mai sẽ lá sương che  (*)
   
  Vâng, những
         tiếc thương rồi sẽ hết. 
   
  Và tôi, và em, và dấu
         giày trở lại, mốt mai sẽ chỉ còn là một vết
         sương che . 
   
  Bóng tối sẽ trùm lên tất cả.
 
          
  Những
         tiếc thương rồi sẽ hết.
   
  Những tiếc
         thương sẽ hết .
   
           
   
                                                                                                             
         Cao vị khanh
 
      
      
tháng 4, 
  đọc lại Biên
         cương hành
         
  của
         Phạm Ngọc
         Lư
   
  Biên cương hành
           Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi
         cao rừng thẳm nhiễu nhương
 Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
 Núi chập chùng như dãy mồ chôn
 Gớm, gió Lào tanh
         mùi đất chết
 Thổi lấp rừng già bạt núi non
 Mùa
         khô tới theo chân thù địch
 Ta về theo cho rậm chiến trường
 Chiến trường ném binh như vãi đậu
 Đoàn quân ma bay
         khắp bốn phương
 Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
 Núi mang cao điểm ngút oan hờn
 Đá mang dáng dấp hình
         chinh phụ
 Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
 Khu chiến ngày
         tràn lan lửa dậy
 Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
 Biên cương biên cương đi biền biệt
 Chưa hết thanh xuân
         đã cùng đường
 Trông núi có khi lầm bóng vợ
 Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
 Thôi em, sá chi
         ta mà đợi
 Sá chi hạt cát giữa sa trường
 Sa trường
         anh hùng còn vùi dập
 Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
 
 Đây biên cương, ghê thay biên cương!
 Núi tiếp
         rừng, rừng tiếp khe truông
 Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
 Mùa mưa về báo hiệu tai ương
 Quân len lỏi dưới tàn
         lá dữ
 Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
 Sát khi đằng
         đằng rừng dựng tóc
 Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
 Cô hồn một lũ nơi quan tái
 Có khi đã hoá thành
         thú muông
 Cô hồn một lũ nơi đất trích
 Vỗ đá
         mà ca ngông hát cuồng
 Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
 Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương
 
 Đây biên
         cương, ghê thay biên cương!
 Tử khí bốc lên dày như
         sương
 Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
 Rừng núi
         ơi ta đến chia buồn
 Buồn quá giả làm con vượn hú
 Nào ngờ ta con thú bị thương
 Chiều hôm bắc tay làm loa
         gọi
 Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
 Gọi ai giữa sơn cùng
         thuỷ tận?
 Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
 Em đâu,
         quê nhà chong mắt đợi
 Hồn theo mây trắng ra biên cương
 Thôi em, yêu chi ta thêm tội
 Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
 Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
 Hoặc ngày ta nhắm mắt
         tay buông
 Thôi em, chớ liều thân cô phụ
 Chiến trường
         nay lắm nỗi đoạn trường
 Nơi nơi lạnh trăm dòng sông
         Dịch
 Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
 Há một mình ta xuôi
         biên tái
 "Nhất khứ bất phục phản" là thường!
 
 Thôi em, còn chi ta mà đợi
 Ngày về: thân cạn máu
         khô xương
 Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
 Hề chi! buổi
         chinh chiến tang thương
 Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
         Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
  
5-1972
 
   
          ************** 
  Biên cương biên cương chào biên cương
          Chào núi cao rừng thẳm nhiễu
         nhương
  Bài hành
         bắt đầu bằng một tiếng chào. Tiếng chào
         câu hỏi từ muôn đời vẫn được coi là biểu
         tượng của sự thân ái, mời mọc, thiện ý, hảo
         tâm... Có ai mà chào người dưng nước lả. Hay có ai
         mà gật đầu chào một kẻ thù, một đối
         tượng sẵn sàng nuốt sống, ăn gan, uống mật
         mình đâu. Vậy mà Phạm Ngọc Lư lại gật đầu,
         lại vẩy tay chào... mối hiểm họa đang chờn vờn
         ngay... trước mắt mình.
  Biên
         cương biên cương chào biên cương 
  Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
  Dù vậy, nguyên câu thứ
         nhất  bảy chữ toàn vần bằng, mà hết sáu
         chữ là loại phù bình thanh. Giọng ngang ngang, không cao không thấp,
         nghe ra cái điệu khinh khỉnh... như chào mà không chào. Chào
         mà không lấy gì làm thân thiết, lại như có chút
         gì thách đố.
  Biên cương
         biên cương chào biên cương 
  Thật ra, đã có thời, trên cái xứ
         sở khốn khổ của chúng ta, biên cương hay rừng núi
         hay thành phố hay đồng bằng, kể cả chợ búa
         hay trường học... đã có gì khác nhau đâu. Tất cả
         đã được người ta biến thành mọi bãi chiến
         trường. Ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có
         thể là trận địa, một khi lòng người đã
         bị nhuộm đỏ bằng sự cuồng tín và ngụy trá.
         Nghĩ vậy rồi, đọc lại câu mở đầu bài
         Biên cương hành mới nhận ra được hết sự
         cay đắng, niềm xót xa của một kẻ sĩ trót sanh nhằm-thế-kỷ.
          Ông tới đó, Củng
         sơn, một thị trấn hẻo lánh nằm dạt về phía
         biên giới Lào, nơi mà máu-đã-nuôi-rừng-xanh-xanh-ngắt-núi-chập-chùng-như-dãy-mồ-chôn.
          Hình dung một thế đất, bốn
         phía rừng núi vây quanh, chướng khí mù mịt, gió Lào
         thốc tháo, mà mỗi thân cây đã được vun phân
         bén gốc bằng máu me xương thịt của bao nhiêu trai trẻ
         được xua tới đó để giết người hoặc
         bị người giết. Điệp tự xanh-xanh ( ngắt )sẽ
         tính ra bằng bao nhiêu cân lượng của bao nhiêu nấm mồ
         ( kể cả không có được một nấm mồ )
         để dựng lên một phong cảnh núi rừng toàn bích
         !
  Thử nghĩ coi, bài
         thơ được ghi làm vào tháng 5 năm 1972, lúc ông vừa
         26 tuổi. Năm 72, mà trong bất cứ trí nhớ dù đã
         quá sức mòn mỏi của những người Việt miền
         nam vẫn chưa bao giờ quên được. Cái gọi là chiến
         dịch xuân hè, người miền bắc xua đại quân vượt
         sông Bến Hải, xé bỏ hiệp định Genève, công khai đánh
         phá khắp nơi. Bình Trị Thiên. Kontum. Peiku. Bình Long. An Lộc...
         trọn phần đất ở phía nam vĩ tuyến 17 chìm trong
         đạn pháo mịt mù. Lính tráng hai bên, dân lành vạ lây
         chết oan như rạ. Năm đó Phạm Ngọc Lư hai mươi sáu
         tuồi. Và ông cảm khái làm hành Biên cương.
  Tuổi hai mươi, lứa tuổi vừa
         hết non nhưng chưa đủ dạn dày, lứa tuổi sắp
         sửa cho một lên đường hướng tới những
         phương trời cao rộng. Vậy mà người thanh niên đó
         đã bị chặn hết mọi ngỏ ngách, mọ̣i hy vọng đã
         bị dìm chết, mọi dự phóng đã bị bóp nghẹt ...
         bằng đủ thứ dã tâm ác ý nhằm dồn đẩy
         cho được tuổi trẻ bước lọt vào con đường
         một chiều ... con đường sinh tử.
  Người thi sĩ đó, lớp tuổi trẻ đó
         đối diện tương lai mình với tâm trạng cay đắng
         cùng cực. Vậy còn lạ không khi ông viết
  Biên cương biên cương chào biên cương
          Chào núi cao rừng thẳm nhiễu
         nhương
  Máu đã nuôi rừng
         xanh xanh ngắt
  Núi chập chùng
         như dãy mồ chôn
   
          Lời chào như một tiếng cười
         mỉa, hay bi tráng hơn, một tiếng cười gằn, phẩn
         uất, mặc kệ, bất chấp... của một kẻ giác
         đấu bị đưa ra đấu trường mà mọi vòng thành
         đã bít kín. Nghĩa là không có mảy may một chọn lựa
         nào khác. Hoặc chết. Hoặc sống. Chết ! Hết
         chuyện. Sống ? Đã hẵn là may mắn chưa sau khi mặt
         mày đã nám khói đạn bom, sau khi ngón tay trỏ đã tê điếng
         vì siết cò súng tới rướm máu ? Câu hỏi trở
         nên vấn nạn bậc nhất cho cuộc chiến tranh tương
         tàn đó.  Người thanh niên miền nam nước Việt
         sinh ra và lớn lên được nuôi dạy trong tinh thần khai
         phóng, nhân bản và dân tộc. Họ được dạy dỗ
         yêu nước thương nòi, quí trọng đồng chủng cùng
         giòng máu đỏ da vàng, họ được uốn nắn theo
         tinh thần nhân nghĩa ngay từ thưở còn ê a đánh vần
         từng chữ cái. Huyền thoại cái-bọc-trăm-con đã được
         giảng dạy hết sức ân cần để in sâu vào ý
         thức họ ngay từ buổi khai tâm. Lớn lên, hít thở
         không khí tự do - dù có còn hạn chế, họ vẫn có
         cơ hội tiếp xúc với mọi trào lưu tiến bộ
         của nhân loại về mọi mặt. Từ đó, tâm hồn
         họ trở nên giàu có, phóng khoáng, nhân bản ... biết
         bao nhiêu. Do vậy, khi phải đối đầu với kẻ thù
         cùng màu da rõ ràng là một thách đố quá bất
         công và bất nhân của định mạng. Nghĩ lại coi, có phải.
         Bắn một viên đạn vào kẻ bên kia chiến tuyến
         là một việc làm chẳng đặng đừng trong khi lòng
         họ băn khoăn hết sức. Phía bên kia, ngược lại trăm
         phần. Lịch sữ đã chứng minh triệu triệu điều
         như vậy.
  Bởi vậy khi đối
         diện với thực tại của cuộc chiến tranh tương
         tàn đó người thanh niên miền nam, người thi sĩ đó
         còn thái độ nào khác ngoài sự chấp nhận
         nó một cách... chua chát đến ngậm ngùi. 
  Biên cương biên cương đi biền biệt.
         
  Chưa hết thanh xuân đã cùng
         đường. 
   
  Trọn bài hành là một cực tả
         về tính chất vô lý đến bi đát của cuộc
         tranh giành xương máu đồng loại vừa qua, trải ra từ
         trái tim của một kẻ có lòng. Cái tuyệt vời là
         trong suốt 66 câu 7 chữ không có một chỗ nào để
         lộ ra sự phẩn nộ. Dù là người trong cuộc,
         chịu chung kiếp hẩm hiu, ông làm thơ với giọng điệu
         bi tráng, khẩn thiết mà trầm tỉnh, đau đớn mà
         không bi lụy. Cho nên dù âm điệu của bài thơ rất
         trung tính, người ta vẫn nghe ra từ đó tiếng kêu
         trầm thống của cả một dân tộc bị đọa đày,
         bị cấu xé, bị giành giựt đến tang thương bởi
         chính những kẻ cùng chung một nguồn gốc tổ tiên
         !!! Chữ chở nghĩa trọn tình, từ tốn mà thâm trầm
         hết mực. Ông không tả cảnh núi rừng mà thấy
         núi rừng phủ chụp như thiên la địa võng. Ông không tả
         cảnh sát phạt mà nghe ra như súng nổ đạn bay. Đọc thơ
         mà tai như nghe ù ù gió thổi, tưởng đâu hồn
         tử sĩ bay vật vờ trên bãi chiến còn úng khói.
          Đây biên cương, ghê thay biên cương
          Tử khí bốc lên dày như sương
          Đá chảy mồ hôi rừng ứa
         máu
   
  Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào rồi
         cũng sanh ra kẻ hèn nhát, người anh hùng. Nhưng cuộc chiến
         đó, qua hồn của kẻ sĩ làm thơ, không có mảy may vinh
         quang, mà chì rặt có điêu tàn. Không có người thắng
         kẻ bại mà chỉ rặt có nạn nhân. Những nạn nhân
         bị ném ra đất chết như vãi-đậu. Cái chữ
         nôm na mà ôi sao ai oán ! Vãi đậu. Còn chữ nào tượng
         hình hơn cho cái chiến-thuật-biển-người đem nướng
         con đen trong lửa đỏ. Lính tráng được xô ra bãi chết
         như một lũ hình nhân được cắt bằng giấy
         không biết vui buồn, không có yêu thương hờn giận.
         Chỉ là một lũ hình nhân vô tri vô giác trong tay đám
         phù thủy núp kín dưới tầng tầng công sự,
         bị ném ra như vãi đậu để giành giựt cho được
         thứ tham vọng ngông cuồng. Nỗi cay đắng cùng cực
         của kẻ sĩ Phạm Ngọc Lư thể hiện rõ ràng trong hai chữ
         cho-rậm, ta về theo cho rậm chiến trường. Cho rậm,
         rậm đám ... người ta hay nói vậy. Nhưng thường
         nói trong những cuộc vui. Ở đây, giữa cuộc chiến,
         lấy gì vui mà về-cho-rậm-đám. Nếu không phải 
         một nỗi bi phẩn cùng cực của một tâm hồn
         hết sức nhạy cảm trước nỗi bất lực của
         mình khi thấy chuyện bất nhân bày ra hằng giây hằng
         phút trước mắt mình. Ôi người thi sĩ tội nghiệp
         giữa một thời vô đạo. Người thi sĩ đó,
         kẻ đã được nuôi dạy trong không khí hoa lệ của
         văn học cỗ điển, với những hồn thơ nhân
         bản tuyệt vời của một thuở Đường thi lộng
         lẫy đã đem cái phong cách trang trọng của thơ xưa vào
         thơ mình. Chữ nghĩa của ông cỗ kính mà nhẹ nhàng,
         kinh điển mà phóng túng khiến cho bài hành vừa có
         vẻ xa xôi trang trọng mà lại gần gũi với người
         trong cuộc biết mấy. Bằng phong độ của một
         bậc thức giả và nghệ sĩ, ông đã phóng tầm
         mắt xuyên suốt cõi địa chấn để nhìn thấu
         qua rừng núi, cỏ cây, đất đá, đạn bom... cái bị
         che át bởi tiếng nổ, bị chôn vùi bởi đất
         đá cày xới, bởi đường mật tuyên truyền,
         bởi rù quến chủ nghĩa... cái thực ở đằng
         sau mọi giả trá, cái còn lại sau những nát tan... Ông đã
         thấy đằng sau những núi non trùng điệp bị nổ
         tung vì đạn mìn, đằng sau những thét gào say máu giữa
         khói súng và ánh thép loang loáng của dao găm, ông đã thấy
         ra cái không gian lặng ngắt sót lại, đã nhìn ra cái hình
         ảnh lạnh lẽo sau cùng, đã nghe ra tiếng kêu gào vô thanh
         của những... cô hồn, thêm nữa tiếng khóc lặng
         lẽ nuốt ngược vào lòng của những... cô phụ. 
          Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
          Trơ vơ chớp núi đứng bồng
         con
  Khu chiến ngày tràn lan lửa
         dậy
  Đá vọng phu mọc khắp
         biên cương 
   
  Ông ta thấy rõ ràng như một với một
         là hai, mà có phải ai cũng thấy ra những hồn oan vất
         vưởng, hay nghe ra tiếng đời vô vọng đó. 
   
  26 tuổi.
         Đã đủ già chưa để cằn cỗi. Đã hết
         mơ mộng chưa để chai đá. 26 tuổi. Cái tuổi
         như hoa mới hết thời hàm tiếu mà chưa tới lúc
         mãn khai. Vậy sao nhìn ra chỉ thấy cái điêu tàn. Cái
         tuổi lẻ ra đang trên bệ phóng để nhắm tới
         tương lai. Cái tuổi đã được chuẩn bị để
         dành cho những hẹn ước. Vậy mà sao gần như con đường
         trước mặt đã bị phong tỏa kín bưng đến nỗi
         không dám nghĩ tới cả một lời hẹn ước. 
          Thôi em, sá chi ta mà đợi
  Sá chi hạt cát giữa sa trường
          Sa trường anh hùng còn vùi dập
          Há rằng ta biết hẹn gì hơn
         ?
   
  Thương
         cảm và trân quí biết bao nhiêu tâm hồn thi sĩ đó.
         Ông làm thơ không phải cốt để tả cái chon von của
         núi cao, cái thăm thẳm của rừng già, cái hiểm hóc
         của hang động, cái ngặt nghèo của đèo cả, ông làm
         hành để nói lên cái oan nghiệt của chiến tranh, cái
         chờ đợi vô vọng của những người cha người
         mẹ có con cái bị xua vào chỗ chết, của những người
         con gái có tình nhân thất hẹn, của những người
         vợ có chồng bị ném như vãi đậu vào cuộc
         bắn giết hung tàn. Bài hành như một dấn thân vào
         phía mặt thật của chiến tranh bị che giấu, bị tô
         vẻ bằng những ngôn từ hoa mỹ. Ở phía đó, hoàn
         toàn không có gì hết, không tiếng gầm của bom đạn,
         không có tiếng thét của trái tim búng máu, không có tiếng
         la của da thịt rách nát... Ở đó là một sự im lặng
         tuyệt cùng, im lặng tuyệt đối. Ở đó là
         tiếng kêu không vuột ra được khỏi hai bờ môi.
         Ở đó là cặp tròng ráo hoảnh không còn đủ một
         giọt nước mắt chảy xuôi. Ở đó là cái lỗ
         trống khủng khiếp của người mẹ mất con, của người
         vợ mất chồng, của đứa con mới lọt lòng đã
         mất cha... Cái thấy của ông khác với cái thấy
         của những bản tin chiến sự, khác với cái thấy
         của xảo ngôn ra rả trong những tuyên ngôn tuyên cáo. Cái
         thấy của ông là cái thấy của con-mắt-trông-thấu-cả-sáu-cõi*.
         Thơ của ông được làm ra từ những-giọt-máu-chảy-ở-đầu-ngọn-bút
         *. Cho nên, mỗi năm đến tháng tư, lục ra đọc lại
         Biên Cương Hành lại nghe như có giọt nước-mắt-thấm-trên-tờ-giấy*
         khi người thi sĩ ấy vẩy bút làm thơ...
  Quả vậy, nói được
         gi thêm nữa. Hành được làm bằng hết tài hoa
         bút mực và tấm lòng mẫn cảm đến muôn đời.
         Hồn thi sĩ rướm những giọt máu còn rây rớt
         trên từng ngọn cỏ lá cây, trây trét trên đất đá
         vô tri, từ mươi năm trước, từ hôm qua, mà hôm
         nay, mà ngày mai... vẫn tiếp tục thấm máu của bao nhiêu
         trai trẻ bị xô đẩy tới đó để tiếp tục
         giết nhau, giết nhau tận tình như những kẻ cuồng
         sát dù trong lòng họ không thiếu nỗi bi thương.
          Cho nên, ở đó giữa
         núi rừng cô tịch, ông thấy từng đoàn cô hồn
         kéo đi lũ lượt. Những cô hồn giận dữ
         !
  Cô hồn một lũ nơi đất
         trích
  Vỗ đá mà ca ngông
         hát cuồng
  Chém cây cho đỡ
         thèm giết chóc
  Đỡ thèm
         môi mắt gái buôn hương
   
          Rừng núi cô tịch có gì vui sao kéo
         nhau vào đó mà tan thây nát thịt. Có nghe chăng tiếng hát
         ngông cuồng bi thiết của lũ người bị lừa gạt
         bị dụ dỗ bị mê hoặc mà ném thân vào hiểm
         địa làm mồi cho súng đạn vô tình. Ai nghe được
         tiếng kêu uất hận đó ngoài người thi sĩ đang
         độ tuổi đôi mươi. Và ai ngoài ông để
         cảm thông được nỗi ai oán của những người
         trẻ chết trận mà chưa một lần được nếm
         chút hạnh phúc trần gian. Chữ nghĩa được chọn lọc
         tinh tế mà không lộ chút kỷ xảo. Phạm Ngọc Lư đã
         sống tận tình kiếp sống của người trong cuộc.
         Hẵn, ông đã không ngại dấn mình vào chỗ thâm
         sơn cùng cốc đó để nghe cây rừng rùng mình,
         đề nghe đất đá run rẩy... sau mỗi bận súng
         đạn gầm thét. Mà chắc phải vậy, phải tận
         mắt cảnh núi lở đèo nghiêng, đất đá nát
         ngấu, rừng cháy tan hoang bỏ trơ cây cối cụt đầu,
         hầm hố chằng chịt ... mới cảm ra được sức
         tàn phá đó nổ banh trên thịt xương người ra sao,
         mới nhận ra được lửa nướng cháy da người
         khét lẹt thế nào, mới nghe được tiếng kêu
         thất thanh xé ruột làm sao khi lưỡi dao bén ngót đâm
         lút vào thân xác. Phải ở đó, mới nghe ra được
         tiếng gọi từ thăm thẳm của cả một lớp trẻ
         đương tuổi yêu đời yêu người mà bị bức
         tử đoạn đành.
  Chiều
         hôm bắt tay làm loa gọi
  Gọi
         ai nơi viễn xứ tha phương ?
  Gọi
         ai giữa sơn cùng thủy tận ?
  Ai
         người thiên cổ tiếc máu xương ?
   
  Tiếng gọi
         u uất nghe đến nát lòng. Mà rồi tiếng gọi cũng
         chỉ rơi vào cõi vô vọng. Như triệu triệu tiếng
         kêu đòi khác, vẫn rền rĩ, từ tiếng súng
         đầu tiên phát nổ ... 
  Chẳng
         vậy, mà hơn 40 năm qua, vẫn còn nguyên tiếng gọi giải
         oan cho bao nhiêu người đã chết, chết mà không biết
         vì sao mình chết, chết mà lịch sử bị đẩy
         cho quay ngược lại vòng quay, mà đất nước đi ngược
         lại chiều tiến bộ, mà năm này sang năm khác, đất
         nước trở lại y nguyên cái tình trạng từ thời
         người ta xua con trẻ đi làm chuyện ... giải phóng. 
   
  Hãy đọc
         lên thành tiếng thêm một lần, 6 câu cuối của
         bài thơ để nghe lại hết nỗi oan khiên của nguyên
         mấy thế hệ bị hy sinh cho một chủ nghĩa bất
         cận nhân tình. Đọc lên thành tiếng để nghe dội
         lại tim ta tiếng kêu thương của từng lời kinh khổ
          Thôi em, còn chi ta mà đợi
 Ngày
         về: thân cạn máu khô xương
 Ngày về: hôn lễ hay tang
         lễ
 Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
 Hề chi ! kiếp cây
         rừng đá núi
 Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
           
  Hai mươi
         mấy tuổi đời của những năm 60, 70 ... hay xa hơn nữa
         từ những năm 30, 40, 50 ... thử nghĩ lại, đã có khi nào,
         trên mảnh đất gầy còm hình chữ S, mà tuổi
         trẻ Việt Nam được sống yên lành đề dự
         phóng tương lai cho chính mình và đồng loại mình. 6 câu
         thơ cuối, Phạm Ngọc Lư làm cho ông, cho thế hệ ông
         và cho cả bao nhiêu người tuổi trẻ trước ông, kể
         từ khi có một lũ người đi vay mượn thứ
         chủ nghĩa ngoại lai và không tưởng đem về bày trò
         giết chóc đề̉ áp đặt lên quê hương. Từ
         đó, súng nổ, dao đâm, dìm nước thả trôi sông...
         từ đó, tang thương... từ đó, đoạn trường...
         từ đó...
  Thôi em, còn chi ta
         mà đợi
 Ngày về: thân cạn máu khô xương
           
  Từ
         đó một hẹn thề là trăm lỗi hẹn, có một
         hạt giống gieo là đã cả vườn cây cháy rụi, một
         đứa bé ra đời là đã bao nhiêu trai trẻ bỏ xác
         góc núi bìa rừng. Bởi vậy, đến một lúc,
         ngay cả đương tuổi thanh xuân, người ta cũng bỏ mặc
         buông xuôi, như thể mọi vẫy vùng đều vô ích,
         mọi phản kháng đều bất khả.  
  Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
  Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
         
   
  Hề
         chi ! Sá chi ! Mặc kệ ! Những tán thán từ người
         ta chỉ dùng đến khi bị dồn vào đường cùng.
         Ờ , mà tuổi trẻ Việt Nam thời đó, thời của
         những biên cương rào kín lòng người, thời của
         súng đạn ngoại bang được nhét vào tay, thời của mắt
         bị bịt kín... rồi bị xô bị đẩy bị lùa từng
         đoàn từng lũ vào eo chết thì... nếu không ... hề
         chi, sá chi... thì cũng có làm gì hơn được !
  Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
          Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương
         
   
  Hề
         chi ! Hề chi ! Tán thán tự được lập lại hai lần
         phải chăng để hình dung hai cánh tay buông xuôi, bỏ mặc,
         khi người ta đã ở chỗ cùng đường, tuyệt
         lộ. 
  Biên cương
         hành. Đọc lại mà sống lại cùng ai một đoạn trường
         !
  Chính vì vậy,
         mươi năm trước đọc qua đã ngậm ngùi, bây giờ
         đọc lại còn nguyên cơn đau thắt ruột với vẫn
         nguyên nỗi cảm phục nét tài hoa tót chúng. Rõ ràng, đọc
         lại Biên Cương Hành, thấy nguyên vẹn nỗi oan ức
         của hàng đoàn hàng lũ cô hồn cô phụ đi vất
         vơ cạnh bên phía lề oan trái của lịch sử.  
          Hành. Loại thơ sủng ái
         của những bậc tài tình thiên cổ lụy. Chữ cuồn
         cuộn như nước đổ trường giang. Ý tiềm
         ẩn như rồng thiêng thấy đầu mà không thấy
         đuôi. Chính vì loại thơ vừa lề luật vừa phá
         thể khiến cho người làm thơ mặc tình phóng bút.
          Trong tay bậc tài hoa, hành làm ... thốn
         tâm thiên cổ. 
  Cho
         nên, đọc hành làm sao mà không thấy dạ mang mang. Nay-đời-xa-người-khuất,
         đọc hành Phạm Ngọc Lư như thấy lại lòng mình, làm
         sao không cảm khái đến trăm nỗi xót xa. Xót xa cho đời.
         Xót xa cho người.
  Xót xa cho vận
         nước.
  Hành. Đổ
         Phủ. Bạch Cư Dị. Lý Bạch ... Rồi Thâm Tâm. Nguyễn Bính.
         Thanh Nam. Tô Thùy Yên. Viên Linh... Và Phạm Ngọc Lư.
   
  Vâng. Và
         Phạm Ngọc Lư. 
   
  Cao vị khanh
          * như một lời đã hứa
* chữ của Mộng Liên Đường
         chủ nhân
   
 
__________________________________________________________________________________________________________ 
            
         
      
       
 
                                 
                                            
                                      Thủ
         bút của Jacques Prévert 
 
YVES MONTAND - Les Feuilles Mortes - Bing video
  et ... Les feuilles mortes
   
          
Viết cho những người
         đã yêu nhau . 
  Rồi
         xa nhau...
  mà chẳng
         biết vì sao ...
    Trong suốt
         cuộc yêu thương mà chừng như bội bạc, đã có
         lần nào tôi kể em nghe về một bài hát cũ mà
         người ta đã hát thay cho một tiếng thở dài. 
          Ờ như một tiếng thở dài
         vậy em. 
   
  Bài hát là một tình khúc nổi tiếng
         từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước mà cho đến
         nay, hơn bảy mươi năm rồi... vẫn chưa thôi gây xốn
         xang trong lòng người, mỗi bận tình cờ nghe lại...Thơ
         của Jacques Prévert, người thi sĩ thích đùa giỡn với
         chữ nghĩa như đã bung thùa tuổi trẻ mình trên đường
         phố Paris. Bài thơ đó, Les feuilles mortes, được viết dựa
         theo một điệu nhạc soạn cho vũ khúc ballet bởi Joseph Kosma
         rồi được dùng làm nhạc đề cho một cuốn
         phim của Marcel Carné. Công trình họp soạn là một cách thức
         phá thể, như ý muốn vượt thoát cái hiện thế
         điêu tàn và trì trệ của một thời vừa im tiếng
         súng. Ra đời trong sự thờ ơ của người đương
         thời nhưng rồi chẳng mấy chốc trở thành bài
         ca ưa chuộng của hàng triệu người khắp nơi trên
         thế giới. Trong số đó, hẵn không ít kẻ đã
         nghe ra như một niệm khúc cho riêng mình. Bài hát được
         trình bày theo thể điệu Jazz, nhịp bốn-bốn mở
         đầu với cung trưởng và kết thúc bằng cung thứ,
         với những chuyển cung vừa lả lướt vừa điệu
         nghệ, những âm giai thay đổi lên xuống bất chợt,
         có khi đẩy nốt nhạc lên tới quảng 5 quảng 8 làm
         như mỗi nốt nhạc là một chiếc lá lìa cành,
         bay chập choạng rồi để mặc gió cuốn đi vất
         vưởng ... vất vưởng như những tình nhân trong cuộc
         xô đẩy phũ phàng của định mệnh ...
   
  Nếu có dịp
         may một lần nào nữa, tôi sẽ lục tìm để cùng
         em nghe lại, Yves Montand... Giọng nam, khàn đục như quến khói, trầm
         uất như thoát ra từ một cõi đời đã lạnh.
         Bài hát mở đầu không bằng tiếng ca mà bằng
         mấy câu thơ được đọc lên như chỉ để
         nói thầm, như chỉ nói cho mình mình nghe. Dù ngay câu nói
         đầu tiên đã bật ra một tiếng gọi. Đại
         danh từ ngôi thứ hai. Tu. Em. Có điều tiếng gọi chìm
         lấp trong âm sắc u ẩn của giọng kèn saxo, làm người
         nghe có cảm gíác dường như người được gọi
         đã lánh mặt vào một cõi đời nào khác. Oh,
         je voudrais tant que tu te souviennes. Des jours heureux quand nous étions amis. Bởi vậy rốt
         lại chỉ còn là một lời độc thoại mà sao nghe ra
         thủ thỉ như o ấp từng chữ một, làm như người
         kia đâu đó ... vẫn kề bên. Tôi mong ước làm
         sao cho em còn nhớ lại. Những ngày hạnh phúc khi chúng ta sống
         bên nhau. Những ngày tháng đó, đời đẹp biết
         bao nhiêu. Và mặt trời ấm áp hơn bây giờ rất
         nhiều
  Oh, je voudrais tant que tu te souviennes,
          Des jours heureux quand nous étions amis,
  Dans ce temps-là, la vie était plus belle,
  Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui.
  Les
         feuilles mortes se ramassent à la pelle, 
  Tu vois, je n'ai
         pas oublié...
 Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
 Les souvenirs et les regrets aussi
 Et le vent du nord les emporte
 Dans la nuit froide de l'oubli.
 Tu vois, je n'ai pas oublié
 La
         chanson que tu me chantais.
 
 
  Rồi cả
         dàn nhạc trổi lên quấn quýt theo tiếng kèn đồng
         não nuột đưa đẩy cho tiếng hát vuột ra, bộc
         bạch từng nỗi xót xa ... 
  C'est
         une chanson qui nous ressemble
 Toi, tu m'aimais et je t'aimais
 
 
  Tiếng hát so đo từng lời, kể lể từng
         chữ như muốn phanh phui từng nghĩa, mơn trớn như hơi
         thở nồng nàn mà âm vọng lại nằng nặng như
         bàn tay gầy, thô, ve vuốt lên miệng một vết
         thương chưa lành, ve vuốt mà làm đau râm ran theo từng
         ngón vỗ về. Tiếng hát lặng lờ  bay đi, tiếng
         buồn dội lại đè nặng lên lồng ngực, ray rứt
         như tiếng nứt rạn của mặt băng dưới sức
         ép của thời tiết đổi mùa. Nhịp slow chậm, trì
         trì như ngày tháng mỏi mòn dẫm đau lên những đợi
         chờ đã vô vọng ...
  Mais la vie
         sépare ceux qui s'aiment
  Nhưng rồi cuộc
         đời chia cách những người yêu nhau
 Tout doucement, sans faire
         de bruit
  Lặng lẽ chẳng để
         lại một tiếng vang
 
 
  Nghe
         như một tiếng thở dài hơn là một điều
         than oán. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng
         lẽ. Không một trách móc. Không một oán hờn. 
          Et la mer efface sur le sable
  Les pas des amants désunis.
 Và rồi biển cả xóa dần
         những dấu chân trên cát của những cặp tình nhân
         bị chia lìa
 
 
  Có phải đã
         xa rồi, xa lắm rồi, ngày tháng đó, mùa hè ấm,
         góc phố xưa, đêm lễ hội gần tàn, ly rượu
         cuối ngày ngoài hiên một quán thưa khách, nghiêng đầu
         bụm tay che gió thắp thêm điếu thuốc, vừa khi ngẩng
         lên, bất chợt, một thoáng hiện... Ai kìa. Bỗng
         dưng trăm dấu nhớ. Tim hụt nhịp. Dáng nữ kiêu sa. Mái
         tóc rối gió vẫn nguyên đường ngôi chẻ lệch.
         Tia nhìn lặng mà lao xao réo gọi. Ờ hai con mắt vốn đã
         xốn xang, bây giờ se thắt thêm mấy dấu chân chim
         đã mỏi.  Ơ .. ơ ... có phải là ... ? Ồ ! Em ! Rồi
         vòng tay siết vội. Phút chốc, hương mùa yêu cũ.
         Tiếng cười nhẹ trên đôi môi đã thiếu phụ.
         Khóe mắt rươm rướm hồ như đọng một thoáng
         sương đêm. Rồi bỗng nhiên hiện tại nhòa đi.
         Rồi cả một quá khứ bỗng ùa về... Mấy
         chục năm trời biệt dạng. Một tích tắc, nguyên vẹn
         như thuở... ngày xưa. 
  Như vậy
         đó chúng ta gặp lại. Bất ngờ như mọi thứ tình
         cờ. Đêm còn lại toàn dấu tích. 
  Hai mươi lăm năm bỗng như chớp mắt.
         Tình yêu trở ngược mạnh như cơn gió dữ, thổi
         tan hết mọi ngại ngần. 
  Và
         rồi... nụ hôn không kềm giữ dưới chân bức
         tường đá, cũ từ đã trăm năm. Quá khứ trùng
         vây. Tương lai bất định. Mặc kệ. Ôi nụ hôn
         mang đôi cánh thiên thần đưa người ta vượt cõi
         trần gian tù ngục. Phút chốc mà thiên thu. Phút chốc
         thành định mệnh. 
   
          Ờ, tôi nghĩ em còn nhớ. Dù
         bây giờ chúng ta đã xa nhau như hai tinh cầu thất lạc.
         Xa đến nỗi khoảng cách không tính được bằng
         lời. Dù vậy làm sao mà quên được hả em. Những
         giây phút mà người ta chỉ sống một lần, trong
         một đời. Làm sao quên được em, dù trí nhớ
         là thói quen bạc bẽo nhất của con người. Năm ba năm, mười
         mươi năm, rồi bây giờ, những ngày tháng cuối,
         tôi vẫn còn nhớ. Dù như những chiếc lá khô
         rụng lả tả đã được xúc đi từng bựng. Kể
         cả những kỷ niệm và ngay cả những hối tíếc
         đã bị thời gian cuốn đi rồi lấp kín trong bóng
         tối thăm thẳm của lãng quên. Tôi nghĩ em vẫn còn
         nhớ. Cũng như tôi. 
   
          Mùa hè năm đó. Oh, je voudrais tant que tu te
         souviennes. Cả một thế giới mênh mông bỗng thu nhỏ
         lại. Giờ giấc nhập nhằng không còn định được
         bằng dấu mốc của thời gian. Mặt trời mặt
         trăng sông nước núi non góc đường nẻo phố, mọi
         thứ trở nên thừa thải. Chúng ta có cần đến
         đâu. Hoa lá cỏ cây dù đương lúc mãn khai cũng không
         còn sức quyến dụ. Mùa hè năm đó. Khi chúng ta có
         nhau. Khi chúng ta bên nhau. Sau hai mươi lăm năm bặt tung tăm tích.
         Mùa hè đó. Thời tiết mùa màng đã vì chúng
         ta mà rạng rỡ. Những lọn nắng vàng cứ tha thiết
         vờn lên mái tóc em ngoan. Những ngọn gió ấm từ
         phía nam thổi tới ve vuốt hoài hai bờ vai bỏ hở.
         Trong tay tôi, em phó mặc mọi điều. Trong nhau, chúng ta quên hết
         mọi thứ. Chiến tranh. Nghề nghiệp. Bổn phận.
         Trách nhiệm. Giáo điều. Hết thảy mọi thứ đã
         kéo dạt chúng ta ra hai phía suốt hai mươi lăm năm đằng
         đẳng. Chỉ còn tôi. Chỉ còn em. Chỉ còn chúng ta. Ôi
         mùa hè năm ấy. 
  Des jours heureux
         quand nous étions amis,
  Dans ce temps là, la vie
         était plus belle,
  .......................
  Nous vivions, tous les deux ensemble,
  Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
   
          Với nhau mọi thứ đều trở
         nên tuyệt vời. Em nhớ không. Có phải khi hạnh phúc người
         ta trở nên dễ tánh. Có nhau, người ta có cần gì
         hơn nữa đâu. Ngay cả miếng bánh chiên ăn vội bên
         lề đường. Ngay cả ngụm cà phê bán trong ly giấy,
         tay cầm, tay quàng lưng nhau vừa đi vừa uống, len lách
         qua đám đông mỗi bận xuống phố. Ngay cả căn
         phòng khách sạn nhỏ xíu như cái tổ chim tìm mướn
         vội vàng, khi trời hửng sáng bữa gặp lại, sau gần
         một đêm thức trắng đưa nhau lội lang thang qua những
         đường phố vắng tanh. Kể lể. Phân trần.
         Nhưng có cần đâu. Trong tận cùng cái góc kín nhất
         của lòng nhau, đã có bao giờ chúng ta mất nhau. Suốt
         đoạn trường đó. Bởi vậy khi gặp lại, hạnh
         phúc như chút bọt bèo vớt vát được sau cơn hồng
         thủy thành ra giản dị biết bao nhiêu. Giản dị đến độ
         nhỏ nhoi, đến gần như vô nghĩa. Chỉ cần sự
         có mặt của nhau đã là nguồn cơn hạnh phúc. Mùa
         hè đó, mọi thứ trở nên hoàn hảo. Ngay cả mặt
         trời dường như ấm hơn mọi khi. Làm sao không ấm
         hơn khi tình yêu luôn là ngọn lửa hừng hực, đốt
         cháy da thịt người trong suốt cuộc yêu đương. 
          Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui
   
  Em nghĩ coi. Có
         phải những câu hát đã nói giùm ta như vậy.
           
  Làm
         sao quên hả em. Người đã yêu tôi thầm kín thời
         con gái, từ hai mươi lăm năm trước.
  Làm sao biết được, thoáng yêu rồi...
         rồi mất biệt nhau luôn. 
  Dòng
         đời trôi xa. Em lưu lạc đâu đâu. Tôi xô dạt phương
         nào. Ai biết được. Vậy rồi, dưng không, chúng
         ta gặp lại nhau.
  Thử hỏi, trong
         suốt khoảng thời gian thăm thẳm đó, có lần nào
         nghe ngóng được chút tăm hơi. Vậy mà gặp lại
         rồi, y như mới hôm qua hôm kia. Y như 4 giờ sáng bữa
         mới vào xuân, chuyến xe liên tỉnh, đèn ngoại ô vàng
         không giấu được nét hốt hoảng trong mắt nhìn
         bỗng dưng thất lạc, bàn tay níu không muốn rời
         như dự cảm một hiểm họa chực chờ, buổi
         sáng em đưa tôi về quê. Rồi tai ương ụp xuống.
         Rồi quốc lộ bị cắt đứt. Rồi tù tội.
         Rồi biển xa. Rồi thôi. Rồi thôi. Dẫu vậy
         làm sao người ta cắt đứt được một thứ
         không thể cắt đứt. Sau hai mươi lăm năm. Mọi thứ
         vụt nối lại như chưa từng bị bứt rời.
           
  Dù
         hai mươi lăm năm có ngắn đâu em. Hai mươi lăm năm dài
         lắm, dài đằng đẳng. Dài đến nỗi em đã
         là thiếu phụ. Nghĩ cho cùng hai chữ thiếu phụ buồn
         lắm em. Tôi có muốn nghĩ tới đâu mà rồi cứ
         phải đắn đo, mỗi lượt gặp nhau.
   
  Trong tình yêu,
         có chi mà trách cứ. Người ta tìm đến nhau, đâu
         có ai mời gọi ai, đâu có ai kéo níu ai. Trong tình yêu, người
         ta tìm đến nhau rất tình cờ. Tình cờ như hằng
         hà sa số lần gặp gỡ trong cõi đời nghìn muôn
         vạn nẻo này.  Rồi người ta xa nhau. Cũng tình cờ
         như hằng hà sa số chuyện đổ vở kể từ
         khi người ta biết yêu nhau. 
  Làm
         sao người ta dự đoán được sẽ gặp nhau, rồi
         yêu nhau, rồi xa nhau... buổi sáng mai, lúc chiều xuống,
         giữa khuya hôm... đầu mùa xuân, bữa cuối thu hay ngay
         giữa ngày đông mà ai cũng cần một vòng tay ấm...
          Tất cả rồi chỉ là trò chơi
         của định mệnh. Và con người, con người rồi
         ra chỉ là những chiếc lá rơi trong vòng xoáy của cơn
         gió vô tình... 
   
  Mặc kệ những hẹn thề hay bội
         ước, bất kể sắt son hay ruồng rẫy, cho dù
         thắm thiết hay lạt lẽo, rồi hạnh phúc hay khổ đau,
         tất cả, tất cả cũng chỉ là hai mặt của một
         đồng tiền đang quay tròn, quay tròn hết sức mình.
         Sấp. Ngửa. Sẽ đến lúc, một lúc nào đó,
         vòng quay phải ngừng lại. Và tất cả, những người
         yêu nhau, và tôi và em, ai có phần nấy ...
   
  Dẫu vậy,
         em thấy đó, làm sao tôi có thể quên... 
  Tu vois je n'ai pas oublié.
  (
         dù như ) vô số những chiếc lá chết được
         xúc đổ đi,
  Les feuilles mortes se
         ramassent à la pelle,
  những kỷ niệm
         yêu dấu của chúng ta, ngay cho dù là những tiếc nuối
          Les souvenirs et les regrets aussi,
  cũng sẽ bị gió từ phương bắc thổi
         về cuốn đi 
  Et le vent du nord les
         emporte,
  chôn kín hết vào bóng
         tối lạnh lùng của quên lãng
  Dans
         la nuit froide de l'oubli.
   
  Vâng, tôi có quên đâu. Nhưng dẫu vậy,
         tôi có giữ lại được gì khi đời sống như
         biển lạ. Và những tình cờ như những con sóng vô
         tình cứ vổ vật vờ lên bờ bãi đời
         ta. Mọi thứ rồi chỉ là bọt bèo trôi tắp theo đẩy
         đưa bất định của dòng đời miên viễn... không
         khởi đầu cũng chẳng chung cuộc. Ai nói được
         sẽ ra sao... ngày sau ! Bởi vậy oán trách gì nhau khi hạnh phúc
         đã chứa sẵn mầm thiên tai. Trong tái ngộ đã
         hiển hiện lần ly biệt. Đã có lần Nguyễn
         Đình Toàn và Vũ Thành An nhắc nhở... ngày thần
         tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...Tại chúng
         ta quàng vai đun đẩy nhau vào khu vườn cấm ... Ôi những
         cánh dơi mù lòa ... đáng thương. Và đáng trách ? Không,
         tại sao ... Tại sao oán trách khi yêu đương đã là viên
         đá mà lời sấm rủa đã bắt Sisyphe phải lăn lên
         tới chót đỉnh trong khi cái chỗ của nó là ở dưới
         chân núi. Bởi vậy khổ dịch của Sisyphe có phải là
         số phận của những tình nhân yêu thương nhau trong tuyệt
         vọng. Như... tôi và em. Không gặp. Đời có gì vui. Gặp.
         Đời như nhắp chút rượu thơm rổi dư vị đắng
         chát cặn lại không thôi. Nhịp đời nặng thê thiết
         như một điếu khúc được phát ra từ một
         đĩa hát cũ được quay đi quay lại. Đã dặn em đừng
         chờ đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ chờ cứ
         đợi. Đã nhắc tôi đừng đợi. Nhưng sao vẫn
         cứ đợi cứ chờ. Ôi những cánh dơi mù lòa
         ... Bởi vậy, gặp lại rồi, rồi lại phải xa nhau.
         Xa nhau mãi. Mãi mãi. 
   
  Tu vois, je n'ai pas oublié,
  La chanson que tu me chantais...
  C'est une chanson, qui
         nous ressemble,
  Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
          Nous vivions, tous les deux ensemble,
   
  Dẫu vậy
         em thấy đó, tôi có quên đâu. Những gặp gỡ
         len lách. Những hẹn hò tránh né. Những kỷ niệm. Bài
         hát lần nào em đã ru tôi giữa gối chăn xô lệch.
         Thần tiên gảy cánh đêm xuân. Bước lạc sa xuống
         trần. Thành tình nhân đứng giữa trời không. Khóc
         mộng thiên đường. Câu thơ nào tôi đã viết
         lên bóng tối từng trang thương nhớ sau những ngụm
         rượu đắng từng đêm. Ta sẽ chờ nhau giữa
         mịt mùng. Khi ngày mất tích đêm thất tung. Khi năm khánh
         kiệt đời tuyệt tận. Em bồ tát khóc lệ
         bao dung. Và còn bao nhiêu trang chữ chưa bao giờ viết ra. Mà
         làm sao viết ra cho hết, nỗi lòng tôi, tâm sự em. Tình
         yêu trễ muộn của chúng ta. Dù ngay từ lần đầu
         tiên gặp lại, làm sao chúng ta không biết, con đường
         chúng ta đi sẽ là con đường khổ nạn. Và em, em sẽ
         là người mang đội vòng gai. Con đường em đi sỏi
         đá, đồi Golgotha dốc ngược, chân trần, em dang thân
         gánh tội để đền tôi. Làm sao đây em, làm
         sao nói được hết, uẩn khúc em, oan nghiệt tôi.
         Đời bủa vây giữa trùng trùng oan trái. Và chúng ta, ôi
         những cánh dơi mù, bay chập choạng giữa mịt mùng cạm
         bẫy. Hạnh phúc giương tay đón gọi rồi xô giạt người
         tới phũ phàng. Hạnh phúc rót mời từng ly rượu
         ngọt pha dậm cường toan. Rượu càng nhắp càng say,
         độc dược càng ngấm. Từng ngày qua, từng đêm
         tới. Mỗi một ngụm tình là một tự hủy. Càng
         lúc chúng ta càng hốt hoảng khi tình yêu và cuộc đời
         như hai mặt của một lời chúc dữ. Người ta chỉ
         được chọn lựa một trong hai. Không bao giờ được
         cả đôi. Đó có phải là thân phận bất toàn
         của chúng ta, con vật người trần trụi và hèn mọn
         trước quyền lực của siêu nhiên... Em thấy đó.
         Tình yêu của chúng ta, thứ của cải vô giá của chúng
         ta, có đáng gì đâu so với sức tàn phá mãnh liệt
         của thời gian, ép uổng của định mệnh, xô đẩy
         bất chấp bởi những tình cờ chẳng ai ngờ
         được. Chúng ta sống chết, thù hận hay yêu đương,
         hạnh phúc hay đau khổ cho đến gặp gỡ hay biệt
         ly... cũng chỉ là cười khóc múa may như những hình nhân
         vô tích sự. Mình có quyết định được gì
         cho số phận của mình đâu. Tôi. Em. Đã có ai chờ
         đợi ai như chúng ta đã chờ đợi nhau. Đã có
         ai tặng cho nhau nỗi đắm say, niềm quyến luyến...
         và nhất là tiếng cười lanh lảnh của tuổi trẻ
         tìm lại được từ sau những mất mát vì thời
         cuộc như chúng ta đã tặng cho nhau. Vậy mà, em ơi, rồi
         cũng có mấy ai được may mắn như gã Thôi Giao trong
         tích xưa. Hầu môn nhất nhập thâm như hải. Tòng
         thử Tiêu Lang thị lộ nhân. Có phải đã một lần
         bước chệch khỏi đời nhau là mãi mãi như hai tinh
         cầu đã bay lệch vào hai hướng khác nhau. Chuyện
         sum hợp chẳng qua chỉ là một thứ huyền thoại để
         tự vỗ về của những tâm hồn đã hơn một
         lần tuyệt vọng. Mùa hè năm đó qua đi, dòng đời
         quay trở lại cái vòng quay bất tuyệt của nó. Và chúng
         ta, chúng ta như hai viên sỏi bọt bèo bị bắn văng ra hai hướng
         bởi cái sức ly tâm tàn nhẫn của đời sống
         với mọi thứ định chế từ đã ngàn đời.
         Tội nghiệp em. Tội nghiệp tôi. Chúng ta yêu quý nhau
         biết bao nhiêu. Chúng ta mê đắm nhau biết bao nhiêu. Vậy
         mà ...
  Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
  Cuộc đời cắt chúng ta ra làm hai
         mảnh, ném đi hai ngã không chút nương tay. Cuộc đời
         xô chúng ta ra hai hướng chẳng thèm chút ngó ngàng. Chia đôi
         một cặp tình nhân đắm đuối như phủi một
         hạt bụi váng vất chẳng làm cau một nét mày. 
          Et la vie sépare ceux qui s'aiment,
  Tout doucement, sans faire de bruit.
  Đành
         đoạn. 
   
  Nghe lại đi em, một lần nữa, đoạn cuối
         của bài nhạc, tiếng kèn đồng vút lên rồi chùi
         xuống thê thiết, như muốn dìm sâu hết mọi dấu
         tích tình nhân vào mớ dư âm đang dần dần lịm
         tắt. Mọi dấu vết, kể cả những kỷ niệm
         cho dù nhạt nhẽo nhất vẫn không thoát khỏi những lượn
         sóng thời gian xô dạt vào quên lãng... Như sóng biển
         cứ xóa hoài những vết chân trên cát, những dấu
         chân sóng đôi  đã dìu nhau qua đó, một lần
         nào ...
  Et la mer efface sur le sable,
  Les pas des amants désunis.
  Rồi còn lại gì, còn lại gì đâu, những mắt
         rủ môi mời, những ngọt lời đẹp ý, những nhắc
         nhở nôn nao, những đổi trao tha thiết, những đắp
         đổi đền bù, và ... và những tay quíu chân kềm
         khi đêm mê đắm vở òa hạnh phúc ... 
  Còn gì đâu ... có còn lại gì đâu ...
           
  Dẫu
         vậy, như đã tự hứa với chính mình, tôi sẽ
         giữ mãi trong tôi, dù chỉ là những hình ảnh, dù chỉ
         là những vang bóng của mùa hè năm ấy, khi tay trong tay, chúng
         ta đi những bước thênh thang ngay trên con đường thập
         giá, giữa những nguyền rủa của số mệnh và
         bây giờ giữa những tang thương sót lại sau những mất
         mát không thế nào, không có gì, bù đắp lại được.
         
   
  Nhen
         em, lời tôi kể lể nghe ra như một tiếng thở
         dài hơn là một điều than oán. Như chính bài hát
         cũ. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ.
         Không một trách móc. Chẳng một oán hờn. 
          ...............................
   
  Em biết không, câu
         kết của bài thơ, dù không được nhắc đến
         trong bài hát, vẫn là một lời hứa, dù chỉ là
         ... hứa với chính mình 
  Et
         la chanson que tu chantais
 Toujours, toujours je l'entendrai !
  Và bài ca em đã hát cho tôi nghe lần nào,
         tôi vẫn còn nhớ...  Nhớ hoài !
Cao vị khanh
   
   
           
   
    
 
                                            
                                            
                                            
 
      
       

Đã lâu lắm tôi không về lại Việt
         Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ
         ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không,
         tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới
         vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như
         những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm
         trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa
         đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn
         đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến
         xót xa. Tôi nhớ quê như một người tình bị phụ rẫy
         nhớ lời đay nghiến. Dù là một lời đay nghiến. Vậy
         mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì
         rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có
         suông sẻ gì đâu.
  Những năm
         mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài Gòn trọ
         học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số là tôi đã
         bắt đầu thấy nhớ. Lạ vậy đó. Vẫn có những chiều
         đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy
         chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe.
         Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ
         mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên
         cổ. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Như
         đã gặp rồi đâu đó, quen quen. Như đã nghe rồi
         đâu đó, mài mại. Ly hương, người đi xa tưởng là
         bỏ hình lại ở chốn cũ mà quên rằng bóng cứ lúc
         thúc theo sau. Nó cặp kè, léo lách, lẩn lút loanh quanh. Cứ như
         vậy mà dằng co níu kéo. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi
         lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc
         nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm
         sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó
         đất quê !
  Vậy đó, suốt
         mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, dẫu người ở phố
         thị mà lòng vẫn đặc sệt nhà quê. Hở ra là nhớ. Nhớ
         từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ
         đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi
         quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi nhớ hoài.
         Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở
         bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè, lượm đá thảy
         lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một
         người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại
         bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy
         nằm dài ra đó ngó lơ mơ ngủ dật dờ mặc cho cuộc đời
         xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều
         biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến
         đứt ruột. Nhớ đủ thứ. Kể cả những thứ
         không đáng nhớ. Nói gì đến thứ không thể
         nào quên. 
  Như cái bến phà
         Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu
         thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này,
         lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác.
         Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh
         ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông
         như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải
         con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã
         chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Hay chính những lượn
         sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn
         tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít. Bằng lý do nào,
         thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi
         tôi nhớ nhiều nhất. Nhất là từ lúc biết mình khó có
         dịp qua lại nữa.
  Những năm mới
         bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy về quê cũ.
         Mà lần nào cũng vậy, cũng thấy mình trễ nãi, về
         tới bến rồi mà cứ hụt hoài chuyến phà chót
         qua sông... Thẩn thờ đứng lại đó, nhìn ngó bâng
         quơ rồi thấy lại y nguyên cái cõi thân quen, y như khi đời
         còn thơm thảo. Từng mặt người qua kẻ lại, từng
         lối tắt đường quanh... 
  Nghĩ
         lại cũng lạ. Lội sông lội suối đã đời rồi
         mà rốt lại chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó
         thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với
         cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở
         miền tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi nam đến đó
         là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ
         Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng tây nam
         đến đó phát đổ ròng ròng đến sạt bờ lỡ
         bãi. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá,
         người ta chưa đủ sức bắt cầu. Xe đò, xe hàng tới đó
         là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi
         lượt xuống phà qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh
         chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì
         phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp
         ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ cho nguội
         máy, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm
         mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại
         mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào
         náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm. Làm
         như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới
         rồi lại cứ mong cho mau đi. 
  Nói
         vậy mà lỡ có kẹt lại lâu lâu thì cũng chẳng lấy
         gì làm phiền hà cho lắm. Xe tắt máy, khách bước
         xuống bãi đậu, vung vai vặn mình vài cái cho dản gân
         cốt rồi là miệng chắt lưỡi, hoặc lầm
         thầm rủa xả vài tiếng trong khi chân thì xắn xả nhắm hướng
         mấy cái quán nước hai bên đường. Mấy chốc,
         đời vui trở lại. Giữa đồng không rồi bỗng
         thành ra một buổi chợ đông. Hai bên lộ, người
         ta che bạt, dựng chòi lợp lá, khá hơn chút gá vài ba
         tấm tôn, khá hơn chút nữa tụ lại thành một dãy
         tiệm có cửa nẻo hẵn hòi. Mà điều lều
         trại hay phố xá cũng đều xập xệ như chỉ
         để che mưa đụt nắng qua ngày. Ờ mà đúng vậy,
         có ai mà nghĩ được ghé qua đây rồi ở lại
         luôn đây. Cái chỗ giữa đường giữa xá !
         
  Hàng hóa thì chưng dọn luông
         tuồng đến luộm thuộm, đồ khô trộn
         lộn với đồ tươi, bánh mứt xen kẻ với túi
         xách giỏ đệm, đồ ăn thức uống tràn ra tới
         lề đường vậy mà len qua lách lại sao thấy ngồ
         ngộ y như những cái ngoắc tay khều vai bá cổ. Bởi
         vậy người qua lại rồi thấy vui tai lạ mắt, Rồi
         ai nấy cũng thành ra dễ tánh. Vậy đó đời
         vui biết mấy. Cái chỗ không phân biệt giàu nghèo
         sang hèn, ai đến rồi cũng phải lội bộ ngang qua. Đã
         không tránh được thì sao không hả lòng ra mà hưởng.
         Mà hơn nữa, thực phẩm trần gian thì bày ra ê hề
         mời đón. Người đi xa lỡ độ đường chưa đói
         vẫn nghe ruột dạ cồn cào. Cơm nước trái cây bốn
         mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào
         chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng
         da xanh mướt mà phát thèm. Những xâu mía ghim tươm nước
         ngọt như đọng sương mai, những trái khóm Bến Lức
         xẻ năm xẻ bảy rịn mật vàng lườm, những chùm
         nem Nha Mân treo xum xoe ngả ngớn... Điệu đời hơn nữa, những
         xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới
         trong lồng kiếng, quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn. Kế bên,
         mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm
         thấu tới thiên đình. Kề đó, mấy chai bia con cọp sắp hàng
         dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nỗi. Bởi vậy mà 
         khách giang hồ  qua đó thế nào rồi cũng phải có lần
         ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình
         qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình
         tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết
         chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái
         bến đỗ vốn đã ồn ào lại được thêm phần...ầm
         ĩ.
  Nhưng mà tại sao là Mỹ
         Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền tây
         còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu,
         Chợ Gạo, Cổ Chiên ... sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có
         Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông cò quận chín
         trong tuồng cải lương Tuyệt tình ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh
         Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận, về Mỹ
         Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm
         trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn
         rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới
         vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không
         dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn.
         Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của
         tôi thôi. 
  Vốn là quê tôi
         cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số
         gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ
         chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê
         lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc
         cầu xi-măng làm điệu bắt cong cong. Con đường hiền lành
         thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc
         sắc. Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát
         êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống trì trì nhàm
         chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối
         ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn
         đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn
         rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên
         qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không
         khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người
         đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã
         lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt
         ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một
         chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm
         như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là
         những chuyến lên đường.
  Ờ,
         những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành
         lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua
         phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm
         trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông
         đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
  Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một
         tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài
         Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng.
         Trời gần tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng
         xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật
         to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có
         được đâu. Cái ngủ đậu chực hờ trên mí mắt.
         Tiếng xe chạy ù ù êm tai như tiếng ru em. Nó chịu thua. Nhưng
         mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã
         giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò.
         Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi...Đứa bé giựt
         mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc
         sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn
         cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ
         ngác tưởng trong chiêm bao. Bở ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái
         là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh
         mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó
         đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười
         giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người
         lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó
         ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở
         nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường
         ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà
         nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường
         hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng
         có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao-đơn-hườn-tán,
         ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ...
         còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp,
         chờn vờn một sức sống mãnh liệt, bừng bừng ngay kề bên
         cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám
         phá kỳ diệu. Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu.
         Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ đi
         những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như
         để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng
         sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí
         mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả
         cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên
         cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập
         vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới
         cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây
         vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của
         mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi
         tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn
         xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự
         chỉ dẫn của ông "xếp bắc", miệng ngậm tu-huýt mặt câng
         câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò
         lên cầu từ tốn, vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu
         nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy
         lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp
         khi xe lỡ trớn. Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới
         vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu "bông-tông"
         thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm
         chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa "bông-tông"
         là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ
         vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu
         đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà
         lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà
         thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có
         một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:"Coi chừng thử
         thắng xe qua phà". Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống
         sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành
         xuống xe đi bộ, bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời
         vận. Mà chắc cũng quen rồi vì ông tài xế coi bộ bình
         tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà
         thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng
         lại đúng lúc ông kiểm soát khoác hai tay ra dấu ngừng. Tất
         cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi
         ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây
         chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích. Rồi đợi
         đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người
         kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư
         vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng
         đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy
         xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được
         có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi
         tuốt trên phòng lái ra lệnh dở bửng. Ai đó đánh một
         tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới
         không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không
         được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi
         từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói
         sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước
         bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng
         dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng
         cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy
         chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy
         nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ
         có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một
         chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi phăng phăng ngược
         chiều. Gặp mùa lũ chướng xem chừng phà còn nhàn nhã hơn
         nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống
         tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên phía bờ bên
         kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có
         thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường.
         Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào
         cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy,
         ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu
         nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy
         giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng
         mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh.
         Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê
         hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến
         nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy
         đến hết đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như
         đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó.
         Nó chăm bẩm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống
         dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách
         đột ngột, từ đó.
  Như vậy
         mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược
         lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như
         lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt
         nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà
         và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một
         chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo
         nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước
         có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết
         lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không
         có khởi đầu và cũng không có kết thúc.  
   
  Có phải
         tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã
         giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông
         bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên trung học, tôi vẫn
         thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp
         cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một
         đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy
         vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với
         cuộc mộng du giữa ban ngày ban mặt. Không biết có phải tại
         tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa
         trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. "Tôi
         đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa".
         Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người nên tôi
         mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột. Bạn bè trai
         gái, thân sơ bất kể, ai tôi cũng mời cũng rủ rê
         cho được. Ở đó tôi huyên thuyên dẩn giải hoặc trầm
         ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của
         tôi vậy. Có người cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số
         thì dẩy nẩy đòi về. Nhưng mặc. Rốt lại chỉ còn
         tôi với cái bến nước của riêng tôi. Nơi vừa
         có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ
         thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng
         giang hồ qua qua lại lại. 
  Bến nước
         là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ
         của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc,
         Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh... Họ băng ngang thì thôi chớ còn
         xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không
         chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi
         mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng
         có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi
         đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là
         nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không,
         ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông
         Tàu xưa đã cảm thán đến rơi nước mắt: "tiền
         bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa
         chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ". Đó là một quán
         trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc
         hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui
         vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé
         qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt.
         Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà
         khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi
         có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng
         làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với
         bạn bè mà không ai chịu nghe. Thì thôi ai có phần nấy.
          Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi
         đã học được bao nhiêu điều của trường
         đời mà trường học thì không thấy đâu có
         dạy. Bãi trường năm 67, tôi từ Sài-gòn về quê nghỉ
         hè, cô bạn con nhà giàu được cha mẹ lo cho đi du học ở
         Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm
         tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu
         mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình
         đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được
         một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người
         ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Trời ơi
         lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ
         mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng
         vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa
         ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà kể. Con tim dù
         lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước
         chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm
         sư phụ. Mấy thằng bạn cùng tuổi, tối ngày chúi mủi
         vào sách vở làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm
         của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng
         bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn,
         từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không
         tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. 
  Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này
         nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước
         hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào
         tôi không biết. Chỉ biết khi tôi bắt đầu qua lại thường
         xuyên thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó
         lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột
         đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm
         bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng
         mà ông ta mờ nhạt quá nên riết rồi người ta cũng lờ
         đi coi như một tấm phông cảnh cũ mèm bỏ quên trong một
         góc hậu trường sau khi gánh hát dọn đi. Ông ta ngồi yên
         như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng
         nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không
         nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn
         thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ
         mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như
         gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường
         nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại
         rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn
         chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
         Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất
         chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm
         chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý
         tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì
         lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông
         ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào
         rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như
         không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông
         thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt
         nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo
         cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết
         ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của
         âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến
         nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí
         ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu
         réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay
         ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh
         lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù
         vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái
         đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường
         cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt. Một lúc mưa bỗng
         tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng
         bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu.
         Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến
         tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi
         không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ
         với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một
         nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy
         tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù
         mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù
         đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó
         không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người
         hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc
         nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến
         khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh.
         Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu. Thuở đó
         đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì
         gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại
         xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà
         buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn
         mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây
         độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị
         như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó
         nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn
         thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài
         kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi
         đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay
         ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập
         làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu
         không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê
         hoang, tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn
         đi tìm bạn tri âm... Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình
         thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến
         phà cũng thưa bớt người qua.
  Bữa
         đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi
         cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
  Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như
         vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng
         căn mạt kiếp tới lên xe xuống ngựa, từ bậc tài
         trí đến kẻ ngu ngơ, những tay đâm thuê chém mướn,
         coi trời bằng vung, trước ngực thì xâm " hận kẻ bạc tình"
         sau lưng thì xâm " thù người hại bạn" đến người
         cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia
         như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ
         gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ "liên hoành" với
         lại "hợp tung". Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón
         tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người
         yêu đòi "tách bến sang ngang", có ông dẫn cô nhân
         tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó
         rồi... quất ngựa truy phong bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên
         bờ sông định mạng. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng
         ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả
         đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ
         như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép
         nài từng gói đậu phọng rang để nuôi bà mẹ tật
         nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời
         đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không
         thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ
         cảnh đời mà có học đến già người trong trường
         lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi kết
         cái bến phà Mỹ Thuận như bạn tâm giao, mà hơn nữa
         như một bậc thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón
         khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường.
         Giữa tuổi đôi mươi có lúc tôi thấy tự
         tin như một kẻ lõi đời. Kể ra cũng đáng cho một
         kiểu đời gạo chợ nước sông mà ăm ắp
         tình người. 
  Bởi vậy bỏ
         đi xa rồi mới thấy đời sao hụt hẩng !
   
  Ở đây xa quá
         lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô
         canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô
         rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc
         tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng
         nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà
         hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà
         cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột
         chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Con gái chị
         Hằng chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn
         nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên
         bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
   
  Vậy đó
         tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi
         còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi
         mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa
         một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến.
         Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây
         giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó
         nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn.
         Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán
         sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa.
         Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm
         ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ
         hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng
         được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm
         nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt
         mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tú Xương
         ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định
         quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi
         nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không
         chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn
         rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình.
         Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn
         bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời. Cũng như
         tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người quen kẻ lạ rầy rà,
         lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ
         riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này,
         những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phức cái cho được
         việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn
         chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ
         xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường
         tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi.
         Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền
         thế chuyên bóp hầu bóp cổ dân đen vốn đã
         dư ăn dư mặc thì ngày càng thêm phục phịch phủ phê.
         Còn người bị đày đọa vốn đã mót từng
         hạt gạo thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được
         vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng
         liêng nào đó. Mà hể thiêng liêng thì phải có công
         bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản.
         Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này
         đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với
         đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã
         đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi trẻ con vẫn
         phải lội sông lội suối để đến trường,
         mà con bệnh trầm kha vẫn phải chầu chực đút
         lót để có được viên thuốc, mà tuổi già
         đã sát kề miệng huyệt còn phải gồng gánh
         để lấp liếm cái miệng ăn, mà nhân phẩm
         của phụ nữ Việt Nam được đem ra trưng bày và
         rao bán qua những chợ thịt người được tráo danh
         là gả-chồng-xa-xứ, mà ......., mà ......, mà kể ra có
         xuể đâu những trái oan ở đó, thì thử hỏi
         có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa,
         cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn
         không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát
         mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ
         tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi
         chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
  Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm
         hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất
         theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng
         chẳng thua gì Kim môn kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một
         chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi.
         Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi giây cáp cong cong. Nhìn trong
         hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có
         con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng
         buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn
         đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suông sẻ, khách
         đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới
         nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao
         khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn
         nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù.
         Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường
         xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể
         chuyện Tam quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc
         nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và
         ngón đàn tận tuyệt... tất cả rồi sẽ được xếp
         vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt
         đầu bằng hai tiếng "hồi xưa...". Có thể mấy chi tiết
         mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước.
         Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội
         vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn
         chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể
         cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới
         đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng
         khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ
         là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu
         bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp
         cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối
         tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên
         từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu
         mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây
         cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người
         nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì
         có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn
         tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số
         không ít người.
  Và nhất là
         cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp
         trong lòng người mà không chịu lo bắt lại để mọi tấm
         lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?
          Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp
         đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê
         nhà.    
  Cao vị khanh 
      
       
 
 
Chênh vênh
         ,
  nỗi nhớ...
           CAO VỊ KHANH
  tạp bút
    
    
  T ôi ở Rạch
         Giá mười năm, mười năm cuối của quảng đời ba mươi
         lăm năm ở Việt Nam, từ khi sanh ra đến khi bỏ đi... sau hai mươi
         năm ở Vĩnh Long và năm năm ở Sài Gòn. Những gì đã
         quên ? Và những gì còn nhớ ? Lòng sao cứ chênh vênh giữa
         nhớ giữa quên...
  20 năm ở Vĩnh
         Long, cái thời của tuổi ăn-chưa-no-co-chưa-ấm...
  Vĩnh Long. Tôi nhớ như in dãy phố tàu.
         Bạn bè dăm đứa đẩy đưa nhau. Áo phanh ngực đón
         mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu.
         
   
  Vĩnh
         Long. Tôi nhớ hàng sao đứng nín thinh. Tan trường áo trắng
         đẹp vô tình. Theo em trao lén bài thơ nhỏ. Chớp vội vành
         cong con mắt xinh. 
   
  Còn gì nữa hả Vĩnh Long ? Mút xa hơn chút nữa
         ... 
  ... Ờ ... há . Em có về
         qua ngõ hẹn xưa. Đường Trương Vĩnh Ký nắng hay mưa.
         Thềm rêu mấy dấu giày thương nhớ. Chắc cũng
         buồn theo ngọn gió đùa.
   
          Vĩnh Long ! Con đường Trương Vĩnh
         Ký. Con đường nhỏ nằm lặng lờ dưới hai hàng
         cây sao cao vút rải đầy những chiếc cánh nâu nâu,
         quay tròn như bông vụ mỗi mùa gió chướng. Con đường
         trải đá xám len lách giữa hai bờ cỏ dại, lập lờ
         đất-thánh-tây nằm lúp xúp những hàng thánh giá
         trắng lờ mờ. Khu nghĩa trang rộng chừng mẩu tây,
         cây cối xanh um với những hàng mộ được xây
         cất ngay hàng thẳng lối, dành riêng cho giới quyền
         thế từ thời người Pháp còn ở đây vẫn
         được chăm sóc tử tế. Hoa tươi thỉnh thoảng vẫn
         được thấy cắm trên đầu mộ. Và những
         tượng thánh đục đẽo bằng đá trắng vẫn
         còn giữ nguyên bộ điệu phủ dụ rất ân cần.
         Dẫu vậy vẫn toát ra từ đó một vẻ gì
         u trầm khó tả. Ở đó thời gian như đã đứng
         sựng lại làm người qua đường rồi tự nhiên
         cũng nín bặt tiếng cười. Ngày qua tháng, tháng qua năm
         chỉ nghe tiếng gió thổi xào xạc trên những chòm cổ
         thụ cao chót vót. Và rền rĩ, tiếng ve kêu vang suốt
         hai mùa mưa nắng. Những cũng chính ở đó, từ
         một góc khuất, đứa nhỏ đang lớn là tôi đã
         nhìn thấy lần đầu tiên bộ mặt của chiến
         tranh. Những trận đánh trong cuộc chiến trước đó
         phần lớn chỉ xảy ra ở bưng biền, sau khi đất
         nước bị cắt đôi chỉ còn là những kỷ niệm
         mơ hồ dù đau đớn trong đầu những người
         lớn tuổi. Còn tôi, đứa nhỏ mới chập chửng
         biết đi đã được mang vào sống ở thành
         phố thì hai chữ chiến tranh chỉ còn vang lên một âm
         vọng gần như vô nghĩa. Nhưng rồi chẳng đợi
         lâu, đất nước yên bình được đâu mấy
         năm thì tiếng súng bắt đầu nổ lại. Người
         ta lại bắt đầu bày trò chơi xương máu. Mới đầu
         chỉ nghe vọng lại từ xa, tiếng súng ấy, nghe xa lắm,
         đâu từ phía những làng mạc mà tôi chỉ mới
         nghe nhắc tên nhưng chưa từng biết tới. Dầu vậy,
         trên môi người lớn thỉnh thoảng tôi đã nghe tiếc
         chắc lưỡi như một tiếng kêu trời ơi không
         thành lời. Cho đến một hôm, trên đường học
         về, tôi gặp một đám tang. Đám tang thưa thớt
         người đưa tiễn. Chỉ có một bà lão gầy
         gò và năm ba người mặc quân phục trạc tuổi đôi
         mươi. Trên tấm di ảnh là khuôn mặt một người
         con trai còn trẻ. Trẻ lắm, cũng trạc tuổi những người
         đi tiễn anh. Và đặc biệt, trên chiếc quan tài có
         phủ một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Người đàn
         bà duy nhất, chắc là mẹ của người chết, vừa
         đi vừa quẹt hai con mắt đỏ hoe. Đám tang của một
         người lính chết trận. Đám tang của một đứa
         con trai vừa mới trưởng thành đã sớm bỏ lại
         thêm đơn chiếc bà mẹ già góa bụa. Buổi trưa đó
         tôi đã đứng lại, nép mình bên hàng rào, nhìn suốt
         tang lễ. Tôi đã đứng đó, nghe người lính thổi
         thê thiết điệu kèn chiêu niệm, nhìn những người
         bạn đồng ngũ đứng nghiêm chào kín, ngó mấy
         người phu thòng giây hạ huyệt, thấy người mẹ
         khóc nức lên rồi khuỵu xuống và nghe tiếng kêu
         con ơi bật ra đứt ruột. Lần đó tôi thấy
         tận mặt chiến tranh. Rồi từ đó, khoảnh đất
         bỏ trống dần dần lấp đầy thêm những
         nấm mộ mới. Và từ đó, suốt cuộc lớn
         khôn, có lần nào tôi không nghe hai tiếng chiến tranh được
         nhắc đi nhắc lại, ngày này sang ngày khác !
   
  Nhưng rồi
         chiến tranh hay không, tôi cũng lớn lên theo những bước
         chân qua lại hằng ngày trên con đường Trương Vĩnh
         Ký quen thuộc đó. 
   
          Đi thêm chừng vài trăm bước
         nữa, qua khỏi nghĩa trang tới ngã tư Trưng Nữ Vương,
         thêm vài chục bước nữa tẻ vào ngôi nhà ba gian bên
         trái, ngói âm dương rêu xanh đã mấy lớp, nơi tuổi
         nhỏ tôi đã chạy nhảy thênh thang giữa cõi lòng rộng
         đến mênh mông của cha mẹ, mặc kệ chiến tranh như
         một bóng ma lởn vởn quanh mình, mặc kệ mấy
         bức tường tu viện chắn ngang ở bên kia đường
         như nhắc nhở trăm điều cấm kỵ giữa khi đất
         nước đang rục rịch đổi mới. Dẫu vậy,
         làm sao kềm được cái tuổi nhỏ hoang đàng với
         những vết chân phung phá ... 
   
          Ơi Vĩnh Long, cái thời trung học áo
         trắng quần xanh, tấm phù hiệu phải được may
         dính liền lên miệng túi lại chỉ được nhét
         trong túi quần, đợi đến khi sách vở đến
         cổng trường mới được moi ra, liếm nước
         miếng rồi dán hờ lên ngực áo, rồi len lách
         giữa đám đông bạn hữu đang hối hả tuôn đến
         lớp, tránh né mấy cặp mắt cú vọ của thầy
         cô giám thị khó dàn trời. Ôi cái thời làm học
         trò trung học trời thương cho chữ nghĩa nhiều hơn hai bàn
         tay mười ngón, từ những bài tập làm văn tả
         tình tả cảnh đến phanh phui nỗi lòng Thúy Kiều tâm
         sự Cung Oán viết thôi mệt nghĩ, vậy mà được
         thầy cô cho đem rao giảng khắp cả lớp dưới tới
         lớp trên. Trong khi những môn thực dụng hơn bội phần
         thì hể không ú a thì cũng ú ớ. Những bài toán
         hình học đại số với lại vật lý hóa học cứ
         rối mịt trong cái đầu rối mù. Ngược lại ba
         cái thứ lăng nhăng ái tình vớ vẩn kiểu bà
         Tùng Long thì lại sáng lán hết biết. Tình cảm lớn
         nhanh không thèm đợi tuổi tác. Vừa mới đậu
         được cái bằng Trung học đệ nhất cấp,
         leo lên cửa lớp đệ tam đả lọt chìm vào đôi
         mắt có sóng to gió lớn của cô bạn học cùng lớp,
         áo dài vải nội hóa trắng tinh và mái tóc thề
         bỏ lửng ngang vai, dắt nhau bỏ lớp trốn vào khu văn miếu,
         lẩn quẩn loanh quanh mấy gốc sao cổ thụ, nói với
         nhau rặt chuyện mưa-xuân-với-nắng-hè mà lòng thì
         chăm bẳm toàn chuyện tình của khách giang hồ với
         kỷ nữ... 
  Ôi Vĩnh Long của
         cái thời mê mấy câu  thơ của Nguyên Sa mà người
         anh trai đi học ở Sài Gòn mang về làm náo nức thêm
         đứa em ham đua đòi còn ở tỉnh nhỏ. 
  Người dáng dấp bơ vơ của bầu trời
         hải đảo
  Tóc bồng bềnh
         trên nếp trán ưu tư
  Những
         ngón tay dài ướp trọn mấy nghìn thu
  Mà men sáng và màu trăng trong vời vợi 
          Lời thơ đẹp như cái tựa
         của chính nó càng làm nôn nao thêm tấm lòng mỏng mảnh
         như tờ giấy pelure. Mực xanh mực đỏ mực tím
         mực nào cũng hút cũng thấm rồi trộn lộn
         vào nhau như một nồi xào bần sau ba ngày tết. 
          Bởi vậy. Cho nên nỗi. 
          Ôi cái tuổi Vĩnh Long chân bám
         đất mà lòng vói mãi bóng trăng sao. Bởi vậy bây
         giờ thì sao cứ hay nhớ lại mà hồi đó thì sao
         lại cứ hay quên ngang. Ơi những trang thư tình viết trên
         giấy kẻ hàng xé từ tập vở học trò rồi
         nhét giấu trong một tập sách đem cho mượn dù không
         ai ngỏ lời hỏi mượn. Hổng biết có phải tại
         vì chưa-thấy-quan-tài-chưa-đổ-lệ hay sao mà mới
         nứt mắt là đã vung tay viết thư tình bất kể.
         Hẹn hò với cô bạn cùng lớp đâu được hơn
         nửa năm là đã ... ôm cầm sang thuyền khác. Cô em
         nhỏ của một chị bạn học, đã có lúc đóng vai trò
         làm chim nhạn đưa tin cho cặp tình-nhân-tập-sự sao bỗng
         một hôm trở nên sáng dạ đem lòng mê muội thích
         anh bạn của chị mình bèn tình nguyện làm cô em-ngồi-bên-song-cửa
         cho anh-đứng-dựa-tường-hoa. Những số báo Thời
         Nay- tạp chí có dáng dấp như Reader' s Digest bây giờ, trở
         thành cái hộp thư cho tình nhớ qua nhớ lại dù hai nhà
         cách nhau chưa quá một dặm dài. Thôi thì văn thơ chuyện
         tích ở đâu mà tuôn ra lớp lớp như mây bay gió
         cuốn. Chuyện trên trời dưới đất, chuyện
         Roméo et Juliette, chuyện Paul et Virginie, chuyện Hai Sắc Hoa Ti-gon, kể
         cả tuồng cải lương Sơn Nữ Phà Ca ... được đem
         ra xào tới xào lui làm tròn xoe hai con mắt nai chưa biết kẽ
         chân mày. Những dòng chữ tỏ tình tả oán không chút
         đắn đo bất kể lòng người rối rắm
         mấy lần hơn tơ nhện. Ơi những cuộc tình bốc
         cháy như lửa rơm. Mới nhúm lên đã tắt ngúm.
         Tưởng là yêu đến chết bỏ mà mới ba bảy
         hai mươi mốt ngày là đã hụt hơi, bèn tìm đường
         đào tẩu sang cõi đào nguyên khác. Ơi những hẹn hò
         của cái thời mới-lớn, ngây thơ... vô số tội, 
         yêu đương như một cách làm dáng cho ra kiểu... người
         lớn !
  Người lớn ? ! Rồi
         sẽ có lúc người ta sợ làm người lớn biết
         bao nhiêu. Vậy mà có lúc người ta còn nhỏ xíu mà
         vẫn muốn làm người lớn cho được. Bởi
         vậy, cho nên ...
  Thuở đó,
         những năm 60, Vĩnh Long như một cô gái ở làng xa mới
         ra tỉnh, dùng dằng nửa chợ nửa quê... Dĩ nhiên gái
         nào mà rồi không muốn làm dáng, kể cả gái quê...
         bởi vậy chẳng mấy lúc mặt mày thì trây trét
         son phấn mà mình mẩy thì lại lấm lem bụi đời.
         Bắt đầu, chỉ là vài ba cái quán nước dựng
         trên bãi đất trống ngay bên ngã ba sông Cái đổ
         vào kinh Thiềng Đức. Bãi trống vốn là chợ
         cá ban ngày, chiều về cá mắm tan hàng nhường chỗ
         cho phố thị lên đèn xanh đỏ. Sụp tối, chè cháo
         bánh tiêu bánh bò hột vịt lộn khô mực khô cá
         đường nem nướng mì khô mì nước hoành thánh...
         được bày ra từng xe, từng xề, từng gánh, lộ
         thiên bình đẳng... hết mực bình dân. Khách cứ
         thoải mái ngồi bệt ... xuống đất mà ... thưởng
         thức. Tài tử giai nhân nam phụ lão ấu, bất kể
         ban ngày làm thầy chú hay phu phen gì cũng vậy, cứ đêm
         đêm là diện bộ rồi dắt nhau ra đó... mua vui. Đêm
         nào cũng nô nức yến anh. Thấy làm ăn được,
         mấy cái quán nước kề bên cũng thay phông đổi
         cảnh. Hồi đầu chỉ là xá-xị-con-nai, nước chanh
         nước mía, nước dừa, sinh tố ... rồi mỗi
         ngày mỗi... nâng cấp cho kịp đà tiến hóa... ăn
         chơi. Từ từ thêm vào thực đơn mấy món la-de-con-cọp,
         vài chai rượu tây made-in-Chợ-Lớn... và đặc biệt
         là món... chiêu-đãi-viên-má-phấn-môi-hường-em-vì-hoàn-cảnh.
         Từ đó, đêm Vĩnh Long vui hết biết. Từ đó,
         cậu nhỏ càng muốn làm người-lớn hết biết
         luôn. 
  Kịp thời đúng lúc,
         mới vừa mon men lên lớp sửa soạn thi tú-tài-một
         thì cha đổi đi làm việc xa, nhà trống trải chỉ
         còn mẹ già và ba đứa em, cậu nhỏ tấn lên đêm
         đêm còn đang chóa mắt vì ánh-sáng-phồn-hoa... thì
         chẳng biết may hay rủi mà lại kết huynh đệ toàn
         với mấy anh chiến-sĩ-cộng-hòa. Mấy anh lớn
         đó làm lính đánh giặc, thường khi hành quân xa mà
         hể về tới chợ là cứ kéo thằng em kết
         nghĩa la cà mấy chỗ ... cấm-trẻ-em-dưới-mười-tám-tuổi.
         Riết rồi quán chị Tư Tùng, quán cô Pha Lê... biết
         mặt thằng học trò hỉ mủi chưa sạch mà cứ học
         đòi kiểu cách Trần Huyền Trân, rượu-vào-nâng-cổ-áo-lên-cao-dăm-ba-mồi-thuốc-đi-chung-bóng
         ... Cứ vậy mà đua đòi. Mà tối tối lén mẹ
         mua chuộc em út canh cửa, gác cổng cho thằng anh làm khách...
         dạ hành dởm. Tới hơn nửa đêm mới mò về,
         rồi thắp đèn vừa tụng bài vở vừa ngủ
         gà ngủ gật. 
  Như vậy
         rồi tôi lớn dần lên theo chiến tranh song song với những
         hệ quả của nó. Súng nổ càng lớn thì miểng
         đạn càng văng tứ tung. Du kích bỏ súng ngựa trời
         hồ hởi chụp cây AK 47 với lại B 40 của Nga Tàu bắn
         phá tứ tung. Sập nhà cháy cửa mà còn sập luôn
         mọi thứ nề nếp. Bên nây, bạn bè thấy chuyện
         bất bằng hè vô tiếp cứu. Người Mỹ và
         bầu đoàn kéo vào Việt Nam càng lúc càng đông thì
         nhu cầu phục vụ đời sống càng lúc càng tân tiến.
         Mấy cái quán chợ cá thành ra như gái lỡ thời.
         Mấy cô chiêu đãi áo bà ba với lại quần lãnh
         Mỹ A trở nên quê mùa quá độ. Bởi vậy mà
         quán-rượu-bán-trà-đá mà người Mỹ gọi là
         Saigon tea, còn dân chơi bản địa thì gọi là xì-nắc-ba
         mọc lên như nấm dại. Ngã ba Cần Thơ, từ chỗ
         đổi đường mù bụi của quốc lộ 4 trở
         thành khu Vĩnh-Long-by-night cái rụp. Bỗng chốc mà bảng hiệu
         tiếng tây tiếng mỹ rợp trời. Ban ngày, hành khách
         đường xe lục tỉnh vội vội vàng vàng thay xe đổi
         cộ. Nhưng đêm xuống, đèn xanh đỏ chớp lia chớp
         lịa, khách vãng lai qua lại thì cứ nhẩn nha, tha hồ chọn
         lựa cõi bồng lai. Chiêu đãi viên từ bốn phương
         tụ về, guốc cao gót lắc ca lắc cắc như tiếng
         song lang gỏ nhịp, áo dài thắt eo tới nín thở, soie Phi soie
         Pháp láng coóng, mousselin mỏng te, quần sa-teng láng lẩy cộng
         thêm son phấn Mascara và mùi Chanel Number five mua lậu từ PX thơm
         phức ... cứ như là trẩy hội chiêu quân. Trong tiệm
         thì đèn mờ, nhạc rock xập xình... Bia 33 thiệt, giả,
         vodka, rhum Bacardi... chảy tràn như suối. Cả một thế giới
         Kinh Kha thời mới quay cuồng, cười giỡn khều móc
         chọc phá... thả dàn như sợ mai qua sông Dịch rồi bít
         đường về . Mà thiệt vậy, cho tới lúc đó,
         súng nổ đâu có xa nữa... Ai biết được. Cắc
         bùm... một tiếng. Rồi đời. Bởi vậy, lính
         tráng Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân ... xa quê, lính tráng Việt
         Nam ... xa nhà cứ hể rảnh ra là ... xả láng.
  Quen ăn rồi thành không quen nhịn, tôi cũng theo
         gót đàn anh mà ... lên lớp. Giã từ Chợ Cá. Lần
         mò tới Ngã ba Cần thơ. Dẫu không nhẵn mặt
         nhưng cũng chẳng phải thập thò. Cứ theo gót đàn
         anh mà khám phá đêm trường... muôn mặt. Những đêm
         Vĩnh Long khi tuổi học trò đang châu đầu vào đèn
         sách, thì tôi ngả ngớn trên mấy chiếc ghế cao
         cẳng kê sát cái quầy gỗ láng bóng, tưởng
         đến hình ảnh người lữ khách phong sương tạt
         qua quán rượu ở Macau những đêm lưu lạc trong tập
         Mơ Hương Cảng của Vũ Khắc Khoan...! Rồi thì lại tiếp
         tục cái trò mua chuộc em út canh cửa gác cổng... Để
         đến khi mò về tới nhà thì lương tâm (?) thất
         lạc đâu không biết mà  bỗng quay về rồi
         ngắt rồi nhéo rồi tru tréo tới độ lại phải
         mắt nhắm mắt mở lục bài vở ra mà tụng niệm.
         Ôi cái thời học làm người lớn vừa truân chuyên
         vừa... hả hê biết bao ! Vậy rồi đậu tú-tài-hai.
         Vậy là phải giã từ Vĩnh Long, nối tiếp con đường
         vừa học chữ vừa học làm người lớn lên
         tới tận... Hòn ngọc Viễn Đông. 
  Ngày rời Vĩnh Long đi học xa, làm sao ngờ được...
         đi rồi biền biệt xa mãi tới bây giờ... Vĩnh
         Long còn đó, ở cuối đường. Cách mấy cầu
         ngang mấy dặm sương. Như thể dang tay là giáp mặt.
         Sao lòng thiên lý vẫn tha hương. 
  Rồi còn gì nữa không Vĩnh Long ?
  Hẵn là còn nhiều lắm, nhiều nhiều
         lắm. Nhưng, giờ này, những nấm mồ đã phế
         tích, hết những quen biết đã trầm luân. Mọi nẻo
         đời đã bít lối từ sau cuộc điêu tàn.
         Còn... có ai về qua những lối trăng. Ðường về Tân Ngải
         miệt Trường An.  Nhà ai bông bưởi rơi đầy ngõ
         ... !!!
   
  Lên Sài Gòn ! Ờ ngộ vậy đó. Ở Vĩnh
         Long mà đi Sài Gòn thì nói là lên Sài Gòn. Làm như Sài
         Gòn ở tuốt đâu tận trên thiên đàng. Mà thiệt.
         Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ ...
  5 năm ở Sài Gòn khởi đi từ căn gác trọ mang số 
         32/32 đường Thành Thái, ngang dọc không quá năm bảy thước
         vuông mà chồng chất mười mấy mạng con trai dưới-tỉnh-mới-lên...
         Đêm nhiệt đới nồng nã, quần áo sách vở
         vất bỏ tứ tung, vậy mà có khi mấy cô chiêu đãi
         bán quán rượu gần đó bị ế độ, trễ
         giới nghiêm cứ ghé qua chen vô ngủ đỡ. Sáng giựt
         mình dụi mắt thức dậy, bỗng thấy như có điều
         gì kỳ diệu thảng thốt quanh đây. 
  Sài Gòn mở đầu cho cơn sốt-lữ-thứ lây truyền
         từ cái thuở Nguyễn Bính khăn gói vô nam, Sài Gòn của
         lần đầu tiên xa-nhà-có-phép, của tiền mẹ cho ăn cơm
         một tháng tiêu hết một tuần, của tô phở giữa tháng
         lỏng bỏng nước mở góc đường Kỳ Ðồng, của khúc
         bánh mì cuối tháng gặm thiệt kỹ cho tiết hết cái chất
         béo của lớp tinh bột dẽo nhẹo, của chiếc quần jean trổ màu
         xanh bạc, của tập giấy mỏng nhét túi quần sau, sáng tinh sương
         mắt nhắm mắt mở chạy ù ra ngã tư Hùng Vương cho kịp
         chuyến xe buýt từ Chợ Lớn đổ ra trạm chánh Phạm Ngũ Lão
         rồi chạy ù qua bám thành cửa, đu tòn ten chuyến buýt tẻ
         qua khu văn khoa Cường Ðể. Giảng đường chi-hồ-giả-giả buổi
         sáng chấm dứt, lội qua ngã ba Ðồn Ðất mua khúc bánh mì
         thịt ngó mấy em nữ sinh áo trắng jupe trắng Saint Paul tan học chờ
         xe nhà tới rước, rồi lội vô Sở thú, vừa gặm bánh
         mì ăn trưa vừa ngắm nhìn bầy khỉ đú đởn trong cái
         lồng to bằng cái nhà... rồi có khi chùi xuống nằm dài dưới
         một tàn cây cổ thụ, thả hồn đi lạng quạng qua mấy cái
         bến mê bờ nhớ nào đó hay tỏ bộ siêng năng cơm cha áo
         mẹ công thầy mà lẩm nhẩm bài vở chờ giờ trở lại
         giảng khóa buổi chiều... 
  Sài
         Gòn ! 5 năm Sài Gòn bỏ trăng châu thổ đâm đầu theo
         bầy sao đêm đeo vắt vẻo trên thành cửa sổ những mặt
         tiền cao ốc, lung lăng và háo hức như đứa bé lần đầu
         chúi mắt vào cái lồng kiến vạn hoa... Sài Gòn của hè
         Lê Lợi chiều thứ bảy, khuya Hầm Gió mù mù, trưa trà đá
         Pagode, tối bia nâu Givral... Sài Gòn lê la Ngã Tư Quốc Tế, nhắm
         mắt nín mũi nốc ly rượu thuốc lề đường ra mắt đàn
         anh đứng bến Nguyễn Cư Trinh. Sài Gòn solex, tóc phủ gáy, áo
         bó thân, quần ống loa sáng đưa người cửa trước Gia Long,
         chiều đón người cửa sau Lê Văn Duyệt, mình gảy gập
         trên guidon như cua-rơ đường trường phóng nuớc rút chỉ
         sợ trễ hẹn làm mất lời-thề-chung-thủy. Sài Gòn lính
         quýnh hai mặt giáp công xách xe không chạy tháo. Sài Gòn
         của Rex, Ðại Nam, Eden không sót một phim mới, nhớ mặt tài tử
         không sót một tên quen. Và...rạp chiếu bóng thường trực
         Lê Lợi chuyên môn chiếu lại phim hay đã cũ, chui vô  trốn
         cái nóng của căn gác lợp tôn, ngồi ngủ gà ngủ gật
         với tiếng máy lạnh rì rì và những bóng áo dài trắng
         nữ sinh trốn học mập mờ trong bóng tối đồng lõa... 
          Sài Gòn, còn gì nữa, 5 năm làm
         sinh viên không-sách-vở-cầm-tay... Sài Gòn của Văn Cảnh, của
         Arc en Ciel với mấy cô vũ nữ người Trung Hoa mặc xường xám
         xẻ tới háng, của quán cà phê Pasteur với tách cà phê
         phin đen kịt và cái máy hát băng Akai bự tổ chảng suốt
         ngày rên rỉ không biết mệt mấy bài hát phản
         chiến của người nhạc sĩ thời thượng... Nhất
         là cô hàng có mái tóc dài như suối thả lênh đênh
         theo sóng nhạc lênh đênh... mà  càng lênh đênh hơn nữa
         khi ẩn hiện đàng sau màng khói thuốc Bastos xanh mù mịt,
         khô hoắc và cay xè. Sài Gòn thêm dởm dáng mỗi
         bận bát phố Lê Lợi với gói thuốc lá hiệu Lucky
         Strike có cái quầng đỏ chói bỏ trong túi áo trên may bằng
         vải tetoron mỏng dánh để tỏ bộ... dân chơi (?)... 
  Ờ rồi còn những phòng trà mà
         không chuyên bán trà, những phòng trà mà tình nhân hẹn
         hò nhau, mà bạn bè rủ rê nhau mỗi khi chiều tắt nắng,
         đèn thắp lên thay những vì sao đêm... Tới ngồi
         ở đó trong bóng tối mập mờ để nghe Jo Marcel
         lừng khừng hát Mộng dưới hoa của Phạm Đình Chương,
         nghe  Lệ Thu ngậm ngùi chia hai bãi chiều theo con nắng xế,
         nghe Thanh Thúy rên rỉ... khi biết em mang kiếp cầm ca... anh còn yêu em nữa
         không, nghe Sĩ Phú phát giác hạnh phúc nào không tà tơi không
         đáng cay, nghe Anh Khoa tiếc nuối đưa em sang sông làm chi để
         chiều nay tôi buồn... Đèn xanh đỏ chập chờn, không
         gian bít bùng, khói thuốc lá vật vờ bay lên, tiếng
         hát thê thiết bay lên rồi lắng xuống, lắng sâu
         xuống tới sát đáy những linh hồn còn trẻ sớm
         bị dập vùi vì ám ảnh chiến tranh. Thôi thì học hành,
         thi cử gì cũng  bay tuốt mất tiêu chớ còn hơi
         sức đâu mà thắc thẻo ..
  Còn
         gì nữa, những năm Sài Gòn tập làm người lớn mà
         tâm hồn chưa dứt sữa... 
  Sài
         Gòn viết thơ tình mướn cho bạn đổi bữa cà-phê
         thuốc lá hoặc được giá hời bữa nhậu
         thịt rừng với bia 33 ướp lạnh tới đặc sệt
         như nước đá bào Thanh Hải dọc đường Bùi Viện...
         Sài Gòn Nancy với tô hủ tiếu ăn chịu có tiền thối
         của cô nàng xíu-chẻ đẹp người đẹp nết, ngồi
         két thâu tiền mà tấm lòng rộng còn hơn lòng bà
         Phiếu mẫu. Sài Gòn với sạp cơm bình dân bến
         xe lục tỉnh, nồi niêu xoang chảo bày sát tới mặt đường,
         cơm dĩa nóng hổi trộn lộn với cát bụi đô
         thành, nước đá trà lu uống chung với cặn cáo
         nhớt dầu trây trét. Vậy mà cơm nước nhân hậu
         từng bữa, kể cả những khi buýt về trễ chuyến,
         hàng họ đã dọn dẹp lên xe kéo, dĩa cơm thịt kho hột
         vịt cho thằng-hai-dưới-tỉnh-lên-học-nghề vẫn giữ
         riêng úp dưới cái lồng bàn... Trời ơi nhớ lại
         mà muốn rưng rưng, chiều nay ... !
  Vậy đó, Sài Gòn muôn mặt, xanh vàng tím đỏ,
         sang cả bụi đời, vụng về lịch lãm, building ngõ hẻm,
         phòng ốc thênh thang, gác gỗ mái tôn, nữ sinh em chả,
         gái nhảy thập thành, mặt trắng thư sinh, mặt chằng
         du đảng... ôi thôi kể sao cho đủ cho hết mọi mặt
         của Sài Gòn, mặt ngất lên hí hửng, mặt cúi
         xuống buồn hiu, mặt nào cũng nhớ cũng thương ...
         
  Sài Gòn với Đồng-Khánh-matinée
         bữa cuối tuần, kéo nhau đi nhảy đầm bằng cái
         giá mạt rệp, lận trái chanh nhỏ trong túi quần khi ra sàn
         nhảy bay bướm mấy điệu xì-lô. Sài Gòn của
         Duy Tân bóng nhỏ đường chiều, của xóm yêu hoa Yên
         Đổ, của trăng đêm Phú Nhuận, của gió sớm thổi
         lá me bay Tự Do, của nắng chiều lồng lộng bến
         Bạch Đằng, của lang thang không biết mỏi chợ sách cũ
         lề phải Lê Lợi, của tiệm sách mới Khai Trí, Xuân
         Thu bên lề trái cùng phía tiệm kem Mai Hương, Thiên Thai,
         Phan Thị Trước ... 
  Sài Gòn
         đua đòi đợt-sóng-mới, cặp nách sách Ý Thức
         Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học của Phạm Công Thiện,
         Le malentendu của Albert Camus, Tư tưởng Hiện Đại của Bùi Giáng,
         rồi hổ lốn Thiền Luận của Suzuki với lại
         Yêu của Chu Tử rồi Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị
         Hoàng... rồi ôi thôi hết Nietzche tới Hegel, rồi nhảy
         qua Teilhard de Chardin, lộn vòng Bắt Trẻ Đồng Xanh của J.D. Salinger
         ... Love Story của Erich Segal... rồi mua rồi đọc rồi nóng ruột
         chờ từng ngày những tạp chí văn chương Thế Kỷ
         Hai Mươi của thầy Nguyễn Khắc Hoạch, Vấn Đề
         của thầy Vũ Khắc Khoan, Văn với Trần Phong Giao làm chủ
         bút... Và Khởi Hành rồi Thời Tập của Viên Linh,
         và Bách Khoa với những tùy bút tuyệt vời của Võ
         Phiến... Vừa mua Trình Bày vừa lục tìm đọc cho được
         sách của nhóm Quan Điểm vừa mơ màng đọc Áo mơ
         phai của Nguyễn Đình Toàn... kể cả báo Tuổi Ngọc
         của Duyên Anh, vừa theo lớp triết tây của linh mục Lê
         Tôn Nghiêm vừa mê lớp triết đông của linh mục Kim
         Định, vừa uốn mình uốn mẩy tập " vẽ
         " chử tàu qua ba trăm bài thơ Đường với thầy
         Giản Chi vừa mơ mộng với lục bát Phạm Thiên Thư
         nhè nhẹ như ca dao ... lãng đãng trong đó là những Lệnh
         Hồ Xung mỗi ngày đi máy bay từ Hồng Kông qua vừa
         uống rượu vừa múa kiếm vừa thất tình
         cô nàng Nhạc Linh San...
  Sài Gòn
         nói sao cho hết... Làm sao nói cho hết. Cái thuở làm sinh
         viên một lúc hai trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm.
         Vừa học làm thầy mô phạm vừa mơ làm văn thi sĩ
         bẻ khóa luân thường... Làm sao nói hết cái háo hức
         của ngựa non háu đá, của đam mê văn chương nghệ
         thuật, của mơ mộng khai phá, vói cao... với cao tới tận
         đâu đâu... tận tới những những phương trời
         chỉ có trong viễn mộng. 
  Sài
         Gòn mặn lạt chua cay ngọt bùi, ắp lẫm thực phẩm
         trần gian. Sài Gòn ngốn bao nhiêu sách vở vẫn không
         no mà Sài Gòn còn ăn uống bao nhiêu món cũng không ớn.
         Sài Gòn La Cigale kiểu cách nắp bàn khăn ăn trắng bóc, dao
         nỉa lách cách, miếng thịt bò Chateaubriand, rượu chát đỏ
         Bordeaux theo anh làm tử đệ vương gia. Sài Gòn cái-bang ăn đứng
         đầu đường ăn lê la góc chợ. Rượu tây,
         la-de, kể cả rượu trắng ngâm thuốc bắc, hay ngâm
         rắn rít thằn lằn cắc ké của mấy chú ba, chiên
         xào Quảng Đông, chưng hấp Triều Châu, cà-ri chà-và-ma-ní
         ... Món bắc món trung món nam đủ mùi đủ vị. Sài Gòn
         của bánh cuốn Ngã sáu Ngô Tùng Châu, của nai nướng
         ngói Phan thị Tảo, của cà phê Năm Dưởng, của cháo đêm
         Tân Định, của cơm gà Siu Siu, của vịt quay Tôn Thọ Tường...
         của nghêu sò ốc hến lề đường Nguyễn
         Tri Phương, của mì cây nhản Đakao, của cà-ri dê Trần
         Bình Trọng, của cơm tấm Trần Quí Cáp, của thịt vịt
         chấm nước mắm gừng Hồng Thập Tự, của
         bánh mì thịt nguội Tám Lự Bàn Cờ, của mâm phá-lấu
         trước quán nước mía Viễn Đông góc đường
         Pasteur, của tô phở Tàu Bay, của hủ tiếu Thanh Xuân, của
         hột gà chiên ốp-la ốp-lết Thanh Bạch, của xe đồ
         chua me xoài cốc ổi ngâm nước cam thảo vàng lườm
         quết chút muối ớt ở mấy cái ngã tư ngã
         năm ngã sáu ngã bảy, của trái dừa xiêm góc đường
         Hùng Vương vạt dao ba nhát ngọt lịm như có hơi thở ai thổi
         mát suốt cả ruột rà...
  Ăn
         chơi nhậu nhẹt la cà đàng điếm... Bốn bức
         tường cấm kỵ gần như muốn đâm đầu
         hút đổ cả bốn bên. Ờ ai chắc cũng có một
         thời xốc nổi... vậy mà bộ ông bà hộ độ
         hay sao, mà ngày ngày vẫn lặn lội chui vô chốn cửa-khổng-sân-trình
         để dùi mài kinh sử !
  Bởi
         vậy Sài Gòn làm sao quên. Sài Gòn còn nữa chớ. Còn
         Văn khoa cũ góc Lê Thánh Tôn, Văn Khoa mới cuối đường
         Cường Để với giảng đường rộng minh mông
         và dãy hành lang hun hút gió, còn gốc phượng già rũ
         bóng lên cái quán cà phê sinh viên bàn ghế lỏng chỏng
         và những bao thuốc lá chi chít những câu thơ bất
         chợt, ném vội vào thùng rác trước khi bỏ đi. Sài
         Gòn còn mấy lớp hè bắt chước giọng Parisien ở
         trụ sở Pháp Văn Đồng Minh hội. Sài Gòn uốn
         lưởi hao-đu-you-đu với mấy cô thanh nữ mắt xanh
         tóc vàng của ông Kennedy gởi qua theo chương trình Peace Corps ở
         hội Việt Mỹ. Sài Gòn còn những đêm đại học
         xá Minh Mạng thức trắng mắt mùa thi, học bù học dồn học
         rút vì mấy tháng đầu năm còn mãi rong chơi, chồng cours
         quay ronéo từ đầu khóa tới cuối khóa chất đống trong góc
         phòng ám bụi, đến chừng lục ra đọc lại thấy lạ hoắc
         như đọc kinh phạn, văn học Lý Trần trộn với văn chương
         La Hy lợn cợn như ly cà phê pha vụn uống lúc 3 giờ khuya, gói
         mì Nhựt Bổn bốn giờ sáng nấu trong lon sữa guigoz ăn xong vụt
         bỏ...
  Sài Gòn của ba năm học
         làm thầy mà lòng thì cứ lung lăng cái kiểu học trò
         hoang đàng chi địa...
  5 năm Sài
         Gòn theo-thầy-học-đạo chính tà bất kể nghĩ lại
         được bao nhiêu gắn bó ngoại trừ cái mớ hổ
         lốn đếm vuột mấy đầu ngón tay của những
         mối tình une-certaine-rencontre theo kiểu Françoise Sagan hóa ra cũng chỉ
         như chiếc bản lề cho 10 năm Rạch Giá.
   
  Rạch Giá, tháng 6 năm
         70.
  Tôi tới Rạch Giá lần đầu
         vào một chiều mưa tháng sáu. Cơn mưa hè bất chợt trùm
         lên phố xá cái vẻ lướt thướt buồn thiu. Bỏ Sài Gòn
         về Rạch Giá, tôi mang tâm trạng của kẻ bị biếm giáng về
         miền đất trích. Phố xá gì đi-lên-đi-xuống chưa hụt
         một làn hơi đã trở-về-chốn-cũ chẳng bù với thủ
         đô chạy bù đầu mà ngó đâu cũng chẳng thấy tới
         đâu. Xế tối, sau khi trình diện nhiệm sở mới nơi trường
         trung học cất đâu không cất cất ngay giữa chỗ đồng không
         mông quạnh, tôi buồn tình ghé lại ngôi quán lộ thiên
         bên bờ con sông nhỏ chảy chui ngang cây cầu đúc đổ
         ra cửa biển. Con sông chiều mưa, nước đục. Gọi chai bia
         33, đốt điếu thuốc quen tay, thả khói hoang mang ngó mấy về lục
         bình trôi vật vờ mà lòng cứ muốn ngâm ngang mấy câu nhật
         mộ hương quan với lại yên ba giang thượng... Vĩnh Long thì khỏi
         kể, Sài Gòn đâu dễ quên...
  Vậy
         mà, ba mươi mấy năm sau nghĩ lại, sao Rạch Giá lại chiếm một
         chỗ quá lớn trong lòng tôi ...
  Khởi
         đầu vậy đó... kiểu người-dưng-nước-lã !
  Vậy mà rồi nỗi nhớ dằng dai tới
         vậy sao !
  Ờ , vậy đó
         ...
  Rạch Giá, có phải khởi đi
         từ chiếc cổng tam quan như một lời chào hỏi vừa trịnh trọng
         vừa thân ái. Khu sân bay Lạc Hồng nhỏ xíu bốc bụi mù
         trời mỗi lần có mấy chiếc L19 đáp xuống vội vã, rồi
         lại mù bụi vội vã cất cánh bay lên, chai bia con cọp không
         đá uống với tên bạn phi công ngay trên phi đạo, dưới
         bóng mát của thân máy bay từ căn cứ Bình Thủy bay qua một
         buổi trưa cuối năm không hẹn, rượu không đủ say mà
         chính chai bia uống dở nửa chừng của nó bỏ lại khi lệnh hành
         quân cấp tốc bốc nó bay lên lại làm dụi mắt, bụi cay hay
         mắt cay, vậy rồi mình có gặp lại lần nào nữa không
         hả T., Rạch Giá có phải là con đường trải sỏi
         rộng không quá tầm tay, hai bên là hai hàng khuynh diệp dẩn vào
         căn nhà nhỏ quét vôi xám cất theo lối biệt thự song lập,
         nhà được chia làm nhiều phòng, mỗi phòng chiếm ngự một
         tên độc thân, chia nhau tiền nhà và chia nhau cả những niềm vui
         độc-thân-tại-chỗ. Ở đó, những đêm rằm, con trăng
         tẩm màu xanh ngọc bích, có tiếng đàn tây ban cầm chơi
         nhạc cổ điển của tên bạn tài hoa, năm ngón tay bấm
         vuốt búng khảy trên sáu sợi tơ đồng có lúc như
         làm rung rinh cả bóng trăng in trong tách cà phê đen đậm, dưới
         gốc những cây táo tàu sai quả, đôi khi còn có cả những
         tiếng ca huyễn hoặc của một loài ngư nữ lên cạn. 
          Rạch Giá vui chân theo con lộ thẳng tắp
         tới Cầu Ðúc, ngang qua mấy cái ngã tư ngã ba gọi tên nghe
         ngồ ngộ, ngã ba Am Ông Ðịa, ngã tư Xả Mai ... quán
         là một căn nhà vách ván lợp tôn, đồ nhậu thì tạp
         nhạp, mấy cô chiêu đãi nghe đâu từ mấy miệt giặc giã
         chạy dạt về, bia rượu mạnh uống tràn sau những giờ dạy mệt
         đừ, đêm tỉnh lỵ đèn vàng, bình yên như một ốc
         đảo giả tạo giữa sự xâm thực không ngừng của sa mạc
         chiến tranh, cả bọn một đám từ xa đổi về, không gia đình
         thân thích, giục nhau uống cạn những ly đầy khi thành phố sắp
         sửa giới nghiêm và tiếng đại bác dội về như tiếng
         trống cầm canh của một thuở thanh bình đã xa như huyền thoại...
         Rạch Giá đi chợ có nhà lồng bán đủ thứ thập vật,
         từ cô hàng vải duyên dáng tới xề bánh hỏi thịt quay,
         tôm càng xanh nướng lửa than thơm ngát, nhúm rau sống tươi
         rói như mới hái ngoài vườn. Khu chợ cá xây kiểu nhà
         sàn lâu ngày dậy mùi tanh từ mỗi góc lan can, chiều chiều
         ghe cào ghe xịp đổ lên hàng tấn cá biển hàng đống
         sò huyết, ngôi nhà gạch cũ kỹ nằm khuất trong một con
         hẽm có những vì tường sậm đỏ, 4g chiều vắng im, mấy
         người bạn trọ chung còn bận dạy lớp, chiếc áo bà ba hở
         nút cổ, ngồi thu hai chân lên càm, quạt cái bếp than chiều,
         hai gò má đỏ hồng lấm tấm mấy giọt mồ hôi, lật trở,
         đợi từng con sò hả miệng, gia thêm chút muối tiêu, vắt
         thêm giọt chanh... anh thử đi để biết hương vị quê em... Rạch
         Giá lông bông những chiều có nắng quái, thứ nắng vàng
         hực hắt lên từ một mặt trời sắp lặn. Tên bạn xách
         Honda tới đèo nhau chạy loanh quanh phố chợ đợi giờ cơm chiều.
         Phố xá chợ búa đã dọn dẹp xong, bạn hàng hối hả
         thu tóm ra về, bỏ lại những quầy hàng phủ bạt, kệ sạp
         lỏng chỏng, xe cây, xe xích lô gác mũi nằm chỏng chơ, rác
         rưới bay vơi vơi như những lá phướng rắc đường, dưới
         bờ sông buổi sáng chen chúc ghe thuyền bây giờ còn trơ lại
         cái bãi nước trống không. Cảnh chợ chiều mang một vẻ đẹp
         buồn chi lạ. Cái lạ đến từ cảm giác hụt hẩng trước
         sự thay đổi đột ngột và đối nghịch đến dị thường.
         Xe chạy vụt vặt qua Cầu Sắt, ván gổ kêu đau... Rẻ trái,
         ráng chiều đỏ ửng trước mặt. Biển lấp lánh thủy tinh.
         Sóng vổ ngàn năm vào kè đá. Tiếng dội buồn, nhàm
         chán như tiếng khuê phụ oán. Bỏ xe, leo lên ngồi trên bực
         thạch. Áo phanh nút ngực, gió vịnh thổi phần phật tranh với
         nhịp tim, biển dậy mùi muối mặn pha với mùi rong tanh tanh... Ngày
         muốn ngừng. Ðêm đâu đó bỗng khều vai thân mật. Mặt
         trời mệt lã nhún mình vào lòng biển còn  cố nhoi lên
         vung vẩy những tia sáng cuối cùng. Chính những tia nắng cuối
         cùng đó, thứ nắng quái chiều hôm đó, bỗng làm rực
         rỡ cái vẻ tàn phai của một ngày vừa hết, ngay lúc đó,
         cả đến những phế tích cũng trở nên lộng lẫy. Bức tường
         đá chắn biển bị sóng đánh nứt nẻ như sắp sụp
         tới nơi bỗng đẹp u uất như một vết thương trí mạng.
         Ngoài xa, Hòn Tre thu mình lại thành một khối im lặng đen.
          Rạch Giá còn gì nữa...
  5 năm đầu dạy học ở trường Nguyễn
         Trung Trực. Ngôi trường có con đường xẻ ngang đến lạ
         đời, bên nây năm sáu dãy lớp cất ngay bon thẳng thớm như
         trại gia binh, bên kia nghêng ngang hai dãy lầu đâu góc hình thước
         thợ, con lộ đá nằm tỉnh bơ ở giữa, đứng bên ni ngó
         bên nớ kêu ơi ới cứ như gọi đò qua sông. Vậy mà
         cũng lạ, trường vẫn ăn nên làm ra, thầy dạy trò học
         vẫn đâu ra đó. Sáng sáng chiều chiều áo trắng vạt
         ngắn vạt dài vẫn tung tăng như đàn bướm vở gió...
          Ờ như đàn bướm lượn ! Thử
         tưởng lại giữa trưa một ngày nắng tốt. Nắng đổ tung
         tóe trên mái tôn, trên đường nhựa, mọi thứ như thiu
         ngủ, cả đến hàng cây lá thơm cũng trân mình đứng
         bóng, tiếng kẻng tan trường bỗng giựt dậy, ngay khi âm vang còn
         chưa tan hết, một thứ âm thanh khó tả của hàng ngàn cái
         miệng mở ra cùng một lúc với hàng triệu đề tài đã
         bị nhốt kín trong suốt buổi học sáng ... rồi là từ mọi
         cửa lớp tuôn ra cái dòng suối trắng, chảy miên man vào cái
         biển nắng lung linh để thoáng chốc, khi những tà áo vừa bắt
         được nhịp gió, tất cả vụt bay lên, chấp chới bay
         lên, ờ như một đàn bướm lượn.  
          Rạch giá thuở đó đẹp lãng
         mạn làm sao trong con mắt phóng đãng của một gã tuổi trẻ
         từ chối bị nhốt kín vào một thứ nghề nghiệp đầy những
         khung cửa hẹp.
  Rạch Giá của... nhớ
         em, xưa áo trắng. Tóc xấp xả bờ lưng. Sách vở
         đời chưa nặng. Gái nhỏ buồn không dưng. 
  5 năm làm thầy, hồn vẫn lung lăng cứ muốn
         đạp tung cửa lớp...
  Vậy mà
         Rạch Giá vẫn ép mình vào khuôn khổ. Em ươm sầu
         thiếu nữ. Buồn con gái dậy thì. Tôi hiền như
         thú dữ. Nằm gậm nhắm lương tri. 
  Đến giờ, sau bao nhiêu dâu bể, tôi còn
         có thể tự hào được không em, đã giữ cho
         cái quan hệ thầy trò còn mãi là biểu tượng
         cao quí giữa một thời kỳ đã có quá nhiều
         niềm tin bị đổ vở. Bên trong hàng rào của trường
         sở, chúng ta bằng mọi cách, đã dựng lên tấm
         vách ngăn ý thức để chu toàn cho được bổn
         phận và trách nhiệm, dù không phải dễ dàng. 
          Rạch Giá dẫu có chút xót xa vẫn
         vui, vẫn bằng lòng.
  5 năm phấn
         trắng bảng đen với những gò ép khuôn thước, sao hồn còn
         đủ mộng để thoát ra cái họa hóa thạch của tuổi nghề...
         
  Kể ra cũng may, bên ngoài cửa
         lớp, Rạch Giá mở ra trước mắt tôi một thế
         giới mới vừa bí ẩn vừa quyến rũ lạ lùng.
         Cửa biển thì lầm thầm hoài không biết mỏi
         tiếng gọi của một cõi mênh mông chưa từng chạm
         mặt. Đảo xa xôi thì tên gọi nghe lạ hoắc lạ huơ.
         Hòn Rùa, hòn Sơn Rái, hòn Củ Tron, đảo Phú Quốc mới
         nhắc cứ tưởng vọng âm đâu từ cái thời
         Gia Long còn bôn ba tẩu quốc. Phía đất liền, tên
         gọi những Miệt Thứ thì huyển hoặc như cả cái
         cõi U Minh huyền bí mà vùng đất mang tên. 
  Ngày tháng bó chân trong trường lớp,
         đầu óc cấm cố trong nghề nghiệp, còn kẽ
         hở nào hơn cho những giấc mơ ?
  Như vậy mà Rạch Giá đã hào phóng mở ra
         cho tôi những lối thoát. Cuối tuần, lễ lạc, cùng
         với vài ba tên học trò thân tín, chiếc áo ấm
         mỏng khoác vai, thêm cái túi vải lận thêm bộ quần
         áo cũ, vài ba ổ bánh mì, thêm một hai hộp cá
         khô, thầy trò chạy vội ra Bến Cảng, ỉ ôi ghe cào
         ghe xịp, quá giang chạy tuốt ra mấy hòn đảo vắng người...
         Rồi trời xanh, mây trắng và biển cũng xanh lơ. Rồi
         nắng vàng, cát trắng và lòng người ở đảo
         cũng vàng ròng. Chơn chất, hào phóng ... thả mặc cho thầy
         trò lang thang đầu bờ cuối bãi. Thời đó, ở
         đâu cũng đầy những luật lệ. Nhất là
         trong những thành phố, thị trấn hay cả làng mạc xa xôi.
         Dĩ nhiên đó cũng là điều dễ hiểu, kể
         từ khi con người chịu hợp lại sống quây quần.
         Ra đường phải giữ lề phải. Mười giờ tối
         đêm đêm là ra-dio nhắc nhở ... xin hạ bớt âm thanh
         vừa đủ nghe để khỏi làm phiền lòng hàng xóm.
         Dĩ nhiên là giọng cô xướng ngôn nghe âm ái như dỗ
         ngọt bên tai, mà điều ai nhằn nhện là có đường
         thấy thầy phú-lít gỏ cửa ... Lại còn thêm cuộc
         chiến tranh quái gở mà đám người cuồng tín
         và vong bản từ miền bắc thì thụt đâm đầu
         vào giết chóc tàn phá miền nam nên luật lệ phải
         nghiêm nhặt là cái chắc. Bởi vậy mà lâu rồi,
         đêm ở đây không còn là đêm của vũ trụ. Đêm
         được tính bằng sự an toàn của làng xóm. Đêm
         bị rút ngắn lại theo nhu cầu của tình thế. Sau 12 giờ
         khuya làm gì thì làm, bê trễ cách mấy cũng phải tìm
         cách về nhà, bỏ lại phố phường đường
         xá đồng ruộng... cho chó mèo chuột cống chuột
         lắt chuồng chuồng châu chấu rong chơi hay phá phách
         tùy ý. Kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bởi vậy
         mà thích hay không người miền nam vẫn phải chấp
         nhận sự thiệt thòi này. Tôi cũng vậy, đã
         từ lâu, lâu lắm, có vui chơi la cà cách mấy, cuộc
         vui dẫu đang hồi rộn rã tới đâu, hơi rượu
         có đang bốc lên tới tận mây xanh, lời tình tự
         có đang lâm ly cách mấy... cũng vẫn phải hối hả
         dằn ly hay gở tay quấn quíu rồi mạnh ai về nhà
         nấy... cho kịp giờ giới nghiêm ! 
  Vậy mà trên những hòn đảo không tên nằm
         choi loi trong một góc nhỏ của đại dương, lần đầu
         tiên tôi được sống cái cảm giác tự do tuyệt
         đối mà Krishnamurti đã rao giảng trong sách Tự Do Đầu
         Tiên Và Cuối Cùng. Ở đó, ngày như đêm, bãi
         cát mênh mông nối liền biển cả và rừng núi,
         không một bóng người kể cả một tiếng chim,
         nghĩa là vắng bặt mọi thứ ràng buộc của trần
         thế, ngay cả dấu chân ta rồi có rồi không, có
         ta, không có ta, trời đất có kể gì ta. Mặc ngày
         mặc đêm, mặc tháng mặc năm, những lượn sóng
         vẫn triền miên vổ rì rào, rì rầm, ngày đêm,
         đêm ngày, tuần tuần, tháng tháng, năm năm, mười
         năm, trăm năm, ngàn năm, có tôi, không có tôi, sóng vẫn
         vổ hoài vổ hủy lên bãi cát, ghềnh đá ... Thiên
         nhiên vô tận, thời gian vô cùng. Tôi là ai. Ta là gì
         trong cái cõi vô thủy vô chung. Nắng lên, trời biển
         huy hoàng, bao la tới muốn ngộp thở. Ngày hụp xuống
         khỏi chân trời, vòm đêm nhung nhúc sao hôm, nằm ngửa
         trên cát, há miệng thở hơi đầy, nghe cả trời
         sao chạy tọt vào cổ họng, vừa thấy hồn bỗng
         thênh thang vừa thấy xác thân bỗng nhẹ hẩng. Rồi
         bỗng thấy như muốn chảy nước mắt khi thấy
         mình ràn rụa hạnh phúc. Còn gì ràng buộc, có gì ràng
         buộc, vậy rồi từ đâu bỗng dậy lên
         một ý thức tự do đến tuyệt cùng. Mọi thứ,
         quần áo, tên tuổi, nghề nghiệp, bổn phận,
         trách nhiêm, tôn giáo, phe phái ... mọi thứ mọi điều
         rồi chỉ là sản phẩm của xả hội, của số
         đông, được đặt ra, vô tình hay cố ý, chỉ
         để giam giữ con người trong những nhà tù của chính
         mình, để từ đó đau khổ hạnh phúc rồi
         ra chỉ là những hệ lụy mà con người đã bày
         ra rồi làm khổ chính họ. Ý thức tự do tuyệt
         đối có phải là bước đầu của ý thức
         giải thoát ? Những câu hỏi được đặt ra, rồi
         có được trả lời thích đáng. Hay cũng chỉ là
         mãi mãi những vấn nạn... tự muôn đời !
          Dẫu vậy, những lần ở
         đó, những bình minh tựa cõi hồng hoang, những tà
         dương y đời tận thế... một mình giữa cõi
         bao la đã cho tôi những cảm giác tuyệt vời mà cuộc
         sống nơi đất liền chưa bao giờ ban phát. Trải nghiệm
         đó đã cho tôi thấy mình hạnh phúc. Hạnh phúc ? Hạnh
         phúc lớn lao và nhỏ bé, hạnh phúc bí ẩn và lồ
         lộ, hạnh phúc khó tìm và dễ ợt, hạnh phúc xa
         xôi và hạnh phúc gần xịt, trong tầm tay, ngay kế bên,
         sao từ khai thiên lập địa người ta vẫn mãi đi
         tìm !!! Có phải hạnh phúc là cái bây giờ, ngay lúc này,
         cái mình đang có, đôi khi đơn giản và nhỏ nhoi. Nhỏ nhoi
         và vô nghĩa như kiểu con dã tràng lắng quắng xây
         ổ trên cát, đâu biết chút thôi sóng biển ùa
         vào, xóa sạch... nó lại lăng xăng lính quính tha cát... tha cát..
         sóng biển lại xóa sạch... vậy mà hỏi dã tràng có
         hạnh phúc không, hạnh phúc ngay cái lúc tưởng mình đang
         xây tổ ấm cho chính mình. Hạnh phúc đó chớ, mặc
         dù ... 
  Có phải của trời cho
         vô tận của mình riêng như ai đó đã nói. Vấn
         đề là tự mình có phát hiện được cho chính
         mình. Ngay bon. Đúng lúc. Và như vậy, có phải hạnh phúc
         và khổ đau đã nằm sẵn trong từng sát na hiện
         thế. Tìm đâu cho xa. Tìm xa đâu cho khó. Chính từ ta
         trong ta từng giây từng phút một. Lạc thú ở trong ta,
         từng ngày ta sống, từng việc ta làm, mỗi mỗi
         đều chứa sẵn trong đó hạnh phúc và khổ đau.
         Ai biểu chụp bậy thì ráng chịu !
  Có phải từ đó tôi đã tìm ra được
         sự thăng bằng khi đong đưa trên sợi giây chăng ngang
         giữa đời riêng và xã hội, giữa thúc bách của
         nghề nghiệp và bung thùa của cá tính. 
  Vậy đó mà tôi sống cái đời
         làm thầy của tôi một cách hồn nhiên như mây thì
         bay đi, mặc dù ...
  Vậy đó
         ... những lần theo bè bạn hay học trò rong chơi xuống tận
         những nơi gọi là Miệt Thứ chỉ vì nghe cái câu ca
         dao sương-khuya- ướt-đẫm-vườn-bầu-em-về-Miệt-Thứ-bỏ-sầu-cho-ai
         thấy sao mà trắc trở đến mũi lòng đến
         nỗi muốn về qua cho biết. Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ
         Năm ... Xẻo Rô, Tắc Cậu, Đường Xuồng ... sông
         rạch chằng chịt, rủ nhau cởi giỏ vọt lướt như bay
         trên mặt nước đục lờ, leo qua mấy chiếc cầu
         tre lắt lẻo, xăn quần men theo những vạt tràm sủng nước,
         vừa đi vừa sợ tên bay đạn lạc vừa nghĩ ngợi
         đến công lao của những người trăm năm cũ ...
          Trong khói sóng mênh mông
  Có bóng người vô danh 
  ...Tới Cà Mau - Rạch Giá
 Cất chòi, đốt lửa giữa
         rừng thiêng... (*)
   
  Ờ cái thuở của những người tay rìu
         tay rựa, dám bỏ mảnh đất đã yên nơi yên chỗ
         chèo xuồng ba lá dấn mình vào vùng đất dữ,
         lau sậy, rắn rít, cọp beo cá sấu và nhất là thứ
         sương lam chướng khí quậy lên từ những cánh
         rừng trầm thủy. Phải kể là nếu không tứ
         chiếng thì cũng phải là tay yên hùng mới làm được
         cái chuyện nghiêng đồng chắt nước đốt
         rừng làm rẩy trăm cay ngàn đắng đó. Bởi vậy
         mà về đó rồi mới thấy thán phục rồi
         yêu mến làm sao vùng đất quê mùa mà thói quen hào
         phóng hẵn đã phát sinh từ tinh thần thượng võ
         của lớp lớp người đi khai phá. 
   
  Sướng lắm.
         Rượu đế của mấy ông làng ông xả rót từ
         cả can nhựa, đổ vô thau rồi pha với nước dừa
         xiêm, ly cao cẳng thì chặt cụt cẳng để không đứng
         thẳng được mà cứ phải chuyền tay nốc cạn
         ly đầy rồi rót đầy ly cạn ... rắn rằn ri cóc
         nấu cháo thịt trắng tươi như thịt gà xé phay, thịt
         trúc nấu cà-ri, cá lóc tát đìa còn nhảy đùi đụi
         bọc sình nướng trui, cá sặc để vẩy bỏ nguyên
         con vô chảo mở sôi sùng sục nhả nhớt lềnh bềnh,
         rau sống rau thơm hành ngò xả ớt tía tô húng thơm húng
         lủi... thì thôi ê hề, cứ vói tay ra ngắt là thơm
         ngát cả bữa... đào-viên-kết-nghĩa. Cả một nghệ
         thuật ăn uống rặt mùi nam-kỳ- quốc. Lại nữa
         lắm khi tửu hứng, chụp lấy cây guitar khoét phím sâu
         hoắm tích tịch tình tang sáu câu vọng cổ ôi sao mà
         mùi tận mạng. Say rượu hay say tình người ai biết
         được đây !
   
 
         Vậy đó ! Rạch Giá vậy đó.
         Học trò học thì dạy. Rượu mời thì uống. Tình
         phải điệu thì yêu. Đời sống như bữa tiệc
         trần gian, nếm hoài không hết vị. Đời vui biết
         mấy. Lương tháng không đủ xài mà sao vẫn sẵn
         để tiêu hoang bất kề. Bây giờ mà có muốn
         làm bảng kế toán lại cũng chẳng biết cộng trừ
         nhơn chia sao cho ra lẽ. Canh bạc đời bỏ ra có chút vốn mà
         lợi thu về đếm mãi chẳng lơi tay. 
  ...................................
  Vậy
         đó mà rồi dâu bể cho đành ! Vậy đó rồi
         xảy ra cái biến cố tháng tư. Tôi ba mươi tuổi chết không
         mồ. Giữa trái tim nồng, nhát chém khô...
  Sau ngày định mệnh đó, trường đóng
         cửa. Học trò tứ tán. Tôi khăn gói vô ... tù cho đúng
         điệu hòa-hợp-hòa-giải của" đảng và nhà nước
         ". Tù ? Cải tạo ? Ờ mà nhớ mà nhắc làm chi cái
         chuyện tù-cải-tạo vừa ngây ngô vừa gian ác đó
         cho nó thêm tủi hổ vong linh ông bà tổ tiên đã dày
         công mở nước và dựng nước bằng tinh thần
         đại-nghĩa- lấy-chí-nhân-thay-cường-bạo. Lịch sử
         gọi là mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc bị
         hạ màn cái rụp. Để dựng lên tuồng mới, đào
         thương với kép mùi thì không có vai mà hề thì ôi
         thôi lũ khũ ! Quên đi, quên cho nhẹ bớt phận người
         !!!
   
  Ra tù. Rạch Giá trở thành nơi dung thân dù vẫn là
         một thứ ngục tù không có hàng rào gai kẽm. Ý định
         về quê khựng lại với lời nhắn cản của cha. Làng xóm
         hẹp té với những đòn thù ti tiện. Tôi ở lại với
         Rạch Giá, làm tên du thủ thứ thiệt. Vác mướn, bưng hồ,
         đội gạo, cái gì cũng làm, ngoại trừ cái chuyện
         gọi là chạy mánh thì chịu thua, hổng biết sao mà cứ
         ngại cái kiểu lanh tay lẹ miệng. Bộ đồ lính từ thời
         Thủ Ðức nhuộm đen mốc thếch. Tay chân trầy xước và cái
         đầu thì trầy trật những xung khắc oái ăm. Rạch Giá tuôn
         ra đường mua bán mọi thứ của cải vốn được cất giữ
         lâu năm làm gia bảo, nhưng có một thứ mà người ở đó
         không bao giờ chịu mua bán. Ðó là sự hào sảng phát sinh
         từ giòng máu của tiền nhân đã xẻ rạch đào mương
         đắp đập xô lùi biển cả.
  5 năm cuối ở Rạch Giá. Cái nhớ của tôi dừng lại
         ở những tấm lòng hào sảng đó.
  5 năm cuối ở đó, thằng tuổi trẻ vỡ mộng, tên
         thầy giáo thất chí là tôi bỗng khám phá ra một điều
         tưởng chỉ còn trong sách Quốc-văn-giáo-khoa-thư-lớp-đồng-ấu
         : những tấm lòng vàng.
  Từ chợ
         Rạch Giá chạy theo đường liên tỉnh ngược về hướng
         Cần Thơ, khoảng 9 cây số  thì tới một cây cầu có tên
         gọi rất ngộ, cầu Quằn. Ngay trên cái dốc cao bên nây cầu,
         về phía Rạch Giá, rẽ phải là một con lộ đá, không,
         phải gọi là lộ đất trộn đá mà mỗi bận mưa xuống,
         đất theo nước mưa xói mòn chảy trôi về hai phía lề
         thấp, phần còn lại thì hóa thành bùn non, dẻo nhẹo đeo
         dính những bước chân bộ hành hoặc những vòng bánh xe
         qua lại. Sau năm 75, năm khi mười họa mới có một chiếc xe hơi
         gập ghềnh bò qua, còn thì đa số là xe lam ba bánh chở khách,
         hoặc là xe đạp chạy sì sụp, lách, né... chẳng khác gì
         thi xe đạp lái khéo. Nói vậy chớ con đường đất đá
         chạy lúp xúp vòng vo theo bờ sông, chui dưới tàn lá những
         bụi tre già phờ phệt khói bụi, ngang qua những mái tranh thấp lũm
         chũm, những bụi hoa không tên  nở dại suốt hai mùa mưa nắng
         vẫn mang một vẻ đẹp gì ngồ ngộ. Chạy quen trên những phố
         xá đông người, len lách kèn cựa qua lại những ngã tư
         ngã năm, ngó đâu cũng thấy xi-măng với gạch ngói riết
         rồi lòng cũng đâm ra hục hặc với những thứ không đâu.
         Có dịp quày trở lại, đi qua những ngõ tre lối trúc mới
         thấy cái vẻ an nhiên tự tại của cảnh vật và người
         nơi đó. Giặc thì giặc, miễn bom đạn chưa tràn tới,
         thì làng quê vẫn có cái vẻ êm ả của một mặt nuớc
         ao bèo ngày lặng gió. Những buổi trưa hè, ghé lại đụt
         nắng dưới bụi tre lão bên đường, ngó lá tre vừa lắt
         lay trong bóng nắng vừa kêu lất phất theo chỉ một làn gió nhẹ
         khảy qua thấy đời sao mà ơi...bình yên quá đỗi ! Rồi
         lại muốn chùi mình xuống nằm dài lên lớp lá tre khô
         rục đó mà ngủ một giấc cho...quên-mẹ-nó-đời ! Nhưng
         mà có ngủ được đâu, những ngày tháng đó !
          Những ngày tháng đó tôi còn
         phải chạy thêm cho hết con đường dài đâu cỡ ba bốn
         cây số để tới một khu chợ có tên là chợ An Hòa.
         Chợ không có nhà lồng mái lợp, chỉ có mấy cái sạp
         gổ che bằng mấy tấm vải bạt sút sổ, thêm mấy cái thúng
         mẹt rổ rá chen nhau xúm xít trên một khoảnh đất rộng không
         quá mươi thuớc vuông. Ðối diện là một dãy tiệm buôn,
         cũng lụp xụp như mọi dãy phố tiệm ở miền quê. Cái
         thì bán chạp phô. Cái thì bán vải. Cái thì kê vài
         ba cái bàn gổ làm tiệm nước, buổi sáng cũng hủ tiếu
         bánh bao cà phê xíu mại. Người ra kẻ vô cũng ì xèo...
         Qua khỏi chợ chừng trăm thước là một ngôi trường nhỏ,
         xây từ hồi nào không biết mà nền kê đá tảng cao
         gần nửa thước tây, mái lợp tôn,  ngay cổng có cây
         bả đậu già khụ, giữa trưa rợp bóng cả nửa sân
         trường. Ở đó, tôi đã gặp và đã sống dưới
         tán che của một thân cổ thụ. Và cả một nhánh liễu
         dẫu đã xa rồi một thưở chương đài. 
          Bác sáu M. là một người đàn
         ông rặt bộ bình dân, trạc tuổi ba tôi lúc đó.
         Dáng dấp xuề xòa, cười nói hồn nhiên, hay mặc
         bộ py-ja-ma vải sọc ngay cả trong nhà hay ngoài ngõ. Ông sống
         chắp nối với một người đàn bà tàu và
         có hai con, một gái một trai. Khi đã thân thích, có lần
         bác tâm sự với tôi, bác là con trai độc nhất
         của một người mẹ góa bụa sớm, nhà nghèo, nên
         chỉ được cho học tới lớp ba đã phải xô ra đời
         tập kiếm sống. Vậy mà nghe bác sáu nói chuyện,
         người ta như thấy một người đứng tuổi
         ăn nói hùng biện, lý lẻ sâu sắc, câu chữ rạch
         ròi không thua bất cứ một ai kể cả những tay khoa
         bảng bằng cấp đeo đầy mình. Cho tới tháng tư
         năm bảy mươi lăm, bác là chủ tịch nghiệp đoàn xe
         lam. Chắc số trời dung ruổi bác gặp tôi rồi
         không biết do đâu mà đem lòng cảm mến. Số là
         hai năm sau khi tù về, nhà nước vốn chủ trương ngu
         dân nhưng cũng ra điều làm giáo dục, vẫn cho mở
         lại cửa trường, dĩ nhiên là với chương trình
         thay đổi hoàn toàn. Rồi vì thiếu người dạy
         học cho ra vẻ xôm tụ bèn quơ quào thêm đám tù gốc
         giáo... cho trở lại cái nghề cũ. Tôi cũng được
         hưởng lây... sự vinh quang đó. Nhưng hẵn là do cái
         liên hệ ruột thịt với quá nhiều tàn-dư-chế-độ-cũ
         nên không được trở lại trường-cũ-tình-xưa.
         Mà bị đưa vào một ngôi trường nhỏ ở ngoại
         ô Rạch Giá. Bởi vậy mới có chuyện ba sinh hữu
         hạnh, tôi được gặp bác sáu. Từ đó, nẩy
         sinh ra một mối giao cảm lạ lùng. Một bên, một người
         già đã tới tuổi sáu mươi, một bên, còn trai
         trẻ, qua năm ba bữa cà-phê, năm bảy hơi thuốc Samit ... đã
         coi nhau như ruột rà. Từ đó, ông theo tôi như cái bóng
         hộ mạng, che phủ cho tôi qua hết mọi tai ương. Tù về,
         tôi nghèo rớt mồng tơi. Mượn được chiếc
         xe đạp cà tàng, sáng sáng còng lưng đường trường
         xa từ chợ Rạch Giá vô tới An Hòa, vừa tới trước
         nhà bác ngay đầu chợ, là như đã canh sẵn, bác
         chụp vội cái áo phủ ngoài, thò tay lấy bao thuốc lá
         trong cái thùng bán thuốc lá lẻ của bác gái, bước
         vội ra chặn tôi lại rồi khoác tay ... vô thầy. Vừa
         nói vừa rẽ ngoặt vô cái tiệm nước của chú
         ba ... kế bên. Vậy rồi, bác một ly phé-nại, tôi
         một cốc xây-chừng, dậm thêm khói thuốc lá
         Thái Lan vốn là một thứ de-luxe thời buổi ấy,
         bữa chuyện thời thế, bữa tràm qua thế thái
         nhân tình, bác cháu đối ẩm, tương tri như tự
         đời nào. Có bữa thấy tôi lau mồ hôi nhỏ giọt,
         mặt mủi xanh lè, lại còn lớn tiếng kêu phổ ky
         gọi nấu cho tôi tô hủ tiếu. Trời, thời buổi
         ấy sáng gói xôi còn không dám ăn thì tô hủ tiếu
         bốc khói thơm phức quả là một thứ xa xỉ phản-cách-mạng.
         Vậy mà ông Mạnh Thường Quân ngay lúc cả nước
         đang hồ hởi bò lết lên chủ nghĩa xả hội
         đã cho tôi bất kể. Vậy đó, vậy đó.
         Bác sáu bảo bọc tôi như cha với con. Vốn có uy tín với
         làng xóm cũ thành ra bác cũng có thế với đám phường
         khóm mới. Dựa vào đó, mọi động tịnh của đám
         công an địa phương xỉa xói vào tôi đều được
         bác dang tay ra hóa giải. Có khi còn bỏ tiền ra đãi đằng
         đám cốt đột để mua cho tôi sự bằng an.
         Ngày qua ngày, bằng sự bao che của một bậc trưởng
         thượng như bác sáu, tôi qua lại riết rồi được
         tin cậy trở nên thân tình với hết đầu trên
         xóm dưới. Nay chỗ này mời bữa cơm đạm bạc,
         mai chỗ kia bữa giỗ linh đình. Bà con chòm xóm tin cậy
         nơi bác rồi cũng coi tôi như thân thuộc. Vậy đó,
         tháng thêm tháng, hai bác cháu càng lúc càng gắn bó. Bác
         đi đâu cũng kéo tôi theo. Cúng đình, cúng miểu, cưới
         hỏi, tang ma, giỗ chạp chỗ nào có bác là không thể
         thiếu mặt tôi. Có lần bác nói thẳng với tôi
         chỗ này họ nấu ăn ngon miệng lắm, thầy đi
         với tôi cho biết. Chắc bác nói khéo cho tôi no bụng
         khi biết tôi đang gồng mình nhịn nhọt với đồng
         lương chết đói và nhất là với số vốn
         liếng chữ nghĩa hết thời không đong được
         nửa lon gạo mọt. Vậy rồi, có lần thấy tôi
         quá túng quẩn, nhằm kỳ bãi trường, bác sáu kêu
         tôi ghé nhà rồi cầm xấp tiền mới tinh biểu
         lương hướng vầy làm sao thầy sống mà dạy học.
         Tui cho thầy mượn 3000 đồng (sau khi đám cầm quyền
         mới phù phép biến 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa
         thành 1 đồng Cộng Hòa Xả hội Chủ Nghĩa) làm
         vốn, về hỏi đường tìm cách mua bán với người
         ta. Rồi chừng nào có ăn gom vốn trả lại cho tui. Trời,
         giữa thời buổi mánh mun gạt gẩm nhau từng cây kim
         sợi chỉ, tự dưng xách tiền cho mượn không chờ
         một lời hỏi vay mà cũng không một tờ giấy
         lộn làm bằng, tôi sững sờ đến muốn ú
         ớ. Ở đời có vậy sao ? Thời buổi xả hội
         chủ nghĩa mà có vậy sao ? 
  Mà
         có thiệt ! 
  Bác sáu ơi con
         nhắc ra đây như một nén hương lòng, thắp lại
         chút kỷ niệm, chút xíu kỷ niệm chẳng đáng đâu
         vào đâu chớ lấy gì mà cân đo đong lường
         được hết ân tình ân nghĩa, vốn chỉ là khái
         niệm trừu tượng chẳng hình thù không màu sắc.
         Không màu sắc mà tô son dặm phấn lại cho đời.
         Không hình thù mà lại lồng lộng bóng mát khi trời
         làm khô hạn. Chữ nghĩa, dao cọ rõ là đành bất
         lực. Làm sao con viết, vẽ, ra được cái mênh mông
         của tấm lòng bác cưu mang. Không chút máu huyết ruột
         thịt, chẳng họ hàng thân thích, không gần gũi xóm giềng,
         chẳng mảy may lợi lộc, vậy mà đưa tay ra vớt,
         nghiêng vai ra gánh, đỡ đần cho một kẻ thất thế
         ngay khi thú dữ đang đội lốt làm người. Thi ân
         bất cầu báo. Làm mà chẳng màng ơn nghĩa. Còn hào
         phóng nào hơn hào phóng đó nữa không !
  Mà đã hết đâu, thứ ơn nghĩa trời
         biển đó. Đến lúc ngặt nghèo hơn nữa, chính
         dưới cái bóng phủ rợp đời tôi của bác, tôi
         quen biết một người bạn trẻ. Đùm bọc trong tấm
         lòng nhân ái của bác, người bạn đã dành cho tôi
         và gia đình bốn người một chuyến vượt
         biên miễn phí. Miễn phí trăm phần trong khi mỗi đầu
         người được tính giá bằng hai lượng vàng.
         Vị chi là tám lượng. Tám lượng ! Khi tôi không có
         được trong tay một váng vất bụi vàng chớ nói
         chi đến lượng. Tôi có mơ không ? Không ! Rồi chuyến
         đi suông sẻ ... Rồi... tôi mất bác sáu từ lần
         đó. Ở lại bên nhà, cách trời cách biển, tuổi
         già đến lúc mõn hơi. Bác sáu bỏ đi chưa nghe được
         từ miệng tôi một tiếng cám ơn. Tôi biết,
         bác sáu không chờ nghe. Tôi biết bác sáu không cần
         nghe. Nhưng ... nhưng rồi làm sao ?... Có những tách cà-phê
         buổi sáng, ở đây, khi tuổi đời đã xế,
         tôi nhớ ... tôi nhớ lại ... xót xa ... !!!
  Vâng con nhớ lại, nhớ lại từng chút, từng
         phút một, những khi bác cháu mình qua lại, còn nhau ... 
          Rạch Giá. Ơi Rạch Giá. Chốn ở
         để mà thương chớ đâu phải đi để mà
         nhớ. Vậy mà...
  Nhớ lắm,
         Rạch Giá ơi ! Dẫu đâu phải chỉ có tiếng cười.
         Dẫu nhiều lắm, những tiếng khóc. Kể cả,
         khóc thầm. Rất thầm.
  Rạch
         Giá. Nếu người về lỡ ai tìm hỏi bạn. Cho gởi
         lời tạ lỗi, dẫu muộn màng. Chén trà khuya, hơi
         thuốc đẫm thâm ân. Và tay chuốc rượu nồng
         chưa nhắp cạn.
  Vậy đó,
         Rạch Giá An Hòa, con đường dài chưa quá mươi cây số,
         mà nợ nần nhau quá đỗi. Ngày hai buổi đạp
         xe, đạp đi đạp về, khi nắng lưa thưa lúc mưa nặng
         hạt. Vòng xe lăn trên sỏi đá, buồn hiu. Vòng xe lăn trên
         bùn lầy, vùi dập. Và lắm khi còn lăn nghiến trên
         nỗi buồn tôi, điệu trái oan. Vâng, giữa khi không
         ai chờ không ai đợi, giữa khi mọi mơ mộng bị dìm
         chết ngay từ trong trứng nước, nói gì đến chuyện
         đèo bồng hoa nguyệt, ngày hai buổi đạp xe cọc cạch,
         cọc cạch ... đầu óc thả lỏng chỉ muốn làm cây
         lá vô tri. Vậy mà sao thổi lại chi cơn gió lạ làm lay
         lắt cọng cỏ đã bỏ xó bên đường. Sao tự
         dưng tỏ dạ yêu thương. Ờ sao dưng không đem lòng phủ
         dụ. Nép kín trong một góc đời, lánh mặt trong hờn
         tủi, mỗi lời nói, mỗi điệu bộ sao ngầm
         chứa mỗi yêu thương. Chút ít tiền kín đáo
         nhét vội trong túi áo bỏ quên khi biết tôi thiếu hụt.
         Chén cơm tấm mẳn nấu vội, chiều mưa bất
         chợt giữ chân kẻ trễ đường về. Trưa im
         im, phòng riêng trong một góc trường, mấy điếu
         thuốc lá lẻ, ly cà phê đá pha sẵn, chiếc khăn tay
         thấm nước mát, mỗi trưa nắng lửa để
         sẵn góc bàn viết, ngay khi tôi vừa đạp xe tới, dựng
         vội vào gốc cây, xoay người bước vào, người
         đã chờ người, lặng lẽ như đá vọng phu ... Có
         giao ước gì đâu khi ngang trái đã chận kín hết
         mọi ngã đời. Vậy mà sao vẫn chờ vẫn đợi,
         vẫn cho, cho hết, kể cả cái trân quí nhất đã
         gìn giữ suốt một thời con gái. Tội tình chi lắm
         vậy trời ! Vậy mà tôi, rồi  tôi có làm được
         gì đâu để đắp đổi lại chút ân tình
         ẩn mật đó !
  Cho đến
         khi vì thúc bách của thời thế tôi bỏ đi, biệt
         xứ. Ở hai bờ đại dương, lặng ngắt tăm hơi.
         Năm bảy năm sau, tin xa. Cả nhà chìm tàu đâu đó trên biển
         dữ. Xác trôi tấp bờ bãi nào không ai biết. Bi
         kịch của cả nước, cộng thêm bi kịch của riêng mình
         !!!
  
Có
         lời nào đủ sám hối. Có giọt nước mắt
         nào xóa nhòa được vết nám trong một góc tim tôi.
         Người ơi, buồn lắm làm sao nói. Nước mắt
         mà chi ? Chẳng kịp rơi !
.....................
 
  35 năm làm người dân Việt sống
         trên xứ sở đầy ắp tai ương. Chút vui nào cũng
         lẫn lẫn chút buồn. Có lần nào, người Việt
         vui trọn một niềm vui ? 
  Có
         bao giờ vui trọn một niềm vui ? Câu hỏi dội ngược
         vào lòng như một tiếng tức tưởi. 
  Dẫu vậy, nghĩ lại thêm rồi thấy
         ơn nghĩa trùng trùng. Năm năm, mười năm... ngày tháng đếm
         tới đếm lui chỉ như một chớp mắt trên dòng
         đời miên viễn. Mà sao ân tình của lòng người
         bảo bọc với đất đai cưu mang thì đếm hoài không
         xuể.
   
  Giờ này cách trời cách biển.  Và người,
         người thì đã mù mịt cố nhân.
  Xin một lần cho tôi được nói hai tiếng
         cám ơn.
   
  Ơn người. Ơn đời. 
  Xin cúi đầu hướng ra đủ bốn
         phương tám hướng, vì nghĩ cho cùng có hướng nào
         mà không phưởng phất bóng NGƯỜI đã dang tay đỡ
         đần tôi, những khi đời trở chứng.
  
Cám ơn Vĩnh Long.
  Cám ơn Sài Gòn. 
  Cám
         ơn Rạch Gíá. 
  Vẫn còn
         hoài đó, từng nỗi nhớ mông mênh ...
  Rất đỗi mông mênh ...
      
                                            
                                            
                                            
                 
Cao
         vị khanh
  tháng 3 năm 2018 
_________________________________________________________________
(*) Sơn Nam      
   
 
      
      ắtắt
 
          Có một
         thời se sắt                             
                 
 
   
   
Em xa đâu bỗng gọi
đâu tận cõi hai mươi
  Ôi tiếng người
         diệu vợi
  Bay suốt mấy tầng đời
  
  Nhớ xưa em áo trắng
  Tóc xấp xả bờ lưng
  Sách vở đời chưa
         nặng
  Gái
         nhỏ buồn không dưng
  
  Em ươm sầu thiếu nữ
  Buồn con gái dậy thì
          Tôi hiền
         như thú dữ
  Nằm gậm nhấm lương tri
  
  Những chiều tan học muộn
  Mưa bay kín sân trường
          Em về theo gió
         cuốn
  Đường
         lạnh mấy tầng sương 
  
  Mùa hè bông phượng nở
  Ai bày tiệc rượu mừng
          Mai về quê
         cách trở
  Sao mắt nhỏ rưng rưng 
  
  Tôi
         đi lòng xuôi ngược
  Em giấu giọt lệ ngà
  Làm sao em biết được
          Đời bày
         cuộc chia xa
  
          Vậy đó
         rồi đi biệt
  Hai mươi ... ba mươi năm
  Tính những lần thua thiệt
  Sót một mối
         tình câm
  
          Em từ xa gọi
         lại
  Làm
         nhớ tuổi hai mươi
  Trái tim đời đã mõi
  Thấy lại một giờ
         vui 
  
  Cám ơn em đã nhắc
          Hàng phượng
         cuối sân chơi
  Bạn bè xưa thất lạc
  Chừng xanh cỏ ngậm ngùi
  
  Em bây giờ thiếu phụ
  Buồn có để ai hay
  Tôi cằn thân
         cỗ thụ
  Gần trọn kiếp lưu đày
  
  Cám ơn em đã nhắc
  Dù đã quá xa xôi
  ... có một thời se sắt
          Từng ánh
         mắt, miệng cười ... 
  
  Cao
         vị khanh
   
         
      
       

 
Chiều tháng tư về
         qua sông Cổ Chiên
 
  Gió
         quậy tư bề sóng nhọn hoắc 
  Thuyền
         quay như lá cuối mùa rơi 
  Người
         qua sông muộn tay ghìm chặt 
  Vực
         trống chìm sâu đến rụng rời 
   
  Nước chảy hung hăng
         lở sạt bờ 
  Tưởng ngàn
         vó ngựa sải qua mau 
  Người
         về từ cõi đầy xương sọ 
  Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau 
   
  Nước vẫn
         tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn 
  Ngó
         lục bình trôi tưởng rã hàng 
  Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ? 
  Mà cứ trông chừng một bóng sang 
           
  Thuở
         nhỏ qua sông ý đã liều 
  Thách
         trời, kiêu ngạo cả hư vô 
  Hai
         mươi năm lẻ về vội vã 
  Nước
         mất, đường quê rặt bóng mồ 
   
  Gió đẩy thuyền
         đi, hận quá giang 
  Cồn xa bỗng
         lạnh rợn âm quen 
  Chiêng trống
         thời xưa gào xung trận 
  Trách
         kẻ đời nay để phận hèn 
   
 
Cao vị khanh
         
      
       
    
Rượu chiều 
  Ly
         rượu chiều chưa cạn 
  Lòng
         đã lạnh đầu hôm 
  Con
         mắt xưa nhìn trộm 
  Con
         mắt buồn như than
   .............................
         
  Ngửa cổ nốc ngụm
         chót 
  Rượu đắng đến
         bẽ bàng
             
                                            
             Cao vịkhanh
  
 
   
          Rượu
         khóc
  Có bữa về qua quán bụi đời
          La cà đàn đúm
         kiểu tay chơi
  Rượu say bỗng nhớ người hào kiệt
          Ba-ngàn-tử-đệ
         bó thây phơi !
 
      Rượu
         tiễn
  Chén
         đầ̀u xin tống-tiễn-nhị-ca
  Chén này để hết lại phần
         ta
  Rót ra tám cõi
         mời bằng hữu
  Đã chế́t hay còn nhố́t trại xa ...
             
                                            Cao
         vị khanh 
________________________________________________________________
         ______________
   
  
      
       
 Tưởng
         niệm 50 năm Tết Mậu Thân (1968-2018):
với
CAO VỊ KHANH:

 và
  ĐOẠN TRƯỜNG KHÚC             
                   

  https://1drv.ms/w/s!AivKU8Cy4J3AgP4UekK8JeuBm2reYA
   
   
tết MẬU
         THÂN 1968  Trích trường
         thi
KHÚC ĐOẠN TRƯỜNG  
          
_________________
 
 
 
.................... 38                     
          
  Người sinh Bắc lìa cha xa mẹ
Chết
         trời Nam ai kẻ gói thây
Tủi người nát bấy hình hài
          Còn thương tâm sự đắng cay vạn phần
 
39                                   
                              
  Lính miền
         Nam chết trần, chết trụi
  Bộ đội Hồ chết bụi,
         chết bờ
  Bé nào nằm chết như mơ
  Già
         nào chết chẳng có mồ có quan
 
           40                               
                            
  Đâu hả dạ
         lòng lang dạ sói
  Chểm chệ trong hang tối Ba-đình
          Gầm gừ kế độc điêu linh
  Xua quân vào phố,
         đinh ninh bất ngờ
   
 
41                   
                                          
          Đón Tết đến Xuân chờ hoa nở
  Xóm làng
         Nam hớn hở sum vầy
  Mẹ mừng con tụ đông đầy
          Giao thừa rước lễ pháo dây nổ dòn
   
          42                               
                               
  Dưa
         hấu đỏ, trái tròn chưa xẻ
  Bánh chưng xanh, nếp
         tẻ chưa sôi
  Bập bùng, lửa dậy sáng trời
          Pháo mừng chưa tắt đã nhồi pháo binh
   
 43                     
                                           
          Du kích xả rập rình ngõ tối
  Bộ đội miền
         nón cối lao nhao
  ''Người nách súng, kẻ tay dao
          Đầu trâu
         mặt ngựa ào ào như sô
 
 
44                               
                          
Anh về phép bên nôi con nhỏ
  Chị đãi chồng cho bỏ lúc
         xa
  Vui vầy chưa
         kịp chào cha
  Nỗi
         vui sum họp thành ra nỗi sầu
   
  45               
                                          
          ''Tổng-công-kích''
         đập đầu chôn sống
  Tết Mậu Thân rõ giống hung tàn
  Cả làng trọn phố tan hoang
          Ba mươi, mùng một,
         khăn tang trắng đường
   
  46                 
                                            
          
  Khắp
         miền Nam phừng phừng lửa dậy
  Mỗi tỉnh thành, một bãi tương tàn
 
         Làm sao cho sập cho tan
          Làm cho tàn rụi
         bẽ bàng mới oai
                                    
         
  47                         
                                       
          Ôi Vĩnh-long, nhớ
         hoài phố nhỏ
  B 40 cháy đỏ đêm xuân
  Người người tốc chạy gian truân
          Con cõng mẹ trốn
         đạn tưng ngang đầu
   
  48                 
                                             
          Tiếng khóc kể,
         giọng sầu đêm thẳm
  Người lết bò, chân giẫm tử thi
  Hỡi người điên giữa xuân
         thì
  Sao nằm
         chết, có hiểu gì đạn bom!
   
  49           
                                            
          
  Ôi
         Phú-thọ, xóm chòm hiu quạnh
  Ngõ tối nghèo tẻ lạnh, đời thua
  Vách nhà thưa dột nắng mưa
          Sớm hôm cơm hẩm,
         canh thừa nuôi con
   
           
  50                         
                                    
  Ai bày chuyện tranh còn được mất
  Xua đặc
         công bám rát dân nghèo
  Chốt cày từng tổ da
         beo
  Nhà nhà bốc cháy, của vèo vèo bay
   
          51                               
                              
  Anh thương
         phế cụt tay, què cẳng
  Địu con thơ gánh nặng
         nồi niêu
  Chị mù quờ quạng gậy xiêu
  Trần
         vai áo rách chạy liều thoát thân
   
  52 
                                            
                         
  Đêm thương khó,
         tần ngần ánh chớp
  Lửa hoả châu thoi thóp ma trơi
          Mèo hoang gào đói rụng rời
Chó rong lạc chủ tru bồi hồi khuya 
           
   
   
   53                       
                                   
  Ôi
         Huế đẹp, Huế xưa muôn thuở
  Nón lá che cặp
         vở qua sông
  Nắng mưa e ấp, thẹn thùng
  Những
         cô gái Huế ngại ngùng làm duyên
   
  54 
                                            
           
  Ai bảo Huế xây nền đất yểm
  Hồn
         ma Hời tím rịm đền hoang
  Những đồi, những núi
         lang thang
  Muôn binh ngàn tướng chết oan trận tiền
           
  55                         
                             
  Giặc vào
         Huế, thú điên thoát cũi
  Say máu tươi, tanh tưởi
         thù riêng
  Những chàng mang nợ bút nghiên
          Những nàng khuê các xâu liền từng dây
   
          56                               
                           
  Thầy kinh kệ đêm
         ngày chuông mõ
  Cha áo chùng hằng tỏ niềm yêu
          Những o buôn thúng chợ chiều
  Những anh lính trẻ
         lỡ trìu mến ai
   
  57       
                                            
              
  Tết sum họp đổi ngày tang khốc
          Hố bươi nông chẳng nhọc công sâu
  Đẩy
         xô ra chốn thảm sầu
  Dao đâm, mắt bịt, đạn
         xâu từng hàng
   
  58       
                                            
           
  Ai đã khóc, khô cằn nước mắt
          Ai đã la, tiếng tắt đầu môi
  Uất hờn nghẹn ứ
         chẹn lời
  Ai nghe được tiếng ''hởi trời'' vô thanh
           
Cao
         Vị Khanh 
 
 
____________________________ 
    
      
      
 
 
đi loanh quanh ...
          với   TRẦN
         BANG THẠCH
   
  CAO
         VỊ KHANH
   
   
  Bắt đầu bằng một chuyện-trên-trời,
         cái chuyện vấn-đáp giữa cậu bé Hạng Thác
         và ông vạn thế sư biểu họ Khổng. Cái thứ
         chuyện để dạy đời thì hổng là trên-trời
         thì là gì ?
  ... Khi Hạng Thác hỏi
         vậy chớ lông mày có mấy sợi thì Khổng Tử
         bí. Dù đó là một câu hỏi lảng nhách về một
         thứ lảng òm và thiệt tình là lảng xẹt vì chẳng
         ăn nhằm gì tới đạo lớn là thứ chuyên trị
         của người đối diện. Lại là thứ hiển
         nhiên tới nỗi chẳng làm ai bận tâm dù là mọc
         ngay boong trên mặt người.
 
 
  Ờ có những chuyện ngay
         trước mắt sát bên tai mà chừng hỏi lại thì ai cũng
         chưng hửng. Không nghe không thấy không hay không biết. Đúng
         ra là tại vô tình, tại hổng-để-ý, tại xem thường
         hay tại ... hay tại ... bị ... bởi ... vì ... ( ở đời có
         hàng triệu thứ tại-bởi-vì khi người ta ... bí !
         )
 
 
   
  Có hôm nào ngồi buồn kiểu vọc-nước-giỡn-trăng
         mà rảo mắt quanh mình, nhẩn nha ngó bộ bàn ăn với
         mấy cái ghế bọc da ( mấy cái ghế ? ), cái bàn
         thờ vốn là cái tủ kiến kiểu tây có chưng
         mấy chai rượu ( mấy chai ? ), mấy bức tranh của Monet
         treo trên tường vẽ nội cái góc vườn ở Giverny nhìn
         dưới nhiều thời khắc khác nhau ( mấy bức tranh
         ? ) ... Nhìn ra xa một chút, mà nói đâu cho xa xôi, quanh đây
         thôi, ngay trong ngôi nhà mình đang sống, sớm hôm ra vô từng
         bữa ... thử hỏi coi nhà mình có bao nhiêu cửa sổ,
         cửa cái trổ ra hướng nào, đông tây nam bắc
         ? Còn cái cửa sổ phòng ngủ nữa quay về đâu
         mà con trăng sáng đầu hôm cứ xui ta thao thức, bâng khuâng
         nhớ lại một chốn nào ... Giả sử vậy, câu
         hỏi về những đồ vật quen thuộc nhất, gần
         gủi nhất đó có phải đôi khi lại làm mình ngơ ngẩn.
         Ngơ ngẩn không phải vì xa lạ. Ngơ ngẩn vì quá gần
         gủi. Ngơ ngẩn vì quá quen thuộc. Quen vì thấy hoài
         thấy hủy. Thuộc vì vốn của mình chớ có phải
         của ai đâu !
   
  Ờ , ở đời vậy đó. Có những
         cái vốn của mình như tứ đại ngũ uẩn - mà
         Phật đã lỡ một lần nêu lên nghi vấn về
         quyển sở hữu, còn nhiều cái khi không mình quơ
         quào nhận đại là của mình, thí dụ như là cái nhà
         của tôi, chiếc xe của tôi, hàng xóm của tôi, thậm
         chí đến con vợ của tôi ... mà lắm khi nghe hỏi tới
         mới giựt mình ... coi lại ! À xe mình mang bản số gì
         há ? Nhớ không ? ... Con vợ tui cao mấy thước ? -ủa nói
         lộn nói lại vợ tui cao thước mấy ?. Biết không,
         dù vẫn nói là ... đầu gối tay ấp ? Còn mấy
         cái vòng số một số hai số ba nữa, sức mấy
         mà có người thứ hai biết được ngoại trừ
         ông Đông Hồ mua-áo-cho-người-yêu mà khỏi phải xách
         thước đo trước ? ) ... Còn bà lão người Trung Hoa hay
         bắt ghế ngồi trước hàng ba, im ỉm và xa vắng
         như một cung nữ về chiều bị đày vào lãnh
         cung, sáng qua gật đầu chào, chiều về gật đầu
         chào, bà ta gục gặc chào lại khi mình qua sáng, gục gặc
         chào khi mình về qua chiều ... Lâu ngày rồi thành một
         hình ảnh quen thuộc, quen thuộc đến độ  làm
         quên bẵng có một người ngồi hôm sớm, buồn
         hiu ở một góc hiên ... Sau một mùa đông dài và
         khắc nghiệt, mùa xuân tới rồi mà chưa thấy
         lại cái ghế và người ngồi đó. Sáng đi qua,
         chiều về lại, có một cái gì thiêu thiếu, đâu
         đây ... Rồi mùa xuân qua, mùa hè tới vẫn chưa thấy
         lại, hàng ba vẫn bỏ trống ... một hôm nghe trẻ nít
         hàng xóm dọa nhau về một bóng ma tàu ... giựt mình
         hỏi lại. À thì ra, người đàn bà tàu đã chết
         giữa mùa đông năm ngoái, ngay khi cơn bão tuyết thứ
         nhất vừa đổ xuống. À là như vậy, chỗ
         đó đã có một người đàn bà nhỏ thó hay
         ngồi lặng lẽ ngó trời ngó đất, lặng lẽ
         tới đỗi làm mình tưởng đến một thứ
         quí phi thất sủng ngồi nhớ tiếng vua đòi ... Người
         đàn bà đó mấy tuổi, tên gì, con cháu ra sao ? Suốt
         một đời ( bao nhiêu năm ? ) theo cha mẹ bỏ Trùng Khánh ? Hàng
         Châu ?... gồng gánh nhau qua Việt Nam rồi năm 75 ? hay 76 ? hay 80 ...
         theo con cái cỏng bồng nhau lội biển qua tuốt bên này,
         cái cuộc đời nạn phụ dằng dặc đó lao khồ
         có thua gì cuộc vạn lý trường chinh của Mao-xếnh-xáng
         đâu mà không nghe ai nói tới ... Không hay ! Không biết !
         Vậy mà người đàn bà đó trong mấy năm nay đã
         là láng giềng trong cái khu phố không nhiều lắm cái
         màu da vàng sẫm này. Tại thói đời cứ hay nhìn lên,
         hay nhìn xa hơn cái tầm con mắt mình, ngóng cao hơn cái cần
         cổ mình ... cho ra vẻ nhìn xa trông rộng theo kiểu con-mắt-nhìn-ra-tám-cõi
         !
  Kể ra quanh quẩn đây còn
         có bao nhiêu thứ dẫu "nhìn" mà không "thấy",
         có thấy cũng không thông. Mà có thông cũng không đủ
         lòng nghĩ đến.
   
          Vậy mà rồi có người nhìn
         và thấy, thấy rồi lại mang lòng nghĩ đến, mà
         lại nghĩ miên man tới nơi tới chốn ... về những
         cái vụn vặt, lẻ tẻ, không đâu ra đâu. Những cái
         thứ ở ngay sát bên mình, lẩn lút, loay hoay, lặng lẽ
         xoay trở quanh quanh, mờ mờ nhạt nhạt, tưởng như không
         mà có, có thật. Những mẫu chuyện đời không
         có quá một chi tiết hiếu kỳ đủ để khêu
         gợi sự tò mò của người bên cạnh. Thứ chuyện
         đời mà người nghe đã có sẵn câu phản ứng
         ... ối-hơi-đâu-mà-nghe !
  Mà
         thật ra nếu chịu lắng lòng mà nghe thì dường như
         có nhiều điều để nghe lắm. Niệm-thiên-địa-chi-du-du
         ...
   
  Ông Trần Bang Thạch là một trong những người
         hay lắng nghe những tiếng đời không lấy gì làm
         huyên náo đó. Làm như một kẻ nhàn du trong một cuộc
         đời rất là chộn rộn, ông ta đi tới đi
         lui, lẩn tha lẩn thẩn, đôi khi lúc tha lúc thúc một
         mình ( chớ ai mà rảnh rổi đi cùng ), ông ta qua lại nhẹ
         nhàng, nói năng chậm rãi, từ tốn như sợ làm
         kinh động cái nhịp sống vốn dĩ rất trầm
         kha ... như một người khách bàng quang chẳng mắc mớ
         gì hết với cái dòng đời rộn rịp xuôi ngược
         quanh quanh. Mà thật ra cái vẻ nhàn lãm đó không giấu
         được chút nào cái nhìn rất tinh tế, cái soi mói
         rất mắc mỏ ngay tới những cái không ra gì -mà có
         cái gì ra cái gì chớ của cái cõi ba-vạn-sáu-ngàn-ngày-là-mấy
         này. Độc-sảng-nhiên-nhi-thế-hạ.
   
  Nội cái chuyện
         mua nhà ( căn nhà thì nhỏ như cái hộp quẹt mà cái chuyện
         mua nhà thì xưa chỉ ít hơn trái đất xưa có chút
         đỉnh thôi mà ông cũng thấy và nghe ra trong đó bao nhiêu
         là chuyện đáng nói làm người nghe theo cũng thấy
         bụng dạ dàu dàu ). Căn nhà ở đường Bush. Mà đường
         Bush nào nhỉ ? Phải đường Bush ở Houston ? Mà sao nghe ra cũng
         hao hao cái chuyện mua nhà đâu đó ở New Jersey, ở Dallas,
         ở Toronto, ở Montréal ... mà lại cũng y chang cái chuyện mua
         nhà ở bên tây bên úc ... trong những chương đầu
         của cuốn truyện dài ngàn chương tỵ nạn. Cũng là
         ... nhà nhỏ, cũ, hai phòng ngủ ... nhà thuộc loại frame house
         nên giá rẻ ... Cái chuyện mua nhà của đám người
         bừng-con-mắt-dậy thấy mình thân sơ thất sở
         với mớ điều kiện ắt-có-mà-chưa-đủ
         : nhỏ, cũ, rẻ tiền. Thật ra có một điều kiện
         khác không có giá trị gì hết trên thị trường mà
         dường như ở đây lại là điều làm cho cái
         ắt-có thành đủ. Hai ông bà T gì đó ( gọi là ông
         bà A, ông bà B, ông bà C hay ông bà Danh ... cũng được
         vậy ) đã quyết định chọn mua căn nhà trên đường
         Bush đó chỉ vì ... hai hàng me keo. Hai hàng me keo ! Đúng
         là lãng nhách. Cái loại cây mọc đầy, hoang dại, thừa
         thải trên đất cát miền Nam, chẳng ít lợi gì
         ngoài cái việc chụm củi, chỉ được mớ bóng
         lá giao đầu phả chút hơi mát dịu dàng xuống những
         buổi trưa miền Nam nóng hổi, cho đám con nít đánh
         trỏng, bắn cu-li, hay mấy chị vú em ẳm con chủ ra ngồi
         nói chuyện tào lao hoặc có giá hơn chút là trân mình
         chịu trận mấy cái màn tình tự trai gái thiếu
         chỗ tự tình... Vậy đó cái thứ me keo chẳng
         làm nên tích sự gì.
  Nhưng
         bỗng dưng, khi đi xa rồi, thì mấy hàng me kéo đó
         lại đâm ra đầy
         sự tích. Sự tích về một Châu đốc, Rạch
         giá, Cần thơ, Vĩnh long, Sa đéc, Nha Trang, Phan Thiết ... cả Sài
         gòn hay cả miền-nam-miền trung-cao-nguyên-đồng-tháp ... với
         những con đường lớn nhỏ dài ngắn, cong queo hay thẳng
         tắp rợp toàn một bóng me keo. Sự tích về những
         ngôi trường làng, trường tỉnh với vuông sân chơi
         mát rượi, những góc đường góc phố với
         hàng xe bán nước đá-bào-đậu-đỏ-bánh-lọt-em-tan-trường-về-anh-theo-Ngọ-về
         ... đã hơn một lần đụt nắng che mưa dưới
         cái tàn lá lưa thưa xanh mướt. Sự tích về chính
         một quê hương lưu đày trong lòng người đi, thứ
         quê hương bỏ thì thương mà vương thì tội. Ờ
         hai hàng me keo nối liền
         bến đò chợ Cái Dầu với thị trấn Hòa
         Hảo đã là máu là thịt là xương là da của anh chị.
           
  Vậy đó hai hàng me keo ở đây ( hay
         hàng còng ở đó, hay hàng bả đậu trong này, hay hai hàng
         sầu đâu ngoài nớ cũng vậy, mà hai hàng khuynh diệp
         góc phố, hai hàng sua đủa dưới quê, hay hai hàng phượng
         đỏ đã-nhỏ-xuống-lòng-tôi-những-giọt-châu ... )
         cũng chỉ là những đắp đổi qua ngày đoạn tháng
         cho những mắc mớ trong lòng, giữa khi mình ngó đâu
         cũng thấy lạ hoắc lạ huơ. Nhớ lại mà bồi
         hồi, cái thời buổi gì kỳ cục. Thời đó, người
         ta cứ hay quơ quào chụp bắt bất cứ cái gì đang-có-trước-mắt
         mà lại mang mang hơi hướm cái-đã-khuất-mắt như
         để ... thu ngắn lại mấy tấc lòng cố quận.
         Thời đó ai nấy cũng thấy như mình đang phụ rẫy
         một cái gì, một cái gì đang lầm than quá đỗi
         ... Bởi vậy rồi cái hàng me keo đó, cái cọng rau húng
         lủi đó, giàn bầu giàn bí đó, cái cầu gổ
         bắt xéo cong cong đó ... trong những ngày lạc lõng bơ vơ
         đó, đã có giá trị như những chiếc phao thấp
         thoáng trên dòng đời lơ ngơ, người ta vói chụp níu
         nó lại với mình như cố níu lại chút xíu quê-nhà
         một sớm một chiều dưng không mà xa mù xa mịt.
         Nói cách khác, tìm cho mình một hình ảnh rồi vỗ
         về mình là quen thuộc chỉ cốt để trấn áp
         sức phản kháng vô thức của cái mầm chùm gởi
         trước khi đành chịu tháp mình vào một thân cây
         khác giống lạ nòi.
  Chút xíu
         đó thôi, cái hàng me keo đó, bỗng làm người ta thấy
         gần lại, cái quê hương khốn khổ. Và ... người
         ta yên chí làm lại ... cuộc đời ! Cái hàng me keo đó
         ( hay cọng rau muống mắc dàn trời, hay đòn bánh tét gói
         bằng miếng plastic nhuộm xanh, hay nhánh forsythia nở hoa vàng giữa
         mùa tuyết trắng ... ) đã gở giùm nhiều người
         lắm, những sợi chỉ nhện mắc mớ, những
         ngày ai nấy mới bỏ quê ... Cử đầu vọng minh nguyệt.
         Đê đầu tư cố hương.
   
  Cái ông Trần Bang Thạch
         này, lẩm rẩm vậy mà thâm lắm. Lý do gì mua nhà
         thì không biết chứ tại cái hàng-me-keo mà mua nhà thì
         biết ý nhau quá mạng. Cái lý do không văn tự nào chứng
         giám ( kể cả giấy tờ bằng khoán nhà đất
         ) mà nó lại có giá trị của một sự thề nguyền
         rằng ... dẫu có xa nhà mà không xa quê. Dĩ nhiên lời
         thề có sắt son hay không thì hồi sau phân giải. Nhưng
         mà hồi đó vậy đó. Ai cũng có một nỗi
         lòng !
   
  Kể chuyện mua nhà thật ra là để kể
         chuyện đời-ta-ở-xứ-người. Mà đường
         vào đời ta ở xứ người thì cũng giống như
         đường-vào-tình-yêu của Trúc Phương vậy, chỉ
         có trăm-lần-vui mà có tới vạn-lần-buồn. Ông
         tẳn mẳn tỉ mỉ vòng vo từ hàng me keo quê người
         tới cái vườn nhỏ xíu trồng đủ thứ rau quê
         mình, chính là để nói tới cái giấc mộng
         thiệt lớn trong cái nhà thiệt nhỏ của một người
         Việt Nam ở xứ người mà cứ tưởng ở
         xứ mình. Ông bà T mua nhà vì muốn dựng nên một
         cảnh sống quê-nhà ở quê-người. Có điều,
         cây cỏ ép uổng còn tàm tạm chớ con người thì
         đã có cái khuôn phép của xả hội quanh nó. Người
         Việt ở nước ngoài là tháp cái đời mình
         vào đời người chớ làm sao mà ngược lại.
         Cho nên ông T mua nhà với bao nhiêu là mộng lớn với
         mộng con mà chừng con lớn rồi thì con cũng mông lung
         như mộng. Đó là một sự thật rất ... thật.
         Ông T tính mở lớn nhà thêm khi con cái lớn lên, che thêm
         mái dựng thêm phòng khi có dâu có rể y chang cái tính
         toán của một người-việt-trăm-phần-cốt-y.
         Nhưng mà đâu có vuông tròn như vậy, đường vào
         đời ta ! Cách nói loanh quanh của Trần Bang Thạch là dẫn
         mình đi qua những căn phòng bề bộn đồ đạc
         ăm ắp tiếng cười rồi dẫn mình quày trở
         lại cũng chính căn phòng đó khi đồ đạc đã dọn
         hết đi, mọi âm thanh đã tắt hết vì người
         ở đó chỉ là khách trọ, đến rồi đi, bỏ
         lại đó cái trống trơn làm bằng cho chứng phù du
         của sự thế. Ông ta đi loanh quanh mà rồi tới ngay boong
         cốt lõi. Làm gì thì làm, mua nhà mua block, mua đất cất
         nhà hay xây kim tỉnh hay mua gì gì đi nữa thì nhà đất
         hay gì gì đó cũng là của người chớ không phải
         của mình. Nhà với đất thì tiếng mình làm chủ
         mà mấy ông chủ ngân hàng thì cứ đứng xớ
         rớ kề bên. Con cái lớn lên ở xứ này thì
         theo điệu của xứ này mà bung ra tứ xứ. Chùm gởi
         có quấn cây trăm vòng thì cây cứ là cây và chùm
         gởi thì cứ lặc lìa lặc lọi mớ rễ lá
         lạc loài. Ông Trần Bang Thạch viết chuyện mua nhà mà
         như viết cả hành trình của một người Việt
         Nam ở xứ người, mà như viết cả hành trình của
         một CON NGƯỜI qua suốt một cuộc lữ. Đọc
         Căn nhà trên đường Bush là theo ông loanh quanh những nẻo
         đời bất tận, vòng tới vòng lui, xoay qua trở lại,
         giống như trò chơi rồng rắn, đi đâu rồi cũng
         trở lại chỗ bắt đầu, chỗ-khởi-đi cũng
         là chỗ- trở-về của một đời người
         đó thôi. Đã bắt đầu từ một số không,
         thì chấm hết bằng cái chấm than cũng là phải
         phải. Họa may như bà T, ngày tính sổ cuối đời chỉ
         còn một nhúm tro than của người ba sinh hương lửa để
         mang theo đã phải kể là vạn hạnh. Chấm than.
           
  Vậy
         đó, ông Trần Bang Thạch có nói chuyện gì cao xa đâu,
         toàn là ba cái chuyện-đầu-trên-xóm-dưới, từ-thành-đến-tỉnh,
         đăng lên báo thì cũng chỉ ở trang ba trang tư. Chuyện
         của ông ta gần xịt, quanh quất đâu đây. Nhưng trong cái
         quanh quất chòm xóm có cái hun hút của thiên địa du du. Ông
         ta nói chuyện hàng ngày, nhản tiền. Mà trong cái nhản tiền
         đó có cái biến thiên của trời đất thường
         hằng. Chuyện của tôi, của anh, của chị, của người
         hàng xóm, của ông giáo già về hưu lỡ một kỳ
         hẹn chót với môn sinh, của anh tài xế xe hàng tan tành hạnh
         phúc từ sẩy tay của định mệnh, của chị lao công
         da đen hy sinh cho chồng con tới hết đời, của anh chàng
         A-Phú-Hản ( hay Việt hay Miên hay Lèo ... ? ) lưu vong và buồn
         rầu cứ hay ra bờ sông ngó mấy ống khói tàu
         vật vờ mà thả hồn theo nước lớn nước
         ròng về cố xứ, của người đàn ông già
         hết thời đi lượm lon nhỏ làm việc lớn, của
         ông kép hát cả đời góp vui cho thiên hạ đến giờ
         chót có chút vui riêng mà cũng chẳng kịp vui ... nghĩa là
         của những con người bình thường với mơ ước
         vui buồn hạnh phúc khổ đau cũng bình thường như
         chính cái cuộc sống rất đỗi bình thường
         không-có-gì-để-nói của họ. Cái để nói ở
         đây chính là tấm lòng mẩn cảm của ông đã
         nhìn ra, nghe được từ những sự việc rất
         bình thường đó cái lớn lao trong nhỏ nhoi, cái phổ
         quát từ những riêng tư, cái không thường giữa
         những việc quá thường. Nhân vật của ông - mà
         có gọi là nhân vật được không, những ông bà
         T, anh Benito Vasquez, chị Rosa, bà Carol ... hay ai ai nữa ... mà nếu không
         gọi là nhân vật thì gọi là gì trong cái vở tuồng
         ba hồi sáu cảnh mười tám cái linh đinh đó ? Họ không
         sắm tuồng, múa may cười khóc theo một kịch bản
         nào hết, nếu không nói là chỉ theo có cái sắp
         xếp của ông đạo diễn ở tuốt trên ... trời.
         Cái quay búng sẵn ... Nhân vật của ông sống cái đời
         của họ, vậy thôi. Mà qua đó cũng không thông điệp
         chẳng tuyên ngôn gì ráo trọi. Họ chỉ làm cái chuyện
         như anh, như tôi, như chị  đã đang và sẽ làm, chẳng
         anh hùng cũng không tiên tiến, không vĩ đại mà cũng
         không ti tiện, họ làm cái chuyện họ phải làm, không
         cao cả mà cũng không thấp hèn. Họ làm cái chuyện cần
         làm. Vậy thôi. Chấm và hết. Dẫu vậy, nói
         vậy mà rồi không phải vậy. Bởi vì, để
         làm một việc xem ra tầm thường, lắm khi không dễ
         chút nào ... đôi khi để làm một việc ngó bộ
         nhỏ nhoi lại phải cần một tấm lòng vô cùng quảng
         đại ...
  Cho nên đọc truyện
         của Trần Bang Thạch nghe kể toàn chuyện lụn vụn lặt
         vặt, thứ chuyện mới nghe qua thấy đơn giản làm
         sao. Vậy mà chừng nghĩ lại không đơn giản chút nào.
         Mà làm sao đơn giản cho được. Cuộc đời vốn
         trăm mặt. Mà ông Trần Bang Thạch này còn muốn lôi
         ra cái mặt thứ một trăm lẻ một nữa là khác.
           
  Theo Trần
         Bang Thạch đi loanh quanh vào một thế giới rất thực
         là khép lại con mắt mộng mị để nhìn ngó cuộc
         đời như chính nó là nó. Thứ cuộc đời rất
         quen thuộc với tất cả những kỳ quặc đã quay
         ta mòng mòng. Thứ cuộc đời rất vô nghĩa với
         tất cả những nghĩa lý đã làm ta chóng mặt. Cũng
         như thứ cuộc đời với tất cả những nhỏ
         nhoi  rất phi thường của nó vậy. Ông ta phanh phui rất
         ân cần. Ông ta soi mói tới hết dạ. Ông ta lật
         tới lật lui những mảnh đời, ngắm nghía so đo
         cân nhắc để tìm cái chỗ-thương-cho-được
         ( mà thật ra có cuộc đời nào mà không đáng
         thương giữa cái cõi đời rất đáng ghét này
         ). Cho nên ông ta nghe thấy được những điều mà
         mọi người không nghe thấy. Cả đến một
         điều chưa kịp nói giữa hai cha con sau khi đã tử
         biệt. Cả đến nụ cười mãn nguyện của mẹ
         từ trên mây, nhiều năm sau, khi bầy con mồ côi
         vừa thành đạt. Ông cảm được hết, kể cả
         những hạnh phúc rất trái cựa, những đau khổ
         rất lặng lẽ, những oái ăm ẩn nấp đằng
         sau cái vẻ nhởn nhơ của những nếp đời rất
         mực phẳng phiu. Có điều khác với cái lối bi
         quan cố hữu của đa số, Trần Bang Thạch luôn tìm
         được từ trong nghịch cảnh một sự thỏa hiệp
         nào đó với bi kịch. Ông thấy ra trong sự nhẫn nại
         chịu đựng khó khăn là bài học rốt ráo của mọi
         sự lầm than, trong tận cùng của mọi oan khiên đều
         có những thăng hoa rất là luân-lý-giáo-khoa-thư. Ông
         luôn tìm cách nhìn đời qua hai mặt của một đồng
         tiền.
  Đó có phải là một
         cái nhìn ngây thơ vô tội va. Một cái nhìn ... rất
         ư là ba phải. Không, cái nhìn đó thật ra xuất phát
         từ một tâm địa rất lành. Lành như văn chương
         của ông vậy.
  Lành
         như câu viết rất giản dị, gần gũi với văn
         nói, đặc biệt là lối nói miền Nam. Nhưng là
         một miền Nam kẻ-chợ. Lâu lâu lại chêm vào đôi
         ba chữ đặc sệt miệt-vườn làm điếng
         người như cái miệng cô ba cười nháng nháng cái
         răng "dàng". Mạch văn suông sẻ, lưu loát, chắc-tại-vì-bỏ-nước-đi-lâu-rồi,
         đọc lên nghe khoái tai, nghe như dễ-ợt-ai-viết- cũng-được
         mà thật ra cái kỳ khu thì đã nằm sẵn trong sự
         chọn lựa và sắp xếp chữ nghĩa theo một luật
         lệ âm thanh nào đó của riêng ông.
  Văn của ông vì vậy nghe nhẹ hều, chữ
         nghĩa êm ru bà rù, lại lẩn tha lẩn thẩn giông giống
         điệu mấy ngón tay rờ rẩm đâu đâu ... vậy
         rồi giữa lúc đang u u mê mê, ông nhéo một cái,
         móng tay sắc lẻm, làm ai nấy nhói đau mà không kịp kêu
         " ái " ... vì cái đau đã thấm sâu, sâu lắm,
         thấu tuột vào tới ruột gan ... thức ăn dư
         thừa ( của bà mẹ già nấu sẵn " dụ " mấy
         đứa con về ăn mà nó ...không về ) bà còn
         có thể đổ đi, còn nỗi buồn của người
         mẹ già nua ... bà biết đổ đi đâu ! Trời
         ơi nỗi buồn biết "đổ" đi đâu ! Chữ
         " đổ "của ông quả là hết ý. Có thua gì chữ
         " đổ " trong múc-ánh-trăng-vàng-đổ-đi. Có điều
         múc buồn "đổ " đi còn có cái vẻ giận-lẫy-dễ-thương-hết-sức
         của mấy bà mẹ già móm xọm thương con đứt ruột,
         muốn đem đổ-hết-cho-rồi-mà-sợ-rủi-nó-về-nó-đói-bụng.
         Chữ hết nghĩa ông ơi. Còn nữa nè ... sáng sáng
         vừa đi bách bộ vừa nghe chim hót trên ngọn me keo, vừa
         thấy lòng mình đang mọc cánh bay về một thỏi cù
         lao bên bờ sông Hậu. Sao tui khoái cái chữ " thỏi
         " của ông lắm vậy. Làm cho nỗi thiết tha với
         khoảng cù lao nhỏ xíu của ông bỗng lớn vọt lên, tỉ
         lệ nghịch với tầm vóc được thu nhỏ lại thành
         thỏi bỏ-lọt-túi-áo, kiểu như thỏi kẹo thỏi đường
         hay " thỏi " tình của mấy anh si hồi xưa thương-em-không-biết-để-đâu-để-trong-túi-áo-lâu-lâu-lại-dòm
         vậy đó. Lại nữa, có lần theo ông về thăm
         mẹ ở miệt lục tỉnh, đang mơ mơ màng màng trước
         cảnh cũ người xưa, bỗng ông giáng cho mấy chữ bên
         bờ kinh xáng thổi, tui muốn té ngữa ông ơi ! Ờ
         mấy cái bờ kinh xáng thổi giữa một miền
         Nam sông nước ngổn ngang làm cho cái xa xôi nó bỗng
         xích lại gần tận mặt, gần tận mặt mà
         vẫn đoạn đành thiên lý nên giữa lòng ta bỗng
         quậy chút ba đào.
  Cái lối viết theo kiểu người dưng nước
         lả, đứng nép bên đường, để mặc cho sự
         tình nối đuôi nhau liền lạc như tính liên tục của
         dòng đời, đôi khi chuyện tới sau làm phản đề
         cho chuyện tới trước khiến cho bố cục gây đột
         biến một cách tự nhiên làm người đọc bị
         lôi cuốn một cách dễ chịu, buồn vui rồi hờn
         giận theo lúc nào không biết mà buồn vui hờn giận
         gì cũng nhẹ nhàng thanh thản ... đến nỗi có đôi
         khi lại thấy có chính mình ở trỏng ... là một lối-viết-rất-trần-bang-thạch.
         Lối viết của một người tốt bụng.
  Ông Trần Bang Thạch ơi, ông làm văn chương tuyệt cú
         lắm. Văn chương là loay hoay loanh quanh vậy đó ông. Đâu
         cần phải gồng mình thở phì phò như kéo cây kéo
         gổ. Hay trân mình trân mẩy mà la lối ba cái chuyện
         triết lý bí hiểm siêu hình siêu việt trời ơi
         đất hởi mới là văn chương. Làm văn chương
         thì thủng thẳng mà làm, thấy đâu nói đó, thấy
         gì nói nấy, thấy-sao-nói-vậy-người-ơi. Nội
         cái cõi trước mặt sau lưng mà nói, nói hoài cũng
         không hết. Khỏi làm bộ làm tịch, phồng mang trợn
         mắt làm chi cho thêm bí hiểm cái sự đời. Ai thấy
         chuyện ngàn sao thì bay bổng nói chuyện trên trời.
         Ai thấy chuyện xe cán chó hay chó đụng xe thì rà rà
         kể chuyện dưới đất. Còn ai nghe được tiếng
         đời rủ rỉ như ông thì cứ rù rì mà kể
         lể. Gió lớn có cái khoái-tai-phong-dã thì gió hiu hiu có
         cái êm ái thầm thì.
  Thầm thì thì thấm.
  Cao Vị Khanh
  * Đọc lại tập truyện QUẨN QUANH CHUYỆN
         ĐỜI của Trần Bang Thạch xuất bản năm 2006
          * Đăng
         lại từ  lyhuong-rachgia.blogspot.com