
THƠ VĂN
Nguyễn Ngọc Tuyết 
 
 
Cần Thơ, CHS-GS Phan Thanh Giản    
               
 
 
        
 
      
      
      CAU TRẦU GÓC CHỢ
 
  
 
 
  
   
 
Mỗi
         sáng tôi đều ra ngồi quán cà phê trước khu chợ gần
         nhà. Quán bình dân, cà phê không ngon nhưng ngồi riết rồi
         quen, không đi lại thấy nhớ. Nhớ cái không khí bát nháo,
         tiếng nói chuyện ồn ào của những người buôn gánh bán
         bưng, mấy anh công chức, mấy cụ già sáng sáng tấp vào
         đây. Tiện thể mình cũng đi bộ một vòng tập thể dục
         luôn vậy mà. Quán cà phê ở gần con đường nhỏ dẫn
         vào chợ. Ngay góc chợ đó hôm nào một chị tuổi trung niên,
         mặt mày hiền lành cũng bày ngay dưới đất một mẹt cau,
         một ốp trầu, hũ vôi bên cạnh mấy sề chuối, cóc và
         mấy thứ linh tinh khác. Trầu xanh chỉ một ốp đặt trên mâm,
         buồng cau kế bên cũng ít trái thôi chứ chẳng phải đầy
         đặn gì. Cái chỗ ngồi và mấy món hàng nhỏ nhoi dường
         như lọt thỏm trong khu chợ đông đúc và mấy hàng trái
         cây bề thế bên trên khiến tôi không để ý mỗi lần
         vào chợ. Hôm rồi có chị bán vé số ngồi uống cà
         phê bàn bên chợt bị chú ong vò vẻ bay lạc đến chích
         cho một phát, đau đến nhảy dựng. Ai đó liền kêu chị
         chạy lại góc chợ xin một ít vôi bôi vào sẽ hết nhức
         ngay tức thì. Đúng là vôi ăn trầu hay thiệt! Chị bán vé
         số chạy về miệng cười tí toét. Vậy nên tôi mới biết
         tới cái góc nhỏ bán trầu cau kia.
  
  
Mon men lại hỏi chuyện lúc
         chị bán hàng đang ngồi không mới biết nhà chị ở ngay thành
         phố, mấy món hàng kia đều có mối đem lại. Thường ngày
         trầu cau bán được rất ít. Giờ đâu ai ăn trầu nữa
         cô, họa chăng còn mấy bà lão, mấy người khách lại
         mua chỉ để cúng thôi. Lâu lâu mấy nhà có đám cưới
         chạy lại đây đặt buống cau, ốp trầu thì tui đặt lại
         dùm. Chị bán trầu cau nói vậy. Nghe mà chạnh nhớ đến
         hàng cau tầm vung trước cửa nhà ở quê chồng. Ngày trước
         cả xóm còn rất nhiều người ăn trầu nên má chồng tôi
         trồng thêm mấy nọc trầu vàng trong vườn. Mấy dây trầu quấn
         quanh, uốn lượn trên mấy cây dừa thẳng tắp, chỉ để biếu
         cho mấy bà bạn chứ không bao giờ bán. Thỉnh thoảng có người
         đến xin mấy dây lương (dây mọc dưới đất) để
         làm thuốc chửa bệnh đau cột sống hay thấp khớp gì đó.
         Những lúc có đám giỗ, đám cưới trong quê, nhìn mấy
         cụ già vừa nói chuyện vừa thong thả ngồi ngoáy trầu trên
         bộ ngựa gõ rồi nhai bỏm bẻm mà cảm thấy ấm áp làm
         sao! Tưởng như thời gian như đi chậm lại, hồn xưa phách cũ
         của làng quê, bến nước, sân đình vẫn còn đây
         và nét đẹp truyền thống của một nền "Văn hóa làng"
         vẫn còn hiện diện đâu đó. Giờ thì hàng cau trước
         nhà tôi đã bị đốn hết để mở rộng hương lộ,
         mấy dây trầu vàng bóng mượt từ ngày má chồng tôi
         mất cũng đã rụi tàn. Vả lại trong làng trong xóm nào
         còn ai ăn trầu nữa đâu. Thế hệ của những ông già bà
         cả cỡ má chồng tôi đã lần lượt khuất bóng hết
         rồi. Mấy đứa nhỏ lớp con cháu sau này có khi còn chưa
         thấy dây trầu, buồng cau nữa là.. Và vẻ đẹp rực rỡ
         một thời, nổi tiếng một thời của những miệt như "Mưới
         tám thôn vườn trầu", của những cô gái vườn trầu
         xưa chắc cũng trở thành huyền thoại mất thôi!
  Đứng nói chuyện một lúc lại
         có một cô còn khá trẻ đến nhờ chị têm sẵn chục
         miếng trầu cau đem về. Cũng chẳng phải têm trầu cánh phượng
         hay làm khéo gì, chị bán trầu chỉ cuộn miếng trầu xanh thành
         hình phễu rồi bổ trái cau làm tư nhét vào mỗi cái một
         miếng là xong. Không biết người mua đem về cúng kiếng hay đặt
         lên mâm thay thế cho cả buồng cau, ốp trầu trong đám cưới.
         Mọi thứ giờ tinh giản lắm rồi, đâu phải như ngày xưa
         nhà trai phải lựa buồng cau cho tròn, trái cau phải chẵn, phải đẹp,
         ốp trầu đặt trên mâm cũng phải là trầu vàng, lá nào
         lá nấy phải đều nhau..Chưa hết, khi mâm trầu cau đưa lên
         bàn thờ, cô dâu chú rễ còn chui vào trong màn tranh nhau hái
         cau, lấy trầu với ý nghĩ ai hái được trước sẽ cầm
         chịch trong gia đình. Đúng là vui hết biết luôn!
  Chị bán hàng còn cho biết, có
         ngày chị chỉ bán được chục trái cau, vài lá trầu,
         chẳng nhiều nhặn gì, toàn khách quen thôi. Nghe mà nuối tiếc
         những ngày huy hoàng của trầu cau thuở nào. Lại nghĩ, giờ đã
         bước vào mùa xuân, mùa cưới xin rộn rả, không biết
         rồi có mấy người đến góc chợ này đặt những ốp
         trầu, buồng cau để trang trọng đặt lên mâm lễ cho cô dâu
         chú rễ chui vào màn tranh nhau hái cau, lấy trầu như ngày xưa?
         Dĩ nhiên, đời sống công nghiệp mà, "Đất lề, quê
         thói" đã ngày càng phai nhạt rồi! Và, những câu thơ
         như thế này có phải rồi sẽ bị lãng quên:
   
  Nhà em có một giàn trầu
  Nhà tôi có một hàng
         cau liên phòng
  (Tương tư- Xuân Diệu)
  
 
  Nguyễn Ngọc Tuyết
_________________________________________________________________________________________________________________________________________ 
           
 
      
      BẰNG HỮU CA
           
  Bạn cũ ngồi quanh bàn
  Chuyện trò cười híp mắt
  Xa trường bốn sáu năm
  Nay lại về họp mặt.
   
  Xòe bày tay mãi
         đếm
  Bạn xưa còn nhiêu
         đây
  Một vòng bàn chưa
         kín
  Cho nỗi nhớ dâng đầy!
           
  Bạn
         tóc giờ bạc trắng
  Bạn
         mặt hằn nếp nhăn
  Nước
         thời gian gội mãi
  Phai tàn
         nét thanh xuân.
   
  Nhưng tiếng cười xưa ấy
  Vẫn hào sảng vang vang
  Rót đầy niềm hạnh phúc
  Cuộc hạnh ngộ miên trường.
   
  Nâng ly mừng
         bạn cũ
  Chúc cả người
         phương xa
  Một vòng bàn
         chưa kín
  Bạn vẫn về bên
         ta.
   
  Rồi bắt chước người xưa
  Cụng ly mà ca rằng :
  « Bằng hữu chi giao đạm nhược thủy »
          Rượu say.. lòng rưng rưng..
          
 
   
 
      
      TRONG CÁNH CỬA MÙA
         XUÂN
   
  Trong ngăn kéo mùa đông
 Tôi dấu tròn giọt nước
         mắt
 Cuốn theo cả những mùa hè, mùa thu
 Đong đưa giấc
         ngủ dài,
 Như loài thú say giấc đông miên
 Như chú
         nhím xếp gai nhọn nằm yên nghi ngại,
 Sợi nắng rớt hững
         hờ,
 Cuộn mình tôi làm kén .
 
 Ngày qua mau qua mau
 Dòng
         sông hiền hòa rộng lượng
 Mở lòng khôn cùng
 Cho tôi
         về hong tóc bằng mặt trời hồng Vỡ tung mình theo gió,
 Biết
         mùa xuân bên thềm !
 
 Mùa xuân về thả bay bay nỗi nhớ
 Con suối nhỏ chảy tràn
 Qua tháng năm, qua từng gương mặt
         bạn bè,
 Qua tình yêu một thời xa khuất
 Thoảng hương
         nồng nguyệt quế
 Ngào ngạt cả một thời tuổi trẻ
 Kỷ
         niệm về lớp lớp như mây
 Đêm giao thừa thắp hồng ngọn
         nến
 Mắt sóng sánh biết cười,
 Khi mùa xuân bay qua, bay
         qua ...
 
 Trong ngăn kéo mùa đông
 Tôi dấu tròn giọt
         nước mắt
 Đợi mùa xuân về chảy tràn nỗi nhớ
 Rót xuống dòng sông rộng lượng
 Đón chút hương
         nồng ai đốt lá mà thơm !
   
         
      
      QUA CẦU NGẢ NÓN
         ...
 
  
Buổi sáng chị lại ra con
         đường mới phóng phía sau nhà. Đứng ở đây có
         thể thấy rõ con lộ chạy dài ra hướng cầu Cần Thơ. Mấy
         ngày nay trong xóm, trong phường chỗ nào cũng râm ran chuyện cầu
         Cần Thơ đã được hợp long, trước thời hạn cả tháng.
         Quả là chuyện đáng mừng. Nhưng đọc báo chị cũng biết
         con đường dẫn lên cầu còn bề bộn lắm, hạn định
         thông cầu không biết có đúng kỳ như niềm mong mỏi của
         người dân đồng bằng không? Thằng em chồng bên Vĩnh Long mới
         hôm rồi chạy qua đây hồ hởi:
  -
         Mấy cây cầu dẫn bên em gần xong cả rồi! Sao bên này "chậm
         như rùa vậy"?
  - Chú hỏi tôi
         tôi biết hỏi ai? Tôi có phải nhà thầu thi công đâu. Dân
         vùng này đa số chỉ đi nhổ cỏ mướn, ngày 30.000 đồng
         thôi.
  Thằng nhỏ còn nói ra vẻ
         như người lớn:
  - Phải chi anh Thanh
         còn sống, bây giờ đã được thấy thành quả rồi!
          Tim chị như hụt một nhịp đập. Mấy
         năm rồi mà sao vẫn đau nhói. Thằng nhỏ thiệt kỳ! Đang vui
         sao cứ nhắc chuyện buồn. May mà con bé Như không có đó.
         Chứ không thế nào nó cũng khóc rồi cự nự cậu út
         nó rum trời cho coi. Mới mười tuổi hơn mà nó như già trước
         tuổi, khôn lanh, nhạy bén đến nổi chị còn thấy sợ. Mỗi
         lần ra đây, nhìn hút theo con đường chạy ra ngoài xa kia người
         mẹ trong chị lại xót xa nhớ từng câu nói của con:
  - Sao mình phải về quê ngoại vậy mẹ? Bên
         kia người ta lên nhà lầu hết rồi.
  - Sao mình giỗ ba bên này chứ không phải bên nhà nội?
         Sao chú ba, cô tư, chú Út mỗi lần đến nhà mình lại
         khóc? Mấy người đó nhớ ba hả mẹ?
  Mỗi lần nghe con hỏi, mỗi lần nhìn vào đôi mắt
         long lanh, trong sáng của con chị lại nhớ anh tha thiết. Trời, sao mà đôi
         mắt con bé giống ba nó đến vậy! Dường như biết trước
         mình sẽ đi xa, anh đã để lại cho chị, người vợ trẻ
         cái phiên bản này đây. Để mỗi lần nhìn vào đôi
         mắt con gái, chị vừa ngậm ngùi xa xót lại vừa có chút
         ấm áp của tình yêu nồng thắm còn đọng lại.
          Như bây giờ vậy, chị đi lần đến
         cây cầu bắc qua rạch Cái Răng sắp sửa hoàn thành, hình
         dung ra con đường dẫn lên cầu lớn lòng lâng lâng. Chị biết,
         phía dưới kia còn một cây cầu y như thế vẫn đang thi công.
         Mấy tháng qua, cây cầu xi măng nhỏ bắc vào ngôi đình xưa
         của vùng này đã được dở ra, nâng lên cao vút cho
         những xà lan chở vật tư, chở sắt thép đi ngang qua. Giờ cầu
         đã được thả về vị trí cũ, có nghĩa là cây
         cầu bắc ngang qua con rạch phía trong cũng sắp xong rồi. Gió sáng
         thổi mát rượi, trong trí chị, hình ảnh những con đường
         từ khắp nơi trong vùng châu thổ như những mạch máu hồng
         hào, tươi rói cùng chảy về cây cầu lớn vừa được
         hợp long trên dòng sông Hậu phù sa màu mỡ, nước chảy cuồn
         cuộn thật hoành tráng, lớn lao biết chừng nào. Giống như những
         con sông lớn, sông bé, những kinh rạch chằng chịt của vùng đất
         mênh mông đã một thời là mạch sống còn của những
         lưu dân đi mở cõi, những con đường đang thi công hướng
         về tâm điểm cầu Cần Thơ hôm nay chính là huyết mạch
         của cuộc sống bừng bừng cuộn chảy trên đất "Chín Rồng"
         đó thôi. Huống hồ...trong lớp lớp phù sa mỗi năm theo mùa
         nước nổi tràn về dòng sông Hậu này còn thấm cả
         máu của những người xây cầu! Ừ, sao mà chị cứ nhớ
         làm gì, nỗi đau thắt gan thắt ruột ấy. Mọi thứ chẳng phải
         đã trôi qua như nước chảy dưới chân cầu rồi sao? Dù
         gì chị cũng đứng vững, đã nuôi nấng con cái đàng
         hoàng. Trong chị mọi thứ vẫn như mới hôm qua. Cái hôm buổi
         sáng anh cười thật tươi, hôn phớt trên má vợ rồi đi
         làm như mọi ngày, rồi đi mãi không về. Nhưng có lúc,
         chị cũng nhận ra chuyện ấy dường như đã lùi xa mịt mù.
         Điều đó cũng không lấy gì làm lạ phải không?
          Đứng trên con lộ mở về phía chân
         cầu bên này, chị lại nhớ về xóm cũ, về căn nhà một
         thời đã là tổ ấm của gia đình chị. Anh sống khôn
         thác thiêng chắc sẽ hiểu hết nỗi lòng của chị, hiểu vì
         sao chị đem con về quê ngoại và cũng sẽ hiểu cả tâm sự
         của chị mỗi lần về lại quê chồng mà.
  
  Vừa về đến đầu xóm, chị
         hai Ngà đang ngồi trước cửa nhà đã kêu í ới:
          - Mới về hả em? Con Như đâu, không
         dắt về à?
  - Dạ, em về thăm
         bà nội một lát. Nghe thằng Út nói bà bị cảm.
 
         Người phụ nữ cùng xóm xởi lởi:
          - Ôi, bệnh già mà. Trái gió trở
         trời là rêm mình rêm mẩy vậy thôi.
  Rồi chị huyên thuyên kể cho cô bạn láng giềng
         đủ thứ chuyện nơi này, cứ như cô ta đã rời xa xóm
         cũ hàng chục năm rồi vậy. Nào là bà Bảy xe lôi tuy ông
         Bảy không còn chạy xe lôi được nữa nhưng nhờ mấy trăm
         triệu đền bù cho thằng con trai đã lên nhà lầu. Nào là
         con nhỏ Huệ bán chuối nưóng trong xóm đã lấy chồng khác,
         thằng chồng mới như "Chuột sa hủ nếp" bởi con vợ trong sổ
         tiết kiệm có sẵn mấy trăm triệu. Còn bà Ba Thời, có hai
         thằng con trai bị nạn giờ khá giả lắm nhưng tối ngày rầu
         rỉ, khóc đến mờ mắt bởi đứa con dâu lớn tập tụi
         theo đám bạn chưng diện mốt miết đi đàn đúm tối
         ngày sáng đêm ở đâu đó, bỏ mặc nhỏ cháu nội
         sáu bảy tuổi cho bà lo. May mà thằng em khi bị tai nạn còn chưa
         có vợ. Còn nữa, gia đình ông Năm Sĩ sau khi thằng con trai lớn
         bị nạn đã bỏ xứ lên Sài Gòn mở quán cơm, quán
         nước gì rồi...
  Dứt được
         mấy câu chuyện miên man của chị Hai Ngà quả là hết hơi.
         Chị nhớ mỗi lần về lại xóm cũ, những câu chuyện cứ
         bủa vây, siết chặt khiến chị muốn ngộp thở. Những con người,
         những cái tên một thời quen thuộc với chị biết mấy giờ
         sao trở nên lạ lẫm ngỡ ngàng bởi những thay đổi đột
         ngột, những quay ngoắt dữ dội của họ. Tai nạn ụp xuống, cả
         một xóm nghèo tan đàn sẩy nghé, tang thương trùm phủ.
         Tiếng kêu khóc, rên rỉ bởi cảnh ngộ đau lòng khiến nhà
         nhà như thu mình lại, gắn kết vào nhau thành một khối với
         cùng một tấm lòng. Cái xóm xiêu vẹo, ngả nghiêng dọc
         bờ sông này đã cố gắng đứng vững, cố gắng sống
         còn sau mấy ngày kinh hoàng, thảm khốc. Riêng chị, lao đao trước
         cái chết của chồng đã không đủ can đảm ở lại
         đây. Chị thấy mình như một kẻ hèn nhát, giáo gẫy
         gươm tàn trên trận mạc khi đưa đứa con gái nhỏ tìm
         về mái nhà bình yên của mẹ, núp bóng từ đó đến
         nay, lúc nào cũng tự nhũ: "không được nhớ, không được
         nhìn lại! Phải quên hết, cắn răng lại mà quên để tiếp
         tục sống".
  Vậy mà, mỗi lần
         về thăm chị không sao khỏi choáng váng, chóng mặt. Cái xóm
         nhà lá, nhà cây xơ xác, liêu xiêu giờ đã mất tăm.
         Thay vào đó là dãy nhà mới cất, không đồng bộ,
         mỗi nhà mỗi kiểu nhưng nhà nào cũng khang trang, bề thế. Giá
         không phải người từng ở xóm này có khi chị còn tưởng
         mình đi lạc nữa đó. Thiệt là mừng thì có mừng nhưng
         dù sao cũng nghe như có gì đó vướng víu trong lòng. Bởi
         không chỉ có bọn trẻ mới lớn đua đòi, bài bạc, đá
         gà, ngồi quán suốt ngày mà người lớn xóm này cũng
         sống khác lắm. Những người lao động chân chất ngày nào
         đâu vắng cả rồi? Cái xóm trước đây từng cung cấp
         thợ hồ, thợ sơn, thợ xây cho thành phố, cái xóm có những
         nhà nông cần cù, chắt chiu trồng rau, làm vườn trên từng
         mảnh đất nhỏ giờ còn được gì?
  Bà má chồng nằm trên giường bệnh thấy con
         dâu về gắng gượng ngồi dậy:
  -
         Cái thằng Út chỉ tài lanh. Già cả rồi nay đau mai ốm vậy
         thôi chứ có gì nặng đâu. Con về làm gì. Bỏ con bỏ
         cái cho ai?
  - Dạ không sao. Con Như học
         bán trú trong trường má à. Chiều mới phải rước về.
          Chị nhìn bà má chồng, nhớ lại
         những giận hờn, trách móc của bà khi chị ngỏ ý đưa
         con về quê ngoại.
  - Chồng mới chết
         mà cô đành lòng bỏ nhà bỏ cửa ra đi sao? Có muốn
         gì cũng chờ xả tang chồng đã chứ! Xóm này bộ chỉ
         mình cô mất chồng à?
  May làm
         sao mấy đứa em chồng đã ủng hộ chị. Có lẽ chúng hiểu
         nỗi đau, nỗi hoãng loạn trong lòng chị. Cũng có thể vì
         bé Như nữa. Nó còn nhỏ quá, rời xa chốn này nó sẽ
         không bị ám ảnh về sau. Giờ lâu ngày có vẻ bà má
         chồng đã nguôi ngoai rồi. Có lần bà nắm tay chị, ngọt
         ngào:
  - Có khi con đem con về quê
         lại là điều hay. Xóm này tụi nhỏ nhiều đứa bỏ học
         chơi bời hư hỏng lắm rồi. Tại cha mẹ anh chị chúng rủng rỉnh
         tiền bạc mà không nên thân mới vậy.
  Ừ, hoá ra đồng tiền có sức mạnh hũy hoại
         đến vậy sao? Trước đây xóm nhỏ nghèo khổ, ai cũng lo
         kiếm ăn đầu tắt mặt tối. Tai nạn ụp xuống nào ai muốn.
         Giờ nhà cửa khang trang rồi sao nhiều người sa đà lạc lối
         quá. Hay mọi người tưởng tiền ăn hoài không hết bởi
         trước giờ họ có nhiều tiền vậy đâu!
  Mỗi lần về đây, nhìn những biến động
         quay cuồng của cái xóm nghèo ngày nào chị cứ băn khoăn,
         ray rứt trong lòng. Cứ nghĩ, nếu thảm hoạ không xảy ra thì sao?
         Chắc mọi người vẫn cần cù lao động, vẫn đổ mồ
         hôi sôi nước mắt nhọc nhằn kiếm sống. Vậy cuộc sống
         khấm khá của họ giờ đây chẳng tốt hơn sao? Cớ gì chị
         phải nhọc tâm. Dù sao, mọi người vẫn vui mùng khi thấy chị.
         Những cô bác chị em vẫn vồn vả níu kéo chị vào nhà
         đấy thôi. Uống một ngụm nước, nghe bao nhiêu là chuyện chỗ
         này chỗ khác, vui buồn cứ lẫn lộn, đầu óc cứ ong ong u
         u thế nào. Bởi chị nghiệm ra niềm vui của những bạn chung xóm
         ngày nào hầu như chỉ là chuyện sắm sửa đồ đạc,
         áo quần, vui chơi thoả sức. Hoạ hoằn mới có người khoe gửi
         tiết kiệm lấy lời lo cho con ăn học... Ít thấy ai suy tính chuyện
         làm ăn, lao động cho căn cơ, ổn định.
  Có phải vì vậy mà lần nào về lại quê
         chồng chị cũng cảm thấy mệt mỏi, rã rời. Dường như mấy
         nhịp cầu sập năm đó đã làm sập luôn cuộc sống
         bình dị mộc mạc của cái xóm nghèo này dù không phải
         tất cả đều bị mất mát. Mai này cầu lớn thông rồi,
         chẳng biết những người bên ấy có tìm được vận
         hội mới nào không hay cứ sống "thả nổi" cho đến khi
         tiền bạc bay hết trong những vui chơi hưởng thụ không cần biết
         tới ngày mai?
  
  Buổi trưa vừa đi làm về, bà
         má đã đón chị ở cái cổng tre ngoài ngõ thông báo
         tin sốt dẽo:
  - Thằng Lợi con bà
         Hai Lựu mới bị công an bắt hồi sáng?
  - Sao vậy? Thằng nhỏ hiền lành lắm mà!
  - Vậy mới nói. Tại thằng Út nhà mầy đó.
         Tự nhiên xúi thằng nhỏ qua bên đó coi đá gà.
          - Coi đá gà hay cá độ đá
         gà?
  - Không. Hôm nay giỗ bà Hai,
         thằng nhỏ nghèo quá chưa biết lấy gì cúng thì nghe thằng
         Út nói là "Gà xác" bên đó bán rẻ lắm. Thằng
         Lợi mới qua chỗ đá gà chờ tụi nó đá xong mua con gà
         xác về làm giỗ. Ai dè mới đứng xớ rớ bị công an
         ụp tới, bắt luôn.
  - Tội nghiệp
         quá! Mà sao má lại cười?
  Bà
         già vẫn cười ngất:
  - Nó về
         rồi. Con vợ nó quýnh quá chạy đến nhà ông thầy cũ
         thời trung học. Nghe nói ông thầy thương cho hoàn cảnh của nó
         nhờ mấy thằng học trò làm công an bảo lãnh nó ra đó.
         Hú hồn thằng nhỏ!
  Quả là
         chuyện bi hài! Nghe mà cười chảy nước mắt. Cũng chẳng trách
         được thằng em chồng. Nó chỉ muốn giúp thằng bạn học
         cũ thôi mà. Thằng Lợi lại càng tội nghiệp! Xưa giờ nó
         là đứa con hiếu thảo lắm. Chỉ tại số nghèo không ngóc
         đầu lên được. Con vợ lúc trước đi nhổ cỏ cho nhà
         thầu Trung Quốc làm cầu ngày cũng được ba chục ngàn đủ
         tiền gạo, thằng chồng làm mộc đang lúc ế ẩm nên nhà
         lúc nào cũng túng bấn.
  Từ
         chuyện thằng Lợi chị lại nghĩ về cái xóm bên kia sông Hậu.
         Ý là có cái bắc Cần Thơ mà thằng nhỏ còn liều
         mạng sang đó, sau này đường đi thông thống rồi cái
         xóm nhỏ ấy không biết có đổi thay phát triển gì không?
         Khi đi lên cầu có thể nào họ quên bao người thân đã
         hoà trộn máu thịt vào mảnh đất dưới chân cầu này!
         Chẳng lẽ nỗi đớn đau mất mát không làm người ta sống
         tốt đẹp được sao?
  
  Chị lại thấy mình ra đứng ngó
         mông về phía con đường tráng nhựa đang làm dang dỡ dưới
         chân cầu. Nhìn hút tầm mắt cũng chỉ thấy con đường
         chạy về phía xa chứ nào thấy cầu kì gì nhưng chị vẫn
         hình dung cây cầu rõ mồn một. Đã là những ngày giáp
         Tết. Chẳng mấy tháng nữa thôi người dân đồng bằng sẽ
         vui sướng được đứng trên cây cầu lớn nhất vùng
         châu thổ để nhìn xuống quê nhà. Hạnh phúc thay khi trong khoảng
         trăm năm của cuộc đời, hạnh vận của cư dân xứ này
         đã đến những hai lần với hai cây cầu đẹp đẽ tráng
         lệ như những giấc mơ hoa, như những chuyện cổ tích giữa đời
         thường.
  Đứng trên con đường
         vỗng cao, nhìn về phía thành phố rồi nhìn xuống mái đình
         cong vút rêu phong và những căn nhà lúp xúp chạy dài theo
         con rạch vào Cái Chanh, Cái Muồng, lòng chị dậy lên bao nỗi
         cảm hoài. Chị nghĩ đến người chồng yêu dấu đã
         mất, nghĩ đến ngày mình dắt tay con lên cầu Cần Thơ, hoà
         vào dòng người cuồn cuộn kéo về từ khắp nơi, nao nức,
         vui mừng, nghĩ đến những vận hội mới mở ra cho người dân
         cần cù, lam lũ của vùng đất này...Ừ, mình có cầm
         lòng để cười vui được không đây?
  Trước mắt chị, cây cầu lớn lao đẹp đẽ
         hình những chữ A chỉa thẳng lên trời, vươn mình trong nắng
         ấm phương Nam vẫn lấp loáng, rưng rưng...
 
Nguyễn Ngọc Tuyết 
   
  
      
      ĐI QUA TRƯỜNG CŨ                            

                                 
                                
       
                     Tôi đi
         qua ngôi trường
         
         Thấy ngổn ngang gạch đá,
         
         Những viên gạch rơi xuống từ bức tường
          Mới đập xuống
         hôm qua để xây trường mới
         
         Lòng bỗng nhói đau
         
         Ôi trăm năm trường xưa!
         
         Trăm năm nước thời gian gội rửa
          Trăm năm rồi "Nước vẫn
         một dòng trong"!
 
          Dãy hành lang
         vẫn còn nguyên màu gạch đỏ
          Còn ấm dấu chân người
         lớp lớp đan xen,
         
         Và trong từng khung cửa lớp
         
         Nghe đâu đó tiếng cười vui khúc khích
          Những tia nắng ban mai nghịch
         ngợm
         
         Dệt thành tơ vương vấn mãi hồn ai!
          Và bảng đen, và
         phấn trắng
         
         Còn nhớ không em trầm ấm tiếng giảng bài,
          Trên bục này cô
         giáo đứng bâng khuâng
         
         Mắt sáng môi hồng học trò ôi thương quá
          Bởi trong cô
         vẫn tươi rói tuổi xuân thì
          Biết bao mùa xanh xưa trong ngôi
         trường cũ
         
         Cô trò ta thắm thiết nghĩa đồng môn!
 
         
         Sân trường kia vẫn mênh mông trải rộng
          Cây liêm già rắc
         hoa vàng rực rỡ
         
         Gốc bồ đề xòe tán góc sân
          Hoa phượng vĩ kết từng
         chùm đỏ thắm
         
         Bao hè vui- tiễn từng cánh chim bay
         
         Để tất cả lại về trong rộn rả
          Ngày hội trường trời
         đất cũng nồng say
         
         Thắp một nén nhang trên phòng truyền thống
          Ngước nhìn lên
         ba chữ "Sư đạo tôn"
         
         Tưởng nhũng ân sư đang mỉm miệng cười
          Rưng rưng niềm tưởng
         nhớ!
 
          Tôi đi ngang qua ngôi trường
          Tất cả sẽ
         thành vôi vữa
         
         Mai này trường mới dẫu hình hài như cũ
          Biết tìm đâu
         hồn phách một thời xưa!
 
                                            
                   21-2-2017 
         
      
       
TÙY BÚT
                                       
               TRƯỜNG CŨ 
        
                                                                    
                           
            Năm rồi nghe tin trường cũ sắp
         bị đập bỏ để xây trường mới, học trò khắp nơi
         kéo nhau về rất đông. Thứ bảy, chủ nhật nào xe gắn máy
         cũng đầy nghẹt bãi xe, xe hơi cũng đậu dài trước cổng.
         Mà cũng phải thôi, ngôi trường cổ kính dựng nên từ
         năm 1917 bên dòng sông Hậu hiền hòa êm ả này giờ sắp
         trăm năm tuổi rồi, đã xuống cấp lắm rồi! Nhà thầu xây
         dựng của Pháp ngay từ khi trường hơn 50 năm tuổi đã gởi
         thư cảnh báo mấy lần rồi. Còn nhớ những ngày hội trường
         70 năm, 80 năm rồi 90 năm, nhiều thế hệ học sinh đã trở về
         họp mặt đồng môn, đồng song mừng mừng tủi tủi với biết
         bao kỷ niệm thắm nồng sống lại nơi cảnh cũ trường xưa.
         Đó là những ngày cả trường ngập đầy hoa, tràn trề
         những lời chúc mừng từ khắp nơi bay về. Những cánh chim bay xa
         thật xa, những học sinh thân yêu ngày cũ đã trở về, hòa
         nhịp đập tim mình với trường xưa để những ngày kỉ
         niệm ấy trở thành "hội tao phùng" của thầy xưa, bạn
         cũ dào dạt tình yêu thương. Những ngày hội ấy, dưới
         mái trường này, trên từng lối đi này, những cái đầu
         bạc trằng, những mái tóc muối tiêu hay đen mượt đều
         không có gì quan trọng. Bởi, tất cả chúng tôi là "Đồng
         môn", là một phần máu thịt, tinh anh của ngôi trường, là
         bề dày lịch sử, là kí ức vẫn luôn nằm đâu đó
         ở nơi này. Đáng quý nhất là trải bao nhiêu năm, bao lớp
         thời gian gội rửa, dáng dấp trường tôi vẫn như xưa. Mái
         ngói rêu phong, vòm cửa tròn thân thuộc với hình ảnh gà
         Gaulois bằng đồng bên trên, dãy hành lang chạy dài qua các
         khung cửa lớp như còn ấm dấu chân người. Cả cây bồ
         đề ở một góc lễ đài nữa. Võ có sù sì hơn,
         cành nhánh có um tùm rậm rạp hơn nhưng gốc cây già vẫn
         sừng sững đó, bốn mùa xanh lá gợi cho kẻ trở về những
         năm tháng hồn nhiên trong trẻo tuổi thanh xuân. Và đây nữa,
         mấy cầu thang gỗ dẫn lên lầu, bao nhiêu năm rồi in biết mấy
         dấu chân, giờ đã mòn lẵn nhưng vẫn đứng đó cho
         đám học trò  sờ lên tay vịn láng bóng bước nhẹ
         lên từng bậc thang mà lòng rưng rưng bao nỗi cảm hoài.
                    Những ngày
         này ngồi dở lại mấy tập kỷ yếu về ngôi trường đã
         mấy lần  thay tên đổi họ này mà lòng xao xuyến, bồi
         hồi. 70 năm, 80 năm rồi 90 năm, những cuốn kỷ yếu của collège
         de Cần Thơ, trung học Phan Thanh Giản, trường cấp 3 TP Cần Thơ và
         giờ là trường THPT Châu Văn Liêm vẫn còn nguyên vẹn trên
         tay dù bao nhiêu là "Nước chảy qua cầu". Giống như  ba
         chữ "Sư đạo tôn" trên tấm bảng gỗ trong phòng truyền
         thống bao nhiêu năm vẫn còn tươi màu mực, vẫn rạng ngời
         lòng kính ngưỡng, biết ơn các ân sư từng giảng dạy
         tại trường. Những tấm bảng nhỏ bằng đồng, chữ trắng
         ghi tên các thầy cô quá vãng cứ càng ngày càng dài
         thêm theo bề dày lịch sử của ngôi trường khiến lớp hậu
         bối chúng tôi mỗi lần vào đó, thắp nén nhang trên bàn
         thơ, lòng lại thấy ngậm ngùi. Trên mặt gỗ phẳng hai bên
         còn chạm hai câu đối bằng chữ quốc ngữ đầy ý nghĩa:
                                               
         Hậu học được nhờ khuôn mẫu trước
                                       
         Tiên công ghi nhớ nén hương nay.
            Là học trò suốt 7 năm trung
         học, xanh mướt một thời áo trắng sân trường, tốt nghiệp
         trường sư phạm tôi lại may mắn trở về đứng trên bục
         giảng của trường xưa , dạy dỗ lớp đàn em và vinh dự
         đứng trên lễ đài trong sân cờ cùng một số thầy cô
         cũ để càng ngày càng hiểu sâu hơn về lẽ khép mở
         của ngôi trường. Bởi mỗi năm cổng trường lại mở rộng
         cho những đàn chim tung cánh bay đi nhưng không bao giờ để mất
         chúng. Những cánh chim, dù có trở lại hay không vẫn giữ mãi
         hình ảnh ngôi trường yêu dấu ấy trong tim. Thế nên bao thế
         hệ học trò đã trở về, ghi lại cảnh cũ người xưa
         suốt năm vừa qua và tôi phải đi theo chúng mệt bở hơi tai.
         Đây là sân trường, nơi bọn mình tập thể dục, tập
         kéo co dưới sự chỉ đạo của thầy. Kia là cây liêm xẹt 
         thường trải thảm vàng đầy sân khi tới mùa trổ bông.
         Còn cây bồ đề già cỗi ngay góc sân này nữa, còn
         nhớ không, nhớ không, nó vẫn thả mấy trái tròn tròn
         đen sì  rơi xuống đất là bẹp dí, nhảo nhoẹt dơ
         ơi là dơ. Rồi cả cô trò kéo lên lớp cũ, dàn cảnh
         chụp hình một tiết học ngày xưa, có cô giảng bài, có
         trò đứng lên phát biểu...cười nói rân trời. Sau những
         cười vui, phá phách như thuở nào, có một lúc cả đám
         chợt lặng thinh. Ai đó cất tiếng nói bâng quơ. Không biết
         trường mình xây lại sẽ ra sao đây ta? Dù phục dựng y như
         kiến trúc cũ nhưng biết có còn hồn phách gì không? Những
         câu nói như chứa đầy niềm tiếc nuối, bâng khuâng khiến
         mọi thứ như chùng xuống..
           
         Nhìn đám học trò hối hả chụp hình mọi nơi, mọi góc
         cạnh của ngôi trường thân yêu, sao tôi cứ chạnh lòng nhớ
         mấy câu thơ từ một bài "chiêu niệm" trong kỷ yếu của
         trường:
                              
         ..Tiếng trống ấu thơ dẫn ta về lớp cũ,
                              
         Để ta gặp lại ta xưa...
                              
         Thầy kia- bạn đó-ai thẫn thờ- ai vội vã
                              
         Hành lang xưa lãng đãng bóng ai qua ?
                              
         Trở về trường- ta lại gặp ta... !
            Bây giờ đã là những
         ngày sau Tết. Mấy hôm nay đi qua trường đã thấy búc tường
         đầu tiên bị đập xuống rồi, gạch đá ngổn ngang. Đám
         học trò đã được dời qua ngôi trường dạy nghề ở
         gần bên, chật hẹp một chút nhưng cũng ổn. Có điều tôi
         phải gọi ngôi trường của tôi là « Trường cũ »
         để phân biệt với trường mới rồi, phải không ?
                    Ôi, ngôi
         trường của tôi ! Sau trăm tuổi này rồi nó sẽ ra sao? Hình
         dáng, hồn cốt thế nào? Có lẽ tôi nên mượn lời bạt
         trong một tập kỷ yếu để tự an ủi mình rằng " Dẫu trăm
         năm hoặc nghìn năm thì trên con sông đời vô tận ấy,
         trường chúng ta- mãi mãi một dòng trong"...
   
                                                                    
         NGUYỄN NGỌC TUYẾT