phạmnhãdự: kẻ văngtục vănchương
          
  Tôi gặp phạmnhãdự thiếu
         một năm nữa là đúng năm mươi năm. Một nửa thế kỷ
         nói sao mà nghe quá dài, thật là dài.
   
  Dạo đó, tôi
         phục vụ vùng Gia Định. Hậu cứ đóng quân nằm ở đường
         Ngô Tùng Châu, Bà Chiểu. Cuối tuần tôi thỉnh thoảng ra Sàigòn
         chơi, thường uống càphê, ăn sáng tại nhà hàng Kim Sơn,
         nằm góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực. Cũng góc
         đường nầy có Kiosk bán sách báo và tạp chí của
         cô Nga, người đẹp dáng vóc nhỏ nhắn rất hiếu khách.
         Quán nầy là nơi tụ tập của anh em văn nghệ trẻ ở nhiều
         nơi. Nào Tô Đình Sự, Ngô Nguyên Nghiễm, Yên Bằng, Trăng
         Thệ Hải, Phan Chấn Thanh, Lâm Chương, Lưu Nhữ Thụy, Phạm Nhã
         Dự, Nguyễn Lệ Tuân, Thuy Miên, Nguyễn Lê La Sơn, Lưu Vân, Nguyễn
         Thành Xuân, Hà Thúc Sinh, Trần Văn Sơn, Trần Hoài Thư, Nguyễn
         Tôn Nhan, Trần Phù Thế... Ở đây tôi quen với phạmnhãdự.
         Từ khi biết nhau, tôi và Dự hể rãnh là cùng các bạn
         kể trên bày cuộc rượu. Thời đó chiến tranh, chết sống
         gần kề nên gặp nhau không nhậu mới là chuyện lạ.
 
          
  Những
         dạo đóng quân ở ven đô, nhứt là vùng Hóc Môn, tôi
         hay qua nhà PND ở Bà Điểm thù tạc với nhau. Lúc ấy Dự
         cũng thỉnh thoảng ghé qua nơi tôi dừng chân (Dự phục vụ ở
         Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung). Dự thường nhắc chuyện một Bà
         Mẹ tình nguyện theo nấu cơm (nuôi) cho ba đứa con trai đang phục
         vụ trong đơn vị của tôi. Dự luôn nhắc với giọng xúc
         động và cảm phục.    
   
         Nhà Dự ở trong vườn trầu, toàn
         trầu với cau. Xanh mướt và thẳng tắp. Nơi đây cũng còn
         được gọi là ‘Quán Văn', nơi trước cũng như sau cơn-khủng-hoảng
         bảy-lăm là chỗ quy tụ anh em văn nghệ ‘xả láng sáng về
         sớm'.  
   
  Một lần, khoảng vào năm 1969, tình cờ sáu tên
         gặp mặt. PND rũ rê cùng nhau kéo về nhà hắn, mười-tám-thôn-vườn-trầu.
         Nhậu một trận đã đời. Sáu thằng cởi trần từ trưa
         tới chiều làm láng năm lít đế Bà Điểm, có tiếng
         là rượu ngon nhứt vùng Hóc Môn, Gia Định.
   
  Hình ảnh đó
         vẫn lưu giữ mãi trong ký-ức tôi. Cho đến không biết bao
         lâu, khi định cư ở Hoa Kỳ, một hôm tôi viết một hơi về
         kỷ-niệm, về những khuôn mặt thân ái miên hằng:
   
  UỐNG RƯỢU
         Ở VƯỜN TRẦU BÀ ĐIỂM
   
         Tô đình Sự
   
  Này Sự, rượu
         tới phiên mày
  Uống say một trận
         cho đầy cơn mê
  Tuổi thanh niên
         cũng chẳng hề
  Thằng ra chiến trận
         thằng về áo quan
   
  Lâm Chương
   
  Này Chương, sao sớm tan
         hàng
  Ngất ngư uống nữa cho tàn
         cuộc đau
  Tội gì mầy nghĩ mai
         sau
  Chiến tranh có mặt như tao với
         mày
   
  Yên Bằng
   
  Này Bằng, uống chút mà say
  Chúa hay giả bộ kéo dài cuộc chơi
  Mày đi lính vác dùi cui
  Lính như lính cậu rong chơi Sàigòn
   
  Phạm Nhã
         Dự
   
  Này Dự, rượu hết hay còn
  Đừng chơi tao nhé! Tiếng đồn đế ngon
  Nể mày mời lắm nghe con
  Bửa nay quyết đấu mất còn sá chi
   
  Lưu Vân
          
  Lưu
         Vấn, mày uống kiểu gì
  Uống
         sao kê tán đáy ly còn chừa
  Bây
         giờ trời mới giữa trưa
  Nắng
         chui nách lá, trầu thưa chỗ ngồi
   
         Sáu thằng cởi áo uống khơi
         Hết năm lít đế coi trời bằng vung
          
        
         (trích "giởn bóng chiêm bao", tpt)
   
  Phạmnhãdự rất
         mạnh rượu. Trong đám bạn chỉ có Lâm Chương và Tô
         Đình Sự là địch thủ của hắn mà thôi.
   
  Và hắn
         cũng thường hay vui miệng chửi thề. Chẵng thế, chửi thề luôn
         cả trong văn chương thi phú! Tôi gọi hắn là ‘kẻ văngtục
         vănchương'.
   
  Thật ra, trong văn chương, tiếng chửi thề thỉnh thoảng
         cũng được nhà văn dùng đối thoại trong tác phẩm của
         mình, nhứt là những nhà văn quân đội. Nhưng, trong lãnh
         vực thơ, thật hiếm thấy những bài thơ chửi thề, mà sau này
         tôi biết cũng chỉ dăm người, cũng toàn những tay mặc áo
         kaki. Trước đó, rất lâu, tôi chỉ thấy có thi hào Cao Bá
         Quát, trước khi ra pháp trường, mới có thơ ‘chửi thề':
         "Ba hồi trống giục đù cha kiếp/ Một nhát gươm
         đưa đéo mẹ đời". Cho đến khi (1971) nghe PND đọc bài
         thơ "Buổi Chiều Ở Nghĩa Trang Cà Đú" (mà Dự viết
         ‘gởi linh hồn mày, Tôđìnhsự ‘) với tôi là
         lần đầu tiên, DỰ dám xử dụng tiếng chửi thề vào trong
         bài thơ thực sự, mà lại nhiều lần! Bài thơ khóc bạn
         với những tiếng chửi thề này gây tôi cảm xúc sâu xa khôn
         tả!
   
  Trở lại Phan Rang lần nầy nữa
  Thăm
         mày không biết ngắn hay lâu
  Thăm
         mày, đù má, mày đã chết
  Hay chỉ thăm cỏ mọc xanh mồ.
   
         Chiều nay sao gió nhiều mày nhỉ
         Gió nổi trong tao đến lạnh mình
         Đù má, nhang mày sao chẳng cháy
         Đốt mãi que diêm đến cạn cùng.
          
  Ngay khi
         nghe đọc, tôi lặng người vì tiếng chửi (đù má) rất
         dân dã nầy. Nếu nói thiệt, nó rất ư là thô tục.
         Vậy mà PND lại ‘ném' hai tiếng chửi thề vào vị trí rất
         đắc địa. Tôi  không thể tưởng tượng có mấy
         "thi gia" dám dùng nó trong thơ như một ngôn ngữ văn chương,
         nhứt là rất nhiều lần trong một bài thơ, mà lại gây xúc
         động như vậy! Chắc trước sau chỉ có Phạm Nhã Dự mà
         thôi!
   
  Tôi đã vô cùng ngạc nhiên xen lẫn thích thú.
         Dự dùng hai chữ"đù má"khi đứng trước mộ
         người bạn vừa nằm xuống, người bạn thân của chúng tôi,
         Tô Đình Sự. Chửi thề đi Dự cho bớt lòng đau:
 
          
  Bên
         kia dãy núi trơ thân chó
  Cỏ
         dưới chân tao lại sụt sùi
  Mẹ
         kiếp, vợ mày đang khóc mướt
  Con
         mày, trời hởi, nó cười vui!
   
         Còn tao, tao chẳng cười chẳng khóc
         Chẳng ngậm ngùi chi lũ kiếp người
         Đù má, tao chửi thề đây Sự
         Chửi suốt trăm năm chửi hết đời.
          
  "Mẹ
         kiếp" cũng gần như tiếng chửi thề. "Vợ mày đang
         khóc nmướt/ Con mày trời hởi nó cười vui": thật
         là trớ trêu nghịch cảnh. Chồng chết đương nhiên là
         vợ quá đau lòng, nhưng mấy đứa con còn quá nhỏ có
         biết gì đâu nên vẫn cười vẫn hồn nhiên!
   
  "Đù
         má, tao chửi thề đây Sự / Chửi suốt trăm năm chửi hết
         đời": đúng là rất độc và lạ.
  Bài thơ "Buổi Chiều Ở Nghĩa Trang Cà Đú"
         tôi đếm đưoc tất cả là sáu lần tiếng chửi thề
         mà tác giả đã lập đi lâp lại (tưởng như là cố
         ý). Để nói lên tình bạn sậu đâm đối với người
         nằm trong mộ, cái câu "Chửi sưốt trăm năm chửi hết
         đời" đã thể hiện rõ cái tình bạn thâm sâu
         của PND dành cho Tôđìnhsự. Đó chính là tình bạn
         tri âm tri kỷ, trăm năm khó gặp.
   
         Theo lời kể phạmnhãdự, cũng đồng
         cảnh gần như tất cả bạn bè chiến hữu, Dự đã theo học
         "Đại Học Máu"* (tù cải tạo) gần bảy năm. Ra tù,
         trong nhà không còn gì để bán, PND làm đủ nghề để
         sống. Bửa đói bửa no. Từ dạy Anh văn, làm phân bón, mở
         xưởng muối, rồi lập quán cốc độ nhựt qua ngày. Một
         thời gian dài nửa tỉnh nửa mê!  
   
  Phạm Nhã Dự nổi tiếng
         hào sảng, thích kết giao bằng hữu, nhứt là những cuộc rươu
         trong giới lưu linh văn nghê văn gừng Sài gòn. PND kể, khoảng năm
         1987, có lần vào buổi chiều hắn và Cung Tích Biến đến
         quán Chín Thái (bạn thân của PND) ở trên kinh Nhiêu Lộc, gần
         Lăng Cha Cả, giữa khu Bảy Hiền và phi trường Tân Sơn Nhứt.
         Trước khi nhậu PND chợt nhớ nhà thơ Phù Hư cũng ở gần
         quanh đó nên gọi Phù Hư qua nhậu cho rậm đám. Bữa rượu
         kéo dài tới gần một gìờ sáng. Phù Hư về trước.
         PND chở CTB ra trước đường Hoàng văn Thụ, kêu xích-lô.
         Biền ngất ngưỡng, không đồng ý, bắt PND phải chở về
         nhà ở đường Nguyễn Huệ, Sài gòn. PND phân trần, năn
         nỉ Biền về bằng xích-lô vì Ngã Tư Bảy Hiền nằm ở
         giữa Bà Điểm và Sài gòn. Nếu chở Biền về Nguyễn
         Huệ rồi về Bà Điểm thì quá xa. Tới sáng mất đi!
          
  Nhưng
         CTB nhứt định không chịu, bảo đích thân PND phải chở về.
         Dự cương quyết không chở. Hai ông thần men ngồi bệt xuống
         vệ đường cự cải nhau tiếp diễn. Đến nổi ông xích
         lô lên tiếng giảng hòa. Rồi, CTB đứng vụt dậy, tụt quần
         xuống, chửi, "đù má, Dự đếch chơi ngon, c. tao hè".
         Đêm đó, theo lời kể của CTB, anh bảo ông xích-lô chở
         nhầm vào trụ sở công an phường gần nhà, lẫn quẫn gần
         bốn/năm giờ sáng mới về chung cư (Nguyễn Huệ) .
   
  Cuộc chơi
         bạt mạng đó còn được Dự ghi lại mấy câu thơ:
          
  Ông
         đứng dậy tụt quần, Đù Mẹ
  Chửi thằng nhã- dự đếch chơi ngon
  Giữa khuya thanh vắng còn hai kẻ
  Uống rượu và quên chuyện mất còn!
   
  Bài thơ trên
         có cái tựa "Cung Tích Biền", đó là tên của một
         nhà văn nổi tiếng trước năm bảy-lăm ở Sàigòn, cũng
         là người bạn lâu năm của PND từ khi cả hai còn độc
         thân, lúc mà CTB còn đóng ở hậu cứ Ngã Tư An Sương,
         thường ghé qua mười-tám-thôn- vườn- trầu nhậu nhẹt
         đình đám.
   
  Và bài thơ trên cũng là bài thơ thứ
         hai hiếm hoi mà nhà thơ phạmnhãdự đã dùng tiếng chửi
         thề trong tập thơ của mình.
   
         Đọc hai câu "Giữa khuya thanh vắng còn
         hai kẻ/ Uống rượu và quên chuyện mất còn" của bài
         thơ tứ tuyệt trên tôi cảm thông sâu xa tâm tư của PND. Đi
         tù về, tâm trạng của kẻ gãy súng tháng tư lúc nào
         cũng mơ hồ tự trách mình, dù đó là cộng nghiệp,
         là vận mệnh chung của cả một dân tộc, một quốc gia!
          
  Trong bài
         "Xuân Tha Hương Nhớ Bạn" có năm bài thơ ngắn tứ
         tuyệt. Mỗi bài là tên của một người. Tất cả đều
         là bạn rượu văn nghệ thân thiết của PND. Phần trên tôi
         đã điểm danh nhà văn CTB. Vậy bây giờ xin điểm tiếp
         coi nhà thơ chúng ta đã viết gì cho mỗi bạn rượu:
           
  Nguyễn
         Đạt
   
  Quán vắng chun bàn ông ngủ tỉnh
  Còn quanh dăm đứa gật gù say
  Đơn Dương có lạnh, ông còn lạnh?
          Gió tuyết mưa phùn đây trắng bay!
           
  Đọc
         lên thấy ngay hình ảnh Đạt của Đơn Dương xứ lạnh,
         của tính cách những tay hảo hán chơi bất cần đời, nhậu
         xỉn chun xuống bàn ngủ tỉnh bơ!
   
  Lê Triều
         Điển
   
  Ông mang tranh tặng, ta mang nặng
  Bằng hữu chi giao, ông vẽ sao?
  Châu
         thổ bây giờ sông nước lụt
  Bao
         nhiêu thảm cảnh vẽ nên màu!
   
          Dương Trữ La
   
  Đưa ta đi Mỹ,
         ông chết giấc
  Đò đời
         còn lại ở lòng nhau
  Rượu
         chìm rượu nổi dăm thằng ngất
  Đời
         đã muộn màng chuyện bể dâu!
   
  Thơ Dự đề tặng bạn,
         không giống như thường thấy ở các nhà thơ khác, ở
         đây đọc lên sẽ thấy ngay con người mà PND có ý đề
         tặng. Đọc Lê Triều Điển ai cũng nhận ra một họa-sĩ vùng
         sông nước Cửu Long, chân tình cùng bạn bè khi rời xa quê
         hương!
   
  Điểm thú vị nữa là cách chơi chữ trong câu đầu:
         "mang tranh" đối với "mang nặng" (điệp ngữ với
         hàm ý vật chất đối với tinh thần). Độc đáo hơn,
         tác giả còn ‘đẩy' họa sĩ nhà ta vào thế khó "phải
         vẽ tình bằng hữu" vốn xưa nay hình như chưa có họa
         sĩ nào nghĩ tới!
  Đến
         Dương Trữ La thì nói về thâm sâu đời sống hơn. Một
         Dương Trữ La chơi "xả láng" đúng nghĩa nhứt trong những
         tay "xả láng" văn nghệ Sài gòn đã cuối đời "ngồi
         ôn lại chuyện bể dâu". DTL chia tay với người phối ngẫu tuyệt
         vời, về sống buồn thiu dưới vùng Duyên Hải xa xăm. Khi hay tin
         PND mời gặp mặt trước khi rời quê hương, anh tức tốc theo đò
         lên Cầu Chữ Y ngay chiều hôm đó. Uống đến hai ba giờ sáng,
         anh lại xuống đò xuôi về Duyên Hải. Sau này anh kể lại
         anh đã ói vật vã suốt đường về. PND quá cảm động,
         viết gởi anh mấy vần thơ này. Khi nhận được, anh bảo anh ngồi
         ngơ ngẫn, thẫn thờ suốt cả buổi chiều hôm đó "thấm
         thía đời mình"!
  Sau cùng của các tứ tuyệt là nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm.
         Nghiễm là cầu nối giữa các anh em văn nghệ miền Nam thời bấy
         giờ và cả bây giờ.
   
          Ngô Nguyên Nghiễm
   
  Ông thiền mấy
         bậc tu thành đạo
  Đã chán
         chường chưa cuộc tỉnh say
  La Hán
         bao giờ về núi Thất
  Hay nợ văn
         chương vẫn lụy hoài?!
  Bạn ta Ngô Nguyên Nghiễm. Đọc qua thấy ngay một Ngô Nguyên
         Nghiễm đam mê văn chương, đạo mạo như thiền sư /A La Hán
         xuất thân vùng địa linh Thất Sơn huyền bí. Tuy nhiên, tinh ý
         sẽ thấy tác giả đã dùng ẩn dụ và nói lái thật
         tuyệt và thú vị ngay câu đầu: "Ông thiền mấy bậc tu thành đạo". Câu rất dễ hiểu, diễn rất đạt
         chân thân Nghiễm. Nhìn sâu, phân tích chữ sẽ thấy ‘Thiền'
         là phương pháp tĩnh tọa, mà ‘Thiền' cũng là tên thật
         của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm. Riêng ba chữ cuối của câu
         đọc ngược lại đã tạo thành giai thoại trong bạn bè
         thâm giao!
       
                               ***
  Ngoài
         cái độc đáo của ‘kẻ văngtục vănchương' với
         tiếng chửi thề nhẹ nhàng và tự nhiên khi khóc bạn làm
         ngỡ ngàng và khuấy động mối cảm xúc thật sự người
         đọc, Tôi còn rất "chịu" thơ tứ tuyệt của phạmnhãdự.
         Lời thơ khinh bạt bất cần đời. Ý thơ thâm trầm xoáy
         vào lòng người đọc nỗi niềm u hoài không nguôi. Đùa
         với bạn bằng những ngôn ngữ đời thường nhưng khi đọc
         lên vẫn để lại dư âm hoài hoài bất tận!
   
  Tuyệt vời
         bạn hiền, một đời thơ, một hồn thơ, cho tuổi "thất thập
         cổ lai hy".
  South Carolina,
         Sept. 11, 2017
  TPT
  *Tác
         phẩm của Hà Thúc Sinh, Ký, Nhân Văn, Hoa Kỳ 1985.
______________________________________________________________________________________________________________