| 
                     | 
                    
                     
                        
                         |   | 
                        
                        
                         
                              
                                
                                 
                                 
                                 
                                 
   
   
      
      THƠ - TRUYỆN Năm Mới 2019 & Tết Kỷ Hợi _______________________________________________________________________________________   Trầm Vân,
         Mailoc, Songquang, Phương
         Hà, Nguyễn Ngọc Tuyết, đoàn xuân thu, Đan Quế Phong, Trúc
         Ty, Mai Duy Khôi   TRẦM VÂN: 
 
 
   MAILOC,
         SONGQUANG, PHƯƠNG HÀ:  NĂM  TÀN       Thư
         phòng quạnh quẽ, lạnh chiều đông.   Mưa gió lê thê buốt giá hồn. 
         Sương trắng mơ hồ giăng
         khắp phố   Lá vàng
         tan tác chảy theo dòng.   Đèn
         sao nhấp nháy rực đường phố   Nhạc thánh u trầm vọng cõi không.   Thoi thóp năm tàn, cuốn lịch mỏng 
         Mấy tờ còn lại, sắt se
         trông!        
            Mailoc         12-23-18    
 
 
  Họa:  
 VẮNG
         EM, MƯA CHIỀU CUỐI NĂM     
         Bên phố nhỏ chiều mưa lạnh
         vắng   Ta một mình đọng
         lắng sầu tư   Màn mưa
         như sáng sương mù   Nhớ
         em chỉ biết tìm dư ảnh người       Ngày cuối
         năm chiều rơi lặng lẽ   Cảm
         thương ta quạnh quẻ thân già   Nỗi buồn len lén lan xa   Bao
         năm đất khách xem là khói mây       Trời vào
         Đông đêm dài ngày ngắn   Bóng thời gian lẵng lặng chôn vùi   Tìm đâu lại được ngày vui ? 
         Bên em ,đã mất ....bùi ngùi
         nhớ thương      
         Cơn mưa tạnh,phố phường tấp
         nập   Người dập dìu
         hấp tấp chen vai   Góc kia một
         lão ăn mày   Nghĩ thương
         số kiếp cùng loài lạc đâu ?       Bản "Đêm
         đông" lời sao buồn bả   Tiếng
         ca ai rỉ rả chiều hôm   Đã
         len vào tận tâm hồn   Tìm
         em nào thấy ...chỉ còn trong mơ   songquang   (Một
         chiều cuối tuần cuối năm 2018)    
               Dallas 12/29/2018     
         Chiều Buồn Cuối Năm 
             Chầm chậm bước trong chiều im vắng   Ta nghe lòng nhẹ lắng trầm tư   Hoa dầu xoay tít cánh dù   Mỏng manh, vô định, phù du kiếp
         người.       Đã buông bỏ cuộc đời chẳng
         luyến   Thì tiếc chi một
         chuyến dối già   Hãy bay,
         bay tít thật xa   Lượn chao
         chấp chới, la đà trong mây.     
          Dẫu đã biết có ngày
         tóc trắng   Từng sợi buồn
         vương vấn rơi...rơi..   Mắt
         mờ, môi héo, da mồi   Mà
         sao lòng vẫn bồi hồi tiếc thương.       Còn đâu
         nữa bạn đường một thuở   Lá thư tình bỡ ngỡ trao tay   Bây giờ tình chửa nhạt phai   Mà người xa vắng tìm hoai, thấy đâu ? 
              Mưa nhẹ rơi, giọt sầu rỉ rả   Trời tối sầm hối hả đêm buông 
          Nghe trong hơi lạnh buốt hồn 
          Mùa đông vẫn đó, xuân
         còn...rất xa !     
          Phương Hà 
          ( Saigon, chiều cuối năm 2018 ) 
             
 
 
 3. NGUYỄN NGỌC TUYẾT: TRÊN BẾN SÔNG XUÂN         
                                                    
                                            
                                         
                   Một giọt
         nước bắn vào mặt làm Mai giật mình ra khỏi giấc ngủ mê
         mệt. Không phải sương mà là giọt mưa. Ôi, trong miền Nam
         này mà có mưa xuân sao? Đúng là thời tiết thất thường
         thiệt! Cơn mưa chỉ rỉ rả, chỉ rì rào trên mui ghe lợp lá
         nhưng cũng đủ ướt đống xoài, đống bưởi ngoài
         kia bởi trên chiếc ghe lớn của nhà, mui ghe chỉ bung ra có nửa, đủ
         cho hai mẹ con co rúc qua đêm thôi mà. Mai nhìn ra ngoài, mẹ đang
         lúi húi trùm mấy tấm ni lông cho mớ trái cây còn vun đầy.
         Cũng phải thôi, mẹ con Mai mới từ Cái Chanh chạy ra chợ trên bến
         sông này chiều qua, sáng mai mới có bạn hàng đến cân
         xoài, cam, bưởi về bán Tết. Hi vọng đắt hàng thì lui ghe
         trước Tết vài ngày, kịp lo cúng kiếng. Ế hàng như năm
         rồi có khi trưa hai mươi chín, ba mươi mới về nhà. Sống
         dựa vào mấy công vườn trồng bưởi, xoài, đu đủ,
         cam sành năm nào Mai cũng theo mẹ ra khu chợ Cần Thơ này, bán
         trái cây cho bạn hàng trên chợ kiếm ít tiền lo Tết cho nhà.
         Đi riết thành quen, cứ qua ngày cúng ông Táo lòng cô gái
         trẻ lại chộn rộn, náo nức, thèm thuồng cái không khí
         nhộn nhịp, ồn ào trên bến chợ nức tiếng vùng sông nước
         miền Tây này.                     Nghe kìa, trời
         mới tinh mơ mà chợ dưới mé sông đã rộn ràng, náo
         nhiệt rồi. Mấy ghe nhỏ, ghe lớn đậu chung quanh đã tất bật
         hẳn lên. Chị Ba kế bên chuẩn bị sắp mấy buồng chuối ra mũi
         ghe, ông Tư hôm nào cũng ra chợ thật sớm để lên dừa
         tươi. Dừa lên hết trên vựa là ông lại quay ghe đi về
         các xóm trong bẻ dừa tiếp. Ghe dưa của thiếm Bảy năm nào
         cũng đậu trên sông đến cuối phiên chợ Tết, năm bán
         hết, năm phải chở về bán rẻ cho mấy nhà nghèo trong rạch.
         Còn lại cam, quýt, bưởi không đếm xuể. Những ghe thương
         hồ thoắt đến, thoắt đi nhưng hầu như cứ gần Tết là
         lại về đây nên Mai hầu như quen thuộc rất nhiều người,
         cô không cần nhìn cây bẹo treo ở mũi cũng biết ghe đó
         bán gì rồi. Thậm chí Mai còn có thể chuyền từ ghe này
         qua ghe khác để lên bờ nữa.            
         Mới rửa mặt xong, gánh bún riêu của bà Ba đã đến.
         Bún riêu.. bún giò heo đây.. Tiếng rao lãnh lót trôi dài
         theo sông nước. Mai mỉm cười. Bà Ba thiệt là.. Mấy chục
         năm bán bún riêu cập bến sông, tiếng rao của bà vẫn vang
         lên sớm nhất và không thể lẫn lộn được. Nghe nói có
         lần nhà báo phỏng vấn, bà nói "bao nhiêu năm gắn với
         chiếc ghe, gánh bún nuôi con cái trưởng thành, giờ có thể
         nghỉ ngơi nhưng ở nhà buồn quá, sáng sớm cứ phải ra chợ
         bán thôi.             
         Mai ló ra ngoài cùng lúc ghe bún cập lại. Bà Ba cười tươi
         rói:   -        
         Sao, ăn gì con? Ra hồi nào?   -        
         Cho con tô bún giò. Con mới ra chiều qua. Chợ có gì mới không
         bà Ba?   Vừa cúi xuống bóc bún
         vào tô, bà Ba vừa lắc đầu:   - 
         Thì chợ Tết năm nào chẳng vậy hả con? Nhưng coi bộ bông
         năm nay "hiu" à Mai. Bông cúc, bông mai là bông chủ lực
         mà trước Tết rớt hết rồi, không biết còn bông bán
         Tết không? Mấy hôm nay tao thấy vạn thọ, xương rồng lên nhiều,
         bông hồng thì lai rai, chờ vài bửa nữa coi.   Mới nói tới bông là đã thấy ghe bông trờ
         tới rồi. Mai vui vẻ kêu lớn:   -        
         Anh Quân phải không? Hay quá, lại gặp anh nữa rồi!   Chàng trai đứng trên chiếc ghe vừa mới tới cũng
         cười toe toét:   -        
         Cô Mai đây rồi. Tôi biết mà, không có Mai làm sao có
         Tết chứ!   -        
         Thôi đi ông hàng bông, giỡn hoài. Năm nay anh có mai tốt không
         nè?   Nhìn mấy chậu bông chất
         đầy ghe, Quân lắc đầu:   - 
         Mai coi đi, còn chừng chục gốc là đang nụ nở kịp Tết thôi,
         mấy gốc kia đã nở bung hết, giờ chỉ còn lá thôi. Giữ
         cách gì cũng không được.   Mai
         nhìn sang ghe bông rồi nhìn Quân, anh bạn từ Bình Thủy hằng
         năm vẫn đậu ghe gần cô mà buồn theo anh. Quân không bỏ học
         giữa chừng như Mai, anh đang học đại học năm thứ hai thì cha
         mất, anh phải bỏ học về gồng gánh gia đình, tiếp mẹ nuôi
         hai em ăn học. Cả nhà mấy đời trồng bông, vừa bỏ mối
         suốt năm, vừa bán Tết. Mai quen Quân từ những chuyến chở hàng
         bán Tết trên bến sông này mấy năm nay. Quân lớn hơn 3 tuổi
         nên Mai vẫn xem Quân như anh, tình bạn mỗi năm mỗi thân thiết
         dù thỉnh thoảng cả hai mới gặp nhau vào lúc cận Tết như
         vầy.   -         Sao,
         năm nay cây trái thế nào?   Tiếng
         Quân hỏi làm Mai giật mình:   - 
         Thì..cũng tàm tạm vậy thôi. Có điều năm nay bưởi nhà
         em thất thu quá, neo bán Tết không được bao nhiêu. Chừng nào
         về anh nhớ qua em lựa một cặp chưng bàn thờ nghe!   -  Ừ, anh cũng sẽ chọn cho em cặp cúc cao dậu một
         chút. May mà cúc của anh không bị dịch bệnh đó.  
          Đúng là mấy chậu cúc ta, cúc
         đại đóa trong ghe đẹp thật. Riêng đám cúc mâm xôi
         là Mai chẳng ưa chút nào. Nhưng Quân nói:   -  Bán có này có kia mà em. Sở thích mỗi
         người mỗi khác chứ. Giống như em thích mai truyền thống 5 cánh,
         người ta thích mai phú quý nhiều lớp cánh hay mai tứ quý nở
         suốt năm vậy mà.   Đúng là
         anh hàng hoa lẻo lự thiệt. Nghĩ vậy nhưng sau khi phụ mẹ cân mấy
         chục ký xoài, vài chục bưởi cho một vựa quen trên bờ,
         Mai cũng vui vẻ theo Quân lên chợ giữ dùm chỗ cho Quân dọn bông
         lên. Chợ đông, lại ít tiền nên Quân chỉ thuê được
         một khoảnh tí nị để chưng bông. Gặp khách mua nhiều phải
         dẫn xuống ghe. Được cái chỗ bán bông của anh nằm kế
         quán cà phê rất ngon bên đường nên mỗi lần có khách
         vào uống cà phê, ngắm bông cũng tiện.. Quán nước này
         mấy ngày Tết làm ăn được lắm, tàu du lịch liên tục
         ghé lại, Khách vãng lai ngồi ngoài sân cũng đông, chủ
         quán pha cà phê mệt nghỉ.  Chợ Tết trên bến Ninh Kiều nổi
         tiếng từ xưa đến nay nên mấy ngày xuân "trên bến dưới
         thuyền" vẫn hấp dẫn, vẫn phong phú sắc màu là vậy, làm
         sao không ra họp chợ cho được.    Mấy
         ngày chợ Tết rồi cũng qua mau. Trên bến sông xuân đã có
         nhiều ghe bông, ghe trái cây mở máy quay về sau khi chất hết hàng
         cho vựa hoặc cho người mua lẻ. Đám chủ dưa hiu hắt vì mấy
         cơn mưa sát Tết làm dưa hấu thất thu đã lui ghe từ sớm.
         Thiếm Bảy lái dưa than:   -  Năm
         nay chắc nhà thím ăn Tết héo rồi Mai ơi. Mấy cơn mưa trái
         mùa  làm dưa mới búng hường nổ hết trơn. Đám
         dưa còn lại vét bán cũng không được bao nhiêu! 
           Mẹ con Mai cũng ráng bán mão hết
         số trái cây còn lại, chuẩn bị về nhà, mai đã 29 còn
         gì.    Đêm hai tám Tết, Mai lên
         chợ, ngồi bán tiếp Quân mấy chậu bông cuối cùng. Có lẽ
         vì bông năm nay ít nên ghe bông của anh đã bán gần hết.
         Chợ bông đêm nay đông nghẹt người mua bởi đây đã
         là đêm sát Tết rồi. Nếu không mua thì mai chỉ còn bông
         vụn thôi.   Đang cầm bình tưới
         sương cho mấy chậu cúc, Mai chợt nghe Quân la lên:   -         Thầy! Cô! Thầy cô đi
         mua bông hả?   Nhìn lên, một cặp
         tuổi trung niên đang đứng săm soi đám cúc vàng rực trong
         khi Quân chạy tới bên cạnh. Anh hàng hoa lộ vẻ mừng rỡ ra mặt,
         lăng xăng chỉ hết chậu bông này đến chậu bông khác.
         Cuối cùng ông thầy lựa được cặp cúc thật đều
         bông, dậu cao, thanh thoát. Quân ôm cặp cúc ra xe cho thầy rồi quay
         lại, cười tươi rói với Mai:   -        
         Thầy cũ hồi trung học của anh đó. Lâu quá mới gặp lại. 
          -         Vậy bán cho
         thầy cặp cúc bao nhiêu?   Anh chàng
         trợn mắt:   -  Bán chác gì!
         Tặng thầy còn không hết. Sợ thầy không chịu lấy, năn nỉ
         muốn chết đó. Vui quá trời!   Mai
         nhìn gương mặt rạng rỡ của anh bạn, lòng ngập tràn niềm
         vui. Hình như anh hàng hoa tíu ta tíu tít thường ngày đã
         trở về làm anh học trò nhỏ, tâm hồn trong trẻo hồn nhiên
         như thuở nào.    Đêm mùa xuân
         vẫn trôi...trôi về sáng. Mai trở về ghe giúp mẹ dọn đồ
         để quay về. Từ biệt Quân, từ biệt mấy ghe quen còn ở lại
         với lời hẹn mọi khi:   -        
         Ăn Tết vui vẻ! Năm sau gặp lại!   Ừ,
         năm hết Tết đến, như Quân, như chị Ba, thiếm Bảy, ông
         Tư mình nhất định trở lại nơi này. Bởi trên dòng sông
         xuân này, ở khu chợ quen thuộc này, không chỉ có những ghe
         thương hồ bán buôn mọi thứ ghé lai mỗi độ xuân về,
         không chỉ có những quán cà phê đông nghẹt dọc theo con
         đường, những chuyến đò ngang đưa người qua lại sáng
         sáng, chiều chiều và những con người bao năm trôi nổi với
         dòng sông, với bến sông xưa...Mà, đó còn là tình
         yêu thương gắn kết của những cảnh đời gian khó, là
         cảm xúc đôi lúc thăng hoa, đẹp đẽ tưới đẫm
         tâm hồn của những con người họp tan theo con nước lớn nước
         ròng.    Ghe rời bến, những chiếc
         ghe chở bông từ từ quay đầu, từ từ tỏa ra như những bông
         hoa bung cánh rực rỡ sắc màu, khu chợ trên bến sông mới đây
         ghe xuồng san sát, đông ken đã lùi dần, lùi dần. Trước
         mắt Mai, trong lấp lánh nắng xuân hình ảnh hai chậu cúc Quân
         ôm trong tay cho ông thầy cũ vẫn vàng rực, lung linh...   NGUYỄN NGỌC TUYẾT Cần Thơ    ĐOÀN
         XUÂN THU:   NHƯN
         MỠ ĐÒN BÁNH TÉT!        Ngày Tết, miền Bắc
         ăn bánh chưng với dưa hành (cũ hành ta). Chính vì vậy mới
         có câu đối là: ‘Thịt
         mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh
         chưng xanh'. Miền Trung ăn bánh
         tét với dưa món (đu đủ, củ kiệu, cũ hành tím, cà
         rốt, ớt hoặc trái su). Miền Nam, nhứt là miệt Lục tỉnh Nam Kỳ
         ăn bánh tét với dưa cãi hay cũ cãi giòn rụm ngâm nước
         mắm y.   Có người cho rằng bánh
         tét nguyên ủy là của người Chàm, nước Chiêm Thành
         (192-1832) phần đất nay thuộc về miền Trung Việt Nam. Rồi bực thức
         giả nầy cầm cọ lên vẽ vời, gắn râu, thêm ria là: "Mùa
         xuân năm Kỷ Dậu 1789, anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (người
         Tây Sơn, phía Tây Bình Định, miền Trung đất của nước
         Chiêm Thành ngày cũ) mang quân ra Bắc, đánh đuổi quân xâm
         lược Mãn Thanh do Vua Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà.
            Lúc bấy giờ quân lính được
         nghỉ ngơi, ăn Tết sớm, trước khi đánh vào thành Thăng
         Long. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà
         gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình
         dạng như bánh tét ngày nay.    Anh
         lính mang bánh mời vua Quang Trung. Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về
         loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà
         làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ
         vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng nhưng khi ăn bánh này
         thì lại không thấy đau nữa (?!) (Chắc anh lính nầy bị đau
         bao tử)   Cái huyền thoại nầy có
         nhiều chỗ khó tin, khó thuyết phục. Một là bánh nầy nguyên
         ủy của Chiêm Thành thì ắt người Chàm đã đặt
         tên. Thí dụ như ‘mắm bò hóc' của người Khmer thì
         mình cũng kêu là ‘mắm bò hóc' đấy thôi).   
         Hai là đi lính, vợ ở nhà làm
         bánh tét gởi cho. (?!) Đâu có KBC (khu bưu chính) như sau nầy,
         biết anh yêu ở đâu mà gởi chớ?    Ba là làm lính trơn dễ gì gặp mặt, kề cận được
         long nhan để ‘long nhong' mời Hoàng thượng ăn bánh? Rồi Vua mới
         đặt tên là bánh Tết?     Tui
         cho rằng tét bánh ra từng khoanh bằng dây lạt, tước từ thân
         cây chuối lúc đó hay bằng cọng chỉ cắn vào răng như
         sau nầy nên nó tên là bánh tét.   Cái tên bánh là do quý phụ nữ quê mình đặt
         đấy. Bột gạo tráng trên lò cách thủy thì gọi là
         bánh tráng. Nướng nó cong vồng lên thì gọi bánh phồng.
         Giống cái lỗ tai heo thì gọi là bánh tai heo. Giống miếng thịt
         ba rọi thì gọi là bánh da lợn...   (Nhân đây mình cũng bàn vô tán ra về mấy cái
         địa danh của vùng lục tỉnh quê mình luôn. Ngoài cái tên
         của vua chúa ban cho, chỉ xài tên giấy tờ, còn người dân
         mình lần đầu tiên đặt chưn tới thấy sao kêu vậy hè.
         Như Mỹ Tho, tiếng Khmer có nghĩa là con gái đẹp. Có cây
         cầu băng qua sông, quẹo đeo giống cái cổ cò thì gọi là
         cầu Cổ Cò.   Ngay cả cái đất
         Cần Thơ, nơi sông nước có nhiều cá sặc rằn, nên người
         Khmer đặt tên là ‘Kìn Tho'; người Việt mình gọi trại
         thành Cần Thơ.   Nhưng cũng có
         ông anh mình, đầu óc cực kỳ địa phương, bác bỏ
         cách giải nghĩa từ nguyên về địa danh Cần Thơ của Nam bộ
         học Sơn Nam, cứ khăng khăng cho rằng: Chúa Nguyễn Ánh đêm
         trăng nghe tiếng đàn, tiếng thơ véo von trên sông Hậu nên
         đặt tên là Cầm Thi đọc riết thành Cần Thơ (?) 
          Lịch sử cho thấy rằng Nguyễn Huệ nhứt
         định truy nã ráo riết nhằm giết cho được Nguyễn Ánh
         để  trừ hậu hoạn, nên trên đường bôn tẩu xang bang
         xấc bất thì có thời giờ đâu mà cầm với thi chớ? 
          Phần Cần Thơ, tên loài cá sặc
         rằn, hay hết biết rồi thì cần chi phải là Cầm Thi mới hay ?
         Sài Gòn là một rừng gòn hay quá thể; sau nầy VC cố gắng
         xóa tên mà đâu có được nè. Nhưng có cái nầy
         là tui tin nè. Bánh tét là do mấy bà vợ làm, còn mấy
         chồng chỉ có biết ăn.    Cái
         tui tin nhứt bánh tét, để lâu không bị thiu, là một loại
         quân lương của đồng bào mình nấu sẵn, khi quân ta trẩy
         qua, bà con hậu phương ủng hộ tiền tuyến, cho mỗi chú lính
         vài đòn, vắt tòn ten trên đòn gánh. Nhanh và gọn khỏi
         dừng quân nấu cơm lâu lắc, hầu thần tốc hành quân ra Bắc
         để rượt Tôn Sĩ Nghị chạy có cờ về bên kia Lưỡng
         Quảng.   Tui ngờ rằng quân Tàu ăn
         bánh bao không no lâu bằng quân ta ăn bánh tét. Đói bụng
         cứ ăn bánh bao hoài hè, cứ lo hẩu xực bánh bao nên quân
         ta mới thừa cơ xuất kỳ bất ý, tốc chiến tốc thắng rượt
         quân nó hoảng loạn, chạy sập cả cầu phao bắt qua sông Hồng
         thuở ấy.       Rồi ông bà mình từ miền Trung vào miền Tây
         khai khẩn, trên con đường lưu lạc, vác gạo theo để nấu
         cơm thì nhiêu khê, nặng nề quá! Chi bằng trước khi bỏ xứ
         lên đường lưu lạc, chơi một nồi bánh tét ế kinh, quảy
         theo ăn suốt cuộc hành trình khai khẩn đất phương Nam. 
          ***   Dân
         làm ruộng quê mình chuyên trồng lúa nước nên có gạo,
         có nếp là chuyện đương nhiên. Gạo để nấu cơm ăn
         mỗi ngày; còn nếp để thổi xôi và làm bánh tét.
         Cũng như Tây trồng lúa mì nên nó ăn bánh mì chớ
         không ăn cơm như chúng ta.   Tui cũng
         ngờ rằng bánh tét cũng nếp, cũng nhưn thịt mỡ y chang như
         cái bánh chưng của đồng bào miền Bắc. Hai loại bánh nầy
         là anh em ruột thịt với nhau. Bánh chưng có trước làm anh, bánh
         tét có sau làm em.    Bánh chưng
         hình vuông vì gói bằng lá dong, to bảng, khó xé, miền Bắc
         có rất nhiều. Vào tới miền Trung lá dong ít, lá chuối nhiều,
         dễ xé, thì thay vì hình vuông bánh chưng dài ra thành đòn
         bánh tét.   Miền Trung, miền Nam nước
         Việt mình chuối nhiều cơ man nào mà nói, lá chuối dùng
         để gói, dây chuối dùng để buộc, trái chuối dùng
         để làm nhưn.    Bà con mình
         khoái ăn thịt heo nên không có gì ngạc nhiên khi bánh tét
         có nhưn mỡ.   Miền Tây mình
         bánh tét bán lai rai năm mười hai tháng. Thèm cứ ra chợ mua
         ăn   với dưa kiệu, dưa cãi, dưa
         đu đủ xanh, dưa hành, dưa bông điên điển, dưa cà
         pháo chua chua ăn cho đỡ ngán. Còn muốn mằn mặn thì ăn
         với cũ cải trắng ngâm nước mắm.   Cái sâu sắc của truyền thống tối giao thừa nhà nào
         cũng có một nồi bánh tét ế kinh để ăn trong ba bữa Tết
         là vầy: Anh mình yêu và xót em suốt cả năm quần quật
         hoài trong bếp, giờ tết chỉ có ba hôm, phải cho em khỏi nấu
         cơm, để mấy em hưởn, rảnh rang, ngày xòe tướng xanh tướng
         đỏ, đánh bài tứ sắc; còn đêm về rũ chàng, đôi
         ta sẽ lắc bầu cua.   Thương vợ
         nhưng không nói ra vì sợ nó nhỏng nhẻo, nó lừng, nên
         bày đặt chuyện ba ngày Tết cấm lửa. Làm gì có chuyện
         đó. Ông Táo chầu trời bữa 23 al rồi, đêm giao thừa là
         ổng đã lù lù trở lại sau một tuần ‘vacation' quá đã
         với tiên nữ trên thiên đình rồi giờ về  thì phải
         về nổi lửa lên chớ!   Vậy mà
         có em cạn suy, kém nghĩ, không hiểu tình anh yêu em bao la như núi
         Thái Sơn cứ càm ràm chồng chúa vợ tôi miết hè.  
          Suốt cả năm, viết bài khều nhẹ,
         chọc quê em yêu, giờ tới Tết tui cũng phải tự mình ăn năn,
         hối lỗi bằng cách nịnh xạo để em vui. Vì chữ có câu
         rằng lời nói không mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa
         lòng em. Vừa lòng em mà không tốn tiền quà cáp, quần áo,
         nước hoa gì ráo trọi thì ngu sao mà mình hổng làm? 
          Nịnh rằng: Em yêu không những là một
         người làm bánh tét tài hoa mà còn là một nhà họa
         sĩ. Đòn bánh tét với em là một tác phẩm hội họa
         xuất sắc như tranh của Picasso.    Nếp
         trắng em nhuộm màu xanh, hy vọng tình ta không có xót xa bằng màu
         xanh vắt từ lá dứa hay rau bò ngót. Em là dân Cần Thơ, muốn
         độc quyền cầm, bánh tét hổng giống ai, chơi luôn màu tím
         hoa sim, bằng lá cẩm.    Em còn dùng
         nếp màu trắng, màu xanh, màu tím để chơi vào ruột một
         đòn bánh chữ "ANH", đòn còn lại chữ "YÊU".
         Em dùng cọng chỉ tét ra hai khoanh đặt lên trên dĩa trẹt, hiện
         ra hai chữ "ANH YÊU'! Còn cục mỡ làm nhưn, ẩn dụ là em.
         Ai bảo bánh tét không mang tình thơ mộng gì ráo đâu nè? 
              *** 
          Ôi nhớ xưa hồi mới cưới vợ,
         em yêu và tui mướn cái nhà trong hẻm 5 đường Lý Thái
         Tổ Cần Thơ, gần bên hẻm Tài Xỉu và nhà vẽ Bút Ngân. 
          Cách nhà một căn là một lò bánh
         Tét. Cả ngày những nồi nấu bánh Tét to đùng nghi ngút
         khói và hơi nước. Những đòn bánh tét nấu vừa xong,
         lấy ra khỏi nồi, nhúng vào nước lạnh, treo lủng lẳng trên
         những cây sào vắt ngang bờ tường, chờ xe ba bánh đến chở
         ra chợ bán.    Nhà ấy có một
         em, da mặt trắng như bông bưởi, (chắc có lẽ nhờ xông hơi
         nước thoát ra từ nồi nấu bánh tét của má em), làm sở
         Mỹ, ăn diện rất văn minh, son môi còn thắm Sylvie Vartan.    Sau tháng Giêng năm 73, Mỹ theo kế láu cá
         của Henry Kissinger bắt tay với Tàu cộng bỏ rơi bạn đồng minh,
         rút chạy về nước hết ráo. Mười giờ ông Chánh về
         tây, cô ba ở lại lấy thầy thông ngôn. Nhưng em không lấy
         thầy thông ngôn mà cứ ở vậy, cà nhỏng chống xâm lăng,
         để mấy thằng háo sắc như tui thèm nhễu nước miếng chơi.
         Tui ‘địa' em hoài, nước chảy đá cũng mòn, có lần
         em cho tui một đòn bánh tét nhưn mỡ. Chu choa ngon thấu trời!  
          Thiên hạ thường nói: Đường
         đến tim phải qua cái bao tử của anh. Con gái nó khoái mình
         là nó cho mình ăn cục mỡ nhưn đòn bánh tét trước;
         còn cục mỡ của em thì em cứ nhứ nhứ trước miệng mèo.
            Bà chằn lửa của tui đánh
         hơi được cái thói mèo mả gà đồng, mắt em trợn
         dọc trắng dã làm tui xanh mặt. Qua nhà em bánh tét, tui hổng dám
         nhìn quanh nhìn quất chỉ gầm mặt bước đi luôn. Thiệt là
         nhục mà!   Đá mòn sông cạn,
         sau cuộc biển dâu, tui vọt luôn qua Úc. Có lần thằng bạn còn
         kẹt trong nước, qua facebook, hỏi tui còn nhớ em ba lò bánh tét năm
         xưa ngày cũ hay  không?    Bây
         giờ em đã là bà ba Giám đốc công ty bánh tét lá
         cẩm nổi tiếng nhứt Cần Thơ, bánh tét xuất cảng qua tới
         tận Singapore cho con cháu của Lý Quang Diệu tét... nên giàu thôi
         hết biết.    Việt kiều Úc, bèo
         cỡ chú mầy, chưa chắc rớ được tới cục nhưn mỡ trong
         đòn bánh tét của em đâu.   Thôi
         tình ta đã dỡ dang. Xin hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau, để
         anh ‘quằm' cái nhưn mỡ, nằm cốt lõi, ngay chính giữa đòn
         bánh tét của em, anh ăn được có một lần, nên vẫn còn
         thèm lắm đó.       đoàn xuân thu.   Melbourne   ĐAN
         QUẾ PHONG  MÀU TÍM HOA MUA      TỬ Y LAN        Mùng
         hai Tết, tôi muốn ra ngoài. Lúc mọi người vẫn còn say ngủ
         vì thức trể đón giao thừa Thạch thả bộ ra bến Ninh Kiều
         tìm một quán café hy vọng có một số tiệm đã khai trương. 
          Sau khi tìm được một quán nhỏ bên
         cạnh hàng phượng vĩ nổi bật lá xanh như tán dù, thân
         được sơn trắng trồng dọc theo lối đi dọc bờ sông. 
                                            
                                            
                     Rũ mình yểu
         điệu từ ngàn xưa vẫn là những cây liễu liêu trai lã
         ngọn xuống bờ nước. Xen kẻ đầy sáng tạo, thật dễ thương,
         thật tiện nghi cho các cặp tình nhân khi người ta xen vào một
         cái băng đá ẩn đâu đó trong bóng một giàn hoa giấy,
         dưới tàng của khóm dừa, hay cạnh một bức tượng. Những
         chiếc du thuyền nho nhỏ buông chèo đậu dọc theo cái cầu tàu
         xa lạ, có lẻ mới xây, bắt gie ra bến sông. Cái quán nhỏ
         bé được căng bằng vải tăng màu ngà ngà xọc xanh dương
         cũ kỷ đang phần phật tung gió sớm rải rác độ mươi
         chiếc bàn con. Chàng chọn cái chỗ ngồi có thể nhìn ra
         bờ con sông quen thuộc nơi mà Thạch đã hối hả rời bỏ
         trong một ngày hoảng loạn, hoàng hôn nức nở, chia ly xé lòng
         cách đây 40 năm. Duyên số. - Thạch lẩm bẩm    - Cái chậu hoa tím của chị??     - Ông muốn nói chậu hoa Mua? Bà chủ nói
          đặt nó trong tiệm sẽ mua may bán đắc. Những tiệm "Mua,
         Café " đều có một chậu hoa nầy làm biểu tượng. 
           Thạch chợt quay lại vì nghe tiếng phía
         sau lưng mình.    - Hôm nay trời không
         có nắng, khí hậu lạ lùng, mưa rào ngày hôm qua, ra ngoài
         không tốt cho sức khỏe của ba đâu!    - Ba cần chút không khí tươi mát, nằm hoài đối
         diện bốn bức tường buồn chán lắm con không hiểu đâu. 
           - Anh Giang đi chơi mệt ngủ trễ vì
         chưa quen lắm với múi giờ ở đây, con sẽ về chở anh ấy
         tới rồi mình tìm chỗ ăn sáng. Ba thấy trong người thế
         nào?    - Từ khi ngưng tiêm hóa
         trị ba thấy khá hơn chút con ạ. Hơn 60 tuổi thì sống là
         phần thưởng, mà phần thưởng thì không thể  đòi
         hỏi, ba rất sẵn sàng. Được trở lại Viêt Nam thăm mồ
         mả cha mẹ thì chuyến đi có thể là lần cuối nầy còn
         đòi hỏi gì hơn.    - Con không
         muốn nghe tư tưởng bi quan nầy của ba nữa đâu. Đây cũng
         là ý kiến của anh Giang để cả nhà chúng ta tổ chức gặp
         nhau và ăn Tết ở đây, bây giờ ba muốn đi đâu thì
         con chở ba đi? Con mượn xe của cậu Tuấn, con chạy vững lắm ba đừng
         lo.    - Ba biết, nhưng hiện tại ba
         chỉ thích ngồi đây một lát rồi cuốc bộ vòng vòng
         thôi. Cần Thơ nhỏ lắm.    - "Mua,
         Café " cái tên quán nầy lạ quá phải không ba? . 
           - Con có thấy chậu hoa tím nhỏ khiêm
         tốn núp sau hòn non bộ kia không?  Hoa Mua đó, họ chọn làm
         tên cho cửa tiệm. Con nhìn xem cây cỏ vùng nhiệt đới thật
         sung sướng vì ấm quanh năm có những loại hoa vô danh nhưng đẹp
         dịu dàng. Thỉnh thoảng người ta lại khám phá ra một loại
         hoa rừng, một loại Lan lạ như tiên nữ trong rừng sâu trong chuyện
         liêu trai. Hãy nhìn những cây Liễu yểu điệu làm dáng nghiêng
         bóng bên dòng con sông Hậu lúc triều lên ba thấy nó đẹp
         đến não lòng, và vị trí cái quán café nầy thật
         là tuyệt vời phải không con?    -
         Ba là hòn đá lớn chẻ dòng chảy làm đôi cho ra Thanh Giang
         và Thanh Thủy trong veo mỹ miều, theo con là tuyệt vời nhất cho nên
         không còn chỗ cho đóa hoa Sim tím đó đâu ba. 
           - Sao lại ganh tị với hoa! "Hoa Sim", nó
         là "hoa Mua" Hoa Sim rất nổi tiếng, tên của thơ Hữu Loan, nhạc
         Phạm Duy, đầu tiên là Dzũng Chinh và sau đó các ca sĩ khác
         thi nhau đưa cao giọng hát, còn đóa hoa nầy quê mùa như
         tên gọi, nép mình sợ gió lay, từng cánh từng cánh âm
         thầm không tranh sắc khoe hương nhưng... Ai đem hoa ra phố thị cho hoa sợ
         hãi, khép nép ngỡ ngàng.        Thạch bổng ngưng lại, tự nhiên sao lại nói nhiều thế. 
           - Thầy uống café nóng hay lạnh đây? 
           -Cô cho café đen không đường
         pha kiểu espresso làm ơn.         
         Thạch già đi từ một năm nay, xanh xao, bàn tay gầy nổi những đường
         gân, vẫn thích nhấm nháp ly café tí tẹo đặc quánh pha
         nước nhứt. Thủy biết ý ba mình từ bao nhiêu năm. Không cần
         nhiều chỉ cần thơm ngon.    - Cho cho
         tôi café đen lạnh và thêm một ly sữa tươi nóng cho ba tôi.
             Quay sang Thạch, Thanh Thủy nói: 
           - Có sữa tốt hơn ba à. Con có
         được chiếc xe làm chân, sẽ khám phá quanh thành phố. Ở
         đây cũng đẹp nhưng ngồi một nơi lâu đôi chân cứ
         ngọ nguậy khó chịu!    - Ba hiểu
         mà, ba có thể tự lo được con gái ạ   Thanh Thủy uống nhanh ly của mình, quay sang hôn lên má
         Thạch một cái rồi quay xe chạy trở lên hướng đường Huê
         Viên cũ.          Mình
         thật yêu đóa hoa Mua cô lẻ nhỏ nhắn đó mà đến
         ngôi quán bé nhỏ nầy một tuần nay sao? Có hương sáng tinh
         mơ của sương mai pha cùng cây cỏ, có tia nắng sớm xa xa của
         bình minh gợi nhớ một ngày của 50 năm xưa.    Vợ chàng muốn con mình là dòng chảy của mình
         nên chọn tên con gái Thanh Thủy- cho tới hiện tại, giống vợ chàng,
         rất dịu dàng xen vào đời sống của chàng từ khi mẹ nó
         mất -con trai Thanh Giang rất dễ thương nhưng hơi cứng cổ, luôn chống
         đối chuyện lập gia đình dù đã hơn 30, may thay Tết nầy
         nó hứa giới thiệu chàng cô bạn gái nửa Úc nửa Việt
         mà nó đã bị tiếng sét. Chàng thấy mệt, bao giờ thì
         hết trách nhiệm đây?  Chàng sợ nước, nước dễ sợ
         như thế nào Thạch đã biết nhưng sao số kiếp Thạch cứ
         vướng víu vào nước không ngừng nghỉ. Hồi xưa cha Thạch
         hay giãng cho chàng nghe về vũ trụ, hay về thiên nhiên "sức mạnh
         của nước" mà cái ấn tượng đập vô đầu chàng
         nhiều nhất là câu "nước chảy đá mòn" Chàng là
         đá mà vậy đối thủ đầu tiên của chàng không ai
         xa lạ là nước, thứ mà không nắm bắt được: Tùy
         lúc mà mềm mại uyển chuyển theo dòng suối mơ, hay gặp thời
         cơ bay lượn nhởn nhơ khoe sắc mây hồng. Rơi xuống trần nước
         cũng lấp lánh nhỏ xinh làm giọt sương trong. Góp nhặt được
         sức mạnh thác nước ầm ầm là nguồn của bao con sông lớn.
         Nước là cứu tinh của nhân loại và cũng là Đại Hồng
         Thủy tận diệt mọi người. Người con gái mang tên Thủy vợ
         chàng có đầy đủ hết mọi đức tính đó!! 
         "sơn cùng thủy tận", Như Thủy đã về với biển cả
         sau khi bào nhẵn ngọn đồi trọc và lưu lại đây trách
         nhiệm cho chàng với Thanh Giang và Thanh Thủy.          Thanh Thủy đang đi dạy toán ở Trung học,
         đã lập gia đình với người bản xứ chưa có cháu
         nào. Thanh Giang cũng vừa hoàn tất cao học ở Boston College, sau một
         năm trao đổi học sinh ở Đại học Úc Đại Lợi trở
         về tự nhiên đòi món quà là cùng gia đình đi chơi
         ở Việt Nam. Tháng trước, vừa vặn bệnh Ung thư của chàng
         đã phát táng qua lá phổi thứ nhì và bác sĩ cho biết
         chỉ còn độ 6 tháng chàng vẫn chưa cho con trai biết. Trách nhiệm
         của người làm cha xong thì đổ gục. Trách nhiệm làm con
         chàng đã theo lệnh cha cưới Như Thủy cô láng giềng hiền
         thục đền cái ơn Như Thủy đùm bọc gia đình cha mẹ
         chàng lúc chàng đi học tập. Sao đời tôi có quá nhiều
         trách nhiệm! Tôi chỉ muốn một chút thả lỏng.    Cho tầm mắt lãng đãng nhìn về phía
         chậu hoa Mua bị khuất sau chậu Hạnh và Mai. Con bé bưng café ra nói-
         Tết mà bà chủ đã mua thêm mấy chậu hoa hôm chiều 30-,
         làm cái hủ sành cao màu da bò trồng Mua bị dời sát bờ
         kè. Hôm nay Mua chỉ nỡ có một đóa nhưng 6 cánh màu tím
         thẩm, nhụy cong rúng rẩy chừng như đã quen với nắng gió
         bụi trần.   Thạch định bước
         lại vuốt nhẹ cánh hoa tiên thì có một chiếc Honda dừng bên
         đường, hai thiếu phụ vào quán, chọn ngay chiếc bàn cạnh
         cội dừa kiểng. Vì đúng vào hướng nhìn của chàng
         nên chàng chú ý: Một bà mặc áo khoát xám ngắn đeo
         khẩu trang, người thứ hai mặc áo tím nhạt cổ bâu thấp,
         không mang áo ngoài, dù chưa tới 8 giờ, tiết xuân lành lạnh.
         Họ gở nón đội đầu đặt lên bàn, ngồi xuống và
         quay lưng về phía tôi góc 45 độ. Chị chủ bước tới chào
         hai người. Họ chừng như thân quen gọi:   "Một ly café sữa nóng đi cô Oanh và ...hình như
         một cafe đen không đường? Giọng bà kia nhỏ và nhẹ, chỉ
         nghe tiếng: "cám ơn em " khi chị chủ quay lưng đi.       
                                            
                                            
                     Thạch chú
         ý người mặc áo tím như có một hấp lực. Dáng bà
         ta không thể nói là ốm nhưng thon gọn bước đi tự tin cho
         cái tuổi ít lắm cũng ngủ tuần nầy. Chiếc áo vải ren màu
         hoa cà cắt khéo, kết dài trước ngực hàng nút hạt trai
         trắng đơm dầy, điểm thêm chiếc nơ cuộc hờ ngang vòng
         eo sau lưng. Tay áo lửng, muselin mềm cùng màu trang nhã hơi loe ra từ
         chỏ tay cũng kết nơ mỗi bên làm duyên một cách kín đáo.
         Mái tóc nâu đen, cắt lô lô làm gương mặt phúc hậu,
         trẻ hơn tuổi đời vì chỉ trang điểm nhẹ, nước da trắng
         thiếu nắng không mang khẩu trang như đa số quý bà quý cô
         địa phương, Thạch quyết đoán là Việt Kiều, nhưng bà
         không mặc đầm, chỉ chiếc quần lụa đen, mềm, giày cũng
         nâu đen như màu cái bóp da nhỏ quàng qua vai. Bà bước
         vòng qua khỏi mấy khóm cây đến đứng tựa vào bờ kè,
         nhìn ra bến sông trầm tư. Xa xa những chiếc ghe chờ khách đến
         thuê chèo đi dạo qua bờ xóm chài hay cồn Ấu, bà vơ một
         cành Liễu đang lã lơi theo gió lướt thướt ngậm vào
         miệng. Lá Phượng xanh mướt, không đúng mùa trổ hoa cũng
         xung xăng như rì rào, thân thiết tỉ tê, như cần vuốt ve.
          Bà ngồi xuống băng đá thở nhẹ như luyến tiếc, như
         bâng khuâng. Lúc sau bà quay vào:    -
         Ô, ô!    Tự nhiên bà đứng
         lên tiến gần chậu hoa Mua, đóa hoa tím thẩm nổi bật giữa
         màu lá xanh đã làm bà chú ý. Như không tin, bà gở
         đôi kiếng cận để nhìn cho kỷ, mắt bà sáng long lanh một
         cách thích thú rồi há hốc mồm ngạc nhiên, hai tay nắm chặt
         tì lên ngực như dằn cơn xúc động, lẩm bẩm "TỬ
         Y LAN" đoạn quay lại hỏi bà kia.    -
         Có thật là Tử Y Lan tươi mát, giữa Mai vàng Cúc tím
         Thược dược, Mẫu đơn?      -
         Chị không nhận ra chậu hoa Mua chị từng tưng tiu trước khi rời Việt
         Nam sao?    - Em vẫn giữ cho nó sống
         tới hôm nay?! Hồi đó có nhiều hoa hơn.              Thạch thấy ngờ
         ngợ với chiếc mũi dọc dừa thật cao, chiếc miệng nhỏ và đôi
         mắt sâu. Ai mà biết tên nàng tiên hoa của chàng. Chỉ có
         một người con gái độc nhất cùng chàng khám phá ra loại
         hoa bị bỏ quên nầy bên bờ lạch nước trong chảy róc rách
         một ngày xưa thật là xưa,Tuyền!            
                                            
                             Đôi mắt vô hồn từ
         ngày chàng bị bệnh như sáng lên chớp thật nhanh rồi nhắm
         lại một giây, môi mấp máy muốn nói gì nhưng khép lại,
         xoay mặt qua hướng khác cho nàng không nhìn thấy, bần thần nhìn
         những tảng Lục Bình theo con nước rong đầu tháng dâng cao dập
         dềnh bên mạng những chiếc thuyền neo xa xa như điểm xuyết cho mặt
         sông màu khói.      Hồi ức
         một lần nữa lại trở về     Trong
         khi cả đoàn cấm trại trong ngày lễ Phật đãn trên chùa
         Kiến Quốc, cùng chia nhau chơi trò chơi tìm báu vật, tôi và
         Tuyền ngẩn ngơ nhìn những đóa hoa tím thẩm ngậm sương
         long lanh e lệ điểm dáng giữa rừng lá xanh. Nhìn đôi mắt
         long lanh say đắm của Tuyền quỳ xuống ve vuốt từng cánh rồi hôn
         lên hoa áp vào má và kể cho tôi nghe đây là một khám
         phá thú vị riêng của nàng khi còn ở nhà quê Tuyền dẫn
         con bò "bê bê "đi ăn cỏ, và nàng cũng không biết
         hoa tên gì!? Sau một lúc hai chúng tôi bèn đồng ý gọi
         là loài hoa hoang dã lẻ loi đó là "Tử Y Lan" cái tên
         nghe cải lương làm sao nhưng ngại gì chỉ có tôi và Tuyền
         gọi như thế.     Sao lại là Tuyền?
         Hơn bốn mươi năm như cái chớp mắt. Mình đã già
         sao lòng vẫn nhớ! Cô bé nữ sinh trường Đoàn dáng mành
         như liễu có mái tóc dài. Những ngày chạy xe đạp theo
         sau dõi bước chân em đi nhẹ nhàng như trôi chầm chậm trên
         đường Ngô Quyền quanh qua Hòa Bình lung lay bóng phượng, con đường
         học trò và tôi về nhà nắn nót, trau chuốt chọn lời,
         viết lên một bài thơ mà không dám gởi cho ai kia.   Đại lộ Ngô Quyền in gót em.   Cơn gió chiều hôn tóc em mềm   Nghe thương sao dáng em hờn mát,   Anh bước quay về thức trắng đêm. -HLT-  
          Nhà nghèo chiến tranh lan tràn mình tản
         cư ra thành phố bỏ hết ruộng đất trong Kinh Cùng. Ba tôi tập
         tểnh tìm một việc xắp xếp sách vở ở thư viện Đại
         Học Cần Thơ lương ba cọc ba đồng, mẹ buôn quần áo cũ
         dưới chợ, mình dùng khai sanh của thằng em cho tuổi nhỏ xuống
         và đậu được vào trường Phan  một năm với Tuyền.
         Mình gặp Tuyền từ năm đệ ngủ, Tuyền 15 mà mình đã
         18 tuổi trong lớp Judo Thanh Long của thầy Ung Phụng Võ cũng là đàn
         anh ở trung học tỉnh nhà. Mình đọc ở đâu đó cái
         định nghĩa tình yêu là "tiếng sét", là cái rung động
         của con tim ngay lần gặp gở ban đầu. Hôm đó cũng như thường
         lệ sau khi cơm nước xong mình cuộn bộ đồ võ quảy lên
         vai tàng tàng lội bộ xuống trường võ ở đường Ông
         Hành, nó nhìn ra mặt sông, sau Sân Banh, trước khi tới cầu Tham
         Tướng. Như thường lệ cũng có rất đông khán giả
         đa số là nhóm trẻ, đứng nhìn từ hai góc của cái
         "Tapis" . Mắt mình chợt dừng lại trước một nữ võ sinh
         mới, tóc rẽ đôi cuộc hai lọn gọn gàng với hai sợi nơ
         vải tím. Gương mặt cô bé bầu bỉnh da ngâm, miệng nhỏ,
         mũi thật cao như được thẩm mỹ và đôi mắt tròn.
         Đôi mắt! đôi mắt nai ngơ ngác nhìn chăm chú anh Ung Phụng
         Võ đang giảng về cách đánh của môt đòn vai, cách
         xoay người như thế nào để bứng đối phương lên mà
         ném. Tiếng "Ki ai" hét lên của anh trước khi vụt Lương
         vinh Kiều (con thầy Lương Vinh Sanh) làm cô bé giật mình đặt
         tay lên ngực. Chắc thấy mình "chết nhát" nên xấu hỗ
         nhìn chung quanh, không thấy ai chú ý cô cúi mặt mĩm cười,
         ôi nụ cười làm tôi đau và say đến trọn kiếp người. 
          Tôi không giỏi võ, vì trong lớp tôi
         còn hai anh cao đai hơn. Học vấn thì chỉ bằng lớp với nàng,
         thì làm sao lọt vào mắt xanh của em. Chúng tôi có làm Bích
         Báo ở võ đường và khám phá ra rằng Tuyền viết cũng
         khá thế là L.V. Kiều khuyên tôi mở hội thơ -vì biết tâm
         sự của tôi- để mời Tuyền vào.   Sau hai năm ở võ đường Thanh Long,Tuyền bị ba mình bắt
         bỏ Judo (ông không thích sự đụng chạm nam và nữ khi luyện
         võ mà Tuyền giờ đã lớn), em chỉ mới lên đai xanh dương.
         Chiếc cầu nối của chúng tôi trong thơ văn, học tập và đoàn
         đội. Chẳng ai nói gì với ai nhưng giữa chúng tôi "Tình
         trong như đã". Rồi tôi rủ áo thư sinh sau năm tú tài
         1. Tôi thành sĩ quan Pháo binh sau khóa Thủ Đức và Tuyền tiếp
         tục Sư Phạm đại học. Thời gian nầy những cánh thư chiến
         trường xa, những cánh hoa Mua tím buồn ép vào trang thư trên
         đường hành quân mỗi khi có dịp, tôi không dám đi xa
         hơn vì biết thân "Chiến trường da ngựa" còn em thì
         im lặng đợi chờ ngày tôi chiến thắng trở về. Nhưng tôi
         không chiến thắng. Làm sao tôi quên được cái lần về
         phép năm 1974 đúng ra là dự lễ tốt nghiệp Cử Nhân của
         nàng như thư nàng mời, tôi chỉ nép mình trong một góc
         quán café vệ đường ngang Đại học len lén nhìn từ
         xa. Tôi đang gặp khó khăn khi chống lại quyết định của Ba
         Mẹ tôi, muốn chọn lựa Như Thủy về làm dâu. Cô láng
         giềng tôi xem như em gái, là cánh tay mặt của mẹ tôi, là
         ân nhân của gia đình tôi sau cơn bạo bệnh của ba tôi, từ
         ngày  tin em tôi đền nợ nước.   Đá vẫn lì lộm dù hết còn góc cạnh, nhưng có
         lẻ đến biến cố 1975, Thạch tôi không còn là viên đá
         lớn bên dòng suối mà đã biến thành sỏi và tan tác
         vì tiếng gầm thét của tai nhà, vận nước và từ bao giờ
         tôi đã bị cuốn ra khơi, bị đẩy chới với theo ngọn triều
         lên, dìm miên mang sâu thẳm dưới vực biển, hoãng loạn đánh
         mất cành Mua của một trời hoa bướm.    Như Thủy đã cuốn tôi đi theo gia đình nàng vượt
         biên và tôi định cư Mỹ!     
           - Má, dì út.  anh Giang, chúng con
         gặp nhau ở trường, đã từng nói qua với má. Chào má
         và dì đi anh.     - Thưa hai cô,
         con là Thanh Giang bạn của Cẩm Thạch, hôm nay hân hạnh diện kiến
         cô và dì Út.    - Chào cậu,
         nói tiếng Việt cũng khá ha. Tốt lắm. Ngồi xuống, muốn uống
         gì gọi cho cháu nó mang ra, quán nầy của em gái cô, cháu
         Giang khỏi phải trả tiền.   Thạch
         chết điếng, Cẩm Thạch, Cẩm Thạch đứa con gái Thanh Giang muốn
         giới thiệu chàng là con của Tuyền. Chàng lặng lẻ đứng
         lên nhẹ nhàng rút lui về phía bên kia của hàng hoa giấy sau
         khi dằn tiền café trên bàn.    -
         Ô ba, con nè, chờ con chút, con muốn giới thiệu ba...   Làm sao đây? Sao chàng chẳng chết sớm hơn 6 tháng!
         Sao chàng về Việt Nam làm gì. Đáng lẻ chàng chuồn đi
         nãy giờ thì đâu gặp cảnh nầy.!!...       ĐAN QUẾ
         PHONG   TRÚC TY:        GIỌT
         XUÂN TRÊN ÁO              
                    Những chùm hoa nguyệt quế vừa nở đêm qua           Thoảng hương nồng ngoài khung cửa           Ngắt vài cánh hoa thả vào ly nước           Như giữ chút hương thầm ngày
         cũ           Nụ hôn đầu bên thềm
         xưa           Xanh thẳm trời cao ngút mắt           Say đắm xuân thì một thuở nào
         xa!             Có giữ được
         không, được không?           Đêm
         về mộng mị           Sóng sánh mắt
         nhìn, rượu ngọt chảy trên môi        
           Một mảnh trăng nghiêng chao vào giấc ngủ  
                 Ươm nụ cười- hạnh phúc ngu ngơ!           Có giữ được không, được không?           Trên bàn tay bé nhỏ           Hơi thở nồng nàn đọng lại đêm
         qua           Giọt nước mắt tiễn người
         đi xa mãi           Đón mùa xuân
         bằng nụ cười buồn!      
               Những chùm hoa nguyệt quế rưng rưng  
                 Cứ nở thêm, nở thêm ngào ngạt  
                 Nỗi cô đơn cũng ngào ngạt như đêm           Thương một giọt xuân vừa rơi trên
         áo           Ta cuộn mình vào ôm trọn
         giấc cô miên!                                                                                
                             TRÚC TY  MAI DUY KHÔI:     Ngày Tết   nói chuyện Mai  Tặng
         hiền nội Thanh Mai MAI DUY KHÔI 
 
 
 
 
     1. Một chút cội nguồn...
  Miền Nam nước ta nằm trong vùng khí hậu
         nhiệt đới là môi trường thích hợp cho hoa mai đơm bông
         nẩy lộc mỗi độ xuân về - khác với miền Bắc, khí hậu
         có phần lạnh lẽo hơn, nên thuận lợi cho hoa đào khoe sắc.   Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ tươi thắm như một biểu
         tượng của vận may, hạnh phúc. Màu vàng dịu ngọt như hàm
         chứa sự vinh hiển, thanh cao. Đào - Mai từ rất lâu đã trở
         thành người bạn đồng hành thân thiết của ngày Tết
         cổ truyền Việt Nam.  Cây mai vàng - loài cây nhiệt đới -
         đã mọc từ lâu ở miền Nam, được xem như một loại
         cây rừng, ít ai để ý tới. Đến năm 1698, Chưởng cơ
         Nguyễn Hữu Cảnh đưa ông cha ta vào Nam lập nghiệp. Theo phong tục
         cổ truyền, Tết đến là phải có cành đào, nhưng ở
         miền Nam, làm sao tìm được loại cây quý hiếm này. Thấy
         cây mai vàng cũng ra hoa đúng tết, ông cha ta mới có sáng kiến,
         chặt cành mai chưng thế cho cành đào. Kể từ đó mới
         bắt đầu có phong tục chưng mai trong ba ngày Tết ở miền Nam.  Mai vàng miền Nam còn gọi là Huỳnh Mai thuộc họ Ochnaceae, có
         tên khoa học Ochna integerrima, là cây đa niên, có thể sống trên
         100 năm, gốc to, rễ lồi lõm, thân xù xì, cành nhánh nhiều,
         lá mọc xen. Ngoài thiên nhiên, cây mai tự rụng lá vào mùa
         đông và ra hoa vào mùa xuân. Do đó, ông cha ta đã lảy
         hết lá mai vào tháng chạp âm lịch, để kích thích cho
         cây mai ra hoa rộ vào dịp Tết Nguyên đán.  Trong vườn nhà
         của dân miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long, gần như người
         nào, nhà nào cũng chú ý tạo cho cây mai vàng vốn mọc
         ngoài mép vườn, bờ mương thành cây kiểng quý trước
         sân nhà, để hàng năm có hoa vàng chào đón xuân
         mới. Một cành mai vàng là biểu tượng của Phúc và Lộc.
         Một cây kiểng mai vàng còn là biểu tượng của THỌ nữa.
         Mai trong quan niệm của người miền Nam là may mắn: (nói: "may"
         thành "mai" và xem "mai" khác nào "may").  2. Sứ
         giả của mùa xuân... tri kỷ của bao tao nhân mặc khách  Mỗi loài hoa đều có đức tính riêng, mang vẻ đẹp
         riêng. Nhưng trong đám muôn hồng nghìn tía ấy, dễ có hoa
         nào sánh được với hoa mai. Người đời yêu cành mai mềm
         mại, phảng phất dáng dấp của người con gái dịu dàng. Thi
         nhân xem mai tượng trưng cho niềm tiết tháo, cho sự thanh cao của mình.
         Bởi vậy cây mai không chê đất xấu, chẳng sợ mưa nắng
         bất thường; hoa mai không mang nét đẹp kiêu sa, nhưng trong sự dung
         dị có ẩn tàng nét tinh anh, phảng phất hương thơm thanh khiết.
         Hương mai rất thơm. Đặc biệt khi tiết trời đầu năm càng
         lạnh, hoa mai càng tỏa hương thơm ngát. Hoa mai có tính kiên
         định, biết tự khẳng định mình, không bị thời tiết đổi
         thay làm cho thay đổi. Có khi xuân đến sớm hay muộn so với thời
         gian, nhưng không vì thế mà hoa mai trễ nải việc đơm hoa kết
         nụ của mình. Trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa thời tiết bất
         thường, mai vẫn âm thầm đơm hương, và đến thời khắc,
         dẫu gió xuân chưa về, mai vẫn khai hoa.  Lựa một nhành mai chưng
         Tết, khách yêu mai khó tính, thường chú ý các điểm
         sau: các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe,
         nụ bụ bẫm, lá non vừa nhú, nhụy âm dương, cành tứ
         quý... Nhụy âm dương chỉ đạo vợ chồng hòa hợp, cành
         tứ quý chỉ bốn mùa gió thuận mưa hòa. Người ta còn
         cho rằng một cành mai nở không đúng vào dịp Tết, mai vừa
         nở đã rụng, hoặc các nhánh phân bố không hợp cách
         là không tốt.  Chưa có loài hoa nào được thơ văn
         nước ta nhắc đến nhiều như hoa mai. Mai đi vào "Thơ thiền"
         của Mãn Giác thiền sư đời Lý: "Mạc vị xuân tàn
         hoa lạc tận - Đình tiền tạc dạ nhất chi mai".  (Đừng
         tưởng xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước nở cành
         mai). Mai có mặt trong "Thơ thần" của Nguyễn Trãi đời Lê:
         "Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà? Ái duyên tuyết bạch,
         mai phương khiết" (Yêu mai, yêu tuyết vì đâu? Vì tuyết
         trắng trong, mai thơm thanh khiết). Hình ảnh hoa mai cũng được thi hào
         Nguyễn Du mượn để tả nét đẹp quý phái, đoan trang của
         nhị Kiều "Mai cốt cách, tuyết tinh thần - Mỗi người một vẻ,
         mười phân vẹn mười" Tản Đà thì dùng hình ảnh
         "Xương mai một nắm hao gầy" để nói lên nỗi niềm
         của mình trong lời "Thề non nước". Ngay như Nguyễn Đình
         Chiểu, khi đôi mắt của ông không còn nhìn được sắc
         vàng rực rỡ của hoa mai, thì hình ảnh về loài hoa xuân ông
         từng yêu quý vẫn được ông ghi lại trong ký ức và
         được vẽ ra bằng nét bút tài hoa: "Hữu tình thay ngọn
         gió đông. Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang". Và khi muốn
         nói về cuộc hội ngộ đầy nét thi vị, tao nhã giữa đôi
         trai tài gái sắc Vân Tiên - Nguyệt Nga, ông lại mượn hình
         ảnh của mai để so sánh "Mai hòa vận điểu, điểu hòa
         vận mai". Rồi Sương Nguyệt Anh, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương,
         Chế Lan Viên, Thanh Hải... cũng có những vần thơ đằm thấm
         trữ tình viết về hoa mai... Không làm sao ghi kể hết! Chừng đó
         thôi, cũng đủ nói lên cái địa vị cao quý của hoa mai
         trong lòng thi nhân Việt Nam! Theo một số nhà Mai học, có hai câu
         thơ, tương truyền của Chu thần Cao Bá Quát, xứng đáng là
         câu tuyệt bút, với ngôn từ đẹp nhất, trân trọng nhất
         mà người ta có thể viết ra để xưng tụng hoa mai:  "Thập
         tải luân giao cầu cổ kiếm  Nhất sinh đê thủ bái mai hoa"  (Mười năm chu du tìm gươm cổ  Cả đời chỉ cúi
         lạy hoa mai)  3. Tôi và Mai...  Từ nhỏ tôi đã
         yêu hoa mai. Khu vườn nhỏ của ngoại tôi, được vây bọc
         bởi một hàng rào trồng toàn mai. Mỗi độ tết, bọn trẻ
         con chúng tôi tụ tập đùa vui nơi đây, lòng tôi ngất
         ngây với rừng mai vàng rực rỡ. Lớn lên, biết đọc sách,
         biết yêu, tôi yêu nhất những người con gái tên Mai. Tôi
         mê Sơn nữ Chi Mai trong tiểu thuyết "Bông hoa rừng", tôi say đắm
         cô Mai hiền thục trong "Nửa chừng xuân" (Khái Hưng). Và tôi
         cũng mê luôn cụ Đào Tấn, một nhà thơ lỗi lạc, một
         nhà viết tuồng xuất sắc quê Bình Định - vì cụ đã
         một đời sống chết với hoa mai. Cụ trồng cả một vườn
         mai trước sân nhà ở làng Vĩnh Thịnh với câu liễn treo trưa
         trước "Mai viên" (Vườn mai):  "Dĩ vi danh tự, vi viên phố  Diệc hữu nhân duyên, hữu tính tình"  (Đã có tên
         hiệu, tên vườn  Âu cũng là nhân duyên, là cốt cách)  Cụ lấy bút hiệu là Mộng Mai, Mai Tăng, làm rất nhiều thơ
         về mai, chọn núi Huỳnh Mai để gởi nắm xương tàn với
         bài "Đề Mai Sơn thọ viên" qua hai câu kết:  "Mai Sơn
         tha nhật tàng mai cốt  Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn"  (Mai
         mốt non mai ta gởi xác  Ưng cho mai dỗ giấc Mai tăng)  Và như
         tiền định, tôi gặp người con gái tên Mai và cùng nhau đi
         trọn đường trần...   Người ta từng gọi tên của một
         quốc gia bằng một loài hoa, dù loài hoa đó không là tài
         sản riêng của đất nước ấy lại hiện diện ở hầu
         khắp thế giới: Bungari là đất nước hoa hồng, Hà Lan là
         xứ sở của hoa tulip, anh  đào là biểu tượng của
         xứ Phù Tang... Cũng là hoa, là lá, là cỏ cây như bao loài
         thảo mộc khoác, nhưng những loài hoa ấy mang trên mình sứ mệnh
         của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một
         dân tộc, được xưng tụng là "quốc hoa". Hoa mai ở Việt
         Nam - mỗi độ xuân về - từ Huế trở vào - nhà nào cũng
         tươi thắm một nhành mai trên bàn thờ gia tiên! Hơn một nửa
         dân tộc quý chuộng loài hoa xuân này, cái vị trí của
         Mai - theo thiển ý - rất xứng đáng là "quốc hoa" - tiêu
         biểu cho cốt cách của dân tộc Việt Nam... Cuối năm 2018  Mai
         Duy Khôi    
 
                       _______________________________________________________________________________  
              
      
      TRUYỆN XUÂN 2018    CHÂU LÊ   
 
 CÂY MAI GIÀ CỦA 40 NĂM TRƯỚC 
 
 
 
 
 
  
                      
         Mới vừa
         rồi, ông anh cả của tôi từ quê nhà Trường Long gọi điện
         thoại qua hỏi thăm sức khoẻ gia đình tôi, vì thỉnh thoảng
         anh có nghe tin nầy tin kia liên quan đến địa phương tôi đang
         cư ngụ bây giờ. Anh em nói chuyện vui vẻ với nhau, chợt nhiên
         anh nhắc tới Ba của chúng tôi qua đời năm 1980 lúc tôi còn
         đang "miệt mài" trong trại "tù cải tạo" tận rừng
         già Xuyên Mộc tỉnh Đồng Nai. Anh nói: "Sắp đến Tết rồi, mỗi khi nhìn thấy
         cây mai trồng trước sân nhà là anh buồn đến rơi nước
         mắt. Công lao của Ba vun trồng từ nhỏ, còn sống đến bây
         giờ. Ba kể thời điểm trồng, tính đến nay đã tròn 40
         năm rồi". Mốc thời gian tính tới nay tròn 40 năm, có
         nghĩa là Tết năm 1973, cái Tết đầu tiên vừa có Hiệp
         định Paris ký tại Pháp ngày 27 tháng giêng 1973..., đồng minh
         bắt đầu rút quân khỏi miền Nam của VNCH để rồi kéo
         theo bao nhiêu hệ lụy cho đến ngày cả miền Nam bị cộng sản
         miền Bắc cưỡng chiếm ngày 30-4-1975! Tôi thở dài nói với
         anh tôi: "Anh nhắc cây mai, em nhớ ngay là anh nhắc
         tới công lao của Ba khi "bứng" cây mai phía sau vườn đem trồng
         trước sân nhà mình và ra công chăm sóc để nhắc nhớ
         một thời điểm trọng đại của cuộc nội chiến Quốc - Cộng
         suốt hơn 21 năm dài đăng đẳng. Ba có ngờ đâu chỉ
         mấy năm sau, cả miền Nam phải gánh chịu bao thảm hoạ... cho đến
         ngày ba mất vì trọng bệnh!".            Bên kia đầu dây
         điện thoại, anh tôi nói với giọng buồn buồn. Tôi chen vào
         "nói trên đường dây như vầy, rủi họ
         theo dõi thì phiền cho anh". "Không sao đâu. Anh già rồi,
         còn sợ gì nữa!". Rồi anh nói như ngại không còn
         dịp để tỏ bày với em út: "Những năm
         chú còn bị "kẹt trong trại tù cải tạo", ba bệnh sạn
         thận hành hạ nhưng cứ dặn anh đừng cho chú biết. Phần Ba,
         ba kể rằng, Ba trồng cây mai trước sân nhà, chỗ mà trước
         đây đặt bàn thờ thông thiên ngoài trời, hằng đêm
         đốt nhang cầu trời khẩn Phật cho đất nước thanh bình, nhà
         nhà êm ấm, nhưng... phải phá bỏ, vì chính phủ của Việt
         Minh thời đó bắt đầu kiểm kê tài sản từng nhà để
         thu thuế đảm phụ. Họ cho đếm từng cái lư hương trên
         bàn thờ, đếm từng gốc cây cau, cây dừa, cây xoài, cây
         cóc..., tức là những cây ăn trái, lúc đó quê mình
         rất ít người trồng cam quít, để họ ước tính "hoa
         lợi" mà đánh thuế từng nhà. Nhiều nhà trong quê mình
         đồng loạt dẹp bỏ bớt lư hương, chỉ để trên bàn
         thờ một lư hương để thờ cúng gia tiên, bàn thờ thông
         thiên phải dẹp bỏ... Nhiều cây cau, cây dừa, bà con đốn
         bỏ để khỏi phải đóng thuế. Hình ảnh sinh hoạt làng
         xóm thời Việt Minh kiểm soát tiêu điều như vậy ở quê
         mình, Ba kể lại nghe buồn não nuột. Qua thời Đệ Nhất Cộng
         Hoà, đời sống của nhân dân khá lên, quyền tự do của
         con người được tôn trọng, những vườn cây ăn trái
         như cam, quít, cau, dừa phát triển mạnh thật nhanh, Ba nói "quê mình "an cư lạc nghiệp" thật
         rồi. Thế nhưng... chiến tranh ‘Quốc - Cộng" lại bùng lên,
         nhất là sau ngày có tổ chức của bọn Việt Minh nằm vùng
         được miền Bắc dựng lên tháng 12-1960 "Mặt Trận Dân Tộc
         Giải Phóng Miền Nam", làng xóm lại tiêu điều thêm. Đệ
         Nhất Cộng Hoà ở miền Nam bị quân nhân đảo chánh, nhiều
         biến cố đau lòng liên tục xảy ra. Rồi bước sang Đến
         Nhị Cộng Hoà đời sống bất an nhiều hơn bởi cuộc chiến
         "Quốc - Cộng" ngày thêm ác liệt. Mãi đến tháng giêng
         1973, Ba nghe nói Hiệp định Paris ký kết đem lại Hoà Bình cho
         đất nước. Ba nói rằng để "thử nghiệm
         xem Hoà Bình kéo dài bao lâu?, đời
         sống an cư lạc nghiệp đến mức độ nào?", nên Ba mới trồng một cây mai ngay chỗ mà ngày trước
         ba đã dẹp bàn thờ thông thiên trước sân nhà để... chờ xem". Giọng của
         anh tôi chợt nhiên nhỏ lại, với giọng xúc động: "Nhưng, chú ơi, Ba đã tàn hơi kiệt sức chỉ vài
         năm sau cái ngày tháng 30-4 1975 oan khiên đó, để rồi vĩnh
         viễn rời bỏ cõi đời trước khi chú được ra khỏi
         tù, Ba đâu còn sống để chứng kiến thảm hoạ đau lòng
         của đất nước và dân tộc trong thời "cai trị" của
         nhà nước CS bây giờ!". Tôi chận lời: "Thôi, anh đừng nói nữa. Mọi
         điều xảy ra trên đất nước mình, bây giờ ở hải
         ngoại nầy tụi em đều nghe, đều biết hết rồi, không chừng
         biết còn nhiều hơn những gì anh kể. Anh chị
         và các cháu hãy thận trọng và tự bảo vệ. Chủ nghĩa
         CS tàn độc vô nhân là như vậy. Thật bất hạnh cho đất
         nước và dân tộc mình. Anh đâu biết, đất nước mình
         sắp sửa trở thành một quận huyện của Tàu Cộng rồi còn
         gì!". Anh tôi nói: "Không
         hiểu chú có biết trong nước bây giờ xảy ra quá nhiều tệ
         nạn. Mỗi lần nói chuyện với vài viên chức chính quyền
         địa phương, tụi nó thuộc lớp tuổi con cháu của mình,
         có ý nói "sao nạn cướp giựt, hành hung giết chết người
         nhiều quá mà không có biện pháp gì nhăn chận?". Tụi
         nó nói: "Có chớ. Nhưng
         tất cả đều do tàn dư Mỹ Ngụy để lại!".
         Anh nói "đã gần 40 năm rồi, làm sao còn tàn dư Mỹ
         Nguỵ mà mấy đứa nói như vậy?". Tụi nó trả lời:
         "Mỗi lần dự hội họp, các đồng chí
         lãnh đạo cấp trên đều nhắc câu đó!". Tôi
         chen vào: "À, thì ra vậy!".            
         "Nói chuyện với chú, anh chợt nhớ Tết năm nay Giáp Ngọ
         cũng là năm tuổi của Út Tâm - em  trai út của chúng mình?
         Năm đó anh nghe kể lại, má sanh nó vào đúng giờ giao thừa
         1954, cũng là năm mà Hiệp Định Geneve được ký kết và
         chia cắt đất nước kéo dài đến hai mươi năm sau lại
         có thêm Hiệp định Paris. Rất buồn, nó đã vượt ra được
         khỏi đất nước để tạo lập cuộc sống mới, vậy mà
         không được hưởng gì, phải lìa đời ở tuổi 30 do
         bạo bệnh. Có lẽ Ba của chúng ta sống vào những thời điểm
         đau thương của đất nước như vậy nên mới có ý
         định trồng một cây mai trước nhà để mà nhắc nhớ!". 
                   Chuyện
         cây mai mà Ba trồng cách đây đã bước qua khỏi năm thứ
         40, là đất nước mình đã trải qua ngần ấy năm thống
         hận. Tôi ngậm ngùi "Tội nghiệp Ba của chúng mình lúc nào cũng mang canh
         cánh bên lòng về tương lai và cuộc sống con người trước
         thử thách của một chủ nghĩa, một chế độ như chế độ
         CS, mà bản chất của nó vốn không tốt đẹp gì đã
         bị những "tín đồ ngoạn đạo" như HCM đến các
         đàn em kế tục lãnh đạo ở Bắc Bộ Phủ duy trì, củng
         cố suốt mấy chục năm qua, cố vơ vét tài sản của nhân
         dân, đất nước để trở thành "Tư Bản Đỏ"
         trước sự đói nghèo của toàn dân, và lại còn luồn
         cúi để làm tai sai cho bọn Tàu Cộng nữa". Từ phía bên kia đầu dây, tôi nghe
         tiếng thở dài của ông anh cả thương kính của mình. 
                CHÂU LÊ  (Houston - Texas - Vào Tết Giáp
         ngọ 2014)        ______________________________________________   
 
 
  
      
      TRUYỆN XUÂN 2016 Huỳnh Minh Bích Nga, Trẩn Cẩm Quỳnh Như, Trần Bang Thạch    
    NHỮNG CÁNH THIỆP CÒN NGUYÊN TRONG HỘP Huỳnh Minh Bích Nga    Mở thùng lưu trữ, nguyên một hộp sắt
         hiện ra. Cái hộp bánh tây xưa cũ mà người già vẫn
         dùng để cất giấy tờ các thứ.   Ngồi bần thần mãi, trong hộp là những tấm thiệp Giáng
         Sinh, Tết Tây, Tết Ta xưa .. Phong bì ngoài bìa đã vàng ố,
         nhưng sắc màu son thếp bên trong vẫn rực rỡ tươi nguyên. 
         Nhìn những tấm thiệp, mà vài tấm có số tuổi gần nữa
         thế kỷ..Lại nhớ ba quay quắt.   Ba
         là một người tỉ mỉ, chu đáo. Và cần kiệm nữa. 
          Cứ đầu tháng 12 là ba đi ra Khai Trí
         mua thiệp. Cũng như mở lại cái hộp lưu trữ xem lại số thiệp
         năm trước để đi gởi thiệp chúc  Tết.   Lại nhớ, Tết rảnh rổi là ba ngồi xem thiệp cũ.
         Người xưa như ba và trang lứa có cách gởi thiệp rất lạ.
         Một cánh thiệp mỏng in hình vẽ mang ý nghĩa trang trọng, bên
         trong là tờ giấy dầu mỏng. Trên tờ giấy dầu ấy, người
         gởi thiệp sẽ ghi lời chúc bằng nét chữ viết tay thật nắn
         nót. Nét chữ thường nghiêng với mở đầu bằng chữ cái
         in hoa thật mềm mại.   ( lại nhớ ba.
         Ba có cách viết chữ theo kiểu Gô Tích (gothic)  thật đẹp) 
            Thường thì với những tấm
         thiệp không quan trọng. Ba sẽ lấy phần giấy dầu hay giấy lụa mỏng
         có ghi lời chúc bên trong, bỏ riêng vào phong bì có lưu địa
         chỉ gởi và cất lại vào hộp. Còn thiệp trống, ba giao lại
         cho các con. Rồi ba đưa giấy, ba khuyến khích các con dán phong bì.
         Rồi cũng chính ba là người ngồi rọc giấy lụa. Cũng như
         ngồi kẻ hàng giấy kê, để các con có thế viết thẳng
         hàng qua dòng kẻ thẳng ở giấy lót kê ..    Ngồi với ba, với bút mực, giấy chậm.
         Con của ba đã tập viết những dòng chúc đầu tiên đến
         ông bà nội ngoại, cô cậu gần xa.. Những dòng chữ trẻ con
         lem nhem, nhưng đó là bài học giao tế đầu đời.. 
          Để sau nầy có thói quen, hể tháng
         11 là đi xem thiệp, lựa thiệp, để mua những cánh thiệp gởi
         cho bạn bè, người quen..   Rồi cũng
         mỉm cười khi phát hiện ra mình đang có tính "tủn mủn"
         như ba, đó là lựa loại thiệp không in năm. Để biết đâu,
         người nhận có thể dùng để quay vòng tiếp..   Có thể ai đó sẽ chê trách. Nhưng đó
         là ba, người thiếu niên lớn lên từ đồng ruộng. Nơi có
         bà nội tảo tần, cần kiệm không dám ăn, dám mặc. Chắt
         chiu từng quyển tập, ngòi viết cho ba đi học xa để thoát khỏi
         binh bạo chiến chinh. Còn ba là anh trò nghèo, tiết kiệm đến
         từng mẫu bút chì nhỏ, cục tẩy cứng .. Vì ba biết, ba đã
         rất may mắn. May hơn rất nhiều bạn bè ấu thời với gia cảnh
         tá điền, tá thổ.. Mở mắt ra là cọng lúa với con trâu.. 
          Còn với cái gia đình yêu thương
         của ba, ba có thể cho cho các con ăn no mặc ấm, thập chí ăn ngon
         mặc đẹp. Nhưng phải biết đâu là điểm dừng, điểm
         hợp. Như những tấm thiệp đó. Ba nói: Chúng được in
         ra từ giấy, mà để có giấy. Người ta phải đốn cây.
         Rừng không phải là tài nguyên thiên nhiên vô tận để
         muốn là lấy..       Một
         tấm thiệp quay vòng, một phong bì tự dán. Một tờ giấy tận
         dụng, tất cả đều là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên..
         mặc kệ ai đó chỉ trích là chúng ta hà tiện, keo kiệt:
          Nói nếu chúng ta cứ làm như thế thì còn chổ nào
         cho người kinh doanh buôn bán.. Mà hãy nghỉ đến một tấm
         giấy loại sẽ được phân hủy sau khi đi hết một vòng đời
         dài hữu ích của nó.    Trong nhà, con vẫn hợp với ba hơn. Vì
         nếu con đánh vỡ một cái ly. Mẹ và bà ngoại sẽ gào
         lên, người trách con phá của, vô dụng.., rồi kẻ thì la
         mắng,  người thì lăm lăm đòn roi.. Để bạo lực làm
         bài học ghi nhớ.   Chỉ có riêng
         ba, ba sẽ ôn tồn nói con lấy chổi đi hốt và quét, gói
         cho kỹ kẻo người đổ rác sẽ bị thương vì nó. Rồi
         nhẹ nhàn bảo thêm: Con hãy chào tạm biệt đi, vì cái
         ly ấy đã làm xong phận đời cho mình. Đã kết thúc
         sự phục vụ tiện nghi cho cuộc sống. Hãy ráng nhớ điều đó
         để không phạm phải nữa ".   Ngày
         ba mất, con nghe như tiếng lưỡi cưa thần chết xé ngang tim mình.
         Như thấy một cây đại thụ che bóng xuống đời con thình
         lình đổ ập..   Khi đó, con đã
         từng hứa. Con sẽ thay ba, mỗi năm sẽ gởi những cánh thiệp đi
         cho những người quen của ba. Để cái dòng chảy của những
         cánh thiệp sẽ không bao giờ dừng lại, như ba vẫn sống. Nhưng rồi, con cảm thấy quá khó. Chữ viết
         con không thể đẹp chân phương như ba, con cũng khó ngồi ngẩm
         nghỉ, tỉ mỉ viết rồi dán giấy, dán tem... Con đã quen gõ
         những ngón tay trên bàn phím vi tính.. Rồi con quyết định cất lại những cánh thiệp lưu trữ
         của ba vào hộp cũ. Để
         mỗi lần nhớ ba, lại lọ mọ mở thùng, cầm ra. Ngồi săm soi
         xem. Để thấy một
         năm lại trôi qua trên từng tờ thiệp xưa cũ. Để quen dần với nổi trống vắng của
         một cây đại thụ đã rút hết tinh túy cho đời.       LẨN THẨN CUỐI NĂM Trần Cẩm Quỳnh Như  
              14/1/10 - Bạn thân mến, còn khoảng
         một tháng nữa là Tết. Giờ này lối xóm đã bắt đầu
         sơn phết nhà cửa (ôi cái mùi sơn dễ sợ quá, hồi
         nhỏ thấy thơm, cứ hay rủ thằng Út chạy ra sân mà hít,
         bây giờ già rồi sao cơ thể tự dưng sinh ra khó khăn khó
         chịu, nghe mùi sơn muốn làm mệt). Đi chợ thấy hoa giả đủ
         màu đủ kiểu tràn xuống đường, củ kiệu, bông cải
         trắng phau. Những túi củ cải trắng và cà rốt phơi khô
         quéo làm tui nhớ củ cải nhận nước mắm của Má tui hồi
         xưa quá, giòn khấy mà mặn ngọt đậm đà, không cần
         chất bảo quản, không cần bỏ tủ lạnh mà để bao lâu
         cũng không hư. Cứ nhớ hoài món ăn xưa ngày Tết : một
         gắp củ cải nhận nước mắm đỏ au khép nép bên khoanh
         bánh tét "hoành tráng" chiên vàng hai mặt giòn rụm,
         màu lá cẩm tím lịm mướt rượt tôn lên màu đậu
         xanh vàng rực, ở giữa là cục mỡ trắng muốt, mới nhìn
         đã cảm nhận vị béo ngọt nơi đầu lưỡi (ặc ặc
         nuốt nước miếng). Lâu rồi không ăn bánh tét vì nhà
         chồng chỉ ăn bánh chưng. Ông xã lại rủ năm nay gói bánh
         chưng, trời mới nghe đã phát đau lưng, gói bánh chưng cực
         lắm bạn ơi, nhứt là đối với người bệnh tật như
         tui. Thôi không nói trước, tới đó khỏe thì "duyệt",
         còn lịch xịch thì chắc phải đi mua một cặp bánh chưng cho
         ổng, ghét cái họ bán mắc gấp mấy lần mình gói, mà
         nếp dầy mo, có khi thịt còn bị thủm, lại thấy báo nói
         họ bỏ cục pin vô nồi nấu cho bánh mau chín, nghe sợ quá... 
          20/1/10 - Còn hơn hai mươi ngày nữa là
         Tết. Mấy hôm trước ông trời ổng buồn, ổng mưa lạnh âm
         u mấy ngày liên tiếp, tui trùm đầu, mang vớ, mặc hai ba lớp áo
         như cái củ hành, đắp hai cái mền mà nhớ mấy đứa
         nước ngoài, đời sống cao, cái gì cũng hơn mình nhưng
         chắc chắn cái khoản nắng ấm là tụi nó thua mình xa. May mắn
         tui không đi được, nếu không chắc đã chết cóng nơi
         xứ người (nói kiểu "nho xanh không đáng miệng người
         phong lưu" của La Fontaine trong "Con Cáo Và Chùm Nho", đi hoài
         không được lại dài mỏ nói may !). May là trời chỉ lạnh
         có ba ngày, thấy nắng hửng lên mừng quá, đến trưa thì
         hầm hập, lại than trời ơi, nóng ! Thiệt ông trời cũng ăn ở
         chẳng vừa lòng người !!!    Mấy cây vạn niên thanh tui chiết
         cành cho con bạn rồi thay đất trồng lại toàn bộ luôn. Kỳ
         này thành công mỹ mãn, cây mau lại sức, không có thời
         gian héo lá. Trồng xong muốn sụm cái lưng, xới đất ra đã
         cực (vì nó cứng ngắc toàn là rễ), lượm trùng còn
         cực hơn, vì sợ bỏ đất dư vào bao cột lại mấy con trùng
         sẽ chết tội nghiệp nên ráng căng mắt tìm để lượm
         ra cho vào chậu cây mới. Lại nhớ những nhà sư vừa cuốc
         đất vừa đọc kinh vãng sanh cho trùng, còn tui, cứ mỗi khi xắn
         một xuổng đứt đôi con trùng thì tui lại xin lỗi nó, rồi
         tui lại tiếp tục xắn đất, rồi tui lại xuýt xoa xin lỗi, bỗng
         hơi mắc cỡ vì tự thấy mình sao... đạo đức giả. Xin
         lỗi cái nỗi gì, người ta chết ngắc rồi còn chi ! Có những
         thứ mất mác chết chóc không bao giờ xin lỗi cũng không bao giờ
         sửa sai được, nhưng người ta vẫn cứ tiếp tục làm để
         rồi lại tiếp tục xin lỗi tập hai, tập ba...   28/1/10 - Xem hình chậu mai của nhỏ bạn thấy ham. Nó đi
         làm, không có thì giờ chăm sóc nhưng mai vẫn đơm nụ
         ra hoa, mà hoa mai của nó cánh bầu bầu, thế cánh mạnh mẽ rất
         đẹp. Nhớ hồi đó mỗi Tết anh Ba tui đi mua mai rất khó tính,
         vô vườn mai, thích cây nào thì ảnh kêu chủ vườn cưa
         ngang, rồi tính bao nhiêu thì tính. Nhà tui không thích mai quá
         nhiều cánh (mai hăm bốn cánh lạ thì có lạ nhưng không
         đẹp vì cánh nằm sắp lớp như cá mòi), cũng đừng
         quá ít, cỡ bảy tám cánh là vừa đẹp, cánh mai phải
         tròn và hữu lực, mỏng manh nhưng trơn phẳng không nhăn nheo. Mua
         mai còn phải đoán nụ, cũng hên xui thí mồ, nụ trâu tưởng
         đâu hoa lớn, dè đâu lại là hoa cánh nhọn, nụ mập
         ú lúc nở ra cả đóa hoa chỉ bằng ngón tay cái y như mai
         rừng ! Cứ chờ cây nào có vài đóa "đại diện",
         thấy ưng ý rồi hãy mua là chắc ăn.   Chưng mai cũng là chuyện dài ! Có người biểu cho Aspirine
         hay B1 vào bình để hoa lâu tàn, có người lại xúi bỏ
         vô một muỗng thuốc tẩy. Mấy chùm mai nở rộ thì xịt phớt
         chút keo xịt tóc từ dưới lên, bảo đảm rất lâu không
         gãy cánh. Hồi tui còn nhỏ, có bà hàng xóm mua một nhánh
         mai đầy nụ rất xôm, bữa trước bữa sau nụ rụng tá lã
         xác pháo, hai vợ chồng bả lo lắng ra mặt, cho là có điềm
         xui. Tối đó thấy ông chồng lọ mọ đem cành mai lên phơi
         sương trên mái nhà, nhưng hôm sau nụ vẫn tiếp tục rụng
         cho tới khi cành mai trụi lủi, chỉ còn phơ phất vài cái lá
         non tim tím thê thảm. Lúc đó tui còn nhỏ, không để ý
         coi năm đó chuyện mai rụng có ảnh hưởng xấu đến chuyện
         làm ăn buôn bán của nhà đó không.   Nhà tui tuy đạo
         Phật nhưng ít tin dị đoan. Mồng một Tết anh Ba tui hay tếu : "Anh
         Ba xẻ trái dưa này ra, hễ đỏ là của anh Ba, hễ "hầm
         tương" (hường tâm) là của tụi bây nghen !", làm tụi
         con nít hổng chịu cự rân trời !   Có
         một kỷ niệm khó quên lúc ở rẫy Long Khánh (sau 75), để
         tui kể bạn nghe. Một bữa gần Tết trời se lạnh, thằng Út ở
         đâu chạy ào vô bếp kéo tui ra, đẩy lên xe bò :" Chị
         Năm, đi với em đằng nầy!". Tui với lấy cái áo bà ba
         đen khoác trùm ngoài cái áo vá đang mặc, hai bàn tay còn
         lọ nghẹ đen thùi, vừa đi vừa cằn nhằn :" Đi đâu
         mà như ăn cướp, cái thằng khỉ đột này !". Xe bò
         nó mượn của thằng Bảy chuyên đi rừng đốn củi, nó
         giơ cây đót quất cái trót vào mông con bò y chang một
         tay đi rừng thực thụ. Tui xót con bò già, giằng lấy cái cây.
         Đó là một cây roi dài, đầu mút là một cái gai
         nhọn, dùng để quất vào mông con bò để nó đau, sợ
         mà đi nhanh. Thiệt nhẫn tâm, da bò dày vậy mà đót một
         cái là rịn máu liền, cho nên mông con bò kéo xe nào cũng
         lấm tấm thẹo đốm...   Xa lắm, đâu mấy cây số đường
         rừng. Loáng thoáng vài người lom khom cuốc bên những vạt đất
         rừng mới dọn, khói đốt cành từng đống mù mịt, lá
         rừng cháy ngay ngáy buồn buồn... Thằng Út chợt chỉ tay về phía
         trước, nó la "Èng éng eng !". Tui trợn mắt, chợt tức ngực,
         ngộp thở... Kìa một rừng mai vàng rực, bát ngát. Hương
         mai ngan ngát, ngọt dịu như màu vàng vương giả. Một cơn gió
         thoảng, mai rụng lấm tấm, phơi phới, thoát tục. Tui nhảy xuống
         xe, len vào giữa những cây mai già cỗi, tay run run sờ từng cành
         lớn xù xì, hít vào đầy phổi cái không khí dịu
         dàng tĩnh lặng của rừng mai, tự nhiên nước mắt chảy ròng
         ròng...     Cả rừng mai nhìn xa thì đẹp vô cùng, nhưng
         chặt một nhánh đem về chưng Tết đỡ ghiền thì xấu hoắc
         vì nhìn kỹ, cánh mai rừng không đẹp, năm cánh nhỏ xíu
         như cái móng tay đứa con nít, dầy dầy, thưa thưa. Nhánh
         không khí lực, cành không thứ lớp, nụ xơ rơ bé tí.
         So với mai cánh tròn hữu lực, mai cánh nhọn ẽo ợt, thì cánh
         mai rừng (nghe dân ở đây họ gọi là "mai sẻ") đơ
         đơ, thưa thớt, để lộ khoảng trống giữa năm cánh, giống
         như mai vườn bị... suy dinh dưỡng ! Đó là lần đầu tiên
         cũng là lần cuối cùng tui được ngắm rừng mai. Tiếc là
         lúc đó nhà suy sụp rồi, đâu có máy chụp hình để
         chụp lại cảnh rừng vàng ươm làm kỷ niệm ! Nhiều lần
         tui muốn trở lại rừng mai nhưng anh Ba tui rầy, biểu con gái vô rừng
         không nên, bộ bây muốn làm cô Huỳnh Mai trong "Hương rừng
         Cà Mau" sao ! Ờ ờ, ở cái xó xỉnh chó ăn đá gà
         ăn muối đó mà gặp được một người như anh chàng
         Tư Lập trong truyện của Sơn Nam thì đoạn đời "ẩn sĩ
         quy điền" của tui chắc cũng đỡ phần tẻ nhạt hic ! 
          Nhà tui ai cũng mê màu mai vàng quí
         phái (và rất không ưa mai tứ quí !), chớ không phải chỉ
         vì nghe người ta nói mai tượng trưng cho sự chung thủy trong tình
         yêu, vì nó luôn nở đúng hẹn vào dịp xuân về. Hồi
         xưa anh Hai tui bay đi bay về Đà Lạt - Cần Thơ, Tết nào ảnh
         cũng chịu khó xách về một cành đào và một bó glaïeuls
         đỏ thẫm để chưng mấy ngày xuân. Đào Đà Lạt
         màu hồng nhẹ, đẹp thanh tân chớ không đỏ lòe như đào
         Bắc, glaïeuls thì sang trọng, nụ hoa chắc mẫm, đỏ rực, tuy vậy
         vẫn phải nhường chỗ cho cành mai vàng nghiêng mình trang trọng
         giữa phòng khách trong cái lục bình cưng của ông Ngoại, và
         mai năm nào cũng phải là một cành lớn có nhánh dài rũ
         xuống la đà, nhánh chi chít nụ vươn ra gần hết chiều dài
         cái bàn cẩm lai.   Nhắc tới Tết
         gia đình, sao mà nhiều kỷ niệm ! Một chuyện đã đi vào
         giai thoại tham ăn của thằng em út nhà tui, đó là một đêm
         giao thừa, lúc đó tui cỡ mười tuổi, thằng Út tám. Thông
         thường, mấy người lớn hay thức suốt đêm Ba mươi, còn
         tụi con nít thì thức góp chuyện một chút đã ríu mắt
         rồi. Ngủ được một giấc dài, thấy no mắt rồi, tui thức
         dậy lắng nghe, mấy người lớn vẫn ngồi nói chuyện rôm rả
         ở phòng ngoài, pháo vẫn đì đùng gần xa. Tui tưởng
         gần sáng rồi, con nít mà, nôn Tết muốn chết, lật đật
         thức dậy đi rửa mặt súc miệng. Nghe Má la : "Mới hai giờ
         sáng hà con, đi ngủ lại đi". Tui quê quá, cười ngỏn
         nghẻn, chợt ngó vô phòng thấy thằng Út đang ngồi chông
         ngốc trong mùng, chắc cũng tính thức dậy, thấy tui lỡ bộ, nó
         bèn nằm xuống ngủ tiếp.   Chợt nghe anh Ba nói : "Hay là
         mình khui trái vải ăn đi" (thời đó trái vải hộp Đài
         Loan ngon lắm, nhà tui có cái "gu" bỏ trái vải vô ngăn
         đá tủ lạnh, để cho nó đặc sột sột ăn ngon tuyệt
         cú mèo!). Chị Hai nói : "Thằng Út mà nghe thế nào cũng
         tỉnh ngủ liền cho coi". Thấy anh Ba nháy nháy: "Nó ngủ say rồi,
         tụi mình ăn hết đừng cho nó hay". Anh Ba đi dạy thì nghiêm
         khắc, mà về nhà hay giỡn cù nhây lắm, biết tánh thằng
         Út ham ăn, và cũng biết nó chưa ngủ lại, ảnh quyết tâm
         chọc nó tới bến, mới làm bộ lấy muỗng gõ leng keng vô
         ly rồi biểu chị Tư : "Con Mai đi lấy đồ khui coi, ngồi đó
         nhăn răng cười hoài !". Chị Hai nói : "Tao đi lấy nước
         đá đây!", vừa nói chỉ vừa bụm miệng ráng nín
         cười. Trong mùng, thằng Út nãy giờ ráng nằm im mà tức
         lắm, tức anh ách, tức cứng ngực, cục tức nó bự tràn rồi
         vỡ bờ : "Hụ hụ hụ hụ hụ !!!" Ổng khóc quá trời
         quá đất luôn, làm mấy anh chị em tui được một bữa cười
         đã đời. Sau này lớn rồi thằng Út vẫn hay bị đem chuyện
         này ra chọc hoài, nó ghét lắm.   Ôi, những ngày xưa
         xum họp hạnh phúc nay còn đâu ! Sao tui muốn khóc quá bạn ơi
         !   3/2/10 - Còn đúng mười ngày
         nữa là Tết. Vừa dạy học vừa dọn dẹp nhà cửa mệt
         muốn tắt thở, lại bị thằng nhóc dụ khị : "Mẹ à, Tết
         rảnh mẹ con mình làm cơm rượu ăn nghe". "Mẹ con mình"
         có nghĩa là tui nấu nếp trộn men, vắt sơ, còn nó thì
         vo lại cho chắc viên cơm rượu rồi bỏ vô keo. Cơm rượu
         bán ngoài chợ mắc như quỉ mà còn sợ tay người ta không
         sạch, làm ở nhà rẻ hơn nhiều lắm, chỉ có cái ngồi
         vắt rồi vo, mỏi vai đau lưng lắm, nấu nửa ký nếp ngồi vo
         "oải chè đậu" luôn. Bởi vậy người ta bán mắc là
         do nặng công chớ không phải do nhiều vốn. Cơm rượu người
         Bắc thì khỏe re, nếp lứt trộn men rồi bỏ đại vô thố,
         chừng được lấy muỗng xúc ăn. Tùy theo gu, người Nam chê
         cơm rượu người Bắc bời rời, xột xột, hậu chua chua. Người
         Bắc chê cơm rượu người Nam ngọt khé cổ, "bố ai mà
         ăn được" !!!    5/2/10 (22 âl)
         - Mấy ngày giáp Tết vệ sinh nhà cửa lu bu muốn chết mà có
         bà lối xóm chạy qua rủ rỉ nhờ coi tướng con dâu tương
         lai, trời ơi làm như mình là thầy tướng số thứ thiệt
         không bằng. Tui không thể nhận lời, vì biết một câu nói
         của mình có thể ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân đại
         sự của người ta, sợ thất đức, nên tui chỉ khen con nhỏ sáng
         láng chớ không chịu coi tướng, viện lý do "thầy tướng"
         còn "non tay". Thật sự con nhỏ giọng kim quá cao nghe the thé và
         cặp mắt bự nhưng lộ quang sáng rực như minh tinh Lâm Đại ngày
         xưa, chắc là không ổn rồi. Ôi trời cũng là duyên số
         hết ! Nếu Nguyệt Lão đã lấy chỉ đỏ cột hai thanh tre quăng
         xuống hồ, tụi nó có duyên với nhau thì chạy trời không
         khỏi nắng hai đứa tụi nó cũng phải gắn bó với nhau cả
         đời để... trả nợ cho nhau !   Chuyện
         coi tướng cô dâu này làm tui chợt nhớ một chuyện buồn của
         gia đình bạn anh Ba tui. Trong đám bạn từ hồi còn để chỏm
         của anh Ba có một anh tên T, anh này hiền lành, hay cười, gương
         mặt tròn vo hao hao ca sĩ Thanh Phong (ban tam ca Sao Băng hồi xưa : Thanh Phong, Duy Mỹ,
         Phương Đại). Ảnh vốn là giáo sư nhưng không biết sao
         lại bị đi sĩ quan. Mỗi lần anh T về phép, anh Ba tui hay kéo cả
         đám bạn bè về nhà họp mặt ăn uống. Một bữa nghe mấy
         ảnh nói lén về tướng mặt của vợ sắp cưới anh T : "Sao
         kỳ quá, con nhỏ có nụ cười buồn bã gì đâu!".
         Lấy vợ đâu được vài tháng, anh T tử trận. Lần đó
         thấy anh Ba tui khóc hai mắt đỏ hoe...   Lại nhớ lúc tui mới
         chừng mười bốn mười lăm gì đó, có nghe Ba tui nói
         tướng con QN công danh lận đận, chỉ được cái hậu vận
         bình an, nhưng quí mà không phú. Mình còn con nít, chẳng
         có ý niệm gì về ba cái tướng số, giờ gẫm lại dường
         như cũng... không sai mấy !   8/2/10 (25 âl)
         - Mệt mỏi. Làm hoài sao không hết việc. Loay hoay, loay hoay. Lăng xăng,
         lăng xăng...   Lắm lúc thấy mình giống hình ảnh viên
         cỏ lông chông. Viên cỏ tròn xoe như một đóa bồ công
         anh khổng lồ, cứ bay lông chông theo gió qua những đồi cát miền
         Trung trơ trọi cằn cỗi. Gió thổi tới đâu, cỏ lăn tới
         đó. Lăn tới vô cực hay lăn tới buổi hoàng hôn của cuộc
         đời rồi nằm xuống vô danh ?   Tôi
         có chờ đâu, có đợi đâu   Đem chi xuân lại
         gợi thêm sầu?   Với tôi, tất cả như vô nghĩa   Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!   Ai đâu trở lại mùa thu trước   Nhặt lấy cho
         tôi những lá vàng?   Với của hoa tươi, muôn cánh rã,   Về đây đem chắn nẻo xuân sang!   Ai biết hồn tôi say mộng ảo   Ý thu góp lại cản
         tình xuân?   Có một người nghèo
         không biết Tết   Mang lì chiếc áo độ thu tàn! 
          Có đứa trẻ thơ không biết khóc   Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!   Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!   Một cánh chim thu lạc
         cuối ngàn.   (Xuân - Chế Lan Viên)           TCQN   02/2010 - Xuân Canh Dần  
   LOANH QUANH CHUYỆN TẾT NHỨT Trần Bang Thạch  
              1.NỖI MÌNH CUỐI NĂM     
         Cuốn lịch của năm Ất Mùi đang mõng
         dần. Không còn bao lâu nữa tờ lịch cuối sẽ bay đi. Chợt
         nghĩ đến nhiều điều. Có những điều - thật nhiều điều
         - mơ mơ, hồ hồ, không rõ tên, không định hình, định
         tướng.  Nghĩ đến cuộc sống trước măt? Nghĩ tới con,
         tới cháu, bà con quyến thuộc, thân hữu bạn bè? Nghĩ tới
         một quê hương ở xa? Nghĩ tới ngày về hưu, về kinh tế
         thế giới? ...Tất cả những điều này mình đã nghĩ nhiều
         rồi, nhiều ngày, nhiều năm rồi; đâu phải đợi đến
         những ngày năm cùn tháng tận này, bây giờ.    Vậy thì mình đang suy nghĩ điều gì?
         Có phải bắt nguồn từ một bài cổ thi vừa đọc được? 
              Nhân
         giai dục đắc trường niên thiếu   Vô ná bài môn bạch phát thôi   Nhất hướng phá sầu, sầu bất tận 
          Bách phương hồi tị
         lão tu lai      Trên đây là 4 câu đầu của bài Đường
         thi thất ngôn bát cú Tuế Vãn Tự Cảm của nhà thơ
         Vương Kiến (751-835). Bài thơ do 1 vị thầy cũ của Nhóm Thơ
         Thẩn Cho Vui của thầy trò chúng tôi gởi tới và thầy cũng
         đã cắt nghĩa từng câu và dịch toàn bài, 8 câu. Cá
         nhân tôi trước đây có đọc vài bài thơ của Vương
         Kiến nhưng chưa thấy bài này; hay đã thấy nhưng đọc
         vào những hoàn cảnh không gian, thời gian không thích hợp để
         tạo nên ấn tượng, kéo theo sự suy nghĩ của mình. Thầy PKT
         ơi, những ngày gần cuối năm và gần cuối đời của thầy
         lẫn trò mình, thầy đã giương cung nhả ra mũi tên Tuế
         Vãn Tự Cảm và bản dịch Nỗi Mình Cuối Năm làm
         trúng tim nhiều người. Phải là nhiều người vì đã
         có thơ phụ họa từ Hoa Kỳ, Việt Nam, Pháp, Úc...       Nỗi Mình Cuối Năm  PKT  
              Trẻ
         mãi suốt đời ai chẳng muốn,   Nhưng sao ngăn được tóc sương pha.   Sầu đong vô tận bao giờ cạn,   Già tránh trăm phương vẫn cứ già. 
              Những ngày cuối năm thường khiến cho người
         ta đếm tuổi và có những nỗi lo bâng quơ, cả những nỗi
         buồn mông lung. Nỗi mình cuối năm. Phải rồi! Những ngày
         này mình đã nghĩ nhiều đến nỗi mình, điều
         mà trước đây mình chưa hề nghĩ, hay nghĩ một cách rất
         lờ mờ khi cái tuổi của mình còn xanh, hay ngay cả lúc nó
         tròm trèm, trên dưới sáu mươi. Bây giờ thì mình
         đang lần mò bước qua mấy chặn đường đi đến cái
         đích "cổ lai hi" thì những câu thơ  "Sầu đong
         vô tận bao giờ cạn" bay đến, ghim ngay vào cái bầu tâm
         sự của mình. Hỏi sao mà không suy nghĩ?       Cái trẻ thì
         không thể giữ mãi, cứ đi đi, được thôi. Vạn vật
         trên trái đất nầy có cái gì là không lão hóa.
         Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn
         thanh. Tóc sương pha thì cứ pha cho bạc trắng. Tóc bạc,
         da mồi chỉ sự sống lâu mà! Cái già muốn đến thì
         cứ đến, "cổ lai hi" mà! Chỉ có cái sầu là coi mòi
         không ổn. Có mấy ai càng già càng vơi cái sầu? Hình
         như cái sầu và cái lo ở tuổi già là anh em họ. Ai cũng
         muốn lánh xa cặp bài trùng này mà xem ra chẳng dễ. Càng
         già càng lo. Càng lo càng sầu. Tâm sầu bạch phát. "Nỗi
         mình" là ở đây. Cái lo cho mình có đó mà
         như đang ở đâu đâu, mênh mang trời đất, nó chạm
         vào tỉ tỉ nơ-rôn của mình bất cứ lúc nào, cho nên
         nó vô tận, nó cứ đầy. Nhiều cái sầu không tên không
         tuổi, không hình không tướng là vậy. Hôm qua nhận một lá
         thư dài của một thầy cũ gởi từ Aulnay, Pháp quốc. Thầy viết:
         " Sống qua cái tuổi 60, được năm nào coi như được
         trời cho năm đó, kể như được thêm "bonus". Thầy đã
         được "bonus" hơn chục năm rồi, còn các em chắc cũng
         được vài ba năm. Những năm "bonus" mình chỉ cần sống
         lành, sống đẹp, sống an lạc, thảnh thơi...Thầy tin tưởng ở
         "nhân quả", mình gieo nhân tốt thì sẽ gặt hái được
         quả tốt". Nghĩ cho cùng cái sầu của mình là do cái
         lo. Lo cho mình thì ít mà lo cho người thì nhiều. Sống lành,
         sống đẹp là cách sống hai chiều: Lấy cái Nhân để
         sống lành cho người là đem về cái Quả nhãn tiền,
         chính là cái đẹp, cái an lạc, thảnh thơi cho mình. Sống
         như vậy không phải là dễ.     
          Biết là "Sầu đong vô tận bao
         giờ cạn" Nhưng vẫn cứ nghĩ tới cái nỗi mình. Tuổi
         sắp thêm, sắp thêm "bonus" mà bao nhiêu cái lành, cái
         đẹp mình sẽ làm được đây, trong những năm tháng
         tới để tạo cái nhân? Bây giờ bắt đầu thì
         coi như đã trễ! Trễ còn hơn không!       Cuối cùng, có lẽ
         sự lo nghĩ cuối năm - nỗi mình-  là ở đó.   Ý nghĩ nầy dẫn người viết đến 1
         bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác.   2.TRƯỚC MẮT VIỆC ĐI MÃI / TRÊN ĐẦU GIÀ ĐẾN
         RỒI       Có  một bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác
         (1052-1096) từ nhiều năm nay thường được giới văn nhân và
         các phương tiện truyền thông đại chúng nhắc tới mỗi
         lần năm hết tết đến. Đó là bài thơ chữ Hán gồm
         6 câu, tổng cộng 34 chữ tựa là Cáo Tật Thị Chúng. Đa
         số những bài viết hay bài nói thường không nhắc toàn
         bộ bài thơ mà chỉ nêu hai câu cuối, có lẽ vì nó
         có chất thơ và chất thiền, lại phù hợp cho những bài
         viết về Xuân:    Mạc vị xuân
         tàn hoa lạc tận   Đình tiền
         tạc dạ nhất chi mai    mà có
         người dịch là:   Đừng tưởng
         xuân tàn hoa rụng hết   Đêm
         qua, sân trước, nở cành mai     
          Cái khám phá thích thú có lẽ
         là ở điểm này: bài thơ thường xuất hiện trong các
         bài viết về Xuân nhưng rõ ràng không phải là một bài
         thơ Xuân. Tứ của bài thơ (thi tứ) không phải là miêu tả
         cảnh sắc của mùa Xuân. Mặc dù hai câu mở đầu tác
         giả có nói:   Xuân khứ bách
         hoa lạc   Xuân đáo bách
         hoa khai    tức là Xuân đi có
         trăm hoa rụng,  Xuân sang có trăm hoa nở và hai câu kết, như
         đã nêu ở trên, cũng có xuân, có hoa, đặc biệt là
         có hoa mai; nhưng rõ ràng tứ thơ nằm ở chỗ khác. Nó nằm
         ở tựa bài thơ là Cáo Tật Thị Chúng tức là Có
         Bệnh Báo Mọi Người. Hoàn cảnh để viết bài thơ
         có thể tạm suy diễn thế này: Một ngày tác giả có bệnh,
         chắc là vào một ngày Xuân, tác giả nghĩ tới mùa Xuân
         rồi nghĩ tới mình cho nên viết bài thơ trên. Và tứ thơ
         được thể hiện rõ ở hai câu thứ 3 và thứ 4:   Sự trục nhãn tiền quá   Lão tòng đầu thượng lai    dịch là:   Trước mắt việc đi mãi   Trên đầu già đến rồi.       Như vậy tác giả
         đã mượn mùa Xuân để nói tới một đời người.
         Xuân đến Xuân đi. Người đến người đi. Đi nhưng
         còn để lại một cái gì. Như một cành mai mới nở của
         một xuân qua. Như một dư âm của một hồi chuông đỗ. Như
         cái còn lại của những năm tháng trôi trên phận người.
         Cái còn lại không phải là bất kỳ một cái gì. Càng
         không thể là cái xấu.    Trước
         mắt việc đi mãi   Trên đầu
         già đến rồi.   Đọc 2 câu
         thơ được viết hơn 900 năm trước mà như nghe đâu đây
         tiếng lao xao của những mắc xích đời mình. Biết bao điều
         đã đi qua rồi. Tóc đã bạc trên đầu. Hơn bảy mươi
         mùa Xuân đã đi qua mà trước sân đời của nhà
         mình có mấy lần hoa nở? Mình đã làm được gì
         đâu mà tuổi đời gần cạn. Thiền sư Mãn Giác chỉ
         sống có 44 năm. Sống một đời đạo hạnh, thanh cao, nho nhã.
         Cành mai đời Người mà Người để lại chắc nhiều
         hoa. Bài thơ trác tuyệt Cáo Tật Thị Chúng là một.  
          Hiểu được lẽ sinh lẽ diệt không
         phải là chuyện dễ. Trước ngài Mãn Giác, Thiền Sư Vạn
         Hạnh cũng đã dạy:   Thân
         như điện ảnh hữu hoàn vô   Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô   Nhâm vận thịnh suy vô bố úy   Thịnh suy như lộ thảo đầu phô   Rõ ràng thân người như ánh chớp, có
         rồi trở lại không. Cũng như mùa xuân cây cỏ tươi tốt,
         đến mùa thu thì tàn tạ khô héo. Lẽ thịnh suy là vậy,
         hơi đâu mà lo sợ vì thịnh suy thay nhau như khoảnh khắc của
         hạt sương trên đầu ngọn cỏ.   Sống chân thật với mình và với người thì sá
         gì cái lẽ thịnh suy. Biết sống như vậy là điều không
         dễ. Cuộc đời cũng đâu có dễ cho người đời!  
          Càng không dễ cho người biết sống! 
          Ngày xuân tàn, đâu phải trước
         sân nhà ai cũng còn một đóa mai mới nở !           3.THÊM MỘT CÁI TẾT THA HƯƠNG       Bạn thân
         mến xa xôi,   Lâu lắm không có
         thư gởi bạn. Biết bạn trông nhưng không làm sao được.
         Hết việc này tới việc kia chúng bám theo mình như hình với
         bóng, bám gần 40 năm qua mà chưa buông. Nhớ khi xưa, việc của
         sở làm thì không chạy được. Tự động bứt nó ra
         thì nhận giấy báo màu hồng mang đến sở xã hội xin tiền
         thất nghiệp. Còn vài công việc có tính cách văn hóa,
         xã hội mình tự góp tay vào dù có bận cách nào thì
         vẫn không muốn bỏ. Nó là chất bổ dưỡng, là thuốc
         an thần cần thiết cho cuộc sống rất ư là nhức đầu ở
         đây. Đi làm về khuya, ngồi gõ cho xong cái truyện, thấy hạnh
         phúc làm sao. Họa hoằng có một ngày nghỉ cuối tuần để
         có dịp tham dự một buổi thuyết trình về văn hóa, thấy
         một ngày có ý nghĩa. Ước chi một ngày có 36 tiếng đồng
         hồ chớ không phải là 24 để mình được thông thả
         một chút làm chuyện này chuyện nọ, và để có thể
         ầu ơ ví dầu với bạn cho vui. Nhiều khi tôi nghĩ có người
         để san xẻ, để trút bầu tâm sự cho cái đầu bớt
         quẩn cũng là cần thiết. Thiên hạ ở đây với những cái
         đầu đầy chữ nghĩa và bằng cấp chắc cần phải giải
         quyết mấy cái quẩn nầy trước hơn ai hết. Ở một nơi xa
         xôi, đèo heo hút gió ấy chắc bạn không nghe chuyện mới
         ràng ràng đây của một chàng địa ốc gần năm mươi
         tuổi, nhân đêm Giáng Sinh, chàng mặc quần áo ông Santa Claus
         đến nhà người vợ cũ rồi nả súng bắn chết cả chục
         người  kể cả cái mạng của mình. Mấy năm trước
         nữ phi hành gia có học vị tiến sĩ, nghề nghiệp vững vàng,
         chồng con đề huề, yêu ngang hông một đồng nghiệp, lại mang
         tội mưu sát tình địch. Cũng mấy năm trước một nữ
         nha sĩ cũng mang tội sát hại ông chồng nha sĩ bằng chiếc Mercedes.
         Trước đó đôi năm, một nữ y tá vợ một kỷ sư
         phục vụ tại Trung Tâm Không Gian Hoa Kỳ, gọi tắt là NASA, trấn
         nước giết tất cả 5 con ruột trong bồn tắm nhà mình. Cả
         3 người đàn bà nầy đều thuộc giới thượng lưu trí
         thức và cùng cư ngụ trong vùng gia cư sang trọng Clear Lake của Houston.
         Tại làm sao vậy? Chất thuốc an thần nào để chữa những cái
         quẩn này đây? Tôi thì không lo rồi. Tôi có những bạn
         văn. Tôi có những sinh hoạt bổ dưỡng tinh thần. Và tôi có
         bạn để tâm sự mà. Phải không bạn?   Bạn thân mến xa xôi,   Hôm
         nay là ngày đưa ông táo về chầu Ngọc Hoàng. Bên ấy
         bạn cũng sắp đón Tết. Xuân là của đất trời mà.
         Chỉ có cái khác là bạn đón xuân trên quê hương
         mình. Còn tôi thì đón xuân lử thứ. Đón mấy mươi
         cái xuân như vậy rồi! Bạn xem có não lòng chưa? Cứ mỗi
         lần Tết đến là nhớ câu thơ Thế Lữ để mà buồn
         thêm: Rũ áo phong sương nơi gác trọ/ Lặng nhìn thiên
         hạ đón xuân sang. Còn ông Thanh Nam hơn ba mươi năm trước
         đã lia thêm một nhát chém vào tâm sự của người ly
         hương: "Một năm người có 12 tháng, ta có năm dài
         một tháng Tư".Tôi đã ở trên đất nước nầy
         dài hơn thời gian tôi sống trên đất nước mình. Và
         sẽ sống nơi đây cho hết đời, chắc vậy. Nhưng mà không
         hiểu sao mình vẫn không bỏ được cái  ý nghĩ cho rằng
         nơi đây vẫn là đất tạm, là một thứ quán trọ.
         Cho nên cái Tết nào cũng khiến mình buồn bã vu vơ vì
         tết nào cũng là Tết Tha Hương. Bỗng nhớ mấy câu thơ
         cũ của mình :       nên mỗi ngày qua   thêm một nỗi buồn riêng   thêm một chút ngậm ngùi cố thổ   ở ở, đi đi ta làm khách trọ    sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên đường 
              để
         mỗi đêm dài điếm cỏ cầu sương    ta mơ làm người Lý Bạch   đê đầu tư cố hương   để thấy hồn mình lượn lờ nơi viễn
         phố.       Hôm nào cắc cớ, bạn thử hỏi những người
         mà bạn quen biết đang sống xa quê hương để xem bạn có
         được mấy người chờ xuân, đón xuân và vui xuân
         với tâm trạng y chang như thời trước ở quê nhà. Lý do đơn
         giản là Tết ở đây là tết ly hương; ngày Tết của
         mình đâu có nằm trong danh sách những ngày nghỉ lễ của
         nhà nước. Cho nên ai cũng phải đi cày như mọi bữa. May mắn
         lắm có được ngày tết rơi vào cuối tuần thì đi
         một vòng hội chợ tết để có cảm tưởng mình cũng
         ăn tết như ai.       Nhưng bạn ạ, nhìn những em bé mình càng thương
         cảm chúng nó hơn. Các cháu cũng tươi cười nhìn lân,
         nghe pháo, cũng rối rít nhận tiền lì xì. Các cháu bây
         giờ ở đây đâu có biết chờ Tết. Thấy múa lân
         ngồ ngộ thì cười thôi. Nghe pháo nổ từng tràng dài thì
         thích thú; đâu biết đấy là những tập tục rất đặc
         thù thường chỉ xảy ra vào dịp tết đã có từ lâu
         đời trên quê cha và đã trở thành những sinh hoạt có
         tính cách văn hóa của nước mình. Điều tội nghiệp
         khác nữa là các cháu cũng không có cái háu hức của
         mình thời trẻ. Thời đó "chờ tết" hình như thú
         vị hơn "ăn tết", phải không bạn? Đứa trẻ thời ấy
         mỗi năm đón Tết từ đầu tháng Chạp, hay trước đó
         nữa, khi người người trong gia đình chuẩn bị ăn tết. Đón
         Tết qua những đêm ngủ gà ngủ gật nhìn mẹ tráng bánh
         phồng bánh tráng, nhìn bà gói bánh tét bánh chưng, nhìn
         chị làm bánh mứt. Bộ đồ mới bằng vải sọc đơn
         sơ, đôi guốc vông có quai bằng mũ trong vắt có vẽ mấy
         cánh mai vàng cũng đủ làm đứa bé thời đó sung sướng
         quên ăn, tối nằm ôm đôi guốc, gối đầu trên giấc
         mơ đẹp mà ngủ. Ngày Tết cùng các bạn nhỏ kéo nhau
         đi trên đường làng, trên đường phố, tay cầm cây
         pháo chuột, miệng cắn hạt dưa đỏ mồm miệng. Gặp người
         lớn khoanh tay cúi đầu mừng tuổi, đôi khi được vài cắc
         lì xì. Ghé nơi nầy đặt mấy xu trên trái bầu, con cua.
         Ghé nơi kia xào bài ba lá. Sao mà vui quá chừng. Đứa bé
         nơi ấy thời ấy ăn tết ăn nhứt thỏa chí thỏa tình. Thời
         đó đứa bé sống trong cái háu hức chờ Tết và vui
         Tết của cả làng, cả phố và của cả dân tộc. Cho nên
         người ta nói vui như tết, thật chẳng sai.   Các cháu ở đây tuy không cảm nhận được
         hết ý nghĩa sâu xa và tinh thần dân tộc trong 3 ngày tết, nhưng
         khi các cháu có dịp cùng vui   chơi trong những hội tết được tổ
         chức hàng năm tại nhiều nơi có đông người Việt thì
         các cháu đã phần nào sống với văn hóa mình. Các
         em thấy, các em tham gia rồi dần dần các em hiểu và sẽ duy trì
         nó. Tôi không thể tưởng tượng ở một nơi nào đó
         bây giờ, hay ở những năm nào đó sau nầy không có một
         hội tết nào được người mình đứng ra tổ chức thì
         mình ăn tết ở đâu, cụ già dẩn các cháu đi đến
         đâu để cho ông cháu sống vài giờ với cái tết dân
         tộc? Không có Hội Tết hàng năm thì ngày tết sẽ âm
         thầm lặng lẽ trôi qua và các cháu thì không biết Tết
         Nguyên Đán là gì.   Bạn thân
         mến xa xôi,   Tết tha hương thì
         buồn thật, nhưng những cái tết trên quê hương đã một
         thời in sâu trong ký ức mình cũng phần nào làm lòng mình
         ấm trong cái lạnh của mùa xuân xứ người.    Trần Bang Thạch                    
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             | 
                        
                       |