| 
                     | 
                    
                     
                        
                         |   | 
                        
                        
                         
                              
                                
                                 
                                 
                                 
                                 
   
   
      
       
 GÓC  VIỆT CỔ THI ______________________________________________________________________________________  
      
      
          Gối Cỏ Đầu
         Xuân Với Đôi Vần
         Thơ Xuân Của Tiền Nhân          Tác giả là một bậc anh quân đời
         nhà Trần và là Sư Tổ sáng lập Thiền Phái
         Trúc Lâm Yên Tử. PKT 02/18/2019     
         SƠN PHÒNG MẠN HỨNG   Trần Nhân Tông  (1258 - 1308)       Thùy phược cánh
         tương cầu giải thoát   Bất phàm
         hà tất mịch thần tiên   Viên
         nhàn mã quyện nhân ưng lão   Y
         cựu vân trang nhất tháp thiền     
         Thị phi niệm trục triêu hoa lạc  
         Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn 
         Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
         Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn 
             Mạn
         Hứng Ở Sơn Phòng   PKT - Mây Tần
                Có
         ai trói buộc mình đâu mà phải cầu giải thoát  / Bụi
         trần đã không còn vướng mắc rồi thì hà tất đi
         tìm thần tiên làm chi nữa  / Bầy vượn nhởn nhơ, con
         ngựa đã mỏi, người nay đã già / Am mây và chiếc giường
         thiền ngày nào vẫn  còn đó / / Nỗi thị phi phải quấy
         đã được rũ bỏ theo từng cánh hoa rụng rơi ban sáng
         / Niềm hám danh hám lợi đã được cuốn theo từng
         đợt  mưa lạnh trong đêm / Hoa đã rụng hết, mưa đã
         tạnh hẳn, núi non tịch mịch trước mắt / Một tiếng chim hót,
         ừ nhỉ , cái lẽ tuần hoàn trời đất, xuân đến rồi
         đi            SƠN PHÒNG MẠN HỨNG   PKT
          - Mây Tần        Ai trói buộc đâu mà cầu giải thoát, 
          Lòng đã thoát phàm hà tất tìm
         Tiên.   Vượn nhàn, ngựa mỏi,
         thân lão,    Chốn cũ, am mây, một
         chiếc giường thiền.      
         Sáng ngắm hoa rơi, thị phi rũ bỏ, 
          Ðêm nghe mưa lạnh, danh lợi buông trôi. 
          Hoa tàn, mưa tạnh, núi vắng, 
          Một tiếng chim hót tiễn Xuân ngang trời.
                      
         Tri Khac Pham  Phamid1934@gmail.com     
   
      
          Đỗ Chiêu Đức,
         Mailoc, Phương Hà, Mùi Quý Bồng  HAI BÀI THƠ XUÂN của ÔNG VUA Trần Nhân
         Tông             Trong dịp
         xuân về, Kính gởi đến Quý Thầy Cô và Anh Chị Em Vườn
         Thơ Thẩn  2 bài thơ "Xuân" của ông Vua Trần Nhân
         Tông...
        
       春曉                  Xuân
         hiểu      睡起啟窗扉,      Thụy khởi khải song phi,  不知春已歸。      Bất tri xuân dĩ quy.   一雙白蝴蝶,      Nhất song bạch hồ điệp,   拍拍趁花飛。      Phách phách sấn hoa phi.   CHÚ THÍCH :   * Thụy Khởi : là Ngủ dậy, chỉ Vừa
         thức giấc.  * Khải : là Mở ra,
         giống như chữ KHAI ( thanh BẰNG, còn KHẢI là thanh TRẮC ).  * Song Phi : Cánh cửa của Cửa sổ.  * Phách Phách : là Vổ vổ(cánh), ở
         đây có nghĩa là Vổ Phần phật.  * Sấn : là Nhân(dịp), ở đây có nghĩa là Hướng
         về...  NGHĨA BÀI THƠ :                               Sáng
         Sớm Mùa Xuân           Vừa
         mới ngủ dậy, ta mở toang hai cánh cửa sổ ra... Đâu biết rằng
         mùa xuân đã về đến rồi !( Trông kìa,) một đôi
         bướm trắng nỏn nà đang vổ vổ cánh bay về các khóm
         hoa ( đang nở rộ !).  DIỄN NÔM
         :         SÁNG XUÂN      Thức giấc mở song ngay,      Xuân đến nào có hay.      Một đôi bươn bướm
         trắng,      Hướng hoa
         vổ cánh bay ! Lục bát :      Vừa thức giấc, mở cửa song,      Nào hay xuân đã về trong
         đất trời.      Một
         đôi bướm trắng xinh tươi,      Khóm
         hoa bay lượn thành đôi chập chờn.                                  
                                   Trần Nhân Tông 陳仁宗 (7
         tháng 12 năm 1258 - 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308) là vị hoàng đế
         thứ ba của vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị
         vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng
         hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được
         nhiều sử gia đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều
         đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt
         cuối thế kỷ 13, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và
         mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là
         một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.                
 
    Xuân Vãn   Trần Nhân Tông                                      春晚                      
            Xuân Vãn          
              陳仁宗                      
            Trần Nhân Tông 年少何曾了色空 
            Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,  一 春心在百花中    Nhất
         xuân tâm tại bách hoa trung.  如今勘破東皇面 
           Như kim khám phá đông hoàng diện,   禪板蒲團看墜紅    Thiền bản
         bồ đoàn khán truỵ hồng.   Dịch Nghĩa:                           Xuân
         Muộn      Câu 1 : 年少何曾了色空    
         Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,       Từ HÀ TẰNG : HÀ là Như thế nào,
         là Ra Làm Sao ?. TẰNG là Từng, là Đã Từng. Nên :     
         HÀ TẰNG : là một NGHI VẤN TỰ dùng theo cách PHẢN VẤN có
         nghĩa : Làm sao mà nói được đã từng ?     
         LIỄU : là Kết thúc, là Hết.( kết liễu ). Nên...     
         HÀ TẰNG LIỄU có nghĩa : Làm sao nói được là đã
         kết thúc...? Đưa đến nghĩa cả câu là :     
         " Tuổi còn trẻ thì làm sao mà có thể nói là đã
         kết thúc với chuyện sắc không cho được ?!" Nghĩa bóng
         là :      " Thanh niên thì làm sao mà có thể
         nói là không còn nghĩ đến chuyện sắc không nữa ?!".
         Đưa đến nghĩa của...
        CÂU 2 :   一 春心在百花中   
         Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.        NHẤT XUÂN TÂM : có nghĩa là Một tấm lòng
         xuân, là Một tấm lòng son trẻ. Nghĩa cả câu là...      
         " Một tấm lòng xuân đều ở trong trăm hoa " Nghĩa bóng
         là : " Một tấm lòng xuân ( son trẻ ),( như cánh bướm cứ
         xuyên suốt mê mẫm mãi ) trong trăm ( ngàn ) đóa hoa ( đẹp
         ).       Câu 2 nầy còn có thể ngắt câu như
         thế nầy :      " NHẤT XUÂN, Tâm tại bách hoa trung
         " !      Có nghĩa :          "
         Hễ đến mùa xuân là lòng cứ vướng bận mãi với
         trăm hoa ". Nhưng dù ngắt câu như thế nào thì nghĩa của
         nó vẫn ăn với Câu 1 cả !
         CÂU 3, CÂU 4 thì nghĩa đã
         rõ :            如今勘破東皇面   
         Như kim khám phá đông hoàng diện,
           禪板蒲團看墜紅   
         Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.        KHÁM PHÁ : là Nghiệm ra được,
         là Thấu hiểu một cách rõ ràng. là Nhìn rõ bộ mặt
         thật.       ĐÔNG HOÀNG : là Ông Hoàng ở hướng
         đông, ta gọi là Chúa Xuân. Ông Chúa của mùa Xuân ở
         hướng đông.       THIỀN BẢN, BỒ ĐOÀN...       THIỀN BẢN : là Miếng Ván dùng để ngồi
         Thiền.       BỒ ĐOÀN : là Cái Vòng tròn
         được kết bằng cỏ Bồ, dùng để ngồi đọc kinh hay
         ngồi thiền.         Cho nên...        
         THIỀN BẢN và BỒ ĐOÀN là 2 thứ đồ đều dùng để
         ngồi thiền. Hai từ nầy hô ứng và nhấn mạnh cho nhau chỉ sự
         tu tập.         Nghĩa của câu 3, câu 4 là :         Như hiện nay ( Bây giờ ), đã nhìn rõ
         được bộ mặt thật của Chúa Xuân rồi ( Xuân đến
         rồi cũng sẽ đi, hoa nở rồi cũng sẽ tàn ! ). Nên, dù ngồi
         trên Thiền bản hay Bồ Đoàn gì cũng được ( đã tu
         tập thiền rồi, đã hiểu rõ nghĩa luân hồi đào thải
         rồi ) thì lòng rất thản nhiên mà nhìn những cánh hồng
         rơi rụng ! ( Nhìn hoa tàn mà không còn thương hương tiếc
         ngọc hay xót liễu vì hoa gì nữa cả, vì đã giác ngộ
         được lẽ tuần hoàn của tạo hóa ! ).
 Xin được góp bài DIỄN NÔM :            VÃN : là
         Tối, là muộn, là Cuối, nên...          
         XUÂN VÃN là Xuân Muộn, là
  
                               CUỐI XUÂN   Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,   Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa.   Nhưng nay đà
         tỏ khi xuân tận,   Hoa rụng lòng thiền chẳng xót xa! Lục bát :                    Tuổi
         xuân nào dứt sắc không,                    Lòng
         xuân chìm đắm mãi trong sắc màu.                    Như
         nay đà tỏ âm hao,                    Tâm
         thiền hoa rụng chẳng nao lòng trần !                                                                                                        
         Đỗ Chiêu Đức. GÓP THƠ DỊCH:
         Mailoc, Phương
         Hà, Múi Quý Bồng SÁNG  XUÂN   (1)   Sớm mai thức
         dậy mở song ngoài   Xuân tới kia
         rồi chẳng có hay.   Bướm trắng
         một đôi đang đập cánh   Chập
         chờn theo đuổi cánh hoa bay!   (2) 
          Sáng dậy mở song ngoài   Xuân về chẳng có hay   Nhởn nhơ đôi bướm trắng   Đập cánh theo hoa bay!      
             Mailoc              CHIỀU  XUÂN 
              (1) 
          Sắc không tuổi trẻ chẳng tinh tường 
          Xuân đến hoa cười dạ vấn vương. 
          Mặt thật chúa xuân nay khám phá 
          An nhiên tịnh toạ ngó rơi hường! 
          (2)   Sắc
         không niên thiếu lòng chẳng bận   Rộn
         rã xuân về vấn vương hoa.   Chúa
         xuân mặt thật hiểu ra   Bồ đoàn
         tịnh tọa mặc hoa tơi bời!    
               Mailoc     I- Phỏng dịch bài Xuân Hiểu 
              (1) Sáng
         Xuân       Sáng ra thức giấc tựa song ngoài   Xuân đến bao giờ đâu có hay   Bướm trắng một đôi âu yếm lượn 
          Hướng về hoa thắm nhởn nhơ bay. 
              (2) Sáng
         Xuân        Sớm mai ra tựa song ngoài   Mới hay rộn rã đất trời vào xuân   Một đôi bướm trắng tưng bừng   Nhởn nhơ đập cánh trên từng đóa
         hoa.                           Phương
         Hà phỏng dịch     
              II- Phỏng dịch bài Xuân Vãn       (1) Cuối
         Xuân       Tuổi trẻ lòng sao khỏi sắc không   Muôn hoa vương vấn mãi trong lòng   Nhưng nay biết được khi xuân tận   Hoa rã...tâm thiền đã lĩnh thông.       (2) Cuối
         Xuân       Tráng niên nào khỏi sắc không   Hoa xuân phơi phới trong lòng rộn say   Lẽ đời khi đã tỏ hay   Xuân tàn, hoa rụng...tâm này thản nhiên             
                     Phương Hà phỏng dịch 
              XUÂN SỚM       Mở cửa sáng vừa thức,   Xuân đến mà không biết.   Chập chờn đôi bướm bay   Vào
         vườn hoa diễm tuyệt.     
          Mùi Quý Bồng 
          01/24/2019       XUÂN MUỘN       Tuổi trẻ mơ hoài chuyện sắc không.   
         Trăm hoa đua nở giữa lòng xuân. 
          Xuân đến, xuân đi, nay đã tỏ. 
          Rụng, rơi, hoa chẳng động lòng thiền. 
              Mùi
         Quý Bồng   01/24/2019  
 
 
 
    
  
         
      
          TRẦN QUANG TRIỀU, MỘT THI NHÂN ĐỜI
         TRẦN    Kính chuyển đến bạn
         vài bài thơ của Trần Quang Triều, một thi nhân đời nhà
         Trần .Mời bạn đọc giải khuây, sắp cuối tuần nữa rồi! 
          Thân kính   ML   Trần
         quang Triều ( 1286-1325 ) là con trai của Trần quốc
         Tảng , cháu nội của Hưng Đạo Đại Vương Trần
         Quốc Tuấn .Năm 14 tuổi được phong tước Văn huệ Vương.
         Tài cả văn lãn võ , tuy nhiên ông không ham công danh phú quý
         ,khi vợ mất ông đã có ý muốn cáo quan về. Cuối cùng
         được về ẩn cư nơi am Bích Động , gần chùa Quỳnh
         Lâm , nay thuộc huyện Đông Triều , tỉnh Quảng Ninh ,Ông lập ra
         thi xã Bích Động xướng họa cùng các bạn thơ như Nguyễn
         Sưởng , nguyễn trung Ngạn ... Năm 1324 vua Trần minh Tông triệu ông ra
         gánh vác việc nước , nhưng chẳng được bao lâu thì mất
         . Tác phẩmcủa ông còn tập Cúc Đưong Di Cảo đã thất
         lạc,hiện chỉ còn một ít bài thơ .       QUY
         CHU TỨC SỰ                            
         ( Trần Quang Triều )     
          Quy chu tức sự 
          Qủy ngộ niệm thù khinh,   Quy tâm mộng tự vinh (oanh).   Ðiểu đề yên thụ một,   Phàm
         đới tịch dương hành.   Thu tước
         sơn dung sấu,   Triều khai thủy giám
         minh.   Túy ông hồn vị tỉnh, 
          Hồng diệp mãn giang thành.         Dịch nghĩa     Thuyền về
         tức cảnh 
          Nghĩ đến những cuộc gặp gỡ giả
         dối lòng càng coi nhẹ,   Cho
         nên giấc mộng về cứ vương vấn mãi.   Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói, 
          Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà. 
          Hơi thu đẽo gầy dáng núi, 
          Triều lên, mặt nước như gương
         sánh.   Ông già say vẫn chưa
         tỉnh,   Lá đỏ rơi đầy
         thành ven sông       --Bản dịch của MaiLộc-     Thuyền về
         tức cảnh   
          Đời gian dối lòng nầy chẳng bận
         ,   Mộng quay về vương vấn
         khôn vơi .   Chim kêu cây khuất
         khói mờ ,   Cánh buồm ngang lướt
         lơ mơ chiều tà .   Thu gậm
         nhấm núi xa mảnh khảnh ,   Nước
         triều dâng sóng sánh gương trong  .   Lão say chưa tỉnh giấc nồng ,   Lá vàng tan tác trên sông rơi đầy . 
              Đề Gia Lâm tự   Tâm hôi oa giác mộng,  Bộ lý đáo thiền đường.  Xuân vãn hoa dung bạc,  Lâm u thiền vận trường.  Vũ thu thiên nhất bích,  Trì
         tịnh nguyệt phân lương.  Khách khứ tăng vô ngữ,  Tùng
         hoa mãn địa hương.         
         TQT          Dịch nghĩa   Lòng nguội lạnh với giấc mơ sừng con sên 
         Dạo bước đến cửa thiền  Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh  Rừng sâu, tiếng ve ngân dài  Mưa tạnh, trời xanh biếc một
         màu  Ao trong, trăng mát dịu toả xuống  Khách ra về, sư chẳng
         nói  Mặt đất thơm ngáy mùi hoa thông.   Chùa Gia Lâm ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm,
         ngoại thành Hà Nội       Bản dịch của Mailoc             
         Đề Thơ Nơi Chùa Gia Lâm   Vòng danh lợi lòng đà nguội ngắt   Dạo cửa thiền thanh thoát bước chân . 
          Hoa đang mỏng mảnh tàn xuân 
          Tiếng ve rừng vắng như ngân khúc
         sầu .   Trời sau mưa một bầu
         xanh ngát   Mặt ao hồ trong vắt
         ánh trăng .   Khách đi sư
         chẳng nói năng   Hoa thông rụng
         khắp hương dâng ngạt ngào .                                                     
         Mailoc            
          Chu trung độc chước 
          Thu mãn sơn thành bội tịch liêu,  Gia thư bất đáo hải thiên diêu.  Nhân tình sơ mật
         xao bồng vũ,  Thế thái cao đê phách mạn triều.  Tùng
         cúc cố lưu ta dị lộ,  Cầm thư tuế vãn hỷ đồng
         điều.  Kỷ đa lỗi khối hung trung sự,  Thả hướng tôn
         tiền thí nhất kiêu.   Dịch nghĩa   Thu
         về đầy núi, càng khiến hiu quạnh bội phần,  Thư nhà
         không đến miền biển xa xăm này.  Tình người thưa nhặt
         như mưa gõ mui thuyền,  Thói đời lên xuống như nước
         triều vỗ bờ.  Tùng cúc bạn cũ, than ôi, nay đã khác
         nẻo,  Tuổi già đèn sách, mừng rằng hợp điệu. 
         Biết bao nỗi niềm chồng chất trong lòng,  Hãy thử giả khuây
         trước chén rượu xem sao.    Dịch
         Thơ :        
               Uống Rượu Một Mình
         Trong Thuyền         Núi vào thu trông càng hiu hắt 
          Nơi biển xa vắng
         bặt tin nhà.   Tình
         người thưa nhặt mưa sa 
          Thói đời lên
         xuống sóng va mặt ghềnh 
          Bạn tùng cúc
         buồn tênh rẽ hướng 
          Bên sách đèn vui hưởng
         tuổi thu.   Ngổn
         ngang tâm sự mịt mù 
          Thử xém chén
         rượu có vơi nỗi lòng. 
                      
         Mailoc   ĐỀ Phúc
         Thành Từ Đường 
          Vân tự du du tuế nguyệt thâm,  Từ
         đường lưỡng bạn bách sâm sâm.  Hoa ngưng túc vũ
         thiên hàng lệ,  Nguyệt ấn hàn đàm nhất phiến tâm.  Ðài hạ thảo phân kim nhật lộ,  Tùng trung hạc thức cựu
         thời cầm.  Dạ lai ký đắc đăng tiền mộng,  Hải khoát
         thiên cao hà xứ tầm.      
          Dịch nghĩa 
          Mây bay man mác năm tháng lâu rồi,  Hai bên nhà thờ cây bách um tùm.  Những hạt mưa đêm
         đọng lại trên hoa như nghìn hàng lệ,  Mặt trăng in xuống
         đầm lạnh như một mảnh lòng.  Dưới đài, cỏ rẽ
         thành lối đi ngày nay,  Trong cây thông, chim hạc nhớ cung đàn
         thuở trước.  Đêm đến ghi nhớ giấc mộng trước đèn,  Nhưng trời cao biển rộng biết tìm đâu?      Nguồn: Thơ văn
         Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội,
         1988   Dịch
         Thơ:             Đề
         Nhà  Từ
         Đường Phúc
         Thành     Mây lững lờ tháng
         năm man mác   Bách
         âm u bên vách từ đường. 
          Trên hoa mưa lệ
         còn vương   Mảnh
         lòng như nguyệt đáy
         gương lạnh đầm. 
          Cỏ dưới đài
         rẽ phân lối nhỏ   Trong bóng tùng hạc nhớ
         đàn xưa   Bên
         đèn mộng cũ mới vừa 
          Trời cao biển rộng
         biết đâu tìm về 
                      
         Mailoc      
          Trường An hoài
         cổ   Hà nhạc chung
         tồn cố quốc phi,  Sổ hàng lăng bách bối tà huy.  Cựu
         thời vương khí mai thu thảo,  Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp
         phi.          Dịch nghĩa   Sông núi rốt cuộc vẫn còn mà nước cũ
         đã đổi khác,  Mấy hàng bách trồng trên gò đứng
         phơi lưng dưới nắng chiều.  Khí đế vương triều xưa
         chôn vùi dưới cỏ mùa thu,  Mưa chiều hiu hắt bướm nội
         bay.    Dịch
         Thơ :        Trường
         An Hoài Cổ   Sông núi đây, đâu rồi triều
         cũ?   Bách lăng sầu
         đứng rũ tà dương. 
          Khí vương vùi
         dưới cỏ đường 
          Mưa chiều hiu hắt
         bướm đồng tủa bay 
                Mailoc          Hoàng
         Châu đạo lộ tác 
          Hành lộ thạch đầu hoạt,  Loan vân
         tạp chướng yên.  Khách phàm thu vũ ngoại,  Sơn tự tịch
         dương biên.  Lục ám tang ma địa,  Hồng minh quất dữu thiên.  Đăng xa không hữu ức,  Quy tứ hựu thê nhiên.          Dịch
         nghĩa   Đường đi đá
         núi trơn,  Mây ngàn lẫn với khói lam chướng.  Cánh
         buồn khách ngoài trời mưa thu,  Ngôi chùa trên núi trong bóng
         chiều tà.  Mầu xanh che rợp đất dâu gai,  Mầu hồng chiếu
         sáng trời quýt bưởi.  Lên xe luống những nhớ nhung,  Ý
         trở về lại thêm man mác.    Dịch
         Thơ :       Làm Trên Đường
         Đi Hoàng Châu   Đường
         đá núi trợt trơn sườn
         dốc   Khói mây ngàn
         lam độc lờ mờ.   Mưa thu buồm khách
         phất phơ   Hắt
         hiu chùa núi đứng phơi
         nắng tàn.   Cỏ
         gai dâu xanh rờn mặt đất, 
          Bưởi quit tươi
         đỏ gấc trời hồng. 
          Lên xe se sắt chạnh
         lòng,   Tâm tư
         trĩu nặng dường không
         muốn về.          Mailoc      Giang thôn tức
         sự   Tây lân thôn
         hạng cách đông lân,  Kê khuyển tương văn cận yếu
         tân.  Hải yến nhật tà đê lộng ảnh,  Giang hoa phong tế
         viễn tuỳ nhân.  Ðạo phùng mai vũ liên vân thục,  Tàm đáo tang thiên trước diệp tân.  Khước tiếu ngâm
         ông tham thắng thưởng,  Ngọc kinh quy trạo dĩ kiêm tuần. 
          Dịch
         nghĩa   Ngõ xóm Tây cách với
         xóm Đông,  Tiếng gà gáy chó sủa vọng sang nhau gần bến
         sông chính.  Dưới ánh trời tà, én biển là là bay
         giỡn bóng.  Trong làn gió nhẹ, hoa bên sông xa xa hướng theo
         người.  Lúa gặp mưa mai, chín liền đến chân mây,  Tằm đến mùa dâu, theo lá mà đổi khác.  Buồn cười
         cho nhà thơ mãi ngắm cảnh đẹp,  Đi thuyền về kinh sư
         đã trọn tuần.   Dịch Thơ : 
               Xóm Bên Sông Tức
         Cảnh    Xóm
         Tây-Đông cách nhau một ngõ   Trên bến sông gà
         chó xác xao.   Én
         chiều lượn bóng đùa
         nhau   Hoa sông gió nhẹ
         lao xao vẫy người.   Lúa, mưa xuống rợp đồng
         chín tới   Tằm,
         lá dâu ăn rỗi đầy
         nong.   Thi nhân cười
         ngất cảnh trông,   Về kinh phải chục hôm
         ròng thuyền đi.             Mailoc   
          MXT xin phép góp vui một
         bài "Quy Chu Tức Sự" : Thuyền Về Tức Cảnh như
         sau :       Gặp gở mà chi dối trá thêm   Tơ vương mộng mãi giấc êm đềm 
          Khói mờ lồng khuất cây chim
         hót   Bóng xế buồm dong sóng
         gió êm   Vách núi hơi thu về
         nhựt nguyệt   Thủy triều
         mặt nước chiếu gương đêm   Ông già chưa tỉnh còn say khướt   Lá đỏ xây thành rụng rớt thêm   Mai Xuân Thanh   Ngày 20/09/2018     
          Đỗ Chiêu Đức tham
         gia với các phần sau đây :       1. Bản chữ Hán của bài
         thơ :        歸舟即事            
         QUY CHU TỨC SỰ           詭遇念殊輕,     QUỶ
         ( NGỤY ) ngộ niệm thù khinh,   歸心夢自縈。    
         Quy tâm mộng tự vinh.( OANH ).  鳥啼煙樹沒,    
         Điểu đề yên thụ một,   帆帶夕陽行。     Phàm
         đới tịch dương hành.   秋削山容瘦,    
         Thu tước sơn dung sấu,   潮開水鑑明。    
         Triều khai thủy giám minh.   醉翁渾未醒,    
         Túy ông hồn vị tỉnh,   紅葉滿江城。    
         Hồng diệp mãn giang thành.     
                      
          陳光朝                                
          Trần Quang Triều.       2. Chú Thích :         Về nghĩa
         của bài thơ thì Thầy đã giảng rõ rồi, em chỉ chú
         thích thêm vài từ đặc biệt mà thôi :       (1). QUỶ 詭 : là Gian xảo, Dối trá,
         như QUỶ KẾ Đa Đoan. Từ nầy còn được đọc là
         NGỤY, Ví dụ như NGỤY BIỆN chẳng hạn. Trong bài thơ được
         phiên âm là QUỶ NGỘ, e là không được chính xác,
         thiết nghĩ, nên phiên âm là NGỤY NGỘ thì đúng hơn.
         NGỤY NGỘ có 2 nghĩa :      a ). Sự gặp gỡ được
         xếp đặt một cách giả dối.      b ). Gặp phải toàn
         những chuyện dối gian xảo trá.     
            (2). THÙ 殊 : là Khác nhau,
         là Đặc Biệt. nên THÙ KHINH là : Đặc biệt xem nhẹ, có
         nghĩa là Xem rất nhẹ.       (3).
         VINH( OANH ) 縈 : Từ nầy đúng ra phải đọc là OANH, nhưng
         vì muốn cho ăn vận với từ KHINH ở trên nên mới đọc
         là VINH ( Ví dụ như : Cổ Kim đọc trại thành Cổ Câm vậy
         ).       OANH 縈 : có nghĩa là Quanh Quẩn, Lòng Vòng,
         Lởn vởn, Vương Vấn... Trong bài thơ là : Mộng Tự Oanh là
         Cứ lởn vởn mãi trong giấc mộng của mình hoài !            Hai câu thơ đầu
         có nghĩa :       Trong Ý niệm thì rất xem nhẹ những
         cuộc gặp gỡ giả dối, không chân thật. Nhưng, trong lòng ( quy
         TÂM ) thì khi  về ( những cái giả dối đó ) cứ lởn
         vởn mãi cả trong giấc ngủ ( Cứ bận lòng mãi về những
         chuyện đó ). Cho nên...       2 câu Thực :            
         Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói,            
         Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà.       Một câu
         tả cảnh mơ hồ không rõ ràng, một câu là hình ảnh
         hiển hiện trước mắt của cánh buồm trong buổi chiều tà...       2 Câu Luận cũng thế :            
         Hơi thu đẽo gầy dáng núi,            
         Triều lên, mặt nước như gương sáng.       Cảnh
         trí cũng như cuộc đời, cái giả dối gian trá mơ hồ hòa
         lẫn trong cái rõ ràng chân thật của cuộc sống, nên chi... 
                   
         2 câu Kết :          醉翁渾未醒,    
         Túy ông hồn vị tỉnh,           紅葉滿江城。    
         Hồng diệp mãn giang thành.         
         Ông già say hầu như ( hồn渾 là Hầu như ) chưa chịu tỉnh
         dậy ( vì ngán ngẫm cho nhân tình thế thái ), để mặc cho
         lá thu đỏ thắm rơi đầy cả trên sông chảy ra ngoại thành
         !    3. DIỄN NÔM :              
         TỨC CẢNH SỰ ĐỜI KHI THUYỀN VỀ                    Xem thường
         đời gian dối,                
         Sao lòng mãi vấn vương.                
         Chim kêu trong mây khói,                
         Thuyền đi dưới gió sương.                
         Thu về sơ xác lá,                
         Nước đầy lắp lánh gương.                
         Lão say chưa muốn tỉnh,                
         Mặc lá đổ muôn phương !   Lục
         bát :                  Tình
         đời giả dối xem khinh,                  Trở
         về với mộng tự mình lân la.                  Khói vương
         cây, tiếng chim ca,                  Nắng
         chiều nghiêng đổ buồm xa đi về.                  Núi thu xơ
         xác  ủ  ê,                  Nước
         thu trong vắt tư bề lăn tăn.                  Say
         mèm chẳng tỉnh riêng ông,                  Lá
         thu rơi đỏ cả sông cả thành !                                                        
         Đỗ Chiêu Đức.   ___________________________________________________________________________________                    
  
  
 
  
      
      
 
 Đỗ Chiêu Đức  					Chu Văn An   
                                            
                                      Chu Văn An 朱文安 (1292-1370)
         hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là
         Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công
         nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người làng Văn
         Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện Thanh Trì,
         ngoại thành Hà Nội).               Sau
         khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở
         nhà dạy học.Học trò theo học rất đông, trong số đó
         có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát.              Năm
         Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám
         tư nghiệp,dạy cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà
         vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần
         thì lộng  quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ
         xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức,
         lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc
         , huyện Chí Linh . Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời
         Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt
         tên thuỵ là Văn Trinh.               Tác
         phẩm: Chu Văn An từng có những tác phẩm như: Thất trảm sớ,
         Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết
         ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ
         chữ Hán chép trong  Toàn Việt thi lục.               
 
 Sau đây là những bài thơ tiêu biểu của ông :      1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ   
 
                    春旦 
                                      XUÂN ĐÁN                     寂寞山家鎮日閒,    Tịch
         mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,    竹扉斜擁護輕寒。    Trúc phi tà
         ủng hộ khinh hàn.     碧迷草色天如醉,    Bích
         mê thảo sắc thiên như túy     紅濕花梢露未乾。    Hồngthấp
         hoa tiêu lộ vị can.     身與孤雲長戀岫,    Thân
         dữ cô vân trừơng luyến tụ     心同古井不生瀾。    Tâm đồng
         cổ tỉnh bất sanh lan.     柏薰半冷茶煙歇,    Bá
         huân bán lãnh trà yên yết,     溪鳥一聲春夢殘。    Khê điểu
         nhất thanh xuân mộng tàn.                     
                  朱文安          
                                          
                 Chu Văn An 
 
    *  Dịch Nghĩa :           
         Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
         lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
         căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
         Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
         ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
         với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
         ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở
         rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc
         giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng
         bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã
         cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm
         chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.    *
         DIỄN NÔM :                           Ngày  Xuân                Nhà tịch mịch núi
         cao nghe vắng vẻ,               Cửa
         phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.              
         Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,              
         Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.              
         Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,              
         Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.              
         Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,              
         Chim oang oác giật mình tan giấc mộng ! Lục bát :              Nhà cao vắng
         vẻ an nhàn,              Cửa tre xiêu
         vẹo lạnh tràn gió đông.           
           Trời xanh đồng cỏ mênh mông,           
           Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.           
           Thân như mây nổi linh đinh,            
          Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.           
           Đêm tàn lửa tắt trà vơi,            
          Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !                               
                                       
                 Đỗ Chiêu Đức.            
 
   2. Bài thơ Nguyệt Tịch
         Bộ Tiên Du Sơn Tùng Kính :     
           月夕步仙               
         Nguyệt Tịch Bộ        遊山松徑           
         Tiên Du Sơn Tùng Kính                
         朱文安                           
                      Chu Văn An 緩緩步松堤,    
         Hoãn hoãn bộ tùng đê 孤村淡靄迷。    
         Cô thôn đạm ái mê 潮回江笛迥,    
         Triều hồi giang địch quýnh 天闊樹雲低。    
         Thiên khoát thụ vân đê 宿鳥翻清露,    
         Túc điểu phiên thanh lộ 寒魚躍碧溪。    
         Hàn ngư dược bích khê. 吹笙何處去,    
         Xuy sinh hà xứ khứ,  寂寞故山西。    
         Tịch mịch cố sơn tê (tây) * Dịch Nghĩa :                
         Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du Lửng thửng dạo bước trên bờ đê dưới bóng tùng.
         Mây khói mơ  hồ như che khuất làng quê hẻo lánh. Nước
         thủy triều lên trong tiếng sáo xa xa trên sông vắng. Trời cao rộng,
         nên mây như là là thấp xuống gần ngọn ngọn cây hơn.Chim
         về tổ bay trong làn sương mát nhẹ. Cá gặp lạnh nhảy dưới
         khe nước trong biêng biếc. Đâu rồi  tiếng tiêu sáo văng
         vẳng trên sông. Để núi tây cũ thêm quạnh hiu, vắng lặng
         ! * Diễn Nôm :       Ðêm trăng dạo bước dưới
         rặng thông ở núi Tiên Du               
         Chầm chậm dưới bóng tùng,               
         Xóm nhỏ sương mông lung.               
         Nước về vang tiếng sáo,               
         Trời cao cây mây chùn.               
         Chim chiều bay về tổ,               
         Cá lạnh vượt khe rừng.               
         Tiêu thiều đà vắng ngắt,               
         Núi tây lại lạnh lùng. Lục Bát :               
         Thẩn thơ đi dưới bóng tùng,             
           Làng quê sương khói mông lung mơ màng.                Nước
         về tiếng sáo vẳng sang,               
         Trên cao mây thấp cây ngang lưng trời.               
         Chim bay về tổ sương rơi,               
         Lạnh căm khe nước quẩy đuôi cá về.               
         Tiêu thiều lặng ngắt tư bề,               
         Quạnh hiu làng cũ tái tê núi đồi !                               
                           Đỗ Chiêu
         Đức 3. Bài thơ Linh Sơn Tạp Hứng :     靈山雜興 
                       Linh Sơn Tạp Hứng 萬疊青山簇畫屏,   
         Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình, 斜陽淡抹半溪明。  
          Tà dương đạm mạt bán khê minh  翠蘿徑裏無人到,   
         Thúy la kính lý vô nhân đáo, 山鵲啼煙時一聲。  
          Sơn thước đề yên thời nhất thinh.              
          朱文安                          
                     Chu Văn An 
 
      
  * Chú Thích :       - Linh Sơn 靈山 : Tức núi
         Chí Linh, là một ngọn núi thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa,
         cao và hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu (nay thuộc xã
         Giao An, giữa Lang Chánh và Thường Xuân).    - Điệp 疊
         : là Chất chồng lên nhau, nên Vạn Điệp là Chất chồng cả
         muôn cả vạn lên với nhau.    - Thốc 簇 : là Lượng
         từ, chỉ(một) Cuộn, Bó, Bức, Tấm...    - Đạm Mạt
         淡抹 : là Thoa một lớp mỏng, trong bài thơ chỉ Ánh nắng
         chiều chiếu nhàn nhạt.    - Thúy La 翠蘿 : là những
         dây leo màu xanh biếc.    - Sơn Thước 山鵲 : là những
         con qụa núi.   - Thời 時 : là Thỉnh thoảng, là Chốc chốc. * Nghĩa bài thơ :                        
         Chợt Hứng ở núi Chí Linh      Cả muôn cả vạn
         ngọn núi xanh chồng chất lên nhau, trông như một bức bình phong
         tranh vẽ. Ánh nắng chiều nhàn nhạt chiếu làm cho dòng khe tranh
         tối tranh sáng. Trên con đường cỏ phủ đầy dây leo xanh biếc
         vì không người đi tới, thỉnh thoảng một vài tiếng qụa
         núi kêu vang trong sương khói mơ hồ.      Qủa là
         một bức tranh núi non hùng vĩ thâm u, nơi đã từng là căn
         cứ địa của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi trong
         công cuộc kháng chiến chống quân Minh.                       * Diễn Nôm :                
          
 
 Núi non trùng điệp tựa như tranh,                 
         Nắng chiếu chập chờn khe nước xanh.                 
         Cỏ biếc dây leo đường núi vắng,                  Đâu
         đây tiếng qụa khói mờ quanh.   Lục bát :                  Điệp
         trùng núi biếc tựa tranh,                  Nắng
         chiều mờ tỏ khe xanh chập chờn.                 
         Dây leo đường núi trống trơn,                  Một
         vài tiếng qụa khói sương mơ hồ.                               
                               
         Đỗ Chiêu Đức 4. Bài thơ Thanh Lương Giang :             清涼江                 Thanh
         Lương Giang 山腰一抹夕陽橫,   Sơn yêu
         nhất mạt tịch dương hoành, 兩兩漁舟畔岸行。  
         Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành. 獨立清涼江上望,  
         Độc lập Thanh Lương Giang thượng vọng, 寒風颯颯嫩潮生。  
         Hàn phong táp táp nộn triều sinh.               朱文安             
                                
          Chu Văn An * Chú Thích :  - Sơn Yêu 山腰 : là Cái
         eo của núi, là Sườn núi.  - Nhất Mạt Tịch Dương
         一抹夕陽 : là Một vệt nắng chiều.  - Bạn Ngạn
         畔岸 : là vựa sát theo bờ sông.  - Táp táp 颯颯
         : là Phần phật, là Vi vút, là Vù vù...  - Nộn Triều
         Sinh 嫩潮生 : Nước Thủy triều bắt đầu lên. * Nghĩa
         Bài Thơ :                           Dòng
         Sông Thanh Lương        Một vệt nắng chiều vắt
         ngang qua sườn núi. Trên sông từng đôi từng hàng thuyền
         câu đang dọc theo bờ sông mà về bến. Ta đứng một mình
         trên dòng sông Thanh Lương mà nhìn ngắm. Gió lạnh thổi
         vi vút từng cơn trong khi con nước thủy triều đang bắt đầu
         dâng cao.
                          
 
 * Diễn Nôm :                   Một
         vệt nắng chiều núi vắt ngang,                   Thuyền
         câu về bến xếp song hàng.                   Một
         mình đứng ngắm Thanh Lương chảy,                   Vi
         vút gió về nước lại sang.   Lục Bát :                   Nắng
         chiều sườn núi vắt ngang,                   Song
         đôi về bến hai hàng thuyền câu.                
           Thanh Lương đứng ngắm hồi lâu,                   Vụt
         vù gió lạnh lên mau thủy triều !                               
                             Đỗ
         Chiêu Đức 
 
 5. Bài thơ Thôn Nam Sơn Tiểu Khế :          村南山小憩      Thôn Nam Sơn Tiểu
         Khế    閑身南北片雲輕,   Nhàn
         thân nam bắc phiến vân khinh, 半枕清風世外情。  
         Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình. 佛界清幽塵界遠,  
         Phật giới thanh u trần giới viễn, 庭前噴血一鶯鳴。  
         Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.                
 
 朱文安            
                                 
          Chu Văn An           
 
 
 
 * Chú Thích :   - Khế 憩: là nghỉ ngơi, Nghỉ
         mệt. Tiểu Khế 小憩 : là nghỉ xả hơi một chút.  
         - Nhàn Thân : Tấm thân nhàn hạ.   - Bán Chẩm : là Nửa
         gối.   - Phún huyết : là Phun máu, mửa máu. * Nghĩa Bài
         Thơ :                    
         Nghỉ Tạm Ở Một Thôn Của Nam Sơn        Vì
         bản thân nhàn rổi nên như đám mây nhẹ trôi từ nam
         đến bắc. Làn gió mát thổi nhè nhẹ bên gối, tâm
         tình lâng lâng như vượt khỏi cuộc đời nầy. Cỏi Phật
         rất thanh tịnh u nhã như xa hẵn cỏi trần. Trước sân một con
         chim oanh hót đến mửa máu ra ( vì phải mang cái nghiệp ca hót
         của cỏi trần thế !). * Diễn Nôm :                
           Thân nhàn nam bắc dõi mây xa,                 
          Nửa gối ngoài đời gió thoảng qua.                 
          Cỏi Phật thanh u xa cỏi tục,                  
         Ngoài sân mửa máu một oanh ca !   Lục bát :                 
          Thân nhàn nhẹ tựa mây bay,             
         Thoát tình nhân thế gió lay gối đầu.                 
          Lánh trần cỏi Phật thanh u,           Trước
         sân nặng nghiệp máu trào oanh ca !                               
                        Đỗ Chiêu Đức 6.   Bài thơ Vọng Thái Lăng :             望泰陵                    
          Vọng Thái Lăng 松秋深鎖日將夕,  Tùng
         thu thâm tỏa nhựt tương tịch, 煙草如苔迷亂石。  
         Yên thảo như đài mê loan thạch 黯淡千山風更愁,   Ảm đạm thiên
         sơn phong cánh sầu 消沉萬古雲無跡。   Tiêu
         trầm vạn cổ vân vô tích. 溪花欲落雨絲絲,  
         Khê hoa dục lạc vũ ti ti, 野鳥不歸山寂寂。  
         Dã điểu bất quy sơn tịch tịch. 幾度躊躇行復行,  
         Kỷ độ trù trừ hành phục hành, 平蕪無盡春生碧。  
         Bình vu vô tận xuân sanh bích.             朱文安               
                              
          Chu Văn An  * Chú thích :  
         - Vọng : là Trông ngóng, là Nhìn về...   - Tùng thu : Những
         cây thông vào mùa thu.   - Thâm Tỏa : là Khóa kín, ở
         đây có nghĩa là Phủ trùm.   - Yên Thảo : Cỏ xanh mờ
         như khói.   - Tiêu Trầm : là Chìm đắm.   - Dã
         Điểu : Những con chim ngoài đồng nội.   - Bình Vu : là Cánh
         đồng hoang vu, là Đồng trống.     Trong bài thơ có
         2 từ Hán Việt mà nghĩa rất thông dụng là :   - Trù
         Trừ 躊躇 : là Do dự không quyết.   - Ảm Đạm 黯淡
         : là Trời mờ mờ tối. Vì là trời của mùa thu, như cụ
         Nguyễn Du đã tả trong Truyện Kiều :          
           Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây. * Nghĩa bài
         thơ :                       Trông
         Ngóng về hướng Thái Lăng         Những cây
         thông vào mùa thu vẫn xanh om phủ kín khi ánh nắng đã về
         chiều, cỏ xanh mờ ảo như rêu phủ mờ các tảng đá ngổn
         ngang. Ngàn núi chìm trong ảm đạm nên gió thổi càng cảm
         thấy buồn hơn, từ vạn cổ tiêu trầm tan biến nên mây không
         còn để lại vết tích gì nữa cả. Hoa trong khe suối muốn
         rụng cả trong cơn mưa phùn lất phất như tơ, những con chim ngoài
         đồng nội không bay về nên núi rừng càng vắng lặng. Mấy
         lần ta do dự trù trừ muốn đi rồi lại muốn đi, trong cảnh
         hoang vu mênh mông vô tận trong sắc màu biêng biếc tựa mùa xuân. * Diễn Nôm :                  Rừng
         thông phủ kín nắng chiều tắt,                
          Cỏ phủ rêu xanh đá chất ngất.                 
         Ảm đạm ngàn non gió gợi sầu,                 
         Tiêu trầm muôn thuở mây bay mất.                
          Chim không về tổ núi im lìm,               
           Hoa rụng theo dòng mưa lất phất.               
           Mấy lượt trù trừ đi lại đi,                
          Hoang vu vô tận xuân ngây ngất !   Lục bát :               
           Rừng thông phủ kín nắng tàn,            
          Cỏ mờ rêu nhạt ngổn ngang đá luồn.                 
         Âm u ngàn núi gió buồn,           
         Tiêu tan mất hút mây tuôn muôn đời.                
          Bên khe hoa rụng mưa rơi,            Chim
         chiều đâu vắng núi đồi lặng yên.               
           Trù trừ cất bước chẳng nên,           Mênh
         mông xuân biếc gợi thêm nỗi niềm !            
                                    			Đỗ Chiêu Đức 
   ______________________________________________________________________________________________________  
      
      
 Bản dịch: Mailoc, Đỗ
         Chiêu Đức, Kim Oanh, Songquang, Phương hà, Mai Xuân Thanh __________________________________________________________  
 
 
   Vài bài thơ
         của thi nhân Chu Văn An gởi bạn
         cuối tuần 
          ML       XUÂN ÐÁN 
            Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn  Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn  Bích mê thảo sắc thiên
         như tuý  Hồng thấp hoa sao lộ vị can  Thân dữ cô vân
         trường luyến tụ  Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan  Bách
         huân bán lảnh trà yên yết  Khê điểu nhất thanh xuân
         mộng tàn           Chu Văn An *    Dịch Nghĩa
         :       Sớm Xuân   Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh
         thơi,   Cửa phên nghiêng chắn hơi
         lạnh nhẹ .   Màu biếc mây trời
         làm đắm say   Hoa hồng ngậm sương
         chưa tan   Thân như mây cô đơn
         lưu luyến núi   Lòng như giếng
         cổ không gợn sóng   Khói thông
         tan, trà hết khói   Một tiếng chim
         bên suối  làm tan giấc mộng xuân    
 
   SỚM MAI  ĐẦU  XUÂN       Ngày
         nhàn hạ trên non lều vắng ,   Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn . 
          Trời trong cỏ biếc ngút ngàn
         ,   Hồng dầm sương
         sớm chưa tan lệ tràn .   Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,   Sóng lòng như cổ giếng lặng
         căm .   Hương phai trà
         nguội khói tan ,   Chim kêu
         trong suối mộng tàn giấc Xuân .                                        
         Mailoc phỏng dịch     
              Nguyệt
         tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính    。       
                            Chu Văn An     Hoãn
         hoãn bộ tùng đê,   Cô thôn đạm ái mê.   Triều hồi, giang địch quýnh,   Thiên khoát, thụ vân đê.   Túc điểu phiên thanh lộ,   Hàn ngư dược bích khê.   Xuy sinh hà xứ khứ,   Tịch mịch cố sơn tê (tây).     Dich Nghĩa: 
           Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi
         Tiên Du     Lững thững dạo chơi trên đê tùng   Làn mây nhạt che khuất làng hẻo lánh   Triều xuống tiếng
         địch trên sông nghe xa vắng   Trời rộng, mây là là
         ngọn cây   Chim về tổ bay qua sương mát   Cá gặp
         lạnh nhảy dưới khe trong   Người thổi sáo đi đâu
         vắng?   Để núi tây cũ thêm quạnh hiu.        
              ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI
         TIÊN DU   (1)   Trên đê tùng , dạo chơi  thong thả , 
          Làn khói mờ che cả cô thôn
         .   Triều hồi , địch
         vẳng bến sông ,   Trời
         quang mây lượn ngàn thông la đà .   Chim xao động sương ngà đêm mát , 
          Nước lạnh tanh cá quạt khe trong
         .   Tiếng sênh im bặt
         mênh mông ,   Núi xưa
         hiu quạnh hư không một màu .                               
         Mailoc phỏng dịch   (2) 
          Lửng thửng trên bờ thông , 
          Sương khói mờ cô thôn . 
          Triều lui tiếng sáo vẳng , 
          Trời tạnh rừng mây lồng . 
          Sương rung chim lũ lượt , 
          Cá lạnh quẫy khe trong . 
          Sênh ai vừa bặt tiếng , 
          Non cũ quạnh trời không 
                             
         Mailoc     
          Linh sơn tạp
         hứng   Vạn
         điệp thanh sơn thốc họa bình,  Tà dương đạm mạt
         bán khê minh.  Thuý la kính lý vô nhân đáo,  Sơn
         thước đề yên thời nhất thanh.       Dịch
         nghĩa   Muôn
         lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ,  Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe.  Trong lối cỏ biếc, không người đến,  Thỉnh thoảng một
         tiếng chim thước kêu trong khói mù.   Dịch Thơ       Vịnh
         Cảnh Núi Chí Linh   (1) 
          Núi chập
         chùng tựa
         tranh xanh ngát   Nửa khe sâu
         nắng nhạt
         chiều tà. 
          Lối
         mòn vắng
         lặng người
         qua,   Kêu sương
         tiếng thước
         vọng xa từng
         hồi.   (2)   Trùng
         trùng núi biếc đẹp
         như tranh,   Nhàn nhạt nửa
         lòng suối
         nắng hanh.   Cỏ biếc
         đường quanh người
         vắng ngắt, 
          Từng
         hồi thước
         quát xé
         trời thanh.                              
            Mailoc     
           Thanh Lương
         giang   Sơn yêu nhất mạt tịch
         dương hoành,  Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành. 
         Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,  Hàn phong táp táp
         nộn triều sinh.       Dịch nghĩa   Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,  Dọc
         theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một.  Đứng một
         mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,  Gió lạnh vi vút,
         nước triều dâng lên.   Dịch
         Thơ:       Sông Thanh
         Lương   Nắng
         chiều một
         vệt vắt
         lưng đồi, 
          Thuyền
         cá xuôi
         bờ cứ
         cặp đôi 
          Lặng
         ngắm Thanh Lương
         hồn lảng
         đảng,   Lao xao gió lạnh
         nước lên
         rồi.          Mailoc     Thôn Nam sơn
         tiểu khế   Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,  Bán chẩm thanh phong
         thế ngoại tình.  Phật giới thanh u, trần giới viễn,  Đình
         tiền phún huyết nhất oanh minh.     
          Dịch nghĩa 
          Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp
         nam bắc,  Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài
         cuộc đời.  Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,  Trước
         sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.   Dịch Thơ :     Núi
         Thôn Nam Tạm Nghỉ     
          Thân như mây bềnh
         bồng nam bắc 
          Nửa
         gối trăng
         gió mát
         tâm an.   Thanh u cõi Phật, lánh
         trần,   Oanh kêu, hoa rỏ máu
         loan sân ngoài 
                Mailoc 
              Vọng Thái Lăng   Tùng thu thâm toả nhật tương tịch,  Yên thảo
         như đài mê loạn thạch.  Ảm đảm thiên sơn phong cánh
         sầu,  Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.  Khê hoa dục lạc
         vũ ti ti,  Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.  Kỷ độ
         trù trừ hành phục hành,  Bình vu vô tận xuân sinh bích. 
           Dịch nghĩa 
          Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp
         về chiều,  Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá
         ngả nghiêng.  Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,  Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.  Hoa bên
         suối sắp rụng, mưa lất phất,  Chim ngoài đồng nội im tiếng,
         núi quạnh hiu.  Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,  Cỏ
         rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.    Dịch Thơ :     
           Trông Về Thái
         Lăng    Thông giăng kín ngày thu sắp
         tắt,   Đá rêu phong xanh ngát cỏ rờn, 
          Ngàn non ảm
         đạm gió
         vờn,   Mây tan muôn thuở đâu
         còn dấu
         xưa.   Hoa suối rụng
         chiều mưa
         lất phất, 
          Bặt
         tiếng chim hiu hắt
         núi ngàn. 
          Dùng dằng
         cất bước
         mấy lần, 
          Đồng
         xanh bát ngát
         sắc xuân
         mơ màng. 
                    
         Mailoc     -- Chu
         Văn An 朱文安 (1292-1370) hiệu là Tiều
         Ẩn,tên chữ là Linh    Triệt,
         tên thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước   Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người   làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện   Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).     Sau khi thi đậu thái
         học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ   ở nhà dạy học.Học
         trò theo học rất đông, trong số đó có Phạm Sư  
         Mạnh, Lê Quát.     Năm Khai Thái đời Trần Minh
         Tông ông mới nhận chức Quốc Tử   Giám tư nghiệp,dạy
         cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369)   nhà vua mải
         mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng   quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy   tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở
         ẩn   tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện
         Chí Linh . Ông mất   năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần
         Nghệ Tông (1370), được   vua làm lễ tế và đặt tên
         thuỵ là Văn Trinh.     Tác phẩm: Chu Văn An từng
         có những tác phẩm như: Thất trảm   sớ, Tiều ẩn thi
         tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước.   Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ chữ
         Hán chép trong   Toàn Việt thi lục.    ĐỖ CHIÊU ĐỨC:    Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần
         sau đây :   1.   Nguyên bản chữ
         Hán của bài thơ :      
                 春旦                               XUÂN
         ĐÁN                 
          寂寞山家鎮日閒,    Tịch
         mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,   竹扉斜擁護輕寒。    Trúc
         phi tà ủng hộ khinh hàn.   碧迷草色天如醉,    Bích
         mê thảo sắc thiên như túy   紅濕花梢露未乾。    Hồngthấp
         hoa tiêu lộ vị can.   身與孤雲長戀岫,    Thân
         dữ cô vân trừơng luyến tụ   心同古井不生瀾。    Tâm
         đồng cổ tỉnh bất sanh lan.   柏薰半冷茶煙歇,    Bá
         huân bán lãnh trà yên yết,   溪鳥一聲春夢殘。    Khê
         điểu nhất thanh xuân mộng tàn.                    朱文安                                                   Chu
         Văn An          2. Dịch Nghĩa :            
         Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
         lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
         căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
         Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
         ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
         với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
         ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở
         rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc
         giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng
         bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã
         cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm
         chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.          3.
         DIỄN NÔM :                                  Nhà tịch mịch núi
         cao nghe vắng vẻ,                Cửa
         phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.               
         Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,               
         Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.               
         Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,               
         Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.               
         Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,               
         Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !  Lục bát :           
            Nhà cao vắng vẻ an nhàn,             
          Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.            
           Trời xanh đồng cỏ mênh mông,            
           Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.            
           Thân như mây nổi linh đinh,             
          Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.            
           Đêm tàn lửa tắt trà vơi,             
          Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !                                                                
         Đỗ Chiêu Đức KIM
         OANH: Sớm Xuân 
          Núi cao nhà vắng thanh nhàn   Phên thưa gió lạnh lan tràn giá đông 
          Trời pha sắc cỏ  xanh đồng 
          Sớm mai long lánh hoa hồng điểm sương 
          Thân đây mây luyến núi vương 
          Lòng như giếng cạn sóng dường lắng
         tan   Trà vơi lửa tắt canh tàn 
          Chim kêu tỉnh mộng ngỡ ngàng giấc xuân 
          Kim Oanh        SONGQUANG:  SQ xin được phỏng dịch các bài thơ Cổ Việt
         thi của CVA qua sự giải nghĩa và phỏng dịch của ML.SQ nghĩ rang những
         bài phỏng dịch nầy chỉ cốt mua vui chứ khg thể nào diển tả
         nổi ý nguyên thuỷ của tiền nhân CVA.   Sáng Xuân   Nhà bên núi
         dìu hiu,lòng thanh thản   Hơi lạnh
         lan,phên cửa chắn len vào   Màu
         da trời biêng biếc,cỏ xanh xao   Sương
         mai sớm chưa tan,hồng ngậm giọt   Thân
         khách tựa mây đơn lưu luyến núi   Cơn sóng lòng như giếng cổ nằm phơi   Trà thuốc cạn,lửa thong khói tan rồi   Bên suối vắng,tiếng chim tàn Xuân mộng 
          songquang     
          Đêm trăng dạo bước núi Tiên
         Du   Trên đê tùng,dạo chơi đi
         lững thững   Làn mây che khuất nẻo
         cảnh cô thôn   Triều nước xuống,tiếng
         sáo vẳng bên sông   Trăng trong sáng,mây
         la đà ngọn bách   Chim về tổ
         bay qua làn sương mát   Nước
         khe sâu,cá lạnh nhảy lung tung   Tiếng
         sáo im,người thổi sếnh đã ngưng   Phía tây núi,cảnh xưa càng hiu quạnh   songquang       Vịnh cảnh núi Chí Linh   Núi xanh trùng điệp như tranh họa sỉ   Nửa lòng khe mây hé buổi chiều tà 
          Lối cỏ mòn chẳng thấy bóng người
         qua   Tiếng chim thước vọng xa mù
         sương khói   songquang       Sông Thanh Lương 
          Vệt nắng chiều vắt ngang trên sườn
         núi   Dọc dòng sông thuyền cá
         cặp từng đôi   Bờ Thanh Lương
         ngắm cảnh một mình thôi   Gió
         vi vút,nước triều dâng thấy lạnh   songquang       Núi Thôn Nam nghĩ chân   Thân
         tựa mây bồng bềnh bay Nam Bắc   Bên
         gối trăng tâm xao nhảng sự đời   Tìm cõi Phật,đường trần nên xa lánh   Nghe tiếng chim,nhìn hoa nở thảnh thơi   songquang       Vọng Thái lăng   Chiều sắp tắt rừng tùng thu chen kín   Cỏ xanh rờn,rêu che đá ngã nghiêng   Non ngàn ảm đạm,gió vờn buồn thêm  
         Mây muôn thuở tan không còn lưu dấu 
          Hoa bên suối rung,mưa chiều lất phất 
          Ngoài đồng hoang tiếng chim núi bặt
         im   Lựa lần do dự cất bước chân
         lên   Cỏ cây  rập rạp,sắc
         Xuân xanh rờn   songquang 
            PHƯƠNG
         HÀ:    1/ Phỏng dịch bài
         XUÂN ĐÁN       Sáng Đầu Xuân     
          Núi cao, nhà vắng, sống an nhàn 
          Phên nứa vẹo xiêu tránh lạnh sang 
          Ngây ngất trời say màu cỏ biếc 
          Long lanh hoa ửng giọt sương lan   Thân như mây lẻ ôm non thẳm   Lòng tựa giếng cằn cạn sóng loang 
          Lửa rụi, khói tan, trà nguội lạnh 
          Chim kêu thảng thốt mộng phai tàn. 
                               Phương
         Hà        2- Phỏng dịch bài NGUYỂT TỊCH BỘ TIÊN DU SƠN TÙNG
         KÍNH       Đêm Trăng Dạo Bước Dưới Rặng Tùng Ở Núi
         Tiên Du       Dưới tùng, lững thững dạo bờ đê   Ẩn khuất thôn làng mây khói che   Sông vắng, triều dâng, tiêu vẳng giọng 
          Trời cao, mây thấp, lá vươn khoe 
          Chim bay về tổ sau sương tỏa   Cá nhảy trong khe trốn lạnh về   Tiếng sáo lịm dần trên sóng nước 
          Non tây lặng lẽ cảnh sầu tê. 
                               
           Phương Hà       3- Phỏng dịch bài LINH SƠN TẠP HỨNG 
              Ngẫu
         Hứng Ở Núi Chí Linh     
          Núi xanh trùng điệp tựa bình phong 
          Ánh nắng chiều phai, nước sẫm dòng 
          Cỏ phủ tràn lan đường vắng lặng 
          Quạ kêu đứt quãng khuấy mù không. 
                               
             Phương Hà       4- Phỏng dịch bài THANH LƯƠNG GIANG       Sông Thanh
         Lương       Sườn núi chiều in vệt vắt ngang   Thuyền câu từng cặp sóng đôi sang   Một mình ngắm cảnh Thanh Lương ấy   Gió lạnh vi vu sóng nước tràn                      Phương
         Hà       5- Phỏng dịch bài THÔN NAM SƠN TIỂU KHẾ       Tạm Nghỉ
         Ở Thôn Nam       Nhàn nhã như mây nhẹ nhõm trôi   Hiu hiu gió mát dạ an thơi   Thanh u cõi Phật xa trần thế   Hoa đỏ nhuộm sân, nhạn cất lời.                              
            Phương Hà       6-Phỏng dịch bài VỌNG THÁI LĂNG 
              Trông
         Về Thái Lăng       Tùng che rợp bóng kín trời chiều   Phiến đá cỏ che tựa mọc rêu   Gió thổi miên man, non ảm đạm   Mây trôi biền biệt, cảnh tiêu điều   Hoa rơi bên suối, mưa lay lắt   Chim lặng ngoài nương, núi quạnh hiu   Nửa ở nửa đi ngần ngại mãi   Điệp trùng cỏ biếc ngọn liêu xiêu.  
                               Phương Hà     
           Mai Xuân Thanh: 
          Xuân Sớm   (Qua thơ diễn Nôm của thầy Mailoc)       Vắng vẻ trên
         non ở hưởng nhàn   Phên tre
         xiêu vẹo lạnh tràn lan   Mênh mông
         bãi cỏ xanh biêng biếc   Bát
         ngát sương hoa thắm chứa chan   Đỉnh
         núi mây ngàn cao quyến luyến   Lòng ta giếng cạn thấp bình an   Năm canh lửa tắt trả vơi thuốc   Một tiếng chim xuân giấc mộng tàn 
              Mai
         Xuân Thanh   Ngày 13/08/2018          
 
 
  
      
        THƠ NGUYỄN ỨC Bản dịch: Mailoc, Phương
         Hà, Đỗ Chiêu Đức     Vài
         bài thơ của Nguyễn Ức
         , một thi nhân đời Trần, xin chuyển
         đến bạn để có vài phút 
          nhẹ nhàng cho tâm
         hồn cuối tuần.   Thân   ML    Nguyễn Ức 阮億 hiệu
         là Lan Trai. Chưa rõ quê quán ở đâu, sinh và mất năm nào.
         Chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông, ông từng làm quan ở
         viện hàn lâm. Nguyễn Ức còn là bạn thân của Văn Huệ
         Vương Trần Quang Triều, có tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang
         Triều sáng lập.     Tác phẩm
         của ông hiện còn 20 bài thơ chép trong "Toàn Việt thi lục". 
              Thu
         dạ dữ cố nhân
         Chu Hà thoại cựu  
          Thu lai ngẫu bạng
         cúc hoa tùng,   Nhất thất chi lan xú
         vị đồng.   Thế sự phiếm
         luân đăng ảnh
         ngoại,   Giao tình
         thâm ký tửu
         bôi trung.   Kỷ
         hành bạch phát
         thì tương vãn,   Vạn lý thanh vân
         tín vị thông.   Ðộc đối
         bất lai kim tịch mộng,   Tây phong xuy vũ lạc
         ngô đồng.                               Nguyễn
         Ức   Dịch nghĩa    Mùa thu về, ngẫu nhiên ngồi bên khóm hoa cúc,   Cùng một nhà chi lan, hương như nhau.   Bên ánh đèn
         bàn phiếm việc đời,   Tình bầu bạn gửi hết vào
         chén rượu.   Vài sợi tóc bạc, báo tuổi đã sắp
         già,   Đường công danh vạn dặm, nay vẫn chưa tỏ lối.   Riêng gặp mặt nhau, đêm nay khỏi phải nằm mộng,   Gió
         tây hắt mưa làm rụng lá ngô đồng.    Dịch Thơ
         :      Đêm
         Thu Cùng Bạn Chu Hà Ôn
         Chuyện Cũ       Bên cúc
         vàng ngẫu nhiên cùng ngắm 
          Chung một nhà cùng
         đẳm chi lan   Bên
         đèn thế sự phiếm bàn, 
          Tình thâm gửi trọn
         chén tràn ly bôi.   Vài sợi tóc như
         vôi, già tới,   Đường công danh vời
         vợi ngàn xa.   Gặp
         nhau đêm trắng thiết tha,   Gió tây mưa dập xót
         xa ngô đồng .                  Mailoc  phỏng
         dịch       Bạc chu Ứng
         Phong đình ngẫu đề  
          Hệ lãm giang đình mịch thắng du,   Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu,   Oanh hoa bất thức
         hưng vong sự,   Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu.                          Nguyễn
         Ức   Dịch
         nghĩa    Buộc thuyền cạnh đình
         bên sông tìm chơi thắng cảnh,   Hành cung triều trước,
         đã thành gò hoang.   Mùa xuân chẳng biết việc hưng
         phế,   Làm rối nắng xuân mãi chưa thôi!    Dịch Thơ :        Bên
         Đình Ứng Phong Ngẫu Hứng 
          (1)   Buộc
         con thuyền bên đình dạo
         cảnh,   Điện
         xưa đâu để lạnh
         gò hoang.   Phế
         hưng thế sự mơ màng, 
          Oanh-hoa nào biết hót
         vang xuân về   (2) 
          Bên đình thuyền buộc
         ngắm quan san,   Cung điện
         triều xưa đã phế tàn. 
          Thế sự hưng
         vong oanh chẳng đoái,   Trong hoa xuân nắng líu lo vang. 
                       
         Mailoc       Chu quá Bắc Giang Tiên
         Du tác    Khách phàm lịch
         lịch quá Tiên Du,   Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu.   Bán tháp tịch dương cô sát quýnh,   Nhất giang minh nguyệt
         tứ kiều thu.   Sương dư hồng đạo liên vân thục,   Vũ hậu đan phong cách ngạn vu.    Quy tứ bất kham phùng
         nghịch thuỷ,   Chỉ trình hà nhật đáo Thần Châu. 
                                        
                      Nguyẽn
         Ức   Dịch
         nghĩa    Buồm khách chặng
         chặng qua Tiên Du,   Thẹn thấy non xanh đối cùng đầu bạc.   Bóng chiều rớt lại trên nửa ngọn tháp, xa tít một ngôi
         chùa cô đơn,   Một giòng sông trăng sáng, bốn nhịp
         cầu thu.   Sau khi sương sa, lúa chín vàng liền với chân
         mây,   Sau lúc mưa tạnh, chòm phong đỏ bên kia sông xa lắc.   Chịu sao nổi, khi lòng muốn về, lại gặp giòng nước ngược.   Đường đi tuy gang tấc, biết ngày nào tới Thần Châu. 
          Dịch Thơ 
              CảmTác
         Thuyền Qua Núi Tiên
         Du   Buồm lớp
         lớp qua Tiên Du chặng,   Trước non xanh đầu trắng
         thẹn thùa.   Tà
         dương hiu hắt tháp chùa, 
          Cầu thu trăng sáng
         bóng đùa dòng sông. 
          Sương vừa tan lúa
         đồng vàng ối,   Bên sông thu lá đỏ sau mưa. 
          Muốn về nước
         ngược khổ chưa?   Thần Châu gang tấc
         như rùa thuyền đi. 
                             Mailoc
         phỏng dịch     
           Biên tập Cúc
         Đường di cảo cảm
         tác    Lăng bách âm âm
         toả thuý vi,   Sổ thanh đề điểu tống tàn huy.  
         Đỉnh hồ ba phiếm long du viễn,   Hoa biểu vân thâm hạc
         vị quy.   Khách lộ kỷ niên ta lạo đảo,   Quân thiên
         ngọ dạ mộng y hi.   Ỷ lan vô hạn thương tâm sự,   Mục đoạn sơn thành lệ ám huy.                               
                         Nguyễn
         Ức   Dịch
         nghĩa    Những cây bách trên
         lăng mộ âm u, một màu xanh biếc trùm kín,   Vài tiếng
         chim tiễn đưa bóng chiều tàn.   Sóng rập rờn quanh đỉnh
         bên hồ, rồng càng xa vắng,   Mây hoa biểu mù mịt, hạc
         vẫn chưa về.   Ôi, lận đận bao năm trên con đường
         đất khách,   Mộng chập chờn giữa trời lúc nửa đêm.   Tựa lan can, chuyện đau lòng không kể xiết,    Vời trông rặng núi , những lệ gạt thầm 
              Dịch
         Thơ :   Cảm
         Tác Khi Biên Tập
         Di Cảo Của Cúc
         Đường       Lăng mộ
         âm u, bách rậm rì, 
          Chim chiều mấy tiếng
         tiễn tà huy.   Đỉnh
         hồ sóng cuộn rồng càng
         vắng,   Hoa biểu
         mây mờ hạc mãi đi. 
          Đất khách tháng
         ngày lận đận bước, 
          Bên trời hồn mộng
         chập chờn mi.   Chuyện
         lòng man mác lan can tựa,   Núi thẳm trông vời
         gạt lệ bi.             
         Mailoc phỏng dịch    Tống Nhân Bắc
         Hành   Ðô môn hồi
         thủ thụ thương
         thương,  Lập mã
         tần châm khuyến
         khách trường.  Nhất
         đoạn ly tình
         câm bất đắc,  Tân đầu chiết liễu
         hựu tà dương. 
              Dịch
         nghĩa   Ngoảnh lại cửa đô
         thành cây cối xanh xanh,  Dừng ngựa liên tiếp rót rượu mời
         khách.  Không sao ngăn nổi, một khúc tình ly biệt,  Bên
         bến sông bẻ cành liễu trong bóng chiều tà.   Dịch Thơ
         :        Tiễn
         Người Đi Phương
         Bắc   Cửa
         kinh thành cây xanh ngoảnh lại, 
          Ngựa dừng cương
         rót mãi mời anh.   Nghẹn ngào tiễn biệt
         khôn đành   Bên
         sông bẻ liễu chiều tàn
         mênh mang        
                 Mailoc   PHƯƠNG
         HÀ PHỎNG DỊCH: 1- Phỏng dịch
         bài Thu dạ dữ cố nhân
         Chu Hà thoại cựu  
              Hàn
         Huyên Trong Đêm Thu Xưa Cùng Bạn Chu Hà       Thu xưa, gặp bạn
         bên chòm cúc   Thơm ngát hương
         lan tỏa khắp nhà   Dưới ánh
         đèn đêm, người phiếm luận   Trong tình thân hữa, rượu dần pha   Tóc nay điểm bạc, già đang tới   Mây mãi mờ xanh, bạn vẫn xa   Đêm vắng dẫu mơ nào gặp lại   Ngô đồng lá rụng khắp hiên nhà.                    Phương Hà
         phỏng dịch       2- Phỏng dịch bài Bạc chu Ứng
         Phong đình ngẫu đề  
              Ngẫu
         Hứng Làm Thơ Bên Đình Ứng Phong       Bên đình, buộc
         mái chèo, lên dạo   Cung điện
         ngày xưa nay bỏ hoang   Vô thức, chim
         hoa cùng rộn rã   Xôn xao khuấy
         động nắng xuân vàng.      
                 Phương Hà phỏng dịch       3- Phỏng dịch Chu
         quá Bắc Giang Tiên Du tác        Cảm
         Tác Khi Thuyền Qua Tiên Du     
          Tiên Du từng chặng, chiếc thuyền qua 
          Thấy cảnh non xanh thẹn tuổi già 
          Ánh nắng lụi tàn trên tháp quạnh 
          Sông trăng lấp lóa dưới cầu xa 
          Sương vừa tan giọt, đồng vàng trải 
          Mưa mới ngừng cơn, lá đỏ pha 
          Bất lực khôn về khi nước ngược 
          Thần Chầu sát cận vẫn mờ nhòa 
                               Phương
         Hà phỏng dịch       4- Phỏng dịch Biên tập
         Cúc Đường di cảo cảm
         tác        Cảm Tác Khi Biên Tập Di Cảo Cúc ĐƯờng 
              Trên
         lăng, tán bách xanh rì tỏa   Khắc
         khoải lời chim tiễn nắng tàn   Sóng
         vỗ miên man, rồng mãi vắng   Mây
         lan mờ mịt, hạc chưa sang   Lạc loài
         đất lạ, bao năm tủi   Khắc khoải
         canh sầu, một giấc hoang   Đứng tựa
         lan can lòng nặng trĩu   Vời trông
         núi thẳm lệ đôi hàng....    
                       Phương hà phỏng dịch       5-Phỏng dịch Tống
         Nhân Bắc Hành       Tiễn Người Đi Phương
         Bắc       Ngoảnh lại cửa thành xanh bóng lá   Ngựa dừng mỗi chặng, rượu say cùng   Ngậm ngùi tấc dạ, sầu ly biệt   Liễu vẫy tạ từ nơi bến sông.                  Phương Hà phỏng
         dịch    Bản dịch ĐỖ
         CHIÊU ĐỨC:   Đỗ
         Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây (có chỉnh vài từ
         không chính xác theo bản của Thi Viên, mong Thầy soi xét):  
           * Bản chữ Hán cổ của bài thơ
         Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu :     秋夜與故人朱何話舊      
         Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu        秋來偶伴菊花叢,         
         Thu lai ngẫu bạn cúc hoa tùng,     一室芝蘭嗅味同。         
         Nhất thất chi lan khứu vị đồng.     世事泛談燈影外,         
         Thế sự phiếm đàm đăng ngoại ảnh     交情深寄酒杯中。         
         Giao tình thâm ký tửu bôi trung     幾莖白髮時相晚,         
         Kỷ hành bạch phát thời tương vãn,     萬里青雲訊未通。         
         Vạn lý thanh vân tín vị thông.     獨對不來今夕夢,         
         Độc đối bất lai kim tịch mộng,     西風吹雨落梧桐。        
         Tây phong xuy vũ lạc ngô đồng.                       阮億                                              
         Nguyễn Ức       * CHÚ THÍCH :    - Cố Nhân : là Người Xưa,
         là Bạn Cũ.    - Thoại Cựu : Nhắc chuyện xưa, chuyện cũ.    - Ngẫu Bạn 偶伴 : Ngẫu nhiên được bầu bạn. Thi Viên
         ghi chữ Bàng 徬 là Bàng Hoàng 徬徨.     - Khứu 嗅
         : là Ngửi, nên Khứu Vị là Ngửi mùi. Còn Thi Viên ghi chữ
         XÚ 臭: là Mùi Hôi, thối. Nên Xú Vị Đồng 臭味同
         là Mùi hôi thối giống như nhau.     - Phiếm Đàm : là
         Nói chuyện phiếm. Bản của Thi Viên là Phiếm Luận 泛論:
         là Luận chuyện phiếm, không sát nghĩa bằng Phiếm Đàm,
         hơn nữa Phiếm Luận chữ LUẬN lại sai Luật Bằng Trắc trong câu.    - Kỷ Hành : là Mấy Cọng , mấy Sợi.    - Tín 訊
         : là Âm Tín 音訊 là Tin Tức. Thi Viên ghi là Tín 信
         là Thư Tín, không sát nghĩa với từ Vị Thông 未通
         ở phía sau. Tín Vị Thông 訊未通 Có nghĩa là Không
         thông, không biết tin tức gì của nhau cả !   * DỊCH NGHĨA :                      
          Đêm Thu Nhắc Chuyện Cũ Với Người Xưa Là Chu Hà 
                  Nhớ thuở thu về, ngẫu nhiên được
         bầu bạn cùng bạn bên khóm cúc, nên một nhà cùng sực
         nức mùi của hoa chi lan. Bên ánh đèn đêm, ta cùng nhau bàn
         phiếm về chuyện đời, và cái giao tình của ta càng sâu
         đậm thêm qua chung rượu. Nay thì, lơ thơ mấy cọng tóc trắng
         khi tuổi đã về chiều, lại cách trở vạn dặm mây xanh bặc
         vô âm tín. Một mình ngồi dưới ánh đèn biết bạn
         cũng không tới được trong giấc mộng đêm nay, ngoài kia, gió
         tây đang thổi những giọt mưa thu làm rơi rụng lá ngô đồng. 
                   Khóm cúc
         tượng trưng cho sự thanh cao nhàn nhã như ẩn sĩ Đào Tiềm
         đời Tấn " Thái cúc đông ly hạ (Hái cúc ở bờ
         giậu phía đông), còn hoa chi lan tượng trưng cho tình bạn cao
         nhã thắm thiết. Nhắc chuyện cũ với bạn xưa vì quan san cách
         trở, lại bặc vô âm tín, lại tuổi già sức yếu, biết
         là khó có thể gặp lại nhau, dù là trong mộng ! Tình cảm
         quả là thắm thiết não nề trong đêm mưa thu rả rít gió
         cuốn làm rơi rụng cây lá ngô đồng !   * DIỄN NÔM :                     
           Nhớ thu gặp bạn cúc vừa hoa,                 
            Hương ngát chi lan sực nức nhà.                  
           Chuyện phiếm bên đèn bàn thế sự,                  
           Tình sâu chung rượu gởi lòng ta.                  
           Lơ thơ tóc bạc già đeo đẵng,                  
           Vạn dặm mây xanh tin vắng xa.                   
          Dẫu mộng khó mong còn gặp lại,                   
          Ngô đồng rơi rụng gió mưa sa !                                                       
         Đỗ Chiêu Đức           2. Bài thơ
         Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề :       泊舟應豐亭偶題    
          Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề     繫纜江亭覓勝遊,   Hệ lãm
         giang đình mịch thắng du  前朝行殿已荒丘。  
         Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu.  鶯花不識興亡事,  
         Oanh hoa bất thức hưng vong sự   撩亂春光未肯休。  
         Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu.                    阮億                                              
         Nguyễn Ức       * CHÚ THÍCH :     - Bạc Chu :là Ghé thuyền,
         đậu thuyền lại.     - Ngẫu Đề : là Ngẫu nhiên đề
         thơ, là bất chợt viết nên bài thơ.    - Hệ Lãm : Hệ
         là Buộc, Lãm là Quấn quanh bằng dây luộc( dây chão ), nên
         Hệ Lãm là Từ Kép chỉ việc trói buộc, cột chặc. 
           - Thắng Du : Thắng cảnh để du ngoạn, chỉ Cảnh đẹp. 
           - Hành Điện : Cung điện xây tạm cho vua chúa ở khi đi ra
         ngoài, thường gọi là Hành Cung 行宮, ở đây vì muốn
         cho hợp Bằng Trắc nên mới đổi Hành Cung thành Hành Điện
         行殿.    - Oanh Hoa : Chim Oanh và Hoa là 2 biểu tượng của mùa
         Xuân.    - Liêu Loạn : là Rối loạn, là lộn xộn.   
         - Vị Khẳng : là Không chịu, nên Vị Khẳng Hưu 未肯休
         là Không chịu ngừng nghỉ.   * DỊCH
         NGHĨA :                        
          Ngẫu Nhiên Đề Thơ Ở Đình Ứng Phong Khi Đậu Thuyền           Cột chặc thuyền ở cái đình ven sông
         để lên bờ tìm thắng cảnh du ngoạn. Chỉ thấy hành cung của
         triều trước nay đã là những gò đất hoang. Chim oanh và
         hoa cỏ không biết đến việc hưng vong thạnh suy gì cả, cứ
         nở tràn lan và hót liú lo làm rối loạn cả ánh nắng
         xuân vẫn chưa chịu ngừng nghỉ.( vẫn dửng dưng trước cảnh
         tang thương biến đổi của cuộc đời !)          Đọc bài thơ nầy làm cho
         ta nhớ đến bài " Sơn Phòng Xuân Sự 山房春事 "
         của Sầm Tham với hai câu :                   庭樹不知人去盡,  
         Đình thọ bất tri nhân khứ tận,                 
          春來還發舊時花。   Xuân lai hoàn phát
         cựu thời hoa.  Có nghĩa :                
          Cây cỏ biết đâu người đà vắng,                 
         Xuân về vẫn trổ những hoa xưa !     
          * DIỄN NÔM :                
          Thuyền buộc giang đình tìm thắng cảnh,               
           Hành cung ngày trước đã hoang tàn.                 
         Oanh hoa chẳng biết chi hưng phế,                  
         Ríu rít chào xuân mãi chẳng màng !    Lục bát : 
                         Buộc thuyền tìm
         cảnh du xuân,                  Hành
         cung triều trước đã thành gò hoang.                 
         Oanh hoa chẳng biết thương tang,                 
         Líu lo hoa nở rộn ràng nắng xuân !                                                         Đỗ
         Chiêu Đức               3. Bài thơ "Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác": 
            舟過北江仙遊作    
            Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác     客帆歷歷過仙遊,    
         Khách phàm lịch lịch qúa Tiên Du,  羞見青山對白頭。    
         Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu  半塔夕陽孤剎迥,    
         Bán tháp tịch dương cô sát quýnh,  一江明月四橋秋。    
         Nhất giang minh nguyệt tứ kiều thu.  霜餘紅稻連雲熟,    
         Sương dư hồng đạo liên vân thục,  雨後丹楓隔岸迂。    
         Vũ hậu đan phong cách ngạn vu,  歸思不堪逢逆水,    
         Quy tứ bất kham phùng nghịch thủy,  咫程何日到神州
         ?     Chỉ trình hà nhật đáo thần châu ?  
                        阮億                                              
         Nguyễn Ức       * CHÚ THÍCH :     - Bắc Giang Tiên Du : là huyện
         Tiên Du thuộc phủ Bắc Giang, nơi xuất hiện một nhân vật huyền
         thoại đời nhà Trần qua truyện cổ " Tuyền Kỳ Mạn Lục
         " của Nguyễn Dữ, đó chính là anh chàng Từ Thức gặp
         tiên ở hang động Từ Thức còn lưu dấu đến hiện nay.     - Khách Phàm : Không phải là Khách phàm tục, mà
         là Thuyền buồm của khách.     - Cô Sát : là Ngôi
         chùa đơn độc.     - Quýnh 迥 : là Xa xôi vắng vẻ,
         nhưng ở đây dùng để tả Ngọn Tháp của chùa, nên
         Quýnh có nghĩa là vượt lên cao chót vót theo như thành
         ngữ "Tháp Thế Cô Quýnh 塔勢孤迥" có nghĩa :
         Thế tháp đứng một mình cao lên chót vót.     - Vu
         迂 : là Xa xôi lòng vòng.     - Quy Tứ : Ý muốn về
         lại quê nhà.     - Nghịch Thuỷ : là Nước ngược.     - Chỉ Trình : là hành trình chỉ gần trong gang tấc. Hà
         Nhật : là Ngày nào ? là Bao giờ ?     - Thần Châu : Tên
         ngọn núi tiên ở, tức non Thần. Đoạn trường tân thanh có
         câu :                          Bâng
         khuâng đỉnh Giáp non Thần.                      
         Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.           Thần Châu còn được
         dùng để chỉ vùng đất kinh đô, đất của vua. 
          * DỊCH NGHĨA :                         
         Cảm Tác Khi Thuyền Đi Qua Tiên Du Bắc Giang         
          Những cánh buồm của thuyền khách lần lượt đi qua núi
         Tiên Du. Ta thẹn vì núi xanh vẫn còn đó mà đầu ta thì
         đã bạc trắng cả rồi. Ngôi chùa đơn độc trong ánh
         nắng chiều với nửa ngọn tháp vượt lên trên trời cao chót
         vót, và một dòng sông đầy ánh trăng sáng với bốn
         nhịp cầu thu. Sau tiết Sương Giáng đồng lúa chín đỏ
         rực như liền tận chân mây, và sau cơn mưa lá phong đỏ 
         rực lên xa xa ở bên kia bờ sông uốn khúc. Ta có ý trở
         về quê nhưng không được vì gặp phải con nước ngược,
         hành trình từ đây đến Thần Châu rất ngắn, nhưng bao
         giờ mới tới được Thần Châu đây ?          
         Rõ khéo ngớ ngẩn, ngang qua núi Tiên Du, nhớ chuyện Từ Thức
         gặp Tiên, rồi thác cớ là muốn về quê nhưng gặp phải
         nước ngược, nên muốn đến Thần Châu để gặp tiên
         một chuyến, vì nơi tiên ở nếu nói xa thì ở ngoài ngàn
         dặm, còn bảo gần thì chỉ trong gang tấc mà thôi !   * DIỄN NÔM :                   
          Thuyền khách Tiên Du lũ lượt qua,                    
         Núi xanh trông thẹn trắng đầu ta.                   
          Nắng chiều nửa tháp chùa cao vút,                    
         Trăng sáng một dòng cầu bắt qua.                    
         Sương giáng liền mây đồng lúa chín,                    
         Mưa thu đỏ lá bến bờ xa.                    
         Muốn về chẳng được vì con nước,                    
         Gang tất Thần Châu mấy thuở qua ?      Lục bát :  
                            Tiên Du
         lớp lớp buồm qua,                     Thẹn
         cùng núi biếc đầu đà trắng tinh.                   
          Nắng chiều chùa tháp vươn mình,                    
         Cầu thu sông nước nguyệt minh một dòng.                    
         Sương pha lúa chín đầy đồng,                    
         Sau mưa lá đỏ bên sông bàng hoàng.                   
          Muốn về nước ngược khó sang,                    
         Non Thần ngắn ngủi mơ màng đến chơi !                                                                
         Đỗ Chiêu Đức
     4.
         Bài thơ " Tống Nhân Bắc Hành ":            送人北行                 Tống
         Nhân Bắc Hành t  都門回首樹蒼蒼,   
         Đô môn hồi thủ thọ thương thương,  立馬頻斟勸客觴。   
         Lập mã tần châm khuyến khách trường.  一段離情禁不得,   
         Nhất đoạn ly tình cấm bất đắc,  津頭折柳又斜陽。   
         Tân đầu chiết liễu hựu tà dương.                   阮億                                              
         Nguyễn Ức   *CHÚ THÍCH :    
         - Đô Môn : là Cửa của Kinh đô, kinh thành.     - Lập
         Mã : là Dừng ngựa lại.      - Tần Châm : là Thỉnh
         thoảng lại rót (rượu).     - Trường 觴 : là Chén
         uống rượu.     - Cấm Bất Đắc : là Cấm không được,
         có nghĩa là " Không ngăn được ".     - Tân Đầu
         : là Bến nước.       * NGHĨA BÀI THƠ :                               
          Đưa Người Đi Về Phương Bắc         
          Quay đầu nhìn lại cửa kinh đô chỉ thấy cây xanh một
         màu. Dừng ngựa lại không ngừng rót rượu khuyên mời khách,
         nhưng cũng không sao ngăn được cái đoạn ly tình nầy, nên
         nơi bến nước ta vẫn phải bẻ cành liễu để tặng bạn
         làm roi ngựa lên đường khi trời lại ngã về chiều. 
                    Tống quân
         thiên lý, chung tu nhất biệt 送君千里,終須一別。Có
         nghĩa : Dù cho có đưa nhau một ngàn dặm đi nữa, rốt cuộc
         rồi cũng phải chia tay mà thôi ! Tình cảm tiễn đưa quyến
         luyến thật thắm thiết làm sao ! Đọc câu Đô môn hồi
         thủ thọ thương thương 都門回首樹蒼蒼 lại làm
         ta nhớ đến nàng chinh phụ tiễn chồng :                          Cùng
         trông lại mà cùng chẳng thấy,                         
         Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu !                        
          * DIỄN NÔM :                  
          Cửa kinh ngoảnh lại một màu xanh,                  
          Dừng ngựa chén mời đưa tiễn anh.                  
          Một khúc ly tình ai thấu hiểu,                  
          Bên bờ bẻ liễu bóng chiều nhanh !    Lục bát :                  
          Cửa kinh ngoảnh lại xanh xanh,                  
          Chén đưa rót mãi tiễn anh lên đường.                 
           Ly tình một khúc ai tường,                  
          Bên bờ bẻ liễu sầu vương nắng chiều !                              
                              Đỗ Chiêu Đức  
                
                           
   
 
 
  
      
        THƠ PHẠM ĐÌNH HỔ Bản dịch:  Mailoc, Phương Hà, Songquang, Đỗ Chiêu Đức 
                  Cuối tuần xin gởi đến
         VTT cùng thi hữu vài  bài thơ củaPhạm Đình Hổ, một
         thi nhân nổi tiếng đời Lê Nguyễn.    Thân    ML 
          Quá Kim Liên tự  
         Bình ngạch phiêu phù khách cố kinh,  Kim Liên tự lý kỷ hồi kinh.  Tam thu thụ sắc liên thôn thuý,  Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình.  Ngoã tước sào
         biên tham định tướng,  Thạch lựu tùng bạn độ kinh thanh.  Phù sinh tự thị đa lao lộc,  Thời hướng không môn đắc
         tĩnh danh.                   Phạm
         Đình Hổ   Dịch
         nghĩa   Cánh bèo trôi nổi,
         làm khách kinh đô cũ  Nơi chùa Kim Liên, đã mấy lần
         qua  Sứac lá ba thu, liền với xóm làng xanh biếc  Vạn khoảnh
         hồ sáng, phẳng lặng như một tấm gương  Tổ sẻ ngói
         ở bên, tham định tướng  Khóm thạch lựu gần cạnh, đón
         tiếng kinh  Kiếp phù sinh tự gặp nhiều vất vả  Thường
         hướng cửa thiền để được yên than   Dịch Thơ :         Qua Chùa Kim Liên   Khách bèo dạt nơi
         kinh thành cổ   Chùa
         Kim Liên mấy độ thăm qua. 
          Ba thu, cây biếc, xóm
         nhà,   Hồ
         trong phẳng lặng như là mặt
         gương.   Tổ
         sẻ ngói như dương định
         tướng   Khóm thạch
         hựu đang tưởng lời kinh, 
          Phù sinh thương xót
         phận mình   Cửa
         thiền thanh tịnh tâm tình
         lặng yên           
         Mailoc phỏng dịch        Đông
         Ngạc lữ trung   Nhị thập
         niên lai nhất lữ nhân,   Đông phong hồi thủ lệ triêm
         cân.  Gia hương phao trịch nan vi hiếu,  Cơ lữ bôn trì chỉ
         vị bần.   Khách lý hựu phùng mai vũ dạ,  
         Sầu trung do mộng cố viên xuân.   Hà đương quy phỏng Lâm
         Đường cảnh,  Toạ thính tùng cầm đối bạch vân. 
              Dịch
         nghĩa   Hai mươi năm nay là
         một lữ nhân  Trong gió đông ngoái đầu nhìn lại nước
         mắt đẫm khăn  Vứt bỏ quê nhà khôn gọi là hiếu  Ngược xuôi lữ thứ cũng chỉ vì nghèo  Chốn đất
         khách lại gặp đêm mai vũ  Trong nỗi sầu còn mơ đến
         mùa xuân ở vườn xưa  Biết lấy gì để khi trở về
         tìm hỏi cảnh Lâm Đường  Ngồi nghe tiếng thông đàn
         ngắm mây trắng trôi    Dịch
         Thơ :     
             CẢNH LỮ
         THỨ Ở ĐÔNG  NGẠC 
              Hai
         mươi năm xa quê lòng chạnh, 
          Ngoảnh đầu
         nhìn đông lạnh lệ sa. 
          Hiếu đâu? ruồng
         bỏ quê nhà!   Bởi nghèo , lữ thứ
         bôn ba miệt mài.   Đêm đất khách thương
         mai tan tác,   Mộng
         vườn xưa man mác tình
         quê.   Lam Đường
         cảnh cũ tái tê, 
          Thông reo sầu lắng,
         lê thê mây ngàn. 
                    Mailoc
         phỏng dịch       Giao hành 
          Tảo khởi độc hành hành,  Quyện
         ỷ lệ chi hạ.  Cách ngạn điểu nhất thanh,  Giang sơn quang như
         hoạ.       Dịch nghĩa   Sớm
         dậy một mình thủng thẳng đi  Đi mệt ngồi tựa dưới
         gốc vải  Bên kia bờ sông một tiếng chim kêu  Non sông sáng
         rực như bức vẽ        Dịch
         Thơ :              ĐI  CHƠI 
              Sống
         một mình dạo chơi thoải
         mái,   Đi mệt
         rồi gốc vải tựa lưng 
          Bên sông một tiếng
         chim hồng,   Đẹp
         như tranh vẽ núi sông rạng
         ngời!               
         Mailoc phỏng dịch           Hạ nhật giao hành       Gia hương hà
         xứ thị,  Nhật tại thiên chi đông.  Chú vọng bất khả
         kiến,  Ngã tâm không xung xung.  Trường không đa bạch vân,  Khoáng dã đa phiêu phong   Trĩ
         lập bội trù trướng,  Vô kế ký chinh hồng.             Phạm
         Đình Hổ   Dịch
         nghĩa   Quê nhà nơi đâu
         nhỉ?  Vầng dương đang ở bên trời đông  Chăm chú
         nhìn mà không thể thấy được  Lòng ta luống buồn rầu  Trên khoảng không mênh mông thật nhiều mây trắng  Dưới
         cánh đồng khoáng đãng đầy gió lang thang  Đứng lặng
         người, lòng thêm thổn thức  Không có cách nào gửi
         theo cánh chim hồng   Dịch Thơ
         :           NGÀY HÈ ĐI CHƠI   Quê nhà giờ đâu
         nhỉ ?   Mặt
         trời đang tại đông 
          Chăm chú mà không thấy, 
          Cho ta phút chạnh lòng. 
          Trên không chùm mây trắng, 
          Gió vi vu trên đồng. 
          Lặng người trong
         sầu lắng   Làm
         sao nhắn chim hồng ?            Mailoc phỏng
         dịch     
          Giang lâm mộ tuyết 
              Ngư
         chu phản trạo chính hoàng hôn,  Tán nhứ đôi diêm tố
         ảnh phồn.  Đảo trám vãn hà kim thế giới,  Tầm mai
         hữu khách tự tiền thôn.               Phạm
         Đình Hổ   Dịch
         nghĩa   Thuyền chài trở mái
         chèo đúng lúc chiều buông  Tuyết rơi như bông gieo muối
         chất ánh trắng lấp loáng  Ráng chiều hắt ngược lại,
         thế giới như bằng vàng  Có người khách tìm mai, từ
         thôn trước đến    Nguồn:
         Tuyển tập thơ văn Phạm Đình Hổ, NXB Khoa học xã hội, 1998 
          Dịch Thơ :              TUYẾT
         CHIỀU TRÊN SÔNG     
          Chiều đã buông,
         thuyền chèo trở mái, 
          Trên mặt sông tuyết
         giải trắng ngần.   Ráng chiều phản chiếu
         vàng sông,   Trước
         thôn có khách một lòng
         tìm Mai            
         Mailoc phỏng dịch       Xã
         từ hữu hoài     
          Sùng từ môn ngoại thảo thiên thiên,  Nhất độ đăng lâm nhất trướng nhiên.  Hoang thụ cựu
         truyền ca vũ địa,  Tàn bi do thức Cảnh Hưng niên. 
         Đài phong thạch hiện trình tân lục,  Sương nhiễm đan
         phong táo mạc thiền.  Lữ thứ quy lai hà sở kiến,  Hàng
         hàng kiều mộc chính lăng thiên.               
         PĐH   Dịch nghĩa 
          Ngoài cửa ngôi đền cao, cỏ chen chúc  Mỗi bước lên tới, mỗi buồn rầu  Chỗ cây hoang mọc,
         xưa truyền là nơi ca múa  Trên tấm bia nát, còn thấy niên
         hiệu Cảnh Hưng  Rêu phong nền đá bày rõ màu xanh mới  Sương nhuộm cây phong đỏ, tiếng ve chiều kêu  Chốn lữ
         thứ trở về có gì để thấy  Dãy dãy cây cao đang
         vươn lên bầu trời     
          Dịch Thơ :             CẢM
         HOÀI ĐỀN CŨ   Ngoài
         cửa đền cỏ gai chen chúc, 
          Mỗi bước lên
         một chút vương buồn. 
          Bãi hoang xưa chốn
         vũ trường,   Bia
         tàn niên hiệu Cảnh Hưng chưa
         mờ.   Nền
         đá cũ xanh lơ rêu bám, 
          Rừng phong sương
         buồn thảm tiếng ve.   Lặng nhìn, lữ thứ
         sắt se,   Rậm
         rì cổ thụ vươn che nền
         trời          
         Mailoc phỏng dịch     
           Quy cố viên hương 
          Đoạn ngạnh phiêu bồng tuế lưỡng
         chu,  Thôi biều trùng tác cố hương du.  Tùng kinh tu trúc
         tương cao hạ,  U thảo hoang khâu bán hữu vô.  Chinh vụ ảnh
         hòa triêu ải sắc,  Cô thiền thanh nhập tịch dương thu.  Bằng lan hồi tưởng đương niên sự,  Nghĩ hướng thương
         thương vấn cố ngô.               
         Phạm Đình Hổ   Dịch
         nghĩa   Lìa cành phiêu bạt
         hai năm tròn  Bơ phờ lại làm kẻ về chơi quê cũ 
         Bụi gai khóm trúc lô nhô cao thấp  Gò hoang cỏ tối nửa
         thực nửa hư  Bóng cò bay xa lẫn vào màu sương sớm  Tiếng ve đơn độc chìm trong chiều thu  Tựa lan can nhớ lại
         việc buổi đương niên  Muốn hướng lên trời biếc hỏi
         việc cũ của ta     Dịch
         Thơ :         VỀ
         QUÊ CŨ       Xa quê nhà, hai năm phiêu bạt, 
          Tấm thân tàn,
         phờ phạc về thăm. 
          Trúc-gai cao thấp chen chân, 
          Gò hoang cỏ tối
         nửa gần nửa xa.   Bóng cò lượn mờ pha sương
         sớm,   Ve ngân sầu
         lúc chớm thu sang.   Nghĩ xưa, khi tựa lan can,   Việc mình trời có
         thấu cùng ta chăng ?                  
         Mailoc phỏng dịch     
          Phạm Đình Hổ (chữ
         Hán: 范廷琥, 1768-1839) tên chữ là Tùng Niên (松年), Bỉnh
         Trực (秉直), hiệu: Đông Dã Tiều (東野樵),
         tục gọi là Chiêu Hổ. Ông là nhà nghiên cứu văn
         hóa, nhà văn và nhà thơ của Việt Nam ở
         khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. 
          Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768),
         người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng,
         tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). 
          Sinh trong một gia đình khoa bảng, cha ông
         là Phạm Đình Dư, đậu cử nhân, làm Hiến sát Nam
         Định, thăng Tuần phủ Sơn Tây, rồi cáo quan về ở phường
         Hà Khẩu (Hàng Buồm) năm Giáp Ngọ (1774).   Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí
         rằng: Làm người con trai phải lập
         thân hành đạo...Lấy
         văn thơ nổi tiếng ở
         đời...[1]. Tuy học & đọc nhiều sách (năm
         9 tuổi, ông đã học sách Hán thư), nhưng ông chỉ
         đỗ đến sinh đồ (tức tú tài) vào khoảng cuối
         đời Chiêu Thống.   Gặp buổi
         loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống cho người chạy sang cầu viện nhà
         Thanh, rồi triều đình Lê Trịnh sụp đổ, nhà
         Tây Sơn lên cầm quyền... Suốt quãng thời gian này, Phạm
         Đình Hổ sống đời cơ hàn dạy học ở quê.  
         Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi
         phục lại việc học hành thi cử; ông có đi thi Hương ba
         lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy học
         ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng
         Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại
         đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương. 
          Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu
         ông và Phan Huy Chú vào Huế đợi mệnh cất dùng, nhưng
         vì ốm ông không vào được.   Năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy, Phạm
         Đình Hổ ở tuổi 53, được vời ông đến hỏi về
         học vấn, thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc. Lại
         khuyên hễ có những sách tiền triều, sách trước thuật...
         nên đem tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách
         do mình biên soạn, bèn được triệu vào Huế làm
         Hành tẩu Viện Hàn lâm, được ít lâu, ông xin từ chức. 
          Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu
         ông, cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm
         Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm sau, xin nghỉ bệnh rồi từ chức.
         Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học
         sĩ.   Năm Nhâm Thìn (1832), ông
         xin về hưu luôn. Năm Kỷ Hợi (1839), Phạm Đình Hổ mất,
         thọ 71 tuổi       PHƯƠNG
         HÀ phỏng dịch 
          Phương Hà xin cố gắng theo bước anh
         Mai Lộc , gởi đến Thầy và VTT các bài phỏng dịch sau đây:     
          1- Phỏng dịch bài Quá Kim Liên Tự
         của Phạm Đình Hổ     
          Qua chùa Kim Liên       Thân tựa
         cánh bèo dạt cố kinh   Chùa xưa
         ghé lại, nặng ân tình   Trời
         thu sắc nhuộm, cây ngời biếc   Mặt
         nước gương soi, cảnh lặng thinh   Sẻ
         ngói gật gù, tâm chánh niệm   Lựu
         vườn đứng lặng, trí an nhiên   Phù
         sinh một kiếp đầy lo lắng   Tìm
         đến cửa thiền dạ ổn yên    
                       Phương Hà phỏng dịch 
              2- Phỏng
         dịch bài Đông Ngạc Lữ Trung của Phạm Đình Hổ 
              Đời
         Lữ Khách Ở Đông Ngạc       Sống cảnh tha phương hai
         chục năm   Gió đông ngoái lại,
         lệ đằm khăn   Xa lìa quê mẹ,
         rời câu hiếu   Xuôi ngược xứ
         người, lo miếng ăn   Đất lạ
         đêm mưa, mai trút cánh   Vườn
         xưa ngày mộng, dạ vời xuân   Lấy
         gì gợi cảnh Lâm Đường cũ   Chỉ tiếng đàn thông, mây trắng lan                    Phương Hà phỏng
         dịch       3- Phỏng dịch bài Giao Hành của Phạm Đình Hổ 
              Đi
         Chơi       Một mình lên đường chơi   Mệt, tựa gốc vải ngồi   Chim hót bên sông vẳng   Nước
         non đẹp rạng ngời          
         Phương Hà phỏng dịch     
          4- Phỏng dịch bài Hạ Nhật Giao Hành
         của Phạm Đình Hổ     
          Ngày Hè Đi Chơi 
              Quê
         nhà ở tại phương nào nhỉ ?   Sáng
         rực mặt trời đang hướng đông   Chói lọi mắt nhìn không thấy ảnh   Bùi ngùi dạ nghĩ chẳng an tâm   Tầng không mây tụ đan trùng điệp   Ruộng rẫy gió qua thổi lộng lồng   Đứng lặng bên đường, tim thổn thức 
          Làm sao nhắn được cánh chim hồng
         ?               Phương
         Hà phỏng dịch      
         5- Phỏng dịch bài Giang Lâm Mộ Tuyết
         của Phạm Đình Hổ     
          Tuyết Chiều Trên Sông 
              Thuyền
         chài trở mái lúc chiều buông   Tuyết
         xuống mênh mông trắng ngập sông   Vàng
         óng ráng chiều soi phản chiếu   Khách
         tìm mai đến tự bên thôn.    
                   Phương Hà phỏng dịch       6-Phỏng
         dịch bài Xã Từ Hữu Hoài của Phạm Đình Hổ 
              Cảm
         Hoài Tại Ngôi Đền Trong Xã       Ngoài sân đền cổ,
         cỏ đan dầy   Bước đến gần
         bên dạ nẫu ngây   Sân khấu nơi
         này đâu dấu cũ   Cảnh Hưng
         năm ấy vẫn bia đây   Rêu loang
         lổ mọc trên nền đá   Ve nức
         nở gào giữa đám cây   Về
         lại, bùi ngùi khi chỉ thấy   Điệp
         trùng cổ thụ vút trời mây.    
                 Phương Hà phỏng dịch       7-Phỏng dịch
         bài Quy Cố Viên Hương của Phạm Đình Hổ       Về
         Quê Cũ       Hai năm phiêu bạt biệt quê hương   Về lại, xác xơ, lặng lẽ buồn   Trúc lão, bụi dầy, cành hỗn độn   Gò hoang, lau úa, cảnh hoang đường  
         Lửng lơ bông cỏ, sương mai tỏa 
          Sầu não lời ve, bóng tối buông 
          Đứng tựa lan can mơ thuở trước 
          Chuyện ta, tròi thẳm có am tường ? 
                       Phương
         Hà phỏng dịch   SONGQUANG:  
          Qua Chùa Kim Liên 
          Thân bèo trôi nổi cổ thành 
          Chùa Kim Liên đã bao lần ghé qua 
          Ba năm cách biệt quê nhà   Hồ trong phẳng lặng như là gương soi 
          Tổ sư thiền định đang ngồi 
          Mõ chuông bên cạnh,vang lời kệ kinh 
          Xét than cũng kiếp phù sinh   Thôi thì hồi hướng để mình được
         yên.       Đời lử khách ở Đông Ngạc 
          Hai mươi năm kiếp tha hương   Giờ đây nghĩ lại khiến tuông lệ nhòa  
          Hiếu gì ?? Ruồng rẩy quê cha   Bởi nghèo,bỏ nước bôn ba xứ người 
          Sống đất khách,lỡ một đời 
          Mà còn mơ đến xưa :thời còn
         Xuân   Lam Đường luống dạ bâng
         khuâng   Còn trông mây trắng,nghe
         thong dạo đàn.       Du hành   Môt mình
         sáng dậy dạo chơi   Mệt rồi
         ,gốc vải làm nơi tạm dừng   Bên
         sông chim hót vang lung   Nước non tươi
         đẹp như lồng vào tranh     
          Ngày hè dạo chơi 
          Quê hương giờ ở phương nào nhỉ
         ?   Ánh nắng mặt trời chiếu hướng
         Đông   Tìm hoài chẳng thấy
         -- như không   Khiến ta giây phút
         chạnh lòng chẳng an       Nhìn mây trắng bay đang vần vũ   Gió vi vu như phủ ngập đồng   Lặng người thổn thức trong lòng   Làm sao nhắn được chim hồng cho quê ?? 
              Tuyết
         chìm trên sông 
          Thuyền chài gát mái chèo buông 
          Nhìn bông tuyết đỗ trên sông trắng
         ngần   Ráng vàng phản chiếu mặt
         sông   Trước thôn khách đến
         dốc lòng tìm Mai       Cảm hoài ngôi đền cổ trong Xã 
          Cửa đền nền cổ cỏ đan 
          Bước lên dạ thấy ngổn ngang nổi
         buồn   Khi xưa là chốn vũ trường 
          Cảnh Hưng bia hiệu hoang tàn còn đây 
          Rêu xanh bám đá loang đầy 
          Rừng phong sương nhuộm rạc rài tiếng
         ve   Chạnh lòng lữ khách buồn se 
          Điệp trùng cổ thụ ngăn che vòm
         trời       Vê thăm quê cũ   Hai năm cách biêt quê hương   Trở vê thăm lại sâu vương ngâp tràn   Bụi gai khóm trúc đã tàn   Gò hoang cỏ úa nửa gần nửa xa   Bóng cò bay lượn la đà   Ve sầu rả rít báo là thu sang   Mơ xưa đứng tựa lan can   Hỏi trời cao thẳm tường am chuyện mình ?       Songquang 
            ĐỖ CHIÊU ĐỨC:   
          Kính Thầy,               Mặc
         dù "rất vất vả để theo dõi FiFa world-cup 2018", Đỗ Chiêu
         Đức cũng rán tham gia với các phần sau đây :       1. Bản chữ Hán
         cổ của bài thơ "Qúa Kim Liên Tự 過金蓮寺 " của
         Phạm Đình Hổ 范廷琥 :      過金蓮寺                   Qúa
         Kim Liên Tự    萍梗漂浮客故京,   Bình ngạnh phiêu phù khách cố kinh,  金蓮寺裡幾回經。   Kim Liên Tự lý kỷ hồi kinh.  三秋樹色連村翠,   Tam thu thọ sắc liên thôn thúy,  萬頃湖光一鏡平。   Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình.  瓦雀巢邊參定相,   Ngõa tước sào biên tham định tướng,  石榴叢畔渡經聲。   Thạch lưu tùng bạn độ kinh thinh.  浮生自是多勞漉,   Phù sinh tự thị đa lao lộc,      時向空門得靜名。   Thời hướng không môn đắc tịnh danh.                范廷琥                                  
         Phạm Đình Hổ     
          2. CHÚ THÍCH :       * Kim Liên Tự 金蓮寺 : Là ngôi chùa nổi
         tiếng ở Thăng Long, nằm sát bên Hồ Tây, nay thuộc phường
         Quảng Bá, quận Tây Hồ, Hà Nội.       * Bình Ngạnh 萍梗 : Bình là Bèo, Ngạnh là
         Cành Nhánh; nên Bình Ngạnh là Cánh bèo có rể mà
         không nơi bám, thường dùng để ví với những người
         sống rày đây mai đó, không có chỗ ổn định. 
              * Phiêu Phù 漂浮 : Phiêu
         là Trôi, Phù là Nổi; nên Phiêu Phù có nghĩa là Trôi
         Nổi Nôi Trôi.       * Vạn
         Khoảnh 萬頃 : Một trăm mẫu là một KHOẢNH, nên Vạn Khoảnh
         là chỉ không gian hoặc mặt bằng rất to lớn.       * Ngõa Tước 瓦雀 : Ngõa là
         Ngói, Tước là Chim Se Sẻ; Ngoã Tước là tên riêng của
         Chim Sẻ, vì loại chim này hay làm ổ và sống ở giữa rường
         nhà và mái ngói mà có tên Ngõa Tước. Nên, Ngõa
         Tước Sào chỉ có nghĩa là Tổ Chim Sẻ mà thôi. 
              * Tham Định 參定 : là Tham
         thiền nhập định.       * Thạch
         Lựu 石榴 : là Cây Lựu, Trái Lựu; ở đây vì muốn
         đọc cho đúng Luật Bằng Trắc nên mới đọc là Thạch
         Lưu. Thạch Lựu Tùng là Cái Khóm hoặc Cái Chòm cây lựu. 
              * Độ Kinh 渡經 : là Hồi
         kinh siêu độ.       * Tự Thị
         自是 : là " Tự nó đã là ..."; nên có nghĩa
         là "Vốn Dĩ..."      
         3. DỊCH NGHĨA :                       
         Ghé Ngang qua chùa Kim Liên          
         Như cánh bèo trôi nổi, nay ta lại làm khách của đất
         kinh thành cổ xưa nầy, nơi chùa Kim Liên mà ta đã mấy
         lần ghé qua. Đã ba mùa thu qua rồi, nhưng màu sắc của cỏ cây nơi đây
         vẫn xanh biếc đến cuối thôn, và mặt Tây Hồ mênh mông
         trước mắt vẫn như một tấm gương phẵng lặng loang loáng.
         Các nhà sư vẫn đang tham thiền nhập định vô sắc
         tướng bên các tổ chim sẻ ríu rít trên rường, và
         tiếng tụng kinh siêu độ thế nhân vẫn văng vẳng bên
         chòm thạch lựu trước hiên chùa. Kiếp phù sinh vốn dĩ đã
         nhiều lao nhọc rồi, cho nên đôi lúc ta cũng nên hướng
         về cửa không để tìm chút yên tĩnh nào đó
         cho tâm hồn.              Cảnh
         chuà Kim Liên thật yến ắng thanh tịnh, làm cho tâm hồn của
         người lãng tử phiêu bạt trôi nổi đó đây của Phạm
         Đình Hổ khi đi ngang qua đây cũng tìm lại được chút
         yên tĩnh của kiếp phù sinh vốn đã nhiều vất vả
         nổi chìm !       4. DIỄN NÔM :     
                          
         Qua Chùa Kim Liên     
                    Trôi nổi
         lại làm khách cố kinh,            
         Kim Liên chùa cũ đến bao lần.            
         Ba thu cây cỏ liền thôn biếc,            
         Muôn khoảnh hồ gương phẳng nước xanh.             Kinh độ thế nhân vang khóm
         lựu,            
         Sư thiền nhập định ngẫm nhân sinh.             Cuộc đời vốn dĩ nhiều lao
         nhọc,            
         Tìm chút an nhàn chốn cửa không !                                                   
         Đỗ Chiêu Đức           
         Đây là bài diễn Nôm tệ hại nhất, vì 5 vần, không
         vần nào ăn vần nào cả !                  
         ....................................................            
                      
         Dưới đây là tài liệu văn học tìm thấy trên THI
         VIÊN  ( thivien.net ). Nhận thấy có nhiều từ và câu
         giải thích chưa đúng nghĩa ( chỉ theo ý của riêng tôi ). Nên
         trích ra đây để THAM KHẢO, chớ không dám chê trách việc
         làm của người đi trước.                                                                                
         ĐCĐ   Quá Kim Liên tự 
          Bình ngạch phiêu phù
         khách cố kinh,  Kim Liên tự lý kỷ hồi kinh.  Tam thu thụ sắc
         liên thôn thuý,  Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình.  Ngoã
         tước sào biên tham định tướng,  Thạch lựu tùng bạn
         độ kinh thanh.  Phù sinh tự thị đa lao lộc,  Thời hướng
         không môn đắc tĩnh danh.   Dịch
         nghĩa   Cánh bèo trôi nổi,
         làm khách kinh đô cũ  Nơi chùa Kim Liên, đã mấy lần
         qua  Sứac lá ba thu, liền với xóm làng xanh biếc  Vạn khoảnh
         hồ sáng, phẳng lặng như một tấm gương  Tổ sẻ ngói
         ở bên, tham định tướng  Khóm thạch lựu gần cạnh, đón
         tiếng kinh  Kiếp phù sinh tự gặp nhiều vất vả  Thường
         hướng cửa thiền để được yên thân                  Chỉ
         trích ra để tham khảo và trao đổi mà thôi !                                                             
         Nay kính,                                                          
          Đỗ Chiêu Đức ________________________________________________________________________________________  
             
      
        NGUYỄN VĂN SIÊU: Thi Nhân đời Nhà Nguyễn  Bản dịch Mailoc, Mai Xuân Thanh, Phương Hà 
                                             Cùng Bạn,    Mấy
         ngày nay gần đến 30 -4, xem TV, thấy lại hình ảnh những ngày
         hấp hối của VNCH chúng ta , đau xót muốn bung cái đầu
         bạn ơi! Để bớt stress, tôi đọc, phỏng dịch lại vài
         bài thơ cũ của thi nhân chúng ta ngày trước mong thư thả
         cái đầu một chút.   Xin chuyển đến bạn thưởng thức và
         chia sẻ vài bài thơ của Nguyễn Văn Siêu, một thi nhân nổi tiếng đời
         nhà Nguyễn.   Thân mến  
          Mailoc     
          Nguyễn Văn Siêu 阮文超 (1798-1872)
         tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜班, hiệu Phương
         Đình 方亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽昌居士,
         thuỵ Chí Đạo志道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì,
         tỉnh Hà Đông. Đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh.
         Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi
         tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là "thần
         Siêu thánh Quát". Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức án
         sát, có sang sứ Trung Hoa.    Nguyễn Văn Siêu sáng tác rất
         mạnh, các tác phẩm của ông khá đồ sộ. Về thơ ca,
         cơ bản ông có các tập thơ:  - Anh ngôn thi tập 英言詩集 (2
         quyển, 141+162 bài) gồm các bài thơ sáng tác khi ông ở Thăng
         Long  - Lưu lãm tập 流覽集 (2 quyển, 177+128 bài) gồm
         các bài thơ sáng tác khi ông ở Huế  - Mạn hứng thi tập 漫興詩集 (187
         bài) gồm các bài thơ sáng tác khi ông rời Huế về Thăng
         Long  - Vạn lý tập ...     (
         nguồn : Thiviennet )   Xuân nhật hiểu khởi 
          Túc hoả minh thư dũ,  Hiểu chung văn
         Phật đài.  Chủ nhân thôi bị khởi,  Tiểu tử báo
         hoa khai.  Dạ khí dung cô trúc,  Tình quang lộng tiểu mai.  Lưu
         oanh chuyên bất dĩ,  Ưng hữu cố nhân lai.                    Nguyễn
         Văn Siêu   Dịch nghĩa   Ngọn đèn khuya loè song sách  Tiếng chuông
         sớm vang bên chùa.  Chủ nhà tung chăn dậy  Trẻ con mách
         hoa nở  Hơi đêm đã chui vào trong ngọn trúc đứng trơ
         trọi kia  Ánh mặt trời nô giỡn trên cành mai nho nhỏ xinh xinh.  Chim hoàng oanh (sao mà) gióng giả kêu hoài?  Chắc phải có
         ông bạn xưa nào sắp tới chơi)   Dịch Th ơ :        Ngày
         Xuân Dậy Sớm   Thư
         phòng đèn đêm hắt 
          Chuông sớm ngân
         Phật đài   Chủ
         nhà tung chiếu dậy,   Con trẻ báo hoa khai.   Hơi đêm lồng
         bụi trúc,   Nắng
         sáng giỡn cành mai   Hoàng oanh líu lo mãi,   Có
         khách, chắc không sai !          Mailoc     
          Hiểu toạ   Hiểu
         toạ đối trà âu,  Không tâm lãn ứng tiếp.  Kê
         điểu thanh phục thanh,  Tình vân bố loạn điệp.                  Nguyễn
         Văn Siêu   Dịch nghĩa   Buổi sáng ngồi uống trà,  Lòng trống
         trải không muốn tiếp khách.  Gà và chim chóc kêu liên
         tiếp,  Lúc tạnh mưa, bướm bay ra cùng với đám mây. 
          Dịch Thơ :          Buổi Sáng Ngồi   Chén trà sớm mình ta ngồi
         uống,   Lòng trống
         không chẳng muốn ai rầy. 
          Chim gà tíu tít gọi bầy 
          Tan mưa trời sáng
         bướm bay loạn vườn.                 
         Mailoc       Tĩnh toạ   Thư vĩnh ngọ kê
         thần nhất khiếu,  Liêm thuỳ đáo địa nhân quá thiểu.  Vô phong bán thụ vi vi diêu,  Diệp lý đả trùng xuyên
         xuất điểu.                     
         Nguyễn Văn Siêu   Dịch nghĩa 
          Đọc sánh hồi lâu thì đến
         lúc gà gáy trưa,  Rèm buông sát đất, bên ngoài
         ít người qua lại.  Không có gió nên cây chỉ dao động
         nhè nhẹ,  Con chim bay ra mổ sâu trong lá cây.   Dịch Thơ :            
         Ngồi Lặng Yên 
          Đọc sách mãi
         tới trưa gà gáy 
          Buông sát rèm, qua lại người
         thưa.   Gió thầm
         cây cối nhẹ đưa, 
          Bắt sâu trong lá
         chim vừa vụt ra.               
         Mailoc     Đình tiền bộ nguyệt 
          Trảo trửu phần hương toạ,  Không
         tâm đãi nguyệt sinh.  Thanh ảnh di mai chí,  Tây sương nhiễu
         trúc hành.                  
         Nguyễn Văn Siêu   Dịch nghĩa 
          Quét đất, đốt hương rồi ta ngồi
         xuống,  Với cái tâm trống rỗng, ta chờ trăng lên.  Trăng
         lên làm cho hình bóng cây mai di chuyển đến chỗ ta ngồi,  Và bên mái tây, ánh trăng bao xung quanh những hàng trúc. 
          Dịch Thơ :        Trước Sân Tản Bộ
         Dưới Trăng    Quét xong, đốt
         lò hương chiều tới, 
          Thanh thản lòng ngồi
         đợi trăng lên.   Bóng mai nhích lại kề
         bên,   Mái tây khóm
         trúc bồng bềnh sương trăng. 
                     Mailoc 
              Thu dạ thính
         vũ   Hải quốc tam thu bán,  Sơn
         thành nhất vũ sơ.  Tiêu liêu quần động tức  Quyên
         trích dạ thanh  Tuỳ diệp không đìnhtế  Sao kim vạn ngoã
         dư,  Hoàn gia thử tịch mộng,  Bất uý lộ tự như. 
                       
         Nguyễn Văn Siêu   Dịch nghĩa 
          Ở vùng biển gần ba thu,  Thành trên
         núi bắt đầu mưa.  Mọi vật đều vắng lặng,  Chỉ
         nghe từng giọt mưa rơi trong đêm.  Lá cây chạm vào mái
         hiên,  Tiếng mưa rơi trên vạn miếng ngói như tiếng gõ
         vào kim loại.  Đêm nay ta mộng trở về nhà,  Không sợ
         đường bùn lầy.   Dịch Thơ
         :      Đêm Thu Nghe Mưa   Hơn ba thu sống nơi
         miền biển   Mưa
         đầu mùa
         vang tiếng trên ngàn.   Nơi nơi cảnh
         vật lặng trang,   Chỉ
         nghe tiếng nước mênh mang rì
         rào.   Trên mái hiên
         xạc xào cành lá, 
          Ngói nóc nhà ra rả thanh
         la.   Đêm nay mộng trở
         về nhà,   Đường
         xa chẳng ngại bùn pha mưa
         dầm.                   
         Mailoc phỏng dịch       Dã Khê độ   Tế
         vũ mai tiền lộ,  Phi hoa đoạn dã kiều.  Tiểu đồng thoa
         lạp túc,  Cô đỉnh cách khê chiêu.              Nguyễn Văn Siêu 
          Dịch nghĩa :   Mưa bụi lấp nơi đường trước  Hoa bay chận cái
         cầu giữa đồng  Cậu bé (đưa đò) lăn tơi nón
         nằm ngủ  Có một cái đò cách sông phải kêu 
          Dịch Thơ :       Bến Đò Dã Khê   Mưa bụi giăng con đường
         trước mắt,   Trên
         cầu quê hoa rắt lối mờ. 
          Nón tơi lăn ngũ
         bé thơ,   Bờ
         kia ơi ới con đò trơ trơ. 
                   Mailoc 
                  4-29-18      MAI XUÂN THANH: 1) Dậy Sớm Ngày Xuân   Song sách đèn
         khuya sáng lập lòe Chuông chùa
         cúng Phật vọng ngân nghe Chủ nhà
         tỉnh giấc tung chăn dậy Thằng bé
         xem hoa búp nở xòe Trơ trọi hơi
         đêm vào ngọn trúc Nô đùa
         ánh nắng rọi mai khoe Hoàng oanh giục
         giả sao vang thế ? Bạn cũ nào đây
         ghé lại hè ?          
                                     Mai Xuân Thanh   2) Ngồi Một
         Mình   Sáng sớm ngồi đây nhấp chén trà Lòng ta trống vắng chớ phiền hà Gọi bầy rối rít chim gà đói Mưa tạnh hừng đông bướm lại qua                        
                     Mai Xuân Thanh   3) Ngồi Im   Đọc sách trưa lâu gà gáy xa Buông rèm vắng vẻ ít người qua Gió đâu nhẹ khẽ cành im lặng Trong lá chim sâu mổ xuống đà                        
                  Mai Xuân Thanh   4) Thả Bộ Dưới Trăng   Ngồi xuống lò hương
         đã đốt xong Tịnh tâm thanh thản
         ánh trăng lồng Bóng mai di ảnh Hằng
         Nga hiện Khóm trúc mái tây sương
         trắng trong                             
                            
                              Mai Xuân Thanh   5) Nghe Mưa Đêm
         Thu   Ba
         thu ở biển sóng rì rào Mưa
         gió đầu non lồng lộng cao Vắng
         lặng đêm nghe từng giọt nước Êm
         ru lá rụng mỗi bờ ao Dường như
         lộp độp ngôi nhà ấy Lại
         ngỡ gõ vô ống sắt nào Đêm
         mộng về nhà ta cứ tưởng Đường
         xa lầy lội nước bùn chao    
                                  Mai Xuân Thanh   6) Dã Khê
         Lụy Đò   Mưa bụi giăng mù trước bộ hành Cầu quê mờ mịt đống hoa tranh Đưa đò thằng bé nằm phơi ngủ Tới bến đò ngang réo gọi nhanh   Mai Xuân Thanh Ngày 29 tháng 04 năm 2018   PHƯƠNG
         HÀ:  Phương Hà xin góp bài phỏng
         dịch cùng anh Mai Lộc và VTT   1- Phỏng dịch bài Xuân Nhật Hiểu Khởi của
         Nguyễn văn Siêu   Ngày Xuân Dậy Sớm   Ngọn đèn rọi xuống án thư Tiếng chuông chùa sớm vẳng đưa xa gần Chủ nhà tung vội mảnh chăn Trẻ con tíu tít báo rằng hoa khai Hơi đêm len bụi trúc ngoài Mặt trời giỡn ngọn cành mai nõn mầm Giọng oanh rộn rã hòa âm Hẳn là sắp có bạn thân ghé nhà.                        
           Phương Hà   2- Phỏng dịch bài Hiểu Tọa của Nguyễn Văn Siêu  Ngồi
         Chơi Buổi Sáng
   Một mình buổi sáng uống trà Lòng yên chẳng muốn rầy rà tiếp ai Chim muông tíu tít bên tai Tan mưa đàn bướm vui vầy giỡn mây.                        
              Phương Hà   3-Phỏng dịch bài Tĩnh Tọa của Nguyễn văn
         Siêu   Ngồi Tĩnh Lặng   Say sưa đọc sách đến trưa Rèm buông kín mít, người thưa cổng
         ngoài Cành cây không ngọn gió
         lay Có con chim nhỏ ra ngoài bắt sâu.                        
            Phương Hà   4- Phỏng dịch bài Đình Tiền Bộ Nguyệt   Tản Bộ
         Ngắm Trăng Trước Sân Đình   Quét sân, ngồi cạnh lò hương Tâm hồn thanh tịnh vô thường đợi trăng Bóng mai nhích lại thêm gần Hiên tây bụi trúc sáng ngần ánh trăng.                        
             Phương Hà   5- Phỏng dịch bài Thu Dạ Thính Vũ của Nguyễn
         văn Siêu   Đêm Thu Nghe Mưa   Ở nơi vùng biển ba thu Núi ngàn mưa chuyển âm u đầu mùa Xung quanh vắng lặng như tờ Trong đêm chỉ có tiếng mưa rì rào Mái hiên cành lá xạc xào Giọt mưa như thể chạm vào sắt ngân Mộng quay về lại cố hương Khó khăn không ngại đường trơn vũng lầy.                        
                  Phương Hà   6- Phỏng dịch bài Dã Khê Độ của nguyễn
         văn Siêu   Bến Đò Dã Khê   Trước đường mưa bụi phủ đầy Giữa đồng, cầu đã giăng đầy hoa
         bay Trẻ đò nằm ngủ lăn quay Đành kêu đò khác xa ngoài, cách
         sông.                
                     Phương Hà       _______________________________________________________________________________________________________________________          
      
         Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức,
         Quên Đi, Songquang, Mai Xuân Thanh: Thi nhân đời Nhà Nguyễn:  TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM   Cuối tuần,
         mời bạn nếu rảnh đọc và thưởng thức vài bài
         thơ của Tùng Thiện Vương, thi
         nhân nổi tiếng đời nhà Nguyễn chúng ta ngày trước. 
          ML     
          Liễu  
                                                        Miên
         Thẩm   Khứ tuế,
         xuân tàn, hoàng điểu quy,   Thu dung tiều tụy, nguyệt minh tri,   Đông phong tạc dạ xuy hà xứ,   Cánh nhạ tân sầu
         thướng hiểu mi.     
          Dịch nghĩa  
          Năm ngoái, mùa xuân đã tàn, chim
         hoàng oanh bay về   Dung nhan tiều tụy chỉ có ánh trăng sáng
         kia biết   Đêm qua gió xuân thổi ở xứ nào   Lại
         rước lấy mối sầu mới dâng lên nét mày thanh.       Dịch
         Thơ :   (1)   Năm ngoái
         oanh về xuân sắp phai   Dung nhan tiều tụy ánh
         trăng hay   Gió xuân
         đêm trước từ đâu thổi 
          Sầu sát lại
         thêm đọng nét ngài. 
          (2)   Năm
         ngoái oanh về xuân phai   Dung nhan tiều tụy, thở dài,
         trăng hay.   Gió xuân
         đâu đến lay lay,   Sầu
         thêm cao ngất đong đầy
         bờ mi!     
          Lục thuỷ  
                                     
         Miên Thẩm   Lục thuỷ thanh sơn
         thường tại,   Cô vân dã hạc đồng phi.   Đoản
         đĩnh liễu biên khách điếu,   Tiểu kiều  nguyệt hạ
         tăng quy.     
           Dịch Thơ :            Nước Biếc 
          Nước
         biếc non xanh mãi
         vậy thôi 
          Mây đơn
         hạc nội
         vẫn song đôi. 
          Thuyền
         con bờ liễu
         ai câu cá? 
          Cầu
         nhỏ sư
         về bóng
         nguyệt trôi
         !            
         Mailoc   Kim tỉnh
         oán    Mỹ nhân chiếu
         kim tỉnh,   Tỉnh để hoa nhan lãnh.   Không phòng dạ bất
         quy,   Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh. 
              Dịch nghĩa :   Người đẹp soi giếng vàng   Đáy giếng
         lộ ra dung nhan lạnh nhạt   Phòng không đêm không (dám) về
         (ngủ)   Trăng chuyển bóng ngô đồng   Dịch Thơ :        Nỗi
         Oán Nơi Giếng Vàng   Giếng
         vàng người đẹp mặt
         gương soi,   Đáy
         nước dung nhan thấy kém rồi. 
          Trở lại phòng
         không đêm chẳng dám 
          Ngô đồng bóng
         chuyển ánh trăng lơi. 
                               
         Mailoc       Giếng vàng người
         đẹp soi   Dung nhan
         kém tươi rồi,   Phòng không về chẳng dám 
          Ngô đồng bóng
         trăng lơi.                      
         Mailoc   Nam khê    Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,   Thập nhị niên tiền trú mã tình.   Lưu thuỷ tự tri
         nhân sự dị,   Sàn viên bất tác tích lai thanh. 
                                        
         Miên Thẩm   Dịch
         nghĩa    Nơi chốn sâu núi
         chập chùng, khe nước chảy ngang   Mười hai năm trước đã
         có tình dừng ngựa nghỉ tại đây   Dòng nước chảy
         như biết việc người đời đã đổi khác   (Nên)
         tiếng róc rách không giống như năm xưa nữa   Dịch Thơ :   (1)   Sâu thẩm
         suối xuyên núi điệp
         trùng   Hai mươi
         năm trước vó câu dừng. 
          Việc người thay
         đổi suối dường biết 
          Tiếng nước giờ
         nghe khác lạ lùng !   (2)   Suối
         xuyên trùng điệp núi
         rừng,   Hai mưới
         năm trước ngựa dừng nơi
         đây.   Việc
         người thay đổi suối hay, 
          Nước xưa róc
         rách ngày nay khác rồi! 
                
          Văn thiền  
          Tống quân tằng thử địa,   Nhất biệt hốt kinh niên.   Sầu sát trường đình liễu,   Thu phong khởi mộ thiền.    Dịch
         Thơ :   (1)            Nghe Tiếng
         Ve      
         Tiễn chàng từng
         ở nơi đây,   Biệt ly một thoáng
         đã đầy một năm 
          Trường đình
         liễu rũ buồn căm, 
          Thu phong vang dậy tiếng
         ngân ve chiều.                      
         Mailoc   (2)   Từng tiễn chàng nơi
         đây,   Ly biệt
         một năm đầy   Trường đình buồn
         liễu rũ,   Thu
         phong dậy ve sầu.                ML       Dạ bạc
         Nguyệt Biều    Trúc âm lương xứ dạ đình
         thuyền,   Thuỷ nguyệt, giang phong, vị nhẫn miên,   Cách ngạn
         chung lâu Thiên Mụ tự,   Thanh thanh sao phá viễn đinh yên. 
                              
         Miên Thẩm           Dịch
         nghĩa    Dưới bóng tre yên
         lặng, ở nơi mát mẻ, chiếc thuyền đậu lúc ban đêm,   Trăng dưới nước, gió trên sông, chưa đành ngủ,   Bờ bên kia, có lầu chuông Thiên Mụ,   Dội vang từng tiếng,
         phá tan làn khói ngoài xa, trên mặt sông.   Dịch Thơ :       
         Đêm Đậu Bến Nguyệt Biều   Dưới
         bóng tre, đêm
         yên thuyền
         đỗ,   Trăng-nuớc-sông
         khó dỗ
         giấc nồng 
          Bên sông Thiên Mụ
         hồi chuông 
          Ngân nga xua hết
         khói sông
         đêm trường 
                   Mailoc   Xin cám ơn anh Mai Lộc đã giới thiệu những
         bài thơ rất hay của Thi Sĩ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, người
         mà khi còn ngồi ở ghế nhà trường, PH đã nghe danh qua hai câu
         thơ truyền tụng:   " Văn như Siêu,
         Quát vô tiền Hán   Thi đáo
         Tùng, Tuy thất thịnh Đường "   Vô
         cùng hâm mộ tài dich thuật của anh ML, PH xin bắt chước phỏng
         dịch sau đây, xin gởi đến Thầy và các bạn:         
           LIỄU   (!)   Oanh về năm ngoái lúc
         xuân phai   Tiều tụy dung nhan, nguyệt cảm
         hoài   Nay gió xuân xa vừa chớm
         thổi   Đã nghe sầu nặng nét
         mi ngài       (2)   Oanh quay lại khi xuân đà
         úa   Nét tàn phai lộ rõ dưới
         trăng   Đêm qua nghe gió xuân sang 
          Lòng vương tê tái sầu dâng nét
         ngài       (3)   Cuối xuân năm ngoái,
         oanh về    Dung nhan tiều tụy, ủ ê
         trăng sầu   Nay xuân vừa chớm nơi
         đâu   Đã nghe lòng trĩu buồn
         cau nét ngài.              
                              Phương
         Hà phỏng dịch       NƯỚC BIẾC   (1)   Non xanh nước biếc mãi nơi
         đây   Mây lẻ hạc đồng đã
         vút bay   Thuyền khách buông câu
         bên gốc liễu   Trên cầu sư dạo
         dưới trăng lay.       (2)   Non xanh nước biếc
         nơi này   Mây đơn hạc nội
         cùng bay thuở nào   Dưới thuyền,
         bên liễu, khách câu   Trên cầu
         sư bước lẫn vào đêm trăng.                    
                Phương Hà phỏng dịch       KHÚC OÁN THAN NƠI GIẾNG
         VÀNG   (1)   Người đẹp soi gương mặt giếng vàng   Thấy mình tiều tụy mảnh dung nhan   Đêm về phòng chiếc khôn yên giấc 
          Nhìn bóng ngô đồng trăng tỏa lan. 
              (2) 
          Mỹ nhân soi mặt giếng vàng   Nhìn trong đáy nước dung nhan héo tàn 
          Phòng đơn đêm lạnh bẽ bàng 
          Ngô đồng soi bóng mơ màng dưới
         trăng.                           Phương Hà phỏng
         dịch       KHE SUỐI PHÍA NAM     
          (1)   Trùng
         điệp núi non, khe suối len   Năm nào
         kỵ sĩ đã dừng chân   Nước
         như hiểu rõ người thay dạ   Nên
         tiếng rì rào đã đổi âm.       (2)   Núi non trùng điệp, suối len   Nhớ chàng kỵ sĩ dừng chân năm nào   Lòng người thay đổi ra sao   Nước đà hiểu rõ, rì rào khác xưa. 
              (3) 
          Hẽm núi, khe suối len   Xưa, kỵ sĩ dừng chân   Nước biết người đổi dạ   Nên lặng lẽ thay âm     
                               Phương
         Hà phỏng dịch       NGHE TIẾNG VE     
          (1)   Tiễn
         chàng năm ấy tại nơi đây   Thoắt
         đã tròn năm nỗi nhớ đầy   Rặng liễu âm thầm chau nét mặt   Tiếng ve theo gió thoảng ngân dài.       (2)   Tiễn chàng chính tại nơi này   Thoắt đà trọn một năm đầy xa nhau   Âm thầm rặng liễu mày chau   Gió thu vẳng tiếng ve sầu xót xa.              
                      Phương Hà phỏng dịch       ĐÊM ĐẬU
         BẾN NGUYỆT BIỂU      
         (1)   Dưới
         tre, thuyền đậu giữa đêm thanh   Trăng
         nước, gió sông ngủ chẳng đành   Thiên Mụ hồi chuông xa vọng lại   Xua màn khói sóng tỏa vây quanh.       (2)   Đêm thanh thuyền đậu bóng tre   Ngủ không đành giữa tứ bề gió trăng 
          Hồi chuông Thiên Mụ vẳng sang   Xua tan khói sóng mơ màng trên sông. 
               
                          Phương Hà phỏng dịch   Đỗ Chiêu Đức mới tham gia với các
         bài dịch thơ của Tùng Thiện Vương - Miên Thẩm sau đây
         :     1.            柳             
                   LIỄU  去歲春殘黃鳥歸,     
         Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy,  秋容憔悴月明知.    
          Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri.  東風昨夜吹何處,     
         Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ?  更惹新愁上曉眉.     
         Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my.     Diễn Nôm :                         
           LIỄU           Năm ngoái xuân tàn oanh
         vội bay,           Dáng thu tiều tụy mảnh trăng
         soi.           Đêm qua gió cuốn về đâu
         nhỉ ?           Lại rước thêm sầu liễu
         sáng nay !   Lục bát :          
         Xuân tàn oanh vội bay về,           Nét thu tiều
         tụy não nề trăng soi.           Đêm qua gió
         thổi nhà ai,           Sáng nay sầu đượm
         nét ngài ủ ê !       2.         淥水 
                            LỤC THỦY   淥水青山常在,     Lục
         thủy thanh sơn thường tại,  孤雲野鶴同飛。    
         Cô vân dã hạc đồng phi.  短艇柳邊客釣,    
         Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,  小橋月下僧歸。    
         Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.     CHÚ THÍCH :      * Lục Thủy
         : là Dòng nước trong. Chữ LỤC 淥 có 3 chấm thủy 氵,
         có nghĩa là Trong trẻo. Chữ LỤC 綠 có bộ Mịch 糸 là
         sợi tơ mới có nghĩa là Màu Xanh.    * Đoản Đĩnh
         : là chiếc xuồng con.     DIỄN NÔM
         :                    Nước
         biếc núi xanh còn đó,                  
         Mây đơn hạc lẻ cùng bay.                  
         Xuồng con thả câu bờ liễu,                  
         Sư về cầu nhỏ trăng lay !  Lục Bát :            
           Núi xanh nước biếc còn đây,              
         Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.              
         Xuồng con bờ liễu câu hời,             
          Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn.       3.      金井怨             KIM
         TỈNH OÁN     美人照金井,  
         Mỹ nhân chiếu kim tỉnh,  井底華顏冷。   Tỉnh
         để hoa nhan lãnh.  空房夜不歸,   Không phòng
         dạ bất quy,  月轉梧桐影。   Nguyệt chuyển ngô
         đồng ảnh.     CHÚ THÍCH :   * Kim Tỉnh : Giếng vàng, là giếng của các nhà quyền qúy,
         trên mặt miệng giếng có dát vàng. Trong Kiều khi chuyển mùa
         Nguyễn Du cũng đã viết :                      
         Thú quê thuần hức bén mùi,                   Giếng
         vàng đã rụng một vài lá ngô.   * Hoa Nhan : là dung
         nhan của tuổi hoa niên, chỉ nét mặt son trẻ.     DIỄN NÔM :                     
         Người đẹp soi giếng vàng,                   
           Dưới giếng dung nhan lạnh.                    
          Phòng không cũng chẳng màng,                     
         Trăng soi ngô đồng ảnh.   Lục Bát :                 
         Săm soi người đẹp giếng vàng,                
          Lạnh lùng nhan cắc ngỡ ngàng tái tê.                
          Phòng không đêm chẳng buồn về,                
          Ánh trăng lay động đã xê ngô đồng !      
              4. 
                 南溪     
                          NAM KHÊ     亂山深處一溪橫,    
         Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,   十二年前駐馬情。    
         Thập nhị niên tiền trú mã tình   流水自知人事異,    
         Lưu thủy tự tri nhân sự dị,   潺湲不作昔來聲。    
         Sàn viên bất tác tích lai thinh     CHÚ THÍCH :      * Khê : Ta nói
         là Khe, là dòng nước từ trong núi chảy ra, là con sông nhỏ
         được hình thành bởi các dòng suối, mà ta quen gọi là
         SƠN KHÊ 山溪.   * TRÚ : là Trú đóng, là dừng
         lại để nghỉ ngơi, ăn uống, cắm trại... khác với Đình
         Mã 停馬 là chỉ dừng chân một chút rồi đi.   
           * Sàn Viên : từ Tượng Thanh, chỉ
         tiếng Róc ra róc rách của nước chảy.        DIỄN NÔM :                          
          Khe Suối Nam                      Ngổn
         ngang ngàn núi dòng khe cũ,                
           Dừng ngựa mười năm tình ấp ủ.                 
          Nước chảy như tình người đổi thay,                
           Róc ra róc rách không như cũ !  Lục Bát :                 Vắt
         ngang trong suối dòng khe,                
         Mười hai năm trước ấp e hàm tình.                
         Nước trôi nhân sự điêu linh,              
           Chẳng còn róc rách hàm tình như xưa !                                                        
           Đỗ Chiêu Đức
   Quên Đi xin tham gia và bổ sung thêm bản
         chữ Hán bài thơ Văn Thiền:       Liễu   Năm
         ngoái xuân tàn oanh ghé qua   Dáng
         thu xơ xác dưới trăng ngà     Gió đông đêm trước từ đâu thổi  
          Lại khiến mi buồn thêm xót xa. 
              Lục
         Thủy          
         Còn đây nước biếc non xanh     Hạc hoang mây lẻ đồng hành về đâu        Thuyền neo cạnh liễu khách câu 
          Dưới trăng nhẹ bước qua cầu bóng
         sư.       Kim Tỉnh Oán       
         Giếng vàng người đẹp thay gương   Nhìn nơi mặt nước má hường nhạt phai 
                 Phòng không đêm
         vắng thiếu ai       Ngô đồng
         bóng chiếc ngã dài theo trăng       Nam Khê   Trùng
         điệp non cao suối chảy thầm   Nơi
         đây dừng ngựa quá mười năm   Phải chăng nước biết đời thay đổi   Nên tiếng bây giờ đã đổi âm. 
                   
         聞蟬                     
         Văn Thiền       送君曾此地,  Tống
         quân tằng thử địa,     一別欻經年。  Nhất
         biệt hốt kinh niên.     愁殺長亭柳,  Sầu
         sát trường đình liễu,   秋風起暮蟬。  Thu
         phong khởi mộ thiền.            Dịch Thơ   Nơi này hai kẻ xa rời   Thế rồi cũng trọn năm trời chia tay     
                  Bên đình
         liễu úa xót thay   Chiều thu
         ảm đạm gió lay ve buồn.           
   Quên Đi   Kính các bạn vtt   SQ  nối
         tiếp các bạn ĐCĐ, PH, QĐ xin cùng vui với ML qua bài thoát dịch
         và ý của bài thơ cổ Việt của Tùng Thiện Vương.Với
         công phu sưu tầm của ML và chú thích them của Thầy đồ ĐCĐ,
         mà SQ chỉ là kẻ ăn theo để thay nhịp cầu thăm hỏi và
         cầu chúc đến vtt mọi sự bình an và sức khoẻ.       LIỄU 
              Từ
         năm trước, Xuân phai Oanh đến   Dưới
         trăng vàng xơ xác bóng Thu   Đêm
         qua gió thổi về đâu?   Khiến
         long tê tái, giọt sầu dâng mi.     
          LỤC THỦY     
          Vẫn còn đây non xanh nước biếc 
          Hạc lạc đàn, mây lẽ bay đâu? 
          Thuyền neo gốc liễu buông câu   Dưới
         trăng Sư bước qua cầu bóng lay     
          KIM TỈNH OÁN       Nước giếng vàng làm
         gương soi mặt   Thấy má hường
         phai nhạt dung nhan   Phòng không đêm
         vắng bẽ bàng   Ngô đồng lay
         động trăng loang bóng dài     
          NAM KHE SUỐI     
          Núi trùng điệp lách len khe suối 
          Mười hai năm trước, ngựa dừngchân 
          Dòng đời thay đổi bao lần  
         Róc rách nước chảy đổi âm
         rì rào       NGHE TIẾNG VE      
         Tại nơi đây, tiễn chàng một thuở   Đã xa nhau tính nhẩm tròn năm   Trường Đình, rặng liễu buồn căm   Gió Thu
         văng vẳng xa xăm ve sầu     
          ĐÊM BẾN NGUYỆT BIỀU       Đêm yên tĩnh, răng tre thuyền đỗ 
          Ngủ đành sao, nước vỗ trăng lồng 
          Tiếng chuông Thiên Mụ bên sông   Ngân
         nga vang vọng xua toang khói mờ     
          songquang   MAI
         XUÂN THANH:  
          1) Liễu     
          Oanh bay năm trước bóng xuân tàn 
          Nguyệt tỏ gương thu thấy võ vàng 
          Gió ở đâu đêm đông thổi
         lại   Muộn sầu mắt lệ đẫm
         tuôn tràn              
                                     MXT       2) Nước
         trong veo       Núi xanh nước biếc đó bao ngày   Hạc chiếc mây đơn có bạn bay   Bờ liễu xuồng con câu bắt cá   Dưới trăng cầu nhỏ bóng sư thầy                          
                         MXT   3)
         Giếng Vàng   Giếng vàng đáy
         nước bóng giai nhân   Nét mặt
         như hoa thấm lạnh dần   Gối trống
         phòng không lòng chẳng đoái   Ngô
         đồng di ảnh dưới trăng ngân    
                                            
               MXT       4) Suối Khe Nam   Chập chùng
         núi thẳm suối khe ngang   Vó ngựa
         mười năm đó ngỡ ngàng   Khác
         biệt chi người qua nước chảy   Còn
         đâu róc rách cũ tình lang !     
          Mai Xuân Thanh   Ngày
         03 tháng 04 năm 2018           Tiểu sử[   Tùng
         Thiện vương là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (tức 11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏寶), người Bình Chương, Gia Định, con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu (阮克紹), rất giỏi chữ nghĩa.   Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Hiện (晛)[1][2]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (阮福绵审). 
          Ông nội ông là Gia Long rất vui mừng, thưởng liền 10 lạng vàng[3]. Khi còn nhỏ, tính hay khóc, Thục tần rất lo mà không biết
         thế nào. Bỗng có đạo sĩ nói rằng: "Đây là
         sao Thái Bạch Kim Tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi.". Sau làm lễ, quả
         nhiên khỏi hẳn.   Năm lên 7 tuổi,
         Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường (養正堂), được thầy Thân Văn Quyền[4] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới
         8 tuổi (1827), nhân theo hầu Minh Mạng dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao
         thi, rất được tán thưởng.   Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc công (從國公),
         mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế.   Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng,
         rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn
         mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ
         mẹ cư tang ba năm.   Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện công (從善公).
         Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. 
          Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình.
         Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư
         xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên
         lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu
         ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội.   Tự
         Đức không kết tội chỉ nói ông: "Chọn rể không
         cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm". Suốt
         những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ
         Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con
         phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái
         ăn hàng ngày.   Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã (文雅). Năm 1878, ông được Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận
         vương (從善郡王).   Năm 1936[5], Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện vương (從善王),
         tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.   Tùng Thiện Vương là bạn thơ chí tình của
         Cao Bá Quát    ( Nguồn
         gốc :  Wikipedia VN )     
 
 
 
 
 
 
  
      
    
   
                                 
   
   
      
            THI NHÂN ĐỜI TRẦN:
         LÊ CẢNH TUÂN Mailoc, Đỗ
         Chiêu Đức, Phương Hà __________________________________________________________________ Cùng Bạn,     
         Đọc mấy vần thơ dưới đây của Lê Cảnh Tuân,
         một thi nhân đời nhà Trần khiến tôi vô cùng xúc dộng
         thương xót cho ai trong cảnh tù tội, bị giam cầm nơi đất
         quân thù . Xuân năm ngoái lại về, ngày Tết, càng gợi
         thêm niềm nhớ quê hương da diết mà ngày về chẳng biết
         bao giờ.  Nhớ nhà , nhớ cội mai già ( hình ảnh mẹ già đang
         ngóng đợi ) chắc nó cũng cằn cỗi xác xơ vơí thời
         gian rồi. Xin cùng bạn chia xẻ.   Thân  
          Mailoc     
          Nguyên nhật  
          Lữ quán khách nhưng
         tại,   Khứ niên xuân phục lai.   Quy kỳ hà nhật thị ?   Lão tận
         cố hương mai.               Lê Cảnh Tuân 
               Dịch nghĩa  
          Vẫn làm khách ở nơi quán trọ,   Mùa xuân năm ngoái lại trở về.   Ngày về biết lúc
         nào,    Cây mai nơi vườn cũ
         đã cỗi hết!       Dịch Thơ :   (1)  Ngày
         Đầu Năm   Vò võ bên trời
         nơi khách quán   Xuân
         năm rồi lảng đảng ngoài song.   Ngày về ai biết mà mong,   Mai già vườn cũ cõi lòng nát
         tan.   (2)   Bên trời nơi khách quán,   Xuân năm ngoái lại về   Bao giờ được quay gót,   Xót mai già chốn quê                 Mailoc 
              Mộng
         Lý Dịch Ngẫu Thành       Đoản trạo
         các tình sa,   Tiền thôn
         nhật dĩ tà.   Tự
         vô hoàn tự hữu,   Yên
         tế lưỡng tam gia.     
          Dịch Nghĩa: 
              Mái chèo ngắn gác lên bãi cát  
          Nhìn về xóm trước,
         mặt trời đã xế chiều. 
          Cảnh hư ảo
         như không lại có,   Trong lớp khói mờ có hai ba mái
         nhà.       Dịch Thơ: 
             Nơi Trạm
         Mộng Lý   (1)   Mái chèo ngắn
         vừa tựa trên cát,   Thôn
         trước mặt nắng gác non tây.   Nửa hư nửa thực cảnh
         nầy   Vài ba mái lá
         khói xây lam chiều.   (2) 
          Chèo vừa gác trên bãi, 
          Thôn trước nắng về
         tây.   Cảnh mơ màng
         thực ảo,   Mái lá
         khói chiều xây.               
         Mailoc   Lê Cảnh
         Tuân sinh năm 1350 (Canh Dần) người làng Mộ Trạch, huyện
         Đường An, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tuy nhiên, nguyên quán của ông lại là ở hương Lão Lạt,
         huyện Thống Bình, châu Ái, trấn Thanh Đô (nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), sau mới dời ra nơi ấy[2].   Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết Lê Cảnh Tuân đỗ thi Hương (cử nhân) khoảng năm Xương Phù (niên hiệu của Trần Phế Đế, ở ngôi: 1377-1388)[3].   Đến năm 1381, thì ông đỗ Thái học sinh (được xem là tương đương
         học vị Tiến sĩ sau này) [4].   Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Tức giận, ông bày mưu khuyên bạn thân là Bùi Bá Kỳ (một tỳ tướng của Trần Khát Chân) sang Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay) xin quân đánh Hồ[3].   Năm 1406, nhà Minh mượn cớ "phù Trần diệt Hồ" sang xâm lược nước Việt. Do Bá Kỳ làm tiên phong dẫn đường [3], ngày 12 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1407), Hồ Quý Ly và hai con (Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương) đều bị quân đối phương bắt sống tại Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), rồi bị áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Kể từ đó, nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh.   Lập được công lớn, Bùi
         Bá Kỳ được nhà Minh cho làm chức Hữu tham nghị. Thất vọng vì biết vua quan nhà Minh không có ý định tái lập nhà Trần, năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) đời vua Giản Định Đế, ông viết Vạn ngôn thư (Bức
         thư một vạn chữ) khuyên Bùi Bá Kỳ yêu cầu nhà Minh giữ lời hứa (xem bức thư ở
         bên dưới).   Gặp khi
         Bá Kỳ vì cớ khác phải tội [5], quân Minh đến khám nhà Bá Kỳ bắt được bức thư
         của ông, nên truy lùng bắt tác giả. Lê Cảnh Tuân phải
         đổi tên đi trốn một thời gian.   Năm 1411, quân Minh lập Giao Châu học hiệu tại Thăng Long, ông muốn đến xem. Nghe con ông thiết tha ngăn cản, ông nói: 
          Nhà ta đời đời
         ăn lộc (nhà Trần). Một bức thư "Vạn
         ngôn" đã tiết lộ không thành. Nay ta hết
         lòng thành báo nước, dù chết còn vinh,
         tiếng trung nghĩa muôn đời còn ghi ở
         sử xanh. Ta có sợ gì.   Nói rồi ông giả làm người khách đến
         chơi, nhận chức dạy học với ý định ngầm thu phục chí
         sĩ để tính việc phục quốc. Việc bại lộ, ông và người
         con là Lê Thái Điền đều bị quân Minh bắt giải về Yên
         Kinh (Bắc Kinh). Minh Thành Tổ hỏi ông rằng: "Mày khuyên Bá Kỳ âm mưu làm phản.
         Vì sao vậy?" Ông nói: "Người Nam thì mong nước Nam còn. Chó ông Trích thì cắn người không phải chủ nó. Hỏi làm
         gì?"[6]   Theo Lịch triều
         hiến chương loại chí và Đại
         Việt sử ký toàn thư, vua Minh tức giận,
         giam cha con ông vào ngục Kim Lăng (Nam Kinh), được 5 năm (1416, tức năm Bính Thân) thì đều mắc bệnh
         chết[7]. Tuy nhiên, Từ điển bách khoa Việt
         Nam lại cho rằng cha con ông mất ở Yên Kinh (Bắc Kinh).           Đỗ Chiêu Đức xin được tham gia với
         các phần sau đây :     
          BAI 1.    
         1. Bản tiếng Hán cổ của bài thơ :                
          元日           NGUYÊN NHẬT   旅館客仍在,   Lữ quán khách
         nhưng tại,    去年春復來。   Khứ niên
         xuân phục lai.    歸期何日是?   Quy kỳ hà
         nhật thị ?    老盡故園梅。   Lão tận
         cố viên mai !           黎景詢                
         Lê Cảnh Tuân     2. Chú thích
         :    * Nguyên Nhật : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày
         ĐầuCủa Một Năm, như chữ Nguyên Đán.    * Nhưng : là
         Vẫn, Vẫn Cứ...    * Phục : là Lại, là Trở lại.   
         * Quy Kỳ : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.    * Lão
         Tận : là Già đến tận cùng, là Già khú,già chát,
         già khằng !   3. Nghĩa Bài Thơ : 
                    Người khách tha hương vẫn còn ở
         nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại
         trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây ? Chắc
         cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi !           Não nùng thay tâm
         trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến
         Tết về. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các
         đấng sanh thành chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu
         não mà càng héo tàn lụm cụm !    4. Diễn Nôm : 
                     Mùng Một Tết 
                     Khách còn
         nơi quán trọ,           Xuân năm trước
         lại sang.           Biết ngày nao trở lại ?           Cội mai đã cỗi tàn !       Lục bát :              
          Trọ nơi lữ quán khách còn           Mùa
         xuân năm trước lon ton lại về              
          Ngày nao mới được hồi quê ?         
          Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu !                                                
            Đỗ Chiêu Đức   BÀI 2 :     濛裡驛偶成 
         MÔNG LÝ DỊCH NGẪU THÀNH      短棹擱晴沙,  Đoản trạo các tình sa,  
         前村日已斜。  Tiền thôn nhựt dĩ tà.   似無還似有, 
         Tự vô hoàn tự hữu,   煙際兩三家。  Yên
         tế lưỡng tam gia !     Chú Thích
         :      * Mông Lý Dịch : Dịch
         quán tên là MÔNG LÝ.   * Ngẫu Thành : Ngẫu nhiên mà
         làm thành.   * Trạo là Mái chèo; Các là Gác lên;Tình
         là Nắng, là Khô ráo.   * Yên Tế : là Khói mờ ở
         chân trời.   Dịch nghĩa
         :                           
         Ngẫu nhiên viết thành ở quán dịch Mông Lý              Mái chèo ngắn
         vừa gác lên bãi cát khô lúc thuyền vừa cặp bến, khi
         ánh nắng chiều đà nghiêng chiếu xóm thôn trước mặt;
         ta nhìn thấy xa xa trong sương khói mơ màng mấy nóc nhà ai ẩn
         hiện như có như không ở phía chân trời.            " Tự vô hoàn tự hữu
         ", như có lại như không; mơ hồ vô định " Sắc tức
         thị không, không tức thị sắc ". Bài thơ mang một ý thiền
         của " sắc sắc không không !"   Diễn Nôm :                       Chèo
         vừa gác lên cát,                   
         Xóm trên ánh nắng tà.                   
         Khói mờ không như có,                 
           Xa xa mấy nóc gia !       Lục
         bát :               Chèo
         vừa gác bến cát khô,             Xóm
         trên nắng ngã mơ hồ chiều rơi.            
            Có không sương khói chơi vơi,            
         Chập chờn mấy nóc bên trời nhà ai !                                                   
            Đỗ Chiêu Đức                                                   
           01-17-2018 PHƯƠNG
         HÀ:        I- Phỏng dịch bài NGUYÊN NHẬT     1-     Ngày
         đầu năm       Khách vẫn còn nơi quán trọ này   Mùa xuân năm ngoái lại về đây 
          Ngày hồi hương vẫn xa mù mịt 
          Thương gốc mai già cỗi lắm thay ! 
                        2-   Ngày đầu
         năm       Khách còn trọ ở quán này   Thêm mùa xuân nữa lạc loài xa quê   Chắc rằng đến lúc trở về   Cội mai vườn cũ thảm thế cỗi tàn  
                           3-    Ngày
         đầu năm       Khách còn nơi quán trọ   Lại một mùa xuân qua   Hẳn
         ngày về quê cũ   Mai vườn xưa
         đã già !                   Phương Hà phỏng
         dịch           II- Phỏng
         dịch bài  MÔNG LÝ DỊCH NGẪU THÀNH  
              1-  
          Ngẫu Hứng Đề Thơ ở trạm Mông
         Lý       Mái chèo gác bãi cát vàng   Nhìn về thôn xóm bóng hoàng hôn buông 
          Mơ hồ thực thực không không 
          Vài ba mái lá sương lam phủ mờ 
                               
          2-   Ngẫu
         Hứng Đề Thơ ở trạm Mông Lý       Chèo gác trên bãi
         cát   Hoàng hôn buông bát ngát 
          Xóm thôn khuất sương mờ   Ẩn hiện nhà rải rác.              
                 Phương Hà phỏng dịch      
 
 
 
   _________________________________________________________________________________              
   
      
        NGUYỄN SƯỞNG: THÔN CƯ  Bài dịch / phỏng dịch: Mailoc, Phương Hà, Cao Linh Tử, Đỗ Chiêu Đức,
         Songquang, Song Mai Lý Lệ, Mai Xuân Thanh _____________________________________________________________________________________________________    Cuối năm đất khách, lòng chợt thấy
         bùi ngùi, nhớ lại quê hương xa tít ở bên kia bờ đại
         dương, mong ước được sống lại cảnh " Nước thanh bình
         ba trăm năm cũ ! "... Ngồi đây, soạn lại " Góc Việt Thi
         " của Vườn Thơ Thẩn, đọc lại bài " THÔN CƯ "
         của Nguyễn Sưởng đời Trần, lại càng làm xúc động
         tâm tư nhớ về quê hương cố thổ... Kính mời tất cả
         cùng " đốt lại " lò hương cũ nầy để gây thêm
         chút hơi ấm cho những ngày cuối đông lạnh lẽo !... 
                          
                    THÔN CƯ                                
            Nguyễn Sưởng    Cùng
         Bạn                  Xin
         chuyển đến Bạn một bài thơ của Nguyễn Sưởng . Cụ
         đã vẽ lên bức tranh vừa mơ màng vừa dễ thương  cuộc
         sống an nhàn ngày xưa ở thôn quê :  ngày tai lắng tiếng
         chim ca , mơ màng theo giậu trúc phất phơ gió mát, đêm có
         trăng với bóng hoa lồng, có những ván cờ tướng chậm rãi
         hào hứng đang tính nước nát óc , khi bước về nhà
         thì đã ngà ngà say chân nam đá chân xiêu chập chờn
         nửa mơ nửa tỉnh, tai đã văng vẳng tiếng gà eo óc
         nhà gần bên .Trời gần sáng. Ôi tuyệt vời cuộc sống  thanh
         bình thơ mộng của thôn quê ta ngày xưa !                     Nguyễn
         Sưởng 阮鬯hiệu là Thích Liêu sống cùng thời với
         Trần Quang Triều (1286-1325), Nguyễn Trung Ngạn (1289-1368), có làm
         quan dưới triều Trần , nhưng sớm chán công danh , lui về vui với
         bầu bạn và thiên nhiên. Ông tham gia thi xã Bích Động
         . Tác phẩm lưu lại chỉ mấy bài thơ .                                                                                                                        
            Thân kính                                                                                                                                           
             Mailoc               
         THÔN CƯ                                     
         Nguyễn Sưởng   Thông thông xuân
         dĩ hạ ,   Thụ để điểu thanh
         mang .   Thiềm nguyệt hoa di ảnh , 
          Song phong tá trúc lương .   Vi kỳ nhàn đắc địa ,    Đối tửu túy vi hương .   Hoán xuất Hoa tư quốc ,   Lân
         kê cách đoản tường .     
            Dịch thơ :   Thấm thoát xuân qua đã lại hè ,   Vòm cây ánh ỏi tiếng chim quê . 
          Giậu trúc phất phơ hơi mát thoảng
         ,   Thềm trăng lẩn thẩn bóng
         hoa xê .   Cuôc cờ thủng thỉnh
         thêm cao nước ,   Chén rượu
         ngà ngà dẫn lối về .   Chập
         chờn sực tỉnh Hoa tư mộng ,   Một
         tiếng gà bên xóm gáy te .                              
         Vô danh                 Ở LÀNG   Lật bật hè về xuân lại qua ,   Trong vườn ríu rít tiếng chim ca .  
         Thềm trăng chầm chậm bóng hoa chuyển 
          Bụi trúc dật dờ gió tối xoa 
          Thong thả cuộc cờ đang tính nước
         ,   Lâng lâng chén rượu lúc
         về nhà .   Mơ màng chợt
         tỉnh Hoa tư mộng ,   Eo óc tường
         bên một tiếng gà .                           
         Mailoc phỏng dịch            Theo
         gót anh Mai Lộc với bài dịch rất hay, PH xin góp bài phỏng dịch
         sau đây gởi đến Thầy và các bạn:             SỐNG Ở THÔN QUÊ 
          Thoáng chốc xuân tàn, hạ đã
         sang   Trong vòm, chim chóc hót ca
         vang   Ánh trăng in bóng chùm
         hoa muộn   Làn gió đung đưa
         khóm trúc vàng   Thanh thản
         cuộc cờ, tâm sảng khoái   Say
         sưa chén rượu, dạ bình an   Hồn mơ chợt tỉnh, rời cơn mộng   Một tiếng gà sau bức giậu ngang.              
                                         
         Phương Hà phỏng dịch     
                Không biết chị Phương
         Hà đang ở nước ngoài hay trong nước, đọc bài phỏng
         dịch của chị mà thoáng buồn cho thực trạng thôn quê hôm
         nay. Thời hội nhập mức sống nâng cao, người ta tất bật để
         chạy theo cho kịp nên cảnh nhàn tảng như xưa chẳng còn nữa
         đâu. Tôi xin họa với chị mà gởi nên mấy ý để
         gọi là....là gì cũng được !       THÔN QUÊ HỘI NHẬP 
              Thu
         đông xuân hạ mấy ai sang   Chim
         chóc đâu rồi hết hót vang   Vận tải tàu xe thi nhả khói   Bán mua đất ruộng  đẻ ra vàng   Cuộc cờ nhàn nhã người chơi  hiếm 
          Bữa  rượu  mẹp mèm giấc
         ngủ an   Tra tấn âm thanh thời
         hội nhập   Hương linh tiền
         bối thử về ngang...                                                 
         Cao Linh Tử                                                    2/8/2014 
                               Đỗ Chiêu
         Đức tham gia với các phần sau đây :       1.   Nguyên bản chữ
         Hán của bài thơ :      
              村居                           THÔN
         CƯ   匆匆春已夏,       Thông
         thông xuân dĩ hạ,   樹底鳥聲忙。       Thọ
         để điểu thanh mang.   簷月移花影,       Thiềm
         nguyệt di hoa ảnh,   窗風借竹涼。       Song
         phong tá trúc lương.   圍棋閒得地,       Vi
         kỳ nhàn đắc địa,   對酒醉為鄉。       Đối
         tửu túy vi hương.   喚出華胥國,       Hoán
         xuất Hoa Tư Quốc,   鄰雞隔短牆。       Lân
         kê cách đoản tường.                    阮鬯                                   Nguyễn
         Sưởng       2.       Chú thích :        * Thông thông : là
         Vôi vả, tất bật, chỉ khoảng thời gian rất nhanh.   3.        * Thiềm : là Mái hiên nhà. 
           * Vi Kỳ : là Cờ Vây. Một loại
         cờ xưa phân biệt bang hai loại quân đen trắng. Trong Truyện Kiều
         tả lúc Thúc Sinh mê mẩn Thúy Kiều, suốt ngày cứ : 
                                             Bàn
         VÂY điểm nước, đường tơ họa đàn.    * Hoa Tư Quốc : là nước của họ Hoa Tư.
         Tương truyền là nơi ở rất thanh bình không có vua, mọi người
         dân đều hạnh phúc. Điển cố theo sách "Liệt tử",
         Hoàng Đế trưa nằm ngủ mơ thấy đến nước Hoa Tư. Sau
         thường dùng tích này để chỉ cảnh thái bình, hoặc
         chỉ cảnh mộng mị.         
          4.       Dịch nghĩa : 
                                                  Cuộc
         Sống Ở Thôn Làng             Trong
         thoáng chốc thế mà đã xuân đi hạ về. Dưới các
         chòm cây lá tiếng chim hót rộn ràng. Bên thềm nhà ánh
         trăng chiếu làm lay động các bóng hoa. Gió vờn bên song cửa
         như mượn nhờ hơi mát từ các khóm trúc sang. Rảnh rổi
         nên cờ vây là môn giải trí đắc địa nhất. Chén
         rượu ngà ngà say là thú vị của quê nhà. Cứ ngỡ
         là mình lạc trong mơ đến được nước Hoa Tư. Nhưng
         tiếng gà bên vách hàng xóm gáy vang đã làm cho tỉnh
         mộng !       4. Diễn Nôm :                                                                             
             Cuộc Sống Ở Xóm Làng 
              Thoáng
         chốc xuân đà sang hạ,   Trên
         cành rộn tiếng chim ca.   Dưới
         thềm bóng hoa thấp thoáng,   Bên
         song cành trúc la đà.   Thư thả bàn vây điểm nước,   Ngà say chén rượu quê nhà.   Cứ ngỡ lạc Hoa Tư Quốc,   Cách tường xao xác tiếng gà ! 
                                                      Đỗ
         Chiêu Đức        Thôn thanh bình   (Qua ý
         thơ "Thôn cư" của tiền bối Nguyễn Sưởng)   và qua sự diển nôm của Đỗ Chiêu Đức) 
              Thoáng
         chốc Xuân qua hè đã đến   Vòm
         cây chim hót líu lo vang   Thềm hoa nguyệt
         chuyển bóng tàn   Dật dờ giậu
         trúc gió tràn đong đưa.   Cuộc
         cờ Tiên tìm chưa được nước   Rượu lâng lâng chân bước về nhà   Mơ màng ngỡ lạc "Quốc Hoa"   Tường ngăn eo óc tiếng gà đưa sang 
              songquang 
          12/25/17   Sống
         nơi thôn dã thuở an bình     
          Hè đến,Xuân qua đà mấy chốc 
          Trong vườn cây ,chim chóc líu lo 
          Thềm trăng di chuyển bóng mờ   Gió lùa ngọn trúc vẩn vơ buông mành 
          Cờ Tiên đấu sao đành thất nước
         ?   Men rượu say rảo bước về nhà 
          Chập chờn tưởng lạc Quốc Hoa 
          Tường ai sáng sớm tiếng gà gáy
         vang             Song MAI Lý Lệ   Nông Thôn An Lạc     
          Thấm thoát hết xuân rồi đến hạ 
          Lùm cây chim hót khí dương hoà 
          Là đà khóm trúc phơi sương
         gió   Thơ thẩn thềm trăng phủ
         cụm hoa   Bí nước bàn cờ ngồi
         tại chỗ   Cạn chung vò rượu
         dậy về nhà   Hoa Tư đất thịnh
         hồn thơ mộng   Bừng tỉnh tường
         bên vẵng tiếng gà      
         Mai Xuân Thanh   Ngày
         25 tháng 12 năm 2017 _____________________________________________________________________________________  
           
    
      
        NGUYỄN DU: ĐỘ
         LONG VĨ GIANG Bản dịch: Mailoc, Mai
         Xuân Thanh, Đỗ Chiêu Đức, Songquang, Quên Đi, Mai Thắng, Song Mai
         Lý Lệ, Danh Hữu _____________________________________________________________________________________________________________________
         _________________________________________________________  Độ Long Vĩ Giang * 
                                         
           Nguyễn Du   Cố quốc
         hồi đầu
         lệ,   Tây phong nhất lộ
         trần.   Tài qua Long Vĩ thủy, 
          Tiện
         thị dị
         hương nhân. 
          Bạch
         phát sa trung kiến, 
          Ly hồng
         hải thượng
         văn.   Thân bằng tân
         khẩu vọng, 
          Vị
         ngã nhất
         triêm cân. 
          
 
  Mailoc: 
   Dịch nghĩa: 
          Ngoảnh nhìn quê
         hương nước mắt rơi, 
          Gió tây thổi bụi
         suốt dọc đường. 
          Vừa qua sông Long Vĩ, 
          Đã là người đất
         khách.   Đi giữa
         bãi cát, càng trông càng
         rõ mái tóc bạc, 
          Nghe chim hồng lìa đàn
         ngoài biển kêu.   Bạn bè thân thích
         đứng trên bến nhìn
         theo,   Vì ta mà nước
         mắt ướt khăn.    *Long Vĩ giang: chỉ khúc
         sông Lam ở gần quê hương
         của cụ Nguyễn Du phía gần
         biển    Dịch
         Thơ:   Qua  Sông Long-Vĩ    Ngoảnh
         nhìn lại quê nhà lệ
         ngấn,   Gió tây về
         bụi vẩn đường mờ. 
          Vừa qua Long-vĩ bến
         bờ,   Đã nghe thân
         khách bơ vơ vương sầu. 
          Giữa cát vàng
         bạc đầu rõ nét, 
          Nhạn hồng lạc
         thảm thiết biển khơi. 
          Thân quen dõi mãi bóng người, 
          Vì ta khăn ướt lệ
         rơi khôn cầm.                               
         Mailoc phỏng dịch       Quê nhà mặt
         ngoảnh lại,   Gió
         tây tung bụi đường.   Vừa qua bến Long Vĩ 
          Thân khách đã sầu vương. 
          Cát vàng rõ đầu bạc, 
          Hông nhạn lạc kêu
         sương.   Người
         thân còn đứng ngóng, 
          Vì ta lệ cảm thương
         .                             
         ML                         
         8-16-17  
  Mai Xuân Thanh: 
    Qua Sông
         Long Vĩ       Nhìn lại cố hương đẫm lệ tràn   Dặm đường bụi bốc gió tây sang   Qua sông Long Vĩ còn chân ướt   Dừng bước quê người cũng ngỡ ngàng 
          Đầu bạc nổi lên vàng bãi cát 
          Chim hồng lạc giữa biển kêu đàn 
          Bạn bè dõi mắt xa bờ khuất 
          Giọt lệ thấm khăn dạ xốn xang 
              Mai Xuân
         Thanh       Quê hương ngoãnh mặt lại   Bụi
         đường bay gió tây   Qua sông
         mới Long Vĩ   Xa xứ lạ chân mây 
          Cát vàng bạc đầu tóc   Hồng nhạn biển khơi bay   Anh em nhìn khuất bóng   Ướt
         khăn đẫm lệ này     
          Mai Xuân Thanh   Ngày
         16 tháng 08 năm 2017     Đỗ Chiêu Đức:
  
    Đỗ Chiêu Đức
         tham gia với các phần sau đây :   1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :   
           渡龍尾江           Độ Long Vĩ Giang  
          故國回頭淚,      Cố quốc hồi đầu lệ,   西風一路塵。      Tây phong nhất lộ trần.  纔過龍尾水,      Tài qúa Long Vĩ Thủy,  便是異鄕人。      Tiện thị dị hương nhân.   白髮沙中見,      Bạch phát sa trung kiến,  離鴻海上聞。      Li hồng hải thượng văn.   親朋津口望,      Thân bằng tân khẩu vọng,   為我一沾巾。      Vị ngã nhất triêm cân.             阮攸                               Nguyễn
         Du       2.
         Chú Thích :       * CỐ QUỐC 故國 : là Nước Cũ, cũng có nghĩa là Quê Cũ.       * LỆ 淚 : là Nước mắt. Động từ có nghĩa là : Rơi nước
         mắt.       * TRẦN 塵 : là Cát Bụi. Nhất Lộ Trần là Dọc đường gió
         bụi.       * TÀI 纔 : là Mới, là Mới vừa.      
         * TIỆN 便 : là Bèn. Tiện Thị : Bèn là ...       * TÂN KHẨU 津口 : là Bến nước, Bến đò.       * TRIÊM CÂN 沾巾 : là Ướt Khăn, ý nói lệ rơi thấm ướt
         khăn.        3. Nghĩa Bài Thơ :                            
         Qua Sông LONG VĨ   LONG VĨ GIANG là
         khúc sông Lam gần quê hương của Nguyễn Du, cạnh biển. Sông
         Lam từ nguồn cho đến ngã ba Hưng Nguyên còn có tên gọi
         là Thanh Long giang.            Ngoảnh đầu
         trông lại quê hương mà khôn ngăn hai hàng lệ nhỏ. Lại
         thêm gió tây thổi suốt dọc đường gió bụi. Vừa
         qua khỏi sông Long Vĩ thì thân ta đã là người tha hương
         rồi. Làn tóc bạc in rõ trên bãi cát trắng và tiếng
         chim hồng nhạn lìa đàn còn oang oác ở ven sông. Bạn bè
         thân thích còn đứng ngóng trông ta bên bến nước, vì
         ta mà lệ rơi ướt cả khăn là.            Tình cảm luyến lưu ướt át
         đến thế là cùng, thảo nào người ta thường bảo Nguyễn
         Du thuộc "túp" nòi tình chính hiệu !       4. Diễn Nôm : 
                        
         Ngoảnh đầu quê cũ lệ rơi,              Dọc đường
         cát bụi tơi bời gió tây.              Vừa
         qua Long Vĩ mới đây,             
         Thoát đà đã hóa ra người tha hương !              Tóc mây cát
         trắng còn vương,              Lìa đàn
         tiếng nhạn kêu thương não lòng.              Thân bằng bến nước vời
         trông,             
         Vì ta ướt cả khăn hồng lệ rơi !        
 
                                   
                       Đỗ Chiêu Đức 
 
 
   Songquang:   
 Qua bờ sông Long
         Vỹ   (Phỏng dịch qua nguyên bản"Độ
         Long Vỹ giang " của cụ Nguyễn Du)     
         và phần diển giảng của Mai Lộc     
          Ngó lại quê nhà,nước mắt tuông 
          Gió Tây thổi bụi mịt mờ đường 
          Qua sông Long Vỹ thành thân khách 
          Đất lạ ,xứ người dạ vấn vương 
          Giữa cát,bạc đầu càng hiện rõ 
          Chim hồng lạc bạn phải tha phương 
          Người thân dõi mắt nhìn theo mãi 
          Khăn lệ khôn nhoà dấu cố hương 
              songquang 
    Quên Đi:  
     
 
 
 
      Qua Sông Long Vỹ   1/   Lệ đổ nhìn
         quê hương   Gió Tây tốc
         bụi đường   Vừa qua Long Vỹ
         bến   Thành khách lạ tha phương       Trên cát trơ đầu
         bạc   Tiếng chim ngoài đại
         dương       Người thân
         còn đứng tiễn   Buồn ướt
         đẫm khăn hường.   2/                 
         Ngoái nhìn quê cũ lệ sa           Gió Tây theo bước đường xa bụi mờ 
                      Qua
         sông Long Vỹ thẩn thờ         
         Chỉ vừa mới đó mà giờ tha hương                 Trên bãi
         cát rõ tóc sương   Biển
         khơi vẳng tiếng bi thương chim Hồng             Người thân trên bến còn
         trông       Khăn đầm
         nước mắt đau lòng tiễn ta.                                        
         Quên Đi  Mai Thắng: 
  
   QUA SÔNG
         LONG VĨ        Ngoãnh mặt nhìn quê cũ    Gió tây cuốn bụi đường    Thanh Long vừa quá bến    Lữ thứ đã ly hương    Cát
         trắng in màu tóc    Chim hồng lạc
         khúc thương    Bến quê bè
         bạn tiễn   Khăn lệ dầm hơi sương  
          Mai Thắng       Song Mai Lý Lệ:  
    Kính Thầy ML và các bạn
         thơ vtt   Song MAI Lý Lệ cũng xin góp
         vui với bài phỏng dịch theo  nghĩa của Thầy ML       Qua dòng Long Vỹ 
              Quê
         nhà ngoảnh lại lệ tuông   Gió
         Tây bốc thổi bụi đường mờ tung   Vừa qua Long Vỹ bên sông   Làm
         thân lữ khách sầu dâng nảo nùng   Bạc đầu tựa cát tuyết sương   Chim hồng nhạn lạc sầu vương lẻ bầy   Thân bằng đưa tiển còn đây 
          Khăn lau ngấn lệ ngắn dài vì ta 
              Song MAI
         Lý Lệ    Mai
         Xuân Thanh: 
 
              Lục
         bát góp vui của MXT       Qua Sông Long Vĩ     
          Xa nhà ngó lại khóc ròng   Dọc đường bụi bốc tây phong thổi về 
          Qua sông Long Vĩ tái tê   Mới hay đất khách ủ ê quê người 
          Cát pha tóc bạc giữa trời   Chim kêu lẻ bạn biển khơi lạc đàn 
          Bến quê thân thích ngóng sang 
          Vì ta đỗ lệ bàng hoàng thấm khăn 
              Mai Xuân
         Thanh   (Phỏng theo bản dịch của thầy
         Mailoc)   Ngày 17 tháng 08 năm 2017     Danh Hữu:             Hôm nay cuối
         tuần, đọc mấy bản dịch của quí bạn trong vườn thơ, dịch
         một bài Tâm Thi của Nguyễn Du. Tôi thấy mình cũng nên đóng
         góp một chút và nhất là để tặng các anh : Lộc Nguyên,
         Trí Khắc Phạm, lý do là tôi đã dịch nhiều thơ của
         Nguyễn Du, nhất là đã dịch trọn cả tập Bắc Hành Tạp
         Lục của ông nên cũng phần nào hiểu thơ ông. Tất nhiên
         thơ Nguyễn Du không dễ dịch, vì ông là một trong số 5 người
         nổi tiếng nhất đương thời, mà thơ ông lại phần lớn
         chỉ là thơ bày giải tâm sự, ông không làm thơ tả
         cảnh, thơ tả cảnh chỉ có ở trong Kiều.   Mời quí bạn thưởng thức :         渡 龍 尾 江              
            Độ Long Vĩ Giang   故 國 回 頭 淚          
         Cố quốc, hồi đầu lệ;   西 風 一 路 塵          
         Tây phong, nhất lộ trần.   纔 過 龍 尾 水          
         Tài quá Long Vĩ thủy,   便 是 異 鄉 人          
         Tiện thị dị hương nhân.   白 髮 沙 中 見          
         Bạch phát, sa trung kiến;   離 鴻 海 上 聞          
         Ly hồng, hải thượng văn.   親 朋 津 口 望          
         Thân bằng tân khẩu vọng;   為 我 一 沾 巾          
         Vị ngã, nhất triêm căn.               阮 攸                         
              Nguyễn Du     
            Qua cuối khúc sông rồng   Triều Lê, nhớ rơi lệ !   Tây sơn, khổ một thời :   Mới qua khúc Long vĩ,   Đã
         thành khách quê người.   Cát
         lầm, tóc trắng xóa;   Biển xa, hồng
         chơi vơi.   Ngó bà con trên bến; 
          Khiến ta, khăn đẫm rồi.       Ghi chú : 
          Bài thơ này nằm ở phần cuối tập
         Thanh Hiên tiền hậu tập, là tập thơ gồm hai tập, tập đầu,
         thơ làm trong vòng 10 năm sống ở quê vợ, tập này còn 26
         bài, và tập sau, là làm trong những ngày ông về sống ở
         quê cha vùng Nghệ Tĩnh, tập này còn 33 bài và đây là
         bài thứ 31. Theo nội dung, ta có thể thấy, bài thơ này làm
         lúc ông đang sắp muốn rời Nghệ Tĩnh để đi Huế làm
         quan.   Thơ Nguyễn Du đa số là thơ
         tâm sự, bài này cũng là bài giải bày tâm sự của
         ông. Nó thể hiện nỗi lòng của ông đối với chuyện
         quá khứ mà ông đã phải chịu đựng trước khi ông
         rẻ bước qua một đời sống khác, phục vụ một thể chế
         mới.   Bài thơ này ông làm
         khi sắp tách bến, vào đầu bài thơ, ông đã rơi lệ
         khi nhớ về nhà Lê (cố quốc) và một thời (nhất lộ) sống
         dưới phong trào Tây sơn (Tây phong), một triều đại mà cha,
         anh của ông đã phục vụ, kể cả ông dù trong thời gian không
         dài. Cuối bài thơ, ông cũng để lệ rơi. Một bài thơ
         mà câu đầu, câu cuối đều nói đến sự mũi lòng,
         là một bài thơ khá đặc biệt. Câu đầu, ông khóc
         cho Triều đại nhà Lê mà ông đã phục vụ, câu cuối,
         ông khóc, mừng cho bản thân đã sắp chấm dứt những ngày
         khổ ải.   Ngoài
         ra, tựa bài thơ là Độ quá Long Vĩ Giang, do đó các sách
         đều dựa theo Lời chú của các ông Lê Thước, Trương
         Chính, bảo đó là tên chỉ khúc sông Lam từ ngã ba Hưng
         Nguyên trở xuống vùng quê tác giả, còn khúc sông đi qua
         làng Tiên Điền (làng của Nguyễn Du) thì có tên là Long
         vĩ giang. Chúng ta không ở Nghệ Tĩnh, nên không biết lời chú
         đó có đủ tin cậy không. Tại sao sông Lam lại có một
         khúc mang tên là Long Giang, rồi khúc khác gần biển lại có
         tên Long vĩ giang ? Nếu đã có Long vĩ tất phải có Long đầu
         chứ ! Vậy Long đầu là ở khúc sông nào ? Tôi cho đây
         chỉ là ông Lê Thước tưởng tượng ra thôi vì bài
         thơ này ông đã dịch không thoát. Cụm từ "Long Giang"
         ở đây, theo tôi là từ ám chỉ "non sông Việt" chứ
         không có khúc sông nào tên là Long giang và Long giang vĩ cả.
         Long có thể hàm ý Thăng Long, vĩ là cái đuôi, là cuối
         đường. Độ quá Long vĩ giang = Đã đi qua hết thời của
         Thăng Long (hàm ý nhà Lê). Nghĩa là dù có luyến tiếc
         chế độ cũ (non sông nhà Lê), nhưng nó đã qua rồi, ta
         nên đoạn tuyệt thôi.   Bài thơ này, tóm lại, tôi nghĩ, là một
         bài ông trình bày nỗi lòng của một trí thức đang có
         ý định qua sông: từ một thể chế cũ, Triều Lê, bước
         sang phục vụ một thể chế mới, Triều Nguyễn (Gia Long). Giữa 2 thể
         chế đó là Triều đại Tây Sơn của 15 năm ông phải
         chịu đựng mà ông tóm lược trong 2 cặp đối. Ở Triều
         đại đó, ông chỉ là người khách lạ trên chính
         quê hương của mình, ông đã sớm bạc đầu vì khổ
         cực, ông phải sống im ắng như con chim hồng lìa bể khơi, không
         còn đất vùng vẫy.   Danh Hữu   (Paris, 19 août 2017) _______________________________________________________________________________________  
                  
 
 
 
 
  
 
 
 
  
      
      TRẦN NHÂN
         TÔNG: SƠN PHÒNG MẠN HỨNG Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Trầm
         Vân    SƠN PHÒNG MẠN HỨNG 
 
 
 
         Trần Nhân Tông  (1258  -  1308) 
 
 
 
 
 
 
 
  Thùy phược cánh tương cầu giải
         thoát 
 
 
  Bất phàm hà tất mịch
         thần tiên 
 
 
  Viên nhàn mã
         quyện nhân ưng lão 
 
 
  Y cựu
         vân trang nhất tháp thiền 
 
 
 
 
 
 
 
 
         Thị phi niệm trục triêu hoa lạc 
 
 
 
         Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn 
 
 
 
         Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
 
 
 
         Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn 
 
 
 
 
 
 
 
 Mạn Hứng Ở Sơn Phòng 
 
 
 
         PKT - Mây Tần 2015 
 
 
 
    Có ai trói buộc mình đâu mà phải cầu giải
         thoát  /  Bụi trần đã không còn vướng mắc rồi
         thì hà tất đi tìm thần tiên làm chi nữa  /  Bày
         vượn nhởn nhơ  , con ngựa đã mỏi , người  nay đã
         già  / Am mây và chiếc giường thiền ngày nào vẫn 
         còn đó   / /  Nỗi thị phi phải quấy đã  rũ bỏ
         theo từng cánh hoa rụng rơi ban sáng  / Niềm hám danh hám lợi
         đã gửi theo từng đợt  mưa lạnh trong đêm  / Hoa đã
         rụng hết , mưa đã tạnh hẳn , núi non tịch mịch trước
         mắt  / Một tiếng chim hót , ừ nhỉ , cái vòng tuần hoàn
         trời đất , xuân đến rồi đi         SƠN PHÒNG MẠN HỨNG 
 
 
 
         PKT  - Mây Tần  2015 
 
 
 
 
 
 
 
 
         Ai trói buộc đâu mà cầu giải thoát 
 
 
 
         Lòng đã thoát phàm hà tất tìm Tiên 
 
 
 
         Vượn nhàn , ngựa mỏi , thân lão  
 
 
 
         Chốn cũ , am mây , một chiếc giường thiền 
 
 
 
 
 
 
 
  Sáng ngắm hoa rơi , thị phi rũ bỏ 
 
 
 
         Ðêm nghe mưa lạnh , danh lợi buông trôi 
 
 
 
         Hoa tàn , mưa tạnh , núi  vắng 
 
 
 
         Một tiếng chim hót tiễn Xuân lưng trời       
 
 
  
          Lời Thêm : Ðây là
         một bài thơ , mạn hứng của vua Trần nhân Tông , Sư Tổ dòng
         Thiền Trúc Lâm Yên Tử , một vị Phật nước Việt Nam ta , người
         đã đắc đạo , bất phàm , ngoài vòng thị phi danh lợi
         và đã ngộ được lẽ tuần hoàn sinh diệt của Tạo
         Hóa . Còn chúng ta ? Những ngày cuối năm , tôi xin được
         mạo muội chia sẻ cùng  với thân quen và tất cả các anh
         chị em con cháu trong nhà một niềm mong ước . Là phàm tục đời
         thường , sống trong vòng thị phi danh lợi , không mấy ai  tránh
         khỏi được chuyện khen chê tốt xấu . Nếu như chỉ nên biết
         đến chuyện tốt của nhau thôi thì có lẽ  chúng ta sẽ
         có nhiều hy vọng được sống vui với mình và với người 
         trong thông cảm , tôn trọng, và thương yêu lẫn nhau hơn . Vâng,
         năm mới , xuân mới , hy vọng mới , mong  là sẽ  được
         như vậy . Cầu chúc an vui .  PKT 01/18/2017       Tri Khac Pham  Phamid1934@gmail.com       Xin góp vần cùng anh  Trí   Thân kính   ML  
          SƠN PHÒNG MẠN
         HỨNG 
 
 
    
 
 
 Ai
         trói đâu mà cầu giải thoát ? 
 
 
 Phàm
         tục rời nào khác tiên gia  
 
 
 Vượn
         nhàn ,ngựa mỏi, người già 
 
 
 Am
         mây chốn cũ mình ta chõng thiền . 
 
 
   
 
 
 Thị
         phi như hoa mai tan tác 
 
 
 Lợi
         danh buông như hạt mưa đêm. 
 
 
 Hoa
         tàn , mưa tạnh, non êm 
 
 
 Chim kêu
         một tiếng buồn tênh xuân tàn  . 
 
 
  
                   Mailoc phỏng dịch   Sơn Phòng Mạn Hứng   Có ai trói buộc mình đâu   Mà mong giải thoát qua cầu tìm Tiên   Vượn nhàn ngựa mỏi chân rêm   Am mây một chiếc giường thiền thảnh thơi 
              Sáng
         ra ngồi ngắm hoa rơi   Đêm nghe mưa
         lạnh thả trôi muộn phiền   Hoa tàn
         mưa tạnh nắng lên   Tiếng chim hót
         tiễn Xuân bên lưng trời    TrầmVân ( phỏng dịch )  ____________________________________________________________________________________  
 
 
  
                                  
      
        Bài Tứ Tuyệt của
         Phật Hoàng Trần Nhân Tôn VŨ LÂM
         THU VÃN Bản dịch:
         Quên Đi, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Mai Xuân Thanh, Danh Hữu, Song Quang, Nguyễn Đắc
         Thắng             武
         林 秋 晚                   Vũ
         Lâm Thu Vãn                陳仁宗                             
         Trần Nhân Tôn          畫 橋 倒 影 蘸 溪 橫  Hoạ
         kiều đảo ảnh trám khê hoành     一 抹 斜 陽 水 外 明  Nhất mạt tà dương
         thuỷ ngoại minh     寂 寂 千
         山 紅 葉 落  Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc   
          濕 雲 和 露 送 鐘 聲  Thấp
         vân hoà lộ tống chung thanh.        Dịch nghĩa: Chiều Thu Nơi Vũ Lâm       Cây cầu
         và cái bóng đảo ngược vắt ngang qua suối giống như vẽ 
          Một vạt nắng chiều chiếu sáng bên
         ngoài dòng nước.   Ngàn núi
         lặng yên lá đỏ rụng rơi   Mây
         ướt lẫn sương giăng tiếng chuông vang xa.       Dịch Thơ 
                  
         Chiều Thu Vũ Lâm      
         Như tranh vẽ suối cầu soi bóng 
          Bìa nước chiều nghiêng vệt sáng
         vàng   Yên ắng ngàn non hồng
         lá rụng   Sương mờ mây
         ẩm tiếng chuông vang                                 
         Quên Đi             
          CHIỀU THU Ở VŨ LÂM       Cầu soi xuống
         suối như tranh vẽ   Vệt nắng chiều
         nghiêng mép nước tràn   Lá
         đỏ rụng trên ngàn núi lặng   Mây
         mù sương tỏa tiếng chuông ngân       Phương Hà    Xin được tham gia diễn nôm bằng Lục Bát
         :          
         CHIỀU THU Ở VŨ LÂM       Cầu soi bóng nước trên sông,   Nghiêng nghiêng vệt nắng chiếu hồng tà dương. 
          Lá bay tơi tả trời sương,   Mây chùn xuống thấp  tiếng chuông ngân
         dài !                                              
         Đỗ Chiêu Đức     THEO BẢN DỊCH "CHIỀU THU NƠI VŨ LÂM CỦA
         ANH QUÊN ĐI       ( QUA THƠ "
         VŨ LÂM THU VÃN  -  TRẦN NHÂN TÔN )      BÀI 1 :   VŨ LÂM MỘT CHIỀU THU       Như tranh hình bóng
         suối cầu ngang,   Ánh nắng chiều
         soi phản chiếu vàng.   Lá đỏ
         non ngàn rơi lát đát,   Sương
         mây ẩm thấp vọng chuông vang.     
          Mai Xuân Thanh              BÀI 2 : CHIỀU THU TẠI VŨ LÂM           Soi bóng cầu ngang suối tựa tranh,   Nắng chiều phản chiếu nước trong xanh.   Non ngàn lá đỏ rơi êm ả,   Sương ướt mây mù chuông vọng thanh.       Mai Xuân Thanh 
          (theo bản dịch của anh Quên Đi)  
         Ngày 28 tháng 09 năm 2016       BÀI 03 : 
          CHIỀU THU Ở VŨ LÂM       Như tranh ngang suối
         cầu quay ngược,   Nắng chiếu
         tà dương nước ánh vàng.   Chiều rơi lá đỏ non ngàn,   Mây mù sương đẫm ngân vang chuông rền. 
              Mai
         Xuân Thanh   ( theo bản dịch của
         nhà thơ Quên Đi qua bài Vũ Lâm Thu VÃn - vua Trần Nhân Tôn
         )   Ngày 28 tháng 09 năm 2016  
             
              武林秋晚   畫橋倒影蘸溪橫 
          一抹斜陽水外明   寂寂千山紅葉落   濕雲和露送鍾聲               陳仁宗        
                    Vũ
         Lâm thu vãn    Họa kiều đảo
         ảnh trám khê hoành,   Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại
         minh.   Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,   Thấp vân
         hoà lộ tống chung thanh.     
               Chiều thu ở làng Vũ
         Lâm (*)   Cầu soi bóng
         ngược, ngang dòng khe,   Mặt nước
         lung linh, vệt nắng về.   Lặng
         lẻ non Thiên, hồng điệp rụng;   Mây, sương cùng tiễn tiếng chuông quê.                                     
         Danh Hữu       (*) Làng Vũ Lâm ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư,
         tỉnh Ninh Bình ngày nay. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi
         vua cho con và trở thành Thái thượng hoàng. Năm sau, ngài đến
         thăm nơi đây và làm bài thơ này. Bài thơ mang ý hướng
         định xuất gia.   Ghi chú : Bài
         thơ này, câu đầu nhiều người hiểu sai. Họa kiều đảo
         ảnh là cây cầu soi ngược bóng mình xuống dòng nước;
         Trám khê hoành là nằm vắt ngang dòng khe.           CHIỀU THU Ở VŨ LÂM                             
         (Phỏng theo bài thơ Vũ Lâm Thu vãn của Trần nhân Tôn) 
                                               
         qua phần dịch nghĩa của Quên Đi     
                                        
         Cầu soi bóng,cầu in đáy nước                                 
         Nắng chiều nghiêng như ngược tranh treo                                 
         Lá vàng rơi chẳng tiếng vèo                                 
         Mây giăng sương ẩm chuông chiều vẳng xa                                                  
         SONGQUANG CHIỀU THU Ở VŨ LÂM 
            Cầu treo ảnh
         ngược ngang dòng suối   Mép nước chiều in vệt nắng tàn   Lá đỏ non ngàn rơi tĩnh mịch 
          Mây hòa sương
         ẩm tiếng chuông vang!   Nguyễn
         Đắc Thắng       
                 
              
      
         THƠ NGUYỄN TỬ THÀNH Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
         Phương Hà ________________________________________________________________________________________________________  Cuối tuần xin chuyển đến VTT vài vần
         thơ của Nguyễn Tử Thành. Ông  hiệu là Tùng Hiên, đời
         Trần . Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông đều
         chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục. 
          ML   CỐ 
         VIÊN                      Nguyễn
         Tử Thành     
          Tây phong nhiễm nhiễm
         mấn biên hoa ,   Bạc
         hoạn lưu nhân khổ ức 
         gia.   Quy tứ chính sầu,
         thu chính hảo   Nhất
         đoàn hàn lộ vị khai hoa .       Dịch
         Nghĩa :       Gió tây lai động hoa bên mái tóc 
          chức quan bạc bẽo
         giử người ta lại , khổ
         nôĩ  nhớ nhà.   Ý
         muốn về đang day dứt, mùa thu đang
         đẹp   Một
         chòm móc lạnh trên nụ hoa chưa
         nở       Dịch Thơ :        Vườn
         Cũ Quê Nhà      
         Gió tây vờn mái đầu
         hiu hắt,   Bể
         hoạn sầu se thắt hồn quê
         .   Trời thu khắc
         khoải mong về ,   Nụ
         hoa hàm tiếu dầm dề giá sương
         .              
           Mailoc phỏng dịch       Thu Nhật
         Ngẫu Thành                                    
         Nguyễn Tử Thành       Thiên thôn mộc
         diệp tận hoàng lạc,   Độc lập tây phong phất
         mấn ti.   Tuế
         nguyệt đường đường lưu
         bất đắc,   Tạc
         phi kim thị chỉ tâm tri .       Dịch
         Nghĩa:       Lá cây ở ngàn thôn đều
         vàng rụng hết,   Đứng một mình, ngọn gió
         tây thổi bay mái tóc.   Năm thang lừng lững trôi đi không giữ
         được   Trước
         sai , nay đúng chỉ lòng mình biết . 
              Dịch
         Thơ :       Ngẫu Hứng Ngày Thu 
              Lá
         ngàn thôn vàng bay lả tả   Gió tây về lõa xõa tóc mai. 
          Tháng năm lặng lẽ
         nào hay ,   Trước sai
         nay đúng lòng này biết thôi .                    Mailoc phỏng dịch 
              Sơ
         Xuân       Lạp mai khai tận, tuyết
         phiêu linh,   Lão đại
         tình hoài tiết vật kinh.   Bàng thủy nhân gia dương liễu
         nộn,   Hàn thiên khách
         viện bán âm tình .   Du
         phong trích mật xuyên hoa khứ,   Dã diệp thâu hương đới
         phấn khinh.   Kiểm
         điểm danh viên cung thắng thưởng, 
          Xuân hoa nhất dạng
         bách ban sinh.                 
                                                   Nguyễn
         Tử Thành   Dịch
         nghĩa :       Tháng chạp hoa mai đã nở
         hết, tuyết bay lả tả, 
          Người già nghĩ tới
         thời tiết cảnh vật mà
         kinh   Nhà ai mé nước,
         dương liễu xanh non   Phòng khách nửa râm nửa sáng 
          Ong đi lấy mật xuyên
         qua cả chòm hoa   Bướm
         nội trộm hương, nhẹ nhàng
         mang theo phấn   Dạo
         qua khu vườn danh tiếng để thưởng
         ngoạn cảnh,   Trăm
         loài hoa xuân đua nở, loài nào cũng đẹp 
              Dịch
         Thơ :              Đầu
         Xuân       Mai tháng chạp , tuyết bay lả
         tả,   Nhìn tiết
         trời, già cả lòng kinh .   Nhà ai mé nước liễu xinh, 
          Khách phòng sáng-nhạt, nắng
         in lạnh về .   Ong
         hút mật vo ve trong khóm,   Bướm
         trộm hương lốm đốm
         phấn hoa .   Khu vườn
         nức tiếng dạo qua,   Trăm loài trăm vẽ xuân hoa yêu kiều
         .                             Mailoc
         phỏng dịch       CỐ  VIÊN                      Nguyễn
         Tử Thành     
          Tây phong nhiễm nhiễm
         mấn biên hoa ,   Bạc
         hoạn lưu nhân khổ ức 
         gia.   Quy tứ chính sầu,
         thu chính hảo   Nhất
         đoàn hàn lộ vị khai hoa .         故園  V  西風冉冉鬢邊華,   薄宦留人苦憶家。   歸思正愁秋正好,   一團寒露未開花。                
           阮子成                 
          Thầy ơi,   Dịch Nghĩa : HOA 華 ở đây là
         HOA NIÊN, tóc mai của tuổi Hoa Niên đã bị Gió Tây ( Gió Thu ) thổi
         cho bạc đi rồi.   Gió
         tây lai động hoa bên mái tóc   chức quan bạc bẽo giử
         người ta lại , khổ nôĩ  nhớ
         nhà.       BẠC HOẠN : là Chức
         quan Nhỏ Nhoi chứ không phải Bạc
         Bẽo.   Ý muốn
         về đang day dứt, mùa thu đang đẹp 
          Một chòm móc lạnh
         trên nụ hoa chưa nở       D ịch
         Th ơ :        Vườn Cũ Quê Nhà                                                       
         QUÊ NHÀ       Gió tây vờn mái đầu
         hiu hắt,                        
         Gió thu thổi bạc tóc hoa niên,   Bể hoạn sầu
         se thắt hồn quê .                        
         Chức nhỏ giữ chân nhớ
         cố viên.   Trời
         thu khắc khoải mong về ,                       
         Buồn muốn về nhà thu đang đẹp, 
          Nụ hoa hàm tiếu
         dầm dề giá sương .              
         Hoa còn chưa nở bởi sương
         đêm.              
           Mailoc phỏng dịch                                                   
         Đỗ Chiêu Đức diễn nôm 
              Thu
         Nhật Ngẫu Thành                                    
         Nguyễn Tử Thành       Thiên thôn mộc
         diệp tận hoàng lạc,   Độc lập tây phong phất
         mấn ti.   Tuế
         nguyệt đường đường lưu
         bất đắc,   Tạc
         phi kim thị chỉ tâm tri .         秋日偶成
          V  千村木葉盡黃落,   獨立西風拂鬢絲。   歲月堂堂留不得,   昨非今是只心知。      Dịch Nghĩa: 
              Lá
         cây ở ngàn thôn đều vàng rụng
         hết,   Đứng
         một mình, ngọn gió tây thổi bay
         mái tóc.   Năm thang lừng
         lững trôi đi không giữ được 
          Trước sai , nay đúng chỉ
         lòng mình biết .     
          Dịch Thơ : 
              Ngẫu
         Hứng Ngày Thu                                         
           NGÀY THU NGẪU HỨNG       Lá ngàn
         thôn vàng bay lả tả                       
           Ngàn thôn cây lá cuốn vàng bay,   Gió tây về lõa xõa tóc
         mai.                           
         Thơ thẩn một mình tóc gió lay. 
          Tháng năm lặng lẽ
         nào hay ,                        
         Năm tháng lạnh lùng khôn giữ được, 
          Trước sai nay đúng lòng
         này biết thôi .         Thi phi sai đúng
         chỉ mình hay !    
                        Mailoc phỏng dịch                                                                 
         Đỗ Chiêu Đức diễn nôm 
              Sơ
         Xuân       Lạp mai khai tận, tuyết
         phiêu linh,   Lão đại
         tình hoài tiết vật kinh.   Bàng thủy nhân gia dương liễu
         nộn,   Hàn thiên khách
         viện bán âm tình .   Du
         phong trích mật xuyên hoa khứ,           
         KHỨ : là ( bay )  Đi   Dã
         diệp thâu hương đới phấn
         khinh.           KINH : là ( bay ) Ngang qua.   Kiểm điểm danh viên
         cung thắng thưởng,   Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh. 
                        
                                                   Nguyễn
         Tử Thành      
         初春  V  臘梅開盡雪飄零,   老大情懷節勿驚。   KINH : Ngoài
         nghĩa SỢ ra, còn có nghĩa là : Giật Mình, là Lấy làm
         lạ.  傍水人家楊柳嫩,   寒天客院半陰晴。   HÀN
         THIÊN : là Mùa Lạnh.  遊蜂摘蜜穿花去,   野蝶偷香帶粉經。   檢點名園供勝賞,   春花一樣百般生。     
          Dịch nghĩa :       Tháng
         chạp hoa mai đã nở hết, tuyết
         bay lả tả,   Người
         già nghĩ tới thời tiết cảnh
         vật mà kinh              
         Tâm tình của người già biết
         tiết chê, nên không lấy làm lạ 
          Nhà ai mé nước, dương
         liễu xanh non   Phòng khách
         nửa râm nửa sang                                
         Phòng khách trong mùa lạnh nửa nắng
         nửa râm.   Ong đi lấy
         mật xuyên qua cả chòm hoa   Bướm nội trộm
         hương, nhẹ nhàng mang theo phấn 
          Dạo qua khu vườn
         danh tiếng để thưởng ngoạn
         cảnh,     Điểm qua hết các
         vườn hoa nổi tiếng để
         mà thưởng ngoạn, thì...   Trăm loài hoa xuân đua nở, loài nào
         cũng đẹp              
         Cũng chỉ là trăm vẻ hoa xuân cùng đẹp
         như nhau mà thôi !     
          Dịch Thơ : 
                     Đầu
         Xuân                                                                
         ĐẦU XUÂN     
          Mai tháng chạp , tuyết
         bay lả tả,                      
         Tuyết rơi mai nở báo xuân sang, 
          Nhìn tiết trời,
         già cả lòng kinh .                       
         Già cả nhìn quen chẳng ngỡ ngàng. 
          Nhà ai mé nước liễu
         xinh,                                 
         Bến nước nhà ai xanh liễu mới, 
          Khách phòng sáng-nhạt, nắng
         in lạnh về .          Trời
         đông phòng khách nắng râm vàng.   Ong hút mật vo ve trong khóm,                          Ong
         vui hái mật đùa bay lượn,   Bướm trộm hương
         lốm đốm phấn hoa .               
         Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang. 
          Khu vườn nức tiếng
         dạo qua,                             
         Điểm hết xưa nay bao thắng
         cảnh,   Trăm loài trăm
         vẽ xuân hoa yêu kiều .             
         Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng. 
                                    Mailoc
         phỏng dịch                                                                        
         Đỗ Chiêu Đức diễn nôm 
          Phương Hà xin góp bài phỏng dịch: 
              I- Phỏng
         dịch bài CỔ VIÊN       VƯỜN CŨ QUÊ NHÀ       Gió Tây nhuốm bạc
         tóc trên đầu   Chạnh nhớ quê
         nhà dạ nhói đau   Bận chức
         tiểu quan chưa dứt được   Nụ
         hoa ướt đẫm giọt sương thu     
                         Phương Hà
         phỏng dịch       II- Phỏng dịch bài THU NHẬT NGẪU THÀNH       NGẪU HỨNG
         NGÀY THU       Cây lá ngàn thôn sắc úa vàng   Tóc bay trước ngọn gió thu sang   Tháng năm hờ hững trôi qua mãi   Tâm sự nào ai biết, sẻ san                
          Phương Hà phỏng dịch     
          III- Phỏng dịch bài SƠ XUÂN       CHỚM XUÂN 
              Tháng
         chạp mai tàn, tuyết lạnh rơi   Tâm
         già bình tĩnh chẳng lo vời   Nhà
         ai liễu rũ xanh bờ nước   Gian khách
         đông sang sáng nửa vời   Chộn
         rộn, ong tìm hoa hút mật   Xôn xao,
         bướm trộm phấn rung vòi   Ung dung
         dạo bước trong vườn thắm   Rực
         rỡ ngàn hoa khoe sắc tươi.     
                     Phương Hà phỏng
         dịch     
 
  
         
      
      THANH HIÊN THI TẬP (NGUYỄN
         DU) Tiếp theo: Tạp Nhâm kỳ 3 Bản dịch: Mailoc, Mai
         Xuân Thanh, Quên Đi, Kim Phượng  Tạp ngâm ( kỳ 3 ) 
                               
                     Nguyễn Du   Mạc
         mạc thu quang bát nguyệt thâm,   Mang mang thiên khí bán tình
         âm.   Thu phong cao trúc minh thiên lại,   Linh vũ hoàng hoa bố
         địa câm (kim).   Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,   Trừng
         đàm thanh cộng chủ nhân tâm.   Xuất môn từ bộ khan thu
         sắc,   Bán tại giang đầu phong thụ lâm.   Dịch nghĩa :   Tháng
         tám cảnh thu già lặng lẽ   Khí
         trời mênh mang , nửa râm nửa nắng   Buji
         trúc cao gió thu thổi, tiếng sáo trời nổi lên   Hoa cúc sau trận mưa, rơi xuống rắc vàng trên mặt
         đất   Khí lạnh ở rặng núi
         xa thấm vào mộng người du tử   Nước
         đầm trong vắt như lòng chủ nhân   Ra cửa thong thả ngắm sắc thu   Thấy
         một nửa giải rừng phong mé đầu sông.       Dịch thơ : 
              Nét
         thu già im lìm tháng tám,   Trời
         nửa mờ nửa sáng mênh mang. 
          Gió thu trúc trổi sáo đàn 
          Sau mưa mặt đất
         trải vàng cúc hoa.   Hơi
         núi lạnh đêm xoa khách mộng,   Nước đầm trong lắng
         đọng lòng ai.   Thong
         dong thu ngắm cửa ngoài,   Rừng phong in nửa trải
         dài đầu sông .                 
         Mailoc phỏng dịch   TRUNG THU       Tháng tám Trung Thu bóng nguyệt rằm,   Âm u khí hậu dưới trời râm.   Gió lay cành trúc du dương sáo,   Bông cúc sau mưa rớt rụng thầm.   Cái lạnh núi xa len giấc mộng,   Hồ thu trong vắt khách tri âm.   Cử ngoài ngắm cảnh trời Thu sắc,   Hiện nửa rừng phong sông nước thâm.       Mai Xuân Thanh 
          (Phỏng theo bản dịch của thầy Mailoc qua Cổ
         Thi Tạp Ngâm Kỳ 3- của Thi Hào Nguyễn Du)   Quên Đi góp vui cùng Thầy  và anh Mai Xuân Thanh: 
                 
         雜吟其三                  
         Tạp Ngâm Kỳ 3                  
         阮攸                   
         Nguyễn Du       漠漠秋光八月深   Mạc mạc thu quang bát nguyệt
         thâm       茫茫天氣半晴陰
           Mang mang thiên khí bán tình âm        秋風高竹鳴天籟   Thu phong cao trúc minh
         thiên lại     零雨黃花布地金  
         Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim)       遠岫寒侵遊子夢   Viễn tụ hàn
         xâm du tử mộng    澄潭清共主人心
           Trừng đàm thanh cộng chủ nhân tâm        出門徐步看秋色   Xuất môn
         từ bộ khan thu sắc   半在江頭楓樹林。Bán
         tại giang đầu phong thụ lâm.     
          Dịch Thơ : Tạp Ngâm Kỳ 3       Tháng
         tám hơi thu đã phủ đầy   Mênh mông cảnh sắc nắng cùng mây   Gió tây trúc hát vang trời vắng   Mưa tạnh đất vàng cánh cúc rây 
          Núi lạnh vào mơ người khách
         lạ   Đầm trong ví dạ chủ
         nhân nầy   Rời nhà thả bước
         nhìn thu toả   Phong ở đều
         dòng chen chúc cây.                                Quên
         Đi   Tạp Ngâm 3       Tháng Tám
         mùa thu trọn vẹn là   Mênh
         mông tỏ sáng nửa mờ ra   Gió
         lùa ngọn trúc trời vang tiếng   Mưa tạnh cúc vàng đất ngợp hoa   Núi lạnh thấm hồn người lữ khách 
          Đầm trong tợ dạ chủ nhân ta 
          Hiên ngoài rảo bước màu thu ngắm 
          Phong chiếm đầu sông nửa dãy
         xa       Kim Phượng  ______________________________________________________________________  
             
 
 
 
  
      
        Thanh Hiên Thi Tập ( Nguyễn Du) Bản
         dịch: Mailoc, Mai Xuân Thanh,
         Phương Hà          Cùng Bạn ,    Cuối tuần , trời Cali đang đắm chìm trong làn sương
         mờ ảo dưới làn mưa xuân phơn phót cảnh vật nên
         thơ không thể tả.Trong thơ phòng đọc lại vài bài thơ
         của Cụ Nguyễn Du lúc người về ẩn dưới chân núi
         Hồng ở quê nhà khiền lòng tôi cảm khái vô cùng
         . Xin chia sẻ cùng VTT và các bạn thân để quên một phần
         nào nỗi bùi ngùi  tháng Tư Đen sầu thãm trong lòng từng
         người chúng ta..   Nguyễn Du ( 1765-1820),
         tác giả Truyện Kiều , đệ nhất thi phẩm trường thiên
         của văn họv ViệtNam, ngoài ra còn có 3 tâp thơ chử Hán,
         trong đó Thanh Hiên Thi Tập (78) bài chia ra ;àm 3 phần :     A Mười Năm Gió bụi ( 1786-1795) ,thời gian
         lẫn trón ở Qùynh Côi    
         B Dưới Chân Núi Hồng (1796-1802) về ẩn quê nhà .     C Làm Quan Ở Bắc Hà 91802-1804)   Thân kính    Mailoc 
              Dưới
         Chân Núi Hồng  ( 1786-1802 )   Tạp ngâm kỳ 1    Thu
         thanh nhất dạ độ Lam hà,   Vô ảnh vô hình nhập
         ngã gia.   Vạn lý tây phong lai bạch phát,   Nhất song thu
         sắc tại hoàng hoa.   Bách niên ai lạc hà thời liễu?   Tứ bích đồ thư bất yếm đa.   Đình thực cô
         tùng cao bách xích,   Bất tri Thanh đế nại nhân hà? 
              Dịch
         nghĩa    Tiếng thu bỗng một đêm
         vượt qua sông Lam,   Không bóng, không hình luồn vào nhà
         ta.   Gió tây muôn dặm làm cho mái tóc ta thêm bạc,   Sắc thu trên khóm hoa vàng đầy cửa sổ.   Cuộc vui buồn
         trăm năm bao giờ mới hết?   Sách vở đầy bốn vách,
         bao nhiêu cũng vừa.   Trước sân, ta trồng một cây tùng
         cao trăm thước,   Không biết chúa xuân sẽ làm gì được
         người trồng cây?   Dịch
         Thơ :       Tiếng thu vượt Nam
         Hà một tối ,   Không bóng hình men tới nhà ta .   Gió tây đầu bạc
         thêm ra ,   Song thu vàng nhuộm
         cúc hoa rực màu .   Đời
         khổ vui biết bao giờ sạch
         ,   Sách vở đầy
         bốn vách như không .   Ngoài sân trăm thước cô tùng , 
          Chúa xuân ghen với người
         trồng hay sao ?                                   
         Mailoc       Tạp ngâm kỳ 2    Long
         Vĩ giang đầu ốc nhất gian,   U
         cư sầu cực hốt tri hoan.   Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,   Xử sĩ môn tiền thanh giả san.   Chẩm bạn thúc thư phù bệnh
         cốt.   Đăng tiền đấu tửu
         khởi suy nhan.   Táo đầu chung nhật
         vô yên hoả,   Song ngoại hoàng hoa tú
         khả xan.     
           Dịch nghĩa   
         Đầu sông Long Vĩ có một
         căn nhà,   Người ẩn ở đó
         đang buồn cực độ, bỗng
         trong lòng thấy vui.   Cõi lòng người
         khoáng đạt, sáng tỏ như vầng
         trăng,   Trước cửa nàh xử
         sĩ toàn là núi xanh.   Cạnh gối,
         có chồng sách đỡ tấm thân
         bệnh tật,   Trước đèn,
         uống chén rượu cho sắc mặt
         tiều tuỵ tươi tỉnh lên.   Suốt ngày, bếp không đỏ lửa,   Ngoài cửa sổ, đoá cúc vàng tươi
         tốt có thể ăn được. 
              Dịch
         Thơ :   Đầu Long Vĩ một
         gian nhà lá ,   Ẩn cư
         buồn bỗng hóa vui sao .   Cõi lòng thanh thoát nguyệt lào , 
          Trước nhà xử
         sĩ núi cao xanh màu .   Gối
         đầu sách , đỡ đau xương
         cốt ,   Rượu
         bên đèn mặt tốt tươi da . 
          Lạnh tanh bếp núc
         ngày qua ,   No lòng đỡ
         bữa hoàng hoa hiên ngoài                 Mailoc   DƯỚI CHÂN NÚI HỒNG       Tiếng thu đêm vắng
         vọng Lam giang,   Lặng lẽ vô hình
         nhập cửa hàn.   Muôn dặm gió
         tây lồng tóc bạc,   Ngàn hoa vàng
         ánh rực song ngang.   Trăm năm bất
         tận vui buồn bực,   Bốn vách thi
         nhân sách vở tràn...   Sân trước
         cây tùng cao ngất ngưởng,   Chúa
         xuân bỡn cợt kẻ trồng chăng !     
          MAI XUÂN THANH XIN GÓP VUI VƯỜN THƠ THẨN 
          NGÀY 09 THÁNG 04 NĂM 2016    (QUA BẢN DỊCH CỦA THẦY MAILOC)        ẨN CƯ ĐẦU SÔNG LONG VĨ     Long Vĩ đầu sông một mái nhà, 
          Buồn hiu ẩn sĩ bỗng vui à !   Như trăng tỏ rạng lòng thanh thản,   Tợ núi cao xanh trước cửa ta.   Xương cốt ê chề nên gối sách,   Rượu ngon đèn sáng mặt hồng da. 
          Bếp sao lạnh ngắt ngày không lửa, 
          Đại đóa vàng song đỡ dạ qua
         !       BÀI
         GÓP VUI VÀO VƯỜN THƠ THẨN CỦA MAI XUÂN THANH   (QUA BẢN DỊCH THƠ TRONG " THANH HIÊN THI TẬP " ( NGUYỄN
         DU )   CỦA THẦY MAILOC)   Phương Hà xin
         góp bài phỏng dịch:   DƯỚI
         CHÂN NÚI HỒNG   Bài 1 
           Tiếng
         thu một tối vượt sông Lam   Chẳng
         dáng hình riêng, ghé đến thăm   Phơ phất gió Tây lùa tóc bạc   Dịu dàng song cửa phủ hoa vàng 
          Buồn vui cõi thế hoài đeo đẳng 
          Sách vở thư phòng mãi ngổn ngang 
          Sân trước cội tùng vươn bóng
         cả   Người trồng cười
         cợt chúa Xuân chăng ?    
                             Phương Hà phỏng dịch 
           Bài
         2    Long
         Vĩ đầu sông, một mái nhà   Người đang buồn khổ bỗng vui ra   Trong lòng rạng rỡ trăng bừng sáng   Trước cửa xanh ngời núi trải xa   Lưng mỏi, sách kê làm gối dựa 
          Sắc suy, rượu uống
         để tươi da   Suốt ngày
         bếp lạnh không mồi lửa   Khóm
         cúc ngoài sân lót dạ qua.    
                             Phương Hà phỏng dịch  
             __________________________________________________________________________________  
              
      
        HAI BÀI
         THƠ  
 CỦA THIỀN SƯ KHÔNG LỘ ĐỜI
         NHÀ LÝ 
   
 Ngôn hoài 
 Thiền
         Sư Không Lộ (1016 - 1094)   
 Trạch đắc long xà địa khả
         cư 
 Dã tình chung nhật lạc vô dư 
 Hữu thì
         trực thướng cô phong đỉnh 
 Trường khiếu nhất
         thanh hàn thái hư 
   
 Phụ Chú : 
 1- Long xà địa = Vùng
         đất rồng rắn hoang dã ,không người ở 
 2- Dã
         tình = Tình quê chơn chất, buồn vui hồn nhiên   
 3- Thái
         hư = Trời đất vô cùng  
   
 Dịch Xuôi : Đôi Lời Hoài
         Cảm 
 PKT 03/16/2016 
   
 Chọn được chỗ đất rồng
         rắn hoang vu để làm nơi ở  
 Tình quê chỉ
         biết suốt ngày vui  
 Đôi lúc trèo thẳng lên
         tận đỉnh núi đứng chơ vơ vắng lặng  
 Hú một
         tiếng dài nghe lạnh cả càn khôn 
 
 
 
 Ngôn
         Hoài 
 PKT 03/16/2016 
 Chọn đất hoang vu làm
         chỗ ở, 
 Lòng quê vui đạo với thiên thu. 
 Đôi
         khi lên thẳng đầu non đứng, 
 Cất tiếng hú dài
         lạnh thái hư. 
 ----------------------------------------------------------------------- 
 Ngư
         Nhàn 
 Thiền Sư Không Lộ (1016 - 1094) 
 
 
 
 Vạn lý
         thanh giang vạn lý thiên 
 Nhất thôn tang giá nhất thôn
         yên  
 Ngư ông thụy trước vô nhân hoán 
 Quá
         ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền  
   
 Dịch Xuôi: Quang Cảnh Thanh Nhàn
         Ở Một Xóm Chài 
 PKT 03/16/2016  
 Trời
         nước trong xanh muôn dặm một màu 
 Khói bếp tỏa
         trắng trên xóm nhà trồng dâu đay ở ven sông   
 Lão
         chài ngủ say không ai đánh thức 
 Quá trưa , tỉnh
         dậy , tuyết một thuyền đầy  
 
 
 
 Ngư
         Nhàn 
 PKT 03/16/2016 
 
 
 
 Trời
         nước, một màu, xanh vạn dặm, 
 Xóm dâu ,khói
         bếp, tỏa bình yên. 
 Lão chài, ngon giấc , không
         ai gọi , 
 Thức
         dậy, quá trưa , tuyết ngập thuyền . 
   
 
 Phụ Chú :  Thiền
         Sư Không Lộ , đời nhà Lý , thuộc dòng Thiền Vô Ngôn
         Thông , để lại cho hậu thế trong Thiền Uyển Tập Anh , 2 bài thơ
         Ngôn Hoài và Ngư Nhàn.  Có nghi vấn cho là bài Ngư Nhàn
         này chính là bài Túy Trước của Hàn Ốc (844 - 923), bên
         Tàu. Hai bài này chỉ khác nhau ở câu 3 , trong Túy Trước hai
         chữ "túy trước" có nghĩa là "say mèm" đã
         được đổi lại là "thụy trước" có nghĩa là
         "ngủ say" trong Ngư Nhàn.   Lời Thêm : Về thơ xưa, trường hợp cần phải xác
         định: tác giả đích thực là ai, khi chuyển dịch có giữ
         được ý của nguyên tác và, chữ dùng có đúng
         nghĩa hay không, là nằm ngoài giới hạn hiểu biết của tôi.
         Vả lại , tình thực mà nói, tôi cũng không có tham vọng
         này. Chỉ là, đã cố gắng tới mức có thể, để
         chia xẻ ở đây, với mọi người mà tôi quý mến, nỗi
         rung động nhẹ nhàng, cảm nhận được, khi đọc được
         một bài thơ hay.Thế thôi. Vâng, chỉ là thế thôi. PKT 03/16/2016
  Tri Khac Pham Phamid1934@gmail.com   
      
              NGUYỄN DU: BẤT MỊ        
                      Ai từng bị mất
         ngủ mới thông cảm với
         cụ Nguyễn Du của chúng ta ' 
          Mailoc       Bất mị  
                      Nguyễn
         Du       Bất mị thính hàn canh,   Hàn canh bất khẳng tận.   Quan san dẫn mộng trường,   Châm chử thôi hàn cận.   Phế táo tụ hà ma,   Thâm đường xuất khâu dận.   Ám tụng "Thiên vấn" chương,   Thiên cao
         hà xứ vấn?     
          Dịch
         nghĩa    Không ngủ
         nằm nghe tiếng trống canh trong đêm lạnh.   Trong đêm lạnh,
         trống canh điểm không thôi.   Quan san làm giấc mộng dài
         thêm,   Tiếng chày nện vải càng giục hơi lạnh đến
         gần.   Cóc nhái tụ họp quanh bếp,   Giun từ góc sâu
         trong nhà bò ra.   Thầm đọc bài ca hỏi trời,   Trời
         cao, biết đâu mà hỏi?     
          Dịch Thơ           
          Không Ngủ     
          Không ngủ được trống canh tê
         tái ,   Trống lạnh lùng
         điểm mãi buồn thay .   Quan san
         mãi miết mộng dài ,   Trời
         khuya hơi giá tiêng chày giục mau .   Bếp lạnh tanh đùa nhau cóc nhái ,   Giun xó nhà lải rải bò ra .   Lâm râm miệng hỏi " Trời Già "  
         Trời cao trong cõi ta bà nơi đâu ? 
                                          
         Mailoc phỏng dịch                                
             12-17-15          
          MẤT  NGỦ     
          Đêm lạnh nằm nghe tiếng trống canh, 
          Suốt đêm trống điểm vọng âm
         thanh.   Mơ màng giấc điệp ngoài
         quan ải,   Văng vẳng chày khuya giục
         mộng lành.   Bếp ấm sao quanh đây
         nhái cóc,   Góc sâu giun cũng hiện
         bò nhanh.   Khấn thầm dám hỏi ông
         trời đỏ,   Thăm thẳm trên cao
         chỉ xám xanh.       Mai Xuân Thanh, phỏng theo bản dịch của
         thầy Mailoc   Ngày 17 tháng 12 năm 2015 
             Thức
         Đêm       Thao thức đếm canh tàn   Đêm dài trống lạnh vang   Miền xa dường lắm mộng   Chày vẳng lạnh ùa sang   Bếp
         ễng ương tề tụ   Nhà
         côn trùng ngổn ngang   Thì thầm
         "Thiên Vấn" khúc   Muốn
         hỏi biết đâu đàng.    
                            Quên Đi  Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau
         đây :   1. Bản chữ Hán Cổ của
         bài thơ :           不寐                      
         BẤT MỊ   不寐聽寒更,      
         Bất mị thính hàn canh,  寒更不肯盡。      
         Hàn canh bất khẳng tận.   關山引夢長,       Quan
         sơn dẫn mộng trường,   砧杵催寒近。      
         Châm Chữ thôi hàn cận.   廢灶聚蝦蟆,       Phế
         táo tụ hà ma,   深堂出蚯蚓。      
         Thâm đường xuất khưu dẫn.   暗誦天問章,      
         Ám tụng Thiên Vấn chương,  天高何處問?      
         Thiên cao hà xứ vấn ?             
         阮攸                                  Nguyễn
         Du       2.
         Chú Thích :          
         Mị : là Ngủ mê. Mộng Mị là chữ Mị nầy.           Châm Chữ : Châm là
         Tấm Thớt, Chữ là Cái Chày. Chày và Thớt ở đây
         dùng để giặt quần áo bằng vải thô ngày xưa, nhất
         là quần áo mặc lạnh rất dầy. Để quần áo ướt
         lên trên thớt, rồi dùng chày để đập cho sạch, nên
         tiếng đập vang rất xa. CHÂM CHỮ là Tiếng động do giặc
         quần áo gây ra. Giặc đồ bằng chày chứng tỏ mùa lạnh
         sắp tới rồi ( thôi hàn cận ).          
         Hà Ma : là Cóc Nhái ểnh ương.           Khưu Dẫn hay Khâu Dận là con Trùng
         đất.           Ám
         Tụng : là Đọc thầm.          
         Thiên Vấn : Tên bài thơ trường thiên của Khuất Nguyên nước
         Sở đời Xuân Thu. Thiên Vấn là Hỏi Trời, hỏi đủ thứ 
         về thiên nhiên vạn vật, hỏi cả về lịch sử nhân sinh ...  
              DIỄN
         NÔM :                          
            MẤT NGỦ                    
         Mất ngủ suốt canh thâu,                    
         Canh thâu dài bất tận.                     Cách
         trở núi non xa,                     Tiếng
         chày sao vội vả.                    
         Táo đổ ếch nhái kêu,                     Góc
         phòng giun ra rả.                    
         Nhẩm đọc thơ Vấn Thiên,                    
         Trời cao hỏi chi hả ?!        
                                            
         Đỗ Chiêu Đức   KHÔNG
         NGỦ  Thao thức đêm canh tận  Trống
         hồi vang mấy bận  Quan san mờ lối xa  Tiếng gió khơi sầu hận  Cóc nhái tìm phù du  Dế trùng bò hụt hẫng  Trời
         cao có rõ không?  Sao chẳng hề vương vấn?  Nguyễn Đắc
         Thắng 20151218  
 
  
         
      
       DU SƠN
         TỰ                            
 Nguyễn Trãi (1380 - 1442) 
              Đoản
         trạo hệ tà dương   Thông thông
         yết thượng phương   Vân quy thiền
         tháp lãnh   Hoa lạc giản lưu hương 
          Nhật mộ viên thanh cấp   Sơn không trúc ảnh trường   Cá trung chân hữu ý   Dục
         ngữ hốt hoàn vong       Dịch Xuôi : Lên Núi Thăm Chùa  
          PKT  12/12/2015     
          Buộc mái chèo ngắn ,neo thuyền trong ánh
         nắng cuối ngày,   Vội bước lên
         chùa để bái yết phương trượng .   (Người đâu không thấy ,chỉ thấy) mây bay phủ chiếc
         giường thiền lạnh ,   Hoa rụng trôi
         tỏa hương thơm bên khe suối chảy róc rách ,   Tiếng vượn kêu nghe cấp thiết vang động trời
         chiều ,    Và, bóng trúc đổ
         dài khắp sườn núi vắng .   Trước
         cảnh tình này ,ta đã ngộ được chân ý ,lẽ vô
         thường của Tạo Hóa ,    Bao lời
         muốn nói ra bỗng nhiên quên hết tất cả .       Du Sơn Tự 
          PKT 12/12/2015     
          Neo thuyền vào nắng cuối ,   Hối hả lên chùa xưa .   Mây lạnh giường thiền đón,   Hoa thơm dòng suối đưa .   Vượn kêu chiều núi vắng ,   Trúc đổ bóng rừng thưa .   Đối cảnh, ngộ chân ý ,   Lời
         nào nữa cũng thừa.      
          Lời Thêm : Khoảnh khắc đốn
         ngộ "thấy"  được chân ý là ở ngoài diễn
         tả bằng ngôn ngữ trần tục. "Dục ngữ hốt hoàn vong - muốn
         nói bỗng quên lời"  hay "lời nào nữa cũng thừa "
         cũng chỉ là một cách nói cho vui vậy thôi. Không thể nói
         được nên lời . Thôi thì , năm nay sắp hết, một năm mới
         sẽ tới , Giáng Sinh đã về đến đầu ngõ , trong giới
         hạn 100 năm sinh tử trước vô cùng mênh mang của Đất Trời
         , tôi xin được gửi đến mọi người thân quí, lời
         Cầu Chúc: Một Giáng Sinh 2015 Ơn Phước, Một Năm Mới 2016 An Lành
         , Một Tết  Xuân Bính Thân 366 Ngày Tình Nghĩa và Hạnh
         Phúc. PKT 12/12/2015            
              Tri Khac
         Pham  Phamid1934@gmail.com       
      
             CAO BÁ QUÁT:  SA
         HÀNH ĐOẢN CA    Bản dịch:
         Phạm Khắc Trí    _____________________________________________________________________________________________  
              Chút tâm sự cuối đời
         qua một bài thơ của người xưa. Đọc cho vui để thương
         nhau hơn. Cầu chúc an lành. PKT 12/04/2015        SA HÀNH ĐOẢN CA 
          Cao Bá Quát (1808 - 1855)     Trường sa phục trường sa      
                     Nhất bộ nhất
         hồi khước.    Nhật nhập hành
         vị dĩ   Khách tử lệ giao lạc 
              Quân
         bất học tiên gia mỹ thụy ông   Đăng
         sơn thiệp thuỷ oán hà cùng   Cổ
         lai danh lợi nhân   Bôn tẩu lộ đồ
         trung.        Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu   Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng 
          Trường sa, trường sa nại cừ hà  
          Thản lộ mang mang uý lộ đa       Thính ngã
         nhất xướng cùng đồ ca   Bắc
         Sơn chi bắc sơn vạn điệp   Nam
         Sơn chi nam ba vạn cấp    Quân hồ
         vi hồ sa thượng lập      
         NGƯƠI SAO CÒN ĐỨNG TRÊN ĐỒI
         CÁT?   PKT 12/04/2015       Đồi cát, lại
         đồi cát,   Mỗi bước, tới
         như lui.   Hết ngày, đi chưa đến, 
          Nước mắt nào rơi rơi.       Không học
         phép tiên, vừa đi vừa ngủ,   Lội
         suối trèo non, thật lao đao.   Xưa
         nạy, đường danh lợi,   Ngược
         xuôi, trời hành sao?       Trước quán bên đường, gió thoảng
         hơi rượu,   Nào mấy người
         tỉnh, mà ta không say.   Đồi cát,
         đồi cát, gối mòn, chân mỏi,   Đường dài mịt mùng, hung hiểm nào hay.       Xin nghe ta ca bài hát
         đường cùng,   Bắc Sơn, về
         bắc, núi vạn dẫy,    Nam Sơn,
         đi nam, sóng muôn trùng,    Hỏi
         chi người còn đứng trên đồi cát?       Chú Thích : 
              1 -  Sa
         hành đoản ca = Một khúc ca ngắn nói về người đi trên
         sa mạc.    2 -  Tiên gia mỹ thụy
         ông = Một tiên ông có phép thuật vừa đi vừa ngủ , không
         mệt.   3 -  Cùng đồ ca = Một
         khúc ca đường cùng, không còn đường nào để đi.  
          4 -  Bắc Sơn, Nam Sơn, tên 2 ngọn núi
         đâu đó ,một ở miền Bắc, một ở miền Nam, chỉ nơi
         lánh đời của các bậc "trí giả sinh bất phùng thời"(!)
         .       Lời
         Thêm : Đường Cùng. Bắc Sơn, ngược bắc, núi muôn
         trùng. Nam Sơn, xuôi nam, biển sóng dữ. Con đường cát dài
         trước mắt, đi hoài không tới. Ngược hay xuôi thảy đều
         khó. Trách nhau chi tội quán rượu bên đường. "Lập công
         bất thành / học bất tựu / thiếu tráng hữu cơ thần hề /
         tọa thị bách niên thân thế khu âm dương / Phủ chướng
         cuồng ca /vấn tư thế / mang mang thiên địa / an đắc tri nhất tri
         kỷ hề / thí lai đối chước hữu dư thương ".( Nam Phương
         Ca Khúc - Nguyễn Bá Trác (?) - 1881 - 1945 ). Chức nghiệp không tròn /
         Học hành dang dở / Tuổi trẻ một thời / Ngồi nhìn trăm năm
         thân thế tháng ngày trôi /  Vỗ tay cuồng hát nghêu ngao / Hỏi
         cõi đời này / Đất trời mang mang / Nào ai tri kỷ / Cùng ta chén
         cạn chén đầy ? PKT 12/04/2015     
              Tri Khac
         Pham   Phamid1934@gmail.com       
      
      Bản
         dịch: Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Kim Phượng    
 _________________________________________________________________________  Trời sắp vào cuối thu , nằm đọc mấy bài mùa thu
         của cụ Nguyễn Du mà cảm thấy nao nao lòng , phải chăng lớp già
         chúng ta đang ngậm
         ngùi khắc khoải cho tuổi già bóng xế , man mác nhớ về quê
         hương ? Mời bạn chia sẻ . Hương
         Giang nhất phiến nguyệt   Kim cổ hứa đa sầu   Vãng sự bi thanh trủng   Tân thu đáo bạch đầu   Hữu hình   Hữu hình đồ dịch dịch   Vô bệnh cố  
         Vô bệnh cố câu câu   Hồi thủ Lam
         Giang phố   Nhàn tâm tạ   *Bài thơ
         nầy là một trong 39 bài trong Nam
         Trung Tạp Ngâm thời
         kỳ Ông làm quan ở Quảng
         Bình và Huế (1804-1814 ) Năm 1804, Nguyễn Du cáo
         bệnh, xin về hưu, từ quan, nhưng chỉ được có hơn một tháng
         thì có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông các điện
         học sĩ, nên đành phải đi. Bài "Phượng Hoàng lộ
         thượng tảo hành" làm lúc lên đường trẩy kinh (tháng
         giêng năm Ất Sửu, 1805).  Sông Hương một mảnh nguyệt   Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu   Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh   Thu mới tới trên đầu tóc bạc   Có hình nên phải chịu vất vả   Không bệnh mà lưng vẫn khom khom   Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam   Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng Dòng
         sông Hương một vầng trăng sáng , Từ cổ kim lai láng tơ sầu . Mộ xanh chuyện cũ rầu rầu , Ngập ngừng thu tới mái
         đầu hoa râm . Mang
         hình hài xót thân vất vã , Chưa bệnh hoạn lưng đã khòm rồi , Bến Lam mặt ngoảnh trông vời , Hải âu từ tạ chơi vơi trong lòng . Tứ thì
         hảo cảnh vô đa nhật,   Phao trịch như thoa hoán bất hối.   Thiên lý xích thân vi khách cửu,   Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.   Liêm thuỳ tiểu các tây phong động,   Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai.   Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,   Nhất sinh u tứ vị tằng khai.  *Bài thơ nầy nằm trong Thanh Hiên
         Thi Tập trong phần Mười Năm Gió Bụi Thanh Hiên thi Tập g ồm 78 bài có thể chia làm
         3 phần : A-      Mười
         Năm Gió Bụi (1786-1795) thời gian lẫn trốn ở Quỳnh Côi B-      Dưới Chân Núi Hồng
         (1796-1802) , về ẩn ở quê nhà . C-      Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) Trong bốn mùa, không được
         mấy ngày cảnh đẹp.  Thời gian vun vút
         trôi qua như thoi đưa, gọi
         không trở lại.  Trơ trọi một mình ngoài
         ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày,  Giờ đây một sân đầy lá vàng thu đưa
         đến.  Ngọn gió tây lay động bức mành trước gác nhỏ,  Nơi thôn xóm,
         sương xuống mịt mù, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng!  Thời gian thấm thoắt làm cho mái
         tóc chóng bạc.  Nghĩ mà ngậm ngùi, suốt đời ta chưa hề gỡ được mối
         u sầu. Cảnh bốn
         mùa đẹp tươi
         được mấy
         , Thoi thời
         gian gọi mãi không quay . Dặm ngàn
         cô khách năm dài , Thu
         về xào xạc
         sân đầy vàng bay . Gió tây thổi
         rèm lay gác nhỏ , Còi sớm
         buồn tuyết
         đổ đầy
         thôn . Tóc sương
         ngày tháng bồn chồn
         , Cả
         đời u uẩn
         ngập hồn
         không vơi . Vầng trăng soi bóng Hương Giang Ngàn năm khơi gợi miên man nỗi sầu Sương thu dần nhuộm mái đầu bạc phơ Xót thân dầu dãi sớm trưa Lưng khòm gối mỏi xác xơ hình hài Ngoái trông bến cũ u hoài Rưng rưng tạm biệt xa bầy hải âu. Bốn mùa đẹp được mấy ngày Thời gian vun vút trôi hoài biệt tăm Sân nhà đầy lá, thu sang ngậm ngùi Mành thưa ngọn gió dập vùi Tù và ngân vọng, sương rơi não nùng Phơ phơ đầu bạc tháng năm Nỗi sầu chất chứa trong tâm trọn đời.   Đỗ Chiêu Đức
         tham gia với các phần sau đây : 1. NGUYÊN BẢN
         CHỮ HÁN CỦA BÀI THƠ : 香江一片月,        Hương Giang nhất phiến nguyệt, 今古許多愁。        Kim cổ hứa đa sầu. 往事悲青塚,        Vãng sự bi thanh trủng, 新秋到白頭。        Tân thu đáo bạch đầu. 有形徒役役,        Hữu hình đồ dịch dịch, 無病故拘拘。        Vô bệnh cố câu câu. 回首藍江浦,        Hồi thủ Lam Giang phố, 閒心謝白鷗。        Nhàn tâm tạ bạch âu !                  
                                         Thư pháp
         4 chữ HỒNG SƠN LIỆP HỘ     HƯƠNG GIANG : Con sông chảy giữa kinh thành Huế,
         một thắng cảnh của tỉnh Thừa Thiên. Năm Ất Sửu (1805), Nguyễn
         Du được thăng hàm Đông Các Điện Học Sĩ, tước
         Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh đô Huế. Nhưng lòng
         vẫn đeo nặng mối sầu thiên cổ.      HỨA ĐA : là Biết bao nhiêu, chỉ Rất nhiều.      THANH TRỦNG : Trủng là gò đất cao.
         Thanh Trủng là gò đất xanh vì cỏ mọc, thường dùng để
         ví với các nấm mồ.      DỊCH
         DỊCH : Chỉ sự làm việc vất vả như ở trong quân lữ.      CỐ : là Vì, là Cho Nên (
         Chỉ lý do ).      CÂU
         CÂU : Chỉ lom khom như gù lưng. Làm quan luôn luôn phải giữ
         vẻ khúm núm như là kẻ mắc bệnh gù lưng. Vẻ khúm
         núm của giới quan trường.     
         PHỐ 浦 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, nên Phố là Bến nước.      BẠCH ÂU : là Những con hải
         âu màu trắng.            
         Một mảnh trăng trên dòng Hương Giang đã khơi dậy biết
         bao là nỗi sầu kim cổ. Chuyện đã qua thì bi thảm như những
         nấm mộ xanh rì, thu mới đến thì lại làm cho bạc trắng
         cả mái đầu.  Vì mang thân xác của con người nên
         luôn luôn phải làm việc cật lực vất vả. Và vì không
         có bệnh nên lại phải tiếp tục khúm núm trong quan trường.
         ( Nếu ngọa bệnh thì khỏi làm việc và khỏi phải khúm
         núm trước quan trên ). Quay đầu nhìn lại bến Lam Giang, ta
         muốn cám ơn những con chim hải âu trắng xóa đang bay
         lượn trên bến sông đã giúp cho lòng ta cảm thấy
         thanh nhàn hơn !                     Hương
         Giang trăng một mảnh,                     Lam
         Giang trông bến nước,                 
         Hương Giang một mảnh trăng treo,                 
         Cổ kim khơi động lòng sầu bao thu.                  Chuyện
         qua buồn tựa cổ khâu,                 
         Bâng khuâng thu đến bạc đầu không hay.                 
         Mang thân nên vất vả hoài,                  Quan
         trường khúm núm vì ai ngỡ ngàng.                  Quay đầu
         nhìn bến Lam Giang,                 
         Cám ơn âu trắng gợi nhàn bên sông !                                                           Đỗ
         Chiêu Đức   Bản
         dịch Kim Phượng: 
 Thu Tới 1  Sông Hương
         kìa mảnh trăng treo Sinh tình cám
         cảnh nặng gieo mối sầu Mồ
         xưa ngọn cỏ rầu rầu Sắc
         thu vừa chuyển trên đầu điểm sương Mang thân vất vả trăm đường Lưng còng như thể đang dường ốm đau Bến Lam trông đến nghẹn ngào Hải âu từ biệt nao nao cõi lòng   Kim Phượng ************ Thu Tới 2   Bốn mùa rực
         rỡ bao ngày Thời gian trôi mãi
         gọi hoài công thôi Dặm ngàn
         thân lữ đơn côi Sân
         ngoài vàng lá thu ôi phủ dầy Gác cao màng động gió tây Tù và não nuột xóm đầy sương mai Tóc kia sớm bạc chóng thay Sầu khôn gỡ mối đắng cay một đời                               
                          Kim Phượng   
 
 _____________________________________________________________________________   
      
         NGUYỄN DU: ĐỐI TỬU Bản dịch: Phạm Khắc
         Trí, Mailoc, Song Quang, Quên Đi, Đỗ Chiêu Đức    Đối Tửu   Nguyễn Du (1765 - 1820)       Phu tọa nhàn
         song túy nhãn khai   Lạc hoa vô
         số há thương đài   Sinh
         tiền bất tận tôn trung tửu   Tử
         hậu thùy kiêu mộ thượng bôi   Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ   Niên quang ám trục bạch đầu lai   Bách kỳ đản đắc chung triêu
         túy   Thế sự phù vân
         chân khả ai       Dịch Xuôi : Đôi Lời Tâm Sự
         Với Rượu   PKT 09/09/2015 
              Tỉnh say , ngồi nhàn bên cửa sổ, đưa mắt nhìn
         quanh   Hoa rụng rơi xuống vương
         vãi đầy thềm rêu xanh    Lúc sống , đã không uống cạn được một bầu
         rượu   Thì sau khi chết , chén
         rượu ai người tưới trên mồ cho đây   Sắc xuân dần dần thay đổi , con oanh vàng
         đã bay đi mất   Ngày
         tháng âm thầm trôi qua , tóc trên đầu bạc đến nơi rồi 
          Cuộc sống trăm năm chỉ còn
         ước mong được say như suốt buổi sáng này    Chuyện đời mây nổi ngẫm thật đáng
         buồn, còn ngồi than thở ích gì nữa đâu        Chú
         Thích : "Phu tọa " nghĩa là ngồi xếp bằng tròn
         tĩnh tọa , kiểu ngồi thiền của các nhà tu ; "nhàn song"
         nghĩa là nhàn nhã bên cửa sổ , "túy" nghĩa là say
         rượu; "nhãn" nghĩa là con mắt ; "khai" nghĩa là mở
         ; cả câu có thể hiểu một cách giản dị là " ngồi
         nhàn bên cửa sổ ,rượu say, đưa mắt nhìn cảnh vật bên
         ngoài " ; nhưng "túy nhãn khai " là "mắt say nhìn"
         hay còn có ngụ ý gì nữa đây? Ôi chữ với nghĩa của
         người xưa ! Viết đến đây , xin được phép nói đến
         Chị Thảo Nguyên , giáo sư Toán,  một thời dạy ở trường
         Nữ Trung Học Đoàn Thị Điểm , Cần Thơ ,trước 1975 ,tác
         giả cuốn ĐỌC VÀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU . Đối
         Tửu là 1 trong số 55 bài được chị lựa chọn từ hơn 200
         bài thơ chữ Hán của tác giả Truyên Kiều . Đọc các
         bài dịch kèm theo phần bình chú , lòng riêng khôn ngăn được
         xúc động và cảm phục về tính nghiêm cẩn cúa chị
         ,trong việc tìm hiểu ý nghĩa đến từng con chữ một của nguyên
         tác. Về phần chuyển dịch, giữ được nguyên ý , cùng
         lúc với chất thơ , tìm được "nhãn tự" và từ
         đó khai mở được "phần chìm" cúa bài thơ , để
         cho người đọc hiểu được phần nào tâm sự u ẩn của
         tác giả là một điều không dễ . Thiển nghĩ , cho đến
         nay , về dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du , không mấy người
         đạt được thành quả tốt đẹp như chị.  Với tấm
         lòng kính mến, xin được mạn phép chép ra đây bài
         Trước Chén Rượu của Thảo Nguyên ,bản dịch bài Đối
         Tửu , để mọi người thân quí trong nhà được biết
         thêm về một người yêu chuộng chữ nghĩa . PKT 09/09/2015       Trước Chén Rượu   Thảo Nguyên - Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn
         Du       Ngồi nhàn bên cửa mắt ngà say   Hoa rụng thềm rêu phấp phới bay   Khi sống chẳng nghiêng bầu cạn rượu 
          Chết đi ai tưới mộ ly đầy? 
          Sắc xuân dần chuyển oanh bay mất  
          Năm tháng ngầm đưa trắng tóc
         lay   Ước được trăm
         năm say khướt mãi   Buồn
         ơi, thế sự khác gì mây!               Đối
         Tửu   PKT 09/09/2015       Tỉnh
         say , đưa mắt ngoài song cửa ,   Hoa rụng, thềm rêu , những cảm hoài.   Sống đã chén vơi, ta với bóng ,   Chết rồi mộ tưới, rượu cho ai?  
         Sắc xuân dần đổi, oanh vàng
         biệt ,    Ngày tháng lặng
         trôi , tóc trắng bay.   Nào
         muốn trăm năm , say suốt sáng,   Chuyện đời mây nổi , nỗi thương vay .       Lời
         Thêm : Theo Thảo Nguyên , trong Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán
         Của Nguyễn Du , bài Đối Tửu được làm ra trong thời kỳ
         ở Hồng Lĩnh (1796 -1802) , tác giả tuy sống ớ quê nhà ,nhưng "vẫn
         rất nghèo khổ".  Từ nguồn tin này ,tôi lại lẩn thẩn
         nghĩ đến 2 chữ "túy nhãn" trong câu mở đầu . Rượu
         uống thiếu , nhìn bầu rượu cạn , nhà nghèo quá, không
         tiền mua thêm . Cho nên "túy nhãn" mắt say nhưng người uống
         đã  say đâu. Cho nên mới than lúc sống không đủ rượu
         uống , mong gì chết rồi ai đổ rượu trên mồ cho. Cho nên mới
         nghĩ đến tuổi xuân dần qua ,thời gian nghiệt ngã , tóc đã
         bạc rồi ,chuyện đời mây nổi , không buồn sao được , trăm
         năm đành thôi , chỉ còn ước được một sáng cùng
         rượu say vùi. Ôi chao , có thể nào sự thật trần trụi thảm
         thương đến độ như vậy sao? Cho nên đáng lẽ , 2 câu
         cuối là : " Chỉ muốn trăm năm say suốt sáng / Nỗi đời
         mây nổi ngẫm buồn thay " , thật tình không hiểu sao tôi lại
         đổi thành : "Nào muốn trăm năm say suốt sáng / Chuyện đời
         mây nổi, nỗi thương vay ". PKT 09/09/2015           
          Tri Khac Pham   Phamid1934@gmail.com       Trước  Chén  Rượu    Ngồi bên song ngà say mắt thả ,   Thềm rêu xanh lả tả hoa rơi . 
          Chén quỳnh chưa cạn trên đời
         ,   Chết rồi ai rưới
         rượu mời mộ ta !     
          Oanh bay mất , phôi pha xuân sắc
         ,   Tháng năm dần hiu hắt
         bạc đầu .   Trăm năm
         say khướt mong cầu ,   Mây
         trôi thế sự , dàu dàu lòng ai !                 Mailoc phỏng dịch  
                           Cali
         9-9-15                 TRƯỚC  CHÉN RƯỢU                            
         Đang tỉnh say,mắt nhìn quanh song cửa                        
         Hoa rụng đầy ,vương tơi tả thềm rêu                         Lúc
         sanh tiền cạn chén được bao nhiêu ??                         Đến
         khi chết mộ ta ai chuốc rượu ?!                               Tuổi
         Xuân phai như chim oanh bay mất                         
         Tóc bạc màu theo năm tháng trôi qua                          Ước được
         sao say khướt mãi hồn ta                         
         Mặc thế sự nổi chìm...buồn cũng thế !                                          
         SONG  QUANG             Trước Rượu          Ngồi thiền bên cửa
         mắt còn say   Lả tả
         thềm rêu hoa phủ dày   Lúc
         sống rượu bầu không thể cạn   Chết rồi nấm mộ tế nào hay   Thời xuân dần đổi chim vàng bỏ 
          Ngày tháng trôi qua tóc bạc
         phai   Cứ muốn trăm năm
         say mỗi sáng   Đời
         như mây nổi thật buồn thay.                                    
         Quên Đi         
          Đỗ Chiêu Đức tham gia với
         các phần sau đây :     
          1. Bản chữ Hán cổ của bài
         thơ :        
         對酒   趺坐閒窗醉眼開,   落花無數下蒼苔。   生前不盡樽中酒,   死後誰澆墓上杯。   春色漸遷黃鳥去,   年光暗逐白頭來。   百期但得終朝醉,   世事浮雲真可哀。                    
         阮攸              
         Đối tửu   Phu toạ nhàn
         song tuý nhãn khai,   Lạc hoa vô số hạ thương đài.   Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,   Tử hậu thuỳ kiêu mộ
         thượng bôi ?   Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,   Niên quang ám trục bạch đầu lai.   Bách kỳ đãn đắc
         chung triêu tuý,   Thế sự phù vân chân khả ai.                                     
         NGUYỄN DU       2. CHÚ THÍCH :      * PHU TỌA : Ngồi xếp bằng kiểu nhà Phật . 
             * NHÀN SONG : là Caí
         Cửa Sổ không có trang trí gì cả, không có rèm sáo gì
         hết. Chớ không phải caí cửa sổ nhàn nhã .      * BẤT TẬN : là không hết. TÔN
         TRUNG TỬU : là Rượu trong chai. Câu nầy ý nói Uống không
         hết rượu trong chai, chớ không phải Trong chai đã hết, không
         có rượu để uống !       * KIÊU : là Tưới .      * TIỆM THIÊN : là Dần dần dời đổi . Đổi
         thay dần .      * ÁM TRỤC
         : là Lặng lẽ đi mất. NIÊN QUANG : là Thời gian.      * BÁCH KỲ : Trong cái kỳ hạn trăm
         tuổi, ở đây chỉ cuộc đời cuả một đời người
         .      * TRIÊU : là Buổi
         sáng. Ở đây chỉ có nghiã là BUỔI mà thôi. Như trong
         câu : " Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại nhất triêu "
         là " Nuôi quân ngàn ngày, nhưng chỉ dùng trong một BUỔI
         ". Trong bài thơ là CHUNG TRIÊU TUÝ, có nghĩa : Say suốt buổi,
         ý nói là Buổi nào cũng được say, ngày nào cũng được
         say !       3. DỊCH NGHĨA :                       
         ĐỐI TỬU là Đối diện với rượu, nên                             
         có nghĩa là UỐNG RƯỢU           Ngồi xếp bằng trước cửa sổ,
         mở con mắt say ra mà nhìn, thấy vô số là hoa rụng xuống bãi
         rêu xanh. ( Hoa rụng có nghĩa là xuân sắp qua đi, nên mới
         cảm khái rằng... ) Ta còn sống đây mà còn uống không
         hết rượu ở trong chai  ( vì không có người tri kỷ cùng
         uống ), không biết rồi khi chết đi còn có ai  ( là người
         tri kỷ ) tưới lên mộ ta ly rượu tri âm hay chăng ?  ( Ý 2 câu
         nầy giống như 2 câu : Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ
         hà nhân khấp Tố Như ? vậy !). Xuân sắc đã dần dần
         thay đổi, chim hoàng oanh hót vào mùa xuân cũng đã bay
         đi mất rồi ! Thời gian cũng âm thầm lặng lẽ ra đi, đầu
         cũng đã bạc đến nơi rồi. Trong cuộc sống trăm năm của
         người đời ước gì mỗi ngày đều được say tuý
         lúy, vì sự đời như phù vân trôi nổi, thật đáng
         buồn thay !       4. DIỄN NÔM :                                       
         UỐNG RƯỢU                          Ngồi
         buồn trước cửa mắt say nhìn,                     
         Hoa rụng tơi bời xuống thảm xanh.                      Còn
         sống không người cùng cạn chén,                      Chết
         rồi ai tưới rượu cho mình  ?                     
         Xuân qua lặng lẽ oanh bay mất,                      Tuế
         nguyệt âm thầm tóc trắng tinh .                      Ước
         được trăm năm say khướt mãi,                     
         Chuyện đời mây nổi xót thay tình !   Lục bát :                      Trước
         song ngồi nhướng mắt say,                     
         Tơi bời hoa rụng nào ai đoái hoài.                     
         Sống không có bạn cùng say,                      Chết
         rồi biết có còn ai uống cùng  ?                      Xuân
         qua lặng lẽ âm thầm,                      Oanh
         bay, tóc trắng xóa dần thời gian.                     
         Trăm năm ước được say tràn,                      Chuyện
         đời mây nổi làm tan nát lòng !                                                              
         Đỗ Chiêu Đức _________________________________________________________________________________________________________________  
                  
      
      
   1. VẠN
         HẠNH THIỀN SƯ  萬 行禪師              
         Thiền sư VẠN HẠNH 萬行禪師 (?-1018) Nguyên họ Nguyễn,
         người làng Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị
         xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng
         Thiền Nam Phương Tì Ni Đa Lưu Chi. Ông học thông tam giáo ( NHO
         - THÍCH- ĐẠO ), đã từng hết sức giúp vua Lê Đại Hành
         chống ngoại xâm, dựng xây đất nước, sau lại khuông phò
         Lý Công Uẩn lên ngôi nên rất được kính trọng. Theo
         sách Thiền Uyển Tập Anh (1337), Ông còn để lại một số bài
         thơ, trong đó đặc biệt có bài THỊ ĐỆ TỬ (Bày
         tỏ với đệ tử) - Nhan đề nầy là do người đời sau
         đặt ra. Sách Thiền Uyển Tập Anh chép rằng : " Ngày 15 tháng
         5 , năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không bệnh, gọi chúng tăng
         đệ tử đến, rồi đọc bài kệ:                                        
         示 弟 子                
         身 如 電 影 有 還 無                
         萬 木 春 榮 秋 又 枯                
         任 運 盛 衰 無 怖 畏                
         盛 衰 如 露 草 頭 舖                        
           THỊ ĐỆ TỬ           
         Thân như điện ảnh hữu hoàn vô          
         Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô           Nhậm
         vận thịnh suy vô bố uý           Thịnh suy
         như lộ thảo đầu phô.     
                Sư lại bảo với các
         đệ tử rằng : " Các ngươi muốn đi về đâu ? Ta không
         lấy chỗ trụ để mà trụ, cũng chẳng dựa vào chỗ vô
         trụ để mà trụ ". Ý muốn bảo ƯNG VÔ SỞ TRỤ ...
         Một lát sau thì Sư qua đời. Vua cùng các quan làm lễ hỏa
         táng cho Sư, xây tháp Xá Lợi để hương khói phụng thờ
         ....            CHÚ THÍCH BÀI KỆ TRÊN :        THỊ ĐỆ TỬ : THỊ có
         2 nghĩa : CHỈ THỊ là Chỉ điểm, Chỉ vẽ, Ra lệnh. BIỂU THỊ
         là Bày tỏ, Tỏ Vẻ, Tượng Trưng. Nên THỊ ĐỆ TỬ
         có thể hiểu là : CHỈ ĐIỂM cho đệ tử, cũng có thể
         hiểu là BÀY TỎ lòng mình với đệ tử.        
         ĐIỆN ẢNH : ĐIỆN là Tia Chớp, ẢNH là Cái bóng. Cái
         Bóng có được nhờ tia Chớp. nên rất mong manh, thoáng cái
         thì đã mất.         ĐIỆN ẢNH : Ngày nay
         ta gọi là Chớp Bóng, là Chiếu Bóng, là nghệ thuật thứ
         7 của hiện đại.         NHẬM : Ở đây là
         Phó Từ, có nghĩa : Mặc cho... là Phó mặc.        
         VẬN là Thời Vận, là Vận Hạn.         BỐ
         ÚY 怖 畏 : BỐ là chữ Hài Thanh, gồm bộ TÂM bên trái
         chỉ Ý, chữ BỐ là Vải Vóc bên phải chỉ Âm, nên BỐ
         là KHỦNG BỐ, là Sợ Hãi. ÚY là chữ Hội Ý, theo Giáp
         Cốt Văn thì phần trên là Cái đầu của chữ QUỶ, phần
         dưới là QUỶ cầm cây gậy để đánh người, nên
         ÚY là ÚY KỴ, là Sợ Sệt, là E Ngại.         
         BỐ ÚY là từ kép chỉ sự Sợ Hãi, E Ngại. Nghĩa trong
         câu thơ BỐ ÚY là LO LẮNG.         LỘ 露
         : Chữ Hài Thanh, phần trên bộ VŨ là Mưa chỉ Ý, phần dưới
         là chữ LỘ chỉ ÂM, nên LỘ có nghĩa là HẠT MÓC, là
         GIỌT SƯƠNG.         PHÔ 舖 : Chữ Hài Thanh, phần
         trái là chữ XÁ là Nhà chỉ Ý, phần phải là chữ
         PHỐ chỉ Âm. PHÔ là Cái ngạch cửa nằm ngang bên dưới,
         nghĩa rộng là TRÃI RA, là PHÔ TRƯƠNG, là Bày ra cho người
         ta thấy. Trong câu thơ có nghĩa :... như giọt sương bày ra trên
         đầu ngọn cỏ ( Sẽ biến mất ngay khi tia nắng đầu tiên chiếu
         rọi ! )       NGHĨA BÀI KỆ :        Cái xác thân của
         ta hiện diện trên đời nầy giống như là cái bóng của
         tia chớp, có cũng như không, thoắt hiện đó rồi liền mất
         đó ! Muôn loài cây cỏ mùa xuân thì xanh um tươi tốt,
         đến khi mùa thu thì héo úa vàng khô !  Mặc cho thời
         vận của cuộc đời thịnh hay suy gì cũng đừng nên lo lắng
         mà chi. Vì việc thịnh suy như là giọt sương phủ ở trên
         đầu ngọn cỏ vậy. Chóng đến chóng tàn đổi thay liên
         tục và rất nhanh !     DIỄN NÔM
         :               Thân có tựa không
         như ánh chớp,               Lá xanh
         thu úa ấy lẽ thường.              
         Thịnh suy tùy vận không lo lắng,              
         Suy thịnh như đầu cỏ nhuốm sương !                                                               
          Đỗ Chiêu Đức     
          2. MÃN GIÁC THIỀN SƯ 滿覺禪師             Mãn Giác Thiền Sư ( 1052-1096 ),
         là một Thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng Thiền
         Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền của sư Quảng Trí và
         truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh. Với bài
         kệ " CÁO TẬT THỊ CHÚNG 告疾示眾 ", ông được
         nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu của dòng văn
         thơ đời Lý-Trần.       Năm 1096, cuối tháng 11, Sư
         gọi chúng đệ tử đến, đọc bài kệ " Cáo tật
         thị chúng " như sau:   Kệ rằng: 
                    春去百花落,          
          Xuân khứ bách hoa lạc,          春到百花開.            Xuân
         đáo bách hoa khai.          事逐眼前過,           
         Sự trục nhãn tiền quá,           老從頭上來.           
         Lão tòng đầu thượng lai !           莫謂春殘花落尽,      Mạc
         vị xuân tàn hoa lạc tận,          庭前昨夜一枝梅
         !     Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.                       CHÚ THÍCH :       CÁO
         TẬT THỊ CHÚNG 告疾示眾 : Bố cáo cho mọi người biết
         là mình bị bệnh.       TRỤC 逐 : Chữ thuộc dạng
         HỘi Ý, gồm chữ THỈ là Loài heo ở bên trong trên và bộ
         Xước là Bước đi bên trái dưới. Ý là Đuổi
         Theo. Chữ TRỤC có 2 nghĩa chính :       a). Đuổi, là
         Cưởng bức ai đó rời đi. Như Trục Xuất, Trục Khách.       b). Lần lược theo thứ tự. Như Trục Bộ là
         Bước từng bước một. Trục Niên là Hằng năm, hết năm
         nầy đến năm khác.       VỊ 謂 : Chữ thuộc dạng
         Hài Thanh, gồm bên trái bộ Ngôn là lời nói chỉ Ý, bên
         phải là chữ VỊ chỉ âm. Nên Vị có nghĩa là Nói Rằng,
         Bảo Rằng.       MẠC VỊ : Đừng bảo rằng, Chớ
         nói rằng.       NGHĨA BÀI KỆ :         Mùa xuân
         đã đi qua thì trăm hoa rơi rụng,         Khi mùa
         xuân đến thì trăm hoa lại đua nở.        
         Sự đời lần lược đi qua diễn ra trước mắt.        
         Tuổi già thì lại đến từ trên đầu già xuống. ( Ý
         chỉ tuổi già trước tiên được thể hiện qua mái tóc
         bạc đập vào mắt mọi người trước nhất ! Ta cũng thường
         hay nói : Già từ trên đầu già xuống !).        
         Chớ bảo rằng xuân tàn thì trăm hoa rụng hết.        
         Đêm qua, trước sân, một cành mai đã nở rộ ( trong tiết
         đông lạnh lẽo.). Ý muốn nói : Không phải chỉ có mùa
         Xuân trăm hoa mới đua nở, trong mùa Đông giá lạnh cũng vẫn
         có những loại hoa nở rộ như thường ! .       DIỄN NÔM : 
                       Xuân
         tàn trăm hoa rụng,             Xuân đến
         trăm hoa tươi.             Việc đời
         qua trước mắt,             Già đến
         trên đầu người.             Chớ bảo
         xuân tàn hoa rụng hết,             Ngoài
         sân, đêm trước, nở cành mai !                                                         
         Đỗ Chiêu Đức       3. HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ  香海禪師         Hương Hải Thiền Sư 香海禪師 (1628
         - 1715), không rõ họ tên thật, tục gọi là Tổ Cầu, là
         một thiền sư Việt Nam ở thời Hậu Lê. Sư và Thiền sư
         Chân Nguyên là hai người đi đầu trong công cuộc phục hưng
         phái thiền Trúc Lâm đã có từ thời nhà Trần .       
         "Vô tâm" là danh từ và phương châm rất đắc ý
         của Hương Hải. Hình ảnh đẹp nhất về vô tâm là
         hình ảnh mà ông đã trình bày cho vua Dụ Tông nghe, khi nhà
         vua hỏi về thâm ý của đạo Phật:                   
         Nhạn quá trường không,                        鴈 過
         長 空                Ảnh
         trầm hàn thủy                     
                       影
         沉 寒 水            
            Nhạn vô di tích chi ý                   
                      
         鴈   無   遺   跡   之   意 
                       Thủy
         vô lưu ảnh chi tâm             
                       水  
         無   留   影   之   心                     CHÚ
         THÍCH :       TRƯỜNG KHÔNG
         長 空 : TRƯỜNG là Dài, KHÔNG là Không gian. TRƯỜNG KHÔNG
         là Từ Ghép chỉ BẦU TRỜI, chớ không phải Trời dài Trời
         ngắn gì cả !.       DI TÍCH 遺 跡 : DI là Để
         lại. TÍCH là Dấu Vết. DI TÍCH là Để lại Vết Tích.       LƯU ẢNH 留 影 : LƯU là Giữ lại. ẢNH là
         Hình Bóng. LƯU ẢNH là Giữ lại Hình bóng.     NGHĨA BÀI KỆ :        Con chim nhạn
         bay ngang qua bầu trời, cái bóng của nó in xuống dưới dòng
         nước lạnh. Con nhạn đó không có Ý để lại vết
         tích của mình dưới nước, mà nước cũng không có
         lòng giữ lại hình bóng của chim nhạn. Tất cả đều là
         lẽ tự nhiên của VÔ TÂM, của TÂM VÔ SỞ TRỤ 心無所住
         !       DIỄN
         NÔM :                
         Nhạn bay cao vút trên không,             
         Bóng chìm dưới nước lạnh căm vô tình.             
         Nhạn không có Ý để hình,             
         Nước không lòng giữ bóng hình nhạn đâu !                                                             
           Đỗ Chiêu Đức     
          4. HUYỀN QUANG THIỀN SƯ 玄光禪師 .           Huyền Quang Thiền Sư ( 1254-1344 ). Tên thật
         là Lý Đạo Tái người châu Nam Sách. Từ nhỏ, ông có
         khiếu văn chương, năm 21 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương ,
         được bổ làm quan ở Hàn Lâm Viện và nhận mệnh vua
         tiếp sứ Trung Quốc. Khi ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh
         Nghiêm ở huyện Phượng Nhãn để nghe sư Pháp loa giảng kinh,
         liền có ý muốn xuất gia. Sau đó mấy lần ông xin từ chức
         để đi tu , được vua Trần Anh Tông chấp nhận và giao cho sư
         Pháp Loa hướng dẫn. Ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng
         thiền Trúc Lâm.           Mời đọc một bài
         thơ có Ý Thiền của ông sau đây :         泛舟 
          小艇乘風泛渺汒, 
          山青水綠又秋光。 
          數聲漁笛蘆花外, 
          月落波心江滿霜。 
                         
         Phiếm Chu    Tiểu đĩnh thừa phong
         phiếm diểu mang,   Sơn thanh thuỷ lục
         hựu thu quang.   Sổ thanh ngư địch lô
         hoa ngoại,   Nguyệt lạc ba tâm giang mãn
         sương.       CHÚ THÍCH :       
           PHIẾM CHU 泛舟 : PHIẾM có 3 chấm thủy một bên, nên có
         nghĩa là TRÔI NỔI. CHU là Ghe Xuồng. PHIẾM CHU là Để mặc
         cho chiếc Thuyền trôi nổi trên sông. Trong bài TIỀN XÍCH BÍCH
         PHÚ mở đầu bằng câu : " Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt kí
         vọng, Tô Tử dữ khách PHIẾM CHU..." là chữ PHIẾM CHU nầy
         đó.              CÂU 1 : Tiểu đĩnh thừa phong phiếm
         diểu mang.   TIỂU ĐĨNH : là Chiếc
         Thuyền nhỏ. THỪA PHONG : là Cởi gió, là Đón gió. PHIẾM
         là Trôi nổi. DIỂU MANG : là Mênh mông Vô tận. Câu 1 có
         nghĩa :        " Chiếc
         thuyền con trôi nổi theo chiều gió trên dòng nước mênh mông
         vô tận ".              CÂU 2 : Sơn thanh thuỷ lục hựu
         thu quang.   SƠN THANH : là Núi Xanh. THỦY
         LỤC : là Nước Xanh. HỰU là Lại. THU QUANG : là Quang cảnh Mùa
         Thu. Câu 2 có nghĩa :        "
         Lại cũng quang cảnh của mùa thu với núi xanh nước biếc ". 
                    
         CÂU 3 : Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,   SỔ THANH : SỔ là Một Vài. SỔ THANH là Một vài âm
         thanh, là Một vài tiếng. NGƯ 漁 nầy có 3 chấm Thủy, có
         nghĩa : Thuộc Về Cá, nên NGƯ ĐỊCH : là Tiếng Sáo của
         những người đánh cá. LÔ HOA : là Hoa Lau Hoa Sậy. NGOẠI : là
         bên ngoài, phía ngoài. Câu 3 có nghĩa :       " Ngoài xa của đám hoa lau là tiếng sáo
         vẳng đưa của các dân chài ". ( Tiếng sáo không thể
         đếm được, nên không thể nói là MỘT VÀI tiếng
         sáo. Vì tiếng sáo trên sông vẳng đưa theo gió nên nghe
         khi được khi mất. Chớ không phải có NHIỀU NGƯỜI thổi
         sáo ! Chữ SỔ được thoáng dịch là Văng Vẳng là vì
         thế ! ).          CÂU
         4 : Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.   NGUYỆT LẠC : là Trăng lặn. BA TÂM : là Giữa lòng sóng.
         GIANG MÃN SƯƠNG : là Sông đầy cả sương. Câu 4 có nghĩa
         :        " Khi trăng lặn xuống
         giữa lòng sóng nhấp nhô ( ở tận chân trời ) thì sương
         cũng xuống tràn ngập cả dòng sông.       DIỄN NÔM :                     Thả
         Thuyền   Thuyền con trôi nổi gió
         xuôi dòng,   Nước biếc núi
         xanh thu mênh mông.   Tiếng sáo vẳng
         đưa bờ lau sậy,   Sóng dìm trăng
         lặn móc đầy sông!     
                  Ai bảo thơ thiền
         Việt Nam không nên thơ và không có Ý Thiền chứ ?! 
                                                                             
         Đỗ Chiêu Đức ___________________________________________________________________________________________  
              
      
      XUÂN VÃN (Trần Nhân Tông)   Dịch, phỏng dịch: Quên Đi, Mai Xuân Thanh, Mailoc, Nguyễn Đắc
         Thắng, Kim Oanh, Đỗ Chiêu Đức ___________________________________________________________________________________________________________________________________  
          Trong dịp xuân về, Kính gởi đến
         Quý Thầy và Anh Chị Em bài thơ "Xuân Vãn" của Vua Trần
         Nhân Tông               春晚        
                          Xuân Vãn                 陳仁宗
                                  Trần Nhân Tông
          年少何曾了色空     Niên
         thiếu hà tằng liễu sắc không,    一 春心在百花中    Nhất xuân tâm
         tại bách hoa trung.    如今勘破東皇面 
           Như kim khám phá đông hoàng diện,     禪板蒲團看墜紅    Thiền bản
         bồ đoàn khán truỵ hồng.     
          Dịch Nghĩa: Chiều Xuân       Lúc nhỏ chưa
         hề biết thế nào là Sắc với Không  Nên mỗi khi xuân
         về, khiến lòng xao động gởi vào trong trăm hoa .  Ngày
         nay đã hiểu rõ được bộ mặt của chúa xuân,   Khi ngồi trên tấm thảm cỏ nơi thiền phòng, tâm vẫn lặng
         khi thấy cánh hoa rụng.      
         Dịch Thơ: Chiều Xuân       Lúc trẻ nào
         tường sắc với không   Xuân
         về hoa nở ngất ngây lòng   Nhưng
         nay mặt chúa xuân đà rõ   Tâm tịnh dù rơi mấy cánh hồng.                             Quên
         Đi     * * *        CHIỀU XUÂN CẢM TÁC    Ông
         Vua trẻ nói sắc và không,   Nào
         thấu hoa Xuân ngắm thật lòng.   Hòang
         Thượng nhìn ra Xuân rõ mặt,   An
         nhiên, rả cánh đóa hoa hồng !     
          Mai Xuân Thanh xin cảm tác   Ngày 10 tháng 01 năm 2015  * * *  CHIỀU  XUÂN 
          Sắc không lúc trẻ chẳng tinh tường
         ,   Xuân đến hoa cười dạ
         vấn vương .   Mặt thật chúa
         xuân nay khám phá ,   Thiền phòng
         tịnh tọa ngó rơi hường .                          
         Mailoc   Sắc không niên thiếu chưa
         rành lắm ,   Xuân đến rộn
         rã cánh hoa lòng .   Chúa xuân
         mặt thật nay thông ,   An nhiên
         tịnh tọa nhìn hồng rụng rơi !                             
         Mailoc                
             Cali 01-10-15    * * *       CHIỀU XUÂN   Lúc
         nhỏ hiểu gì sắc với không   Trăm hoa xuân thắm gửi tâm lòng   Chúa xuân hiện mặt cho đời hiểu   Thảm tịnh nhìn xuân rụng cánh hồng. 
                 Nguyễn
         Đắc Thắng   20150111  * * * 
          Thơ dại hiểu gì sắc với không  Hoa xuân hé nở xuyến xao lòng  Chúa xuân ngự đến nay
         tường tận  Tâm lặng chẳng dao bởi sắc hồng  Kim Oanh                                    
          CUỐI XUÂN                     
         Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,                     
         Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa.                      Nhưng
         nay đà tỏ nàng xuân muộn,                      Hoa
         rụng lòng thiền chẳng xót xa !                                                                                                          
         Đỗ Chiêu Đức.                 
         
      
        VÃN
         CẢNH                             Mạc Đỉnh Chi  Bản
         dịch, phỏng dịch:  Huệ
         Chi, Mailoc, Phương Hà, Mai Xuân Thanh, Quên Đi, Song Quang, Danh Hữu, Đỗ
         Chiêu Đức  ___________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ Xin chuyển đến
         Bạn Thơ một cảm tác  cùng tiểu sử của Mạc Đỉnh
         Chi .   Thân kính   Mailoc       
                Vãn   Cảnh 
 
                 |       Bản chữ Hán   
                 晚景            空翠浮煙色,       春藍發水紋。       墻烏啼落照,       野雁送歸雲。       漁火前灣見,       樵歌隔岸聞。       旅顏悲冷落,       借酒作微醺。 
              |            Phiên âm Hán Việt            Vãn cảnh                      Mạc
         Đỉnh Chi      Không thuý phù yên sắc,       Xuân lam
         phát thuỷ văn.       Tường ô đề lạc chiếu,  
             Dã nhạn tống quy vân.       Ngư hoả tiền loan kiến,       Tiều ca cách ngạn văn.       Lữ nhan bi lãnh lạc,  
             Tá tửu tác vi huân.       |          
 Dịch   nghĩa 
 
  
              
 
 
 
    Cảnh chiều 
 
 
 
 
 
 
 
 Sắc khói nổi giữa màu biếc
         của nền trời, 
 
 
    Sóng nước
         gợn giữa màu xanh của mùa xuân. 
 
 
 
           Quạ đầu tường kêu trong nắng chiều, 
 
 
 
           Nhạn ngoài đồng tiễn đám mây về. 
 
 
 
           Nhìn thấy lửa thuyền câu trước vũng, 
 
 
 
           Nghe tiếng ca người hái củi bên kia bờ sông. 
 
 
 
           Vẻ mặt lữ khách buồn ủ ê, 
 
 
    Mượn chén rượu
         để say chếnh choáng. 
 
 
 
 Các bản dịch thơ 
 
 
 
 
         Cảnh chiều 
 
 
 
 
    Khói bồng bềnh trời biếc, 
 
 
 
 
    Sóng gợn nước xuân xanh. 
 
 
 
 
    Quạ xế chiều kêu rộn, 
 
 
 
 
    Nhạn theo mây về nhanh. 
 
 
 
 
    Lửa chài, loe trước vũng, 
 
 
 
 
    Tiều hát, vẳng bên ghềnh. 
 
 
 
 
    Mặt khách buồn tê tái, 
 
 
 
 
    Mượn chén giải u tình. 
 
 
 
 
                               Huệ
         Chi 
 
 
 
 
    
           Cảnh Chiều 
 
 
 
 
   
 
 
 
 
 Trời xanh biếc bềnh
         bồng khói quyện , 
 
 
 
 
 Nước sông xuân sóng gợn
         chiều xuân . 
 
 
 
 
 Bên tường qụa réo chiều
         dần , 
 
 
 
 
 Theo   mây đồng quạnh bâng
         khuâng nhạn về . 
 
 
 
 
 Lửa thuyền chài lập
         lòe sông vắng , 
 
 
 
 
 Tiều hát ca văng vẳng bên
         ghềnh . 
 
 
 
 
 Dàu   dàu mặt khách buồn
         tênh , 
 
 
 
 
 Rượu
         nồng mượn chén để quên u tình
         . 
 
 
 
 
          
                                Mailoc 
           phỏng dịch 
 
 
 
 
 
      
                                             |         Tiểu
         sử   MẠC ĐĨNH
         CHI (1272-1346)  Nhà văn Việt Nam, danh sĩ đời
         Trần Anh Tông, tự là Tiết Phu. Vốn
         người làng Lan Khê, huyện Bình Hà, châu
         Nam Sách, lộ Lạng Giang; sau dời đến
         làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc tỉnh
         Hải Dương).   Năm 1304, ông đỗ
         Trạng nguyên. Vua thấy tướng mạo
         xấu có ý chê, ông dâng bài phú "Ngọc
         tỉnh liên" (sen giếng ngọc) khiến
         Vua khâm phục, bổ chức Nội
         thư gia.   Ông làm quan trải ba triều
         Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông; giữ các chức:
         Nhập nội hành khiển, Tả
         tư lang trung, thăng Thượng thư Tả
         bộc xạ, kiêm Trung thư coi việc
         quân dân, tước Ðại liêu ban. Tính ông
         liêm khiết, được sĩ phu trọng
         vọng. Ông từng đi sứ Trung quốc
         2 lần, được các danh sĩ nước
         ngòai khen ngợi, khâm phục.   Sau khi về
         trí sĩ, ông mở trường dạy học.
         Nhân dân đời sau vẫn quen gọi là
         "Trạng nguyên cổ đường".   Ông mất năm Bính Dần- 1346.   Ông là
         cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc
         Hiển Tích (khoa Bính Dần niên hiệu
         Quảng Hựu thứ 2 (1086), đời
         Lý Nhân Tông). Ðến đời Mạc
         Ðăng Dung là cháu 7 đời của ông lên
         cưới ngôi nhà Lê xưng đế,
         truy phong ông là Huệ Cảm Linh Khánh vương,
         có lập điện Sùng Ðức để
         thờ ông tại phần mộ
         ở làng Lũng Động.  Tác phẩm
         chính:   "Ngọc tỉnh liên phú" (trong
         "Quần hiền phú tập" )  
         Bốn bài thơ: "Quá Bành Trạch
         phỏng Ðào Tiềm cựu cư";
         "Tảo hành"; "Hỷ tình"; "Vãn
         cảnh" (trong "Việt âm thi tập"
         và "Tòan Việt thi lục")   Trạng Khỉ   Ngoài Phùng Khắc Khoan, Mạc
         Đĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai nước
         Nam và nước Tàu.  Sách "Nam Hải Dị
         Nhân" chép rằng Mạc Ðĩnh Chi tự
         là Tiết Phu, người làng Lũng Ðổng
         huyện Chí Linh (Hải Dương) nguyên
         về giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển
         Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích
         đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn
         nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng
         thư)  Tục truyền làng Lũng Ðộng
         có một khu rừng rậm, cây cối
         bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ)
         ở. Mẹ ông ấy thường
         khi vào rừng kiếm củi, phải
         con hầu đực bắt hiếp.
         Về nói với chồng, chồng
         ăn mặc giả làm đàn bà, giắt
         sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu
         quen thói lại ra, bị ông kia chém chết
         bỏ thây tại đấy.  Sáng hôm
         sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp
         hết, thành gò mả.  Bà kia từ
         đấy thụ thai, đủ tháng sinh
         ra Mạc Ðĩnh Chi, mặt mũi xấu xí,
         người nhỏ loắt choắt
         tựa như giống hầu.  Mạc
         Ðĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi,
         tư chất thông minh hơn người.
         Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc
         Công mở trường dạy học
         trò, Mạc Ðĩnh Chi vào học. Ðến
         năm gần hai mươi tuổi là
         năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần,
         Mạc Ðĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ
         đầu cả mọi người
         nhưng vua trông thấy người hình dáng
         xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên,
         Ðĩnh Chi làm một bài phú "Ngọc tỉnh
         liên" để ví vào mình, vua mới lại
         cho đỗ Trạng Nguyên.  Khi Mạc Ðĩnh
         Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu,
         có hẹn trước với người
         Tàu ngày mở cửa ải. Bất
         ngờ hôm ấy trời lại
         mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới
         đến thì người Tầu đóng
         cửa không cho vào. Ðĩnh Chi nói tử tế
         xin cho mở cửa. Người Tầu
         ra một câu từ trên ải ném xuống
         và bảo hễ đối được
         thì mở cửa.  Câu ra:  "Quá quan trì,
         quan quan bế; nguyện quá khách quá quan". 
         Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi
         ải đóng cửa ải, mời
         khách qua đường qua ải mà đi.  Ðĩnh
         Chi viết nagay một mảnh giấy,
         đối lại đưa lên:  "Xuất
         đối dị, dối đối
         non, thỉnh tiên sinh tiên đối".  Nghĩa là:
         Ra đối dễ, đối lại
         khó, mời tiên sinh đối trước.  Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới
         mở cửa ải cho vào. Khi đến
         cửa Yên Kim, người tàu thấy ông
         xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một
         hôm, viên tể tướng Tàu mời
         vào phủ đường ngồi chơi,
         Ðĩnh Chi trông thấy trên bức tường
         có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành
         trúc, tưởng là chim thực, đứng
         dậy chạy lại bắt. Người
         Tàu cười ầm cả lên. Ðĩnh
         Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra. 
         Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm
         sao thì thưa rằng:  - Tôi có nghe người
         ta thường vẽ chim sẻ đậu
         cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể
         tướng sao lại cho vẽ thế.
         Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ
         là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu
         như thế là ra cho tiểu nhân ở
         trên quân tử, tôi e rằng đạo
         tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà
         đạo quân tử mỗi ngày suy đi,
         nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy
         thôi.  Chúng chịu là biện bác có lẽ.  Ðến khi vào chầu, nhân có ngoại
         quốc dâng một đôi quạt quý.
         Vua Tàu xai Ðĩnh Chi và một người sứ
         Cao Ly, mỗi người đề một
         bài tán vào quạt.  Sứ Cao Ly làm xong trước. 
              Lời
         tâu rằng:  "Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn
         Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề".  Nghĩa là: Ðang lúc nắng nực, thì như
         ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng
         với thời). Ðến khi mưa
         tuyết lạnh ngắt thì như
         Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp
         xó một chỗ).  Bấy giờ
         Mạc Ðĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ
         làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết
         là lời lẽ như thế mới
         suy ra mà đề một bài như sau này:  "Lưu kim thước thạnh, thiên địa
         vi lô, nhi ư tư thời hề
         Y, Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết
         tái đồ; nhi ư tư thời
         hề Di, Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc
         hành, xả chi tắc tàng, dụng ngã
         nhữ hữu thị phù ?"  Nghĩa là:
         Nắng chảy vàng tan đá, trời đất
         như lò lửa, người về
         lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan to. Gió
         bấc lạnh lẽo, mưa tuyết
         lấp đường, người về
         lúc ấy ví như Di Tề, hai người
         chết đói. Than ôi! Khi dùng đến thì ra
         khi không dùng đến thì cất đi, chỉ
         ta với người đuợc thôi.  Ðề
         xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ
         "Y" (Duyệt!), phê rằng "Lưỡng
         quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng
         nguyên hai nước.  Thường khi Mạc
         Ðĩnh Chi cưỡi lừa đi đường,
         chạm phải ngựa Tàu. Người
         kia đọc lên một câu rằng:  "Xúc
         ngã kỵ mã, Ðông di chi nhân dã? Tây di chi nhân dã?".  Nghĩa là: Chạm vào ngựa của
         ta cưỡi, ấy là người Ðông
         di hay Tây di?  Mạc Đĩnh Chi đáp liền:  "Át dư thừa lư, Nam phương
         chi cường dư? Bắc phương
         chi cường dư?"  Nghĩa là: Chắn
         đường lừa ta đi, thử xem người
         Nam phương mạnh hay ngoời Bắc
         phương mạnh.  Lại thường
         đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng:  "An nữ khứ, thỉ nhập
         vi gia"  (安女去豕入為家)  Nghĩa
         là chữ An, bỏ chữ Nữ,
         chữ Thỉ (con heo) vào là chữ Gia
         (nhà). (Rất xấc xược!)  Ðối
         rằng:  "Tù, nhân xuất; vương
         lai thành quốc"  (囚人出王來成国)  Nghĩa là: Chữ Tù bỏ chữ
         Nhân, chũ Vương đến thì là chữ
         Quốc. (Rất có chí khí!)  Người
         Tàu phê rằng:  - Con cháu về sau tất
         cả người làm đến đế
         vương nhưng hiềm về chữ
         quốc đơn thì hưởng nước
         không được tràng cửu mấy nỗi.  Lại ra:  "Nhật hỏa vân yên;
         bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ".  nghĩa là: Lửa mặt trời khói
         đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ
         ngọc.  Ðối:  "Nguyệt cung
         tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô".  Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi
         sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng.  Người Tàu phê rằng:  - Con cháu về
         sau tất có người cướp nước.
         (Mạc Ðặng Dung về sau giết
         vua cướp nước).  Một khi bà
         hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu
         sai ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc văn tế.
         Ðến lúc quì xuống cầm bản
         văn đọc thì chỉ thấy một
         tờ giấy trắng, có bốn
         chữ "nhất". Ðĩnh Chi không nghĩ ngợi
         gì, đọc ngay rằng:  "Thanh thiên nhất
         đóa vân, hồng tô nhất điểm
         tuyết, Thượng Uyển nhất
         chi hoa, Dao Trì nhất phiến nguyệt.
         Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết".  Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh,
         một giọt tuyết trong lò đỏ,
         một cành hoa vườn Thượng Uyển,
         một vầng trăng ao Dao Trì. Than ôi, mây rã,
         tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.  Bài văn này
         còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai
         cũng chịu tài ứng biến nhanh.  Ðĩnh
         Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tôn thường
         sai người đem mười quan tiền, rình
         lúc tối bỏ vào cửa nhà ông
         ấy. Sớm mai, ông vào tâu ngay với
         vua, xin bỏ tiền ấy vào kho.  Vua bảo
         rằng:  - Tiền ấy không có ai nhận
         thì nhà ngươi cứ việc lấy
         mà tiêu.  Bấy giờ Mạc Ðĩnh
         Chi mới lấy. Ðến triều
         vua Hiền Tôn, làm nên đến chức
         Tả bộc xạ (Tể tướng).
         Văn chương lưu truyền lại
         về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn,
         Trực, cùng làm đến Ngoại lang.
         Cháu là Ðịch, Toại, Viên cùng có
         quyền thế, làm quan lúc nhà Minh cai trị.
         Ðời cháu chắt thiên (dời) sang ở
         làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương thì
         có Ðăng Dung là cháu 7 đời, làm vua nhà Mạc. 
              
 
 
 
 
 
 Giữa nền trời biếc,
         khói lan ra... 
 
 
 
 Sông nước mùa xuân óng mượt
         mà 
 
 
 
 Tiếng quạ  tường rêu kêu nắng muộn 
 
 
 
 Bóng chim đồng rộng
         tiễn mây qua 
 
 
 
 Lửa chài thuyền cá soi vàm hẹp 
 
 
 
 Giọng hát tiều phu
         vọng  khoảng xa 
 
 
 
 Lữ khách cô đơn buồn áo
         não 
 
 
 
 Rượu nồng chuếnh choáng, mắt cay nhòa. 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 Bài góp vui của Mai Xuân
         Thanh 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 Bồng bềnh khói quyện
         trời trong vắt, 
 
 
 
 Lấp lánh lăn tăn sóng biếc xuân. 
 
 
 
 Rộn rã quạ kêu nghe
         xế bóng, 
 
 
 
 Chập chờn bóng nhạn khuất mây
         từng. 
 
 
 
 Ghe chài ánh lửa soi dòng nước, 
 
 
 
 Gánh củi tiều phu hát
         trước ghềnh. 
 
 
 
 Tê tái buồn thiu người lữ khách, 
 
 
 
 U tình cạn chén bước
         gian truân... 
 
 
 
 
 
 
 Mai Xuân Thanh kính bút
         góp thơ cùng quý anh chị thân mến 
 
 
 
 Ngày 31 tháng 12 năm 2014 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                 
                                                                     
         Trời xanh khói trắng nổi bồng bềnh                                      
         Sóng gợn chiều xuân bến vắng tênh                                      
         Lũ quạ đầu tường kêu rộn rả                                      
         Nhạn bầy đồng quạnh lướt bay nhanh                                      
         Lửa thuyền chài loé trên sông lạnh                                      
         Tiều hát nghiêu ngao vẳng cuối ghềnh                                       Lữ
         khách dào dào buồn nét mặt                                       Để
         quên,mượn rượu giãi sầu tình                                                             
         SONG  QUANG    											Phỏng
         dịch      Đầu
         năm góp lời             晚  景                           Vãn
         cảnh                            Cảnh
         chiều       空  翠  浮  烟  色        Không thúy
         phù yên sắc     Trời xanh, khói trợ sắc;  
         春  藍  發  水  紋        Xuân
         lam phát thủy văn      Dòng biếc, nước khơi làn. 
          墻  烏  啼  落  照        Tường
         ô đề lạc chiếu          Quạ tường
         réo nắng nhạt;   野  鴈  送  歸  雲        Dã
         nhạn tống quy vân         Nhạn đồng tiễn
         mây lan.   漁  火  前  灣  見        Ngư
         hỏa tiền loan kiến        Bên vũng, chài nhóm
         lửa;   樵  歌  隔  岸  聞        Tiều
         ca cách ngạn văn        Cách sông, tiều ca hoan. 
          旅  顏  悲  冷  落        Lữ
         nhan bi lãnh lạc              Khách
         buồn, đìu hiu lắm;   借  酒  作  微  醺        Tá
         tửu tác vi huân                Rượu
         nhạt, chếnh choáng toan.          莫  挺  之 詩              Mạc
         Đĩnh Chi thi                                Danh
         Hữu dịch       Cùng các bạn,   Trên
         đây là bài thơ của Mạc Đĩnh Chi (1280-1346) được chép
         trong Hoàng Việt Thi Tuyển, có lẽ ông làm trên đường đi
         sứ, vì cảnh tả thường thấy trên các dòng thơ của
         thi gia Tầu và đó là cảnh bên Trung quốc hơn là bên ta.
         Trong thi pháp của thơ Đường luật là 8 câu 5 vần, thì nếu
         bài thơ chỉ có 4 vần, tức câu đầu là vận trắc,
         thì cặp câu ở đầu đó phải là một cặp đối,
         đồng nghĩa với bài thơ có 3 cặp đối. Bạn đừng quên
         nhé !   Bài thơ này có một
         đặc điểm là toàn bài đều là những cặp đối,
         tức có 4 cặp đối.   Bài thơ
         đã được bạn Lộc giới thiệu đâu tuần trước
         mà hôm nay, nhân đầu năm rảnh rang tôi mới có dịp đọc
         và nhân tiện gỏ lại và dịch luôn, tặng các bạn thưởng
         thức mấy ngày đầu năm Dương lịch.   Dịch thơ là giới thiệu một nội dung ở một ngôn
         ngữ khác đến với người đọc, do vậy, ta nên cố gắng
         giữ sao cho đạt mức trung thành tối thiểu với nội dung mà tác
         giả đã diễn tả, nếu không là ta đã phạm lỗi làm
         sai lệch nội dung của nguyên tác và tuy không ai bắt bẻ chúng
         ta, cũng là chuyện không nên.   Đầu
         năm, viết vài lời tâm sự của một người chuyên làm
         công việc dịch thơ, chỉ với thiện ý, xin đừng nghĩ khác. 
          Cũng nhân tiện đầu năm, xin gởi đến
         quý bạn Thi Hữu, lời chúc <gồm vạn lời chúc trên thế
         gian> để cầu mong tất cả chúng ta đều đầy những hy vọng
         và hân hoan.   Danh Hữu   (Đại Paris, ngày 03 Janvier 2015)      CẢNH CHIỀU                  Khói quyện bầu trời xanh
         biếc,               Sóng xuân nước
         dợn lăn tăn.               Quạ kêu
         chiều rơi tường vắng,              
         Nhạn trời đưa tiễn phù vân.              
         Lửa chài bên vàm thấp thoáng,              
         Tiều phu cất tiếng cách sông.              
         Lữ khách buồn thân cô quạnh,              
         Giải sầu mượn chén đêm thanh !                                                              
          Đỗ Chiêu Đức
 
 
 _____________________________________________________________________________________________________________  
              
      
        Thu Dạ
         Tức Sự    
         ______________ Pham Tông Ngộ     Bản dịch: Mailoc, Quên Đi                    
                                       
                       Cuối tuần xin chuyển đến qúi Bạn Thơ  mộtcảm
         tác của Phạm Tông Ngô , một thi nhân Việt Nam đời nhà
         Trần  , bài thơ đã để lại trong tôi nỗi xúc cảm đặc
         biệt . Ai là khách ly hương mới nếm , mới thắm thiá cái
         cảnh tịch mịch đêm thu nơi xứ người  Phá
         ốc khan tinh dạ vị ương  
         Tiêu tiêu tứ bích nhiễu hàn tương .  Thanh đăng đối ảnh song bồng mấn,  Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương
         .  Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn,  Nguyệt phân dạ khí nhập song lương.  Ky hoài lãnh khước hồn vô sự .  Thời thính đình ngô lạc hiểu sương
         . Nhà
         dột trông sao, đêm vấn vương  Nỉ non dế lạnh khóc quanh tường.  Ðèn xanh đối bóng hai màu tóc,  Sách cũ nao lòng một nén hương .  Gió quyện tiếng thu luồn khóm lá .  Trăng chia hơi mát tỏa bên giường,  Tha hương lạnh cả lòng chăn gối,  Sân vắng cành ngô lác đác sương
         . Đêm khuya vắng nhìn sao mái rách , Dế tỉ tê than trách
         bên tường . Cùng
         đèn đối bóng tóc sương , Bên chồng sách cũ nhan hương
         nao lòng . Tiếng
         thu vẳng reo trong rừng thẩm , Trăng mơ màng , hơi lẩn
         vào song . Tha hương
         buốt giá tâm hồn , Cành ngô sương điểm mênh
         mông sân ngoài Phạm Ngộ 范悟 cũng
         thường gọi là Phạm Tông
         Ngộ 范宗悟 hiệu Liêu Khê, sinh và mất
         năm nào chưa rõ. Người hương Kính Chủ huyện Giáp Sơn,
         phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, là anh em ruột của Phạm
         Mại. Ông nguyên họ Chúc tên Kiên sau vì vua Trần Nhân Tông
         cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn nên đổi làm
         họ Phạm. Còn Kiên thì lại trùng với tên của Phán thủ
         Huệ Nghĩa nên đổi làm Ngộ.   Pham Ngộ tính tình
         ngay thẳng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Bắt đầu vào triều
         với chức Thị nội học sinh, dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329)
         ông giữ chức Tri thẩm hình viện sự, sau được thăng Tả
         ty lang trung rồi lại thăng Tri chính sự, đồng tri thượng thư tả
         ty sự.  Về thơ văn, sáng tác của Phạm Ngộ hiện còn
         rất ít, tuy vậy cũng có thể nhận ra ở ông một ngòi bút
         tả cảnh và trữ tình tinh tế, một thi vị man mác của người
         hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời. Thơ ông rất cô đọng,
         nhiều ý ít lời.   Tác phẩm: hiện còn 8 bài thơ, chép trong
         các bộ hợp tuyển.  Bản dịch Quên
         Đi:     秋夜即事                
         Thu Dạ Tức Sự                范宗悟                       
         Phạm Tông Ngộ                破屋看星夜未央, Phá ốc khan tinh dạ vị ương  簫簫四璧遶寒螿。 Tiêu tiêu tứ bích nhiễu
         hàn tương.   青燈對影雙蓬鬢, Thanh đăng
         đối ảnh song bồng mấn,   黃卷論心一炷香。
         Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương  風送秋聲隨樹遠,
         Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn  月分夜氣入窗涼。
         Nguyệt phân dạ khí nhập song lương.   羈懷冷卻渾無事,
         Ky hoài lãnh khước hồn vô sự  時聽庭梧落曉霜。
         Thời thính đình ngô lạc hiểu sương.     Dịch Nghĩa :  Chuyện Đêm Thu  Ở
         trong ngôi nhà rách nát, nhìn sao chưa qua nửa đêm.  Quanh bốn
         tấm vách, vang tiếng côn trùng thở than  Bên ngọn đèn xanh,
         đối diện với bóng, hai mái tóc rối bù  Châm chú
         vào quyển sách cũ vàng bên một thẻ nhang  Gió tiễn tiếng
         thu theo đám cây từ xa  Trăng hắt hơi đêm vào cửa sổ
         nghe mát mẻ  Nơi quê người với cõi lòng lạnh vắng,
         chán nản, không còn tha thiết đến chuyện gì  Thỉnh thoảng
         nghe từ cây ngô đồng ngoài sân giọt sương ban sớm rơi.    Dịch Thơ       Chuyện  Đêm Thu  Mái lủng nhìn sao đêm mới nửa   Quanh nhà
         tiếng dế não nùng than   Bên đèn đối bóng
         hai đầu bạc  Trước sách chuyên tâm một thẻ nhang  Thu
         đến rừng cây trong tiếng gió   Đêm len song cửa
         lạnh trăng tàn  Quê người buồn bả lòng ngơ ngẩn 
         Sương sớm sân ngoài từng giọt tan                                   
         Quên Đi      _______________________________________________________________________________________________   
      
        
         QUI
         CÔN SƠN CHU TRUNG CẢM TÁC Nguyễn Trãi ____________________________________________________________________________________ Quy Côn Sơn chu trung tác                                      
         Nguyễn Trãi     Thập niên phiêu chuyển thán
         bồng bình   Qui tứ dao dao nhật tự tinh   Kỉ
         thác mộng hồn tầm cố lí   Không tương huyết
         lệ tẩy tiên oanh   Binh dư cân phủ ta nan cấm   Khách lí giang sơn chỉ thử tình   Uất
         uất thốn hoài vô nại xứ   Thuyền song thôi chẩm
         đáo thiên minh       - Dịch nghĩa -     Trong
         thuyền về Côn Sơn cảm tác     Mười năm phiêu
         giạt than thân bồng bèo   Lòng muốn về ngày
         ngày lay động như đuôi cờ   Bao lần nhờ chiêm
         bao đi tìm làng cũ   Luống đem nước mắt lẫn
         máu rửa mồ tổ tiên   Sau cơn binh lửa, thương
         ơi, nạn búa rìu khó ngăn   Non sông đất
         khách chỉ đeo đẳng mối tình này   Tấc lòng
         bùi ngùi chẳng biết làm sao   Nằm ở cửa sổ
         thuyền trăn trở gối đến sáng        --Bản dịch của Mailoc- 
              Thân
         bèo giạt mười năm tất bật ,   Lòng mong về lất phất đuôi cờ .   Gởi hồn quê cũ trong mơ ,   Muốn đem máu lệ rửa mồ tổ tiên . 
          Sau binh lửa búa rìu khó tránh , 
          Nơi đất người canh cánh tình
         quê .   Tấc lòng sao mãi ủ
         ê ,   Song thuyền trăn trở suốt
         đêm dật dờ .     
          TRÊN THUYỀN VỀ CÔN SƠN       Mười
         năm trôi nổi thân bèo giạt   Đau
         đáu lòng riêng muồn trở về   Khắc
         khoải đêm mơ làng xóm hẹn   Thiết
         tha lệ rửa mộ bia thề   Búa rìu
         khó cản sau binh lửa   Sầu nhớ khôn
         cầm  lúc giã quê   Tấc dạ
         bùi ngùi ai thấu hiểu   Khoang thuyền
         trằn trọc suốt canh khuya.        
                   Phương Hà phỏng dịch           Về Côn Sơn Trên Thuyền Viết     
          Mười năm trôi nỗi phận bèo bồng 
          Trở lại quê nhà dạ vẫn trông 
          Theo mộng hồn về thăm đất tổ 
          Máu tràn lệ nhỏ nhớ cha ông 
          Qua binh lửa nảy lời đàm tiếu 
          Ở xứ người tình vẹn núi sông 
          Ray rức tấc sầu khôn ngủ được       Gối lay chờ sáng thức
         bên song.                             
         Quên Đi       
      
      Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác 
          Nguyễn Trãi__________________________________ 
                  Chuyển đến bạn thơ một cảm tác của Nguyễn Trãi
         nói lên tâm trạng của mình sau bao năm loạn lạc trở về
         quê nhà .Đọc lên tôi nghe dường như cũng là tâm sự
         chính mình khi trở về quê bao năm xa cách .  Loạn
         hậu đáo Côn Sơn cảm tác  Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác   Nhất biệt
         gia sơn kháp thập niên  
         Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên   Lâm tuyền hữu ước na kham phụ   Trần thổ đê đầu chỉ tự liên   Hương lí tài qua như mộng đáo   Can qua vị tức hạnh thân tuyền   Hà thời kết ốc vân phong hạ   Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên   Sau loạn về Côn Sơn cảm tác   Từ giã
         quê hương vừa đúng mười năm   Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ   Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ   Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình   Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao   Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân   Bao giờ được làm nhà dưới núi
         mây   Múc nước suối
         nấu trà, gối lên đá mà ngủ  Xa quê hương mười năm ròng rã , Nay trở về tùng nửa tàn phai . Suối rừng ước hẹn chẳng sai , Cúi nhìn cát bụi xót thay nỗi mình . Vừa qua làng tưởng chừng như mộng , Chiến chinh dài còn sống là may . Ước nhà xây giữa ngàn mây
         , Pha trà gối đá
         lăn quay ngủ vùi . Đỗ
         Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :  1. BẢN CHỮ
         HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC     亂後到崑山感作 Nhất
         biệt gia sơn kháp thập niên,             一別家山恰十年 Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.         
              歸來松菊半翛然 Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,           林泉有約那堪負 Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.                      塵土低頭只自憐 Hương lý tài qua như mộng đáo,       
              鄉里纜過如夢到 Can qua vị tức hạnh thân tuyền.              干戈未息幸身全 Hà thời kết ốc vân phong hạ,                   何時結屋雲峰下 Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên      汲澗烹茶枕石眠       1. GIA SƠN 家山 : Nhà ở trên núi, thay vì
         nói GIA HƯƠNG là Quê Hương, thì ông nói là GIA SƠN
         vì Quê hương của ông là Vùng Núi.       2. KHÁP 恰 : Phó Từ chỉ Vừa Vặn,
         Đúng Lúc.      
         3. NA KHAM 那堪 : Đây là từ BẠCH THOẠI lẫn trong VĂN NGÔN,
         tức là Văn nói lẫn trong Văn Viết. Tiếng Hán Hiện Đại
         vẫn còn sử dụng từ nầy. Có nghĩa : Làm sao mà..., Làm
         sao có thể...      
         NA KHAM PHỤ : Làm sao mà Phụ rãi cho đành. Làm sao mà có
         thể quên được !      
         4. TÀI QUA 纔過 : Phó Từ, cũng là Bạch Thoại, Tiếng Hán
         Hiện Đại còn rất thông dụng từ nầy trong Đàm Thoại.       TÀI QUA : là Mới vừa qua. Đáng
         lẽ phải đọc là TÀI QUÁ, như DƯƠNG QUÁ trong Thần Điêu
         Hiệp Lữ của KIM DUNG vậy, có bản dịch là DƯƠNG QUA. Tất
         cả đều do bằng trắc mà thôi !     5. CAN QUA 干戈 : CAN là Cái Mộc để đở,
         QUA là ngọn Giáo để đâm. Một đâm một đở, chỉ
         sự đánh nhau, nên CAN QUA nghĩa rộng là CHIẾN TRANH.                      
         CẢM TÁC ĐẾN CÔN SƠN SAU BUỔI LOẠN LY.         Rời xa quê hương vùng núi
         nầy thoắt cái mà đã mười năm rồi. Nay về thăm lại
         thì hỡi ôi những cây tùng và các khóm hoa cúc ngày
         xưa đều đã tiêu điều quá nửa. Nhưng vì có ước
         hẹn trước với  rừng xanh và dòng suối nơi đây cho nên
         phải quay trở lại ( không nở phụ ước ), cúi đầu nhìn
         xuống đất quê nơi cố thổ mà tự cảm thương thân
         mình lưu lạc . Làng xóm năm xưa vừa thoáng qua như trong cơn
         mộng, chiến tranh còn dai dẵng chưa yên, may mà thân mình vẫn
         còn được bảo toàn. Không biết đến bao giờ thanh bình
         để được kết một mái tranh dưới đĩnh núi phủ
         đầy mây trắng nầy, lấy nước suối để pha trà và
         gối đầu lên các tảng đá mà ngủ ( 1 giấc cho ngon lành
         ! ).              
         Quê nhà cách biệt thoát mười năm,               Tùng cúc
         tiêu điều trở gót thăm. 
                      Hẹn ước lâm tuyền sao
         phụ rãy,              
         Cúi đầu cố thổ những bâng khuâng.               Xóm làng
         như mộng vờn qua đó,              
         Chinh chiến chưa yên chẳng lụy thân.               Ước dưới núi
         mây ta kết cỏ,              
         Suối trà gối đá ẩn lều tranh !               Xa quê thoắt
         đã mười năm,              
         Tiêu điều tùng cúc âm thầm xót xa.               Lâm tuyền
         ước hẹn cùng ta,              
         Cúi nhìn đất Tổ quê Cha chợt buồn.               Xóm làng
         như mộng vấn vương,              
         Chiến tranh dai dẳng xót thương thân mình.               Khi nào dưới
         núi kết tranh,              
         Suối trà gối đá rừng xanh ngủ vùi !  
      
      HỮU SỞ CẢM (Phạm Đình Hổ)    Bản dịch: Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức,
         Quên Đi, Kim Phượng _______________________________________________________________________________________________________    Cùng Bạn    Xin
         gởi đến Bạn một bài thơ nửa của Phạm Đình
         Hổ , ý thơ thật duyên dáng dễ thương .          Phạm đình Hổ sinh năm Mậu Tý
         (1768) người huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương .Từ nhỏ 9 tuổi ông đã
         học Hán thư , nhưng chỉ đổ đến sinh đồ ( Tú
         Tài) vào cuối đời Lê chiêu Thống . Trong thời loạn lạc
         , vua LcTchạy sang cầu viện nhà Thanh , rồi Lê-Trịnh sụp đổ,
         Tây Sơn cầm quyền , PĐH sống cơ cực dạy học ở quê
         nhà. Năm 1821 Vua Minh Mạng ra Bắc, ông được triệu vào
         Huế làm Hành tẩu Viện Hàn Lâm, được ít lâu ông
         xin từ chức .. Năm Minh Mạng thứ 7 ( 1826 )vua lại triệu ông cho làm
         Thi giảng học sĩ .Năm 1832 ông về hưu luôn , mất năm 1839 , thọ
         71 tuổi .   Trong thơ ông , bên cạnh
         những bài viết về cái nghèo khổ , cái bất đắc chí
         của mình ,cái tình cảm bạn bè cùng cảm quan lịch sử
         còn có một số bài viết về các thiếu nữ trẻ trung ngây
         thơ thật độc đáo .   Chúc
         tất cả an vui cuối tuần .   Thân kính 
          Mailoc   Hữu Sở Cảm Nguyên tác: Phạm
         Đình Hổ    有 所 感     長安小兒女,   纖手丱丫鬟。   深閨不知苦,   猶掃落花看。     長安小兒女,   眉黛月雙彎。   為愛梅花潔,   臨風不覺寒。     長安小兒女,   花前獨倚欄。   只怕檀郎聽,   橫琴笑不彈。     Hữu Sở Cảm     Trường An tiểu nhi nữ;   Tiêm thủ quán nha hoàn.   Thâm khuê bất tri khổ;  
         Do tảo lạc hoa khan.     Trường An tiểu nhi nữ;   Mi đại
         nguyệt song loan.   Vị ái mai hoa khiết;   Lâm phong bất giác
         hàn.     Trường An tiểu nhi nữ;   Hoa tiền độc ỷ
         lan.   Chỉ phạ đàn lang thính;   Hoành cầm tiếu bất
         đàn.     --Bản dịch của Mailoc-                 Cảm
         Xúc   (1)   Nơi Trường An một
         cô bé gái   Tay thon thon hai mái
         bện dài .   Phòng
         khuê nào biết u hoài ,   Nhìn hoa rơi rụng sân ngoài quét chơi
         .       Nơi Trường An một cô
         bé gái ,   Đôi mày cong
         nguyệt hãy còn non .   Vì
         yêu mai đẹp trắng trong ,   Ngắm hoa quên lạnh gió đông
         rạc rào .     
          Nơi Trường An một
         cô gái nhỏ ,   Tựa
         lan can bên đóa mai vàng .   Ngại
         ngần động đến tai chàng , 
          Nhoẻn cười không
         gẩy ôm đàn lặng yên .       (2) 
          Trường An một gái
         nhỏ ,   Ngón thon tóc
         bện dài  .   Phòng
         khuê nào biết khổ ,   Lặng nhìn quét hoa bay .       Trường
         An một cô bé ,   Trăng
         non mày cong cong .   Vì yêu nụ
         mai hé ,   Quên lạnh
         giữa gió đông .     
          Trường An cô gái nhỏ
         ,   Bên hoa tựa lan can . 
          Sợ chàng tai thính rõ , 
          Không gẩy cười
         ôm đàn .       GIAO CẢM   Cô gái Trường An nho
         nhỏ Đôi tay nâng bím tóc xinh   Khuê
         phòng biết chi là khổ   Nhặt
         hoa rụng trước hiên thềm.     
          Cô gái Trường An nho nhỏ 
          Mày cong như cánh cung trăng 
          Bởi yêu cánh mai trong ngần 
          Ra gió trời đông, chẳng rét. 
              Cô
         gái Trường An nho nhỏ   Một
         mình tựa cửa ngắm hoa   Ôm
         ngang đàn cầm, không gảy   Sợ
         người yêu chợt đi qua !...    
          Phương Hà phỏng dịch.            ( 20/10/2014 )   CÓ
         NIỀM CẢM XÚC                     
         Trường An cô thiếu nữ,                  
         Tay ngọc bới tóc cao.                  
         Phòng khuê nào biết khổ,                  
         Quét hoa dạ chẳng nao !      
                         
         Trường An cô thiếu nữ,                  
         Mày trăng mới cong sao !                  
         Thương mai hoa tinh khiết,                  
         Gió bấc chẳng lạnh nào !     
                          
         Trường An cô thiếu nữ,                  
         Ngắm hoa tựa lan can.                  
         Vì sợ chàng nghe ngóng,                  
         Cười e ấp không đàn !                                                
         Đỗ Chiêu Đức                                            
         Diễn nôm   Xúc Cảm 
          Cô nhỏ xứ Trường An   Tay vấn tóc đôi hàng   Khuê phòng sao biết khổ   Quét
         hoa rụng ngẩn ngơ                 
         Cô nhỏ xứ Trường An                 
         Đôi mày cong vành trăng                 
         Yêu hoa mai trong trắng                 
         Gió về không thấy lạnh   Cô
         nhỏ xứ Trường An   Trước hoa đứng
         dựa giàn   Sợ tình lang nghe thấy 
          Ôm đàn cười chẳng khảy. 
                               
         Quên Đi    Cảm Xúc       Người con gái Trường
         An   Đôi hàng tóc búi cao 
          Phòng khuê khổ nào biết   Thong thả quét hoa rơi       Cô gái nơi Trường
         An   Mày ngài vòng nguyệt cong 
          Lòng yêu nụ mai trắng   Chẳng lạnh khi gió về        Cô gái quê Trường
         An   Tựa lan can cạnh hoa   Sợ tình lang nghe tiếng   Chẳng
         khảy ôm đàn cười     
          Kim Phượng  
         
      
      VÃN HỨNG (Nguyễn Trãi)
                Cùng
         Bạn.   Cuối tuần xin gởi đến
         bạn một bài thơ của Nguyễn Trãi ,cảm hứng trong chiều ở
         thôn quê nghèo .   Thân,   Mailoc     
          Vãn hứng                           
         Nguyễn Trãi     Cùng hạng u cư khổ tịch
         liêu,   Ô cân trúc trượng vãn tiêu dao.   Hoang thôn
         nhật lạc, hà thê thụ.   Dã kính nhân hi, thủy một
         kiều.   Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,   Anh hùng hữu
         hận diệp tiêu tiêu.   Quy lai độc bẵng lan can tọa,   Nhất
         phiến băng thiềm quải bích tiêu.       - Dịch nghĩa -     Hứng buổi chiều     Trong ngõ cùng, ở nơi
         vắng vẻ, buồn nỗi quạnh hiu,   Khăn đen, gậy trúc đi dạo
         chơi buổi chiều.   Nơi thôn vắng, mặt trời xế, ráng đậu
         trên cây,   Con đường ngoài nội ít ngườiqua lại,
         nước ngập cầu.   Xưa nay thời gian không cùng như sông
         chảy xuôi mờ mịt,   Anh hùng mang hận như tiếng gió thổi
         cây lá nghe vu vu.   Trở về một mình ngồi tựa lan can,   Một mảnh trăng sáng lạnh như băng treo trên nền trời biếc.  
          --Bản dịch của MaiLộc-     Cảm hứng trong chiều 
          Quạnh quẽ thôn nghèo ngõ vắng sâu
         ,   Khăn đen gậy trúc dạo
         hồi lâu .   Bóng chiều xóm
         vắng cây vương ráng ,   Đường
         ruộng người thưa nước ngập cầu .   Kim cổ triền miên sông lặng lẽ ,   Anh hùng lận đận lá dàu dàu. 
          Một mình quay lại lan can tựa , 
          Trời biếc lạnh lùng mảnh nguyệt
         treo.            Mailoc phỏng
         dịch              
                     Cảm Hứng
         Khi Chiều Xuống   Ngõ cùng
         vắng vẻ chạnh buồn thiu   Gậy
         trúc khăn đen dạo cảnh chiều   Đêm xuống xóm hoang cây đội ráng   Đường quê người vắng nước leo cầu 
          Thời gian vô tận sông mịt mịt 
          Ôm hận anh hùng lá hiu hiu 
          Một bóng quay về lan can dựa 
          Giữa trời xanh biếc mảnh trăng yêu. 
                                             
         Quên Đi     CẢM HỨNG TRONG
         BUỔI DẠO CHIỀU       Hoàng hôn xóm vắng buồn thiu   Khăn đen, gậy trúc liêu xiêu bóng dài  
         Ráng chiều nhuộm ửng vòm cây 
          Đường xa quạnh quẽ , nước lay mặt
         cầu   Thời gian: dòng chảy trôi mau 
          Anh hùng ôm hận rầu rầu gió mang 
          Trở về, đứng tựa lan can   Mảnh trăng sáng lạnh in vàng trời xanh. 
                              Phương
         Hà phỏng dịch   CHIỀU CẢM 
              Ngõ
         cùng quy ẩn giữa hoang liêu   Gậy
         trúc lang thang bước mỗi chiều   Đường
         vắng ráng soi tia lấp lánh   Cầu
         trơ nước ngập dáng xiêu xiêu   Thời
         gian lặng lẽ trôi mờ mịt   Tiếng
         lá rì rào nhuốm quạnh hiu   Ngồi
         trước hiên thềm nghe gió tắp   Vầng
         trăng sáng lạnh mảnh băng treo    Nguyễn Đắc Thắng - 20140928   
          Đỗ Chiêu Đức tham
         gia với các phần sau đây :         1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ " VÃN
         HỨNG " :             晚興                                    
         VÃN HỨNG                     
         阮豸                                              
         Nguyễn Trãi   窮巷幽居苦寂寥                   Cùng
         hạng u cư khổ tịch liêu,    烏巾竹杖晚逍遙                  
         Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu.  荒村日落霞棲樹                  
         Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ,  野徑人稀水沒橋                   Dã
         kính nhân hi, thủy một kiều.   今古無窮江漠漠                   Kim
         cổ vô cùng giang mạc mạc,   英雄有恨葉蕭蕭                   Anh
         hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.  歸來獨凭欄杆坐                   Quy
         lai độc bẵng lan can tọa,  一片冰蟾掛碧霄                  
         Nhất phiến băng thiềm quải bích tiêu.                 
         2. DỊCH NGHĨA :                   
         NIỀM CẢM KHÁI HỨNG KHỞI LÚC BAN CHIỀU            
         Ở chỗ thanh u trong hang cùng ngõ hẹp nầy chỉ khổ một nỗi là
         quá tiêu điều vắng lặng, nên mỗi chiều ta đều chống
         gậy trúc, bịt khăn đen rất tiêu dao mà ngắm cảnh chiều tà.
         Cảnh thôn trang hoang vắng khi mặt trời chen lặn với ráng chiều như
         còn lưu luyến trên các ngọn cây, và trên đường mòn
         vắng vẻ người qua lại nầy, dòng nước như cuộn chảy ngập
         cả cầu. Chuyện cổ kim xưa nay không dứt như dòng sông lờ
         lững chảy hoài, còn mối hận của kẻ anh hùng thì cũng
         xạc xào mãi như lá trong gió chiều. Ta trở về một mình
         ngồi tựa lan can mà cảm khái trong bầu trời xanh biếc với mảnh
         trăng treo lạnh lẽo ở tầng không.     
             3. DIỄN NÔM :                               VÃN
         HỨNG                     
         Ngõ hẹp hang cùng sống quạnh hiu,               
         Khăn đen gậy trúc vẻ tiêu diêu.               
         Ráng chiều thôn vắng mây vương ngọn,               
         Cầu ngập người thưa nước cuốn nhiều.               
         Kim cổ vô cùng sông cuộn cuộn,               
         Anh hùng ôm hận lá liu xiu.               
         Trở về ngồi tựa lan can ngắm,               
         Một mảnh trăng treo lạnh cả chiều !                                                                
            Đỗ Chiêu Đức.     
          
      
         THU DẠ ( Nguyễn Du) Cùng Bạn ,   Bây
         giờ trời đang vào thu , mới chớm Thu mà tiểu bang South Dakota Hoa Kỳ
         tuyết đã rơi .      Tình
         cờ đọc hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du , lòng tôi thấy nao
         nao cho tâm trạng  của ông trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư
         lánh nạn giữa thời ly loạn . Hai bài thơ nầy được trích
         trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài ) nằm trong phần " Mười năm gió
         bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê
         vợ thuộc Thái Bình. Hai bài thơ buồn thật ! Nhân đây
         xin Bạn lướt sơ lại ở phần dưới tiểu sử của cụ
         Tiên Điền để thấy cái bối cảnh lịch sử thời
         Lê-Trịnh  -Tây Sơn -Nguyễn thời bấy giờ mà có lẽ phần
         lớn chúng ta đã quên mất . Xin cám ơn   Thân kính    Mailoc 
               
              THU DẠ 
         (1)   Phồn
         tinh lịch lịch
         lộ như
         ngân ,   Đông bích
         hàn trùng bi cánh tân   Vạn
         lý thu thanh thôi lạc diêp , 
          Nhất
         thiên hàn sắc tảo
         phù vân .   Lão lai
         bạch phát khả
         liên nhữ ,   Trú cửu thanh sơn
         dạ yếm
         nhân .   Tối
         thi thiên nhai quyện du khách , 
          Cùng niên ngọa
         bệnh Tuế
         giang tân .     
          Dịch
         nghĩa :   Sao đầy
         rõ mồn một , sương trắng
         như bạc   Vách
         phía đông ,dế lạnh kêu buồn
         thảm   Muôn dặm
         tiếng thu giục lá rụng   Bầu trời màu lạnh
         ngắt không một vần mây , 
          Gìa rôi. làn tóc bạc
         này trông mà đáng thương   Ở mãi nơi đây núi xanh chưa
         chán người   Nhất
         là du khách bên trời đã mõi mệt 
          Suốt năm đau ốm
         nằm ở bến Tuế giang 
          Dịch
         Thơ :           Đêm Thu (1)   Sương bàng
         bạc sao trời
         lấp lánh ,   Quanh tường đông
         dế lạnh
         sầu than .   Tiếng thu lá
         đổ dặm
         ngàn ,   Bầu
         trời lạnh
         ngắt trong ngần
         mây tan .   Thương
         nỗi mình mái đầu
         bạc trắng
         .   Núi xanh đây chưa
         chán chê người ,   Khách du thắm
         mệt bên trời
         ,   Cả
         năm nằm bệnh
         bên bờ Tuế
         giang .                                
         Mailoc phỏng dịch 
                   THU DẠ
         (2)   Bạch
         lộ vi sương
         thu khí thâm ,   Giang thành
         thảo mộc
         cộng tiêu sâm .   Tiền đăng độc
         chiếu sơ
         trường dạ
         ,   Ác phát kinh hoài
         mạt nhật
         tâm .   Thiên lý giang
         sơn tần
         trướng vọng
         .   Tứ
         thời yên cảnh
         độc trầm
         ngâm .   Tảo
         hàn dĩ giác vô y khổ , 
          Hà xứ
         không khuê thôi mộ châm
         .       Dịch nghĩa
         :   Móc trắng thành
         sương , hơi thu đã già   Cây cỏ quanh thành bên sông đều
         có vẻ tiêu điều .   Một mình khêu ngọn đèn
         trong ,đêm bắt đầu dài .   Vắt tóc vẫn lo cho cái
         chí nguyện trong những ngày chót .   Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn 
          Phong cảnh bốn mùa
         riêng mình ngậm ngùi   Mới
         rét mà đã thấy khổ vì không áo
         ,   Nơi đâu tiếng
         đập vải của người
         khuê phụ rộn rã trong bóng chiều
         .   Dịch Thơ
         :             ĐÊM
         THU (2)   Móc như
         sương hơi
         thu lạnh ngắt
         ,   Quanh thành sông xơ
         xác cỏ cây .   Đèn khêu độc
         chiếu đêm chầy
         ,   Ngổn
         ngang chí nguyện tháng ngày lo toan . 
          Núi sông xa dặm
         ngàn buồn ngóng , ,   Khói bốn
         mùa một bóng sầu
         mang .   Lạnh
         về không áo dao hàn , 
          Tiếng
         chày khuê phụ chiều
         tàn giục mau .                                  
         Mailoc phỏng dịch   (tài liệu lấy từ  Wikipedia )       Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh năm Ất Dậu 1765- mất năm Canh Thìn 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh
         Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp
         hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ
         nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc".
         Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công
         nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân
         dịp 200 năm năm sinh của ông [1][2].   Tiểu sử[| 
          Theo gia phả của dòng
         họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn
         Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện
         Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi
         Hiên, có biệt hiệu là Hồng
         Ngự cư sĩ đậu Nhị
         giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư
         đồ (Tể tướng), tước
         Thượng thư bộ Hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần [3] (24 tháng 8 năm 1740 - 27 tháng 8 năm 1778), con gái một
         người làm chức câu kế. Quê
         làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện
         Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba củaNguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được
         năm con, bốn trai và một gái).[4][5]   Tổ tiên của
         Nguyễn Du có nguồn gốc từ
         làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi
         danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ
         viễn tổ đã từng đỗ
         đạt làm quan.   Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo,
         hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân
         Quận công nên Nguyễn Du thời đó
         sống trong giàu sang phú quý.   Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tả tướng,
         cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
         Từ thời gian này Nguyễn Du chịu
         nhiều mất mát:   Năm 1775 (Ất Mùi) anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời.   Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời.   Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ
         Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ
         hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều
         (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ
         Hưng Hóa. mới 13 tuổi, Nguyễn
         Du mồ côi cả cha lẫn mẹ
         nên ông phải ở với người
         anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi)   Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của
         Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn
         Tây bị khép tội mưu loạn
         trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở
         nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được
         một người thân của Nguyễn
         Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón
         về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.   Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn
         Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn
         Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.   Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu
         Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ
         là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông
         được tập ấm chức
         Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng
         hậu của cha nuôi họ Hà ở
         Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của
         Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn
         Khản đầu năm thăng chức Thiếu
         Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng. 
          Năm Giáp Thìn Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn
         Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của
         Nguyễn Khản ở phường
         Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải
         trốn lên ở với em là Nguyễn
         Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc
         bệnh rồi chết ở Thăng Long.   Năm Kỷ Hợi (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.
         Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ
         (Quỳnh Côi, Thái Bình).   Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với
         Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây
         Sơn nên bị bắt và bị
         giết, dinh cơ họ Nguyễn ở
         Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn
         phá hủy.   Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền
         và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú
         Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái
         sử ở viện cơ mật
         và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. 
          Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng
         Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn
         giữ chức Hiệp tán nhung vụ.
         Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh
         dự lễ nhường ngôi của
         vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức
         Tả đồng nghị Trung thư
         sảnh.   Mùa đông
         năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định
         theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn
         Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở
         Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông
         có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm
         hứng trong tù)   Mùa
         thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ
         Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnhHưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường
         Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).   Năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.   Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các đại
         học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước
         Du Đức hầu và vào nhậm chức
         ở kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh Mão1807 được cử làm giám khảo
         kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn1808 ông xin về quê nghỉ.   Năm Kỷ Tỵ (1809) ông được bổ chức Cai bạ
         (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình   Năm Quý Dậu (1813) ông được thăng Cần chánh điện
         học sĩ và được cử làm
         chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được
         thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm). 
          Năm Bính Tý ((1816)), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến
         vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.   Năm (Canh Thìn) 1820 Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được
         cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị
         bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm Canh Thìn (1820) lúc 54 tuổi.   Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải
         táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh[6].           ĐÊM THU ( I
         )       Sao
         sáng đầy trời, sương trắng trong   Dế kêu sầu lạnh vách tường đông   Tơi bời lá úa, thu se sắt   Hiu quạnh trời buồn, mây vẩn không   Tuổi ấy, ngậm ngùi làn tóc bạc   Nơi này, trùng điệp núi non lồng   Đường xa du khách chồn chân bước 
          Sông Tuế nằm xoài suốt cả năm 
                          Phương
         Hà phỏng dịch       ĐÊM THU ( II )     
          Thu đã phai tàn, móc chuyển sương 
          Quanh thành, cây cỏ nhuốm thê lương 
          Đêm dài bên ánh đèn hiu quạnh 
          Ngày muộn trong sầu tư vấn vương 
          Nghìn dặm non sông, tim thổn thức 
          Bốn mùa phong cảnh, dạ buồn thương 
          Rét về không áo càng thêm khổ 
          Văng vẳng chày khua nơi cuối thôn. 
                             Phương
         Hà phỏng dịch     
              
      
         THU NHẬT KÝ HỨNG-Nguyễn
         Du Cùng Bạn ,   Thu dường như ngập ngừng trước ngỏ , lòng khách
         tha hương nhớ quê nhà da diết , thương thân phận mình nơi xứ người , rồi
         bỗng nhiên giựt mình thấy cái già xồng xộc qúa nhanh . Thu
         lại về , lá vàng tan tác đầy sân !     Tâm sự của Nguyễn Du cũng là tâm sự chúng
         mình , ngơ ngác nhìn thời gian vun vút .   Xin gởi đến Bạn cảm tác của thi nhân nhìn mùa
         thu đến .   Chúc an vui   Thân kính    Mailoc 
                
          Tây phong tải đáo bất
         qui nhân , 
 Đốn giác hàn uy dĩ thập
         phần  . 
 Cố quốc hà sơn khan lạc
         nhật , 
 Tha hương thân thế thác
         phù vân . 
 Hốt kinh lão cảnh kim triêu
         thị , 
 Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
         . 
 Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập , 
 Mãn
         đình hoàng diệp lạc phân phân , 
 Gió
         tây mới đến người chưa về , 
 Mà đã
         thấy khí trời lạnh lắm . 
 Non sông nước
         cũ trông vẻ chiều tà 
 Thân thế đất
         người gửi đám mây nổi 
 Hôm nay chợt
         sợ cảnh già , 
 Đêm qua nghe tiếng thu ở đâu
         nổi lên . 
 Cười mình đầu bạc vụng
         thu xếp , 
 Đầy sân lá vàng rụng tơi bời ! 
 Gió tây
         vừa đến , khách tha hương , 
 Đã thấy
         lạnh lùng với tuyết sương . 
 Quê cũ núi
         sông chiều bóng xế , 
 Xứ người thân
         thế áng mây nương . 
 Hôm nay bỗng sợ
         cái già tới , 
 Đêm trước đâu về
         tiếng nhạc vương . 
 Đầu bạc cười mình
         còn vụng tính , 
 Tơi bời sân trước
         lá thu vàng . 
 Người
         chưa về gió tây đang tới  , 
 Trời căm
         căm lạnh với tuyết sương . 
 Cố hương
         sông núi chiều vương , 
 Quê người thân
         phận mây nương la đà . 
 Hôm nay kinh cái
         già mau quá ! 
 Tiếng thu dường trong lá đêm
         qua . 
 Bạc đầu chưa ổn cười ta  , 
 Vàng
         bay lác đác  , lá đà đầy sân ! 
 Gió tây thổi
         đến, bóng người xa 
 Trời chuyển lạnh dần,
         sương tuyết pha 
 Non nước quê xưa chiều nắng nhạt 
 Tấm
         thân đất khách bóng mây nhoà 
 Giật mình
         nghĩ cảnh già đang tới 
 Ngơ ngẩn nghe mùa thu mới
         qua 
 Đầu bạc vẫn còn luôn vụng tính 
 Tơi
         bời lá rụng khắp sân nhà. 
 Ửng đỏ chân trời rạng
         góc xa 
 Lơ thơ cành lá gió mưa pha 
 Sân
         ngoài lững thững màn đêm nhạt 
 Cổng trước
         lao xao vệt nước nhòa 
 Mấy đóa mùa ngâu mai
         mới nở 
 Vài con chim khách bóng vừa qua 
 Trời
         thu lạc lõng màu hoa tết 
 Điểm xuyết làm thêm
         lạ cảnh nhà . 
 
 
                                                                                                                                  
                    Thân gởi anh Mai Lộc và các bạn
         trong Góc Việt Thi   Bài
         thơ mà anh Mai Lộc giới thiệu tuần này là bài của Nguyễn
         Du, trích trong tập Nam Trung Tạp Ngâm. Thơ Nguyễn Du không dễ dịch,
         vì thường là thơ ngụ ý, tức mượn cảnh mà bày
         tỏ ý mình. Bài thơ làm tại đất thần kinh, tức ở
         Huế, sau vụ xử Nguyễn Thành khiến ông này phải tự tử và
         anh rể ông là Vũ Trinh bị vào tù. Ông không dám xin nghỉ
         lúc ấy vì sợ bị khép tội đồng lõa, sau này ông
         bị bệnh nhưng không chịu uống thuốc, và để con bệnh giết
         ông.     
           西風纔到不歸人       Tây
         phong tài đáo, bất quy nhân; 
 頓覺寒威已十分       Đốn
         giác hàn uy dĩ thập phần. 
 故國河山看落日      
         Cố quốc hà sơn, khan lạc nhật; 
 他鄉身世托浮雲       Tha
         hương thân thế thác phù vân. 
 忽驚老境今朝是       Hốt
         kinh lão cảnh, kim triêu thị; 
 何處秋聲昨夜聞       Hà xứ
         thu thanh, tạc dạ văn. 
 自哂白頭欠收拾      
         Tự thẩn bạc đầu, khiếm thu thập; 
 滿庭黃葉落分分      
         Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân. 
 
 Gởi chút hứng nhân ngày thu 
 Gió
         tây vừa thổi, đã đâu về 
 Cái rét dầu
         hay, rất tái tê ! 
 Nước cũ sơn hà, nom bóng
         tắt; 
 Tha hương thân thế, gởi mây quê. 
 Thoáng
         e cảnh lão, sáng nay bổng ... 
 Nào xứ, tiếng thu,
         đêm qua nghe ... 
 Tự diểu bạc đầu, thu nhập ít, 
 Ngập
         sân, lác đác, lá tư bề. 
 
                           Bài thơ này trích
         trong tập Nam Trung Tạp Ngâm, là tập thơ tác giả làm trong những
         ngày làm quan ở Huế. Bài thơ tuy không ký chú về trường
         hợp sáng tác, nhưng xét ý thơ thì chắc chắn là ông
         làm lúc anh rể ông, là Vũ Trinh, bị liên can và phải vào
         ngục trong vụ Nguyễn Thuyên, Nguyễn Thành.   Câu một : Gió tây (ở đây là chỉ Giặc rợ
         Hồ đến từ hướng tây, theo thơ Đường), là ám chỉ
         vụ bê bối chính trị, gió tây mới vừa thổi mà đã
         đâu phải xin về (tức trốn chạy). Bất quy là không xin nghỉ
         hưu.   Câu hai : Gió tây (đối
         với nước Tầu là rất lạnh). Tác giả muốn bảo là :
         tuy cũng biết ở lại là phải chấp nhận rủi ro, vì cái lạnh
         đó rất ác, có thể nguy đến tính mạng (dĩ thập phần) 
          Câu ba : Tác giả đã chứng kiến
         cảnh nhà Lê bị tan tác (lạc nhật). Cố quốc hà sơn là
         sơn hà của nước cũ tức nhà Lê. Khan lạc nhật là chứng
         kiến cảnh vua bị truất phế.   Câu
         bốn : Tác giả phải trốn chạy đến nơi khác. Tha hương
         là quê khác, chỗ khác, và tác giả lúc đó, chỉ
         còn biết phó thác cho cuộc sống tạm bợ; phù vân là
         cuộc sống trôi nổi.   Câu năm
         : Cảnh già đáng sợ, sáng nay mới chợt biết. Hàm ý là
         nếu mình mà xin nghỉ hưu thì cảnh già đến, mình sống
         ra làm sao (tức nói không lương bổng thì sống bằng gì).
         Hàm ý là mình đã kinh qua cái thời trẻ, bỏ quan trốn
         chạy, không lương hướng, sống thất thểu qua ngày.   Câu sáu : là nhắc tích Trương Hàn,
         khi nghe gió thu đến thì bỗng nhớ quê, nhớ món gõi cá
         vược mà xin từ quan, vua gọi cũng không quay lại. Hà xứ là
         nói một xứ khác, không phải xứ mình. Tạc dạ văn là
         đêm qua đọc thơ mà biết được chuyện xưa Trương
         Hàn.   Câu bảy : Tự thẩn là
         mỉm cười một mình : Cười mình bạc đầu mà chẳng
         để dành được gì nhiều. Muốn nói là mình thu nhập
         kém, nếu xin nghỉ hưu thì lấy gì sống.   Câu kết : Lá vàng lác đác mà đã
         rơi đầy sân. Ngụ ý cái việc ông không rút lui mà
         lời bàn tán của thiên hạ đã như lá vàng ngập cả
         sân. Hàm ý có nhiều chê trách.   Bài thơ này tóm lại, là bài thơ
         ông tự thanh minh việc ông không rút lui khi anh rể ông bị vua Gia
         Long bắt bỏ tù vì tội bênh học trò.       Vài
         hàng góp ý gởi đến các bạn đọc chơi.   Danh    Xin được góp mặt , dù muộn
         , để thay lời cám ơn anh Mai Lộc đã cho đọc một bài
         thơ hay của Nguyễn Du và bác Danh Hữu về ý nghĩa chìm của
         nguyên tác.  
 Chớm thu người vẫn chưa về được , 
 Trời lạnh mùa sang thấu nỗi hàn. 
 Nước cũ núi sông nhìn nắng tắt , 
 Tha hương thân thế gửi mây tan. 
 Sáng nay chợt ngại cảnh già lão, 
 Đêm trước thoảng nghe gió thở than. 
 Tóc trắng cười ta thu vén vụng , 
 Đầy sân lả tả lá rơi vàng.     Ngày Thu cảm Hứng 
              Gió
         tây đến người chưa về   Bầu
         trời lạnh buốt tái tê cõi lòng   Trông chiều nhớ nước núi sông   Xứ người trôi nổi lòng vòng mây trôi   Tấm thân gầy guộc già rồi   Đêm qua nghe tiếng thu rơi não buồn  
         Bạc phơ mái tóc hoàng hôn 
          Đầy sân lá rụng thu buông gió
         sầu    Trầm Vân 
 _________________________________________________________________________________________  
  
      
      TIÊN DU TỰ ( Nguyễn Trãi,
         Chu Văn An) Bản dịch: Mailoc, Phương Hà, Chân Diện Mục, Trầm Vân  
              Cùng Bạn ,   Xin chuyển đến bạn hai bài thơ  của hai thi nhân
         khét tiêng trong văn học nước nhà , đó là hai cụ Nguyễn
         Trãi và Chu Văn An . Tuy trong cùng một bối cảnh núi Tiên Du nhưng
         hai người tâm trạng mênh man khác nhau , một người vội vã
         lên chùa để lễ Phật , một người ung dung thong thả dạo
         núi trong đêm trăng đẹp lòng an nhiên tự tại . Cả
         hai bài đều tuyệt vời , hồn thơ lai láng .    Thân kính    Mailoc 
               Tiên
         Du tự              
                          Nguyễn Trãi     Đoản
         trạo hệ tà dương,   Thông thông yết thượng phương.   Vân quy Thiền sáp lãnh,   Hoa lạc giản lưu hương.   Nhật mộ viên thanh cấp,   Sơn không trúc ảnh trường.   Cá trung chân hữu ý,   Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).     -- Dịch nghĩa:--     Chùa Tiên Du (1)     Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế   Vội
         vàng lên chùa lễ Phật   Mây kéo về làm
         lạnh giường Thiền   Hoa rụng xuống khiến dòng
         suối thơm.   Chiều hôm tiếng vượn kêu rộn   Núi trống và bóng trúc dài ra   Trong cảnh
         ấy thật có ý   Ta muốn nói ra bỗng lại quên
         lời.     (1) Còn có tên là chùa Vạn Phúc,
         chùa Phật Tích; nay thuộc tỉnh Bắc Ninh     --Bản
         dịch của nhóm Đào Duy Anh:(2)--     Bóng xế thuyền
         con buộc,   Vội lên lễ Phật đài.   Mây về giường
         sãi lạnh,   Hoa rụng suối hương trôi.   Chiều tối
         vượn kêu rộn,   Núi quang trúc bóng dài.   Ở
         trong dường có ý,   Muốn nói bỗng quên rồi.  
           (2) Trong Nguyễn Trãi toàn tập, Ức Trai thi tập  
              --Bản dịch của MaiLộc-       Buộc con thuyền
         trời đà bóng xế ,   Bước
         vội vàng lên lễ Phật đường .   Giường sư lạnh lẽo mây vương ,   Hoa trôi trên suối đưa hương khắp vùng
         .   Chiều dần tối vượn rừng
         lanh lảnh ,   Bóng trúc dài
         quang tạnh núi trong .   Dường
         như cảnh cũng ý lòng ,   Lời
         đâu quên mất nên không tỏ bày .         
          Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng
         kính                             
                    Chu Văn An     Hoãn hoãn
         bộ tùng đê,   Cô thôn đạm ái mê.   Triều
         hồi, giang địch quýnh,   Thiên khoát, thụ vân đê.   Túc điểu phiên thanh lộ,   Hàn ngư dược bích khê.   Xuy sinh hà xứ khứ,   Tịch mịch cố sơn tê (tây).     Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi
         Tiên Du     Lững thững dạo chơi trên đê tùng   Làn mây nhạt che khuất làng hẻo lánh   Triều
         xuống tiếng địch trên sông nghe xa vắng   Trời
         rộng, mây là là ngọn cây   Chim về tổ bay qua
         sương mát   Cá gặp lạnh nhảy dưới khe trong   Người thổi sáo đi đâu vắng?   Để
         núi tây cũ thêm quạnh hiu.        ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI TIÊN DU   (1)   Trên
         đê tùng , dạo chơi  thong thả ,   Làn khói mờ che cả cô thôn .   Triều hồi , địch vẳng bến sông ,   Trời quang mây lượn ngàn thông la đà
         .   Chim xao động sương ngà
         đêm mát ,   Nước lạnh
         tanh cá quạt khe trong .   Tiếng sênh
         im bặt mênh mông ,   Núi xưa
         hiu quạnh trời không một màu .                                Mailoc
         phỏng dịch   (2)   Lửng thửng trên bờ thông ,   Sương khói mờ cô thôn .   Triều lui tiếng sáo vẳng ,   Trời tạnh rừng mây lồng .   Sương rung chim lũ lượt ,   Cá lạnh quẫy khe trong .   Sênh ai vừa bặt tiếng ,   Non
         cũ quạnh trời không                      
         Mailoc    -- Chu Văn An 朱文安 (1292-1370)
         hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh   Triệt, tên
         thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước   Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người   làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là
         huyện   Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).     Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan,
         chỉ   ở nhà dạy học.Học trò theo học rất
         đông, trong số đó có Phạm Sư   Mạnh, Lê
         Quát.     Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông
         mới nhận chức Quốc Tử   Giám tư nghiệp,dạy
         cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369)   nhà
         vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần
         thì lộng   quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn
         dâng sớ xin chém bảy   tên nịnh thần, nhưng vua
         không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn   tại
         núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện Chí Linh . Ông
         mất   năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần Nghệ
         Tông (1370), được   vua làm lễ tế và đặt
         tên thuỵ là Văn Trinh.     Tác phẩm: Chu Văn An
         từng có những tác phẩm như: Thất trảm   sớ,
         Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết
         ước.   Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được
         12 bài thơ chữ Hán chép trong   Toàn Việt thi lục.  PHƯƠNG HÀ phỏng dịch: Phương Hà xin được góp bài phỏng
         dịch cùng anh Mai Lộc:       I/ Phỏng dịch bài TIÊN DU TỰ của Nguyễn
         Trãi       CHÙA TIÊN DU       Buộc mái chèo trong bóng xế tà  
         Lên chùa vội vã một mình ta 
          Giường Thiền mây phủ màn vương
         lạnh   Suối mát hoa rơi hương
         thoảng xa   Vượn hót rộn vang chiều
         tối muộn   Núi in dài trải bóng
         tre già   Cành tình ẩn chứa muôn
         ngàn ý   Muốn nói mà sao khó
         thốt ra               Phương
         Hà phỏng dịch       II/ Phỏng dịch bài NGUYỆT TỊCH BỘ TIÊN DU SƠN TÙNG
         KÍNH của Chu Văn An       DẠO BƯỚC ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI TIÊN
         DU       Trên
         đê, dạo bước dưới hàng thông   Mây nhạt che mờ xóm cuối thôn   Tiếng địch xa đưa triều nước xuống    Ngọn cây mờ phủ áng mây lồng 
          Chim bay về tổ sau sương lạnh   Cá quậy bên khe dưới nước trong 
          Người thổi sáo đâu sao chắng thấy 
          Non tây hiu quạnh mãi hoài trông. 
                         Phương Hà
         phỏng dịch Bản dịch
         C.D.M & Trầm Vân:  ĐÊM
         TRĂNG DẠO BƯỚC DƯỚI RẶNG THÔNG NÚI TIÊN DU       Lững thững
         dưới hàng thong   Thôn ngủ dưới
         mây hong   Nước ròng tiêu réo
         rắt   Trời rộng cây mây long 
          Chim ngủ sương thánh thót   Cá nhảy dưới khe trong   Tiếng tiêu đà xa vắng   Cô đơn núi lạnh lung     
          C.D.M.     
          Chùa Tiên Du       Bóng chiều buộc chiếc
         thuyền con   Vội lên lễ Phật thả
         buông muộn phiền   Mây về kéo
         lạnh giường thiền   Suối trôi
         hoa rụng hương mềm cánh trôi   Vượn
         kêu trời đã tối rồi   Núi
         xanh bóng trúc dài khơi nỗi niềm   Cảnh dường muốn tỏ niềm riêng   Lòng ta muốn nói lại quên mất lời    Trầm Vân     
          Dạo Bước Tiên Du       Trên đê dạo
         dưới hàng thông   Khói mờ che
         cả cô thôn gió lồng   Triều
         hồi tiếng địch ru sông   Là
         đà cây biếc mây bồng bềnh trôi   Chim bay về tổ, sương rơi   Dưới
         khe quá quẫy bồi hồi nước trong   Đâu
         người thổi sáo ru lòng   Non tây
         hiu quạnh ngóng trông u hoài    Trầm
         Vân      ___________________________________________________         
          
      
      THUẬT HOÀI - Đặng Dung Bản dịch: Tản Đà,
         Phan Kế Bính, Đào Hữu Dương, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
         Chân Diện Mục, Trầm Vân   
             |      Cùng   Bạn  
           Xin   chuyển đến Bạn một bài thơ
         của một Thi nhân Tráng sĩ đời nhà   Trần đã làm
         biết bao thi nhân đời sau rung động cảm khái   , đó
         là Tráng Sĩ Đặng Dung .    Thân
           kính    Mailoc                   THUẬT
         HOÀI                         
                             Đăng
           Dung    Thế sự du du nại lão
         hà ,    Vô cùng thiên
         địa nhập hàm   ca .    Thời lai đồ điếu thành công   dị ,    Vận khứ anh hùng ẩm hận đa . 
           Trí chúa hữu hoài phù địa
           trục ,    Tẩy binh vô
         lộ vãn thiên hà   .    Quốc thù vị báo đầu tiên   bạch ,    Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt   ma . 
                Dịch nghĩa :  
                             Cảm
         Hoài    Việc đời dằng
         dặc mà mình đã   già mất rồi    (Vậy nên ) Đất Trời mênh   mông thu lại la một
         cuộc say hát mà thôi .    Gặp
         thời bọn giết heo , bọn câu   cá cũng thành công dễ , 
           Nhưng lỡ vận thì anh hùng cũng 
          đành nuốt hận nhiều    Giúp
         chúa có lòng đỡ trục đất    Nhưng tiếc rằng rửa binh không   có đường kéo sông
         trời    Nợ nước chưa báo
         đầu đã sớm bạc    Tiếc
         thay đã bao phen mài gươm   Long Tuyền dưới ánh trăng 
                   --Bản dịch của   Tản Đà-    Việc đời man mác tuổi già   thôi  ! 
           Đất rộng trời cao chén ngậm   ngùi
         .    Gặp gỡ thời cơ may những
         kẻ    Tan tành sự thế luống
         cay ai .    Phò vua bụng những mong
         xoay   đất ,    Gột giáp sông
         kia khó vạch trời   .     |        Đầu bạc giang san thù chưa trả ,   Long Tuyền mấy độ ánh trăng soi .         
         --Bản dịch của Phan kế Bính -     
          Việc đời bối rối tuổi già vay , 
          Trời Đất vô cùng một cuộc say . 
          Bần tiện gặp thời lên cũng dễ , 
          Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay . 
          Vai khiêng trái đất mong phò chúa , 
          Giáp gột sông trời khó vạch mây
         .   Thù trả chưa xong đầu đã
         bạc ,   Gươm mài bóng nguyệt
         biết bao rày .       -- Bản dịch của Đào hữu Dương - 
              Tuổi
         già lận đận nỗi tình đời ,   Vô tận vần xoay khoảng đất trời   Ti tiện gặp thời lên chẳng khó  ,   Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi . 
          Vác non phò chúa trên vai nặng , 
          Gột giáp qua mây mặt nước trôi 
          Thù nước chưa xong đầu sớm bạc
         ,   Dưới trăng mài kiếm mấy
         thu rồi .       --Bản dịch của Mailoc-       Lê thê thế
         sự , đã già mất !   Rượu
         ngà ngà trời đất cùng say .   Lên voi , đê tiện thời may ,   Anh hùng tàn vận đắng cay muôn phần .   Vai phò chúa mong vần trục đât ,   Nước thanh bình rửa giáp sông Ngân . 
          Quốc thù chưa trả bạc đầu ! 
          Dưới trăng loang loáng bao lần mài
         gươm .       Bài thơ đã mở đầu  bằng một
         câu bi phẫn của thi nhân tráng sĩ , ngao ngán cho việc đời còn
         ngổn ngang , mà tuổi mình đã già mất rồi ! Bi phẫn rồi
         lại ngậm ngùi , thôi thì chỉ còn chén rượu say say nghêu
         ngao với đất trời .Gợi hình nhất ở hai câu cuối : hình
         ảnh một tráng sĩ bạc đầu  mài gươm loang loáng dưới
         ánh trăng . Một bài thơ đã khiến bao nhiêu người cảm
         khái !       ĐẶNG DUNG  sinh và mất năm nào
         không rõ chỉ biết ông người huyện Can Lộc , tỉnh Nghệ An
         . Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần . Khi quân
         Minh do Trương Phụ xăm chiếm nước ta , năm 1407 Đặng Tất cùng
         đồng liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế
         chống quân Minh . Nhưng GĐĐ nghe lời xiểm nịnh giết cả Đặng
         Tất và Nguyễn Cảnh Chân . Đặng Dung và Nguyễn cảnh Dị,
         con của Nguyễn cảnh Chân vì đại cuộc , quên thù nhà, đem
         quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa , tôn Trần Qúy Khoách lên
         làm vua , đó là Trùng Quang Đế , để tiếp tục sự nghiệp
         chống Minh . Chiến công đáng ghi nhớ trong đời ông là một
         lần đánh úp doanh trại quân Minh trong một đêm tháng 9 năm
         1413 , ông và một tướng khác là Nguyễn Súy cầm đầu
         một toán xung kích nhảy lên thuyền giặc định bắt sống tướng
         Minh ,nhưng Trương Phụ nhờ đêm tối đã thoát hiểm . 
          Thời bấy giờ nghĩa sĩ  tham gia kháng
         chiến rất đông như kẻ sỉ cương cường  Nguyễn Biểu
         (*) tráng sĩ Nguyễn Súy v..v..nhưng nghiêp nhà Trần đến hồi
         suy  , các cuộc khởi nghĩa đều thất bại , Trùng quang Đế
         và ông đã bị bắt . Trên đường giải về Yên Kinh
         ông và nhà vua đã nhảy xuống sông tự vận .  
         (*)  NGUYỄN BIỂU :
         người huyện La Giang tỉnh Hà Tỉnh , thi đổ Thái Học Sinh ( Tiến
         Sĩ) khoảng năm 1357 cuối đời nhà Trần , ông làm quan đến
         chức Điện Tiền Đô Ngự Sử , cùng thời với Đặng
         Dung và Nguyễn cảnh Dị .   Trong
         cuộc khánh Minh , nhiều lần thất bại , ông được cử làm
         sứ giả gặp Trưong Phụ , để mong mua thời gian xây
         dựng binh lực. Tướng Minh là Trương phụ tiếp sứ thần một
         cách ngạo mạn , sai quân đem ra một cái đầu người luộc
         chin , ép NB ăn , NB ung dung ngồi vào mâm và nói rằng :" Mấy
         khi được ăn thịt người phương Bắc( người Tàu ), nói
         đoạn lấy đủa khóet đôi mắt , chấm muối ăn một cách
         ngon lành , vưà ăn vưà ngâm bài thơ Cổ đầu người
         khiến Trương Phụ kính phục toan tha về .Hàng tướng là Phan
         Liêu  lại ton hót rằng Nguyễn Biễu đã nói " Năng sảm
         nhân đầu , năng sảm Phụ "(ý nói nuốt được đầu
         người , cũng có thể nuốt tươi Trương Phụ )  .TP giận
         lắm , đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại . Đối được
         thì cho về bằng không phải chém  . NB ung dung đối lạirằng
         " Hựu tồn ngô thiệt , hựu tồn Trần "( Còn ba tâc lưỡi
         của ta , Nhà Trần vẫn còn ). TP đổi ý không tha nữa lại
         sai cắt lưỡi ông : Thử để xem cắt lưỡi nó đi , nhà
         Trần có còn được nữa không ? Đoạn trói ông vào
         chân cầu cho thủy triều  lên dìm chết Thật là một tấm
         gương anh hùng để ngàn thu , một cái chết đau thương
         để chúng ta thấy sự bào tàn dã man của Tàu  
          Hỡi những ai còn mê muội , hỡi những
         kẻ ương hèn hãy nhìn rõ , chỉ có gươm khua máu đỗ
         mới bảo vệ được giang sơn gấm vóc mà tổ tiên ta đã
         bao đời xây dựng.    Mong
         lắm thay ! ĐỖ CHIÊU
         ĐỨC:                   Xin được trình bày lại bài thơ " Thuật Hoài "
         của Đặng Dung như sau :     
                 述 懷                     
            THUẬT HOÀI     世事悠悠奈老何      
         Thế sự du du nại lão hà !  無窮天地入酣歌      
         Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.  時來屠釣成功易      
         Thời lai đồ điếu thành công dị,  運去英雄飲恨多      
         Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.   致主有懷扶地軸      
         Trí chúa hữu hoài phù địa trục,  洗兵無路挽天河      
         Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.  國讎未報頭先白      
         Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,  幾度龍泉戴月磨      
         Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !                     
         Xin được dịch nghĩa từng câu như sau :            1. Việc
         đời còn dằng dặc mà ta đã già mất rồi, biết sao
         đây !        2.Trời đất
         mênh mông như đắm chìm trong cuộc rượu hát ca.        3.Khi gặp thời, người làm
         nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ dàng thành công,      
               4.Lúc lỡ vận, nhiều bậc
         anh hùng cũng  đành phải nuốt hận mà thôi !     
               5. Hết lòng giúp chúa, những
         mong đỡ lại trục trái đất . ( xoay lại thời cuộc ). 
               6.Rửa vũ khí vì đã
         hết đường, nhưng làm sao kéo  sông Ngân xuống được
         ( để rửa ! ).          
         7.Thù nước còn chưa trả  mà mái tóc đã sớm
         bạc phơ,           8.Biết
         bao phen mang gươm Long Tuyền ra mài dưới bóng trăng rồi ! 
                     
         Thưa Thầy,          
         Câu 6 có xuất xứ ( lớn lắm ! ) như sau :              
         Điển tích lấy từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa
         khí giới) của Đỗ Phủ:     
                      
         An đắc tráng sĩ vãn thiên hà;           
         安得壯士挽天河,              
         Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.  淨洗甲兵長不用. 
              Dịch
         nghĩa:             
         Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước
         sông Ngân xuống (dịch chữ thiên hà); Rửa sạch khí giới
         và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa.  ( Ý
         chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân
         chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế
         thì đâu có được người như thế ! )       DIỄN NÔM : 
                               THUẬT
         là Kể lại, là Bày tỏ.                      
          HOÀI là Vòng tay, là Lòng dạ.                      
          THUẬT HOÀI là                      
         BÀY TỎ NỖI LÒNG               
         Thế sự còn vương đã lão rồi,            
         Đất trời say khước hát ca chơi.            
         Có thời câu cá thành công dễ,            
         Hết vận anh hùng nuốt hận thôi.            
         Giúp chúa những mong xoay lại cuộc,            
         Bãi binh còn muốn kéo sông trời.            
         Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,            
         Mài mãi Long Tuyền dạ chẳng nguôi !                                                             
           Đỗ Chiêu Đức                                                                        
          diễn nôm.
 Bản dịch
         Chân Diện Mục  NỖI LÒNG 
              Rối
         nùi việc nước đã già sao   Tay
         kiếm tay ly níu hỏi trời   Thời may
         kẻ dở thành công dễ   Vận hết
         ta đây luống ngậm ngùi   Phò
         chúa lòng mong xoay thế cục   Khôn
         hay rửa giáo giữa sông trời   Nửa
         đường đầu bạc , ôi đầu bạc   Mài kiếm trông trăng mấy độ rồi                                        
         C.D.M. Bản dịch Trầm Vân  
          Bày Tỏ Nỗi Lòng       Việc đời chưa
         dứt đã già rồi   Nâng chén
         tiêu sầu rượu đỏ môi   Nghèo
         khó gặp thời lên mộng dễ   Anh
         hùng lỡ vận nuốt hờn thôi   Giữ
         lòng giúp Chúa mong xoay cuộc   Nung
         dạ vung đao muốn kéo trời   Chưa
         báo quốc thù đầu đã bạc   Long Tuyền mài mãi ánh trăng trôi    Trầm Vân      
                 
          
      
      THÔN CƯ                        Nguyễn Sưởng Bản dịch/phỏng dịch: Vôdanh,
         Mailoc, Phương Hà        Cùng
         Bạn   Xin chuyển đến Bạn một
         bài thơ của Nguyễn Sưởng . Cụ đã vẽ lên bức tranh vừa
         mơ màng vừa dễ thương  cuộc sống an nhàn ngày xưa ở
         thôn quê :  ngày tai lắng tiếng chim ca , mơ màng theo giậu thúc
         phất phơ gió mát, đêm có trăng với bóng hoa lồng, có
         những ván cờ tướng chậm rãi hào hứng đang tính nước
         nát óc , khi bước về nhà thì đã ngà ngà say chân đá
         chân xiêu chập chờn nửa mơ nửa tỉnh, tai đã văng vẳng
         tiếng gà eo óc nhà gần bên .Trời gần sáng. Ôi tuyệt
         vời cuộc sống  thanh bình thơ mộng của thôn quê ta ngày
         xưa !       Nguyễn Sưởng hiệu là Thích Liên sống cùng thời
         với Trần Quang Triều , Nguyễn Trung Ngạn, có làm quan dưới triều
         Trần , nhưng sớm chán công danh , lui về vui với bầu bạn và thiên
         nhiên. Ông tham gia thi xã Bích Động . Tác phẩm lưu lại
         chỉ mấy bài thơ .    Thân kính  
             Mailoc     
                       THÔN
         CƯ                                     
         Nguyễn Sưởng   Thông thông xuân
         dĩ hạ ,   Thụ để điểu
         thanh mang .   Thiềm nguyệt hoa di ảnh
         ,   Song phong tá trúc lương . 
          Vi kỳ nhàn đắc địa , 
              Đối
         tửu túy vi hương .   Hoán
         xuất Hoa tư quốc ,   Lân kê
         cách đoản tường .     
            Dịch thơ :   Thấm thoát xuân qua đã lại hè ,   Vòm cây ánh ỏi tiếng chim quê .   Giậu trúc phất phơ hơi mát thoảng ,   Thềm trăng lẩn thẩn bóng hoa xê .   Cuôc cờ thủng thỉnh thêm cao nước , 
          Chén rượu ngà ngà dẫn lối về
         .   Chập chờn sực tỉnh Hoa tư mộng
         ,   Một tiếng gà bên xóm gáy
         te .                              
         Vô danh       Ở LÀNG 
          Lật bật hè về xuân lại qua , 
          Trong vườn ríu rít tiếng chim ca . 
          Thềm trăng chầm chậm bóng hoa chuyển 
          Bụi trúc dật dờ gió tối
         xoa   Thong thả cuộc cờ đang tính
         nước ,   Lâng lâng chén rượu
         lúc về nhà .   Mơ màng
         chợt tỉnh Hoa tư mộng ,   Eo óc
         tường bên một tiếng gà .                           
         Mailoc phỏng dịch SỐNG Ở THÔN
         QUÊ   Thoáng chốc
         xuân tàn, hạ đã sang   Trong vòm,
         chim chóc hót ca vang   Ánh trăng in bóng
         chùm hoa muộn   Làn gió đung đưa
         khóm trúc vàng   Thanh thản cuộc
         cờ, tâm sảng khoái   Say sưa chén
         rượu, dạ bình an   Hồn mơ chợt
         tỉnh, rời cơn mộng   Một tiếng
         gà sau bức giậu ngang.        
               Phương Hà phỏng dịch  ____________________________________________________________________________________________  
              
       
      CỔ LOA HỮU CẢM   Chu Mạnh Trinh________________________   Cùng Bạn   Cuốituần  xin
         chuyển đến Bạn một bài thơ của Chu Mạnh Trinh , tôi thấy
         hay hay và ý nghĩa nênlấy từ internet xuống mời các Bạn đọc
         chơi giải khuây cuối tuần .   Thân
         mến   Mailoc            |     古螺有感 
            |        Cổ Loa hữu cảm 
                             
                      Chu Mạnh Trinh          |         |     郎君情重父恩深,     不白奇冤直到今。     機爪無靈龜亦去,     明珠有淚蚌猶沉。     黃碑古樹千年國,     碧海遙天一片心。     寂寞前朝宮外廟,     杜鵑啼斷月陰陰。     |     
           Lang   quân tình trọng, phụ ân thâm     Bất bạch   kỳ oan trực đáo câm.     Cơ trảo   vô
         linh quy diệc khứ,     Minh   châu hữu lệ bạng do trầm.    
         Hoàng bi   cổ thụ thiên niên quốc,     Bích hải   dao thiên
         nhất phiên tâm.     Tịch   mịch tiền triều cung ngoại miếu,     Ðỗ quyên   đề đoạn nguyệt âm âm...     |    
                        CỔ  LOA  HỮU 
         CẢM   Ơn cha sâu  , tình
         chàng một khối ,   Biết bao giờ
         giải mối oan khiên .   Rùa đâu
         cung nỏ hết thiêng  ,   Minh châu
         lệ ngấn trai chìm đáy sâu .   Bia hoang tàn nghìn thu cây cỗi ,   Biển trời xanh một nỗi thương đau .   Triều xưa cung lạnh miếu sầu ,   Tiếng quyên khắc khoải , trăng thâu lờ mờ . 
                                      
         Mailoc phỏng dịch        Chu Mạnh Trinh (朱孟楨, 1862-1905), tự Cán
         Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn,
         tác giả bài phú Hàm Tử quan hoài cổ.   Thân thế sự nghiệp   Ông sinh năm 1862, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở,
         huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha ông là Chu Duy Tĩnh, từng
         làm quan đến chức Ngự sử.   Từ
         nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, có tài văn phú. Khi 19 tuổi,
         ông đỗ Tú tài. Sau đó ông sang thụ giáo Phó bảng Phạm Hi Lượngvà được thầy gả con gái
         cho. Đến 25 tuổi, ông đỗ Giải
         nguyên trường Hương
         khoa thi Bính Tuất (1885). Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông
         đậu Tiến sĩ.   Sau khi thi đỗ
         Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (đời Thành Thái thứ tư), ông được bổ làm
         Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công
         minh chính trực. Có lần ông đã phạt đánh roi một tu sĩ
         người Pháp có hành động cậy thế lộng hành. 
          Làm Tri phủ ít lâu thì cha mất, Chu
         Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Sau đó, ông được giao chức
         Án sát tỉnh Hà Nam,
         Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên.   Ông
         mất năm 1905, khi mới 43 tuổi.   Cổ
         Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới
         thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ
         3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế
         kỷ 10 sau Công nguyên.   Hiện nay,
         di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà
         Nội.   Bối cảnh địa
         lý[   Vào thời Âu
         Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh
         của tam giác châu thổ sông
         Hồng và là nơi
         giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ
         đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng
         lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo
         nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ
         bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch
         nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan
         trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông
         Thái Bình. Như vậy,
         về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị
         trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí
         nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng
         với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng
         lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường
         thủy tại Bắc bộ Việt Nam.    Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng
         bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc,
         sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp.
         Việc dời đô từ Phong
         Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển
         của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm
         quyền lực từ vùng Trung Du bán
         sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
         Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến
         lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi
         con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường
         thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ
         thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc
         hơn.   Trung tâm quyền lực của các
         cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự
         phát triển về chiều rộng của Văn
         Hóa Đông Sơn. 
          Xây dựng
         thành[]   Thành
         Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa
         có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa
         6,5 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km².
         Thành được xây theo phương pháp đào đất đến
         đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu,
         lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng,
         mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì
         dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m. Chân lũy rộng
         20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m.  cổ về sự tồn tại của hàng
         chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở
         đây. Xem thêm truyền thuyết Cổ Loa.   Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng
         tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ
         nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố,
         với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn
         cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình
         và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài
         hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng,
         thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động
         trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.   Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu
         cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về
         sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan
         không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được
         bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống
         bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và
         xa hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua
         Hùng.   Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ
         nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản
         văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ
         kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá
         kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ
         lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình
         hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ
         thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào
         ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để
         tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây
         thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.   Hiện
         nay Cổ Loa là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam và vào ngày 6/1/2013 âm lịch cổ loa
         đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia đặc
         biệt.   Trọng Thủy và chuyện
         tình với công chúa Mỵ Châu   Theo Đại viêt sử ký toàn thư, sau nhiều lần giao
         tranh với An Dương Vương không thắng được, Triệu Đà
         sai Trọng Thủy sang nước Âu Lạc, hầu trong cung An Dương Vương
         làm túc vệ, rồi cầu hôn công chúa Mỵ Châu. An
         Dương Vương bằng lòng, cho Trọng Thủy lấy con gái mình. 
          Trong thời gian ở Âu Lạc gửi rể,
         Trọng Thủy đánh cắp các bí mật quân sự của Âu. Truyền
         thuyết kê rằng, Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ
         thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào. Sau
         khi phá được bí mật quân sự của Âu Lạc, Trọng Thủy
         xin An Dương Vương về thăm cha mẹ. An Dương Vương bằng lòng.
         Trọng Thủy báo lại cho Triệu Đà mọi việc.   Triệu Đà lại phát binh đánh Âu Lạc,
         sai Trọng Thủy cầm quân. An Dương Vương chủ quan vì có vũ
         khí "nỏ thần", khi ra trận mới biết vũ khí không còn
         hiệu nghiệm, thua trận mang Mỵ Châu chạy về phía nam.   Trọng Thủy theo lời dặn của Mỵ Châu trước
         khi chia tay, cứ theo dấu lông ngỗng mà Mỵ Châu rắc ra đường
         làm dấu mà đuổi theo. An Dương Vương nhận ra chính con gái
         tiếp tay cho họ Triệu, liền giết chết Mỵ Châu rồi tự vẫn.
         Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đã chết,
         thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành. Vì thương
         tiếc nhớ tiếc Mỵ Châu, Trọng Thủy trở lại chỗ Mỵ Châu
         tắm gội trang điểm khi trước, cuối cùng nhảy xuống giếng
         mà chết..   LẠM BÀN 
           Qua câu chuyện Trọng Thủy -Mị Châu
         , ngừời Việt mình có kẻ lên án sự phản bội tổ
         quốc , phản bội cha  , làm mất nước của Mị Châu; cũng
         có người  nhỏ lệ bênh vực tha thứ cho nàng vì sự
         nhẹ dạ , chìều  chồng , đem bí mật quốc gia thộ lộ
         cho người , Chu mạnh Trinh cũng thương xót nàng , ôm mối oan khiên
          .Riêng tôi , tôi cũng tha thứ sự dại khờ , ngu xuẩn của người
         con gái trong phút giây đê mê nào đó bên chồng  ,
         đã quên tự hỏi chồng mình là ai ? sao lại hỏi chuyện cơ
         mật quốc gia ? nhưng không thể tha thứ cho nàng khi quân thù đã
         rượt đuổi hai cha con cận kề mà nàng vẫn còn ngu dại
         rắc lông ngỗng cho thằng chồng bất nhân  chạy theo giết cha mình
         .Thử hỏi một nàng con gái không đầu óc như vậy để
         sống bằng thừa . Vì thế người ta đã dựng một ngôi
         miếu tưởng nhớ nàng , trong miếu có tượng đá cụt
         mất đầu to lớn gắp  mây lần người thường  trông
         thật ấn tượng .Không đầu tượng trưng cho sự vô đầu óc
         .      Câu chuyện Trọng Thủy
         -Mị Châu cũng cho ta thấy sự ngây ngô tin người của An Dương
         Vương Thục Phán . ông đã qúa tin nơi mười sáu chử
         vàng và bốn tôt của tình thông gia và sự giúp đỡ
         của thần KiM QUY nên đưa đến mất nước ê chề , tội
         của ông còn đáng trách hơn tội của đứa còn gái
         ngây thơ  , dại dột. Đây chỉ là câu chuyện truyền
         thuyết nhưng vô cùng ý nghĩa là bài học muôn đời
         của dân Việt mà chúng ta còn chưa thuộc . Đau lòng thay
         ! !   Xin gởi đên bạn một
         cảm tác của Thanh Mai dưới đây :                             VỊNH CỔ LOA        Nước tan
         tành một trời uất hận ,   Giận
         con khờ , càng giận chính ta .   Chiều
         chồng , con trẻ thật thà ,   Còn
         ta " bốn tốt " thông gia tin người .   Giang sơn nầy bao đời xây dựng ,   Liệt oanh còn sừng sửng Trời Nam .  
         Giặc kia muôn thuở tham tàng , 
          Đỉnh cao trí tuê mơ màng tỉnh
         chưa ?              
                              Thanh Mai ___________________________________________________________________________  
              
       
      Nguyễn Thượng
         Hiền Hỏi Hoa    Nguyễn Thượng Hiền
         qua Tầu , tìm gặp Phan Bội Châu ... hoạt động ...  Sau Phan Bội
         Châu sang Nhật ... thất bại ...  Có lẽ Nguyễn Thượng Hiền
         chán ngán trước cảnh : có những kẻ báo cho mật thám
         bắt đồng chí mình !  Ông vào tu ở một ngôi chùa
         ở Hàng Châu . Chơi rất thân với nhà sư Viên Giác . Người
         Tầu tôn ông là một vị Cao Tăng .             
             HỎI HOA    Hỏi hoa xin mượn mùi hương  Hỏi trăng
         xin mượn gương vàng thử soi  Hỏi non xin mượn đá ngồi  Hỏi sông mượn nước tắm chơi sạch mình       
                                   N.T. Hiền    Hỏi
         trăng trăng chẳng trả lời  Hỏi hoa hoa chỉ mỉm cười làm
         ngơ  Hỏi sông sông lặng như tờ  Hỏi non non đứng trơ
         trơ một mình                        Viên
         Giác Thiền Sư      tôi xin phép hai cụ ăn theo mấy câu
         :    Hỏi sông sông chỉ lững lờ  Hỏi non ngạo nghễ trơ
         trơ một mình  Hỏi trăng nghiêng ngả đầu ghềnh  Hỏi
         hoa xin chút hương trinh hoa cười                 
                               C.D.M.   VỌNG PHU     
          Hỏi người người cứ hững hờ
         ,   Hỏi mây sao lại lững lờ
         ngàn thu .   Hỏi thông sao mãi
         vi vu  ,   Hòi non non nói chinh phu
         chưa về !            
                                        Mailoc 
          Quên Đi xin hưởng ứng       Hỏi hoa khoe sắc
         vì ai   Hỏi em tình cũ đã
         thay lâu rồi   Hỏi mây mây
         hững hờ trôi   Hỏi lòng
         lòng mãi bồi hồi nhớ thương.                              
                       Quên Đi       HỎI- ĐÁP       Hỏi trăng
         xin mượn cây đa   Hỏi sông xin
         mượn thuyền xa chửa về   Hỏi
         mây mượn ráng chiều hè   Hỏi
         em mượn nụ hôn e ấp tình     
          Rằng đa cuội đã mượn rồi 
          Thuyền đà tách bến chở người
         sang sông   Ráng chiều không nhuộm
         trời đông   Nụ hôn em tặng cho
         chồng đã lâu !                            Phương
         Hà ___________________________________________________________________   
       
         NGUYỄN LỘ TRẠCH & NGUYỄN THƯỢNG HIÊN 1. NGUYỄN LỘ TRẠCH    Nguyễn Lộ Trạch con quan tổng đốc Nguyễn Oai , nhưng ông
         không thích đi thi làm quan . Ông thích đọc Tân Văn ( Lương
         Khải Siêu ... ) , thích bàn chuyện thời sự ! Kết giao với những
         chí sĩ , những nhà ái quốc . Ông được mệnh danh là
         Cậu Ấm Tàng Tàng . Ông và Nguyễn Thượng Hiền ... bị các
         quan đại thần gọi là tụi thiếu niên hiếu sự !     
                         THU HOÀI               
               ( bài 1 )    Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm  Thiên Sơn tĩnh lập ảnh sâm sâm  Tiều lâu đoạn giác
         minh sương lãnh  Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm  Thảo
         muội kinh dinh tiên thế nghiệp  Giang hồ ưu ái hủ nho tâm 
         Vạn gia chinh phạt hàn y tận  Sầu sát thu khuê xứ xứ châm                            Nguyễn Lộ Trạch                      THU HOÀI    Ngút mắt
         tiêu điều lá đỏ rơi  Núi sông u ám dạ tơi bời  Tháp canh đứt nối trong sương lạnh  Chiến lũy ma hờn quỷ
         khóc thôi  Đời trước kinh doanh bao vất vả  Hủ nho ôm
         hận biết cùng ai  Nhà nhà đói rét trong tao loạn  Khuê
         phụ phòng không sầu chết người              
                             C.D.M.   Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây : 
               1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA
         BÀI THƠ :                       
         THU HOÀI                                              
           秋懷  Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm                    
         極目蕭條紅葉林,  Thiên Sơn tĩnh lập ảnh
         sâm sâm                  
         千山靜立影森森。  Tiểu lâu đoạn giác minh
         sương lãnh              小樓斷角鳴霜冷,  Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm                  戰壘沉淪哭日陰。  Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp             
         草昧經營先世業,  Giang hồ ưu ái hủ nho tâm                           
         江湖優愛腐儒心。  Vạn gia chinh phạt hàn y tận                         萬家征伐寒衣盡,  Sầu sát thu khuê xứ xứ châm                      
         愁殺秋閨處處砧。                     
         Nguyễn Lộ Trạch                                        
          阮露澤             2. CHÚ THÍCH :            CỰC MỤC : là nhìn mút
         con mắt.         TIÊU SƠ : là Thưa thớt, Lèo
         tèo.         ẢNH SÂM SÂM : là Cái bóng Âm
         U, Mờ Mịt.         TIỂU LÂU : là Lầu Nhỏ, Ở
         đây là Vọng Gác.         ĐOẠN GIÁC : là
         Dứt tiếng Tù Và( thổi khi gác ).         MINH 鳴
         : là Thổi, là Kêu, là Hót, là Gỏ.        
         TRẦM LUÂN : là Chìm Đắm. Ở đây Nghĩa là Bị Che Phủ,
         Mờ Mịt.         THẢO MUỘI : là Buổi Ban Sơ,         HỦ NHO : là Nhà Nho Hủ Lậu, đây chỉ
         là lời nói khiêm nhường.         CHÂM : là
         Tấm Thớt. Ngày xưa dùng lót ở dưới để đập chỉ,
         tơ hoặc quần áo... cho sạch. Đây là cách giặt giũ ngày
         xưa, vì vải vóc ngày xưa rất thô kệt, đọc thơ Đường
         ta hay thấy từ nầy, tiếng ĐẬP( GIẶT ) quần áo hay làm cho người
         ta buồn hoặc nhớ nhà....      
               3. NGHĨA BÀI THƠ :                                      
         THU HOÀI CẢM              Nhìn mút
         con mắt cũng chỉ thấy rừng lá đỏ tiêu điều lèo tèo
         thưa thớt. Ngàn núi đứng yên trong cảnh thâm u mờ mịt của
         mùa thu. Trên vọng gác đã dứt tiếng tù và thổi lên
         trong sương lạnh, và chiến lũy thì mờ mịt như đang khóc
         trong trời thu ảm đạm. Sự nghiệp kinh doanh của đời trước mờ
         mịt như thuở ban sơ. Sông hồ thì như còn ưu ái với
         lòng của kẻ hủ nho nầy. Muôn nhà vì chinh chiến mà  hàn
         Y đã cạn kiệt, nên kẻ trong phòng khuê buồn muốn thúi
         ruột khi nghe tiếng chày giặt áo quần vải vóc vang lên khắp
         nơi ( để gấp rút may thêm áo lạnh gởi ra chiến trường
         ).         
         4. DIỄN NÔM :                     
         Mút mắt tiêu điều rừng lá đỏ,                  
         Đứng yên ngàn núi bóng thâm u.                  
         Gác canh vắng ngắt trong sương sớm,                  
         Chiến lũy mịt mờ lúc sáng thu.                  
         Sự nghiệp cha ông con cháu giữ,                  
         Tấc lòng nho hủ nước sông lưu.                  
         Muôn nhà chinh chiến hàn Y hết,                  
         Tiếng giặt chày vang buồn chiến khu !                                                                         Đỗ
         Chiêu Đức            2.NGUYỄN THƯỢNG HIỀN    Nguyễn thượng Hiền , tự Mai Sơn .
         Đậu Hoàng Giáp . Cha làm quan đại thần , ông có hai bà
         vợ cũng làm quan đại thần . Tưởng đường hoạn lộ
         sẽ cực kỳ hanh thông ! Nhưng không ! Ông đọc tân văn , và
         chỉ thích chơi với những cậu ấm tàng tàng , nhà chí
         sĩ , kẻ đông du , người ở ẩn !             
         KHẤP NGUYỄN KỲ AM    Nhất đổng thiên môn tịch chiếu trầm  Nho y phiêu bạt đáo như câm  Giang sơn phóng dật tài nhân
         bút  Phong vũ bi ca liệt sĩ tâm  Tứ tọa do văn đàm Bắc
         Hải  Cửu thu tằng cộng phỏng Đông Lâm  Ma sa hạp kiếm
         tri thùy tặng  Hồi thủ Nam minh tích vụ thâm         
                           Nguyễn thượng Hiền    phóng
         dịch                   KHÓC KỲ AM    Chiều
         âm u ai khóc bên trời  Bạc áo nhà nho đến thế thôi  Lưu lạc nhân tài bên trời thẳm  Gió mưa chí sĩ hát
         cuồng lơi  Đàm luận nhiều phen không lối thoát  Cao ngâm
         cửa Phật lại buông lời  Mài hoài kiếm sắc trao ai đó  Ngoảnh lại trời Nam tối mịt rồi               
                          C.D.M. ________________________________________________________________  
                  
       
         PHẠM ĐÌNH
         HỔ Cuối tuần xin gởi đến
         bạn một bài thơ thật dễ thương của cụ Phạm Đình
         Hổ, một thi nhân Việt Nam, đọc giải khuây và cũng để
         thân tặng bạn Phạm Đình Lân thân mến của tôi, Thân  Mailoc    Hoài cổ   Nguyên tác:  Phạm Đình Hổ   懷 古  去歲桃花發,  鄰女初學笄。  今歲桃花發,  已嫁鄰家西。         去歲桃花發,  春風何凄凄。  鄰女對花泣,  愁深眉轉低。  
          今歲桃花發,  春草何萋萋。  鄰女對花笑,  吟成手自題。  
          Hoài cổ    Khứ tuế đào hoa phát;  Lân nữ
         sơ học kê.  Kim tuế đào hoa phát;  Dĩ giá lân
         gia tê.         Khứ tuế đào hoa phát;  Xuân
         phong hà thê thê.  Lân nữ đối hoa khấp;  Sầu thâm
         mi chuyển đê.         Kim tuế đào hoa phát;  Xuân
         thảo hà thê thê.  Lân nữ đối hoa tiếu;  Ngâm
         thành thủ tự đề.       Dịch Nghiã :         Cảm nhớ chuyện cũ          Năm
         ngoái hoa đào nở     Cô láng giềng mới học cài
         trâm       Năm nay hoa đào nở,      Cô đã
         lấy chồng nhà láng giềng ở phiá tây       
         Năm ngoái hoa đào nở,    Gió xuân sao lành lạnh    Đứng trước hoa cô láng giềng khóc    
         Buồn quá đôi lông mày sa xuống .             Năm nay hoa đào nở ,  Cỏ xuânsao mà xanh tươi   Đứng trước hoa cô láng giềng tươi cười Thơ
         làm xong tự tay cô viết .   --Bản dịch của MaiLộc--   (1)  Năm ngoái hoa đào nở ,  Em láng giềng bỡ ngỡ
         cài trâm Năm nay hoa đào nở ,  Em lấy chồng nhà ở
         xóm trên .
  Năm ngoái hoa đào
         nở ,  Gió xuân ơi ! sao chở men sầu . Ngồi nhìn hoa rầu
         rầu lệ nhỏ,  Em chau mày biết tỏ cùng ai!    Năm
         nay đào lại nở ,  Cỏ xuân xanh rực rỡ, lay lay.  Trước
         hoa rộn rã lòng ai , Mấy vần thơ ngẫm qua tay em đề.  
          (2)    Năm ngoái hoa đào nở ,  Em mới học cài
         trâm .  Năm nay đào lại nở ,  Bước theo chồng bâng
         khuâng.    Năm ngoái hoa đào nở ,  Gió xuân sầu
         lê thê ,  Ngồi nhìn hoa , lệ nhỏ,  Em chau mày ủ ê
         .    Năm nay đào lại nở ,  Rực rỡ cỏ xuân tươi.  Hoa cười , em hớn hở ,  Qua tay mấy vần thơ .                         Mailoc
         phỏng dịch     Phạm Đình Hổ (chữ Hán: 范廷琥, 1768-1839) tên
         chữ là TùngNiên (松年), BỉnhTrực (秉直), hiệu: Đông
         DãTiều (東野樵), tục gọi là Chiêu Hổ. Ông
         là nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn và nhà
         thơ của Việt Nam ở khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế
         kỷ 19.     Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), người
         làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải
         Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).     Sinh trong một gia đình khoa bảng, cha ông là Phạm Đình
         Dư, đậu cử nhân, làm Hiến sát Nam Định, thăng Tuần
         phủ Sơn Tây, rồi cáo quan về ở phường Hà Khẩu
         (Hàng Buồm) năm Giáp Ngọ (1774).     Ngay từ nhỏ,
         Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: Làm người
         con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng
         ở đời...[1]. Tuy học & đọc nhiều sách (năm 9 tuổi,
         ông đã họcsách Hán thư), nhưng ông chỉ đỗ đến sinh
         đồ (tức tú tài) vào khoảng cuối đời Chiêu
         Thống.     Gặp buổi loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống cho người
         chạy sang cầu viện nhà Thanh, rồi triều đình Lê Trịnh sụp
         đổ, nhà Tây Sơn lên cầm quyền... Suốt quãng
         thời gian này, Phạm Đình Hổ sống đời cơ hàn dạy
         học ở quê.     Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi
         phục lại việc học hành thi cử; ông có đi thi Hương ba
         lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy
         học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng
         Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách.
         Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân
         Hương.     Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu ông
         và Phan Huy Chú vào Huế đợi mệnh cất dùng, nhưng
         vì ốm ông không vào được.     Năm Tân
         Tỵ (1821), vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy, Phạm Đình
         Hổ ở tuổi 53, được vời ông đến hỏi học vấn,
         thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc. Lại khuyên hễ
         có những sách tiền triều, sách trước thuật... nên đem
         tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách do mình biên soạn, bèn được
         triệu vào Huế làm Hành tẩu Viện Hàn lâm, được
         ít lâu, ông xin từ chức.  
           Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu ông, cho làm Thừa
         chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm Tế tửu Quốc
         Tử Giám. Năm sau, xin nghỉ bệnh
         rồi từ chức. Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị
         giảng học sĩ.     Năm Nhâm Thìn (1832), ông xin
         về hưu luôn. Năm Kỷ Hợi (1839), Phạm Đình Hổ mất,
         thọ 71 tuổi.    NHỚ CHUYỆN XƯA  Năm trước, hoa đào chớm nở Em vừa bẽn lẽn cài trâm Năm nay hoa đào rực rỡ Thì
         em cất bước theo chồng   Năm
         trước hoa đàochớm nở
 Gió
         xuân lành lạnh vừasang Nhìn hoa,
         mi sầu lệ ứa Cong cong mày trĩu hai hàng.   Năm nay hoa đào lại nở
 Cỏxuân mơn mởn xanh tươi Nhìn hoa, tủm tỉm em cười Trải nỗi niềm vui, nắn bút.               
         Phương Hà phỏng dịch    Đỗ
         Chiêu Đức cũng xin được tham gia... NHỚ XƯA Năm ngoái hoa đào nở, Cô hàng xóm cài trâm. Năm nay hoa đào nở, Cô em đã lấy chồng !
  Năm
         trước hoa đào nở, Gió xuân vờn hây hây. Cô
         bé sầu hoa khóc, Ủ dột khép đôi mày !   Năm nay hoa đào nở, Mơn mởn cỏ xanh
         tươi, Thơ ngâm thành  tay chép, Cô em nhoẻn miệng cười
         !                                    Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.    Nhớ  Xưa  Năm trước đào vừa nở 
          Em đến tuổi trâm cài   Năm nay hoa đào rộ   Nàng lấy chồng thôn tây       Năm qua đào
         mới nở   Xuân về lạnh tái
         tê   Nhìn hoa nàng đổ lệ 
          Sầu trĩu nặng đôi mày 
              Năm
         nay đào khoe sắc   Cỏ mượt
         đón xuân tươi   Cùng
         hoa em mỉm cười   Khe khẻ đề
         đôi câu.                     
         Quên Đi       
 NHỚ XƯA  
 
 
 Năm
         ngoái hoa đào nở , 
 
 
 Em
         mới học cài đầu . 
 
 
 Năm
         nay hoa đào nở , 
 
 
 Nhà
         người em làm dâu . 
 
 
   
 
 
 Năm
         ngoái hoa đào nở , 
 
 
 Man
         mác gió xuân sầu . 
 
 
 Nhìn
         hoa em nức nở , 
 
 
 Tê
         tái , đôi mày chau . 
 
 
   
 
 
 Năm
         nay đào lại nở , 
 
 
 Xanh
         tươi cỏ rực màu . 
 
 
 Em
         cười xuân đang độ , 
 
 
 Tay
         dệt mấy vần mau . 
 
 
  
                       Thanh Mai  
 
 
  
                      Cali 7-1-14 
 
 
   
 
 
 Nhớ
         Xưa 
 
 
 Năm rồi đào nở đầy
         sân 
 
 
 Em vừa độ tuổi phân
         vân trâm cài 
 
 
 Năm nay đào
         nở hồng vai 
 
 
 Em ra riêng lấy chồng
         ngoài thôn tây 
 
 
 Năm rồi đào
         nở sầu rây 
 
 
 Gió xuân lành
         lạnh chau mày cô em 
 
 
 Trước
         hoa rơi giọt lệ mềm 
 
 
 Cô đơn
         em thả buồn lên mái lầu 
 
 
 Năm nay
         đào nở thắm màu 
 
 
 Nụ cười
         em nở trên đầu cỏ xuân 
 
 
 Hồn say
         thơ thả mấy vần 
 
 
 Niềm vui
         mở cửa lâng lâng gió lùa 
 
 
  
            Trầm Vân 
 
 
   
 
 
 NHỚ
         LẠI NGÀY CŨ 
 
 
   
 
 
                         
                 Mùa trước,cành đào hoa nở rộ    
                                     Nhà bên,cô
         gái học cài tram                        
                 Năm nay,đào nở thêm lần nữa      
                                   Em đã theo chồng
         ở xóm trên.                        
                   Cành đào năm trước đầy hoa nở                                 Ngọn
         gió Xuân sang thổi lạnh lung                  
                       Cô gái láng giềng lau ngấn lệ  
                                       Đôi mày ủ
         rủ mắt rưng rưng                      
                           Năm nay,cành đào hoa lại nở                                 Ngọn
         cỏ xuân về trổ sắc tươi                
                         Cô láng giềng xưa đang  hớn
         hở                                
         Vần thơ cô viết đón xuân đời  
      
                                            
            SONG QUANG                                                               
                                                
      
       CHÍ SĨ TRƯƠNG GIA MÔ 
  Bản
         dịch: Chân Diện Mục, Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Kim Oanh, Quên Đi   
  Trương
         gia Mô con quan đại thần Trương gia Hội . Ông chịu ảnh hưởng
         của phong trào Tân Văn ( Lương Khải Siêu ... ) và ảnh hưởng
         Nga Nhật chiến tranh - Nhật thắng Nga . Ông bỏ gia đình ở Phan Thiết
         vào Nam hô hào Đông Du ( lúc đó phong trào Đông Du ở
         Miền Nam mạnh hơn ở Trung Bắc ) . Phong trào tàn dần , ông uống
         rượu giải buồn nhưng lời thơ luôn đượm thẫn tình
         nhớ nước thương dân . Cuối cùng ông buồn chết ở miền
         Tây Nam Việt ! 
  ĐĂNG CHIÊM THÀNH CỔ THÁP    Lâm Ấp Khu Liên thác quốc cơ  Thế lực lăng lê
         cái hải thùy  Chỉ nhân bất thiện sự thời biến  Cánh
         sử Tam Phan cận kiết di    Di tích như kim duy cổ tháp  Thảo
         thụ tiêu điều . thu táp táp  Giang san y cựu khách đăng lâm  Độc điếu tàn dương hoàn ẩm khấp         
                              Trương gia Mô    phóng
         dịch              CỔ THÁP CHIÊM THÀNH    Từ
         xưa dựng nước nơi đây  Hùng tâm bám biển đêm
         ngày lo toan  Ấy ai hèn yếu chóng quên  Để cho sông núi
         lặng chìm vào mơ  Đền thiêng còn đó trơ trơ  Ruộng nương rừng thẳm bây giờ tiêu tan  Lên cao nghẹn tủi
         khóc than  Anh hùng đâu hết , chiều tàn hỏi ai     
                                        C.D.M. 
                          GỬI NGƯỜI TÌNH    Văng
         vẳng canh khuya mấy tiếng gà  Trong chiêm bao luống nhớ nhau mà  Đá vàng một mực bền sau trước  Non nước ngàn trùng
         thiệt thẳm xa  Tháng đợi năm chờ thương nỗi đó  Ngày lo đêm tính ngán cho ta  Trời đâu có phụ người
         ngay thảo  Nam Bắc rồi đây cũng một nhà         
                                 Trương gia Mô      xin kính họa                         
          ĐỢI    Lòng trống không ngồi đợi tiếng gà 
         Hơi đêm quấy nhiễu mãi nhau mà  Giang san diễu cợt người
         đi trước  Non nước như đùa con cháu xa  Điên đảo
         người ngây tin theo bợm  Thẹn thùng vô kế tủi thân ta  Bốn phương tao nhiễu nhiều mây bụi  Một xó trời Nam nhớ
         nỗi nhà                             
                   C.D.M.     THU TRỰC
         CẤM CUNG    Ảm vân thảm đạm tỏa trường không  Nguyệt
         sắc vô quang thu sắc lung  Khổng tước điện đầu đề
         tế vũ  Ngô đồng tri giác lạc sơ phong  Viễn biên vũ
         hịch lai hà cấp  Đại nội sanh ca lạc vị chung  Hàn thấu
         trùng liêm miên bất đắc  Tịch liêu độc đối nhất
         đăng hồng                           
           Trương gia Mô      dịch nghĩa :    Mây mù buồn
         thảm phủ khắp không gian  Trăng tối mù , sắc thu lồng  Chim
         công ở đầu điện kêu dưới mưa nhỏ  Lá ngô đồng
         rơi trước gió chớm thu  Ngoài biên hịch về việc binh bay
         về tới tấp  Trong cung ca múa vui vầy chưa dứt  Lạnh thấu
         qua nhiều lớp rèm , ngủ không được  Một mình cô đơn
         đối diện ngọn đèn hồng       dịch thơ   
                      MÙA THU VÀO CUNG    Mây mù thảm
         đạm không trung  Trăng treo èo uột thu lồng bóng ma  Đầu
         cung chim nghẹn mưa sa  Lá rơi lác đác như là tiễn ai  Ngoài biên tới tấp sớ bay  Trong cung hoan lạc đêm dài lại
         đêm  Trước rèm lạnh thấu vào tim  Mình ta bạn với
         ngọn đèn âm u                         
               C.D.M.          MÙA THU VÀO CUNG  
          Trời u ám mây giăng bàng bạc
         ,   Đêm thu lồng , mờ
         nhạt trăng thâu .   Đầu
         cung tước khóc mưa ngâu .   Ngô đồng lả tả gió sầu chớm
         thu .   Sớ khẩn từ
         biên khu tới tấp ,   Trong
         hoàng cung tất bật lạc hoan ,   Xuyên rèm gió buốt tâm can , 
          Một mình đối bóng đèn
         vàng suốt đêm .    
                                          Mailoc phỏng dịch                             
                    Cali  6-14-14           MÙA THU VÀO CUNG  
          Trời u ám mây giăng bàng bạc
         ,   Đêm thu lồng , mờ
         nhạt trăng thâu .   Đầu
         cung tước khóc mưa ngâu .   Ngô đồng lả tả gió sầu chớm
         thu .   Sớ khẩn từ
         biên khu tới tấp ,   Trong
         hoàng cung tất bật lạc hoan ,   Xuyên rèm gió buốt tâm can , 
          Một mình đối bóng đèn
         vàng suốt đêm .    
                                          Mailoc phỏng dịch                           
                      Cali  6-14-14   MÙA THU NƠI CUNG CẤM     
          Mây mù ảm đạm khắp không gian 
          Thu nhuộm trời mây, bóng nguyệt tàn 
          Mưa bụi giăng mờ, chim cất tiếng 
          Ngô đồng rơi ngập, gió ngân đàn 
          Biên cương, hịch đến bao dồn dập 
          Cung điện, tiệc bày vẫn rộn vang 
          Lạnh thấm qua rèm không ngủ được 
          Cô đơn đối diện ngọn đèn
         vàng.                
          Phương Hà phỏng dịch  Mùa Thu Nơi Cung Cấm     Mây xám buồn
         phủ không gian  Sắc thu lồng lộng trăng man man sầu  Mưa sa chim khóc
         điện đầu  Ngô đồng lá đỗ úa nhầu bi ai  Tới
         tấp biên ải tin bay  Trong cung hoan lạc hết ngày lại đêm 
         Chập chờn gió buốt xuyên rèm  Cô đơn đối bóng
         ngọn đèn hồng soi     Kim Oanh   Thu Nơi Cấm Cung   Không gian giăng kín xám mậy sầu   Dáng thu thơ mộng bóng trăng đâu   Mưa nhẹ đầu cung chim công gáy   Ngô đồng nhánh ngọn gió đùa bay   Tin giặc ngoài biên về vội vã   Trong cung vọng mãi tiếng đàn ca   Gió lạnh xuyên rèm ngăn giấc mộng 
          Một mình thao thức với đèn hồng. 
                                        
         Quên Đi      
 
 
         
            Giang thiên không độc lập             Sửa
         áo vào kinh kiếm chút chi 
                    Lò dò ngần ngại đến nha ty             Ai ngờ lương mỏng như
         tờ giấy             Mặt mũi soi gương nào thấy tệ             Mà sao nhắm mắt chỉ
         sầu bi             Ngẩng
         đầu , chỉ núi , quê ta đó             Về quách đi thôi luyến tiếc gì   
                                            
          C.D.M.   
  Đỗ
         Chiêu Đức xin hưởng ứng với các phần sau đây : 
                (1). TIỂU SỬ TÁC GIẢ :           Trương Gia Mô (1866-1929) hiệu Cúc Nông,
         tên tự lúc đầu là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản,
         biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế, còn được
         gọi là Nghè Mô; là sĩ phu yêu nước, quan triều Nguyễn,
         và là nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ 20. 
                                                  
                   (2).
         Bản chữ Hán Cổ của bài thơ :            秋值禁宮               
          THU TRỰC CẤM CUNG       黯雲慘淡鎖長空,  
         Ảm ân thảm đạm tỏa trường không,    月色無光秋色籠。  
         NguYệt sắc ô quang thu sắc lung.    孔雀殿頭啼細雨,  
         Khổng Tước điện đầu đề tế ũ,    梧桐枝角落初風。  
         Ngô đồng chi giác lạc sơ phong.    遠邊武檄來何急,  
         Viễn biên ũ hịch lai hà cấp,    大內笙歌樂未終。  
         Đại nội sanh ca lạc ị chung.    寒透重簾眠不得, 
          Hàn thấu trùng liêm miên bất đắc.    寂寥獨對一燈紅。 
          Tịch liêu độc đối nhất đăng hồng.                   張家模                               Trương
         Gia Mô       (3). NGHĨA BÀI THƠ :                            
          VÀO CUNG NHẰM LÚC MÙA THU          Mây xám
         buồn bã giăng giăng che kín cả không gian, ánh trăng mờ nhạt
         làm cho sắc thu thêm mờ ảo mông lung. Ở đầu cung điện, chim
         khổng tước đang cất tiếng gáy ( Chim Công khi bị lạnh chân
         thì sẽ cất tiếng gáy , tôi sẽ kể một giai thoại văn chương
         về việc nầy sau. ) Trên đầu cành cây ngô đồng lá đã
         rụng vì gió thu bắt đầu thổi. Nơi biên tái xa xôi, hịch
         của võ quan đã bay về rất gấp. Nhưng cuộc vui đờn ca hát
         xướng trong nội cung còn chưa kết thúc. Hơi thu lạnh đã thấu
         qua mấy lớp rèm châu khiến cho không thể nào ngủ được,
         cô tịch lẻ loi một mình với ngọn đèn khi mờ khi tỏ. 
              CHÚ
         THÍCH :     * TỎA : là Khóa. Mây xám KHÓA cả không
         gian, có nghĩa là PHỦ KÍN cả không gian đó.     * TRI
         GIÁC bản của Thầy. Em nghĩ nó phải là CHI GIÁC 枝角:
         là CÀNH GỐC, có nghĩa là Đầu Cành đó. để đối
         với ĐIỆN ĐẦU là Ở đầu cung điện.     * HỒNG
         ĐĂNG : là Đèn Đỏ, có nghĩa là đèn không còn
         sáng nữa. Màu đỏ là chỉ đèn khi mờ khi tỏ. 
              DIỄN
         NÔM :                        
          LỤC BÁT              Mây mù sầu
         khóa không gian,             Trăng mờ lơ
         lửng thu càng mông lung.             Chim công
         gáy, mưa lạnh lùng,             Ngô
         đồng rơi rụng mịt mùng gió thu.            
         Hịch ngoài cấp bách biên khu,            
         Sanh ca đại nội vui thu chưa tàn.            
         Lạnh vào rèm, ngủ sao đang ?            
         Đèn tàn chiếc bóng bàng hoàng năm canh.             Đỗ
         Chiêu Đức.  
       
         VÀI BÀI THƠ
         CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG Cùng Bạn
         ,    Xin chuyển đến các bạn
         vài bài thơ của Trần nhân Tông đọc giải khuây, và
         cũng để giảm bớt stress về tình hình đất nước
         .   Không nói bạn cũng đã
         biết lịch sử oai hùng của Đại Việt  đã ba lần chống giặc ngoại xâm phương
         bắc, bảo vệ toàn vẹn giang sơn đất nước.  Ngài không
         những là vị vua anh minh thao lược, mà còn là một thiền sư
         Tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử nữa. Bài thơ nào của
         Ngài cũng nhuốm mùi thiền thật thâm thúy .   Chúc các bạn cuối tuần an vui    Thân mến    Mailoc 
               
                         Đăng Bảo Đài sơn 
 
  
            |            Ðịa tịch đài
         du cổ,  
 
    Thời lai xuân   vị thâm.  
 
    Vân sơn tương   viễn cận.  
 
    Hoa kính bán   tình âm.  
 
    Vạn sự thủy   lưu thủy,  
 
    Bách niên tâm   dữ tâm.  
 
    Ỷ lan hoành   ngọc địch,  
 
    Minh nguyệt   mãn hung khâm. 
 
  
            |      
 
                        
            Trần Khâm ( Trần nhân Tông ) 
 
 
 Nơi
         tịch mịch đài trông thêm cổ 
 Theo
         tiết trời xuân độ chưa
         lâu . 
 Núi mây lồng lộng
         xa gần , 
 Đường
         hoa nửa rợp nửa vàng nắng
         xuyên . 
 Muôn việc đời
         triền miên nước chảy , 
 Cuộc
         trăm năm lòng mãi nhủ lòng . 
 Lan
         can sáo ngọc tay nâng , 
 Ánh
         vàng đầy ngực một vầng
         trăng trong . 
 
 
                                            Lạng
         Châu vãn cảnh 
 
 
             
           ( Trần Nhân Tông ) 
 
 
         | 
                   Cổ
         tự thê lương thu ái   ngoại,  
 
 
    Ngư thuyền   tiêu sắt mộ chung sơ.  
 
 
    Thuỷ minh sơn   tĩnh bạch âu quá,  
 
 
    Phong định   vân nhàn hồng thụ sơ. 
 
 
  
            |         
 
 
 
 Chùa cổ lạnh , trời thu
         sương khói , 
 
 
 Quạnh thuyền câu chuông tối
         xa ngân . 
 
 
 Nước trong núi lặng chim âu  
 
 
 Gió im lá đỏ lâng lâng
         mây trời .  
 
 
 
 
 
 
 
 
 Bán song đăng ảnh
         mãn sàng thư , 
 
 
 Lộ trích thu đình
         dạ khí hư . 
 
 
 Thụy khởi
         châm thanh vô mịch xứ , 
 
 
 Mộc tê hoa thượng
         nguyệt lai sơ . 
 
 
                             
         Trần Nhân Tông  ( Trần
         Khâm 1258-1308) 
 
 
 
 
 Nửa cửa sổ bóng
         đèn soi giá đầy sách , 
 
 
 Khí trời đêm loãng dán
         những giọt sương trong sân . 
 
 
 Ngủ dậy nghe tiếng
         chày không biết từ đâu , 
 
 
 Trên cây hoa quế trăng mới
         mọc . 
 
 
 
 
 
 
 Đèn chiếu qua song giá
         sách đầy , 
 
 
 Sương thu ,sân trước
         dưới trời mây . 
 
 
 Thoảng nghe một
         tiếng chày khua động , 
 
 
 Ánh sáng trăng non chiếu
         ngọn cây . 
 
 
 
 
 Qua song giá sách ánh đèn soi , 
 
 
 Đêm mát ngoài hiên móc trắng
         ngời . 
 
 
 Tỉnh giấc chày ai đâu
         vẳng lại , 
 
 
 Trên chùm hoa quế nguyệt
         vừa khơi . 
 
 
                  
                     Mailoc    ___________________________________________________________________________________________  
 
 
 
 
 
 
  
       
      Giang thôn
         thu vọng    Nguyên tác: Bùi tông Quán   Bản dịch: Mailoc, Quên Đi, Đỗ Chiêu Đức,
         Phương Hà,
         Song Quang ___________________________________________________________________________________________________________________ 
              Cùng Bạn,   Gần cuối tuần , xin hân hạnh chuyển đến bạn
         một bài thơ của Bùi Tông Quán  . Bức tranh mùa thu nơi
         một xóm nhỏ ven sông mà thi nhân diển tả đẹp vô cùng
         , khiến người đọc cảm thấy như chính ta đang bâng khuâng
          ngắm cảnh  : một mình khoác áo đứng lặng nhìn sắc
         thu vàng mênh mông trước mắt , với nhạn bay từng đàn
         , với những cánh buồm xa thấp thoáng , với mái chùa bên khe
         vắng ẩn mình trong đám lá đỏ , với mái nhà
         bên hàng trúc có làn khói vương , cùng cánh đồng
         xanh lúa gợn xanh rì . tất cả khiến tác gỉa mải mê , mà
         ta cũng  mơ màng ngẩn ngơ trước cảnh thu trong tưởng tượng
         . Bức tranh thu của thi nhân phác họa đẹp thật !   Bùi tông Quán hiệu là Thủy Hiên,
         làm quan dưới thời vua Trần anh Tông  . Tác phẩm hiện còn
         chỉ mấy bài thơ .   Xin chúc tất
         cả an vui   Mailoc                |     Giang thôn thu vọng 
              
                                              
              Bùi tông Quán     |         | 
            Phi y độc
         tự lập giang thiên,     Thu sắc
         thuỳ tương đáo nhãn   biên.     Lữ
         nhạn hàng hàng qua biệt phố,     Khách phàm điểm điểm lạc
         tình thiên.     Khê đầu Phật
         tự y hồng diệp,     Trúc
         ngoại nhân gia cách đạm yên.  
           Nhật mộ thuỳ tri ngưng trữ
         xứ,     Lục vân ám dã khán
           phong niên.         Bản
         dịch của   Mailoc                                                                                
           Ven   sông một bóng áo bay
         bay ,    Ai   rắc thu
         vàng trước mắt ai .    Nhạn lướt  hàng hàng
           trên bến vắng ,    Buồm dong lớp lớp 
         giữa trời say .    Đầu khe chùa ẩn cây hồng
         nhuộm ,    Sau   trúc
         nhà chìm khói xám xây .    Chiều
         xuống có người còn đứng ngắm
         ,    Đồng xanh lúa
         gợn gió cùng mây .                               
           Mailoc      
                                         
           Cali 6-6-14          |    
                Bản dịch:
         Quên Đi     裴宗灌
         - Bùi Tông Quán (Việt Nam)          江村秋望             Giang
         Thôn Thu Vọng       拂衣獨自立江阡   Phất
         y độc tự lập giang thiên   秋色誰將到眼邊
           Thu sắc thuỳ tương đáo nhãn biên   旅雁行行過別浦   Lữ nhạn hàng
         hàng quá biệt phố   客帆点点絡晴天  
         Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên   溪頭佛寺依紅葉   Khê đầu phật
         tự y hồng diệp   竹外人家隔淡煙
           Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên   日暮誰知凝佇處   Nhật mộ thùy
         tri ngưng trữ xứ   菉雲暗野看豐年  
         Lục vân ám dã khán phong niên.     
          Dịch Nghĩa:     Ngắm
         Thu Nơi Xóm Ven Sông    Áo phất phơ một mình
         đứng ở ven sông  Ai đem vẻ đẹp của mùa thu đến trước
         mắt  Chim nhạn từng hàng bay đi qua bến sông  Cánh buồm khách
         từng chấm giữa trời quang đãng  Nơi đầu khe ngôi chùa
         phật tựa vào đám lá hồng  Ngoài bụi tre nhà dân
         chúng bị che bởi khói mờ  Trời đã về chiều ai biết
         được ta đứng lặng rất lâu nơi đây  Đám mây
         xanh tuy che tối nhưng vẫn thấy cánh đồng rộng được mùa    Dịch Thơ:   Ngắm
         Thu Nơi Xóm Ven Sông    Một mình khoát
         áo đứng ven sông  Trước mắt màu thu đẹp cả
         lòng  Nhạn xếp từng hàng ngang bến cũ  Buồm gương bao
         cánh giữa trời trong  Đầu khe chùa phật nương cây rậm  Cạnh trúc nhà dân ẩn khói lồng  Lặng ngắm cả ngày
         ai có biết  Xanh trời ruộng trúng chẳng hoài công                                           Quên Đi          
                 Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây : 
                (1). Đôi hàng về Tác
         giả :            Bùi
         Tông Quán (chữ Hán: 裴宗瓘), có sách chép là Bùi
         Tông Hoan (裴宗驩), hiệu: Thủy Hiên (có sách chép là
         Thúy Hiên), không rõ năm sinh và năm mất; là nhà thơ Việt
         Nam thời nhà Trần. Ông chỉ lưu lại 4 bài thơ bằng chữ Hán. 
         Giang Thôn Thu Vọng - 江村秋望 là một trong 4 bài còn lại
         đó.         (2). Bản chữ
         Hán cổ của bài thơ :      
         江村秋望            GIANG THÔN THU VỌNG 
            披衣獨自立江阡, 
         Phi Y độc tự lập giang thiên,   秋色誰將到眼邊。 
         Thu sắc thùy tương đáo nhãn biên.   旅雁行行過別浦, 
         Lữ nhạn hàng hàng qua biệt phố,   客帆點點落晴天。 
         Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên.   溪頭佛寺依紅葉, 
         Khê đầu phật tự Y hồng diệp,   竹外人家隔淡煙。 
         Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên.   日暮誰知凝佇處, 
         Nhật mộ thùy tri ngưng trữ xứ ,   綠雲暗野看豐年。 
         Lục vân ám dã khán phong niên.     (3). CHÚ THÍCH :      1. PHI Y hay PHẤT
         Y gì cũng đều có nghĩa là KHOÁT ÁO LÊN MÌNH hoặc
         LÊN VAI, tức là mặc áo mà không có gài nút đó
         ! Ở đây chắc Tác Giả khoát ÁO TƠI của ngày xưa là
         ÁO VỐN KHÔNG CÓ NÚT.     2. ĐỘC TỰ : là Một
         mình " ên ".     3. THÙY TƯƠNG : là AI ĐEM ( Thu sắc
         : là Hương sắc, là cái VẺ của mùa thu ).     4. LỮ
         NHẠN : Lữ là Lữ Hành. Lữ Nhạn là chỉ Đàn Nhạn bay
         đến nơi xa.     5. BIỆT PHỐ : là bến khác, Bến nước
         xa hơn.     6. KHÁCH PHÀM : là Thuyền buồm của khách ( ai
         đó ) đi.     7. TÌNH THIÊN : là Trời Quang Mây Tạnh,
         Nắng ráo.     8. KHÊ ĐẦU : là ở Đầu Khe, túc là
         Đầu SÔNG đó.     9. Y : là Nương tựa, nhưng Y HI 依稀
         là THẤP THOÁNG, là Thoang Thoảng, là Mơ Hồ.     10.
         NHẬT MỘ : là Trời Chiều.     11. NGƯNG TRỮ : là Đứng
         lặng rất lâu, Đứng Lặng Thinh.     12. XỨ : là Nơi, Chốn
         , Chỗ.     13. LỤC VÂN : là Mây có màu xanh lục.     14. ÁM DÃ : DÃ là DÃ NGOẠI là Ngoài Đồng
         Trống. ÁM DÃ là Cánh đồng đã tối lại trong trời
         chiều.     15. PHONG NIÊN : là Năm Được Mùa, Trúng Mùa. 
                (4).
         NGHĨA BÀI THƠ :                                       
         NGẮM THU Ở XÓM VEN SÔNG            
         Khoác áo lên vai đứng một mình bên bờ sông, bạn sẽ
         thấy như là ai mang cái hương sắc của mùa thu đến trước
         mắt của mình vậy. Hãy nhìn kia, từng hàng từng hàng chim
         nhạn đang bay về bến nước khác, và xa xa những cánh buồn
         khách từng chấm từng chấm thấp thoáng dưới nắng chiều.
         Trên đầu khe một kiểng chùa Phật đang lẫn khuất trong rừng
         lá đỏ, và sau lũy tre làng mấy nóc nhà dân ẩn hiện
         trong làn khói nhạt mờ. Giữa trời chiều bãng lãng ngẩn
         ngơ không biết là mình đang đứng ở đâu đây , Mây
         đã ngã màu xanh, cánh đồng cũng đã mờ tối, nhưng
         vẫn thấy được sự được mùa trong năm.         (5). DIỄN NÔM
         :                    
         Khoát áo bờ sông cảm xúc nhiều,               
         Ai đem thu sắc trải đìu hiu.               
         Nhạn bay lớp lớp sang bờ khác,               
         Buồm chạy xa xa dưới nắng xiêu.               
         Thấp thoáng cửa chùa trong lá đỏ,               
         Chơi vơi làn khói quyện lam chiều.               
         Trời hôm đứng lặng nhìn mây xám,               
         Đồng tối được mùa bớt tịch liêu.                                                                   Đỗ Chiêu Đức.  
 THU VỀ TRÊN XÓM VEN SÔNG          Khoác hờ chiếc áo, bước
         ra sông   Ngắm cảnh trời thu nhuộm
         khoảng không   Đàn nhạn hàng
         hàng qua xứ lạ   Cánh buồm thấp
         thoáng giữa mênh mông   Đầu
         khe, chùa lẫn rừng phong đỏ   Sau
         trúc, nhà vương bụi khói hồng   Ngơ ngẩn trong chiều buông bãng lãng    Vụ mùa hứa hẹn trĩu trên đồng.                Phương
         Hà phỏng dịch               
                               VÀO
         THU NƠI BẾN SÔNG           
                                           
         Một mình khoát áo đứng ven sông                                    
         Hương sắc vào thu khiến chạnh lòng                                    
         Chim nhạn từng đàn bay chốn khác                                    
         Cánh buồm ẩn hiện giữa chiều loang                                    
         Đầu khe Phật tự chen rừng lá                                    
         Dưới xóm nhà dân khói tỏa lồng                                    
         Đứng lặng ngẩn ngơ ai biết nhỉ ??                                    
         Được mùa lúa trổ hạt xanh đồng                  
                                            
              SONG QUANG     ____________________________________________________      
         
       
      VỌNG
         PHU THẠCH Nguyên tác: Nguyễn
         Du - Cao Bá Quát Dịch / Phỏng
         dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
         Quên Đi, Phương Hà 
 ____________________________________________________________________________________________    Cùng Bạn . Lên internet , nhân đọc được
         bài thơ Vọng Phu Thạch của đại thi hào Nguyễn Du và Cao bá
         Quát sáng tác , tôi thích quá , cứ đọc đi đọc
         lại trầm ngâm nghĩ ngợi  . Cùng đứng trước cảnh núi
         non hùng vĩ ,trước một tảng đá có hình thù một
         thiếu phụ ôm con  , cả hai đều xúc động bồi hồi , nhưng
         mỗi người có một cái nhìn riêng biệt .Với Cao bá
         Quát , với bản chất đa tình lãng mạn , ông thương xót
         cho người phụ nữ phải phấn nhạt môi phai , thương cho lệ máu
         chan hòa, thương cho ngàn ngàn năm hiu quạnh tóc tai rũ rượi
         rong rêu làm bạn cùng trờimây trăng gió . Còn cụ Tiên
         Điền cũng xót thương cho một người đằn bà xa chồng,
         quên hết ái ân , ngàn năm trơ trọi giữa rêu phong mưa dầm
         . Đặc biệt Nguyễn Du ca ngợi tuyết trinh cuả người phụ nữ
         như một áng văn còn đậm nét trên rong rêu , ông ca ngợi
         cương thường đạo lý của người đàn bà Á Đông
         được thắm nhuần gia phong nho giáo .. Còn Cao bá Quát ông
         ca ngợi cái chung tình của người vợ , nó sắt son , nó
         chung thủy đời đời như Trời và Đất ; trời có già
         , đất có cỗi em vẫn một lòng cùng chàng .   Tôi
         xin chuyển dến các bạn một bài ngắn trên internet xem chơi . Tôi
          xin Thầy Đồ nhà ta , Đỗ Chiêu Đức nhín chút thì
         giờ qúi báu dịch nghiã giùm hai bài thi trên ,  tôi cũng
         xin các thi hữu góp vần thêm như thường lệ để cho góc
         Việt Thi chúng ta thêm phong phú .  Xin đa tạ . Thân Mailoc                  
                                               VỌNG
         PHU THẠCH Độc lập sơn đầu đệ nhất phong Chu điêu phấn tạ vị thùy dung Âm thư cữu đoạn nhân hà xứ Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng       Huyết lệ yên hòa
         minh nguyệt thấp,       Hương hoàn vân tích lục đài
         phong.     Thiên hoang địa
         lão tình do tạc,   Dạ dạ xao tàn bích đổng chung.
  CAO BÁ QUÁT                                                                    HÒN
         VỌNG PHU                                                            Sừng
         sửng đứng, đầu non hóa đá                                                         
         Cũng vì ai nhạt má phai son !                                                         
         Người đi , tin vắng, mõi mòn ,                                                         
         Biển trời thăm thẳm nước
         non nghìn trùng .                                                         
         Hòa lệ máu,  khói lung linh nguyệt ,                                                         
         Tóc tai dầm rêu biếc mây giăng .                                                         
         Trời già đất cỗi , tình chung ,                                                 
                 Đêm đêm động vắng
         hồi chuông vang rền .                                                                                               
          Mailoc phỏng dịch                                                                    VỌNG
         PHU THẠCH  Thạch da? Nhân da ? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu
         thiên bách xuân. Vạn kiếp điếu vô vân vũ(*) mộng,
 Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,      Đài triện trường
         minh nhất đoạn văn. Tứ
         vọng liên sơn diêu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện nhi luân.                                  NGUYỄN
         DU Vọng
         Phu Thạch : Bài
         nầy không thấy chép trong Bắc hành
         Tạp Lục Mà chỉ chép
         trong Thanh Hiên thi Tập . Như vậy 
         là Nguyễn Du tả núi
         Vọng Phu ở Lạng
         Sơn khi đi nghênh tiếp
         sứ thần
         nhà Thanh sang sắc phong cho Gia Long , mùa đông
         năm Qúi Hợi (1804)                                 
                                 NÚI
         TRÔNG CHỒNG                                                           Đá
         hay người là ai chẳng biết ,                                                        
         Đứng một mình mải miết
         rêu phong .                                   
                              Mây
         mưa (*) một thoáng xa xăm  ,                                                        
         Tiết trinh một thuở tấm
         thân trắng ngần .                                                         
         Lệ không ngớt , mưa dầm
         thu rét ,             
                                                     Rêu
         phong còn hằn nét áng thơ .                                                         
         Bốn phương núi biếc vô bờ ,                                                         
         Cương thường nhi nữ đạo
         thờ riêng mang .                                                                                                
         Mailoc phỏng dịch                            
         (*)Vân vũ : thần nữ ở núi
         Vu Sơn ,làm mây buổi sáng , làm mưa
         buổi chiều .                                   
                 Về sau người ta
         dùng điển nầy để chỉ chuyện
         tình ái     Tại Đông phương,
         hình ảnh người vợ trông chồng hóa đá, được các
         dân tộc cụ thể hóa qua hình ảnh Núi Vọng Phu như ở Trung
         Quốc, Nam Dương, Việt Nam... Ở Nam dương,
         tại đảo Bornéo, có núi Mont Kinabalu (4.095m) là Hòn Vọng Phu nổi
         tiếng tại vùng Đông Á (Mã Lai-Nam Dương-Brunei)    Ở Việt
         Nam, có hai địa danh được gọi là Hòn Vọng Phu : - Một ở tỉnh Lạng Sơn - Nàng Tô Thị    -Một ở
         tỉnh Bình Định - Núi Bà   Từ hình ảnh đau thương và cảm động
         của người chinh phụ chờ chồng hóa đá này, các văn,
         thi sĩ thể hiện qua nhiều hình thái: Nhạc, Thơ, Tuồng... làm
         phong phú và đa dạng các bộ môn văn học nghệ thuật nước
         nhà     1.- Về âm nhạc, nhạc sĩ LÊ THƯƠNG (1914-1996-Hình phải),
         vốn từ miền Bắc vào ở trong miền Nam rất sớm,năm1941. Ông
         là một trong các nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhac Việt
         Nam, từ thập kỷ 30 của thế kỷ trước. Theo tài liệu viết
         của bác sĩ Phạm Anh Dũng  thì khoảng năm 1943, tại tỉnh Bến
         Tre, ông viết bản nhạc HÒN VỌNG PHU 1, bằng âm điệu gần
         gũi âm giai Ngũ cung của dân ca Việt Nam với ảnh hưởng từ Chinh
         Phụ Ngâm, thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn mà Đoàn
         Thị Điểm, đã dịch ra chữ Nôm. Sau đó, ông viết tiếp
         HÒN VỌNG PHU 2 (Ai xuôi vạn lý 1946), HÒN VỌNG PHU 3 (Người chinh
         phu về 1947). Đây là những bản nhạc hay nhất của nền âm
         nhạc Việt Nam.   2.- Về cải lương, có vỡ tuồng tâm
         lý xã hội Hòn Vọng Phu, do TRUNG TÂM LÀNG VĂN, sản xuất tháng
         6 năm 2006. Đây là một việc làm rất đáng ca ngợi, nhất
         là nhằm phục vụ giới thưởng ngoạn của thế hệ thứ 2
         của cộng đồng người Việt hải ngoại. Mong rằng, Trung Tâm Làng
         Văn tiếp tục, các vở tương tự, kế tiếp.   3.- Về thơ
         chữ Hán, có bài hai bài VỌNG PHU THẠCH của CAO BÁ QUÁT
         và NGUYỄN DU Từ sự tích chuyện
         Trầu Cau, Thiếu Phụ Nam Xương... đến Hòn Vọng Phu, quả thật
         người Việt ta, rất đáng tự hào về sự thủy chung của
         các truyện truyền kỳ lịch sử của chính mình vậy. THÊM BẢN DỊCH của ĐỖ CHIÊU ĐỨC
         & QUÊN ĐI: ĐỖ CHIÊU ĐỨC
         :                
                           ... Đá Vọng Phu nhớ thương thổn
         thức,      Tay bồng con non nước  vời trông.    
          Xa xa mặt biển mênh mông,      Đầu non tượng đá
         tỏ lòng tiết trinh !...                   Đó
         là một vế Song thất Lục bát trích trong bài " NƯỚC TÔI
         " của một Thi sĩ Tiền Chiến : NGUYỄN VĂN CỔN, mà tôi được
         học thuộc lòng từ nhỏ. Bây giờ đọc lại vẫn còn xúc
         động, gởi đến QUÝ VỊ đọc khai vị trước khi tìm
         hiểu nghĩa của 2 bài VỌNG PHU THẠCH mà Thầy Lộc đã diễn
         nôm...   BÀI 1 : Của CAO BÁ QUÁT.         望夫石                     
          Vọng Phu thạch   獨立山頭第一峰, Độc lập sơn
         đầu đệ nhất phong,  朱凋粉謝為誰容。
         Chu điêu phấn tạ vị thuỳ dung ?  音書久斷人何處,
         Âm thư cửu đoạn nhân hà xứ ?  天海無涯路幾重。
         Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng ?  血淚煙和明月濕,
         Huyết lệ yên hoà, minh nguyệt thấp,  香鬟雲跡綠苔封。
         Hương hoàn ân tích lục đài phong. 天荒地老情猶昨,
         Thiên hoang địa lão tình do tạc,  夜夜敲殘壁古鐘。
         Dạ dạ xao tàn bích cổ chung.                                                                       
          Cao Bá Quát.   NGHĨA BÀI
         THƠ :        Đứng lẻ loi trên đầu núi, xứng danh
         là ngọn núi hạng nhất ở đây. Son đã tàn phấn cũng
         đã phai rồi còn điểm trang cho ai nữa đây ?. Âm hao thư
         tín đã bặt tin lâu rồi, giờ thì chàng ở nơi nao ?. Trời
         biển ngút ngàn mênh mông không bờ không bến, Máu lệ
         hòa theo khói sóng làm nhòa ướt cả vầng trăng. Tóc mây
         giờ cũng dã dượi vì bị phủ kín bởi rêu xanh. Mãi
         cho đến lúc trời già đất cỗi tình nầy vẫn tha thiết
         như ngày hôm qua, Đêm đêm cứ âm ỉ vổ vào vách
         đá như tiếng chuông tàn trong cổ tự.   DIỄN NÔM :                 
         ĐÁ VỌNG PHU            Chơ vơ đầu
         núi dáng ai đang,            Phấn nhạt
         son phai chẳng điểm trang.            Vắng bặt
         tin thơ người mấy kiếp,            Mênh
         mông trời nước lộ bao đàng.             Lệ hòa khói sóng nhòa trăng
         ướt,            Tóc rối rêu xanh phủ
         mặt nàng.            Đất cỗi trời
         già tình vẫn thắm,            Đêm
         đêm âm ỉ tiếng chuông vang !
     
                                   BÀI 2 : Của NGUYỄN DU.                 望夫石                   
         VỌNG PHU THẠCH   石耶人耶彼何人?   Thạch da nhân
         da bỉ hà nhân ? 獨立山頭千百春。   Độc
         lập sơn đầu thiên bách xuân. 萬劫杳無雲雨夢,  
         Vạn kiếp yêu vô vân vũ mộng, 一貞留得古今身。  
         Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. 淚痕不絕三秋雨,  
         Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ , 苔篆長銘一段文。  
         Đài triện trường minh nhất đoạn văn.  四望連山渺無際,  
         Tứ vọng liên sơn diễu vô tế,     獨教兒女擅彝倫。  
         Độc giao nhi nữ thiện di luân.                                                                  
           NGUYỄN DU.   NGHĨA BÀI THƠ :         Người ư,
         đá ư, nàng là ai đây ?. Đứng chơ vơ một mình trên
         đầu núi đã hàng trăm hàng ngàn mùa xuân rồi ! Muôn
         kiếp vẫn không còn mơ gì đến chuyện mây mưa nữa, Một
         thân trinh trắng vẫn còn giữ được mãi từ xưa đến
         nay. Ngấn lệ không vơi như mưa thu dai dẵng suốt ba thu, Vết rêu
         phủ vòng vèo như bản văn trạm trổ trên đá. Quay nhìn
         bốn phía núi liền núi biển mênh mông không thấy chân
         trời, Luân thường lễ giáo sao lại chỉ riêng giới nữ
         lưu phải gìn giữ mà thôi ?!.   DIỄN NÔM :                  HÒN VỌNG PHU
         
     Nàng là ai, là người hay đá
         ?   Chiếc bóng đầu non ngàn
         năm trường.   Muôn kiếp chẳng
         mơ niềm ân ái,   Một thân còn giữ trắng như gương.   Lệ hằn chẳng dứt thu mưa gió,   Rêu phủ không thôi
         nét đoạn trường.   Bát ngát bốn bề non núi thẳm,   Sao riêng nhi nữ chịu luân thường                                                         
          Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.       QUÊN ĐI:  Quên Đi xin phỏng
         dịch cùng Thầy và Anh Chị hai bài "Vọng Phu Thạch" của
         Cao Bá Quát và Nguyễn Du :             望夫石                   
         Vọng Phu thạch   獨立山頭第一峰,Độc lập sơn
         đầu đệ nhất phong,     朱凋粉謝為誰容。Chu
         điêu phấn tạ vị thuỳ dung ?      音書久斷人何處,Âm
         thư cửu đoạn nhân hà xứ ?    天海無涯路幾重。Thiên
         hải vô nhai lộ kỷ trùng ?     血淚煙和明月濕,Huyết
         lệ yên hoà, minh nguyệt thấp,     香鬟雲跡綠苔封。Hương
         hoàn vân tích lục đài phong.      天荒地老情猶昨,Thiên
         hoang địa lão tình do tạc 夜夜敲殘壁古鐘。Dạ
         dạ xao tàn bích cổ chung.                  高伯适                              
         Cao Bá Quát
 
   Dịch Thơ:             Đá Vọng
         Phu Chơ vơ một bóng đỉnh non cao Son phấn
         tàn phai bởi lẽ nào Sông núi người đâu
         thư chẳng thấy Biển trời không bến biết phương
         nao Khói nhoà máu lệ vầng trăng khóc Hương
         tóc đường mây rêu phủ bao Đất cỗi trời
         hoang bày thuở trước Chuông đêm tắt lịm thấy nao
         nao                              
                  Quên Đi
   *******        望夫石                   
         Vọng Phu thạch   石耶人耶彼何人? Thạch da? Nhân da?
         Bỉ hà nhân?     獨立山頭千百春。 Độc
         lập sơn đầu thiên bách xuân     萬劫杳無雲雨夢,
         Vạn kiếp liểu vô vân vũ mộng,      一貞留得古今身。
         Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân.      淚痕不絕三秋雨,
         Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ   苔篆長銘一段文。
         Đài triện trường minh nhất đoạn văn.     四望連山渺無際,
         Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,     獨教兒女擅彝倫。
         Độc giao nhi nữ thiện di luân                    阮攸  
                                      Nguyễn Du             Dịch Thơ:
                Đá Vọng
         Phu
 
   Là
         đá hay người đích thực ai Đầu non một bóng 
         đứng trông hoài Kiếp phần mờ mịt vu sơn chẳng Giữ phận sáng ngời trinh tiết thay Mưa đổ
         ba thu còn lệ ngấn  Văn xưng một đoạn dấu
         rêu dày Mịt mùng bốn phía non liền núi Gương sáng truyền lưu đến tận nay                                      
         Quên Đi
 PHƯƠNG
         HÀ:   I-
         Phỏng dịch bài của Cao Bá Quát:       HÒN VỌNG PHU       Một mình
         chót núi đợi ai đây   Phấn
         nhạt son phai với tháng ngày   Biền
         biệt bóng chàng, tin nhạn vắng   Mênh
         mông trời biển, gió mưa bay   Nhạt
         nhòa máu lệ, vầng trăng đẫm   Bạc
         phếch màu rêu, mái tóc phai   Chung
         thủy chờ chồng ngàn vạn kiếp   Thương
         nàng, chuông đổ tiếng ngân dài....               Phương Hà phỏng dịch       II- Phỏng
         dịch bài của Nguyễn Du     
          HÒN VỌNG PHU       Là người, là đá,
         bóng ai đây ?   Mà đứng trơ
         vơ đỉnh núi này ?   Ân ái
         không màng từ vạn kiếp    Lòng
         trinh vẫn giữ tận xưa nay   Sầu hoen
         ngấn lệ, mưa mờ phủ   Muộn khắc
         bờ rêu, nắng nhạt phai   Biển núi
         mênh mông , trời đất rộng   Luân
         thường riêng nữ nhận chua cay ?!    
                  Phương Hà phỏng dịch        
  
         
      
      TRẦN
         QUANG KHẢI (1241-1294)   Cùng Bạn , 
          Cuối tuần , Mailoc xin chuyển đến bạn
         hai bài thơ của Trần quang Khải . Qua hai bài , chúng ta vừa thưởng
         thức cái nét đẹp trong thi văn Đại Việt , vừa thấy
         cái hùng khí ngùn ngũt ngất trời của thi nhân chúng ta ngày
         xưa ,và sau cùng là tóm luợc tiểu sử của vị đại
         Anh Hùng Trần Quang Khải  triều đại nhà Trần một thời
         liệt oanh đã 3 lần đại thắng quân Nguyên ( tài liệu
         từ Bách khoa toàn thư Wikipedia ).Cám ơn    Thân   M L         
           XUÂN NHẬT HỮU CẢM                                    Trần
         quang Khải     
          Xuân nhật hữu cảm  (bài 1) 
              Vũ bạch phì mai tế nhược ty ,  
         Bế môn ngột ngột tọa thư si
         .   Nhị phần xuân sắc
         nhàn sai quá ,   Ngũ
         thập suy ông dĩ tự tri .   Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện , 
          Ân ba hải khoát túng lân trì
         .   Sinh bình đởm
         khí luân huân tại ,   Giải đáo đông phong phú nhất thi .  
                Dịch nghĩa :       Mưa muốm làm tươi
         tốt cây mai nên gội ướt cành tơ   Đóng cưả ngồi sừng sửng một con người nghiện
         sách   Nửa phần sắc xuân
         đã hờ hửng trôi đi   Năm
         mươi tuổi tự biết mình suy yếu   Tấm lòng cố hương mỏi mệt theo cánh chim bay 
          Ơn vua như biển rộng , nên còn chần
         chờ như con cá giương vây   Riêng
         chí dũng cảm lúc bình sinh vẫn còn nguyên đó 
          Say ngả nghiêng trước gió đông
         , ngâm một bài thơ .     
                Cảm Xúc Ngày
         Xuân  ( I )   Mai tắm dưới
         mưa phùn mờ ảo   Khép phòng
         thư đau đáu lặng ngồi   Nửa
         đời xuân sắc trôi trôi ,   Năm
         mươi tuổi đã lần hồi yếu ra  .   Cố hương xa chim đà mỏi cánh ,   Ân biển trời khiến cá giương vây . 
          Bình sinh hào khí còn đây , 
          Ngâm thơ trong gió say say xuân về . 
                                           Mailoc
         phỏng dịch                                 
         Cali 5-23-14        Cảm Xúc
         Ngày Xuân ( bài 2)     
          Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan , 
          Đông phong đặc địa
         khởi xuân hàn ..   Phiên
         không liễu nhứ niêm cao các ,   Giác mộng Tương quân bốc họa lan . 
          Bị vật nhuận tòng thiên ngoại
         vũ ,   Kinh tâm hồng
         thoái tích thì nhan .   Khử
         sầu lại hữu tam bôi tửu ,   Phủ kiếm du du ức cố san .                              
             T Q K    Dịch Nghiã
         :     Bóng trăng mờ mờ , đêm
         đã gần tàn   Gió đông
         đột ngột khơi dậy cái rét mùa xuân   Bay múa trên không , tơ liễu dính vào gác cao 
          Tỉnh mộng , cành trúc đập vào
         lan can chạm vẽ   Cảnh vật thêm
         tươi nhờ trận mưa ngoài trời   Lòng kinh sợ sắc mặt hồng hào thời xưa đã phai 
          Tiêu sầu nhờ có  vài chén
         rượu   Vỗ kiếm , vời vợi
         nhớ non xưa .   Dịch Thơ : 
                  Cảm Xúc
         Ngày Xuân  ( 2)   Đêm
         hồ tàn , trăng mờ hiu hắt ,   Gió
         đông về lạnh ngắt hơi Xuân .   Lầu cao liễu múa rộn ràng ,   Cành tre khuấy mộng lan man ngoài thềm .   Mưa gội sạch cảnh thêm tươi mát , 
          Bỗng giật mình đâu nét thời
         xuân ?   Tiêu sầu vài chén
         lâng lâng ,   Vỗ gươm , núi
         cũ  bâng khuâng nhớ về .                                  
         Mailoc phỏng dịch                                   
         Cali  5-23-14       Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 1241-1294) là một quý tộc, đại thần nhà Trần, làm đến chức Tể tướng đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước
         Nam, ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng
         vào bậc nhất.[1]       Ông sinh vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Ứng Chính
         Bình thứ 10 (1241) đời Trần Thái Tông[2]. Về danh nghĩa, ông là con thứ ba của Trần Thái Tông, với Thuận Thiên hoàng hậu Lý Ngọc Oanh. Trên thực tế, ông là em ruột với Thái tử Trần Hoảng. Người anh đầu Trần Quốc Khang của ông, dù cùng mẹ sinh, nhưng lại là con của An Sinh Vương Trần Liễu.ông còn được phong làm Nam Thiện vương   Sử chép:   
             |     " 
            |        "Quang Khải lúc mới
         sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái   Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo
           ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này". 
           Đến khi sống lại, Thái Tông nói: 
           "Gươm báu truyền quốc, không
         thể trao bừa, chỉ ban cho áo của   Thượng hoàng thôi". 
            |        " 
            |         |     -Đại Việt
         Sử   ký Toàn thư[3]     |        Đại thần trụ cột 
          Từ nhỏ, ông đã được vua cha
         phong tước Chiêu Minh Vương (昭明王) và cho thụ giáo
         với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu[4]. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói
         của các bộ tộc ít người.[3]   Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được vua cha gả Công chúa Phụng Dương (cũng là em gái nuôi của Trần Quang Khải), ban cho thái ấp Độc
         Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh)[4]. Sau khi Trần Thánh Tông lên ngôi, ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương[5].   Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), ông được phong làm Thái úy, chính thức tham gia công việc
         triều chính khi vừa 20 tuổi. Sử chép: "Bấy giờ, anh vua là Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang
         Khải làm tướng"[6]. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), ông được phong làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông[6].   Đầu năm Thiệu Long năm thứ
         14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần
         đầu triều nắm giữ việc nước[6], đứng trên cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.   Quan hệ với Hưng Đạo Vương
         Trần Quốc Tuấn[   Trần Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Trần Quang Khải là con Trần Cảnh. Hai người với Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu[7]. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông
         còn có cả mối bất hòa cá nhân.   Cuối năm 1257, Trần Quốc Tuấn được cử làm chỉ
         huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới[2], lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước
         Đại vương và thăng làm Thái úy.   Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số
         ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép:        |     "     |    
            Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh
         giặc, Quang Khải theo hầu, ghế   tể tướng bỏ không, vừa lúc
         có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương
           Quốc Tuấn tới bảo:    "Thượng
         tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư   đồ
         để tiếp sứ phương Bắc".    Quốc Tuấn trả lời:    "Việc
         tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần
           làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan
         gia đi đánh giặc xa,   Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự
         ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e   có chỗ chưa
         ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá
           trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".    Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy
         lại bỏ đấy, vì hai người vốn   không ưa nhau.   
          |        " 
            |         |     -Đại Việt
         Sử   ký Toàn thư[3]     |        Đầu năm 1281,
         sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long với thái độ rất ngạo mạn:        |     " 
            |        Vua sai Quang Khải đến
         sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không   ra, Quang Khải vào hẳn
         trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương   Quốc
         Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc
         ấy Quốc Tuấn   đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ
         quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng   dậy vái chào
         mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt
         tóc, mặc áo vải   là hình dạng nhà sư phương Bắc.
         Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người   hầu
         của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu
         đến chảy máu, nhưng   sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề
         thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông.     |        "     | 
                |     -Đại Việt
         Sử   ký Toàn thư[8]     |        Nhờ cách ứng
         xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái
         độ. Khi Sài Thung về lại Đại Nguyên, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có
         câu:   Vị thẩm hà thời trùng
         đỗ diện   Ân cần ác
         thủ tự huyên lương.   Tạm
         dịch:   Chưa biết ngày nào cùng
         tái ngộ   Để ân cần
         tay nắm chuyện hàn huyên   Cuối
         năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), Trần Quang Khải được thăng làm Thượng tướng Thái sư
         nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính[8]. Tuy vậy, trước tình hình áp lực quân Nguyên Mông gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
         làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc[8]. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở
         thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.   Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa
         cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc,
         có khả năng làm đổ vỡ công cuộc kháng Nguyên. Nhận ra điều này, Hưng Đạo Vương chủ động tìm
         cách giải hòa:      
          |     "     | 
               Một hôm, Quốc Tuấn từ
         Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi   suốt ngày mới trở
         về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích
         tắm   thơm, từng đùa bảo Quang Khải:    "Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi
         áo Quang Khải   ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: 
           "Hôm nay được tắm cho Thượng
         tướng".    Quang Khải cũng nói:
         "Hôm nay được Quốc công tắm rửa   cho".    Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người
         càng thêm mặn mà. Bản   thân làm tướng văn, tướng
         võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu. 
            |        " 
            |         |     -Đại Việt
         Sử   ký Toàn thư[3]     |        Đây cũng là
         một trong những lý do quân Nguyên Mông phải thêm 2 lần thất bại
         ở Đại Việt.   Trận Nghệ
         An[   Đầu năm 1285, quân Nguyên
         tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh.
         Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông
         đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là công chúa Phụng
         Dương đánh thức, thoát được.[9]   Tuy nhiên, dưới sự điều động
         tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã
         thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị
         động. Năm Ất Dậu (1285),Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Hưng Đạo Vương tâu vua xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng
         mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương. Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân
         ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu [10]. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương,
         bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc.
         Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Vua cho Chiêu
         Văn VươngTrần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.[11]   Trận Chương Dương Độ,
         khôi phục Thăng Long[sửa    Lúc bấy giờ đại binh của
         Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được
         lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương
         tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không
         nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân
         lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng
         ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành. Thoát Hoan đem
         quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại
         bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay)[12]. Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho
         quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần
         tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà
         Trần trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp
         và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.[13]   Vinh danh[   Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công
         ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong
         tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công
         thần hạng nhất.   Sử chép: 
               |     "     |        "Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc
         làm tướng   văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với
         Quốc Tuấn."     |        "     |         |     -Khâm Định Việt   Sử Thông Giám Cương Mục[14]     |        Ông tiếp tục
         phụng sự triều đình cho đến khi mất ngày 3 tháng Bảy âm
         lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời vua Trần Anh Tông[3]. Vợ ông là công chúa Phụng Dương đã mất trước
         đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của
         mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.[4]   Con ông là Văn Túc Vương Trần
         Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng
         hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc
         mất sớm.[3]   Trần Quang Khải được người
         dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình
         làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông"
         được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi
         Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân
         Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[15][16] Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với
         các vị vua nhà Trần.   Tác phẩm[   Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời
         Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ.
         Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt
         kê dưới đây:          Tòng giá hoàn kinh          Phúc hưng viên          Lưu gia độ          Dã thự          Xuân nhật hữu cảm           
  
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             | 
                        
                       |