VĂN                      
           Nguyễn Văn Trường
 Cựu học sinh
         Phan Thanh Giản Giảng dạy tại ĐHSP
         Huế & Sài Gòn Tùng sự tại
         Bộ Giáo Dục VNCH _________________________________________________  
      
            Dưới đây là 1 bài viết khác của GS Nguyễn
         Văn Trường, cùng đề tài với bài “ Qui Y Tam Bảo” mà
         Trang Nhà đã rất hân hạnh đăng trước đây. Cả tháng
         nay,Trang Nhà dành cho những bài chủ đề Xuân và Tết nên
         mãi đến hôm nay Trang Nhà mới giới thiệu “QUY Y TAM BẢO HAY QUY
         Y TAM THÂN” cùng bạn đọc. BBT xin cáo lỗi với những bạn
         đọc đã mong đợi bài viết và đặc biệt cáo lỗi
         với tác giả.       October 24, 2013    Quy Y Tam Bảo hay Quy Y Tam Thân?                          Nguyễn văn Trường      Trong Phật Học Phổ Thông, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
         có viết: “Tất cả chúng sanh cùng chư Phật
         đồng một thể tánh sáng suốt (gọi là đồng thể Phật
         bảo) đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng (gọi là
         đồng thể Pháp bảo),  đồng một thể tánh thanh
         tịnh, sự, lý hòa hợp (gọi là  đồng thể Tăng
         bảo).”   
         Quý sư sải cũng thường giảng
         cho chúng tôi rằng mỗi chúng sinh đều có Phật tính, và
         nhờ đó mà ai ai đều có thể thành Phật.  Thậm
         chí có vị còn xác quyết:  ‘chúng ta là Phật
         đang thành’ hay ‘Tu để làm gì? Là để thành Phật’.  Chúng tôi lấy lời ghi trên của Hòa Thượng Thích Thiện
         Hoa làm  tín lý.  Và nghĩ rằng Quy-Y Tam Bảo
         chính yếu ở trong  Lý- Quy-Y:   Lý- Quy-Y tam bảo là trở về thể tánh, pháp tánh,
         và tăng tánh mà hiện hữu  ngay trong mỗi người chúng
         ta..     
    Vì vậy mà trong một bài trước, viết về Quy
         Y Tam Bảo, chúng tôi có đi đến kết luận
         là:  Quy y tam bảo là trở về với chính mình.
           Cái chính mình ấy là gì ? Nhà Phật bảo : ‘Cái
         thể của nó là Không.  Tướng của nó là Vọng.’
          Nghĩ cho cùng,  đó là Tam-Thân-Phật :
         Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Tam thân phật—nói gọn
         hơn Tam-thân.   Trở về với chính mình—với một số người
         học Phật— là trở về với Tam-thân trong chính bản thân
         mình. Tam-thân là nội dung của bài nầy.    Tam thân—Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân—tùy
         trường phái, tùy cái nhìn, có định
         nghĩa khác nhau. Thật phức tạp.        Phần I: Nhìn sơ khởi theo kinh sách.
  
    1.      Theo Wikipedia,     “Tam thân (trikāya) là một thuật ngữ được
         dùng trong Phật giáo Đại thừa (mahāyāna) chỉ ba loại
         thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ
         tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân vật đã xuất
         hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh—chính
         là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều
         hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm
         Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó.”    “Pháp thân (dharmakāya), là thể tính thật
         sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ
         trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng
         sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (dharma), là quy luật vận hành trong vũ
         trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện
         trên Trái Đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ
         con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (buddha-dharma)
         như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này
         người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân
         được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là
         thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật
         sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác
         nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là
         thể tính của mọi sự, là Pháp giới (dharmadhātu, dharmatā),
         là Chân như (tathatā, bhūtatathatā), là tính
         Không (śūnyatā), A-lại-da thức (ālayavijñāna), hay xem nó là Phật,
         Phật tính (buddhatā), là Như Lai tạng (tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái,
         người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân
         trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có
         nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực
         chứng được Pháp thân.”    “Báo thân
         (saṃbhogakāya),
         cũng được dịch là Thụ dụng thân, “thân của
         sự thụ hưởng công đức”: chỉ thân Phật xuất hiện
         trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của
         các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được
         gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được
         qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị
         Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối
         cùng của Thập địa (daśabhūmi). Người ta hay trình bày
         Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp
         Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất
         hiện trong các Tịnh độ.”    “Ứng thân (nirmāṇakāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân
         hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân
         do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục
         đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu
         mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thân có
         thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Sau khi chết,
         Ứng thân tự tiêu diệt.”    “Cốt tủy của thuyết
         tam thân là: Phật được xác định hoặc biểu hiện trong
         ba thân, hay cách, hay chiều  giác ngộ, và cả ba là
         nền tảng tối hậu của sự hiện hữu.   Đó
         là Pháp thân—dharmakaya—thân của chân như,
         sự thật tuyệt đối, chân thật rốt ráo.  Báo
         thân—sambhogakaya—là thân của sự hứng thú và siêu việt
         của Phật; và Hóa thân hay Ứng thân –nirmanakya—là 
         là thân tứ đại của Phật.”    “Hóa thân
         là thân của vô thường, vì nó hiên hữu trong thời gian
         và không gian.  Hóa thân Phật là Đức Phật lịch sử.”    “Nói chung, tam thân Phật là: Phật lịch sử--nirmanakya, 
         Báo thân—sambhogakaya—là thân của cuộc sống tâm linh.
         Và Pháp Thân—dharmakya là thân của vũ trụ quan.”        
          - Trong cái nhìn thế tục,      về tam thân có
         người đã viết:
     
                 ‘Nirmanakaya—ứng-hóa-thân—
              là con người ‘lịch sử’ của chúng ta trong bối cảnh
         lịch sử cụ thể của môi      trường, từ khi sinh đến khi chết.
         Nói cách khác, “nirmanakaya là kinh nghiệm của
         chúng ta về sự liên tục, nói      riêng là
         nền tảng của cá tính, cái căn cước riêng của chúng
         ta.”       Sambhogakaya—báo-thân— là thân của
         cuộc sống tâm linh của chúng ta. Nói rộng
         hơn là “sambhogakaya là
         kinh nghiệm của chúng ta vê vô thường, sự luôn
         đổi thay, và cũng hiểu là cơ sở cho luân hồi.”       Dharmakya—pháp-thân— là thân của vũ
         trụ      quan.  Có thể nghĩ: “dharmakaya là kinh nghiệm của chúng
         ta về sự mở rộng vô hạn,      tính không hay 
         cơ cở mà không là cơ      sở của mọi sự việc.”
          Cũng có      thể nghĩ đó là chân như, sự thật,
         Phật tri kiến.      “Tam thân không là gì khác
         hơn ba cơ sở của sự giác
         ngộ biểu hiện trong kinh nghiệm
         của chúng ta.”Đó là ba cơ sở
         kinh nghiệm thực tế mà ta gọi
         là tam thân-Phật, hoàn toàn hiện
         hữu trong mỗi con người. Ba kayas
         là một sự thống nhất đã
         có trong mỗi con người và tạo nên
         Phật-tính—buddhanature— của chúng ta:
         trạng thái hoàn hảo của sự
         giác ngộ, Đức Phật hoàn toàn
         thể hiện nhưng mà cái tôi của chúng ta có xu
         hướng bóp méo.
         Vì xu hướng của chúng ta là
         che khuất Phật-tính, chúng ta hiếm khi thừa
         nhận sự viên mãn của gấp ba lần
         kinh nghiệm của chúng ta qua tam thân. Thay
         vào đó, chúng ta có xu hướng
         chỉ tập trung vào một khía cạnh
         kinh nghiệm của con người - hầu hết tập trung trên
         sự liên tục, một số người tập
         trung trên vô thường, trong khi
         những người tu hành có xu hướng
         tập trung vào tính không. Nhưng tập trung vào
         chỉ một hoặc hai trong số
         những kinh nghiệm làm chúng ta không hoàn
         toàn giácngộ. Điều này là do nơi: ba kayas là
         bất khả phân, và vì
         vậy một cách để giác ngộ là
         để nắm lấy tất cả ba:
         ‘Khi chúng ta ở lại trong tự
         nhiên vốn có của chúng ta, trong sự thuần khiết của nó (buddhanature
         của chúng ta), chúng ta sẽ phát
         hiện ra rằng kinh nghiệm của chúng ta là
         hiện thân của sự trống rỗng của Pháp
         thân, vô thường của Báo
         thân, và tính thực tiễn của
         các Hóa thân, tất cả
         cùng một lúc.’”          “Ở cấp
         độ này của
         cuộc sống, mỗi kaya ngụ
         ý hai kayas kia: không kaya nào có thể
         tồn tại mà không có hai
         kayas kia.”    Chúng
         tôi chọn hai cái nhìn trên đây, nghĩ rằng: rõ ràng nhất,
         thiết thực nhất, và gần chúng tôi nhất.       Phần II:  Tu hành
         là trọn vẹn với chính
         mình?     
    Thiết nghĩ:   
           1. Đạo Phật không là lý luận, không
         chỉ là triết thuyết—bao
         nhiêu tạng Kinh Điển của Phật-gia là một kho tàng, quí báu
         vô cùng của loài người—nhưng vẫn là không, nếu không hành tu. 
                  Cho
         nên, đi vào cửa Phật là: không nương tựa, cũng không
         phục tùng hay vâng lời một Phật, một pháp,
         một tăng, hay bất cứ một thần thánh nào ở bên ngoài,
         càng không phài là phục tùng hay vâng lời một tổ chức
         tôn giáo thế gian, mà là trở về với tam thân
         trong chính mình.      Trong
         một giới hạn nào đó là tìm chính mình trong tam thân,
         hay tìm tam thân trong chính mình, qua những kinh nghiệm sống..       
          Cuộc
         sống tu hành là hành trình tìm lại bản thân, qua một chuổi
         dài trải nghiệm để nhận thức cái bản chất chân thật
         của mình. Cái bản chất đó, theo kinh sách, là Phật tính,
          tam-thân-phật.   Nhưng tam-thân-Phật không
         chỉ là chữ nghĩa, lý luận. Chữ nghĩa, lý luận, logic dẫn
         đến quan niệm, chủ thuyết và những thứ ấy chỉ là kết
         quả của những trò chơi trừu tượng của trí tuệ. Trong một
         giới hạn nào đó, tam-thân-phật nêu ở phần I trên đây,
         có thể là ‘ngón tay của Phật chỉ mặt trăng’—chớ
         không là mặt trăng. ‘Nhìn theo ngón tay Phật thì thấy mặt
         trăng, ngón tay Phật không là mặt trăng.’ Tam-thân-phật nên
         hiểu là con đường  hành tu, là cuộc hành trình
         thực tiển kinh nghiệm, thật sống, trực nghiệm trong giòng đời    Ngón tay của Phật không là mặt trăng. 
         Kinh sách, lời dạy của các tổ, của Phật vẫn là kiến
         thức sách vở, có thể là một trò chơi trí tuệ, có
         thể cần thiết và hữu ích, trong mức độ mà nó không
         trở thành ngục tù—ngục tù xây trên những nguyên tắc,
         đạo lý, giáo điều, phương cách, mà ta khẳng định
         là tất yếu, phải như vậy, không thể khác, tối thượng
         thừa, ‘chân thật bất hư’,…— để tự giam mình
         vào đó, với lòng tự mãn rằng đã tìm được
         minh sư, giáo chủ, chỉ dạy cho con đường đạo an bình và
         chắc chắn, hay chi chi khác.  An bình trong am cốc của các tín lý,
         có thể là rất tốt cho một sự vị kỷ ẩn tàng trong vô
         thức.     Nhưng đạo
         Phật là đạo giác ngộ và giải thoát.  Tín
         lý là xác quyết khả năng giác ngộ và giải thoát của
         con người. Tín lý không là sự giác ngộ.  Tín
         lý gợi ý một con đường—con đường giác ngộ, con
         đường giải thoát, nhưng cuộc hành trình của người tu
         Phật không là theo một con đường mòn—‘đường xưa
         lối cũ’ hay ‘con đường cổ xưa’ nào đó. 
         Con đường ấy, ta phải tự tìm lấy. ‘Hãy tự đốt
         đuốc lên mà đi.’ Đó là lời Phật dạy. Không có
         bữa ăn miễn
         phí. Cái gì cũng có cái giá của nó mà ta phải trả.  Hành tu không có nghĩa
         là lười biếng—dành cho các sư sải cái nhiệm vụ đọc
         và tìm hiểu kinh sách—rồi để sư sải ‘ban’ cho mình
         một pháp tu. Nói theo người bình dân, là sư sải cho mình
         ăn cái gì thì mình ăn cái nấy—món ăn tinh thần.        R. Tagore có viết:    ‘Tên tôi là một nhà tù. Tôi tự nhốt
         mình trong đó , và tôi đang khóc  Ngày qua ngày, tôi đã
         dày công tô đắp bức tường chung quanh ; trong bóng tối của
         nó tôi không thấy tôi đâu nữa.’    Ông ngộ ra rằng Ông đã tự
         giam mình trong tên Ông.    Đọc lên, tôi cảm nhận
         một nhu cầu giải thoát : thoát ra nhà giam của cái tên, hay
         cái tôi,  mà suốt đời ta xây đắp. Không khéo
         tín lý của Phật gia là một nhà tù khác cho con người.  Hành
         tu cũng không có nghĩa là tụng niệm kinh kệ, mà không hiểu
         nghĩa, và khi hiểu, lại không đưa vào thử thách trong thực
         tế.            Hành tu là một quá trình kinh nghiệm
         thực tế, nói gọn hơn, hành
         tu là một quá trình thực nghiệm.  Nói: “nirmanakaya là nói kinh nghiệm của chúng
         ta về sự liên tục, nói riêng là nền
         tảng của cá tính, cái căn cước riêng của chúng ta.”  Nói: “sambhogakaya
         là nói kinh nghiệm của chúng ta về vô thường, sự luôn đổi thay, và cũng hiểu là
         cơ sở cho luân hồi.”  Nói:“dharmakaya là kinh nghiệm
         của chúng ta về sự mở rộng vô hạn, tính không
         hay  cơ sở mà không là cơ sở của mọi sự việc.”
    Và xin lặp lại:   “Tam thân
         không là gì khác hơn ba cơ sở
         của sự giác ngộ biểu
         hiện trong quá trình thực nghệm. Trong quá trình nầy ba thân mà là một, bất khả phân.         ***                     Thay
         lời kết:         Tuần
         qua, bạn tôi, anh Mai Lộc có gởi cho chúng tôi một điện thơ,
         nội dung :    “ Cùng Bạn ,    Cali
         trời đang giữa thu , hôm nay cây cối mới bắt đầu úa
         vàng , không như các tiểu bang miền đông , mùa thu lá vàng
         đến sớm  hơn. Công viên nơi đây hôm nay lá vàng
         đã rơi đầy . Tôi cố giữ tâm tư mình thật yên
         lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng
         không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn
         mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo
         rồi nằm im lìm dưới chân tôi . Mùa thu lúc nào cũng đẹp
         và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như
         chúng ta . Xin gởi bạn một cảm tác mùa thu,     Thân mến     Mailoc         L Á THU
         .         Lâng lâng chiều nhẹ
         mắt say say ,    Tan tác rơi rơi lá thở dài .    Hiu hắt gió đâu từ vạn dặm ,    Nỗi sầu vạn cổ nắng thu phai .         Sương xuống
         mơ hồ ướt mắt mi ,    Bên đường
         lạnh lẽo đóa tường vi .    Bóng người
         mờ ảo xa xa khuất ,    Trong bước phong sương nghĩ ngợi gì ?         Nắng chiều nhàn nhạt gió lơi lơi ,    Lạnh cả không gian thấm
         cuộc đời .    Đường vắng bâng khuâng
         nghe lá khóc ,    Trong mây trong khói mắt xa
         vời  . 
             
           Quây quây trong gió
         lá thu rơi ,    Xao xuyến hồn ta đến cuối
         trời . 
           Xanh tươi mới đó, đùa
         chim chóc , 
           Nắng hạ vẫy chào, xác tả
         tơi . 
             
           Bên nhau đất khách những năm
         trường , 
           Mỗi độ thu về mỗi vấn vương
         .    Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,    Mái đầu hai đứa trắng như sương ,    Mailoc    11-16-13         Thiền sinh “cố giữ tâm tư yên lặng trong những
         bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được
         nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những
         chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới
         chân tôi. Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác
         nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta.”    Đọc lên, nghe âm vận,
         thì đó là thơ, thơ  trong văn xuôi, gieo hạt giống
         thiền.    Thế mà  có người nói: “Thơ-thiền
         không là thơ. Văn-thiền không là văn. Nàng-thơ,     mặc áo tràng, đầu lại
         trọc, không thơ thẩn, không văn vẻ với trăng gió tình trường,
         thì còn đâu là chất thơ, chất văn  của nàng.
         Thơ-thiền hay văn-thiền cũng không là thiền, vì ngoại hình
         là ngôn từ và âm vận thuộc ta bà thế tục, mà tâm
         tư thì vướng bận bởi sắc, thanh, hương, vị của trần gian.
         Tương tự,  thiền hành không là thiền, cũng không
         là đi đứng bình thường, như người bình thường,
         ‘hằng ngày’ với ‘tâm vô quái ngại.’ Thiền hành
         là đi theo qui ước của nhà thiền.  Đời người
         sớm bị cột trong những qui định của xã hội.  Tỉnh
         ngộ, con người muốn giải thoát ra những ràng buộc của lễ
         nghi trần tục hay của tham, sân, si, mạn, nghi,…hay của vọng ngã,
         thì lại vội vã tròng thêm vào mình những phương cách
         thoát vọng, tịnh tâm…của nhà Thiền.        Thiết
         nghĩ—trong bối cảnh ‘thu’ của anh bạn tôi:         ‘Lá thu’ là ‘tiếng chuông tỉnh thức’. 
         Tâm đang muốn tự nhốt mình trong yên lặng, với mộng ước—ngầm
         sâu trong tiềm thức, ẩn tàng trong vô thức—một tâm-thức
         tìm cầu yên lặng. Nhưng rồi ‘những chiếc lá vàng buông
         cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân’ đã
         làm thiền sinh thức ngộ, trở về thực tại:  Thu về,
         thu đẹp, thu buồn. Buồn man mác. Thiền ở đâu? Mà Nàng Thơ
         ở đâu?  Phải chăng ở thời điểm ấy, mình
         đã trở về với chính mình, trọn vẹn với mình.      Nhờ vậy, tôi  hưởng được ‘Lá Thu’
         của Anh.          ***         ‘Trở về với chính mình’ là
         câu tôi thường nói, thường hay viết.       Mới đây tôi dại dột, thêm
         một lần nữa, viết lên giấy trắng mục đen.  Một
         ông bạn già của chúng tôi, anh Phạm Khắc Trí, hỏi lại:
         Cái mình của anh là ai?     Tôi lúng túng, làm thinh. 
           Hôm nay, thiền sinh cho tôi một ý:    Trong cuộc sống vô
         thường, ồn ào, năng động, đầy dẫ ô nhiểm—ô
         nhiễm môi trường, ô nhiễm tâm-linh— thiền sinh tìm sự thanh
         tịnh, tĩnh lặng trong lòng. Có thể đó là thái độ
         bỏ vọng tìm chân.  Muốn tìm về với cái chân
         thật nhất của mình, mà mình bị che lấp, mà mình nghĩ
         rằng vốn là thanh tịnh.  Hằng ngày, người thiền hành,
         ung dung tự tại.  Nhưng chiếc lá thu, một chiếc thôi, ở ngay thời lúc ấy, vô tình đưa người
         trở về thực tại, thực cảnh, thực tâm; nghe lòng buồn man mác,
         cái buồn sang thu, buồn cũng vì tuổi đã sang thu, buồn vì thân
         phận. Rổi thả hồn mình với thơ văn, với âm vận. Rồi
         chia xớt chút gió thu, lá thu, tình thu với bè bạn.    Cái
         quá trình ngắn ngủi nầy là biểu hiện cái ‘mình’
         của thiền sinh. Ở mỗi thời điểm, cái ‘mình’ ấy hiện
         hữu, rất thật.Với thiền sinh, ‘Nó’ thật có,
         ‘Nó’ không  là hư giả.  Chỉ
         vì ‘Nó’  chỉ hiện hữu—ở một
         thời điểm—mà thời điểm thì không có chiều thời
         gian (một sát na đã là nhỏ, thời điểm thì vô-cùng-nhỏ,
         nhỏ hơn một sát na),  chỉ vì vậy, vì không nắm
         bắt được, hay giữ lại  bất cứ cái gì xảy
         ra trong thời điểm,  mà có người nghĩ ‘Nó’
         không thật;  và ‘xúi quẩy’ người khác đi
         tìm chân.  Còn tìm,  ắt chưa gặp, càng
         tìm thì càng thấy xa vời.  Cho nên, cái chân như
         mà thiền sinh tìm trong thiền hành, thật ra là vọng tưởng.    Có thể nghĩ: ‘Nó’ do tâm, do thất tình
         lục dục—một phần của tâm— mà ta ý thức được. 
         ‘Nó’ là hiện tượng biểu hiện ‘Tâm’.
         Tâm—Pháp thân, Phật tính— là Chân-như, Vĩnh-hằng,
         Bất- biến, Bất-sinh-diệt, như các thầy, sư sải thường giảng? 
         
    Nhìn ‘Nó’
         suy ra chân như. Suy ra là logic. Logic thuộc lý luận.
         Cái mà suy ra từ lý luận là concepts, quan niệm. Quan niệm là một
         cấu trúc của tư duy :  không thật có , không hiện
         hữu.. Trong cái nhìn đó, chân-như-suy-ra-từ-logic là vọng mà
         hiện tượng là thực. hiện tượng hiện hữu ở mỗi thời lúc.  Nhưng hiện tượng như bọt biển, không nắm
         bắt được, có đó rồi mất đó, nên xem là vọng,
         phát xuất từ một cái gì hằng tồn bất biến, vô tử,
         vô sanh. Cái vòng lẫn quẫn, đúng sai, thị phi, chân vọng.     Vậy, không nên cột mình vào vọng hay chân.  Cũng 
         đừng xung đột nhau vì phải trái đúng sai, hay dỡ. 
         Đừng cố chấp, đừng chấp. Bất chấp, không có nghĩa
         là không biết phải trái, đúng sai, mà là ý thức—hay
         tỉnh thức—rằng đúng sai, hay dỡ, phải trái là theo tiêu
         chuẩn nào của người đời, ý thức những tham số của
         sự đánh giá, ý  thức rằng sự đánh giá
         phải được qui về một khoảng thời gian  và bối
         cảnh nhất định. Thời gian qua, bối cảnh không còn, thì nên
         buông bỏ, xả bỏ. Ôm vào lòng làm chi để lòng thêm
         nặng.     Vậy, cái ‘mình của anh, của tôi’ có thể 
         là những hiện tượng có thật ở một thời điểm. 
         Một thời điểm, ngắn lắm, không chuyển được thành
         lời.  Nên phải làm thinh.    Đó là nói với
         nhau, trong vòng thân mật, giữa chúng mình là điều dễ cho phép,
         vì còn có một thời mình được  học các
         khái niệm về điểm, đường thẳng, …, vận tốc của
         một điểm di động ở một thời điểm nhất định.       Câu
         hỏi của Anh đã đưa tôi trở lại những trăn trở tuổi
         trung niên, khi làm quen với nghề dạy học. Tôi là ai? Rồi dạy
         học là gì? Là giáo dục. Mà giáo dục phải chăng là
         vạch sẵn một con đường mòn—con đường ‘thành nhơn
         chi mỹ’.  Rồi lùa tuổi trẻ vào đó.  Xưa,
         đã có người, và rất nhiều, đã ‘khóc cho một
         hôn quân vô đạo’, vì theo con đường thánh hiền vạch
         sẵn là trung với vua, thì nay cũng có cái đạo ‘yêu
         nước là yêu xã hội chủ nghĩa,’…. Và mỗi lần,
         câu hỏi trở lại với tôi, tôi lại nhớ bài thơ của Tô
         Đông Pha :         Lô Sơn
         yên tỏa Triết Giang triều    Vị đáo sinh bình hận bất tiêu    Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự    Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều         Thiền sinh muốn trờ
         về lại chính mình.  Mình là ai?  Nhưng mãi
         đến tuổi nầy, quá bát thập, đã cận ngày về với
         ông bà, cận lắm rồi, thế mà vẫn chưa biết mình là
         ai?     Cuộc sống là có khổ, có lạc. Khổ lạc là
         do thị phi hai ngã: đúng sai, chân vọng, giỏi dỡ, giàu nghèo,
         sang hèn, mạnh yếu,…Nhưng  Sư dạy: ‘Đời là
         khổ, tu là con đường  thoát khổ’. Sư bỏ chữ
         lạc, và nhấn mạnh lên cái khổ: Sư dọa thế nhân. Nhưng
         sư cũng thuyết phục: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên,
         nhìn qua thì thật là logic. Một cái logic trừu tượng—dầu
         có nhiều thí dụ minh họa—lấy trong kinh sách.  Làm
         như thế để mình đi vào một tổ chức tôn giáo: một
         trật tự xã hội, với những đẳng cấp, lễ nghi, qui ước—nhiều
         qui ước còn khắc khe gấp mấy ngoài đời của người dân
         giả—gọi đó là con đường thoát khổ. Mượn kinh
         sách, Sư dạy rằng bước đầu tiên để thành người
         Phật tử là quy y tam bảo, nương tựa, vâng lời và phục tùng
         tam bảo, mà trong tam bảo, có cái bóng của Sư.         Đạo Phật là đạo của sự giải thoát.  Không
         những giải thoát con người ra khỏi những qui định của thế
         gian, mà còn giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, đưa con người
         đến cõi vô sinh vô tử.  Nhưng nghe lời sư, nguyện
         quy y tam bảo, là tròng thêm vào cổ những qui định mới—
         thở sao cho đúng, tọa thiền hay thiền hành sao cho phải, ..; nào là
         quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường,
         quán pháp vô ngã, đã nói là quan sát, thì để
         cho chủ thể cái tự do nhận xét, thế mà lại buộc người
         ta phải thấy là ‘thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô
         thường, pháp vô ngã.’ Nói cách khác là đã rào
         đón, cột con người trong một cái nhìn; điều nầy trái
         với tinh thần Vô-trước của Đạo Phật, cũng trái với mục
         tiêu giải thoát ban đầu của Phật gia.  Sống đạo—Đạo
         Phật—là vô trụ ‘Không trụ ở chánh, không trụ ở
         tà, không giam mình trong những triết thuyết, giáo lý, tín lý—dù
         chúng có siêu việt, có vô-đẳng, vô thượng đến
         đâu.  Cũng không trụ ở chỗ vô trụ,’ để
         trí tuệ không bị giam nhốt trong thành kiến, trong định kiến.
               Tôi là ai? Vọng Chân? Tam Bảo? Tam-Thân?
         Những câu hỏi ấy ở trong di sản người xưa để lại. 
         Kẻ hậu học theo đó mà tìm. Có tìm ắt có gặp.
         Nhưng rồi như người bắt bóng. Gặp đó rồi mất đó.
          Càng tìm, càng mở rộng tầm nhìn. Càng tìm nó
         càng biến dạng, càng xa. Đó là ‘vị đáo sanh bình’;
         nhưng không để hận, mà để thấy rằng mình may mắn.  ‘Đáo
         đắc’ rồi thì còn gì để mà nói, phải bàn.
         Phải biết vui vì chưa đến, chưa đạt, vì lúc nào mình
         cũng là Phật đang thành.  Đó là một hồng ân.
         Houston, 01/15/2014                     Phỏng theo The Trinity & World Religions: The
         Buddhist Trikaya (pt.2). Nguồn: Internet.
                 
                     
            
      
           VỀ
         
 LÁ THU _____________________________    November 23, 2013 Anh Mai Lộc ơi,     Tôi có được email của Anh. Nội dung:    Cùng Bạn
         ,    Cali trời đang giữa
         thu , hôm nay cây cối mới bắt đầu úa vàng , không như
         các tiểu bang miền đông , mùa thu lá vàng đến sớm  hơn.
         Công viên nơi đây hôm nay lá vàng đã rơi đầy
         . Tôi cố giử tâm tư mình thật yên lặng trong những bước
         thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi
         cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc
         lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới
         chân tôi . Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác
         nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta . Xin gởi bạn
         một cảm tác mùa thu,     Thân mến     Mailoc    L Á THU
         . 
           Lâng lâng
         chiều nhẹ mắt say say , Tan tác rơi rơi
         lá thở dài .  Hiu hắt gió đâu từ vạn dặm , Nỗi sầu vạn cổ nắng thu phai
         . 
           Sương xuống mơ hồ ướt mắt mi , Bên đường lạnh lẽo đóa
         tường vi . Bóng
         người mờ ảo xa xa khuất , Trong bước phong sương nghĩ ngợi
         gì ?    Nắng chiều nhàn nhạt gió lơi lơi
         , Lạnh
         cả không gian thấm cuộc đời . Đường vắng bâng khuâng
         nghe lá khóc , Trong mây trong khói mắt xa vời  .    Quây
         quây trong gió lá thu rơi , Xao xuyến hồn ta đến cuối trời
         . Xanh tươi
         mới đó, đùa chim chóc , Nắng hạ vẫy chào, xác tả
         tơi .    Bên nhau đất khách những năm trường , Mỗi độ thu về mỗi vấn
         vương . Hương
         lửa ba sinh ngày một ngắn , Mái đầu hai đứa trắng như sương
         , 
                                                Mailoc                                     
         11-16-13    Cám ơn Anh đã cho một
         bài thơ rất dễ thương. Âm vận nghe như tiếng nhạc.   Lâng lâng, say say, rơi rơi, xa xa, lơi lơi,
         quây quây,  như nhảy múa nhè nhẹ trong gió thu, đùa
         cợt với lá thu, nắng thu. Lại thêm một thoảng buồn. Buồn vì
         thu? vì tuổi đời đã sang thu? ... hay chỉ vì thói quen,  buồn mỗi
         độ thu vế? Nhưng dễ thương nhất
         là bốn câu kết:    Bên nhau đất khách những năm trường , Mỗi độ thu về mỗi vấn
         vương . Hương lửa ba sinh ngày một ngắn , Mái đầu hai đứa trắng
         như sương , 
           *** Thiền sinh “cố giữ tâm tư yên lặng trong những bước thiền hành
         hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc
         mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng
         buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi.
         Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là
         cho những người tuổi vào thu như chúng ta.”    Thơ trong văn
         xuôi, gieo hạt giống thiền.    Thế mà  có người nói:
         “Thơ-thiền không là thơ. Văn-thiền không là văn. Nàng-thơ,
         nàng-văn, mặc áo tràng và bỏ đi mái tóc diễm lệ,
         không thơ thẩn, không văn vẻ với trăng gió tình trường,
         thì đã mất cả cái chất thơ, chất văn của  của
         nàng. Thơ-thiền hay văn-thiền cũng không là thiền, vì ngoại
         hình là ngôn từ và âm vận là của ta bà thế tục,
         mà tâm tư thì còn vướng bận bởi sắc, thanh, hương,
         vị của trần gian. Tương tự,  thiền hành không là thiền,
         cũng không là đi bình thường, như người bình thường,
         ‘hằng ngày’ với tâm vô quái ngại.’    Thiết
         nghĩ: ‘Lá thu’ là
         ‘tiếng chuông tỉnh thức’.  Tâm đang muốn tự nhốt mình
         trong yên lặng, với mộng ước—ngầm sâu trong tiềm thức, ẩn
         tàng trong vô thức—một tâm-thức tìm cầu yên lặng. Nhưng
         rồi ‘những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi
         nằm im lìm dưới chân’ đã làm thiền sinh thức ngộ
         trở về thực tại:  Thu về, thu đẹp, thu buồn. Buồn man mác.
         Thiền ở đâu? Mà Nàng Thơ ở đâu?  Phải chăng ở
         thời điểm ấy, mình đã trở vể với chính mình, trọn
         vẹn với mình.
  Nhờ vậy, tôi  hưởng được ‘Lá
         Thu’ của Anh.      ***  
         ‘Trở về với chính mình’
         là câu tôi thường nói hay viết.   Mới đây tôi dại
         dột, thêm một lần nữa,  viết lên giấy trắng mực đen. 
         Một ông bạn già của tụi mình, anh Phan Khắc Trí, hỏi lại:
         Cái mình của anh là ai?     Tôi lúng túng, làm thinh. 
           Hôm nay, thiền sinh cho tôi một ý:     Trong cuộc sống vô thường, ồn ào, năng động, đầy
         dẩy ô nhiểm, thiền sinh tìm sự thanh tịnh, tĩnh lặng trong lòng.
         Có thể đó là thái độ bỏ vọng tìm chân.  Muốn
         tìm về với cái chân thật nhất của mình, mà mình bị
         che lấp, mà mình nghĩ rằng vốn là thanh tình.  Hằng ngày,
         người thiền hành, ung dung tự tại.  Nhưng chiếc lá thu, một
         chiếc thôi, ở ngay thời lúc ấy, vô tình
         đưa người trở vế thực tại, thực cảnh, thực tâm, nghe
         lòng buồn man mác, cái buồn sang thu, buồn vì tuổi đã sang
         thu, buồn vì thân phận. Rổi thả hồn mình với thơ văn, với
         âm vận. Rồi chia xớt chút gió thu, lá thu,  tình thu với bè
         bạn.    Cái quá trình ngắn ngủi nầy là biểu hiện
         cái ‘mình’ của thiền sinh. Ở mỗi thời điểm,
         cái ‘mình’ ấy hiện hữu, rất thật, Với thiền sinh,
         nó thật có, ‘Nó’ không  là hư giả.  Chỉ vì
         ‘Nó’  chỉ hiện hữu--ở một thời điểm—mà
         thời điểm thì không có chiều thời gian (một sát na đã
         là nhỏ, thời điểm thì vô-cùng-nhỏ hơn một sát na),
          chỉ vì vậy, vì không nắm bắt được, hay nhốt bất
         cứ cái gì xảy ra trong thời điểm,  mà có người nghĩ
         ‘Nó’ không thật;  và xúi quẩy người khác đi
         tìm chân.  Còn tìm,  ắt chưa gặp. càng tìm thì
         càng thấy xa vời.  Cho nên, cái chân như mà thiền sinh tìm
         trong thiền hành,  thật ra là vọng tưởng.    Có thể
         nghĩ: ‘Nó’ do tâm, do thất tình lục dục—một phần
         của tâm— mà ta ý thức được.  ‘Nó’ là
         hiện tượng biểu hiện ‘Tâm’. Tâm—Pháp thân, Phật
         tính— là chân như, vĩnh hằng, bất biến, bất sinh diệt, như
         các thầy, sư sải thường giảng.      Nhìn ‘Nó’ suy ra chân như. Suy ra là logic. Logic thuộc lý
         luận. Cái mà suy ra từ lý luậc là concepts,
         quan niệm. Quan niệm là một cấu trúc của tư duy :  không
         thật có , không hiện hữu.. Trong cái nhìn đó, chân-như-suy-ra-từ-logic
         là vọng mà hiện tượng là thực, hiện tượng hiện hữu
         ở mỗi thời lúc.  Nhưng hiện tượng như bọt biển, không nắm bắt
         được, có đó rồi mất đó, nên có thể xem là
         vọng, phát xuất từ một cái gì hằng tồn bất biến vô
         tử vô sanh. Cái vòng lẫn quẫn, đúng sai, thị phi, chân vọng.
             Vậy, không nên cột mình vào vọng hay chân.  Cũng
          đửng xung đột nhau vì phải trái đúng sai, hay dỡ.  Đừng
         cố chấp, đừng chấp. Bất chấp, không có nghĩa là không
         biết phải trái, đúng sai, mà là ý thức—hay tỉnh thức—rằng
         đúng sai, hay dỡ, phải trái là theo tiêu chuẩn nào của người
         đời, ý thức những tham số của sự đánh giá, ý
         thừc rằng sự đánh giá phải được qui vế một khoảng
         thời gian  và bối cảnh nhất định. Thời gian qua, bối cảnh
         không còn, thì nên buông bỏ, xả bỏ. Ôm vào lòng làm
         chi để lòng thêm nặng.     Vậy, cái ‘mình của anh,
         của tôi’ có thể là những hiện tượng có thật
         ở một thời điểm.  Một thời điểm, ngắn lắm, không
         chuyển được thành lời.  Nên phải làm thinh.    Đó
         là nói với nhau, trong vòng thân mật, giữa chúng mình là
         điều dễ cho phép, vì còn có một thời mình được
         học các khái niệm về điểm, đường thẳng, …, vận
         tốc của một điểm di động ở một thời điểm nhất định[1].       Câu mở đầu email của Anh,
         đã đưa tôi trở lại những trăn trở tuổi trung niên, khi
         làm quen với nghề dạy học. Tôi là ai? Rồi dạy học là
         gì? Là giáo dục. Mà giáo dục phải chăng là vạch sẵn
         một con đường mòn—con đường thành nhơn chi mỹ. 
         Rồi lùa tuổi trẻ vào đó.  Xưa, đã có người,
         và rất nhiều, đã ‘khóc cho một hôn quân vô đạo’,
         vì trunng với vua, thì nay cũng có ‘yêu nước là yêu xã
         hội chủ nghĩa,’…. Và mỗi lần, câu hỏi trở lại với
         tôi, tôi lại nhớ bài thơ của Tô Đông Pha;     Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều Vị đáo sinh bình hận bất tiêu Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự Lô Sơn yên toả Triết Giang triều     Thiền sinh muốn trờ về lại chính mình.  Mình là ai? 
         Nhưng mãi đến tuổi nầy, quá bát thập, đã cận ngày
         về với ông bà, thế mà vẫn chưa về đến. Kể là
         một cái may lớn mà thân phận dành cho mình.  Lần
         nữa cám ơn Anh. ‘Lá Thu’ đã làm tôi xao động, Câu
         mở đầu đã dẫn tôi đi lung tung.   Thân chúc Anh Chị
         một thu đời thật đẹp.    Thân,  Trường      
           P.S.: Đồng kính gởi quí anh: Pham Khắc Trí, Trần Bang Thạch
         và Đổ Chiêu Đức. ___________________________________________________________________________     
      
          QUY Y TAM BẢO      Thoạt nhìn thấy tựa bài,
         chắc không ít người nghĩ đề tài về quy y tam bảo
         mình đã đọc hay đã được nghe giảng hơn 1 lần rồi.
         Và đã hiểu theo kinh điển cũng như đã sống nhiều năm
         nay : quy y tam bảo là sự-quy-y mà thôi : đi chùa, lạy tượng,
         nghe pháp, kính tăng, theo những nghi lễ được dạy.    Nhưng khi lần
         lượt nghe tác giả, qua nghiên cứu và qua nhận định rất cá
         biệt của mình- nếu không muốn nói là đi ngược với
         cái lý thông thường (controversial) -, người đọc không khỏi
         ngỡ ngàng như được bước ra từ một áng mây mù
         để thấy : Quy y tam bảo là trở về với chính mình, tỉnh
         thức trước hiện tình, và tự tri, tự giác. Như tác giả
         nhận định : Phật , Pháp, Tăng đã sẵn có trong mình,
         nhưng vì vọng tưởng che lấp, tâm mình bị giao động. Quy y
         tam bảo không là đánh mất mình trong sự-quy-y ; và không
         lúc nào là ‘kính vâng hay phục tòng’ bất cứ ai.
            Trân
         trọng cảm ơn tác giả - một Niên Trưởng Đồng Môn - đã
         cho phép Trang Nhà đăng bài này trước tiên. Xin ân cần
         gởi đến Bạn Đọc Trang Nhà. 
          BBT Trang Nhà                                    
                          
    Quy Y Tam Bảo     Nguyễn
         Văn Trường                 Tôi chân thành cám ơn Ông Đồ Đổ Chiêu Đức,
         nhà văn Trần Bang Thạch của chúng tôi. Hai ông  đã giúp
         tôi rất nhiều trong việc hình thành bài viết nầy ____________________________________________________________      Học, thường thì phải có thầy.  Quy y Tam
         Bảo lễ bái sư và cũng là bài học đầu tiên của
         người Phật tử.   Bài này gồm hai phần[1]:  I, II,  
           Phần I:     Chủ yếu là tóm lược những điều
         mà chúng tôi học được—về quy y tam bảo— từ quý
         thầy, thiện tri thức—sư sải, cư sĩ, quý anh chị Phật tử:
          nghe thuyết pháp ở chùa, pháp đàm trên You Tube, đọc sách
         hay internet, ….  Tuy nhiên, đối với những người sơ cơ như
         chúng tôi, thiết nghĩ không gì bằng Bài Thứ 4: Quy
         Y Tam Bảo, Khóa I, trong Phật Học Phổ Thông, của Hòa
         Thượng Thích Thiện Hoa.  Cho nên, phần I dành tóm lược
         Bài thứ 4 nầy.  Trong phần I nầy, những đoạn trích dẫn
         được để trong ngoặc đơn . Thí dụ: ‘Quy-y là trở
         về nương tựa’.  Đối với đông đảo bạn bè
         tôi, và riêng với chính tôi, Hòa Thượng Thích Thiện
         Hoa là một bậc chân tu.  Bộ Phật Học Phổ Thông là
         là bộ sách đầu giường của chúng tôi, khi chưa có
         Internet. Với tôi, đó là một cuốn bách khoa toàn thư về
         Phật Học—kiến thức phổ thông, rõ, súc tích và chính
         xác.     Phần II.      Là những suy nghĩ của riêng chúng tôi. Nếu chúng tôi
         theo quý thầy trong Lý-Quy-Y—Quy Y là trở về với chính mình—,
         thì có một sự dị biệt rõ ràng về Sự-Quy-Y. Dị biệt
         không có nghĩa là bài bác.  Dị biệt nói lên một
         cái nhìn khác, với  thành tâm kính trọng bậc tu hành.
           Người viết là một ông thầy giáo dạy toán.  Vốn
         liếng về kiến thức triết học gần như là không. Cho nên
         những gì chúng tôi nêu lên không là triết thuyết.  Cốt
         tủy là những suy nghĩ của chúng tôi, về những gì học hỏi
         được với nhiều thầy—sư sãi, thiện tri thức—đối chiếu với cuộc sống tu học của đông
         đảo Phật tử trong đó có chúng tôi.    Nghi thức
         quy y là nội dung của một bài khác.
    Giờ thì xin mời đọc giả vào đề.              
                                              
                           
         Phần I               
                                                                                   Tóm lược Bài 4. Khóa
         I. Quy Y Tam Bảo.     Phật
         Học PhổThông.         1.
         ‘Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.      1.1- ‘Quy là trở về. Y là nương tựa, Quy-y là
         trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng đãng lìa
         bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ
         để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm
         khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc
         và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tòng.’      1.2- ‘Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP,
         TĂNG.’       ‘a) PHẬT: Chữ Phật
         do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa
         là: Bực đã giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương
         diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh
         viên mãn.’  
    ‘b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa
         ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để
         diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả
         Phật. Ba Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.’      ‘c) TĂNG:
         Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu
         dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành
         từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng
         giữ giới luật của Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách hòa
         thuận những gì đã thâu nhận được, từ vật chất
         đến tinh thần.’     1.3- ‘Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa
         ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.’      ‘Phật là đấng
         hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô
         biên, đức hạnh viên mãn’  
           ‘Pháp của Phật là
         đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ,
         đến bờ giải thoát.’   
           ‘ Tăng là người
         đã hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện
         theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.’”[2]       2. Sự-quy-y Tam Bảo 
               2.1
         – ‘Sự Quy-Y Phật: Hằng
         ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu
         Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo
         bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.’      2.2 – ‘Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm
         hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý
         thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc
         tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ
         xằng bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn
         mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được
         dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.’     2.3- ‘Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật,
         phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật
         bao nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người
         thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo
         vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính
         nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức
         Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.’  ‘Tóm lại, thờ
         Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phật pháp, kính trọng
         Tăng già chân chính, đó chính là sự-quy-y tam-bảo.’       3. Lý-quy-y Tam
         Bảo       ‘Lý là bên trong. Lý-quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng
         ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự-quy-y,
         chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là
         quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành
         đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ
         Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý-quy-y, hay Tam Tự-Quy-Y:’
    3.1- ‘Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là
         mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của
         tâm mình, - Vâng mỗi người đều
         có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Ðó là
         lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê
         lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật
         tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu
         diệt được trăng sáng.’    3.2- ‘Tự Quy-Y Pháp:
         nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ,
         Bình- đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát
         huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo
         chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp.’ 
             3.3- ‘Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng
         theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình
         là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp
         thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận
         thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình
         nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải
         quy-y Thầy của mình trước đã chứ!’      Nói tóm lại,
         mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm mình là
         tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là các đức
         tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa
         hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.’
                      Phần II    Thiết nghĩ :    1. Về Sự-quy-y :     1.1. Quy Y Phật ?   Phật là
         một nhân vật lịch sử. Thái Tử Tất Đạt Đa Cổ Đàm
         tu và thành Phật. Người  cũng là truyền thuyết của một
         gương sáng vĩ đại về sự giác ngộ. Tự giác, giác
         tha, giác hạnh viên mãn.  
    Người tu hành noi gương Đức Phật mà
         hành trì tu tập, thiết nghĩ là một việc tốt, nên làm. 
         Thiếu đức tin, khó mà kiên trì, tu tập, giữ được lời
         nguyện. Đức tin là cấn thiết.    Tuy nhiên,   Cũng đừng vì đó mà
         luyện thiên lý nhản, hay thuận phong nhĩ, hay,..để được thần
         thông như Tề Thiên Đại Thánh.  Thời bây giờ, trong mỗi
         việc, gần như đều có những phương tiện thích ứng. 
         Không cần biết đằng vân, con người vẫn có thể đi nửa
         vòng trái đất không quá một ngày-đêm.  Cũng không
         để thành Phật.  Chưa xuất thế, thì còn là người
         trần tục.  Càng đạo cao đức trọng, càng thấy mình
         còn xa Phật quả. Còn là người thì còn lăn trong giòng
         chảy
         vô thường. Đời người là một quá trình biến đổi
         không ngừng— uninterrupted process of transformations, mà mọi việc đều tương
         đối. Tốt xấu, đúng sai, thiện ác,  giàu nghèo, sang hèn,...thị
         phi đôi ngả : cái nầy khác hẳn cái kia nhưng xác định
         cái kia. Nói cách khác là không có cái nầy thì cũng
         không có cái kia. Cho nên, có tự giác, giác tha, thì trong giới
         hạn khả năng của người đời, hạnh
         giác ấy không bao giờ viên mãn. 
         Là người không là Phật, cũng không
         thể là những xuất thế gian tăng bảo. Luôn ý thức về điều nầy,  thì
         có thêm nghị lực  hành trì tu học, thì có khả năng
         mở rộng sự thấy, biết, hiểu của mình, mở rộng và
         đào sâu tính giác của mình, và nhờ đó mà cảm
         nhận rằng sự giác ngộ của mình có giới hạn. Mình có
         khả năng luôn nới rộng giới hạn nầy, nhưng bên kia lằn ranh
         giới hạn là phần mù của mình. Nói cách khác là hành
         tu là làm cho cuộc sống của mình và của môi trường chung
         quanh mỗi ngày một tốt hơn cho mình, cho tha nhân và vạn vật.
         Ngày nào mà mình thấy mình đạt đạo, đắc quả,
         ngày ấy phải tự xét lại mình, coi chừng mình ‘chết’
         vì thành đạt, nếu không là ‘chết’ vì sự cao ngạo.
           Cuộc sống không có điểm đến :  Vừa
         đạt được một thành quả, thì trực nhận ngay rằng nó
         không hoàn hảo, hoặc có những cái khác mà mỉnh phải
         học hỏi và tìm hiểu thêm. Hoàn thành một giai đoạn thì
         ngay thời lúc đó,  là khởi điểm của một giai đoạn
         mới.  
           1.2. Quy Y Pháp ?     Pháp là văn chương, ngôn
         từ.  Hầu hết là truyền khẩu từ đời Đức Phật Thích
         Ca cho đến kiết tập lần thứ nhất, rồi lần thứ nhì,.... 
         Rồi sang các tổ.  Rồi chuyển từ tiếng Phạn sang chữ Hán,
         rồi chữ Hán sang Việt Nam. Tam sao thất bổn,
         không ít.  Ngay di
         sản của các tồ cũng vậy, ít nhiều không là chân truyền. 
           Hơn nữa, ngôn ngữ thay đổi theo
         thời gian, và từ ngữ cũng thay đổi nghĩa theo bối cảnh, và
         câu văn.  Cùng
         là quy y tam bảo, nhưng có người hiểu là sự-quy-y mà thôi :
         đi chùa, lạy tượng, nghe pháp, kính tăng, theo những nghi lễ được
         dạy.     Có người thì hiểu quy y là trở về với Phật
         tánh, với Pháp tánh, với cái tâm thanh tịnh, vốn biết sống
         trong lục hòa; tất cả--Phật, Pháp,Tăng—đều sẵn có
         trong mình.  Cho nên,  trở về với tam bảo là trở về với
         chính mình[3]. Nói cách khác là quí vị nầy thiên
         hẳn về lý-quy-y.   Và theo Hòa Thượng Thiện Hoa,
         và đông đảo Phật tử thì quy y tam bảo có cả sự-quy-y
         và lý-qui-y. 
    Xưa có câu :    Y Kinh giảng nghĩa, tam thế Phật
         oan,  Ly Kinh nhất tự, tất đồng ma thuyết.    Y, không được !
         mà ly cũng không được !     Kiến thức trong sách vở--nói riêng trong ba tạng kinh điển, là
         kiến thức trơ, vô hồn—inert, có khi đã thuộc một ngôn ngữ chết. 
         Người học phải làm chúng sống lại, căn cứ vào thực
         nghiệm tu tập, làm cho chúng có nghĩa lý, và đổi trao với
         thầy, với bạn theo đó mà trải nghiệm, để ‘liễu tri,
         liễu nghĩa’. Liễu là  tỉnh thức. Đừng mê ngủ mà
         nghĩ mình đã giác ngộ rốt ráo, cũng đừng tự ti. Tỉnh thức để
         thấy thật biết thật.  Cái thật ấy có thể là ý thức
         những giới hạn của mình, phần sáng và phần mù của mình,
         và mạnh bước vào một giai đoạn mới. Tri và hành thường
         có khoảng cách ; sống đạo—trong
         một giới hạn nào đó—là thực sống, ý thức và
         hành trì thu hẹp khoảng cách đó.  "Ðạo Bổn
         Vô Ngôn Thuyết" .Thường thường, con người chụp cái nhìn riêng của
         mình —sở đắc, thói quen, cái tôi vọng tưởng—trên
         sự việc, và hiểu pháp theo cái nhìn chủ quan đó. Ai ai cũng
         như vậy mà thôi.   Cho nên, đừng chụp cái tôi vọng
         tưởng trên Pháp, rồi ‘ngộ’ đó là chân Pháp.
         Và nếu có thật ngộ, cũng không ỷ lại nơi Pháp.  Và
         chắc chắn là : Pháp không là
         những công thức.
    3.2. Quy y tăng ?    Cái hiểu biết của con người—của sư,
         của thiện tri thức, của chính mình— là chủ quan và giới
         hạn ; theo đó, cái ánh sáng của con người thật giới
         hạn, dầu rất hữu ích. Hữu ích vì cuộc sống thật, trong một giới hạn
         nào đó, rõ ràng là giao lưu,
         đối thoại, đổi trao, nói riêng những  hiểu biết và
         kinh nghiệm. Cuộc
         sống vốn là mở, mở rộng trên môi trường. Cho nên tu
         không là đóng cửa rút cầu, thu mình trong một tháp ngà,
         đời  đục ta trong. Nói như vậy, không phài là xúi
         quẩy rằng đời đục thì ta quậy nó cho đục thêm.     Thời của chúng ta là thời kinh tế thị trường.
         Trong các thị trường kinh tế có thị trường tu hành : sách báo, truyền thanh, truyền
         hình, đại hội văn nghệ sĩ giúp vui gây quỹ xây chùa,
         nhà thờ, tu viện, nhà nguyện, thiền đường, dịch vụ ma chay,
         cúng sao, cầu siêu, cầu hồn, xin xăm,..... và còn nhiều thứ
         khác nữa. Đồng tiền do đó mà quay, một số người
         nhờ đó mà sống.  Người bằng lòng mua, kẻ vui vẻ bán,
         góp phần vào sự  phồn thịnh chung của cộng đồng.  Không có cái gì đáng trách.  Có chăng là đông
         đảo sư sải—hay nói chung các nhà tu hành— trở thành
         lái buôn. Mục đích của người buôn bán kinh doanh là :
         lợi nhuận.  Vui lòng khách đến, vừa lòng  khách đi,
         là câu châm ngôn của người khéo buôn, khéo bán.  
         Cho nên cũng không có gì đáng trách.    Nhưng quy y người lái buôn hoặc nhà kinh doanh thì
         thật không nên, nhất là quy y trong cái
         nghĩa ‘nương tựa, kính vâng hay phục
         tùng’.  Cũng không nên quơ đũa cả nắm, nói rằng thời nay là thời mạt pháp, quỷ ma đầy
         dẫy trong các nơi dành cho công quả tu hành.  Thời nào
         cũng có bậc chân tu, tâm hướng về Phật, về Chúa.     Cũng nên ghi : Tăng ni ngày nay, ít nhất là trong giới
         hạn của cuộc sống thực tiễn của các sư sải trong các chùa,
         không có ‘hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng’.  Thông
         thường, như họ giảng, tu là để  thoát khổ.  Đi tu
         Phật, trước tiên là tìm đường thoát khổ cho chính
         bản thân mình. Tìm con đường thoát khổ cho chính bản thân
         mình, đặt tham vọng—rất chính đáng—trong cứu cánh
         là siêu thoát—thoát khỏi sinh tử luân hồi—nhằm ‘đạt
         Niết bàn tuyệt đối’, mà nói rằng mình hy sinh, thì
         có thể đó là hy sinh cái kim sợi chỉ đỗi lấy đền
         vàng điện ngọc.    Tóm lại, sự-quy-y là hướng ngoại : Phật, Pháp,
         Tăng ở ngoài ta. Có nhìn hướng ngoại, thì phải dè dặt. 
         Đừng thấy ma mà tưởng là Phật, gặp lái buôn—dầu
         có chứng chỉ xác nhận là tăng hay ni của giới thẩm quyền
         -- mà nhận là bậc chân tu.  Đừng nghe Pháp mà tâm đầy
         vọng tưởng. Trong sự-quy-y, tin phải có nghi. Tin rắng cái biết của
         mình giới hạn, và cũng tin rằng mình có khả năng mở rộng
         giới hạn nầy. Nghi vì có lắm việc mà mình mù không
         thấy biết.         2.  Về Lý-Quy-Y :    Lý quy y là trở
         vế với chính mình.    ‘Tự quy-y
         Phật là mình ‘tự
         trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình’    ‘Tự
         Quy-Y Pháp: nghĩa là ‘vâng
         theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả
         các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục,
         Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành
         động theo chúng’    Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là ‘vâng theo Thầy trong tâm
         mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp
         thanh tịnh của mình.’    Phật , Pháp, Tăng đã
         sẵn có trong mình, nhưng vì vọng tưởng che lấp, tâm
         mình bị giao động.  Tài, sắc danh, lợi, những sở đắc
         và giá trị mà mình thu lượm và thiết tha bảo quản suốt
         giòng đời là cái màn che lấp đó.  Do đó,  mình
         không thấy được chân tâm ; mình điên đảo, mê
         muội.   
            Rồi duyên đưa đẩy, mình sực tỉnh, biết mình đang mê. Thế
         nên, tìm thầy, tìm ‘dược sư’, tìm một bài thuốc
         an tâm.  Khởi đầu học Phật có thể là bỏ vọng tìm
         chân : vọng che lấp không cho ta thấy cái chân tâm ; vọng
         rơi, chân tâm hiện rõ.  Đó là quá trình tu tập logic
         để ‘khai, thị, ngộ, nhập, tri kiến Phật.’   Lý luận
         nghe dễ ợt. Nhưng logic, lý lẻ chỉ là một phần của cuộc
         sống tâm linh. Nó thuộc cái lớp trên mỏng dính của tâm
         linh mà các nhà tâm lý gọi là ý thức. Ý thức
         ví như cái phần mỏng nhỏ nổi trên mặt nước của tảng
         băng trôi. Cái phần chìm sâu trong tâm thức con người, tìềm
         thức—the unconscious, không khác cái phần khuất dưới nước
         của tảng băng trôi.  Nó chiếm gần hết tâm thức, nó
         là người chỉ đạo vô hình, vô tướng, nó là ông
         thầy tuồng trong bóng tối, chỉ huy và sai bảo, và ta thì theo đó
         mà làm trò, múa nhảy.   Ý thức và tiềm thức là
         tảng băng ngã vọng của con người, là nguyên nhân che lấp
         cái thật, cái chân thật của sự vật, nói riêng che lấp
         chân tâm.    Vọng ngã, vọng tâm là cánh cửa ngục
         tù, giam nhốt con người trong vô minh, nhưng đó là một ‘vô
         môn quan’-- ải quan mà không có cửa—vì thực chất nó
         là lớp sương mù dày đặc, che lấp không cho ta thấy cửa
         quan.  Cho nên, không qua được quan ải, không về được với
         chân tâm.    Cho nên quy y tam bảo là một sự thức tỉnh. 
         Tỉnh ngộ :  biết mình đang trong mê, điên đảo vì
         các sở đắc, tạp niệm, và nguyện khởi xướng một hành
         trình mới trở về với  tự tánh ngay trong  chính mình.
         Đó là :‘Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt,
         Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thanh tịnh’  để sống theo lục hòa, để
         tu và hành, ‘tự đốt đuốc lên mà đi’ để
         tiến về bến giác.
    Kết luận :     1.  Tu không có nghĩa là hy sinh. Còn
         thấy mình hy sinh, mất mát một cái gì đó, là còn lắm
         vấn đề--nhất là thuộc lãnh vực tâm linh, mà có khi còn
         tệ hại hơn cả người bình thường thế tục.  Đó
         có thể là dấu hiệu của một sự vị kỷ ẩn tàng,
         và sâu đậm.  Đó cũng có thể là ảo tưởng
         bắt gặp chân lý, và được cái thiên chức là dẫn
         dắt chúng sanh trên đường Ðạo.
    2. Tăng ni ngày nay đông đảo theo kinh tế thị trường,
         và là những nhà kinh doanh.  Nghi lễ kinh doanh của nhà chùa
         thường thường là: Sư phải được thỉnh, sư giáng
         lâm, sư ban pháp, đại nhạc hội của sư không gọi
         là kết thúc mà gọi là hoàn mãn, mọi việc
         của sư đều tròn--viên mãn, viên giác, viên thông
         ...và gần như tất cả những nghi lễ kinh doanh ấy, để cho tròn,
         cho trọn, phải có cái giá của chúng, giá trị thị trường.
         Có khi cũng đắc (giá vé cao) lắm. Sư không chết, sư viên
         tịch, nói khác là chết tròn. Thí chủ là con chiên,
         được dạy cúng dưởng, tu phước. Chùa chiền lắm
         khi là nơi tổ chức đại nhạc hội, ‘múa đôi’, xin
         xăm, cầu hồn… Công việc của sư là cầu siêu, cầu an,
         tổ chức những ngày ‘lễ lớn’—Phật Đản Sinh, Phật
         Thành Đạo, Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu,…. và những đại
         nhạc hội gây quỹ,...  Thỉnh thoảng sư có nhập thất, công
         bố cho mọi người biết, để không ai khuấy rầy sư. Sát
         suất về những điều nêu trên đây rất cao.  Nếu sư
         có sa ngã, lỗi là tại Phật tử làm hư sư.  Không phải
         tại sư. Cũng không phải do những biến cố thị trường. 
         Chắc chắn người tìm đạo, không làm lễ bái sư với
         quí vị sư-kinh-doanh nầy.     Tuy nhiên, nói đi rồi cũng phải nói
         lại. Trong giới kinh doanh
         có đủ hạng người. Đừng khư khư khẳng định như
         người xưa rằng ‘thương nhân đa trá’. Có những
         thương nhân đa trá, nhưng cũng có những người chân chất. Có
         những người cúng sao, ‘mở cửa địa ngục’, chiêu hồn
         về từ cõi âm, cũng có những người giỏi kinh giỏi kệ,
         và giảng kinh kệ có phẩm chất. Không nên in trí rằng những
         điều họ nói điều là rao hàng. Có trách chăng là
         một số đông ăn trên ngồi trước, sống một cuộc sống
         chăn ấm nệm êm, luôn có thị giả ở bên,... mà lòng
         trơ đi, gọi như vậy là chay tịnh trong lòng. Có trách chăng
         là một số tín hữu, nhẹ dạ hay vì thói quen trong thị trường
         danh lợi, nên muốn đầu tư cho kiếp sau : phước huệ song tu,
         cả hai đều có lợi.   Vậy, nên lắng nghe cho biết giả lẫn
         thiệt, để đối chiếu cái học và cuộc sống—nói
         riêng cuộc sống tu hành.  Gọi như vậy là học về cuộc
         đời, cuộc đời thật sống.  Nghĩ cho cùng, tu Phật
         là sống thật, thật với mình, thật với tha nhân. 
    Tóm lại,
               Quy y tam bảo không
         là đánh mất mình trong sự-quy-y ; và không lúc nào là
         ‘kính vâng hay phục tòng’ bất cứ ai.   Quy y tam bảo là
         trở về với chính mình, tỉnh thức trước hiện tình, và
         tự tri, tự giác.  Tri là biết, giác –bộ kiến, trong
         Hán Việt, kiến là thấy—hàm ý một khám phá.  Xưa
         nay mê lầm, không thấy, nhờ tâm hư được tĩnh lặng, nên
         mới thấy, mới khám phá, tỉnh thức, ra khỏi cơn mê, bắt
         gặp cái thật : cái chơn như, cái chính thật là mình.  Cái chính mình ấy là gì ?
         Nhà Phật bảo : Cái thể của nó là Không.  Tướng
         của nó là Vọng. Nghĩ cho cùng,  đó là Tam-Thân-Phật :
         Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Ba mà là một ; một mà
          là ba.   Nhưng đó lại là nội dung của 1 bài khác.
    NGUYỄN VĂN TRƯỜNG     Tháng 10-2013    _________________________________ 
                Sơ lược sách tham khảo :    -Hòa
         Thượng Thích Thiện Hoa. Phật Học Phổ Thông, Khóa I Bài 4  Quy
         Y Tam Bảo  -Vương Thúy Nga.  Chúng tôi học kinh  -Hòa Thượng
         Thích Viên Minh, Quy Y Tam Bảo. Pháp Đàm..    -Thượng Tọa Thích Minh Thành,
         Quy Y Tam Bảo. Pháp Đàm. You Tube.  -Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ. 
         Tiền làm Động Tâm. Tiền sinh Bất Tịnh.  Internet    Việt Nam, Chúa
         chiền và tiền bạc. BBC    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/04/130415_vn_religious_profits.shtml      
             [1] Chúng tôi theo trình
         tự của Phật Học Phổ Thông của
         Hòa Thượng Thích Thiện Hoa.    [2] Trích Phật Học Phổ
         Thông. Quy Y Tam Bảo.    [3] Hòa Thượng Viên
         Minh: Quy Y tam bảo là trờ về với sự sánh suốt, bình tĩnh, trong
         lành sẳn có trong chính mình. Thượng Tọa Thích Minh Thành:
         Quy Y tam Bảo là trờ vế với ngọn đuốc tình thương, với
         từ bi và bình đẳng, với tính thanh tịnh của chính mình.
         Nguồn: Internet. Pháp Thọai ______________________________________________________________________________________________________________          
      
      Bạch Mã Phi Mã ◙ Đằng Giao Tiểu
         Muội ◙ Cựu học sinh trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ và Le Myre De Vilers, Mỹ Tho 
 BBT: Bút hiệu mới nhưng người viết chính
         là bậc trưởng thượng của Trường Nhà, cũng là ngòi
         bút từng xuất hiện trên Trang Nhà. Bài viết mở ra 1 cái nhìn
         thật độc đáo và sâu sắc về hiện trạng đất nước
         mình. Người đọc hình như không thấy đầu óc nặng
         nề với cái ý chánh trị của toàn bài vì tác giả
         đã khéo léo hòa quyện nó trong ý văn bi hài. Vừa đọc
         vừa suy nghĩ. Vừa suy nghĩ vừa buồn cười. Cười châm biếm
         với những “người-thánh” đầy dẫy khắp nơi, đặc
         biệt là ở quê nhà! Ở tuổi tam thập, tôi tiếp cận với câu ‘Con ngựa
         trắng không phải là con ngựa.’ Hán Việt nói gọn hơn:
         ‘Bạch mã phi mã.’ Đó là câu nói của Công
         Tôn Long, khi ông qua một cửa ải, bị quân lính chận bảo ông
         phải xuống ngựa. Ông bảo: ‘Bạch mã phi mã.’ Con ngựa của
         Ông là con ngựa trắng. Vì ngựa trắng thì không là ngựa,
         nên ông không xuống ngựa. . Câu chuyện
         chỉ là vậy. Thế mà, Công Tôn Long, một nhân vật của Danh
         gia—sắp vào hàng thứ tư trong Bách Gia Chư Tử--nổi tiếng
         là ngụy biện. Từ ấy, nhiều triết gia văn học bàn về
         ‘ngựa trắng không phải là ngựa.’ Cụ Giản Chi, trong Đại
         Cương Triết Học Trung Quốc cũng có nói qua, và trên net có
         nhiều học giả bàn tới. Nhưng thú thật, càng đọc tôi
         càng mù mờ. Ôi triết học sao mà cao siêu quá lắm vậy!
  Thế nhưng gần đây, nhớ lại thời trung niên—gần hai
         thập niên sống với những người quân tử thời hiện đại:
         ‘ăn chỉ gần no, mặc chỉ gần đủ ấm’, tôi mới ngộ
         ra cái nghĩa của ‘con ngựa trắng không phải là ngựa.’ Số
         là: Họ là những con người ‘thánh thiện’.  Họ nói cái gì cũng đúng. Người người, nhà nhà
         đều hồ hởi, phấn khởi, vỗ tay, đồng loạt khen rằng họ
         đúng. Mọi người đều ghi tâm khắc cốt rằng: ‘sông
         có cạn, núi có mòn, nhưng chân lý ấy của họ thì
         luôn không bao giờ thay đổi’. Họ là ‘lương tri của
         thời đại, đỉnh cao trí tuệ của loài người’. Họ
         là những nhà tiên tri—prophets— thời nay. Mà là tiên
         tri tức thuộc bậc thánh.  . Trong thực
         tế, họ là thánh. Họ là những tông đồ khai đạo. Đạo Xã
         Nghĩa của Hội Xích Thánh, dịch nôm là Hội Thánh Đỏ.
         Tổ chức Hội Thánh Đỏ và cách hành xử gần như thời
         kỳ các tòa án dị giáo—Inquisition— ở Tây Ban Nha, thế
         kỷ thứ 16, xử thiêu các người dị giáo. Trong thực tế, ít
         nhất là trong giới hạn những kinh nghiệm mà tôi trải qua, thì
         trong thế giới do các thánh quản lý, ai mà nghĩ khác, làm khác lời
         các thánh dạy, đểu là dị giáo— heretic— đáng lên
         giàn hỏa. Kẻ dị giáo không có chỗ đứng dưới sự
         cai quản của các thánh.
  Thánh không là người. Chính danhh chi thuyết, thì nếu là người
         làm sao gọi là thánh được. Vì thế nên: là thánh thì khó mà
         biết tình người, không hiểu tình người. Thánh chỉ biết Giáo Hội, giữ gìn đề cương của Giáo
         Hội.  Thế giới các thánh không có cái ác. Chỉ có thiện. Mà
         thiện ác tương sinh: không có ác thì làm gì có thiện.
         Vậy, thế giới các thánh cũng không có thiện. Không ác, không thiện.
         Nói đúng ra, thế giới các thánh là thế giới phi thiện
         phi ác. Cho nên khi đọc Beyond the good and evil—tựa của một quyển
         sách của Nietzsche, tôi giựt mình, và lo sợ. May mà tôi chưa
         có cái tò mò đi vào nội dung. Nói riêng, vào trong thế
         giới phi thiện phi ác của các thánh tôi sợ mình lạc đạo. Mà lạc đạo
         là dị giáo.  Sống với các thánh, một trong những
         phản ứng của tôi là thèm muốn, ước mong, thiết tha trở
         về cái thế giới loài người: Thế giới của thiện ác,
         của sự bất toàn, của sự đổi thay, thế giới phù du, nhưng
         cũng là thế giới của sự góp phần, của hy vọng, của lòng
         tin ở sự tiến bộ của loài người. Không chắc vô thường
         là tiến bộ, vô thường không là điều kiện đủ cho
         tiến bộ. Vô thường là điều kiện cần và tối quan trọng
         cho tiến bộ. Còn cái thế giới vĩnh hằng, miên viễn, nước
         của chư Phật, của Thiên Chúa, cũng là một thế giới toàn
         thiện, tuyệt đối tốt, tuyệt đối chân thật—không có
         ác, không có cái xấu, không có giả dối— cũng là
         một thế giới phi thiện phi ác. Và ở đó, có gặp các
         thánh thì cũng vui thôi. Mọi chúng sinh đều bình đẳng trước
         Phật, và trước Chúa!  Trong xã hội lãnh đạo
         do các thánh—mà các thánh muốn là phi thiện phi ác—thì mọi người đều
         trở thành người-thánh. Người-thánh không khác người thường. Người-thánh in hệt người
         thường về thể chất. Nhưng về trí tuệ tâm linh thì là
         thánh.
         Người-thánh, tương tự như trẻ con VN sinh trưởng ở Châu Âu, lớn lên
         ở Châu Âu, nói tiếng địa phương, nghĩ như người địa
         phương, thất tình lục dục như người địa phương. Chúng
         giống như trái chuối—ngoài vàng, trong trắng như Mỹ trắng.
         Bên ngoài, chúng là da vàng mũi tẹt, VN rặt, nhưng bên trong
         tâm lý, nghĩ suy,…, tất tất đều là như người địa
         phương da trắng, trắng tinh. Người-thánh cũng tương tự như vậy; xác người
         mà hồn thánh. Một cách nói khác –và thực tế hơn—thì
         đó là những con người như người thường, nhưng đã cầm bán linh hồn cho các thánh, nên
         nghĩ như thánh, lý luận như thánh, hành sự như thánh.  Thế nào
         là hành sự như thánh?  Một thí dụ: Với
         các thánh này, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh:
         một thế giới đại đồng, không có người bóc lột
         người, không giai cấp; làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu; người
         người, nhà nhà sống hài hòa trong hòa bình an lạc. Cái
         cảnh thanh bình lạc thiện, mà từ xửa từ xưa đến nay, các
         đạo giáo— Khổng, Lão, Phật, Thiên Chúa, Hồi Giáo, Ấn
         Độ Giáo,…— đều bất lực, không đem lại cho nhân
         loại được, thì các thánh có một con đường khoa học—con đường
         xã nghĩa— tất yếu đưa nhân loại đến Niết Bàn trần
         thế. Nói theo các thánh, nàng tiên xã nghĩa rộng mở cho mọi người,
         nhưng hoa đẹp nào cững có gai, nhưng đó là ‘hướng
         đi tất yếu của lịch sử loài người.’ Đường
         nào rồi cũng đến đó, nhưng con đường xã nghĩa là
         con đường ngắn nhất. Mọi phương tiện—cả gian giảo,
         lừa lọc, bạo lực, khủng bố, giết người, giết lầm hơn
         là tha lầm— đều tốt, buộc mọi người phải ôm lấy
         nàng tiên xã nghĩa nầy.  Vì vậy, mọi người phải
         là người-thánh, bằng không thì là dị giáo. Hồi xưa, chưa
         văn minh, còn đem thiêu sống. Giờ, thời đại khoa học, bị nghi
         là dị giáo thì bị tù khổ sai mọt gông, gọi như vậy
         là rộng lượng, bao dung, cải tạo để tri-kiến-ngộ-nhập xã
         nghĩa, và nhập thành người-thánh. Thế nhưng phải làm thế nào
         để thành người-thánh. Muốn trở thành người-thánh phải biết ‘tiên ưu hậu lạc’—‘lo
         trước thiên hạ và vui sau thiên hạ.’[1]. Nói rõ hơn là biết quên mình
         vì đại nghĩa, mà đại nghĩa là ở các thánh. Vậy, phải có ý thức cao độ về việc ‘bảo
         vệ các thánh’; ‘bảo vệ thánh thể’ là từ mới
         trong kinh xã nghĩa. Ngoài ra, phải được công nhận là: ‘có
         cái tự do là tự ý từ bỏ quyền làm người của mình
         và ủy nhiệm cho một thánh, đại diện cho mình—gọi là đại biểu.’ Sau
         đó, mình phải bằng lòng và vui vẻ hồ hởi, nạp tất
         cả sản phẩm mình tạo ra cho Hội Thánh, rồi Hội Thánh sẽ
         phát trở lại ‘công bằng’ cho mỗi người. Mọi người
         nhờ đó mà được ấm no.  Còn con cái?  Hồn mình
         đã giao cho thánh, thì con cái mình đương nhiên là đồng
         nhi của Hội Thánh. Hội thánh nuôi dạy, giáo dục, và đương
         nhiên là theo Kinh…Thánh, và cuối cùng là nhằm cho chúng
         thành... thánh, bằng không cũng thành người-thánh.  Người-thánh không cần phải
         suy nghĩ, không lo âu, khỏe ru, vì đã có các thánh nghĩ cho mình. Trong
         giáo dục, các thánh chú trọng đặc biệt về tính chất nầy. Trong
         thực tế, Hội Thánh dạy ‘dám nghĩ, dám làm’. Nhưng
         phải dạy sao cho trẻ con giác ngộ rằng nghĩ suy làm mệt trí,
         mà có khi còn nguy hiểm. Dành quyền tư duy cho các thánh—các nhà tiên
         tri đã thấu rõ ‘con đường tất yếu của lịch sử..’—và
         hành xử y theo các thánh dạy thì an toàn trên xa lộ đời người.
         Cho nên thường người ta huấn luyện để trẻ con biết ‘hồ
         hởi’, ‘vổ tay’ (khi thánh vổ tay), và nhất trí với những điều
         thánh phán.
         Dưới chế độ các thánh, con người hoàn toàn có an ninh và cơm
         no ấm áo! Vì không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn người
         bóc lột người. Cách đây hơn hai tuần, tôi
         có đi học đạo, Thầy G.Đ. thuyết về Thơ Thiền, Thơ Đạo,…
         Tôi nghĩ đến con ngựa trắng, đến những người-thánh—xác người-hồn
         thánh, và theo đó tôi ngộ ra: Người-thánh không là người. Vì linh hồn đã cầm
         bán cho thánh Thơ thiền không là thơ. Nàng Thơ xuất gia, rời
         cõi tục, luyện tập tâm không, Nàng trở thành sư nữ hay
         một vị thiền sư. Thơ đạo không là thơ. Nàng
         Thơ quên mình cho Đạo cả. Thơ thánh cũng không là
         thơ. Nàng Thơ phải trọn vẹn với các đề cương thánh. Vậy
         thì rõ mồn một rằng bạch mã phi mã.  Dầu
         vậy, dầu có nghĩ thơ thiền, thơ đạo không là thơ. Dầu
         có hiểu biết người-thánh không là
         người, tôi vẫn còn vấn hỏi tại sao con ngựa trắng không
         là con ngựa? Vì rằng ngựa là thú không là người, không
         thể so người với ngựa? Dù có những văn nhân nói đến
         người ngựa—người kéo xe.  Đã sống trong một xã
         hội có nhiều thánh (cũng may mà không mấy khi được gặp thánh), mà được về với xã hội loài người
         mà Ma-Phật lẫn lộn, tôi cảm nhận như được một ân
         sủng lớn của Trời Phật. Cho nên, tôi ân cần dặn các cháu:
          ‘Trong xã hội văn minh ngày nay, thánh đông lắm, đâu
         đâu cũng có, ở thánh đường, ở các chùa, ở chính
         trường, ở doanh nghiệp, …, khắp năm châu.’  ‘Lịch sử
         loài người phong phú về ‘gương’ các thánh vĩ đại: Thánh chiến-Crusades—thời Trung Cổ ở Trung Đông,
         và ngày nay vẫn còn đông đảo thánh tử đạo. Trong
         lịch dử cận đại có những tên tuổi vĩ đại: Adolf Hitler,
         Benito Mussolini, Francisco Franco, Nicolae Ceausescu, Joseph Stalin, Mao Trạch Đông, họ Kim ba đời
         cha truyền con nối, Hồ Chí Minh, .. và gần đây, có những tên
         tuổi nhỏ hơn như Sun Myung Moon (Unification Church), Jim
         Jones (Jonestown) David Koresh (The Branch Davidians).… và gần đây nữa
         có sư Wirathu –mà có người gọi là Burma Bin Laden, lãnh đạo
         nhánh Phật giáo xu hướng triệt để-- kích động cuồng
         tín và bạo lực[2]. Danh sách nầy còn dài cho thấy các
         thánh hiện diện ở mọi lãnh
         vực sinh hoạt của xã hội ngày nay: tôn giáo, chính trị, doanh
         nghiệp,…., từ lớn đến bé.’ ‘Thánh và người lẫn
         lộn, khó phân biệt. Đừng nhẹ dạ tin vào kinh vào pháp,
         do các ‘giáo chủ’—mà hầu hết là thánh—tiên tri và giảng giải. Là người thì: nếu tin thì
         phải có nghi. Qui y pháp không có nghĩa mất mình vì pháp,
         nói rộng ra cho một lý tưởng, qui y tăng không có nghĩa giao mạng
         mình cho tăng. Mặc áo chùa hay các giòng tu, chưa hẳn đã
         là tu.  Chánh yếu phải biết thân phận mình là người
         mà lánh xa các thánh. Người với người, dễ sống hơn. Gần thánh, dễ bị cám dỗ, hoặc biến thành người-thánh
         hoặc trở thành dị giáo. Cả hai con đường đều như
         César qua sông Rubicon.[3]’
 Kết Luận: ‘Cô vọng
         ngôn chi vọng thính chi.’ Tôi có thói quen, sau khi viết
         xong, hay gần xong một bài thì hay hỏi ý bạn bè, lấy lời phê
         phán, để trao chuốt, gọt lại cho hoàn hảo hơn. Một ông bạn
         tôi đáp bằng một câu của người xưa: ‘Cô vọng ngôn chi vọng thính chi.’ Tôi mù,
         không hiểu mô tê gì cả? Ông có giảng. Nhưng muốn hiểu
         sâu hơn, tôi lên net. Cũng không được sáng thêm một tí
         nào. Thôi thì phải hỏi ông Đồ của tôi, Thầy Đồ
         họ Đỗ. Ông ban cho một cẩm nang. Sau đây là trích một đoạn: ‘Đây là (câu đầu) bài Thất ngôn Tứ Tuyệt của
         Hình Bộ Thượng Thơ lúc bấy giờ ( đời Thanh ) là Vương
         Sĩ Trinh, 4 câu thơ kết thúc cho bài Bình về quyển Liêu Trai
         Chí Dị của Bồ Tùng Linh mà Vương rất thích, chỉ vỏn
         vẹn 4 câu thôi mà nêu hết được cái ý chính và
         chủ đích của tác giả về tác phẩm bất hủ " Liêu
         Trai Chí Dị ". Toàn bài thơ như sau : Cô vọng ngôn chi cô thính
         chi. Đậu bằng qua giá vũ như ti. Liệu ưng yếm tác nhân
         gian ngữ, Ái thính thu phần quỷ xướng thi ! Bản Diễn Nôm của Cụ Đào Trinh Nhất : “Nói láo”
         mà chơi, nghe láo chơi Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi Chuyện đời
         đã chán không buồn nhắc Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời.’ Tôi cảm nhận như Ông dạy:  ‘Nói quấy mà chơi, nghe quấy chơi’[4] Trong cảnh tha hương, tuổi xế chiều Chuyện đời chưa chán, còn vương vấn. Nhắn gời ai ơi
         chuyện thánh thần.. Người xưa nói chuyện ma, hậu
         sinh nói chuyện thánh, phải chăng cũng là chuyện con ngựa trắng
         không là ngựa? Riêng tôi, thật thà mà thưa: ‘Khi cảm
         thấy mình là thánh, thì phải xét lại xem mình có là
         một tai họa cho gia đình mình và rộng hơn là cho môi trường
         chung quanh? Và nếu phải tiếp cận với bậc thánh, thì dứt khoát:
         kính nhi viễn chi.’ . Lời cuối: Quá nhiều nạn nhân (do ý thánh), thây chất thành núi,
         máu và nước mắt chảy thành sông, sao có thể đơn giản
         một câu‘Cô vọng ngôn chi, vọng thính chi’ mà nghe được?
          Houston, Texas July 1st, 2013 
 
 [1] Nguồn: Internet [2] TimeVOL 182, N0. 1, 2013, July
         1st. Page 4 and 42. The face of Buddhist Terror by Hannach Beech. [3] Một ra đi là
         không trở lại. [4] Đồ chiêu Đức.
         Nguyên văn: ‘Nói quấy nói quá, nghe quấy nghe quá chơi mà
         thôi.’ 
  
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             |