GÓC ĐƯỜNG THI

_
 
      
      
       
THU VŨ DẠ MIÊN
Bạch Cư Dị
Bản dịch:
         Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Phương
         Hà
 
_________________________________________________________________________________ 
         Cùng Bạn,
  Lâu
         lắm Cali mới hưởng được một trận mưa  rỉ rả suốt
         đêm qua và sẽ kéo dài hết ngày hôm nay. Mưa thì có
         nước xài và ao hồ bớt cạn và những cánh đồng bát
         ngát cây trái có nước để tưới tiêu thật mừng,
         tuy nhiên người ta đang lo âu cho những trận đất chuồi núi
         lở sẽ xảy ra ở những vùng bị bão lửa vừa qua sẽ khủng
         khiếp nếu mưa bão liên tục. Nhưng thôi tạm để qua một
         bên cái lo âu muôn đời của kiếp nhân sinh, mời các bạn
         thơ hãy thưởng thức một bài thơ của Bạch Cư DỊ dưới
         đây, và riêng tôi cũng thật cảm khái nghe tiếng mưa tí
         tách bên ngoài đêm qua, nhất là sáng nay dậy sớm , bên
         ly cà phê nóng thơm lừng, nhìn màn mưa bên ngoài mà
         cảm thấy vô cùng hạnh phúc, mình được ân huệ của
         Trời Đất,hơn biết bao nhiêu người khác trên hành tinh nầy
         đang đói lạnh không nhà! Xin cảm tạ Ơn Trên.
  Mailoc
  
 Thu Vũ
         Dạ Miên 
 
                 Bạch Cư
         Dị 
 
 Lương lãnh tam thu dạ, 
 An nhàn nhất lão
         ông. 
 Ngoạ trì đăng diệt hậu, 
 Thuỳ mỹ vũ
         thanh trung. 
 Hôi túc ôn bình hoả, 
 Hương thiêm noãn
         bị lung. 
 Hiểu tình hàn vị khởi, 
 Sương diệp mãn
         giai hồng. 
 
 
 Dịch nghĩa: 
 
 Ngủ
         Trong Đêm Thu Mưa 
 
 Một đêm giá lạnh trong ba tháng
         thu; 
 có một ông già đang an nhàn. 
 Lên giường
         trễ sau khi tắt đèn; 
 ngủ ngon trong tiếng mưa rơi. 
 Chỉ
         còn tro tàn trong lò sưởi; 
 bỏ thêm trầm hương vào
         lồng đốt. 
 Buổi sáng quang đãng, khí lạnh chưa tới; 
 Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm. 
  
 - Bản dịch của Mai Lộc -- 
 
 Ba tháng thu một đêm lạnh lẽo 
 Một lão nhân
         trong vẻ an nhàn . 
 Lên giường đèn tắt muộn màng 
 Vùi say giấc điệp mơ màng nhạc mưa . 
 Trong lò hồng
         tro vừa tắt ngủm 
 Thêm trầm hương một nhúm vào lồng 
 Rét còn chưa tới, rạng đông 
 Sương đêm nhuộm
         thắm rực hồng lá thu . 
   
                Mailoc phỏng dịch 
 
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau
         đây :
  
          
 1. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ :
           
    秋雨夜眠           THU VŨ DẠ MIÊN
   
  涼冷三秋夜,   
         Lương lãnh tam thu dạ,
  安閒一老翁。   
         An nhàn nhất lão ông.
  臥遲燈滅後,   
         Ngọa trì đăng diệt hậu,
  睡美雨聲中。   
         Thụy mỹ vũ thanh trung.
 灰宿溫瓶火,    Hôi
         túc ôn bình hỏa,
  香添暖被籠。   
         Hương thiêm noãn bị lung.
  曉晴寒未起,   
         Hiểu tình hàn vị khởi,
  霜葉滿階紅。   
         Sương diệp mãn giai hồng !
           白居易                          
           Bạch Cư Dị
      2. Chú thích :
      - Lương Lãnh : Lương là Mát; Lãnh
         là Lạnh; Lương Lãnh là Mát  đến thấy lạnh,
         vì đã Tam Thu là vào khoảng tháng 9 âm lịch.
      - Bình Hỏa : là Cái bình bằng
         sành hơ trên lửa cho nóng để ôm ngủ cho ấm trong đêm
         thu lạnh lẽo.
      - Bị Lung :
         là cái mền bung ra như cái lồng để chui vào cho ấm.
              - Hiểu Tình : là Buổi sáng
         tạnh ráo không có mưa thu.
      -
         Sương Diệp : là Những chiếc lá nhuốm sương thu.
   
  3. Bối cảnh
         xuất xứ của bài thơ :
             
         Bài thơ trên đây được sáng tác vào năm Đại
         Hòa thứ 6, đời vua Đường Văn Tông. Lúc bấy giờ
         Bạch Cư Dị đang là Phủ Doãn của tỉnh Hà Nam, đã
         trên sáu mươi tuổi và thân thể đã suy nhược già
         yếu. Việc quan tuy nhàn hạ nhưng vô vị, cộng thêm người bạn
         thơ thân thiết là Nguyên Chẩn 元稹 vừa mới tạ thế, nên tâm tình của ông đang
         xuống dốc buồn chán và lãnh đạm với mọi việc. 
           
  4. Nghĩa
         Bài Thơ :
                            Ngủ
         Trong Đêm Mưa Thu
           
         Một lão ông đang an nhàn ngủ đi trong cái lạnh lẽo
         của ba tháng mùa thu. Nằm trăn trở hèn lâu khi đèn đóm đà
         tắt hết, rồi ngủ thiếp đi ngon lành trong tiếng mưa thu. Tro tàn
         trong lò còn làm ấm lên cái bình sưởi, và trầm
         hương còn tỏa hương thơm vào tấm chăn thơm ấm áp.
         Trong buổi sáng mai quang tạnh nhưng lạnh lẽo nầy, ta còn nằm ráng
         mà chưa muốn thức dậy, trong khi sương thu đã nhuộm đỏ
         cả các lá cây rụng xuống phủ đỏ cả các bậc
         thềm !   
  5. Diễn Nôm :
                             Ngủ
         Trong Đêm Mưa Thu
         
                    
                
                               Ba
         tháng thu lạnh lẽo,
                      
         An nhàn một lão ông.
                      
         Tắt đèn đi ngủ trễ,
                      
         Mưa thu say giấc nồng.
                      
         Bình sưởi tàn tro ấm,
                       Chăn
         gối thoảng hương nồng.
                      
         Sáng trời chưa muốn dậy,
                      
         Sương nhuốm lá đỏ hồng !  
      Lục bát :
                   
         Ba thu lạnh lẽo heo may,
                   
         An nhàn một lão ông ngoài sáu mươi.
                    Đèn
         tàn nằm trễ nghe lười,
                   
         Mưa thu thánh thót ngủ vùi năm canh.  
                   
         Tro tàn bình ấm còn quanh,
                    Trầm
         hương thoang thoảng chăn lành lạnh thơm.
                    Sáng
         ngày biếng dậy chập chờn,
                   
         Sương thu nhuộm lá đỏ rơn mặt thềm !           
           
                                                          
         Đỗ Chiêu Đức
   Phương Hà xin góp bài phỏng dịch
           Giấc Ngủ Đêm Thu Mưa
           Trời khuya lạnh lẽo giữa thu sang
          Trong tiếng mưa rơi tựa nhịp đàn
          Ông lãp say sưa trong giấc muộn
          Đêm qua trằn trọc giữa canh tàn
          Lò tro hơi ấm nồng lan tỏa
  Chăn dạ hương trầm ngát chửa tan
          Sáng rét, trời quang, nằm nán lại
          Ngoài hiên lá rụng đỏ chen vàng.
           
  Phương
         Hà phỏng dịch
 
______________________________________________________________ 
            
 
      
       
Mailoc, Phương Hà,
         Quên Đi 
NHỚ QUÊ HƯƠNG
Cùng Bạn,
     
         Mới rồi đọc bài thơ của thầy PKT ‘Bố Muốn Dẫn
         Con Về " rồi bài " Có Một Chỗ Để Về" của
         TBT, tôi vô cùng xúc động.
    
         Ở tuổi già, người ta thường có khuynh hướng nhớ về
         quê hương, nhớ ngày xưa chuyện cũ. Tôi cũng vậy, thỉnh
         thoảng tôi bỗng dưng nhớ lại hết chuyện nầy đến chuyện
         khác, hình ảnh người thân nầy, người bạn nọ , lại
         trở về trong trí tôi có khi rõ nét có khi mơ hồ. Đôi
         khi tôi cũng nhớ rõ ràng căn nhà cũ thời thơ ấu của
         tôi, từ mái ngói, cái hàng rào, cây nhản trước nhà,
         bụi tre sau hè , cái bàn đá ngồi ăn cơm, nhớ bộ ngựa
         gõ bên cửa sổ v..v... nhớ từng chi tiết như mới ngày hôm
         qua . Nhiều lần khi đọc lại bài " Chỗ Quê Hương
         Đẹp Hơn Cả " trong bộ Quốc Văn Giaó
         Khoa Thư lớp dự bị mấy chục năm về trước,  tôi thật
         thấm thía vô cùng với câu: " Từ cái bụi tre
         ở xó vườn, cho đến con đường khúc khủyu trong làng,
         cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể
         không sao xiết được "., thì ra dường như những
         vật vô tri cũng có linh hồn khiến chúng ta quyến
         luyến  nhớ thương nó  vô cùng mỗi khi xa  .
     Nhân đây xin chuyển đến các bạn
          đọc chơi vài bài thơ đời Đường, thi nhân ngày
         trước, và chúng ta bây giờ tâm trạng gần như nhau, đều
         tha thiết gắn bó với quê hương .
   
  Đề Bình Dương
         Quận Phần Kiều Biên Liễu Thụ 
              Sầm Tham
 題平陽郡汾橋邊柳樹 
 
 此地曾居住, 
 今來宛似歸。 
 可憐汾上柳, 
 相見也依依。 
 
 Thử địa tằng cư trú 
 Kim niên uyển tự
         quy 
 Khả liên Phần thượng liễu 
 Tương kiến dã
         y y 
 
                          Sầm
         Tham 
 
 Ghi chú: Quận Bình Dương, có sông
         Phần chảy qua, nay là huyện Phần, tỉnh Thiễm Tây. 
 
 --Dịch
         nghĩa-- 
 
 Thơ về cây liễu bên cầu sông Phần
         ở quận Bình Dương
 (ta đã từng ở nơi này) 
 (nên năm nay ta trở lại) 
 (khá thương cho cây liễu trên
         bờ sông Phần) 
 (gặp lại ta vẫn thấy như hồi nào) 
          
   Dịch
         Thơ : 
   
    Xưa đất
         nầy ta đã từng ở , 
         Nay có dịp lại
         trở về thăm . 
  Thương sao gốc liễu
         sông Phần , 
  Gặp nhau ta liễu tình thân
         ngày nào .
                                  
         Mailoc phỏng dịch
   
  Lý Bạch khí
         xa quê, không nhắc  gì hết ngoài cái khóm tường vi, mây
         quê nhà, vầng trăng cũ , thật ý nhị rạc rào ...
   Ức Đông Sơn kỳ nhất
                 Nguyên tác: Lý
         Bạch
 
 憶東山其一 
 李白 
 
         不向東山久, 
 薔薇幾度花。 
         白雲還自散, 
 明月落誰家。 
         
 Ức Đông Sơn 
 
                  
         Lý Bạch 
 
 Bất hướng Đông Sơn cửu , 
 Tường vi kỷ độ hoa . 
 Bạch vân hoàn tự tán , 
 Minh nguyệt lạc thùy gia . 
 
 --Dịch nghĩa :-- 
 
 Nhớ Đông Sơn 
 
 Đã lâu không đến
         Đông Sơn (1) 
 Tường vi đã nở mấy lần ? 
 Mây
         trắng lại tự tan ra 
 Trăng sáng rụng xuống nhà nào ? 
 
 (1) Đông Sơn là chỗ Lý Bạch ở, nằm về 
 phía
         đông nam thành Nam Kinh bây giờ 
 
 -- Bản dịch
         của Trần Trọng Kim : -- 
 
 Đông Sơn xa cách
         bao xuân , 
 Tường vi đã trải mấy lần nở hoa . 
         Mây kia bạc xóa tan ra , 
 Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà
         nào. 
 
 -- Bản dịch của Ngô
         Tất Tố : -- 
 
 Non Đông xa cách bao xuân ! 
 Cây tường vi đã mấy lần nở hoa ? 
 Mây xưa hẳn
         vẫn bay xa ? 
 Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao? 
          
  
 --Bản dịch của Mai Lộc-- 
 
 (1) 
 Đông
         Sơn cách biệt đã từ lâu , 
 Chẳng biết tường vi
         nở mấy lần ? 
 Mây trắng như xưa tan tác mãi ? 
         Nhà ai trăng rụng lúc tàn thâu ? 
 (2) 
 Đông Sơn
         vắng từ lâu , 
 Tường vi nở mấy lần ? 
 Mây trắng
         vẫn tan tác ? 
 Nhà ai rụng trăng thâu ? 
 
 (3) 
          Đã mấy xuân Đông Sơn cách
         biệt , 
  Tường vi xưa nở
         biết mấy lần ? 
  Vẫn còn
         mây trắng lãng dâng ? 
  Nhà
         ai rớt rụng trăng tàn đêm nay ? 
  Bạch Cư Dị khi xa Giang Nam hai năm ông quay quắc
         nhớ hàng dường liễu ông trồng , rồi sợ có người
         nào đó nở bẻ cành chơi
  
 Ức giang liễu
 
          Nguyên tác: Bạch
         Cư Dị
 
 憶江柳 
 
 白居易 
 
 曾栽楊柳江南岸, 
 一別江南兩度春。 
 遙憶青青江岸上, 
 不知攀折是何人。 
 
 Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn, 
 Nhất biệt Giang
         Nam lưỡng độ xuân. 
 Dao ức thanh thanh giang ngạn thượng, 
 Bất tri phan chiết thị hà nhân. 
 
 --Dịch
         nghĩa:-- 
 
 Nhớ liễu bên sông 
 
 Từng
         trồng dương liễu ở bờ sông Giang Nam, 
 Từ khi cách biệt
         Giang Nam,đã hai lần xuân sang. 
 Vẫn xa nhớ bờ sông xanh xanh, 
 Chỉ không biết ai đã đến bẻ cành liễu. 
   
    Dịch
         Thơ :
   
                  Nhớ
         Liễu Bên Sông
  Bến Giang Nam từng trồng
         dương liễu
  Xa Giang Nam lòng trĩu hai xuân.
  Nhớ
         bờ liễu biếc xinh xinh,
  Ai người lại nỡ
         tay vin bẻ cành?
                     Mailoc
         phỏng dịch
   
          Đông Đình Nhàn Vọng
 
                      
         Nguyên tác: Bạch Cư Dị
 
 東亭閑望 
 白居易 
 
 東亭盡日坐, 
 誰伴寂寥人? 
 綠桂為佳客, 
 紅蕉當美人. 
 笑言雖不接, 
 情狀似相親. 
 不作悠悠想, 
 如何度晚春? 
 
 Đông đình tận nhật tọa, 
 Thùy bạn tịch
         liêu nhân ? 
 Lục quế vi giai khách, 
 Hồng tiêu đáng
         mỹ nhân. 
 Tiếu ngôn tuy bất tiếp, 
 Tình trạng tự
         tương thân. 
 Bất tác du du tưởng, 
 Như hà độ
         vãn xuân ? 
 
 --Dịch nghĩa:-- 
 
 Nhàn
         Ngắm Từ Đình Phía Đông 
  
 Cả ngày ngồi ở đình phía đông, 
 ai
         sẽ là bạn cho kẻ nhàn nhã này ? 
 Cây quế xanh có
         thể là vị khách quý, 
 cây chuối hồng đáng mặt
         người đẹp. 
 Tuy không trực tiếp nói cười được, 
 nhưng tình trạng như thật thân thiết. 
 Nếu không tưởng
         tượng rộng rãi như vậy, 
 làm sao ta có thể qua được
         những ngày xuân muộn này ?
  --Bản
         dịch của MaiLộc- 
 
 Ngồi suốt ngày đình đông
         lặng lẽ , 
 Ai bạn nhàn với kẻ nầy đây ? 
 Quế
         xanh khách qúi nầy nầy , 
 Chuối hồng người đẹp hây hây bạn lòng . 
 Tuy chẳng
         cười cũng không giao tiếp , 
 Nhưng tình thân thắm thiết
         vô cùng . 
 Nếu không tưởng tuợng mông lung , 
 Làm
         sao chống chỏi nỗi buồn cuối xuân ? 
                 ML
   Còn Lamartine thì sao ? Là người
         lãng mạn, trong bài thơ Milly ou la terre natale , xa quê hương
         ông đau khổ rồi tự ví mình như kẻ bị lưu đày,
         nơi xa xôi ông nhớ lại từ dư âm cũ của từng bước
         chân đi của người thân quen, nhớ đến núi đồi thung lũng
         sương trắng ban mai, nhớ tháp cổ hiu hắt nắng chiều, nhớ những
         mái rạ , nhớ bếp hồng khói lam chiều v...v..., rồi cuốí cùng
         quá da diết ông phải thốt lên một câu thật thống thiết
         bất hủ để muôn đời:
   
          Objets
         inanimés !
  Avez-vous donc une âme ?
          Qui s ‘attache à mon âme ,
  Et la force d' aimer .
                                           Lamartine
          Hỡi những vật
         vô tri kia đó ,
  Nói cho ta mi có hồn không ?
  Nào hay cái vẽ lạnh
         lùng ,
  Mà tình mi cột tận
         cùng hồn ta !
                       
                                  Mailoc
 
Phương Hà xin được góp bài phỏng
         dịch cùng anh Mai Lộc và VTT
   
           
  1- Phỏng
         dịch bài Đề Bình Dương Quận Phần Kiều Biên Liễu
         Thụ của Sâm Tham
  
         
 
  Cây liễu bên cầu
         sông Phần
   
  Nhớ xưa ta ở chốn này
  Năm nay trở lại lòng đầy vấn vương
  Thương sao cây liễu sông Phần
  Cùng ta gặp lại tình thân vẫn nồng.
                       Phương Hà
         phỏng dịch
   
  2- Phỏng dich bài  Ức Đông Sơn của
         Lý Bạch
   
  Nhớ  Đông Sơn
   
  Lâu rồi chưa dịp ghé
         Đông Sơn
  Chẳng biết tường
         vi nở mấy lần ?
  Mây trắng hợp
         về rồi tản mác
  Nhà ai trăng
         sáng rụng đầy sân ?
     
                   Phương Hà phỏng dịch
   
  3- Phỏng dịch bài Ức
         giang liễu của Bach Cư Dị
   
          Nhớ liễu bên sông
   
  Ta trồng rặng
         liễu ở Giang Nam
  Cách biệt hai năm
         chẳng ghé thăm
  Vẫn nhớ bờ
         sông xanh ngút mắt
  Biết ai đã
         đến, đã vin cành ?
     
                  Phương Hà phỏng dịch
   
  4- Phỏng dịch bài Đông
         Đình Nhàn Vọng của Bạch Cư Dị
   
  Ngắm cảnh
         từ Đông Đình
   
          Suốt ngày nhàn tản ở Đông Đình
          Biết có ai đâu bạn với mình
          Quế biếc xem như người khách quý
          Chuối hồng nào khác kẻ đoan trinh
          Nói cười tuy chẳng cùng giao tiếp
          Thân thiết dường như đã trọn
         tình
  Nếu chẳng hình dung ra sự
         thể
  Làm sao qua được buổi xuân
         tàn ?
               
         Phương Hà phỏng dịch
   
          5- Phỏng dịch 4 câu kết trong bài Milly
         ou la terre natale của Lamartine
   
          Hỡi vật vô tri, ta muốn hỏi
  Có hay chăng một cõi linh hồn ?
  Cùng ta chia sẻ vui buồn
  Tâm tư vương vấn bồn chồn nỗi yêu.
                Phương Hà phỏng
         dịch
   
   
  Tiếp theo Phương Hà,
         Quên Đi xin góp vui:
   
  1/ Đề Bình Dương Quận Phần Kiều
         Biên Liễu Thụ 
 
 
  (Câu
         2 chữ thứ nhì là lai chớ không phải niên)
           
  Lúc
         trước nơi này từng trú ngụ
  Nay về thăm chốn cũ năm nao
  Sông Phần cội liễu rì rào
  Cảnh đây vẫn thế khác nào thuở xưa.
           
  2/ Ức
         Giang Liễu
  (Nhớ Hàng Liễu
         ở Giang Nam)
   
  Từng trồng liễu ở bờ sông
  Giang Nam hai lượt xuân đông chưa về
  Màu xanh xanh biếc trên đê
  Người từ đâu đến mân mê bẻ
         cành.
   
  3/ Phía Đông Của Đình Ngắm 
           
  Ngồi
         nơi đình phía đông
  Cảnh
         vắng bạn thì không
  Quế
         biếc làm thân khách
  Người
         xinh ấy chuối hồng
  Nói cười
         tuy chúng chẳng
  Nhưng cũng thấy
         vui lòng
  Đành phải nghĩ
         như thế
  Để xuân được
         chút nồng
                        
         Quên Đi
    
    
 
      
      CHU TRUNG
Huyền Quang Thiền Sư
Bản dịch: Quên Đi, Kim Oanh, Phương
         Hà, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức
 ______________________________________________________________________________________ 
          
  Đất trời hoà một, trời là
         đất, đất là trời, không còn ranh giới giữa cõi Phật
         và nhân gian, chỉ có Chân Như trong sáng thôi.
   
       
            舟中                            
           Chu Trung
   
  一葉扁舟湖海客     Nhất diệp
         biển chu hồ hải khách         
  撐出葦行風慼慼     Sanh xuất
         vy hành phong thích thích              
          微茫四顧晚潮生    
         Vi mang tứ cố vãn triều sinh
  江水連天一鷗白    
         Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch        
                    玄光禪師                 Huyền
         Quang Thiền Sư
   
  Dịch Nghĩa: Trong Thuyền
   
  Kẻ đang phiêu
         bạt biển hồ, ngồi trên con xuồng mong manh như chiếc lá
 
         Chống xuồng qua đám lau, nghe tiếng gió
         buồn buồn rên rỉ
  Bốn phía
         mịt mù, trong khi con nước buổi chiều đang lên
  Giữa vùng trời và sông nước như liền nhau,
         xuất hiện một cánh chim hải âu trắng.
   
  Diễn ý:
          Từ bài Thơ Thiền này, Quên Đi nảy
         sinh liên tưởng:
   Đây có
         phải là chiếc Thuyền không đáy của Tiếp Dẫn Tăng, và
         người khách là thầy trò Đường Tăng? Rời bến Lăng
         Vân, bỏ lại phía sau chốn mê, Tiếp Dẫn Tăng đưa thầy
         trò Đường Tăng sang đất Phật.
   
  Dịch Thơ
           
   
             Kẻ phiêu bạt ngồi trên xuồng nhỏ
        Vượt ngàn lau trong gió thì thào
                  Chiều mờ con nước
         dâng cao
  Giữa trời đất quyện
         hiện màu trắng âu.
                                
         Quên Đi
   
  Phiêu bạt một chiếc thuyền con
  Hàng lau xào xạc dập dồn gió than
  Chiều lờ mờ nước dâng tràn
  Hải âu trắng xóa mênh mang đất trời
           
  Kim
         Oanh   
   
  Phương Hà xin có bài phỏng dịch góp vui cùng
         anh Quên Đi, Kim Oanh và VTT
  I -
  Trong thuyền
  Mong manh thuyền nhỏ trên hồ rộng
  Qua đám lau già, nghe gió than
  Mờ mịt bốn bên, trời nước quyện
  Cánh chim ẩn hiện giữa mây ngàn.
 
         II-
  Trong thuyền
  Biển
         hồ rộng, mong manh thuyền nhỏ
  Vượt
         lau ngàn, nghe gió thở than
  Bốn bên
         triều ngập mênh mang
  Giữa vùng
         trời nước, nhịp nhàng cánh âu.
  III-
  Trong thuyền
          Mong manh thuyền nhỏ giữa hồ
  Thở than, tiếng gió trong bờ lau cao
  Bốn bên trời nước một màu
  Cánh chim âu trắng từ đâu lượn về.
           
  IV-
          Trong thuyền
  Thuyền nhỏ trên hồ rộng
  Trong lau, tiếng gió than
  Mênh mang
         trời nước quyện
  Trắng hiện
         cánh chim ngàn
   
                           Phương
         Hà
 Chu Trung
 
          Như chiếc
         lá rong chơi thuyền khách,
  Gió
         xạc xào lau lách vượt qua.
  Triều
         lên mù mịt chiều tà,
  Giữa
         trời mây nước xa xa cánh cò.
              Mailoc phỏng dịch
   
  Trên Thuyền
          Chiếc thuyền con chở theo người
         hồ hải,
  Gió se se rời khỏi khóm
         lau xanh.
  Con nước tối chung quanh chừng
         bát ngát,
  Một cánh cò giữa
         trời nước thanh thanh !
  Đỗ
         Chiêu Đức
    
   
         
      
       
 TRƯƠNG
         KẾ: PHONG KIỀU DẠ BẠC
Bản dịch: Phạm Khắc Trí,
         Danh Hữu, Mailoc, Tản Đà, VHKT, Mai Xuân Thanh, Quên Đi 
 
 
 PHẠM KHẮC TRÍ                        
                                
Tôi đã chuyển dịch lại bài Phong Kiều Dạ
         Bạc của Trương Kế nhiều lần ,nhưng đều không được
         vừa ý , đành bỏ cuộc chơi rồi sao? Sau đây là 2 bài
         chuyển dịch lần cuối(?), chép lại để mọi người đọc
         cho vui và để nhớ lại mười mấy năm trước đây , vườn
         thơ "trân quý sợi dây thân ái/ thơ thẩn cho vui/ đùa
         rỡn với chữ nghĩa/ đâu kể đến niêm luật ràng buộc
         / trong tình anh chị em một nhà, vui thôi ,  vui như ngày Tết .. .
         Cầu chúc an lành cho tất cả mọi người quý mến của tôi.
         PKT 03/20/2016 .
   
         楓橋夜泊                                  
         Phong Kiều Dạ Bạc
  月落烏啼霜滿天           
         Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;
  江楓漁火對愁眠           
         Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
  姑蘇城外寒山寺           
         Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,
  夜半鍾聲到客船           
         Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.
                   張計                                                 
         Trương Kế
   
   
  Thuyền Đêm
         Bến Lạ
  PKT 04/20/2014
   
  Trăng lặn ,quạ
         kêu , trời ngập sương ,
  Bến
         phong trở giấc những tơ vương.
  Lửa
         chài hiu hắt trên sông lạnh ,
  Thuyền
         khách , chuông khuya , vỗ mộng thường.
   
   
  Tri Khac Pham
  Phamid1934@gmail.com
   
 DANH HỮU                            
                              
   
                 
         Nhân đọc thấy bác Trí thích bài thơ này và đã
         cố công dịch nó nhiều lần nhưng chưa vừa ý, vậy xin gửi
         tới bác bài phiếm luận này, bác và chư vị đọc chơi.
         Một bài thơ muốn dịch cho hay thiết tưởng cũng nên tìm hiểu
         rõ nội dung của nó, mình có thấm ý thì dịch mới dễ
         đạt.
  Xin mời đọc :
   
                                
         Phiếm Luận
   
                                                
                 楓橋夜泊                                  
         Phong Kiều Dạ Bạc
  月落烏啼霜滿天           
         Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;
  江楓漁火對愁眠           
         Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
  姑蘇城外寒山寺           
         Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,
  夜半鍾聲到客船           
         Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.
                   張計                                                 
         Trương Kế
   
                 Bài thơ
         này trước đây được người Nhật tán tụng và
         Khang Hữu Vi, một nhân sĩ đời Thanh rất chuộng văn hóa Nhật
         bản, đã thuê người khắc bài thơ này lên một tảng
         đá lớn đặt trước chùa Hàn San. Một bài thơ mà
         đã bị người Tầu chê dở và Âu Dương Tu đã
         phê rằng : Nhà thơ vì mê câu văn hay đã làm cho
         ý văn không được thông, đó là ngữ bệnh vậy.
         Họ cho là làm gì có chùa nào thỉnh chuông lúc nửa
         đêm, chẳng qua Trương Kế mơ mơ màng màng rồi thiếp đi
         đến gần sáng, lúc nghe tiếng chuông thỉnh an sáng sớm lại
         tưởng là còn nửa đêm. Người Tầu khác lại muốn
         biện minh cho tác giả nên cũng đã bịa đặt ra câu chuyện
         thầy trò nhà sư chùa Hàn San làm được câu thơ hay
         mới thỉnh chuông để tạ ơn Phật mà nên mới có tiếng
         chuông thỉnh lúc nửa đêm. Bài thơ này quá dở nên
         lòi ra là chuyện giả. Một anh phóng viên Nhật, cách nay hơn
         chục năm, cũng đã ghé chùa Hàn san để tìm hiểu và
         được vị trụ trì giảng cho nghe là gần đấy có ngôi
         làng mang tên Ô Lạc, và ngọn núi xa xa, tên của nó là
         Nguyệt Lạc. Anh không cãi lại nhưng trong bút ký của anh, anh cho
         dó là chuyện bịa đặt của người sau muốn phong Thánh cho
         làng mình nhờ vào bài thơ xưa.
                 Trong đại chiến
         thế giới II, người Nhật đã lén tháo chuông cùa chùa
         Hàn San đem về Nhật, vì họ cho là tiếng chuông có cái
         gì đó linh thiêng khiến được Trương Kế làm ra bài
         thơ thần diệu này. Về sau phía Trung quốc đòi mãi, người
         Nhật mới chịu hoàn trả, nhưng là hoàn trả một chiếc chuông
         khác của họ mới đúc để thế vào, còn chiếc chuông
         cũ thì họ vẫn giữ.
                 
         Tại sao cũng một bài thơ mà những người hậu duệ của
         nước tác giả thì chê mà lại được người nước
         ngoài tán thưởng ? Ấy là vì cái nội dung tinh thần của
         bài thơ này, nó giống với đặc điểm tinh thần thơ Haiku
         của người Nhật. Vậy thì, trước khi bàn về cái hay, cái
         tinh túy của bài thơ Trương Kế, ta hãy xem cấu trúc tinh thần
         của thể thơ Haiku là gì.
                 
         Hồi trẻ, cách nay cũng trên 50 năm, tác giả bài phiếm luận
         này có đọc mấy bài thơ Haiku nhưng có một bài, đã
         qua bao năm tháng mà không thể quên được dù chẳng còn
         nhớ tên tác giả là ai. Bài đó được dịch ra như
         sau :
                                                
         Con bướm vàng
                                               
         Đậu trên đầu trượng của nhà sư hành hương
                                                       
         Thiu thiu ngủ.
                 
         Nếu ta là người ngoại đạo của thơ Haiku, ta sẽ chẳng thể
         nào hiểu được cái thâm thúy của bài thơ này, ta
         chỉ thấy đây là một câu tả cảnh mà người ta cố
         tình xuống hàng cho ra vẻ thơ, mà thôi. Nhưng, đây là một
         bài thơ rất được chuộng ở người Nhật. Ta biết rằng
         hàng năm vào ngày đầu năm, Nhật Hoàng có lệ mời
         một vị có bài thơ Haiku hay nhất trong năm đến cùng ngài
         uống trà ở cung vua, như một phần thưởng cao quí, bất kể
         nhà thơ đó đang định cư ở đâu (báo đăng có
         một ông thi sĩ Nhật sống ở Mỹ đã có lần được
         hân hạnh về uống trà đầu năm với Nhật hoàng). Lệ này
         vẫn còn giữ mãi cho đến gần đây.
                  Vậy,
         cái hay của thơ Haiku là ở đâu ? Ta biết rằng quán tính
         của con bướm, là không đậu yên một chỗ, nó cứ nhởn
         nhơ, vừa đáp xuống lại lập tức bay lên, như là sợ sệt
         lủ con nít thích bắt bướm ở đâu đó chộp nó
         vậy. Đó là trạng thái không yên ổn của tâm hồn nếu
         đem đặt vào con người. Ngồi chưa nóng chỗ đã nhổm
         đít đứng lên. Nhưng ở đây, tại sao con bướm nó
         lại cảm thấy thật bình yên để mà có thể thiu thiu ngủ
         một giấc ngon lành như vậy, tác giả có đãng trí không ?
         Thưa, là vì tác giả đã cho nó đậu trên đầu
         cây trượng của một hòa thượng, mà không phải là bất
         cứ một ông hòa thượng nào, mà phải là một hòa
         thượng hành hương trên đường tìm về xứ Phật. Một
         nhà sư hành hương về xứ Phật tất không còn chút ham
         muốn nào có thể chi phối ông, dù là trước một con bướm
         đẹp, mà những đứa trẻ con, dù có táy máy đến
         đâu cũng không dám dỡn mặt với một vị tu hành, nhất
         là, trước mặt chúng nó, có cây thiền trượng đe dọa,
         sẵn sàng gõ vào đầu chúng. Chỉ có ở nơi đó,
         với những bảo đảm chừng ấy và viễn ảnh chừng kia, mới
         khiến được con bướm dám vững bụng mà nằm ngủ yên
         lành, phó thác tính mạng cho số phận mà nó đinh ninh là
         sẽ được đến cõi Thiên trúc cùng với nhà sư.
         Một hình ảnh thật độc đáo khó thể tìm thấy ở
         đâu. Bài thơ Haiku này dùng hình ảnh đơn sơ để
         miêu tả một chân lý, đó là sự quảng bá đức
         tin về đạo Phật, một tôn giáo che chở cho chúng sinh yếu đuối
         đến nơi an lành. Chỉ với vài nét loáng thoáng, tác giả
         đã vẽ nên một chân lý, thật là ý tại ngôn ngoại.
                         
         Bây giờ trở về với thơ Trương Kế, Bài thơ này có
         gì liên quan đến thể thơ Haiku ? Có chứ ! Bài thơ không
         chỉ đơn thuần là chỉ tả một cảnh đêm khó ngủ,
         bất chợt nghe tiếng chuông chùa như ta đọc thấy ở các bản
         dịch thơ chưa chuẩn. Vậy trước hết, xin hãy dịch đã
         để đãi, hầu quí bạn :
                 
                  Đêm trên bến Phong Kiều
  Trăng rụng, quạ kêu, trời phủ sương;
          Hàng phong, đốm lửa, gục buồn vương.
          Cô Tô, ngoài ấy, chùa Hàn vắng
          Thuyền khách, khuya về, viếng tiếng chuông.
                         
         Như nói ở trên, Haiku là một thể loại thơ dùng vài nét
         phác tả để gợi ý người đọc, chứ không nói thẳng
         ý ra như ta thường thấy ở những bài thơ Đường tầm
         thường. Do vậy, thơ Haiku rất kén người đọc, vì không
         phải ai cũng đủ hội ý mà hiểu được thâm ý tác
         giả.
                 
         Bài thơ của Trương Kế có cái độc đáo của thể
         loại thơ Haiku nên mà được người Nhật tán thưởng
         và thích thú. Ta thử phân tích :
  Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ được làm ra trên
         bến Phong Kiều, bến Phong Kiều chỉ là cái cớ. Ta biết cây Phong
         là một loại cây được vua Hán đem trồng trong Triều đình
         ở sân vua, nên nó có tên là Phong thần, thu đến sắc lá
         của nó đỏ ối như rực lửa để xua tan cái lạnh. Vậy
         Phong Kiều dạ bạc là có hàm ý : ngôi vua đang trong thời kỳ
         đen tối (như hàng phong đứng vô hồn trong đêm lạnh lẽo
         bên cầu trên bến vắng).
  Bây
         giờ ta đi vào nội dung bài thơ :
  Câu một : Nguyệt lạc : Trăng luôn là biểu tượng gợi
         hứng cho nhà thơ, nay trăng đó đã rụng mất rồi. (Nguyệt
         lạc là trăng rơi rụng chứ không phải trăng lặn, trăng lặn
         là Nguyệt há). Nhà thơ không còn thấy hứng thú gì nữa.
         Ô đề là quạ kêu, (quạ luôn bị coi là con vật mang tai họa
         đến) hiện nay, nó đang xuất hiện, đang to tiếng, chế ngự không
         gian. Nghĩa là thế gian bây giờ chỉ còn có giống quạ (gian thần)
         tác quái. Sương mãn thiên là trời bị bao phủ bởi màn
         sương đêm, hàm ý nhà vua bị che khuất, công lý chẳng
         còn nữa.
  Câu hai : Giang phong : hàng
         cây trên bến hàm ý để chỉ các đại thần của
         giang sơn, đất nước; ngư hỏa : nó chỉ còn leo lét như
         cái đóm lửa của bác thuyền chài. Đối sầu miên :
         Nhìn cảnh đó mà tác giả thấy buồn nôn chỉ muốn
         đi nằm (tức không còn sức để làm việc).
  Câu ba : Cô Tô là gợi ý địa danh, nơi mà
         ngày xưa vua Hán dùng làm nơi tuyển nhân tài tuấn kiệt
         ở trước cổng thành Cô Tô. Nơi đó bây giờ chẳng
         có ai, ngoài một ngôi chùa Hàn san lạnh lẽo.
  Câu bốn : Bán dạ chung thanh : Tiếng chuông nửa đêm;
         đáo khách thuyền : đến thuyền khách. Chữ "đáo"
         ở đây là nhãn tự, nó làm cho tiếng chuông như một
         vị Thần đêm đến viếng nhà thơ.
  Bài thơ, là một bài bàn về Thế sự. Nhà thơ
         (Trương Kế nguyên là một tiến sĩ đời Đường thế
         kỷ thứ VIII), trước cảnh Quốc phá, gian thần lộng hành, 
         đành buông xuôi và trong đêm tăm tối không có hướng
         ra thì bỗng được nghe tiếng chuông, là hàm ý chỉ có
         nơi cảnh Phật là có thể giúp tác giả quên hết sự
         đời. Đối với Phật, tất cả giai không, chẳng có gì
         mà phải luyến tiếc.
  Tóm lại,
         nội dung bài thơ là tác giả muốn nói lên cái ý muốn
         quy viên (từ quan) như Trương Hàn thác là mình nhớ món
         gõi cá vược ở quê nhà nên từ quan, chứ không phải
         là mình đã chán ngấy, ngày ngày làm ông quan phỗng
         ở Triều đình.
                 
         Trên đây, bàn phiếm về nội dung bài thơ của Trương Kế,
         chẳng biết quí bạn có ý kiến gì khác không ?
 
         Thân mến,
  Danh
         Hữu
                               
                        
Mailoc        
                                            
                
  Anh Danh thân mến ,
  Thật thích
         thú đưọc đọc phiếm luận của anh .Anh đã dắt chúng
         tôi đi từ Phong Kiều Dạ Bạc dến bài thơ Haiku của Nhật
         Bản, rồi trở về PKDB của Trương Kế ...một cuộc viễn du đầy
         lý thú.Riêng tôi bỡi qúa tệ chử Hán nêndốt nát
         về điển tích Tầu , thật khó lòng hiểu nỗi ý nghiã
         sâu sắc thâm thúy của tác giả trong bài thơ, chỉ biết
         mỗi lần đọc lại PKDB lòng tôi thật cảm khái .Năm 2007
         trong chuyến du lịch Tầu , tôi có ghé  viếng Hàn San tự để
         thoả lòng khao khát , nhưng tôi có chút thất vọng trước
         cảnh thực tế của Hàn San bây giờ , chẳng ccòn gì mơ màng
         như trong trí tưởng tượng của mình lúc trước, chỉ có
         hàng  liễu rũ dọc con kinh trong lúc hoàng hôn là còn chút
         thơ mộng .Hàn San tự cũng vậy, được xây mới nên mất
         hết  vẽ cỗ kính . Tuy nhiên khi lên xe bus trở về khách sạn
         lúc chiều tối , quay lại nhìn cảnh chùa trong cảnh nhá nhem tối,
         nghe một tiếng chuông ngân nga rền vang ( có lẽ do du khách dộng chuông
         để cầu phước sau khi đã bỏ ra chút ít tiền )đã để
         lại trong tôi một ấn tượng khó quên . Xin gởi bạn chia sẻ
          Xin cam ơn anh Danh , anh Trí 
  Thân kính 
  Mailoc
           
   
           Hàn San Tự Hoài Cảm
   
          Hoàng hôn phủ mái Hàn San,
  Cô Tô đâu tá ? trơ gan chiếc cầu
         .
  Xa mờ một chiếc thuyền nâu,
          Không gian trầm lắng ngân sầu tiếng chuông
         .
  Ê a kinh mõ buồn buồn ,
          Não lòng du khách như vương tơ lòng.
          Phong Kiều Dạ Bạc đôi dòng,
          Mà sao đọc mãi cõi lòng ngất
         ngây !
               
               Mailoc
           
                 10-22-07
  Nhân đây
         xin gởi đến các bạn vài bài phỏng dịch PKDB cũ góp
         vần cùng anh Trí và các ban
   
          PHONG KIỀU DẠ BẠC
  Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên ,
  Giang phong , ngư hỏa đối sầu miên .
          Cô-Tô thành ngoại Hàn San tự ,
          Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
                             
                             Trương Kế
  TẢN ĐÀ
                                            
                     
Thuyền Đậu Bến Phong Kiều
 
         Trăng tà tiếng qụa kêu sương ,
          Lửa chài ,cây bến sầu vương giấc
         hồ .
  Thuyền ai đậu bến Cô-Tô
         ?
  Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa
         Hàn San.
               
                                            
               TẢN ĐÀ
   VHKT                        
           
Trăng lặng ,qụa kêu
         khắp trời ,
  Cây phong,ngư lửa ngủ
         cùng đôi .
  Cô-Tô ngoài có
         Hàn San tự ,
  Chuông vang nửa đêm
         thuyền đậu khơi .
         
                                            
                              VHKT
  Bản dịch của Mailoc  
                                            
                   
   
         (1)
  Trăng tà tiếng qụa kêu sương
          Lửa chài, phong lặng , đêm trường
         chẳng an .
  Cô-Tô bến nước
         Hàn San ,
  Nửa đêm ,thanh vẳng
         chuông vang tận thuyền .
    (2)
          Sương khói ,trăng tà , tiếng qụa
         than ,
  Lửa chài, phong lặng , giấc mơ
         màng .
  Cô-Tô bến nước Hàn
         San tự ,
  Đêm vắng tận thuyền
          tiếng chuông vang .
       
                                            
                         MaiLoc
  
   MAI
         XUÂN THANH                              
                         
TRĂNG
         RỤNG BẾN PHONG KIỀU
   
  1)
  Mù trời,
         trăng rụng quạ kêu sương,
  Ánh
         lửa bờ phong thảm thiết thường.
  Cổ
         tự Hàn San sao vắng vẻ,
  Khách
         thuyền chuông vọng một đêm trường
   
  2)
  Sương phủ, quạ kêu bóng nguyệt mờ,
  Bờ phong đóm lửa thấy bơ vơ.
  Hàn San cổ tự buồn xa vắng,
  Chuông vọng khách thuyền khuya khoắt mơ.
   
  Mai Xuân Thanh
          Ngày 24 tháng 03 năm 2016
 QUÊN ĐI      
                                            
                    
Sau Hoàng
         Hạc lâu của Thôi Hiệu, bài Phong Kiều Dạ Bạc là bài thơ
         khiến Quên Đi có nhiều suy nghĩ nhất, một thắc mắc cứ mãi
         trong đầu: Tại sao tác giả dùng từ " Dạ bán " mà
         không dùng " Bán dạ"?có phải chỉ để cho êm tai hơn
         , thuận miệng hơn khi đọc hay còn một nguyên do nào khác?
          Giống như Thầy Khắc Trí, Quên Đi
         cứ dịch mãi bài thơ này cũng chưa vừa ý.Xin gởi ra đây
         những bài Quên Đi đã dịch:
   
              Đêm Neo Thuyền Ở Bến
         Phong Kiều 
 1
 Tiếng quạ kêu sương bóng
         nguyệt buông
 Đèn câu le lói bến phong buồn
 Hàn San chùa
         cổ canh khuya vắng
 Quá nửa đêm về vọng tiếng chuông
 
 2
 Sương phủ trăng mờ quạ khóc than
 Đèn
         chài phong bến giấc sầu lan
 Tô Châu thành ngoại Hàn San Tự
 Chuông vẳng giữa đêm mộng khách tàn
  
 3
             
         Sương mờ trăng lặn quạ hờn
   Cầu phong giấc ngủ chập
         chờn sầu vương
           Hàn San yên
         vắng phật đường
 Nửa đêm chuông đổ Hoàng Lương
         mộng tàn 
 
 4 
  Trăng tàn quạ nhác sương
 Phong bến giấc sầu
         vương
 Đêm vắng Hàn San Tự
 Chuông ngân khách có
         tường
 
 5
          Sương
         giăng tiếng quạ trăng tàn
    Cầu phong chài lửa man man giấc
         trần
             Hàn San Tự đêm khuya
         dần
  Nam Kha đang mộng chuông ngân
         vọng về 
   
                                                    
         Quên Đi 
   
  
 
 
  
      
       
   Đảo Y Thiên ( Lý
         Bạch)
    Mailoc phỏng
         dịch 
   
   Chia ly là
         nỗi đau muôn đời của Chinh Phu Chinh Phụ. Xem cảnh chia tay của người
         vợ lính Mỹ ôm con tiễn chồng trong sân bay, trên bến tàu cho
         cuộc chiến Iraq, Afghanistan trên TV mà lòng bùi ngùi nhớ đến
         cảnh người  vợ lính VNCH chúng ta ngày trước khi chia tay
         chồng đi tù cải tạo. Lý Bạch đời Đường cũng
         diễn tả nỗi đau thương mong đợi chồng của người chinh
         phụ cô phòng lẻ bóng ngày xưa, cũng lâm ly như trong Chinh Phụ
         Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm vậy .
  Xin chia xẻ cùng các Bạn. 
  Thân, 
  Mailoc
   
  
Đảo Y Thiên 
 
                         
         Lý Bạch 
 
 Khuê lý giai nhân niên thập dư 
         Tần nga đối ảnh hận li cư 
 Hốt phùng giang thượng xuân
         quy yến 
 Hàm đắc vân trung xích tố thư 
 Ngọc thủ
         khai giam trường thán tức 
 Cuồng phu do thú Giao hà bắc 
 Vạn lí Giao hà thuỷ bắc lưu 
 Nguyện vi song yến phiếm
         trung châu 
 Quân biên vân ủng thanh ti kỵ 
 Thiếp xứ
         đài sinh hồng phấn lâu 
 Lâu thượng xuân phong nhật tương
         yết 
 Thuỳ năng lãm kính khan sầu phát 
 Hiểu xuy viên
         quản tuỳ lạc hoa 
 Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt 
 Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường 
 Chân châu liêm bạc
         yểm lan đường 
 Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết 
 Bán phất quỳnh diên tô hợp hương 
 Quỳnh diên bảo
         ác liên chi cẩm 
 Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm 
 Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao 
 Vi quân lưu hạ tương
         tư chẩm 
 Trích tận đình lan bất kiến quân 
 Hồng
         cân thức lệ sinh nhân uân 
 Minh niên nhược canh chinh biên
         tái 
 Nguyện tác Dương Đài nhất đoạn vân 
 
 Chú thích: 1/ Giao hà, tên sông, nay ở phía tây
         huyện Thổ lỗ phồn trong khu tự trị Tân Cương, 2/ Dương đài,
         tên ngọn núi trong rặng núi Vu sơn ở phía đông nam tỉnh
         Tứ Xuyên. 3/ Theo lệ đời Đường, gia đình phải giặt áo
         lạnh gửi ra chiến trường cho người thân đi lính. 
           
  --Dịch
         nghĩa: -- 
 
 Bài ca giặt áo 
 
 Người đẹp
         ở trong phòng the đã hơn mười năm ; soi gương chau mày buồn
         cho cuộc sống [có chồng ] xa vắng. Bỗng thấy trên sông xuân một
         cánh nhạn bay về ; trong mây ngậm một phong thư trắng dài cả
         thước . Bàn tay ngọc mở thư xem rồi [miệng] than một tiếng dài
         : người chồng cuồng vẫn còn đóng trong quân phía bắc sông
         Giao . Sông Giao dài cả vạn dặm, nước chảy ngược lên phía
         bắc ; thiếp nguyện làm đôi chim bay bay giữa bãi sông . Nơi biên
         giới chàng ở, mây phả vào [mặt] con ngựa [lông] tơ xanh ; lầu
         hồng thiếp ngụ, rêu đang bao phủ . Trên lầu có gió xuân,
         nắng sắp tắt ; ai còn có thể soi gương để xem mái tóc
         buồn . Buổi sáng thổi sáo tròn theo lá rụng ; đêm giặt
         áo trận [của chàng] nhìn về vầng trăng sáng . Trăng trên
         cao sáng cả đêm ; rèm ngọc đã giăng nhà lan . Giải đồng
         tâm kết bằng lụa quý trên màn treo ngang ; rủ lưng chừng vào
         chiếu quỳnh thơm mùi tô hợp. Chiếu quỳnh, màn quí đều
         là gấm thêu cành hoa ; đèn đuốc soi sáng chỗ ngủ cô
         đơn . Giả sử có tin chàng, thiếp sẽ dùng kéo vàng ; may
         chiếc gối tương tư lưu niệm . Đã hái hết hoa lan trong sân
         mà chưa thấy chàng về ; khăn hồng lau lệ đến mờ cả
         mắt . Sang năm nếu chàng còn ở biên ải ; thiếp nguyện làm
         một cụm mây ở Dương Đài. 
  
 
 --Bản dịch của Mailoc-
                 
         BÀI CA GIẶT ÁO
  
 Hơn
         mười năm khuê phòng quạnh quẽ
         ,
  Buồn nhìn gương
         bóng lẻ xa chồng .
  Xuân về én liệng trên sông ,
  Xua mây miệng ngậm thư hồng lụa trong .
   
  Mở
         thư xong hận lòng than thở ,
  Anh
         chồng cuồng còn ở sông Giao .
  Sông
         Giao phương bắc thét gào ,
  Nguyện
         làm đôi én thì thào bến sông .
   
  Mây mơn
         chàng , ngựa hồng tơ sắc ,
  Thiếp
         lầu son hiu hắt rêu phong .
  Gác
         xuân ngày hết gió lồng ,
  Tóc
         sầu ai nỡ gương hồng ngắm soi .
   
  Tiếng sáo sớm , hoa
         rơi từng cánh ,
  Giặt chinh y
         dưới ánh trăng thâu .
  Trăng
         ngời giọt lậu dài lâu
  Rèm
         châu buông xuống nhà lan lạnh lùng .
   
  Ngang màn qúi giải
         đồng tâm kết
  Giường
         chiếu quỳnh chưa hết hợp hương .
  Chiếu quỳnh màn gấm uyên ương
  Sáng ngời đèn nến soi giường lặng trang  .
           
  Có
         tin chàng , kéo vàng may cắt
  Gối
         tương tư thiếp khắc bóng chàng .
  Chàng ơi ! sân trước lan tàn
  Nhạt nhoà lệ thắm chứa chan khăn hồng .
           
  Chàng
         sang năm còn rong biên tái
  Thiếp
         làm mây bay mãi Chương Đài .
                         
                              
         Mailoc phỏng dịch
__________________________________________________________________________________________________ 
           
   
            
 
      
       
           

 
Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức,
         Anh Tú       
春晴        
                               XUÂN TÌNH
 
 
          雨前初見花間蕊.        Vũ tiền
         sơ kiến hoa gian nhụy,
 
          雨後全無葉底花。      Vũ hậu toàn
         vô diệp để hoa.
 
          蜂蝶紛紛過牆去,      Phong điệp
         phân phân qúa tường khứ,
   卻疑春色在鄰家。     
         Khước nghi xuân sắc tại lân gia.
                   王駕                                     
         Vương Giá
 
DIỄN NÔM :
                     
                 XUÂN TÌNH
 
       
                  Trước mưa hoa hãy còn phong nhụy,
               
          Sau trận mưa rào tan tác hoa.
                 Ong bướm bay sang tường
         vội vả,
     
                    Nhà bên xuân ngự, phải chăng là ?!
 Lục bát :
                 Trước
         mưa hoa nở đẹp sao,
 
                        Sau mưa dưới lá hoa nào còn chi
         !
           
              Cách tường ong bướm bay đi,
                        Ngờ rằng xuân sắc có
         khi bên nhà !
 
                        Đỗ Chiêu Đức
   
 
         
***
 
Cảm tác từ Xuân Tình:
       
  
Dưới Nắng Xuân*
 
Hoa khoe sắc thắm chờ mưa
Mưa rơi hoa rũ đong đưa
         cánh sầu
Bướm ong vội vã về đâu?
Phải chăng Xuân đã
         đẹp màu vườn bên?
 
 
Anh Tú
02/Tháng 12/2015
     
                       Palm Beach Gardens, FL
 
      
      SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
          Nguyên tác: SẦM THAM
Bản dịch: Đổ Chiêu Đức, Phương
         Hà, Mailoc _____________________________
            Mùa Xuân là mùa hoa cỏ xanh tươi rực
         rở với muôn hồng ngàn tía, nhưng... phải ở hoàn cảnh nào
         thì cỏ non hoa đẹp mới làm vui được lòng người... Đôi
         khi cỏ non hoa đẹp chỉ tạo thêm nỗi tang thương biến đổi
         của cuộc sống mà thôi !!!...
              
         Mời tất cả hãy cùng đọc bài " Sơn Phòng Xuân Sự
         " của Sầm Tham thì sẽ rõ...
 
   
                   山房春事                    SƠN
         PHÒNG XUÂN SỰ
     梁園日暮亂飛鴉,    
         Lương Viên nhật mộ loạn phi nha,
     極目蕭條三兩家。    
         Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
     庭樹不知人去盡,    
         Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
     春來還發舊時花。    
         Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
                          
         岑參                                             
         Sầm Tham.
 Chú Thích :
         1. Sơn Phòng
         : là Nhà cất trên triền núi như là một biệt thự ngày
         nay, để ngắm cảnh và hưởng nhàn. PHÒNG là Cái Phòng,
         nghĩa rộng là Nhà .
         
         2. XUÂN SỰ : là Việc của mùa xuân, ý chỉ Xuân Sắc, Xuân
         Quang, là Quang cảnh của mùa Xuân.
         
         3. LƯƠNG VIÊN : là khu vườn nghỉ mát, hưởng nhàn, hưởng
         lạc, của Lương Hiếu Vương Lưu Võ đời Tây Hán dựng
         nên, còn có tên là Thố Viên 兔园, và tục danh là
         Trúc Viên 竹园. Vườn rất lớn, chu vi hơn 300 dặm, tọa lạc
         tại phía đông của Thương Khâu huyện, thuộc tỉnh Hà
         Nam hiện nay. Trong vườn có Bách Linh Sơn, Lạc Viên Nham, Thê Long Tụ,
         Nhạn Trì, Hạc Châu... Tòa ngang dãy dọc, kỳ hoa dị thảo, trân
         cầm dị thú khắp nơi. Lương Hiếu Vương từng thiết tiệc
         lớn nơi nầy, tất cả danh tài đương thời như Tư Mã
         Tương Như... đều được mời đến, nhằm lúc mùa
         xuân, hoa thơm cỏ biếc, tài tử giai nhân hội tụ, ngựa xe như
         nước, áo quần như nen... Phồn hoa nhất thời không đâu sánh
         kịp.
           4. LOẠN PHI NHA : là Quạ đen
         bay loan xạ cả.
           5. CỰC MỤC : là
         Mút tầm mắt.
           6. ĐÌNH THỌ
         : là Cây cỏ trong sân vườn.
  
 XUẤT XỨ :
            Bài thơ nầy
         tả cảnh Sơn Phòng, biệt thự nghỉ mát ngày xưa của Lương
         Hiếu Vương sau hơn 500 năm, vào đời Đường, sau 8 năm
         chiến tranh loạn lạc của loạn An Lộc Sơn, dân cư sơ tán, cảnh
         trí tiêu điều. Mùa thu năm Khai Nguyên thứ 29 ( 741 ), Sầm Tham từ
         Khuông Thành dọn về Đại Lương. Mùa xuân năm sau, dạo
         chơi ở Lương Viên và làm bài thơ nầy .... Ta hãy nghe
         Sầm Tham kể lể đây...
   
          DỊCH NGHĨA :
                      
         Quang Cảnh Mùa Xuân Ở SƠN PHÒNG.
 
           
         Chiều xuống trên Lương Viên lũ quạ bay xao xác, hổn loạn.
         Nhìn mút tầm mắt chỉ thấy xác xơ tiêu điều vài ba
         căn nhà còn xót lại. Trong sân lá hoa cây cỏ không biết
         người đà thất tán hết rồi, nên khi xuân đến lại
         vẫn rực rỡ trổ những hoa xưa như những năm nào !
           
         Thiên nhiên cây cỏ vẫn vô tình, không cảm nhận được
         cái tang thương biến đổi của cuộc đời, tàn phá của
         chiến tranh, ly tan của nhân thế, đào thải của thời gian .....
    
 
           
                         DIỄN NÔM :
                           CHUYỆN
         XUÂN CỦA SƠN PHÒNG
  
                      
         Vườn Lương chiều xuống quạ nhởn nha ,
                      
         Hoang vắng tiêu điều mấy nóc gia.
                      
         Cây cỏ biết đâu người thất tán,
                       Xuân
         về vẫn trổ bấy nhiêu hoa.!
    Lục bát :
                      
         Lương Viên chiều xuống quạ bay,
                      
         Tiêu điều mấy nóc nhà ai hoang tàn,
                      
         Cỏ cây đâu biết ly tan,
                      
         Xuân về vẫn nở ngập tràn hoa xưa !
  
                                                                 
         Đỗ Chiêu Đức.
  
   
                  
           Phương Hà
         xin góp bài phỏng dịch
   
           XUÂN NƠI NHÀ VƯỜN TRÊN NÚI
Chiều xuống Vườn Lương quạ
         túa bay
Nhà hoang vài nóc ẩn đâu đây
Vô tình hoa nở khi xuân đến
Nào biết không ai ở chốn này
Vườn Lương quạ táo tác bay
Nhà hoang vài nóc lạc loài khuất
         xa
Nào hay người đã rời xa bấy chầy.
              Phương Hà phỏng
         dịch
Mailoc xin góp bài phỏng dịch      
XUÂN  SƠN  PHÒNG
(1)
Lương Viên huyên náo quạ chiều tà ,
Xa
         tắp tiêu điều mấy nóc gia .
Cây
         chẳng biết người đà tứ tán ,
Xuân về vẫn rực những bông hoa .       
                
Mailoc
(2)
Chiều Lương Viên
         quạ về huyên náo ,
Tít
         mù xa mờ ảo mấy nhà .
Không
         hay người đã đi xa ,
Cây
         sân xuân đến đơm hoa như thường .         
            
Mailoc phỏng dịch 
_____________________________________________________________________________________ 
      
      TẶNG BIỆT
                           
Đỗ Chiêu Đức 
 
          " Ôi, Cái
         cảnh biệt ly sao mà buồn vậy ! ". Câu nói trong " Quốc Văn
         Giáo Khoa Thư " ngày xưa mới đơn giản nhưng thấm thía
         làm sao ! Biệt ly là một trong Sanh Ly Tử Biệt, là đề tài muôn
         thuở của nhân sinh, thi nhân từ ngàn xưa đến nay đều không
         bỏ qua đề tài nầy, Đỗ Mục cũng không ngoại lệ, ta hãy
         cùng đọc một bài Thất ngôn Tứ tuyệt tuyệt tác về
         biệt ly của ông nhé !
 
         贈別                            
         TẶNG BIỆT
   多情卻似總無情,     
         Đa tình khước tự tổng vô tình,
   唯覺樽前笑不成。      Duy giác
         tôn tiền tiếu bất thành.
    蠟燭有心還惜別,     
         Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
   替人垂淚到天明。      Thế
         nhân thùy lệ đáo thiên minh !
                 
          杜牧                                            Đỗ
         Mục
 
XUẤT XỨ CỦA BÀI
         THƠ :
           
         Năm Đại Hòa thứ 9  ( khoảng năm 835 ) Đỗ Mục từ chức
         vụ Hoài Nam Tiết Độ Sứ Chưởng Thư Ký thăng nhậm Giám
         Sát Ngự Sử, nên phải rời Dương Châu về lại Trường
         An. Đây là bài thơ TẶNG BIỆT ông làm để nói lên
         cái tình quyến luyến của mình khi phải chia tay cùng một hồng
         nhan tri kỷ là một cô ca kỷ xinh đẹp ở Dương Châu.
 CHÚ THÍCH :
     
         TẶNG BIỆT : hay Tống Biệt, Tiễn Biệt đều có nghĩa là Tiễn
         Đưa, Đưa Tiễn một ai đó.
      KHƯỚC
         TỰ : Lại giống như, Ý chỉ một nghĩa ngược lại.
      TIẾU BẤT THÀNH : là Không
         cười nổi. Cười hổng nổi.
      LẠP
         CHÚC HỮU TÂM : Ngọn nến có tim. Cây đèn cầy cũng có
         tim đèn cầy như tim của con người vậy.
      TÍCH BIỆT : Thương tiếc cho nổi biệt
         ly.
      THẾ : là Thay.
         Ta có từ kép Thay Thế.
     
         THÙY LỆ : Chảy nước mắt. Rơi lệ.
 
NGHĨA BÀI THƠ :
          Rất đa tình
         mà lại phải làm như là rất vô tình vậy. Chỉ cảm
         thấy rằng trước chén rượu chia tay thì không thể nào gượng
         cười cho nổi. Ngay cả ngọn nến kia cũng có cái tim ở giữa
         như con người, cho nên cũng tiếc thương cho nổi biệt ly mà thay
         người nhỏ lệ thâu đêm suốt sáng !
          Đọc 2 câu :
                  
         Đa tình khước tự tổng vô tình,
                   Duy
         giác tôn tiền tiếu bất thành.
làm
         ta nhớ đến một vế thơ trong bài " Giây Phút Chạnh Lòng
         " của Thế Lữ :
                   Rồi
         bỗng ngừng vui cùng lẵng lặng,
                  
         Nhìn nhau bình thản lúc ra đi,
                   Nhưng
         trong khoảnh khắc ơ thờ ấy,
                   Thấy
         cả muôn đời hận biệt ly !
và
         ... 2 câu :
                   Lạp
         chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
                  
         Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh !
Làm ta nhớ đến câu :
                   Lạp
         cự thành hôi lệ thuỷ can.
      
         ( Lệ nến chảy tan hết thành tro thì lệ lòng mới cạn )
trong bài thơ VÔ ĐỀ thất ngôn bát cú
         cuả Lý Thương Ẩn.
 
và ... câu thơ của Ngân Giang Nữ Sĩ thời
         Tiền chiến là :
            
         " Đêm nay lệ nến rơi thành chữ ! "
 
         
               
 
DIỄN NÔM :
                            TẶNG
         BIỆT
 
                 Đa tình
         lại tựa giống vô tình,
                
         Trước rượu cười vui tiếng chẳng thành.
                 Nến
         nọ có lòng nên cũng biết...
                
         Thay người nhỏ lệ suốt năm canh !
 
         Lục bát :
                
         Đa tình phải giống vô tình, 
                 Bồi hồi chén
         tiễn lặng thinh nói cười.
                 Nến
         kia cũng tựa như người,
                
         Suốt đêm nhỏ lệ ngậm ngùi biệt ly !   
 
                                                        
         Đỗ Chiêu Đức

 
 
KHIỂN HOÀI
 
        
         Nhắc đến Đỗ Mục là người ta nghĩ ngay đến một chàng
         thư sinh đẹp trai phóng đãng lạc phách giang hồ, xuất khẩu
         thành thơ, phong lưu rất mực " văn chương nết đất, thông
         minh tính trời ", hợp cùng với Lý Thương Ẩn  ( Lý
         Nghĩa Sơn ) thành một cặp LÝ ĐỖ tài hoa của buổi Tàn
         Đường.ĐỖ MỤC 
         ( 803-852 ), tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ, người đất Kinh
         Triệu  ( Tây An thiểm Tây ngày nay ). Ông là con của Đỗ
         Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến
         sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm
         thứ 2.
        Đỗ
         Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời.
         Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang
         Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán
         Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối
         đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên
         người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác
         Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ
         tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ đê phân
         biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường.
         Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ
         ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là
         Lý Bạch và Đỗ Phủ .
 
        Nhân bài Diễu Đỗ
         Mục của Thầy Chân Diện Mục Phan Huy Viên...              
                  DIỄU ĐỖ
         MỤC
          Kẹp tay bầu rượu rong chơi,
          Eo thon đùi đẹp ngất cười lẳng
         lơ !
          Mười năm vùi mộng vừa
         chưa ?
          Lừng danh chàng Sở thôi vừa
         đi cha !!!
                  
                                   
         CDM
        Sau đây
         là một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt nổi tiếng của
         ông với nội dung như Thầy CDM đã diễu :
 
      遣懷                            
         KHIỂN HOÀI
落魄江湖載酒行,     
         Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
楚腰纖細掌中輕.       
         Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
十年一覺揚州夢,     
         Thập niên nhất giác Dương châu mộng,
贏得青樓薄倖名。      Doanh đắc
         thanh lâu bạc hãnh danh !
               杜牧                                                
         Đỗ Mục
 
          
 
CHÚ THÍCH :
      KHIỂN HOÀI : Khiển là Điều
         động, như Điều khiển,khiển dung. Khiển là Giải bày, Bày
         tỏ. Hoài là Lòng dạ. Nên KHIỂN HOÀI là Bày tỏ nổi
         lòng, là Giải bày tâm sự.
      
         LẠC PHÁCH : là Sa cơ thất thế, là Lụn bại. Lạc Phách
         Giang Hồ là Thất thểu, lang thang trong chốn giang hồ.
       SỞ YÊU : Chỉ chung cái
         eo rất thon rất nhỏ của phái nữ. Theo điển tích : Sở Linh Vương
         rất thích những người đẹp có cái eo thon nhỏ, nên tất
         cả cung nữ trong cung đều thắt eo và nhịn ăn cho có được
         cái eo thon để được vua thương !
       TIÊM TẾ : Nhỏ nhắn gọn gàng dễ thương.
       CHƯỞNG TRUNG KHINH : Chưởng
         là Lòng bàn tay. Chưởng Trung Khinh là Nhẹ nhàng trong lòng bàn
         tay. Theo tích : Hoàng hậu của Hán Thành Đế là Triệu Phi Yến
         có thân hình nhẹ như chim én, có thể ca múa ở trên lòng
         bàn tay của lực sĩ.
       DOANH
         : là Thắng, là Lời, là Gặt hái được.
       BẠC HÃNH : là Bạc tình, là
         ... Sở Khanh. Bạc Hãnh Lang là Chàng họ Sở !
 
NGHĨA BÀI THƠ :
                           
         GIẢI BÀY TÂM SỰ
        Bất
         đắc chí, lang thang lưu lạc giang hồ với một bầu rượu trong
         tay. Ta lăn lóc trong đám người đẹp eo thon ẻo lả của
         thanh lâu. Suốt mười năm trường thoáng qua như một giấc mộng
         dài chìm đắm trong tửu sắc ở Dương Châu. Kết
         cuộc, được gì đây ? Chỉ được tiếng là gã
         bạc tình nổi tiếng nhất lầu xanh mà thôi !
        Cảm khái thay lời tâm sự
         của một thư sinh lạc phách ! Tự mình nhìn lại mình, tự
         mình đánh giá mình, để thấy được sự tự
         huỷ hoại mình trong ăn chơi trác táng khi bất đắc chí,
         khi thất cơ lở vận ... cũng chẳng giải quyết được gì,
         chỉ tổ làm cho mình càng trụy lạc chìm đắm hơn mà
         thôi !
        Câu
         cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du
         mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Kiều là ...
                     
          Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
              (
         Một tay chôn biết mấy cành phù dung ! )
                   
DIỄN NÔM :
                           
         KHIỂN HOÀI
                 
         Bầu rượu lang thang khắp lữ trình,
                 
         Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.
                  Mười
         năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
                 
         Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình !
Lục
         bát :
                  Đắm
         chìm tửu sắc lang thang,
                  Eo
         thon mình én dạ càng ngẩn ngơ.
                  Dương
         Châu giấc mộng ơ hờ,
                  Mười
         năm được tiếng ai ngờ Sở Khanh !
                                                         
         Đỗ Chiêu Đức
 
 
              
          DIỄU ĐỖ MỤC
          Kẹp tay bầu rượu
         rong chơi,
          Eo thon đùi đẹp ngất cười
         lẳng lơ !
          Mười năm vùi mộng
         vừa chưa ?
          Lừng danh chàng Sở thôi
         vừa đi cha !!!
                  
                                   
         CDM
 
 
 
      
      BẠC TẦN HOÀI
   Đỗ
         Chiêu Đức
           Nhân
         nhắc đến cầu Chu Tước bắt ngang qua sông Tần Hoài để
         đến Ô Y Hạng, làm ta lại nhớ đến con sông nên thơ luôn
         phủ mờ sương khói : Sông Tần Hoài ! Kính mời tất cả
         cùng đến  thăm con sông nầy trong một lần ghé bến với
         bài thơ " BẠC TẦN HOÀI " của chàng thi sĩ hào hoa phong
         lưu lãng tử : Đỗ Mục.
 
 
 
 
   
                 泊秦淮                                      
         BẠC TẦN HOÀI    
  煙籠寒水月籠沙,    
         Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
  夜泊秦淮近酒家。    
         Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
  商女不知亡國恨,    
         Thương nữ bất tri vong quốc hận,
  隔江猶唱後庭花。    
         Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.
            
         杜牧                                
         Đỗ Mục
   Chú thích :
                TẦN HOÀI 秦淮 :
         Tức con sông Tần Hoài, bắt nguồn từ vùng đông bắc tỉnh
         Giang Tô, chảy qua Nam Kinh rồi đổ vào sông Trường Giang. Tương
         truyền do Tần Thuỷ Hoàng khi tuần du đất Cối Kê ở phương
         nam, mới cho đào khúc sông nầy để nối dòng Hoài Thuỷ
         cho chảy vào Trường Giang , nên mới có tên là TẦN HOÀI
         từ đó.
        
         LUNG 籠 : Có bộ Trúc ở phía trên, có nghĩa là Cái
         Lồng. Nghĩa phát sinh là Bao trùm, phủ trùm. LUNG cũng có nghĩa
         là Mông Lung, Mờ ảo.
         
         BẠC 泊 :  Có 3 chấm thuỷ bên trái, có nghĩa là
         Trôi nổi, như Phiêu Bạc. BẠC cũng có nghĩa là Ghé lại,
         như Bạc Thuyền là Ghé thuyền lại.
           THƯƠNG NỮ 商女 : Một
         cách gọi riêng để chỉ các cô Ca Kỷ, Ca Nhi, các Ả Đào,
         Kỷ Nữ.
           HẬU
         ĐÌNH HOA 後庭花 : Tức là nhạc khúc " Ngọc Thụ
         Hậu Đình Hoa ". Trần Hậu Chủ, tên là Thúc Bảo, là
         người hoang dâm xa xỉ, đắm chìm trong thanh sắc. Khi giặc đã
         đánh tới cửa cung mà trong nầy nhà vua còn cho trổỉ khúc
         Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa, nên khúc hát nầy được gọi
         là " Vong Quốc Chi Âm 亡國之音 " ( Khúc Âm
         nhạc mất nước ). Đối với đất nước, Trần Hậu Chủ
         là một tội đồ vong quốc, nhưng trên văn đàn Ngài là
         một nhà Từ ( Từ Gia 詞家 ) trác tuyệt.
  NGHĨA BÀI THƠ :
                              
         ĐẬU BẾN TẦN HOÀI
            Khói
         sóng phủ mờ làn nước sông lạnh lẽo, và ánh trăng
         mông lung phủ trùm cả baĩ cát mênh mông. Đêm ta ghé thuyền
         đậu ở bến sông Tần Hoài gần cạnh các tửu lâu. Các
         ả ca nhi kia đâu có biết được cái hờn vong quốc, cho nên
         cách bờ sông bên kia còn cất cao giọng để hát khúc Hậu
         Đình Hoa !
           
         Tiếng là trách các ca nhi chỉ biết ca cho người mua vui, mà không
         biết được cái hờn vong quốc của bài ca, kỳ thực là
         Đỗ Mục đang chỉ trích châm biếm, trách cứ cái tầng
         lớp phú quý đang vùi đầu ăn chơi sa đọa kia, không biết
         rằng xã hội đang nhiễu nhương, loạn lạc cuả buổi Tàn
         Đường, với các cuộc nôỉ dậy như của Huỳnh Sào
         chẳng hạn .... Cũng như để diễn tả các cuộc ăn chơi trác
         táng thâu đêm suốt sáng của các bậc vương hầu vua
         chúa như trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
         cũng  đã viết :
                  
         Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
                   Gác
         Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa
       
                                
 
                   DIỄN NÔM :
                                
         BẠC TẦN HOÀI
                  
         Khói mờ nước lạnh bóng trăng nhòa,
                   Đêm
         ghé Tần Hoài cạnh tửu gia.
                   Ca
         kỷ biết đâu hờn mất nước,
                   Cách sông
         còn hát Hậu Đình Hoa ! 
  Lục
         bát  :
                   Trăng
         lồng khói sóng cát nhòa,
                   Tần
         Hoài ghé bến tửu gia đêm trường. 
                  
         Ca nhi nào biết chi hờn,
                   Bên
         sông còn vẳng tiếng đờn Đình Hoa !
                                                           Đỗ
         Chiêu Đức
   
             
  
             Hai bên bờ sông Tần
         Hoài của ngày nay.
 
Đỗ Chiêu
         Đức 
________________________________________________________________________________________________________ 
           
 
      
       
      U CƯ -Vi Ứng Vật 
 
 Quý
         tiện tuy dị đẳng, 
 Xuất môn giai hữu dinh. 
 Độc vô ngoại vật khiên, 
 Toại
         thử u cư tình. 
 Vi vũ dạ lai quá, 
 Bất tri xuân thảo sinh. 
 Thanh sơn hốt dĩ thự, 
 Điểu tước nhiễu xá minh. 
 Thời
         dữ đạo nhân ngẫu, 
 Hoặc tùy tiều giả
         hành. 
 Tự đương an kiển liệt, 
 Thùy vị bạc thế vinh. 
 
 
 Chú
         thích: Năm 779 tác giả Vi Ứng Vật đang làm huyện
         lệnh huyện Hộ, bị đổi đi làm huyện lệnh huyện Lịch
         Dương. Ông cáo bệnh không đi và từ quan luôn, ở ẩn.
         Ông làm bài này trong giai đoạn đó. 
 
         --Dịch nghĩa: -- 
 
 Ở ẩn 
 
 Quý phái và bần tiện
         tuy hai đẳng cấp khác nhau, 
 nhưng đã ra khỏi
         cửa đều phải mưu cầu dinh dưỡng. 
 Chỉ
         mình ta không bị ngoại vật trói buộc, 
 nên
         thỏa tình sống nơi vắng vẻ an nhàn. 
 Đêm
         qua vừa có trận mưa phùn, 
 chẳng cần biết
         cỏ xuân tươi tốt. 
 Nắng bỗng bừng trên
         núi xanh, 
 chim chóc bay quanh nhà đua hót. 
 Đôi khi bạn cùng đạo sĩ, 
 hoặc
         đi theo tiều phu [vào rừng]. 
 Tự yên lòng làm
         thân thấp kém; 
 [vì coi ] đạm bạc, vinh hoa trên
         đời có là cái gì đâu. 
 
 --Bản dịch của Mai Lộc-
   
  Ở Ần
   
  Tuy khác
         biệt nghèo hèn - sang trọng ,
  Ra
         khỏi nhà cái sống lo toan .
  Riêng
         ta ngoại vật chẳng màng ,
  Sống
         nơi thanh vắng an nhàn lòng ưa .
   
          Đêm vừa qua cơn mưa lất phất ,
          Đâu cần hay cỏ ngát xuân tươi
         .
  Núi xanh bỗng rực sáng ngời
         ,
  Chim muông lảnh lót đến
         chơi quanh nhà .
   
 
         Có khi đến lân la đạo sĩ ,
          Khi cùng tiều thủ thỉ rừng sâu .
          Yên lòng thấp kém bản thân ,
          Giàu sang-đạm bạc để tâm làm
         gì ?
                               
         Mailoc
  Đỗ Chiêu
         Đức tham gia với các phần sau :
   
  1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA
         BÀI THƠ :
   
     幽居                       
         U CƯ 
            韋應物                   
           Vi Ứng Vật
  貴賤雖異等,        
         Quí tiện tuy dị đẳng,
 出門皆有營。        
         Xuất môn giai hữu dinh.
 獨無外物牽,        
         Độc vô ngoại vật khiên,
 遂此幽居情!         
         Toại thử u cư tình !
 微雨夜來過,        
         Vi vũ dạ lai quá,
 不知春草生。        
         Bất tri xuân thảo sanh.
 青山忽已曙,        
         Thanh sơn hốt dĩ thự,
 鳥雀繞舍鳴。        
         Điểu tước nhiễu xá minh.
 時與道人偶,        
         Thời dữ đạo nhân ngẫu,
 或隨樵者行。        
         Hoặc tùy tiều giả hành.
 自當安蹇劣,        
         Tự đương an kiển liệt,
 誰謂薄世榮?!        
         Thùy vị bạc thế vinh ?!
   
          Đôi dòng về tác giả :
  
         

 VI ỨNG VẬT :( 737-792 ) Người đời
         xưng là Vi Giang Châu hoặc Vi Tô Châu. Ông là thi nhân lớn của
         những năm Đại Lịch đời Đường. Thơ của ông nổi
         tiếng về tả phong cảnh và cảnh vật đồng quê, lời lẽ
         đơn giản nhẹ nhàng mà hàm Ý sâu xa. Còn để lại
         " VI TÔ CHÂU TẬP ".
          韋應物
         (公元737 - 約792),人稱韋江州或韋蘇州,唐代大歷時期大詩人。其詩以寫田園風物而著名,語言簡淡而意蘊深遠。有《韋蘇州集》。        
           
  2. CHÚ
         THÍCH :
      U CƯ : U là Thâm U , vắng vẻ. CƯ là
         Ở. U CƯ : là ở nơi thanh tịnh vắng vẻ, chỉ Ở Ẩn.
     
         DỊ ĐẲNG : DỊ là Khác, ĐẲNG là Đẳng Cấp. DỊ ĐẲNG
         ở đây chỉ : Khác nhau về Giai Cấp xã hội.
     
         DINH 營 : còn đọc là DOANH, là Kinh Doanh, là làm cái gì
         đó để sinh sống.
      KHIÊN 牽 : là Nắm, Níu,
         Kéo, Dẫn, Dắt. Ở đây có nghĩa là : Bị Liên lụy, Dính
         líu, vướng bận.
      TOẠI : là Toại nguyện, là
         Thỏa lòng.
      THỰ 曙 : Trời Rựng Sáng. Sáng
         ra.
       ĐIỂU TƯỚC :
         Điểu là Chim, Tước là Chim Sẻ, nên từ ĐIỂU TƯỚC
         có nghĩa là CHIM CHÓC, chỉ chung các loài chim.
      MINH
         鳴 : Là chữ HỘI Ý : gồm bộ KHẨU và bộ ĐIỂU ghép
         lại mà thành, lấy nghĩa Miệng của con chim, nên có nghĩa là
         HÓT, KÊU.
      NGẪU 偶: là Đôi, là Chẵn.
         Như NGẪU SỐ là Số Chẵn. GIAI NGẪU là Tốt Đôi, Đẹp
         Đôi. Trong câu có nghĩa là Làm Bạn.
      KIỂN
         LIỆT 蹇劣 : KIỂN là Què, Đi Cà nhắc. LIỆT : là Xấu,
         Hư, Ác... như ÁC LIỆT là Xấu Xa. Nên KIỂN LIỆT là Què
         quặc, Hèn kém, Tồi Tệ, là Dở ...Ẹt chẳng ra gì !
           
  3. NGHĨA
         BÀI THƠ :
                    
         Ở NƠI THANH VẮNG ( Ở ẨN )
      Người đời mặc
         dù phân biệt cao sang hèn hạ, nhưng tất cả đều phải bôn
         ba với sinh kế của mình. Duy chỉ có mình ta là không bận bịu
         với những vật ngoại thân, từ quan và sống thỏa mãn với
         cuộc sống ẩn dật của mình ! Mặc cho đêm qua mưa gió đầy
         trời và cũng không cần biết đến cỏ xuân đã trở
         nên xanh mơn mởn. Núi xanh cũng vụt bừng lên trong nắng sớm, lủ
         chim non líu lo ríu rít lượn quanh nhà. Cuộc sống thanh nhàn, đôi
         khi ta làm bạn cùng các đạo sĩ trong núi, đôi khi lại chung
         lối đi về với các tiều phu. Tự mình yên phận với cuộc
         sống thấp hèn kém cỏi của mình, mà không màn đến
         vinh hoa phú quí của cuộc đời bạc bẽo nầy ! Câu chót là
         câu phản vấn : Ai bảo cuộc đời bạc bẽo nầy là Vinh hoa Phú
         quí ?!    
   
  4. DIỄN NÔM :
                       
         U  CƯ
  
               
         Sang hèn tuy có khác,
               
         Đều vất vả mưu sinh.
               
         Chỉ ta không vướng bận,
               
         Ẩn cư thỏa chút tình.
               
         Đêm qua mưa rả rít,
               
         Cỏ xuân mơn mởn xanh,
               
         Núi đồi bừng nắng sớm,
               
         Líu lo chim hót quanh.
               
         Khi bạn cùng đạo sĩ,
               
         Lúc về với tiều phu.
               
         Yên thân sống hèn mọn,
               
         Đời bạc, ngỡ vinh ư ?!
  
    
         Lục bát :
                Cho dù
         quí tiện hèn sang,
             Sinh nhai
         đều phải lo toan suốt ngày.
               
         Riêng ta chẳng chút đoái hoài,
            
         Từ quan ở ẩn ngày rày yên thân !
               
         Đêm qua chợt gió mưa xuân,
            
         Cỏ non mơn mởn xanh um vươn dài.
               
         Núi xanh bừng sáng nắng mai,
            
         Chim non ríu rít lượn bay quanh nhà.
               
         Khi cùng đạo sĩ la cà,
            
         Khi cùng đốn củi xuyên qua núi đồi.
               
         An nhiên cuộc sống thảnh thơi,
            
         Ai rằng vinh hiễn, cuộc đời bạc đen ?!
  
                                                      Đỗ
         Chiêu Đức
      
   
          
      
       
 GIANG LÂU THƯ HOÀI -Triệu
         Hỗ
Bản dịch: Quên Đi,
         Phương Hà, Mailoc, Kim Phượng, Nguyễn Đắc Thằng, Đỗ Chiêu
         Đức 
Triệu Hỗ 趙嘏
         (810-856) tự Thừa Hựu 承祐, sinh quán ở huyện Sơn Dương, thuộc
         Sơn Ðông ngày nay. Tên ông cũng có khi đọc là Giả. Năm
         mới 17 tuổi ông đã được cử làm Hương cống lên
         cư ngụ Trường An. Ở đây ông kết du rộng rãi với các
         văn nhân đương thời, thường chỉ suốt ngày "nghêu
         ngao vui thú yên hà." Ông quen biết và đã từng thề thốt
         nặng lời với một ca kỹ, nhưng nàng này lại bị Tiết độ
         sứ của Chiết Tây cưỡng ép bắt đem về làm thiếp. 
 
 Vì thấy mình không thể đòi lại người ngọc nếu
         chẳng có công danh, Triệu quyết chí đi thi. Năm 32 tuổi, ông đậu
         tiến sĩ dưới triều Ðường Vũ Tông. Vừa mới biết mình
         đậu, mặc dù chưa có chức phận gì lớn lao, ông đã
         gởi ngay một bài tứ tuyệt "Toạ thượng hiến Nguyên tướng
         công" cho viên Tiết độ sứ kia. Viên Tiết độ sứ kia chẳng
         biết vì thẹn hay vì sợ, vội trả ngay người ngọc về cho
         Triệu. Hai người gặp nhau ngay trên đường Triệu vinh quy, người
         con gái khóc lóc thảm thiết rồi chết. Triệu mai táng nàng
         ngay chỗ họ gặp lại nhau. 
  Đường
         công danh của Triệu rất lận đận, mãi đến năm 42 tuổi,
         tức là 10 năm sau khi thi đậu, mới được bổ làm một chức
         quan nhỏ ở Vị Nam. Ông mất không lâu sau đó. 
   
  Có phải
         vì hoài niệm người tình mà ông có bài thơ "Giang
         Lâu Thư Hoài" này chăng?
   
                 江 樓 書 懷              
         Giang Lâu Thư Hoài
 
 獨 上 江 樓 思 悄 然     Độc
         thượng giang lâu tứ thiểu nhiên 
  月 光 如 水 水 如 天     Nguyệt quang như
         thủy thủy như thiên 
  同 來
         玩 月 人 何 在     Đồng lai ngoạn nguỵệt
         nhân hà tại 
  風 景 依
         稀 似 去 年     Phong cảnh y hi tự khứ niên 
                      
         趙 嘏                               Triệu
         Hỗ
   
  Dịch Nghĩa: Lầu Bên Sông Nhớ Viết
   
  Một mình
         lên lầu bên sông cảm thấy buồn man mác
  Trăng trong sáng như màu nước, sắc nước như
         màu trời 
 Người từng cùng ta đến đây ngắm trăng
         giờ ở phương nao
 Phong cảnh vẫn vắng vẻ như năm trước
           
  Dịch
         Thơ: Bên Sông Gợi Nhớ
   
          Bến lạnh lầu sương buồn điệp
         điệp
  Mây trời sông nước
         trắng màu trăng
  Kề vai thưởng
         nguyệt người đâu tá
  Cảnh
         cũ còn đây nỗi nhớ giăng
                               
         Quên Đi
   
   
   
  CẢM HOÀI NƠI LẦU VẮNG BÊN SÔNG
           
  Lầu
         vắng bên sông, dạ thẫn thờ
  Trăng
         in trời nước một màu thơ
  Chốn
         xưa trăng cũ, người đâu tá
  Quạnh quẽ, lầu nghiêng bóng đợi chờ.
                             Phương
         Hà phỏng dịch
   
     Giang Lâu Nỗi Nhớ 
  (1)
  Thơ thẩn lầu sông luống
         ngậm ngùi ,
  Trăng trong như nước
         , nước như trời .
  Người xưa
         cùng ngắm nay đâu tá ?
  Cảnh
         sắc như xưa chẳng đổi dời .
   
                                        Mailoc
          (2)
  Thơ
         thẩn lầu sông chân lê bước ,
  Gương
         trăng như nước , nước như trời .
  Người xưa cùng ngắm đâu rồi ?
  Cảnh y năm ngoái tơi bời nhớ thương .
                         
                    Mailoc
   
           Bên Sông Gợi Nhớ
   
  Bến vắng lầu đơn đến
         não lòng
  Trời trăng tợ nước
         nước màu trong
  Hỡi người thưởng
         nguyệt giờ đâu đã
  Chốn
         cũ riêng đầy nỗi quạnh mong
   
          Kim Phượng
   
  LẦU NHỚ
   
  Lầu
         vắng bên sông đứng lẻ loi
  Trăng
         soi màu nước, nước in trời
  Người
         cũ năm nào cùng thưởng nguyệt
  Cảnh xưa vẫn vắng nhớ bồi hồi.
   
  Nguyễn Đắc Thắng
          20150402
  Xin
         được trình bày một dị bản nữa của bài " GIANG LẦU 
         THƯ HOÀI  "  là " GIANG LẦU HỮU CẢM  " của nhà
         thơ TRIỆU HỖ đời Đường như sau :
  
    江樓有感            
         GIANG LÂU HỮU CẢM
  獨上江樓思悄然, 
         Độc thướng giang lâu tứ tiểu nhiên,
 月光如水水如天。 
         Nguyệt quang như thủy thủy như thiên.
 同來玩月人何在, 
         Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại ?
 秋景依稀似去年。 
         Thu cảnh  y  hi tự khứ niên !
         趙嘏                      
         Triệu Hỗ.
  CHÚ THÍCH :
    
         1. 江樓有感 GIANG LÂU HỮU CẢM : là Cảm xúc khi lên cái
         lầu ở ven sông.
     2. 江樓書懷 GIANG LÂU THƯ HOÀI
         : Ghi lại hoài cảm khi lên lầu ở ven sông.
     3. 上
         đọc là THƯỢNG có nghĩa là TRÊN, đọc là THƯỚNG
         thì có nghĩa là LÊN. Tương tự chữ 思 đọc là
         TƯ có nghĩa là NGHĨ ĐẾN, đọc là TỨ có nghĩa là
         sự NGHĨ NGỢI.
     4. TIỄU NHIÊN 悄然 : là Một cách
         Âm thầm, Lặng lẽ. Chữ TIỄU 悄 còn được đọc là
         THIỄU, khi là Phó Từ thì 悄悄 TIỄU TIỄU có nghĩa là
         Len lén.
     5. Y HI 依稀 : là Mơ Hồ, là Văng Vẳng,
         là Mường Tượng... là Hình Dung Từ vừa diễn tả Thị
         Giác vừa diễn tả Thính Giác như trong câu :
       
         Sanh ca uyển chuyển Tần Liên Tử,
        Cựu khúc
          y  hi tối não nùng !
  
 DỊCH
         NGHĨA :
        Lặng lẽ suy tư trong lúc lên lầu
         ở ven sông có một thân một mình. Nhìn ánh trăng trong như
         nước và nước cũng trong như màu trời. Chạnh lòng, nhớ
         đến người cùng đến nơi nầy để ngắm cảnh năm
         rồi, không biết bây giờ đang ở phương nao? Trong khi cảnh thu trước
         mắt vẫn còn mơ hồ như hồi năm trước !
   
  DIỄN NÔM :
          
               
         GIANG LÂU HỮU CẢM
           Một bóng lầu
         cao luống ngậm ngùi,
           Trăng trong như
         nước nước như trời !
           Nào
         cùng ngắm cảnh người đâu tá ?
          
         Thu cũ mơ hồ dạ chẳng nguôi !
  
  Lục bát :
             Một mình
         lầu vắng ngẩn ngơ,
       Trăng trong như nước nước
         ngờ trời trong !
             Đâu người
         ngắm cảnh ven sông ?  
       Dáng thu phảng phất
         cho lòng xót xa !!!
  
                                                     Đỗ
         Chiêu Đức 
 
  
  
      
      
TẢO THU SƠN CƯ- Ôn Đình Quân
Dịch / Phỏng dịch: Phạm Khắc Trí. Mailoc, Đỗ
         Chiêu Đức, Phương Hà 
  Diệp
         can văn lộc hành. Lá khô nghe nai đi. Những mong cùng nhau, mặc dù
         đã bao nhiêu nước chảy qua cầu , đã bao nhiêu đổi thay
         dâu biển , ta vẫn còn nghe được tiếng chân nai chạy trong khu rừng
         xưa ngập lá thu khô, cho vui . Vâng , cho vui thôi. PKT 06/10/2014
  
 Tảo Thu Sơn Cư
 Ôn Đình Quân
         (812 - 870)
  Sơn cận giác hàn tảo
 Thảo đường sương khí tình
 Thụ điêu song hữu
         nhật
 Trì mãn thủy vô thanh
 Quả lạc kiến viên quá
 Diệp can văn lộc hành
 Tố cầm cơ lự tĩnh
 Không bạn
         dạ tuyền thanh
  Dịch Xuôi : Thu Sớm
         Ở Núi
 PKT 06/10/2014
  Ở gần
         núi nên biết được lạnh sớm
 Nhà cỏ đầy khí
         sương lành, thông thoáng dưới trời quang 
 Cây già trơ
         lá ,nắng hong , lấp lánh ngoài song cửa 
 Mặt ao đầy nước,
         êm ả , long lanh
 Quả cây rụng thấy bóng vượn qua
 Lá
         vàng khô nghe chân nai đi 
 Ôm tố cầm mà lòng nghe nhẹ
         nhõm
 Đêm đêm bạn cùng với tiếng nước suối chảy,
         mà vui
  Thu Sớm Ở Núi
 PKT
         06/10/2014
          
 Cận núi, lạnh về sớm 
 Nhà gianh đầy khí lành 
 Cây già nắng lấp lánh 
 Ao lặng nước long lanh
 Quả rụng khô chờ vượn
 Lá
         rơi vàng đón nai 
 Ôm đàn lòng nhẹ nhõm 
         Tiếng suối đêm, riêng ai .
  Chú
         Thích : Chuyện kể , cuối đời nhà Tấn , Đào Tiềm
         (365 - 427) , tác giả bài Qui Khứ Lai Từ (Ta Về Đi Thôi) , ra làm
         quan được mấy ngày , bỏ về làm ruộng , vì không chịu
         nổi cảnh luồn cúi chốn quan trường. Khi rượu say , tiên sinh thường
         lấy tay vỗ vào tố cầm , một cây đàn không dây ,mà
         ca hát nghêu ngao. (Trích dẫn : Đường Thi Trích Dịch - Đỗ
         Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản ).PKT 06/09/2014    
          Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com
   
   
   
          THU  SỚM
          TRONG  NÚI 
  (1)
  Trong rừng
         núi đã nghe lạnh sớm ,
  Túp lều tranh , thu chớm ,mờ
         sương .
  Ngoài song
         lá úa nắng vương ,
  Ao đầy tĩnh lặng , khói
         dường như mây .
  Hoa trái rụng chuyền cây vượn
         hú ,
  Lá xạc xào
         một lũ hươu nai  .
  Gảy đàn thanh thoát lòng ai ,
          Bạn cùng suối
         nước đêm nay một mình .
                         
                          Mailoc
  (2)
  Rừng núi
         lạnh heo may ,
  Lều
         tranh sương khói bay .
  Lá úa
         ngoài song nắng ,
  Ao lặng
         nước dâng đầy .
  Vượn về , hoa trái rụng
         ,
  Xào xạc bước
         hươu nai .
  Gảy đàn
         lòng yên tĩnh ,
  Suối
         nước bạn đêm nay 
                         
                      Mailoc
   
           
  ỗ
         Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
  
   1. Sơ Lược về tiểu sử tác giả :
                           
                  ÔN ĐÌNH
         QUÂN ( 812-870 ) Thi nhân đời Tàn Đường, tên là KỲ, tự
         là Phi Khanh, người đất KỲ, Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây
         ngày nay, là cháu nội của Ôn Ngạn Bác. Ôn Đình Quân
         thông minh dĩnh ngộ, rất có thiên tài, nên rất Ỷ thị vào
         tài năng của mình, lại sống phóng túng buông thả, thường
         châm chích giới quyền quí, đắc tội cả đến Tể Tướng
         Lệnh Hồ Đào. Vì thế mà đi thi mãi vẫn không đỗ
         Tiến Sĩ, suốt đời bất đắc chí. Chỉ giữ các chức
         quan nhỏ như Huyện ÚY, Thành ÚY  ( 859-866 ) mà thôi. Ôn rất
         giỏi thơ, được người đời xếp ngang hàng với LÝ
         THƯƠNG ẨN, lại rất giỏi từ và tinh thông âm luật. Nổi
         tiếng với " HOA GIAN TẬP ",là tập từ có ảnh hưởng rất
         lớn tới đời sau.
 
   2. Bản chữ Hán cổ của bài
         thơ :
     
           早秋山居             
         TẢO THU SƠN CƯ
  
   山近覺寒早,        
          Sơn cận giác hàn tảo,
        草堂霜氣晴。       
         Thảo đường sương khí tình.
   樹凋窗有日,       
         Thọ điêu song hữu nhật,
        池滿水無聲。       
         Trì mãn thủy vô thinh.
   果落見猿過,       
         Quả lạc kiến viên quá,
        葉幹聞鹿行。       
         Diệp can văn lộc hành.
   素琴機慮靜,       
         Tố cầm cơ lự tịnh,
        空伴夜泉清。       
         Không bạn dạ tuyền thanh.
                    
         溫庭筠                               
          Ôn Đình Quân.
   
            3. NGHĨA BÀI THƠ :
           
         Ở gần núi cho nên có cảm giác là cái lạnh của mùa
         thu tới sớm, trong gian nhà cỏ sương thu báo cho biết là trời
         sẽ nắng ráo, cây đã bắt đầu tàn úa, trong cảnh mặt
         trời lắp ló ngoài song cửa, ao thu đầy nước yên ắng không
         một tiếng động. Nên ngoài kia trái thu chín rụng thấp thoáng
         thấy bóng vượn đi qua. Lá khô rơi đầy nên nghe tiếng
         bước chân nai xào xạc. Trong cảnh yên tĩnh với rừng núi
         thâm u nầy, đêm đêm tiếng tố cầm hòa lẫn với tiếng
         suối reo tạo thành một âm thanh trong trẻo bàng bạc hơi thu !
                      Đọc
         bài thơ nầy, làm ta nhớ đến...
                           
          Con nai vàng ngơ ngác,
                            
          Đạp lên lá vàng khô !
                                                     của
         LƯU TRỌNG LƯ thời Tiền Chiến.
  
   4. DIỄN NÔM :
                 
         Gần núi hơi thu lạnh,
                 
         Nhà cỏ sương phủ mờ.
                 
         Cây úa song vương nắng,
                 
         Ao thu nước lửng lờ.
                 
         Vượn nhặt trái thu rụng,
                 
         Nai đạp lá vàng khô.
                 
         Tố cầm hòa tiếng suối,
                 
         Đêm thanh vắng nên thơ !
    Lục
         Bát :
                  Núi
         gần nghe lạnh sớm thu,
                
          Một gian nhà cỏ mịt mù hơi sương.
                 
         Cây vàng nắng úa vương vương,
                 
         Ao thu lạnh lẽo nước trương lửng lờ.
                 
         Bóng vượn lượm trái ngẩn ngơ,
                 
         Nai vàng xào xạc đạp bờ lá khô.
                 
         Tố cầm lẫn tiếng suối mơ,
                 
         Trong đêm thanh vắng mịt mờ tiếng thu !
     
                                                                    
          Đỗ Chiêu Đức.
   
          THU SỚM
   
          Núi rừng báo sớm tiết thu sang
          Nhà cỏ, hơi sương đón nắng
         vàng
  Cây úa, trời trong vương
         ánh nhạt
  Ao đầy, nước lặng
         chẳng âm vang
  Nhẹ nhàng vượn
         đến gom chùm rụng
  Xào xạc
         nai đi đạp lá tàn
  Thánh thót
         suối reo hòa tiếng nhạc
  Hơi thu
         bàng bạc khắp không gian.
     
                             Phương Hà
______________________________________________________________________________ 
           
 
       
          Độ Tang Càn 
 
Lại tiễn biệt, lại chia tay, nhưng không phải
         với người, cũng không phải với vật, mà là với ĐẤT,
          Đất là Đất Nước nơi mà ta đang cư trú, là Quê
         Hương, nơi chôn nhau cắt rốn, Quê Hương thứ hai, thứ ba... Nơi
         đã bảo bọc ta trong cuộc sống lưu vong xa rời Quê Cha Đất
         Tổ... 
 
Xin kính mời tất cả cùng đọc và cùng dịch để
         thắm thía hơn nỗi niềm xa xứ với bài thơ sau đây : 
           渡桑乾              
              Độ Tang Càn 
        
         客舍併州已十霜,        Khách xá Tinh Châu dĩ thập
         sương, 
         歸心日夜憶咸陽。
                Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương. 
         無端更渡桑乾水,        Vô đoan cánh
         độ Tang Càn Thủy, 
         卻望并州是故鄉。
                Khước vọng Tinh Châu thị cố hương ! 
                           賈 島                
                                            
            Giả Đảo 
 
Chú Thích : 
                  1. Khách Xá : là Ở nơi đất khách.   Xá : là chỗ
         trọ, là nhà ở. 
          2. Thập
         Sương : Mười mùa sương giáng. Mỗi năm chỉ có một
         mùa sương giáng. Thập sương là mười năm. 
          3. Ức : là Nhớ. Hồi ức là Nhớ
         lại. 
          4. Vô Đoan : là Khi
         khổng khi không. là Tình cờ , là chuyện đến mà không
         có dự tính trước, ta nói là Bỗng Dưng. 
          5. Khước ; là Lại ,là Phó từ bổ nghĩa
         cho Động từ đi sau nó. Khước vọng : là Lại nhìn, lại
         ngắm. 
 
Dịch nghĩa : 
                  
                         Qua sông TANG CÀN. 
          
            Ở trọ nơi đất khách là xứ Tinh Châu nầy đã mười
         năm nay, nhưng trong lòng ngày đêm luôn luôn nhớ về quê cũ
         là xứ Hàm Dương. Hôm nay, tình cờ lại phải đi qua sông
         Tang Càn để rời xa xứ Tinh Châu, thì lại cảm thấy quyến
         luyến nơi nầy, mặc dù thuyền đi đã xa rồi, nhưng vẫn
         còn trông ngóng về phía Tinh Châu như là trông ngóng về
         phía cố hương vậy !  
 
Diễn nôm :
 
                               Tinh Châu đất khách mười
         năm trường, 
                              
         Lòng vẫn nhớ về đất Hàm Dương. 
                               Tang Càn nay lại sang sông nữa, 
                               Trông ngóng Tinh Châu ngỡ cố
         hương ! 
 
Lục bát : 
    
                                   Mười năm quán khách Tinh Châu, 
                               Lòng quê thường vẫn
         nhớ sầu Hàm Dương. 
 
                                      Tang Càn qua bến vấn vương, 
                               Rời Tinh Châu ngỡ Hàm Dương
         dạo nào ! 
 
Cảm tác qua thực tế của cuộc sống định cư
         trên đất MỸ : 
 
Đất khách Ca-li mấy chục sương, 
             Việt Nam không lúc chẳng nhớ thương
         ! 
             Nay lại di cư qua Tết xát
         ( TAXAS ), 
             Rời Ca-li ngỡ rời
         cố hương !!! 
 
Đỗ Chiêu Đức. 
 
Nhà thơ GIẢ
         ĐẢO ( 779- 843 ).  
GIẢ ĐẢO
         ( 779-843 ) , một thi nhân thuộc xu hướng Quái Đản đời Đường,
         Tự là Lãng Tiên, người đất Phạm Dương ( cạnh Bắc
         Kinh hiện nay ). Đã từng đi tu làm hòa thượng với pháp
         hiệu Vô Bổn, sau nghe lời Hàn Dũ hoàn tục, tham gia khoa cử, nhưng
         thi mãi vẫn không đậu. Được Hàn cất nhắc làm Chủ
         Bộ Trường Giang đời Huyền Tôn, năm Khai Thành thứ 5 làm Tham
         Quân ở Phổ Châu. Mất năm Hội Xương thứ 3 đời vua Võ
         Tôn. Thọ 65 tuổi. 
 
Tương truyền khi làm bài thơ Đề Lý
         Ngưng U Cư, khi viết đến 2 câu : 
                                     Điểu túc trì biên thọ                  鳥宿池邊樹
         
                           Tăng XAO nguyệt
         hạ môn        僧敲月下門 
 
ông đã lưỡng lự
         mãi là không biết nên dùng từ " XAO " 敲 hay từ "
         THÔI " 推 cho câu thơ trên, vì... " Tăng XAO nguyệt hạ môn
         " là : Nhà sư GÕ cửa dưới ánh trăng, còn... " Tăng
         THÔI nguyệt hạ môn " là : Nhà sư ĐẨY cửa dưới
         ánh trăng, 
 
Sự thật thì " THÔI " hay " XAO " gì thì
         câu thơ trên vẫn hay, vẫn gợi hình và thi vị như thường,
         nhưng Giả Đảo lại cứ đắn đo mãi, không biết phải
         chọn chữ nào, ngồi trên lưng lừa mà cứ do dự mãi, không
         biết nên hạ chữ nào đây, nên tay phải làm động tác
         GÕ cửa, và tay trái cứ làm động tác ĐẨY cửa. Mãi
         lo ra, đến nỗi con lừa xuýt chút nữa thì đâm vào đầu
         ngựa của Hàn Dũ. Bị quân hầu níu lại, Hàn Dũ hỏi
         rõ nguồn cơn, mới cả cười và khuyên ông nên chọn từ
         XAO cho câu thơ trên. 
 
Vì điển tích nầy mà thành ngữ TQ
         có câu Hà Tất THÔI XAO 何必推敲, nghĩa là : " Sao
         lại phải Thôi Xao như thế ! " Câu nầy có nghĩa là : "
         Sao lại phải ĐẺO GỌT lời văn như thế ". Thường để
         chỉ những người ĐẺO GỌT lời văn quá đáng, thì
         người TQ sử dụng Thành ngữ trên. 
 
Giả Đảo còm nổi
         tiếng khổ ngâm ( Rất khổ sở trong việc làm thơ ngâm thơ )
          với bài thơ Tứ Tuyệt sau đây : 
                              Nhị cú tam niên đắc,                      二句三年得,
         
                              Nhất ngâm song lệ
         lưu .                 一吟双淚流. 
                              Tri âm như bất thưởng ,                 知音如不賞,
         
                              Qui ngọa cố sơn
         thu.                      歸卧故山秋. 
 
Có nghĩa : 
                               Ba năm được hai câu,
         
                               Ngâm xong lệ
         tuôn trào. 
                         
              Tri âm không thưởng thức, 
                                       Về núi tự nghe sầu !
 
Gò gẫm, mò mẫm
         suốt 3 năm trời mới làm được có 2 câu thơ mà thôi,
         bỏ công khổ sở là thế, nên khi ngâm lên xúc động
         đến tuôn rơi hai hàng lệ. Thế mà kẻ tri âm còn không
         biết thưởng thức còn cho là chưa hay, thôi thì, chỉ có
         nước là về lại núi sâu mà nằm buồn khóc một mình
         thương cho mùa thu héo hắt !         Ôi ! Sao có người lại khổ
         sở vì làm thơ đến như thế !  Quả không hổ danh là
         phái QUÁI ĐẢN của thời Trung Đường ! 
 
Sẽ viết về
         Phái QUÁI ĐẢN trong những bài tới ! 
 
Đỗ Chiêu Đức.
         
 
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh
         Chiêu Đức, Thầy và các bạn: 
 
NHỚ CỐ HƯƠNG 
 
Sống
         nơi xứ Tịnh đã mười năm 
Lòng vẫn đinh ninh nhớ dất Hàm 
Nay sắp sang sông rời đất Tịnh 
Bùi ngùi như phải biệt quê hương
         ! 
 
Lục bát : 
 
Mười năm đất Tịnh, mãi còn 
Nhớ về quê cũ Hàm Dương ngậm ngùi
         
Nay xa Tịnh, lại bồi hồi 
Lòng đau như phải xa rời cố hương. 
 
Phương
         Hà  
 
Xin được góp mặt để thay lời cám ơn anh
         Chiêu Đức đã cho đọc Độ Tang Càn của Giả Đảo
         và như thường lệ kèm theo bản dịch rất sát nghĩa của
         anh. Cầu chúc quí anh chị em mọi điều lành. 
PKT 
05/20/2014
         
 
Độ Tang Càn 
(Mây
         Tần - PKT) 
 
Quán khách mười năm những gió sương , 
Tinh Châu sớm tối nhớ Hàm Dương  . 
Tang Càn, qua bến , quay nhìn lại , 
Bỗng ngộ Tinh Châu là cố hương. 
 
Phụ
         Chú : 
Bài Độ Tang Càn của
         Giả Đảo tôi đã thử chuyển dịch nhiều lần nhưng đều
         không được vừa ý nên đành bỏ cuộc vì cho rằng
         không nói lên được " khoảnh khắc Tang Càn" của nguyên
         tác.
Cho đến tận bây giờ
         , thú nhận là đôi lúc tôi vẫn còn muốn tự hỏi :
         "Tang Càn nước chảy xuôi hay ngược / Đất khách sao giờ
         là cố hương ?".  Và, có lẽ vì thế , giải thích được
         phần nào , tại sao tôi lại thấy thích khi đọc mấy câu lục
         bát của Phương Hà. Lời lẽ nhẹ nhàng , quê cũ đất
         mới , tình ý trước sau  thuần hậu. 
 
PKT 05/20/2014
      
      
   BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH
         
              Để nối tiếp cho dòng
         thơ tiễn biệt của " Mùa Chia Tay ", xin lại được giới
         thiệu đến Quí Thầy Cô, Quí Đồng Môn Thân Hữu, Quí
         em học sinh thân mến bài thơ BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH của
         nhà thơ Nhung Dục 戎昱  đời Đường, bài thơ nầy
         còn có một tựa nữa là : " Di Gia Biệt Hồ Thượng Đình
         " 移家别湖上亭.       移家别湖上亭 

DI GIA BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH
  好是春风湖上亭,Hảo thị
         xuân phong hồ thượng đình, 
柳条藤蔓系离情。Liễu
         điều đằng mạn hệ ly tình. 
黄莺久住浑相识,Hoàng
         oanh cữu trú hồn tương thức. 
欲别频啼四五声。Dục
         biệt tần đề tứ ngũ thinh. 
  
                            戎昱                     Nhung Dục.
         
 CHÚ THÍCH : 
     DI GIA : là Dời nhà, dọn nhà, đổi chỗ ở.
         
     BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH : Chia
         tay với cái đình ở trên hồ. 
             ĐẰNG MẠN : là dây leo, dây chùm gởi. 
     HỆ : là Trói, buộc, ràng buộc. 
     HỒN 浑 : HỒN có 3 chấm Thủy, nghĩa gốc
         là NƯỚC ĐỤC. Nghĩa bóng là ĐẦN ĐỘN. Ở đây
         HỒN là TRẠNG TỪ nên có nghĩa là : Rất, cả thảy. 
      HỒN TƯƠNG THỨC : Rất là quen biết nhau.
         
     TẦN 频 : là Thường, là
         Liên Tục.      TẦN ĐỀ : Hót liên tục. 
 DỊCH NGHĨA : 
              
                    Dời nhà nên đến từ biệt với cái đình ở
         trên hồ.                                       GIẢ BIỆT ĐÌNH TRÊN HỒ. 
          Đẹp thay, mát thay gió xuân hây hẩy
         trong cái đình ở trên hồ, nhưng, những cành tơ liễu thướt
         tha quấn quít bay theo gió quyện với những sợi dây leo chùm gởi
         vươn dài như nuốn nắm níu cái cảnh tình ly biệt, cả
         chim hoàng oanh trên cành cũng thế, trước lúc biệt ly như còn
         lưu luyến mà hót lên bốn năm tiếng dài não nuột !    
              Tất cả đều được tác giả sử dụng thủ pháp
         Nhân Cách Hóa một cách tài tình. Cái đình trên hồ,
         những cành liễu thướt tha, những dây leo vươn dài và tiếng
         hót của chim hoàng oanh... tất cả đều như có tâm hồn, có
         cảm tình lưu luyến như không muốn chia tay, như còn muốn nắm
         níu, bịn rịn không nở xa rời !             Cảnh vật còn như thế,
         huống chi con người ! 
 DIỄN NÔM
         : 
              Gió xuân hây hẩy
         trước hồ đình, 
              Cành
         liễu dây leo buộc lấy tình. 
   
                   Oanh vàng quen biết nên ly biệt, 
                      Hót liền mấy tiếng đoạn làm thinh ! 
    Lục bát : 
              Đình hồ hây hẩy gió xuân, 
              Thướt tha nhành liễu buộc tình dây leo.
         
              Chim oanh như cũng sầu theo, 
              Chia tay hót tiếng buồn meo cả lòng !
         
                                                              
                        Đỗ Chiêu Đức. 
Phương
         Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh Chiêu Đức, Thầy
         và các bạn: 
 Thơ Đường
         Luật: 
 GIÃ BIỆT 
 Trước đình, hây hẩy gió xuân qua 
Soi bóng trên hồ, liễu thướt tha 
Buồn cảnh biệt ly, oanh cất tiếng 
Ngân dài não nuột khúc chia xa. 
 Thơ lục bát: 
 GIÃ BIỆT 
 Trước đình
         hây hẩy gió xuân 
Bên hồ dây
         quấn, liễu buông một màu 
Chim oanh
         cảm nỗi buồn đau 
Ngân dài tiếng
         hót khúc sầu biệt ly 
   
                                Phương Hà
         Mailoc xin tham gia bài dịch cùng Chiêu Đức và các ban , tìm
         một chút vui chiều Chủ nhật.
Thân
         kính 
ML 
      Giả Biệt Đình Trên Hồ 
  Vờn đình hồ gió xuân hay hẩy , 
Liễu , dây leo , quấn lấy cành nhau . 
Hoàng Oanh thân thiết từ lâu , 
Hót năm ba tiếng rầu rầu biệt ly . 
                  Mailoc phỏng dịch
       
         
TÚC HOA ÂM
         TỰ
Nguyên tác:
         Nguyễn Trung Ngạn
Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Phương
         Hà, Đỗ Chiêu Đức, Quên Đi, Kim Oanh, Kim Phượng, Song Quang
  
Cùng Ban,
 Xin chuyển đến bạn
         thơ ,một bài thơ của Nguyễn trung Ngạn , một bài thơ mang sắc
         thái thiền khiến lòng tôi vô cùng cảm khái .
 Nguyễn
         trung Ngạn  ( 1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người
         làng Thổ Hoàng , huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên .Năm 16 tuổi đỗ
         Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn ( cùng khoá với Mạc đỉnh
         Chi ) , làm quan tới chức Đại Hành Khiển Tước Thân Quốc
         Công , thọ 82 tuổi .
 Thân kính 
 Mailoc
 
 
 
    Túc
         Hoa Âm tự 
 ( Nguyễn trung Ngạn )  
 
 
 
 宿花陰寺 
 
 偶徬招提宿,
 僧留半榻分。
 石泉朝汲水,
 紙帳夜眠雲。
 松子臨窗墜,
 猿聲隔岸聞。
 粥魚敲夢醒,
 花雨落繽紛。
 
 Túc Hoa Âm tự 
 
  Ngẫu bạng chiêu đề túc,
 Tăng lưu bán tháp
         phân.
 Thạch tuyền triêu cấp thuỷ,
 Chỉ trướng dạ miên
         vân.
 Tùng tử lâm song truỵ,
 Viên thanh cách ngạn văn.
 Chúc ngư sao mộng tỉnh,
 Hoa vũ lạc tân phân. 
  
  Dịch Nghĩa :
 
 Ngẫu nhiên vào ngủ đêm trong chùa
 Sư dành cho nửa giường 
 Sáng ra đi múc nước ở
         suối đá ,
 Đêm ngủ với mây trong trướng giấy .
         Qủa thông rụng trước cửa sổ ,
 Tiếng vượn bên kia sông
         .
 Mõ chùa khua tỉnh giấc mộng ,
 Mưa hoa rơi xuống tơi bời
         .   
 
 
 --Bản dịch của Mailoc—
  
     Trọ
         tại chùa Hoa Âm
  
 Ghé trọ chùa tình cờ đêm
         tối 
 Sư nhượng cho nửa gối chăn giường .
 Sáng ra múc
         nước suối nguồn 
 Đêm về trong trướng mây vương ngủ
         vùi .
 Ngoài song cửa thong rơi một trái 
 Vượn gọi bầy
         vẳng lại bên sông .
 Mõ chùa lay tỉnh giấc nồng 
 Từ
         đâu tan tác mưa bông rợp trời 
                                   
         Mailoc
  
 
  
                      GHÉ NGỦ CHÙA
  
  Ngẫu
         nhiên ngủ nhờ chùa vắng
Sư
         nhường nửa chõng tre nằm
Sáng
         ra múc nước suối đá
Đêm
         nằm mượn mây thay màn
Trái tùng vào song cũng thích
Vượn kêu bờ suối inh vang
Sáng ra giật mình tỉnh mộng
Quanh
         mình mưa bụi mênh mang
  
C.D.M.    
  
TRỌ ĐÊM TẠI CHÙA
  
Ngẫu nhiên được trọ lại trong chùa
Chia với sư già chiếc chõng thưa
Nước suối trong veo khua thỏa thích
Phòng mây ấm áp ngủ say sưa
Thông rơi lộp độp ngoài song cửa
Vượn hót véo von cách khoảng bờ
Tiếng mõ vang đều xua giấc mộng
Rào rào hoa rụng xuống như mưa.
Phương Hà (Lộc Mai)
 
           ĐÊM TRỌ CHÙA
         HOA ÂM
           
         Tình cờ tá túc Hoa Âm,
           
         Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
           
         Nước trong suối đá êm êm,
           
         Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
           
         Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
           
         Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
           
         Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
           
         Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
                                                          
          Đỗ Chiêu Đức.
 
 Ở Lại Chùa Hoa Âm
 
 Ở lại
         chùa đêm xuống
 Nửa giường sư nhượng ta
 Nước
         ngoài khe sáng lấy
 Mây dỗ giấc mơ qua
 Trong cửa nhìn thông
         rụng
 Vượn kêu vẳng suối xa
 Chày kình vang tỉnh mộng
 Lất phất trận mưa hoa
                       
         Quên Đi
 
  
Hoa Âm Tự Qua Đêm
 
 Hữu duyên tạm trú chùa Hoa Âm
 Nhường lại sư chia đôi
         chỗ nằm
 Nguồn suối tinh mơ chờ lấy nước
 Màn mây
         tối ủ giấc  mơ Nam
 Ngoài song thông quả đang rơi rụng
 Bờ nọ vẳng xa tiếng vượn thầm
 Chày dọng lay lay choàng
         giấc điệp
 Mưa hoa lất phất gió căm căm.
 
 Kim Phượng
 
 Lạc Vào Chùa Hoa Âm 
Tình cờ
         lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo
         suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song
         tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Đánh
         thức tiếng mỏ tụng kinh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
  
 
Kim Oanh
 
 
                          QUA ĐÊM CHÙA HOA ÂM
 
Tình cờ ngủ trọ chùa khi đêm xuống
  Nửa chiếc giường sư cụ nhượng
         cho nằm
  Sáng múc
         nước suối chảy luồn kẻ đá
          Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn
 
                                      
         @   @   @
 
Bên song cửa thông rơi vương vài
         quả 
  Vượn
         gọi bầy vang vọng cả ven sông
  Tiếng chuông mõ trong chùa khua tỉnh mộng
  Giọt mưa rơi làm rụng mấy
         cành bông
 
 
 SONG  QUANG
 
 
 
  
 
  
      
       THÍNH VŨ
Nguyễn Trãi
Bản dịch: Đào Duy Anh, Mailoc, Quên Đi, Chân
         Diện Mục, Lộc Mai, Đỗ Chiêu Đức, Song Quang
  
Cùng Bạn , 
  
Cả năm nay Cali lâm vào tình trạng khô hạn dữ
         dội , khiến Thống Đốc Tiểu Bang Cali phải  lên tiếng báo
         động . Các đài truyền thanh truyền hình Mỹ Việt đều
          nhắc nhở người dân tiết kiêm nước hằng ngày . Cá
         nhân tôi cũng vô cùng lo âu khi nhìn thấy vẽ tiêu điều
         của màu xanh cỏ cây dọc các free way . Nhưng hai hôm nay thời may cơn
         bão mùa đông -xuân từ tây bắc tràn về đem những trận
         mưa nước dồi dào cho các hồ chứa nơi đây ,những
         mong  các cánh dồng cây trái rau qủa Cali sẽ tốt tươi như
         mọi khi , xin các bạn chia sẻ . 
          
Đêm qua Cali mưa suốt đêm , tôi nhớ những đêm
         mưa ở quê nhà mà lòng bùi ngùi khôn tả . Xin gởi đến
         các bạn bài thơ của cụ Nguyễn Trãi .đoc giải khuây đôi
         phút . Cám ơn .
  
Thân kính
  
Mailoc
  
 
  
Thính vũ
 
 Nguyên tác:
         Nguyễn Trãi
 
 聽雨 
         
 阮廌 
 
 寂寞幽齋裏, 
 終宵聽雨聲。 
 蕭騷驚客枕, 
 點滴數殘更。 
 隔竹敲窗密, 
 和鐘入夢清。 
 吟餘渾不寐, 
 斷續到天明。 
 
 Thính vũ 
 
 Nguyễn
         Trãi 
 
 Tịch
         mịch u trai lý, 
 Chung
         tiêu thính vũ thanh. 
 Tiêu
         hao kinh khách chẩm! 
 Điểm
         trích sổ tàn canh. 
 Cách
         trúc xao song mật, 
 Hoà
         chung nhập mộng thanh. 
 Ngâm
         dư hồn bất mị, 
 Đoạn
         tục đáo thiên minh. 
 
 Dịch nghĩa: 
 
 Nghe mưa 
 
 Vắng vẻ trong phòng tối tăm, 
 Suốt đêm nghe mưa rơi. 
 Tiếng não nùng làm kinh động gối khách, 
 Giọt thánh
         thót suốt mấy canh tàn. 
 Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa
         sổ, 
 Lẫn
         tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng. 
 Ngâm rồi mà vẫn không ngủ được, 
 Nghe đứt nối
         cho đến trời bình minh. 
         
 Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh(1) 
 
 Vò võ
         trai phòng vắng, 
 Suốt
         đêm nghe tiếng mưa. 
 Não nùng rung gối khách, 
 Thánh thót mấy canh dư. 
 Cách trúc khua song nhặt, 
 Hoà chuông động giấc mơ. 
 Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ, 
 Đứt nối đến tờ mờ. 
 
 (1)Trong Nguyễn Trãi toàn tập, phần Ức
         Trai thi tập 
  
--Bản dịch
         của MaiLộc –
  Đêm tối tăm trai phòng
         lặng lẽ 
        Suốt đêm trường mưa mãi không ngưng .
 Não nùng gối khách run run ,
 Giọt mưa tí tách
         lạnh lùng năm canh .
 Tiếng lào xào trúc cành
         chạm cửa ,
 Chuông ngân nga lạc giữa mơ mòng
         .
 Ngâm thơ không dỗ giấc nồng ,
 Chập
         chờn đứt nối, vừng hồng sáng ra .
  
                                 
                 Mailoc phỏng dịch
  
  Nghe  Mưa
 
 Lạnh lẽo phòng
         im vắng
 Đêm trường mưa gió lay
 Xuyến xao choàng tỉnh
         giấc
 Rỉ rả suốt canh chày
 Ngoài cửa tre xào xạc
         Vào mơ chuông vọng dài
 Ngâm nga tìm giấc ngủ
 Trằn
         trọc đã sang ngày
                             
         Quên Đi
  
MƯA , TIẾNG CHUÔNG VÀ MỘNG
  
Thư phòng ngồi nhìn đêm tối
Não
         người thánh thót mưa rơi
Trăn trở
         tiếng vọng bên gối
Tàn canh lòng vẫn
         bồi hồi
Ngoài song lao xao cành trúc
Chuông chùa theo mộng mơ trôi
Thơ ngâm hồn say khôn ngủ   
Chập
         chờn trời sáng lại rồi
  
C.D.M.       
  
Lộc Mai xin góp bài phỏng dịch
         cùng Thầy và các bạn:
 
NGHE
         TIẾNG MƯA ĐÊM
 
Một
         mình lặng lẽ giữa màn đêm
Nghe tiếng mưa rơi trước mái thềm
Thê thiết, não nùng run gối khách
Lạnh lùng, giá buốt gợi sầu riêng
Xạc xào ngọn trúc khua song cửa
Văng vẳng hồi chuông lắng nỗi niềm
Trằn trọc năm canh không chợp mắt
Thơ ngâm càng khiến não lòng thêm.
  
                     
           Lộc Mai (Phỏng dịch)
  
Đỗ Chiêu Đức xin được góp Ý với
         các phần sau đây :
  
1.
         NGHĨA TỪ :
         Trước tiên, xin được
         Lạm Bàn về cái tựa đề " THÍNH VŨ  聽雨 ", mà ai cũng biết
         là NGHE MƯA. Nhưng, ở đây, theo tôi, phải hiểu là " LẮNG
         Nghe Mưa ". Xin được chiết tự chữ THÍNH 聽 nghe chơi cho vui như sau :
  
        Chữ THÍNH 聽, bên trái là chữ NHĨ
         là TAI, phía dưới là chữ THỦ ( được viết cách
         điệu ) là TAY. Bên phải là THẬP MỤC ( chữ MỤC được
         viết ngang ) là Mười con Mắt, là chăm chú NHÌN, phía dưới
         là NHẤT TÂM, là Một Lòng Một Dạ. Vậy, THÍNH là gì
         ?!... 
THÍNH là...
         Chống TAY lên TAI, MẮT nhìn chăm chú và lắng lòng mà NGHE...
         cái gì đó ! THÍNH là Listen chứ không phải là Hear. 
Đêm mưa tầm tả, dai dẳng,
         không ngủ được, nên cụ NGUYỄN TRÃI nhà ta đã NGHE
         hết những tiếng động của ĐÊM MƯA, nên...
 ... Tựa đề THÍNH
         VŨ là LẮNG NGHE MƯA, còn muốn nói cho văn vẻ hơn là : "
         LẮNG TIẾNG MƯA RƠI ! "
          
      Bây giờ thì lại LẠM
         BÀN về chữ NGÂM của câu số 7 nhé ! Đêm mưa tầm tả
         rả rít, buồn muốn thúi ruột, thì... lấy HỨNG ở đâu
         mà NGÂM THƠ ?! Nên, tôi nghĩ, chữ ngâm ở đây là TRẦM
         NGÂM 沈吟
         là Chìm trong sự yên lặng kéo dài... NGÂM DƯ là Trầm
         Ngâm mãi.... Nghĩa câu số 7 : " Ngâm dư hồn bất tẫm "
         là : Trầm ngâm mãi mà hầu như ( hồn ) không ngủ được
         !
  
  Đến như câu cuối, hai chữ ĐOẠN TỤC 斷續 là " Đứt Nối
         ", như " ĐOẠN TỤC CAO " trong truyện võ hiệp của Kim Dung là
         : Thuốc dán chuyên dùng để nối xương bị gãy cho nó
         lành lại... Còn ở đây chỉ " Cơn Mưa Đêm "... Mưa
         một lúc, dừng rồi lại mưa, mưa rồi lại dừng, lại mưa...
         là " Mưa Dai Dẵng suốt đêm ", chứ ta đâu có thói
         quen nói là " Mưa ĐỨT NỐI suốt đêm " đâu !...
  Trên đây, chỉ
         là Ý kiến riêng, LẠM BÀN cho vui của Đỗ Chiêu Đức
         mà thôi, nếu có mạo phạm đến ai, thì xin gởi lời CÁO
         LỖI trước. Mong hỉ xả!
  
2.
         DIỄN NÔM :
  
            LẮNG
         TIẾNG MƯA RƠI 
          
         Trong trại buồn hiu hắt,
            Suốt đêm nghe mưa nhanh.
           
         Tầm tả bên gối khách,
            Rả
         rít suốt tàn canh.
            Tre xạc xào kẻo
         kẹt ,
            Chuông ngân nga mong manh.
                    Trầm ngâm không ngủ được,
            Dai dẳng suốt đêm thanh !
  
                                                  Đỗ
         Chiêu Đức.
  
                            
         ĐÊM NGHE TIẾNG MƯA RƠI
          
                          
          Đêm khuya vắng thư phòng thêm quạnh
         quẻ
                            
         Suốt canh chầy lặng lẻ giọt mưa rơi !
                            
         Nghe nảo nùng ,làm dạ khách chơi vơi
                           
         Tiếng tí tách rơi đều như nức
         nở
                           
         Cành tre trúc đập khua khung cửa sổ
                            Chuông vẳng đưa vào ảo mộng nhẹ nhàng
                           
         Trầm ngâm hoài,giấc ngủ vẫn đi hoang
                            
         Mưa không dứt, bình minh vừa ló dạng
.
                            
         SONG  QUANG (Phỏng dịch)  
  
 
  
      
         
LỢI CHÂU NAM ĐỘ               
           
  
 
  
Đầu Xuân ,nắng ấm , thấy được một vài nét đẹp
         chữ nghĩa lấp lánh trong một bài thơ xưa , lòng vui khôn ngăn
         muốn được chia sẻ cùng với mọi người thân quí trong
         nhà.  Thế thôi. Còn chuyện thoát vòng danh lợi thị phi thế
         tục, tâm hồn an nhiên ,hưởng thú trăng nước trời cho thì
         nhà giáo tôi thật tình không dám lạm bàn. PKT 02/22/2014
  
 Lợi
         Châu Nam Độ
 Ôn Đình Quân (- 859 -)
  
Đạm nhiên không thủy đới tà
         huy
 Khúc đảo thương mang tiếp thúy vi
 Ba thượng mã tê khan trạo khứ
 Liễu biên nhân yết đãi thuyền quy
 Sổ tùng sa thảo quần âu tán
 Vạn khoảnh giang điền nhất lộ phi
 Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi
 Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ky
  
Dịch Xuôi : Qua Bến Đò Nam Lợi
         Châu
 PKT 02/22/2014
  
Sông nước lững
         lờ chở nắng cuối ngày trôi
 Khúc đảo xanh xanh vòng quanh chân
         núi xanh 
 Trên
         sóng nước, ngựa hý , nhìn thuyền chèo đi
 Bên bờ liễu ,khách đợi , ngóng thuyền quay về
 Bầy chim âu chạy xao xác , quanh mấy bụi
         cỏ trên bãi cát
 Một cánh
         cò bay lờ lững trên cánh đồng mênh mông dọc ven sông
 Có mấy ai hiểu được chuyện chèo
         thuyền đi tìm Phạm Lãi
 Để
         cùng hưởng thú Ngũ Hồ khói nước ,thoát khỏi vòng
         danh lợi thị phi  .
  
Chú Thích :
  
(1) Lợi
         Châu , tên đất thuộc huyện Quảng Nguyên , tỉnh Tứ Xuyên 
 (2) Phạm Lãi , người nước
         Việt . Chuyện kể , sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt được
         nước Ngô của Phù Sai , đã cùng người đẹp Tây
         Thi sống mai danh ẩn tích ở Ngũ Hồ, vùng có năm hồ (Động
         Đình Hồ, Ba Dương Hồ , Sào Hồ , Thái Hồ , Chung Hồ ) thuộc
         các tỉnh Hồ Nam , Giang Tô , và Chiết Giang .
  
 Qua Bến Đò
         Chiều
 PKT 02/22/2014
  
Lững lờ ,sông nước , ráng chiều sa,
 Khúc đảo, mờ xanh,
         chân núi xa.
 Ngựa hí ,chèo
         xuôi , khua sóng nổi ,
 Liễu buông,
         khách đợi, ngóng thuyền qua.
 Vài
         con âu chạy , quanh lùm cỏ ,
 Một
         cánh cò bay , dưới nắng tà...
 Ai hiểu chuyện xưa , ông họ Phạm,
 Ngũ Hồ ẩn tích, lánh phù hoa ? 
 
 Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com
  
 
  
LỘC MAI phỏng dịch
 
 
          
BẾN ĐÒ CHIỀU
  
 Con sông lờ lững chở ngày
         trôi
  Đảo
         biếc vòng chân núi cuối trời
  Ngựa hí, thuyền chèo rời bến vắng
  Người chờ, liễu
         rũ ngóng đò xuôi
  Chim âu xao xác quanh cồn cỏ
  Cò trắng chập chờn giữa
         khoảng khơi
  Ai
         đã theo dòng tìm Phạm Lãi
  Thảnh thơi xa lánh chuyện trên đời ?
  
 
                             Lộc Mai
 
 
QUÊN ĐI:
  
 
          
   
         Qua Miền Nam Lợi Châu.
         
 Sắc ráng nhoà trong nước lững lờ
 Kề nhau đảo núi một màu lơ
 Sóng đùa ngựa hí
         chèo khua động
 Liễu rũ mong thuyền khách ngẩn ngơ
 Đám
         cỏ ven bờ âu tản mác
 Bên sông đồng rộng vạc bơ
         vơ
 Đi tìm Phạm Lãi thuyền không lối
 Khói nước
         Ngũ Hồ tựa giấc mơ.
                                   
         Quên Đi
  
 
  
Bản dịch của Mailoc
 
 Qua miền Nam Lợi Châu 
 
         Chiều bảng lảng nước sông xanh biếc , 
 Đảo quanh co núi tiếp xanh rờn . 
 Thưyền đi ngựa hí
         sóng vờn , 
 Dừng chân tựa liễu khách chờ thuyền quây
         . 
 Bờ cát cỏ chim bầy xao xác , 
 Một cánh cò man
         mác đồng không . 
 Ai tìm Phạm Lải thuyền dong , 
 Ngủ
         Hồ khói nước để mong quên đời . 
  
 
  
Đỗ
         Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây
         :
  
     1. Bản chữ
         Hán của bài thơ :
  
     
          利洲南渡               
          LỢI CHÂU NAM ĐỘ
  
 
  
 澹然空水對斜暉,  Đạm nhiên không thủy đối
         tà huy,
  曲島蒼茫接翠微。  Khúc đảo thương mang tiếp thúy
         vi.
  波上馬嘶看棹去,  Ba thượng mã tê khan trạo khứ,
  柳邊人歇待船歸。  Liễu biên nhân yết đãi thuyền
         qui.
  數叢沙草群鷗散,  Sổ tùng sa thảo quần âu tán,
  萬頃江田一鷺飛。  Vạn khoảnh giang điền nhất lộ
         phi.
  誰解乘舟尋范蠡?  Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi?
  五湖煙水獨忘機。  Ngũ hồ yên thủy độc vong ki.(
         cơ ).
                       
         
                     溫庭筠                                      
          Ôn Đình Quân
  
 
  
   2. Nghĩa Bài Thơ :
       Nước
         sông lắp loáng phản chiếu long lanh dưới ánh nắng chiều, bờ
         đảo xanh xanh nối tiếp với rặng núi xanh biêng biếc. Mắt trông
         người đi ngựa hí trên thuyền đang lướt sóng ra khơi,
         trên bến đò dưới rặng liễu một nhóm người còn
         đang đợi thuyền quay trở lại. Khi thuyền qua các bụi cây trên
         bờ đảo làm kinh động lũ hải âu tung bay tứ tán, bên
         nây bờ ruộng mênh mông vạn mẫu chỉ một cánh cò đơn
         độc thẳng cánh tung bay. Ai biết được trong lòng ta đang muốn
         lướt thuyền ra khơi để đi tìm Phạm Lãi, trong cảnh khói
         sóng mênh mông của Ngũ Hồ mới dễ khiến cho người ta quên
         đi cái tâm cơ tầm thường của thế tục !
  
 
  
 
         3. DIỄN NÔM :
  
                   
          QUA BẾN LỢI CHÂU
  
           
         Lắp lánh sông trôi dưới nắng chiều,
           
         Xanh xanh núi đảo một màu rêu.
           
         Sóng xô ngựa hí chèo khua nước,
           
         Thuyền đợi người mong liễu rũ xiêu.
           
         Bãi cỏ đàn âu bay tan tác,
           
         Cánh cò ngàn mẫu lượn tiêu diêu.
           
         Ai hay Phạm Lãi tìm vui thú,
           
         Mây nước Ngũ Hồ ân oán tiêu.
  
                                                  Đỗ
         Chiêu Đức.
  
Song Quang:
  
 
  
            QUA BẾN ĐÒ CHIỀU
  
 
   Nắng tà theo nước chở chiều trôi!
  Ốc đảo xanh xanh tiếp núi đồi
  Ngựa hý, thuyền xuôi theo sóng biếc
Đò về, khách đợi liễu buông lơi
  Chim âu xào xạc quanh cồn cỏ
  Cò trắng lượn lờ ruộng lúa khơi
  Ai hiểu chuyện đi tìm Phạm Lãi  ?
  Ngũ Hồ ẩn náu lánh xa đời.
  
SONG QUANG
  
 
  
 
  
      
         
XUÂN
         DẠ
          
Cùng Bạn .
  
Bây
         giờ đã qua rằm tháng giêng , hết mùng rồi nghĩa là
         hết Tết , song trời vẫn đang xuân . Kính chuyển đến Thầy
         và các bạn thơ bài  Xuân Dạ của thi hào Nguyễn Du để
         cùng thấm thía với Cụ cảnh đêm xuân xa nhà lại bịnh
         hoạn rề rề .
  
          
         
          
 
  春 夜
  
Xuân dạ
  
 黑 夜 韶 光 何 處 尋
 Hắc dạ thiều quang hà
         xứ tầm?
 小 窗 開 處 柳 陰 陰
 Tiểu song khai xứ liễu âm
         âm
 江 湖 病 到 經 時 久
 Giang hồ bệnh đáo kinh
         thời cửu
 風 雨 春 隨 一 夜 深
 Phong vũ xuân tùy nhất
         dạ thâm
 羈 旅 多 年 燈 下 淚
 Kỳ lữ đa niên đăng
         hạ lệ
 家 鄉 千  里 月  
         中 心
 Gia hương
         thiên lý nguyệt trung tâm
 南 臺 村 外 龍 江 水
         Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
 一 片 寒 聲 送 古 今
         Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
  
* Long
         Giang hay Thanh Long giang: sông Lam
  
Lược dịch1:
  
Đêm xuân
Đêm tối tăm tìm đâu
         xuân sắc 
Liễu âm u im phắt ngoài song .
Giang hồ
         bệnh hoạn khiếp lòng 
Xuân về mưa gió mịt mùng đêm
         sâu .
Khách bên đèn lệ sầu năm tháng 
Quê dặm ngàn
         lai láng nguyệt trông .
Nam Đài Long Thủy một dòng 
Cổ kim sóng
         tiễn lạnh lùng mãi trôi .
Mailoc phỏng dịch
Cali 2-18-14                            
  
Năm 1789, Tây Sơn
         chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn binh lửa, cụ
         đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình).
         Bài thơ trên nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ
         đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này, lúc cụ
         chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ
         không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân
         cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng
         đời thanh xuân của cụ. Sống nơi thôn ổ, cụ đã gần
         gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và tâm tình của
         tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã
         37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ
         Tri Huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường
         Tín (Hà Tây).
  
TIẾNG LÒNG ĐÊM XUÂN
Đêm sâu chẳng sáng chút
         nào
Bên hiên liễu rủ một màu tóc tang
Bệnh
         lâu thẹn đối giang san
Gió mưa điên đảo tâm
         can dật dờ
Lang thang
         rơi lệ đèn mờ
Quê hương muôn dặm ơ hờ ngắm trăng
Ngoài thôn sông nước lạnh
         căm
Thời gian lướt nhẹ khôn ngăn tiếng lòng
  
C.D.M.              
  
 
  
      
         
HIỂU VŨ                              
         
  
 
  
Sáng nay, nhìn tuyết
         rơi nhẹ phủ trắng lớp cỏ xanh ngoài sân, không hiểu sao lại
         nhớ đến một bức tranh xuân qua 1 bài thơ xưa. "Đối cảnh
         vô tâm" , tôi ngồi chuyển dịch lại bài này mong được
         chia sẻ với mọi người thân quí , qua chữ nghĩa ,một vài
         phút giây chiêm ngưỡng nét đẹp thanh tú của đất trời
         , cùng lúc nghe được tiếng chim hót lảnh lót đầu năm,
         riêng cho người xa xứ .PKT 02/08/2014 
  
Hiểu Vũ
 Trương Lỗi (Đời
         Tống)
  
Khinh âm giang
         thượng thiên phong tú
 Tiểu vũ tường biên bách thảo
         sinh
 Duy hữu xuân cầm úy cô khách
 Hiểu đề hồn tự
         cố viên thanh
          
Dịch
         Xuôi : Mưa Sáng
 PKT 02/08/2014
  
Ngàn ngọn núi xa in bóng lung linh ,trên
         sông, đẹp như tranh vẽ
 Rặng cỏ non mọc ven tường, xanh tươi
         dưới làn mưa bụi mỏng
 Duy chỉ có chim xuân an ủi kẻ
         xa quê , chưa về được
 Sáng cất tiếng hót lảnh lót,
         nghe như từ vườn xưa
  
Mưa Sáng Ngày Xuân
 PKT 02/08/2014
  
Non ngàn soi bóng xanh dòng
         nước, 
 Cỏ biếc ven tường trắng bụi mưa. 
 An ủi riêng
         ai, đời lữ thứ ,
 Chim xuân, sáng hót , tiếng quê xưa. 
  
Phụ Chú : "Đối cảnh vô tâm" , chữ mượn trong 1 câu
         kệ "đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền " (đối cảnh
         , vô tâm , đừng hỏi thiền) của vua Trần Nhân Tông , vị sư
         tổ dòng Thiền Trúc Lâm đời nhà Trần.Trước ngoại cảnh
         , tâm không động , lòng trong không vướng bận ,như mặt nước
         trong , không xao động , để có thể thấy được toàn vẹn
         hình ảnh mặt trăng hiện ở dưới đáy chậu thau vàng.
         PKT 02/08/2014 
  
Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com 
  
 
  
     Mưa
         Buổi Sáng 
  
 
  
Ngàn non đẹp , sông mờ sương phủ ,
  
Mưa bên tường , cỏ nhú xanh trong .
  
Chim xuân , cô khách bạn lòng ,
  
Líu lo sáng sớm , giọng cùng quê xưa .
  
                          Mailoc
  
SÁNG XUÂN
  
 
  
Núi xa ngàn ngọn đẹp lung linh
  
In bóng trên sông tựa bức tranh
  
Thảm cỏ ven tường xanh nõn biếc
  
Làn mưa rải bụi trắng mong manh
          
Cô
         đơn, lữ khách sầu man mác
 
         
An
         ủi, chim khuyên nhẩy quẩn quanh
  
Sáng sớm,
         cất lời ca lảnh lót
  
Như từ vườn
         cũ vọng âm thanh.
  
 
  
                      Lộc Mai
  
 
  
 
  
     Đỗ
         Chiêu Đức xin được góp Ý với các phần sau đây
         :
  
  1. Tên Tác giả bài thơ :
  
        Thưa Thầy, Bài thơ nầy tác
         giả là : TRƯƠNG LỖI 張耒, thi sĩ đời Tống, chớ không phải
         TRƯƠNG LAI 張來  đời Đường.  Vì chữ LAI 來 
         , khi được viết theo thể HÀNH cho nhanh thì trông giống như chữ
         LỖI 耒.
  
 
  
 
  
      
TRƯƠNG LỖI, tự là Văn Tiềm, hiệu là Kha Sơn, người đời
         gọi là UYỂN KHÂU tiên sinh, Trương Hựu Sử. Vì ông người
         tướng tá cao lớn, khôi ngô khác thường, nên người đời
         còn gọi là " Phì Tiên "( Ông Tiên Mập ). Sanh năm Chí
         Hòa Nguyên niên đời Bắc Tống ( 1054 ), mất vào năm Chính
         Hòa thứ 4 ( 1114 ), hưởng thọ 61 tuổi. Ông đậu Tiến Sĩ năm
         Hi Ninh đời Tống Thần Tông. Đã từng giữ các chức Lâm
         Hoài Chủ Bộ, Trứ tác Lang, Sử Quán Kiểm Thảo. Đầu năm
         Thiệu Thánh vua Triết Tông, giữ chức Long Các Tri Nhuận Châu. Đến
         đời Tống Huy Tông được triệu về làm Thái Thường
         Thiếu Khanh, là một trong " Tô Môn Tứ Học Sĩ ".
  
 
  
2. Bản chữ Hán của
         bài thơ :
  
 
  
曉雨(宋· 張耒)   HIỂU VŨ ( Tống. Trương Lỗi ) 
  
 
  
輕陰江上千峰秀,   Khinh âm giang thượng thiên phong
         tú,
 小雨牆邊百草生。   Tiểu vũ tường biên bách
         thảo sanh.
 惟有春禽慰孤客,   Duy hữu xuân cầm ủy cô khách,
 曉啼渾似故園聲。   Hiểu đề hồn tự cố viên
         thanh.
  
 
  
3. Diễn Nôm
         :
  
                           MƯA SÁNG
  
             
         Chập chùng ngàn núi trong sương,
             
         Xanh tươi hoa cỏ bên tường mưa rơi.
             
         Muông chim như cảm thông người,
             
         Cất cao tiếng hót như hồi quê xưa.
  
                                                             Đỗ
         Chiêu Đức.
  
      
         
XUÂN ĐÁN                              
         
Nguyên tác: Chu Văn An
Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh
         Hữu, Chân Diện Mục, Quên Đi
_______________________________________________________________________
Cùng Bạn,
  
 Chuyển đến
         bạn một bài phỏng dịch  Xuân Đán của Chu văn An , đọc
         cho vui vài giây phút đầu Xuân .Mời Bạn tham gia cùng dịch để
         vui thêm .
  
Cám
         ơn
  
Mailoc 
  
             
          .     
  
        |          XUÂN   ÐÁN        Tịch mịch sơn gia trấn nhật
         nhàn    Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn    Bích mê thảo
         sắc thiên như tuý    Hồng thấp hoa sao lộ vị can    Thân dữ
         cô vân trường luyến tụ    Tâm đồng cổ tỉnh bất
         sinh lan    Bách huân bán lảnh trà yên yết    Khê điểu
         nhất thanh xuân mộng tàn               Chu Văn An *     | 
          
 MAILOC:
  
  SỚM MAI  ĐẦU  XUÂN
  
Ngày nhàn hạ trên
         non lều vắng ,
Cửa trúc phên nghiêng chắn
         gió hàn .
Trời trong cỏ biếc ngút ngàn
         ,
Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .
Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,
Sóng
         lòng như giếng cổ lặng căm .
Hương phai trà nguội
         khói tan ,
Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .
  
Mailoc phỏng dịch 
Cali mùng 4 Tết Giáp Ngọ
  
(*)Chu Văn An người làng Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm
         ( Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông). Ông là một nhà Nho học đạo
         đức. Vua Trần Minh Tôn dùng vào chức Quốc Tử Tư Nghiệp,
         dạy Thái Tử. Ðến triều vua Dụ Tôn, ông dâng sớ xin chém
         đầu 7 tên nịnh thần, vua không nghe, ông từ quan về ở ẩn
         núi Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn .
ĐỖ CHIÊU ĐỨC:
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. Nguyên bản chữ Hán của
         bài thơ :
 
                           |     春旦         XUÂN ĐÁN              |   |   | 
|     寂寞山家鎮日閒,        Tịch mịch
         sơn   gia trấn nhật Nhàn,     竹扉斜擁護輕寒。        
          Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.    碧迷草色天如醉,          Bích
         mê thảo sắc thiên như tuý,    紅濕花梢露未乾。          Hồng
         thấp hoa sao lộ vị can.     身與孤雲長戀岫,        
          Thân dữ cô vân trường luyến tụ,     心同古井不生瀾。        
          Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.     柏薰半冷茶煙歇,          Bách
         huân bán lảnh trà yên yết,    溪鳥一聲春夢殘。          Khê điểu
         nhất thanh xuân mộng tàn 朱文安                                                      
          Chu Văn An      |   |   | 
  
 2. Dịch Nghĩa :
           
         Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
         lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
         căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
         Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
         ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
         với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
         ta như đám mây đơn lẻ kia cú mãi quyến luyến không
         nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như
         chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh
         tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng
         đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang
         oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
  
3. DIỄN NÔM :
                
         
               Nhà tịch mịch núi
         cao nghe vắng vẻ,
               Cửa
         phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
              
         Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
              
         Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
              
         Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
              
         Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
              
         Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
              
         Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
                                                                   
          Đỗ Chiêu Đức.
  
Chú Thích :
  Theo tôi nghĩ, chữ YÊN trong câu 7 có
         nghĩa là thuốc hút chớ không phải KHÓI.
         Đầu
         năm góp vui ít vần
  
DANH HỮU: 
 
                           | 
                    春旦                                  
                |                    |           
                | 
|     寂寞山家鎮日閒,    竹扉斜擁護輕寒。          碧迷草色天如醉,    紅濕花梢露未乾。    身與孤雲長戀岫,    心同古井不生瀾。    柏薰半冷茶煙歇,    溪鳥一聲春夢殘。     
           朱文 安     |           |           | 
  
XUÂN ĐÁN
  
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn, 
 Trúc phi
         tà ủng hộ khinh hàn. ,      
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
Hồng thấp hoa sao lộ vị can. 
Thân dữ cô vân trường
         luyến tụ, 
Tâm đồng cổ tỉnh bất
         sinh lan. 
Bách huân bán lảnh trà
         yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân
         mộng tàn
    Chu Văn An
Xuân Sớm
          
Vắng tanh sơn ốc, suốt ngày nhàn,
Rèm trúc treo nghiêng cũng đỡ hàn.
Thắm biếc cỏ màu, trời tựa sỉn,
Đượm hồng hoa chỏm, sương chưa tan.
Thân như mây nổi, cùng ưa núi,
Tâm giống giếng xưa, chẳng gợn làn.
Sắp hết củi thông, trà hết
         khỏi,
Tiếng chim bên suối, mộng xuân tàn.
Danh Hữu dịch
  CHÂN DIỆN MỤC:
Xin góp bản dịch cùng các
         bạn :
  
 SỚM XUÂN
          
Ở núi buồn hiu người nhẹ bỗng
Cổng tre cọt kẹt gió chênh chông
Trời nghiêng cỏ biếc say xuân sắc
Một đóa hồng nhung sương phủ hồng
Thân dạt góc trời mây tâm sự
Lòng ta đã cạn , sóng nào rung
Củi tàn , hơi lạnh , thuốc trà hết
 Chim núi kêu xui lạnh cõi lòng
  
 C.D.M.     
 
QUÊN ĐI: 
           
Kính
         thưa Thầy Cô Anh Chị,
 Quên Đi có nhận xét thế này"
 "Bách huân bán lảnh trà yên yết" 
 Mùi hương
         từ củi thông đã nhạt, và khói trà cũng hết. Nếu
         nghĩ thoáng một cách nôm na:  bếp lửa bằng củi thông đã
         cháy già nửa, nên hơi nóng đã giảm nhiều, vì chủ
         nhân đã đi nghỉ từ lâu, không pha thêm trà. Do đó
         trà không còn lên khói.
 Như vậy chữ "yên" ở
         đây không thể là khói thuốc. 
 Quên Đi xin  bài thơ
         dịch :
Nhà
         vắng trên non ngày tháng rảnh
Trúc rèm nghiêng
         cản bớt hơi đông
Trời như say cỏ đang
         màu biếc
Hoa ẩm sương đêm dưới
         ánh hồng
Mây lẻ cùng ta lưu luyến núi
Lòng như mặt giếng lặng hư không
 Hương tùng gần lụn trà vừa hết
Chim báo xuân sang tỉnh giấc nồng.
                                           
         Quên Đi
 
 
  
      
         
KHAI
         BÚT MỒNG MỘT TẾT GIÁP NGỌ
          
Điền Viên Lạc 
  
Nguyên tác: Vương
         Duy
Bản dịch: Phạm
         Khắc Trí, Đỗ Chiêu Đức, Chân Diện Mục, Mailoc
________________________________________________________________________
 
Khai bút
         mồng một Tết Giáp Ngọ , xin được gửi đến mọi người
         thân quí , mấy vần thơ mộc mạc, để đọc cho vui trong mấy
         ngày xuân.  
  
PKT 01/31/2014
  
 Điền Viên
         Lạc
 Vương Duy (699 - 759)
  
 Đào hồng phục hàm túc vũ
 Liễu
         lục cánh đãi triêu yên
 Hoa lạc gia đồng vị tảo
 Oanh đề sơn khách do miên
  
 Dịch Xuôi : Vui Thú Điền Viên
 PKT 01/31/2014
  
 Đào hồng , đọng giọt mưa đêm
 Liễu biếc
         , vương tơ sương sớm
 Hoa rụng , gia đồng chưa quét
         Oanh hót , sơn khách còn ngủ
          
 Phụ Chú :
 (1) Gia đồng =
         trẻ giúp việc trong nhà
 (2) Sơn khách = khách núi = ý nói
         người ở ẩn, xa lánh việc đời
  
Điền Viên Lạc
 PKT 01/31/2014
         
  
Đào hồng,
         mưa đêm, trổ lộc ,
 Liễu biếc, sương sớm, đong đưa.
 Hoa rụng đầy sân êm ả ,  
 Oanh ca người ngủ dậy chưa
         ?
  
 Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com 
  
Đỗ CHIÊU ĐỨC:
               Thường thì nhắc tới Đường Thi, người ta chỉ
         nghĩ đến thơ 5 chữ và 7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn
         Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn
         Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, mà ít ai biết đến Lục
         ngôn thi, tức là Thơ 6 chữ. Kỳ nầy, xin trình làng một bài
         thơ Đường 6 chữ của thi sĩ Cố Huống, người đã có
         bài thơ nổi tiếng khi vịnh Giai thoại Điển tích LÁ THẮM
         của chàng thư sinh Vu Hựu và Cung nhân Hàn Thị như sau :
  
 
          
Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,                       
         花落深宫鶯亦悲
 Thượng Dương cung nữ đoạn
         trường thì.         上陽宫女斷腸時 
 Quân ân bất bế đông lưu thủy,                           君恩不閉東流水
 Diệp thượng đề
         thi ký dữ thùy ?                        枼上題詩寄與誰?
  
Tạm
         diễn nôm như sau :
  
 Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,
 Thượng Dương cung nữ quặn
         lòng đau.
 Ơn Vua chẳng bế dòng lưu thủy,
 Trên lá đề
         thơ gởi đến đâu ?
  
                     
         Bây giờ thì xin cùng thưởng thức và cùng kính mời tất
         cả Quý thầy cô, các bạn đồng môn, các em học sinh, chúng
         ta cùng tìm hiểu và dịch bài thơ đặc biệt này nhé
         !
  
歸山作                             
          QUY SƠN TÁC
  
心事數莖白髮,               Tâm sự sổ
         kinh bạch phát
  
生涯一片青山。               Sanh nhai nhất phiến
         thanh sơn
  
空林有雪相待,             
          Không lâm hữu tuyết tương đãi
  
古道無人獨還。               Cổ
         đạo vô nhân độc hoàn
          
桃紅復含宿雨,                  Đào
         hồng phục hàm túc vũ
 柳綠更帶朝煙.                  Liễu
         lục cánh đái triêu yên
 花落家童未掃,                  Hoa
         lạc gia đồng vị tảo
 鳥啼山客猶眠 .                 Điểu
         đề sơn khách do miên.
  
顧 况                               Cố
         Huống.
 
 SÁNG TÁC KHI VỀ NÚI Ở ẨN,
 Tâm sự tịch
         liêu của tuổi già, chỉ còn biết tỉ tê cùng vài sợi
         tóc bạc lưa thưa mà thôi. Sinh nhai ư ?. Ừ, thì cứ sống
         nhờ vào cỏ hoa cây trái của một dãy núi xanh xanh kia. Trong cảnh
         núi rừng vắng lặng nầy, ta chỉ còn bầu bạn với tuyết trắng
         mà thôi. Mỗi ngày trên con đường xưa lối cũ nầy, ta
         chỉ đi về với một thân một bóng. Mỗi chiều chiều ngắm
         hoa hồng còn long lanh với những hạt mưa xuân, và mỗi buổi sáng
         hàng liễu xanh chập chờn ẩn hiện trong làn hơi sương sớm.
         Hoa rụng đầy thềm đầy đất, gia đồng còn chưa kịp
         quét đi. Tiếng chim líu lo của buổi ban mai cũng không đánh thức
         được người khách núi nhàn nhã còn đang mơ màng
         giấc điệp.
  
         Diễn nôm :
 Tâm sự : Lơ thơ tóc bạc,
 Núi xanh một dãi
         : Sinh nhai !
 Rừng vắng bạn bầu cùng tuyết
 Đường xưa
         vắng vẻ không ai ,
 Hoa đào hồng vì mưa tối
 Sương
         sớm đưa cành liễu bay
 Hoa rụng gia đồng chưa quét,
 Chim
         ca khách núi còn say !
  
Lục bát :
 Lơ thơ tóc trắng
         não nùng,
 Sinh nhai một dãy chập chùng núi xanh.
 Bạn cùng
         tuyết trắng phủ quanh,
 Đường xưa vắng vẻ độc hành
         một thân,
 Đào hồng lóng lánh mưa xuân,
 Liễu xanh
         thấp thoáng bâng khuâng sáng trời.
 Gia đồng chưa quét hoa
         rơi,
 Giấc nồng khách núi mặc lời chim ca !
 
 Đỗ Chiêu
         Đức diễn nôm.
  
Cố Huống 顧況 (725-814) tự Bô Ông 逋翁, người Hải Diêm 蘇州 Tô Châu 海鹽 (nay thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江, Trung Quốc).
 về già, tự lấy hiệu là Bi Ông. Ông là
         Thi sĩ, họa sĩ của đời Đường. Quan không cao, từng giữ
         chức Trứ Tác Lang. Vì làm thơ châm chích giới quyền quí
         đương thời, nên bị biếm đến Nhiêu Châu làm Tư Hộ
         Tham Quân. Về già ẩn cư ở núi Mao Sơn.
  
 
 
         
PHẠM KHẮC TRÍ: 
  
Anh Chiêu Đức ơi , một hai năm trước đây
         , anh chị em chúng ta cũng đã chuyển dịch bài này. Riêng tôi
         rất thích bài thơ 6 chữ 8 câu này của Cố Huống. Bốn câu
         sau có sách chép cho là 1 trong các bài Điền Viên Lạc của
         Vương Duy . Hôm nay , nhân ngày mồng một Tết , nhân dịp anh đề
         cập đến , ngồi đọc lại một mình... Cám ơn anh. Gửi
         lại  bản dịch cũ để mọi người cùng đọc cho vui.
         Cầu chúc một năm mơi an lành cho tất cả chúng ta. Thân kính.
         
  
 Qui Sơn Tác
 Cố Huống (725 - 814)
  
Tâm sự sổ kinh bạch phát
 Sanh nhai nhất
         phiến thanh sơn
 Không lâm hữu tuyết tương đãi
 Cổ
         đạo vô nhân độc hoàn
 Đào hồng phục hàm túc
         vũ
 Liễu lục cánh đãi triêu yên
 Hoa lạc gia đồng
         vị tảo
 Oanh đề sơn khách do miên.
  
Qui Sơn Tác
 PKT 01/31/2014
  
Tâm sự vui cùng tóc bạc, 
 Núi xanh ngày
         tháng tung hê.
 Rừng vắng tuyết trắng mời đón ,
 Lối
         xưa một bóng đi về.
 Đào hồng mưa đêm tươi nở
         ,
 Liễu biếc sương sớm vấn vương.
 Hoa rụng gia đồng
         chưa quét ,
 Oanh ru sơn khách giấc nồng . 
  
CHÂN DIỆN MỤC:
 Tâm sự miên man buồn tóc trắng
Lui về góc núi sống qua ngày    
Sương tuyết rơi hoài ta cũng
         cảm
Đường
         đời bạn hữu vắng tăm hơi
Xuân về hoa nở trong mưa bụi
Cành biếc hanh hao dưới
         khói trời
Hoa
         rụng hiên xuân bay quẩn mãi
 Dụi mắt ngáp dài
         đón xuân tươi
  
 C.D.M
  
 MAILOC:                                                         
         
 Quy Sơn Tác
Tâm sự bời bời trắng tóc mai ,
Bên sườn núi biếc cuộc sinh
         nhai .
Rừng hoang tuyết
         trắng chờ ta đó ,
Đường
         cũ quay về chẳng bóng ai .
Mưa tối đào hồng hoa ngấn nước ,
Sương mai cành biếc liễu vươn dài
         .
Hoa rơi con trẻ nhà
         chưa quét ,
Chim hót
         giấc nồng khách ngủ say .
  
  
                                    Mailoc
_________________________________________________
  
      
         
TRÚC CHI TỪ                                  
         
Lưu
         Vũ Tích
Phạm Khắc Trí,
         Mailoc, Chân Diện Mục, Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Quên Đi, Kim
         Phượng
_________________________________________________________________________
  
Đã có chùm lan , cành đào , nhánh hạnh , hôm nay xin
         gửi thêm một bài ca xưa để mọi người thân quí ăn
         Tết cho vui . Cảnh hò hát trên sông nước quê nhà thuở
         nào ,dù đã qua , đã xa,  vẫn mãi là một hồi ức
         đẹp. Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi ! PKT 01/25/2014
  
Trúc Chi Từ
 Lưu Vũ Tích (772 - 842)
  
Dương liễu thanh thanh giang thủy
         bình
 Văn lang giang thượng xướng
         ca thanh
 Đông biên nhật xuất
         tây biên vũ
         Đạo
         thị vô tình khước hữu tình
  
Dịch Xuôi : Trúc Chi Từ
 PKT 01/25/2014
  
Dương liễu xanh xanh , dòng sông phẳng
         lặng
 Nghe tiếng chàng hát hò
         trên sông
 Bên đông mặt trời đang
         lên, bên tây trời đang mưa
 Nói là trời mưa mà lại là trời nắng đấy
         người ơi
  
Chú Thích: 
  
(1) Trúc Chi Từ là một thể loại dân
         ca xưa , thường được làm ra để nói về cảnh tình
         của người dân sinh sống hiền lành ở nơi thôn dã. Đây
         là 1 trong số các bài  Trúc Chi Từ của tác giả.
  
(2) Trong chữ hán , có
         2 chữ đồng âm , cùng đọc là "tình" nhưng khác
         nghĩa , một nghĩa là "trời tạnh/không mưa" và một nghĩa
         là "có tình ý đối với nhau ". Câu 4 trong nguyên tác
         , với dụng ý chơi chữ thú vị của tác giả , còn có
         thể hiểu : "nói là vô tình mà lại là hữu tình
         đấy". 
  
Trúc Chi Từ 
 PKT 01/25/2014
  
Liễu biếc xanh dòng nước chảy xuôi,
 Trên sông vang tiếng chàng hò vui.
 Bên tê mưa gió , bên ni tạnh ,
 Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi !
 
 Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com  
  
Khúc Ca Trúc chi
Liễu xanh xanh , mặt sông phẳng
         lặng ,
Giọng hát chàng văng vẳng trên sông .
Mưa tây , đông nắng
         rực hồng ,
Tưởng không lại hóa mênh mông rất tình .
  
       
                          Mailoc phỏng dịch
  
                             
          Cali 1-25-14
  
MƯA RẮC
         BÊN SÔNG
  
Cành tre bên bến
         lặng nhìn sông
Tiếng hát theo
         giòng suôi gió Đông
Nắng
         nhạt như mơ , mưa lắc rắc
Tạnh
         rồi lòng vẫn thấy mưa giông
          
                                         
         C.D.M.  
  
1. Nguyên tác chữ Hán của
         bài thơ :
  
 竹枝詞                           
          TRÚC CHI TỪ 
               劉禹錫                                   
           Lưu Vũ Tích
  
楊柳青青江水平,  Dương liễu thanh thanh giang thủy
         bình,
 聞郎江上唱歌聲。  Văn lang giang thượng xướng
         ca thinh.
 東邊日出西邊雨,  Đông biên nhật xuất
         tây biên vũ,
 道是無晴卻有晴。  Đạo thị vô tình khước
         hữu tình !
  
CHÚ
         THÍCH :
    * Đạo Thị : Bảo là, Nói là, Gọi là.
    * Tình 晴 : Tình nầy là NẮNG RÁO,
         vì có bộ NHẬT là Mặt Trời một bên. Chữ nầy ĐỒNG
         ÂM với chữ Tình 情 là TÌNH CẢM, TÌNH Ý,
         có bộ TÂM là Lòng Dạ một bên. Nên, HỮU TÌNH là
         CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH là Có Tình Ý.
  
NGHĨA BÀI THƠ :
      
         Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe
         tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang
         ló dạng ở phía đông với những tia nắng đầu ngày ,
         nhưng phía bên trời tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo
         là không có nắng, nhưng lại có nắng, nói là không có
         tình, nhưng lại có tình Ý thật thiết tha !
  
DIỄN NÔM :
           
         Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,
           
         Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.
           
         Tây đổ mưa rào đông lại nắng,
           
         Hữu tình người lại ngỡ vô tình !
                                                           
         Đỗ Chiêu Đức.
  TRÚC CHI TỪ
  
Mặt nước êm đềm, bóng liễu in
Giọng chàng xao động khúc sông yên
Tây mưa, đông vẫn đang hừng nắng
Người ngỡ vô tâm lại hữu tình.
  
                       Lộc
         Mai
  
Không môn đăng hộ đối,
         chàng thì xót phận. Nơi Nàng thì rực rỡ tươi vui, bên
         chàng cả một màu u ám.
 Quên Đi xin góp vui với bài dịch:
 
                     
         Đôi Bờ
 Bên dòng nước
         lặng liễu khoe thân
 Sông vắng tiếng chàng trầm bổng ngân
 Đông nắng tây mưa nào muốn thế
 Sao đành than trách
         hỡi tình nhân.
                                      
         Quên Đi
  
Ý Tình
Dòng nước lặng soi mình
         dáng liễu
Điệu ca buồn não nuột  trên sông
Đông còn nắng ấm tây
         mưa lạnh
Đầy
         ý tình căm lặng ngỡ không
          
Kim Phượng
______________________________________________________________
  
 
          
      
         
CỔ KIM NHƯ MỘNG
Thơ Tô Đông Pha
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi
____________________________________________
  
Lời Dẫn Về Bản Dịch Cổ Kim Như Mộng
  
Nguyên tác là một bản ca từ làm
         theo điệu Vĩnh Ngộ Lạc của Tô Đông Pha , đời Tống . Phần
         chuyển dịch đã không thể giữ được âm ngữ cho đúng
         điệu nhạc. Chẳng qua , mấy ngày đầu xuân ,  đọc được
         lời than của người xưa , cổ kim như mộng , vị dư hạo thán
         (xin hãy vì ta mà than dài ) , thú thực không hiểu sao nhà-giáo-tôi
         lại không cảm thấy buồn , mà ngược lại,  lại cảm thấy
         vui vui , và ngược lại , lại muốn được chia sẻ , thay vì
         nỗi buồn, mà là nỗi vui này , cùng với người xưa và
         với mọi người thân quí. Vâng , cổ kim như mộng ,ai buồn cho
         đây , vì thế dại gì mà không vui ?( Đêm nay ,chắc sẽ
         ngủ ngon , Ông Táo đã về Trời ,đâu còn ai ở Hạ Giới
         để ghi chép cái tội chọc phá mọi người cho vui của tôi
         nữa ) . PKT 01/23/2014 
          
Vĩnh
         Ngộ Lạc
 Tô Đông Pha (1037 - 1101)
  
 Minh nguyệt như sương
 Hảo phong như thủy
 Thanh cảnh vô hạn
 Khúc cảng khiêu
         ngư
 Viên hà tả lộ
 Tịch mịch vô nhân kiến
 Thẩm
         như tam cổ
 Khanh nhiên nhất diệp
 Ảm ảm mộng vân kinh đoạn
 Dạ mang mang 
 Trùng tầm vô xứ
 Giác lai tiểu viên hành
         biến
 Thiên nhai quyện khách
 Sơn trung qui lộ
 Vọng đoạn
         cố viên tâm nhãn
 Yến Tử lâu không
 Giai nhân hà tại
 Không tỏa lâu trung yến
 Cổ kim như mộng
 Hà tằng mộng
         giác
 Đản hữu cựu hoan tân oán
 Dị thời đối
 Hoàng lâu dạ cảnh
 Vị dư hạo thán
  
Cổ Kim Như Mộng
 PKT 01/23/2014
  
Trăng sương
         lung linh ,
 Gió nhẹ dịu mát ,
 Trời đất yên ngủ ,
         Cá quẫy ngoài sông,
 Lá sen tròn tuôn hạt sương đọng
         , 
 Lặng lẽ trong thanh vắng .
  
Canh ba trống điểm, 
 Một chiếc lá rụng ,  
 Tỉnh giấc
         mộng xuân ảo não ,
 Đêm tối mịt mùng ,
 Tìm đâu
         thấy nữa , 
 Tha thẩn cùng khắp khu vườn nhỏ .
  
Cuối trời chân mỏi ,
 Chốn cũ
         quay về ,
 Vườn xưa ngày đêm tưởng nhớ,
 Lầu xưa
         hoang liêu ,
 Người xưa một thuở ,
 Ôi con yến nhỏ ngày
         nào, nay đã bay về đâu nhỉ ?
  
Cổ kim như mộng,
 Bao lần tỉnh thức ,
 Vui xưa không
         còn ,   
 Dòng đời dâu bể , 
 Đêm dài lầu
         vắng ,  
 Ai buồn cho đây?
  
Phụ Chú : Lầu Yến Tử ,lấy
         tên một người ca nữ , chuyện kể, vợ chồng đầm ấm hạnh
         phúc , sau khi chồng chết , ở vậy, cho đến khi qua đời. 
  
Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com 
  
Cổ Kim Như Mộng
  
Trăng sáng ngời
         tợ sương
Gió mát lạnh như nước
Bầu trời đêm trong suốt
Cá
         nhảy vượt bờ nương .
  
Trên lá
         sen sương lóng ,
Vắng lặng nào ai hay
Lá rụng âm vang động
         
Canh ba trống canh dài .
  
Xót xa khi
         tỉnh giấc
Đêm tăm tối mịt mờ 
Biết tìm đâu ra chốn
Vườn
         nhỏ dạo thẩn thơ .
  
Cuối trời
         khách chân mỏi 
Năm cũ đường về mong
Vườn xưa trông mút mắt
         
Yến Tử lầu vắng không .
  
Giai nhân
         giờ đâu tá ?
Chim én kín lầu xuân
Xưa nay đời như mộng 
Tỉnh
         giấc đã bao lần .
  
Buồn vui những
         ngày cũ
Sau nầy liệu có ai ?
Lầu vàng trong đêm vắng
Vì
         ta thở than dài .
  
                   
         Mailoc phỏng dịch
  
                     
         Cali 01-23-14
          
 Chuyện Cũ Giờ
         Như Mộng
         (Phóng tác Cổ Kim Như Mộng) 
      
         Trăng thanh gió mát cảnh như thơ
 Sen
         ủ sương khuya cá thẩn thờ
 Đêm vắng canh chầy ôm mộng
         ảo
 Bàng hoàng lá rụng dạ nao nao.
 
 Nơi lòng vương
         cảnh cũ
 Đâu dáng ngọc lầu cao
 Người xưa nay vắng
         bóng
 Lầu xưa cũng điêu tàn.
 Sự đời có tựa
         không
 Chuyện cũ giờ như mộng.
                          
         Quên Đi
  
 
  
      
         
HOÀI CỰU                                         
         
  
Năm
         nay, trong tiết đông lạnh, vùng Plano Texas, chỗ chúng tôi ở, trời
         trở chứng, nhiệt độ trong ngày lên xuống thất thường, dường
         như cơ thể già nua đã không thích ứng kịp, đầu gối
         bị đau nhức, đôi khi chịu không thấu, lại nhớ đến...con
         lừa trong thơ Tô Đông Pha. "Lộ trường, nhân khốn, kiển
         lư tê" . Đường còn xa, người đã mỏi mệt , mà
         con lừa cưỡi thì chân lại đi khập khiễng, kêu đau. Trong cơn
         đau nhức trời hành này, năm cùng tháng tận, tôi ngồi viết
         mấy hàng chữ này để mọi người thân quí trong nhà
         đọc cho vui cùng tôi và cùng nhau, thân tâm an lạc, đón
         mừng năm 2014, một Năm Mới  an lành, hanh thông, và như ý.
         PKT 12/29/2013 
          
Hoài Cựu
 
Tô Đông Pha (1037 - 1101)
  
Nhân sinh đáo xứ tri hà
         tự 
 Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
 Nê thượng ngẫu
         nhiên lưu chỉ trảo
 Hồng phi na phục kế đông tây
 Lão
         tăng dĩ tử thành tân tháp 
 Hoại bích vô do kiến cựu
         đề
 Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
 Lộ trường nhân
         khốn kiển lư tê
  
Phụ chú :
  
Nguyên đề bài là
         : Họa Tự Do Mãnh Trì Hoài Cựu , họa bài Mãnh Trì Hoài
         Cựu của Tử Do. Tử Do là em của Tô Đông Pha. Mãnh Trì là
         tên huyện thuộc tỉnh Hà Nam.
  
Dịch Xuôi : Hoài Cựu
 PKT 12/29/2013
  
Đời người rồi sẽ
         đi về đâu nhỉ
 Có phải tựa như một con chim hồng bay
         đạp trên tuyết rơi 
 Ngẫu nhiên để lại dấu chân
         trên tuyết 
 Rồi thoắt đó bóng hình chim đã bay vút
         đông tây mất hút rồi 
 Vị tăng già đã viên tịch
         , ngôi tháp mới cho tăng vừa mới xây xong
 Bức tường cũ
         thơ đề nay đã đổ nát không còn thấy chữ viết
         nữa
 Không biết đường đi gian truân ngày trước có
         được ghi lại không
 Bây giờ chỉ biết , đường còn
         xa , người đã mỏi mệt , con lừa khập khiễng kêu đau
  
Hoài Cựu
 PKT  12/29/2013
  
Kiếp người
         rồi sẽ về đâu nhỉ ?
 Tựa cánh hồng bay đạp tuyết
         rơi.
 Đây đó dấu chân còn đọng tuyết ,
 Mà
         đâu hình bóng đã mù khơi.
 Tăng già , tháp mới
         yên phần xác ,
 Chữ viết , tường rêu lấp mất lời.
 Khổ nạn ngày qua , trời đất biết ,
 Đường dài , lừa
         ốm...bỡn nhau thôi !
 
Tri Khac
         Pham
 Phamid1934@gmail.com 
Bài dịch LỘC MAI:
HOÀI CỰU
  
Đi về đâu hỡi, kiếp con người
         ?
Tựa cánh chim bằng lướt
         tuyết rơi
Vừa thấy dấu chân
         in thảm trắng
Thì đà bóng
         dáng khuất mù khơi
Tăng già
         yên nghỉ sâu lòng tháp
Tường
         cũ tang thương nhạt chữ lời
Hiểm trở đường xưa, ai có nhớ
Lừa đau, người mỏi, nẻo xa xôi.
Lộc Mai
  Bài dịch MAILOC:
Hoài Cựu
  
Đường vạn nẻo đời người chẳng biết ,
Tựa cánh hồng giẫm tuyết rơi đầy .
Dấu
         chân bỗng chốc còn đây ,
Mà hồng heo hút đông
         tây xa vời .
Trong tháp mới sư già thâm
         tịch ,
Tường đổ rồi dấu tích thơ đâu
         .
Nhớ thương khập khểnh dãi dầu ,
Mệt nhoài la mỏi nỗi sầu đường xa .
Mailoc
         phỏng dịch 
Cali 29-12-13
Bài
         dịch QUANG TUẤN:
NHỚ XƯA
  
 Nhân sinh nào biết
         về đâu nhỉ?
 Như cánh chim hồng giẫm tuyết rơi.
 Ôi dấu chân kia còn rõ đó
 Mà hình bóng ấy đã
         xa rồi.
 Tăng già tháp giữ thân yên ổn
 Tường cũ lời
         ghi nét nhạt phai.
 Đường trần muôn thuở luôn gian khổ
 Dặm thẳm. ngưởi lừa mệt quá thôi.
  
                   
         Chiều ngày 30/12/2013
                       
         QUANG TUẤN
  Bài
         dịch QUÊN ĐI:
 
Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân
         Hữu Thân mến,
          
Vừa nhận được Bài của Các Thầy
         Cô, tôi tìm ngay bản chữ Hán gởi ra đây để cùng nhau
         tham khảo.
 
 和子由澠池懷舊    Hoạ Tử Do
         Mãnh trì hoài cựu
 人生到外知何似,   Nhân sinh đáo xứ
         tri hà tự
 應似飛鴻踏雪泥。   Ứng tự phi hồng đạp
         tuyết nê
 泥上偶然留指爪,    Nê thượng ngẫu
         nhiên lưu chỉ trảo
 鴻飛那復計東西。    Hồng phi ná phục
         kế đông tê (tây)
 老僧已死成新塔,    Lão tăng dĩ
         tử thành tân tháp
 壞壁無由見舊題。    Hoại bích vô do
         kiến cựu đề
 往日埼嶇還記否,    Vãng nhật kỳ
         khu hoàn ký phủ
 路人長困蹇驢嘶。     Lộ nhân trường
         khốn kiển lô đề.
 
 Có một điều ở câu thứ
         nhất, chữ thứ tư ( 外 ) là chữ ngoại có nghĩa là bên ngoài.
  
      Nhớ Lại Nơi Xưa
 
 Sinh ra rồi sẽ đến đâu đây
 Tựa cánh hồng đi trên tuyết lầy
 Móng vuốt hãy còn
         lưu dấu vết
 Bay nhanh chẳng thiết hướng đông tây
 Sư
         già tháp mới vùi xương cốt
 Tường đổ thơ đề
         mất tiếc thay
 Hiểm trở lối xưa giờ vẫn nhớ
 Người
         la mệt lả đoạn đường này
                                    
         Quên Đi
 
ĐỖ
         CHIÊU ĐỨC: Dịch & Góp ý
 
Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân Hữu Thân mến,
  
Vắng
         tiếng lâu nay, vì tâm tình còn trĩu nặng, hôm nay chợt mở
         mail, đọc được các bài dịch của Quí Thầy và Các
         Bạn về cuộc sống nhân sinh, cũng chợt thấy lòng cảm khái,
         nên xin được tham gia với các phần sau :
  
  1.
         NGUYÊN TÁC CỦA BÀI THƠ :
  
 和子由澠池懷舊    HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI CỰU
  
人生到處知何似,   Nhân sinh đáo xứ tri
         hà tự
 應似飛鴻踏雪泥。   Ưng tự phi hồng đạp
         tuyết nê
 泥上偶然留指爪,   Nê thượng ngẫu nhiên
         lưu chỉ trảo
 鴻飛那復計東西。   Hồng phi nả phục kế
         đông tê (tây)
 老僧已死成新塔,   Lão tăng dĩ tử thành
         tân tháp
 壞壁無由見舊題。   Hoại bích vô do kiến
         cựu đề
 往日埼嶇還記否?    Vãng nhật kỳ khu
         hoàn ký phủ?
 路長人困蹇驢嘶。   Lộ trường nhân khổn
         kiển lô đề.
                    
           蘇軾                                            
           Tô Thức 
  
2. XUẤT XỨ CỦA BÀI THƠ :
  
        
         Năm Gia Hựu Nguyên niên đời Tống Nhân Tông ( năm 1056 ), Tô
         Tuân dẫn Tô Thức và Tô Triệt lai kinh ứng thí, trên đường
         đi ngang qua huyện Mãnh Trì, đêm trọ lại cư thất của Phụng
         Nhàn Hòa Thượng, có đề thơ trên vách chùa.
  
       
          Năm Gia Hựu thứ 6, Tô Thức ( Tự là Tử Chiêm, Hiệu là
         Đông Pha Cư Sĩ ) đến nhậm chức quan ở Phụng Tường, trên
         đường đi, lại đi ngang qua huyện Mãnh Trì, được em là
         Tô Triệt ( tự là Tử Do ) gởi cho bài thơ " Hoài Mãnh Trì
         kí Tử Chiêm Huynh Thi "  懷澠池寄子瞻兄詩,
         nên mới làm bài thơ nầy để họa lại.
  
     
         3. GÓP Ý :
               a) Về chữ thứ tư của câu đầu : Bạn Hùynh
         Hữu Đức ghi chữ NGOẠI 外 là vì bạn
         nhầm với chữ Giản Thể của chữ Xứ 處 được viết như thế nầy : 处. Nên
         câu đầu căn cứ theo nguyên tác phải là :
        
         Nhân sanh đáo XỨ tri hà tự.
       b) Chữ đầu
         của câu thứ 2 phải đọc là ƯNG.
        
         Chữ 應 đọc là ƯNG là Phó từ, có
         nghĩa : PHẢI, NÊN. Ví dụ : Ưng Thị, Ưng tự ( Phải là ).
         Đọc là ỨNG là Động Từ, có
         nghĩa : LÊN TIẾNG. Ví dụ : Đồng Thanh Tương Ứng, Hưởng
         Ứng.
       c) Chữ 那 , ở đây
         phải đọc là NẢ, vì đúng ra chữ nầy phải được
         viết như thế nầy : 哪, là Nghi vấn từ dùng để
         hỏi, có nghĩa là NÀO?, là SAO?. 
       d) Câu
         chót phải là :
          LỘ TRƯỜNG NHÂN
         KHỔN kiển lư tê.
          Lộ Trường
         Nhân Khổn là Đường dài người mõi. Chữ nầy 困 đọc là KHỐN, có nghĩa là KHÓ, ta có từ
         Khốn Khó. Còn đọc là KHỔN thì có nghĩa là Mõi
         Mệt.
  
         4. DIỄN NÔM :
  
       
         HỌA BÀI MÃNH TRÌ HOÀI CỰU Của TỬ DO.
  
             Cuộc
         sống người đời chẳng biết sao?
             
         Tựa chân nhạn đạp tuyết hôm nào.
             
         Ngẫu nhiên dấu ấn lưu trên tuyết,
             
         Bình thản cánh hồng bay đến đâu? 
             
         Tháp mới sư già vừa viên tịch,
             
         Tường hư thơ mất mới hôm nao !
             
         Chông gai ngày cũ quên hay nhớ ? 
             
         Người mõi đường xa lừa hí đau !
                                                  
           Đỗ Chiêu Đức.
  
          
         Bài thơ nầy còn ẩn Ý THIỀN ở bên trong !
 
  DANH
         HỮU dịch & góp ý:
.
Nhân dịp đầu năm, góp
         vài ý với các bạn yêu thơ Đường.
  
 
和子由澠池懷舊    HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI
         CỰU
  
 人生到處知何似,   Nhân sinh đáo xử, tri hà
         tự
 應似飛鴻踏雪泥。   Ưng tự phi hồng đạp tuyết
         nê
 泥上偶然留指爪,   Nê thượng ngẫu nhiên lưu
         chỉ trảo
 鴻飛那復計東西。   Hồng phi na phục kế đông tê.
 老僧已死成新塔,   Lão tăng dĩ tử, thành tân
         tháp
 壞壁無由見舊題。   Hoại bích, vô do kiến cựu
         đề.
 往日埼嶇還記否       Vãng nhật kỳ khu,
         hoàn ký bĩ
 路長人困蹇驢嘶。   Lộ trường nhân, khốn
         kiển lư đề.
                    
           蘇軾 
  
 
 họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của
         Tử Do
  
Chuyện xử thế của con người, ta biết theo ai !
  Bắt chước con chim hồng lướt trên bùn tuyết
         ư ?
  Bùn tuyết chỉ tình
         cờ ghi lại dấu vết của nó.
  Kế sách "Hồng bay" cũng đâu giải quyết được
         gì trước nay
  Hay như Lão
         tăng vừa viên tịch để lại ngôi tháp mới xây.
  Vì bức tường đã hỏng, bài thơ của
         ông đề không còn thấy nữa
  Ngày trước thật uổng cái kỳ công, vì lời ghi không
         hay .
          Đi đường dài gặp cơn
         khốn đốn chỉ vì sự thua kém nên chỉ biết kêu lên.
  
 
Vài từ ngữ
  
 
Đáo xử : đến
         chuyện xử thế
  Ưng tự : nên
         theo cái nào
  Na phục : đâu giải
         quyết được
  Kế đông
         tây : kế sách xưa nay
  Tân tháp
         : tháp xây dùng đựng cốt nhà sư mới viên tịch
  Hoàn ký bĩ : chỉ vì lời ghi không hay (ám
         chỉ lời chê lúc trước của ông về thơ Vương An Thạch).
  Kiển lư : ngựa què từ ngữ chỉ sự thua kém
  
 
Bài thơ này, theo tôi nghĩ,
         là ông than vì chuyện xử thế vụng của mình mà bị đày
         đi xa (chuyện ông sửa thơ của Vương An Thạch và bị Thạch
         để tâm, khi hắn lên làm Thừa tướng, hắn đã trả
         thù bằng cách đày ông đến nhiệm sở mới nơi mà
         trước đây đã hình thành bài thơ của Thạch, cũng
         giống chuyện nhạc sĩ Văn Cao, hồi trước có lần Tố Hữu
         rủ ông lại nhà để khoe mấy bài thơ ông ta mới làm,
         Văn Cao trả lời : thơ cậu thì có gì mà phải đọc.
         Tố Hữu để tâm thù, khi nắm quyền đã đày ải Văn
         Cao suốt đời không ngóc đàu lên nổi, nhờ Văn Cao là
         tác giả bài Quốc ca nên mới không bị đi tù như các
         bạn hữu của ông).
  
 Nội dung bài này
         rất khó dịch cho lọn nghĩa mà không làm sai lạc ý thơ.
         Nhân đầu năm, thôi thì cũng xin góp lời kẽo bạn Lộc
         lại hỏi : sao dạo này anh còn dịch thơ Đường nữa không
         ?
          
 Họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của
         Tử Do
  
Đường
         đời xử thế, biết chi nêu
  Bắt chước chim hồng, vượt tuyết rêu ?
  Rêu tuyết tình cờ in dấu vết
  Hồng phi há dễ giải nan điều !
  Lão tăng vừa tịch, tháp còn đấy,
  Tường nát, khó tìm, thơ đã tiêu.
  Công uổng trước kia, phê hạ sách
  Đường dài, tài mọn, chỉ đành kêu.
  
Danh Hữu dịch
  
 Chúc quý bạn một năm mới 2014 thi tứ dồi dào,
         sức khỏe hanh thông
  
 
  
 
___________________________________________________________________
  
 
  
 
  
  
 
  
      
         
Túc Vương Xương Linh ẩn cư
 
 Cùng Bạn .
 Xin Chuyển đến
         các bạn một bài thơ của Thường Kiến , đọc giải
         khuây thư xã cho tâm hồn trong ngày cuối tuần và cũng mong bạn
         thơ mình góp vần cho vui với góc đường thi nhé .
Thân mến 
  Mailoc
  
Túc Vương Xương
         Linh ẩn cư
 
 Nguyên tác: Thường Kiến
 
 宿王昌齡隱居 
 
 常建 
 
 清溪深不測,隱處唯孤雲。 
 松際露微月,清光猶為君。 
 茅亭宿花影,藥院滋苔紋。 
 余亦謝時去,西山鸞鶴群。 
 
 Túc
         Vương Xương Linh ẩn cư 
 
 Thường Kiến 
 
 Thanh khê thâm bất trắc, 
 Ẩn xứ duy cô vân. 
 Tùng tế lộ vi nguyệt, 
 Thanh quang do vị quân. 
 Mao đình túc hoa ảnh, 
 Dược viện tư đài văn. 
 Dư diệc tạ thời khứ, 
 Tây sơn loan hạc quần. 
 
 --Dịch nghĩa: 
 
 Trọ đêm nơi ở ẩn của Vương
         Xương Linh 
 
 Suối
         trong sâu thăm thẳm, 
 Nơi
         ở ẩn chỉ có đám mây lẻ loi. 
 Trăng lấp ló trong lùm thông, 
 Ánh sáng trong mát vẫn dành cho bác. 
 Nếp đình
         tranh lúc nào cũng có bóng hoa, 
 Vết rêu lan dài bên viện thuốc. 
 Ta nay cũng từ giã việc đời, 
 Về làm bạn với bầy loan, hạc ở non Tây. 
 
 -- Bản
         dịch của  MaiLộc : -- 
  
 Suối trong ngần đáy sâu khó đoán ,
Nơi ẩn cư một đám mây cô .
Lùm thông thấp thoáng trăng nhô ,
Ánh trăng trông vắt mơ hồ chờ anh .
Túp lều tranh hoa cành ôm
         ấp 
Phòng thuốc nhà lấm tấm rêu xanh  .
Từ
         nay thế sự thôi đành ,
Non tây , loan , hạc , bạn lành bên
         nhau .
          
Ở Lại Nơi Ẩn Cư Của Vương Xương
         Linh
            1
 
 Thăm
         thẳm suối trong mát   
 Lẻ loi mây chốn thanh        
         
 Cành thông che bóng nguyệt   
Trăng
         sáng thú riêng anh      
 Hoa nở tươi lều cỏ              
         
 Dược phòng rêu phủ xanh   
 Bao giờ rời thế sự              
         
 Dạo
         núi Tây yên lành   
 
                 
         2
 Xa khuất xuôi dòng con
         suối trong
 Áng mây cô lẻ chốn giai không
 Mờ mờ sau cội tùng trăng hiện
 Sáng sáng ánh ngà ngắm chỉ Ông
 Rực rỡ lều tranh hoa rộ sắc
 Âm
         u gian thuốc phủ rêu phong 
         Việc đời đến lúc khi ngưng được
 Oanh Hạc Tây
         Sơn thoả thích lòng
 Quên Đi
 
 CHỐN ẨN CƯ
  
Suối sâu thăm thẳm một dòng
Đám mây đơn lẻ âm
         thầm cùng ta
Ánh trăng nấp bóng
         thông già
Một vầng trong mát
         thiết tha chờ người
Lều tranh hoa
         điểm hiên ngoài
Dược phòng
         u ám lan dài vết rêu
Việc đời
         gác lại đi thôi
Hạc loan làm
         bạn bên trời non tây.
  
     
                         Lộc Mai
________________________________________________
  
 
          
      
         
Thu Tịch Ký Hoài Tố
         Thượng Nhân
  
Cùng Bạn ,
Xin chuyển đến Bạn một bài thơ Đường
         của Hoàng phủ Tăng , bài thơ thoát lên cái vẻ thâm nghiêm 
trầm
         mặc của cảnh chùa chiều Thu khiến lòng tôi vô cùng cảm
         khái . Xin chuyển đến các bạn thơ để chia sẻ và
         cũng mong bạn góp vần cho vui ngày cuối tuần .
Thân mến 
Mailoc
  
Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng Nhân
 
 Nguyên tác: Hoàng Phủ Tăng
 
 秋 夕
         寄 懷 素 上 人 
 
 已 見 槿 花 朝 委 露 
 獨 悲
         孤 鶴 在 人 群 
 真 僧
         出 世 心 無 事 
 靜 夜
         名 香 手 自 焚 
 窗 臨
         絕 澗 聞 流 水 
 客 至
         孤 峰 掃 白 雲 
 更 想
         清 晨 誦 經 處 
 獨 看
         松 上 雨 紛 紛 
 
 皇 甫 曾 
 
 
 Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng
         Nhân 
 
 Dĩ kiến cẩn hoa triêu ủy lộ 
 Độc
         bi cô hạc tại nhân quần 
 Chân tăng xuất thế tâm vô
         sự 
 Tĩnh dạ danh hương thủ tự phần 
 Song lâm tuyệt
         giản văn lưu thủy 
 Khách chí cô phong tảo bạch vân 
 Cánh tưởng thanh thần tụng kinh xứ 
 Độc khan tùng thượng
         vũ phân phân 
 
 Hoàng Phủ Tăng 
Dịch Nghĩa:
Chiều Thu Viết Gửi Sư Thày
         Hoài Tố 
 
 (đã thấy hoa dâm bụt bị phó mặc cho móc buổi
         sáng) 
 (riêng thương cho con hạc lẻ loi giữa đám người
         ta) 
 (người tu chân chính khác người đời, lòng không
         thiết sự vật) 
 (trong đêm yên tĩnh, tự tay đốt nén
         nhang thơm có tiếng) 
 (cửa sổ trông ra khe suối đẹp, nghe
         tiếng nước róc rách) 
 (khách tới đỉnh núi chơ
         vơ quét mây trắng) 
 (lại nghĩ tới nơi tụng kinh buổi
         sáng trong lành) 
 (một mình nhìn mưa bay lất phất trên
         ngọn thông) 
 
 -- Bản dịch của MaiL ộc – 
 Đóa
         dâm bụt dầm mình sương sớm ,
Thương hạc buồn gữa chốn nhân gian  . 
Đại
         tăng sự thế không màng ,
Đêm yên tay thấp nén
         nhang hương trầm .
Suối bên song rì rầm nước chảy
         ,
Núi trơ vơ , khách trẩy mây xây ,
Lắng
         lòng kinh sớm chuông mai ,
Một mình dõi mắt mưa
         lay ngọn tùng . 
.
Bản dịch SONG QUANG:  
Hoa dâm bụt đẩm mình  trong sương sớm
Thương hạc buồn lẻ bạn giữa nhân
         gian
 Kẻ
         chân tu thế sự chẳng mơ màng
 Đêm  tỉnh lặng thấp hương
         trầm khấn nguyện
 Bên song cửa ,tiếng suối ngàn rung chuyển
 Đỉnh núi
         cao, khách viếng thấy tầng mây
 Tụng công phu kinh sớm với chuông mai
 Mưa lất
         phất nhìn ngọn thông đơn độc.
  
 SONG  QUANG
 
  Bản
         dịch Quên Đi:
.
Chiều Thu Gởi Sư Hoài Tố
 
 Cánh
         dâm bụt mặc sương ban sớm
 Hạc một mình hoà giữa thế
         gian
 Chuyện tục nhân không lay ý đạo
 Khói trầm hương
         toả ngát đêm tàn
 Tựa song vẳng nước khe sâu chảy
 Khách lặng theo mây quét núi ngàn
 Nhớ lại sáng nơi phòng tụng niệm
 Tùng trầm mưa lạnh
         chẳng bi quan
                                            
         Quên Đi
  
 
  
      
         
GIANG
         TUYẾT                                                  
                              
         
  Liễu Tông Nguyên
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Trần
         Trọng Kim, Trần Trọng San, Tản Đà, Mailoc, HKKM
Chỗ
         tôi ở , mấy  hôm nay trở lạnh ,như trời đã vào đông.
         Nhớ lại bài Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên đời Đường.
         Một nét tĩnh đặc thù trong thi họa đông phương. Một bức
         tranh thủy mạc đẹp. Lung linh hình ảnh một lão ông ,nón lá,
         áo tơi , ngồi câu trên một con thuyền nhỏ , cô đơn giữa
         sông lạnh, trong lúc tuyết trời đang rơi mù mịt , chung quanh đồng
         không non quạnh , không một bóng chim bay , không một bóng dáng người.
         Nhớ nhau,  tôi ngồi chuyển dịch lại gửi đi, thay lời thăm hỏi
         và cũng mong nhau cảm nhận được ít nhiều ấm áp tình
         tôi. PKT 11/23/2013.   
  
Giang Tuyết
         Liễu
         Tông Nguyên (774 - 819)
  
Thiên
         sơn điểu phi tuyệt
         Vạn kính nhân tung diệt
 Cô chu soa lạp ông
 Độc
         điếu hàn giang tuyết
  
Dịch Xuôi :
         Tuyết Sông 
 PKT 11/23/2013
  
Ngàn non trông mờ mịt, không một bóng chim bay qua
 Vạn lối
         đều trắng xóa, không còn dấu vết chân người đi
 Một lão ông đội nón lá , khoác
         áo tơi, trên một chiếc thuyền nhỏ lẻ loi
 Một mình , lặng lẽ,  ngồi câu cá trên con
         sông lạnh , giữa trời tuyết đổ
  
Giang Tuyết
 PKT 11/23/2013
  
Non ngàn mờ mịt, vắng chim bay ,
 Vạn nẻo đường
         không, tuyệt bóng người. 
 Nón
         lá ,áo tơi, chờ cá động ,
 Thuyền trên sông tuyết , lạnh đâu hay.
  
River Snow
 Innes Herdan
  
In a thousand hills birds have ceased to fly
 On countless tracks footprints have disappeared
 A solitary boatman in bamboo cape and hat
 Is fishing the icy river in the snow
  
Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com 
  
Kính Thầy cùng các Bạn,
  
Đọc lại bài Giang Tuyết của LTN và bài
         dịch của Thầy , lòng cảm thấy bùi ngùi bên tách càphê
         buổi sáng , trong khi bên ngoài trời đà trở  lạnh .Nếu
         so sánh với bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến , tôi thấy bài
         Giang Tuyết có hồn hơn nhiều mặc dù chỉ võn vẹn 4 câu
         thôi, ngắn gọn nhủ ngôn. Qua bài thơ ta thấy ngoài cái cảnh
         thê lương hoang vắng trên đường trên núi , ngoài cái
         giá lạnh của tuyết rơi , chúng ta còn thấy sự lẻ loi cùng
         cực lạnh lẽo của ngư ông trên sông vắng , buông cần , chiến
         đấu với lạnh với đói để tìm miếng ăn cho chiều
         tối nay , khiến ai cùng cao xuyến thương tâm . Đúng như Thầy
         nói , đây là một bức tranh thuỷ mạc vừa đẹp vừa rung
         động lòng người . Nếu bài Thu Điếu ta thấy cảnh an nhàn
         của thi nhân ngồi câu để thưởng thức cảnh hồ thu tuyệt đẹp
         , được cá hay không được cá cũng không sao , nhưng
         trong Giang Tuyết ta thây ngư ông chịu đựng hoàn cảnh khắc
         nghiệt cuả Trời Đật đê kiêm miếng ăn , kiêm
         sống . Bài thơ thật đẹp , thật não lòng lòng . Cũng
         vì thế biêt bao nhà thơ đã phỏng dịch Giang Tuyết . Nhân đây
         Mailoc xin kính chuyển đến Thầy và các bạn thơ một số bài
         dịch của nhiều người đọc cho vui cuối tuần .Cám ơn Thầy
Nay Kính
Mailoc
          
THU
         ĐIẾU
  
     
                                    Nguyễn
         Khuyến
  
Ao
         thu lạnh lẽo nước trong veo 
 Một chiếc thuyền câu bé tẻo
         teo 
 Sóng biếc theo làn hơi gợn tí 
 Lá vàng trước
         gió sẽ đưa vèo 
 Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt 
 Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo 
 Tựa gối ôm cần lâu
         chẳng được 
 Cá đâu đớp động dưới chân
         bèo
  
Các bản dịch GIANG TUYẾT:
-Bản dịch
         của Trần Trọng Kim: 
 
 Nghìn non chim hết vẫy-vùng, 
 Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không bóng người. 
 Áo tơi,
         nón lá, ông chài, 
 Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông
         câu. 
 
 -Bản dịch của Trần Trọng San:
 
 Ngàn ngọn núi, chim bay đi hết, 
 Muôn con đường
         nhạt vết chân người. 
 Ông già nón lá áo tơi, 
 Đậu thuyền sông tuyết, riêng ngồi buông câu.
  
-Bản dịch của Tản Đà :
 
 Nghìn non mất bóng chim bay, 
 Muôn con đường tắt dấu
         giày tuyệt không. 
 Kìa ai câu tuyết bên sông, 
 Áo
         tơi, nón lá, một ông thuyền chài.
 - Bản dịch của Mailoc :
  
1) 
 
Nghìn non khuất dạng dấu chim bay
         , 
 Vạn dặm đường dài chẳng bóng ai . 
 Ngư lão áo
         tơi , thuyền một chiếc , 
Ôm cần , sông lạnh, tuyết rơi đầy . 
 
 (2) 
 
 Dấu chim
         bay ngàn non khuất dạng
 Vạn dặm đường hoang vắng bóng
         người . 
 Lão già nón lá áo tơi , 
 Thuyền
         đơn sông lạnh , tuyết rơi ôm cần . 
 (3) 
         
 Thiên Sơn chim khuất dạng 
 Dặm đường chẳng
         bóng người 
 Thuyền đơn lão tơi nón , 
 Ngồi câu sông tuyết rơi . 
  
Mailoc
  
-Bản dịch của HKKM :
  
Hôm nay trời ở chỗ tôi ở cũng rất lạnh . Bèn
         có ngẩu hứng chạy theo anh  . 
Trộm nghĩ rằng : 
Nếu không đến
         Mỹ thì chắc không biết tuyết như thế nào . Bằng như đã
         ở xứ lạnh gần 40 nâm thí khi tuyết phủ để núi vắng bóng
         chim, đường không có vết chân người , thì sông  đóng
         băng (có thể ice skating được) . Khi sông đóng băng
         làm sao có thuyền đậu ?????
Người Pháp nói rằng traduire c'est
         trahir . 
Từ Hán ra Việt, chắc nhà thơ PKT đă qua đà đi
         hơi xa, rồi từ Việt qua Anh núi non trở thành đồi hehehe 
Mạo muội đóng
         góp bài thơ theo ý của tôi  
Sông băng
  
Ngàn non biệt cánh chim
Vạn nẻo không bóng người
Mình ông cùng tơi nón
Ngâm khóc dòng sông  băng  
  
HKKM
___________________________________________________________
  
 
  
       
         
Chinh
         Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
 
 Cùng Bạn 
Gởi bạn một bài thơ của
         Lý thương Ẩn , phảng phất một chút rợn người nhân Halloween
         sắp đến 
 Thân 
Mailoc
  
Chinh
         Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
 
 Nguyên tác: Lý Thương Ẩn
 
 正月崇讓宅 
 李商隱 
 
 密鎖重關掩綠苔, 
 廊深閣迥此徘徊. 
 先知風起月含暈, 
 尚自露寒花未開. 
 蝙拂帘旌終展轉, 
 鼠翻窗網小驚猜. 
 背燈獨共余香語, 
 不覺猶歌\"起夜來\". 
 
 Chinh Nguyệt Sùng Nhượng Trạch 
 
 Lý Thương Ẩn 
 
 Mật
         tỏa trùng môn yểm lục đài, 
 Lang thâm các huýnh thử
         bồi hồi. 
 Tiên tri phong khởi nguyệt hàm vựng, 
 Thượng tự
         lộ hàn hoa vị khai. 
 Biển phất liêm tinh cung triển chuyển, 
         Thử phiên song võng tiểu kinh sai. 
 Bội đăng độc cộng dư
         hương ngữ, 
 Bất giác do ca “Khởi Dạ Lai” 
 
 Chú
         thích: Sùng nhượng trạch, là ngôi nhà ở phường Sùng
         nhượng ở Đông đô Lạc Dương (nay là thành phố Lạc
         Dương, tỉnh Hà Nam). Đây là nhà cha vợ của tác giả
         LTA. Ông cùng vợ con sống tại đây một thời gian. Khi vợ mất
         (năm 851), ông dọn ra ở riêng. Sáu năm sau có dịp trở lại
         thăm ngôi nhà xưa thì… 
 
 --Dịch nghĩa:-- 
 
 Tháng
         Giêng Nơi Nhà Cũ Phường Sùng Nhượng 
 
 Cửa ngõ khóa kín, rêu
         phong xanh um, 
 ta đi đi lại lại trên hành lang dài
         thăm thẳm và căn gác vắng lặng. 
 Biết trước gió nổi
         trăng lên, 
 vì móc lạnh nên hoa chưa nở. 
 Dơi bay chạm
         vào rèm cửa làm ta trằn trọc không ngủ được. 
 Tiếng
         chuột leo nơi lưới cửa sổ làm ta chợt hơi sợ [vì tưởng
         hồn em về]. 
 Một đèn một bóng ta nói chuyện với hương
         thừa của em, 
 còn hát bài “Khởi Dạ Lai” [em ưa thích]
         nữa. 
 
--Bản
         dịch của MaiLộc—
 
Rêu phong xanh , ngỏ cài kín mít 
Bước tới lui , tĩnh  mịch hành lang .
Gió hiu khơi mảnh trăng tàn 
Cỏ hoa chưa nở  sương lam lạnh tràn
         .
Rèm phất phơ dơi làm khó ngủ
         ,
Chuột leo song , sợ ngỡ hồn ma .
Bên đèn thu thỉ hương xa ,
Bài ca “Khởi Dạ” anh ca nhớ về .
( Bài ca em thích , anh ca nhớ về)
 
  Bản
         dịch: Quên Đi:
.
Cửa
         vào khóa kín rêu xanh phủ
 Lầu vắng ngõ sâu dạ xốn xang
 Trăng biết gió lên quầng xám hiện
 Hoa chưa nở vội ngại sương lan
 Dơi bay rèm động khôn an giấc
 Chuột chạy khua song thoáng ngỡ ngàng
 Chiếc bóng bên đèn hương cũ
         thoảng
 Khúc ca " Khởi Dạ"
         nhớ vô vàng
 
  
                                         Quên
         Đi    
 
 Bản dịch: Song Quang:
    
  Cửa đã khoá,tường
         rêu xanh phủ kín
  Hành lang
         dài,vắng lặng một mình ên
  Lát nữa đây,gió nổi với trăng lên
 Sương mốc lạnh nên hoa chưa kịp nở
  
 
 Dơi bay đụng
         rèm thưa khôn thẳng giấc
 Chuột
         leo khua song cửa ngở hồn về
 Ngọn đèn
         tàn bên hương cũ  như mê
Ta hát khúc "Khởi
         Dạ Lai" em thích.
  
SONG QUANG
  
 
 
_______________________________________________________________
  
      
         
DẠ  ẨM
  
 
Cùng Bạn ,
  
Hơi
         khá lâu chắc hẳn chúng ta cũng nhớ giây phút về "Góc Đường
         Thi " . Đọc Dạ Ẩm lòng tôi bỗng nhiên man mác buồn đồng cảm
         với người ly  hương , giải sầu bên chén rượu . Phải
         chăng đó cũng là tâm trạng chúng ta ? Mời Bạn chia sẻ
         và góp vần chơi . Cám ơn .
  Thân mến 
  Mailoc
   
 Dạ Ẩm
         
 Nguyên tác: Lý Thương Ẩn
 
         夜飲 
 李商隱 
 
 卜夜容衰鬢, 
 開筵屬異方。 
 燭分歌扇淚, 
 兩送酒船香。 
 江海三年客, 
 乾坤百戰場。 
 誰能醉酩酊, 
 淹臥劇清漳。 
 
 Dạ
         Ẩm 
 
 Lý Thương Ẩn 
 
 Bốc dạ dung suy mấn, 
 Khai diên thuộc dị phương. 
 Chúc phận
         ca phiến lệ, 
 Lưỡng tống tửu thuyền
         hương. 
 Giang hải tam niên khách, 
 Càn khôn bách
         chiến truờng. 
 Thùy năng túy mính
         đính, 
 Yêm ngọa kịch Thanh Chương
         
 
 Chú thích: 1/ bốc dạ, lấy
         ý từ thành ngữ “bốc trú bốc dạ”, nghĩa là uống
         rượu ban đêm. 2/ Thanh Chương, tên ngòi, nay ở phía đông
         tỉnh Sơn Tây, là một chi nhánh của sông Chương. 3/ Tác giả
         LTA có tài (đậu tiến sĩ, thơ để lại 3 quyển gồm 571
         bài), nhưng công danh lận đận, làm toàn chức nhỏ và đổi
         chỗ liền liền, ông chết khi tuổi mới 46. 
 
 --Dịch
         nghĩa:-- 
 
 Uống Rượu Ban Đêm
         
 
 Ban đêm uống rượu dung nhan tiều
         tụy ; 
 vì rượu uống nơi xứ người.
         
 Lời ca (của ai đó) làm ta cùng nến
         đều rơi lệ ; 
 đôi bên khóc
         với nhau qua hơi rượu trên thuyền. 
 Là
         khách lưu lạc sông hồ đã ba năm ; 
 trong
         trời đất đã uống say cả trăm trận. 
 Có
         ai say túy lúy như ta ; 
 nằm gục bên
         bờ ngòi Thanh Chương. 
 
 --Bản
         dịch của MaiLộc—
  
Mặt hao gầy rượu
         đêm uống mãi ,
Rượu
         tha hương tê tái say say .
Cùng ta nến khóc lệ dài 
Đôi bên tấm tức men say trên thuyền .
Khách ba năm triền miên sông nước ,
Giữa dất trời say khướt trăm khi .
Có ai ngất ngưởng li bì 
Như ta sóng sượt bên bờ Thanh Chương .
__________________________________________________________________
  
      
         
Mộ
         Quy - Đỗ Phủ
          
Mấy hôm nay đang đọc
         bài Mộ Quy của Đỗ Phủ. Một bài thơ Đường 8 câu
         7 chữ , phá cách ,không niêm luật. Âm ngữ , nghe như lục đục
         phá phách , muốn vượt thoát,  nhưng cuối cùng cũng đành
         chịu yên bề. Thú vị lắm. Mời đọc cho vui. Thân quí. PKT
         10/03/2013
  
Mộ Quy
 
Đỗ Phủ (712 - 770)
  
Sương hoàng bích ngô bạch hạc
         thê 
 Thành thượng kích thác phục ô đề
 Khách
         tử nhập môn nguyệt kiểu kiểu
 Thùy gia đảo luyện phong thê
         thê
 Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp
 Bắc quy Tần Xuyên
         đa cổ bề
 Niên quá bán bách bất xứng ý
 Minh nhật
         khán vân hoàn trượng lê  
  
Dịch Xuôi : Trở Về Lúc Chiều Tối 
         PKT 10/03/2013
          
Con hạc trắng đậu trên cành ngô xanh biếc, lá
         đã úa vàng vì sương thu 
 Trên thành , tiếng mõ
         điểm canh, lại thêm có tiếng quạ kêu
 Khách trở về
         , bước vào cửa , trăng sáng vằng vặc
 Nghe trong gió ,tiếng
         chày đập lụa nhà ai , buồn lê thê
 Muốn đi xuống miền
         Nam, qua  Quế Thủy , ngại  sông ít có thuyền bè chở qua
         
 Tính đi lên miền Bắc,  vượt Tần Xuyên,  sợ vùng
         nhiều trống trận, giặc giã 
 Tuổi quá nửa trăm rồi mà
         chuyện đời có được vừa ý đâu
 Sáng mai lại
         , chống gậy lê , đứng nhìn mây trời bay về 
  
Mộ
         Quy  
 PKT 10/03/2013
  
Hạc trắng sương thu vàng
         lá rụng ,
 Thành chiều mõ điểm quạ kêu vang .
 Người
         về cửa khách, trăng vằng vặc ,
 Lụa đập nhà ai , gió
         ngỡ ngàng.
 Ngược Bắc Tần Xuyên, nhiều giặc giã,
 Xuôi
         Nam Quế Thủy , thiếu đò ngang .
 Đời người quá nửa , 
         tri thiên mạng ,
 Mai sáng , đứng nhìn mây kéo sang.
  
Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com
  
Hạc đậu
         cành ngô, lá úa vàng
Trên thành
         mõ giục ,qua kêu vang
Khách về mở cửa,trăng
         vằng vặc
Lụa đập
         nhà ai tiếng rộn ràng
Quế Thủy xuôi Nam ,đò thiếu vắng
Tần Xuyên ngược Bắc giặc tràn
         lan
Tuổi đời
         quá nửa lòng chưa toại
Chống gậy nhìn trời mây phủ ngang
  
SONG  QUANG 
 (1)
TRỞ
         VỀ LÚC CHIỀU TỐI
  
Cành ngô xanh hạc trắng sương vàng ,
Qụa rộn trên thành tiếng mõ canh .
Người tới cửa trăng đà sáng
         quắc ,
Chày nhà
         ai não nuột đêm thanh .
Xuôi
         Nam sông Quế khan thuyền khách ,
Ngược Bắc dòng Tần rộn chiến tranh .
Thấm
         thoát nửa đời tay vẫn trắng ,
Ngày mai lê gậy ngắm mây xanh .(*)
  
                                                     
         Mailoc phỏng dịch
  
(*) chỉ là thơ 7 chử  xin miễn "đối "
(2)
  
Cành ngô xanh sương vàng hạc trắng
         ,
Tiếng qụa đêm , mõ vẳng
         thành đêm .
 Tới nhà trăng sáng mông mênh 
Chày ai gió lạnh càng thêm não nề
         .
Xuôi sông Quế thuyền thuê
         rất khó ,
Ngược dòng Tần
         lại có chiến tranh .
Nửa đời
         sự nghiệp chẳng thành ,
Sáng mai lê
         gậy nhìn quanh mây trời .
  
                                               
         Mailoc phỏng dịch
          
 Thân
         gởi anh Hữu Đức,
Cám ơn anh đã có hứng thú với thơ Ngô Thể. Sự
         thật thì Ngô Thể không phải dùng để chỉ một thể thơ
         chính quy trong thi ca, mà dùng để chỉ một Phong Cách Sáng Tác
         văn học đặc thù do Đỗ Phủ đề xướng mà thôi.
         
Người đời
         Tống gọi là " Ảo Tự Thi " 拗字詩, hoặc "Ảo Thể " 拗體 ( chữ ẢO
         拗 có nghĩa
         là Trúc trắc, trẹo lưỡi khó đọc ). Đến đời Thanh,
         thì Quế Phức gọi là " Ngô Quân Thể ", căn cứ vào
         thi nhân Ngô Quân đời Lương ( một nước trong thời Lục
         Triều trước đời Đường ), lúc bấy giờ Luật Thơ chưa
         thành hình, nhưng ông đã chú ý đến Bằng Trắc trong
         thơ Ngũ Ngôn, mặc dù chưa có Niêm Luật như đời Đường
         sau nầy, nhưng lời thơ đã thanh thoát suông sẽ mỹ lệ, nên
         được mọi người hưởng ứng mô phỏng, gọi là Ngô
         Quân Thể. Nhưng Quế Phức đã nhầm, vì lúc bấy giờ
         Luật Thi chưa được thành hình, và vì nếu mô phỏng
         Ngô Quân, thì Đỗ Phủ đã chú là " Ngô Quân Thể
         " rồi, tại sao chỉ nói gọn là " Ngô Thể " ?!
Khi ở Quỳ Châu, vì  có
         ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên 
         Đỗ Phủ mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Như
         ta đã biết 2 bài " SẦU " và " MỘ QUY ", mặc dù
         bức phá Niêm Luật, nhưng 2 cặp Thực và Luận đều công
         đối rất tề chỉnh, như :
.........   
  
 客子入門月皎皎,  Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,   
誰家搗練風淒淒。  Thùy gia đão luyện phong thê thê.
南渡桂水闕舟楫,  Nam độ
         Quế Thủy khuyết chu tiếp,   
北歸秦川多鼓鼙。  Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.   
..............................
 và... câu chú thích trong
         bài đầu tiên " Cưởng hí vi Ngô Thể "( Cưởng là
         Gượng ép, nên Cưởng Hí có nghĩa là Đùa chơi,
         Đùa Dai, là thơ làm theo thể Ngô ).   
Chữ NGÔ 吳 là Họ Ngô, nước
         Ngô, đồng âm với chữ NGÔ 吾 là Tôi. Nên, NGÔ THỂ 吾體 còn có nghĩa là
         Thể Thơ Của TÔI. và theo âm Quan Thoại, chữ NGÔ còn đồng
         âm với chữ VÔ 無, nên NGÔ THỂ cũng là VÔ THỂ 無體, tức là Không Theo
         Thể Thơ Nào Cả ! Đây có thể là một cách CHƠI CHỮ
         của Đỗ Phủ mà thôi :
" Cưởng hí vi Ngô Thể " là " Làm chơi
         theo thể của Tôi ", hoặc " Làm chơi không theo thể nào cả
         "....  Nhưng vì
         tiếng tăm của Đỗ Phủ rất lớn, nên trước sau đã
         có đến  6 nhà thơ hưởng ứng làm theo " Ngô Thể
         " nầy, gồm có Bì Nhựt Hưu, Lục Quy Mông đời Đường,
         Hoàng Đình Kiên, Hồ Đạm Yêm và Lục Du đời Tống,
         cuối cùng là Biên Liên Bảo đời Thanh.
Ta thử đọc một bài của Lục Quy
         Mông theo Ngô Thể nhé !
陸龜蒙: 新秋月夕客有自遠相尋者作吳體二首以贈
 Lục Quy Mông : TÂN THU NGUYỆT
         TỊCH KHÁCH HỮU TỰ VIỄN TƯƠNG TẦM GIẢ Tác Ngô Thể Nhị
         Thủ Dĩ Tặng.
   其一                              
           Kỳ Nhất
 風初寥寥月乍滿,   Phong sơ liêu liêu
         nguyệt sạ mãn,
 杉篁左右供餘清。   Sam hoàng tả hữu
         cung dư thanh.
 因君一話故山事,   Nhân quân nhất thoại
         cố sơn sự,
 憶鶴互應深溪聲。   Ức hạc hỗ ưng
         thâm khê thinh.
 雲門老森定未起,   Vân môn lão sâm
         định vị khởi,
 白閣道士遙相迎。   Bạch các đạo
         sĩ dao tương nghinh.
 日聞羽檄日夜急,   Nhựt văn vũ hịch
         nhựt dạ cấp,
 掉臂欲歸岩下行。   Điếu(trạo) bích
         dục quy nham hạ hành.
        其二                                
         Kỳ Nhị
 驚聞遠客訪良夜,   Kinh văn viễn khách
         phỏng lương dạ,
 扶病起坐綸巾攲。   Phù bệnh khởi tọa
         luân cân khi.
 清談白紵思悄悄,   Thanh đàm bạch trữ
         tư tiểu tiểu,
 玉繩銀漢光離離。   Ngọc thằng Ngân hán
         quang ly ly.
 三吳煙霧且如此,   Tam Ngô yên vụ thả như
         thử,
 百越琛賮來何時。   Bách Việt thâm tận lai hà thì.
 林端片月落未落,   Lâm đoan phiến nguyệt
         lạc vị lạc,
 強慰別情言後期。   Cưởng ủy biệt tình ngôn hậu kỳ.
Đã đến giờ đi
         làm, hẹn thơ sau nói tiếp.
                                                           
         Thân mến,
                                                        
         Đỗ Chiêu Đức
  
Công Nguyên 768 ( Năm Đại Lịch thứ 3 vua Đường
         Đại Tông ), lúc bấy giờ Đỗ Phủ đã 57 tuổi, đang
         ở Hồ Bắc. Trước đó, khi ở Quỳ Châu ông rất chú
         trọng đến Luật thơ và đã làm rất nhiều bài thơ
         Niêm Luật thật nghiêm cẩn, như 8 bài Thu Hứng....Đồng thời
         cũng trong thời gian nầy, ông có ý nghĩ muốn bức phá sự
         trói buộc của Niêm Luật, nên mới muốn thử làm ra một thể
         thơ mới. Một hôm, ông làm ra một bài thơ Phi Cổ Phi Luật
         ( không phải Cổ Thi mà cũng không phải Luật Thi ) có tựa là
         " SẦU " , phía dưới ghi chú là " Cường hí vi Ngô
         Thể " ( Đùa rằng đây là thơ NGÔ THỂ ). Tiếp đó
         , ông lại làm thêm 17, 18 bài như thế nữa, và vì thế
         mà trong Đường Thi lại thêm một thể loại : Thơ NGÔ THỂ.
          " MỘ QUY " 《暮歸》 chính là thơ Ngô Thể được Đỗ Phủ
         làm khi đang ở Hồ Bắc . 
                    
          暮歸                          
          MỘ QUY
                     
          杜甫                                 
           Đỗ Phủ.
     霜黄碧梧白鶴棲,  Sương hoàng bích
         ngô bạch hạc thê,
     城上擊柝複烏啼。  Thành thượng kích thác phục ô đề.
  客子入門月皎皎,  Khách tử nhập môn
         nguyệt giảo giảo,
     誰家搗練風淒淒。  Thùy gia đão luyện
         phong thê thê.
  南渡桂水闕舟楫,  Nam độ Quế Thủy khuyết
         chu tiếp,
     北歸秦川多鼓鼙。  Bắc quy Tần Xuyên đa
         cổ bề.
  年過半百不稱意,  Niên quá bán bách
         bất xứng ý,
     明日看雲還杖藜。  Minh nhựt khan vân hoàn trượng lê.
 Chú
         Thích :
          Hoàng : Còn đọc là HUỲNH,
         màu vàng, ở đây là Động Từ, nê có nghĩa là
         Làm Cho Vàng, Nhuộm Vàng.
      Thác : là Cái Mõ
         Canh, nên Kích Thác : Gõ Mõ Canh .
         Nguyệt
         Giảo Giảo : là Trăng sáng vằng vặc.
        
         Đão Luyện : Dùng chày để đập cho tơ mềm ra để
         giặt cho thành lụa, chuẩn bị may áo mùa đông.
         
         Phong Thê Thê : Gió hắt hiu.
          Tiếp :
         là Mái Chèo. Khuyết Chu Tiếp : là Thiếu Mái Chèo của Thuyền.
         Không phải là thuyền không có mái chèo, mà là không
         có TIỀN để thuê một thuyền chèo.
         
         Cổ Bề : là Trống trận. Đa Cổ Bề : Nhiều trống trận. Có
         nghĩa : Có nhiều trận đánh nhau với quân Thổ Phồn.
         
         Trượng Lê : Chống gậy Lê. Lê là một loại thảo mộc,
         có thân cứng và dẽo như Cây Mây, nên dùng làm gậy
         cho chắc và nhẹ.
 Dịch Nghĩa :
  CHIỀU VỀ 
         ( Nhà Trọ )
          Bạch Hạc đậu trên
         cành ngô đồng đã vàng lá vì sương thu lạnh lẽo,
         trên thành tiếng mõ đã bắt đầu điểm canh lẫn với
         tiếng quạ kêu sương. Khách trở về nhà trọ, vào cửa
         trong lúc ánh trăng đã vằng vặc ngoài trời, trong khi đó
         tiếng chày giặc lụa của nhà ai còn vang vang trong gió thu hiu hắt.
         Ta muốn xuôi Nam qua dòng Quế Thủy nhưng lại không đủ sức
         thuê thuyền, muốn trở về đất Bắc ở Tần Xuyên thì giặc
         giã chiến tranh, trống trận nổi lên liên miên không dứt. Quá
         nửa đời người không có chuyện gì xứng ý toại lòng
         cả ! Thôi thì, ngày mai lại phải chống gậy mà ngắm mây
         trời xa xa để thương nhớ về cố hương mà thôi !
Diễn Nôm :
                 
         CHIỀU VỀ
                           Hạc
         trắng đậu cành ngô vàng sương lạnh,
                  
         Quạ đen kêu tiếng mõ báo canh tàn.
                  
         Khách vào nhà đón trăng sáng miên mang
                  
         Tiếng chày giặt lẫn gió buồn thê thiết.
                  
         Muốn về nam không tiền xuôi Quế Thủy,
                  
         Bắc Tần Xuyên giục giã trống quân vang.
                  
         Quá năm mươi còn lưu lạc chưa an ,      
                  
         Ngày mai lại gậy lê nhìn mây trắng !
                                                                  
         Đỗ Chiêu Đức.
 
         Sầu - Cưỡng hí
         vi Ngô thể     
          
               
 
Nguyên
         văn chữ Hán  | Phiên âm Hán-Việt  | Bản dịch của Nhượng Tống  | 
愁-強戲為吳體
  江草日日喚愁生, 巫峽泠泠非世情。 盤渦鷺浴底心性, 獨樹花發自分明。 十年戎馬暗萬國, 異域賓客老孤城。 渭水秦山得見否, 人經罷病虎縱橫。  | Sầu
           - Cưỡng hí vi Ngô thể
  Giang thảo nhật nhật hoán sầu sinh,    Vu Giáp
         linh linh phi thế tình.    Bàn oa lộ dục để tâm tính, Độc
         thụ hoa phát tự phân minh.    Thập niên nhung mã âm vạn quốc,    Dị vực tân khách lão cô thành.    Vị thuỷ Tần sơn
         đắc kiến phủ, Nhân kinh bãi bệnh hổ tung hoành.  | Sầu   - Đùa làm theo thể Ngô
     Cỏ sông ngày ngày
         khéo gọi sầu    Non Vu lạnh ngắt muốn trêu nhau    Cây một
         hoa nở ra rực rỡ Nước xoáy cò lội thấy đục ngầu    Mười năm muôn nước loạn dài mãi Đất lạ thân
         già ốm bấy lâu    Sông Vị núi Tần về chẳng được    Người thì mệt lử, hùm nhâu nhâu.  | 
 
  
        CHIỀU TRỞ VỀ NHÀ
  
Hạc đậu cành ngô lá úa sương
Quạ kêu xen tiếng mõ canh trường
Khách về, cửa mở, trăng vằng vặc
Lụa đập, gió đưa, nỗi cảm thương
Lên Bắc- Tần Xuyên- nhiều trống giặc
Xuống Nam - Quế Thủy- ít đò thương
Đời người quá nửa , chưa như ý
Sáng đến nhìn mây dạ vấn vương.
Lộc Mai
  
Buồn- Đành Đến Với Thể Song thất Lục Bát
 
 Cỏ sông buồn ngày ngày réo gọi
Hẻm Vu Sơn tối tối trêu ai
Sóng cuồng cò tắm mê say
Kia rồi một đóa hoa khai trên cành
Mười năm loạn muôn dân nặng gánh
Khổ thân già ốm lạnh tha phương
Núi Tần sông Vị nhớ
         thương
Một
         mai thoát bệnh cọp dương danh hùng
Quên Đi
________________________________________________
  
      
         
THU TỨ                                            
                 
         
  
Cùng Bạn 
Trời đã thật sự vào thu ! Cali buổi sáng
         mây giăng mờ ,buổi trưa nắng cũng  nghiêng nghiêng  ui ui ,yếu
         ớt , buổi chiều  hơi thu lành lạnh , với gió heo may , buồn
         buồn khó tả . Bài thơ ý thu dưới đây của Bạch cư
         Dị chỉ võn vẹn 8 câu mà diển tả đủ thứ , từ trời
         trăng mây nước , tiếng động mùa thu ... kể cả nỗi
         lòng mình ; đọc xong tôi thật ngẩn ngơ , xin mời Bạn cùng
         chia xẻ.
  
Thu Tứ 
 Nguyên tác: Bạch
         Cư Dị
 
 秋 思 
 
 夕 照 紅 于 燒 
 晴 空 碧 勝 藍 
 獸 形 雲 不 一 
 弓 勢 月 初 三 
 雁 思 來 天 北 
 砧 愁 滿 水 南 
 蕭 條 秋 氣 味 
 未 老 已 深 諳 
 
 白 居 易 
 
 Thu Tứ 
 
 Tịch
         chiếu hồng vu thiếu 
 Tình không bích thắng lam 
 Thú hình vân bất
         nhất 
 Cung thế nguyệt sơ tam 
         Nhạn tứ lai thiên bắc 
 Châm sầu mãn
         thủy nam 
 Tiêu điều thu khí vị 
 Vị lão dĩ thâm am 
 
 Bạch
         Cư Dị 
 
 --Dịch
         Nghĩa-- 
 
 (ý thu) 
 
 (nắng chiều chiếu ánh đỏ như
         thiêu đốt) 
 (bầu trời tạnh ráo sắc xanh nhiều hơn sắc lam) 
 (mây đổi thay hình dạng các
         thú vật) 
 (trăng mùng ba có hình cánh cung) 
 (ý nhạn muốn bay
         lên mạn bắc) 
 (tiếng chầy làm buồn bã vùng sông phía nam)
         
 (khí
         vị mùa thu thực là buồn bã) 
 (chưa già nhưng đã hiểu
         biết nhiều) 
 
 --Bản dịch của MaiLộc-- 
 
 Ý
         Thu
  
Nắng chiều
         hồng mặt trời đỏ thắm 
Xanh biếc trời vương vấn chút lam .
Trong mây hình thú hợp tan 
Mồng ba , liềm mỏng trăng đang tượng hình .
Ngóng về bắc viễn chinh cánh nhạn 
Tiếng chày buồn lãng đãng sông Nam .
Hơi thu sầu thảm không gian 
Chưa già mà đã mênh mang hiểu đời .
Mailoc
         phỏng dịch
Cali 9-22-13 
  
Ý  THU (xin phỏng dịch)
  
Nắng chiều thiêu đốt
         bóng ngày tan
Trời ửng
         màu xanh ẩn chút lam
Mây đổi dạng hình muôn vạn thú
Trời thay lưỡi hái mồng
         ba trăng.
Nhạn
         tung cánh mỏi về phương Bắc
Chày vọng sông buồn vẳng phía Nam
Cảnh vật mùa thu hiu quạnh
         quá
Chưa
         già mà hiểu biết mênh mang.
  
Quang Tuấn 22/9/13
  
Cảm Nhận Mùa Thu
 
 Nắng chiều như lửa đỏ
 Xanh biếc khoảng trời
         trong
 Mây biến hình muôn thú
 Mùng Ba dáng nguyệt cong
         Nhạn mơ về mạn bắc
 Chày nhịp buồn nam sông
 Xơ Xác
         tình thu úa
 Trẻ nhưng trí chẳng nông
                          
         Quên Đi
 
         HƠI THU
  
Đỏ
         rực ráng ngời như lửa thiêu
Bầu trời xanh loãng sắc lam chiều
Mây mang dạng thú muôn hình vẻ
Trăng uốn liềm cong một bóng
         xiêu
Chầy nhịp
         sông Nam âm khắc khoải
Nhạn
         về phương Bắc dáng cô liêu
Hơi thu ảm đạm sầu giăng ngập
Chưa lão, lòng đầy nỗi tịch
         liêu.
  
Lộc
         Mai
  
                                       
          Ý  THU
          
Nắng
         vàng rực đỏ lúc chiều buông !
Xanh biếc da trới
         điểm sắc trong
Mây đổi hình thù muôn
         vạn thú
Trăng mùng ba ló dạng cung cong
Nhạn bay về bắc dang đôi cánh
Chày
         nhịp phương nam vọng bên sông
Cảnh vật 
         hơi thu sầu quạnh quẻ
Đâu già sự việc
         hiểu càng thông ! 
  
SONG 
         QUANG
  
Kính Thầy,
   " Thu
         Tứ " của Bạch Cư Dị mà Thầy nêu lên là bài 2. Sau
         đây em xin " trình làng " cả 2 bài tìm thấy trên mạng
         như sau :
  
                 
          秋思                   
          THU TỨ
               
           白居易                 
         Bạch Cư Dị
  其一:           Bài 1 :
  
  病眠夜少夢,      Bệnh miên
         dạ thiểu mộng,
         閑立秋多思。      Nhàn lập thu đa tứ.
   寂寞馀雨晴,      Tịch mịch dư vũ
         tình,
         蕭條早寒至。      Tiêu điều tảo hàn chí.
   鳥棲紅葉樹,      Điểu thê
         hồng diệp thụ,
         月照青苔地。      Nguyệt chiếu thanh đài địa.
   何況鏡中年,      Hà huống
         kính trung niên,
         又過三十二。      Hựu quá tam thập nhị.
  
          其二:          
         Bài 2 :
  
  夕照紅於燒,      Tịch chiếu hồng ư thiêu,
         晴空碧勝藍。      Tình không
         bích thắng lam.
   獸形雲不一,      Thú hình
         vân bất nhất,
         弓勢月初三。      Cung thế nguyệt sơ tam.
   雁思來天北,      Nhạn tứ
         lai thiên bắc,
         砧愁滿水南。      Châm sầu mãn thủy nam.
           蕭條秋氣味,      Tiêu điều
         thu khí vị,
         未老已深諳。     
         Vị lão dĩ thâm am.
  
 Dịch
         nghĩa :
                                   
         TỨ THU
        
         Bài 1 : 
  Vì bệnh hoạn nên đêm ngủ mê man ít
         mộng mị, đứng một mình trong cảnh thu nên nhiều ưu tư. Sau
         cơn mưa, nắng lên trong trong hoang vắng tịch liêu, cảnh trí tiêu
         điều trong cái hơi lạnh đến sớm. Chim chóc đậu trên
         những cây lá đã trở màu đỏ, và ánh trăng chiếu
         lên những mảng rêu xanh trên mặt đất. Huống gì tuổi tác
         trong gương cũng đã qua tuổi trung niên  ( tuổi đã vào
         thu, lúc bấy giờ tuổi thọ của người đời chỉ khoảng
         45 ), giờ lại qua tuổi 32 rồi !       
        Bài 2 :
                     
         Ráng chiều làm cho phía trời tây đỏ rang như cháy, Trời
         quang mây tạnh nên bầu trời xanh biếc hơn lam. Ngàn đám mây
         nổi muôn hình dạng trạng như muôn thú thay đổi bất nhất,
         Trăng mùng 3 treo nghiêng nghiêng thế tựa cánh cung. Nhạn đã
         bay xuống nam còn nhớ về trời bắc. Tiếng chày giặt áo bên
         sông buồn buồn vang lên bên sông nước tràn đầy bờ phía
         nam. Trong cảnh tiêu điều buồn bã nầy đã có chút gì
         hơi hám của mùa thu phảng phất, Chưa già nhưng đã âm
         thầm thấu hiểu một cách sâu xa cái ý vị của mùa thu
         !  
  
 Diễn Nôm :
                                 
         Ý  THU
                   
         Bệnh hoạn mê mang không mộng,
                   
         Nhàn trông nên lắm ý thu.
                   
         Tịch mịch sau mưa nắng chiếu,
                   
         Tiêu điều sớm lạnh gió ru.
                   
         Chim hót trên cành lá đỏ,
                   
         Trăng soi mặt đất rêu đầy.
                   
         Trông gương tuổi đời đã luống,
                   
         Qua rồi tam thập nhị đây.
                                 
         ..........
                   
         Ráng chiều đỏ rang như cháy,
                   
         Xanh lơ trời thẳm hơn lam.
                   
         Vạn trạng thú hình mây nổi,
                   
         Như cung trăng đã sơ tam.
                   
         Nhạn nam mơ về đất bắc,
                   
         Chày buồn nước ngập sông nam.
                   
         Tiêu điều hơi thu hiu hắt,
                   
         Chưa già cảm xúc sớm am !
                                                       
         Đỗ Chiêu Đức.      
  
        
  
      
         
Lữ Dạ Thư
         Hoài - Đỗ Phủ
  
Miên man trong dòng thơ Đỗ Phủ , bài Lữ
         Dạ Thư Hoài , những gì dành trọn cả một thời xuân theo
         đuổi,  không thành , bỗng dưng nay lại trở nên vô nghĩa
         . Chỉ còn là trước mặt một khoảng trống mênh mang và trong
         lòng, một nỗi cô đơn cùng cực của một đời người
         lúc về già. Như Tô Đông Pha (1037 - 1101) trong một từ khúc :
         " Phiếu điểu cô hồng ảnh ...Tịch mịch sa châu lãnh ".
         Một bóng chim hồng lẻ loi trong vùng trời phiêu lãng ...Cồn sông
         cát lạnh im lìm.  PKT 09/24/2013
  
Lữ Dạ Thư Hoài
 Đỗ Phủ (712 - 770)
Tế thảo vi phong ngạn
 Nguy
         tường độc dạ chu
 Tinh thùy bình dã khoát
 Nguyệt
         dũng đại giang lưu
 Danh khởi văn chương trứ
 Quan ưng lão
         bệnh hưu
 Phiêu phiêu hà sở tự
 Thiên địa nhất
         sa âu
          
Dịch Xuôi : 
          
Đôi Dòng Tâm Sự Trong Một Đêm Ở
         Nơi Đất Khách
 PKT 09/24/2013
  
Bờ
         cỏ xanh non trong làn gió thoảng nhẹ 
 Một con thuyền với chiếc
         cột buồm cao lẻ loi giữa đêm vắng
 Sao trời rũ chùm , trông
         như muốn rụng xuống cánh đồng hoang bát ngát
 Ánh trăng
         tan tràn lan trên dòng sông lớn đang cuồn cuộn trôi
 Ta há
         cầu danh bằng trước tác văn chương sao
 Còn làm quan mà
         già yếu bệnh hoạn thế này thì cũng nên về nghỉ cho rồi
 Thân phận lênh đênh , thật tình ta  giống như cái gì
         đây nhỉ
 Một con chim âu, lạc bầy, đứng chơ vơ trên
         cồn cát lạnh, giữa đất trời 
  
Lữ Dạ Thư Hoài
 PKT 09/24/2013
  
Bờ
         cỏ non phất phơ làn gió nhẹ ,
 Cột buồm cao lạc lõng giữa
         đêm thâu.
 Vòm sao rụng ngập đầy cánh đồng vắng,
 Sóng trăng tan cuồn cuộn trôi về đâu ?
 Há cầu chút
         danh văn chương phù phiếm  ,
 Thôi ,già yếu rồi ,từ quan
         cho xong.
 Cái thân long đong ,nửa đời phiêu bạt ,
 Con âu
         bóng lẻ , trời đất mênh mông !
  
Recording My Thoughts While Traveling At Night
 Translated By Red Pine - Poems Of
         The Masters
  
 A shore of thin reeds in light wind ,
 a tall boat alone at night ,
 stars hang over
         the barren land ,
 the moon rises out of the Yangtze .
 How could writing ever lead to fame ,
 I quit my post
         due to illness and age ,
 drifting along what am I like ,
 a solitairy gull between Heaven and Earth ,
  
 Tri Khac Pham
 Phamid1934@gmail.com
  
Nỗi Niềm Đêm Đất
         Khách
 (1)
Ven bờ cỏ dợn , gió hiu hiu 
Thuyền lẽ , buồm đêm lướt
         sóng triều .
Đồng
         vắng , trời cao sao lấp lánh ,
Trăng rơi , sông rộng nước cuồn lưu .
  
Văn
         chương siêu thoát danh lừng lẫy ?
Bệnh hoạn tuổi già  phải
         cáo hưu .
Bỗng thấy phiêu phiêu vòng tục lụy ,
Mênh mông trời đất cánh
         chim chiều .
                                          
         Mailoc phỏng dịch
  (2)
Bờ cỏ non , vờn theo gió nhẹ 
Cánh buồm đêm lặng lẽ trời đêm .
Đồng hoang sao rụng mông mênh ,
Ánh trăng loang loáng cuộn trên
         sông dài .
          
Danh tiếng hẳn văn tài lừng lẫy ,
Tuổi về chiều bệnh phải cáo
         hưu .
Chơi vơi giữa chốn hoang liêu ,
Bao la trời đất cánh diều cô
         đon .
  
                                    
         ML
  
BUỒN
         THU ĐÊM XA XĂM
 
  
                     Cỏ xác xơ bờ vắng
        
               Buông thuyền đêm dài ghê
          
             Ngàn sao buồn rơi rụng
               Trăng
         trôi sông lạnh tê
               Văn chương
         danh suông hão
               Lão bệnh cũng nên
         về
               Chơi vơi đi đâu nữa
                       Cánh chim âu mỏi mê
 
  
                               C.D.M.
  
Đêm Đất khách
  
Cỏ non phơ phất
         gió đưa
Lẻ loi buồm
         gió chèo khua đêm dài
Đồng hoang sao rụng u hoài
Ánh trăng tan giữa sông ngài ngại trôi
  
Lợi danh phù phiếm trong đời
Tháng năm già yếu thật rồi
         từ quan
Nửa đời phiêu
         bạt lang thang
Một con chim
         lẻ lạc đàn về đâu ?
  
 Trầm Vân
  
 Tháng Tư Vĩnh Thái nguyên niên
         ( 765 ), Nghiêm Võ tạ thế, Đỗ Phủ mất nơi nương tựa.
         Tháng 5, Mới dắt díu gia quyến xuống thuyền rời khỏi Thành
         Đô sau 5 năm định cư nơi đất Thục, xuôi về đông,
         phiêu bạc trên Miên Giang Trường Giang một giải. Khoảng sau Trung Thu
         năm đó, lại tiếp tục đi xuống Vân An ( Nay là Vân Dương
         ). Chính trên đường đi nầy, ông sáng tác bài " Lữ
         Dạ Thư Hoài " (  Viết về những hoài cảm của mình trên
         bước lữ hành ), để nói lên cái cảm khái của một
         đời phiêu bạc, có tài nhưng lại chẳng gặp thời !
  
  旅夜書懷         
          LỮ DẠ THƯ HOÀI
  
細草微風岸,    Tế thảo vi phong ngạn,
 危檣獨夜舟。    Nguy tường độc dạ chu.
 星垂平野闊,    Tinh thùy bình dã khoát,
 月湧大江流。    Nguyệt dũng đại giang lưu.
 名豈文章著?    Danh khởi văn chương trứ ?
 官應老病休。    Quan ưng lão bệnh hưu.
 飄飄何所似?    Phiêu phiêu hà sở tự ?
 天地一沙鷗。    Thiên địa nhất sa âu.
       
         杜甫                    
         Đỗ Phủ.
  
Dịch
         Nghĩa :
  
                    HOÀI
         CẢM ĐÊM LỮ HÀNH.  
  
        Gió hiu hiu thổi lên đám cỏ non
         bên bờ sông, đêm xuống, thuyền đậu bến, ta ngồi dưới
         cột buồm cao cao nhìn bầu trời đầy sao lắp lánh, nên cảm
         thấy cánh đồng trước mắt như mênh mông hơn. Bóng trăng
         dường như từ trong nước chiếu ra lắp lánh theo dòng. Văn chương
         có phải làm nên được tiếng tăm chăng? Quan trường thì
         vì bệnh tật mà phải cáo hưu. Một đời phiêu bạc khắp
         nơi với mục đích gì đây ? Chỉ còn lại cảm giác
         cô đơn như cánh hãi âu cô độc trong trời đất mênh
         mông mà thôi !
  Lấy cột buồm cao cao so sánh với thân lẻ
         loi cô độc của mình, lấy bầu trời cao với trăng sao để
         thấy sự nhỏ nhoi của con người, lại lấy cánh đồng mênh
         mông để giải bày uẩn khúc ở nội tâm. 4 câu đầu
         là " LỮ DẠ ", lấy cảnh để ngụ tình. 4 câu sau là
         " THƯ HOÀI ", nói lên cái hoài bảo và cảm xúc của
         mình, không ngờ là nhờ văn chương mà được nổi
         tiếng, trong khi chính trường thì vì bệnh tật, già cả mà
         phải bị từ quan, thương cảm cho tấm thân phải phiêu bạc khắp
         nơi không nơi nương tựa, lời thơ bi thiết như tiếng thở
         dài !...
  
 Diễn Nôm :
                    
         Vi vút gió đùa cỏ dại,
                    
         Cao cao buồm trống cột không.
                    
         Sao trời như chùn xuống thấp,
                    
         Nước trăng lắp lánh về đông.
                    
         Văn chương làm nên danh giá ?
                    
         Lão bệnh quan trường hết mong,
                    
         Phiêu bạt phương trời ai biết ?
                    
         Hải âu, trời biển mênh mông !
                                                        
         Đỗ Chiêu Đức 
  
 ĐÊM
         THU BUỒN LỮ QUÁN
  
Gió
         nhẹ thổi phất phơ đấu ngọn cỏ
Cột
         buồm cao trơ trọi giữa đêm sương
Có
         chùm sao rơi rung xuống đồng hoang
Trăng loang loáng
         trên dòng sông cuộn chảy
Mưu danh lợi bằng
         văn chương sao phải ??
Thân đã già nên
         cáo bệnh từ quan
Sống lênh đênh, đời
         lữ khách lang thang
Như trong bão có chim âu
         lạc bạn.
  
SONG  QUANG
________________________________________________________________
  
      
         
Phong vũ
         vãn bạc 
 
 
 
  
 
  
Cùng
         Bạn ,
  
Chiều
         thứ bảy buồn , đọc bài thơ nầy lòng tôi vô cùng cảm
         khái ,phỏng dịch gởi đến bạn thân đọc chơi . Qua cảnh
         vật nên thơ của Đất Trời  , thi nhân cảm xúc gởi lòng
         mình qua vài câu thơ nhưng nghe thấm thía vô cùng .
  
Thân mến 
  
Mailoc
          
 
  
Phong vũ
         vãn bạc
 
 Nguyên
         tác: Bạch Cư Dị
 
 風雨晚泊 
 
 白居易 
 
 苦竹林邊蘆葦叢, 
 停舟一望思無窮. 
 青苔撲地連春雨, 
 白浪掀天盡日風. 
 忽忽百年行欲半, 
 茫茫萬事坐成空. 
 此生飄蕩何時定? 
 一縷鴻毛天地中. 
  
 Phong vũ vãn bạc 
 
 Bạch Cư Dị 
 
 khổ trúc lâm biên lô vi tùng, 
 đình chu nhất vọng tư
         vô cùng . 
 thanh đài phác địa liên xuân vũ, 
 bạch
         lãng hiên thiên tận nhật phong. 
 hốt hốt bách niên hành
         dục bán, 
 mang mang vạn sự toạ thành không. 
 thử sinh phiêu
         đãng hà thì định? 
 nhất lũ hồng mao thiên địa
         trung. 
 
 -Bản dịch của Tản Đà 
 
 Rừng
         tre khóm sậy thú bên sông 
 Đỗ lại con thuyền bát ngát
         trông 
 Mưa cữ, rêu xuân xanh đất giải 
 Ngày thâu, sóng
         gió bạc trời tung 
 Trăm năm phút chốc toàn non nửa 
 Muôn
         việc trần gian có hoá không 
 Xiêu giạt bao giờ yên chốn
         nhỉ ? 
 Sống trong trời đất một lông hông 
 
 --Bản
         dịch của MaiLộc—
  
Bên
         bờ lau , trúc tre xào xạc ,
Buộc
         con thuyền , bát ngát vời trông .
Mưa xuân đất phủ rêu phong 
Suốt ngày sóng gió bọt tung trắng trời .
Tuổi trăm năm nửa đời chớp nhoáng ,
Muôn việc trần thấp thoáng có không .
Bao giờ thôi hết bềnh bồng ?
Giữa trời lơ lửng lông hồng nhẹ
         tênh .
  
              ĐẬU
         THUYỀN CHIỀU MƯA GIÓ
 
           Bụi lau khóm trúc
         giữa mênh mông
           Thuyền nhỏ xa mờ lãng đãng
         trông
           Mưa suốt mùa xuân rêu xanh sắc
           Ngày dài gió lộng sóng không cùng
           Trăm năm chớp mắt qua già nửa
    
               Muôn việc rồi ra cũng hoá không
        
           Rốt lại đời ta lang thang mãi
           Như lông
         hồng lơ lửng từng không
 
                
                        C.D.M.
 
 
 SQ cũng xin mua vui cùng các bạn "vườn
         thơ thẩn"
  
Để
         không vượt qua ý người xưa,SQ cũng chỉ lượm lặt ghép
         lại mà thôi.Mong lượng thứ.SQ
          
  GIÓ MƯA TỰ
         VẤN
  
 Ven bờ lau sậy mọc thong dong
Một chiếc thuyền con dõi mắt trông
Mưa đổ tiết Xuân rêu
         sắc thắm
Gió lay
         ngày cuối sóng lung tung
Trăm
         năm mấy chốc, giờ hơn nữa
Vạn sự rồi qua , có tựa không
Phiêu lãng bao giờ ta cố định ???
Đất trời nhẹ thể một
         lông hồng !!
  
  SONG QUANG
  
風雨晚泊              
          PHONG VŨ VÃN BẠC
                
         白居易                                 
           Bạch Cư Dị
 苦竹林邊蘆葦叢,    Khổ trúc lâm
         biên lô vi tùng,
 停舟一望思無窮。    Đình chu nhất
         vọng tứ vô cùng.
 青苔撲地連春雨,    Thanh đài phác
         địa liên xuân vũ,
 白浪掀天盡日風。    Bạch lãng hiên thiên tận nhật
         phong.
 忽忽百年行欲半,    Hốt hốt bách
         niên hành dục bán,
 茫茫萬事坐成空。    Mang mang vạn sự tọa thành không.
 此生飄蕩何時定?    Thử sanh phiêu đãng
         hà thời định ?
 一縷鴻毛天地中.        Nhất lũ hồng mao thiên
         địa trung.
  
 Chú Thích :
       
         Khổ Trúc : Tên một loại tre, như cây lồ ồ của ta.
       
         Phác địa : Phủ đấy đất.
        Hiên
         Thiên : Cuốn lên trời.
        Hốt Hốt : Bổng
         chốc, Vội vả.
        Mang Mang : Mênh mông , Mờ Mịt,
         Mơ hồ.
        Nhất Lũ Hồng Mao : Một sợi lông
         hồng.
  
Dịch Nghĩa
         :
                    ĐẬU
         THUYỀN ĐÊM MƯA GIÓ.
           Bên rừng
         tre sát ven bờ lao sậy, ta dừng thuyền bên bến nhìn cảnh vật
         mà tâm tư xúc động vô cùng. Rêu xanh phủ đầy đất
         trong bầu trời lấm tấm mưa xuân, ngoài khơi sống bạc đầu
         như cuốn đến tận chân trời trong cơn gió lộng suốt ngày.
         Cuộc đời trăm năm thoáng chốc mà đã qua hết phân nửa
         rồi, và muôn sự ở đời như mênh mông mờ mịt chẳng
         có thành đạt gì. Cuộc sống phiêu bạc nổi trôi nầy
         phải đến lúc nào mới ổn định được đây ? Ôi
         thân ta khác nào sợi lông hồng đang lãng đãng phiêu bồng
         trong trời đất.
  
   Diễn Nôm :
                         
         Rừng trúc xạt xào khua lao sậy,
                         
         Dừng thuyền cảm xúc cảnh vô cùng.
                         
         Rêu xanh phủ đất mưa xuân ướt.
                         
         Sóng bạc ngất trời gió lộng tung. 
                         
         Thoáng chốc trăm năm đà quá nửa, 
                         
         Mơ hồ vạn sự cũng thành không.
                         
         Kiếp nầy phiêu bạc khi nào nghỉ ?
                         
         Một sợi tơ trời lãng đãng trông.  
                                                           
         Đỗ Chiêu Đức.           
         
  
 Thưa quí Thi hữu
  
 Tôi xin cố gắng nương theo ý tác giả được 
         gần chừng nào hay chừng nấy mà dich bài này để cùng
         nhau góp vui với qui bạn
 
 Thân chào
  Quang Tuấn
  
  
 NEO THUYỀN TRÊN BẾN MƯA
  
 Lau trúc mọc
         đầy khắp dải sông
 Cho thuyền đỗ bến xa vời trông.
 Mưa Xuân dầm đất rêu xanh biếc
 Gió lộng tung
         trời sóng trắng trong.
 Thấm thoát trăm năm qua quá
         nửa
 Miên man vạn sự trở thành không.
 Bao
         giờ yên ổn đời phiêu lãng?
 Nhẹ bổng chiếc lông
         cõi mịt mùng .
  
 Quang
         Tuấn
  
  
 Quên
         Đi xin góp đôi dòng:
 
 Đường hoạn lộ của Bạch
         Cư Dị cũng lắm gian nan. Đang tước trọng quyền cao ở triều đình,
         từ từ bị giáng xuống làm một viên quan coi việc quân ở
         tận huyện Giang Châu. Có phải đây lả tâm trạng của Ông
         trong bài "Phong Vũ Vãn Bạc"?
 
       風雨晚泊               
         Phong vũ vãn bạc
  
           
           白居易             
                          Bạch Cư Dị
 
 苦竹林邊蘆葦叢, Khổ trúc lâm biên lô
         vĩ tùng
 停舟一望思無窮。 Đình chu nhất vọng tứ
         vô cùng
 青苔撲地連春雨, Thanh đài phác địa
         liên xuân vũ
 白浪掀天盡日風。 Bạch lãng hiên thiên tận
         nhật phong
 忽忽百年行欲半, Hốt hốt bách niên hành
         dục bán
 茫茫萬事坐成空。 Mang mang vạn sự tọa thành
         không
 此生飄蕩何時定, Thử sinh phiêu đãng hà
         thời định
 一縷鴻毛天地中    Nhất lũ hồng
         mao thiên địa trung
 
 Dịch Nghĩa : Neo Thuyền Đêm
         Mưa Gió
                
 Đám
         sậy cạnh bên rừng tre 
 Thuyền đã dừng lại, bồi hồi
         nhìn về chốn xa xăm 
 Mưa xuân liên tiếp khiến rêu xanh phủ
         đầy mặt đất
 Sóng bạc đầu như được gió
         nâng lên trời lúc cuối ngày
 Thoáng chốc trăm năm đi
         qua muốn nửa 
 Tràn ngập muôn việc trên đời lại phải
         ngồi không
 Cuộc sống trôi giạt bao giờ mới ổn định
 Hay như những chiếc lông hồng giữa đất trời.
 
 Dịch
         Thơ :
 
      Neo Thuyền Đêm
         Mưa Gió
 
 Bên cạnh rừng tre
         chen chúc sậy
 Dừng thuyền xao xuyến vợi vời trông
 Mưa xuân ẩm đất rêu xanh phủ
 Sóng gió
         nước đùa trắng cả sông
 Thoáng chốc trăm năm đà
         được nửa
 Ngập tràn muôn việc lại ngồi không
 Bao
         giờ ổn định thân trôi giạt
 Hay mãi lưng trời tựa chiếc
         lông
                                    
                     Quên Đi
  
 NEO THUYỀN ĐÊM
         MƯA
 
Neo thuyền bên đám sậy chen dầy
Ngơ ngẩn nhìn về chốn
         cuối mây
Thấm đẫm
         mưa xuân, rêu phủ đất
Tung trào sóng bạc, gió đưa ngày
Nửa đời thấm thoát, chưa yên
         phận
Mọi việc
         bời bời, vẫn bó tay
Như
         chiếc lông hồng trong vũ trụ
Đời ta ổn định lúc nào đây?
  
                   
            Lộc Mai
  
      
         
Tam Quốc
         Diễn Nghĩa Đề Từ
 
         
  Nguyên tác: Dương Thận
Bản dịch: Phạm Khắc Trí,
         Quên Đi, Chân Diện Mục, Mỹ Hồng
_____________________________________________
 
  
Được sự đồng cảm trong thơ
         xưa là một niềm vui. Tôi ngồi chép lại một bài thơ xưa
         để thay lời cám ơn.Cầu chúc an lành. 
PKT
         08/22/2013
          
Tam Quốc Diễn Nghĩa
         Đề Từ
         Dương Thận (1488 - 1559)
  
Cổn cổn Trường giang đông
         thệ thủy
 Lãng hoa đào tận anh hùng
 Thị phi thành bại chuyển đầu không
 Thanh sơn y cựu tại 
 Kỷ độ tịch dương hồng
  
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng
 Quán khan
         thu nguyệt xuân phong
 Nhất hồ trọc
         tửu hỷ tương phùng
 Cổ kim
         đa thiểu sự
 Đô phó tiếu
         đàm trung
  
Ca
         Từ Mở Đầu Truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa
 (Theo điệu Lâm
         Giang Tiên - Mây Tần- PKT)
  
Trường Giang cuồn cuộn đổ ra biển
 Sóng nổi dìm
         hết anh hùng
 Chính tà thành
         bại thoắt thành không
 Non xanh xưa
         còn đó 
 Bao độ nắng chiều
         hồng !
          
Đôi
         bạn ngư tiều trên sông nước
 Trăng thanh gió mát rong
         chơi
 Hồ rượu tương phùng
         chừng đã vơi
 Cổ kim thiên
         hạ sự
 Khề khà cười vui
         thôi !    
  
PKT
 
Trọc Thanh
Trường Giang nước cuộn đổ về đông
Sóng dập biết bao anh hùng
 
Phải quấy hơn thua tựa bằng không
Non xanh vẫn thế đấy
Mấy lượt ánh ráng hồng
Trọn
         kiếp ngư tiều trên bãi vắng
Ngắm
         thời gian chảy theo dòng
Khi gặp cùng
         vui bên bầu rượu
Sự thế há
         bận lòng
Cứ tự tại thong dong.
Quên Đi
  
ĐỀ TỪ TRUYỆN TAM QUỐC
 
 
                           
         Trường Giang sóng cuộn về Đông
              
                     Anh hùng lớp lớp sập giòng thời gian
                                            
         Chẳng còn ai thắng bại  
                  
                           Như nắm đuốc lụi tàn
                                  
         Vầng dương sáng rồi tắt
                  
                           Núi xanh như thi gan
      
                               Kiếm củi giăng câu bên
         bến vắng
                            
         Bạc đầu trơ mặt gió xuân sang
              
                         Rượu đục một bầu vui gặp gỡ
                                 Chuyện
         xưa nay lan man
                            
                   Bỏ mặc nhân gian
              
                                 Nâng chén cười
         tràn
 
                            
                                     C.D.M.
  
Lãng Quên
Sông dài đổ tận biển khơi
  
Sóng thời gian
         cuộn dập vùi hùng anh
  
Thắng
         thua, thành hoại tan tành
  
Núi
         cao duy vẫn trơ xanh giữa trời
  
Khi
         vần dương khuất sau đồi   
  
Ngư tiều đôi bạn rượu mời nhau vui 
  
Bồng bềnh sóng nước chơi vơi
  
Trăng thanh gió mát sự đời lãng
         quên.
  
 Mỹ-Hồng
 24/08/13
         
  
  
  
 
  
       
         
KHUÊ
         TÌNH
          
Thơ Lý Bạch
Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Lộc Mai, Quên Đi, VHKT, Danh Hữu,
         Đỗ Chiêu Đức
  
Cùng
         Bạn.
Đã
         khá lâu thấy vắng bóng góc Đường Thi , nay xin mạn phép
         gởi đến các Thầy và Bạn một bài thơ của Lý Bach
         mà tôi vừa phỏng dịch xong để cùng nhau hâm nóng lại mấy
         vần thơ dịch cho vui .
Kính mến
Mailoc
Khuê
         tình
Nguyên tác: Lý Bạch
 
 閨情 
 
         流水去絕國。浮雲辭故關。 
 水或戀前浦。雲猶歸舊山。 
 恨君流沙去。棄妾漁陽間。 
 玉箸夜垂流。雙雙落朱顏。 
 黃鳥坐相悲。綠楊誰更攀。 
 織錦心草草。挑燈淚斑斑。 
 窺鏡不自識。況乃狂夫還。 
 
 Khuê tình
Lý Bạch 
 Lưu thủy khứ tuyệt quốc, 
 Phù vân từ cố quan. 
 Thủy hoặc luyến tiền phố, 
 Vân
         do quy cựu san. 
 Hận quân Lưu Sa khứ 
 Khí thiếp Ngư Dương
         gian. 
 Ngọc trợ dạ thùy lưu, 
 Song song lạc châu nhan. 
 Hoàng
         điểu tọa tương bi. 
 Lục dương thùy cánh phan? 
 Chức
         cẩm tâm thảo thảo, 
 Khiêu đăng lệ ban ban. 
 Khuy kính bất
         tự thức, 
 Huống nãi cuồng phu hoàn. 
 
 --Dịch nghĩa:-- 
 Tình trong khuê phòng 
 Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
         
 Đám phù vân rời cửa ải xưa. 
 Nước còn lưu
         luyến bến bờ xưa cũ, 
 Mây còn trở lại chốn núi xưa.
         
 Giận chàng đi đến Lưu Sa, 
 Bỏ lại thiếp một mình
         ở Ngư Dương 
 Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy 
         Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung. 
 Ngồi buồn
         thương cùng chim hoàng oanh, 
 Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh? 
 Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời, 
         Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan! 
 Soi gương không còn nhận ra mình nữa, 
 Huống chi lúc chàng trở về.
   
--Bản dịch của MaiLộc--
         
 Nước trôi mãi về nơi xa vắng , 
Biên thùy xưa mây trắng
         lưa thưa .
Nước còn lưu luyến bến xưa ,
Mây về núi cũ tình
         chưa xóa nhòa .
Hận chàng đi Lưu Sa lòng chạnh ,
Thiếp
         Ngư Dương cô quạnh sầu thương .
Châu sa đũa ngọc đêm
         trường  ,
Hai dòng lệ thắm vương vương má hồng
         .
Tiếng oanh hót khiến lòng xao xuyến ,
Liễu tơ xanh chẳng luyến vin
         cành .
Vẩn vơ , gấm dệt chẳng thành ,
Khêu đèn , thổn thức
         , long lanh lệ tình .
 
Soi gương không nhận ra mình
         ,
Chàng về có lẽ càng nhìn càng đau
  
Mailoc
 
ĐỢI CHÀNG
 
        
         Ôi nước lan man xa tít
         Mây ngoài quan ải bơ
         vơ
         Nước ngoái nhìn mãi bến bờ
  
               Mây còn tương tư núi xưa
         Chàng
         dứt áo ra quan ải
         Có còn nghĩ thiếp bơ
         vơ
         Đêm đêm lệ rơi không dứt
  
               Chảy tràn trên mặt hoa tàn 
         Chim ơi
         thương ta chăng chớ
         Buồn chuyền cành liễu
         khóc than
         Cầm thoi tay đưa rời rã
    
             Sợi rối sợi đứt khôn hàn
         Gương
         ơi sao mi hiểm thế
         Lòng ta thảng thốt đợi
         chàng
 
                        
         C.D.M.
 
Xin
         cám ơn anh Mai Lộc đã cho thưởng thức bài thơ KHUÊ TÌNH
         của thi hào Lý Bạch và bản dịch rất hay của anh. Dựa theo
         ý của bài thơ, Lộc Mai xin có bài đường
         luật cảm tác sau đây:
 
LỜI NGƯỜI CÔ PHỤ
 
Nước chảy miên man vẫn giữ nguồn
Mây xa núi cũ bóng còn vương
Giận chàng biền biệt nơi biên ải
Thương thiếp âm thầm chốn cố hương
Khắc khoải thâu đêm, sầu chất ngất
Mỏi mòn suốt sáng, lệ dầm tuôn
Soi gương, thảng thốt nhìn hoa úa
Ôi, buổi người về biết có thương ?
 
Lộc Mai 
Khuê Tình
         
 Nước chảy đi cuối xứ
 Mây
         trôi từ ải xưa
 Nước chẳng quên bến cũ
 Mây sẽ
         lại non nhà
 Giận chàng đến Lưu Sa
 Ngư Dương bỏ
         thiếp lại
 Hằng đêm lệ tuôn dài
 Dung nhan dần héo
         úa
 Than thở cùng chim oanh
 Liễu biếc ai vin cành
 Dệt gấm
         buồn mang mang
 Thắp nến lệ hàng hàng
 Soi gương tìm dáng
         cũ
 Chàng về thiếp chẳng an.
 Quên Đi
Nước lạnh lùng trôi về bất tận.
Mây hững hờ
         che lấp ải quan.
Bến cũ, nước vẫn lan man.
Núi xưa, mây phủ
         mênh mang, là đà.
Hận chàng đến Lưu Sa hoang vắng.
Ở Ngư Dương
         cay đắng thiếp mong.
Đũa ngọc đêm chảy dòng dòng.
Hai hàng lệ
         thắm má hồng, ai đang?
Đem đau thương, chim vàng chia sẻ.
Cành dương
         xanh, ai bẻ cùng ai?
Dệt gấm, lòng mãi u hoài.
Khêu đèn, lệ lại
         chảy dài đẫm khăn.
Soi gương thấy, da nhăn đã khác.
Huống chi ngày chàng vác cung về.
VHKT
 
  
 Tình đàn bà
  
Dòng
         nước trôi cuối xứ,
Đám mây rời cố quan.
Nước
         còn yêu nguồn cũ
Mây cũng về cựu san.
Lưu Sa, giận
         chàng đến;
Ngư Dương, mặc thiếp hàn.
Đêm
         đêm, lệ ngọc chảy
Hàng hàng, mặt châu lan.
Chim
         vàng, cũng buồn đậu;
Dương xanh, đâu mơn man.
Gấm
         dệt, lòng rối rắm,
Đèn khêu, lệ hoen tràn.
Soi
         gương, ta đâu nhỉ ?
Chàng về, luống mừng ran.
  Danh Hữu dịch
 
  
Đỗ Chiêu Đức: Góp ý & bản dịch Khuê
         Tình
  
          Kính
         thưa Quý Tiền Bối và Thân Hữu,
              
         Đến hôm nay Đỗ Chiêu Đức mới có rảnh để tham gia
         cùng Quý vị về bài thơ KHUÊ TÌNH của Lý Bạch. Xin được
         góp ý như sau...
               Về
         câu11 : " Chức cẩm tâm THẢO THẢO ". Ta tìm hiểu về chữ
         THẢO nhé...
              THẢO 草
         là CỎ, thuộc Bộ Thảo 艹, chỉ chung các loại Thảo Mộc.
         Cỏ là Cỏ rác, vật không được xem trọng, nên có những
         nghĩa phát sinh như sau : THẢO là Cái gì đó... rất Sơ Sài,
         Hời Hợt...
  Ví dụ : 
             
         Bản Thảo : Là Văn bản chưa được sửa chửa và chỉnh
         trang.
              THẢO một bức thơ,
         là chưa phải thơ Chính Thức, bức thơ nầy còn phải được
         viết lại cho đàng hoàng.
             
         Khi được ghép 2 chữ THẢO thành : Thảo Thảo 草草, thì
         có nghĩa : Chuyện gì đó chỉ Làm Lấy Có, làm Dối
         Trá, làm Phức Cho Xong, làm Quấy làm Quá.... Ví dụ :
             
         Người Hoa có Thành Ngữ : Thảo Thảo Liễu Sự 草草了事, có nghĩa : Làm Sơ Sài cho xong việc. Nên...
             
         " Chức Cẩm Tâm THẢO THẢO " 織錦心草草
  có
         nghĩa...
                Ngồi dệt
         gấm mà lòng Lơ Đễnh để ở đâu đâu. Vì nhớ
         thương chồng nên ra vào không có việc gì làm, ngồi dệt
         gấm là dệt cho có, chớ thực tâm không có muốn dệt gấm
         !...
              Còn một câu cuối
         nữa...
              Câu 14 :" Huống
         nãi Cuồng Phu hoàn." 況乃狂夫還。
        CUỒNG 狂 là Mạnh
         Bạo, Khùng Điên... Vậy...
            
         CUỒNG PHU 狂夫 là Anh chồng Khùng sao ?! Thưa, không phải ! Đây
         chỉ là cách Nói Lẫy của bà vợ nhớ chồng quá rồi
         hóa... Lẫy ! Ta xét thêm nghĩa của câu 13 nữa nhé...
             
         Khuy kính bất tự thức, 窺鏡不自識 là " Nhìn vào gương mà mình cũng
         không biết là mình " Vì nhớ chồng quá nên dung nhan tiều
         tụy võ vàng, ngay cả mình cũng không nhận ra mình, nên mới...
             " Huống nãi Cuồng Phu hoàn."
         況乃狂夫還。 
        ......Sợ " thằng chồng
         Gàn Dỡ của mình cũng không chịu nhìn ra mình nữa ! Chính
         mình còn không nhận ra mình, Huống Hồ thằng chồng Cà Chớn
         của mình khi về, biết Nó có chịu nhìn mình hay không ?! Rõ
         khổ !!!...Đây chỉ là một kiểu MẮNG YÊU mà thôi !
                    Bây giờ thì Đỗ Chiêu Đức
         xin được góp bài dịch như sau :
  
 
          
                          
         TÌNH KẺ PHÒNG KHUÊ
  
                              
         Nước trôi trôi biền biệt,
                              
         Mây bay khuất ải quan.
                              
         Nước còn mơ bến cũ,
                              
         Mây vẫn nhớ núi ngàn.
                              
         Hận chàng Lưu Sa biệt,
                              
         Bỏ thiếp giữa Ngư Dương.
                              
         Đêm nhỏ hai hàng lệ,
                              
         Song song ướt má hường.
                              
         Oanh vàng buồn thôi hót,
                              
         Liễu xanh chẳng kẻ màng.
                              
         Khung gấm lòng lơ đễnh,
                              
         Chong đèn lệ chứa chan.
                              
         Soi gương không nhận bóng,
                              
         Huống chi anh chồng gàn !!!
            Lục
         bát :
                              
         Nước trôi cố quốc xa rồi,
                              
         Mây bay biền biệt bồi hồi ải xa.
                              
         Nước kia còn luyến bến nhà,
                              
         Mây ngàn nhớ núi la cà về thăm.
                              
         Lưu Sa chàng mất biệt tăm,
                              
         Ngư Dương bỏ thiếp âm thầm xót thương.
                              
         Đêm đêm nhỏ lệ đoạn trường,
                              
         Hai hàng châu ngọc má hường ủ ê.
                              
         Oanh vàng cất tiếng thảm thê,
                              
         Liễu xanh ai bẻ, ai về, hỏi ai ?!
                              
         Bên khung dệt gấm ai hoài,
                              
         Chong đèn giọt vắn giọt dài thở than.
                              
         Soi gương khôn xiết ngỡ ngàng,
                              
         Dung nhan tiều tụy sợ chàng về chê !!!
Đỗ Chiêu Đức
 
  
 
          
 
  
 
 
 
  
 
 
 
 
       
      Nhàn Cư Tặng Bạn
Nguyên tác: Vương Duy
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Chân Diện Mục, Trầm Vân
_________________________________________________
Quả thực là "nhàn cư vi bất thiện
         " , ngồi nhàn làm điều chẳng lành , học lóm được
         đôi ba chữ thánh hiền , cuối tuần thơ thẩn chọc phá chữ
         nghĩa ,và mọi người thân quí cho vui thôi. Cầu chúc an lành.
         
PKT 07/27/2013*
Võng Xuyên Nhàn Cư Tặng Tú Tài Bùi Địch
Vương
         Duy (699 -759)
Hàn sơn chuyển thương thúy
Thu thủy nhật sàn
         viên
Ý trượng sài môn
         ngoại
Lâm phong thính mộ thiền
Độ đầu dư lạc nhật
Khư lý thượng cô yên
Phục trị Tiếp Dư túy
Cuồng
         ca ngũ liễu tiền
Dịch Xuôi : Sống Nhàn
         Ở Võng Xuyên Làm Bài Thơ Tặng Tú Tài Bùi Địch
PKT 07/27/2013
Núi trời lạnh ,đã đổi sang màu
         xanh thẫm
Nước tiết thu , ngày vẫn chảy miệt mài
Đứng chống gậy ở ngoài cửa gỗ
         mục
Nghe trong gió lộng tiếng ve chiều
         kêu
Đầu bến đò chìm
         ngập trong bóng hoàng hôn
Ngoài
         gò xóm lửng lơ ngọn khói lẻ loi 
Ước tưởng mình là gã Sở Cuồng say
Đang nghêu ngao hát trước nhà ông Ngũ Liễu
         
Chú Thích 
(1)
         Tiệp Dư là tên tự của Lục Thông , người nước Sở
         , đời Xuân Thu , thấy việc nước suy đồi , giả dại , không
         chịu ra làm quan , người đời gọi là gã Sở Cuồng.
(2) Đào Tiềm , cuối đời nhà Tấn
         , không chịu cảnh luồn cúi chốn quan trường , từ quan , lui về
         ẩn dật , trước nhà có trồng 5 cây liễu , nên còn được
         người đời gọi là ông Ngũ Liễu .
Nhàn
         Cư Tặng Bạn
PKT 07/27/2013
Núi trời lạnh đổi sang màu xanh biếc ,
Nước ngày
         thu sao vội chảy miệt mài.
Chống gậy
         đứng ngoài cửa sài hiu quạnh ,
Trong
         gió chiều , ve ra rả ru ai.
Đầu bến
         vắng chở hoàng hôn sang muộn ,
Khói
         lam thưa vương vấn xóm gò xa.
Hồn
         thả về trước nhà năm cây liễu ,
Thấy người điên đang hát khúc cuồng ca .
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com 
Nhàn cư ở Võng Xuyên
(1)
Núi
         hoang lạnh trở màu xanh ngọc biếc
Nước sông thu cứ mải miết
         đêm ngày
Chống gậy tre lững thững trước cổng sài .
Ve
         sầu thảm , gió hây hây , chiều xuống.
Trên bến
         vắng còn vài tia nắng muộn .
Làn khói thôn cô
         quạnh lượn mơ màng.
Như Tiếp Dư đang túy lúy làng
         quàng .
Nghêu ngao hát dưới tàn cây năm liễu
         .
ML
(2)
Núi đang lạnh
         chuyẻn màu xanh biếc ,
Nước sông thu chảy siết đêm
         ngày .
Gậy tre lững thững cổng ngoài ,
Gió
         chiểu hây hẩy u hoài tiếng ve .
Đầu bến sông
         nắng hoe lấp lánh ,
Làn khói lam cô quạnh thôn chiều
         .
Tiếp Dư say khướt liêu xiêu 
Bên
         hàng năm liễu hát nghêu quên đời .
ML
MUỐN
         UỐNG RƯỢU SAY HÁT 
TRƯỚC NHÀ NGŨ LIỄU TIÊN SINH 
Xanh xanh thương núi lạnh ngả
         mầu
Nước biếc Thu về chảy lũng sâu
Cổng trúc lão
         buồn chống gậy ngắm
Gió chiều lấp lửng tiếng ve sầu
Bến
         sông vầng ác lang thang mãi
Sợi khói trên gò lơ đãng
         đâu
Muốn học Sở Cuồng ca ngất ngưởng
Trước nhà
         Bành Trạch liễu xanh mầu
C.D.M.
Nhàn Cư
         Tặng Bạn
Lạnh
         trời núi sẫm màu xanh
Ngày thu nước vẫn chảy quanh miệt mài
Tay cầm gậy chống cửa ngoài
Gió
         lồng lộng tiếng gọi ai ve chiều
Hoàng hôn ngập
         bến đò xiêu
Gò xa ngọn khói đăm chiêu lướt
         ngày
Ngỡ mình gã Sở cuồng say
Trước nhà năm liễu lất lây hát cuồng
Trầm Vân
      
      Đăng Tân Bình Lâu
Lý Bạch
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi, C.D.M
_____________________________________________________
Nhàn
         nhã vô tích sự (!) bên tách cà phê starbucks sáng nay. Vốn
         biết bản chuyển dịch đã không giữ được "phong cách
         Lý Bạch" (những nào :khứ quốc , hoài qui , thiên trường
         , thủy tĩnh , Tần vân , Hồ nhạn , thương thương , mục cực)
         nhưng vẫn cứ gửi đi để mọi người đọc cho vui với
         chữ nghĩa cuối tuần thôi. Cầu chúc an lành. Thân quí . PKT-
         07/20/2013
Đăng Tân Bình Lâu
Lý Bạch (701 - 762)
Khứ quốc đăng tư lâu
Hoài qui thương mộ thu
Thiên
         trường lạc nhật viễn
Thủy tĩnh hàn ba lưu
Tần vân
         khởi lĩnh thụ
Hồ nhạn phi sa châu
Thương thương kỷ
         vạn lý 
Mục cực lệnh nhân sầu
Dịch
         Xuôi : 
Lên Chơi Trên Lầu Tân Bình
PKT 07/20/2013
Xa xứ , bước lên lầu này
Trời cuối thu buồn , nhớ về
         nhà 
Trời dài , mặt trời lặn ngoài xa 
Sông lặng, sóng
         nước lạnh trôi xuôi
Mây Tần nổi lên ở rặng cây
         trên núi
Nhạn Hồ bay xuống đậu trên bãi cát bên sông
Xanh xanh mấy vạn dặm
Vời trông mòn mắt, trạnh buồn
Chú Thích: 
Lầu
         Tân Bình ở huyện Vu Sơn , tỉnh Tứ Xuyên , bên Tàu.
Đăng Tân Bình Lâu
PKT 07/20/2013
Xa xứ , trên lầu vắng ,
Tiết thu muộn nhạt nhòa.
Cuối
         trời bóng ác lặn ,
Sông lạnh , sóng trôi xa.
Mây nổi trắng non cao ,
Nhạn bay về bãi nào.
Xanh
         xanh mấy vạn dặm ,
Mòn mắt, dạ nao nao.
Lên Chơi Lầu Tân Bình
Xa quê lâu , lầu cao đứng ngắm ,
Trời cuối thu sầu lắng quê nhà .
Chân trời bảng lảng chiều tà ,
Sông yên sóng lạnh nhẩn nha xuôi dòng .
Áng mây Tần chập chùng rừng núi ,
Cồn cát sông rong ruổi nhạn Hồ .
Dặm ngàn xanh ngắt lô nhô ,
Trông càng thấm thía , ngẩn ngơ se sầu .
Mailoc
Cali 7-20-13
Dịch Thơ : Lên Lầu Tân Bình
Xa xứ
         lên lầu vắng
Cuối thu thêm nhớ nhà
Trời cao chiều xuống chậm
Sóng
         lạnh nước trôi xa
Cổ thụ mây
         Tần đến(*)
Nhạn Hồ bãi cát sa(**)
Rừng xanh hàng vạn dậm
Dõi
         mắt lệ chan hoà
Quên
         Đi
(*) Có
         người cho rằng hai chữ Tần Vân trong bài thơ trên xuất phát
         từ bài thơ của Hàn Dũ: "Tả Thiên Chí Lam Quan Thị Điệt
         Tôn Tương"
Vân hoành Tần Lĩnh
         gia hà tại (Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu)
Nhưng
         nếu xét kỹ về năm sanh của Lý Bạch : 701 - 162. Còn Hàn Dũ
         thì mãi đến 768 - 824. Như thế chữ Tần Vân này, Lý Bạch
         không thể dựa theo bài thơ của Hàn Dũ được.
-Cũng
         có quan điểm "Tần Mây" dùng để đối với"Mưa
         Sở". Điều này lại hoàn toàn vô lý. Vì Câu thơ
         của Lý Bạch ẩn ý nhớ quê nhà.
(**) Theo tích Chiêu
         Quân Cống Hồ
Khi Chiêu Quân đi ngang sa mạc, lòng
         nàng buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Lúc ngồi
         lưng ngựa liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con nhạn
         bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc nhạc liền sa xuống vùng
         cát hoang vu. 
BÓNG MÂY , CHIM XA XĂM
Kẻ bỏ nước lên lầu
Chiều xanh nhớ
         nước quá
Mặt trời xa buồn rầu
Nước lạnh chân sóng
         lạ
Mây Tần cây lạnh mầu
Nhạn Hồ bay sa châu
Vạn
         dặm sầu xa cách
Càng nhìn xa càng đau
C.D.M.
LÊN LẦU KHÁCH NGẨN NGƠ
Nhớ quê lên lầu buồn
Quê xanh mầu
         chiều thu
Mặt trời xa cuối bãi
Nước lạnh buồn âm u
Cây xưa u sầu góc núi
Chim Việt lạc giọng giòng sâu
Chiều thêm thêm mầu tối
Khách ngẩn ngơ nhìn đâu đâu
C.D.M.
      
      
VÔ ĐỀ             
Lý
         Thương Ẩn  
Bản
         dịch: Danh Hữu,
         Đỗ Chiêu Đức, Quang Tuấn, Mailoc, Lộc Mai, Phạm Khắc Trí, Nguyễn Hồng Ẩn 
_______________________________________________________________
         
Góp vui cuối tuần                                                                                                 
         
Mấy lúc sau này
         mình không có góp dịch thơ Đường với các bạn yêu
         thích thể loại thơ này, vì mình tuổi vốn quá đát
         (date) rồi nên không thích các bài thơ quá buồn (các bạn
         thứ cho nhé !). Sáng nay tình cờ lục lại chồng sách cũ, thấy
         có câu thơ của Lý Thương Ẩn do ông Đông Hồ múa
         bút trên cánh thiếp : Tương kiến thời nan, biệt diệc nan,
         nên mình lục lại bài thơ nầy và cao hứng dịch để
         góp vui với các bạn tuần này. Cũng nhân dịp gởi lời cảm
         tạ anh Lộc đã chúc sức khỏe vợ chồng mình hôm trước,
         xin gởi tới anh lời chúc tương tự và cầu xin tất cả chúng
         ta đều khỏe mạnh mãi để vui cùng nàng thơ. Luôn tiện
         nhờ anh bạn Chiêu Đức có rảnh giúp diễn xuôi (hoặc chú
         thích) giùm.
無題
相見時難別亦難
東風無力百花殘
春蠶到死絲方盡
蠟炬成灰淚始乾
曉鏡但愁雲鬢改
夜吟應覺月光寒
蓬萊此去無多路
青鳥殷勤為探看
李商隱
Vô Đề
Tương
         kiến thời nan, biệc diệc nan;
Đông phong vô lực, bách
         hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử, ti phương tận;
Lạp cự thành hôi, lệ thủy can.
Hiểu
         kính đản sầu, vân mấn cải,
Dạ ngâm
         ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồn Lai thử khứ, vô đa
         lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
Lý Thương Ẩn
Bài thơ không đề
Gặp đã khó, xa nhau
         khó thêm !
Gió
         đông đâu khiến rụng hoa thềm.
Thân tằm đến chết, tơ vừa cạn;
Nến sáp thành tro, lệ mới
         kềm.
Gương
         ngắm, buồn cho mầu tóc bạc
Khuya ngâm, cảm thấy lạnh trăng đêm.
Bồng Lai mấy nẽo, rày đi thử
Hẹn với chim xanh đoán
         hộ xem.
Danh Hữu dịch
Paris 12.7.2013
Kính
         Tiền Bối,
Lâu quá mới thấy Tiền Bối
         tái xuất giang hồ, rất hân hạnh được Tiền Bối giao cho trách
         nhiệm Diễn xuôi và chú thích bài thơ VÔ ĐỀ nổi tiếng
         nhất trong số hơn chục bài thơ đều cùng tên Vô Đề
         của Lý Thương Ẩn.
無題 VÔ ĐỀ
相見時難別亦難 Tương kiến thời nan biệt
         diệc nan,
東風無力百花殘 Đông phong vô lực bách
         hoa tàn.
春蠶到死絲方盡 Xuân tầm đáo tử ty
         phương tận,
蠟炬成灰淚始乾 Lạp cự thành hôi lệ
         thủy can.
曉鏡但愁雲鬢改 Hiểu kính đản sầu
         vân mấn cải,
夜吟應覺月光寒 Dạ ngâm ưng giác nguyệt
         quang hàn.
蓬萊此去無多路 Bồng lai thử khứ vô đa
         lộ,
青鳥殷勤為探看 Thanh điểu ân cần vị
         thám khan.
李商隱 Lý Thương Ẩn.
Dịch
         nghĩa:
Khi gặp được nhau đã khó rồi,
         chia tay nhau lại càng khó hơn.
Gió xuân bất lực không đủ
         sức, để trăm hoa phải tàn héo.
Con tằm xuân đến chết
         mới nhả hết tơ lòng.
Ngọn nến tàn thành tro mới khô
         hết những giọt lệ nến.
Sáng sớm soi gương, mới buồn
         là tóc mai đã đổi trắng như mây.
Ban đêm ngâm
         nga mới chợt thấy ánh trăng sao mà lạnh lẽo.
Từ đây
         không có nhiều lối để đến được Bồng Lai. Nên...
mới ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm đường đi nước
         bước.
Chú Thích :
Lý Thương Ẩn ( 812-858 ), tự là
         Nghĩa Sơn, nên thường đựơc gọi thân mật là Lý Nghĩa
         Sơn. Ông sống vào thời Vãn Đường (836-907), nhà Đường
         xuống dốc và sụp đổ nhanh chóng. Nông dân bị bóc lột,
         sưu cao thuế nặng, quan lại hà hiếp, sự xa hoa trụy lạc của bọn
         quí tộc quan liêu. Lời hịch khởi nghĩa truyền nhau đã dẫn
         dắt đến nhiều cuộc nổi dậy để đòi quyền sống,
         đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Trong cảnh xã
         hội nhiễu nhương, đất nước loạn ly phân tán, nền văn
         học Trung Hoa cũng đột nhiên chuyển biến mang tính chất lãng mạn,
         phóng khoáng, hiện thực, trữ tình, đem tình yêu nam nữ vào
         thi ca, và những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ nầy có thể
         nói là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Tào Đường, Ôn
         Đình Quân, Đỗ Tuân Hạc …
Lý Thương Ẩn nổi
         tiếng qua những bài thơ VÔ ĐỀ vì có ẩn tình riêng.
         Cuộc đời tình ái của ông vô cùng lãng mạn như thanh
         niên nam nữa hiện nay, ông yêu cả 2 chị em nữ đạo sĩ Tống
         Hoa Dương, yêu cả người Thị thiếp của Lệnh Hồ Sở là
         Cẩm Sắc, yêu cả một Thiên kim tiểu thơ tên Liễu Chi....nên
         thơ của ông như tình của ông dàn trãi mênh mông, cuồng
         nhiệt, say mê đắm đuối mà... mơ hồ không rõ đối
         tượng, vì thế mà có tựa là VÔ ĐỀ, trong khi mọi
         người đều làm thơ HỮU ĐỀ, và ông lại nổi tiếng
         nhờ vào những bài thơ Vô Đề đó cho mãi đến hiện
         nay, và... Mọi người đều tôn xưng ông là ông Tổ của
         thơ VÔ ĐỀ.
Bài thơ trên là một
         trong những bài VÔ ĐỀ nổi tiếng nhứt của ông đã ảnh
         hưởng rất nhiều đến văn học, như câu :
Xuân tầm đáo
         tử ty phương tận,
Cụ Nguyễn Du đã mượn ý câu trên
         cho lời của Thúc Sinh nói với Kiều là :
Dù cho sông cạn
         đá mòn,
CON TẦM ĐẾN THÁC VẪN CÒN VƯƠNG TƠ !
và hình ảnh của con chim xanh chuyên dọ đường và
         đưa thơ của bà Tây Vương Mẫu...
Thanh điểu ân cần
         vị thám khan
mà Cụ Nguyễn Du đã vận dụng rất tài
         tình vào lúc chàng Kim đi dò la chỗ của cô Kiều ở :
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm DỨT
         ĐƯỜNG CHIM XANH !
Cũng như câu :
Lạp
         cự thành hôi lệ thủy can,
... mà Ngân Giang Nữ Sĩ ( thơ Tiền
         Chiến ) đã mượn ý cho câu :
Đêm nay lệ nến rơi
         thành chữ !
.............................................
Thưa
         Tiền Bối,
Đ C Đ biết bấy nhiêu thì góp ý bấy nhiêu
         thôi, mong Tiền Bối tiếu nạp ( vui vẻ mà nhận cho ) !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.
Bây giờ thì ĐC Đ xin được tham gia với bài Diễn Nôm
         sau đây :
VÔ
         ĐỀ.
Khó gặp được nhau khó cách xa,
Gió xuân bất
         lực héo ngàn hoa.
Tầm kia đến thác tơ còn vướng,
Nến nọ tàn canh lệ chửa nhòa.
Trước kính sầu sao làn
         tóc trắng,
Thâu đêm ngâm mãi ánh trăng lòa.
Bồng
         Lai chẳng phải đường La Mã,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Đỗ Chiêu Đức
.
VÔ
         ĐỀ
Dễ
         gặp nhưng mà khó cách xa
Gió Đông đâu khiến úa ngàn hoa.
Tằm dù đến thác tơ còn vướng
Nến dẫu
         sắp tàn lệ vẫn sa.
Ngày ngắm
         mây vương làn tóc trắng
Đêm ngâm thơ vọng bóng
         trăng tà.
Đâu là nẻo đến Bồng Lai cảnh
Nhờ cánh chim xanh hỏi giúp ta.
QUANG TUẤN
.
VÔ ĐỀ
Gặp chẳng dễ , khó thay ly biệt
         
Thoảng đông phong , rũ riệt ngàn
         hoa .
Tơ tằm trọn kiếp xót xa 
Nến thành tro bụi ,sáp đà lệ
         khô .
Sáng soi gương sầu tô tóc
         trắng 
Đêm ngâm thơ
         lạnh mảnh trăng tà .
Bồng
         Lai muốn tới không xa ,
Chim xanh
         dẫn lối giúp ta thăm dò.
Mailoc
Cali 7-12-13
.
VÔ
         ĐỀ
Khó gặp, lại càng khôn cách
         xa
Gió xuân chẳng đủ thắm muôn hoa
Lực mòn,
         tằm hết tơ - đời dứt
Giọt cạn, nến tàn tro -
         kiếp qua
Ngơ ngẩn soi gương, sầu tóc trắng
Thẫn
         thờ vịnh cảnh, xót trăng tà
Đường nào đến chốn
         Bồng Lai ấy
Ơi hỡi chim xanh chỉ giúp ta !
Lộc
         Mai
Vô Đề
(Mây Tần - PKT)
Tan hợp , hợp tan , những đoạn trường ,
Trăm hoa tàn úa ,gió xuân
         vương.
Thân tằm đến thác , tơ còn vướng ,
Phận nến hồ tàn , lệ vẫn tuôn.
Gương sáng
         ngậm ngùi râu tóc bạc ,
Đêm khuya thơ thẩn bóng
         trăng suông.
Bồng lai đâu đó, không nhiều lối ,
Ngóng đợi chim xanh đến dẫn đường.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
.
KHÔNG ĐỀ
Khó gặp thì càng khó biệt nhau
Gió đông thiếu ấm giữ
         hoa lâu
Sợi
         tơ ngưng nhả khi tằm chết
Ngọn nến lụn tàn ngưng lệ lau
Sáng sớm soi gương
         buồn tóc bạc
Đêm khuya ngâm phú
         lạnh trăng sầu
Bồng Lai đường đến không nhiều nẽo
Chỉ lối chim xanh giúp giùm
         mau.
NGUYỄN HỒNG ẨN
January 7, 2013
      
      
Quan San Nguyệt ( Lý Bạch )
 . Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Phạm
         Khắc Trí, Chân Diện Mục . 關 山
         月 QUAN SAN NGUYỆT 李白 Lý Bạch. 明月出天山, Minh nguyệt xuất Thiên San, 蒼茫雲海間。 Thương mang vân hải gian.
          長風幾萬里, Trường phong kỷ vạn lý, 吹度玉門關。 Xuy độ Ngọc Môn Quan. 漢下白登道, Hán hạ Bạch Đăng
         đạo, 胡窺青海灣。 Hồ khuy Thanh Hải loan.  由來征戰地, Do lai chinh chiến địa, 不見有人還。 Bất kiến hữu nhân hoàn. 戍客望邊色, Thú khách vọng biên
         sắc, 思歸多苦顏。 Tư quy đa khổ nhan,  高樓當此夜, Cao lâu đương thử
         dạ, 歎息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn Chú Thích : 1.「天山」Thiên Sơn,即祁連山,在今甘肅省境內。Tức
         là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay. 2.「白登」Bạch Đăng,山名,在今山西大同東。漢高祖曾被匈奴圍困於此, tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh
         Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô dây khổn
         ở đây. 3.「窺」Khuy,窺伺。là dòm ngó. 4. 「青海灣」Thanh Hải loan,即青海湖,在今青海省境內。Tức
         Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay. 5.「高樓」Cao Lâu,這裡指征夫住在家中的妻子。Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà.
         Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú. Nghĩa
         của Bài thơ : 皎潔的月亮從祁連山升起,輕輕漂浮在迷茫的雲海裏。長風掀起塵沙席捲幾萬里,玉門關早被風沙層層封閉。白登道那裏漢軍旌旗林立,青海灣卻是胡人窺視之地。自古來這征戰廝殺的場所,參戰者從來不見有生還的。守衛邊陲的征夫面對現實,哪個不愁眉苦臉思歸故里?今夜高樓上思夫的妻子們,又該是當窗不眠歎息不已。  Vầng trăng sáng vằng vặc đang
         mọc lên từ Kỳ Liên Sơn, nhẹ nhàng lẩn khuất trong rung mây
         mờ mịt. Gió lốc thổi dài từng cơn suốt mấy vạn dặm,
         phủ lắp cả Ngọc Môn Quan là ải địa đầu. Cờ xí
         và Hán binh đóng rợp cả Bạch Đăng đạo, còn binh Hồ
         thì đang dòm dỏ Thanh Hải Loan. Từ xưa đến nay, những người
         ra đi chính chiến nơi chiến địa, chẳng thấy có mấy ai được
         về quê. Những người lính thú đang trấn giữ biên thùy,
         ai là không mặt ủ mày ê mơ ước ngày được về
         quê. Đêm nay, những nàng chinh phụ trên lầu cao mong nhớ chồng,
         chắc cũng đang thở vắn than dài khôn nguôi. DIỄN NÔM
         : TRĂNG LÊN ẢI NÚI. Trăng lên
         đỉnh Thiên San, Bàng bạc núi mây ngàn. Muôn dặm cơn
         gió lốc, Thổi thốc Ngọc Môn Quan. Hán xuống Bạch Đăng
         đạo, Hồ dòm Thanh Hải Loan. Vì chưng nơi chiến địa, Có mấy ai khải hoàn ? Lính thú sầu biên tái, Mơ
         về dạ ngổn ngang. Gác canh cao đêm vắng, Buông dài tiếng
         thở than ! Đỗ Chiêu Đức. Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ
         là :  高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,  嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn.  1.
         Ý thứ nhất : Cho người lính thú.  Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng
         là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc,
         nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng
         tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa !  2. Ý thứ hai :  Cho người
         cô phụ ở nhà.  Câu thơ có
         nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ
         cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không
         phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa !  và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ
         là : Lầu cao nhìn trăng sáng, Nàng
         cô phụ thở than ! Làm ta lại nhớ đến
         2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau :  Lòng
         thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên
         San.... và... lại và...2 câu :  漢下白登道, 胡窺青海灣。 Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải
         Loan. Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu
         : Nay Hán xuống Bạch Thành đóng
         lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.  Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất
         lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !
 Bận
         bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời
         gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu
         !  Đỗ Chiêu Đức.  | 
TRĂNG BIÊN ẢI
Trăng soi đỉnh núi Thiên San
Ánh
         vàng lẩn khuất bạt ngàn rừng mây
Gió xa thổi
         thốc dặm dài
Ngọc Môn Quan Ài mờ phai bụi đường
Binh
         đao, cờ xí một phương
Hán , Hồ dàn trận trùng
         trùng lửa, quân
Thương người chinh chiến xa xăm
Mấy
         ai lành lặn mà mong trở về
Lính biên tấc dạ ủ
         ê
Niềm riêng canh cánh nhớ quê, nghẹn lời
Lòng
         người chinh phụ rối bời
Lầu cao quạnh quẽ, lệ rơi
         mấy hàng....
Lộc Mai
QUAN SAN NGUYỆT
Lý Bạch
         (701 -762)
Minh nguyệt xuất Thiên San
Thương mang vân hải
         gian 
Trường phong kỷ vạn lý
Xuy độ Ngọc Môn Quan
Hán hạ Bạch
         Đăng đạo
Hồ khuy Thanh Hải loan 
Do lai chinh chiến địa
Bất
         kiến hữu nhân hoàn
Thú khách vọng biên sắc
Tư quy đa
         khổ nhan 
Cao lâu đương thử dạ
Thán tức vị ưng nhàn
Quan San Nguyệt
(Mây Tần - PKT)
Trăng mọc đỉnh Thiên San,
Biển mây sáng mênh mang.
Gió dặm dài thê thiết ,
Kéo qua Ngọc Môn quan .
Quân Hán
         xuống Bạch Đăng ,
Rợ Hồ nhòm Thanh Hải.
Xưa nay từ chiến
         địa ,
Mấy người về hay chăng?
Biên tái lộng sao trời ,
Nhớ
         nhà dạ bồi hồi.
Đêm nay trên lầu vắng , 
Vầng trăng
         ai xẻ đôi !
Phụ Chú :
         Trong Truyện Kiều - Nguyễn Du có câu : "Vầng trăng ai xẻ làm đôi
         / Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường".
.Tôi nhớ đã
         dịch bài này rồi ( không biết do ai đăng lên ) . Nay xin dịch
         thêm bài nữa :
TRĂNG NGOÀI XA KIA
Trăng
         bước ra triền núi Tuyết
Mờ mờ ngàn dặm mây trôi
Gió thổi điệp trùng quyết liệt
Rét buốt vào đất
         ta rồi
Quân ta ra trấn biên giới
Giặc Hồ há dám trêu
         ngươi
Chiến tranh hẳn là việc dữ
Thương người lính
         thú xa xôi
Một đi nghĩ gì trở lại
Thái Sơn nhẹ
         tựa lông thôi
Lầu cao ngồi ngóng hoà bình
Than than thở
         thở khôn nguôi
C.D.M.
bản dịch cũ :
TRĂNG BIÊN ĐỊA
Trăng đã ló sau rèm
         biếc
Núi và mây bên biển xanh
Gió lao xao tràn muôn dặm
Vượt biên cương nhiễu cửa thành
Quân giặc dòm đất
         ta
Quân ta ra trọng trấn
Anh hùng phải như thế
Kể chi niềm
         vương vấn
Hỡi ôi ! Từ xưa ai ca tụng
Hỡi ôi ! Từ
         xưa ai khóc than
Đêm nay lên cao nhìn trận địa
Trăng đẹp
         lung linh sáng quan san
C.D.M.
      
      Chương Đài dạ tứ
Cùng Bạn ,
Xin chuyển đến
         Bạn Thơ bài thơ " Đêm ở Chương Đài " cuả Vi
         Trang để cùng góp vần chơi cho qua ngày thứ bảy cuối tuần
         .
Chúc
         sức khỏe , an vui .
Thân 
ML
Chương Đài dạ
         tứ
Nguyên tác:
         Vi Trang
五言律詩 
韋莊 
章臺夜思 
清瑟怨遙夜, 繞絃風雨哀。 
孤燈聞楚角, 殘月下章臺。 
芳草已云暮, 故人殊未來。 
鄉書不可寄, 秋雁又南迴。 
Chương
         Đài dạ tứ 
Thanh sắt oán dao dạ 
Nhiễu huyền
         phong vũ ai 
Cô đăng văn Sở giác 
Tàn nguyệt há Chương
         Đài 
Phương thảo dĩ nhân mộ 
Cố nhân thù vị
         lai 
Hương thư bất khả ký 
Thu nhạn hựu nam hồi. 
Dịch Nghĩa 
Tiếng đàn lảnh
         lót oán hận đêm dài 
Dây đàn run rẩy niềm xót
         xa trong mưa gió 
Dưới ngọn đèn cô đơn nghe điệu
         kèn nước Sở 
ánh trăng nhạt soi xuống Chương Đài.
         
Cỏ thơm đã dần dần tàn úa 
Bạn cũ chưa có
         ai về. 
Thư nhà không thể gửi được 
Vì nhạn mùa
         thu đã lại xuôi nam. –
.
-Bản
         dịch của Trần Trọng Kim-- 
Đêm xa vắng, nhặt thưa
         thanh sắt, 
Nắn đường tơ, réo-rắt gió mưa. 
Tiếng
         còi Sở, ngọn đèn mờ, 
Đường Chương-đài dưới
         bóng nga tiI mù. 
Cỏ thơm sắp hết mùa tươi tốt, 
Bạn
         cố tri trông hút thấy đâu. 
Thư nhà dễ gửi được
         nào, 
Gió thu đưa nhạn ào ào về nam.
--Bản dịch của MaiLộc—
Đàn ai oán đêm trường réo rắt ,
Gió mưa ngoài se sắt dây cung .
Đèn đơn, còi Sở não nùng ,
Trăng tàn rơi rụng mông lung Chương
         Đài .
Cỏ thơm đã dần
         phai hương sắc ,
Bạn cũ đâu !
         vắng ngắt người về .
Thư nhà muốn
         gửi khó bề ,
Xuôi Nam thu nhạn lê
         thê cuối trời 
.
BẢN DỊCH QUANG TUẤN
Đàn ai não nuột đêm thâu
Tiếng tơ run lạnh giọt sầu gió mưa
Dưới đèn, điệu Sở xa đưa
         
Ánh trăng
         tà rụng gọi mơ Chương Đài.
Cỏ thơm hương sắc tàn phai
Bạn xưa mong nhớ, chẳng ai trở về
Thư nhà mong gởi khó ghê
Nhạn Thu ôi đã bay về phương
         Nam.
.
CHƯƠNG ĐÀI ĐÊM MONG
         NHỚ
Réo rắt xa đưa đêm vắng ,
Tiếng đàn
         theo gió u hoài.
Đèn lụn đâu đây còi Sở,
Trăng
         tàn lấp ló Chương Đài.
Cỏ non đâu còn mơn mởn,
Người xưa nào thấy vãng lai.
Thơ nhà sầu không thể
         gởi,
Nhạn thu mõi cánh đường dài.
Đỗ Chiêu
         Đức.
.
ĐÊM CHƯƠNG ĐÀI
Đàn
         ai run rẩy giữa đêm trường
Trong gió mưa gào như oán thương
Hiu hắt
         đèn đơn, kèn nức nở
Ảo mờ trăng khuyết, lối mờ sương
Cỏ thơm
         nay đã phai màu lá
Bạn cũ lâu rồi biệt cố hương
Lỡ cánh
         thư nhà không kịp gởi
Nhìn theo cánh nhạn vút lên đường.
Lộc
         Mai
Chương
         Đài Dạ Tứ
(Mây Tần - PKT)
Đêm
         dài, đàn se sắt ,
Tơ chùng nỗi bi ai.
Đèn khuya vẳng tiếng ốc
         ,
Trăng lạc nẻo Chương Đài.
Cỏ hương đà
         tàn úa ,
Người xưa bặt tăm hơi.
Thư nhà
         không gửi được ,
Trời đã vào Thu rồi. 
PKT
Đêm
         Chương Đài
Tiếng đàn ai oán đêm trường
Dây run rẩy buốt giọt buồn mưa nghiêng
Điệu kèn Sở thổi mờ đèn
Ánh
         trăng mờ nhạt bóng đêm Chương Đài
Cỏ thơm dần úa tàn phai
Bạn
         xưa chờ mãi chẳng ai trở về
Thơ
         nhà nào dễ gửi đi
Xuôi nam thu nhạn
         tái tê lòng này
Trầm Vân
      
      Quan san nguyệt
Cùng Bạn ,
Cuối
         tuần lại sắp hết , thời gian trôi mau một cách lạnh lùng . Tôi
         xin gởi đến các bạn một bài thơ của Lý Bạch mà đọc
         lên tôi cảm thấy man mác buồn cho chinh chiến xưa nay .
Thân mến
Mailoc
Quan san nguyệt
Nguyên tác: Lý Bạch
李白 
關山月 
明月出天山, 蒼茫雲海間; 
長風幾萬里, 吹度玉門關。 
漢下白登道, 胡窺青海灣。 
由來征戰地, 不見有人還。 
戍客望邊色, 思歸多苦顏; 
高樓當此夜, 歎息未應閑。 
Quan san nguyệt 
Minh nguyệt xuất Thiên
         San, 
Thương mang vân hải gian. 
Trường phong kỷ vạn lý, 
Xuy độ Ngọc Môn quan. 
Hán há Bạch Đăng đạo, 
Hồ
         khuy Thanh Hải loan. 
Do lai chinh
         chiến địa, 
Bất kiến hữu nhân hoàn. 
Thú khách vọng
         biên sắc, 
Tư quy đa khổ nhan. 
Cao lâu đương thử dạ,
         
Thán tức vị ưng nhàn. 
-- Bản dịch của Tản
         Đà -- 
TRĂNG QUAN SAN 
Vừng trăng ra núi Thiên San,
         
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi. 
Gió đâu muôn
         dặm chạy dài, 
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
         
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn, 
Vụng* kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ. 
Từ xưa bao kẻ chinh phu, 
Đã ra đất chiến, về ru
         mấy người ? 
Buồn trông cảnh sắc bên trời, 
Giục lòng
         khách thú nhớ nơi quê nhà. 
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
         
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi. 
_____________________ 
* Có
         sách ghi là Vùng 
--Bản dịch của MaiLộc—
Trăng Thiên San đầu non
         thấp thoáng ,
Mây biển xanh loang loáng mênh mang .
Gió từ vạn dặm gào ngàn ,
Đưa trăng tới tận Ngọc
         Quan biên ngoài .
Bạch Đăng thành cửa
         cài quân Hán ,
Vùng Thanh Hải , Hồ mán
         dòm qua .
Xưa nay
         chinh chiến trường sa ,
Mấy ngưòi trở lại quê nhà mà mong .
Người lính thú vời trông
         cảnh sắc ,
Nỗi
         nhớ nhà se thắt lòng ai .
Lầu cao đêm vắng canh dài ,
Đêm nay trăn trở , u hoài khôn
         khuây .
Mailoc phỏng
         dịch 
關山月
李白
明月出天山, 
蒼茫雲海間。 
長風幾萬里, 
吹度玉門關。 
漢下白登道, 
胡窺青海灣。 
由來征戰地, 
不見有人還。 
戍客望邊色, 
思歸多苦顏。 
高樓當此夜, 
嘆息未應閒。
Quan San Nguyệt
Lý Bạch
Minh
         nguyệt xuất Thiên San, 
Thương mang vân hải gian. 
Trường phong
         kỷ vạn lý, 
Xuy độ Ngọc Môn quan. 
Hán há Bạch Đăng
         đạo, 
Hồ khuy Thanh Hải loan. 
Do lai chinh chiến địa, 
Bất kiến
         hữu nhân hoàn. 
Thú khách vọng biên sắc, 
Tư quy đa
         khổ nhan. 
Cao lâu đương thử dạ, 
Thán tức vị ưng
         nhàn 
Dịch Nghĩa:Trăng Miền
         Biên Ải
Trăng
         sáng vừa nhô lên khỏi núi Thiên Sơn,
Giữa vùng mây
         biển xám mênh mông.
Gió từ ngoài muôn dặm,
Thổi đến
         ải Ngọc Môn.
Quân Hán xuống đóng quân nơi con đường
         dẫn tới thành Bạch Đăng.
Quân Hồ dòm ngó vùng vịnh
         Thanh Hải.
Từ trước đến giờ đi chinh chiến
Không thấy
         có người trở về.
Người lính thú nhìn quang cảnh nơi
         biên cương,
Nghĩ đến ngày trở về khiến vẻ mặt hiện
         nhiều nét đau khổ.
Đêm nay nơi lầu cao 
Than thở mãi
         không yên
Dịch Thơ : Trăng Biên Ải
Thiên Sơn trăng ló dạng
Giữa biển xanh
         mây ngàn
Gió từ ngoài muôn dậm
Tràn đến Ngọc
         Môn quan
Bạch Đăng quân Hán đóng
Thanh Hải Hồ nhìn
         sang
Xưa nay đi chinh chiến
Mấy kẻ về bình an
Lặng nhìn
         vùng quan tái
Nghĩ khó trở về làng
Đêm nay nơi lầu
         vắng
Dạ buồn mãi thở than
Quên Đi
TRĂNG
         BIÊN ĐỊA
Trăng đã ló sau rèm biếc
Núi và mây
         bên biển xanh
Gió lao xao tràn muôn dặm
Vượt biên cương
         nhiễu cửa thành
Quân giặc dòm đất ta
Quân ta ra trọng
         trấn 
Anh hùng phải như thế 
Kể chi niềm vương vấn
Hỡi ôi
         ! Từ xưa ai ca tụng
Hỡi ôi ! Từ xưa ai khóc than
Đêm nay lên
         cao nhìn trận địa
Trăng đẹp lung linh sáng quan san
C.D.M.
TRĂNG LÊN ẢI NÚI
.
Trăng lên đỉnh Thiên
         San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có
         mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ
         ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than
         !
Đỗ Chiêu Đức.
Xin được lạm bàn về
         2 câu chót của bài thơ là : 高樓當此夜, Cao lâu
         đương thử dạ, 嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn. 1. Ý thứ nhất
         : Cho người lính thú. Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng
         là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc,
         nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng
         tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa ! 2. Ý thứ hai : Cho
         người cô phụ ở nhà. Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên
         lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì
         nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với
         tâm tình nhàn nhã nữa ! và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2
         câu dịch cuối sẽ là :
Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !
Làm ta lại nhớ đến
         2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau : Lòng thiếp tựa bóng trăng
         theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên San....
và... lại và...2 câu : 漢下白登道, 胡窺青海灣。 Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan. Lại
         làm cho ta nhớ đến 2 câu :
Nay Hán xuống
         Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất
         lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !
Bận
         bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời
         gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu
         ! 
Nay kính, 
Đỗ Chiêu
         Đức.
      
      Thu tịch lữ hoài 
Cùng Bạn ,
Chuyển đến các bạn một bài thơ của Lý Bạch đọc chơi cuối tuần và xin bạn thơ chúng mình góp vần giải khuây .
Thân
         mến
Mailoc
Thu tịch lữ hoài
Nguyên tác: Lý Bạch
秋夕旅懷 
涼風度秋海。 
吹我鄉思飛。 
連山去無際。 
流水何時歸。 
目極浮云色。 
心斷明月暉。 
芳草歇柔艷。 
白露催寒衣。 
夢長銀漢落。 
覺罷天星稀。 
含悲想舊國。 
泣下誰能揮。 
Thu tịch lữ hoài 
Lương phong độ thu hải 
Xuy ngã
         hương tứ phi 
Liên sơn khứ vô tế 
Lưu thủy hà thời
         quy 
Mục cực phù vân sắc 
Tâm đoạn minh nguyệt huy 
Phương
         thảo yết nhu diệm 
Bạch lộ thôi hàn y 
Mộng trường Ngân
         Hán lạc 
Giác bãi thiên tinh hy 
Hàm bi tưởng cựu quốc
         
Khấp hạ thùy năng huy 
-- Dịch nghĩa -- 
Gió
         lạnh thổi qua bể mùa thu 
Thổi theo lòng nhớ quê nhà của
         tôi 
Núi liền nhau như chạy dài vô cùng tận 
Nước
         trôi mãi hỏi có khi nào trở về chăng? 
Sắc mây nổi
         xa cùng cực khỏi tầm mắt, 
Trăng sáng soi tỏ làm đứt
         tươm khúc ruột. 
Cỏ thơm hết đẹp mướt, 
Sương
         bạc giục người mặc áo rét 
Giấc mơ dài tưởng rơi dải Ngân hà
         
Tỉnh dậy sao trên trời chỉ còn lác đác 
Ôm mối
         sầu tưởng nhớ đến nước cũ 
Khóc rơi nước mắt
         ai lau cho được. 
-- Bản dịch của Tản Đà
         -- 
Lạnh lùng gió vượt bể thu 
Hồn quê theo gió như
         vù vù bay 
Chạy dài dãy núi liền mây 
Nước trôi
         trôi mãi, có ngày về chăng? 
Đám mây vút mắt xa
         chừng, 
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi 
Cỏ
         thơm đẹp mướt thôi rồi, 
Áo may mặc rét giục người
         móc sa! 
Giấc mơ rơi dải Ngân hà, 
Sao thưa lác đác
         tỉnh ra khắt trời 
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi
         
Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai? 
-- Bản dịch
         của MaiLộc—
Gió thu
         qua biển khơi lạnh ngắt ,
Mang
         nhớ nhung héo hắt tình quê .
Ngút
         ngàn đồi núi lê thê ,
Nước
         trôi, trôi mãi có về hay chăng ?
Áng
         mây sầu dung dăng heo hút ,
Ngắm
         trăng ngà bức rức lòng ta .
Cỏ
         thơm thôi hết mượt mà ,
Áo
         hàn , khẽ lạnh , sương sa trắng ngần .
Lòng mải mê sông Ngân , hồn lạc ,
Sao thưa dần mờ nhạt , tỉnh ra .
Ôm lòng sầu tưởng quê nhà ,
Ai người mắt lệ xót xa khôn cầm
         .
CHIỀU THU TRÊN ĐƯỜNG
Gió qua biển lạnh lướt về
Tri âm cùng tớ nhớ quê hỡi mình
Chập trùng ờ núi xanh xanh
Nước trôi có gửi tâm tình cho nhau
Sắc mây dụ ta nhìn theo
Kìa trăng sáng quá như trêu dạ này
Cỏ thơm quyến khách cô liêu
Sương rơi áo lạnh thấm nhiều nỗi quê
Mộng bay lên cạnh sao Khuê
Tỉnh ra khuya khoắt bốn bề sao thưa
Đất nước tôi đến bao giờ .....
Đưa tay lau lệ mà mơ thanh bình
C.D.M.
ĐÊM THU NHỚ NHÀ
(phỏng dịch "Thu tịch lữ hoài của Lý Bạch)
Gió Thu thổi lạnh thoáng vèo qua
Nổi nhớ tình quê cảm đậm
         đà
Dãy núi chạy
         dài như bất tận
Nước
         trôi về lại được chăng là ??
Mây cao vút mắt khuất tầm xa 
Trăng sáng thấu soi rỏ ruột ta ?
Đám cỏ thơm đâu tươi
         mượt nữa
Áo hàn mặc
         lạnh lúc sương sa.
Giấc
         mơ rơi tưởng dãy Ngân hà
Lác đác sao trời lúc tỉnh ra
Nước củ ngậm ngùi khi đoái tưởng
Hỏi ai mắt khóc lệ không nhòa
         ??!
SONG QUANG 
Kính Thầy,
Đỗ Chiêu Đức
         xin được bổ sung tài liệu sau đây :
Năm Công nguyên 756, tức là
         năm thứ hai sau loan An Lộc Sơn, Lý Bạch vì bi phẩn trước thời
         cuộc, nên tham gia dưới trướng của Vĩnh Vương Lý Lân.
         Chẳng may, Vĩnh Vương vì tranh đoạt đế vị với Túc Tôn
         thất bại, Lý vì liên lụy nên bị đày xuống Dạ Lang
         ( tỉnh Quý Châu hiện nay ), nhưng dọc đường lại được
         lệnh ân xá, vì thế mà phiêu bạc tha hương....
Bài
         thơ " Thu Tịch Lữ Hoài " có thể được làm vào
         mùa thu năm 758 ( năm Càn Nguyên Nguyên niên cùa Đường Túc
         Tôn ). Lúc bấy giờ Lý vừa được tha, tấm thân lưu lạc
         xứ người, lòng nhớ quê hương cố quốc, nên lời thơ
         bi thiết thê lương là thế !....
Xin phép được góp dịch bằng lời
         thơ 6 chữ sau đây :
NỖI LÒNG ĐẤT KHÁCH ĐÊM THU.
Biển thu gió vàng
         se sắt,
Nhớ quê lòng muốn bay về.
Ngàn trùng núi non mút
         mắt,
Bao giờ nước chảy đến quê ?
Ngút ngàn mây
         trời giăng mắc,
Lòng đau trăng lạnh tái tê.
Cỏ non đâu
         còn mơn mởn,
Sương thu thấm áo não nề.
Ngân Hà
         mờ theo mộng ảo,
Sao thưa trời sáng ủ ê.
Nén sầu vời
         trông cố quốc,
Lệ rơi thấm áo mơ về....
Đỗ
         Chiêu Đức.
Dưới đây là bài diễn nôm của Thi sĩ Tản
         Đà :
Tối
         mùa thu nhớ nhà.
Lạnh lùng gió vượt bể thu,
         
Hồn quê theo gió như vù vù bay. 
Chạy dài dãy núi
         liền mây, 
Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng ?
         
Đám mây vút mắt xa chừng, 
Đứt tươm khúc ruột
         dưới vừng trăng soi. 
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi, 
Áo may mặc rét giục người móc sa! 
Giấc mơ rơi dải
         Ngân hà, 
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời. 
Đoái
         thương nước cũ ngậm ngùi 
Khóc rơi giọt lệ lau chùi
         đố ai ? 
Tản Đà.
NỖI NHỚ ĐÊM THU
Biền trời thu lạnh, gió lê thê
Se sắt trong lòng nỗi nhớ quê
Núi
         thẳm chập chùng xa hút mắt
Sông dài
         trôi mãi. có quay về?
Mây bay chầm chậm mờ xa khuất
Trăng sáng khơi sầu, dạ ủ ê
Cỏ thơm cũng kém màu nhung mượt
Áo ấm mặc rồi vẫn rét tê
Mơ hồ tưởng giải ngân hà rụng
Giật mình: lác đác ánh sao khuya
Trông vời cố quốc, lòng tê tái
Nước mắt tuôn tràn, ai xẻ chia ?
Lộc Mai
.
Trên Đường Thu Buồn
Gió
         thu biển lạnh thổi qua 
Thổi theo cả nỗi
         nhớ nhà long đong
Núi liền núi biếc điệp trùng
Nước trôi trôi mãi có không ngày về ?
Mây xa tầm mắt bay đi
Đứt
         tươm khúc ruột bốn bề trăng soi
Cỏ thơm
         thôi đẹp mướt rồi
Giục người
         mặc áo lạnh trời sương giăng
Dải Ngân
         hà giấc mơ nằm
Tỉnh ra, lác đác
         sao ngâm bầu trời
Nhớ non nước cũ sầu rơi
Khóc rơi nước mắt ai chùi ai lau ?
Trầm Vân

      
      Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ                       
          
Nguyên
         tác: Vi Ứng Vật
Bản
         dịch: Trần Trọng Kim, Mailoc, Lộc Mai, Trầm
         Vân, Song Quang, Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________
Cùng
         Bạn,
Sáng nay nhận được liên tiếp mấy bài họa của
         bạn thơ từ khắp nơi khiến lòng tôi vô cùng cảm khái
         vì bài nào ý cũng hay , hồn thơ cũng dạt dào .Nhân đây
         , xin chuyển đến các bạn một bài thơ của Vi ứng Vật , đọc
         lên tôi cảm thấy bùi ngùi , thương cảm nhiều. Đã cuối
         tuần rồi xin mời các bạn thơ góp vần cho vui nhé .
Thân
         mến 
ML
Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ 
Nguyên tác: Vi Ứng Vật
寄全椒山中道士 
韋應物 
今朝郡宅冷, 
忽念山中客。 
澗底束荊薪, 
歸來煮白石。 
欲持一瓢酒, 
遠慰風雨夕。 
落葉滿空山, 
何處尋行蹟? 
Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ
         
Vi Ứng Vật 
Kim triêu quận trạch lãnh, 
Hốt niệm
         sơn trung khách. 
Giản để thúc kinh tân, 
Quy lai chử bạch
         thạch. 
Dục trì nhất biều tửu, 
Viễn uỷ phong vũ tịch.
         
Lạc diệp mãn không sơn, 
Hà xứ tầm hành tích? 
--Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Thư gửi cho đạo sĩ ở trong núi Toàn Tiêu 
Sáng nay quận
         thự lạnh lùng, 
Trạnh niềm nhớ khách ở trong núi rừng. 
Dưới khe nhặt củi lăng nhăng, 
Đem về
         bên đá nhì nhằng nấu đun. 
Muốn đem tặng hủ rượu
         ngon, 
Để khi mưa gió giải buồn hôm nay. 
Rừng không lá
         rụng đầy nơi, 
Biết đâu hành tích mà sai người
         tìm. 
--Bản dịch của MaiLộc:
Sáng nay quận đường trời giá lạnh ,
Chạnh nhớ người cô quạnh rừng sâu .
Dưới khe nhặt củi , dãi dầu ,
Lò
         kê trên đá vùi đầu thổi cơm .
Ta muốn
         mang rượu ngon một hủ ,
Chút hương
         nồng ấp ủ đêm mưa .
Ngập rừng
         lá đổ gió lùa ,
Nơi nao biết
         dấu mà đưa đến ngưòi ? 
-Bản dịch
         của Lộc Mai:
THƯƠNG NGƯỜI ĐẠO SĨ GIỮA RỪNG
Sớm mai
         lạnh giá hơi sương
Thương người vò võ núi rừng xa xôi
Củi khô
         nhặt một bó vơi
Loay hoay nhóm bếp tạm thời nấu đun
Động
         lòng, muốn tặng rươu ngon
Để người ấm bụng những
         hôm mưa dầm
Mênh mông rừng thẳm, lá tuôn
Biết đâu
         tung tích mà mong gặp người !
Lộc Mai
-Bản dịch của
         Trầm Vân:
Lạnh về quận thự sáng nay 
Chạnh lòng nhớ khách từng ngày rừng sâu
Dưới khe nhặt củi dãi dầu
Đem về
         góc đá vùi đầu nấu đun
Muốn
         đem tặng hũ rượu ngon
Phòng khi mưa gió
         giải buồn đầy vơi
Núi non dày đặc
         lá rơi
Biết đâu chỗ ở tìm người
         không ra
Trầm Vân
-Bản
         dịch của Song Quang:
THƠ GỞI ĐẠO HUYNH TRÊN NÚI
Trời
         lạnh thư trai buổi sớm mai
Nhớ người chợt nghỉ Đạo
         Huynh này
Xuống khe tìm củi về nhum bếp
Ra gốc đá vùi
         nấu bửa chay
Quảy rượu ngon theo mời một hủ
Giải buồn,mưa
         gió bỏ ngoài tai
Lá rơi dày đặc đầy non thẩm
Biết
         nẻo mô tìm dấu vết đây ??!
SONG QUANG
-Bản dịch của Đỗ Chiêu Đức:
Đây
         là một dị bản nữa của bài thơ, chỉ khác một chữ
         ở câu đầu :
Kim triêu quận TRAI lãnh.
và Kim triêu quận
         TRẠCH lãnh,
TRAI : là Cái Trại. THƯ TRAI : là cái trại cất
         riêng để đọc sách, khác với THƯ PHÒNG : là cái phòng
         đọc sách nằm trong nhà.
QUẬN TRAI : là Phòng sách ở trong
         quận, một cách nói của nơi Quan Quận làm việc. QUÂN TRẠCH
         : Trạch cũng là Nhà, nên Quân Trạch cũng là nhà làm việc
         trong Quận. Hai cách nói giống nhau thôi, chỉ phân tích để nghe
         chơi thôi !
CHỮ BẠCH THẠCH : là Nấu đá trắng. Theo tích
         Thần Tiên Truyện thì Đạo sĩ tu tiên ở trong núi không có
         ăn cơm gạo, chỉ nấu đá trắng làm lương thực mà
         thôi, ăn để thành tiên mà ! Nên có thành ngữ là
         " Chữ Thạch vi lương "( nấu đá làm lương thực ) là
         thế !
Xin tham gia với bài diễn nôm sau đây :
寄全椒山中道士 GỞI ĐẠO SĨ TOÀN TIÊU TRONG NÚI
今朝郡齋冷, Thư trai sáng se lạnh,
忽念山中客。 Chợt nhớ đến đạo huynh. 
澗底束荊薪, Dưới khe tìm nhúm củi,
歸來煮白石。 Mang về nấu đá xanh.
欲持一瓢酒, Ta quảy theo bầu rượu,
遠慰風雨夕。 Mưa gió ấm chút tình.
落葉滿空山, Lá rơi đầy núi vắng,
何處尋行跡。 Biết
         đâu mà tìm anh !?
.
韋應物 Đỗ
         Chiêu Đức diễn nôm.
      
      Túc nghiệp sư sơn phòng đãi Đinh
         Đại, bất chí                                  
         
Cùng Bạn
Xin chuyển
         đến bạn một bài thơ của Mạnh hạo Nhiên , xin mời bạn
         thơ góp vần tìm vui một chút cuối tuần .
Thân
Mailoc
Túc nghiệp sư sơn phòng
         đãi Đinh Đại, bất chí
Nguyên tác: Mạnh Hạo Nhiên
宿業師山房待丁大不至 
孟浩然 
夕陽度西嶺, 
群壑倏已暝。 
松月生夜涼, 
風泉滿清聽。 
樵人歸欲盡, 
煙鳥棲初定。 
之子期宿來, 
孤琴候蘿逕。 
Túc nghiệp sư sơn phòng
         đãi Đinh Đại, bất chí 
Mạnh Hạo
         Nhiên 
Tịch dương độ tây lĩnh, 
Quần hác thúc dĩ
         mính. 
Tùng nguyệt sinh dạ lương, 
Phong tuyền mãn thanh thính.
         
Tiều nhân quy dục tận, 
Yên điểu thê sơ định. 
Chi tử kỳ túc lai, 
Cô cầm hậu la kính. 
--Dịch nghĩa:--
         
Đêm ngủ ở sơn phòng của nghiệp sư, 
chờ
         Đinh Đại, không đến 
Qua tây lĩnh lúc chiều xuống 
Các hang hóc bỗng chốc
         chìm trong bóng tối 
Hàng tùng và ánh trăng làm đêm
         lạnh thêm 
Nghe rõ tiếng gió vang và tiếng suối reo 
Tiều
         phu đã về hết 
Chim sương bắt đầu tìm chỗ trú
         
Người (bạn) ấy hẹn đến ở lại qua đêm 
Mình
         ta ôm đàn đợi nơi con đường nhỏ. 
DỊCH THƠ :
(1)
Qua
         Tây Lĩnh nắng chiều ngả bóng ,
Bóng
         tối tràn hang động thật nhanh .
Trời
         đêm trăng lạnh thông xanh ,
Gió vang
         suối nhạc âm thanh trong ngần .
Tiều phu
         đã dần dần về hết ,
Trong khói
         sương khuất vết chim trời .
Đêm
         nay bạn hẹn đến chơi ,
Ôm đàn
         đường nhỏ đợi người mình ta .
Mailoc
         phỏng dịch
(2)
Tây
         lĩnh chiều dần tàn ,
Hố hang tối
         ngập tràn .
Trăng , tùng , đêm lạnh giá ,
Trong gió suối reo vang .
Vội
         vã tiều về hết ,
Chim sương trú núi
         ngàn .
Bạn cùng đêm ước hẹn
         ,
Đường nhỏ , đợi ôm đàn
         .
ML phỏng dịch
Qua Tây Lĩnh
         ngả bóng chiều
         
Đêm sa hang động chìm
         liêu xiêu chìm
Tùng chen trăng rải lạnh thêm
Gió vang tiếng suối reo mềm bờ sương
Bóng tiều phu khuất nẻo đường
Chim tìm nơi đậu cành vương tơ trời
Đêm nay bạn hẹn đến chơi
Ôm
         đàn lối nhỏ chờ người tri âm
Trầm
         Vân
TÂY LĨNH ĐỢI
         NGƯỜI
Đường
         qua Tây Lĩnh nắng chiều buông
Hang động lặng chìm khuất ánh dương
Trăng lạnh vén màn mây lấp ló
Gió vang suối nhạc suốt đêm
         trường
Tiều phu vội vả
         về dần hết
Chim chóc
         tìm nơi trú tránh sương
Bạn hởi ! tôi chờ giây ước hẹn
Ôm đàn ngồi khảy đợi bên đường
SONG QUANG
Đỗ
         Chiêu Đức xin được tham gia bài dịch bằng thơ 6 chữ...
Nắng chiều xuyên qua tây lãnh,
Ngàn non khuất bóng hôn hoàng.
Trăng chiếu đầu thông đêm
         xuống,
Suối reo gió rít miên mang ,
Vắng bóng tiều phu xuống
         núi,
Muôn chim yên tổ trên ngàn.
Người hẹn cùng ta
         qua tối,
Đường rêu đợi bạn khúc đàn.
Đỗ
         Chiêu Đức.
Lộc Mai xin được góp bài phỏng dich:
ĐỢI BẠN
Tây
         Lĩnh chiều buông nắng cuối ngày
Hang động tỏ mờ trong khói mây
Hàng thông lặng lẽ, trăng khuya lạnh
Suối reo, gió thoảng, nhạc xa bay...
Hối hả, tiều phu về cuối nẻo
Vội vã, chim trời khuất bóng cây
Hẹn bạn đêm nay cùng đối
         ẩm
Ôm đàn, ta
         đợi dưới trăng say...
Lộc Mai
HẺM NÚI CHIỀU ĐỢI BẠN
Bóng
         chiều đã ngả phía non tây
Hang hốc chìm trong bóng tối dày
Bóng
         nguyệt rải tùng thêm lạnh lẽo
Suối reo dưới gió tiếng đầy
         tai
Tiều phu gánh củi đà về hết
Lác đác chim
         về đậu khói cây
Bạn hẹn với mình đêm nay tới
Hẻm núi
         ôm đàn ta đợi đây
C.D.M. 
      
      
SÁNG THU SOI GƯƠNG
Nguyên tác: Tiết Tắc
Bản dịch: Phạm Khắc
         Trí, Song Quang, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh Hữu
___________________________________________________________________
Đi xa về , mãi
         đến đêm qua mới đọc được ĐS 17. Thật cảm động.
         Tôi ngồi chuyển dịch lại bài Thu Triêu Lãm Kính của Tiết
         Tắc trong Thu Xưa (trang 209) để thay lời cám ơn muộn đến quí
         anh chị em trong gia đình PTG-ĐTĐ , và riêng đến ban tổ chức
         ĐH 16 và ban biên tập ĐS 17. Cầu chúc an lành.Thân kính . PKT
         04/19/2013
THU TRIÊU LÃM KÍNH
Tiết Tắc (649 - 713)
Khách tâm kinh lạc mộc
Dạ tọa thính thu phong
Triêu nhật khan dung mấn
Sinh nhai tại kiến
         trung
LOOKING
         AT MY FACE IN THE MIRROR 
Translated by PKT 04/18/2013
Away from home , I feel uncomfortably
         to see the falling leaves 
sitting all night to hear
         the sound of autumn wind 
in the morning looking at my face in the mirror 
I wonder who that person
         is but not me 
SÁNG THU SOI GƯƠNG
PKT 04/18/2013
Thu về ngại lá rụng ,
Đêm gió lộng canh
         dài.
Sáng lấy gương soi mặt ,
Ngấn ngơ nhìn
         tưởng ai . 
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com 
SÁNG
         THU SOI GƯƠNG
Mỗi độ Thu về ngại lá bay !
Đêm khuya gió lộng suốt canh dài
Sáng
         ra lấy kiến nhìn khuôn mặt
Ngơ ngẩn thấy
         mình lại tưởng ai ?
SONG QUANG
.
Sáng
         thu soi gương
(1) 
Lá rơi khách bàng-hoàng ,
Đêm , gió thu vang vang .
Sáng sớm dung nhan ngắm ,
Trong gương thấy bẻ-bàng .
Mailoc
(2)
Tiếng lá rơi làm khách rụng rời .
Đêm thu nghe gió rít
         ngàn khơi .
Sớm
         mai thức dậy , dung nhan ngắm ,
Ngao-ngán trong gương một cuộc đời .
Mailoc
(3)
Tiếng lá rơi làm khách kinh động ,
Đêm thu nghe gió lộng
         trên ngàn .
Sớm
         mai ngắm lại dung nhan ,
Cuộc đời vất vả rõ ràng trong gương !
Mailoc
_______________
Đỗ Chiêu Đức:
.
THU TRIÊU LÃM KÍNH
Đỗ Chiêu Đức
         cũng xin được tham gia bằng bảng viết tay và 2 bản dịch của
         40 năm trước ( 1972 ) :
1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :
秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木, Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。 Dạ
         tọa thính thu phong.
朝日看容鬢, Triêu
         nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。 Sinh nhai
         tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.
 Ảnh bên: Bản vitế tay của ĐCĐ
         (1972)
2. Tiểu sử TIẾT TẮC :
薛稷(649~713),中国唐代画家,书法家。字嗣通,蒲州汾阴(今山西万荣)人。曾任黄门侍郎、参知机务、太子少保、礼部尚书,后被赐死狱中。工书法,师承褚遂良,与虞世南、欧阳询、褚遂良并列初唐四大书法家。善绘画,长于人物、佛像、树石、花鸟,尤精于画鹤,能准确生动地表现出鹤的形貌神情。无作品传世。
TIẾT
         TẮC ( 649-713 ), Ông là nhà thư pháp, họa sĩ và thi sĩ đời
         Đường. Tự là Tự Thông, người đất Bồ Châu thuộc
         Phần Dương ( thuộc Vạn Vinh Sơn Tây ngày nay ). Từng giữ chức
         Hoàng Môn Thị Lang, Tham Tri Cơ Vụ, Thái Tử Thiếu Bảo, Lễ Bộ
         Thượng Thư. Sau bị vua xử chết trong ngục. Ông giỏi về thư
         pháp, thầy học là Chữ Toại Lương, cùng với Ngu Thế Nam,
         Âu Dương Tuân hợp xưng là Sơ Đường tứ đại Thư
         Pháp Gia. Lại giỏi về vẽ, chuyên về vẽ người, Phật, Cây
         đá, Hoa chim, đăc biệt giỏi về vẽ Hạc, có thể biểu
         hiện một cách sinh động chuẩn xác hình dáng và điệu
         bộ của Hạc, nhưng không có tác phẩm để lại đời
         sau (?!).
3.
         Chú Thích :
KINH : là Sợ, nhưng ở đây có nghĩa là
         Giật Mình.
LẠC MỘC : là Loại cây có thân cao lớn và
         là rụng vào mùa thu.
TRIÊU : là Buổi. Vd : Dưỡng quân
         thiên nhật, Dụng tại nhất TRIÊU là Nuôi quân ngàn ngày,
         dùng trong một BUỔI. TRIÊU còn có nghĩa là Buổi Sáng : Vd:
         Triêu Vân : Mây Buổi Sáng. Trong bài thơ TRIÊU NHẬT : là Sáng
         ngày.
DUNG MẤN : Dung là Nét Mặt, Mấn là Tóc Mai. Khi nhìn
         vào gương, ta sẽ thấy gương mặt và tóc mai hiện lên
         trước nhất.
SINH NHAI : là Cách Sinh Sống, ở đây dùng với
         nghĩa bóng, chỉ sự vật vả, bon chen trong cuộc sống đều hiện
         lên trên nét mặt với những nếp nhăn với những sợi tóc
         mai sớm bạc...
4. Diễn Nôm :
SÁNG THU SOI GƯƠNG
Lá rụng kinh lòng
         khách,
Đêm nghe tiếng thu reo.
Sáng ra trông gương thấy,
Tóc mai cũng bạc theo.
Lục bát : 
Bàng hoàng lòng khách
         lá rơi,
Đêm ngồi nghe gió thu bồi hồi thương.
Sáng
         ra nhìn bóng trong gương,
Tóc râu mặt mũi pha sương mất
         rồi !
Đỗ Chiêu Đức.
1972.
.
 Danh Hữu:
Góp vui cùng các bạn !
Gửi các
         anh vài dòng thơ cảm hứng dịch sáng chủ nhật.
秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木, Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。 Dạ tọa thính thu phong.
朝日看容鬢, Triêu nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。 Sinh nhai tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.
Soi gương buổi sáng thu
Khách vốn sợ lá rơi,
Đêm
         qua, gió tơi bời;
Tóc tai, sáng ra ngắm :
Trong gương hiện rõ đời.
Danh Hữu dịch
____________________________________________________
      
      Khuyết nguyệt quải sơ
         đồng
Ai tri âm đó , mặn
         mà với ai?
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
PKT 03/09/2013 
Bốc Toán Tử
Tô Đông Pha (1037 -1101)
Khuyết nguyệt quải sơ đồng
Lậu đoạn nhân sơ tĩnh
Thùy kiến u nhân độc vãng lai
Phiếu điểu cô
         hồng ảnh
Kinh khởi khước hồi đầu
Hữu hận
         vô nhân tỉnh
Giản tận hà chi bất khẳng thê
Tịch
         mịch sa châu lãnh
Dịch Xuôi : Khuyết
         Nguyệt Quải Sơ Đồng (Theo Điệu Bốc Toán Tử)
PKT
         03/09/2013
Vầng trăng khuyết treo trên cành
         ngô đồng trơ lá ,
Lậu đoạn canh tàn ,
Đâu có ai thấy
         người ở ẩn, chiếc thân tha thẩn trong đêm thanh vắng.
Một
         bóng chim hồng cô đơn trên vùng trời phiêu lãng ,
Giật
         mình bay hoảng lên cao ,còn ngoái đầu nhìn xuống ,
Ai
         thấu cho lòng mang nỗi hận này ,
Không chọn được
         một cành cây khô nào ngủ đậu qua đêm ,
Bờ
         sông im lìm cát lạnh !
Phụ Chú : Lậu đoạn = đêm
         khuya ,đồng hồ nước ngưng nhỏ giọt.
Đêm Trăng Khuyết
Cành ngô trơ lá trăng treo 
Đồng hồ ngưng nhỏ nước theo đêm
         dài
Một mình thơ thẩn
         ai hay
Chim cô đơn giữa trời bay một
         mình
Lên cao xuống thấp lặng
         thinh
Ai hay nỗi hận gập ghềnh niềm riêng
Cây khô nào đậu qua đêm 
Bên sông cát trắng im lìm vô thanh
Trầm Vân
Khuyết Nguyệt Quải Sơ Đồng
Cành ngô đồng ,trăng
         non hiu hắt 
Trong đêm
         thanh tí tách tiếng đồng .
Tới lui ẩn sĩ se lòng ,
Lơ mơ một bóng chim hồng đêm
         thâu 
Bỗng kinh
         hoàng quay đầu nhìn lại ,
Người vùi say , cảm khái riêng mình .
Đắn đo chẳng chịu đậu cành ,
Bơ vơ cồn cát lạnh tanh bốn bề .
Mailoc phỏng dịch
      
      Nhân Gian Như Mộng
Nguyên tác Tô Đông
         Pha - Bản dịch Phạm Khắc Trí, Trầm Vân - Cảm
         tác Song Quang
___________________________________________________________________
Ngày
         Xuân , chút cảm hứng từ một nét đẹp trong thơ xưa ghi vội,
         gửi người thân quí, để đọc cho vui và để ...thương
         nhau hơn ở những ngày tháng còn lại trong cõi nhân gian như
         mộng này .PKT 02/25/2013.
Nhân Gian Như Mộng
Tô Đông Pha (1037
         - 1101)
Cố quốc thần du
Đa
         tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát
Nhân gian như mộng
Nhất tôn hoàn lỗi giang nguyệt
Dịch Xuôi : Cõi Người Như Mộng
PKT 02/25/2013
Chốn cũ ngao du
Mặc ai cười ta đa tình
Tóc đã sớm bạc
Cõi người như mộng
Đổ chén
         rượu xuống sông mời vầng trăng đáy nước
Nhân Gian Như Mộng
PKT 02/25/2013
Ngược xuôi gió bụi,
Chốn cũ về thăm,
Tóc xanh sớm bạc, 
Thấm thoắt bao năm .
*
* *
Lung linh thiên
         cổ ,
Cười gã đa tình , 
Chén rượu đổ sông
         ,
Thức ai đáy nước ,
Nằm ôm trăng ngủ ,
Gối vạn
         cổ sầu.
*
* *
Nhân gian như mộng ,
Chút tình gửi đâu
         ?
Chú Thích :
1 - Nhân Gian Như Mộng ,(tựa đề này do tôi
         tự đặt) , là 5 câu cuối trong một bài từ Niệm Nô Kiều
         "Xích Bích Hoài Cổ " của Tô Đông Pha (1037 -1101).
2- Truyền
         thuyết , Lý Bạch (701 - 762), cuối đời thành tiên , uống rượu
         say ,nằm ôm trăng ngủ dưới đáy nước trong lòng sông
         Thái Thạch bên Tàu . 
Tri
         Khac Pham
Phamid1934@gmail.com 
Bản dịch Trầm Vân:
Nhân Gian Như Mộng
Lại về chốn
         cũ ngao du 
Mặc ai cười cợt ta mơ đa tình
Tóc nay sợi bạc mỏng manh
Cuộc
         đời như mộng thoáng thành lão ông
Tay cầm
         chén rượu đổ sông
Mời vầng trăng
         nước bềnh bồng cơn say
Trầm Vân
Cảm tác Song Quang:
SQ
         xin có bài thơ "Cảm tác" theo ý thơ "Nhân Gian như mộng"
         chứ không dám là bài dịch vì câu dài hơn nguyên tác
         và có thêm những ý phụ.Xin Thầy và quý thi huynh miển chấp.Đa
         ta. Song Quang
CÕI NGƯỜI NHƯ MỘNG
Đi loanh quanh cũng
         về chốn củ
Vốn đa tình,mặc thế cợt cười
         !
Tóc nay đã sớm bạc rồi
Xem như giấc mộng
         cuộc đời thế nhân.
Cầm chén rượu đỗ sông
         mời mọc
Cùng vầng trăng đáy nước uống say
Đời
         sao biết được ngày mai ??
"Cỏi người như mộng"
         u hoài mà chi !
SONG QUANG
      
      KÝ NỘI
Phan Thanh Giản, Trầm Vân,
         Mailoc, Song Quang, C.D.M.
Xướng:
Ký Nội
         
Từ buổi vương se
         mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường
         mây cười tớ ham rong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh
         lùng
Ân nước nợ trai đành lỗi phận
Cha già nhà
         khó cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn lâm biệt
Rằng
         nhớ rằng quên lòng hỡi lòng.
Phan Thanh Giản
Họa:
Tâm Sự
Từ lúc tình se dệt sợi hồng
Đời như con nước chảy về sông
Cơm rau đạm bạc thương mòn
         mõi
Ánh mắt hân hoan nhớ
         lạ lùng
Vai
         địu nợ trai hồn khắc mãi
Dạ mang ơn nước gió theo cùng
Việc nhà trông cậy vào nương
         tử
Nghĩa nặng ân sâu
         ngập cõi lõng
Trầm Vân ( họa )
Nỗi Lòng.
Sắc thắm trời tây nhuộm ráng hồng ,
Thành Nam hiu quạnh máu thành sông .
Bóng chim biền biệt tin mòn mõi ,
Tiếng cuốc bi ai , nước lạnh lùng.
Quyết chiến , thương dân , lòng chẳng nỡ ,
Cam tâm hàng phục , nhục vô cùng .
Lòng ta tan nát , non sông hỡi !
Chén
         đắng nầy đây chẳng thẹn lòng .
Mailoc ( cựu học sinh trường
         PTG)
Cali 02-23-13
CẠN NỖI LÒNG
Sợi chỉ Ông Tơ buộc
         má hồng
Tình nầy trót nợ núi cùng sông
Nước
         non ghi tạc câu chung thủy
Nghĩa vợ thương em để lạnh
         lùng
Lục tỉnh Nam Kỳ :trung muốn giử
Hại
         dân,lực yếu :bại khôn cùng
Thôi đành thuốc độc
         :lời ly biệt
Cái chết thay cho cạn nổi lòng.
SONG QUANG
KHÔNG BIẾT GỬI AI
Biền biệt phương nao cánh nhạn hồng
Bờ
         nào ngăn cách những giòng sông
Nhớ về quê cũ khôn
         vơi lệ
Người hỡi đêm thâu có lạnh lùng
Ước hẹn sẽ về trao tâm sự
Mà sao ngăn
         cách đến không cùng
Một nước một non người
         đâu tá
Nỡ để cho nhau luống thẹn lòng
C.D.M.
MONG NHẠN
Tin nhạn
         ngồi mong dưới nắng hồng
Thẹn cùng người trước
         , với non sông
Nhìn quanh dáo dác hồn tê dại
Chỉ thấy mây bay mãi lạnh lùng
Lác đác
         bên đường người bương trải
Mình ta ngóng
         đợi kẻ đi cùng
Danh lợi nhử người ta chẳng ngó
Gửi thơ nhắn với bạn chung lòng
C.D.M.
         
 
___________________________________________________
 
      
      Xuân đề hồ thượng

Cùng Bạn
Mấy năm trước
         , tới Hàng Châu , tôi có dịp du ngoạn thưởng thức cảnh
         đẹp Tây Hồ. Cảnh tuyệt đẹp 
say đắm , thật
         khó quên .Xin chuyển đến bạn mấy dòng thớ của BCD tả cảnh
         hồ về Xuân tuyệt vời .
Mời các bạn thơ mình
         tham gia góp vần cho vui lúc Xuân về
Thân 
ML
Xuân đề hồ thượng
Nguyên tác: Bạch Cư Dị
春题湖上 
白居易 
湖上春来似画图,乱峰围绕水平铺。 
松排山面千重翠,月点波心一颗珠。 
碧毯线头抽早稻,青罗裙带展新蒲。 
未能抛得杭州去,一半句留是此湖。 
Xuân đề hồ thượng 
Bạch Cư Dị 
Hồ thượng
         xuân lai tự họa đồ 
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô
         
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy 
Nguyệt
         điểm ba tâm nhất khỏa châu 
Bích thảm tuyến đầu
         trừu tảo đạo 
Thanh la quần đái triển tân bồ 
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ 
Nhất bán câu lưu
         thị thử hồ 
Dịch nghiã
Xuân về trên hồ , cảnh đẹp như tranh vẽ
Núi lô nhô bao quanh mặt
         nước phẳng lặng
Thông bày ra nghìn lớp xanh biếc trên sườn núi 
Trăng dọi vào sóng
         nước lấp lánh như hạt ngọc 
Luá nếp sớm như những sợi tơ trên tấm thảm
         biếc 
Lớp cỏ
         bồ mới nảy lộc như dải lụa xanh
Ta chưa bỏ Hàng Châu đi ngay được 
Một nửa vì cảnh hồ
         này níu kéo lại
-- Bản dịch cuả Mailoc
Xuân về hồ đẹp tựa tranh tô,
Phẳng lặng mặt hồ núi
         nhấp nhô .
Xanh
         biếc ngàn thông đồi núi lặng , 
Long lanh châu ngọc nước trăng xô
         .
Thảm xanh
         lúa sớm khoe mầm nõn ,
Dãi biếc cỏ bồ nhú lụa tơ .
Chưa bỏ Hàng Châu ngang dứt
         được ,
Cũng
         vì bịn rịn cảnh sông hồ .
Mailoc phỏng dịch
Bản dịch Song Quang:
XUÂN
         VỀ TRÊN HỒ
Cảnh đẹp, Xuân về tựa bức tranh
Mặt
         hồ phẳng lặng núi bao quanh
Ngàn thông xanh ngắt trên
         đồi dốc
Trăng dọi nước hồ chiếu lóng lanh
Lúa
         sớm khoe mầm như thảm biếc
Cỏ bồ nảy lộc giống
         đồng xanh
Hàn Châu chưa thể rời đi được
Bịn
         rịn cảnh hồ, níu bước chân.
SONG QUANG
.
Bản
         dịch Đỗ Chiêu Đức:
Xin được góp ý và tham gia
         với các phần sau : 
1. Về ý nghĩa của câu thứ 6 :
" Thanh la quần
         đái triển tân bồ "
* THANH LA : Thanh là màu Xanh. LA là LÀ,
         Lụa Là. nên Thanh la là Giải lụa màu xanh. 
* QUẦN ĐÁI
         : Quần là Cái Quần mà ta mặc. Đái là Cái Thắt lưng,
         là Dây nịt. Nên Quần Đái là Dây thắt lưng quần. 
THANH LA QUẦN ĐÁI : là Giải lụa xanh dùng để thắt lưng
         của mấy bà mấy cô thời xưa. thường rất dài, cho nên
         thắt xong, dây còn thừa buông xõa một bên, khi gió thổi thì
         phất phơ cho thêm phần yểu điệu... thục nữ !. 
Bạch Cư
         Dị đã ví các cọng cỏ Bồ mới mọc ở ven hồ phất
         phơ trước gió giống như là những dãi lụa thắt lưng
         xanh phất phới của các nàng giai nhân, mỹ nữ ở Hàng Châu.
         Tô Châu, Hàng Châu nổi tiếng là nơi có Cảnh đẹp,
         Người đẹp và Món ăn ngon với câu xưng tụng sau đây
         : " Thượng hữu Thiên Đàng, Hạ hữu Tô Hàng ". Có
         nghĩa : " Trên trời thì có Thiên Đàng, còn dưới đất
         thì có Tô Châu và Hàng Châu " !.
2. Diễn nôm :
CẢM
         ĐỀ XUÂN TRÊN HỒ TÂY
Xuân đến Tây Hồ đẹp
         tựa tranh,
Nhấp nhô núi biếc nước xây thành.
Thông
         reo lớp lớp cành xanh mướt,
Trăng chiếu long lanh sóng bủa quanh.
Thảm lúa chập chờn oằn hạt mới,
Cỏ bồ phất phới
         thắt lưng xanh.
Hàng Châu lưu luyến rời không nở,
Nửa
         bởi Hồ kia, bước chẳng đành !
Đỗ Chiêu Đức.
.
Bản
         dịch Trầm Vân: 
Hồ Xuân
Hồ xuân cảnh
         đẹp như tranh 
Lô
         nhô bóng núi bao quanh chập chờn
Ngàn thông xanh biếc núi non
Ánh trăng ngà ngọc soi hồn
         long lanh
Thảm tơ
         lúa sớm mong manh
Cỏ
         bồ kết dải lụa xanh lững lờ
Hàng Châu cảnh đẹp như mơ
Níu chân ta biết
         bao giờ mới xa
Trầm
         Vân
 
______________________________________________________________________________
      
      XUÂN VỌNG    
Đỗ Phủ. 
Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Mailoc             
Kính mời chư liệt vị Tiền Bối, Bằng Hữu cùng
         dịch bài thơ " XUÂN VỌNG " của Đỗ Phủ. Bài thơ
         tuy cũ và đã dược rất nhiều người dịch, nhưng ý
         nghĩa sâu xa của nó cũng còn rất đa dạng..... Trân trọng
         kính mời !....
杜甫
杜甫(712—770),字子美,自号少陵野老,唐代大诗人,
Đỗ Phủ ( 712-770 ) , tự là Tử Mỹ , Tự hiệu
         là Thiếu Lăng Dã Lão, thi nhân đời Đường.
春望

Ảnh trên: Bài thơ XUÂN VỌNG
         được viết bằng chữ Thảo
XUÂN
         VỌNG Đỗ Phủ 
Năm Chí Đức thứ
         2 ( 757 ) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng
         An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Thi nhân nhìn cảnh
         xuân với tâm tình của một con dân mất nước, núi sông
         vẫn như cũ, nhưng nước đã mất nhà đã tan, xuân
         về nhưng cả thành Tràng An đều đượm vẻ thê lương,
         xúc cảnh sanh tình tạo nên lời thơ cảm khái và bi thương
         qua bài Ngũ ngôn Luật Thi sau đây...
春 望 XUÂN VỌNG
杜 甫 Đỗ Phủ
國破山河在 Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。 Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚, Cảm thời hoa tiễn
         lê,
恨別鳥驚心 Hận biệt điểu
         kinh tâm.
烽火連三月 Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。 Gia thư để vạn
         kim.
白頭搔更短, Bach. đầu tao cánh
         đoản,
渾欲不勝簪 Hồn dục bất thắng trâm.
CHÚ THÍCH :
1. Quốc Phá : trong Thành ngữ " Quốc Phá
         Gia Vong ", tương đương với câu nói " Nước mất nhà
         tan " của ta.
2. Thâm : là Sâu, là Đậm, Ở đây nghĩa
         là Xanh om tươi tốt.
3. Tiễn : là Ép cho tuôn trào ra. Tiễn
         Lệ là ứa lệ, là rơi lệ.
4. Phong Hỏa : Đài cao dùng
         đốt lửa để báo hiệu quân địch tấn công. Ở đây
         chỉ Chiến Tranh.
5. Để : là Đáng giá, Có giá trị
         như...
6. Tao : là gãi. Ở đây có nghĩa là dùng các
         ngón tay để gom tóc lại.
7. Hồn Dục : là Gần như, là
         Hầu như.
8. Bất Thắng : Ở đây không có nghĩa là Thua
         ( không thắng ), mà là Không Thể. 
9. Trâm : Danh Từ là Cây
         Trâm. Ở đây là Động Từ, nên có nghĩa là Cài
         Trâm.
10. Vọng : là Hy Vọng. Ở đây là Trông Ngóng, Mong
         chờ.
DỊCH NGHĨA :
XUÂN MONG CHỜ
Nước đã mất, nhưng núi sông thì
         hãy còn trơ đó , thành Trường An vào xuân cây cỏ
         vẫn xanh om tươi tốt ( vì cỏ cây đâu biết hờn mất nước
         ). Lòng đầy xúc cảm vì thời cuộc, nên trông hoa nở cũng
         khiến lệ rơi,Hận vì chiến tranh cách biệt, nên nghe tiếng chim
         kêu cũng kinh hãi trong lòng. Chinh chiến tràn lan suốt ba tháng nay, tin
         nhà đều bặt, nên nhận được thơ nhà thấy quý giá
         như được ngàn vàng. Tuổi già tóc bạc, vuốt thấy đã
         rụng và ngắn lại nhiều, hầu như không còn búi được
         để cài trâm nữa !
DIỄN NÔM : 
Nước mất núi sông còn đó,
Vào xuân hoa cỏ xanh rì.
Đau
         xót hoa còn rướm lệ,
Kinh hoàng chim sợ phân ly.
Khói
         lửa mịt mờ ba tháng,
Thư nhà khoắc khoải người đi.
Tóc bạc bơ phờ năm tháng,
Trâm cài chẳng được
         còn chi !
Đỗ Chiêu Đức.
. . Riêng câu 3 và 4 có thể giải là :
Cảm thương về thời cuộc đão điên, nên
         hoa cũng ứa lệ.
Ly hận của sự biệt ly, làm cho chim cũng cảm
         thấy kinh hoàng....
Hiểu như trên , lại
         làm cho ta nhớ đến bài thơ " GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG "
         của Nhà thơ THẾ LỮ...
" Hôm nay tạm
         nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ rang.
Rủ áo
         phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân
         sang !
và....
Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : "
         HOA KIA KHÓC HỘ NGƯỜI ! "
Đỗ
         Chiêu Đức .
.
Mailoc phỏng dịch:
Ngóng Xuân 
Nước tan tành , núi sông còn đó ,
Thành vào Xuân cây cỏ xanh
         tươi .
Hoa
         buồn thế sự lệ rơi ,
Biệt ly , khắc khoải chim trờì chơi vơi .
Ba tháng rồi , ngất trời hiệu
         lửa ,
Tin tức
         nhà qúi tựa tiền muôn .
Vò đầu tóc trắng cứ tuôn ,
Dường như ngắn ngủn khó
         luồn trâm qua .
Mailoc phỏng dịch
      
      TRỪ DẠ HỮU HOÀI Thôi Đỗ
NỖI
         NHỚ ĐÊM CUỐI NĂM. Đỗ Chiêu Đức,
         Quên Đi, MaiLoc, Song Quang_______________________________
1.Đỗ Chiêu Đức
Cũng
         TRỪ DẠ HỮU HOÀI, cũng tấm thân phiêu lãng, lữ thứ tha hương,
         nhưng tâm sự của THÔI ĐỒ xót xa thảm hại hơn Mạnh Hạo
         Nhiên rất nhiều. Ta hãy cùng chia xẽ với tác giả tâm sự
         qua bài thơ sau đây :
除夜有懷 TRỪ DẠ HỮU HOÀI
迢遞三巴路, Điều đệ tam ba lộ,
羈危萬里身。 Ký nguy vạn lý thân.
  亂山殘雪夜, Loạn sơn tàn nguyệt dạ,
孤燭異鄉人。 Cô chúc dị hương nhân.
  漸與骨肉遠, Tiệm dữ cốt nhục viễn,
轉於奴僕親。 Chuyển ư nô bộc thân.
  那堪正飄泊, Na kham chánh phiêu bạc,
來日歲華新。 Lai nhật tuế hoa tân.
崔涂 Thôi Đồ
CHÚ THÍCH :
1. Điều Đệ : Xa xôi diệu dợi.
2.
         Tam Ba : Chỉ xứ Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, nay thuộc đông bộ của
         tỉnh Tứ Xuyên.
3. Ký Nguy : Chỉ Trong nguy nan mà thân lại ở
         xứ người.
4. Câu số 4 : Có bản chép là : " Cô độc
         dị hương xuân " 孤獨異鄉春 . Có nghĩa : Mùa xuân đến mà
         chỉ có một thân một mình nơi đất khách tha hương. CHÚC
         : Là Đuốc. Hoa Chúc : là Đuốc Hoa. Cô Chúc : là Cây đuốc
         cô đọc lẻ loi.
5. Đồng Bộc Thân : Đồng là Tiểu
         đồng, Thư đồng. Bộc là Nô bộc. Thân là Thân thiết
         . Đồng Bộc Thân có nghĩa : Cả thư đồng nô bộc cũng
         thấy thân thiết như người thân.
崔涂 (854~?)字礼山,今浙江富春江一带人。唐僖宗光启四年(888)进士。终生飘泊,漫游巴蜀、吴楚、河南,秦陇等地,故其诗多以飘泊生活为题材,情调苍凉。《全唐诗》存其诗1卷。 
THÔI ĐỒ ( 854-? ) , tự
         là Lễ Sơn, là người ở dãi Phú Xuân Giang, thuộc tỉnh
         Chiết Giang ngày nay. Ông đậu Tiến Sĩ năm Quang Khải thứ 4, đời
         Đường Hi Tông. Cả đời phiêu bạc, lãng du các xứ Ba
         Thục, Ngô Sở, Hà Nam, Tần Lũng... , nên thơ của ông phần
         nhiều lấy đề tài tả cảnh sống phiêu bạc giang hồ, tình
         tiết âm điệu thê lương. " Toàn Đường Thi " còn
         giữ được một tập thơ của ông.
DỊCH NGHĨA :
Diệu
         vợi trên đường đi gập ghềnh khúc khủy của xứ Tam Ba,
         Tấm thân ngoài ngàn dặm nầy đang tạm dung ở xứ người
         an nguy khó định. Đêm lạc lỏng trong cảnh tuyết tan giữa núi
         non chập chùng , người tha hương cô đọc với ngọn đuốc
         lẻ loi, và ... càng đi thì lại càng xa những người thâm
         tình cốt nhục, nên tình cảm chuyển sang cho thư đồng nô
         bộc xem họ như những người thân. Không sao kham nỗi với nỗi
         phiêu bạc giang hồ, trong khi ngày mai nầy đã lại bước sang năm
         mới rồi !
DIỄN NÔM :
Ba sơn diệu vợi
         đường dài,
Lẻ loi cô độc ai hoài một thân.
Tuyết
         tan non núi chập chùng,
Đuốc đơn người lẻ ngại ngùng
         bước chân.
Tính thân chuyển cả thư đồng bộc nô.
Tấm thân phiêu bạc giang hồ,
Mai ngày năm mới thân cô một
         mình !
Đỗ Chiêu Đức.
2.Quên Đi
Đêm Trừ Tịch Nhớ.
Diệu vợi đường
         Tam Ba
Chốn nguy chẳng nệ hà
Ngàn non đêm tuyết chảy
Xuân
         khách một mình ta
Thân tộc giờ ngăn cách
Người hầu
         kề chẳng xa
Đành thôi thân lãng tử
Thêm một mùa
         xuân qua
Quên Đi
3.Mailoc
Nỗi Nhớ Đêm Cuối
         Năm
Đường Ba Tam xa-xôi diệu vợi ,
Bao hiểm nguy chờ đợi một thân .
Tuyết đêm đồi núi tan
         dần ,
Quê người
         dưới ánh đèn dầu mình ta .
Thân bằng hữu rồi ra mất biệt ,
Chỉ tiểu đồng thân thiết
         nghiã cao .
Nổi
         trôi há chịu mãi sao ?
Ngày mai năm mới đượm màu xuân tươi .
Mailoc phỏng dịch
01-02-13 
.
4.Song Quang:
NỔI LÒNG ĐÊM TRỪ TỊCH
Đường
         đi diệu vợi chốn Tam Ba
Dung tạm xứ người ở rất xa
Như
         lạc trong đêm tan tuyết núi
Tha hương đất khách một
         mình ta
Thân nhân bạn hữu nào hay biết !
Nô bộc
         xem như trẻ ở nhà
Phiêu bạc giang hồ kham nổi tá ??
Ngày
         mai năm mới chắc đơm hoa ?
SONG QUANG
_________________________________________