BOSTON, QUÊ HƯƠNG
         CHỒNG
         
         Từ một vùng trời của
         đất nước nhỏ bé, giã từ Việt Nam quê hương qua một
         cuộc hải trình gian khổ, được ơn thương xót của Đức
         Chúa Trời, tôi đến Boston, thủ phủ của tiểu bang miền cực
         Bắc nước Mỹ. trong những ngày bắt đầu mùa đông băng
         giá, với những hoa tuyết rơi rơi bay trong gió, rải rác xuống
         đường, đáp đậu nhẹ nhàng trên những nhành cây
         trụi lá, bám víu vào những nhánh thông xanh chung quanh nhà. 
         Màu trắng tinh anh của tuyết và màu xanh bất diệt của thông,
         hiền hòa quyện vào nhau, cho tôi một mối cảm hoài bất tận,
         nhìn hoài không mỏi mắt. 
         
         Boston, nơi mà từ đó, chồng tôi được sinh ra, lớn lên,
         đi vào đời, tập rèn đời binh nghiệp và sau hơn bảy
         năm tạm dung, với tôi, đã trở nên quê hương chồng, mà
         dù với gió trong tim vì xa quê hương ruột thịt, mà dù
         với bão trong lòng vì những người chung quanh không cùng một
         màu da, khác chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tôi
         vẫn nhìn thấy sự gắn bó nồng nàn cho tương lai trước
         mắt.
          Boston, quê
         hương chồng, nơi mà từ đó, tôi có cơ hội về thăm
         mõm đất cuối cùng của Bắc Mỹ, Cape Cod với hình dáng
         của một khuỷu tay, cong cùi chỏ, với dãy nhà của một gia đình
         nổi tiếng của lịch sử nước Mỹ, Kennedy Compound, mang tên vị Tổng
         thống trẻ tuổi của nước Mỹ, với một câu nói làm chấn
         động lòng người “Bạn đừng hỏi đất nước
         đã làm gì cho bạn mà nên hỏi bạn đã làm được
         gì cho đất nước.”  Cape Cod cho tôi những ngày
         nắng ấm dịu dàng trên những bãi biển trải dài cát trắng,
         nơi cho tôi những làn sóng nhấp nhô, mang những con blue fish, seabass, flounder
         ngọt ngào hương vị của thịt cá và mặn mòi của nước
         biển; nơi cho tôi thưởng thức hoài không bao giờ ngán, những
         sớ thịt dai giòn của những con tôm hùm màu đỏ pha xanh, những
         con cua đá khổng lồ, những con ngêu, sò xòe ra như những cánh
         quạt nhỏ, với từng đàn ốc gạo trắng, nằm phơi mình
         trên những viên đá tảng hay lén lút ẩn mình dưới
         chân của những cọng cỏ rong rêu…
         
         Boston, quê hương chồng, nơi đã đón tôi trong vòng
         tay yêu thương như một người phối ngẫu, nơi đã chọn
         tôi làm cô dâu trong những ngày tay trắng, với kiếp sống lưu
         vong và một tương lai mịt mù để rồi, giúp tôi trưởng
         thành, đứng vững vàng trong cuộc sống mới tuy thật khiêm nhường
         nhưng cũng đủ tạm gọi là “thành công” nơi xứ người,
         một sự thành công, nếu nhìn về vật chất thì chẳng là
         gì, nhưng về linh năng thì quả thật là một sự “thành
         công” khó mà tưởng tượng; một sự vượt bực, tôi
         không bao giờ dám nghĩ hay mơ ước đến. Một sự thành
         công đã giúp tôi ra khỏi vùng u ám của một cuộc rượt
         bắt, chạy theo ảo ảnh của cuộc đời gồm đủ tiền tài,
         vật chất, danh vọng, dễ phai tàn theo năm tháng, và phải bỏ
         lại, sau khi nằm xuống giữa lòng đất lạnh, để nhận lãnh
         được vùng ánh sáng chan hòa của một tình yêu không
         điều kiện ban cho cách nhưng không từ Thượng Đế.
         
         Boston, quê hương chồng, tôi xin mời Thầy Cô và các bạn
         bè xưa cũ cùng bước với tôi qua những con đường lót
         đầy gạch đỏ trong lòng thành phố với một vài di tích
         lịch sử của một thành phố khá cổ kính, được khám
         phá từ năm 1630 với hơn 600,000 ngàn dân nầy, trong những cuộc
         chiến dài lâu, chống lại sự đàn áp của Anh quốc, và
         những người lãnh đạo cuộc Cách Mạng đã trút đổ
         45 tấn trà của Anh quốc xuống biển.  Nhiều sư đoàn
         thiện chiến, dưới sự lãnh đạo của George Washington, sau nầy trở
         thành vị Tổng Thống đầu tiên của Mỹ quốc, đã chiến
         thắng vẻ vang, chiếm lại chủ quyền của Boston năm 1776. 
         
         Cũng như những thành  phố lớn khác, trong phần đầu
         của thế kỷ thứ 20, Boston không tránh những thăng trầm, tuột dốc
         thê thảm về tệ nạn xã hội, nhưng cũng đã hồi phục
         trong sự vươn lên với những  hoạt động của các
         nhà máy công kỹ nghệ, những bịnh viện y khoa nổi tiếng khắp
         thế giới cùng những đại học lừng danh như Havard, Massachusettes Institude
         of Technology (MIT) và đại học Boston. Tuy đứng vào hàng thứ 20 của
         những thành phố lớn nhứt Mỹ quốc nhưng Boston với những di tích
         lịch sử hùng hồn, những truyền thống văn hóa nổi tiếng
         đã mang hàng triệu du khách đến viếng thăm, tìm hiểu, để
         nhìn thấy Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ trong những năm đầu lập
         quốc. 
          Vừa là một chiếc xe, vừa
         là một chiếc tàu. Vừa là cả hai, du khách cũng rất hài
         lòng với sự phục vụ của Boston Duck Tours, một cấu trúc vận
         chuyển từ chiến tranh thế chiến thứ hai, vì họ có thể ngắm
         nhìn phần lớn những thắng cảnh nổi tiếng của Boston khi ngồi
         trong 80 phút trên chiếc tàu mang hình dáng của con vịt từ tòa
         thị sảnh, một tòa nhà cổ xưa nhứt có vị trí địa
         dư và chính trị trên đường Beacon Hill với 45 phút tham quan bên
         trong, mỗi năm có thể thu hút 90,000 du khách,
         đến khu phố sầm uất trên đường
         Newbury, cùng quan sát những chiến tích oai hùng trong trận chiến thế
         giới thứ hai cho đến cuối góc của dòng sông Charles… tiếp tục chạy sẽ có
         dịp đưa tay vẫy chào nhau khi gặp những con tàu vịt khác ngược
         chiều và cuối cùng thì… vịt lội xuống nước mang theo
         trên mình đoàn hành khách để họ có thể nhìn thấy
         bao quát hai đại học nổi tiếng Cambridge, Harvard, và hàng loạt những
         di tích lịch sử hùng vĩ khác.
          Ngôi chợ
         Quincy, còn gọi dưới một tên khác Faneuil Hall, là một nơi khang
         trang, rộng lớn, cả bên trong lẫn bên ngoài, để du khách dừng
         lại tìm đủ loại thực đơn thật ngon, hấp dẫn, vừa túi
         tiền, vừa ăn, vừa mua sắm các loại hàng hóa của nhiều
         quốc gia trên thế giới, mang về làm kỉ niệm tặng người thân
         thương. Nằm trong trung tâm của thánh phố Boston, trong hơn 250 năm, ngôi
         chợ Quincy là sự kết hợp của ba tòa nhà từ thế kỷ thứ
         19, với sự phối hợp của 49 cửa hàng, 44 ngã rẽ nối liền,
         13 nhà hàng và 35 gian hàng thực phẩm vẫn là điểm tập
         trung, hội ngộ, hẹn hò của những người dân thường trú
         tại Boston. 
Ngôi chợ Quincy
         không những tượng trưng cho nét đẹp cổ kính của Boston, mà
         còn là nơi pha trộn nghệ thuật, mỹ thuật và khẩu vị khác
         nhau của nhiều nơi trên thế giới, nhứt là trong những ngày đông
         lạnh giá, du khách vẫn có thể được ấm lòng qua tách
         cà phê nóng, qua miếng bánh ngọt thơm nồng hương vị, nhìn
         ngắm tuyết rơi ngoài kia khung cửa kính, nghe lòng rộn rã một
         sự an bình, dễ chịu, để chờ đến mùa hè, với chai
         bia Sam Adams mát lạnh trong tay, tự do thưởng thức miễn phí mọi ngành
         nghệ thuật từ đàn, trống, kèn, từ bài hát, từ những
         trò ảo thuật cho đến những vở bi, hài kịch ngắn ngoài
         trời, theo từng phong tục, tập quán của từng miền khác nhau trên
         khắp toàn cầu. Hay hơn nữa thì chọn bơi lội thong dong dưới
         biển xanh, đi rong chơi qua những con đường nhỏ xuyên các rừng
         cây, hoặc là nhìn ngắm sao trời lấp lánh khi cắm trại trong
         những công viên, nghe mình thoát tục. Và những chiếc phà xuôi
         ngược trên hòn đảo của hải cảng Boston (Boston Harbor Island) là
         hòn đảo mang những di tích lịch sử của cửa khẩu mà du
         khách không cần phải ra khỏi thành phố boston, vẫn có thể nhìn
         thấy được cách bao quát.  
Boston còn là một thành phố làm sống lại
         những gì đã xảy ra trong quá khứ do những hoạt động hết
         sức sinh động trong đời sống hằng ngày. Không cần biết vào
         khoảng thời gian nào của năm, những hoạt động tại Boston không
         lúc nào có sự ngưng trệ, đình chỉ.  Boston vô
         cùng nổi tiếng về các món ăn hải sản mà còn là
         nơi đào tạo nhiều đầu bếp nổi danh từ việc pha chế rượu
         bia, đến việc nêm nếm, biến đổi hương vị mặn mà
         của thực đơn, Boston luôn luôn chiếm ngôi vị hàng đầu
         trong thức ăn và thức uống cho thực khách không những cho cả
         Mỹ quốc mà còn cho trên toàn thế giới. Những bảo tàng
         viện của Boston trưng bày những tác phẩm nghệ th uật sáng giá
         nhứt của thế giới.  Được du khách dừng chân nhiều
         nhứt là viện Museum of Science tọa lạc trong khuôn viên Science Park, với
         hơn 400 công trình kiến trúc, xây dựng khác nhau như the Virtual Fish
         Tank, an IMAx theater và một hành tinh hệ rất bổ ích cho trẻ em.
 Boston còn là quê hương cội nguồn của
         đội banh dã cầu nổi tiếng Red Sox từ năm 1912. So với các thành
         phố trẻ khác, Boston không giấu được sự già cỗi, lại
         mang nét cổ kính của lối kiến trúc của Âu châu, nhưng
         đồng thời Boston cũng mang đầy nét hùng tráng, tràn đầy
         sức sống với sự thu hút mạnh mẽ một số lượng rất lớn
         các sinh viên trẻ từ khắp nơi trong nội địa cũng như trên
         thế giới tựu về. Boston là thủ đô của Massachusetts, một trong
         sáu tiểu bang gồm Maine, New Hampshire, Vermont, Massachusetts, Rhode Island, và Connecticut, gọi
         chung là New England, có biên giới giáp liền với Đại tây dương,
         Cananda và tiểu bang New York. New England rất nổi tiếng với món soup Claim Chowder
         ngon tuyệt vời, không đâu sánh bằng.
Du khách có thể viếng thăm ngôi nhà cổ xưa,
         có một vườn hoa kiểng thật đẹp của cố Tổng thống John
         Adam, một trong rất ít Tổng thống có cơ duyên con trai mình cũng
         trở thành Tổng thống.  Du khách cũng không thể nào
         bỏ qua, không thăm viếng nơi cố Tổng thống Kennedy đã sống
         với gia đình trong thời thơ ấu của ông qua một đoạn phim ngắn,
         và rồi tiếp tục đến Viện bảo tàng và thư viện cũng
         mang tên vị Tổng thống hào hoa, trẻ tuổi nầy với một đoản
         phim 18 phút, kể lại chính lời nói cùng những hoạt động
         trong sự tranh cử của Tổng thống của ông vào năm 1960 tại Los
         Angeles.
         
         Con tàu Mayflower cũng là một di tích lịch sử nổi tiếng vì
         đã vượt biển năm 1620. Mang nhiều đàn ông, phụ nữ và
         trẻ em từ Anh quốc, xuyên qua biển Đại tây dương, vượt
         thoát sự bách hại về tôn giáo với hi vọng tìm một vùng
         đất mới an lành, hạnh phúc và được tự do tín ngưỡng. 
         Cuộc hải hành thật vất vả kéo dài trong 66 ngày đêm,
         thiếu thực phẩm và nước uống. Cuối cùng đã cặp bến
         tại bờ biển của thành phố Plymouth, một số người bị chết,
         một ít trẻ em đã chào đời và ngày nay còn in dấu
         bằng một tảng đá lớn gọi là Plymouth Rock.  Họ đã
         được những người dân da đỏ tốt bụng chỉ cho cách
         trồng trọt, cách bắt cá, nhưng trong mùa đông lạnh giá
         thì không làm sao tìm ra được thực phẩm.  Với
         đức tin mãnh liệt trong lòng, họ đã cùng quì gối, ngước
         nhìn trời cao và bền bỉ cầu nguyện cùng Thượng đế
         trong nhiều ngày, giúp họ thoát khỏi sự đói trong suốt mùa
         đông dài lê thê. Rồi, một ngày kia, quá tuyệt vọng khi
         không nghe thiên nhiên báo hiệu, trả lời, họ trông thấy từng
         đoàn, từng đoàn, hàng loạt gà lôi rừng xuất hiện
         không biết từ đâu, nhưng họ tin chắc rằng, quyền năng của
         Đức Chúa Trời đã cứu họ. Họ đã quì gối cầu
         nguyện để cầu xin và bây giờ, họ cũng đã quì gối
         cầu nguyện để cảm tạ.  Lễ Tạ Ơn đầu tiên
         khởi đầu khi họ mời các người bạn da đỏ cùng chung
         vui vào mùa thu năm 1621 với thịt của gà lôi rừng. Cũng từ
         đó, thì gà lôi là món ăn chính theo truyền thống của
         ngày Lễ Tạ Ơn bên cạnh bí đỏ, khoai tây, đậu và
         bắp.
George Washington, Tổng
         thống đầu tiên của Mỹ quốc đã chọn ngày 26 tháng
         11 năm 1789, làm ngày lễ Tạ Ơn. Đến thời Abraham Lincoln, vị Tổng
         thống có công thống nhứt Nam Bắc Mỹ, đã chọn ngày thứ
         năm cuối cùng của tháng 11 năm 1863 như là “Một ngày
         Cảm Tạ và Tôn Vinh cho sự nhân từ của Cha Thiên Thượng”
         (A day of Thanksgiving and praiseto our beneficient Father.) Năm 1941, Franklin D. Roosevelt, vị Tổng
         thống ngồi xe lăn trong thời thế chiến thứ nhứt với quyết định
         khẩn cấp, chống trả mãnh liệt về sự tấn công Trân Châu
         Cảng của Phát xít Nhật tại Hạ Uy Di đã thông qua quyết
         nghị chọn ngày thứ năm thuộc tuần lễ thứ tư của tháng
         11 làm ngày lễ Tạ Ơn chính thức cho toàn Mỹ Quốc.
Thánh sử của Chúa
         và Lịch sử của loài người đã gắn liền nhau qua những
         trang sử hùng tráng của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ, đã tạo
         cho Boston một chỗ đứng quan trọng trong lòng du khách qua những loại
         âm nhạc cổ điển, những phong tục, tập quán và lịch sử
         của một quốc gia thật trẻ, phát triển rất nhanh chóng, nhưng
         dù mang một vẻ đẹp tuyệt vời của những ngày chớm thu, khi
         rừng lá thay màu thì, Boston vẫn không được “thân mật”
         cho lắm trong những ngày đông về, với cái lạnh giá căm,
         tuyết phủ chắn lối đi, làm chùn chân du khách. Thăm viếng
         Boston, sinh viên sẽ không còn chỉ biết Boston qua sách vở, phim ảnh
         mà còn biết cách đích thực về lịch sự từ trong trường
         học cho đến trường đời.
Tôi cảm tạ ơn Chúa đã
         đưa tôi đến với gia đình chồng. Tôi cám ơn Boston đã
         cho tôi một đời gắn bó với Bostonian. Boston, nơi đã nuôi
         dưỡng trong tôi một tình bạn dài lâu, vượt không gian và
         thời gian, nơi đã cho tôi một cuộc tình gắn bó trong hôn
         nhân, dù đôi lúc có gợn sóng lăn tăn, nhưng chưa bao
         giờ gặp những cơn sóng dữ trong hơn 24 năm qua.
Boston, nơi các bạn đồng trường, đồng
         môn của tôi từ hai ngôi trường Phan Đoàn thân thương
         của những ngày xưa thân ái, nơi quê nhà xa dịu vợi, đã
         mong muốn cách thật lòng, được đón nhận tất cả Thầy
         Cô và bạn bè cũ của mình, của một thời nón lá
         che nghiêng, tà áo dài bay thoáng trong gió, của một thời áo
         trắng, quần xanh, của một thời với huy đoàn, huy hiệu Phan Đoàn
         cài ngực, của những giờ đổi lớp, thay Thầy Cô, bước
         tung tăng dưới hàng phượng vĩ che rợp nắng sân trường,
         bên cạnh từng hồi chuông, tiếng trống báo hiệu giờ vào
         lớp, tan trường hay đứng nghiêm túc, lặng yên nhìn theo lá
         quốc kỳ màu vàng, ba sọc đỏ từ từ được kéo lên
         trong giờ chào cờ mỗi buổi sáng. 
Tôi xin được cám ơn các bạn hữu của tôi
         tại Boston đã mở rộng vòng tay thân ái, siết chặt trong ba ngày
         Đại hội, cho sự hội ngộ, đoàn viên hàng năm. Với lời
         cố hữu, thân thương nhứt ở những Đại hội hàng năm
         trước, một lần nữa, tôi xin kính chúc Đại hội Boston năm
         nay được thành công rực rỡ. Tinh thần bất vụ lợi và
         sự năng nổ vì “Tình Thầy Trò, Nghĩa Đồng Môn”
         mà hi sinh thì giờ, công sức, tiền bạc của các bạn khiến
         tôi thấy mình, nếu không thể đóng góp được gì
         thì cũng phải “khăn gói lên đường”, đi họp mặt
         để gọi là “không xa mặt, cũng không cách lòng”. Một
         lần nữa, xin cám ơn quí Thầy Cô và những bằng hữu của
         tôi tại Boston, quê hương chồng. Hẹn gặp nhau tại Đại Hội
         trong những ngày lá thay màu.
                                                                  
         New York, 03/08/2012
                                                                  
         Giáo
         sư NGUYỄN THỊ HƯỜNG