 
  TRANG    
          VĂN - ẢNH  Nguyễn Như Hùng  __________________________________________________________________ 
      
          SĂN ẢNH:  NGƯỜI SAN JOSE ĐI TÌM DÁNG
         THU   __________________________________________________  Ca dao thời đại:   "
         Trăm năm trong cõi người ta,   Những điều
         muốn biết, cứ vào gu-gô ( google)"   Thu năm nay, qua Canada chụp lá vàng. Google là người chỉ đường
         dẫn lối rất tài tình.   Trên
         google có hình cây lá đỏ rất đẹp (hình
         1).   
                                
                                            
                 Dáng Thu trên Google (Before)  
          Qua bao dặm đường, bay từ tây
         sang đông nước Mỹ, rồi tiếp sang Ottawa, lái xe, suốt bao nhiêu
         giờ, tìm cây lá đỏ. Lại phải hỏi google! Google chỉ, đến
         nơi rồi, Hunsville! Sao không thấy? 
          À nó đây rồi! Đứng
         ngay trước mặt mà không nhận
         ra, vì cứ tìm màu đỏ! (BBT: Sao nghe như "Before/
         After" của giải phẫu thẩm mỹ)   Cuối
         cùng, trước khi chia tay ra về, đứng chụp với nàng Thu Canada một
         tấm cho bõ công tìm kiếm!   
                                
                                            
                         Nàng Thu
         Canada! (After)   Hình dưới đây mới
         chụp sáng nay (Nov 26), gần nhà, chẳng khác gì...       
  
                                            
                                            
                                    Nàng Thu gần nhà    ...hình google chỉ tận bên Canada:   
                                
                                            
                                      Lại Nàng Thu Canada!    "Bụt
         chùa nhà không thiêng"! 
              NNH      _________________________________________________________________________________________   
      
      Từ Sơn -1945-   Khởi đầu cuộc đời tản cư. Nguyễn-Như-Hùng 
             Lọc
         cọc! lọc cọc!    Chiếc xe ngựa chuyên
         chở gia đình chúng tôi rời khỏi thị xã Đáp-Cầu hướng
         về phủ Từ-Sơn. Nơi đây có làng Tiêu-Sơn, nhiều bà
         con họ hàng của bà Ngoại sinh sống tại đây. Bà Ngoại thường
         nói: đi về Tiêu. Vị trí phủ Từ-Sơn, nay là thị
         xã Từ-Sơn,  nằm ở khoảng giữa, cách Đáp-Cầu chừng
         20 km về phía bắc, cách thành phố Hà-Nội chừng 20 km về phía
         nam.(Tên gọi và danh giới địa lý dùng trong bài này được
         áp dụng ở thời điểm năm 1945, trước khi VM cướp chính
         quyền).   Theo trí nhớ của đứa
         trẻ 8 tuổi, trên xe ngựa có Mẹ và 7 anh chị em.  Chị lớn
         12 tuổi, em bé nhất, khoảng hai tháng tuổi . Bà Nội và Bố
         ở lại trông nhà vì có  công việc hàng ngày. Nội
         trông coi cửa tiệm bán giầy dép. Bố đi làm công sở, xế
         bên kia đường. Theo lời kể của chị Nga, chị cả, trên xe còn
         có U Bê (vú nuôi cô em bé, nhà thường gọi là Bê
         ) và thằng Bút ( Bút phải lớn tuổi hơn tôi, nhà quen gọi
         là thằng Bút) phụ Mẹ để trông coi đàn trẻ nhỏ . Tộng
         cộng 10 người với những túi quần áo cùng đồ dùng
         lỉnh kỉnh hàng ngày chất đầy trên xe, 2 ngựa kéo. Chị
         Nga nhớ, phải 2 ngựa mới kéo nổi. Xe chở nặng, đường lại
         xa. Chiếc xe ngựa với 2 bánh xe bằng gỗ, viền sắt, không bọc
         cao su , lọc cọc lăn trên đường đất gồ ghề. Mỗi lần
         sụt ổ gà, bọn trẻ chúng tôi lại có dịp vui cười,
         đùa rỡn. Lúc đầu mới trèo lên xe, đứa nào cũng
         rụt rè, sợ sệt. Bây giờ xe đi được một quãng xa, bọn
         nhỏ thích lách ra ngồi ngoài để dễ nhìn ngắm phố xá,
         nhà cửa hai bên đường. Ra khỏi thị xã, ruộng đồng bát
         ngát, không khí khoáng đãng, chúng tôi lại càng phấn
         khởi hơn, vì từ bé chỉ quanh quẩn trong thị xã nhỏ xíu
         này, chưa đi đâu xa. Nhưng đâu có biết rằng người
         lớn rầu rĩ, lo lắng biết chừng nào!. Mẹ tôi, lúc đó
         mới 33 tuổi, đem 7 đứa con, 2 trai, 5 gái đi chạy loạn. Mới tuần
         trước đây, máy bay Đồng Minh ( Mỹ) thả bom xập cầu sắt
         Đáp-Cầu, bắc qua sông Cầu, nối liền 2 tỉnh, Bắc-Ninh với
         Bắc Giang. Nhà tôi ở phố Chính, gần cầu, cửa kính lớn
         trưng bày ngoài tiệm của Nội vỡ tan tành. Máy bay Mỹ vần
         vũ thường ngày. Trại lính Nhật là mục tiêu oanh tạc của
         không quân Mỹ, lại nằm kế cận nhà tôi. Tôi học trường
         nam tiểu học Đáp Cẩu. Từ nhà đến trường đi bộ
         chưa tới 10 phút. Sáng nào đi học, tôi cũng phài qua trước
         cổng trại lính Nhật. Trong sân trại, nhiều toán lính xếp thành
         hàng tập thể dục, tập võ, chạy nhẩy, đấm đá, hô
         vang những tiếng lạ hoắc. Tất cả đều cắt tóc ngắn, người
         lùn, phục phịch, trông có vẻ dữ tợn. đằng đằng sát
         khí. Trước ngày quân Nhật đảo chánh Pháp, 9-3-1945, trại
         này là trại lính Pháp. Sau 2 trái nguyên tử Mỹ thả trên
         đất Nhật, Nhật thua trận và tuyên bố đầu hàng Đồng
         Minh, ngày 14-8-1945. Nghĩa là, Nhật làm chủ trên toàn lãnh thổ
         VN được 5 tháng, 5 ngày.   Như
         vậy, lúc Bố Mẹ quyết định đưa bọn trẻ chúng tôi
         ra khỏi thị xã Đáp-Cầu, tản cư về vùng quê, để
         tránh máy bay oanh tạc, là lúc chiến tranh thế giới thứ 2 ( ở
         VN là giữa Mỹ và Nhật),  đang thời kỳ quyết liệt. Thời
         gian đó là vào dịp hè năm 1945. Ngồi trong xe ngựa,thỉnh thoảng
         làn gió mát đồng nội thổi tới, người và ngựa cũng
         cảm thấy bớt mệt mỏi. Bọn nhỏ lim dim ngủ. Trên xe chỉ có
         Mẹ tôi biết đường và chỉ lối cho anh xà ích lái
         xe ngựa vào Tiêu Sơn.   Đến Tiêu,
         chúng tôi gặp Ngoại và gia đình cậu Cả Đắc đã
         đến rồi.  5 con của cậu Cả, khoảng cùng lứa tuổi với
         chúng tôi, gặp nhau tíu tít, quên cả đói, mệt. Gia đình
         tôi ở nhà Ông Ninh, Ngoại và gia đình Cậu ở nhà ông
         Ban. 2 nhà trông sang nhau, giữa là con đường nhỏ. Nhà quê nên
         vườn sau rất rộng. Trẻ nhỏ tha hồ chạy nhẩy. Vì còn bé,
         chúng tôi chỉ chơi quanh quẩn gần nhà. Tiêu Sơn có hồ nước
         lớn, ao Tiêu, đứng ở cửa, nhìn thấy, không xa mấy, nhưng
         chúng tôi, con nít, nên cũng chưa được đến nơi đó
         để thăm thú, để bơi lội. Bà con Đáp Cầu tản cư
         đến Từ Sơn nhiều lắm. Đi chợ huyện, gặp đủ mặt.
         Gia đình chúng tôi, cũng giống như bà con Đáp Cầu khác,
         ở Từ Sơn khoảng 1 tuần, thấy tình hình êm êm lại rủ
         nhau về.    Về nhà được ít
         lâu, tình hình chiến sự thay đổi dồn dập:   14-8-1945 Nhật đầu hàng, chấm dứt thế chiến thứ
         2.   19-8-1945 Việt Minh nổi lên cướp
         chính quyền.   2-9-1945 Hồ Chí Minh đọc
         bản tuyên ngôn độc lập   (Sau
         ngày này ít lâu, HCM có đến thăm Đáp Cầu. Lúc đó,
         trong đội "Nhi đồng cứu quốc", đứng dàn chào chủ
         tịch trước sở cẩm (trụ sở Cảnh sát, tên thường gọi
         thời Pháp thuộc), tôi nhìn thấy rõ HCM ngồi trong chiếc xe hơi
         nhỏ mầu cam đậm. Điều mà tôi nhớ nhất đến bây
         giờ là phía trên góc trần trong xe có gắn một cái quạt
         máy nhỏ chạy vù vù, tôi phục quá, văn minh quá, từ bé
         chưa bao giờ thấy ly kỳ như vậy!)   5-10-1945
         quân Pháp do tướng Leclerc vào Saigon.   6-3-1946
         hiệp địng sơ bộ Việt Pháp   18-3-1946
         quân Pháp vào Hanội   15-6-1946 người
         lính Tưởng Giới Thạch cuối cùng dời VN   19-12-1946 cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ khắp nước. 
         16-1-1947 HCM phát lệnh Tiêu thổ kháng chiến
         toàn quốc.       VC học đòi theo chính sách "Tiêu thổ kháng
         chiến" man rợ của đàn anh, đuổi người dân vô tội
         ra khỏi thành phố. Gia đình chúng tôi lại phải khăn gói
         lếch thếc lên đường, bỏ lại tất cả nhà cửa, đồ
         đạc, tìm nơi lánh nạn. Lần này, có thêm bà Nội,
         gia đình xuống thuyền đậu ở bờ sông Cầu, cùng một
         số đồ dùng cần thiết. Thuyền chèo và thêm 2 người
         kéo chạy trên bờ dọc theo giòng sông, đến làng Xuân-Thủy
         thì dừng lại. Tất cả lên bờ, lội bộ về ấp Xuân-Thủy,
         ấp của Ngoại. Chúng tôi ở trong căn nhà ngói đỏ rộng
         lớn cùng với gia đình các cậu, các dì. Thời gian sống
         ở đây là vui nhất vì có nhiều anh chị em cùng lứa tuổi,
         tạm thời bình yên, Tây chưa càn quét tới.    Vài tuần sau ngày ra đi, tôi theo Mẹ và U Bê
         đem theo túi vải đựng hoa, quả, nhang, nến về thăm nhà cũ.
          Than ôi! Cả thị xã Đáp Cầu trở thành đống gạch
         vụn. Những con đường quen thuộc tôi đi học hàng ngày, giờ
         đây không nhận ra nổi ! Bủn rủn chân tay, đầu óc hoang mang,
         như đang lạc lõng trong một nghĩa trang xa lạ! Dừng chân, định
         thần lại, đảo mắt tìm Mẹ. Mẹ và U vẫn lầm lũi phía
         trước, bước thấp bước cao trên đống gạch đổ vỡ
         hoang tàn. Mẹ ơi! Mẹ có buồn không? Mẹ có khóc không?
         Bao nhiêu của cải tan tành theo mây khói! Cậu bé 10 tuổi, chỉ
         biết bước theo Mẹ, đạp lên những tảng gạch đổ vỡ,
         tìm về căn nhà cũ. -"Ô..! Mẹ ơi! Cây dâu nhà ta
         kìa!"  Mừng rỡ, tôi chạy vội về hướng đó.
         Mẹ và bà U theo sau. Cây dâu còn nguyên vẹn giữa những hoang
         tàn đổ nát. Cây dâu với bao kỷ niệm thời ấu thơ như
         vừa sống lại trong tôi, sau bao tai họa khủng khiếp do chính những
         con người mù quáng không xa lạ với dân trong làng. Cành lá
         rung rinh như đang chờ đón chúng tôi. Sân sau nhà tôi có
         độc nhất 1 cây là cây dâu, loại dâu ta, như loại dâu
         lấy lá nuôi tằm, không biết trồng từ bao giờ, cao hơn mái
         nhà, cho nhiều trái (nhỏ hơn dâu tây), khi chín đen thì rất
         ngon và ngọt. Có lần té, sướt tay chân khi trèo lên hái
         trái. Về sau, tôi thường dùng cây sào hái xuống ăn. Bây
         giờ đang đứng trên nền nhà mình , Mẹ và bà U lo tìm
         chỗ để đặt bàn thờ, thắp nhang...Tôi thẩn thơ, lững
         thững trên đống gạch vụn rải rác trong sân nhà, cố tìm
         xem còn vật gì quen thuộc. Không còn gì ngoài cây dâu! Hôm
         ra đi vội vàng, đâu có đem theo được hết. Giầy dép
         trưng bầy trên kệ trong tủ kính ngày ra đi, nay không còn một
         chiếc. Tôi đi tìm cây sào hái dâu, cũng mất tiêu. Căn
         nhà này, ông bà Nội tôi đã sống bao năm với các
         con. Khi Bố tôi lập gia đình, cơ quan đổi đi xa ít lâu. Sau
         lại về sống ở căn nhà này. Rồi 7 anh chị em chúng tôi
         lớn lên ở căn nhà này từ nhỏ. Nhà 1 tầng, mái ngói
         thấp, mặt tiền là cửa hàng bán giầy dép của bà Nội,
         hiệu Thái Long, số 15 phố Chính, Đáp Cầu.   Một bên là tiệm bán đồ sứ của OB Đội
         Chiểu. Một bên là hiệu thuốc bắc Bảo Tâm Chai của người
         Hoa. Ngoài tiệm bán thuốc bắc, bên trong là một xưởng rất
         lớn với  nhiều nhân viên, chuyên sản xuất rượu thuốc
         ngâm rắn, cung cấp khắp vùng Bắc Kỳ. Tôi nhớ nhất ông chủ
         Bảo Tâm Chai, vui vẻ, nói tiếng Việt lơ lớ, khi gặp Hùng Tí
         chơi ở cửa là gọi vào cho gói ô mai. Khi quân Nhật chiếm
         Đáp Cầu, ông bị Nhật bắt, nghe nói bị thủ tiêu vì
         làm tình báo cho Tàu Tưởng!  Trước đó, bên kia đường
         là nhà bà Năm Trấn có  bác Trí, cô Tuyết ( cô
         Tuyết là bà ngoại của NCKỳ Duyên).   Như vậy kỳ đầu tản cư tránh máy bay Mỹ là
         hè 1945. Kỳ này với chiến dịch tiêu thổ kháng chiến của
         VM, chúng tôi tản cư về vùng quê tránh máy bay Pháp và
         các cuộc càn quét của quân Pháp là đầu năm 1947. 
         Từ đó trở đi, chúng tôi trở
         thành kẻ vô gia cư, chạy hết làng này sang làng khác, phần
         lớn vẫn trong địa phận tỉnh Bắc Ninh. Tôi còn nhớ những
         nơi gia đình đã tản cư, sau Từ-Sơn là: Xuân-Thuỷ, Xuân-Hoà,
         Lạc-Xá, Khả-Lý, Tam-Sơn, làng Um, một làng tề bên huyện
         Gia-Bình Lang-Tài, ấp Ông Nghị Phồn...Nhiều lắm, không biết
         còn thiếu nơi nào không? Nhưng có một lần, lại tản cư
         về Từ Sơn, nhưng lần này không phải làng Tiêu Sơn mà
         là ấp Tam Sơn. Gia chủ là Ong Bà Cựu Bơ, sống trên tỉnh,
         nhưng thời gian chạy loạn này cũng tản cư về đây. Về
         Tam Sơn, Mẹ tôi có dịp buôn bán vải cùng bà Cựu Bơ
         ở chợ Từ Sơn. OB có mấy anh lớn là anh Phương, anh Nghĩa,
         anh Chung. 2 anh lớn theo kháng chiến, nên ít được gặp. Anh Chung hơn
         tôi vài tuổi còn ở nhà. Chiều đến, tôi thường theo
         anh Chung ra khoảng đất trống để cùng với các thiếu nhi trong
         ấp học hát, học vác súng gỗ, đi đứng đều bước.
         Tất cả do anh Chung chỉ dẫn.  Thật là vui, được sinh hoạt
         với mấy đứa trẻ đồng trang lứa. Nhưng vui và nhớ nhất
         là rỡn đùa với cô Tuyết, gái cưng của ÔB chủ, bằng
         tuổi tôi, khoảng 10 tuổi. Sau Tuyết, còn 2 cô em nữa thì phải?
         Nhà rộng, sân rộng, ông bà chủ lại vui tính, tốt bụng,
         tha hồ mà chạy nhẩy, vui đùa. Gia đình chúng tôi tản cư
         ở Tam-Sơn khoảng 2 tháng, rồi vì tình hình chiến sự, nơi
         này không yên ổn, Mẹ tôi lại đưa các con chạy tản
         cư sang nơi khác. Những lần sau này, tất cả đều cuốc bộ,
         không có xe ngựa hay thuyền bè như những lần trước. Bọn
         trẻ chúng tôi mỗi đứa một bị cói đeo trên vai đi thoăn
         thoắt.  Riêng 2 bé  gái - hình ảnh tôi còn nhớ rõ
         -  ngồi trong 2 thúng do bà U gánh, đong đưa, chúng phải bám
         chặt vào giây quang gánh. Tản cư đến đâu đều được
         tiếp đón niềm nở. Dân quê mình thật tốt ! tính tình
         đôn hậu, thật thà, không giàu có những vẫn sẵn sàng
         chia cơm sẻ áo cho người tỵ nạn.    Thế mà tới nay (2016), 70 năm có lẻ, không biết tin tức gì
         của các ân nhân. Người còn, người mất! người trong
         nước, người ngoài nước! người bên thắng, người bên
         thua! Không biết bây giờ, sau hơn 40 năm VN thống nhất, có cùng
         một ý nghĩ như nhau không? Hy vọng với phương tiện truyền thông
         nhanh chóng và tân tiến hiện nay, lừa bịp không còn đất
         sống, sự thật được phơi bày, chúng ta sẽ không còn
         phải e dè, khách sáo như nhiều người gặp lại nhau sau 30-4-1975
         mà tất cả chúng ta cùng nắm tay nhau một lòng tranh đấu cho
         mục tiêu chính: độc lập, tự do, dân chủ thực sự cho quê
         hương.   Tới năm 1949, Mẹ tôi tìm
         được người đưa bà Nội và tôi hồi cư về Đáp
         Cầu, rồi ra Hà Nội. Ở Hà Nội mới cắp sách đi học
         lại, sau 2 năm rong chơi từ làng này sang làng khác. Chạy loạn,
         người lớn lo, chứ con nít 9, 10 tuổi biết gì mà lo. Chỉ vài
         lần lính Tây càn quét đến vùng, hay máy bay Pháp bắn
         phá gần nhà, chúng tôi mới nhốn nháo lo chạy giặc, lo ẩn
         núp. Còn thì suốt ngày anh em rủ nhau đi chơi, bắn chim, câu
         cá, tắm ao, đua trâu, trèo cây hái ổi, ra đồng mót lúa...,
         nhất là thời gian tản cư ở  Xuân-Thủy, ấp của nhà.
         Ngày nay tự hỏi, có bao giờ ở tuổi thiếu nhi mà được
         về quê nghỉ hè lâu như vậy không? Thật tuyệt vời phải
         không quý vị? Thôi cứ tạm coi như thế cho đời lên hương! 
          Về sau, học hành qua sách vở, báo
         chí, tôi mới biết Từ Sơn, nơi 2 lần tản cư chạy loạn
         trong thập niên 40 của thế kỷ trước, là một vùng đất
         rất đặc biệt, được nhắc nhở nhiều trong văn học, lịch
         sử VN.    Lúc tản cư ở Từ
         Sơn ,    -Đâu có biết rằng: Từ
         Sơn có tiếng tăm là nơi nhiều danh lam thắng cảnh, đền đài
         cổ kính, như chùa Tiêu (Tiêu Sơn Tự hay Thiên Tâm Tự) nằm
         trên sườn núi Tiêu, đền Đô ( Cổ Pháp Điện hay
         đền Lý Bát Đế) thờ các vị vua nhà Lý, rất gần
         nơi chúng tôi tản cư. Và còn rất nhiều đình chùa
         cổ kính khác, vì đây là nơi xuất phát Phật giáo
         VN từ thế kỷ thứ 10 với nhà sư Lý Công Uẩn, sau trở thành
         vua Thái Tổ nhà Lý. Có thể nói, Từ Sơn, Kinh Bắc này
         là vùng có nhiều lễ hội nhất VN.     Chùa Tiêu (Từ Sơn)        Đền Đô (Từ Sơn) 
              -Đâu
         có biết rằng: Từ Sơn là sinh quán của thân mẫu đại
         thi hào Nguyễn Du(1765-1820), bà Trần-Thị-Tần (1740-1778). Sau khi thân phụ
         Nguyễn Du, Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775) mất, Nguyễn Du mới được
         10 tuổi, thường theo Mẹ về sống ở quê ngoại Từ-Sơn. 
          Người địa phương thường nhắc
         câu: "Trai Tiên-Điền Hồng-Lĩnh, Gái Kinh-Bắc Từ-Sơn".
         Hai vùng đất quê hương ươm nguồn cho ra đời kiệt tác
         "Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du sau này   -Đâu có biết rằng: Từ Sơn cũng là quê hương
         của thân mẫu Công chúa Lê-Ngọc-Hân (1770-1799), bà Chiêu Nghi
         Nguyễn-Thị-Huyền. Xin nhớ rằng, Ngọc Hân công chúa, con vua Lê-Hiển-Tông,
         sau trở thành Bắc Cung Hoàng Hậu, vợ vua Quang -Trung Nguyễn-Huệ, là
         tác giả bài văn tế Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn.
         Bài văn tế, có một không hai trong lịch sử văn học VN, thật
         ai oán, thật bi thương, của  một Hoàng Hậu tài sắc vẹn
         toàn, gửi gấm tâm sự, kể lể nỗi niềm buồn đau, thương
         tiếc người chồng vừa ra đi là Hoàng Đế Quang-Trung. vị anh
         hùng áo vải có công đánh đuổi quân nhà Thanh, giữ
         gìn sự vẹn toàn tổ quốc.   -Đâu
         có biết rằng:  Từ Sơn là bối cảnh trong tiểu thuyết của
         Khái Hưng: Hồn bướm mơ Tiên, Tiêu Sơn tráng sĩ.. Đền
         chùa, sông nước vùng Từ Sơn là khung cảnh thơ mộng, lãng
         mạn được Khái Hưng khéo léo đưa vào một cuộc
         tình, nửa đạo nửa đời, nửa tiên nửa thực . Tiếc là
         lúc đó còn nhỏ, chứ không, tôi đã đi tìm tráng
         sĩ Tiêu Sơn nhờ đưa đến mộ Trương Quỳnh Như để
         đốt nén nhang tưởng nhớ người thiếu nữ tài hoa bạc
         mệnh! Và lúc tản cư lần đầu ở Tiêu Sơn (1945), biết
         đâu Khái Hưng cũng đang ở vùng này, lang thang tìm nguồn
         cảm hừng cho cốt truyện tiếp theo? Và lần sau tản cư tới vùng
         này, ấp Tam Sơn (1947), không biết Khái-Hưng Trần-Khánh-Giư (1896-1947),
         còn sống hay đã chết?  Vì sau này sử sách ghi chép,
         Khái-Hưng bị Việt Minh thủ tiêu tại bến đò Cựa Gà
          (phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định), rồi vứt xác suống
         sông năm 1947.       "Đâu có biết rằng" "Đâu có biết
         rằng" như thế này thì tới sang năm cũng không hết. Xin chấm
         dứt  tại đây để còn kịp gởi bài cho báo xuân
         Bắc Ninh, nam Cali.   Kính chào và Chúc
         Mừng Năm Mới Bính Thân (2016).   
 
  Nguyễn Như Hùng Cali,1/2016              
      
      KHÓC BẠN        Thân
         gửi anh Trí,   Mấy bữa qua không
         được khoẻ. Bây giờ mới coi email của anh. Bạn bè cứ rơi
         rụng dần! Rầu quá anh Trí ơi ! Anh DHĐức hình như là chưa dự đh PTGDTD lần nào, nên
         đồng môn PTGDTD ít được gặp. May cho tôi được gặp
         1 lần, khoảng 15 phút tại Paris, năm 2008. Hôm đó, tôi đt cho anh
         Đức và hẹn gặp nhau tại một nhà   hàng VN, quận 13 Paris. Tôi
         ở gần, nên đi xe điện đến trước, ngồi trong quán chờ.
         Lúc sau, thấy 1 người từ dưới đường hầm xe điện bước lên (coi hình). Nhận
         ra ngay ông bạn đồng nghiệp của gần nửa thế kỷ về trước. Kg khác xưa mấy, vẫn nụ cười hồn
         nhiên với cặp kính luôn gắn trên khuôn mặt. Mừng vui gặp
         lại nhau, sau bao biến đổi đau thương của đất nước. Không
         thể ngờ được lại có ngày 2 bàn tay xiết chặt vào
         nhau, lắc thật mạnh mà không nói nên lời, tại một nơi
         mơ tưởng thời còn cắp sách tới trường ở quê nhà,
         kinh thành Ánh Sáng.   (Không biết, bên kia thế giới, anh Đức
         có đọc được lá thư này không?)   Xin
         kèm vài hình kỷ niệm.   Thân
         mến, Nguyễn Như Hùng   
 Ghi chú hình đen trắng: các gs dạy PTG đầu
         thập niên 60 của thế kỷ trước. Từ trái,
         2 người bận áo mầu đứng sau là : NgDuyTại, QuảnHùng và
         tiếp theo từ trái:  NgTrungQuân,
         VũĐìnhLạc, NgNhưHùng, MaiĐứcTrí, PhạmVănĐàm, DươngHồngĐức
         (giữa Đàm và Bằng), NgVănBằng, ĐoànHân, PhanThanhThư       
      
      HÌNH ẢNH ĐẠI
         HỘI XXI-Houston 2017: 
   Click:  
 
 Nguyễn Như Hùng_ ĐHXXI Open   Double left click ngay trên
         hình #1, hình sẽ lớn hơn. Rồi click mũi tên bên mặt để xem tiếp
         các ảnh.       
      
      CHIẾC NẠNG ÂN TÌNH   Nguyễn Như Hùng   Lời nói đầu:    Dưới đây là email tôi gửi tới 2 ông bạn: VNT và
         PĐV (tên người: xin phép được viết tắt ) vào ngày
         28 tháng 8 năm 2012, để đề nghị 2 nhân vật chính có liên
         quan đến "Chiếc Nạng ân tình" (CNAT)  kể lại
         chi tiết về cuộc đời của chiếc nạng đặc biệt này. Không
         biết câu truyện tác giả viết đến đâu rồi, nhưng đến
         nay, sau gần một năm, tôi chưa nhận được tin tức gì. Vì
         thế, CNAT này được đưa lên đặc san của đại hội
         CVA toàn thế giới tổ chức tại Houston, TX vào tháng 10, 2013, để
         trình diện với các đồng môn CVA và cũng để nhắc nhở
         2 ông bạn CVA đừng quên nhiệm vụ với CNAT. Hơn nữa, Houston là
         nơi cư ngụ của CNAT và cũng là nơi tôi được gặp
         Nạng lần đầu.  (12Jun2013,NNH).-     
          Thư gửi hai bạn VNT và PĐV,   Xin gửi tới 2 bạn vài hình "CHIẾC NẠNG
         ÂN TÌNH":        Vào một buổi
         sáng đẹp trời, VNT lái xe chở tôi ra khu Bellaire, Houston. Xe dừng trước
         cửa tiệm cà phê và đậu ngay ô dành cho người
         tàn tật. Hỏi ra, tôi mới biết và chính đó là nguyên
         do có mấy bức hình này.   Nghe
         chuyện kể xong thì chiếc nạng này không còn là vật vô
         tri nữa, và ngay cả những tấm hình chụp chiếc nạng (hình, chứ
         không phải chiếc nạng thực) mà mỗi khi nhìn vào tôi cảm
         thấy nạng như là một sinh vật, có linh hồn, có tình cảm. 
          Dựa vào góc tường hay nằm xó
         xỉnh trong nhà kho, Nạng (từ đây Nạng viết chữ hoa) vẫn
         an nhiên tự tại, không vui, không buồn. Nạng và Chủ luôn luôn
         bên nhau từ ngày Nạng mới ra đời, tháng 3 năm 1980, trong nhà
         tù hắc ám ngoài miền bắc VN của Việt gian CS. Chủ đứng,
         Nạng đứng. Chủ đi, Nạng đi. Chủ nằm, Nạng nằm. Nạng và
         Chủ không rời nhau nửa bước. Rồi có một hôm Nạng phải
         bước những bước thật dài mới theo kịp được Chủ.
         Thường ngày, Chủ đi cà thọt, chậm chạp, mà hôm nay Chủ
         vui mừng, vội vã, đi như chạy. Có vẻ như Chủ quên là
         có Nạng đi bên. À thì ra, Chủ được lệnh di chuyển
         từ Bắc vào Nam. Rồi... lại một ngày đẹp trời khác, sau
         hàng chục năm tủi nhục sống dưới chế độ XHCNVN, Nạng
         lại được lên máy bay cùng Chủ sang xứ HoaKỳ tự do.
         Ngày lên máy bay mới rắc rối làm sao! Không biết có phải
         vì Nạng không có tên trong danh sách xuất ngoại hay người ta
         coi Nạng là một thứ vũ khí đáng sợ trên phi cơ hay vì
         lý do gì khác mà Chủ cứ kéo lê Nạng chạy từ chỗ
         này đến chỗ khác, với vẻ mặt căng thẳng, lo lắng. Sau cùng,
         cũng nhờ Trời Phật phù hộ nên Chủ và Nạng không phải
         chia cách.   Ngày nay, sau hơn 30 năm ra đời,
         dù không ăn uống, tẩm bổ, nhưng Nạng vẫn mạnh khỏe, cứng
         cáp, vẫn đủ sức đỡ Chủ dậy, dìu Chủ đi đứng
         vững vàng. Nhưng, than ôi! Từ ngày sang xứ Cờ Hoa này, với nền
         y khoa tiên tiến, Chủ càng ngày càng lơ là, không ngó ngàng
         gì đến Nạng. Chủ vứt Nạng cô quạnh ở xó nhà,
         tối tăm, ẩm ướt. Nhưng... Nạng... không buồn, mà lại còn
         vui nữa vì cảm thấy mình đã làm xong bổn phận của một
         chiếc nạng.   Chiều nay, đang
         lim dim trong giấc ngủ muộn, cánh cửa hé mở, ánh sáng ùa
         vào, mùi hương quen thuộc của bao năm xa cách, một bàn tay êm
         ái dựng Nạng dậy, phủi bụi, gỡ mạng nhện quanh Nạng, rồi
         bế Nạng ra tắm rửa, lau chùi sạch sẽ. Ôi! Sao mà thích thú
         thế! Vòi nước mát mẻ giữa mùa hè nóng bức của
         xứ cao bồi này, lần đầu tiên được thưởng thức,
         thật là tuyệt vời! Qua một đêm ngủ say sưa, yên lành, mình
         mẩy khô ráo, sạch sẽ, Nạng được Chủ rước lên xe
         hơi màu đỏ, dạo chơi phố phường thành phố Houston. Nhưng
         Nạng đâu có ngắm được gì vì bị Chủ nhốt kín
         trong cốp phía sau xe, nằm trên mấy tờ báo chợ. Vòng vo một
         quãng, xe dừng lại, Chủ mở cốp xe, dựng Nạng dạy và dẫn
         Nạng vào một ngôi nhà để ra mắt bà con cô bác. Nạng
         được người ta nâng niu ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi. Lúc
         được giơ lên cao, lúc bị đè xuống thấp. Lúc được đứng
         trên bục, lúc bị đặt dưới đất. Nạng phải xoay đủ
         các thế, đứng đủ các kiểu. Có lúc đầu lộn
         xuống đất, vó chổng lên trời. Mắc cở thấy mồ đi chứ!
         Thế mà Nạng không kêu ca, không nói nửa lời. Nếu Nạng
         ho nhẹ lên một tiếng, chắc họ quăng ngay Nạng xuống đất rồi
         hùa nhau tháo chạy có cờ. Thấy mà vui chi lạ!  Mò mẫm
         mãi, người ta mới tìm thấy tháng năm sinh của Nạng: 3- 1980 (được
         khắc sâu dưới cán tay cầm)  và lão phó nhòm đặt
         tên cho Nạng là "Chiếc Nạng Ân Tình". 
              Sao lại gọi là CNAT? Đấy là tình Người, tình tù.
         PĐV, VNT là sĩ quan QLVNCH, sau 30/4/75, phải đi tù cải tạo và
         có thời gian tù chung trong một trại giam của CS ngoài miền bắc VN. 
          VNT đi lao động, bị tai nạn làm sao, cứu
         chữa như thế nào, đến nỗi chân không bước được
         phải cần đến nạng?   PĐV,
         trong hoàn cảnh tù đầy giữa rừng thiêng nước độc,
         thiếu thốn đủ thứ, dụng cụ không có, vật liệu khan
         hiếm, làm cách nào mà thực hiện được một chiếc
         nạng bằng gỗ lim, nẹp sắt, đẹp đẽ và chắc chắn như
         vậy? Tay nghề không có, cơ thể yếu đuối, thiếu dinh dưỡng
          mà PĐV cho ra đời một "kiệt tác" đầy tình
         người giữa một xã hội tù đầy, lừa lọc, gian ác,
         luôn luôn bị quản giáo theo dõi.Thật là một việc phi thường! Chỉ
         có TÌNH NGƯỜI, TÌNH TÙ, TÌNH CHIẾN HỮU, TÌNH ĐỒNG
         MÔN  mới làm  được điều đó. 
              Đến đây là lúc Chiếc Nạng Ân Tình
          chờ đợi bài viết kể lại chi tiết về Nạng từ: 
           Người- sinh- thành- ra- Nạng hàng tháng
         trời là CVA PĐV  và    Người- đã-
         sống- với- Nạng hàng chục năm trời là CVA VNT.       Thân
         chào 2 bạn,       Nguyễn Như Hùng    
   
      
      ÐI THĂM GIÁO SƯ NGUYỄN-KHẮC-KHAM Nguyễn Như Hùng_______________________________________ 
             Gs Nguyễn Khắc Kham (chụp ngày thăm Thầy 9/2003)  
          Trong giới
         cắp sách đi học ở thế hệ thập niên 50-60 chắc không mấy
         ai là không biết đến danh tiếng GS Nguyễn-Khắc-Kham, một nhà
         giáo dục gương mẫu, một học giả uyên bác, một bậc
         Thầy của bao thế hệ. Thầy là giáo sư trường Chu Văn An từ
         ngoài bắc đến trong nam. Môn dạy chính của Thầy là Pháp
         văn vì Thầy tốt nghiệp cử nhân văn chương (licence en letters) và
         cử nhân luật khoa (licence en droit) tại Paris năm 1934. Tuy nhiên ít ai được
         biết GS Nguyễn-Khắc-Kham là ngừơi đầu tiên dạy triết học
         bằng tiếng Việt tại trường CVA Hà Nội trong chương trình
         Việt ngữ Hoàng Xuân Hãn ( niên khóa 1944-45 hiệu trưởng là
         GS Nguyễn-Gia-Tường và niên khóa 45-46 hiệu trưởng là GS Dương-Quảng-Hàm
         )   Trong buổi tiệc tân niên mừng
         xuân Quý Mùi tổ chức ngày 8 tháng 2 năm 2003 của hội cựu
         học sinh CVA Bắc Cali (CVABC) các GS hiện diện gồm có: GS Lê Văn Lâm,
         GS Nguyễn Xuân Vinh, GS Cung Nhật Tân, GS Nguyễn Hữu Hưng, GS Nguyễn Ðức
         Hưng, GS Trần Quang Lãng. Vắng mặt GS Nguyễn Ðức Hiếu, GS Lê Thành
         Việt và GS Nguyễn Khắc Kham. Theo bài tường trình buổi họp mặt
         này trong "Tin thư CVA/BC" ngày 17/05/03, GS Nguyễn Khắc Kham năm nay đã
         94, mặc dầu tinh thần còn minh mẫn nhưng sức khỏe đã yếu
         kém nên không tham dự được.    Không
         phải chỉ buổi họp này mà mấy kỳ họp mặt CVA trong vùng
         gần đây cũng không thấy Thầy tham dự. Vì thế tôi đề
         nghị hội CVA/BC tổ chức một buổi đến thăm Thầy. Thầy ở
         ngay San Jose, thật thuận tiện và vinh hạnh cho đám học sinh CVA/BC. Bao
         nhiêu môn đệ của Thầy ở rất xa muốn đến thăm Thầy
         đâu phải dễ, nhờ cuốn đặc san này mà biết được
         tin tức về Thầy.   Hơn tháng trước
         đây, tôi có gọi điện thoại thăm sức khỏe Thầy và
         báo cho Thầy biết tin nhà sách Hồng Bàng sắp dẹp tiệm. Thầy
         hay đi xe bus đến đây tìm mua sách. Vùng Thung lũng Hoa Vàng,
         với số dân Việt tị nạn hàng trăm ngàn người, từ trước
         tới nay có 3 nhà sách: Toàn Thư, Tự Do, Thư Lâm. Khi Toàn Thư
         đóng cửa thì Hồng Bàng thay thế. Nay Hồng Bàng cũng đi
         theo Toàn Thư. Thị trường chữ nghĩa tiếng Việt ở hải ngoại
         ngày một ảm đạm. Các tiệm sách ngày nay còn cầm cự
         được có thể là nhờ bán băng đĩa ca nhạc. Tin nhà
         sách Hồng Bàng sắp đóng cửa và hạ giá các loại
         sách, giới cao niên trong vùng phần lớn đều biết. Và Thầy
         cũng đã biết vì thường ngày Thầy vẫn theo dõi tin tức
         qua báo chí, qua đài phát thanh địa phương. Thầy có mua
         được vài cuốn sách trong dịp nhà sách Hồng Bàng sắp
         đóng cửa.       NGÀY VIẾNG THĂM.-   Anh hội trưởng CVABC Phạm Nguyên Khôi đã liên
         lạc với GS Nguyễn Khắc Kham và được Thầy cho một cái hẹn.
         Sáng ngày Chủ Nhật 7 tháng 9, 2003, chúng tôi 3 ngườI, anh hội
         trưởng PNK, anh cựu hội trưởng Vũ Mạnh Phát và tôi hẹn
         nhau 10 giờ sáng trước cửa nhà Thầy. Chưa kịp bấm chuông,
         đã thấy GS, quần aó chỉnh tề mở cửa mời chúng tôi
         vào nhà. GS bắt tay từng người và từ tốn chỉ ghế cho chúng
         tôi ngồi. Cả 3 chúng tôi đã được hầu chuyện với
         GS một vài lần. Lần nào cũng vậy, khi đã có hẹn, GS luôn
         luôn quần áo chỉnh tề ngồi sẵn trong nhà đợi khách. Dù
         người khách đó chỉ là học trò thế hệ sau của học
         trò Thầy.     - "Cô mặc
         chúng con". Vừa nói, tôi đỡ khay trà từ tay Cô, phu nhân
         GS. Hôm nay trông Cô không được khỏe. Thầy bảo, mấy hôm
         nay Cô hơi bị mệt. Thế mà Cô vẫn loay hoay trong bếp và mang
         ra khay bánh Trung Thu. Lần nào tới thăm Thầy, chúng tôi cũng được
         uống trà tàu, ăn bánh ngọt và thường chỉ gặp Thầy
         Cô. Căn nhà hai tầng, sân sau trồng nhiều cây ăn trái. Nghe nói,
         Thầy Cô sống với gia đình người con gái ở đây. Trông
         thấy bánh nướng, bánh dẻo bầy trên bàn,  tôi mới
         chợt nhớ ra là sắp Tết Trung Thu. Thật đáng trách, hôm nay là
         ngày 11 tháng 8 âm lịch, còn 4 ngày nữa là Tết trung Thu. Các
         chợ VN trưng bầy đầy bánh trái, lồng đèn cho thiếu nhi.
         Thế mà cả 3 đứa chúng tôi không ai nhớ hay để ý đến
         ngày Tết Nhi Ðồng sắp tới. Nay được ăn bánh Trung Thu uống
         nước trà tàu của Thầy Cô mà cảm thấy lỗi đạo
         đối với bậc Thầy đáng kính. Ðến thăm Thầy vào
         dịp sắp Tết mà không có gì đem theo chúc Tết Thầy Cô.
         Thật sự  thì hôm nay tôi có đem theo một tấm hình khổ
         lớn chụp Thầy tại nhà một người quen mà chưa có dịp
         kính tặng Thầy. Tôi được biết đã nhiều lần Thầy
         từ chối nhận quà. Nếu khách nói khéo quá hay cứ để
         quà lại, Thầy phải nhận, nhưng Thầy Cô lại phải tìm quà
         khác biếu lại hay mua món khác đáp lễ dù rằng người
         khách đó chỉ là hạng con cháu hay môn đệ của Thầy.
         Xưng hô với môn đệ, Thầy thường gọi Ông với Tôi.
         Từ tốn, điềm đạm, thân mật. Ít lộ vẻ vui buồn trên
         nét mặt. Luôn luôn giữ phong cách nhà nho xưa. Tinh thần minh mẫn,
         suy nghĩ bén nhạy, đối đáp nhanh chóng, ở tuổi  95 ít
         người được sức khoẻ tốt như Thầy.  Tuy nhiên thính
         lực bị hạn chế, phải ghé gần tai và nói lớn Thầy mới
         nghe được.   GS NGUYỄN KHẮC
         KHAM, THẦY CỦA THẦY. - "Thưa Thầy, nhóm cựu HS CVA vùng bắc
         Cali này dự định ra một số đặc san vào mùa xuân tới
         (Giáp Thân, 2004). Chúng con đến trước hết thăm Thầy Cô,
         sau là xin vài lời chỉ giáo của Thầy" Ðây là một cuộc nói chuyện thân
         mật, ăn bánh trung thu uống nước trà tầu, giữa Thầy trò
         nên chúng tôi cố tránh tạo ra một không khí phỏng vấn
         có vẻ báo chí chuyên nghiệp. Cả 3 chúng tôi không ai cầm
         giấy bút ghi chép gì cả. Nhưng chúng tôi có đem theo một
         máy ảnh và một máy ghi âm nhỏ cầm tay. Cốt là để
         lưu giữ vài hình ảnh và lời nói của Thầy, khi Thầy ở
         tuổi 95.    Hình ảnh và lời
         giảng trên bục của GS Nguyễn Khắc Kham, khởi đầu từ năm 1937
         đến năm 1974 (năm GS nghỉ hưu từ trường đại học ngoại
         ngữ Tokyo), chuyển  từ Hà Nội vào Saigon rồi ra ngoại quốc, trải
         qua các trường trung học Gia Long, Hoài Ðức, Thăng Long, Văn Lang, Bưởi
         , Chu Văn An, Minh Tân, Văn Hóa, Petrus Ký, đến các trường đại
         học Văn Khoa, Sư Phạm, Vạn Hạnh, ngoại ngữ Nhật Bản (Tokyo). Rất
         nhiều môn sinh của GS hiện nay ở rải rác khắp nơi trên thế
         giới vẫn còn nhớ và rất mong muốn biết tin tức về vị Thầy
         đáng kính. Khi tin chúng tôi tới nhà vấn an GS Nguyễn Khắc
         Kham được anh hội trưởng CVABC thông báo trên diễn đàn
         điện thư CVA, nhiều các bạn từ xa gọi đến mong muốn được
         liên lạc với Thầy, nhưng tiếc rằng vì tuổi già nên những
         ngày gần đây  Thầy rất khó nghe được qua điện thoại.
         Trong số đó có nhóm CVA Úc Châu vùng Sydney, anh hội trưởng
         CVA Nguyễn Bát Tuấn ngỏ lời muốn có hình ảnh mới nhất
         của GS Kham để đăng trong đặc san của hội phát hành vào
         tháng 10/2003. Ðặc san CVA của chúng tôi mãi tới đầu năm
         2004 mới phát hành, chẳng lẽ tấm hình Thầy của chúng tôi
         chụp lại phải in sau đặc san của các bạn? Nói vui thế thôi,
         chứ CVA Nguyễn Bát Tuấn đã nhận được hình ảnh GS Nguyễn
         Khắc Kham cho kịp ngày lên khuôn báo rồi.               Suốt 40 năm trong ngành
         giảng dạy, GS Nguyễn Khắc Kham đã đào tạo biết bao nhân
         tài cho đất nước. Học trò nhỏ nhất của GS hiện giờ
         cũng phải trên 50 tuổi, còn tuổi của những học trò kỳ cựu
         phải tới trên tám chục hay chín chục.  Ngay cố GS Nguyễn Ðình
         Hòa cũng từng nhận là môn đệ của GS Nguyễn Khắc Kham. Trong
         "Lời nói đầu" của Tuyển tập Ngôn Ngữ và Văn Học
         VN số đặc biệt Khánh Hạ GS Nguyễn Khắc Kham nhân dịp thượng
         thọ 85 tuổi, GS Nguyễn Ðình Hòa viết : " Riêng chúng tôi
         đã sớm có liên hệ của một học trò đối với thầy
         Nguyễn..." Thật đúng GS Nguyễn Khắc Kham là bậc Thầy của
         Thầy chúng tô GS NGUYỄN KHẮC KHAM, MỘT HỌC GIẢ UYÊN BÁC,
         MỘT CUỐN TỰ ÐIỂN  SỐNG.-    Thời tiết chuyển
         mùa sắp sang thu làm người già thấy mệt mỏi. GS cho biết mấy hôm nay hai cụ  không
         được khỏe. Hàng ngày GS phải uống nhiều thứ thuốc. Tuy thế
         GS vẫn ưu ái vui vẻ tiếp chuyện chúng tôi suốt hơn 3 giờ
         đồng hồ. Bao nhiêu thắc mắc được dịp đưa ra hỏi Thầy.
         Từ truyện văn học lịch sử, đến truyện người, truyện vật,
         truyện xưa truyện nay, GS đều giải đáp một cách thỏa đáng.
         Sau bao biến đổi của cuộc sống, với tuổi  95, nhiều cụ đã
         lú lẫn, nhưng GS vẫn giữ được trí nhớ thật tốt. Chúng
         tôi  thường nói với nhau, GS là cuốn Bách Khoa tự điển
         sống. Rất vinh hạnh cho anh em CVABC chúng tôi được cư ngụ ở
         gần GS. Khi tra cứu điều gì không được, lại tìm đến
         thỉnh ý Thầy.              
         Có lần tôi muốn tìm kiếm nguyên bản "thất trảm sớ"
         của cụ Chu Văn An dâng lên vua Trần Dụ Tôn (1341-1369) để xin chém 
         7 kẻ lộng thần. Chúng ta ai cũng biết CVA là một vị quan thanh liêm,
         cương trực. Vua Trần không nghe, CVA xin từ quan về quê nhà mở
         trường dạy học. Sử sách mà tôi được đọc chỉ
         ghi sơ sài như thế. Làm sao tìm ra nguyên bản Thất trảm sớ.
         Làm sao tìm ra tên tuổi, chức tước của 7 kẻ gian thần đó.
         Tra cứu khắp nơi không thấy giải đáp, tôi đành phải
         cầu cứu GS Nguyễn Khắc Kham. Thầy nói: Thất trảm sớ của ông
         Chu An ( theo gs, không có ai tên Chu Văn An cả, tên đúng là Chu An
         hay có thể là Chu Văn Trình) dâng lên vua nhà Trần nay không
         thấy lưu truyền, có thể bị thất lạc hoặc đã bị tiêu
         huỷ. Tên tuổi của 7 người đó cũng trong tình trạng như
         vậy. Thế là tôi yên trí, không phải mất công tìm
         tòi ở đâu nữa. Tuy nhiên qua câu chuyện Thất trảm sớ của
         người xưa làm ngày nay tôi tự nghĩ, với chế độ dân
         chủ, tự do như ở Hoa Kỳ ngày nay thì những người như cụ
         CVA có phải dâng sớ tâu trình lên Tổng thống không. Không.
         Cứ việc tố cáo qua  báo chí, qua quốc hội. Ngay cả Tổng
         thống có tội cũng bị pháp luật  trừng trị, huống hồ
         gì chỉ là vài tên quan chức lộng quyền đàn áp dân
         lành. Rồi đến đây tôi lại thắc mắc, nếu như câu
         chuyện dâng sớ của cụ CVA mà xẩy ra ở VN hiện nay thì sao? cụ
         CVA có được yên ổn mà về quê mở trường dậy học
         không? Hay xã hội đen đến hỏi thăm sức khoẻ?          THƯ
         VIỆN CỦA GS NGUYỄN KHẮC KHAM.-                                                             
           Tôi gọi là thư viện để
         nói lên số lượng sách hiếm quý trong tủ sách của GS.
         Phần lớn là sách báo về văn học VN, đủ mọi thứ tiếng
         Việt, Pháp, Anh, Hoa, Nhật...Một số báo chí rất xa xưa xuất
         bản tại VN bằng tiếng Việt, như Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng báo,
         Lục Tỉnh Tân Văn, Ðông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí...hay
         tiếng Pháp như Notre Journal, Notre Revue, L'Annam Nouveau...còn lưu giữ trong thư
         viện của GS. Tiếc rằng, theo GS, phần lớn các tài liệu đó
         còn nằm trong thùng, chưa được xắp xếp lại thứ tự,
         giấy biến mầu vàng và chữ rất khó đọc.                Nói đến
         thư viện sách báo tiếng Việt ở vùng bắc Cali này, tôi
         còn được biết đến tủ sách gia đình rất phong phú
         và giá trị của cụ Nguyễn Huy Trực, một nhiếp ảnh gia danh tiếng
         với những cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật phong cảnh quê hương,
         một giáo sư nhiếp ảnh cho các lớp ảnh nghệ thuật tại hội
         Việt Mỹ / Saigon và các lớp ảnh tại hải ngoại. Cụ còn
         là một nhà nghiên cứu văn hóa VN với các bài khảo cứu
         viết về di tích lịch sử rất công phu.               Tôi chưa mượn được
         quyển sách nào từ tủ sách của GS Nguyễn Khắc Kham vì muốn
         tìm kiếm điều gì, hỏi GS là được giải đáp ngay.
         Còn từ thư viện của nhiếp ảnh gia Nguyễn Huy Trực, đã nhiều
         lần tôi mượn mang sách về nhà. Quyển nào cũng được
         dán nhãn " From the library of Nguyễn Huy Trực". Cụ xắp xếp thứ
         tự, tổ chức khoa học. Trong thư viện, chung quanh 4 vách tường, sách
         trên kệ chất cao đến trần nhà. Có ghế để với cao như
         trong các thư viện lớn. Cách đây hơn một năm, vài sinh viên
         VN trong nhóm Việt học tình nguyện mỗi cuối tuần đến thư
         viện Nguyễn Huy Trực để giúp phân loại sách báo theo từng
         bộ môn, đánh số thứ tự, hệ thống hóa các  dữ
         kiện cho vào máy điện toán. Mượn, trả đều có sổ
         sách ký nhận. Nhiều sách chưa thấy bầy bán trong các tiệm
         sách địa phương, thế mà thư viện Nguyễn Huy Trực đã
         có. Suốt ngày Cụ bận rộn, vất vả mà vui với công việc
         phụng sự văn học nghệ thuật. Nhưng dạo gần đây, sức khỏe
         Cụ đã không cho phép.     
                      TIỂU
         SỬ VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA GS.               GS Nguyễn Khắc Kham
         sinh ngày 23 tháng 12 năm 1910  tại Hà Nội. Như vậy GS cùng tuổi
         Canh Tuất (1910) với ông Ngô Ðình Nhu và ông Hồ Hữu Tường?
         Không, thật sự tuổi ta tôi sinh năm Mậu Thân (1908). Năm Mậu
         Thân 1968, Cụ vừa tròn một vòng con Giáp. Trong thời gian VC tổng
         công kích vào các đô thị lớn miền Nam Tết Mậu Thân,
         GS đang công tác tại Nhật Bản. Cụ tổ tam đại vốn gốc
         họ Nguyễn Doãn, sinh quán xã An Ðiềm, huyện Thiện Lộc, phủ
         Ðức Quang, Xứ Nghệ An. Thân phụ GS là nhà báo Nguyễn Văn
         Luận, cùng thời với nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh. GS có một
         trai ( sống ở Pháp ) và 4 gái ( 2 người ở Hoa Kỳ ). GS cho biết
         :Hai người con gái còn ở VN và ngôi nhà của ông thân
         tôi tại Hà Nội, hiện nay Nông Ðức Mạnh đang chiếm ngụ.
                       
         Ðậu cử nhân văn khoa và cử nhân luật khoa tại Paris năm 1934.
         Về VN làm giáo sư hoặc kiêm nhiệm hiệu trưởng một số
         trường trung học tại Hà Nội. Hội viên ban văn học hội Khai
         Trí Tiến Ðức. Viết báo với bút hiệu Lãng Hồ hay một
         vài bút hiệu khác cho các báo L'Annam Nouveau, La Patrie Annamite, Tiểu Thuyết
         Thứ Bảy, Trung Bắc Tân Văn, Trung Bắc Chủ Nhật. Chủ nhiệm Báo
         Mới, Hà Nội. Từ 1946 tản cư về vùng quê Việt Bắc. Trở
         lại Hà Nội năm 1952, giảng viên đại học Văn Khoa và hiệu
         trưởng trung học tư thục Minh Tân và Văn Hóa ở Hà Nội.
         Di cư vào Nam năm 1954, giáo sư các trường trung học Petrus Ký,
         CVA, đại học Văn Khoa Saigon, Huế, Vạn Hạnh, Cao Ðẳng Sư Phạm,
         Ðại Học Sư Phạm. Sau lần lượt giữ các chức vụ Xử
         lý Giám Ðốc Viện Khảo Cổ, Giám Ðốc Nha Văn Hóa kiêm
         tổng thư ký Uỷ Hội Quốc Gia UNESCO. Ngoài ra GS còn giữ nhiều
         chức vụ trong các cơ quan văn hóa, trong các phái đoàn tham
         dự hội nghị quốc tế. Tháng 9/1967 Cụ sang Nhật làm Giáo sư
         biệt thỉnh, sau được vinh thăng Giáo Sư thực thụ tại đại
         học Ngoại ngữ Tokyo. Cụ về hưu năm 1974. Ðến tháng 4/1975 miền
         Nam VN rơi nốt vào tay CS. Cụ nghĩ ở Nhật cũng không an toàn với
         các quốc gia CS bao quanh, Cụ quyết định cùng phu nhân người Nhật
         (người mà cùng với GS di cư từ Bắc vào Nam năm 1954) xin tị
         nạn sang Pháp với con trai (1975) rồi năm 1976 sang Mỹ  đoàn tụ
         với con gái .              
         Công trình trước tác văn học của GS Nguyễn Khắc Kham rất
         nhiều bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Nhật. (Chi tiết có
         thể tham khảo trong Tuyển Tập Ngôn Ngữ và Văn Học VN số 2 Tập
         I, Dòng Việt 1994 ).                   VÀI
         HÌNH ẢNH ÐÁNG NHỚ.-              
         Hình ảnh hai cụ già Á Ðông, cụ Ông đội mũ, chống
         gậy đi trước, cụ Bà xách túi theo sau. Hình ảnh quen thuộc
         nơi quy tụ đông đảo người Việt tị nạn tại thung lũng
         điện tử San Jose, bắc Cali. Dáng nghiêng nghiêng về phía trước,
         chậm chạp đi từng bước một. Từ đằng xa, tôi đã
         nhận ra GS Nguyễn Khắc Kham và Phu nhân. Lái xe vào lề đường,
         bước xuống chắp tay kính cẩn chào Thầy Cô.               - Kính Thầy Cô, Thưa
         Thầy Cô đi đâu đây ạ?               Thầy Cô dừng lại, ngẩng
         lên và nhận ra tôi:        
               - Chúng tôi đi đến nhà GS Lưu Khôn. 
                      - Kính mời
         Thầy Cô lên xe con đưa đến nhà GS Lưu Khôn.   Ðến nơi, ông bà Lưu Khôn đã chờ
         sẵn trước cửa để chào đón (vì đã được
         điện thoại trước của Thầy Kham) và dẫn chúng tôi vào
         thang máy đưa lên nhà ở lầu hai. Chưa ngồi xuống ghế, Cô
         đã lấy từ trong túi xách ra cân bánh trung thu đưa biếu
         OB Lưu Khôn (Thầy cô biếu lại vì tết nào trò Lưu Khôn
         cũng đến tết Thầy Kham). Ông bà chủ nhà cảm động và
         không thể chối từ được, nghiêng người trang trọng đỡ
         lấy hộp bánh đầy tình sư đệ.    - Thầy Cô còn mất công mang đến cho chúng
         con. Chúng con xin cám ơn Thầy Cô.    GS Lưu Khôn từng là môn đệ của GS Nguyễn Khắc Kham.
         Thế là bữa đó tôi được hầu truyện hai vị GS khả
         kính đã một thời cùng giảng dạy tại đại học Văn
         Khoa Saigon và lại có dịp thưởng thức bánh trung thu của Thầy
         Cô Nguyễn Khắc Kham và trà tàu của Ông Bà Lưu Khôn.    Gs Nguyễn Khắc Kham và phu nhân (ngồi) chụp
         với vợ chồng trò Lưu Khôn và trò NNH -12/2002      
                      Hình
         ảnh thứ hai mà tôi nhớ mãi là lối chào theo kiểu Nhật
         Bản của giáo sư phu nhân. Mỗi khi tiễn đưa khách ra về, GS
         và phu nhân ra tận ngoài cửa, thân mật, chân tình từ giã
         khách. Hai tay chắp lại, lưng hơi vòng về phía trước, Cô
         gật đầu chào khách, đúng cung cách của người phụ
         nữ Nhật Bản thời xưa. Một hình ảnh rất đẹp, rất quý
         phái. Chúng tôi vào hàng con cháu, đáp lễ bằng cách
         cũng chắp tay, cúi đầu, lưng cong xuống thấp hơn một chút.
         Có lần Cô còn chạy ra sân sau hái mấy trái lê chín
         trao cho chúng tôi khi ra về. Lần nào cũng vậy, xe ra tới đầu
         khúc rẽ, chúng tôi ngó lại vẫn thấy Thầy Cô còn đứng
         trước cửa nhìn theo. Hình ảnh đáng yêu, đáng kính
         đó của hai thân hình bé nhỏ mang nặng trên lưng còng lớp
         lớp thời gian và khối dầy kiến thức đã in đậm trong tâm
         trí tôi, làm sao có thể quên được. Cầu mong Thầy Cô
         luôn luôn khỏe mạnh, vui sống bên con cháu và các môn đệ
         của Thầy.                   VÀI LỜI
         NHẮN NHỦ CỦA THẦY.-              
         Thu thập tiểu sử và các công trình trước tác của các
         GS CVA._    Thầy đề nghị, ưu tiên
         những vị quá cố. Chúng tôi xin ghi nhận. Hiện nay tôi thấy một
         vài website CVA đã in hình và tiểu sử một số giáo sư.
         Tuy chưa đầy đủ nhưng bước đầu cũng là điều đáng
         khích lệ.              
         Thư viện CVA._              
         Ðây là mong muốn của chúng tôi. Mấy lần trước Thầy
         cũng nhắc nhở như vậy. Thu thập các tác phẩm của các GS,
         các học sinh CVA . Từ ngày thành lập tới nay, gần 100 năm, biết
         bao công trình nghiên cứu, trước tác của các thành viên
         CVA.  Bây giờ làm sao thu thập, lưu giữ, điều hành? Thật
         là nan giải, vớI thành phần nhân sự quá ít ỏi và phương
         tiện hầu như không có gì. Mong muốn như vậy nhưng thực hiện
         không phải dễ. Cần sự tiếp tay của nhiều người. Hy vọng trong
         tương lai gần đây, các cựu môn sinh của GS cùng với các
         cựu học sinh CVA cố gắng để có thể thực hiện phần nào
         những gì mà các bậc Thầy của chúng ta như GS Nguyễn Khắc
         Kham đã nhắc nhở. Và gần đây, nghe nói một thư viện
         của trung tâm Việt Học tại thủ đô người Việt tị nạn,
         vùng quận Cam, Nam California, đã đi vào hoạt động. Thật đáng
         ca ngợi. NGUYỄN NHƯ HÙNG Santa Clara. CA  Vài hình ảnh
         của GS Lưu Khôn & GS Nguyễn Hiếu Đức do NNH chụp tại ĐH
         2014-Arizona     
 _________________________________________________________________ ___________________________   
                  
       
      Ỷ
         LAN XƯA và  Ỷ LAN NAY    NguyễnNhưHùng      
         Ỷ Lan (Ỷ dấu hỏi ? ) là tên người.
         Xin giới thiệu 2 nhân vật tên Ỷ Lan trong bài này.   Ỷ LAN Xưa - Ỷ Lan là tên một cung phi đời
         nhà Lý trong lịch sử VN. Gốc gác là một thôn nữ, thường ngày làm việc hái dâu, chăn tằm, người
         làng Thổ Lỗi, huyện Thuần Thành, tỉnh Bắc Ninh (sau đổi là
         Siêu Loại, làng Sủi, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm,
         Hà Nội). Khi còn ở quê, tên là Yến ( có sách ghi tên
         khác như Khiết, Khiết Nương, Yến Loan...), Lê Thị Yến, sinh vào
         khoảng năm 1044, đời Lý Thái Tông. Năm 1063, đời Lý Thánh
         Tông, cô gái quê này được tuyển vào cung, và cái
         tên Ỷ Lan xuất hiện từ ngày đó. Năm 1117, đời Lý Nhân
         Tông (con trai của Bà), Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu băng hà, thọ 73
         tuổi. Vì mẹ mất lúc 12 tuổi, phải sống cực khổ với mẹ
         kế, giống cô Tấm trong truyện cổ tích, nên sau này dân gian
         thường gọi Ỷ Lan Thái Hậu là bà Tấm, đền bà Tấm... 
           Khâm Định Việt Sử Thông Giám
         Cương Mục có ghi rằng, khi " Nhà vua 40 tuổi, chưa có con trai,
         thường đi các đền chùa để cầu tự; ngự giá đến
         đâu, người xem chật đường. Khi đến làng Thổ Lỗi,
         có người con gái hái dâu đứng tựa vào khóm cỏ lan,
         nhà vua lấy làm lạ, cho vời vào cung, lập làm Ỷ Lan phu nhân.
         Đến khi có mang, sinh hoàng tử Càn Đức, nhà vua mừng lắm.
         Ngày hôm sau lập làm thái tử, đổi niên hiệu, đại
         xá, phong Ỷ Lan phu nhân làm Thần Phi, lại gọi là Nguyên Phi. Đổi
         làng Thổ Lỗi làm làng Siêu Loại, vì là sinh quán của
         Nguyên Phi."     Lời bàn: "Nhà
         vua lấy làm lạ" là đúng rồi. Mọi người đổ
         ra đường cái nghênh đón đoàn xe của vua, chỉ có một
         cô gái hái dâu đứng tựa khóm lan - chắc là nghỉ mệt
         - mơ mơ màng màng tận đâu đâu, không để ý đến
         ngự giá đi qua, vì... lơ đãng hay cố ý làm khác người
         để gây sự chú ý của nhà vua. Cuối cùng, nàng đã
         toại nguyện, được vời vào cung. Niềm mơ ước của bao thiếu
         nữ đương thời . Em là gái Bắc Ninh mà!!   Buổi gặp gỡ do duyên tiền định này xẩy ra
         vào năm Quý Mão (1063), lúc đó cô gái họ Lê làng
         Thổ Lỗi, 19 tuổi, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi, lên ngôi được
         gần 10 năm. Hai năm trước, Tân Sửu (1061), "mùa xuân, tháng
         2, (vua) chọn con gái dân gian 12 người vào hậu cung"  (Đại
         Việt Sử Ký Toàn Thư). Như vậy từ khi lên ngôi, lúc ngoài
         30 tuổi, Lý Thánh Tông đã tuyển nhiều thiếu nữ vào cung. 
          Vua thường về vùng Bắc Ninh, vừa đi
         lễ chùa (vì Bắc Ninh có nhiều chùa cổ kính), vừa  tìm
         kiếm người đẹp xứ Kinh Bắc. Hơn nữa, ngay từ khi còn nhỏ,
         Nhật Tôn (tên Lý Thánh Tông khi chưa lên ngôi) đã từng
         theo cha, ông về quê Bắc Ninh nhiều lần. Nên nhớ là ông nội
         của vua Lý Thánh Tông là Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ
         (1009-1028), quê làng Cổ Pháp thuộc tỉnh Bắc Ninh (sau đổi là
         Đình Bảng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh).    Xin trở lại câu truyện về buổi hạnh ngộ đặc biệt
         này:    Vua sai quan gọi lại, hỏi
         đáp vài câu. Vua thấy cô gái quê có vẻ đẹp mặn
         mà, xinh xắn, nói năng lễ phép, dịu dàng, cử chỉ đoan
         trang, đối đáp rành rẽ, tỏ ra thông minh, hiểu biết.  Thế
         là nhà vua đem lòng cảm mến và thán phục. Cô thôn nữ
         hái dâu làng quê Bắc Ninh được mời ngay theo long giá về
         kinh đô, được vua đặt tên là Ỷ Lan (dựa gốc cây
         lan), phong làm Phu Nhân (1063). Khi sinh Hoàng tử  đầu tiên, Càn Đức,
         được phong là Thần Phi (1066). Hai năm sau (1068) sinh hoàng tử thứ hai,
         Minh Nhân, được phong là Nguyên Phi, Ỷ Lan Nguyên Phi (đứng đầu
         hàng cung phi).    Hoàng hậu Thượng
         Dương không có con. Các cung phi khác sinh toàn công chúa. Đến
         khi Ỷ Lan phu nhân sinh cho vua được một hoàng tử, vua và triều
         thần rất nỗi vui mừng.    Đại
         Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi rằng:   "Bính Ngọ (1066), mùa xuân, tháng giêng, ngày 25, giờ
         hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng
         Thái Tử, đổi niên hiệu, đại xá, phong mẹ Thái tử
         là Ỷ Lan Phu Nhân làm Thần Phi. Sử gia Ngô Sĩ Liên nói: thái
         tử là căn bản của nước, không lập sớm không được...Vua
         tuổi đã cao, may mà sinh hoàng tử, mừng vui bội phần, vội lập
         làm hoàng thái tử, đại xá thiên hạ, để yên lòng
         mong mỏi của muôn dân là phải lắm."     Năm Kỷ Dậu (1069), mùa xuân, tháng 2, vua Lý Thánh
         Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Trong khi vua và Lý Thường
         Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan Nguyên Phi được  giao nhiệm
         vụ điều hành triều chính, chăm lo quốc sự. Từ đó,
         xã hội thêm an bình, nhân dân sống trong ấm no hạnh phúc. Người
         người một lòng kính nể, thán phục.  Bà lại rất tôn
         sùng đạo Phật, hay đi lễ chùa, thường đóng góp để
         tu sửa chùa cũ, xây dựng chùa mới. Vì thế có nơi, người
         dân gọi Bà là Phật Quan Âm (ĐVSKTT).    Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông băng hà. Hoàng
         thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên
         hiệu là Thái Ninh năm thứ nhứt. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn
         mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên Phi làm Hoàng Thái Phi, tôn mẹ
         đích ( mẹ già, vợ chính của cha) là Thượng Dương
         làm Hoàng Thái Hậu.   Hoàng
         tử Càn Đức sinh năm 1066, lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân
         Tông (1072-1127), thật sự mới có 6 tuổi. Mọi việc triều chính
         phải do Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính. Thượng Dương
         là Hoàng Hậu, được phong là Hoàng Thái Hậu. Ỷ Lan là
         Nguyên Phi được phong là Hoàng Thái Phi là đúng luật lệ
         của triều đình. Nhưng Ỷ Lan là mẹ đẻ của vua mà không
         được nhiếp chính, nên Thái Phi mới tìm cách hãm hại
         Thái Hậu. Đó là năm 1073, một năm sau khi vua Lý Nhân Tông
         lên ngôi. ĐVSKTT có chép rằng: Linh Nhân có tính ghen, cho mình
         là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu
         với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây
         giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ
         để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương Thái
         Hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức
         phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.    Vụ bức tử này là một vết nhơ trong sự nghiệp
         của Thái Hậu Ỷ Lan. Nhiều sử gia chỉ trích, nhưng cũng có
         vị tỏ ra thông cảm, như sử gia Ngô Sĩ Liên nói: "Vì
         ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ
         mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người
         hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với
         vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là
         thích, mà không biết là lỗi to..."   76 thị nữ chết theo mới thực là tội nghiệp. Tục lệ
         gì mà tàn ác quá vậy! Cũng như Thái Hậu Ỷ Lan mất
         năm 1117, 3 người hầu gái phải chết theo!( ĐVSKTT).   Trong thời gian đầu làm nhiếp chính triều Lý
         Nhân Tông, nhà vua còn nhỏ, tất cả việc triều chính, quốc
         sự đều do tài điều hành khéo léo của Bà. Thái
         sư Lý Đạo Thành, người bênh vực Thái Hậu Thượng
         Dương, bị giáng chức xuống làm quan ở Nghệ An. Nhưng năm sau,
         để tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền
         tài,Thái Hậu Ỷ Lan bỏ qua hiềm khích cũ, triệu Lý Đạo
         Thành về kinh, trao cho chức Thái Phó Bình Chương Quân Quốc
         Trọng Sự trông coi nội chính, còn Lý Thường Kiệt thống
         lãnh binh lực, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Những
         chiến công hiển hách, phá Tống, bình Chiêm của danh tướng
         Lý Thường Kiệt, cùng những đóng góp về văn học, tôn
         giáo, kinh tế như lập Quốc Tử Giám, mở khoa thi chọn hiền tài,
         xây nhiều chùa tháp... phần lớn dưới thời nhiếp chính
         của Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu.     Ngày
         nay, ở xã Dương Xá, huyện Gia Lâm (xưa thuộc Bắc Ninh), nơi
         sinh quán của Bà, có đền thờ Thái Hậu Ỷ Lan (coi hình
         bên). Dân gian thường gọi là đền Bà Tấm
         (dựa theo truyện cổ tích Tấm Cám). Hậu cung trong đền có tượng
         Thái Hậu Ỷ Lan. Và cũng trong địa phận xã Dương Xá
         này, còn có chùa Linh Nhân Từ Phúc Tự (Linh Nhân, tên khác
         của Ỷ Lan), xây dựng từ thời Thái Hậu Ỷ Lan.   Hiện nay có tất cả 72 nơi trong nước lập đền
         thờ bà Ỷ Lan. Nhưng đền thờ ở quê Bà, xã Dương
         Xá, vẫn bề thế, quy mô, nhiều di tích lịch sử hơn cả. 
           Đấy là Ỷ Lan Xưa, Ỷ Lan thời
         nhà Lý, trong lịch sử VN. Sau đây là Ỷ Lan Nay.          Ỷ LAN Nay- Là một phụ nữ gốc Anh quốc,
         quê quán cố đô York (cách thủ đô Luân Đôn khoảng
         200 dặm về phía bắc), tên là Penelope Faulkner, hiện sinh sống tại
         Paris, Pháp quốc. Rất thông thạo tiếng Việt, cả nói và viết.
         Rất thông thuộc lịch sử Việt Nam. Rất yêu thích thơ văn Việt
         Nam. Có thể vì thế Penelope Faulkner đã chọn cho mình tên Ỷ
         Lan. Bao nhiêu tên không chọn, lại chọn tên Ỷ Lan, một nữ lưu
         danh tiếng trong lịch sử VN. Có thể vì thấy tên Ỷ Lan hay, vừa
         dễ phát âm, vừa gợi hình ảnh đẹp, thiếu nữ tựa gốc
         lan, vừa thích giai thoại nhà vua với cô gái hái dâu, hao hao truyện
         cổ tích Cô Bé Lọ Lem (Cinderella) bên Âu châu, vừa cảm phục
         tài điều hành đất nước tài giỏi của người phụ
         nữ quê mùa VN. Thế là tên Ỷ Lan gắn liền với tên Penelope
         Faulkner. Ngày nay, qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, thường nhắc
         nhiều đến tên Ỷ Lan, đó là Ỷ Lan này, Ỷ Lan Nay, Ỷ
         Lan Penelope Faulkner. Muốn coi hình ảnh, nghe giọng nói của Ỷ Lan Nay thì
         rất dễ, cứ mở Google gõ mấy chữ "Phóng viên Penelope Faulkner
         Ỷ Lan" là có ngay. Bao nhiêu bài viết tiếng Việt của Ỷ
         Lan (Nay) hiện lên trên mạng, càng đọc càng thấy thích thú.
         Tập truyện ngắn "Quê Nhà" của Ỷ Lan (Nay) xuất bản năm
         1998, nay đã 4 lần tái bản. Văn Việt của một người nước
         ngoài viết, họ có cái nhìn đặc biệt mà người trong
         cuộc không nhận thấy. Giọng văn dí dỏm, hấp dẫn, xen kẽ
         những câu ca dao, tục ngữ. Bài viết không dài dòng, thường
         là những câu truyện hàng ngày, nhưng luôn toát ra một ý
         tưởng nhân bản, bênh vực người cô thế, giúp đỡ
         người kém may mắn.    Xin coi một
         vài đoạn văn của Ỷ Lan (Nay) sau đây:   "Mỗi lúc các bạn Việt Nam xem Ỷ Lan như người
         Việt, Ỷ Lan cảm động lắm, và rất hãnh diện để làm
         người Việt Nam" (trích trong bài Quê Nhà).   "...những chuyện vượt biển do anh em mới qua kể
         cho nghe. Họ kể một cách bình thường, mà ngồi nghe, tâm thần
         mình rung động, lòng mình dấy lên niềm thương tiếc cho đất
         nước và dân tộc này, bị chà đạp quá mức, sau bao
         nhiêu thế kỷ sống với chiến tranh...".   "Ỷ Lan bỗng nhớ tiếng hát Thái Thanh vang từ đâu
         đó rất ngọt ngào:   Tôi
         yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời..   Tiếng nước tôi, Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm
         nôi   Thoắt ngàn năm thành
         tiếng lòng tôi, nước ơi!"   Khi Ỷ Lan "nằm nôi" bên xứ Hồng Mao, không biết con chim
         nào đã đem tiếng ru Việt xa vời vào lòng mình..." 
          ." Ỷ Lan rất thích nhạc Việt.
         Mỗi lần nghe giọng Hà Thanh hát "Ai ra xứ Huế"...hay Hỷ Khương
         ngâm "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là Ỷ Lan tưởng mình
         như đang đi đò trên sông Hương, hoặc ngồi ăn cơm hến
         bên Cồn...   Mỗi vùng có
         một bài riêng. "Hà Nội ơi, nhớ về thành phố
         xa xôi," "Nha Trang ngày về"; "Saigon niềm nhớ không tên";
         "Ai lên xứ hoa đào"...Thoáng nghe, Ỷ Lan đã hình dung ra
         thành phố, hình dung ra vùng trời...Hình dung ra một tiếng thầm
         gọi trở về. Bởi chốn quê hương là nơi đẹp hơn cả." 
          "Và Ỷ Lan chợt hiểu rằng, muốn
         giúp người Việt thì phải tìm hiểu họ, trước hết bằng
         cách học tiếng Việt. Vì tất cả sinh hoạt phong phú, triết lý
         nhân đạo của người Việt nằm trong ngôn ngữ, vừa thi vị,
         vừa thực tế. Nếu không, Ỷ Lan chỉ có thể đứng ngoài
         giúp vô, và nhiều khi cách giúp đó còn làm hại người,
         làm hỏng việc, như một số lớn những người ngoại quốc
         qua ý thức hệ tây phương, đã làm hại dân tộc Việt,
         đã nô lệ hoá con người Việt trong lịch sử cận đại...
         Ỷ Lan cũng muốn trở-thành-người-Việt, để có thể sử
         dụng chữ "đồng bào". Trở thành người Việt bằng
         cách tranh đấu cho "Quyền làm người Việt Nam" cho chính mình,
         và cho mọi người khác!"...    Ỷ
         Lan thuộc rất nhiều bài ca Việt, biết nhiều về xứ sở, con người
         VN, coi đất nước Việt như quê hương của mình, thầm mong
         một ngày được trở về quê. Nhưng bạn có biết không?
         Ỷ Lan chưa bao giờ được đặt chân trên mảnh đất hình
         chữ S này! Ỷ Lan muốn lắm, nhưng không được. Vì sao? Vì
         Ỷ Lan, đã từ bao năm nay, tham gia vào nhiều công tác cứu giúp
         nạn nhân CSVN như "Một con tàu cho VN" vớt người vượt
         biển, chống nạn hải tặc Thái Lan và nhất là tranh đấu
         cho dân chủ, nhân quyền VN, như tố cáo tội ác của đảng
         CSVN trên các diễn đàn quốc tế, kiện Hà Nội vi phạm nhân
         quyền trước LHQ (1985)... và gần đây nhất là bài Tham luận
         góp ý, do chính Ỷ Lan Penelope Faulkner đọc tại diễn đàn LHQ
         Genève ngày 27 tháng 11 năm 2013 về Cuộc Kiểm Điểm Thường
         Kỳ Phổ Quát của VN lần thứ 2, sẽ diễn ra tại LHQ ngày 28 tháng
         giêng năm 2014.    Dưới đây
         là một vài câu trích từ bài phát biểu đó: 
          "Nhưng tiếc thay, tại VN ngày nay không
         có xã hội dân sự thực sự độc lập, chỉ có những
         xã hội dân sự trực thuộc chính quyền...Chẳng những nhà
         cầm quyền gia tăng đàn áp chính trị sau cuộc kiểm điểm,
         mà còn thông qua nhiều sắc luật mới để ngày  càng
         hạn chế mọi hành xử nhân quyền qua mọi lãnh vực." 
              Cách
         nay cũng khá lâu, tôi có dịp đi đón Ỷ Lan PF (Penelope Faulkner),
         đến nhà một người bạn, dự  bữa cơm gia đình thân
         mật. Hôm đó, Ỷ Lan PF mặc áo dài hoa màu nâu, tóc buông
         xõa, ánh vàng hung hung. Gốc người Hồng Mao, vóc dáng cao lớn
         hơn phụ nữ  Việt trung bình, lại tha thiết trong chiếc áo dài
         truyền thống VN, trông thật đặc biệt và dễ thương (coi hình
         đính kèm). Khi nói chuyện thì khỏi chê. Từ  ngữ dùng
         rất chính xác, nhất là những câu vui đùa, nhiều ẩn ý,
         cứ như là người được sinh ra và lớn lên tại VN . Ỷ
         Lan nói giọng Huế. Nhưng rất dễ nghe, lại có vẻ nhẹ nhàng,
         thanh thoát, làm tôi nhớ đến làn hò văng vẳng trên giòng
         Hương Giang, khi lần đầu tiên đặt chân tới đất Thần
         Kinh năm 1960 của thế kỷ trước.   Tôi
         đã từng nghe nhiều người ngoại quốc nói tiếng Việt, rất
         giỏi, rất lưu loát. Nhưng phần lớn họ đã có một thời
         gian dài sinh sống trên đất nước VN. Đằng này, Ỷ Lan PF chưa
         một lần đặt chân tới VN, mà nói tiếng Việt rất thông
         thoại, phải nói là rất điêu luyện, giọng không khác gì
         người địa phương, có khi còn nhái giọng từng vùng
         quê.     Đó thật là một điều đặc
         biệt.    Hai Ỷ Lan, Xưa và Nay, sinh
         ra ở 2 nơi xa nhau hàng vạn dậm, sống cách nhau hàng ngàn năm,
         nhưng cùng mang tên Ỷ Lan, cái tên mà hầu như người Việt
         Nam nào cũng biết . Tại sao một cô gái bên trời Âu, cách
         xa vời vợi, chưa một lần đến VN, mà nói chuyện tiếng Việt,
         diễn thuyết tiếng Việt, viết văn, làm báo tiếng Việt, rất
         là xuất sắc, lại có tâm hồn VN, thương yêu đất nước,
         dân tộc VN, tranh đấu bền bỉ cho quyền làm người VN? Tại
         sao? Và tại sao? Thật là kỳ bí!  Có thể..., kiếp trước,
         Ỷ Lan PF là người VN (?),  có khi chính Ỷ Lan Nay là Ỷ Lan Xưa
         , là cô gái hái dâu, quê làng Thổ Lỗi, tỉnh Bắc Ninh
         không chừng?       NguyễnNhưHùng   
       
      Thầy tôi.   Thầy tôi,   Tuổi hạc chưa cao,   Mới ngoài chín chục,   Trí nhớ tinh tường.   Nguyễn Như Hùng       Xin thưa, Thầy đây
         là Thầy giáo, Thầy dậy chữ. Nói rõ hơn là Thầy dạy
         toán. Chúng tôi học Thày từ năm 1950. Và đây là tấm
         hình quý hiếm mà tôi còn giữ được, tính ra đã
         hơn 64 năm :      Hình lớp đệ
         thất, lớp đầu tiên của bậc trung học (HàNội, 1950). 
          Trong hình có 4 vị giáo
         sư là: thày Phú , đứng dựa tay phải vào tường, dạy
         anh văn; còn 3 vị tiếp theo đều đeo cà vạt, từ trái qua
         là thày Quang, dạy Việt văn, thày Đạt dạy toán và thày
         Hiếu dạy vạn vật. Còn lại là lũ lau nhau chúng tôi, đứa
         đầu trần, đứa đội mũ, phần lớn khoác áo ấm bên
         ngoài. Như vậy hình này phải chụp vào mùa lạnh,  dịp
         Giáng Sinh hay Tết.  Cũng không quên ghi công bác phó nhòm chụp
         tấm hình này. Bác phó nhòm là ai, không biết. Nhưng máy
         hình có lẽ là của bạn PhạmVănTuấn . (Bạn Tuấn là
         con trai của nhiếp ảnh gia PhạmVănMùi ).Thời đó, máy hình
         hiếm lắm, chạy tiền cho con theo học trường tư đã vất vả
         lắm rồi.    Ngày nay, nhìn vào
         tấm hình, tôi còn nhận ra một vài người:  PhạmVănTuấn
         (Virginia), PhạmVănQuảng (Canada), TạVănTài (Boston), TạVănDục, NgôThếĐiềm
         (Cali), PhạmChíCông (Pháp), LươngDuyênCan (Cali), NguyễnNhưHùng
         (Cali),  và một vài bạn nhớ tên , nhưng không nhớ họ:Tường,
         Cường, Từ . Đây không phải là cả lớp, vì còn nhiều
         bạn không có mặt trong hình, như một số bạn thân mà tôi
         nhớ :PhạmVănHải (Cali) TrịnhVănDương (Sg), TrầnĐứcLợi (Sg),
         NguyễnHoàng (hy sinh), ChuTrungNghĩa (yên nghỉ bên kia thế giới)..Và...
         không hiểu tại sao lại thiếu bóng dáng quý vị nữ sinh. Lớp
         chúng tôi thời đó có nhiều áo dài lắm chứ: DiệuLinh
         (Cali), DiệuYên ( qua đời), VânYến (Virginia),ThuýNga (Chicago), MộngTuyết
         (TX)), TuyếtAnh (Cali), KimChi (Cali), ThanhThảo (Cali), XuânHoa (Hanoi), HướngQuỳ (Hanoi),
         Diệp, Trinh, Hương...Chắc là các chị còn e lệ (!) ,hay ...theo quan
         niệm cổ hủ thời xưa, con gái phải đứng ra...ngoài lề? (Đọc
         tới đây, tôi đoán, nhiều lão bà kể trên sẽ cau mày
         xỉ vả cái thằng... tôi. Nhất là cụ DL, khi nghe điện thoại
         của tôi, tai hơi có vấn đề, cụ cứ hỏi đi hỏi lại,
         ai đó, ai đó. Tôi nói tên, cụ vẫn cứ hỏi hoài. Tôi
         phải nói lớn,  thằng H đây. Cụ à một tiếng, nhận
         ra ngay. Cụ phán: phải có chữ thằng đi trước , chứ tên H
         thì biết là H nào.Thế là 2 chúng tôi đều cười ha
         hả. Cảnh già lão nó vậy đó, các cụ ơi. Vui ơi là
         vui!)   Chúng tôi học với nhau từ
         năm 1950. Phần lớn đều mới hồi cư về  HàNội. Ngơ
         ngơ, ngáo ngáo, đúng là nhà quê ra tỉnh. Tuổi tác học
         sinh trong lớp rất sai biệt, trẻ nhất 11 tuổi mà lớn nhất có
         thể 17, 18 tuổi. Nhiều nhà có tới 3, 4 anh chị em ruột học cùng
         một lớp. Tản cư 4-5 năm, chạy từ làng này sang làng khác
         trong vùng thôn quê, không được đi học. Nay về thành, chữ
         nghĩa rơi rụng hết, thi vào đệ thất trường công, rớt,
         đành phải ghi tên học tư thục vậy. Nhớ là, thời đó,
         muốn học đệ thất (lớp 6 bây giờ) là phải có bằng
         tiểu học.    Nay ở Mỹ, thỉnh thoảng
         ngồi nói chuyện xưa với nhau, đều công nhận rằng, thế hệ
         tụi mình chịu đựng nhiều tang thương, mất mát nhất vì
         chiến tranh. Nào tản cư (1946-47), hồi cư (1948-53), di cư (1954-55), rồi đến
         tháng tư đen 1975, tai họa giáng xuống cho toàn dân miền nam, người
         người phải di tản, vượt biên, vượt biển tìm tự do. Đến
         nay tạm gọi là được định cư.  Ba, bốn chữ CƯ nó
         theo ta suốt cả cuộc đời !!   Bây
         giờ trở lại bức hình trên với Thày Tôi nhé. Trong hình
         có 4 thày. Nhưng bài viết này tôi dành để nói "Thày
         Tôi" là thày Đạt, thày LêVănĐạt. Vì Thày gần
         gũi với tụi tôi nhất, cho đến ngày nay (12/2014). Còn 3 thày
         kia đã yên nghỉ từ lâu . Thày Quang, thày Hiếu, không di cư
         vào Nam năm 1954, mất tại Hanội. Thày Phú mất ở Saigon.  
          Thày Lê Văn Đạt là gs dạy toán,
         vừa là hiệu trưởng của trường. Trường tư thục LamSơn.
         Trường dạy học sinh từ mẫu giáo lên tới trung học. Lớp lớn
         nhất trường là lớp đệ thất, lớp của chúng tôi, năm
         1950. Đấy cũng là năm trường thành lập. Thày Đạt xin
         giấy phép, đứng làm hiệu trường và quy tụ một số
         bàn bè thân quen cùng nhau thành lập ngôi trường mới. Trường
         ốc là một biệt thự, gần hồ Thuyền Quang. Năm 1950, khi trường
         Lam Sơn khai trương, ngoài 2 trường trung học công lập nam ( CVA, Nguyễn
         Trãi) và 1 trường trung học công lâp nữ (Trưng Vương), HàNội
         còn có một số trường trung học tư thục khác như VănLang,
         DũngLạc, HànThuyên...Thế mà Lam Sơn cũng có đủ học
         sinh và cầm cự suốt 4 năm trời, từ 1950 đến 1954. Năm chia cắt
         đất nước, toàn miền bắc VN rơi vào tay CS.    Trưóc khi VC tiếp thu Hanội 1954, theo hiệp định Geneve,
         hè năm đó, chúng tôi còn kịp dự kỳ thi Trung Học Phổ
         Thông khoá Một. (Khoá Hai tổ chức tại SaiGòn). Đấy là
         kỳ thi cuối cùng tại Hà Nội của một nền giáo dục quốc
         gia với đường hướng dân tộc, nhân bản, khai phóng. Khi vào
         Saigon, một số học sinh chúng tôi gặp lại nhau trong lớp đệ tam
         tại các trường trung học di cư như CVA, HồNgọcCẩn, TrưngVương
         (nữ sinh)... vào kỳ khai giảng niên học 1954-55. Mấy đứa tôi theo
         gia đình vào Saigon nên liên lạc được với nhau. Ai về các
         tỉnh khác đều bặt vô âm tín.  Các vị gs cũng vậy.
         Nhưng riêng Thày Tôi, GS LêVănĐạt,  chúng tôi có được
         gặp ở Saigon và chụp mấy tấm hình ở sở thú. Vào khoảng
         cuối năm 1955 thì phải(?). Nhưng không nhớ là làm sao liên lạc
         được với Thày, vì lúc đó, chân ướt chân ráo
         đặt chân tới thành phố rộng lớn như Saigon, đời sống
         còn khó khăn,phương tiện rất eo hẹp. (Sẽ hỏi lại Thày
         và các bạn sau).   Sang năm 1955, Việt
         cộng đã tiếp thu toàn thành HàNội. Thày Tôi còn ở
         lại. Trong thời gian Hải Phòng vẫn thuộc quyền kiểm soát của
         phe Quốc gia, Thày Tôi mới tìm cách trốn xuống HảiPhòng. Trên
         chuyến tàu hỏa HaNội- HảiPhòng, tới ga Phạm Xá, ranh giới phân
         chia quốc cộng, Thày vụt chạy về phía quốc gia. Chỉ ít ngày
         sau đó, cả miền Bắc chìm đắm trong chế độ CS (theo hiệp
         định Geneve 20-7-1954).   Bẵng đi một
         thời gian dài, không được tin tức về Thày.   Chúng tôi bận rộn học hành, rồi ra trường,
         mỗi đứa đi làm mỗi nơi. Không biết Thày tôi làm gì.
         Nghe nói, có thời gian, Thày ra Nha-Trang  mở  lại trường trung
         học Lam Sơn. Nhưng được vài tháng, trường đóng cửa.
         Sau đó, Thày Tôi, cũng như bao thanh niên khác ở miền Nam, phải
         nhập ngũ quân đội. Thày được trưng dụng với cấp
         bậc đại úy quân y đồng hoá, vì Thày là bác sĩ
         thú y bên dân sự. Đến ngày mất nước 30-4-1975, cấp bậc
         cuối cùng của Thày là đại tá quân lực VNCH. Thày di
         tản kịp thời năm 1975. Tôi bị kẹt lại. Không ngờ thày trò
         chúng tôi lại được gặp nhau tại Cali, đầu thập niên
         80 của thế kỷ trước, khi tôi mới từ trại tỵ nạn Mã
         Lai, đến Hoa Kỳ định cư được ít lâu. Lúc đó
         Thày đang làm việc ở New Jersey, miền đông Hoa Kỳ, qua Cali thăm
         bà con. Nơi Thày làm việc, ít người Việt, khí hậu lạnh
         lẽo, mùa đông tuyết băng, nên khi về hưu, Thày chuyển về
         Cali. Không phải 65 tuổi về hưu đâu, Thày còn làm thêm
         vài năm nữa mới nghỉ hẳn. Thày nói, về nghỉ hưu không
         biết làm gì. Đúng vậy, Thày không vướng bận vợ con,
         suốt đời sống tự do một mình.Thày Tôi chưa bao giờ lập
         gia đình. Khi chúng tôi học ở Lam Sơn, Hà Nội, Thày Tôi
         , hiệu trưởng, chưa tới 30 tuổi. Hầu như lúc nào cũng có
         mặt tại trường. Trường như nhà của Thày. Sau giờ học,
         Thày chơi bóng chuyền với chúng tôi tại sân trường. Tôi
         còn nhớ, bên thắng cũng như bên thua, mỗi đứa đều được
         thưởng 1 que kem. Cậu bé bán dạo ôm phích kem HùngVương
         chờ sẵn ở sân trường. Chiều xuống, cầu thủ bóng chuyền
         ra về, cậu bé bán kem cùng theo ra cổng trường, mặt mày hớn
         hở với  2 tay xách 2 phích kem, không còn một que vì Thày
         đã mua hết để khao chúng tôi rồi.    Ngày nay, Thày ở cùng vùng bắc Cali, nên chúng tôi
         có nhiều dịp thăm Thày hoặc  mời Thày ra tiệm để hàn
         huyên, nhất là khi có trò nào ở xa tới.   Sau đây là mấy hình Thày Tôi:   1/ Tấm hình kỷ niệm, Thày ký tặng, với
         ghi chú sau tấm hình: "Thân mến tặng Hùng để kỷ niệm
         những ngày Lam-Sơn.  Trường L.S, ngày 12-8-54. Thày cũ, (ký tên) LVĐạt".        Ngày ký tặng 12-8-54. Tuần sau, ngày
         20-8-54, tôi lên máy bay di chuyển theo gia đình vào Saigon. (Đúng
         1 tháng sau ngày ký hiệp định Geneve phân chia đất nước,
         20-7-54). Tính đến nay (2014), tấm hình với nét chữ của Thày
         đã tồn tại đúng 60 năm trời, trải qua bao dâu bể của
         thời thế. Thật không ngờ! Từ HàNội vào SaiGon. Rồi từ
         VN sang Mỹ. Đúng là, sống chết chạy giặc, nhưng vẫn không
         quên mang theo kỷ niệm thời học sinh. Giáng Sinh năm nay 2014, tôi sẽ
         mang đến "Thầy Tôi" món quà GiángSinh thật đặc biệt
         này.   2/ Hình chụp
         tại sở thú Saigon (1955) với các trò: Nghiã, Hùng, Dương, Cẩm,
         nữ: Hoàn, Mộng Tuyết, Xuân Hương. Thày đứng ngoài bên
         phải.      3/  Đại tá Quân
         Y LêVănĐạt của Quân lực VNCH (Saigon):      4/ Hình với các
         trò gặp lần đầu tại Mỹ (198X):   Hùng, Điềm, Hải, Dương, Luận. nữ: Tuyết Anh, Hoàn      5/ Với các trò
         (2014): Hùng, Hải, Tuấn, VânYến, DiệuLinh.      6/ Thày trò 60 năm
         sau ngày chia tay tại HaNội(1954-2014) :      Cali, Mùa
         Giáng Sinh, 2014   Kỷ niệm 60 năm lìa xa HàNội.   NguyễnNhưHùng_____________________________________ 
             
      
      TƯỞNG NIỆM NGÀY 11 THÁNG 9  9-11 VÀ TẤM HÌNH KỶ NIỆM. Như Không 
 
 9-11-2001 đến 9-11-2011.   Từ ngày 9-11-2001, bọn khủng bố Al Qaeda phá xập tháp đôi cao
         chót vót của thành phố New York (NY), gieo rắc bao tang thương chết
         chóc đến hàng ngàn  gia đình người dân vô
         tội, đến nay, 9-11-2011, 10 năm trôi qua, khu tháp đôi vẫn còn
         là khoảng đất trống (ground zero). Phá hoại thì dễ, xây dựng
         mới khó.
  Hình ảnh kinh hoàng trên TV ngày 9-11-2001,
         máy bay đâm thẳng vào tòa tháp, tháp đôi ngùn ngụt
         bốc cháy, khói đen tỏa khắp bầu trời, rồi ..xụp đổ.
         Từ đó đến nay chúng ta không trông thấy tháp đôi vượt
         lên cao giữa bao cao ốc khác của NY nữa.  Tôi
         tìm lại phim chụp cũ và phóng lớn treo trên tường. Tấm
         hình kỷ niệm đó nay trở thành tấm hình lịch sử đối
         với tôi và cũng có tiểu sử như bất kỳ một hiện vật
         nào khác.   Ảnh
         nnh: New York, 2000. 
 
 Nhân chuyến
         qua miền đông nước Mỹ, hè 2000, ông bạn thân đưa chúng
         tôi đi thăm tượng Nữ Thần Tự Do (NTTD) và thành phố NY. Khi
         phà rời bến New Jersey, đưa du khách ra thăm tượng NTTD, ông bạn
         tôi đứng chờ trên bờ. Chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt,
         cứ như Ông Tây Bà Đầm tiễn đưa nhau ở bến cảng
         Hải Phòng hay Saigon của những năm đầu thế kỷ trước. Tôi
         chợt nhớ lại là khoảng hơn 20 năm trước, 1979, chúng tôi
         cũng có dịp xuống tàu dời xa quê hương mà không có
         người thân nào vẫy tay chào tiễn đưa. Trời tối như mực,
         dắt díu đàn con nhỏ, chạy trốn loài quỷ đỏ, tâm trạng
         hoang mang lo sợ, còn lòng dạ nào mà ngó lên bờ chào vĩnh
         biệt quê hương yêu dấu; rồi tất cả già trẻ lớn bé
         bị đẩy xuống hầm tàu chật ních những người, thiếu
         không khí, mùi hôi nồng nặc… Đâu có thảnh thơi đứng
         giữa trời cao mây nước, thở không khí tự do, trên chiếc
         phà đi thăm tượng NTTD như thế này. Phà đang hướng về
         đảo Tự Do (Liberty Island) có tượng NTTD, xa kia là thành phố New York
         với tháp đôi cao vượt trội. Tôi đứng dựa vào cột
         sắt  trên tàu để giảm bớt độ rung, lấy máy
         bấm vài kiểu hình kỷ niệm. Phà tới đảo, tôi rảo
         bước thẳng đến tượng NTTD. Đứng dưới chân tượng,
         sao cảm giác vui sướng lạ lùng. Giấc mơ từ nửa thế kỷ
         nay, khi còn là cậu học sinh bé nhỏ, chỉ ngắm tượng NTTD qua
         hình mấy trang sách anh ngữ vỡ lòng, bây giờ mới thực hiện
         đươc. Cái chữ TỰ DO (Liberty), tên bức tượng, nó ám
         ảnh suốt cuộc đời và là niềm khao khát vô biên của
         con dân xứ nhược tiểu. Bức tượng Nữ thần vĩ đại
         đứng giữa cửa biển, giơ cao ngọn đuốc Tự Do, chào đón
         di dân từ mọi nơi đến. Tôi bấm máy lia lịa quanh tượng,
         đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải, từ dưới
         lên trên, chỉ tiếc không có trực thăng để có thể chụp
         từ trên xuống. Hướng nào cũng đẹp. Nhưng khi chui vào trong
         bụng thì chẳng thấy gì đẹp nữa . Đấy cũng là một
         kinh nghiệm nho nhỏ cho những vị thích đi săn “cái đẹp”! Nghe
         đâu, tổng thống Obama sẽ đọc diễn văn nhân ngày 9-11-2011
         để tưởng niệm khoảng 3000 nạn nhân xấu số, cùng tôn
         vinh các nhân viên cứu hỏa đã hy sinh trong thảm nạn này, cũng
         như vinh danh những chiến sĩ đã và đang chiến đấu tận
         diệt bọn khủng bố tại hai chiến trường Iraq và Afghanistan. 
 Như Không Tháng 9-2011 
 
 
  
      
      
    
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
   
   
                                 
                                 
                                  | 
                              
                             |