|
|
|
TRUYỆNtrần bang
thạch Houston, Texas _____________________________________________________
CHUYỆN THÁNG TƯ ĐEN Chuyện 1. HAI MÀU ÁO TẠI HỘI TRƯỜNG TRONG 1 NGÀY 30/4 Chị ngồi trên chiếc ghế
của chiếc bàn tròn cuối cùng kê nơi góc phải hội trường.
Chỉ một mình chị. Các bàn ghế vẫn còn trống phía hội
trường này. Bên góc trái đã có vài chục người
ngồi chuyện trò vui vẻ. Chương trình Tưởng Nhớ Ngày
30 Tháng 4 còn hơn nửa tiếng nữa mới bắt đầu. Hình
như tôi chưa hề gặp chị ở đây. Chắc hẳn chị không
phải là người thường xuyên đến trung tâm sinh hoạt này.
Không phải chị là một trong vài chục người đến hội
trường sớm mà tôi để ý đến chị. Chính bộ bà
ba đen chị đang mặc và dáng ngồi thẳng, mắt hướng về
phía trước và gương mặt trông rất buồn, không một chút
phấn son của người đàn bà trên sáu mươi làm tôi
không thể nào không để ý đến chị. Không biết từ
hồi nào tôi có thói quen hay quan tâm tới những người nữ
mặc toàn đen với gương mặt buồn. Dấu hiệu của tang chế.
Bình thường đàn bà thích ăn mặc đẹp với những
màu sáng và khi ra ngoài thì thường có chút phấn son. Gặp
chị tại một buổi tưởng niệm, linh tính cho tôi nghĩ rằng
người đàn bà nầy chắc có điều gì trắc ẩn. Suy
từ chính mình, hôm nay tôi đang mặc chiếc áo trắng. Màu
trắng để tang cho một ngày buồn thảm. Màu trắng cũng để
tự nhắc mình rằng hãy từ màu trắng sáng nầy mà nuôi
hy vọng, mà dắt dìu nhau đi về vùng trời trong sáng hơn.Từ
ngày đến Hoa Kỳ hơn 30 năm nay, hàng năm cứ mỗi lần ngày
30/4 đến tôi mặc chiếc áo trắng này. Lúc đầu thì
vợ con tôi cũng làm theo để tôi vui lòng, lâu dần họ bỏ
cuộc; chỉ còn tôi. Chiếc áo trắng nầy cũng kiên trì theo
tôi từ đó, không sờn rách cũng không đổi màu.Từ
chiếc bàn kế bên tôi thấy trên bàn, trước mặt chị
1 bao ny-lon đựng mấy tấm ảnh 4x6 đen trắng và cành hoa trắng làm
bằng vải, giống như hoa lài. Tôi thầm mong có người nào
đó đến ngồi gần chị để chị không cảm thấy lẻ
loi và xa lạ. Gần tới giờ bắt
đầu chương trình. Trong hội trường người ra kẻ vào, tiếng
nói cười xen với tiếng nhạc nhẹ. Chị vẫn âm thầm ngồi
đó. Chiếc bàn chị có thêm hai bà cụ và 1 ông cụ
cùng với hai bé gái bốn, năm tuổi, chắc là cháu của
ông bà. Các cụ già thường ít nói và các cháu
bé thường không làm quen với người lạ nên chị vẫn
ngồi đó, không chuyện trò với ai. Chị có vẻ chăm chú
nghe các diển giả nói chuyện, rồi ăn trưa như mọi người
và cùng thưởng thức văn nghệ như mọi người. Chiếc bao
ny-lon vẫn trước mặt chị. Tôi không đọc được một
nỗi xúc động nào trên gương mặt chị. Hay chị có xúc
động mà tôi không bắt gặp hoặc chị ém sâu nó vào
lòng mình. Hình như chị không thích chuyện trò nên tôi
cũng ngại làm quen. Bộ bà ba đen và cành hoa lài trắng vẫn
là điều bí ẩn đối với tôi. Khi chương trình chấm dứt, ngó quanh, tôi không thấy
chị. Không biết người đàn bà ăn mặc toàn đen ấy
đã biến đi từ hồi nào. Chị
đi rồi mà đầu óc tôi vẫn còn vẽ ra nhiều điều
về chị. Chị có thể là góa phụ của một người tù
đã bỏ thân nơi nào đó trong núi rừng Việt Bắc sau
ngày 30/4/75. Chị có thể là người mẹ đã phải thủy
táng con mình trên biển Đông. Chị có thể là người
vợ trẻ vài mươi năm trước sống trong giây phút hải hùng
khi chứng kiến chồng mình đã liều thân cứu vợ thoát khỏi
nanh vuốt của bọn hải tặc khát máu trong vịnh Thái Lan... Anh
yêu quí, em bây giờ còn sống mà như đã chết. Những
tấm ảnh ngày cưới chúng mình và những tấm ảnh giày
saut nón sắt của anh đang sống với em từng giờ từng phút. Từng
giờ, từng phút em sống với anh. Còn cánh hoa lài trắng nầy
em sẽ mang theo cho đến cuối đời như 1 giải khăn sô cho duyên
phận chúng mình. Và bộ đồ đen nầy em mặc hàng năm
để tưởng nhớ ngày tang khó 30 tháng 4. Thưa chị, dù không được nói một lời
nào với chị, cũng như không nghe chị nói một tiếng nào,
nhưng tôi biết chị. Và biết cả tên chị nữa. Chị chính
là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam sanh ra, lớn lên, lê
đôi bàn chân rướm máu trên núi Sọ và gánh chịu
muôn ngàn đau thương, oan khiên, khổ nhục của một thời Việt
Nam thập tự giá. Thưa chị, cảm ơn chị đã đến với
chúng tôi. Màu áo đen của chị và màu áo trắng của
tôi đã hòa nhập tuyệt vời trong ngày tưởng niệm 30/4 hôm
nay, nơi đây. Trắng hay đen đều là màu tang chế. Chúng ta
cùng để tang cho một cái tang chung. Phải không, thưa chị, chị
Nguyễn Thị Việt Nam? Chuyện2. CẦU BÀ NỘI Trong mắt bà Tư căn nhà bây
giờ bỗng nhiên trống hoác. Nằm trên giường bịnh bà Tư
cũng hình dung được căn buồng bên trái cửa đã
đóng kín, cái bàn học kê bên cửa sổ còn xấp bài
chưa chấm của con dâu. Chiếc áo lính cũ của con trai còn máng
trên vách buồng. Chai sữa nấu bằng gạo rang thằng cháu nội chưa
uống hết đang nằm bên cạnh bà đây. Mới hôm qua cả nhà
còn đông đủ. Hôm nay chỉ còn một mình bà. Trống
vắng. Đêm qua trời tối đen như
mực, cỗng thằng cháu nội mới hơn 1 tuổi trên lưng, bà Tư
lần mò từng bước trên cây cầu khỉ bắc ngang Rạch Bần.
Mưa lớn và gió mạnh. Cầu lắc lư hay chân tay bà lão sáu
mươi đi đứng không vững? Cha mẹ thằng bé đã đi trước
với 2 đứa con và mấy túi đồ ăn, thức uống. Hồi chiều
có tin cơ quan xã đã nghe phông thanh chuyến vượt biên này.
Mọi người phải chạy đua với xã đội, hối hả xuống
"taxi" đang đậu chờ ở ngoài vàm để đi ra "con cá
lớn". Khi chiếc ghe nhỏ rời bến, bà Tư trở về. Dâu con đã
năn nỉ bà cùng đi, bà nói bà phải ở lại để
rủi có bề gì thì còn nhà cửa để con cháu trở
về. Bà đi thất thểu dưới mưa mà tưởng chừng như
mình bay trong gió. Bà thấy thân thể nhẹ tênh mà trái tim
thì nặng như chì. Bà Tư đã vừa bứt ruột, nát lòng
đưa tiễn những người thân nhứt của bà ra đi. Sống chết
thế nào chưa biết. Từ nay một thân già yếu bà Tư cũng
không biết mình sẽ ra sao. Bà bước trở lại cây cầu khỉ.
Đi mới được nửa cầu, bà muốn đứt hơi, mắt hoa, chân
run, bà dựa vào tay vịn để thở. Khi thân cầu gãy, bà
Tư mới hoàn hồn, cố gắng hết sức già, bà Tư mới lội
được vào bờ, lê lết về nhà. Cơn sốt bắt
đầu ngay sau đó. Tin vượt biên
thành công của con cháu nhắn gởi từ Songkla bà Tư không nhận
được. Bà Tư đã vĩnh viễn ra đi chỉ hai ngày sau cái
đêm mưa tầm tả ấy. Lối xóm
nói cơn sốt không thể vật ngã được người đàn
bà nhà quê dạn dày sương gió ấy. Chắc chỉ tại nỗi
buồn quá lớn khi bà bỗng chốc mất hết những người thân
yêu. Gần ba mươi năm trôi qua,
Rạch Bần đã thay bao nhiêu cây cầu khỉ. Xóm giềng vẫn nghèo
xác nghèo xơ. Hôm nay cây cầu đúc bắt qua con rạch vừa
xong. Không có lễ khánh thành nhưng một số người ở gần
đến chờ giờ khai thông cây cầu. Trong làng ai cũng biết cầu
này do một kỹ sư cầu đường trẻ nổi danh của Mỹ tự
tay thiết kế và xây dựng cả tháng nay. Đứng trước ba má
và anh chị, người thanh niên trạc ba mươi tự tay vén tấm
vải điều che mặt bia đặt bên này cầu. Người ta đọc
mấy chữ trên tấm bia: "BÀ NỘI, con thương Bà". Từ đó người làng gọi cầu nầy
là Cầu Bà Nội. Một cây cầu gãy gần ba mươi năm trước
bây giờ đã được bắt lại, đẹp đẽ, vững chắc.
Ở một nơi nào đó trên mây, có người đàn bà
quê nhìn xuống đàn con cháu, niềm vui bừng sáng một góc
trời chiều. Chuyện 3. CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN ĐÔNG Con thuyền chật cứng lúc bắt đầu ra Bãi Giá.
Bây giờ chắc không ai chợt thấy lòng thuyền bỗng rộng hơn.
Mọi người đã đói lã, không còn nghĩ gì ngoài
cái ăn. Sau 39 ngày lênh đênh trên biển, hơn một nửa đã
vắng mặt vì bịnh và vì đói khát. Xác họ đã
làm mồi cho cá mập. Cơn đói khát và mất người thân
khiến nhiều người phát điên. Chị Út V. ôm cứng con vào
lòng bằng tất cả sức lực còn lại của mình. Con bé mới
tuổi rưỡi cũng đang thoi thóp. Từ hai hôm nay những người trên
thuyền chỉ muốn ăn thịt con bé. Họ nói dầu gì thì con
bé không thể sống được. Chị Út V. biết chị không thể
nào chống trả hay kêu gọi nhân tính của họ, những người
tìm mọi cách để sống còn. Nửa đêm chị Út V. lần
mò ra trước mủi thuyền, nhẹ nhàng thả con trên lượn sóng
biển Đông. Chị thấy từng đoạn
ruột của mình đang rỉ máu trên những ngọn sóng vô tình. Houston, để nhớ ngày này
hơn 30 năm trước Trần Bang Thạch
Trần Bang Thạch Cũng một dòng sông MP3 đọc
truyện ________________________________________________________________________________________ Vài hôm trước 1 chị đồng môn từ
New Jersey lượm 1 link MP3 đọc truyện trên net và gởi cho TBT. MP3 nầy
TBT chưa từng nghe tuy nó có trên net từ 2002. Cám ơn chị đồng
môn PTGĐTĐ. Kính mời đọc giả Trang Nhà nghe: http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Cung%20Mot%20Dong%20Song%20-%20Tran%20Bang%20Thach.mp3 ___________________________________________________________________________________________________
KHÓC THẦY
GS Nguyễn Văn Trường là
1 trong rất ít người mà tôi tự hãnh diện làm học trò
suốt đời dù mình chưa 1 lần ngồi trong lớp thầy. Bây giờ Thầy đã đi rồi nhưng hình
dáng, nét cười, lời nói, ý tưởng vẫn còn quẩn quanh
nơi đây. Dáng Thầy cao sừng sững trong đời, nghĩa đen lẩn
nghĩa bóng. Cái dáng đó là cái khung vàng, là thước
ngọc cho chúng tôi, những môn sinh, những đồng môn PTG của Thầy.
Thầy cũng là người thầy suốt đời của chính mình khi
Thầy không ngừng đọc, suy nghĩ và viết; khi Thầy kiên trì
tập luyện thân thể với câu nói mà tôi nhớ hoài: Không
đọc thì không biết đầu óc của tui tùm lum như thế
nào. Không tập thì tui đã chết lâu rồi. Cái tâm của
Thầy còn lan tỏa tới mọi người quen biết khi Thầy nói anh ấy,
chị ấy, thằng ấy rất dễ thương! Chưa bao giờ tôi nghe Thầy
ghét hay nặng lời với 1 người nào. Hình như từ lâu tôi
đã siêng năng tập thể dục hơn và nhìn ai cũng thấy
dễ thương hơn. Đây là1bài học quý không từ sách
vở mà tôi học được từ Thầy, Người Thầy suốt đời
của tôi. Một cách rất cục
bộ và chủ quan, tôi thầm nghĩ Gia đình PTGĐTĐ Houston chúng
tôi được nhiều ưu đãi, trong đó có việc Thầy cùng
gia đình cư ngụ tại Houston để những sinh hoạt của thầy trò
chúng tôi được thuận tiện hơn từ hơn 20 năm nay. Chúng
tôi thường nói với nhau: Thầy là linh hồn của sinh hoạt PTGĐTĐ
hải ngoại. Thưa Cô và thưa
các em, Thầy vốn là người chồng tốt, người cha, người
ông tốt, người VN tốt. Bằng những cái tốt nầy, kính mong
Cô và các em sớm vượt qua nỗi đau và sự mất mát
quá lớn nầy. Trên vùng trời bao la, Thầy đang gởi xuống những
nụ cười hiền. Thưa Thầy, Thầy
đã ra đi nhưng chúng tôi biết Thầy không bỏ chúng tôi
và chúng tôi luôn nhớ Thầy, luôn vịn cái dáng sừng sững
của Thầy, cái tâm bao la của Thầy để đứng và để
suy nghĩ. Thầy ơi, các em vẫn nhớ Thầy. Nhớ mãi. TBT, Houston Jan 4, 2018
LAN MAN TRONG MẮT
BÃO . ____________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ BBT: Trong khi chờ
cơn bão dữ Harvey đến Houston 12 tiếng nữa với tốc độ
120 miles/giờ vào Thứ Bảy 26/8 và Chủ Nhật 27/8/2017, xin nhắc lại
bão IKE, được mệnh danh là Cơn Bão của thế kỷ, tháng
9 năm 2008 tại Houston qua bài viết đúng
9 năm trước. Cầu
nguyện cho mọi người bình an. Mắt bão Harvey Sept 25, 2017 ____________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
1. Ngay
khi con chữ đầu tiên của bài viết nầy rơi trên mặt monitor
thì bão Ike còn cách bờ biển Galveston 52 dặm. Tính ra còn
khoảng 4 tiếng đồng hồ nữa Ike mới đánh vào bờ. Đường
kính của Ike rộng quá, 500 dặm, choáng gần hết Gulf of Mexico, từ
Palacios ở mạn Đông lên mạn Tây giáp với tiểu bang Louisiana.
Đường kính rộng như vậy cho nên dù là bão đang ở
cấp 2 nhưng mạnh tương đương cấp 4. Sẽ trở thành cấp
4 chỉ vài giờ nữa với tốc độ gió là 143 miles/giờ. Gió thì đã bắt đầu
thổi mạnh từ lúc hơn 6 giờ chiều. Ngoài khơi, có lúc sức
gió lên đến 105 dặm/giờ. Trên màn ảnh truyền hình, đã
thấy những con sóng cao gần 20 feet. Có chiếc tàu chết máy đậu
ngoài khơi, 23 thủy thủ đã được cứu. Có chiếc truck
với 2 người thanh niên bị mắc lầy trên bãi biển Galveston giữa
cơn cuồng nộ của sóng và gió. Họ cũng được cứu
nhưng phải nghe vài lời cằn nhằn của toán cấp cứu. Nghe nói
có tới hơn 40% dân chúng thuộc vùng ven biển không theo lịnh
di tản bắt buộc của chánh quyền. Chắc rồi khoảng 20,000 người
nầy cũng phải kêu cứu khi nước đến chân mà chưa nhảy
kịp, hay chỉ nhảy kịp lên... nóc nhà! Trên đất liền từ
vùng Đông Nam Texas cho tới Trung Nam Louisiana gió lên đến trên 70
dặm/giờ. Cho tới giờ nầy, gần
11 giờ đêm Thứ Sáu 12-9-2008, nghe báo cáo nói là đã
có trên 30 căn nhà ở Matagorda County town of Sargent bị sóng
biển làm hư hại nặng. Vùng phía trên của Texas GulfCoast thì
chưa thấy thiệt hại gì. Nhưng theo dự đoán thì sẽ có
tới vài chục quận hạt và thành phố ven biển sẽ là nạn
nhân của cơn bão chết người nầy. Các dự báo thời tiết cũng giữ vững lập trường
là bão sẽ vào thẳng Galveston, rồi tiến theo trục xa lộ I- 45
lần lên phía bắc Houston với bán kính 70 dặm, sức gió
sẽ giãm thành cấp 1. Cũng hơi yên tâm nhưng không khỏi lo
sợ khi trên màn ảnh sóng cao như cái nhà lầu, và bên
ngoài gió mỗi lúc một mạnh thêm. Con sóng và ngọn
gió nầy làm nhớ tới những ngày lênh đênh trên
biển rộng gần ba mươi năm trước. Suốt 3 ngày đêm chiếc
ghe dài 20 thước với 120 con người như chiếc lá có lúc
lặn sâu xuống chân sóng rồi trồi lên ngọn sóng cao như
tòa building 20 tầng. Hình như lúc đó không ai tỏ ra sợ sệt,
hay nỗi sợ hãi tan loãng trong tiếng kinh cầu. Hay nỗi sợ ấy không
đáng gì so với nanh vuốt của con hổ luôn rình mò, chực
chờ để bóp nghẹt mỗi phận người. Con hổ ấy mình vừa
bỏ lại. Bão to, sóng cả gì cũng phải đi tới, dù sóng cao bằng tòa building 100 tầng. Mọi người
và cả cây cột đèn, nếu may mắn có cơ hội thì
cũng ra khơi. Nghĩ cũng ngộ: quê hương tôi trên đất
liền mà có sóng đỏ
như máu phủ chụp trên thân mọi người đã hơn ba mươi năm rồi, và còn bao nhiêu
năm nữa?!!! . 2. Ike. Bão nầy tên là Ike. Sẽ là cơn
bão dữ dội nhất kể từ bão Alicia đánh thẳng vào Houston
ngày 18-8-1983 với sức gió 127 dặm/giờ và với 23 trận cuồng
phong lớn (tornadoes) trên đất liền làm cây cối ngã; sau cơn bão,
nếu gom số cây nầy chất thành đống sẽ đầy diện tích
1 sân football với độ dầy là 1,200 feet. Như một quả núi lớn.
Nghĩ tới Alicia mà đâm ra sợ Ike. Sợ nhưng không trách mình
đã tử thủ. Không muốn gặp cái cảnh kẹt xe 3 năm trước
trong trận bão Rita nên dù không muốn cũng phải "lì".
Ike. Sao lại Ike? Thật là trớ trêu. Ike
là cái tên gọi thân thương trên miệng của người Mỹ
một thời. Tận trời Đông bên kia biển Thái,
kẻ viết bài nầy, lúc còn tấm bé, cũng đã một thời
ngưỡng mộ người mang tên Ike. Đó là cái tên thân mật
để gọi vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa Kỳ (1953-1961) : Tổng
Thống Dwight D. Eisenhower. Nếu Hiến Pháp Mỹ Quốc cho phép vị Tổng
Thống đương nhiệm tái ứng cử thêm lần thứ 2 thì chắc
vị tướng 5 sao anh hùng của Thế chiến thứ 2 sẽ đắc cử
thêm một nhiệm kỳ nữa. Người ta yêu thương đứa con cưng
của Texas nầy vì tài thao lược trong thời chiến và vì đức
độ và tài năng của một chánh khách đã lèo lái
một nước Mỹ trở thành một siêu cường trước áp
lực của Liên Bang Xô Viết trong thời gian chiến tranh lạnh. Ike cũng
là người đẫy mạnh cuộc chạy đua chinh phục không gian với
Liên Bang Xô Viết.
Vậy mà cái tên Ike lần nầy sao mà đáng
sợ và đáng ghét ! 3. Ghét luôn cái anh chàng Neil Armstrong ! Tự
nhiên từ mặt đất, đeo phi thuyền Apollo 11, vượt 240 ngàn dặm,
đặt chân xuống mặt trăng lúc gần nửa đêm ngày 20-7-1969,
gởi ngay mấy chữ ngắn gọn xuống địa cầu: "Magnificient
desolation" (vùng hoang địa tuyệt vời). Sau đó, cùng với
bạn đồng hành Buzz Aldrin còn ghi chép, chụp ảnh mặt trăng suốt
2 tiếng rưỡi đồng hồ. Còn nhớ sau đó vài tháng, tại
thư viện Abraham Lincoln trên đường Lê Quí Đôn Sài Gòn
người ta xếp hàng dài cả cây số để xem những mẫu đá
lấy từ mặt trăng. Ghét Armstrong,
ghét các mẫu đá trong hộp thủy tinh vì huyền thoại Hằng
Nga, Cung Quảng từ trăm ngàn năm bỗng một sớm một chiều bị
phá vỡ. Đường Minh Hoàng nếu còn sống đến ngày nay
cũng phải vỡ mộng du Nguyệt Điện. Trước mắt là các
em thiếu nhi, kể từ Apollo 11, có còn mỗi độ Trung Thu, xách lồng
đèn tung tăng đi dưới trăng, ngước nhìn trăng thấy nơi
xa thăm thẳm ấy là Chàng Cuội bên gốc cây đa với chị
Hằng và chú thỏ bạch? Chuyện kể ngày xưa...xưa lắm
có vợ chồng nhà kia sống trong cánh rừng bên
cạnh cây thuốc cứu, rồi người vợ một hôm...có còn
được các em bé nghe say sưa đến quên con trăng đã xế?
Lúc đó, sau khi bước ra khỏi cổng
thư viện Abraham Lincoln, muốn quên hết những mẫu đất đá,
quên hình ảnh Apollo 11, quên anh chàng Armstrong in trên các trang ảnh
màu lộng lẫy treo trên tường thư viện. Quên hết để cái
thơ mộng của cung trăng còn sống mãi trong tâm trí ngây thơ
tuổi nhỏ. Đó là mùa Trung
Thu đầu tiên tuổi trẻ trên mặt đất thấy Trăng không còn
là thơ với mộng. Từ đó trẻ em đón trăng chỉ như
một dịp vui chơi, hội hè. Chú Cuội, Chị Hằng chỉ còn là
hình ảnh thân thương trong trí nhớ. . 4. Nói nhiều về Ike và về Armstrong vì những dự định
tổ chức Tết Trung Thu cho các cháu tại nhiều nơi trong thành phố
vào cuối tuần nầy phải bỏ dở. Ike làm thời gian bị trở
ngại. Armstrong làm Trung Thu với Trăng Rằm mất phần nào thơ mộng.
. 5. Viết
thêm, sau cơn bão. Phần sau nầy viết tiếp sau hơn một tuần lễ mất điện.
Không ngờ chỉ mới đi lan man tới phần
4 trên đây thì điện bị mất. Sau này mới biết thêm
về bão. Lúc đó, khoảng 2 giờ sáng, bão đã vào
đất liền với sức gió lên tới 75 dặm/giờ. Galveston và
các vùng lân cận bị chôn vùi dưới nước. Bước
chân tàn phá dữ dội của Ike đã đặt trên các vùng
ven biển. Gió tiếp tục lướt về hướng Bắc tỉnh hạt Harris
làm cả một đồi thông ngã rạp trong vùng Conroe. Ngồi trong
nhà nghe gió rít mà nhớ đêm gió nổi rùng rợn ở
quê nhà mấy mươi năm trước ngồi đọc Wuthering Heights của
Emily Bronte. Nghe gió đi mà như thấy gió cuộn mình kêu vun vút.
Hết cơn nầy tới cơn khác, như tiếng đại bác đi trên
đầu. Quéo, quéo...Cây oak hằng trăm tuổi trước
nhà gãy đổ, may là không trúng mái nhà. Bây giờ thì Ike đã đi lâu rồi. Điện
cũng không có . Đèn dầu làm nhớ những ngày
thôn quê cũ. Không điện thoại. Không Internet. Bỗng khám phá
một khoảng trống quá lớn. Trước đây hình như mình
ít khi thấy những thứ nầy là món ăn không thể thiếu. Lệ
thuộc nhiều quá vào những tiện nghi nầy! Một trưa Thứ Bảy,
sau 8 ngày mất điện, các bóng đèn điện cùng sáng
lên một lúc. Tâm trạng mình cũng bừng sáng lên như ngày
xưa thấy mẹ đi chợ về từ gốc phố. Vội vàng mở Email. Hơn
500 cái! Delete cũng mõi tay. Giữ lại hơn trăm email thăm Một mái nhà đứng trơ vơ giữa đống đổ
nát sau cơn bão. Magical & exceptional! hỏi của thầy, cô, đồng môn, của người
quen, kẻ thân. Có những người gởi tới hơn 3 lần. Trên TV, trên computer có nhiều hình
ảnh các nơi cơn bão đi qua. Một cái nhà đứng chơ vơ
giữa hàng trăm nhà khác đã thành những đống gỗ đá
vụn. Những cái quan tài trôi lềnh bềnh trên nước, lật nghiêng,
lật ngửa. Con cá sấu lội trong thành phố đỗ nát. Chiếc
ghe nằm chồng lên chiếc xe trên đường... Một tổng kết sơ khởi: 88 thị
trấn và thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp của Ike. Người
chết là 195. Thiệt hại
trên 37.5 tỉ Mỹ Kim. Những con số quá lớn sẽ làm những nỗi
đau kéo dài nhiều ngày sau cơn bão. Thiệt hại tài sản
thì có thể bù đắp được, nhưng người thân, những
vật kỷ niệm, những hình ảnh và những sách quí thì làm
sao tìm thấy được. Và tàng cây, ghềnh đá của một
thời hẹn hò đâu còn như xưa. 6. Vừa trở về nhà
sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng các cháu thanh thiếu niên vui Tết
Trung Thu tại một trung tâm sinh hoạt. Tưởng Đêm Trung Thu năm nay cũng
đã bay theo Ike. Gặp lại đêm
nay âu cũng là đúng lúc. Người lớn thì thăm nom, hỏi
han sau cơn bão nổi. Trẻ em thì hình như đã quên hết cái
ông Ike đáng ghét. Và cũng không màng nghĩ tới mấy cục
đá của cái ông gì đem xuống từ cung trăng. Cho nên đêm
nay, Đêm Trung Thu, ai nấy đều vui. Người lớn vui theo người lớn.
Trẻ em vui theo trẻ em. Chuyện Ông Trăng Chú Cuội ngày xưa...xưa
lắm...cứ thế mà còn hoài. Còn hoài như sự hồn nhiên,
tươi tắn của tuổi thơ. Được
gặp nhau ở đây sau cơn giông tố mà mọi người đều
vui thì quả là nhiều phước hạnh trên cái cõi đời
đầy giông bão nầy. Trong những
ngày hoạn nạn, tình thầy trò, tình đồng môn luôn có
mặt. Trân trọng cảm ơn sự có mặt vàng ngọc này.
Houston TX, đêm 20-9-2008
trần bang thạch
Mời nghe PV-XNV THANH PHƯƠNG đọc
truyện THẦY GIÁO LÀNG của Trần
Bang Thạch Hôm
qua, 25/3/2017, 1 vị Thầy khả kính ở Santa Clara, California, gởi cho TBT cái
link MP3 phát thanh truyện THẦY GIÁO LÀNG của TBT qua giọng đọc
THANH PHƯƠNG, nguyên Phóng viên-Xướng ngôn viên đài VOA
và các đài phát thanh ở California, Houston.... Truyện nầy đã
được phát thanh lần đầu từ hơn 10 năm trước. Gởi cho Trang Nhà truyện nầy chắc Thầy NNH muốn
hâm nóng "tình nghĩa thầy trò" trong cái không khí nao
nức chờ ngày có mặt thầy trò, đồng môn nhân ĐH
XXI PTGĐTĐ Hải Ngoại tại Houston Texas từ ngày 4 đến14 tháng
5/2017 của hơn 40 cựu GS PTG/ĐTĐ và gần 600 CHS & thân nhân từ
khắp nơi đã ghi danh và
trong sự cố gắng hết mình của BTC/ĐH
từ hơn năm nay. Trong tâm trạng đó,
xin mời nghe Thầy Giáo Làng: (click link dưới đây) http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Thay%20Giao%20Lang%20(Trang%20Bang%20Thach).mp3
Nguyễn Cát Đông, vẫn ngàn năm con
quốc gọi hè Posted: 07/01/2016 in Ngô Nguyên Nghiễm, Tùy Bút / Tản Mạn Tags: Nguyễn Cát Đông Ngô Nguyên Nghiễm TBT nhận được bài viết nầy từ bạn văn Hoàng Thị
Tố Lang, chủ biên Trang Nhà lyhuong-rachgia.blogspot.com. Đây là bài viết của Nhà Thơ, Nhà Biên Khảo Văn
Học Ngô Nguyên Nghiễm (Sài Gòn) post trên Trang sangtao.org ( nhóm
chủ trương: Song Thao, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn, Phan NiTấn, Đặng Đình Nghiêm và Bắc Phong).
Nhà thơ Nguyễn Cát Đông
" Nhớ thật nhiều những bước đi
xa/ Mẹ đứng dang tay trên hai bờ Bassac/ Nối những dòng kinh với Cửu
Long Giang bát ngát/ Nghe ngọt ngào từng vóc phù sa". Văn nghệ
sĩ nhất là kẻ làm thơ, hình như trong tâm khảm bao giờ cũng
tha thiết mãnh liệt, với những tình cảm rung động trước
mọi cảnh tượng vây quanh. Chiêm ngưỡng qua nhiều hồn thơ của
bằng hữu, ngoài sự phiêu lãng trước thế sự, bao giờ người
thơ cũng thấm đậm trong nguồn cội và nghĩa tình. Thơ bộc
phát như một tinh thể kim cương bất hoại, khiến ngôn ngữ kết
tinh vượt thoát khỏi sự băng hoại theo thời gian không gian. Thế
nhân làm sao không u hoài nỗi nhớ, khi lặng lẽ ngồi bên ngôn
ngữ thơ được hóa thân trong cõi tâm thanh khiết bất biến
như thế. Chân dung hồn quê, hình ảnh mẹ già bao giờ
cũng thống thiết trong nỗi nhớ, với Lâm Hảo Dũng u hoài bên
kỷ vãng:" Mẹ có mắt sầu riêng cao chất ngất/ Nên hồn
con lạnh lẽo đến bao giờ/ Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt/
Những thằng con đủ cánh để bay xa//.Và dòng sông thương
những hàng rơm mục/Những hàng cau buồn chết được lòng
con/ Thuở mẹ già biết cau còn kết trái/ Biết con còn thấy
mẹ lúc hoàng hôn/".Tôi cũng từng nghẹn ngào khi đọc
bài thơ Còn Không Ngày Về của Lâm Hảo Dũng, Cũng như,
hình ảnh chân phương của Mẹ già được Nghiêu Minh khắc
khoải trong Mùa Xuân Nào Con sẽ về Thăm Má :" Thương
má gian nan may vá tảo tần/ Ba mất, má chưa tròn ba mươi bảy/
Giờ nhớ lại càng thương má vô ngần/Đường có dài,
đại dương có rộng/ Trong âm dương con tjhấy ba về/ Hình
ảnh má là chùm mây sống/ Bay quanh con vẽ một trời quê/".
Nguyễn Cát Đông cũng vậy, như bóng dáng ngựa hồ hí
gió bắc, những nghĩa khí của con người luôn thấm đậm
trong nguồn cội và dòng máu. Chính vậy, có lúc tôi cảm
xúc những tình huống quan hoài như thế, đã đánh động
cả tâm cang. Và hiểu rằng, chính sự rung động chân phương
của con tim, quả thật đã hóa thân vào hình từ bóng chữ,
bằng sự chân thật bật dậy tận đáy lòng, nên đã
chất ngất tâm huyết sâu lắng:" Mẹ ngày đêm phạt
những đường dao/ Chân đất, đầu trần, quần gai, áo bố/"
để rồi "Thương đàn con đứa còn đứa mất/ Mẹ
nghẹn ngào giấu giọt châu sa/". Tôi đi vào thơ Nguyễn Cát Đông từ những thi tập
Áo Mây Bay những năm 1971, đến những bài thơ khuynh khoái đậm
hồn người, trong những tuyển tập 17 tác giả miền Nam, tuyển thơ
7 nhà thơ trong và ngoài nước. Quà tình, thơ Nguyễn Cát
Đông tuyệt diệu khiến chất ngất lòng nhân thế, và thơ
Ông dàn trải một bản ngã tâm thông, hóa hiện từ chân
tâm giúp ngôn ngữ vượt thoát chữ nghĩa. Vì vậy, thơ
Ông có một cõi sống riêng mình. Những bài thơ khác của nhà thơ nhà văn Nguyễn Cát
Đông, mà sau nầy Ông ký tên trên tác phẩm với bút
danh mới là Trần Bang Thạch, càng tiệm tiến theo thời gian, càng
bộc bạch nhiều về kỷ vãng, quê nhà và bằng hữu. Những
sáng tác mới, dù thơ hay văn cũng chất ngất sự phiêu bạt
của vầng trăng ly hương, và thấm đẫm nỗi niềm chân chất
ban xưa.... Ông ẩn diện trong một
tư thái đôn hậu, khiêm cung vì thi ca và giáo nghiệp trôi
nổi suốt chiều dài cuộc sống. Vì vậy, thơ đến với
Nguyễn Cát Đông như kinh thư của bậc hiền triết và văn
chương vẫn là bóng dáng của nho gia đứng giữa chân cầu
mà trầm mặc, ghi lại sự trôi nổi của thế sự quanh mình.
Quả thật vậy, những bước đi diệu
vợi của Ông trên văn chương, ngày càng sâu lắng và
u trầm, vì bao giờ bóng thời gian cũng chập chờn quanh đời sống
hiện tại. Tháng giêng, năm 2002 Thư quán bản thảo tập ba, giới
thiệu truyện Cũng Vẫn Là Chuyện Buồn của Ông, cũng trải đầy
quá khứ chất ngất cõi lòng, làm sao quên lãng cho được
:" Làng Thường Đông của chúng tôi là một làng
nhỏ nằm trên nhánh sông Cái Răng bắt nguồn từ con sông
cái Bassac ngoài Cần Thơ và cách thị trấn Cái Răng chừng
một giờ đi bộ. Con đường nằm dài bên dòng sông, nhà
cửa vườn tược sầm uất. Có những cái mương ranh cắt
ngang lộ với những cây cầu dừa hay cau, trời mưa cầu dính đất,
người đi rất dễ bị té xuống mương. Nói rõ như
vậy để cụ thể hóa con đường tình bằng đất dài
gần ba cây số của tôi thời đó. Chúng tôi lớn lên
ở đây, nhởn nhơ như lục bình rau mác trên sông đầy,
tươi non như chuối dừa cỏ cây hoa lá, nồng nàn như nước
ngọt phù sa.... Đêm trăng.
Những đêm trăng tuyệt vời ở quê tôi đã góp phần
lớn vào tâm hồn lãng mạn của cậu bé con là tôi thời
đó. Những năm năm mươi rất ít người sắm được
cái máy hát quay tay, xài kim con gà le coq, nên đêm trăng các
thanh niên thiếu nữ hàng xóm hay tụ tập ngồi trên cây cầu
xi măng cốt sắt rộng chừng hai xãy tay bắt ngang con rạch Bà Vèn,
nghe tiếng hát cải lương từ các đĩa Pathé hay Asia 33 vòng
quay, phát ra từ cái loa mắc trên ngọn dừa cao thuộc khu doanh trại
của một đại đội Hòa Hảo đồn trú bên kia sông;
nghe tiếng được tiếng mất tùy theo chiều gió, nhưng có hề
gì, những gái trai nầy họ cần gặp nhau, nhìn nhau là đủ....
Những tập cải lương 50 xu nhỏ bằng
bàn tay, những chuyện cổ bằng thơ của tác giả Đoàn Trung
Còn , những bộ truyện Tàu của nhà Tín Đức thư xã...
chất đầy trên giường tre trong khu nhà canh. Buổi trưa êm ả
trong khu vườn tịch mịch mà nghe chị Hạnh nói thơ Vân Tiên
thì nhịn đói cả ngày cũng được. Đầu óc tôi
và chị Hạnh tấm đẫm những vệt nắng trưa xuyên qua kẻ
lá với tiếng ve râm ran bất tận khắp vườn và các điệu
ca Vọng cổ, Đão ngũ cung, Thủ phong nguyệt, Xàng xê, Hướng
mã hồi thành...xen lẫn với Trần Minh khố chuối, Phạnm Công Cúc
Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, rồi Càn Long du Giang Nam, Vạn Huê Lầu, Tiết
Nhơn Quí, Na Tra, Dương Tiễn, Tôn Ngộ Không, Đường Huyền
Trang, Tôn Tẩn...Như vệt nắng loang trong khu vườn khi mặt trời dần
dần xuống thấp, chúng tôi lớn lên và vẫn thấy mình gắn
bó với nhau như hình với bóng , như tiên nữ với gã tiểu
đồng.... ....Người ta gọi
là chợ Nhà Bàng có lẽ từ khởi thủy nơi đây lá
rừng bàng, người địa phương đã đốn những cây
bàng để lập chợ.Chợ là vài mươi căn nhà nhỏ
mái lợp bằng lá thốt lốt, vách ván tạm bợ. Bây giờ
đã xế chiều. Nắng đã dịu bớt. Có tiếng bò rống
từ phía đồng cỏ trước chợ. Chợ vắng người. Chỉ
có quán bán cà phê là có vài người vừa hút
thuốc vừa nói chuyện trên trời dưới đất. Khách bước
vào quán kiếm chút gì ăn đỡ dạ. Bên trái quán,
người đàn bà Khờ-me ngồi ngủ gục bên gánh hàng bán
nước thốt lốt, ruồi bu như đậu đen. Kế đó, ông tàu
già ngồi ho sù sụ sau tủ thuốc lá lẻ. Một căn nhà nhỏ
ở cuối chợ, mái hiên có treo cờ đỏ sao vàng. Chắc đó
là đồn công an. Tại vùng Năm Non Bảy Núi nầy, cái chợ
nhỏ vậy mà ở vị trí tốt, gần nhị biên, Khách từ
thị xã Châu Đốc, sau khi vượt núi Sam với đền thờ Bà
Chúa Xứ chừng năm sáu cây số thì thấy một ngả rẽ.
Nếu khách rẽ mặt thì đi về hướng Tịnh Biên, sát ngay
biên giới Việt Nam- Campuchia, với những rừng cây thốt lốt làm
tiền trường cho dãy núi Dài xanh lam bên kia biên giới. Còn
đi thẳng khách sẽ về hướng Nhà Bàng, Chi Lăng, Tri Tôn,
Ba Chúc với các núi con Két, núi Trà Sư, núi Tượng,
núi Cấm, núi Giài, cũng nằm dọc theo biên giới.Ăn xong tô
bún nước lèo, vấn xong điếu thuốc rê, bập bập mồi
lửa, rồi khách lên xe lôi đi về phía núi Trà Sư, đối
diện với núi con Két. Giữa hai quả núi nầy là con đường
đá dẫn tới Chi Lăng, trước 75 là một trung tâm huấn luyện;
sau 75 là nhà tù rồi trại lính. Núi con Két là quả núi
trọc nằm cách khu chợ Nhà Bàng chừng 2 cây số. Từ lộ
xe nhìn chếch lên cao, khách thấy một chõ núi y như hình dạng
cái đầu con két với cái mõ thật rõ rang, càng nhìn
càng thấy giống. Phía sau cái đầu con két có những phiến
đá trông giống như những tiên ông đang ngồi đánh cờ.
Lưng chừng quả núi nầy, hướng xe chạy có một cái tháp
cao 18 tầng giữ tro cốt những vị sư liễu đạo tại ngọn núi
nầy. Xuống xe, khách tìm lối mòn đi lên núi Trà Sư. Quả
núi nầy có cây cảnh xanh um, nhiều loại cây trái. Những mái
nhà nhỏ rộng chừng bằng chiếc đệm ẩn khuất trong những chòm
cây hay vách đá. Có những người cư ngụ hoàn toàn
trong hang đá, không có cửa nẻo gì hết, người ta chỉ thấy
những cái lu sànhhứng nước mưa để ở bên ngoài hang.
Đa phần những người nầy là những nhà tu khổ hạnh. Chung
thân diện bích. Người ta đồn rằng họ chỉ uống nước
mưa mà sống. Cọp beo chồn khỉ rắn rít tình cờ bước
tới cửa hang đều cúi đầu một cái rồi quày quà bỏ
đi. Người ta cũng nói hai thời kỳ chiến tranh không có một
hòn đạn nào rớt ở đây. Chiến tranh không thể có trên
đất Phật. " Dạo quanh khu vườn
đầy hoa trái thơ của văn Nguyễn Cát Đông-Trần Bang Thạch,
những dẫn chuyện như trên là những bộc phát tận chân tâm
của Ông, bởi không gì quảng đại và thống thiết hơn
tự đáy lòng hiền giả, vẫn ngàn năm con quốc gọi hè....
Ngô Nguyên Nghiễm Thư trang
Quang Hạnh Ngày hướng về Thất Sơn tìm bạn cũ, Quý
Tỵ. Thơ NGUYỄN CÁT ĐÔNG
Ta Nghe Chừng Thiếu Một Hơi Quen Nên
mỗi ngày qua thêm một nỗi buồn
riêng thêm một chút ngậm ngùi cố thổ ở ở, đi
đi ta làm khách trọ sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên
đường Để mỗi đêm dài
điếm cỏ cầu sương ta mơ làm người Lý Bạch
đê đầu tư cố hương thấy hồn mình lượn lờ
nơi viễn phố Thấy mẹ lưng còng trên sân rêu phủ mắt lệ nhòa từ buổi con đi ngày
ngóng đêm trông từng cánh chim về nghe sao nặng tháng ngày
đứt ruột Thấy cha một mình trên dòng kinh nước đục đêm ba mươi một chiếc
xuồng câu tiếng độc huyền cầm chảy suốt đêm thâu (cha muốn gởi gì trong hơi đồng sũng nước?) Thấy mái chùa cong thấy ngôi trường buổi
trước ta nhìn ta một thuở rong chơi ta nhìn em tóc bím,
môi cười trao ánh mắt cho ta mà con tim giữ lại Và cứ giữ nghe em những ngày xưa ấy
Giữ giùm ta một góc trời quê
để hồn ta còn có chỗ trở về khi đất lạ ta mồ
xanh cỏ. Nguyễn Cát Đông (Trần
Bang Thạch) Chân Dung Nguyễn Cát Đông (Ảnh
tư liệu tác giả) -Tên họ thật:
Nguyễn Công Danh, 1942 sanh quán tại Cần Thơ. -Làm thơ, văn, phóng
viên...đăng trên các báo và tạp chí văn học trước
1975, bút hiệu Nguyễn Cát Đông. Từ 1980, tại Hoa Kỳ dùng bút
hiệu Trần Bang Thạch. -Trong nhóm Chủ trương Tạp chí Văn
học Tiếng Động (Cần Thơ/ Sài Gòn) 1963-1965 -Tổng Thư Ký
tạp chí Chỗ Đứng do Ban đại diện SV ĐHSP/SG chủ trương
1967-1969 -Trong BBT tạp chí VHVN, Houston Texas, từ 1998 đến nay -Trong nhóm
Chủ trương Tạp chí Văn học Thư Quán Bản Thảo từ ngày
đầu, tháng 10-2001 -Tác phẩm:
Đường sang đất trích, 1966, kịch
thơ, do Nhóm Nhân Văn ĐH Văn Khoa SG in ronéo (Tuyệt bản) Tuyển
Truyện Nguyễn Cát Đông, 1967, tập truyện, do Ban Đại Diện
SV/ĐHSP/SG ấn hành, in ronéo. (Tuyệt bản) Áo Mây Bay, thơ,
chung với Huỳnh Phan, 1971, do nhà sách Nam Việt (Châu Đốc) xuất bản
(Tuyệt bản) Tuyển Tập Truyện 18 tác giả Miền Nam Trong & Ngoài
Nước, 2003, Thư Ấn Quán xuầt bản. Bên Trời (Tuyển
tập Thơ 14 tác giả miền Nam, 2004, Thư Ấn Quán. Tuyển Tập
Thơ 7 tác giả Trong và Ngoài Nước, 2004, Thư Ấn Quán. Quẩn Quanh Chuyện Đời, trập truyện, 2006, Thư Ấn Quán. Truyện trước 1975 in trong Văn Miền Nam, Tập 4, Thư Ấn Quán,
2009. Từ lúc bắt đầu viết,
thường hay viết chuyện của những người yêu nhau; thơ cũng vậy.
Những năm gần đây hay viết chuyện về xã hội chung quanh.
Quan niệm sáng tác của mình không
nhất thiết phải tùy thuộc vào đọc giả; cần nhứt là
dàn trải được ý tưởng của mình. Nếu truyện nào
có đọc giả thích thì đó là điều may và thật
là hạnh phúc. Muốn có nhiều
thì giờ để viết cho đã. Chắc cũng không còn bao lâu. GHI THÊM của Trần Bang Thạch: Bài thơ trên đây tác giả trích thiếu phần đầu như sau: CÓ MỘT CHỖ ĐỂ VỀ Đường sá của người Đâu phải của ta Sao
ta cứ miệt mài đi, về năm tháng Dù đông lạnh căm Dù
hè cháy nắng Ta ngựa già nối
những dặm xa Gió ở đây cũng là gió của người ta
Đâu phải gió đồng bằng
Đâu phải mưa châu thổ Nước mặn Đại Tây Dương Đâu bằng nước ngọt phù sa quạch đỏ
Ta nghe chừng thiếu một hơi quen (tiếp phần trên).............................................................................
Trần Bang Thạch CHUYỆN THÁNG TƯ ĐEN Chuyện 1. HAI MÀU ÁO TẠI HỘI TRƯỜNG TRONG 1 NGÀY 30/4 Chị ngồi trên chiếc ghế của
chiếc bàn tròn cuối cùng kê nơi góc phải hội trường.
Chỉ một mình chị. Các bàn ghế vẫn còn trống phía hội
trường này. Bên góc trái đã có vài chục người
ngồi chuyện trò vui vẻ. Chương trình Tưởng Nhớ Ngày
30 Tháng 4 còn hơn nửa tiếng nữa mới bắt đầu. Hình
như tôi chưa hề gặp chị ở đây. Chắc hẳn chị không
phải là người thường xuyên đến trung tâm sinh hoạt này.
Không phải chị là một trong vài chục người đến hội
trường sớm mà tôi để ý đến chị. Chính bộ bà
ba đen chị đang mặc và dáng ngồi thẳng, mắt hướng về
phía trước và gương mặt trông rất buồn, không một chút
phấn son của người đàn bà trên sáu mươi làm tôi
không thể nào không để ý đến chị. Không biết từ
hồi nào tôi có thói quen hay quan tâm tới những người nữ
mặc toàn đen với gương mặt buồn. Dấu hiệu của tang chế.
Bình thường đàn bà thích ăn mặc đẹp với những
màu sáng và khi ra ngoài thì thường có chút phấn son. Gặp
chị tại một buổi tưởng niệm, linh tính cho tôi nghĩ rằng
người đàn bà nầy chắc có điều gì trắc ẩn. Suy
từ chính mình, hôm nay tôi đang mặc chiếc áo trắng. Màu
trắng để tang cho một ngày buồn thảm. Màu trắng cũng để
tự nhắc mình rằng hãy từ màu trắng sáng nầy mà nuôi
hy vọng, mà dắt dìu nhau đi về vùng trời trong sáng hơn.Từ
ngày đến Hoa Kỳ hơn 30 năm nay, hàng năm cứ mỗi lần ngày
30/4 đến tôi mặc chiếc áo trắng này. Lúc đầu thì
vợ con tôi cũng làm theo để tôi vui lòng, lâu dần họ bỏ
cuộc; chỉ còn tôi. Chiếc áo trắng nầy cũng kiên trì theo
tôi từ đó, không sờn rách cũng không đổi màu.Từ
chiếc bàn kế bên tôi thấy trên bàn, trước mặt chị
1 bao ny-lon đựng mấy tấm ảnh 4x6 đen trắng và cành hoa trắng làm
bằng vải, giống như hoa lài. Tôi thầm mong có người nào
đó đến ngồi gần chị để chị không cảm thấy lẻ
loi và xa lạ. Gần tới giờ bắt
đầu chương trình. Trong hội trường người ra kẻ vào, tiếng
nói cười xen với tiếng nhạc nhẹ. Chị vẫn âm thầm ngồi
đó. Chiếc bàn chị có thêm hai bà cụ và 1 ông cụ
cùng với hai bé gái bốn, năm tuổi, chắc là cháu của
ông bà. Các cụ già thường ít nói và các cháu
bé thường không làm quen với người lạ nên chị vẫn
ngồi đó, không chuyện trò với ai. Chị có vẻ chăm chú
nghe các diển giả nói chuyện, rồi ăn trưa như mọi người
và cùng thưởng thức văn nghệ như mọi người. Chiếc bao
ny-lon vẫn trước mặt chị. Tôi không đọc được một
nỗi xúc động nào trên gương mặt chị. Hay chị có xúc
động mà tôi không bắt gặp hoặc chị ém sâu nó vào
lòng mình. Hình như chị không thích chuyện trò nên tôi
cũng ngại làm quen. Bộ bà ba đen và cành hoa lài trắng vẫn
là điều bí ẩn đối với tôi. Khi chương trình chấm dứt, ngó quanh, tôi không thấy
chị. Không biết người đàn bà ăn mặc toàn đen ấy
đã biến đi từ hồi nào. Chị
đi rồi mà đầu óc tôi vẫn còn vẽ ra nhiều điều
về chị. Chị có thể là góa phụ của một người tù
đã bỏ thân nơi nào đó trong núi rừng Việt Bắc sau
ngày 30/4/75. Chị có thể là người mẹ đã phải thủy
táng con mình trên biển Đông. Chị có thể là người
vợ trẻ vài mươi năm trước sống trong giây phút hải hùng
khi chứng kiến chồng mình đã liều thân cứu vợ thoát khỏi
nanh vuốt của bọn hải tặc khát máu trong vịnh Thái Lan... Anh
yêu quí, em bây giờ còn sống mà như đã chết. Những
tấm ảnh ngày cưới chúng mình và những tấm ảnh giày
saut nón sắt của anh đang sống với em từng giờ từng phút. Từng
giờ, từng phút em sống với anh. Còn cánh hoa lài trắng nầy
em sẽ mang theo cho đến cuối đời như 1 giải khăn sô cho duyên
phận chúng mình. Và bộ đồ đen nầy em mặc hàng năm
để tưởng nhớ ngày tang khó 30 tháng 4. Thưa chị, dù không được nói một lời
nào với chị, cũng như không nghe chị nói một tiếng nào,
nhưng tôi biết chị. Và biết cả tên chị nữa. Chị chính
là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam sanh ra, lớn lên, lê
đôi bàn chân rướm máu trên núi Sọ và gánh chịu
muôn ngàn đau thương, oan khiên, khổ nhục của một thời Việt
Nam thập tự giá. Thưa chị, cảm ơn chị đã đến với
chúng tôi. Màu áo đen của chị và màu áo trắng của
tôi đã hòa nhập tuyệt vời trong ngày tưởng niệm 30/4 hôm
nay, nơi đây. Trắng hay đen đều là màu tang chế. Chúng ta
cùng để tang cho một cái tang chung. Phải không, thưa chị, chị
Nguyễn Thị Việt Nam? Chuyện2.
CẦU BÀ NỘI Trong mắt bà Tư căn nhà bây giờ
bỗng nhiên trống hoác. Nằm trên giường bịnh bà Tư cũng
hình dung được căn buồng bên trái cửa đã đóng
kín, cái bàn học kê bên cửa sổ còn xấp bài chưa
chấm của con dâu. Chiếc áo lính cũ của con trai còn máng trên
vách buồng. Chai sữa nấu bằng gạo rang thằng cháu nội chưa uống
hết đang nằm bên cạnh bà đây. Mới hôm qua cả nhà còn
đông đủ. Hôm nay chỉ còn một mình bà. Trống vắng.
Đêm qua trời tối đen như mực, cỗng
thằng cháu nội mới hơn 1 tuổi trên lưng, bà Tư lần mò
từng bước trên cây cầu khỉ bắc ngang Rạch Bần. Mưa lớn
và gió mạnh. Cầu lắc lư hay chân tay bà lão sáu mươi
đi đứng không vững? Cha mẹ thằng bé đã đi trước
với 2 đứa con và mấy túi đồ ăn, thức uống. Hồi chiều
có tin cơ quan xã đã nghe phông thanh chuyến vượt biên này.
Mọi người phải chạy đua với xã đội, hối hả xuống
"taxi" đang đậu chờ ở ngoài vàm để đi ra "con cá
lớn". Khi chiếc ghe nhỏ rời bến, bà Tư trở về. Dâu con đã
năn nỉ bà cùng đi, bà nói bà phải ở lại để
rủi có bề gì thì còn nhà cửa để con cháu trở
về. Bà đi thất thểu dưới mưa mà tưởng chừng như
mình bay trong gió. Bà thấy thân thể nhẹ tênh mà trái tim
thì nặng như chì. Bà Tư đã vừa bứt ruột, nát lòng
đưa tiễn những người thân nhứt của bà ra đi. Sống chết
thế nào chưa biết. Từ nay một thân già yếu bà Tư cũng
không biết mình sẽ ra sao. Bà bước trở lại cây cầu khỉ.
Đi mới được nửa cầu, bà muốn đứt hơi, mắt hoa, chân
run, bà dựa vào tay vịn để thở. Khi thân cầu gãy, bà
Tư mới hoàn hồn, cố gắng hết sức già, bà Tư mới lội
được vào bờ, lê lết về nhà. Cơn sốt bắt
đầu ngay sau đó. Tin vượt biên
thành công của con cháu nhắn gởi từ Songkla bà Tư không nhận
được. Bà Tư đã vĩnh viễn ra đi chỉ hai ngày sau cái
đêm mưa tầm tả ấy. Lối
xóm nói cơn sốt không thể vật ngã được người
đàn bà nhà quê dạn dày sương gió ấy. Chắc chỉ
tại nỗi buồn quá lớn khi bà bỗng chốc mất hết những người
thân yêu. Gần ba mươi năm trôi
qua, Rạch Bần đã thay bao nhiêu cây cầu khỉ. Xóm giềng vẫn
nghèo xác nghèo xơ. Hôm nay cây cầu đúc bắt qua con rạch
vừa xong. Không có lễ khánh thành nhưng một số người ở
gần đến chờ giờ khai thông cây cầu. Trong làng ai cũng biết
cầu này do một kỹ sư cầu đường trẻ nổi danh của Mỹ
tự tay thiết kế và xây dựng cả tháng nay. Đứng trước
ba má và anh chị, người thanh niên trạc ba mươi tự tay vén
tấm vải điều che mặt bia đặt bên này cầu. Người ta đọc
mấy chữ trên tấm bia: "BÀ NỘI, con thương Bà".
Từ đó người làng gọi cầu
nầy là Cầu Bà Nội. Một cây cầu gãy gần ba mươi năm
trước bây giờ đã được bắt lại, đẹp đẽ,
vững chắc. Ở một nơi nào đó trên mây, có người
đàn bà quê nhìn xuống đàn con cháu, niềm vui bừng sáng
một góc trời chiều.
Chuyện 3. CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN ĐÔNG Con thuyền chật cứng
lúc bắt đầu ra Bãi Giá. Bây giờ chắc không ai chợt thấy
lòng thuyền bỗng rộng hơn. Mọi người đã đói lã,
không còn nghĩ gì ngoài cái ăn. Sau 39 ngày lênh đênh
trên biển, hơn một nửa đã vắng mặt vì bịnh và vì
đói khát. Xác họ đã làm mồi cho cá mập. Cơn đói
khát và mất người thân khiến nhiều người phát điên.
Chị Út V. ôm cứng con vào lòng bằng tất cả sức lực còn
lại của mình. Con bé mới tuổi rưỡi cũng đang thoi thóp.
Từ hai hôm nay những người trên thuyền chỉ muốn ăn thịt con
bé. Họ nói dầu gì thì con bé không thể sống được.
Chị Út V. biết chị không thể nào chống trả hay kêu gọi
nhân tính của họ, những người tìm mọi cách để sống
còn. Nửa đêm chị Út V. lần mò ra trước mủi thuyền,
nhẹ nhàng thả con trên lượn sóng biển Đông. Chị thấy từng đoạn ruột của mình đang
rỉ máu trên những ngọn sóng vô tình. Houston, để nhớ ngày này hơn
30 năm trước Trần Bang Thạch
Nguyễn Cát Đông THẢ KHÓI LÊN
TRỜI - truyện thời
chiến - Truyện
này đã đăng trên Bách Khoa số 306 ngày 1-10-1969 do nhà văn
Trần Hoài Thư sưu tầm và do Thư Ấn Quán in lại trong Tuyển
Tập VĂN MIỀN NAM Tập 4 năm 2009.
Cuối truyện tác giả ghi chú: “Viết cho đêm
Bảo Việt chào đời 12-7-69”. Bảo Việt nay đã ngoài bốn
mươi và mới có con gái đầu lòng2013. Nguyễn Cát Đông là bút
hiệu ký trước tháng 4-1975. Tại hải ngoại, từ 1980 là Trần
Bang Thạch. Chiếc
ghe tam bản của vợ chồng thằng Bé đi ngang qua bến. Thằng Bé
buông lơi tay chèo nói với lão Thụ: vợ chồng tui đi nghen. Con
vợ thằng Bé đang ngồi vạch vú cho con bú trước mũi ghe cũng
nói vói lên bờ: mơi mốt tụi tui dìa thăm, ở lại mạnh
giỏi! Chiếc ghe ra khỏi vàm. Lão Thụ vẫn còn đứng trên
bến ngó mong theo. Con nước trong rạch vào mùa nầy đục lừ.
Mấy dề lục bình theo dòng nước trôi ra khỏi bến. Con chim thằng
chài lông xanh mỏ đỏ đập cánh bay lên từ cây bần trụi
lá. Buổi chiều trôi bồng bềnh trên từng nhánh cây khô,
từng bụi cỏ úa. Lão Thụ thấy sự cô đơn thật sự
có mặt trong con rạch này chiều nay. Lão tặc lưỡi mấy cái
rồi vén quần ngồi lên băng gỗ trên bến sông. Vợ chồng thằng Bé đã bồng bế
nhau đi! Như vậy, lão nghĩ thầm, chỉ có gia đình lão còn
ở lại trong làng nầy. Từng gia đình, từng gia đình lần
lượt chèo ghe ra khỏi vàm từ hơn tháng nay. Trong nỗi kinh hoàng,
người ta đã ra đi. Trong tiếng khóc nghẹn ngào, người ta
phải từ giã nơi chôn nhau cắt rún. Trong tâm trạng bơ vơ
lạc lõng, người ta phải bỏ làng để bất đắc dĩ
nhập vào cái xô bồ bon chen của thành phố. Cho đến bây
giờ lão Thụ cũng không hiểu sao gia đình lão chưa hề nghĩ
đến chuyện bỏ làng ra đi như hơn năm mươi gia đình
khác đã sống những ngày, những đêm trong hầm núp. Bao
nhiêu nỗi kinh hoàng vẫn thường trực trùm úp lên mái
nhà lá dột nát của lão, đè nặng trái tim già cằn,
thoi thóp của vợ chồng lão. Sự khủng khiếp không buông tha con
rạch này ngày nào. Những-người-bên-nầy, những-người-bên-kia
hầu như lúc nào cũng nhìn con rạch nhỏ bé này bằng đôi
mắt cú vọ! Những tiếng khóc thét nửa đêm không làm
át tiếng đạn bay vèo vèo. Những giọt nước mắt buổi
sớm không dập tắt được những đám cháy từ đầu
hôm. Và sự chịu đựng cũng mỏi mòn. Người ta vừa rớt
nước mắt vừa bước xuống ghe, ra khỏi vàm. Từng buổi chiều,
lão Thụ ngồi trên băng gỗ dưới bến nhìn từng chiếc
ghe tam bản xuôi ra chợ. Rất nhiều những khuôn mặt đen đúa,
bơ phờ ngước lên nhìn lão Thụ, nhìn cây cau gãy ngọn,
nhìn lại chiếc cầu khỉ bắt ngang qua vàm, nhìn ngôi trường
sơ cấp đã mấy lần được dùng làm tòa án nhân
dân. Lão Thụ cứ ngồi đây tiễn họ đi như vĩnh biệt
người thân thuộc. Bây giờ thì không còn ai ra đi nữa để
lão Thụ ngó mong mỗi buổi chiều. Đi. Người ta bỏ làng mà
đi hết rồi! Bây giờ chỉ còn gia đình lão và nỗi
khủng khiếp ở quanh đây! Lão
Thụ ngó lên căn nhà. Một ánh lửa đang leo lét cháy. Vợ
lão Thụ đang đốt nhang khấn vái ở bàn thông thiên. Căn
nhà nhỏ nhoi thêm trong cái tịch mịch của buổi chạng vạng. Hình
ảnh vợ lão Thụ nhạt nhòe động đậy sau giàn hoa giấy.
Giàn hoa này tới chừng gả con nhỏ chắc đơm bông rồi, ông
há, thêm mấy cây đủng đỉnh nữa là xong nhà đãi
khách! Lão Thụ nhìn vợ đang thành kính trong những lần
lạy. Những cái lạy, những lời cầu nguyện đó rồi sẽ
mang đến cho người ta những cái gì? Bao nhiêu bàn thông thiên,
bao nhiêu bàn thờ tổ tiên, bao nhiêu mồ mã ông bà đã
hương tàn, nhang lạnh từ mấy mươi năm rồi? Lão Thụ thấy
sự cô độc mỗi lúc một đè nặng trên thân xác
khô cằn lụ khụ của lão. Những ngày chạy loạn năm bốn
chín, năm hai, năm ba. Thanh niên tiền phong. Lính bạc-ti-dăng. Quốc
Trưởng Bảo Đại muôn năm. Máy bay bà già. Tàu mũi bằng.
Rồi được yên thân vài năm hồi thời Ngô Tổng Thống.
Bao nhiêu những biến động dập dồn đã chất chồng trên
thân xác này biết bao nhọc nhằn, vất vả. Nó làm cho lão
đờ đẫn trong tuổi già bóng xế, làm cho lão mất đi
hơn nửa kiếp làm người. Nỗi bất hạnh đã chất đầy
ứ trong cuộc đời lão. Nỗi nhọc nhằn đã thấm đẫm
từng lỗ chân lông. Để bây giờ lão chỉ còn biết mỗi
chiều ngồi trên bến sông nhìn con nước phù sa chảy siết
dưới lòng rạch. Tiếng cú rúc từ xa, vừa ỡm ở,
vừa đe dọa. -Ông ơi
lên ăn ba hột đi, tối rồi. Ngồi dưới hoài hổng chán
sao hổng biết nữa! Bà Thụ
nói với xuống bến sau khi cắm mấy cây nhang vào cái hộp lon
dán giấy hồng đơn nhạt màu. Lão Thụ quăng đuôi thuốc rê xuống lòng rạch
rồi đi lên nhà. Mâm cơm
đạm bạc với mấy trái cà nướng, mấy chục con cá lòng
tong. Bà Thụ bưng nồi cơm từ dưới bếp đem lên. -Con Thắm đâu rồi, không lên ăn
một thể? Bà Thụ vừa
ngó ra vườn vừa trả lời chồng: -Nó cho heo ăn ở đằng sau á. Rồi bà nói vói ra sau: -Thắm, riết đi. Cơm nước cho rồi mầy. Tiếng con gái vọng từ sau nhà: -Tía má ăn trước đi. Tui lên liền. Bà Thụ bới ra từng chén cơm. Những
hột cơm trắng trên hai chiếc đũa bếp loáng thoáng sáng dưới
ánh đèn dầu. Gạo mới còn thơm phức mùi rạ. Mấy con
heo vừa ăn bập bập trong máng vừa kêu ột ột. Tiếng muỗi
vo ve trên vách lá. -Vợ chồng
thằng Bé ra chợ rồi, bà hay hông? -Sao hông! Hồi xế tui có gặp vợ nó. Tui cho nó mấy
chục trái cà đem ra chợ ăn đỡ. Nó nhờ coi nhà cửa
với mấy liếp khoai lang. -Tui
thấy vợ con nó sợ quá cũng tội nghiệp, không bàn ra bàn
vô làm gì. Ra chợ cũng khó sống lắm chớ bộ, dễ đâu.
Lạ cảnh, lạ người, làm sao mà bon chen lại người ta. Lại
còn cái nạn pháo kích nữa chớ. -Ôi! Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết,
hơi đâu mà lo. Người ta sống được thì mình sống
được. -Bà nói dễ
như ăn cơm bữa! Thằng Lượm, thằng Tư đi vác lúa nhà
máy bị dân chợ đánh phun máu đầu rồi đó! Con Lý,
con thằng Xệ hư thân rồi đi Sài Gòn lấy Mỹ nuôi miệng.
Thằng Thùng dẩn con vợ đi Sài Gòn sống không kham, trờ dìa
rồi. Hôm kia người ta gặp con nó đi bán báo ngoài Cần
Thơ, rách rưới lắm. -Ông
nói sao chớ tui cũng ngán ở đây lắm. Chừng mấy con heo trọng
trọng một chút, lo gả con nhỏ xong mình cũng ra nhà dì năm nó
mà ở. Lão Thụ cắn
trái ớt hiểm, và miếng cơm. Tự nhiên lão thấy lòng quặn
đau trước ý kiến của vợ. Lão không muốn nói thêm
lời nào trong lúc nầy. Bà Thụ cũng đã hơn nửa đời
người gắn chặt vào nỗi bất hạnh, nỗi kinh hoàng của một
thôn quê máu lửa. Bà sống như một cái bóng trong những
thét gào của chiến tranh. Bà nhọc nhằn thời làm con gái.
Bà đầu tắt mặt tối trong phận vợ hiền. Bà cần cù,
chịu đựng, nhẫn nhục nuôi con. Một thằng đã chết vì
bịnh rét rừng trong thời chạy loạn năm hai. Một thằng chết cách
đây mấy năm vì mìn trên đường đi dạy học bằng
xe lam. Người đàn bà nhỏ thó đó hầu như được
sanh ra để mà hứng chịu cực nhọc. Suốt ngày bà dầm mình
trong mưa, đẫm mình dưới nắng vun quén từng cây cà cây
ớt. Mùa cấy bà bì bõm dưới ruộng sâu gieo từng cây
mạ non dưới nước phèn. Mùa khô bà bỏng da chưn trên
những lổ chưn trâu khô cứng. Bà gặt từng cọng lúa, mót
từng hạt thóc rớt trên cánh đồng chang nắng. Bà thường
nói với chồng về tương lai con Thắm: -Tui thấy con Thắm ở đây với mình cực khổ mà
nguy hiểm quá ông à. Để khi thằng Sang dìa phép thường
niên mình gả con nhỏ cho xong.
-Bà nói làm vợ lính sướng lắm chắc? -Dẫu sao mình đỡ lo mà con nhỏ cũng
yên thân. -Cả năm rồi
đó, nó có dìa được để cưới vợ đâu.
Không khéo mình lại lo cho thằng đó nữa đa!
Hơn một năm để chờ mấy ngày phép! Hai con heo bây giờ
đã quá trăm ký rồi. Con Thắm vẫn nhìn tháng ngày trôi
qua trên sắc lông mỗi ngày một mướt trên lưng hai con heo. Nỗi
mong đợi cứ kéo dài trên những lá thơ viết nghuệch ngoạc
khi thì từ Chương Thiện, khi thì từ Năm Căn, khi thì Đức
Lập… Con Thắm từ dưới
bếp đi lên nhà trên, hai ống quần đen xăn lên tới gối.
Đôi tay nó vuốt mấy sợi tóc lất phất trước trán.
Chiếc áo bà ba cũ thấm ướt mồ hôi. Nó ngồi ké bên
tấm ván, bưng chén cơm và, trông ngon lành. Hai bàn tay sạm
nắng vẫn không mất vẻ dịu dàng. Những ngón tay mũm mĩm sáng
lên dưới ánh đèn dầu. Lão Thụ nhìn đứa con gái
rồi nhớ tới lá thơ thằng Sang gởi về hôm trước: “…ông
xếp con định cho con về hậu cứ tháng tới, không đi đánh
giặc nữa, mà chỉ kê cái bàn ngoài góc chợ, mỗi ngày
ghi tên tân binh tình nguyện; chừng đó con mướn nhà rước
tía má cùng em Thắm ra chợ ở…”. Lão Thụ thấy việc
về hậu cứ của thằng Sang chỉ là một sự đổi chác với
mấy vết thương ở hai bên đùi và trên cánh tay trái.
Lão Thụ và hết phần cơm trong chén rồi buông đũa bước
xuống đất. Lão kéo lê đôi guốc vông đi ra ngoài sân.
Bà Thụ nói vói theo: -Ông
coi trải chiếu dưới hầm đi, một lát rồi làm không kịp! Lão Thụ ừ ừ cho qua rồi đi thẳng
ra giàn bông giấy. Trải chiếu dưới hầm! Công việc này lão
đã làm bao nhiêu lần rồi lão không sao nhớ hết được.
Cứ mỗi chiều tối sau khi ăn cơm xong, lão đốt cây đèn
trứng vịt tay cắp chiếc chiếu rách, khom lưng chui xuống hầm, trải
chiếc chiếu rồi đưa cây đèn dầu xung quanh hầm xem coi có
rắn rít ở trong hầm hay không. Xong, lão đặt cây đèn gần
miệng hầm, vặn thấp ngọn đèn rồi chui ra. Chờ đợi. Công
việc đó lão làm mà không có một chút chú tâm
nào. Thế mà hôm nay tự nhiên lão không muốn diễn lại
bao nhiêu động tác quen thuộc này nữa. Lão Thụ đi vào
nhà. Lão nhắc ra cái ghế đẩu, đặt ra giữa sân ngồi
vấn thuốc hút. Từng vệt khói bay lên trời, khỏa vào mặt.
Lão thấy dễ chịu. Còn ai ở đây nữa mà bom đạn tìm
đến chớ? Lão Thụ nghĩ thầm, họ đã đi hết cả rồi!
Họ lần lượt để lão ở lại sống với những oan hồn
của người đã chết trong những lần lửa đạn trước,
những lần thủ tiêu trước. Ở đây chỉ còn là tịch
mịch hoang vu. Những người bên kia trước đây đã về để
vét cơm vét áo, để làm biệt tích vài người trong
làng. Bây giờ thì đây là một vùng đất chết, họ
còn trở về làm gì nữa cho phí công! Còn những người
bên nầy lẽ nào lại chẳng buông tha một vùng đất chết?
Lão Thụ rít dài một hơi thuốc. Từng vệt khói bay lên
trời, quấn quit trong gió chiều. Lão nhìn mấy thân cau gãy ngọn
in rõ trên nền trời. Bầu trời không một ánh sao. Dầu vậy
lão cũng có thể nhắm mắt hình dung những vết tích trên
từng cây cau trước cửa và từng bụi chuối sau hè. Lão cũng
có thể, trong đêm đen, thấy được những hố bom thật sâu
ở ngoài vàm, cạnh ngôi trường sơ cấp. Lão cũng không
quên mấy ngôi mộ mới đắp của gia đình thầy giáo Ba
gần ụ cá vồ bên vệ đường. Mấy ngôi mộ của một
gia đình đã bao đời tận tụy với xóm làng chắc
đang lạnh dưới sương đêm. Vài ngày nữa đây ai sẽ
trở về để cúng trăm ngày cho họ? Lão Thụ thấy bùi
ngùi trong dạ. Lão ném tàn thuốc xuống chân, di cho tắt hẳn
rồi đứng dậy xách ghế đi vào nhà. Bây giờ là đêm. Đêm trải dài.
Đêm thâm u. Đêm bí ẩn. Đêm vô tâm trên từng chồi
cây ngọn cỏ. Đêm lạnh ngắt dưới con rạch nước đục
lừ. Đêm quạnh hiu trong những căn nhà lá trống không. Bỗng
chốc đêm sáng hực lên. Đêm bùng nổ. Đêm bắt đầu
xòe cánh, vươn nanh. Đêm ác quỷ. Đêm của nỗi kinh hoàng
chết điếng. Những loạt đạn lớn nhỏ, những chùm hỏa
châu ở lưng chừng trời đã cho đêm hồng hoang âm thanh để
thét gào, để thảm sát; cho ánh sáng để đêm nhìn
rõ móng vuốt của mình đang càn lướt trên muôn vật,
để nhìn rõ cơn địa chấn đang bùng bùng xô đẩy
dưới vết chân. Và đêm phải được thắp sáng để
đêm nhìn rõ ba trái tim đang thoi thóp trong một mái nhà lá
nhỏ, phía trước có một bàn thông thiên với mấy cây
nhang chưa tàn và một giàn hoa giấy. Khói của nhang đang bay vút
lên trời. Lời nguyện cầu nào đang cùng bay lên với khói
trong giây phút tử sinh nầy? -Tui
thấy ở trong nhà không yên rồi đó bà. Mình nên chạy
ra cái hầm sau vườn chắc ăn hơn. -Sáng quá đâu dám chạy ra ngoãi, tía. -Hai con heo mầy cột đâu hả Thắm? -Thì ở chỗ mọi khi má cột đó! -Ừ! Được -Coi bộ có mùi khói khét lẹt rồi bà. Ra sau
vườn đi! -Tao tức quá.
Hồi chiều kêu mầy hái cho xong mấy liếp cà, mầy cũng hổng
hái. Bây giờ chắc tiêu hết rồi! -Sao bà cứ lo chuyện bao đồng. Có nín đi hông! ………………………………………………………… -Có nhiều tiếng nổ quá bà ơi. -Chắc có rớt quanh nhà mình rồi ông
ơi. -Tui thấy cái hầm như quay tròn,
tía à. -Sao lỗ tai tui lùng
bùng quá, nhức đầu nữa, ông à. -Thì tui biểu ra ngoài sau chắc hơn. -Hổng xong đâu, tía ơi, sáng lắm, nó
thấy mình chạy ra là chết hết. ……………………………………………. -Tui ngộp thở quá má ơi tía ơi! -Để tao ra miệng hầm coi bớt sáng chưa. -Khéo đa ông! ………………………………………………….. Ba bóng người rời khỏi hầm, khom người
chạy ra hầm núp ngoài sau vườn. Đêm bây giờ đang bốc lửa. Những lưỡi lửa
đã thiêu rụi mấy cái nhà bên kia con rạch. Hơn một giờ
qua đêm, thần chết đã để rơi rớt bao nhiêu trái nổ
trên vùng đất chết này rồi. Những cây cau gãy ngọn bay
đi đâu mất. Giàn hoa giấy cạnh bàn thông thiên cháy nám.
Mấy cây nhang trên bàn thông thiên đã nhả khói lên trời.
Có còn gì không sau cơn đại hồng thủy? Có không một
ông Noé với con thuyền cứu rỗi trên lượn ba đào? -Ông ơi sao hai con heo la quá kìa? -Chắc nó sợ súng chớ gì. -Hồi nào tới giờ nó có biết
sợ đâu? -Thì bữa
nay bắn nhiều, nó sợ. -Ông
cứ nói cho qua lề! Tui chắc mấy con heo bị đạn rồi. -Thì kệ nó chớ biết sao bây giờ
đây?! Trong thoáng chốc
bà lão thấy lờ mờ trước mặt mình hai con heo to béo mà
mẹ con bà đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt nuôi
nấng từ hơn năm nay. Đồng thời bà cũng thấy những cây
đủng đỉnh kết hoa kết lá dựng trước sân, bên cạnh
giàn hoa giấy đang trổ bông hồng nhạt trong ngày gả con sắp tới.
Mắt bà thấy đứa con gái mặc áo mới về nhà chồng.
Mũi bà ngửi thấy mùi ba xi đế nồng nặc thoát ra từ nhà
tiệc, họ hàng bà con lối xóm đang vui như ngày được
mùa. Rồi những tiếng kêu khản cổ của mấy con heo hòa lẫn
với trăm ngàn tiếng nổ kinh hồn. Bà lão thấy choáng váng.
Trước mắt bà, hai con heo của bà lăn ra, dãy đành đạch,
miệng hộc ra từng ngụm máu tươi nóng bỏng. Bà lão còn
thấy hình như có cả một đàn quạ từ trên cao đáp
xuống. Trăm con, ngàn con, triệu triệu con quạ đang bay lên, đáp
xuống hai đống thịt bầy nhầy, ứ máu. Rồi những cọng lông
mướt mượt mà bà hằng ngày ve vuốt, tắm rửa; những
miếng thịt thơm mùi tấm cám lần lượt bị hằng triệu
con quạ đen cắn trên mỏ, kẹp dưới đôi chân đem đi
mất. Bà hoa cả mắt, ù cả tai. Bà chới với trong cơn mê
nặng chịch. Hai con heo dành cho tiệc cưới! Bất thần bà lão
chui ra khỏi hầm. Có tiếng gọi thất thanh của hai người còn lại
trong hầm. Ánh hỏa châu
bây giờ thật sáng. Tiếng động cơ và tiếng nổ thật
gần, thật chát tai.Tưởng chừng như đất đang đổ lở,
cây cối đang bung gốc rễ. Thật là một cơn địa chấn khủng
khiếp! Bỗng thêm một bóng người
chạy ra khỏi hầm. Mái tóc dài phơi phới, đậm nét dưới
ánh hỏa châu. Một vài tiếng thét ở đâu đó vang lên,
rồi im phắc. Đêm gầm
gừ. Đêm xếp cánh. Đêm đi xXx Trời chưa
sáng hẳn thì những chiếc xe bọc sắt đã có mặt trong làng.
Những nòng súng đen ngòm trên từng chiếc xe lấm đầy bùn
đất. Mấy người xạ thủ ngồi nhìn bâng quơ, những dây
đạn đại liên để trước mặt họ như món đồ
trang sức. Trên cây cầu khỉ đầu vàm, năm sáu người
lính vừa đi vừa hát. Anh là lính chung tình gió sương
đâu ngại chúng mình. Một tốp lính khác ngồi trên thân
cây dừa gãy, lỗ chỗ vết đạn, lắng nghe tiếng ca Thành Được
rối bời từ chiếc máy phát thanh nhỏ xíu. Một người
lính nhịp nhịp khẩu M16 vào cái nón sắt lật úp. Viên
chuẫn úy trẻ lấy máy ảnh chụp cây cột đang cháy dở,
nghun ngút khói đứng chơ vơ trên nền nhà đổ nát, phía
trước sân có bàn thông thiên ngã đổ và giàn hoa
giấy trơ trui. Nước cạn sát lòng rạch. Những thân cây bần
lả ngọn, lá rụng trên bãi sình non. Mấy con chim thằng chài
không buồn đến ăn những bông bần tím ngon ngọt. Bánh xe
bọc sắt làm rạp những ụ cỏ cao quá đầu người. Phía
sau căn nhà đổ nát, mấy trái cà tím rụng vãi dưới
đất. Một người lính vừa lượm cà bỏ vào hai túi
trây di vừa nói: Trời cho mình ăn cái này đây, trung sĩ,
hí hí hí! Anh ta cười đưa hàm răng trắng hếu. Viên
trung sĩ ngồi trên bực đất, phía sau máy truyền tin, nói: Trời
cho cái con bú dù! Chủ nhà họ trồng đó con! Ở đây
đâu có người ở, trung sĩ? Con tưỏng ở đây là địa
phủ sao chhớ! Viên trung sĩ nói xong bèn đứng dậy vạch quần
đái lên một khúc gỗ còn cháy. Trời sáng dần. Đoàn quân được lịnh dừng
lại đây cho đến trưa. Họ phân nhau bố phòng. Những người
không nhiệm vụ trải pông sô dưới mấy gốc dừa nằm ngủ,
nghe vọng cổ hay nói chuyện tiếu lâm ngày xưa có ông trạng
Quỳnh đá bèo trên ao. Mọi người cười ngất ngất. Bỗng một lịnh báo động làm giựt
mình mọi người. Tất cả hướng về bụi lùng rậm rạp.
Từ bụi lùng đó, Lão khập khiễng bước ra. Thân hình
lão chỉ còn độc một cái quần đùi rách bươm,
hở hang và một cái khăn ăn trầu vắt ngang vai. Đoàn quân
nhìn lão ngạc nhiên. Đây là vùng đất chết mà! Phải
chăng họ đang sống trở lại thời hoang sơ với con người tiền
sử đang đứng trước mặt họ? Lão lẳng lặng bước ra
khỏi bụi rậm, dáng đi thất thểu, miệng như hé cười.
Chốc chốc lão đưa khăn lau dãi chảy tràn ra hai bên mép
miệng. Đôi môi lão khô nứt. Lão bước đi như bộ
xương khô đang di động. Mấy cái xương sườn như bật
hẳn ra khỏi lớp da nhăn nheo cáu ghét. Mọi người đổ dồn
về phía lão. Lão cứ chệnh choạng bước và cứ mĩm
cười. hai bên mép dãi chảy lòng thòng như hai dòng sữa
loãng. Lão đi về hướng bờ rạch. Viên chuẩn úy trẻ
đến bên lão, nói: -Ông
là người từ đâu đến đây? Lão vẫn bước những bước đi đờ đẫn,
gương mặt nhăn nheo, đôi môi khô như luôn mĩm cười,
đôi tay quờ quạng trong không khí, đôi mắt như đang kiếm
tìm một vật gì ở cõi vô biên. Viên chuẩn úy đến
phía trước mặt lão, nắm đôi vai lão dừng lại. Lão
chới với đứng lại, hơi nghiêng về phía viên chuẩn úy.
Đôi môi khô hơi mĩm cười. -Ông có nghe tôi hỏi không? Ông là ai? Lão nheo nheo
đôi mắt đục ngầu, đôi đồng tử mất hút trong sâu.
Lão kéo khăn đội lên đầu rồi đưa bàn tay khẳng
khiu quẹt dãi. Môi luôn mĩm cười. -Ông trả lời cho chúng tôi đi! Sao đến bây giờ
ông còn ở đây? Ông có biết đây là vùng oanh kích
tự do không? Một người
lính khác chen vào: Chắc ông lão này câm chuẩn úy à. Họ đỡ lão ngồi xuống đống
gạch vụn của chiếc bàn thông thiên đổ, bên cạnh giàn
hoa giấy trơ xương. Lão ngồi chống đôi tay như cây que trên
gối, đôi mắt đờ đẫn nhìn đâu đâu. Thỉnh thoảng
lão gục gặc đầu mỉm cười một mình. Mấy người
lính đứng bên thích chí cười theo. Viên chuẩn úy nói:
anh em đừng làm ồn, để ông già định thần rồi mình
sẽ hỏi chuyện sau. Một anh hạ sĩ đốt điếu bát tô quân
tiếp vụ đưa cho lão. Lão nhận lấy điếu thuốc hút ngon
lành. Lão ngửa mặt lên trời, cong đôi môi khô, từ từ
nhả khói. Những cuộn khói xám bay lên trời. Không biết nghĩ
gì mà bỗng nhiên lão cười sặc sụa, cười cong cả người,
cười tím cả môi, cười xanh cả mặt, cười ra nước
mắt. Cười như con nít được quà. Nguyễn Cát Đông (Viết cho đêm Bảo-Việt chào đời
12-7-69)
XUÂN
SỚM - Chút quà văn chương gởi anh VTT & nhóm thiện
nguyện Cái Răng nhân dịp Xuân về
Bà Phước bóp nhẹ mấy
ngón tay xương xẩu của chồng rồi cùng con trai bước ra khỏi
phòng. Người nữ y tá cũng bước ra theo, sau khi chúc ông Phước
ngủ ngon. Ông Phước còn lại một mình trong phòng. Hai chiếc
giường kia đã bỏ trống từ hồi trưa. Một người được
xuất viện, người kia trở bịnh nặng, phải đưa về khu cấp
cứu; không biết có còn trở lại đây nữa không, hay được
đưa thẳng xuống nhà xác, như ông Mễ nằm giường ấy
cách đây hai tuần. Ba tuần trước, ông Phước từ phòng
cấp cứu được chuyển vào phòng này. Coi như bịnh trạng
của ông đã qua thời kỳ nguy hiểm. Bây giờ là thời gian
điều trị. Ống chân trái của ông Phước bị gãy, các
lóng xương bể đã được sắp xếp lại và nẹp
bằng một thanh bạch kim. Bác sĩ nói tuần tới chân ông sẽ
được bó bột. Nhưng việc xuất viện thì chưa biết, vì
có dấu hiệu xuất huyết đường ruột nên vài thử nghiệm
phải tiến hành song song với việc chữa trị vết thương chân.
Từ ngày ông rời nước, đến thành phố này vào
năm 1994 đây là lần đầu tiên ông Phước vào nằm
bịnh viện vì một tai nạn, có thể gọi đó là tai nạn
nghề nghiệp. Số là sáng sớm hôm ấy, như thường lệ,
ông Phước đẩy cái xe thùng tự chế của ông đến
khu công viên gần nhà, rồi đến khu thương mại sầm uất
nằm trên ngả tư trục lộ giao thông. Hơn mười lăm năm rồi,
chỉ trừ khi mưa giông hay khi đau yếu, hiếm khi ông Phước bỏ
sót một ngày đẩy xe trên các con đường này. Ông đi
vừa là một cách tập thể dục, vừa là dịp để
ông thu lượm những lon nhôm bên đường, tại khu công viên,
hay từ các bao rác tại các cơ sở thương mại. Ông Phước
rất cẩn thận mỗi khi băng qua đường. Hôm ấy nhiều sương
mù, khi đến ngả tư, tuổi già mắt kém, nhìn gà hóa
cuốc, ông Phước nhìn đèn xanh tưởng là đèn đỏ,
liền đẩy xe tay tự chế xuống lộ qua đường bên kia. Khi thấy
chiếc xe đen thui trờ tới thì mắt ông đã tối sầm. Ông
Phước được đưa vào bịnh viện ngay sau đó. Bác sĩ
cho biết ống chân trái của ông bị gãy, nhưng không quá
trầm trọng. Đúng là một phút
xui xẻo, may mà không mất mạng. Bao nhiêu năm nay ông đã biết
bao lần đi trên lộ trình đó. Lộ trình nằm trong khu nhà
ở nên xe cộ lưu thông rất chừng mực. Từ nhà đi hơn nửa
dặm đường thì tới công viên. Từ công viên đi thêm
độ một dặm đường nữa là tới khu thương mại. Đoạn
đường dài vừa đủ cho một người già đi bộ thể
thao mỗi ngày. Khu công viên khá rộng lớn tọa lạc giữa trường
tiểu học và các sân bóng rổ, sân quần vợt. Rải rác
trong công viên có những nhà bát giác và những lò nướng
lộ thiên, rất tiện lợi cho các buổi picnic cuối tuần. Vào các
ngày thường cũng có nhiều người tụ tập buổi chiều và
buổi tối, già cả bé lớn đều có đủ. Họ đi bộ,
chơi thể thao, hẹn hò, gặp gỡ, ăn uống, chuyện trò...Cho nên
khu công viên là địa điểm cung cấp cho ông Phước nhiều
lon nhôm nhứt; nhiều hôm lượm đầy một bao, ông Phước
phải bỏ lên xe tay, đẩy về nhà rồi trở lại tiếp tục.
Còn tại khu thương mại thì từ hai năm nay công việc thu nhặt
lon nhanh và gọn hơn trước sau khi ông trình bày ý nghĩa của
việc ông làm với các chủ nhân. Họ hiểu và rất thông
cảm nên mỗi cơ sở cho ông Phước để một cái thùng
loại đựng rác, bên trong lót sẵn những bao ny-lông. Mỗi thùng
đều có đề chữ “Aluminium Cans Only” hẳn hòi. Mỗi
sáng sớm ông Phước chỉ gom các bao lon ấy chất lên xe đẩy.
Trước kia thì ông Phước phải vất vả bươi tìm lon trong
một cái thùng rác công cộng to, cao và, dĩ nhiên, rất dơ
bẩn; nhiều khi ông phải đứng hẳn vào trong thùng rác mới
kiếm được nhiều lon nhôm. Mấy tuần nằm trong bịnh viện, bao
nhiêu công việc bị trễ nải hết. Lon liếc, bao bị đang chờ
ông. Chân ông đau không bằng ngọn lửa đốt trong lồng ngực
ông. Ông Phước không biết chân ông rồi sẽ ra sao? Và các
dự định của ông? Ông Phước có ý muốn
là sẽ mở thêm phạm vi hoạt động tới các vùng xa hơn.
Ông cũng sẽ thực hiện đúng kế hoạch mà ông gọi là
Kế hoạch Diều hâu, theo đó thì ông để sẵn tại mỗi
tiệm, mỗi văn phòng dịch vụ một thùng chứa lon, mỗi ngày
ông ghé qua xớt gọn nguyên bọc, như diều hâu xớt mồi. Nhanh
và gọn. Chừng đó thì cái xe thùng nhỏ của ông sẽ
chỉ được sử dụng cho những nơi gần nhà. Như vậy càng
tốt. Ông sẽ dùng cái xe truck để đi các tuyến đường
xa. Nhiều lon thì nhiều tiền hơn. Ông Phước nghĩ tới
cả một vùng Tây Bắc là vùng ông đang ở, rồi lan sang vùng
Tây Nam là địa bàn thương mại của người Á Châu,
là nơi họ sẽ dễ dàng thông cảm và giúp đỡ ông.
Nếu tiện thì ông xoay qua vùng Đông Bắc là nơi bạn ông
có mấy nhà hàng và cây xăng, tha hồ mà gom lon. Rồi tại
Hội Chợ Tết Việt Nam sắp tới, hội chợ Tết tại các chùa,
các nhà thờ…ông Phước sẽ đặt sẵn những cái
thùng để đồng bào đi du xuân bỏ những lon không vào.
Cả chục ngàn người thì biết bao nhiêu là lon. Những bạn
bè của ông nơi quê nhà sẽ có thêm chút tiền mua bánh
trái, kẹo mứt cúng kiến ông bà, các cháu nhỏ có bộ
quần áo mới. Tết nhứt sắp tới rồi mà chân cẳng thì
như vầy, thiệt là họa vô đơn chí.
Nghĩ xa rồi ông Phước không
khỏi nghĩ gần. Cái gần chính là cái gia đình gồm vợ
con ông. Họ ở bên cạnh ông mà ý nghĩ của họ và ý
nghĩ của ông xa nhau hàng ngàn dặm. Thật sự thì ông Phước
đã thấy việc này từ ngày ông còn ở Việt Nam. Ông
nhớ hồi năm 1984 khi ở tù về, ông được vợ bảo lãnh
theo diện đoàn tụ. Lúc đó cha mẹ ông già yếu, ông
là con một, nên ông Phước không chịu đi. Đến khi có
vấn đề HO, ông Phước cũng chưa chịu đi vì cha ông vừa
mất, mẹ thì già yếu thêm. Do vậy vợ con ông trách ông
rất nhiều, cho rằng ông không nghĩ gì đến họ. Không chừng
họ còn nghi ông có bồ nhí ở quê nhà! Từ đó thỉnh
thoảng vợ ông gởi tiền cho ông mà không có một thư từ
nào, không có cả thư của các con. Ông bắt đầu biết
mọi người đã không hiểu nhau rồi. Khi đến Mỹ ở chung
với vợ con, sự cách biệt càng rõ, từ cách sống cho đến
cách nghĩ. Vợ ông thay đổi nhiều quá. Các con cũng vậy.
Anh em nói tiếng Mỹ cả ngày với nhau làm ông nhức đầu.
Càng chán ngán tình cảnh của gia đình mình, ông Phước
càng nghĩ nhiều đến những người bạn đồng cam cộng khổ
của ông ở quê nhà. Tài chánh eo hẹp với đồng lương
quá thấp, ông Phước phải tìm phương cách khác để
giúp họ. Ông nghĩ tới việc đi lượm lon nhôm. Ông Phước
không quên những ngày đầu của công việc này. Thật sự
thì thời gian đầu rất là êm thắm. Ông bắt đầu công
việc ngay tại gia đình ông. Ông Phước cũng muốn nhân cơ
hội lượm lon giúp người nghèo để cho các con cháu ông
biết về lòng thương người và biết quí trọng đồng
tiền. Muốn dạy cho con cháu bài học vở lòng về đạo làm
người. Nhà ông con cháu đông lại hay uống nước ngọt,
vợ chồng thằng con lớn thì hay uống bia, cuối tuần thì hay có
tiệc tùng, nên lon bia, lon nước ngọt cũng nhiều, bỏ
đi thì uổng, mỗi pound lúc đó giá là 42 xu. Mỗi tháng
ông Phước có trên 20 pounds lon không tại chính nơi ông ở,
trị giá cả chục đồng. Riêng tại chỗ làm của ông là
một tiệm giặt lớn, có để máy nước ngọt, ông chỉ
lượm lon không bỏ vào bao đựng rác. Cứ mỗi cuối tuần
ông đem về nhà một bao đầy, nặng ba, bốn chục
pounds. Đầu tiên ông Phước chứa những lon trong thùng rác, để
phía sau vách nhà; rồi đợi khi rảnh, ông Phước cùng hai
đứa cháu nội đạp dẹp mỗi lon cho bớt cồng kềnh. Đầu
tiên hai cháu chỉ làm lấy vui; sau nghe ông nội nhét vào đầu
mỗi ngày một vài chữ, chúng nó hiểu công việc ông cháu
đang làm là một loại charity. Rồi ông cháu hì hục
mang ra xe đem đi bán. Hai đứa cháu nội trên mười tuổi có
vẻ thuộc bài học mà ông muốn dạy. Những người khác
thì chưa. Một hai tháng đầu thì trong nhà chẳng ai để ý
hay phàn nàn gì về việc làm của ông Phước. Đến tháng
thứ ba thì những con kiến, đặc biệt là những con gián từ
đống lon làm cả nhà chú ý. Trước hết là vợ ông
rồi tới con trai, con gái, rồi con dâu. Bà Phước vượt biên
sang Mỹ từ năm 79 với 3 con, thằng lớn lúc đó mới 14 tuổi;
thằng Út sanh ra năm 75, khi ông mới vào tù vài tháng.
Bà Phước làm công chức cho City hơn ba chục năm nay. Bà có
cái nhìn khác ông về nhiều vấn đề. Chỉ một con gián
trước mắt bà đã là chuyện lớn rồi. Ba đứa con thì
lúc nào cũng cùng chiến tuyến với mẹ. Con dâu người Tô
Cách Lan thì sợ gián hơn sợ ma. Tình trạng này thì thật
nguy. Vợ con ông mà không cho ông để lon ở nhà thì không
biết ông phải làm sao. Trước mắt là ông Phước cấp
tốc dời địa điểm. Ông chuyển tất cả lon ra cái góc
sân sau, sát hàng rào, rồi che kín mít bằng mấy tấm vỉ
thiếc. Hy vọng không ai thấy; nhứt là không thấy những con gián.
Khi đống lon nhiều đủ cho một chuyến truck thì ông đem đi bán.
Việc làm ăn của ông Phước coi mòi trôi chảy. Nhưng có
một lần ông tưởng rằng kế hoạch của ông bị ngưng. Chuyện
xảy ra hồi hè năm trước. Đó là một hôm vợ ông
làm sinh nhựt cho cô con gái bằng bữa BBQ ngoài sân sau. Mẹ con bàn
tính với nhau, ông Phước không biết chi tiết. Bạn bè của
vợ ông, bạn bè của các con, có cả người tình của
con gái và của cậu út tham dự. Tất cả trên năm chục người,
đầy cả sân sau. Chuyện rắc rối bắt đầu khi tấm vỉ thiếc
bị ai đó làm ngã xuống, bày ra một đống lon nhôm, cộng
với hàng ngàn con gián to bằng ngón tay, mập ú, láng coóng.
Nghe được mùi thịt nướng, các chú gián càng linh
động, bò lổn ngổn khắp sân như những con ma đói. Mạnh
ai nấy la làng. Mạnh ai nấy nhảy cà tưng. Thịt thà trà rượu
văng tứ tung. Tiệc thịt nướng Tếch-xịt mà phải dời vào
trong nhà, thành indoor Bar-B-Q, thì... 12 con giáp chẳng giống con giáp nào.
Mặt mày ai nấy đều dài thoòng, nhăn nhó như cái bánh
bao chiều, nhứt là phu nhân và các quí tử của ông Phước.
Đâu có ai ngờ được là phía sau căn nhà rộng, hai từng,
trướng gấm màn nhung, mặt trước hoa kiểng ngay lối thẳng hàng,
trong nhà ghế bành, tràng kỷ, đàn piano lung tung... mà phía sau
nhà chứa hộp lon để bán! Ai đời nhà của một bà phụ
tá trưởng phòng mãi dịch thành phố, nhà của một kỹ
sư trưởng công ty điện lực, nhà của cô ba dược sĩ
vv... mà chứa cả đống hộp lon dơ dáy trị gía vài xu một
cái! Tình cảnh y như cô đào thương sau khi diễn tuồng gột
rửa hết mấy lớp phấn son. Thôi thì hôm ấy Mỹ tây, Mỹ
ta đều có một big surprised party! Và dĩ nhiên là ông Phước
đâu tránh khỏi một big, big problem! Cái mà ông thấy rõ trước
hết là cô con gái cưng của ông chạy vào phòng ngủ, đóng
kín cửa, chắc là để khóc cho đã vì xấu hổ với
người tình đang hành nghề thầy thuốc. Cậu út thì cũng
chẳng khác gì cô chị, bạn gái nó cứ đập cửa, kêu
ho-ni ơi, ho-ni à hoài mà nó không mở, chắc để
giấu cái cục quê to bằng cái nhà nó đang ở. Vợ ông,
con trai lớn, con dâu... chắc cũng có cùng tâm trạng như vậy.
Họ cũng cố nói nói, cười cười mà cái cười như
mếu. Cũng phải thôi, họ không hiểu một tí gì về ý
nghĩa việc làm của ông thì họ xấu hổ trước bàng dân
thiên hạ là phải. Còn ông Phước ư? Lúc khách khứa
nhảy cà tưng cà tang giữa sân cỏ, lúc vợ con ông tóc
tai dựng ngược, muốn chôn sống mấy con gián qủi sứ và một
đống lon nham nhở, thì ông Phước đang ung dung đứng sau cửa
sổ trên lầu, vén màn nhìn xuống. Ông muốn làm nhà hùng
biện nói trước công chúng. Ông sẽ dõng dạc, hùng hồn
mà dang tay nói rằng: Các người đang thấy những con gián bò
đi tìm mồi dưới chân các người. Vài người bạn
của tôi nơi quê nhà hiện giờ cũng như con dế, con giun đang
vất vả đi tìm miếng sống. Tôi hãnh diện làm cái việc
lượm hộp lon này. Các người cứ thảy ra đi, tôi lượm
hết. Tiền của các người vứt bỏ, tôi lượm về, rồi
thân ái gởi cho bạn tôi, có gì là xấu hổ! Các người
đâu có biết một pound thịt bò để nướng ngày hôm
nay ở đây đủ cho bạn tôi mua gạo ăn 2 tháng. Cả mấy
chục pounds thịt bò và rượu, và bia...hôm nay có giá trị
tương đương với cả ngàn ngày bạn tôi bò lê trên
vĩa hè bằng hai đầu gối, giữa nắng trưa, giữa mưa dầm,
giữa bụi bặm, bán từng tấm vé số. Nghĩ như vậy cho vui vậy
thôi chớ ông Phước dư biết mỗi người có số, các
người dưới kia có số tốt thì cứ tận hưởng cái
số tốt của mình, cũng không sao, không chết thằng tây nào.
Không nói thì ai cũng biết là sau hôm đó ông Phước
bị vợ, rồi các con hành hạ tơi bời. Để giữ hòa khí
trong gia đình, lần này ông cố giải thích, ông nói cho mọi
người biết hoàn cảnh của từng người mà ông giúp đỡ.
Tình hình tạm yên, tuy rằng còn có những chống đối ngầm.
Họ có vẻ chống đối vì họ không hiểu hết mục đích
lượm lon của ông; hay họ biết mà không thể hiểu nỗi. Sống
tại nước Mỹ này mà có người kỳ cục, ở nhà
lầu, vợ con thành danh, thành đạt...mà nhịn ăn, nhịn mặc,
lượm từng cái lon dơ mà không biết xấu hổ. Chuyên cần
lượm lon để bán lấy tiền đem cho người khác ở tận
đâu đâu! Thiệt hết chỗ nói! Các dâu và con không
hiểu đã đành, vợ ông mà không hiểu thì đáng
buồn và thêm rắc rối. Cái rắc rối là bà thường
xuyên ngăn cản việc làm của ông, còn chê ông làm cái
nghề hạ tiện, làm mất mặt mẹ con bà. Quả thật là vợ
ông đã quên hết cái khổ của chính bà trong những năm
sau 75, quên cái khổ của bao nhiêu người thân quen khác. Ông
Phước nói với vợ rằng ông sang Mỹ nhưng những người
lính thuộc cấp ngày trước của ông, những bạn bè đã
cùng chiến đấu với ông không có điều kiện để
đi, họ đang sống trong nghèo nàn, đói khát, bịnh tật. Ông
nhắc tới hạ sĩ Cang, người lính truyền tin của ông ở trung
đoàn 31, cụt cả hai chân, đang bán vé số tại bến bắc
Cần Thơ; binh nhì Nam, người đã cỗng ông cả cây số
khi ông bị thương ở trận Tầm Vu, đang nằm một chỗ vì
chứng tai biến mạch máu não, vợ con bữa no bữa đói. Hôm
ấy mà Nam chạy bỏ ông thì ông chỉ nằm chờ chết. Rồi
những An, những Thiện, Đồng...đã một thời sống chết với
ông, đang cần sự giúp đỡ, dù ít dù nhiều. Ông Phước
là người đến Mỹ muộn màng, sau khi mẹ ông qua đời,
nên ông thông hiểu từng hoàn cảnh của những người lính
cũ của ông. Sang được bên này, ông muốn tự mình làm
ra đồng tiền gởi về cứu giúp họ. Mỗi người vài chục
đồng mỗi tháng để họ vui mà ông cũng vui. Mỗi lần lượm
những chiếc lon rỗng mà ông Phước thấy lòng mình thêm
đầy. Đầy niềm vui. Lúc còn ở quê nhà, nhận tiền gởi
về từ vợ con, ông Phước đã ân cần chia sẻ với họ.
Cái gọi là tình chiến hữu của ông đơn giản là như
vậy, không đao to búa lớn gì hết. Ông biết khi tuổi già
sức yếu, ông sẽ không giúp họ được nhiều, nhưng còn
hơi thở là ông biết rằng ông chưa bỏ cuộc.
Điều trước mắt là ông Phước sẽ không bỏ cuộc
trong việc vận động vợ con ông tham gia cùng với ông. Ông Phước
biết trước đó là một việc vô cùng khó khăn. Cái
“lì” trong công việc của ông từ mười mấy năm nay cũng
là một cách để khẳng định rằng ông đã suy nghĩ
đúng và làm đúng. Tốt hơn hết là họ nên xét
lại lối suy nghĩ của mình. Hai đứa cháu nội chỉ hơn mười
tuổi mà đã biết giúp ông nội, biết cầm đồng tiền
khó khăn kiếm được từ những lon nhôm, cùng với ông
đem gởi về quê nội. Thỉnh thoảng, làm như là tình cờ,
ông Phước cho vợ xem mấy bức thư hay những tấm ảnh của những
người nhận tiền của ông hàng tháng tại quê nhà. Đại
để những dòng thư như: “ ...nhờ món tiền của ông
thầy gởi về kịp lúc mà má em được chữa trị kịp
thời, nếu không thì...” hay: “...số tiền của ông thầy
gởi về lần này em dùng hết để bốc mộ vợ em, đưa
nó về nằm gần với ông bà cha mẹ, chờ em xuống nằm chung
với nó cho đỡ lạnh chưn”…. Đặc biệt là có
một thư rất vui: “ Ông thầy biết hông, thằng con lớn của
em vừa mới ra kỹ sư. Đó là nhờ bốn năm nay ông thầy
cho nó tiền đóng học phí. Từ đây thằng anh sẽ lo cho mấy
đứa em”. Còn những bức hình thì có thể làm bà
Phước xúc động: hình chụp hạ sĩ Cang bò trườn trên
bến bắc, cố mời một ông khách mua vé số; hay hình trung sĩ
Lộc có đôi mắt trũng sâu như hai cái hố thẳm, quần
áo, mủ nón, tay chân rách nát, chỉ có cây gậy trên
tay là còn nguyên hình dáng. Bà Phước biết Cang và Lộc
từ khi hai người lính này phục vụ trong đại đội của
ông Phước. Cứ như vậy mà ông Phước thi hành chiến thuật
tầm ăn dâu, thỉnh thoảng cho vợ đọc những bức thư hay xem vài
tấm ảnh, hay những khi vợ chồng vui chuyện, ông Phước nói về
người này, người nọ nhờ món tiền của ông gởi về
mà giải quyết được bao nhiêu vấn đề khó khăn. Nhứt
là những món tiền gởi vào dịp Tết tuy không nhiều nhưng
niềm vui của họ thì thật nhiều; niềm vui của ông còn nhiều
hơn nữa! Mới nghe vài lần đầu bà Phước ậm ừ cho qua.
Những lần sau bà có ý hỏi lại hay góp vài lời. Qua
thời gian, sắt đá còn phải mòn, huống chi là lòng người.
Ông Phước nghĩ như vậy. Còn đối với các con thì ông
nói chuyện với chúng nó về những gì đang xảy ra tại đây,
một cách cụ thể, giấy trắng mực đen hẳn hòi. Chẳng
hạn như chuyện Hội Người Cùi Việt Nam tại Nam Cali kết hợp
với Hội Blessed Damien Society thuộc giáo phận New Orleans ở tiểu bang Louisiana
làm bao nhiêu việc tốt đẹp cho người cùi Việt Nam từ cả
chục năm nay. Bác sĩ trẻ Trần Mai Khanh là điển hình của
những tấm lòng vàng nầy. Chỉ cần 140 dollars tiền thuốc men là
có thể chữa hết bịnh cùi cho một người cùi. Hay nói ngược
lại: vì không có đủ 140 dollars mà một người cùi phải
chịu khổ suốt đời, chịu rụng tay, rụng chân, mù mắt....
Nghe như vậy có đứa gục gặt đầu ra điều thông cảm.
Cô dâu Tô Cách Lan thì cứ really, really liền miệng,
có vẻ xúc động. Bà Phước tuy không trực tiếp ngồi
nghe nhưng coi bộ đồng tình. Ông Phước ghi cho các con cái web
site của Hội để chúng nó tìm hiểu thêm. Cũng như ông
Phước đã nói về Quỹ Từ Thiện Têrêsa cho các con nghe.
Chúng nó có vẻ thích thú khi biết chỉ cần 2 dollars là mua
10 kí gạo cho một người già ở Việt Nam có cơm ăn một
tháng. Xem như vậy thì làm nhân đạo đâu có tốn tiền,
tốn sức nhiều ! Hôm người phụ trách Quỹ Từ Thiện Têrêsa
là Phó tế Vũ Thành An từ Portland về Houston tổ chức một buổi
họp mặt, ông Phước rất ngạc nhiên là chỉ cần một lời
đề nghị của ông mà cả gia đình đều muốn đi tham
dự để biết thêm về quỹ từ thiện nầy. Bữa đó về
nhà cô dâu Tô Cách Lan và bà mẹ chồng nói nhiều về
chuyện này. Họ còn biết hơn ông là hiện đã có cả
ngàn cụ tại Việt Nam đang được sự trợ cấp này. Tình
hình trong ngôi nhà này có vẻ khả quan lắm. Tằm ăn dâu
mà! Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Phước
biết chẳng sớm thì muộn cả nhà sẽ cùng góp sức với
ông. Tiên trị kỳ gia, hậu trị kỳ quốc. Giải quyết xong những
người nhà, ông Phước sẽ gợi ý với những bằng hữu
khác, tại đây và tại các nơi khác... Rồi cả ngàn
thùng “Aluminium Cans Only” sẽ rải đều khắp nơi.
Việc thiện thì nhiều, nhưng
mỗi người một tay thì sẽ...vỗ nên bộp. Người xưa đã
nói vậy rồi. Ông
Phước bỗng nhớ ra là mình đã nghĩ ngợi quá nhiều
trên giường bịnh. Ba tuần lễ nay
chuyện giúp người cùi hay người già xảy ra như thế nào
ở nhà thì ông Phước không biết. Ông chỉ biết là
ông nằm đây cả tháng thì làm sao mà đi lượm hộp
lon, mấy cái thùng “Aluminium Cans Only” của ông chắc đã
đầy ứ. Nằm đây thì làm sao mà có tiền gởi về
kịp đầu tháng tới. Hôm nay đã gần cuối tháng rồi.
Tết cũng cận kề rồi.
Đêm nay ông Phước suy nghĩ nhiều quá, khiến ông mất
ngủ.
xxx
Cuối cùng thì
ông Phước được xuất viện với cái chân băng bột.
Ông có thể xê dịch chút ít được với cây nạng.
Chân ông coi như không có vấn đề. Ruột gan ông cũng không
có vấn đề gì. Nhưng khi về đến nhà, vào căn phòng
riêng của ông thì lòng dạ ông có vấn đề. Ông Phước
thấy những tấm giấy biên nhận gởi tiền để trên bàn
ngủ của ông. Tên người gởi là tên vợ ông, còn tên người nhận trên
các hóa đơn là Cang, là Lộc, là Nam, là An, Thiện, Đồng...
Ngày gởi thì mới hôm qua, ngày đầu tháng. Ông Phước
thấy tim mình quả thật có vấn đề, nó đập liên hồi,
đập không thứ tự, điều mà ông không gặp từ thật
nhiều năm nay. Cầm những tờ biên nhận gởi tiền mà tay ông
run. Tên vợ ông đó. Tên những người bạn nghèo khổ
của ông đó. Ông đâu có hoa mắt, đâu có lầm lẫn
gì. Ông Phước với tay cầm cây nạng, lê bước về phía
cửa sổ, ông biết trời hôm nay phải đẹp. Ông muốn nhìn
bầu trời đẹp hôm nay. Ngước mắt nhìn lên bầu trời trong
xanh, không gợn môt chút mây, ông nghĩ tới những nụ cười
của bằng hữu quê nhà, rồi nhìn xuống phía cuối sân sau,
chỗ góc sân bên trái, nơi ông dùng để chứa hộp lon.
Trời! Có thật không đây? Niềm vui òa vỡ. Ông Phước
thấy một đống lon đầy vun. Rõ ràng mà! Một đống lon
đầy vun! Hai mắt ông Phước bây giờ tuy có ướt nhưng ông
không lầm lẫn đâu. Ông thấy rõ mà. Ông nhớ trước
khi bị tai nạn ông đã bán hết số lon. Bây giờ một đống
lon đầy tại góc sân, không có một tấm vỉ thiếc nào
che chắn hết. Một đống lon đầy đó bà con ơi! Dưới
ánh nắng chiều, màu sắc từ các hộp lon như nhảy múa rộn
ràng. Từ hồi nào mà vợ con ông đã mở lòng, đã
xăn tay áo làm công việc của ông vậy cà? Như vậy là
quà Tết cũng sẽ đến sớm như mọi năm. Mùa Xuân năm
nay cũng đến sớm với bằng hữu của ông, như mười mấy
năm qua.
Ông Phước
thấy lòng mình no đầy một niềm vui, và gan ruột ông cũng
đang rộn ràng nhảy múa.
Tết chưa đến mà ông Phước nghe có tiếng pháo nổ
thật giòn và thật rộn rã. Nghe như pháo tết của quê nhà.
Trần
Bang Thạch
THỦY TÁN Gà chưa gáy
sáng thì ghe đã rời bến. Nhờ nước xuôi nên ông Giáo
nhẹ đẩy hai mái chèo chiếc ghe cũng đi ngọt sớt. Bà Giáo
ngồi trước mũi ghe, vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa cột những chiếc
bánh ú thành chùm. Ông bà Giáo ép thằng Nhứt nằm
trong mui ghe tam bản ngủ thêm một chút để dưỡng sức. Thằng
cháu nội này sẽ phải dùng sức trai chèo mấy chặn nước
ngược trước khi tới nơi thấy mặt ba nó.
Ra khỏi sông Vàm Ngo thì trời vừa đứng bóng. Thằng Nhứt
đã thức dậy từ lâu, đã lót bụng bằng mấy cục
xôi vò và mấy trái chuối nấu cọng thêm một bụng nước
sông nên trông tươi tỉnh. Nó bò ra phía sau chèo thay ông
nội. Tội nghiệp thằng nhỏ, từ lúc mới đẻ cho tới bây
giờ là 14 tuổi nó nào có biết chèo chống gì đâu,
bơi lội thì cũng bì bõm, vừa đủ để bắt cá, giăng
câu cho ra vẻ con nhà đồng áng. Nghe nói phải đi thăm ba bằng
chiếc ghe tam bản mượn của bác Năm, hôm qua thằng Nhứt quyết
lòng tập chèo từ trưa cho tới tối mò để chuẫn bị
cho chuyến đi ngày hôm nay. Quanh năm suốt tháng, ngay từ hồi còn
trong bụng mẹ nó đã theo cha ở hết hậu cứ này đến
hậu cứ khác. Ngay sau ngày giải phóng, ba nó đưa mẹ con nó
về sống nhờ ông bà nội. Non một tháng sau nó nghe nói ba nó
đi học tập cải tạo vì là sĩ quan ngụy. Sau mấy tháng sống
cơ cực ở quê chồng, má nó gởi nó cho ông bà nội,
nói là đi tìm chồng rồi dông mất tiêu. Hai hôm trước,
sau cả năm không tin tức, ông bà nội nó mới biết chỗ ba
nó đang học tập. Những chữ như học tập, cải tạo, giải
phóng, ngụy... thằng Nhứt chỉ mới nghe người lớn nói, nó
cũng bắt chước nói theo mà chẳng biết ý nghĩa gì. Thằng
Nhứt tuy nhỏ tuổi nhưng nhờ ăn nhiều mau lớn nên tay chèo khá
mạnh. Ông Giáo cầm dầm ra trước mũi ghe bơi tiếp thằng cháu.
Ngồi trong mui nhìn ra sau lái, bà Giáo thấy tự nhiên sao hôm nay
thằng cháu lớn xộn, chắc tại trong lòng nó đang vui. Tay chèo
của nó khá vững nhờ đôi tay dài. Cái điệu bỏ chưn
mặt ra đằng sau rồi nhún mình một chút, hất mặt lên một
chút mỗi khi đẩy hai mái chèo tới trước coi sao mà giống
thằng cha nó quá. Tội nghiệp thằng con trai của bà, vợ chồng
nó đặt tên con trai đầu lòng là Nhứt để mong tiếp
tục với con Nhì, thằng Ba...Rốt lại cũng giống như vợ chồng
bà : một cây sanh vỏn vẹn một trái. Bây giờ thì coi như
hết rồi. Khi bắt đầu đi
vào sông Yên, thằng Nhứt đẩy mạnh mái chèo tay mặt, lơi
mái chèo tay trái để đưa chiếc ghe cập theo cái
voi rộng trồng lát. Dễ chừng có tới cả công lát xanh mịt.
Mũi ghe lần lần đi vào sông Yên. Nước bắt đầu ngược.
May mà chiếc ghe nhỏ nên cũng nhẹ chèo. Sông thì rộng mà
nhà cửa hai bên thì chẳng có bao nhiêu, thưa thớt như đồng
hoang. Ngồi trước mũi ghe, ông Giáo đẩy mạnh thêm cây dầm.
Có lúc thằng Nhứt dở cả hai cây chèo khỏi mặt nước
để tránh mấy dề lục bình đang trôi ngược thì chiếc
ghe gần như đứng lại. Bà Giáo ngồi trong mui ghe, hai tay vịn chặt
be ghe như ngầm tiếp sức đẩy ghe về phía trước. Trước
khi đi tới một nơi hoàn toàn xa lạ này, ông bà Giáo đã
nghe ngóng, hỏi han đường đi nước bước. Họ biết trước
là sẽ phải đi nước ngược trên sông Yên. Rồi đi
nước ngược trên sông Thượng, sông Đối, trước khi
đến Khu Trại Ngọc Trai nằm trong vùng U Minh Hạ. Trại Ngọc Trai, không
phải chỉ ông bà Giáo mới nghe lần đầu, mà
cả những người lối xóm như ông bà Chín Nâu, ông Hai
Cảnh là những người từng ở vùng U Minh Hạ cũng chưa nghe
tới bao giờ. Họ chỉ nghe mang máng là trại Ngọc Trai mới có
sau ngày giải phóng. Ông Hai Cảnh nói nếu muốn đi nước
xuôi thì ngay sau khi ra khỏi sông Vàm Ngo, đậu ghe lại năm bảy
tiếng, chờ nước lớn thì đi dễ hơn, đỡ vất vả. Lúc
đầu ông bà Giáo vì tay chân già yếu chỉ muốn đi
đường bộ, nhưng người ta nói đi đến đó chỉ
có xuồng ghe là phương tiện tiện lợi nhứt, lại chở được
nhiều đồ tiếp tế. Vùng đó dẫy đầy sông rạch,
ít cầu, nhiều nơi nước nổi, có khi dễ gặp mìn bẫy
vì ở đó nghe nói trước kia là vùng trái độn, mặc
bên nào nấy chôn mìn, bẫy, lựu đạn. Khi nghe người ta nói
đã có nhiều người học tập bị đạp mìn, chết không
còn miếng thịt, ông bà Giáo càng lo hơn. Thật sự thì
ông bà Giáo đã mất ăn mất ngủ từ cả năm nay, từ
ngày thằng con trai giả từ gia đình, nói là chỉ đi học
tập một tháng rồi về. Một tháng, rồi hai, ba tháng vẫn không
thấy về; chỗ ở cũng không biết. Hỏi đầu làng cuối xóm
cũng không ai biết; hỏi xã, hỏi huyện thì cũng chẳng ai cho tin.
Có đứa học trò cũ nay đang làm Chủ Tịch Huyện, hỏi
nó, nó nói để nó dọ hỏi giùm. Nó còn khuyên
ông thầy đừng nóng, để ảnh học tập tốt, lao động
tốt rồi cũng sớm về. Cả năm rồi có nghe nó cho tin tức gì
đâu. Tới cơ quan tìm nó thì lần nào cũng cho hay là bận
họp hành. Tới nhà thì nói nó đi vắng. Ông Giáo nhớ
ngày xưa nó là thằng trốn học có tiếng trong cái lớp
tư của ông dạy; lên các lớp trên nó cũng đi học bữa
đực bữa cái. Cuối năm lớp nhứt, thi rớt vào lớp đệ
thất trường tỉnh, nó bỏ học đi bưng. Phải nó siêng
hơn một chút, chắc bây giờ là thủ tướng! Nhưng
ông bà Giáo cũng có cái số may. Hai hôm trước, ông
Giáo đang ngồi uống cà phê ngoài vàm, tình cờ
có người khách lạ cho biết chỗ ở của thằng con. Nghe tin con,
ông bà Giáo vui hơn đào được hũ vàng, vội vã
cơm gạo đi thăm và tiếp tế. Ông bà Giáo dư biết là
con trai họ đang đói khổ vì làm người tù sau ngày mất
nước, chớ chẳng phải giải phóng giải phiết hay học tập cải
tạo cải tiết gì hết. Lòng già thương con càng nghĩ càng
đau. Đi tới trời, ông bà cũng đi tới nói chi mấy khúc
sông con. Ghe càng đi vào sông
Yên thì gặp thêm gió ngược thổi mạnh. Sóng lớn. Ghe nhỏ
lại chở đồ nhiều nên chòng chành. Nóng lòng gặp con,
ông bà Giáo quyết đi không nghỉ ngơi gì hết. Thằng Nhứt
cũng nóng lòng gặp ba nên chèo hoài không biết mệt. Nước
ngược cũng đi. Sóng gió cũng đi. Hơn một năm chờ đợi,
lâu quá rồi. Ông Giáo đã nghe nói nhiều về con sông Yên.
Tên là Yên nhưng nhiều sóng gió. Sông Yên là con sông
cái nối những con sông nhỏ, đưa nước ra biển qua ngả Bảy
Giá. Ngày xưa người địa phương nặng mê tín, và
cũng vì lòng ước ao nên đặt là sông Yên để hy
vọng sông sẽ trở thành yên lặng, bình yên, không sóng
to gió lớn; cũng như người dân quê nghèo rớt mồng tơi,
sanh con đặt tên là Giàu, là Đủ, là Dư...Người ta
chỉ đoán sông Yên rộng chừng hơn trăm thước, dài chỉ
non cây số, nhưng là con sông dữ, có nhiều ghe xuồng bị chìm,
nhứt là ghe xuồng của người từ xa mới tới lần đầu.
Có lời đồn đãi là người ta đã vài lần thấy
cá mập từ Bãi Giá lội vào. Thời chiến tranh bốn lăm năm
mươi, sông Yên là nơi tập hợp các thằng chõng chết
trôi, những xác người cụt đầu, cụt chưn, cụt tay trôi
về từ các nhánh sông con. Có ngày nhiều quá chôn không
kịp, người ta đẩy xác luôn ra biển. Thủy táng. Bây giờ
thì ông bà Giáo và thằng cháu nội thấy thế nào là
con sông dữ khi chiếc ghe tam bản đến gần chỗ giao lưu của sông
Yên với ba con sông nhỏ là sông Thượng, sông Hạ và sông
Giữa. Nước từ ba con sông nhỏ đổ vào sông Yên tạo thành
vùng nước xoáy mạnh. Chỗ này lòng sông rộng hơn và
gió thì thêm mạnh. Ra khỏi vùng nước xoáy, nước chảy
xiết. Trời đã xế chiều mà chiếc ghe vẫn còn trong vùng
nước xoáy, vài phút đồng hồ mới đi được một
xãy tay. Thằng Nhứt giữ vững tay chèo, cốt sao cho ghe đỡ chồng
chành và không bị lật úp. Thằng nhỏ chưa quen chèo nhưng
nhờ mạnh tay nên giữ được ghe đi gần bờ. Ông Giáo cũng
ráng hết sức giữ cho mũi ghe không quay vòng. Bà Giáo thì
ngồi yên, lâm râm niệm Phật.
Trong tiếng cầu kinh, trong tiếng gió vù vù và tiếng nước
xoáy, cả ba người trên chiếc ghe tam bản bên này bờ sông
bỗng thấy phía bên trái, chỗ vàm sông Hạ, thấp thoáng
trong màu chiều, một bè rồi hai, rồi ba, bốn, năm... chiếc bè
gỗ trôi ra từ sông Hạ, nhập vào sông Yên rồi dừng lại
ở đầu voi. Ông Giáo nhớ ngay lời người ta nói về những
người tù và những chiếc bè tràm từ thượng nguồn
sông Hạ theo con nước ròng đổ vào sông Yên. Tại chỗ
nước xoáy này, khi vừa tới voi, những bè tràm sẽ cắm
sào dừng lại, đợi khi nước lớn sẽ theo sông Thượng bè
tiếp về trại tù Ngọc Trai ở thượng nguồn sông Đối.
Khi thêm một chiếc bè vừa ra khỏi vàm sông Hạ, lúc ráng
chiều nhuộm đỏ khúc sông, thằng Nhứt dụi mắt hai ba lần,
nó thấy người đàn ông ngồi trên bè hơi quen. Nó lớn
tiếng kêu ông bà nội cùng nhìn người đàn ông. Có
phải đây là sự nhiệm mầu, hay là vì thần giao cách cảm,
để linh tính cho người tù trên bè tràm và ba người
trên ghe tam bản biết rằng họ là những người máu mũ ruột
thịt. Họ đã cùng cất tiếng gọi nhau. Ba. Má. Con. Ba. Con. Con. Ba.
Má....Những tiếng gọi lẩn vào nhau, chồng chất lên nhau. Gọi
nhiều lần. Tiếng gọi bay trong gió, vang trong chiều tà. Có
một tíc tắc, thằng Nhứt đã quên tay chèo, cúi khum người,
hai tay nó bụm miệng kêu lớn ba, ba. Thiếu người cầm lái, chiếc
ghe xoay vòng, ngã nghiêng như chiếc lá trong phong ba. Ông Giáo ngồi
phía trước dồn hết sức lực trên đôi tay già, cầm chắc
cây dầm giữ cho ghe thăng bằng. Khi bà Giáo thấy đầu
hai cây chèo đập vào sau ót thằng Nhứt, máu phun thành vòi
thì thằng Nhứt đã lọt tũm xuống sông. Ngay lúc đó
người tù cũng bỏ bè tràm, phóng mình về phía chiếc
ghe. Nước xoáy. Gió mạnh. Bà Giáo la một tiếng thất thanh,
bà thấy một vùng tối mênh mông trước mặt mình. Ông
Giáo thì thấy một màu đỏ ối nhuộm hết khúc sông,
nhuộm hết bầu trời. Những con sóng như những bàn tay máu vung
cao. Nước xoay vòng bè tràm như cây tăm trong ly nước khuấy.
Chiếc ghe cũng xoay vòng rồi trôi theo dòng nước. Bè tràm như
ngựa không cương, trôi nhanh về phía hạ lưu. Người tù
cũng trôi đâu mất, không thấy trồi lên mặt nước. Những
bạn tù chưa kịp lặn tìm xác bạn thì bị nòng súng
chĩa sau lưng. Có một người tù nhanh trí vội vã lấy hai
cây tràm làm thành hình thập tự giá cắm ngay tại vàm
sông Hạ, chỗ đất bồi. Ba
ngày sau, xác người tù tấp vào một tay đáy ở Bãi
Giá, bụng sình chương, hai hốc mắt trống hoác. Xác thằng
Nhứt thì không ai thấy; có lẽ trôi tuốt ra biển. Bà Giáo
chết đi sống lại nhiều lần trước cái xác tròn như
trái banh lông và trước cửa biển mênh mông trời nước,
không một bóng người. Ông Giáo thì cứ ngậm hoài trên
đôi môi điếu thuốc rê không cháy.
Từ đó ông bà Giáo cúng hết vườn đất cho chùa,
dọn nhà về vùng sông Yên. Căn nhà sàn nhỏ dựng ngay dưới
bến sông, chỗ ngả ba nước xoáy, nơi có cắm
cây tràm thập tự giá. Mỗi buổi chiều, khi ráng đỏ nhuộm
một gốc trời ông bà Giáo bắt ghế ngồi ngoài hàng hiên,
mỗi người một góc. Nước vỗ như lời than khóc dưới
chân. Nhiều khi nước phát ra những tiếng Ba. Má. Nội. Ba. Má.
Nội....thành những tràng dài như tiếng hú rớt xuống từ
cõi xa xăm mộng tưởng. Có khi dưới chân, nước là những
con bạch tuột có hàng trăm vòi. Là máu. Là cái bụng
sình chương. Là đôi con mắt thiếu tròng. Là giọt máu
phun ra từ cái đầu xanh non như lá cỏ. Sóng nước ở một
bãi bờ xa lạ trong một đất nước bỗng nhiên xa lạ đã
thủy táng hai người thân yêu nhứt của ông bà giáo già.
Nhưng mà, lạ chưa, bây giờ ông bà cũng muốn sống hết
đời ngay trên những lớp phong ba của một dòng sông dữ! Ôi!
Cũng là một cách thủy táng đau thương! Ông bà ngồi
đây mà tâm hồn thì đang bập bềnh trên sóng nước.
Muôn đời oan hồn người con trai duy nhứt và đứa cháu nội
duy nhứt đang trôi nổi bồng bềnh đâu đây trong khói, trong
sương, trong màu chiều đỏ như máu và trong màn đêm
đen như mực.
Trời nước mênh mông, phong ba cuồng nộ đã chôn sống
hai người thân yêu nhứt của họ, cũng đang chôn sống thể
xác họ, nhưng không chôn hết được nỗi buồn của người
bỗng khánh tận lúc cuối đời. x Xx Từ
đó và mãi cho đến bây giờ, sau gần bốn mươi năm,
người địa phương gọi khúc sông nầy là Sông Oan. TBT ________________________________________
CÓ MỘT NGƯỜI DƯNG
Tới giờ nầy mà nàng
vẫn không thể phát âm trúng tên chàng. Còn chàng thì
đâu có khá gì hơn. Tên người ta viết là Phương
mà chàng thì cứ bừa bãi phát ngôn là Pung, Pung. Làm như
dùi đục gõ lên trống chầu. Còn tên chàng là Charles,…y
như tên vị hoàng tử xứ Hồng Mao, quen tên và dễ kêu muốn
chết vậy mà nàng cứ Chặt, Chặt…Miệng thì nói dẽo
queo còn tay thì chặt chặt, khứa khứa, như chặt đầu lá
lóc! Nghe mà ớn da gà! Gần 1 năm hương lửa mặn nồng chớ
có ít ỏi gì đâu mà cứ Pung, Pung, Chặt Chặt.
Mà dù có phết thêm con số 1 hay số 2 trước cái con số
1 đó thì cũng vẫn cứ là Chặt Chặt, Pung Pung. Vui miệng nói
chơi với bạn một chút xíu về cái gọi là ngôn ngữ
bất đồng mà người đời thường nói tới trong những
cuộc hôn nhân gọi là dị chũng, chớ ngày ngày mà cứ
tự nhiên Pung Pung, Chặt Chặt thì tình nghĩa mặn nồng vẫn cứ
là nồng mặn, chẳng hề giảm một gờ ram muối khoáng nào.
Bạn đừng cười, một khi mà chàng ôm gọn ngang eo ếch nàng
thì nàng muốn “bung” ra hay muốn “chặt” bỏ cái gì
đó…hì, hì…thì đâu phải dễ. Khắn với nhau
thì có. Lúc đó hai người muốn gì thì chỉ có…giường
chiếu chăn nệm gối gắm biết. Chàng là tui đó
bạn. Còn nàng thì bạn biết rồi đó. Phải, chính nàng.
Nàng là người cùng xứ duy nhứt với bạn, là người
hàng xóm của bạn trong khu gia cư nầy. Đối với tôi thì
trước đây hơn 2 năm, nàng chánh hiệu là một người
dưng của tôi. Thuở ấy trước mắt tôi, nàng lạ lẫm vô
cùng. Dáng dấp, gương mặt, tiếng nói, điệu bộ…thật
sự là không giống ai chung quanh đây. Ở cái thị trấn nhỏ
bằng bàn tay trên dưới trăm nóc gia nầy hầu như ai cũng quen
biết nhau. Vậy mà chẳng ai biết nàng. Hơn chục năm trước
chắc bạn có xem phim giả tưởng E.T kể chuyện những con người
tay chưn mình mẫy thì nhỏ xíu mà cái đầu to như trái
dừa khô từ một hành tinh xa lạ nào đó bay xuống trái
đất. Thoạt gặp nàng lần đầu tôi có ý nghĩ nàng
là một trong những người ấy còn yêu thích trần gian nên
cố tình đi lạc vào thị trấn nầy ở chơi cho hết mấy
tuần vơ-cấy-sân. Ý tưởng nầy nhiều lúc nhớ lại tôi
muốn nhắc với nàng cho vui, nhưng nghĩ lại đó là một ý
tưởng hết sức tầm bậy, đáng đánh cho trăm hèo.
Tôi gặp nàng lần đầu tại tiệm Wal-Mart. Nói cho cùng
thì ở đây ai cũng phải tới cửa hàng duy nhứt nầy để
mua sắm. Người ta gặp nhau ở đây cũng là lẽ đương
nhiên. Vậy mà chuyện tôi gặp nàng ở đây thì vừa
đương nhiên vừa khác thường. Nó khác thường vì
hôm đó chẳng những chúng tôi gặp nhau mà còn đeo theo
nhau nữa. Gặp tình cờ, mà đeo theo nhau cũng tình cờ. Nói như
vậy thì cũng oan cho nàng, chính thật tôi mới là người
đeo, còn nàng thì hình như tạo cái cớ cho tôi đeo theo.
Đến giờ nầy tôi vẫn không muốn tìm hiểu xem cái gọi
là hình như nầy. Có biết bao điều về nàng tôi
còn chưa hiểu nổi thì tìm hiểu làm chi cái việc hình
như hình nhiếc ấy cho mệt bộ óc đang bắt đầu lão hóa.
Câu chuyện nó như thế này: Hôm đó, hơn 2 năm trước,
tôi đi chợ Wal-Mart mua ít đồ cho tuần lễ sắp tới. Tôi đang
đứng trước kệ tủ bày các hộp cereal trên cao. Tôi chọn
một hộp. Bỗng tôi nghe tiếng nói từ sau lưng: “one more for me”.
Tôi chưa hiểu hết ý nghĩa của câu tiếng Anh lạ tai thì mắt
tôi cũng cảm thấy là lạ khi tôi xoay thân hình 6 feet tư của
tôi lại để thấy một người nữ đứng chỉ cao ngang bụng
mình. Không phải một bé gái mà là một bà có tuổi
với mái tóc muối tiêu. “ One more!” Lần này nàng
nói mà như ra lịnh. Tôi bỏ một hộp cereal vào xe đẩy của
nàng như một cái máy. Nàng gật đầu rồi đẩy xe đi.
Không nói thêm một lời nào. Tôi theo sau nàng để tìm
thêm vài món hàng nữa ở dãy kệ đằng kia. Nhìn từ
phía sau lưng nàng tôi chợt nhớ một đoạn phim E.T trong đó
người đàn bà E.T đang đẩy cái xe với một baby E.T nằm
ngủ. Tôi mỉm cười một mình. Sao mà giống hịt! Tôi muốn
xem lại đoạn phim E.T nầy thêm nữa nên cứ đẩy xe đi sau nàng.
Tới nơi trưng bày thuốc men, nàng dừng lại. Tôi cũng dừng
lại. “Please!” Nàng nói với tôi rồi chỉ hộp thuốc
ho trên cái kệ cao nhứt nhờ tôi lấy giùm. Lần nầy nàng
lí nhí: “Thank you so much”. Phát âm có lạ một chút
nhưng thật dễ hiểu. Rồi thì ai nấy lo việc của mình. Có
vài lần tôi ở đầu dãy hàng gặp nàng ở
cuối dãy, cả hai hơi cúi đầu chào và hơi mỉm cười
với nhau. Cả buổi chọn món nầy, bỏ món kia, tính tiền rồi
đẩy cái xe ra chỗ đậu xe, tôi lại gặp nàng. Nàng đang
loay hoay nơi cốp xe, hì hục với mấy bao phân bao đất làm vườn.
Trông nàng thảm não quá. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà
mấy bao đất vẫn nằm yên trong xe đẩy. Ngẫng lên thấy tôi
mắt nàng như sáng lên, nàng hướng hai tia mắt tới các
bao phân nằm lọt lòng trong cái xe đẫy, rồi liếc đến cái
cốp xe đang mở. Tôi biết tôi phải làm gì rồi. Cái thân
hình 6 feet tư đâu có ngại gì ba cái lẻ tẻ ấy. Bao bị
đâu vào đó, tôi nhẹ nhàng đóng cốp xe, chưa kịp
xoa tay phũi bụi thì nàng đã lái xe đi sau cái mỉm cười
và cái gật đầu tỏ ý cảm ơn. Đó là lần gặp
gỡ đầu. Buổi gặp gỡ mà nàng chỉ hơi mỉm cười
và chỉ nói trống không mấy tiếng, còn tôi thì chưa kịp
thốt một lời nào. Lần thứ nhì thì ồn ào và khẩn
cấp hơn trước. Hôm ấy, tôi đang cắt cỏ sân sau, nghe tiếng
chó sủa dồn dập trước nhà, chạy ra nhìn, tôi thấy nàng
Wal-Mart đứng thu lu trước cửa nhà tôi. Nàng như cố thu người
cho thật nhỏ. Tôi áng chừng cái thân hình không quá 5 feet,
nặng không đầy trăm pounds chỉ có thể nhỏ đến như vậy
là cùng. Miệng nàng há hốc, mắt nàng trợn trừng trong nỗi
sợ hãi cao độ. Nhánh cây cụt ngủn trên tay nàng
cũng buông xuôi. Bây giờ kể lại thì hơi dài dòng, chớ
lúc ấy, ngay cái lúc tôi vừa mở cửa, thấy nàng đứng
bất động giữa hai con chó đen sì đang chõm mõ vào nàng,
sũa dữ dội, tôi đã là gã hiệp khách hành, lách
mình một cái ào xung vào giữa trận tiền, cắp nách nàng
bay ra khỏi trận địa. Hai con chó có lẽ vì quá ngạc nhiên
hay vì quá bất ngờ mà lùi lại mấy bước rồi cong đuôi
chạy mất, để lại trong tay tôi một thân người mềm nhũn
với gương mặt xanh như tàu lá. Chàng hiệp sĩ bất đắc
dĩ này chắc đã thành bị thịt nếu hai con chó không phải
là hai con chó … quen từ ngôi nhà kế cận. Nhiều khi làm bạn
với chó cũng có lợi! Sau đó là những gặp gỡ hằng
ngày khi nàng mỗi sáng đi bộ ngang qua nhà chàng. Còn chàng
thì mỗi sáng đúng giờ, đúng phút ấy đứng
trước nhà mình làm bộ như tỉa cành, cắt nhánh mấy
khóm hoa kiểng để chờ dịp good morning với nàng. May là cái
sự làm bộ nầy không kéo dài nên các hoa kiểng chưa trụi
lũi cành lá. Sau mấy lần good morning thì chàng bắt đầu
đi bộ sau lưng người dưng. Người dưng đi tới đâu chàng
đi tới đó, cứ lẽo đẽo theo sau. Đường ta ta cứ đi.
Ruộng người ta thì ta chớ có cày. Cho tới một hôm hình
như cái chất người dưng với nhau bắt đầu nhạt dần thì
nàng đi chầm chậm như cố ý chờ. Phải tới lúc thôi.
Cứ làm hoài cái đuôi để thiên hạ cười sún răng
hết sao. Có dịp sánh vai đi song đôi, người dưng trở thành
người quen lúc nào không ai biết. Nàng không nói được
nhiều tiếng Anh; còn chàng thì cố học hoài mấy tiếng anh,
chị, em, ông, bà, cô, chú… mà lúc dùng thì cứ
lộn tùng phèo. Khi chàng gọi nàng là anh thì nàng cười
ngất, ra điều thông cảm cho anh Mỹ già học nói tiếng Việt;
khi gọi là bà, hay chị thì nàng cười mím chi,
làm như gọi sao cũng được. Nhưng hình như, lại hình như,
khi chàng vô tình hay cố ý gọi nàng là em thì nàng
có vẻ bối rối thấy rõ, mắt nàng chớp chớp, chân nàng
bước hơi trật xuống lề đường; vói tay dìu nàng đi
lại cho ngay ngắn thì nàng lại bối rối hơn .Chàng biết nàng
mới dọn về vùng nầy sau khi đứa con trai út lấy vợ rồi
mua nhà mới, vừa lúc nàng tới tuổi hưu non. Đã nhiều năm
ở chung với vợ chồng thằng con trai lớn mà nàng đã ý
nhị gọi là những năm dài đáng quên, người mẹ góa
chồng từ hơn ba mươi năm nay thấy cần phải dọn về đây
để có một nơi yên tĩnh sống những ngày còn lại.
Bạn ạ, một nơi xa thành phố, xa các
trục lộ chánh, nằm gọn trong một cánh rừng thưa với một
cái hồ Livingston thiên nhiên rộng lớn, có hơn 80% cư dân là
những người hưu trí, thì đích thị nơi đây là
nơi yên tĩnh rồi; còn người đồng hương của bạn có
sống yên tĩnh hay không, có an hưởng tuổi vàng của mình
không thì… mời bạn hãy nghe hết câu chuyện nầy để
mà thẩm định. Đến đây thì chắc
bạn đã biết câu chuyện của tôi và bà Phương đã
đi đến đâu rồi. Phải, chúng tôi đã bắt đầu
một chuyện tình. Chuyện tình nầy không biết nó rớt vào
đâu: Tình vợ chồng? Tình bạn đường? Tình già? Cho
tới nay chúng tôi cũng không mấy quan tâm. Mà có cần không
để quan tâm khi một mối tình đã thật sự có mặt, một
hạnh phúc với đầy những niềm vui đang có mặt? Bà Phương
rất ít nói và hiểu rất ít những gì tôi muốn nói,
nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi không hiểu nhau. Ngược
lại, chúng tôi hiểu nhau rất nhiều. Nhiều khi ngôn ngữ không
đóng vai trò chánh cho sự cảm thông. Có người nói một
khi mà người ta rất thương yêu nhau và lo lắng cho nhau từng chút
một thì sự thông hiểu nhau sẽ đi liền theo đó. Trường
hợp của chúng tôi thì đúng y như vậy. Không nói thì
bạn cũng biết, chuyện tình của chúng tôi không phải bắt
đầu bằng tiếng sét, tiếng sấm, hay bằng lời ngon tiếng ngọt
nào hết; nàng 62, chàng 66 thì đã qua rồi những thứ ấy;
mà nó đã bắt đầu bằng sự lo lắng của chúng tôi
dành cho nhau. Những tháng đầu khi mới quen nhau, chúng tôi đã
thật sự tương kính như đôi bạn già tri kỷ. Mỗi sáng
đúng 6 giờ tôi đã đến trước nhà bà Phương
cùng bà đi đến công viên gần đó để đi bộ.
Đi sớm để tránh nắng. Trước kia khi chưa có ông hộ pháp
là tôi làm bảo vệ thì bà Phương đi bộ rất trễ,
chờ khi có nhiều người nơi công viên, cho an toàn. Còn tôi
thì thú thật với bạn, trước khi gặp bà Phương tôi
không có thói quen đi bộ. Trời hè nắng sớm mà đi chỉ
mấy vòng thôi đã thấy khói ra lỗ tai. Ngày đông tháng
giá, khăn áo giày vớ mũ nón nặng nề, đi chưa tới góc
đường đã nhảy mũi khì khịt. Mấy cái đó tôi
sợ lắm. Nằm khoèo đắp chăn ngủ cho sướng, nướng cho đủ.
Nhưng, như bạn biết rồi đó, trên đời có những cái
còn sướng hơn ngủ, phải vậy hông, ông bạn trẻ? Ai bảo
walking là khổ? Walking với nàng sướng lắm chứ!!! Quen nhau gần bốn
tháng như vậy mà mỗi chúng tôi không ai bước qua khỏi khung
cửa nhà của mỗi người. Đi ba đồng bảy đỗi mỗi ngày
một tiếng đồng hồ rồi bà mở cửa vào nhà mình, còn
tôi thẳng bước về nhà tôi. Sau này tôi mới biết, theo tập
tục của dân tộc bà, lúc ấy tình thân của chúng tôi
chưa đến độ để người đàn bà góa chồng mời
một ông độc thân vào nhà, dù chỉ để mời một
ly nước mát. Nhưng có một hôm thì
nàng đã trải qua những đêm dài với chàng! Nghe có vẻ
hấp dẫn và rùng rợn quá bạn nhĩ? Hấp dẫn thì không
có đâu, mà rùng rợn thì có. Trở về từ cõi chết
dù chưa thấy cảnh hãi hùng của địa ngục a tỳ thì
khi sống lại cũng thấy tóc gáy của mình còn dựng ngược!
Hôm ấy khi tôi mở mắt thì đã thấy người đàn
bà ngồi trước mặt mình; hình ảnh rất nhạt nhòa nhưng
tôi cũng biết ngay đó là bà Phương. Tôi đã bất
tỉnh hơn mười tiếng đồng hồ sau khi bị đụng xe trong lúc
nhoài người đẫy bà Phương vào lề. Người thân duy
nhứt ở bên cạnh tôi tại bịnh viện suốt đêm hôm đó
là bà Phương. Cả một tuần sau cũng vậy. Người ta nói
đủ thứ về tôi, nào là anh hùng, nào là quên mình
để cứu người. Tôi thấy những điều này sai hết. Trong
lúc một thân người cứ băng qua lộ, không hề để ý
tới cái xe chẳng những không giảm mà còn có vẽ như tăng
tốc độ, thì tôi còn giây phút nào nữa mà nghĩ với
ngợi, anh hùng với tiểu nhân. Nằm tại bịnh viện một tuần
thì tôi về nhà với hai ống chân bó bột. Bà Phương
vẫn là người giúp tôi nhiều nhứt. Đến giai đoạn này
thì dù không nói chắc bạn cũng biết là bà Phương
đã lọt vào phía trong của cánh cửa nhà tôi rồi. Và
tôi, dù đang bịnh, vẫn còn đủ sáng suốt để hiểu
rằng tình bạn bấy lâu nay của chúng tôi đang bước sang một
ngả rẽ. Tôi cũng mang máng thấy rằng cái tập tục gọi là
tiết phụ gặp hoàn cảnh này đã thay đổi vài góc
độ cho hợp tình hợp lý. Cái tình, cái lý ở đây
thì đã khá rõ ràng: Chúng tôi chắc đã thương
yêu nhau từ hồi nào rồi, nay thấy tôi bịnh hoạn, một thân
một mình, chẳng lẽ thương nhau mà làm ngơ sao. Tôi
đâu có ngờ người đàn bà nhỏ nhoi ốm yếu, tuổi
trên lục tuần mà sức chịu đựng như một người khổng
lồ. Tôi không có nói ngoa đâu. Đỡ đần, chăm nom từng
miếng ăn, từng viên thuốc, từng ly nước…bà Phương làm
còn chuyên nghiệp hơn một y tá chánh cống, cả đêm lẫn
ngày. Đặc biệt những chén cháo thịt bầm nấu với gừng,
tiêu và hành lá làm cho cơn sốt của tôi tan mau; còn những
bữa cơm rau đậu, ngon mà đơn giản, ít dầu mỡ làm nhẹ
bụng và ngủ ngon. Sự có mặt của nàng với những chăm sóc
chu đáo, không nệ khó, với dáng vẻ dịu dàng, cử chỉ
chừng mực làm cho thế giới quanh tôi sáng lóng lánh như có
nạm vàng dát bạc. Khi nàng chuyện trò với con cháu, hay nói
điện thoại với người thân quen bằng những lời lẽ nhỏ
nhẻ, lên bỗng xuống trầm, tôi nghe như có tiếng chim hót trong
nhà. Có lẽ nhờ vậy mà tôi bình phục nhanh. Không biết
tôi có nên nói với bạn là tình yêu đã làm cho
tôi có thêm sức lực và thêm niềm vui để sớm vượt
qua cơn bịnh? Tình yêu đã thật sự có
mặt giữa hai chúng tôi. Tôi coi đó như là một niềm vui
và một hạnh phúc mà tôi đã chờ đợi từ lâu.
Nhưng đối với riêng nàng Phương của tôi thì đó
không phải là chuyện dễ. Bạn hãy nghĩ xem một người đàn
bà Á Đông đã có hơn ba thập niên thủ tiết nuôi
con, nay ở cái tuổi gần đất xa trời lại đi thêm bước
nữa với một người khác chủng tộc đâu phải là chuyện
dễ tính toán. Tôi biết người đầu tiên mà bà Phương
phải đối diện là tập quán phong tục của đất nước
bà, người kế tiếp là chính bà, rồi tới các con trong
một buổi họp gia đình. Cảm ơn Trời đất
mọi chuyện đều trôi chảy để từ cái ngày bà Phương
bán căn nhà dọn về nhà chồng thì căn nhà tôi đã
sống từ thuở thiếu thời bỗng trở thành một mái ấm. Hết
rồi cái thời tối ám, âm u, bừa bãi của căn nhà. Hết
rồi cái thời người đàn ông ra vào một mình một bóng,
sống ngày nay mà chẳng có một tính toán gì cho ngày mai.
Sống chung với nhau suốt thời gian qua tôi thấy mình có một đời
sống hoàn toàn khác trước. Một người đàn ông độc
thân làm sao tránh khỏi những tật xấu. Những đêm cuối tuần
khuya lơ ở các quán rượu đã mất đi. Mỗi ngày một
bao thuốc lá đã thành dĩ vãng. Tánh bừa bãi, hoang phí
không cánh mà bay đi đâu mất tiêu. Những viên thuốc cao
máu, cao mỡ trước đây thì bữa đực bữa cái, nay thì
người nội tướng của tôi nhắc nhỡ hàng ngày. Nhiều
khi có cả viên thuốc và ly nước trước mặt. Đi tiệc
tùng mà nàng của tui cũng không quên lận theo mấy viên Glucotrol!
Còn ba cái thứ Coke, Sprite hay Cake thì …cái thằng tui chớ có
dại mà lăm le trước đôi mắt của nàng. Chuyện ăn uống
của tôi cũng bị kiêng cử tối đa. Nhiều khi vui bữa với bạn
bè dùng nhiều thịt, nhiều bơ thì liền bị nhắc khéo. Tự
nhiên mà cái bắp vế nhói đau thì biết mình phải làm
gì rồi; không cần đợi cái thứ hai đau hơn. Nói chung thì
sức khỏe của tôi được vợ nhà chăm sóc tối đa,
làm tôi có ý nghĩ chắc đời trước tôi đã yêu
một bác sĩ mà không thành, nay thì...ố là la! toại nguyện!
Toại nguyện rồi bà con ơi! Hình như bạn
cho là tôi quá nhờ vã vào vợ mình? Bạn này kỳ! Vợ
mình mình nhờ chớ nhờ vợ người ta sao mà sợ! Hì hì!
Giỡn với bạn cho vui vậy thôi chớ bây giờ chúng tôi chỉ
có nhau thôi, không tựa vào nhau thì làm sao mà đứng vững.
Trước hết tôi là vệ sĩ trung thành nhứt của nàng. Nàng
đi bộ mỗi sáng, nàng đi chợ búa, nàng dạo bờ hồ,
nàng đi câu: Dạ bẩm nàng, có hạ tướng. Lâu lâu nhớ
cháu nội dưới phố xa, muốn đi thăm: Có gã lái xế
vô cùng tận tụy này. Ồ! vỏ xe bị xẹp rồi hả?: Có
qua đây cưng. Cái máy xe kêu khục khặc hay tới ngày thay dầu
mỡ: Có tui đây mình ơi! Có một chuyện thuộc loại phòng
the nói ra không biết có mang tội công xúc tu sỉ không, đó
là chuyện tui đấm bóp nàng hầu như thường xuyên. Bạn
thử nghĩ nếu nàng cứ mang bo bo cái tiết phụ khả phong của nàng
thì chuyện này ai mó tay vào được, họa chăng là vài
năm một lần khi nàng dành dụm tí tiền sang quê hương của
chàng Yao Ming làm mấy phùa mát-say mát-xiết cho đỡ ghiền.
Nói như vậy thì có thể bạn cho là chưa đủ hết
đâu, phải không? Còn đời sống tình cảm với nhau nữa
chớ! Chuyện này mà nói ra thì có khi là thừa. Nghe tôi thao
thao bất tuyệt từ nãy giờ bạn đã hiểu rồi mà. Chỉ
vắn tắt với bạn là chúng tôi tự thấy mình là đôi
uyên ương hạnh phúc nhứt trên trần đời. Phát ngôn như
vậy nếu có ai thưa thì chúng tôi vác chiếu đi hầu 3 tòa
quan lớn. Thương yêu, nhường nhịn, giúp
đỡ, chăm sóc, giữ gìn, quí trọng nhau …thì bạn thử
cho tôi một chữ gì khác ngoài chữ Hạnh Phúc đi, có được
không? Tới đây thì chắc bạn đồng
ý với tôi là hôn nhân dù là dị chủng hay đồng chủng
mà thiếu những cái trên đây thì Hạnh Phúc sẽ không
bao giờ có mặt. Vậy thì đặt ra là “Đồng”, là
“Dị” làm chi rắc rối cho cuộc đời vốn đã
có quá nhiều cái rắc rối. Cho nên ngôn ngữ bất đồng
cũng không phải là cái làm cho thiếu Hạnh Phúc. Hơn một
năm rồi vợ tôi có học thêm được một chữ Anh, chữ
Mỹ nào đâu mà Hạnh Phúc thì cứ theo năm tháng mà
tăng hoài.
Là Pung, là Chặt… hay là gì
đi nữa thì…thưa bạn, xin cho phép tôi nói với cái “House”
của tôi: “Honey, I love you!”
Trần Bang Thạch
TƯỢNG PHẬT
Khi người học trò cũ từ quê nhà trở lại
Houston trao cho tôi một bao thơ, trong có lá thơ thật dài của em gái
tôi và một tượng Phật Bà Quan Thế Âm, tôi thấy mình
choáng váng, muốn ngã quị. Đó là ngày gia đình chúng
tôi làm cái thất thứ hai cho má tôi, tức là mười bốn
ngày sau khi má tôi mất. Từ ngàn trùng tôi đã âm thầm
khóc và cầu nguyện cho vong linh má tôi được sớm về cõi
phúc. Bất ngờ nhận được tượng Phật, tôi nghĩ ngay rằng
má tôi chưa đi đâu hết mà đang đến với tôi. Má
muốn đem tượng Phật, đem cái may mắn đến cho tôi dù
má đã xa đời. Trời ơi, người con bất hiếu là tôi
đang biền biệt phương nào trong những giờ phút cuối đời
của má, để vong linh má phải đi tìm tới tận nơi nầy.
Còn nhớ hồi năm 2000 chúng tôi về thăm má tại quê nhà,
má đã lẫn nặng, lúc nhớ lúc quên, nói năng khó
khăn, thiếu đầu thiếu đuôi. Nhưng có một câu mà má
tôi cứ hỏi tôi hoài: “Không biết đến lúc má già
con có về được không?”. Mỗi lần nghe câu hỏi đó
tôi đã vuốt đôi vai gầy của má, thế cho câu trả lời,
vì nghĩ rằng xa xôi quá chỉ sợ về không kịp. Quả thật
là không kịp. Má tôi ngã bịnh nhanh quá, ra đi nhanh quá và
chôn cất cũng nhanh trước khi một năm mới sắp đến. Cũng
là lỗi của tôi, cứ nghĩ má còn ở với con cháu lâu
hơn nữa, cứ nghĩ vài tuần lễ nữa sẽ về, như lịch trình
đã xin phép ở sở làm, chắc còn kịp. Tôi đã không
về kịp thì hôm nay, qua tượng Phật, má tôi đã đến
với tôi. Má bao dung của tôi chắc không trách, nhưng tôi thấy
cái lỗi của mình quá nặng. Trên mười trang
giấy đầy chữ em gái tôi kể lể từng chi tiết một kể
từ ngày má trở bịnh cho đến giờ má nhắm mắt. Dòng
cuối, em tôi viết: “Đúng 8 giờ 15 tối ngày 28 Tết má đã
bỏ anh em mình mà ra đi!”. Tôi biết em gái tôi đã không
cầm được nước mắt khi viết câu nầy nên bức thư phải
chấm dứt ở đó, cũng như nước mắt tôi chảy nhiều
hơn mỗi lần tôi đọc câu ấy. Từ nhỏ cho tới
giờ em gái tôi chưa hề sống xa mẹ, cho nên bên nầy tôi buồn
một thì bên kia em gái tôi phải buồn mười. Mỗi lần nói
chuyện với tôi trên điện thoại, em tôi chỉ khóc và khóc.
Trên một tờ giấy nhỏ khác em tôi cho hay đã tìm thấy trong
mớ tập vở cũ của tôi cái tượng Phật đã được
để trong bao thơ với tên người nhận là tôi, nên em gởi
sang cho tôi. Bị run tay và mất trí nhớ từ vài năm nay, má
tôi chắc phải khó khăn lắm mới nhớ được và viết
ra được tên tôi với nét chữ ngoằn ngoèo và dán thơ
bằng cơm nguội. Chút cơm nguội khô còn dính trên bao thơ
cho biết lá thơ nầy má dán không bao lâu trước ngày má
mất. Má tôi trí óc đã lú lẫn mà ở những ngày
cuối đời vẫn còn nhớ tới đứa con ở xa. Còn đứa
con xa xôi nầy có bao nhiêu lần tưởng nghĩ tới má? Áp tượng
Phật vào tim mình, tôi nghe hơi ấm của má. Tôi chợt hiểu
rằng vĩnh viễn người mẹ luôn ấp ủ con cái của mình
dù mẹ có đi tới đâu, dù con đang ở một chân trời
góc biển nào. Và tôi cũng chợt nhớ rằng đã từ thật
lâu tôi đã quên hết những cử chỉ, lời nói thương
yêu đối với má. Bây giờ cầm tượng Phật trên tay, tôi
như đang thấy má, muốn nói “má ơi con thương má”
thì còn má đâu để mà nghe! Tượng
Phật Bà Quan Thế Âm bằng đồng chỉ nhỏ bằng ngón tay út
nhưng đối với má tôi nó trọng đại vô cùng. Tượng
đã ở trên cổ má từ những ngày má mới chào đời.
Má là đứa em gái út của 8 anh trai. Bà ngoại sanh má khi
ngoại đã 49 tuổi, sau 12 năm ngưng sanh nở và sau bao nhiêu lần
vào ra các chùa chiền, lăng miễu xin phật trời ban cho một đứa
con gái. Má thuật lại chuyện bà ngoại cùng với hai người
hầu gái một buổi chiều chạng vạng ghé cái miễu hoang nằm
bên bờ rạch nhỏ của con sông Kế Sách, sau khi cắm 3 nén nhang
vào kẻ hỡ ba cục đá trong miễu, ngoại thấy một vật sáng
trước mặt, ngoại cầm lên coi thì thấy đó là tượng
Phật Bà Quan Thế Âm nhỏ xíu. Hai người hầu gái trước
đó cũng làm như ngoại nhưng họ không thấy một đóm
sáng nào. Những miễu trong thôn ấp thường được dựng
lên sơ sài để thờ mấy cục đá coi như là thổ địa.
Nhưng miễu nầy lại có tượng Phật là điều lạ, ngoại
không dám lấy về dù trong thâm tâm rất muốn. Đêm đó
về nhà ngoại nằm mơ thấy có con bướm vàng bay vào bụng
ngoại rồi bay lộn trở ra. Ba đêm liên tiếp như vậy. Chuyện
ấy rồi cũng qua đi cho tới ba tháng sau thì mọi người bỗng
nhớ lại cái tượng Phật và con bướm vàng khi ngoại thổ
huyết nặng, ngoại ọc ra từng bụm máu tươi. Ông ngoại nghĩ
tới tượng Phật và cái bào thai không thành nên khuyên
mọi người nên trở lại cái miễu hoang ở Kế Sách để
cầu nguyện. Sau khi cắm 3 nén nhang vào kẻ hỡ 3 cục đá như
lần trước, bà ngoại và những người tháp tùng chờ
một nguồn sáng từ đâu đó trong miễu. Không có một
vệt sáng nào hết. Chờ một hồi lâu cũng không có gì
mọi người phải rời khỏi miễu vì đã quá khuya. Khi mọi
người đã an vị trong khoang ghe bầu thì ông ngoại mới nhớ
là đã để quên cây dù dưới gốc cây mù u bên
miễu. Đi chưa tới gốc mù u thì ông ngoại đã thấy một
đóm sáng thật nhỏ ở đoạn đường ngắn chừng xảy
tay giữa gốc mù u và cái miễu. Tưởng là con đom đóm,
thoạt đầu ông ngoại không chú ý; khi đến thật gần,
đóm sáng vẫn còn, nhìn kỹ thì đó là tượng
Phật Bà. Ông ngoại trở lại ghe kêu bà ngoại trở lên bờ
thỉnh cái tượng Phật. Bà ngoại không muốn lấy, ông ngoại
bảo đó là vật trời phật cho mình, không lấy thì ban ngày
ban mặt người trong làng cũng thấy và họ sẽ lấy thôi. Đem
về nhà, ngoại đeo tượng Phật vào cổ. Ba tháng sau thì
ngoại có mang. Đúng 10 tháng 10 ngày sau thì má mới ra đời.
Ngoại nói má là đứa con cầu tự. Ngoài cái tên cúng
cơm, ông ngoại còn gọi con gái là Trích Tiên, nàng tiên
bị đọa xuống dương trần để làm con nhà họ Lê của
ngoại. Về sau tôi cứ nghĩ cái tên Trích Tiên này đã
vận vào má suốt đời để má trở thành nàng tiên
mắc đọa quanh năm sầu khổ. Từ ngày có đứa con gái
út, ông ngoại tôi không còn cái tật rượu chè, trai gái.
Trong hai năm liền, ngoại tôi miễn hẳn việc thâu lúa ruộng của
cả mấy chục tá điền ở rải rác khắp vùng đồng
ruộng ở Bãi Xàu, Kế Sách, Vũng Thơm... thuộc tỉnh
Sóc Trăng. Còn bà ngoại thì đi khắp chùa chiền đình
miếu đem tiền bạc thóc gạo bố thí. Má tôi trở thành
con gái rượu của ông ngoại, được cưng chiều như trứng
mỏng, tối ngày không ngồi trên lưng ngoại thì cũng cỡi trên
vai 8 ông anh. Lúc bốn tuổi má tôi đã ngồi ghe bầu hay ngồi
ngựa với ông ngoại đi thăm các sở ruộng mênh mông. Ngoài
chuyện làng nước, tối ngày ông ngoại lẩn quẩn ở nhà
chơi với con gái. Lúc má tôi được hơn 5 tuổi thì bà
ngoại tôi trở bịnh nặng rồi mất. Ông ngoại tôi buồn bã
trở lại rượu chè và mất sau đó không lâu. Trước
khi mất ông ngoại tôi nhờ vợ chồng người bạn đồng liêu
làm hương chủ ở Cần Thơ đem má tôi về làm con nuôi.
Đi đưa má tôi về làm con nhà họ Nguyễn có bầu đoàn
thê tử của cả 8 ông anh ngồi chật cả chiếc ghe chài mấy
trăm giạ có mui và có giàn hát máy hát suốt đoạn
đường sông. Đi kèm theo ghe lớn còn có hàng chục ghe nhỏ
của những tá điền, làm rộn rã những khúc sông đoàn
ghe đi qua. Má tôi được đưa về làng Thường Đông,
cách quận Cái Răng hơn một giờ chèo ghe cùng với bốn cái
rương gỗ to cẩn xa cừ và tượng Phật Bà trên cổ. Hôm
đó ông bà ngoại nuôi mở đại tiệc mừng có đứa
con gái nuôi. Gian nhà khách to lớn cùng cái rạp che lá dừa
trên sân phơi lúa rộng hàng trăm chiếc đệm chật ních
người, có cả quan cai tổng và quan bố chánh về dự. Đờn
ca hát xướng 2 đêm 3 ngày liền. Một con lân trắng, một con
lân đen và bốn ông địa thay nhau múa suốt buổi. Trống lân
vang dội tới cuối làng. Xác pháo đỏ ngập sân. Sau nầy
má nói tuy mới 6 tuổi nhưng hôm đó má buồn khóc như
mưa, mấy ông lân và mấy ông địa làm đủ trò cho
má cười, nhưng má chỉ có khóc, má chỉ muốn theo các
ông anh trở về nhà cũ. Trước đó hai năm, Cậu Hai tôi
cũng được đem về làm con nuôi từ một gia đình ở
Cái Côn vì ông bà ngoại nuôi tôi có nhiều ruộng đất
mà không có mụn con nào. Sau đó cũng nhờ có cậu Hai lúc
nào cũng chơi đùa bầu bạn nên má cũng nguôi ngoai. Rồi
má cùng cậu Hai đi học trường làng rồi trường quận.
Khi cậu Hai đi học ở chợ Cần Thơ thì má ở nhà để
ngoại dạy công dung ngôn hạnh, chờ đến khi lấy chồng. Má
nói má bớt cô đơn cũng nhờ cái tượng Phật, má
như thấy mẹ ruột lúc nào cũng ở bên cạnh mình, vỗ
về, an ủi. Má nói đó là vị thần hộ mạng của má.
Còn tôi thì từ ngày còn nhỏ đã coi tượng Phật chính
là má tôi. Tôi nhớ khi đã sáu bảy tuổi rồi mà
tôi vẫn thích nằm trong lòng má, tay mân mê tượng Phật
má lúc nào cũng đeo trên cổ, gọi má là Phật Bà.
Má tôi thì gọi tôi là Na Tra bởi lúc nhỏ tôi là thằng
bé mũm mĩm, đầu chừa ba vá cho tới khi biết mắc cỡ khi tắm
sông ở truồng. Năm tôi lên chín tuổi thì ba tôi có vợ
hai. Vào một ngày mưa giông tầm tã, sau lần nói chuyện với
ba tôi mà trong đó má tôi khóc nhiều hơn là nói, má
tôi rời nhà chồng ở Xẽo Môn cùng với hai anh em tôi, đem
theo mấy bộ đồ và món nữ trang duy nhứt là cái tượng
Phật Bà. Trước khi rời nhà chồng, má tôi bắt tôi cùng
với má vào nhà từ đường lạy khắp nơi có bàn
thờ, rồi lạy ông bà nội mỗi người bốn lạy coi như là
mẹ con tôi xin được ông bà tha cho tội bất hiếu, đã
không thể ở đây để thờ phụng ông bà. Tôi không
quên được con đường đất trơn trợt từ Rạch Xẽo
Môn dẫn tới chợ Bang Thạch nằm trên liên tỉnh lộ 4. Người
đàn bà yếu ớt vừa mới sanh con hơn hai tháng, từ nhỏ chỉ
biết may vá thêu thùa, bánh mứt, chưa một lần rời khỏi
đôi guốc, đôi dép; bây giờ phải bồng con nhỏ vừa khóc
vừa đi như chạy dưới mưa, chân trần bấm từng tấc đất
để khỏi bị té. Lúc bắt đầu học làm thơ hồi 14
tuổi, bài thơ đầu tiên của tôi nói về suối nước
mắt của má đã đổ xuống nhiều gấp trăm ngàn lần
nước mưa của cả bầu trời quê nội hôm đó, suối
nước mắt để khóc cho thân phận mình. Hôm ấy tuy còn
nhỏ, té lên té xuống, mà tôi đã biết dìu má và
biết nhìn tượng Phật trên cổ má khấn thầm
cho trời đất thương mẹ con tôi mà chấm dứt cơn mưa để
mẹ con tôi bớt khổ. Tới quốc lộ, bên trái là về Cần
Thơ với cha mẹ nuôi, bên phải là về Sóc Trăng với các
anh ruột, má tôi cuối cùng lên xe về hướng Sóc Trăng, rồi
dừng lại nửa đường. Sau nầy tôi mới biết là má không
muốn bất cứ người thân nào của hai bên ngoại biết hoàn
cảnh gia đình bất hạnh của má, số phần của má thì
chỉ có má là người nhận chịu, nên khi xe đò Cosara ghé
trạm kiểm soát ở ngả ba An Trạch thì má bồng con xuống xe,
đón xe bò đi rẽ vào một sóc Miên cách quốc lộ vài
cây số. Vào một ngày mưa gió, với một
đứa con đỏ hỏn trên tay và một đứa lúp xúp vừa
chạy vừa té, má đã can đảm chấp nhận ngả rẽ cho duyên
phận của mình, thì từ đây con đường đời của má
cũng dẫy đầy những ngả rẽ, những khúc quanh, những ghềnh
thác mà má một đời phải chịu đựng. Khúc quanh lớn
nhứt trong đời má chắc chắn phải là việc ly hôn khi tuổi
đời chưa tới ba mươi, ở cái thời buổi xã hội coi đó
là một điều không chấp nhận được, nhứt là miệng
đời chỉ kết tội cho người đàn bà. Họ có thói
quen cho rằng người đàn ông có thể năm thê bảy thiếp,
còn gái chính chuyên thì chỉ một chồng. Trước mắt nhiều
người, thời buổi đó mà má tôi không chịu cho chồng
mình có vợ bé mới là điều kỳ cục! Nhưng khi má
tôi đã dắt con rẽ vào một sóc Miên toàn là người
xa lạ thì người đàn bà tiểu thơ bất hạnh ấy đã
có một quyết định cho đời mình. Đó là tham gia phong trào
kháng chiến đang rầm rộ nổi lên ở khắp vùng Nam bộ. Người
ta nói tới việc đuổi Pháp, việc chống xâm lăng, nói tới
tự do, độc lập, dân chủ, hòa bình, cơm ăn áo mặc;
nhứt là khẩu hiệu giải phóng người phụ nữ khỏi áp
bức, giải phóng người nông dân khỏi bóc lột bởi nạn
cường hào ác bá. Chánh trị hay chủ nghĩa nầy nọ thì
má tôi đâu có hiểu gì, nhưng má nghĩ tới mình rồi
nghĩ tới hàng ngàn những phụ nữ như má, nghĩ tới cả
trăm ngàn những thân phận đàn bà hẩm hiu trong những góc
tối gia đình phong kiến. Cách mạng đối với má chỉ đơn
giản như vậy, không dài dòng Engel Karl Marx Đệ Tứ Đệ Tam
hay Nam Tào Bắc Đẩu gì hết. Má hăm hở tham gia hội Phụ
nữ Cứu quốc vì chính cái ý nghĩa cao đẹp của các
từ ngữ này, hơn là những gì khác nằm sau lưng của nó.
Má tôi không phải là cán bộ cốt cán vì có gốc
là thành phần tiểu tư sản, nên lúc nào cũng làm phó
và cho đến ngày ngưng bắn tháng 7 năm 1954 má vẫn là dự
bị đảng viên. Má tôi không màng chuyện đó. Chánh
yếu là trong kháng chiến má tôi đã dạy hàng ngàn người
đàn bà, trẻ con, người lớn nơi các vùng sâu biết
đọc biết viết, biết địa vị con người của mình dù
phải sống dưới bất kỳ hoàn cảnh nào; đặc biệt đi
đến đâu má tôi cũng nói với người phụ nữ về
quyền bình đẳng đối với nam giới, quyền làm vợ, quyền
làm người. Má tôi không ra mặt trận, nhưng những thương
bịnh binh ở cả hai bên từ mặt trận đưa về, má tôi đều
săn sóc chu đáo. Không ai tưởng tượng được tại vùng
giải phóng ở Trà Lồng có người nữ cán bộ vừa băng
bó vết thương cho thằng Tây Ma-Rốc rạch mặt, vừa nói chuyện
với nó bằng tiếng Tây. Có những thằng Tây tù binh non choẹt
kể cho má tôi nghe nỗi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ nhà, nhớ người
yêu. Nó khóc, má tôi dỗ nó như đứa con nít. Mẹ
con chúng tôi theo cơ quan đi khắp khu 9 miền Tây Nam bộ. Bao nhiêu nguy
hiểm như có mặt hằng ngày với má, nhứt là khi má đi
công tác vùng ven. Một lần trốn dưới một bàu bông súng
ngay sát con lộ đám lính Tây đang ruồng bố, má tôi ngậm
tượng Phật Bà và thầm nguyện Phật Bà cứu độ. Nhiều
lần như vậy, má tôi đều thoát. Chuyện nầy khi người
nữ thủ trưởng của má tôi biết được, bà bắt má
tôi phải không được tin những điều nhảm nhí như vậy.
Còn cái tượng Phật mà má tôi đeo, theo họ, chỉ làm
mất bản chất của người cách mạng, cũng không được
đeo. Má tôi nhứt quyết không nghe. Sau đó má tôi nhiều
lần bị hạ từng công tác, cuối cùng chỉ còn nhiệm vụ
là lo cơm nước, lo nuôi heo, gà cho cơ quan. May mắn là mỗi tối
dưới ánh đèn mù u má tôi còn được dạy mấy
lớp bình dân học vụ mà đa số học viên là trẻ con
chăn trâu mướn và phụ nữ quần thô áo vá. Má nói
làm được như vậy là đã quá đủ cho cái gọi
là lý tưởng của má rồi. Rất đơn giản, má tôi
nói cách mạng là làm cho các trẻ chăn trâu ngồi trên
chính con trâu của mình và biết ê a đọc sách; là làm
cái áo cái quần của người đàn bà lành lặn để
ngước mặt mà đi tham gia việc làng việc xã. Tôi nhớ lúc
phong trào chống Bảo Đại trong vùng kháng chiến, với bức tranh
vẽ Vua Bảo Đại mắc câu, có một ông gì lớn lắm nghe
nói từ trung ương ghé qua cơ quan mở hội nghị với các cán
bộ cốt cán toàn khu Tây nam Bộ. Xong hội nghị, ông ra tận sàn
nước dưới bến sông, nơi má tôi đang rửa một đống
nồi ơ, chén bát, nói chuyện với má thật lâu, rồi bỗng
nhiên tôi thấy má quày quả bỏ đi, người đại cán
đứng ngẩn người một lúc, vỗ mạnh vào cái xắc cốt
bằng da bò láng bóng mang bên hông, rồi mới hậm hực bước
xuống xuồng chèo, rời khỏi cơ quan. Sau đó tôi có hỏi,
má nói vẫn là chuyện cái tượng Phật và những lời
đe dọa của một người có tánh lăng nhăng mèo mã gà
đồng. Má nói má ghét cay ghét đắng những người như
vậy, nhứt là những ai đụng chạm tới cái tượng Phật
của má. Cái tượng Phật nhỏ xíu như vậy
mà đã làm cho má xấc bất xang bang suốt mấy năm trong vùng
kháng chiến. Cho tới một ngày sau Hiệp Định Genève 1954
má trở về làng Thường Đông nuôi bịnh mẹ thì
tai nạn mới hết.
Những năm tháng còn sống trong
gia đình, cứ mỗi lần sắp đưa ông táo về trời là
tôi có bổn phận đánh bóng tất cả mấy bộ lư đồng,
thích nhứt là được tỉ mỉ đánh bóng tượng Phật
trên sợi dây chuyền của má. Tôi tẩn mẩn dùng bông gòn
hay sợi chỉ thấm dầu bóng lau từ những kẻ ngón tay nhỏ bằng
sợi tóc cho tới từng nếp áo, từng giọt nước cam lồ chảy
ra từ cái bình nhỏ bằng hột gạo. Mỗi khi đánh bóng xong,
tôi muốn được má khen và muốn tự mình đeo tượng
Phật vào cổ má, để thừa dịp má không để ý,
hun má một cái chụt rồi chạy mất. Còn nhớ năm đầu
vào đại học trên Sài Gòn, má tôi đeo tượng Phật
vào cổ tôi, nói là để được may mắn. Tới năm sau
thì tự nhiên tôi cảm thấy mắc cỡ với đám bạn bè
sinh viên của Sài Gòn hoa lệ, vì nghĩ rằng đàn ông con
trai mà mang dây chuyền dây cổ với cái tượng Phật sao có
vẻ quê mùa tỉnh lẻ quá, nên tôi trả về cho má. Càng
lớn, đi học xa, rồi đi làm xa, tôi càng ít nghĩ tới
tượng Phật. Tôi không nhớ là đã bao nhiêu năm tôi
không còn nghĩ tới tượng Phật nhỏ xíu ấy nữa. Hai mươi
bốn năm ở xứ người, hình như tôi đã quên phứt
cái tượng Phật mà hồi nhỏ tôi gọi là Má. Cũng quên
luôn mình đã từng được má thương yêu gọi là
Na Tra. Có lẽ tôi cũng ít khi nghĩ tới sẽ có một ngày
rất gần mình phải mồ côi mẹ. Hôm
nay thì tượng Phật đang áp sát trên ngực trái của tôi,
ướt sũng những giọt nước mắt.
Trần Bang Thạch
CHẤP CHỚI BÀN TAY MẸ
Trong một tấm hình trên báo, bé
Jordan gợi cho ta hình ảnh một tàn binh đang lang thang trên trận địa
hoang tàn sau trận đánh long trời lở đất.
Chiếc mũ lưỡi trai nhà binh trên đầu, cái bình đựng
nước bên hông, một cây gậy trên tay, thằng bé sáu tuổi
nầy đang khập khiễng chui qua những thân cây ngã, lội qua những
con lạch, bước qua những mãnh tôn, những gỗ ván gạch đá,
rác rưỡi. Cả một vùng rộng lớn nầy với đầy chướng
ngại sau trận cuồng phong hai hôm trước hình như không một nơi
nào thiếu bước chân của bé Jordan. Suốt một ngày trời,
bé Jordan đã thấy hằng ngàn cây nhỏ, cây to đứt ngọn,
những tấm tôn quấn quanh các thân cây như tấm giấy thiếc
bọc chiếc hotdog. Khóm cây pecan sau nhà mà Jordan thường leo trèo
nay chỉ là những thân cây cụt ngọn, còn sót những cành
treo lủng lẳng như những cánh tay gãy. Giữa những hoang tàn đỗ
nát đó, bé Jordan đã tìm lại được nhiều thứ
lắm. Trước hết là chiếc xe hơi của mẹ. Chiếc xe bị đè
dưới một thân cây to, mui xe dẹp gần tới tay lái, các cửa
kính đã bể nát. Một bức ảnh trên báo chụp Jordan đang
đứng trên cái thùng gỗ để đủ cao nhìn vào bên
trong cửa xe. Chiếc xe nầy từ bao năm nay, dù mưa giông, dù nắng
gió, mẹ đã đưa đón Jordan từ những năm nhà trẻ
cho đến nay là năm Jordan học lớp một. Chiếc xe nằm đây mà
mẹ thì đâu rồi! Cây gậy đánh khúc côn cầu của
Jordan nằm chơ vơ bên chiếc thùng phuy móp méo cạnh khung gỗ
của cái sofa. Ðôi găng tay chơi banh thì vắt vẻo trên một
nhánh cây cao. Và chiếc xích đu. Chiếc xích đu mẹ đã
mất trọn một tuần nghỉ phép để cưa, để đục, sơn
phết, rồi hì hục leo lên cây sồi trước nhà máng hai sợi
dây xích vào một nhánh to. Sau đó gần như mỗi năm, mẹ
lại hì hục trèo lên nhánh cây để thâu ngắn hai sợi
dây xích theo chiều cao lớn của Jordan. Chiếc xích đu bây giờ
nằm lăn lóc trong vũng nước cạn, lấm lem bùn sình. Cái
màu đỏ tươi của những miếng ván đã bay đâu mất.
Bé Jordan nhớ lắm cái ngày bé nằng nặc đòi mẹ phải
thay màu cam bằng màu lục; rồi ít lâu sau Jordan lại khóc lóc
đòi mẹ thay màu lục bằng màu đỏ. Mỗi lần như vậy
mẹ đã phải tháo gỡ cái đu xuống, dùng giấy nhám
đánh đi từ những mãng sơn nhỏ trên mấy miếng gỗ, rồi
tỉ mỉ sơn lên màu khác. Mẹ vừa làm vừa hát những
bài hát thật vui. Mẹ nói mẹ muốn chính mẹ tự tay làm
cái xích đu nầy cho Jordan, theo ý thích của Jordan. Jordan không thể
hiểu mẹ muốn nói gì, lúc đó. Nay thì cái xích đu
đã bay xa khỏi thân cây cổ thụ mà Jordan vẫn chỉ hiểu lờ
mờ ý nghĩa câu nói của mẹ. Jordan cũng tìm thấy mấy bức
ảnh gia đình. Có một bức chụp mẹ và Jordan đang xích đu,
chân mẹ đong đưa, một tay mẹ quàng cổ Jordan, một tay mẹ cầm
quyển truyện nhi đồng đang mở rộng. Jordan nhớ quá những buổi
chiều mẹ con say sưa hay buồn vui ngậm ngùi theo từng chuyện cổ tích.
Những cánh chim trên cành cao như cũng ân cần góp chuyện. Lạch
nước kế bên miên man chảy, hình như không bao giờ ngưng những
tiếng róc rách, thầm thì. Lòng của Jordan hình như lúc nào
cũng ấm vì hơi thở của mẹ miên man phả chung quanh cho dù Jordan
đang ở trường hay đang chạy chơi nơi một góc vườn hay một
góc phố. Còn tiếng nói của mẹ hình như lúc nào cũng
róc rách, thầm thì bên tai, ân cần, ngọt dịu, thương yêu,
trìu mến. Mẹ là cả một thế giới riêng của Jordan.
Mẹ Kara từ hồi nào đã là con lạch nước bên nhà,
là cây sồi cổ thụ trước nhà, là cả một vườn
pecan rợp bóng sau nhà, là chái nhà, là góc bếp. Căn mobile
home nhỏ nhoi như một túp nhà chòi nhưng đầy tiếng cười,
giọng hát của hai mẹ con. Mẹ thấp thoáng trong dáng dấp những
bà tiên hiền từ mẹ đã kể cho Jordan nghe trong những đêm
hai mẹ con ôm nhau nghe mưa rầm rì trên mái tôn, hay những buổi
chiều êm ả hai mẹ con tay trong tay đi dưới vòm pecan cao nghệu. Mẹ
là vòng tay ôm, là hơi thở ấm. Vậy mà bỗng chốc mẹ
hoàn toàn biến mất. Mẹ đã biến mất hoàn toàn. Jordan
không thể nào tin được điều ấy. Chẳng lẽ sau một cơn
lốc dữ mẹ cũng biến dạng như cả một rừng cây nầy, như
căn mobile home nầy, như cái xe móp méo kia? Hay mẹ vốn là một
bà tiên, giữa cơn phong ba đã bay về cõi khác? Không. Chắc
chắn mẹ đang ở quanh đây. Mẹ Kara thương yêu Jordan lắm mà.
Mẹ sẽ không bỏ Jordan mà đi đâu hết. Mẹ đang thất lạc
ở một nơi nào đó, hay đang bị kẹt dưới một gốc
cây to. Mẹ. Mẹ. Mẹ. Jordan đã trăm ngàn lần gọi mẹ suốt
một ngày nay, gọi khan cả tiếng, gọi nát cả tim, gọi bong cả
phổi. Jordan đã nằm bịnh viện mấy hôm nay để được
băng bó ba cái xương sườn gãy, được chửa trị cái
chân sưng vù và cái lưng đầy vết trầy trụa. Ðây
là lần đầu tiên trong đời Jordan thiếu mẹ bên cạnh khi Jordan
đau ốm, nhất là khi phải nằm bệnh viện. Vừa ra khỏi bịnh
viện sáng nay, Jordan đã nói với bà ngoại , “Chúng ta phải
đi tìm Mẹ”. Rồi với đôi giày bố và cây gậy,
cái mũ và bi-đông nước, Jordan đã khập khiễng trở về
căn nhà giờ đây chỉ là một đống ngổn ngang những tôn,
những ván giữa những thân cây gãy ngọn. Nơi trú ngụ đã
không còn, chắc mẹ đang lẩn quẩn đâu đây. Jordan nhớ
rõ lắm mà: Mới ngày hôm kia, trong cơn lốc xoáy dữ dội,
căn mobile home rung rinh như cành cây bị gió giật trên cao. Các cửa
kính đã bể hết. Mẹ đã ôm chặt Jordan. Rồi mấy miếng
tôn trên mái lần lần bay mất. Khoảng trống trên đầu là
mưa, là gió, là sấm, là sét. Một cành cây lớn đã
rơi ngay giữa phòng khách. Mẹ càng ôm Jordan chặt hơn, thân người
bé nhỏ của mẹ như cố trùm phủ Jordan, chở che Jordan khỏi trăm
ngàn mảnh vụn bay loạn đả từ tứ phương tám hướng.
Tường nhà kêu răng rắc như cũng sắp bay đi. Trời tối thui
nếu không có những tia chớp trên nền trời. Mẹ con lần tìm
lối đi vào phòng tắm, chỗ duy nhất trong nhà còn một chút
mái che. Mẹ túm tất cả mấy cái khăn lông trùm đầu
và quấn quanh mình Jordan. Hai mẹ con tay chặt trong tay cùng cầu nguyện.
Gió vẫn đánh sầm sập chung quanh. Tiếng bay vun vút của những
cành cây gãy, những tôn, những ván , những cát, những đá....càng
làm cho Jordan lạnh run thêm. Có một khắc giây nào thật là
ngắn Jordan cảm thấy thân mình như được nhấc bổng, đôi tay mình nắm một khoảng
hư không chớ không phải là đôi bàn tay ướt sủng của
mẹ. Jordan chỉ thực
sự thấy mất mẹ khi được chú Jim hàng xóm kéo lên
từ con lạch gần nhà. Vừa
thất thểu đi tìm mẹ, bé Jordan cứ nói với những người
bé gặp trên đường, “Phải chi mình nắm tay Mẹ chặt
hơn nữa, chặt hơn nữa”. Bé vừa khập khiễng đi vừa
nói, “Phải chi...Phải chi ....” Bé Jordan bây giờ là một
kẻ mộng du trên vùng đất vừa quen thuộc vừa lạ lùng, ác
độc.
xXXx
Em Jordan thương quí,
Mấy hôm nay anh có theo dõi cơn thần phong ở Oklahoma qua truyền hình
và báo chí. Anh biết đó là một cơn lốc dữ dội có
cây ngã, có nhà cửa bị cuốn đi, có người chết và
mất tích. Thực tâm anh có thương cảm cho các nạn nhân,
có, nhưng không nhiều. Cho đến hôm nay được nhìn mấy
tấm ảnh của em trên tờ báo địa phương và được
đọc một bài báo ngắn về em, anh đã xúc động thật
nhiều. Anh như thấy trước mặt mình đứa bé sáu tuổi
ở cái thị trấn Bridge Creek xa xôi, lạ hoắc kia là một biểu
tượng tuyệt vời, đầy ý nghĩa đối với anh.
Jordan ơi, em có muốn biết anh là ai không? Anh là người đang
muốn được là em bây giờ đó. Anh đang muốn là đứa
bé con sáu tuổi luôn nghĩ rằng mẹ mình đang bị lạc đường
để suốt ngày lang thang tìm mẹ, suốt ngày chơi trò trốn
tìm cùng mẹ. Thật là hạnh phúc cho em khi em không tin lời xác
nhận của người giảo nghiệm tử thi. Lão nói gì mặc lão.
Bà ngoại Mary, dì Susan, cậu Steve, chỉ là những người mau nước
mắt thôi. Bà Dì Darlene còn nói lằng nhằng nào là từ
nay Jordan phải ở với Ngoại, nào là Jordan phải nghe lời Ngoại....
Jordan thấy những lời nầy sao lạ tai quá! Mẹ Kara của Jordan chắc đang
ở một nơi nào đó. Trên một tầng mây cao, hay một chân
đồi thấp. Ở đâu thì Mẹ Kara vẫn kề cận bên em đó
Jordan ạ. Em là người con xứng đáng được mẹ thương
yêu cận kề. Còn anh, Jordan biết không, anh ước muốn được
trở lại cái tuổi ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng như em, như
hằng trăm ngàn trẻ thơ khác được mẹ ấp ủ trong lòng,
được nói với mẹ muôn lời thương yêu. Ước muốn,
có nghĩa là trong thực tế anh đã qua rồi cái tuổi ngây
thơ của em. Hai mươi sáu năm làm người (hay nói cho đúng
là hai mươi sáu năm có mặt trên đời), anh đã có
tám năm làm người con bất hiếu, anh đã có quá nhiều
tội lỗi đối với mẹ; khi nhận biết điều nầy thì mẹ
đã không còn nơi cõi thế nầy cho anh nói lời xin lỗi hay
bày tỏ một cử chỉ yêu thương, và ôm mẹ mà nói
rằng: Mẹ ơi con thương Mẹ vô cùng. Jordan à, chuyện
của anh thì buồn lắm, anh không định kể cho em nghe vì không
muốn em lây cái buồn của anh. Nhưng anh nghĩ rồi đây sau những
ngày lặn lội đi tìm mẹ, sẽ có lúc em cảm thấy buồn.
Và anh cũng biết một ngày nào đó em sẽ buồn lắm, buồn
vô cùng tận. Nghe chuyện buồn của anh có thể làm em bớt buồn
chăng, vì em biết có một người lạ hoắc lạ huơ ở một
nơi xa xôi nầy đang muốn cùng em chia sẻ nỗi buồn mất mẹ,
nỗi buồn lớn nhất của một đời người đó em.
Nói chuyện với em cũng là một cái cớ: anh đang nói với
chính mình, đang mượn những lời nầy để mong làm dịu
bớt nỗi buồn của mình. Cho
nên em đừng nên cảm thấy xốn xang khi em không thể hiểu
hết những điều anh nói, nhe em.
Tấn thảm kịch hình như chỉ thật sự bắt đầu
tám năm trước khi anh vừa xong trung học và quyết định theo đại
học tại một trường cách xa nhà hơn ba giờ lái xe.
- Như vậy là con thật sự muốn sống xa gia đình ? - Con đâu có
nói như vậy. Con chỉ muốn đi học trường con thích thôi.
- Hay là mẹ con mình dời đến thành phố đó ở cho
tiện ? - Con thấy không
cần thiết đâu. -
Nếu má thấy cần thiết thì sao ?
- Còn nhà cửa, việc làm của má ở đây ?
- Ðối với má, có cái gì trên đời nầy quí
hơn con của má, hả con ? -
Má tính sao cũng được hết.
Thâm tâm anh là muốn có một đời sống tự do không
bị dòm ngó, ràng buộc; mà mẹ anh thì hình như lúc
nào cũng dòm, cũng ngó, cũng nhắc nhở, hỏi han, cũng ngăn
cái nầy, cấm cái nọ... nên anh đã nói dối một cách
rất tài tình : - Má
cứ ở đây. Có gia đình bên cạnh học hành khó khăn
lắm. Vài tuần con sẽ về một lần.
- ... Từ đó anh như
con chim chưa đủ lông, đủ cánh nhưng sớm sổ lồng, nên
đã bước những bước chuệnh choạng, nghiêng bên nầy, ngã
bên kia, lắm lúc lạc phương, lạc hướng. Bắt đầu năm
học thứ hai anh đã có một vài lầm lỗi cá nhân trầm
trọng. Tuy ở xa nhưng với giác quan thứ sáu của người mẹ,
mẹ anh đã có vài lần dạm hỏi anh về chuyện nầy chuyện
nọ. Sau nầy em sẽ biết là khi ta có một lỗi lầm nào đó,
ta ít khi muốn gặp gỡ hay chuyện trò với những người thân,
những người hằng quan tâm đến ta, nhất là cha mẹ ta. Cụ thể
là càng ngày anh càng thấy xa mẹ, thấy mất dần những sự
ràng buộc gia đình. Anh ít khi điện thoại về nhà. Những
lần về nhà cũng càng ngày càng thưa. Mẹ anh thì vẫn đều
đặn gọi anh mỗi tuần đôi lần như từ trước. Không
gọi được ban ngày, mẹ gọi anh khi nửa đêm hay lúc một
hai giờ sáng để mẹ được an tâm. Số lần mẹ nhắn
tin trên máy nhiều gấp trăm lần mẹ con trực tiếp nói chuyện
với nhau. Mẹ anh thì chỉ có thể lái xe loanh quanh vài dặm từ
nhà đến chỗ làm, đâu có lái được trên xa lộ,
nhất là lái đường xa vài trăm dặm, nên họa hoằng lắm
mẹ mới quá giang người quen đi thăm anh. Vài lần mẹ đi không
rồi về không vì không gặp con. Hình như những lúc đó
anh bận những gì khác, không phải là bận chuyện sách đèn
trường ốc. Nhưng khi mẹ hỏi, anh chỉ có thể trả lời là
bận học cho an ổn mọi bề.
Tình trạng cứ như vậy mà kéo dài cho đến hết niên
học thứ tư là năm anh đỗ bằng cử nhân thương mại,
ngành quản trị xí nghiệp. Lúc bấy giờ mẹ anh đã muốn
trực tiếp can thiệp vào công việc của anh, điều mà từ lâu
anh đã không bằng lòng. Cho nên chẳng những không về gần
mẹ như mẹ muốn mà anh còn đi xa hơn, tới một tiểu bang khác,
lấy cớ là có được một việc làm lương cao, giờ
giấc không bị bó buộc nên thuận tiện cho việc tiếp tục
học để lấy bằng cao hơn. Anh nhớ như in cái khắc giây ngay
sau khi mẹ nghe anh tính toán như thế: lưng mẹ đang cong oằn trên
cái bàn may máy, đầu mẹ cố ngẩng lên nhìn anh đang đứng
cao lêu nghêu kế bên, miệng mẹ mở rộng mà không nói lên
được tiếng nào. Anh thấy rõ đôi mắt mẹ đỏ lên
sau đôi tròng kính lão, và hai hàng nước mắt. Jordan ơi,
hai hàng nước mắt, hai hàng nước mắt của mẹ đêm hôm
ấy, bây giờ là hai con trốt xoáy trong lòng anh mãi cho đến
suốt đời. Vài ngày
sau anh khăn gói đi nhận việc ở tiểu bang xa. Sáng hôm đó,
trước giờ ra sân bay, mẹ còn cẩn thận nhắc anh nhớ đem theo
các giấy tờ cần thiết và cái túi nhỏ mẹ để sẵn
những thuốc men trị bịnh thông thường. Mẹ đứng ngay cửa tiễn
anh đi. Anh đã bước qua khung cửa, chỉ kịp nói với mẹ: con
đi. Vỏn vẹn hai chữ ấy. Và không có một cử chỉ thân
yêu nào. Anh nghe tiếng khóc của mẹ sau lưng. Ði làm
xa nhà, chi tiêu nhiều, đồng lương có cao nhưng anh có giữ
lại được bao nhiêu đâu. Mẹ anh vẫn ngày ngày đi quét
dọn mấy tòa biệt thự gần nhà, đêm đêm thức đến
khuya lơ khuya lắt bên chiếc máy may, bên đống áo quần vải
vóc. Một mình một bóng.
Jordan ơi, một đồng lương của anh đã chưa nằm trong túi
mẹ, cái bằng MBA anh chưa có trong tay mà anh đã vĩnh viễn mất
đi người mẹ của anh rồi !
xxXxx
Con trai yêu của má,
Má không biết
phải bắt đầu từ đâu và phải ăn nói thế nào để
con còn có thể đọc tiếp lá thư nầy. Má nhớ mẹ con
mình hơi khó chuyện trò với nhau vì má vốn ít học,
ăn nói luộm thuộm, rầy trách không có căn cứ mà diễn
tả lại không rõ ràng, nên ít khi mình đưa câu chuyện
đến bờ đến bến; thường thì má đành yên lặng,
tiếp tục việc may vá, còn con thì hoặc lớn tiếng với má
bằng lý nầy lẽ nọ hay không nói gì hết, không nghe gì
hết mà chỉ việc bỏ đi. Nghĩ cũng kỳ: mẹ muốn bàn chuyện
với con mình mà phải chờ cơ hội, phải thế nầy, thế nọ,
phải chuẩn bị kỹ lưỡng những lập luận, phải ăn nói
tế nhị, mềm mỏng để không chạm tự ái con, phải biết
tiến, biết thối... Cho nên có biết bao nhiêu chuyện má muốn
nói với con mà nào có cơ hội, trong đó có chứng tức
ngực thường xuyên từ vài năm nay của má, mà nếu có
cơ hội liệu má nói với con được bao nhiêu và con nghe má
được bao nhiêu. Trên cái xứ lạ quê người nầy chỉ
có hai mẹ con mình là gần gũi nhất, mà không thường được
chuyện trò vui vẻ với nhau thì chắc không có nỗi bi đát
nào hơn phải không con? Ở những ngày tháng gần xa con vĩnh viễn
như bây giờ má thấy má muốn nói với con vài điều,
kẽo má không còn dịp nào nữa. Mà không nói với con
được những điều nầy thì khi chết làm sao má nhắm mắt
được hỡ con?
Trước hết má muốn nói thật lớn với con rằng má
yêu thương con lắm. Má cứ thắc mắc hoài điều nầy: Má
đã có lỗi gì với con đến nỗi hình như con không còn
thương yêu má nữa. Má cạn nghĩ ví dù cha mẹ có làm
lỗi với các con chẳng lẽ không được con cái tha thứ hay
sao? Ngược lại lỗi lầm của con lớn cách mấy mà con cho má
biết má cũng tha thứ và tìm cách giúp đỡ con hoàn thiện.
Má biết con cứ nghĩ là má chỉ thương anh chị con với đám
cháu nội ngoại ở quê nhà nên má phải cật lực làm
hai ba công việc để gởi tiền về. Người mẹ nào cũng yêu
thương các con bằng nhau hết. Còn việc con cứ muốn sống xa má,
muốn được tự do bay nhảy, tự do phung phí đồng tiền và
tuổi trẻ, chứng tỏ rằng con quá ích kỹ, chỉ biết có mình,
cả mẹ mình mà mình còn không nghĩ đến thì rồi đây
con sẽ làm được gì cho người khác. Má dốt nát không biết cái bằng cử nhân, cao học của con
nó lớn thế nào nhưng má biết trái tim con chưa đủ lớn
để làm người, nhất là làm người con; cái tài quản trị xí nghiệp của con má
không biết đã tuyệt vời đến đâu nhưng trong cái ý
nghĩ nông cạn của má con chưa biết quản trị cuộc đời
của chính con. Má ít học nhưng có một câu mà má còn
nhớ nằm lòng, là : Có học phải có hạnh. Con có học,
có bằng cấp nầy nọ, má có thấy mừng nhưng cũng thấy
buồn: con đã không có cái hạnh, không có cái hiếu để,
không có cái lòng vị tha. Mẹ mình càng ngày càng già
cả bệnh tật, mà cứ làm lụng vất vả. Sao con không nghĩ
một ngày nào đó người hàng xóm tình cờ khám phá
thân xác má đã nguội lạnh từ lâu mà không ai biết
sớm? Ðôi
bàn tay của má ở gần mà con không chịu nắm thì nói
gì đến việc nắm tay các anh, chị, các cháu của con ở
quê nhà, hay nắm tay người khác.
Linh hồn má sẽ hoài hoài cầu nguyện cho con để con sớm
NÊN NGƯỜI. Má
của con, người suốt đời thương yêu con.
xxXxx
Jordan
thương quí,
Lá thư trên đây mẹ anh viết cho anh nhưng có lẽ người
không muốn cho anh đọc nên đã để một chỗ rất khó
thấy. Anh chỉ tìm được sau gần một tháng an táng mẹ.
Em, đứa bé sáu tuổi, đã nắm thật chặt tay mẹ em
trong cơn lốc dữ, vậy mà em, đứa bé sáu tuổi, cứ hối
hận là để vuột tay mẹ và cứ ngày ngày đi tìm mẹ.
Còn anh, tay mẹ cứ đưa ra, cứ chấp chới đưa ra cho đến
cuối đời mà anh không chịu nắm lấy một lần!
TRẦN BANG THẠCH . Một
bên là núi, một bên
là rừng
MỘT. . Quán
là một túp lều nhỏ nằm dưới chân đồi, bên lề
con đường mòn dẫn từ hương lộ đến tận đỉnh
đồi. Phía sau quán là bãi cỏ tranh cao khỏi đầu. Hương
lộ là con đường đất trộn cát nhiều hơn đá, đầy
ổ gà, rộng vừa đủ cho một chiếc xe hơi. Cách đó vài
trăm thước là một ngã ba với khu chợ gồm mấy dãy hàng
quán vách ván lợp tôn. Gần tới ngã ba, phía bên trái
khu chợ là nhà máy xay lúa đã từ lâu không còn hoạt
động, tấm bảng hiệu đã trốc hết sơn, cột ống khói
gãy ngoặt như bị cứa cổ, vách trống hơ bốn phía, nhiều
tấm tôn trên nóc đã bị lấy mất. Nằm xéo cái quán
cốc, bên kia hương lộ là ngôi giáo đường mà người
ta chỉ thấy ngọn tháp chuông nhọn hoắt nhô lên khỏi rừng
cây xanh. Từ lâu tiếng chuông hình như không ngân
lên đều đặn mỗi chiều, hay chuông có ngân mà vì người
bõ già đã không đủ sức kéo chuông nên âm thanh không
vượt thoát ra khỏi bức trường thành bằng một rừng cây
lá. Thật lâu mới có một chiếc xe đò hay xe nhà nước
chạy trên khúc đường vắng vẻ này, còn đa số xe thì
quẹo mặt chỗ ngã ba để tới thị trấn miền biển. Cho nên
trên khúc hương lộ này người ta lưu thông bằng xe đạp
hay đi bộ; khi chuyên chở nặng, xe bò là phương tiện hữu
hiệu nhứt. . Nhìn trong quán người
ta thấy một người đàn bà tuổi ngoài năm mươi đang
ngồi trên cái sạp gỗ, mắt ngó bâng quơ con đường trước
mặt. Mấy chai nước ngọt, vài cái keo đựng ít
bánh, kẹo, đậu phộng, hạt dưa ... để trên kệ; mấy khúc
khô cá thiều, cá đuối, mấy con khô mực mốc cời bọc
trong cái túi ny lông, cùng nải chuối sứ còn sót mấy trái,
da đã thâm kim, treo lủng lẳng trên sợi dây gai căng ngang hai vách
lá. Trên chiếc bàn hẹp té kê bên góc nhà, một chai
rượu trắng đầy và một chai lưng hơn phân nửa có chiếc
ly thủy tinh trong vắt úp ngược trên miệng chai. Chiều đã xuống
từ lâu. Tiếng chim chiều nghe rõ hơn khi khắp cả ngọn đồi
tiếng búa đẽo đá đã ngưng. Chiếc xe bò cuối cùng
của lão lưng gù đã đổ dốc rồi khuất sau một vòm
đá bên đường. Những người lấy củi và đập
đá đã về nhà hết rồi. Con đường mòn dẫn lên
đồi và con hương lộ không còn một bóng người. Hàng
ngày vào khoảng giờ này, sau hồi chuông từ ngôi giáo đường,
người đàn bà không mong có người khách nào ghé
quán, nhưng bà biết người đàn ông đó sẽ tới,
sẽ từ khu rừng cây bên kia băng qua đường rồi bước vào
quán ngồi trên chiếc ghế độc nhất đó, như mọi khi.
Bà sẽ rót đầy ly rượu trao cho người đàn ông; ông
đón lấy bằng hai ngón tay, rồi nhẹ nhàng để trên bàn.
Hai bàn tay của hai người vẫn hơi rung, như mọi khi. Người đàn
ông sẽ không uống vội. Họ sẽ nói với nhau vài điều
mưa nắng, như mọi khi. Thường thì chỉ có người đàn
ông nói, giọng khàn khàn của người cao tuổi, còn người
đàn bà thì thỉnh thoảng mới góp vào vài lời. Ngồi
một lúc, nhiều khi không nói với nhau lời nào, trước khi đứng
dậy, như mọi khi, người đàn ông cầm ly rượu uống ực
một cái cạn ly rồi bước ra khỏi quán, nói gọn tui về nhen.
Người đàn bà bây giờ mới thật sự đóng cửa quán,
và bắt đầu lên đèn.
.
HAI . Mấy hôm nay người đàn bà không nghe
tiếng chuông chiều, như mọi khi. Người đàn ông cũng không
thấy đến, như mọi khi. Tiếng xe bò lốc cốc, kẻo
kẹt của lão gù lưng đã chìm sau vòm đá. Tiếng chim
cu rút từ vách đá phía sau quán, nghe sao não nùng.
Người đàn bà đóng cửa quán mà nghe lòng thật nặng.
Cửa đã cài then nhưng đôi mắt người đàn bà còn
vẩn vơ ở đâu bên kia lộ và ở đâu bên kia rừng.
Thêm một đêm nữa người đàn bà không muốn lên
đèn. . Trong bóng đêm, người
đàn bà thấy rõ cái tháp chuông cao nghệu vươn khỏi
tấm thảm đen kịt. Tấm thảm ấy đã một lần cuốn lấy
chàng, dìm chàng đâu đó trọn một thời thanh xuân giữa
bốn bên tường gạch. Hình như mỗi đêm, từ trong lòng
tấm thảm ấy người đàn bà thấy người con gái mười
lăm mười bảy đứng thập thò sau vách núi nhìn chàng
tay chân cuồn cuộn với những nhát búa đập nhịp nhàng lên
từng khối đá xanh. Chàng. Chàng như một chúa tể. Chàng
như một thiên thần giữa trùng trùng đá tảng. Núi rừng
nầy đâu phải của riêng chàng, nhưng tại sao chàng ngang nhiên
chiếm ngự tất cả những con dế con trùng, tất cả những đồi
cao, bãi thấp, những lá cỏ, nhành cây. Cả cái trái tim nhỏ
nhoi của người con gái ngoại đạo này đã chui vào đôi
bàn tay chàng từ hồi nào vậy? Những ngón tay chàng không
khép, nhưng hơi ấm từ lòng bàn tay cũng đủ thiêu sống
một thời thanh xuân của người con gái tội nghiệp. .
BA . Chiều
nay người đàn bà tưởng mình lầm khi nghe hồi chuông thứ
nhất. Đến hai hồi chuông kế tiếp thì bà mới biết rằng
rừng cây bên kia đường đã thực sự lên tiếng, những
tiếng ngân vang thân thuộc từ nóc giáo đường. Và người
đàn ông quen thuộc cũng vừa bước ra khỏi khu rừng, như mọi
khi. Người đàn bà thấy như hòn đá tảng bà mang mấy
ngày nay bỗng rớt khỏi lòng mình. Người đàn
ông băng qua đường, dừng lại trước quán, hai tay vịn thành
cửa, đầu hơi cúi xuống giữa hai ống tay toàn xương khiến
cho chiếc thánh giá rơi ra từ cái cổ áo không kịp cài
nút trên. Ông thở một hơi dài rồi mới bước vào quán,
ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc. Hôm nay trông người đàn
ông có vẻ khác với mọi khi. “Mấy hôm nay
tôi bị cảm thương hàn”. “Vậy sao? Cơ
khổ! Tôi nào có biết”. “Tay chưn mình mẩy lạnh ngắt, lại ho thật
nhiều, tưởng đã không ngồi dậy nổi”. “Trời
ơi, thật khổ cho ông. Hôm nay thì ông thấy thế nào? Đã
bớt nhiều chưa? Uống những thuốc gì? Sao ông không mặc thêm
áo ấm? Chưa hết bịnh mà đi đứng làm chi hổng biết
nữa!” Lần đầu tiên bà thấy mình
nói quá nhiều, khác với mọi khi. “Thì tôi cũng
uống mấy thứ lá rừng. Chưa bớt nhưng cũng ráng xuống đây”. . Chưa bớt nhưng cũng ráng xuống
đây, câu nói sao nghe nặng hơn chì khiến
người đàn bà chừng như muốn khóc. May mà người đàn
ông, như thường lệ, đã nốc xong ly rượu, nói tui về
nhen, rồi bước ra cửa, dáng đi lạng quạng, muốn té. Chiếc
áo sơ mi màu cháo lòng mỏng dánh không cản được
ngọn gió va vào lồng ngực kẹp lép như một cánh lá khô.
Mấy sợi tóc trắng phau phất phơ trong trời chiều, cô đơn như
người đàn ông đang tan dần trong màu xanh của lá và đang
mất dần trong màu tối của đêm. Tấm thảm đêm đen kịt,
như mọi khi, cuốn lấy người đàn ông thêm một lần nữa.
. Cửa quán đã đóng rồi
mà tầm mắt người đàn bà vẫn còn lẩn quẩn bên
kia rừng. Rừng đang trôi hun hút vào bóng đêm. Hòn đá
vừa mới rơi xuống hồi nãy bỗng ai đó đã nhặt lên
rồi bỏ vào lòng người đàn bà. Hòn đá bây
giờ nghe nặng hơn trước thật nhiều. . Tối
nay người đàn bà cũng không buồn lên đèn. Bà đọc
mấy câu chú Quán thế âm trong bóng đêm. . Đêm
vẫn đen và nặng như chì. .
CUỐI
CHUYỆN . Khi biết mình còn mấy
hơi thở cuối, người bõ già cố trèo lên tháp chuông,
nắm sợi dây như một thói quen từ mấy chục năm nay, nhưng tiếng
chuông không vượt khỏi cái dày đặc thâm u của cây
rừng. Tấm thảm đen muôn đời vẫn đen kịt. Sau đó thì
tiếng chuông vĩnh viễn im bặt từ tháp giáo đường. Cái
quán cốc thì cũng vĩnh viễn đóng cửa. Không còn người
khách mỗi chiều nhô ra từ bên kia con đường, chỗ bìa rừng,
như mọi khi, thì quán mở cửa làm chi. Tiếng niệm chú Quán
Thế Âm mỗi đêm cũng không một âm vang nào để
dội từ vách núi. . Phía xa đằng
kia khu chợ vẫn người đi kẻ đến; đâu có ai biết một
chút đổi thay đã xảy ra trên khúc hương lộ vắng tanh
này. . Con hương lộ tuy không
rộng đủ cho hai chiếc xe hơi qua mặt, nhưng cũng đủ để chia
đôi một bên là núi, và một bên là rừng. . Trần Bang Thạch
TRẦN
BANG THẠCH Truyện ._______________________________ . NGƯỜI SUỐT ĐỜI LẮC CHUÔNG
GIỮA CHỢ
. Gần
cuối tháng 12 dương lịch năm nay có một thiệp chúc Xuân
đến với tôi thật sớm, trước Tết Nguyên Đán cả
tháng . Đó là một điều lạ. Tôi chưa hề nhận một
thiệp xuân nào sớm như vậy, từ trước đến nay. Điều
lạ thứ hai là cùng một bao thư với thiệp chúc xuân này,
tôi có cả một thiệp chúc mừng Giáng Sinh đến trễ cả
tuần. Hai điều lạ này được giải thích trong một mảnh
giấy nhỏ viết tay kèm theo. Qua mảnh giấy nhỏ này, thắc mắc
của tôi được giải tỏa: anh con thấy trong các giấy tờ để
lại của người cha mới chết một thiệp Giáng Sinh và một
thiệp chúc mừng Năm Mới Ất Dậu. Mỗi tấm thiệp được
để trong một bao thơ có đề sẵn địa chỉ của tôi.
Anh con bỏ cả hai tấm thiệp vào một bao thơ rồi gởi cho tôi. Coi
như thay người chết gởi lời chúc tới ông bạn còn sống.
Lá thư bất ngờ cũng báo cho tôi biết một cái chết bất
ngờ. Cùng một lúc với những lời chúc tốt đẹp là
một nỗi buồn thật lớn đến với tôi. Tôi biết từ nay
tôi vĩnh viễn mất một ông bạn hàng xóm tốt bụng của
tôi từ hơn hai mươi lăm năm qua. Tội nghiệp ông già, biết
mình tuổi đã cao, sống nay chết mai, nên ông đã chuẩn bị
sẵn những gì cần phải làm. 24 lần Giáng Sinh và 24 lần Tết
Nguyên Đán đã qua chưa lần nào gia đình tôi thiếu
các tấm thiệp chúc mừng của ông. Năm nay, năm thứ 25, ở
giờ phút thứ 25, giờ phút cuối của cuộc đời, ông vẫn
không quên chúng tôi. . Thật sự thì chúng
tôi là bạn hàng xóm chỉ trong hai năm đầu khi chúng tôi
đến Mỹ. Mới chân ướt chân ráo nhập vào một dòng
sống hoàn toàn mới lạ, không có một người thân quen, chúng
tôi thấy tạm yên lòng cư ngụ trong một căn nhà nhỏ tại
một khu khá tạp nhạp, toàn là dân da đen và dân Nam Mỹ
có lợi tức thấp; hiếm thấy một người da trắng lạc lõng
đi ngang qua xóm. Sau hai năm gia đình chúng tôi làm ăn có khấm
khá hơn và các con cũng cần có những trường tốt hơn
nên chúng tôi dời đến một nơi khác, cách chỗ cũ hơn
một giờ lái xe. Hai năm ở cạnh nhau đã đủ cho một tình
hàng xóm nẩy nở. Những năm còn lại chúng tôi vẫn hay
gặp gỡ, nhứt là vào những dịp lễ lạc hay ăn mừng năm
mới, mừng sinh nhật....hoặc thăm hỏi tin tức nhau qua thư từ và
điện thoại. .
Thuở đó là vào khoảng cuối năm 80, chúng
tôi đến Mỹ trong cái lạnh cóng da của một nhiệt độ
đông đá. Căn nhà chúng tôi mướn thuộc căn nhà
đã quá cũ, cả trăm năm tuổi, vách ván, sàn gỗ kê
trên những cục gạch xi măng khiến gió lạnh chui vào nhà một
cách dễ dàng từ bốn bên và từ dưới sàn nhà. Ba
đứa con tôi tuổi từ một rưỡi đến 12 tuổi, chúng mặc
vào nhiều lớp áo quần mà răng vẫn đánh lặp cặp.
Đó là những giờ đầu tiên khi chúng tôi mới dọn vào
nhà. Tôi thấy một cái máy sưởi đặt âm trong vách
nơi phòng khách, tôi vặn hết nút nầy đến nút nọ
mà vẫn không thấy hơi nóng phát ra. Túng cùng, vợ tôi
đưa ý kiến là nên nhờ người ở nhà kế bên sang
chỉ dẫn. Tôi rất ngại ngùng khi phải gõ cửa nhà người
hàng xóm không quen vì lúc đó đã hơn mười giờ
đêm. Chỉ cần không đầy một phút, ông hàng xóm đã
làm chiếc máy sưởi tỏa hơi nóng. Rồi vợ con ông mang cả
đống quần áo ấm cho chúng tôi, có cả mấy bao potato chips họ
nói là ăn cho ấm bụng. Cả nhà chúng tôi cảm ơn. Ông
hàng xóm nắm chặt tay tôi, ông nói rõ và chậm từng
lời, sợ rằng tôi chưa quen tiếng Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như
in hình dáng cao gầy, gương mặt đen mun làm rõ hàm răng
trắng và đôi tròng mắt trắng nhìn thẳng vào mắt tôi.
Ông nói là ông luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng
tôi, đừng ngại ngùng gì hết. Ông cho tôi số điện thoại,
bảo cứ gọi ông hay vợ con ông bất cứ khi nào chúng tôi
cần. Ông nói ông tên là Otis Clark, nhưng ông thích được
gọi là The Bell Ringer, hãy gọi ông là Ringer cho gọn. Thuở đó
cả nhà chúng tôi gọi ông là Ringer, coi như là một cái
tên riêng; sau nầy mới biết ý nghĩa của nó và biết
vì sao ông Otis thích được gọi như vậy. Sau cái đêm
đầu tiên đó thì chúng tôi cần họ nhiều trăm lần
nữa trong suốt hai năm ở gần nhau và cả khi ở xa nhau. Ông bà
là cố vấn của gia đình chúng tôi về đủ mọi chuyện.
Từ chuyện ông Ringer dạy tôi cách sử dụng máy cắt cỏ,
máy xén cỏ đến việc thay nhớt cái xe. Bà Ringer thì từ
việc đưa vợ tôi và các con đi ghi danh ở trường, đến
việc dạy vợ tôi tiết kiệm bằng cách mua hàng sale và cách
dùng coupons khi đi chợ. Khi chuyện trò với chúng tôi, họ nói
chậm rãi, rõ ràng từng tiếng. Đặc biệt là họ hay gợi
chuyện để chúng tôi nói. Tiếng Mỹ chúng tôi khá hơn
nhờ gia đình này. Cách sinh hoạt chúng tôi được xuôi
chèo mát mái hơn trong cái xã hội lạ lẫm nầy phần lớn
là nhờ họ. Cũng qua gia đình nầy chúng tôi có cái cảm
tưởng đầu tiên là người Mỹ tử tế.Về sau chúng
tôi biết ông bà Otis không những chỉ tử tế với riêng gia
đình chúng tôi hay vài gia đình trong khu xóm, mà ông bà
nầy tử tế với tất cả mọi người. Điều nầy thì
tôi xin được nói sau. Cái ấm áp của đêm đầu tiên
đó đã bắt đầu cho một nghĩa tình lân lý kéo
dài suốt hai mươi lăm năm nay. Suốt thời gian đó chúng tôi
thương mến và hiểu nhau hơn. Bà Otis mất 12 năm trước, sau
đó cậu con trai duy nhứt đi làm xa, ông già Otis đã nghỉ
hưu từ hơn hai mươi năm trước. Ông sống một mình trong
căn nhà cũ, nhưng ông không cô đơn vì chừng như công
việc chiếm hết thì giờ của ông. Muốn đến thăm ông,
chúng tôi phải thông báo vài ngày trước. Hoặc đôi
khi tự dưng ông ghé nhà tôi ngủ một đêm để kể
cho chúng tôi nghe chuyện đời. Các con tôi rất thích nghe Uncle Ringer
kể chuyện. Càng hiểu tâm tình của ông và càng biết nhiều
những sinh hoạt của ông, chúng tôi càng quí trọng ông. Bây
giờ thì ông đã đi rồi. Tấm thiệp Xuân Ất Dậu tôi
chưa kịp gởi cho ông. Những dòng tưởng nhớ này như lời
cuối cùng chúng tôi tiễn đưa ông, người hàng xóm
tốt bụng. . Nhớ tới ông Otis là tôi nhớ tới điều mà ông đã
nói với tôi khi hai người ngồi uống bia ở sau nhà ông hơn
hai mươi năm trước. Ông chỉ nói có một lần mà tôi
mãi nhớ hoài. Ông Otis nói ông nợ cuộc đời quá nhiều,
sợ rằng cả đời của ông, ông cũng không trả nổi. Ông
mất ở tuổi tám mươi lăm. Một đời người như thế
cũng gọi là dài. Nhưng cái nợ với cuộc đời mà ông
tự nguyện gánh trên vai đã hết chưa hay ông vẫn còn khệnh
khạng vác xuống tuyền đài? Nghĩ tới điều nầy khiến
tôi càng thương ông, vì tôi biết một khi thế giới nầy
còn hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh, bịnh tật và xã hội này
còn những kẻ nghèo đói, tật nguyền, không nhà, không
miếng ăn, không cái mặc... thì The Bellringer thỏi đồng đen của
tôi vẫn ngày ngày muốn làm người lắc chuông nơi cửa
chợ. Tôi biết ông muốn mãi mãi là người lắc chuông,
dù cho trăm năm, dù cho ngàn năm nữa. Người đàn ông
da đen cao, gầy, xương xẩu, ít học mà có trái tim to như
trái núi, một tấm lòng dào dạt mênh mông như nước
đại dương. Gần cả đời lắc chuông giữa chợ kêu gọi
tình thương, chắc chỉ có một ông Otis Clark nầy. Ông nói
từ khi nhận diện được những đau khổ của cuộc đời
đến với riêng ông, ông muốn được góp phần nhỏ
mọn của mình làm vơi đi ít nhiều những đau khổ cho càng
nhiều người càng tốt. Ông Otis kể với mọi người về
cuộc đời của ông. Cậu bé Otis lúc mới 5 tuổi đã là
một bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Người ta nói cha mẹ cậu
một hôm từ thị trấn Cheyenne của tiểu bang Wyoming mang đứa con trai
Otis 5 tuổi xuôi nam lập nghiệp, mong thoát khỏi kiếp tôi đòi.
Lúc tới gần dãy Rocky Mountains thì ông bà Clark mất tích trong một trận bão
tuyết. May mắn được cứu, cậu bé Otis sống lang thang không nhà
với người cha nuôi nghiện rượu và với một con chó đói.
Cha con ngày ngày kiếm miếng ăn nơi khu Lincoln Park của tiểu bang Colorado. Khi cha nuôi chết,
cậu Otis 10 tuổi đã biết phải tìm cái sống bằng chính
sức lực và ý chí của mình. Tiếp tục ước muốn của
cha mẹ, Otis xuôi nam, sống vất vưởng trên các đường phố
với đủ ngành nghề, từ bán báo đến quét dọn nhà
hàng, lau chùi cầu tiêu công cộng.... Lớn hơn một chút, Otis
về vùng đồng cỏ Texas làm các công việc nơi trang trại, chăn
bò, vắt sữa, lái máy cày. Cuộc đời Otis thật sự thay
đổi ở tuổi 18 khi một ân nhân đem Otis về thành phố lớn,
dạy cho ít chữ nghĩa và dạy nghề thợ tiện. Từ đó
Otis đứng vững vàng trên hai chân mình. Cũng từ đó chàng
thanh niên Otis bắt đầu nghĩ tới một sự trả ơn cho người
đã cứu mình ra khỏi vùng u tối. Otis cũng không thể quên
những cảnh khổ chung quanh, cảnh khổ mà suốt quãng đời niên
thiếu mình đã chịu. Những ngày cuối tuần người ta thấy
chàng thanh niên Otis la cà nơi các công viên, hay các góc đường
dưới cầu xa lộ mang những bịch đồ ăn thức uống cho những
người không nhà. Nhiều người trong số nầy đã được
Otis giới thiệu việc làm, tạo dựng lại cuộc đời và tiếp
tục trả ơn đời như anh Otis. Một thanh niên da trắng thất tình
thất chí, bỏ học, bỏ nhà cửa đi làm homeless, Otis tới lui,
chuyện trò, khuyên nhủ, rồi đem về nhà nuôi ăn học. Ngày
anh thanh niên nhận bằng kỹ sư điện, anh đã ôm Otis giữa hội
trường mà khóc như một đứa con nít. Nhiều lần Otis đến
các nhà tạm trú cùng với các người thiện nguyện phục
vụ những bữa ăn cho người vô gia cư. Sau khi tham dự thế
chiến thứ Hai, người lính giải ngũ Otis biết được các
hoạt động cứu trợ rất hữu hiệu của hơn 3000 đơn vị
phục vụ thuộc tổ chức thiện nguyện The Salvation Army. Otis bắt đầu
tham gia hoạt động cho The Salvation Army kể từ đó. Cũng kể từ đó
Otis chỉ thích được gọi là Người Lắc Chuông- The Bell Ringer.
Từ mùa đông năm 1945 The Bellringer tên Otis bắt đầu mặc bộ
đồng phục của The Salvation Army, cầm cái chuông đồng đứng
tại các cửa chợ vào những ngày lễ để kêu gọi lòng
hảo tâm của con người đối với con người. . Những
ngày đầu ở Mỹ, không ai trong gia đình tôi biết The Salvation
Army là gì. Chúng tôi chỉ biết tổ chức thiện nguyện Đạo
Binh Cứu Khổ này qua người hàng xóm mà chúng tôi gọi
là Ringer. Vào những ngày cuối tuần hay những ngày lễ như Thanksgiving
hay Christmas chúng tôi thấy Ringer cùng các bạn của ông mặc vào
tấm áo choàng màu đỏ, choàng phủ phía trước ngực
và phía lưng, trên có in dấu hiệu của The Salvation Army và có
dòng chữ: I Am A Bellringer. Người bell ringer tay cầm cái chuông
đồng nhỏ đứng lắc chuông bên cạnh cửa ra vào tại các
khu chợ. Người hảo tâm bỏ tiền vào cái thùng đỏ có
nắp khóa kín, treo trên cái giá 3 chân. Hai năm ở
bên cạnh ông tôi biết thêm rất nhiều điều về The Salvation
Army, một tổ chức quốc tế được hình thành từ
năm 1865 tại Luân Đôn để giúp đỡ về mặt tinh thần
và vật chất cho cho những người kém may mắn trên toàn thế
giới, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Bằng vào cố
gắng tích cực của cô bé 16 tuổi tên Eliza Shirley, một di dân
gốc Anh, Tổ chức được du nhập vào Mỹ từ năm 1880 với
chi nhánh đầu tiên ở New York City. Các con tôi thì có bên cạnh một
nhân vật sống để nghe, để biết và để học những
bài học quí giá về tình người. Thằng con lớn của tôi
đã gia nhập The Salvation Army ngay sau khi tốt nghiệp đại học hồi năm
1992. Ông Ringer trông thật hào hứng mỗi lần nói chuyện với
chúng tôi về công việc lắc chuông của ông. Công việc nào
thì cũng có niềm vui, nỗi buồn. Nhưng với ông Ringer thì suốt
mấy mươi năm lắc chuông, ông chỉ có niềm vui, ông quả
quyết nói với chúng tôi như vậy. Ông không có nỗi buồn.
Ông lắc chuông xin tiền, có người cau có với ông, ông cười
tươi đáp lễ. Có người ngước mặt làm ngơ, ông
thương cho họ và cầu nguyện cho họï.Thỉnh thoảng có người
mua cho ông bữa ăn trưa hay một chai nước uống, ông vui vẻ cảm
ơn. Trên chục năm trước, có em nhỏ tự nhiên rời tay mẹ,
chạy tới kéo ông ngồi xuống, hun một cái chụt vào má
ông, rồi bé kề tai nói với ông rằng bé thương ông
quá, khi lớn bé sẽ làm như ông. Chuyện đã xảy ra thật.
Cô bé 5 tuổi lúc ấy đã không đợi khi lớn mới thực
hiện được lời hứa với người Bell Ringer nơi cửa chợ. Lúc
7 tuổi, cô bé biết bày ra một cái bàn đặt bên lối
ra vào công viên gần nhà để bán nươc giải khát vào
mỗi cuối tuần. Cô bé đã kiếm được vài chục đồng
mỗi tháng. Người ta mua nước lemonade của em như là một cách
giúp em thực hiện ước muốn của mình. Mỗi năm, đúng
vào buổi chiều trước ngày Lễ Giáng Sinh, Christmas Eve,
như một hẹn ước bất thành lời, cô bé đến gặp
người Bellringer của cô, thân mật nói những lời chúc lành
với ông rồi nhét vội món tiền góp nhặt cả năm vào
cái thùng 3 chân màu đỏ. Năm nào cô cũng làm như
vậy, hơn chục năm rồi. Cô bé gọi ông là Ringer. Ông gọi
cô là Little Santa. Như vậy là đã đủ cho một sự quen biết
nhau. Có lẽ cả hai không thấy cần phải biết tên thật của
nhau. Họ biết họ đang làm gì. Có một lần vào đầu
năm 82, ông Ringer hăm hở nói với tôi về một đồng tiền
vàng, một loại gold coin, trị giá hơn 200 đô la, lần
đầu tiên được một người bí mật nào đó bỏ
vào thùng tiền tại Chicago. Rồi sau đó cứ mỗi lần một
nơi nào đó nhận những đồng gold coins thì ông Ringer đều
cho tôi hay để cùng vui với ông. Nhiều khi ông chỉ ghé nhà
tôi một vài phút đồng hồ chỉ để thông báo những
tin vui như vậy. Chẳng hạn như hồi năm 85, một người nào đã
bỏ vào thùng ở thành phố Kirsville, bang Missouri, một đồng
gold coin sản xuất 20 năm trước cuộc Nội Chiến, có giá trị
cả ngàn đô la; đủ cho một nhóm hơn trăm người nghèo
có một bữa ăn Giáng Sinh thịnh soạn. Hàng năm, như là một
trò chơi nhân hậu tốt đẹp từ một hay nhiều nhà hảo
tâm bí mật, những đồng gold coins cứ rơi vào nơi nầy, nơi
nọ; đến nay tổ chức The Salvation Army nhận được hơn 300 đồng
gold coins. Năm năm trước, ông Ringer của tôi muốn có một đồng
gold coin rớt vào cái thùng của ông coi như quà sinh nhật thứ
80 của ông. Mùa Giáng Sinh năm đó rồi cũng qua, lễ mừng
sinh nhật của ông cũng đã qua mà đồng gold coin cũng chưa chịu
đến với ông. Ông than với tôi là các đồng gold coins vẫn
chưa chịu xuôi Nam. Tôi an ủi ông rằng ông đã nhận và đã
cho biết bao nhiêu là những đồng gold coins từ cả sáu mươi
năm nay rồi. Một tuần trước lễ Giáng Sinh năm nay, từ một
nơi cách xa tỉnh nhà hàng ngàn dặm, xem báo tôi thấy loan
tin nhân viên Salvation Army tìm thấy một đồng vàng tên là South
African Krugerrand bọc trong một đồng bạc giấy, có lẽ người bí
mật muốn tránh tiếng kêu khi bỏ vào thùng ở trước cửa
một tiệm Walgreens trên đường West University của Houston. Đây là
lần đầu tiên một đồng gold coin trị giá 400 đô la đã
xuôi Nam, đã đến Houston. Tự nhiên tôi thấy vui và nghĩ ngay tới ông bạn
già Ringer của tôi. Tôi bỏ lững cột báo tại đây, không
muốn đọc tiếp tên người bell ringer để được hồi hộp
mà nghĩ rằng chính cái thùng tiền của người Ringer thân
mến của tôi đã nhận được đồng tiền quí hiếm
ấy. Có thể lắm chứ. Ở cái tuổi 85, người Bellringer của
tôi không còn bao nhiêu ngày tháng nữa. Chẳng lẽ niềm mơ
ước của ông không thành sự thật sao? . Bây
giờ nhận được tin ông mất, tôi thấy dù cho đồng tiền
ấy có rơi vào thùng của ông hay không thì ông cũng là
người đón nhận và phân phát nó, cũng như ông đã đón nhận hàng vạn
tấm lòng vàng và phân phát hàng ngàn đồng tiền vàng
trong suốt hơn sáu mươi năm làm người lắc chuông giữa
chợ.
Cả cuộc đời ông, ông cũng đã cho thiên
hạ rồi! . Ông Otis Clark, người Bellringer của tình
thương, chúc ông ngàn đời yên ngủ trong niềm mến yêu
của những người khốn khó. Ông ngủ nhưng tiếng chuông đồng
của ông vẫn còn rung trên tay của cả ngàn người khác tiếp
nối ông. Khi những trái tim còn biết thổn thức thì tiếng chuông
đồng còn ngân vang. Bằng cách nầy hay bằng cách khác, tình
thương luôn có mặt trên thế gian nầy. Cô bé 7 tuổi đã
biết đem những đồng tiền nhân nghĩa đến gởi gấm ông.
Cô bé ấy bây giờ là một thiếu nữ và vẫn là người
Santa Nhỏ Bé của ông, vẫn hàng năm làm nhiệm vụ của một
Ông-Già-Nô-En-Có-Thật. .
Ngủ đi ông, The Bellringer , người hàng xóm tuyệt vời của
tôi. . Trần Bang Thạch
trần bang thạch Truyện _____________________________
CHUYỆN NEW YORK, MỘT NGÀY
Ảnh Nguyễn Như Hùng .
G ần nửa đêm
rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn mặt vuông
là cái computer. Xung quanh chị ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ
trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần chị Suzanne
muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống nơi góc
phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một giấc, rồi
mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa xong chị cố
nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi ghi chép, rồi
lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một ngày thật
quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của công ty nơi
chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng thương mại
với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới và khó nuốt,
đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc. Thất bại lần
này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản. Từ vài tháng
nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng. Nhân viên
lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa mới tới
ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng trong các
phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này. Còn
cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không khá
gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt. Nhiều
khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn hẹn
nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn dọn
dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước
còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa
nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với
nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện
gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới. .
Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày mai chắc chắn sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến những người còn lại, trong đó
có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh.
Chứng dị ứng thời tiết cứ làm chị khốn đốn mỗi năm
mấy tuần. Nhưng người chủ trực tiếp của chị là bà
phó giám đốc Helen sau mười ngày đi Bắc Kinh, khi trở về
tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm từ sáng hôm nay. Bà
nói kết quả chuyến đi của bà đến sớm không
ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh
sẽ đại diện chánh phủ đến Công ty duyệt xét toàn
bộ vấn đề để chánh thức ký hợp đồng hay không.
Hơn một tháng nay công sức của bà phó giám đốc Helen đã
đổ quá nhiều trong cái dịch vụ này, nó không thể thất
bại được. Công ty không thể chết được. Bà nói
bà cần tới cái tài cung ứng tài liệu của chị Suzanne để
trình với phái đoàn ngày mai. Đến gần sáng thì chị
Suzanne đã có những printouts cần thiết với chi chít những con số
và những biểu đồ đủ màu sắc để cung cấp cho bà
Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời bàn giấy. Chị đi đến cửa
sổ, vén màn rồi mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai
hít thở không khí trong mát buổi sáng tinh mơ của New York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm, sang cả
và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho mình một
ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại tấm chăn,
hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén nằm cạnh
chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không thể nào
mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của mình sau
một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà hàng
đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không thể
tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn nên
chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà nhìn.
Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những cơn hắt hơi
sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương và tội nghiệp
vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép kẹp đó không
biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp nhiều thứ quá:
những tràng hắt hơi như cơn địa chấn nhỏ trong nội tạng
và bao nỗi lo toan của một người đang gánh nặng cái gánh
gia đình với hai đứa con nhỏ và người chồng thất nghiệp.
Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank mặt mũi méo xệch
nhận tờ giấy màu hồng của sở thông báo anh tạm nghỉ việc
tại hãng hàn xì này thì người vợ ốm yếu
của anh phải mang thêm trên vai vài hòn đá tảng. Một cái
xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền lương khiêm nhường
của một nữ thư ký và chút ít tiền trợ cấp thất
nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm đủ chi tiêu cho việc
ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng tháng trả tiền thuê
căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc mỏ này. Tuy vợ không
nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng cho những ngày sắp tới,
những ngày mà cả hai vợ chồng đều thất nghiệp. .
Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ. Anh Frank đang mớm sữa
cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén
cereal trộn với sữa tuơi. Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong
nhà, kiêm luôn người giữ trẻ. Người father mom này mỗi
khi đi chợ búa hay đi xin việc đều có con bé chưa đầy
tuổi trên tay và thằng bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới
chân. Thấy mà tội nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm
biệt chồng và hai con rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị
Suzanne như phòng lên cao hơn so với bình thường, một phần vì
giấy tờ quá nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm
hy vọng của cả nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây
chị Suzanne chợt mỉm cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle
8 tháng tuổi cũng cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của
nó vào cái samsonite của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào
lề, vẫn đúng giờ như thường lệ. Vẫn những tiếng hi,
hi quen thuộc, thân mật, rộn rã. Một ngày như mọi ngày.
Gió vẫn mát lạnh từ dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe cộ vừa thở
vừa bò. Người bạn đồng hành người Á đông với
mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn trên người
mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường 14 rồi xuống
xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu China Town trên
đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành quen thuộc từ người
Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời nào ông gặp trên
xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà phát thèm sáng
nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở băng cuối. Và
cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết tin tức trang đầu
của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi chị phải bước
xuống, đó là toà cao ốc phía nam của Trung tâm thương mại
thế giới. Từ dòng Hudson
ở hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng
khi New York đang bước
vào thu. Tượng Nữ thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở
vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao
ngạo, vĩ đại, vừa thân thương, gần gũi. .
Một buổi sáng như mọi buổi sáng New
York. Như mọi buổi sáng của người New York.
Tuy giờ làm việc
bắt đầu từ chín giờ nhưng khoảng tám giờ rưỡi
thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt.
Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ
sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày
quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi
người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày
râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị
Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu,
kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như
vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không
chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng
cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn
làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm
nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này.
Chị còn cho Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép
cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng
đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác
nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là
ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở
Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông
đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm
bằng câu: I love you. See you soon, Honey. . Vậy mà sau câu nói thương yêu đó họ không
còn gặp nhau nữa. Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã
mất nhau. Thật sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa
vĩ đại phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng
nổ kinh hồn, trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi
chồng, gọi nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao
ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà
phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì
đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để
không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết. .
Rồi ầm ầm như sấm nổ, như sét rền, như đất chuyển
trời rung. Như trời sập. Mọi người mạnh ai nấy chạy. Tiếng
kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc. Có người chạy loanh
quanh, không còn biết đâu là lối ra cầu thang hay thang máy. Trời
đất tối sầm. Người ta dồn cục khắp hành lang.
Ở một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng
lên không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên
bầu trời New York.
Trong căn
phòng khách ở tầng thứ 41 của tòa chung cư trên đường
số 23, anh Frank thấy mặt thằng Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn
tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay trong không khí, mồm nói với anh mấy
lời mà anh không nghe rõ; anh nhìn màn ảnh truyền hình trước
mặt thì những chú thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay
vào đó là một trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc.
Anh Frank mở cửa chạy ra hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng
hốt của người xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái
lửa. Anh chạy vào nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền
hình. Anh Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện
thoại khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng
trả lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn
khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt không khi thấy
một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi vợ anh đang
làm việc? Không, không thể nào có chuyện như thế được.
Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là sấm động,
phong ba. Cả dòng Hudson cũng
là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng Nữ thần Tự do
thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen. . Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang bốc cháy.
Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình, anh Frank bỏ
hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống chỗ để
xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi . Xe anh chỉ chạy
được một đoạn đường thật ngắn thì phải dừng
lại, không thể nhích thêm một thước nào nữa. Mọi người
đang đổ ra đường. Tiếng la hét, tiếng còi hụ inh ỏi
một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường rồi hai tay bồng
hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để đến gần
hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì
anh hoàn toàn bị cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái
lửa như con ác quỉ vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái
lưỡi đỏ lòm như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ
trên vai anh, còn thằng Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng
trên đường và cụm khói trước mặt. Không thể đi
thêm được nữa, anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng
thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía
duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và trong hỗn loạn. Hàng ngàn người
chen lấn trên cầu Brooklyn và
cầu Manhattan. Vô số người
đổ dồn về phía bến cảng số 11 để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người
nhấp nhô. Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người
phóng ra từ cửa sổ của một từng lầu gần chót
vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất
phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai toà nhà
lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng, như hai
người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên hào
thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ khắp nơi và
hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện Cựu chiến binh cách
mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng về phía hai trái
núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường West Broadway anh thấy
khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn. Tro than bao trùm
các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm cái áo len
màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả là những
áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không biết bây giờ là
lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ. Cái điện thoại
ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã bị cắt đứt
từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó bâng quơ, anh
Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm chặt hai con
mà khóc.
xXx
Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn hai con đứng
nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt anh và xung
quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh vật ở
đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của hai tòa
cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng giữa lòng New
York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp
nơi là gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi,
cong queo, ám khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như
trời trồng, như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn
u minh nào chợt tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính
trên từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử
với cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy
tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng
với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy
hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình
như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại
hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối
với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu
hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần
nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như cũng biết trông
ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này nó nằm yên
trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước mặt. Còn
thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm nay thì
tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn ruột.
Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank gọi
vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình
đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị
tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được
nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn.
Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước
ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực
chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ. .
Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm
ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng
nấc của các oan hồn.
Nữ Thần Tự Do từ đằng
xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt. . Tháng
9 – 2001 Trần Bang Thạch
Trần
Bang Thạch truyện Trên vách núi có một dòng sông
Lúc tôi đến thì
ông K. đang ở sân sau. Ông đang ngồi trên một khúc
cây sần sùi, hướng mặt về ngọn đồi thấp sau nhà. Xa
nữa là dãy núi cao như đụng trời. Nửa điếu thuốc trên
tay ông không còn một chút lửa. Đêm ở đây đến
thật muộn. Gần một giờ trước, khi tôi vừa tới trạm xe buýt
thị trấn thì đèn đường đã sáng choang. Vậy mà
ở đây, bây giờ, trời vẫn chưa tối hẳn, để tôi còn
có thể nhìn dáng dấp ông K. nhỏ nhoi, bất động in trên
nền trời xanh nhạt có những dãy mây chết cứng. Chừng như
gió cũng không tới thung lũng này. Trước mắt tôi là một
bức tranh tĩnh vật có đồi có núi và có người đàn
ông của mấy mươi năm cũ. Thiên nhiên mênh mông mà im
lặng quá. Người tình có đó mà như không. Tôi đang
đứng sau lưng K. mấy bước mà như ngàn ngàn dặm xa. “ Chứng bịnh của ba con mấy
tuần nay trầm trọng quá. Ba con hầu như quên hết mọi chuyện đã
qua. Có một cái tên duy nhất mà ba cứ nhắc hoài. Đó
là tên của cô đó, cô T. ạ. Đôi mắt của ba bây
giờ tệ lắm, chỉ thấy mờ nhạt dáng người. Nhiều lúc
Ba cũng chẳng nhận ra con. Chuyện vặt trong nhà ba vẫn làm được,
nhờ quen tay và quen chỗ” Tôi nghe tiếng khóc của cháu Nga bên kia đầu
giây điện thoại. Tôi như nghe cả cái quặn thắt của cõi
lòng Nga từ hàng trăm dặm xa xôi. Hay là chính cõi lòng tôi
đang trùng trùng sóng vỗ? “ Ngày nào cũng như ngày nấy, dù nắng dù mưa
dù sáng dù tối, ba một mình ngồi lặng lẽ ở sân sau,
mắt vô hồn nhìn ngọn đồi trước mặt. Chắc đã nhiều
ngày rồi ba không gọi cô?”. “ Phải, nhiều ngày rồi. Con biết đó,
cả tháng nay cô chỉ có thể nói chuyện với con thôi. Có
lẽ ba cũng đã quên người cố vấn tâm thần nầy rồi”. “Chắc con phải
đưa ba trở lại bệnh viện tuần tới. Cô T. à, tự nhiên
con nghĩ rằng sự có mặt của cô tại đây rất là cần
thiết, trong lúc này. Cô đồng ý đến đây một lần
nhe cô, cô T.?” “ Ừ. Đón cô tại trạm xe buýt thị trấn lúc 6 giờ
chiều mai”. Tôi nói nhanh , chỉ sợ mình đổi ý. “ Cô nói thật
phải không cô? Phải không cô T. ?” “ Thật”. “ Cám ơn Trời Phật. Cô làm con ngạc
nhiên quá. Con cảm ơn cô”. “ Cô sẽ khoác cái áo
gió màu tím than, đó là dấu hiệu để con dễ nhận
ra cô”. “
Không khó nhận nhau đâu, thưa cô. Vì vào giờ đó,
tại thị trấn đèo heo hút gió nầy, chắc chỉ có hai người
Việt Nam là cô cháu mình thôi. Cô làm con mừng quá. Với
sự có mặt của cô, con nghĩ bệnh của ba con sẽ giảm”. . Kể cũng thật là lạ.Tôi đã có
một quyết định quá nhanh mà tôi không ngờ. Tôi sẽ phá
bỏ một lề luật mà tôi đã cố giữ từ hơn hai năm
nay. Tôi đã đầu hàng dễ và nhanh đến vậy sao? Tôi
sắp tới một nơi mà tôi nghĩ suốt đời tôi sẽ không
tới. Không nên bao giờ đặt chân tới. Phố núi Prairie View, chưa
thấy lần nào mà đã sợ, chưa đến lần nào mà
chừng như đã quá thân quen. Từ ba năm trở lại đây, nơi
chốn ấy đã cất giữ gần hết phần hồn của tôi, chứ
không phải phố biển Seal Beach này với người chồng tên Steven,
là nơi tôi đã gởi tấm thân từ hơn ba mươi năm nay.
Phố núi Prairie View
nghe chừng ngọt ngào như hơi thở. Vì nơi đó có K. . K. đã đến đất nước
nầy thật muộn màng. Nhưng chàng đã đến trong đời tôi
thật sớm, và ở lại thật lâu, cho tới tận bây giờ. Ở
một khắc giây nào đó của hơn ba mươi năm trước,
Steven đã đan cho tôi một chiếc lồng muôn hồng ngàn tía,
rồi nhấc bỗng tôi đi, vượt bao sông dài biển lớn tới
cái xứ sở lạ hoắc lạ lơ nầy. Nhưng K., chính K. mới là
người sập xuống cánh cửa lồng nhốt chặt mảnh linh hồn của
tôi, để con tim tôi cứ đập rộn rã ở quê nhà, cõi
lòng tôi vẫn cứ bập bềnh theo con nước lớn nước ròng
trên dòng sông cũ, và ánh mắt tôi cứ dõi về một
phương trời lửa đạn ở một chiến trường xa. Và người
xưa ... . Người xưa
đã vì tôi mà một ngày thật xa nào đó, đã
bỏ lớp, bỏ trường đi vào binh lửa, cố quên hình bóng
một người tình. Rồi một ngày sau hơn bốn mươi năm, người
lính trở thành người tù đó đến xứ sở nầy với
một tấm thân bệnh hoạn, một trí não lúc nhớ lúc quên,
lúc mê lúc tỉnh, nhưng con tim vẫn hướng về người tình
phụ năm xưa. . Bóng
tối đang lên, xóa mờ những đỉnh núi xa. Ở đó bây
giờ là bóng đêm. Vùng đồi thấp sau nhà cũng bắt đầu
nhạt nhòa sương khói. Tôi không nghe một hơi thở nào quanh
đây, nhưng tôi nghe chút gió bay qua tóc mình, và nghe một
tiếng chim cô đơn lạc lõng giữa buổi chiều tà. K. đứng
lên, ném nửa điếu thuốc đã tắt từ lâu, định quay
vào nhà. “ Ông
K. Kính chào ông K. Thành thật xin lỗi nếu tôi đã làm
ông bất ngờ”. “ Dạ ...Dạ ...” “ Tôi là Cindy Trần, người thường nói chuyện
với ông qua điện thoại đó. Ông K. không nhận ra tiếng tôi
sao?” “
Có, có. Dạ, kính chào bà Trần. Tôi không ngờ được
gặp bà hôm nay. Thật là không ngờ. Bà làm tôi ngạc nhiên
quá, thưa bà Trần”. “ Trái đất nầy tròn mà ông K. Mình là
bạn từ hơn 2 năm nay thì sao không có ngày gặp !” “ Ờ...Ờ...Phải,
phải. Hơn 2 năm nay cứ nghe tiếng nói nhau mà hôm nay cha con tôi mới
được hân hạnh gặp bà. Kính mời bà Trần vào nhà.
Trời sắp lạnh rồi”. Tôi bước theo K., vào nhà. Căn nhà như một
cái lều nhỏ của người dân da đỏ quanh đây. Vách là
những khúc gỗ chưa lột da xếp chồng lên nhau làm thành bốn
góc của cái hộp hình chữ nhựt. Hai mái nhà cao chụm lại
trên chóp như một nóc giáo đường. Cửa trước hướng
ra chiếc sân rộng. Chiếc sân ngó xuống ga xe lửa dưới chân
đồi, có con đường liên tỉnh chạy ngoằn ngoèo hai bên
thành đá dựng . Chỉ một bóng đèn mờ nơi gọi là
phòng khách, không đủ sáng để tôi nhìn rõ mặt người
đàn bà trong khung ảnh nhỏ đặt trên đầu tủ ngăn phòng
khách với căn phòng phía sau, có lẽ là nhà bếp. . Nga khoác lên người chiếc áo
dạ, nói con phải xuống phố mua ít món đãi cô Cindy một
bữa ăn vùng núi mới được. Tôi kiếm chỗ máng cái áo gió rồi ngồi trên cái
ghế sắt cạnh cửa ra vào. Ông K. đứng giữa phòng khách
cứ xoa xoa hai bàn tay với nhau, có vẻ khó mở lời. “ Dạ...Kính mời bà Trần ngồi nghỉ.
Xin phép bà Trần cho tôi mấy phút để pha bình trà”. “ Dạ...Không dám
làm phiền ông, ông K. ạ”. Trời ơi , chúng tôi phải ăn nói lịch sự, trang trọng,
khách sáo đến như vậy sao? Từ bao giờ chúng tôi chỉ là
hai người quen, hai người đồng hương bình thường, chớ không
phải là hai người đã có thời yêu nhau tha thiết? Cái mặc
cảm thua thiệt của K. hơn mấy mươi năm trước hay chứng bịnh
quên trước nhớ sau, quên hình nhớ bóng của K. bây giờ?
Hay là cái mặc cảm tội lỗi quá lớn của tôi đã giăng
một màng sương tuy mỏng mà lạnh căm, để chúng tôi thành
hai pho tượng băng giá đứng giữa trời đông nhìn nhau mà
không cất lên được lời nào. Hơn hai năm qua , mỗi tháng
đôi lần trên đường giây điện thoại có lẽ chúng
tôi đã nói quá nhiều, quá đủ về một chuyện tình
thật xa nhưng không bao giờ cũ. Chuyện người nữ sinh mười tám
tuổi đã bỏ cái thị trấn tuổi nhỏ nghèo nàn để
bước vào đời; đã bỏ người tình từ thuở học
trò để lấy chồng rồi về quê hương chồng ở một
chốn xa xôi Seal Beach đó. Chuyện người con trai hai mươi đã
không giữ được người yêu thì màng chi đến việc
đèn sách. Chuyện tình như vậy thì đâu có gì là
lạ trong thế gian. Và người tình si suốt đời, thế gian cũng
đâu bao giờ cấm cản. Qua điện thoại, người mang bệnh tâm
thần tên K. cứ tiếng còn tiếng mất, lúc tỉ tê, lúc ngọt
ngào, khi giận hờn, khi tức tối ...Chuyện tình cũ theo đó mà
mới hoài. Từ hơn hai năm nay tôi dần dà trở thành người
kịch sĩ thượng thặng trong vai trò người chuyên viên khoa tâm
lý trị liệu bất đắc dĩ với cái tên Cindy Trần. Tôi
diễn xuất nhập vai đến nỗi bên kia đầu giây tại phố
núi Prairie View, K. không ngờ mình đang nói chuyện với người
tình tên T. của gần bốn mươi năm trước. Và tôi, lắm
khi trí não tôi cũng lững lững lơ lơ, tâm trạng tôi cũng
mờ mờ ảo ảo trong câu chuyện tình của chính mình. Có
lúc tôi thấy mình là T., cô Phan Ngọc T. của thị trấn đìu
hiu Long Thạnh đang lắng nghe tâm sự của người tình cũ; có
lúc tôi thấy mình thật là khốn đốn, khổ sở trong vai trò
người chuyên viên tâm lý Cindy Trần của phố biển Seal Beach. Trong
những lần điện đàm như vậy, có thể có lần tôi
khóc, hay từ bên kia đầu giây chính K. cũng khóc; có thể
một lúc nào đó hai trái tim chúng tôi cùng một nhịp,
cùng thổn thức, cùng nghẹn ngào. Chúng tôi đã sống lại
những ngày yêu thương cũ tại hai nơi hoàn toàn xa lạ đối
với mỗi người “ Bà Trần biết không, có bao giờ tôi
nghĩ tới một ngày tôi phải bỏ con sông thân yêu chảy lặng
lờ phía trước nhà, nơi tuổi trẻ tôi đã từng ngụp
lặn, nơi chúng tôi đứng bên nhau hàng giờ nhìn từng cụm
lục bình bình thản trôi. Những đêm trăng sáng, con nước
lớn như ngừng trôi để chúng tôi thấy bóng mình in trên
sóng nước. Làm sao tôi biết được một ngày nào đó
tôi phải vĩnh viễn mất T., người yêu đầu đời của
tôi. T. bỏ đi. Tôi cũng bỏ lại sau lưng dòng sông tuổi nhỏ,
bỏ lại đoạn quốc lộ sụp lở vào những mùa nước
nổi”. Trời ơi, K. đã nhắc tới những góc thật nhỏ
của quê hương tôi, đã rung hồi chuông thật khẽ mà làm
từng giây thần kinh tôi đau nhức. Làm sao tôi không nhớ được
những đêm trăng trên bến nước, nhớ lắm, nhớ thật nhiều,
nhớ từng cánh lục bình trôi; tôi như thấy trước mắt
mình hình ảnh K. đã từng dìu tôi bước qua đoạn quốc
lộ tróc lở đó để vào trường tiểu học. Rồi cũng
chính K. là người dìu tôi qua mấy đoạn đường trơn
trợt để vào trường trung học. Vậy mà có một ngày
tôi đã bỏ lại tất cả. Và bây giờ định mệnh nào
đã trớ trêu để chúng tôi gặp nhau trong tình cảnh lỡ
làng nầy. Suốt hơn hai năm chuyện trò qua điện thoại, nhiều
lần tôi phải tự nhủ mình : hãy đi theo con đường mình
đã chọn từ khi hay tin K. đến Mỹ: Chuyện tình của hơn bốn
mươi năm trước, từ thuở tóc hãy còn xanh, đã trót
dỡ dang; mỗi người bây giờ tóc đã hoa râm, mỗi người
có một hoàn cảnh riêng, trân quí giữ trong sâu thẳm lòng
mình những thân ái cũ chẳng phải là một hạnh phúc sao? K. trở ra phòng
khách với bình trà. Ông đã mặc vào bộ bà ba trắng
còn nguyên nếp gấp. Râu ria cũng được cạo sạch nên trông
K. bớt đi cái vẻ tiều tụy so với lúc tôi vừa mới gặp.
Nhưng đôi mắt K. thì vẫn vậy: như có lớp mây mỏng che
ngang khiến sự di chuyển có phần nghiêng chao. Hình như tôi chưa
tìm gặp dấu vết thân quen nào đó trên dáng dấp của
người đàn ông dấu mặt đã từ hơn bốn mươi năm
nay vẫn đi bên cạnh đời tôi. Tôi kịp nén một tiếng
thở dài. “ Để
bà Trần ngồi lâu một mình, tôi thành thật xin lỗi. Kính
mời bà Trần dùng ly trà nóng”. “Dạ không dám. Kính mời ông K.” “Dám hỏi bà
Trần, cơ may nào đưa bà Trần ghé thăm nhà chúng tôi
?” “Chỉ
tiện đường ghé qua thôi. Thưa ông K.”. Tôi hơi
nhếch mép cười sau câu trả lời không thật ấy. “Cảm ơn, rất cảm ơn
bà Trần”. “Dạ, không dám, thưa ông K.” . Những lời vô cùng khách sáo như vậy cứ
như thế mà tuôn ra suốt buổi hay sao ? Cách nhau cái bàn chỉ
rộng mấy gang tay mà trước đôi mắt mờ mịt của K. tôi
vẫn là Bà Trần xa xôi chớ đâu phải là người tình
tên Phan Ngọc T. của khung trời yêu thương bốn mươi năm cũ!
Về phần tôi, đã bao năm nước chảy qua cầu với bao nhiêu
mây trôi gió nổi, mấy bận đất ngã trời nghiêng, tôi
đâu còn tôi của những đêm trăng cùng K. đứng trên
bến sông nhìn những dề lục bình rau mát lặng lẽ trôi
dưới gậm cầu. Tôi đâu còn tôi của những ngày lễ
nghỉ học cùng K. ngồi xe lam từ thành phố Cần Thơ về thăm
thị trấn đìu hiu Long Thạnh. Tôi thật sự đã làm mất
tôi trong cuộc tình đầu. Cánh cổng của một tòa lâu đài
tình yêu đã đóng. Tôi ngác ngác ngơ ngơ giữa trời
cao đất rộng. Tôi chới với chơi vơi giữa mộng và thực.
Có lúc tôi thấy mình như tận lực dang tay ra cố chụp bắt
một chiếc bong bóng nhiều sắc màu đang lửng lơ trước mặt.
Đồng thời tôi cũng thấy mình co lại đôi tay, nén chặt
vuông ngực để trái tim đừng lên tiếng nói.Tôi là
gì và K. là ai, hai kẻ đang ngồi cách nhau mấy gang tay ? Tôi nghĩ
tình cảnh này sao chua xót quá. Hơn bốn mươi năm cách xa
nhau có chua xót bằng mấy giây hội ngộ đêm nay không? Tôi
biết tôi đang khóc. Tôi cũng biết K. sẽ không thấy vài giọt
nước đọng trên mi tôi đâu, cả cái dáng hình tôi
trước mặt bây giờ K. cũng còn không nhận ra nữa kia mà.
Có cần thiết để nhận nhau trong giây phút này? Hay hãy để
tình yêu xưa muôn đời ngủ thiếp trong từng ngăn kéo kỷ
miệm riêng tư?. Tôi vụt nói với K. tôi phải rời đây
ngay bây giờ. K. ngỡ ngàng đứng lên, hơi nghiêng ngã làm
đổ chén trà trên tay, nói, sao bà Trần vội quá vậy,
không chờ cháu Nga về đưa bà Trần ra trạm xe buýt. Tôi
tưởng Bà Trần ở lại dùng bữa cơm với cha con tôi mà.
Bà Trần. Bà Trần. Cái tên nghe mà chua xót! Cái tên giả
mà thực bỗng được nhắc tới liên tục ngay trong giờ phút
này càng khiến bước chân tôi rời khỏi căn nhà càng
nhanh càng tốt, trước khi tôi lỡ buột miệng nói với K. tôi
là T., Phan Ngọc T. của thị trấn Long Thạnh. Là em đây. Là em
đây. Hãy nhìn thật rõ trước mắt anh là T. của ngày
nào. Tôi thoát đi như chạy. Chân tôi còn nhanh hơn những
lời tôi sắp nói. Con dốc ngắn, ngoằn ngoèo, lỡm chỡm đá sỏi
đưa tôi xuống dòng xe cộ dưới chân đồi. Đi hơn nửa
con dốc, tôi ngoái nhìn lên để thấy căn nhà gỗ nhạt
nhòa trong sương đêm, và thấy một cái bóng trắng cao, gầy
giữa khung cửa mở. Phía sau căn nhà là vách núi cao như chạm
trời. Ô kìa trên vách núi ! Tôi có hoa mắt không ? Ai ? Ai
đã thần tình chạm trỗ một dòng sông đêm với cánh
lục bình nằm lẻ loi dưới bến? .
Nhìn xuống chân đồi tôi thấy người
con gái tên T. nào đó đang bồng bềnh trôi trong dòng xe cộ
giữa hai vách đá. Con tàu đêm rú một hồi còi dài,
dừng lại mấy giây rồi tiếp tục húc đầu vào núi. . Mọi sự đang ở phía sau lưng. . trần bang thạch
TRẦN BANG THẠCH truyện. _____________________________
ÔNG GIÀ
TRÊN BÃI RÁC BÓT SỐ 10 Qua khỏi thị trấn Cái Răng, chỗ gần đường Lộ Tẽ
Hàng Gòn thì bánh xe sau của chiếc Honda ôm bắt đầu xẹp.
Bánh trước cũng lần lần xẹp theo. Chú tài xế tên Chi càu
nhàu: -Biết
mà vẫn không tránh khỏi! Gió ngược. Ngồi phía sau xe, ông Năm cố
nói lớn tiếng: -Chú biết cái gì vậy? -Thì cái vụ rãi đinh xuống mặt đường. -Thường xảy ra
lắm sao? -Không
thường thì bọn nó lấy gì ăn. -Ăn đinh? -Bố ơi, mấy thằng vá vỏ xe ở đằng
trước kìa. Nó không ăn đinh, nhưng mình bị ăn đá. -Chuyện gì nghe lạ
quá vậy? -Chuyện
xã nghĩa mà bố. Cái gì cũng lạ hết. Ai mà dám mở
miệng cằn rằn mấy thằng vá xe về cái việc chúng nó rãi
đinh, cả cái việc tụi nó tính tiền thẳng tay, thì coi chừng
bị tụi nó. Bánh xe mình ăn đinh còn mình thì ăn đòn. -Dân Cần Thơ, Cái
Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà. Bây giờ
sao lạ vậy? -Thì
có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây từ sau cái
ngày ông cột đèn biết vượt biên nên cớ sự mới
ra nông nỗi nầy. Dân Cái Răng mình cũng đi tứ tán nhiều.
Kẻ lạ càng ngày càng nhiều và càng hung hăng con bọ xít. -Còn chánh quyền
ở đâu? -Ở khắp nơi, nhưng cá mè một lứa. Có quyền mà
không có chánh thì trị ai được. Mỗi người ăn mỗi
kiểu. Chức quyền ăn theo quyền chức. Dân khu đen ăn theo dân đen
khu. Bố lưu lại vài tuần ở cái Việt Nam nầy, bất cứ nơi
đâu, bố sẽ thấy hết những điều mà mấy mươi năm
cuộc đời của bố chưa từng thấy. Ông Năm không nghe rõ vì còn bận nghĩ
tới cái vỏ xe sắp hết hơi. Định xuống Phụng Hiệp thăm
thằng bạn nối khố từ thời tiểu học, nhậu quắc cần câu
với nó một bữa rồi chiều tối trở về Cần Thơ để
sáng mai lên Sài Gòn bay về Mỹ. Trục trặc kỷ thuật như
thế nầy thì biết bao giờ mới tới Phụng Hiệp. Ông Năm cũng
chợt nhớ đoạn đường nầy lúc ông còn là cậu học
trò trung học hàng tuần từ nhà trọ ở Cần Thơ về thăm
nhà ở Cái Chanh. Ngay ở đây ngày xưa là bót Tây số
9. Thêm 1 cây số nữa ở đằng trước là bót số 10. Thuở
đó ông Năm mười mấy tuổi nhưng ông vẫn còn nhớ
người lớn bàn tán thật nhiều về trận đánh đoàn
công-voa Tây trên đoạn đường nầy. Trận đó có một
thiếu niên trạc tuổi ông tên là Hai Cọp đã gan dạ chạy
lăn xả vào chiếc xe jeep có viên đại úy Tây tên gọi
là Tây Râu Đỏ. Cậu bé quăng trái lựu đạn vào
xe, giết ngay tên Tây Râu Đỏ. Dân quân thắng lớn. Từ đó
người thiếu niên Hai Cọp phải bỏ xứ đi đâu mất. Cũng
từ đó Tây dựng thêm bót số 10 ở ngay nơi xảy ra trận
đánh. Đến
lúc hai bánh xe bắt đầu xẹp lép thì cũng là lúc ông
Năm thấy hai, ba cái lều nhỏ che tạm bên lề đường với
những vật dụng vá xe lỉnh kỉnh. Khỏi mấy cái lều là đống
rác to và cao như một quả đồi nhỏ. Gió từ hướng phía
trước đưa mùi rác rưởi về phía hai người. Ông
Năm lấy tay che mũi. Xe chưa dừng lại hẳn trước cái lều đầu
tiên thì đã có mấy thằng nhỏ giành giựt khách. Đứa
thì nắm cổ xe, đứa thì đẩy yên xe về phía lều vá
xe của nó. Tài xế Chi hình như đã quen với cảnh nầy nên
để mặc mấy đứa nhỏ muốn làm gì thì làm với
cái xe xẹp bánh của mình. Chi dẫn khách vượt khỏi đống
rác, đi về hướng cái quán nước trên gió. Quán cũng
lụp xụp nhưng được hai mái che bằng lá, vách thì bằng
mấy tấm giấy dày. Hai cái bàn thấp với mấy cái ghế mũ
cũng thấp lè tè, đầy bụi bặm. Bà chủ quán đon đả
mời khách, còn người đàn ông đang nằm võng trong góc
đang đọc báo, không buồn ngó đến khách, có lẽ là
ông chủ quán.Tháng mười trời hơi âm u, sắp mưa. Gió
thổi mạnh nên mát. Tài xế Chi kéo ghế. -Ngồi xuống đi bố, nghỉ
chưn một chút. Bây giờ muốn đi gấp cũng không được. Hàng trong quán thật
sơ sài, trên kệ mấy chai nước lọc bên cạnh mấy chai 7-up,
vài chai bia Hậu Giang và một rỗ ổi, cốc, chuối xiêm, chuối
già. Tất cả mốc cời vì bụi.Tài xế Chi kêu một ly đá
lạnh, Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá
ở đây; kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không
mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại những nơi kém sang trọng
như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không
dám đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia
giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả tánh tình, tâm
sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời
nầy ở đây cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm
rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng bé Chi nghe người
lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác
sĩ. Có ông cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi
vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp
7! Còn bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến
sĩ. Chị giám đốc thì cái bằng tiến sĩ coi như bình
thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có hoa
vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây
giờ thì chiều nay tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ!
Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm đời nầy.
Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường
gốc miền ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí,
tới món tráng miệng bằng kem, cô tiến sĩ giám đốc dùng
bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly cà-rem
đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô
giám đốc nói là “nàm cho cà-lem bớt lóng mà
lồng chí ” !!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn
chui xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không
biết cà-lem xã hội chủ nghĩa “lóng” hay cái
hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo chơi
thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới
đó bỗng cười. Ông Năm không biết nó cười vì cái
gì. Ông lấy cái bị đeo sau lưng để xuống bàn, lấy
ra chai nước lọc, tu ngon lành. Ông Năm ngó lơ ngơ về hướng
bãi rác. Bên kia bãi rác là hai hàng xoài chạy dọc theo
con lộ nhỏ dẩn vào xóm nhà và khu vườn nằm phía sau
cánh đồng sát mặt lộ. Ông Năm loáng thoáng nhớ là
bót số 10 lúc trước nằm bên nầy lộ, đối diện với
con lộ hàng xoài. Hơn năm mươi năm rồi, hàng xoài đã
bao lần thay cây đổi lá. Bãi rác nay đã thay chỗ của cái
bót số 10. Ông Năm bắt gặp một ông già đi về hướng
quán. Gió ngược làm cho cái bọc ny lông to ông quẩy trên
vai như muốn bay về phía sau. Ông già cẩn thận để cái bọc
ny lông dựa vào vách, uể oải bước vào quán, kéo ghế
ngồi bên chiếc bàn trống. Ông già mặc cái quần kaki xanh lá
mạ bạc màu, vá tứ tung và cái áo thun 3 lỗ màu đất,
ướt mồ hôi. Có điều ông Năm lấy làm lạ về cái
đôi dép bằng vỏ xe trên đôi chân ông già; loại dép
nầy trước ngày xuống tàu hải quân tại bến Bạch Đằng
vào đêm 29 rạng 30 tháng Tư bảy lăm, chàng thanh niên Năm
Hùng chưa hề thấy nhưng nghe nói nó đã biến mất từ
mấy năm nay rồi mà. Bây giờ cán bộ văn minh hơn nhiều, giày
da, áo vest, xách samsonite. Ông Năm đoán ông già cỡ tuổi mình,
chắc cũng đã trên bảy mươi. Tự nhiên ông Năm xàng
qua ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải
khát. Ông già từ chối. Ông Năm hỏi chuyện, ông già không
mặn mà trả lời, có thể vì ông mệt, cũng có thể
ông không muốn nói chuyện nhiều với người lạ, mới gặp
ngoài đường. -Khá hông ông anh? -Lượm rác mà khá cái nỗi gì! -Không, tui muốn hỏi là
nghề nầy sống được hông? -Nghề nào mà sống hổng được. Không
nghề cũng đâu có chết. Có khi còn làm cha thiên hạ. Biết ông già
nói ngang như cua bò, ông Năm chuyển đề tài: -Hồi tui còn ở đây,
đống rác nầy hình như chưa có? Tài xế Chi chen vào: -Có rồi. Có từ
trước bảy lăm. Lúc đó rác rưỡi đã có nhưng
chưa nhiều. Sau bảy lăm thì rác nhiều hơn, rác khắp nơi.
Biết
tài xế Chi ưa nói chuyện ngoắc nghoéo, ông Năm không muốn
xen vào. Nhưng ông già lượm rác như bắt được cái
ý lắc léo của tài xế Chi: -Rác từ làng lên tỉnh, từ trên xuống
dưới. Chú em còn nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn há. Ông Năm giả vờ
đưa chai nước lên miệng, uống một ngụm. Tài xế Chi vỗ tay vào vế
một cái bạch rồi oang oang: -Đúng y chang! Tiá nuôi nói trúng hết xẫy!
Rác từ từng dưới lên từng trên, từ từng trên leo tuốt
lên sân thượng, từ đồng bằng ra hải đảo! -Có cái
gì mà không trúng. Hỏi bất cứ thằng nhỏ nào trên đống
rác kia, nó cũng biết như vậy. Nó biết cái tòa biệt thự
nầy có mấy đống rác, biệt thự kia có mấy ổ chí,
ổ rận. Nó còn biết cái tỉnh nầy có bao nhiêu chuột lớn,
chuột nhỏ đụt khoét khắp mọi nơi. Thấy câu chuyện mỗi
lúc thêm trầm trọng, ông Năm lại chuyển đề tài một
lần nữa : -Ông anh có con cháu gì nhiều hông ? -Có mà
như không. -Chắc các cháu đi xa ? -Cũng có đứa
ở gần. -Vậy thì cũng có con săn sóc cho ông anh được. -Thời nầy
mạnh ai nấy lo ông bạn ơi. Nghe ông già gọi mình bằng bạn, ông
Năm biết ông già đang có vẻ cởi mở rồi đây. Ông
Năm đi xa hơn một chút, mục đích là để cho qua thì
giờ đang khi chờ cái vỏ xe vá xong. -Ông anh chắc là dân
cố cựu ở đây ? -Ừ. Nhưng mà chỉ đúng một nửa. Bà chủ
quán xen vào : -Tui mới là người cố cựu. Còn anh Hai đây
chỉ mới trở về sau bảy lăm. -Chắc ông anh đi làm ăn hay đi lính ở
xa ? Ông già ngó lơ, làm như không muốn trả lời.
Bà chủ quán chen vào gọn hơ : -Đúng là đi lính
xa. Xa thiệt là xa. Mút mùa lệ thủy. -Ở đâu lận ? Bà chủ
quán hăm hở : -Thì tận ở ngoải. Ở ngoài Bắc đó,
phải không anh Hai ? Kể chuyện Lạng Sơn Cao Bằng cán gáo cho người
ta nghe chơi đi anh Hai, nhứt là cái chuyện mấy anh tập kết nổi
loạn đòi dìa đó. Còn chuyện vượt Trường Sơn nữa. Ông Hai vẫn làm
thinh. Câu chuyện có vẻ lý thú, ông Năm hỏi tiếp: -À! Vậy
là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách. -Tui xin lỗi anh
Hai nhen : Hiển hách hay không thì không thấy chớ tui thấy anh Hai
bây giờ càng ngày càng rách như cái túi ny lông cũ. Bà chủ
quán buông tiếng ứ hự ở cuối câu nói rồi cầm cây
quạt mo cau đuổi ruồi bay quanh mấy nải chuối. Mưa bắt đầu
rải hột lắc rắc. Thằng bé dẩn cái xe tới, dựng trước
quán. Tài xế Chi trả tiền. Một phần vì trời sắp mưa lớn,
phần khác là ông Năm thấy câu chuyện tới hồi khá thích
thú nên muốn ngồi nán lại một chút nữa. Ông Năm biết
gặp phải một đồng chí lão thành nên ăn nói cẩn thận
hơn : -Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ
hưu từ lâu rồi ? Ông Hai vẫn ngó mông lung ra ngoài con lộ,
tay vo vo mấy cọng râu bạc dưới càm. Bà chủ quán trả lời
thế : -Nếu được cho về hưu cũng là may. Cái nầy là
bỏ việc đó. Chửi lộn một trận rồi bỏ hết sạch, phải
không anh Hai ? Lon lá, chức tước, đảng điếc, nhà cửa...bỏ
hết. Không ở tù là may. Nói đi anh Hai, nói hết nghe chơi. Ông Hai vẫn làm
thinh. Tài xế Chi xen vào : -Uổng vậy tía. Một đời đi cầm bảng
đỏ, giận một chút rồi bỏ...đảng sao tía ? Ông Năm kề
tai nói nhỏ với tài xế Chi : -Nói nhỏ nhỏ vậy,
nên cẩn thận nhen chú mầy. Tai vách mạch rừng. -Bố đừng
có lo. Thời nầy những câu chuyện như vầy là chuyện nghe qua rồi
bỏ. Người ta bận rộn với mấy cái « cây »
và mấy tờ « đô xanh». Chẳng ai mà để ý
mấy cái chuyện bây giờ được xếp vào loại chó cán
xe như vầy. Chỉ những Việt kiều như bố mới run. Tụi tui thì...còn
khuya mới sợ. Nói đi tía nuôi, nói cái chuyện giận một
chút đó đi tía. Bây giờ thì bà chủ quán dừng tay
đuổi ruồi. Bà ngồi xuống ghế, cạnh tài xế Chi : -Không phải
chuyện một chút đâu à chú em. Ở trong chăn mới biết chăn
có rận.Tui nghe anh Hai nói cái gì là đạo đức cách mạng,
cái gì là cần kiệm liêm chánh gì đó. Anh Hai nói ảnh
không sống nổi với mấy cái cách mạng giả, liêm chánh
giả nên nghỉ chơi, phủi áo một cái xạch rồi về nhà
làm ruộng. Không chơi với mấy thằng người giả đó nữa.
Già, làm ruộng không nổi, đi lượm bao ny lông cho nhẹ. Coi như
bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu
có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ
chơi chịu. Cũng có nhiều người cán bộ hồi kết tàng
tàng như anh Hai vậy đó. Cuối cùng chỉ còn cái xác ốm
o, thui thủi một mình. Con cái đứa thì đi lính bên nầy,
đứa bên kia rồi chết trận, đứa thì đi học tập. Có
đứa lại nghe lời mẹ, không nhận ông già. -Con mà không
nhận cha ? Sao vậy ? Tài xế Chi ra vẻ sành đời : -Nhiều nguyên
nhân lắm bố ơi. Nào là có ngài hồi kết đem bà vợ
do cơ quan cưới từ Bắc vào, bà vợ cũ và con cái không
nhìn ; nào là có ông quan to nón cối súng ngắn súng
dài đâu dám đứng ra bảo lãnh đứa con đang học tập
cải tạo. Vậy là hai đàng ô rờ lui, ba đường ba, tui đường
tui, tình nghĩa đen thui của cha con mình có thế thui ! Ôi thôi,
cả một ngàn lẻ một cái « nào là ». Đến đây
thì nét mặt ông già hình như chùng xuống, ông lia lịa
vò vò mấy sợi râu rồi không nói không rằng ông đứng
lên định bước ra khỏi quán. Ông Năm kịp nắm tay ông
già giữ lại : -Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái
đã. Ông
già cố rút tay về. Ông Năm phải buông tay ông già để
lấy trong túi áo tờ 50 đô-la đưa cho ông già. Thật bất
ngờ, ông già cầm tờ giấy bạc để trên bàn, nhìn thẳng
vào mắt ông Năm, nói từng tiếng: -Tui không phải là người ăn xin. Không có
danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí.
Xin lỗi. -Không,
đây là tôi tự nguyện giúp đỡ ông anh chút ít hút
thuốc lá mà. Ông già chừng như không muốn nghe thêm. Ông bước ra khỏi
quán, vát cái bọc ny lông, dòm hai đầu quốc lộ rồi bước
qua bên kia đường. Bóng ông khuất giữa hai hàng xoài dưới
trời mưa lất phất. Nhìn cái vẻ tiu nghỉu của ông Năm, bây giờ
ông chủ quán mới buông tờ báo, rời võng đến bên
ông Năm, cắt nghĩa: -Ông đừng ngạc nhiên. Ông Hai Cọp là như
vậy. Ông không bao giờ nhận sự thương sót của ai. Ông còn
có cái mộng khác người là lượm hết rác của cái
xã hội nầy, cho nên chung quanh căn chòi của ông đầy những
rác, thượng vàng hạ cám. Ông nói một ngày không còn
đất chứa rác, ông sẽ đốt. Có người cắc cớ hỏi :« Như
vậy là ông đốt cái chòi của ông luôn sao ? »
ông Năm không ngần ngại : Đốt luôn. Cái chòi mình
nằm giữa một đống rác to tổ bố của cả nước thì
còn tiếc cái gì nữa. Cái nhà lầu cũng không tiếc. Ông
anh và chú tài nghĩ coi : Nhiều lắm là ông Hai sống
thêm chừng mươi năm nữa, không biết ông sẽ hốt hết rác
hay đống rác sẽ mọc tay mọc chưn tiến qua phía bên kia đường,
chôn luôn căn chòi của ông Hai lúc ông đang lum khum trong chòi,
chưa kịp đốt lên cái mồi lửa.
Ông Hai Cọp ? Hai Cọp ?
Ông chủ quán mới nhắc tới cái tên nầy, phải không ?
Ông Năm bóp trán. Hai tiếng nầy bỗng hiện ra trong đầu óc
ông Năm, mới đầu còn lờ mờ, sau rõ dần, rõ dần. Hai
Cọp. Cái tên Hai Cọp hiện ra cùng với cái tên Tây Râu
Đỏ và trận đánh đoàn công-voa của Tây. Hơn nửa
thế kỷ rồi ! Đứa con của Cái Răng trước sau vẫn vậy. -Đúng rồi.
Đúng cha nầy ! Hèn chi! Ba người trong quán không biết ông Năm
nói cái gì. Nhưng ông Năm biết ngày mai ông chưa về Mỹ
được. Ông muốn trở lại đây một lần nữa. Rớt xuống từ trời bây
giờ là cơn mưa lớn. Những giọt mưa như những giọt lệ
sót thương cho một đất nước đầy rác mà ông Hai
Cọp suốt một đời phục vụ và ông Năm đã nửa đời
bỏ lại. Trần Bang Thạch (để tặng
những người bạn Cái Răng và anh chị Huỳnh)
Trần Bang Thạch .Truyện MÓN QUÀ GIÁNG SINH Không thể
như thế được. Anh Armin nói thầm với mình nhiều lần như
vậy. Không thể có chuyện nầy. Nhưng cuối cùng Armin phải nhận
đó là sự thật. Chữ nghĩa lõm bõm, nhưng Armin có thể
đọc và hiểu được. Trước mắt anh là bản tin nhỏ
nằm khiêm nhường dưới góc mặt của trang báo Tin Địa
Phương : Tin về cái chết của bà Jean DeLong. Đúng hai tuần lễ
sau khi đưa bà Jean lên xe cứu thương, Armin mới biết được
tin tức của bà. Một tin rất buồn đối với anh. Tên của bà
Jean nằm giữa 12 tên khác. Đây là tên của những người
mới chết, tử thi đã được giảo nghiệm nhưng vẫn còn
để trong nhà xác của quận hạt Harris vì không có thân
nhân nhận xác. Bài báo cũng có nói là chuyện này xảy
ra rất thường. Tháng nào cũng có vài trường hợp như
vậy. Sau một thời gian thông báo, tử thi nào vẫn không có người
nhận thì văn phòng chung sự quận hạt sẽ lo việc chôn cất,
dĩ nhiên là tại một nghĩa trang công cộng nghèo nàn và
thiếu hẳn những nghi thức an táng trọng thể trước khi hạ huyệt.
Sẽ không có một thân nhân nào khóc thương hay nói lời
giả biệt cuối cùng với người chết. Sẽ không có một
cành hoa từ bàn tay thân nhân thả rơi xuống nắp quan tài. Nghĩ
đến điều nầy Armin thấy đau lòng thêm. Con mèo, con chó
khi chết còn có người chủ mình khóc lóc tiễn đưa
và trang trọng chôn cất nơi nghĩa trang đặc biệt dành cho những
con vật thương yêu. Có con chó chết đi còn để lại món
tiền kếch sù do cái “ will” của người chủ đã
chết. Có con mèo chết đi khiến người chủ khóc lóc suốt
tuần, mất ăn, biếng ngủ. Armin không phải là thân nhân bà
Jean, cũng không có khả năng tài chánh để làm người
hảo tâm tình nguyện đứng ra lo việc chi tiêu mai táng người
đàn bà mà nhiều năm nay Armin đã coi như người thân
nhứt của mình. Armin nghèo quá, lại một thân một mình nơi
xứ lạ này. Armin không quên được giờ phút cuối cùng anh
thấy bà Jean. Hôm đó, hai tuần lễ trước, bà Jean quị ngã
sau cánh cửa bà vừa mở để Armin bước vào nhà. Armin buông
vội túi giấy đựng thực phẩm và mấy món gia dụng trên
tay để kịp thời đỡ bà Jean không va đầu xuống nền nhà.
Ngồi dựa vào anh, bà Jean ngoẽo đầu sang một bên, hơi thở
nặng nề, đứt quãng. Bà cố nói, tiếng được tiếng
không, Armin không hiểu gì nên càng lúng túng, nhưng anh cũng
biết điều cần thiết phải làm ngay. Armin bồng bà Jean để
nằm trên sofa rồi bấm số 911. Khi nhân viên xe cứu thương
đến làm vài động tác cấp cứu, bà Jean trông tĩnh
hơn một chút, bà cầm tay Armin thì thào hai tiếng “cám ơn”. Armin cũng muốn nói
tiếng “cám ơn” với bà nhưng mọi chuyện bây giờ khẩn
cấp quá. Armin phải đứng dang xa để nhân viên cấp cứu làm
phận sự. Armin nắm vội mấy ngón tay xương xẫu của bà Jean
trước khi người ta đưa bà lên xe. Armin khóa cửa nhà rồi
trao chìa khóa cho nhân viên cứu cấp. Armin biết từ đây sẽ
không có ai vào ra căn nhà nhỏ nầy ngoại trừ bà Jean khi bà
mạnh khỏe trở về. Từ đó Armin mỗi ngày trông ngóng bà
Jean trở về. Điện thoại nhà bà không có người trả
lời. Cửa nhà vẫn khóa, bên trong không một ánh đèn.Vốn
tiếng Anh tiếng Mỹ nghèo nàn, lại mang thân phận người di dân
thiếu giấy tờ hợp pháp, Armin không biết đi tới bịnh viện
nào để thăm viếng bà Jean. Cũng không có ai là thân nhân
của bà Jean để hỏi. Ngày ngày trôi qua. Trong lòng Armin như
có lửa đốt. Bản tin ngắn gọn hôm nay đã làm thành
ngọn lửa đốt cháy niềm mong đợi của Armin. Như vậy là vĩnh
viễn người đàn bà già nua, nghèo khó, cô đơn ấy
sẽ không trở lại căn nhà nầy nữa rồi. Armin cũng không còn
mỗi tuần một lần mang đến cho bà Jean túi thực phẩm đủ
để bà dùng suốt tuần lễ. Công việc nầy Armin đã làm
từ gần hai năm nay. Lúc đó Armin vừa chân ướt chân ráo
đến thành phố nhỏ Waller này từ một làng nhỏ thuộc tỉnh
Lerado nằm bên kia biên giới Mỹ và Mễ Tây Cơ. Armin may mắn được
nhận chân bán hàng tại một tiệm bách hóa nằm ngoài
rìa thành phố với đồng lương thật thấp, chỉ vừa đủ
trả phòng trọ và hai bữa ăn. Nhà bà Jean cũng ở gần tiệm,
cách chừng hai dặm đường. Mỗi tuần một lần bà Jean đi
bộ đến tiệm mua thức ăn và vài món cần dùng cho nhà
cửa. Khi biết được sức khỏe bà Jean không tốt và bà
đi đứng rất khó khăn với cái tuổi trên bảy mươi,
Armin tình nguyện làm người mang thực phẩm cho bà hàng tuần.
Vốn là đứa bé thiếu mẹ từ lúc mới chào đời,
mười tám năm nay Armin lúc nào cũng thấy mình bất hạnh,
không có mẹ để được thương yêu. Chỉ cần vài
lần tới lui với bà Jean, dù hai người rất khó khăn khi nói
chuyện với nhau vì vấn đề ngôn ngữ, nhưng tình người
hình như lúc nào cũng đi trước nên bà Jean và Armin càng
ngày càng thấy gần gũi. Armin như tìm được điều mình
đã mất là tình mẫu tử. Armin cũng thấy bà Jean đối
với mình như người mẹ. Giáng Sinh năm ngoái là lần đầu tiên Armin biết thế nào là bữa Tiệc
Nửa Đêm. Bữa ăn rất đơn sơ với mấy miếng thịt gà
chiên và chai rượu chát đỏ nhưng thật đậm đà tình
nghĩa. Hai người nghèo khó chung một niềm vui Giáng Sinh trong căn nhà
nhỏ. Đêm đó trong ánh nến lung linh huyền ảo của Đêm
Thánh Vô Cùng, lần đầu tiên Armin đã khóc
trên cánh tay của người đàn bà mà Armin thấy trước
mặt là dáng hình Đức Mẹ Maria nhân ái. Đêm đó,
không nói một lời, bà Jean đã tháo sợi dây chuyền trên
cổ, bà thân ái đeo vào cổ Armin. Đó cũng là quà
Giáng Sinh đầu tiên của đứa con côi cút trong suốt gần hai
mươi năm có mặt trên đời. Sợi dây chuyền bằng bạc
đơn sơ với tượng thánh giá nhỏ bằng ngón tay út. Có
lẽ đó là món đồ quý giá nhất của bà Jean. Bà
Jean nghèo lắm, nhiều lần bà Jean nhờ chủ tiệm cho bà mua thiếu.
Chủ tiệm cũng là người tốt bụng. Ông nói ông biết
bà Jean từ vài năm nay. Đó là người đàn bà hoàn
toàn cô đơn, sống một thân một mình trong căn nhà biệt
lập với các nhà hàng xóm. Nói là nhà chớ thật sự
nơi bà cư ngụ là túp lều nhỏ nằm phía sau một nền
nhà còn dấu vết của một cơn hỏa hoạn nhiều năm trước;
cây cỏ xung quanh mọc tự do. Con lộ lót sỏi dẫn vào nhà, cách
xa đường xe cộ lưu thông, thiếu bước chân đi lại nên
cỏ mọc lan ra tới gần giữa đường. Khi có những cơn mưa
lớn, con lộ ngập đầy nước. Căn nhà của bà cũng ngập
nước. Thỉnh thoảng vào những ngày nghỉ việc, Armin chỉ đủ
sức dọn dẹp cỏ rác quanh nhà cho phong quang một chút. Hai năm qua
tới lui với bà, Armin chưa một lần nghe bà Jean nói tới một
thân nhân nào; dễ chừng bà Jean đã sống cô đơn như
thế nầy từ nhiều năm rồi. Như vậy những năm tháng cô đơn trên
thế gian của bà Jean đã hết. Nhưng sự cô đơn cố bám
theo cái tử thi tàn lạnh của bà thì đau đớn quá, bi thảm
quá. Một tử thi vô thừa nhận nằm mười mấy ngày trong nhà
xác để từ mấy hôm nay người ta phải rêu rao trên báo
tìm thân nhân. Hàng trăm, hàng ngàn bàng dân thiên hạ
biết rằng trên thế gian nầy có những người vô cùng bất
hạnh. Đánh mất một món đồ người ta còn tìm kiếm.
Còn bà Jean, cho tới chết vẫn biệt tăm thân nhân để lo bề
an táng. Hay thân nhân có biết nhưng vẫn làm ngơ? Chồng con bà
đâu? Cháu chắt bà đâu? Rồi đây người đàn
bà xấu số của mấy mươi năm trên đời sẽ từ giả
cõi đời trong lặng lẽ, âm thầm, không tang lễ. Thân xác
bà sẽ vùi chôn trong một nghĩa trang công cộng, không người
viếng thăm. Không được. Không thể nào như vậy được.
Người đàn bà đã có lần là hiện thân của Đức
Mẹ trước mặt Armin trong đêm Giáng Sinh năm ngoái không thể
ra đi cô đơn như vậy được. Món quà Giáng Sinh của
bà Jean, Armin đang đeo trên cổ, phải chăng đêm ấy bà Jean
muốn nói với Armin rằng “con là người thân nhất của ta
bây giờ”? Trong trí nhớ của Armin là một bà Jean ít
nói, sống khép kín với lối xóm chung quanh, nhưng không buồn
bã. Mỗi lần gặp bà Jean là Armin thấy nụ cười trên gương
mặt già nua nhăn nheo của bà, mười lần như một. Armin nghĩ
bà Jean vừa lòng với số phận và hoàn cảnh của mình,
không một tiếng oán than, không trách mình cũng không trách
người. Nhiều khi Armin có cảm tưởng bà Jean chỉ thích nói
chuyện với mình, nhứt là mỗi khi hai người dọn dẹp
cỏ rác, cây cối quanh nhà. Giữa thiên nhiên trông bà Jean thật
vui và thật năng động. Bà vừa vun bón mấy chậu hoa, vừa
hát khẽ một bài hát có âm điệu vui mà Armin đã
nghe nhiều lần. Gặp con sâu, con dế hay cả con rắn nhỏ bà Jean chỉ
xua chúng đi chỗ khác. Có khi bà nói về dãy mây lang thang
trên nền trời, mây bay vô định, không cửa không nhà, vô
thân tứ cố, nhưng mây có cuộc sống vô tư, có ai nói
là mây có tâm sự buồn đâu. Con sóc, con chim trên cây
sau nhà cứ chạy nhảy, ca hót, nào có nghĩ tới nhà cao cửa
rộng, mồ yên mã đẹp gì đâu. Phải rồi. Lúc sống
bà Jean sống an bần, lạc đạo trong căn nhà nhỏ bằng
cái hộp, thiếu những tới lui, thăm hỏi của thân nhân ruột
thịt…thì khi chết chắc bà cũng không nghĩ gì tới những
lễ nghi, lắm khi hời hợt, theo lề theo thói. Có nghĩa gì mấy
lời thương tiếc của những người thân đã quên mất
bà từ lâu. Ý nghĩ nầy đưa đến cho Armin một quyết định
dứt khoát. Armin phải làm một cái gì trước khi quá trễ.
Thêm một Giáng Sinh sắp tới rồi. Giáng Sinh năm ngoái, Armin không
có một món quà nào cho bà Jean thân thương của mình.
Năm nay phải có. Armin tuy nghèo nàn, không một đồng xu dính
túi nhưng phải có một món quà Giáng Sinh cho bà Jean. Bà
Jean cũng nghèo nàn, nhưng bà đã cho Armin cây thánh gíá,
vật gần gũi của bà. Trong giây phút nhiệm mầu của một đêm
Thánh, Bà Jean nghèo tiền, nghèo bạc nhưng giàu tình thương,
qua món quà là vật thiết thân của mình, đã
cho Armin niềm tin và tình mẫu tử, cái mà mười mấy năm
làm người Armin còn thiếu. Nghĩ là làm. Armin đem chuyện
an táng bà Jean bàn với ông chủ của mình. Ông chủ cũng
đồng ý với Armin là có lẽ bà Jean cũng không mong có
thân nhân đọc tin báo rồi tìm đến nhận xác bà rồi
đem chôn cất nơi đàng hoàng tử tế. Giá mà có ai
thương tình mà tình nguyện làm việc đó thì chắc
bà Jean cũng không hài lòng. Sống thế nào thì thác thế
ấy. Sống đơn giản, chết đơn giản. -Nhưng tui
muốn được đưa tiễn bà Jean. -Đưa
tiễn thì được, nhưng lãnh bà về chôn cất thì chắc
mình không làm nổi. Tốn kém lắm. -Nhờ ông
chủ liên lạc với nhà xác để cho tui biết ngày giờ họ
đưa bà ra nghĩa trang. -Việc ấy thì không khó.
Chiều
nay thời tiết trở nên lạnh hơn những ngày trước. Gió tháng
chạp lạnh như dao cắt. Trời rắc những hạt mưa nhỏ, vừa đủ
ướt áo. Ngày mai là Giáng Sinh rồi. Armin mặc phong phanh chiếc áo
gió nên run lập cập. Armin đã tới nghĩa trang từ trưa. Nghĩa
trang nằm cạnh cánh rừng, trong vuông đất trũng có thật nhiều
cây cao xung quanh, xa phố xá và nhà cửa. Đường đi trơn trợt,
nhiều đất hơn đá. Mộ là những phần đất nhỏ, bằng
mặt. Không có lấy một núm mồ. Mộ bia là những trụ xi
măng nhỏ, thấp, nhiều cái nghiêng ngã. Không một cây hoa kiểng.
Có nơi cỏ mọc cao che hết phần mộ.Lúc chập tối đoàn
đưa xác mới đến. Người ta để bốn cái quan tài
chung trong một chiếc xe mui đen. Không có xe mô-tô cảnh sát hộ
tống.Bốn cái lỗ huyệt đã được đào sẵn, nằm
gần nhau. Như vậy là những tử thi khác theo thông báo đã
có người nhận. Khi bốn quan tài đưa xuống từ chiếc xe thì
thủ tục an táng làm thật nhanh, cũng có vị mục sư đọc
kinh tập thể rất ngắn cho bốn quan tài. Ai cũng muốn làm xong cho nhanh
để về. Chỉ có mấy nhân viên nhà xác và Armin. Không
có một thân nhân nào của bốn người chết. Khi các quan
tài hạ xuống huyệt, Armin đọc thầm mấy lời kinh rồi ném
một bó hoa huệ trên mỗi nắp áo quan, tiễn đưa người
chết. Riêng phần huyệt của bà Jean thì Armin cúi đầu thật
lâu, miệng thì thầm mấy lời vĩnh biệt. Ngoài bó hoa huệ, Armin bỏ xuống lòng huyệt vòng nguyệt
quế với dãy lụa trắng viết chữ đen : « Thành
kính tặng Mẹ món quà Giáng Sinh năm nay ».
Đoàn
người và xe đã về từ lâu. Armin vẫn còn muốn ở lại
đây cho tới khuya để trông thấy một thiên thần bay lên vùng
trời cao rộng với vòng nguyệt quế còn ấm tay mình.
Xmas
2007 . Trần Bang Thạch
|
|
|