Chân
và Mỹ.
.
April
27, 2008
.
Anh Liêm thân,
.
Trong một email gần
đây cho anh Trí và bằng hữu, cũng về dịch thơ cổ, Anh có
viết: “Mỹ trung kỳ chân, chân trung kỳ mỹ.”
Thầy Trần Bang Thạch giảng: “trong “mỹ” có “chân”
trong “chân” có “mỹ”.
Nội dung thơ nầy là lạm bàn
về chân và mỹ.
.
Chân:
Trong quyển “The Heart Sutra” Sư OSO viết:
“Khi Pontius Pilate hỏi Chúa
Giê-Su, “Chân lý[1] là gì?” Chúa Giê- Su im lặng. Không phải
chỉ thế thôi. Chuyện kể rằng khi Pontius Pilate hỏi, “Chân
lý là gì?” ông ấy chẳng đợi nghe câu trả lời,
ông ấy liền đứng dậy và ra khỏi phòng. Thật
lạ lùng!
Chúa Giê-Su giữ im lặng bởi vì Ngài cũng biết
điều ấy không thể nói thành lời.
Pontius Pilate—con người La Mã, con
người của logic La Mã, của những giá trị La Mã— nghĩ rằng
vì không có chân lý nên không có câu trả lời, nên
không chờ câu trả lời. Con người của vọng ngã
chỉ thấy có cái tương đối của cuộc đời thực tiển[2]. Chúa Giê- Su im lặng chẳng phải vì không
có chân lý, mà bởi vì chân lý quá mênh mông, bao la,
vô cùng, vô tận, nên không thể nói thành lời, diễn tả
bằng ngôn ngữ được.[3]”
Cùng một kết
luận—không diễn tả được bằng lời—nhưng một bên—Pontius
Pilate—phủ định, không có, một bên khác—Chúa Giê-Su—
trực nhận, thấu suốt, có mà bất khả tư nghị.
Oso phân biệt “truth” với “reality”. Cả hai đều
nói cái chân, nhưng “truth” là tuyệt đối mà “reality”
là tương đối, chủ quan, tùy thuộc người nhận thức.
.
Tôi
mượn lời OSO để mở đầu,
“Chân” sẽ dùng trong nghĩa truth—chân lý,
sự thật tuyệt đối—như trong những suy nghĩ của
OSO; “hiện thực” –hay ngắn gọn hơn—“thực” hay “thật”
sẽ dùng trong nghĩa reality, tương đối, bao gồm những nhận thức
chủ quan của con người.
.
Trong bối cảnh của thơ nầy, “chân” và “thật”
có nghĩa như sau:
Theo Phật gia, có chân, có cái
chân tuyệt đối. Chân Tâm, Phật tánh, Chân Không đều
là có thật, hiện hữu và tuyệt đối, không thể nghĩ
bàn. Đối với đông đảo Ky-Tô hữu, cái chân
tuyệt đối nằm trong Chúa, đó thuộc lãnh vực đức tin,
không thể nghĩ bàn.
Tôi
cũng nghĩ có cái chân tuyệt đối: i/ tính vô thường
của sự vật, tính đổi thay, biến hóa của tạo vật; ii/ những
sự việc, những biến cố— xảy ra hằng ngày—thì
hiện hữu, thật có, dầu chỉ trong một sát na, dầu rằng
liền sau đó nó biến hóa theo luật tự nhiên của trời đất.
Sự hiện hữu ấy là chân, là thật có, tuyệt đối hiện
hữu ở thời điểm xảy ra.
.
Những cái mà con người bắt gặp
sự việc hay biến cố là hiện thực. Có nhiều lý do để
nói hiện thực không là chân:
1.
Con
người nhận thức cái chân qua tri giác của mình, hay rộng hơn
qua vọng ngã[4] của mình. Chụp vọng ngã của mình
lên sự việc, đó là hiện thực. Rồi luận bàn,
suy diễn, phê phán, lại không ý thức tính vô thường của
sự vật, cũng không ý thức rằng thật sự mình chỉ nắm
bắt thực tại qua giác quan, kinh nghiệm, trí tuệ, xúc cảm của
mình,..., rồi xác quyết rằng đó là chân. Thật sự là
cái chân đã bị cắt xén và bóp méo.
2. Nhìn ảnh của một ngôi sao S qua viễn vọng kính là
hiện thực. Đó là ảnh của S và không là S. Có
hai lý do: ảnh của một người chắc chắn là không là người
đó. Và có thể ở thời lúc thấy S, thì S đã
chết từ mấy ngàn năm rồi, vì ánh sáng phát xuất từ
S đã để mấy ngàn năm mới đến viễn vọng kính[5].
Cũng
tương tự, biến cố xảy ra ở thời điểm T, ta ở ngay trên
hiện trường vào thời điểm T. Ta thực chứng biến cố.
Nhưng ánh sáng đi từ biến cố đến nhản quan của ta
phải mất một thời gian t, như vậy cái mà ta thấy không phải
là biến cố ở thời điểm T mà là hình ảnh của biến
cố thu qua tri giác ở thời điểm T+t. Như vậy, cái
mà ta nhận thức—là ở thời điểm T+t—là hình ảnh
của một sự việc xảy ra hồi thời điểm T đã qua rồi,
một hình ảnh thuộc quá khứ.[6] Cái chân
xảy ra ở thời điểm T, Hiện thực bắt gặp là
ở thời điểm T+t.
.
Vậy hiện thực không
là chân, nhưng, trong một giới hạn nào đó, mặc khải cái
chân qua tâm vọng.
.
Trong giới hạn
định nghĩa trên đây về chân và thực (hiện thực), thì
chân và thực đều hiện hữu, thật có. Vậy chân không
là một ảo số, không là một ý niệm, không là hiện
thực. Chân là chân, đứng ngoài những thang giá
trị. Nói giá trị , là nói lãnh vực con người,
những phê phán, so sánh, tiêu chuẩn thuộc lãnh vực hiện thực[7]. Trong một giới hạn nào
đó, chân thuộc lãnh vực đức tin. Phật gia tin ở
Chân Tâm. Ky-Tô hữu tin ở Thiên Chúa. Thiên Chúa
hiển lộ, mặc khải cùng khắp, ở mọi nơi chốn, ở mọi
sự vật, ở mọi thời lúc. Thiên Chúa không là một người,
không là một vật, không là một ý niệm[8]. Ở lãnh
vực đức tin, thì bất khả tư nghì[9]
.
Thiết nghĩ cần thêm đôi
giòng minh xác nghĩa của vọng.
Vọng ngã là cái
“tôi” hình thành suốt giòng đời, khởi từ trong bụng
mẹ, do những tác động của môi trường. Khi còn trong bụng
mẹ thì do khí huyết và những sinh hoạt của mẹ mà thành,
lúc chào đời thì do môi trường chung quanh tôi luyện, uốn
nắn, tạo nên. Mẹ cha, thầy cô, gia đình, học đường đều
cùng một cứu cánh: đào tạo những con người, những nhân
cách, những cá tính. Một sự nghiệp, một trật tự xã hội,
những đức tính.
.
Vọng ngã đa dạng, xác định bởi nhiều tham
số. Trong cái nhìn vĩ mô, có thể kể: di truyền,
khả năng, tài khéo, kiến thức, kinh nghiệm, tình cảm, cá tính,
tích tụ suốt giòng đời, được ý thức hoặc bị
chìm sâu lảng quên trong tiềm thức. Mỗi nơi ở mỗi thời đều
có một nếp sống văn hóa của nó. Phong tục, tập quán,
luân thường đạo lý, để chỉ nêu một vài điểm
cụ thể. Mỗi một cá thể mang một nếp văn hóa
đặc thù phản ảnh bối cảnh lịch sử mà nó sống. Ở
một nơi nhất định, một thời điểm nhất định, vọng
ngã hiển lộ dưới những hiện tượng nhất định. Chỉ
có là ta ý thức hoặc không ý thức mà thôi.
.
Không
ý thức, lấy vọng làm chân, tức là mê, mê lầm. Chân
bị vọng ngã che lấp. Giác ngộ—trong một giới hạn nào
đó—là ý thức rằng mình bị che lấp, trực ngộ sự
che lấp và cảm nhận sự hiện-hữu, hoặc trực nhận sự mặc
khải của cái chân. Khởi đầu có thể là cảm giác
một sự bừng tỉnh, thức ngộ mình bị điều kiện hóa,
bị điều khiển, bị vận dụng bởi cuộc sống, bởi nếp sống
văn hóa mà mình hấp thu. Cũng có thể thức ngộ
rằng lâu nay, mình đã đồng nhất mình với sự nghiệp,
với tài năng, với vai trò trong xã hội, với trách nhiệm, với
nhân cách, với những giá trị lượm- lặt vun-trồng-và- tích-lủy
suốt giòng đời. Cũng thức ngộ rằng vì đó, mình bị
quay cuồng, điên đảo. Và cũng cảm nhận rằng tất cả đều
tùy duyên mà thành và không ngừng đổi thay. Tôi là ai? Là cha? Là mẹ?
Là chồng? Là vợ? Là con? Là anh, chị, em? Ông nầy, bà kia?...Phải
chăng tôi chỉ là những vai trò, như người diễn
viên sân khấu, hết vai nầy đến vai khác, và trong mỗi các
vai, phải theo những qui định ít nhiều rõ ràng, nịnh phải ra
nịnh, trung phải ra trung, thiện ác, trên vẻ mặt, rõ trong lời ăn,
tiếng nói, tướng đi, cử chỉ và hành động? Vậy, cốt
tủy tôi là gì? Cuộc sống nầy là sao? Cái chân thật rốt
ráo của cái tôi, của cuộc sống? Như tỉnh thức
sau một cơn mê loạn, con người bắt đầu vấn hỏi về mình,
về cuộc sống, và dần dần khám phá vọng ngã. Có
vọng ắt có chân. Vọng chân tương khắc—cái
nầy không là cái kia—nhưng cũng tương sinh—cái nầy
ẩn tàng ám hiểu cái kia. Thế nên, đông đảo
người “biết vọng không theo”, hoặc cho rằng khi bức màn
che lấp—vọng tâm, vọng ngã—rơi xuống thì “chân tâm
hiển bày”. “Chân” đối đãi với vọng,
nghĩ cho cùng, cũng là một khái niệm đối đãi, tức
tương đối, như thị phi, hay dỡ, xấu tốt, đúng sai, thành
bại, được thua,...Chân, trong cái nghĩa tuyệt đối, hẳn là
không thể là một tác nhân đối đãi. Tự
nó, nó hiện hữu. Nó không tùy thuộc ở “nhãn
nhĩ tỷ thiệt thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp”[10]. Nó “bất
sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”[11], không thiện,
không ác, không chánh không tà, không đầy không vơi,...
Nhưng khi có vọng ngã chụp lên nó, phủ lấy nó,
nó biến thành hiện thực, và vì theo đó thường có
phê phán, nên mới phát sinh các khái niệm thiện ác, đúng
sai,.. thị phi đôi ngả.
.
Tóm lại, trong giới hạn những hiểu biết của tôi về Phật
giáo, tôi mượn Phật gia để xác định nghĩa
của “chân” và “vọng”. Chân—tuyệt-đối, rốt-ráo—
gọi là chân, và tương đối, vọng-chân, thuộc lãnh vực
hiện thực. Trong phần sau, tôi sẽ dùng chân, vọng và
hiện thực trong nghĩa vừa nêu trên.
***
Mỹ là đẹp, nói một điều tốt. Mỹ nữ, mỹ
nhân nói một người con gái đẹp. Mỹ tục nói một phong
tục lệ đẹp. Mỹ thuật, mỹ nghệ nói cái nghề
và kỹ xảo về cái đẹp. Mỹ từ là nói lời hay tiếng
đẹp. Mỹ tữu là nói rượu ngon.
Đối với đẹp là xấu, đối với ngon là
dỡ. Cho nên, mỹ thuộc lãnh vực thị phi, thiện ác,
đúng sai, chánh tà hai ngả. Mỹ thuộc lãnh vực
cảm giác và giá trị, tùy thuộc tiêu chuẩn qui định. Vậy,
mỹ tùy thời, tùy nếp sống văn hóa của môi trường,
và do đó, cũng tùy sự nhận thức chủ quan của cá thể
hoặc của một cộng đồng. Như vậy mỹ thuộc lãnh
vực con người, thuộc vọng tâm, thuộc hiện thực. Mỹ
không là chân.
Mỹ—riêng về nghệ thuật—được
phân chia thành nhiều lãnh vực: văn chương, thơ phú,
triết học, kịch nghệ, hội họa, điêu khắc, nhạc,.., càng
ngày càng nhiều, và càng chuyên biệt. Có những thứ mà
trong xã hội đông phương xem thường, mà giờ đây, do giao
lưu văn hóa, do sự tiến bộ xã hội đã trở thành một
sinh hoạt quan trọng. Thí dụ các nghệ sĩ sân khấu, xưa xem là
“xướng ca vô loại”, thì giờ được một sự quí
trọng tương xứng.
Nấu ăn giờ đây cũng là một nghệ thuật.
Quần áo thời trang cũng là một nghệ thuật.
Trong nghệ thuật trang thí chẳng hạn, có
trang trí nhà cửa, có cắm hoa, có nghệ thuật trình bày thức
ăn, quần áo thời trang, .. và những lãnh vực nầy lắm khi không
liên quan gì với nhau cả.
Nghệ thuật nấu ăn có một phần chung với
trang trí, nhưng xa cách hẳn với văn chương, thơ phú[12]. Ngay trong trang trí, trang thí món ăn, trang trí nhà
cửa, cắm bông hoa, dầu có cái chung—cân xứng ở hình thái,
hài hòa ở màu sắc,..—cũng có lắm khác biệt.
.
Trong
“Lữ Bố hí Điêu Thuyền”, cái chung là: “hí”.
Con ngựa đực—sung mãn, thấy bóng, nghe hơi con ngựa cái—hí
vang, nói sự tham muốn, thèm muốn, khát khao của bản năng.
Mấu chốt là hí, có thể ve vảng, nói tình, nói ý,
ghẹo nguyệt trêu hoa, nói bóng nói gió, phong tình lã lướt,
nhưng Lữ Bố, người anh hùng một thuở, có sợ ai—cả
quan Tư Đồ (quyền cao chức trọng, tham vọng mút trời, và là
cha của người đẹp) còn phải nể—mà chỉ có thể
“hí” người đẹp. Mô tả cái “hí” ở cử
chỉ, thái độ, sắc diện, điệu múa, nói lối, lời ca,
và những phản ứng của người đẹp, tất tất đều quay
chung quanh cái “hí” của người hùng. Bằng không thì Phụng
Nghi Đình có khác gì chuyện tình An Lộc Sơn và Dương
Quí Phi. Nhưng hát bộ thì khác, cải lương thì
khác. Cùng là hát bộ—hay cải lương —diển xuất mỗi
gánh hát mỗi khác. Và cùng một tập hợp đào
kép, cùng một tuồng tích, buổi trình diễn này khác với
buổi trình diễn kia, cái khác là do sự hứng khởi lúc bấy
giờ của nghệ sĩ mà nguồn khởi có thể phát xuất từ
thành phần khán giả, tùy cái không khí hôm ấy, tùy
người cầm chầu, và nhiều yếu tố khác nữa, mà người
ngoại cuộc không bao giờ thấu hiểu.
Có lẽ vì
thế mà nữ nghệ sĩ Sáu Trâm, danh tài một thuở, đã
nói:
“Trong nghề ca hát, nếu
không có một ông thầy tuồng dìu dắt, không có người
bạn đồng diễn, đồng sắc, đồng tài, thì người diễn
viên khó có thể thành công lớn.” [13].
Ở
thời ấy— thời mà “trai không được xem Thủy Hử”,
“ nữ bất khán Thúy Kiều”[14]— phải thuộc giới xướng ca, “có
loại”, “có hạng”, có tài sắc song toàn, có thực
sự dấn thân và thật sống với sự nghiệp cầm ca, mới thốt
lên được lời lẽ như trên đây. Nghệ nhân phải học
tuồng, học diễn xuất, theo sự hướng dẫn của người đạo
diễn—lúc bấy giờ là ông thầy tuồng—cùng người
diễn tập tuồng, tập những bộ điệu. Và trên sân khấu
thật, cái TÔI của mình hoàn toàn mất đi, chết đi, chỉ
còn các vai—Lữ Bố, Điêu Thuyền, trong bối cảnh Phụng Nghi
Đình, mà tình tiết, tất tất đều theo truyền thống, theo
nghĩ suy và trí tưởng tượng của ông thầy tuồng—mà
nghệ nhân phải hội nhập, dung nhiếp, sống theo qui ước cổ truyền
của tuồng tích, về nhân vật mà họ diễn xuất. Nói cách
khác, đào và kép—thương, bi, lẳng, ghen, hận, ác, hay
độc, trung, nịnh, hề,..,— tất tất đều phải dẹp cái
“tôi” thân thiết hay vĩ đại của mình sang bên,
để chỉ sống cái vai tuồng mà mình đang đóng. Bỏ
cái “tôi hư giả” nầy để sống cái hoàn toàn
hư cấu, các vai diễn xuất trên sân khấu. Vậy mỹ thuộc lãnh
vực hư giả. Thi nhân thả hồn theo thi hứng, người viết truyện
có khi bị nhân vật trong truyện—thường là hư cấu—dẫn
dắt, để không còn biết mình là người chủ động.
Như vậy có nên chăng
kết luận rằng trong một giới hạn nào đó “trong mỹ không
có cái gì là chân cả?”
Nhưng chắc chắn là có cái thật, cái hiện thực.
Trang Chu mộng Hồ Điệp, khi tỉnh
mộng không biết mình là Chu hay là bướm. Cô
Sáu Trâm đóng vai Điêu Thuyền, Cô Sáu Trâm là thật,
Điêu Thuyền cũng là thật sống, dầu là nhân vật hư cấu.
Trang Chu, Hồ Điệp, Sáu Trâm, Điều Thuyền đều là thật
sống, nhưng đều phù du, hư giả, có duyên thì hợp, hết
duyên thì tan. Hợp tan, sinh tử, biến đổi, vô thường là
bản chất, thân phận của con người, là cốt tủy của giòng
đời, nói riêng của mỗi con người chúng ta. Nhưng
tất cả phải phản ảnh một cái gì đó rất là người,
cái chất người, con người của muôn nơi muôn thuở.
.
Cho nên, mỹ không là chân. Nhưng trong mỹ, có chân,
dù là một thoáng, dù chỉ là cái chân đã bị bóp
méo, hoặc chỉ phảng phất cái chân—mờ nhạt, đậm nét,
tô điểm thêm, hay chi chi khác—tùy khả năng, kinh nghiệm, động
cơ, hứng cảm của nghệ nhân, và cũng tùy bối cảnh thực
hiện mỹ phẩm[15]. Lữ Bố
hí Điêu Thuyền, Hạng Võ biệt Ngu Cơ, là những sự kiện
thật có xảy ra trong một bối cảnh nhất định của nước
Trung Hoa. Nhưng tình tự con người—mỹ nhân và danh tướng,
anh hùng mạt vận—biểu hiện một cái gì đó chân chất
nhờ vậy mà khán thính giả bắt gặp, cười, vui, hận, khóc,
thả hồn mình theo ánh sáng, màu sắc, âm thanh, thái độ,
cử chỉ, điệu bộ, lời nói, giọng ca, nói chung cách diễn
xuất của mỗi nghệ nhân.
Phải có cái chân bàng bạc,mặc khải trong
mọi sinh hoạt hay tác phẩm nghệ thuật.
.
Tuy nhiên, nói “Mỹ trung kỳ chân,
chân trung kỳ mỹ,” nghe như có thuận có đảo, thì
có người[16] có thể ngộ nhận là chân và mỹ là
một, chân tức mỹ, mỹ tức chân, “chân bất dị mỹ, mỹ
bất dị chân[17]. Mỹ—trong cái nghĩa mỹ thuật, nghệ
thuật—là thực mà không là chân. Chân, thật
khác biệt, chân, mỹ khác biệt.
Nhưng trong cái nhìn của Phật gia, hoặc cái nhìn của
một số tín hữu Ky-Tô giáo, thì chân là cái mỹ tuyệt
đối, không thể nghĩ bàn. Nhà Phật tu hành để
ứng ngộ chân tâm, toàn thiện, toàn mỹ. Người
tín hữu Ky-Tô nguyện cầu trực ngộ Thiên Chúa, về nước
của Đức Chúa Trời, đạt đến cái chân lý tận cùng
của sự vật, tận cùng, toàn thiện, toàn mỹ.
Vậy nói Chân tức Mỹ, Mỹ tức Chân, thì chỉ có thể
nói trong nghĩa nầy, chỉ trực ngộ được với điều kiện
cần là trút bỏ được cái tôi hư giả, thân phận
con người—ít nhất là với một số tín hữu Phật giáo
, hoặc Ky-Tô giáo.
.
Thi thơ thuộc lãnh vực mỹ thuật, tức là hoàn toàn
trong vọng, nói riêng trong cái thật. Thật, trong nghĩa hiện
thực trên đây.
Thơ là ngôn từ và âm vận.
Không chỉ ngôn từ, âm vận, mà còn ý tình. Ngôn từ
của thi thơ, có thể tục, nhưng không thô, có thể dạn dĩ
nhưng không bạo. Và nếu có bạo, có tục cũng
ở trong giới hạn của sự khả chấp, nhờ âm vận, thi phong. Dầu
thế nào đi nữa, ngôn từ, âm vận, thi phong phải chở được
ý tình. Thi nhân, trong giới hạn những ức thúc của thể thơ,
vẫn phải tả cảnh, nói tình, thả hồn theo nàng thơ,
quyện theo thi hứng.
Cho nên, nói thơ cổ, là nói, cột, nhốt, trói buộc
thi nhân trong một hình thức, trong một thể cách, trong những qui định
của thi luật. Đồng thời cũng nói thi hứng, tự do tình tự
với nàng thơ. Đó là cái nghịch lý khắc khe,
cơ bản của mọi thi nhân: phải tự ức thúc trong qui điều,
đồng thời phải ung dung tự tại, tự khứ tự lai, giải thoát
mọi buộc ràng, để “nàng với ta, tuy hai mà là một”;
nàng là thi cảm, ta là thi nhân. Đó cũng là biểu thức
thực tiển của tự do, trong cái nghĩa “ung dung trong ràng
buộc”[18]. Nghĩ cho cùng, con người chỉ cảm nhận được
tự do trong ý thức những giới hạn của những buộc ràng—không
gian, thời gian, tha nhân, vạn vật, giá trị, khả năng, trách nhiệm,...
Với nguồn của thi cảm, thi nhân trút bỏ mọi qui định không
những của ngôn từ, thi thể, thi vận, mà cả đạo lý của
môi trường. Trút bỏ mà không trút bỏ, vì
khi đặt bút, khi ngâm lên thì vẫn là thể thơ, vần thơ
và ngôn từ quen thuộc, hình thức không sai, nhưng ý thơ, thơ
phong như thoát tục, thoát ra khỏi cái thông tục của thi đàn
và cũng thoát ra khỏi cái trần tục văn hóa của
thế sự.
.
Người dịch thơ, nói riêng thơ cổ,
chỉ có thể là một thi nhân. Phải biết thuần thục về thơ
cổ. Phải biết thuần thục về kỷ xảo dịch thuật. Phải thông
suốt cả hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa thời ấy và thời nay[19]. Vậy nếu thi thân bị ức thúc trong một vòng
đai—thi thể, ngôn ngữ, môi trường văn hóa, thì người
dịch thơ cổ bị cột trong ba vòng đai –xưa và nay, và kỷ
thuật dịch. Rồi còn phải nghe được ý tình, âm điệu,
bắt gặp tác giả ở đâu đó—trong nội dung, ở hình
thức. Cái hay, cái khéo, cái xuất thế, cái thoát tục trong
ý, trong tình, trong giai điệu chuyển đạt sắc-thanh, một cái
gì đó đặc thù gợi hứng, tạo động cơ cho dịch
thuật. Cái đặc thù ấy chỉ có người trong cuộc, trong giới
mới cảm nhận được. Đó là duyên tình, cột người
dịch vào thi đoàn.
Khi
duyên đã khởi thì trùng trùng duyên khởi, và tình đầu
sẽ biến thể thành đa dạng, thấm thấu tận sâu thẩm trong
tâm hồn của thi nhân, để rồi những xiềng xích qui ước
thế nhân đương nhiên rơi rớt, để con người trọn vẹn
với hồn thơ. Vọng hay chân, giả thực không
còn là vấn đề, thì những thắc mắc phải thế này
thế khác như truyền chân, phỏng dịch, dịch thoát, dịch theo văn
xuôi hay chi chi khác[20] đều rơi rụng. Chỉ còn lại là tình
tự với nàng thơ.
Bình
thường, tài, sắc, danh, lợi, hỉ nộ ái ố, kinh nghiệm, giá
trị, sinh hoạt, đấu tranh che lấp chất thơ, nàng thơ luôn ở
tận sâu trong thi nhân, như thẹn thò, khiêm nhường, ẩn náo.
Nhưng khi gặp duyên, tất cả màn che rơi rụng, duyên tình
hiển lộ, đó là trực ngộ nàng thơ, là Trang Chu mộng hồ
điệp. Đây không là giác ngộ Chân Tâm, trực
kiến Niết Bàn, mà là một khám phá vọng trong vọng. Mỗi
con người đều có một chất đặc thù riêng biệt, không
một ai giống ai, mỗi nghệ nhân có một hồ điệp riêng của
mình, hồ điệp của hai người khác biệt khác nhau, hồ điệp
hôm nay khác hồ điệp của ngày mai. Với thi nhân, đó là
chất thơ. Diễn tả được chất thơ đó qua thi vận, thi nhân
xác định con người của mình, không giống ai ngàn năm trước,
ngàn năm sau, và mãi mãi như thế. Thế nên, chỉ có một
Lý Bạch, một Bạch Cư Dị, ...một Nguyễn Du, một Tản Đà,....duy
nhất, không hai.
Theo đó, nếu
phải hỏi “người trong giới, anh là ai?”. Thì câu
trả lời cho giới thi thơ có lẽ là: Là người giác ngộ
được nàng thơ của mình. Nàng thơ—vốn là vọng,
cái vọng tự do buông thả, không bị đè nén, ức thúc—là
cái đậm đặc rất người trong mỗi người trong giới. Lấy
chữ “thi” trong nàng thơ, ghép vào chữ “người”—người
giác ngộ, cái chất người của nàng thơ—ghép lại,
thì rõ ràng tên anh là: Thi Nhân.
Tôi thích chữ nhân, và muốn nhấn mạnh ở
chữ nầy. Thể thường người ta thường dùng chữ
“sĩ”. Thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ,.. Sĩ gợi ý
là người có học. Ông nghè, ông cống xưa kia
là kẻ sĩ. Giờ thì có quí vị Tiến Sĩ, Viện Sĩ,...,
học cao, học rộng. Mà học là tiếp thu kiến thức, và trong một
giới hạn nào đó, là đi vào những qui định của môi
trường. Nói cách khác, “sĩ” gợi ý một con người
bị qui định, chấp nhận qui định. Và trong những qui định của
con người, có những qui định phi nhân. Cho nên, tôi
chuộng chữ nhân hơn chữ sĩ. Văn nhân, thi nhân, nghệ
nhân, ngầm nhắc cho tôi cái chất người trong mọi sinh hoạt của
chúng ta. Đó cũng có thể là một lối thoát
nhất cho những ai có mộng tìm chân, dầu là tạm, là phù
du, là hư giả. Được thua, thành bại có thể quan trọng, nhưng
không quan trọng bằng cái chất người trong cuộc hành trình,
nhờ vậy mà cuộc sống luôn mở rộng—mở rộng quan hệ,
mở rộng hiểu biết, mở rộng lý người, tình người.
.
Tóm lại, lấy chân và mỹ
làm duyên, để đọc lại hai thơ Anh, nói về thơ cổ, để
bàn ra, luận vào, vui cùng Anh, tô đậm một vài ý.
Tôi có nói chân, nói thực,
nói vọng, nói mỹ. Vọng
là thân phận con người. Không một ai thoát khỏi. Thi nhân là
người, nhưng là một con người khác biệt nên mới có
tĩnh từ thi bổ nghĩa đặt trước chữ nhân. Có
những điều mà con người—vì phải theo những qui định
xã hội—con người phải đè nén tâm tư, và thường
thì sống sao cho “phải đạo”, được xem là người
“tốt”, khen, khích lệ, để rồi lắm khi có một mặc
cảm vong thân. Thi nhân là một trong những ít người có lối
thoát cho mặc cảm vong thân, vì có nàng thơ để tình tự.
Nàng thơ, hay hồ điệp, vẫn là vọng, cái vọng cần thiết
cho sáng tác, cho phiêu lưu. Sáng tác tạo cái mới,
cái biết, chưa bao giờ có, chưa bao giờ kinh qua ắt phải làm
mình hoang mang, lo ngại vì những rủi may không lường trước được.
Cho nên, nói là phiêu lưu. Vậy, ở đây, ôm người
đẹp trong lòng, say cùng người đẹp, không có nghĩa là
“bình an” , “thân tâm an lạc”, mà là khởi đầu
một cuộc phiêu lưu đầy rủi ro nhưng lý thú. Nghĩ cho cùng,
thành bại, được thua có khi rất quan trọng, nhưng vẫn là
thứ yếu, cái chánh vẫn là dám dấn thân phiêu lưu, như
thi nhân, dám mộng hồ điệp, say với thi hứng, để vượt
lên những qui ước thông tục, sống hết cái chất người
trong tự thân. Trong cuộc phiêu lưu nầy, thi nhân, ngoài
những qui định chung của môi trường, thi nhân còn phải theo những
qui định thi đàn.
Người
dịch thơ cổ chỉ là thi nhân, mà là một thi nhân thấu triệt
hai nền văn hóa xưa và nay của hai dân tộc khác nhau, và còn
phải rành kỷ xảo dịch thuật. Cuộc phiêu lưu của người
dịch thơ cổ khó hơn nhiều.
.
Tôi muốn kết thúc ở đây bằng một nhận xét:
Đã phiêu lưu, rủi may chưa biết, tìm lại chính mình, sống
cho đầy, cho đã, cho thỏa, thì hợm gì những cái lăng nhăng
phải thế nầy thế khác, đám hồng bên hàng dậu, cây
sứ sau nhà,...
Nhưng nghĩ lại, không gì thích hợp
bằng mượn thơ Anh làm kết luận.
“Tôi không mơ giàu
sang, không mơ tiếng tăm, cũng không mơ sống lâu trăm tuổi mà
chỉ mơ mỗi ngày đọc được một bài thơ hay, và,
sự thống khoái của tôi sẽ vươn lên cùng tột nếu mỗi
ngày ngoài một bài thơ hay tôi còn được đọc một
bản dịch hay của bất kỳ ai.
Rừng cổ thi âm u bí hiểm. Bước chân lần dò
sơ sót có thường, đâu phải cuộc thám hiểm nào cũng
dẫn đến đền thiêng? Nhưng nếu ta dừng lại ở ven rừng,
xếp xó hết sách vở, dập tắt mọi ngọn đuốc thì cõi
lòng chúng ta lập tức rơi vào đêm đen. Đọc cổ thi là
một tìm kiếm, một niềm vui có tính phiêu lưu. Dịch cổ
thi là ấn chứng kết quả của cuộc tìm kiếm ấy, là mở
rộng bao hàm của niềm vui ấy. Đọc và dịch cổ thi có khi
lệch lạc nhưng thái độ ái cố cổ thi và những nỗ lực
đóng góp nhất định luôn luôn đúng.”
.
Tôi xin phép Anh được chia xớt những suy nghĩ trong
thơ nầy với quí anh chị Phan Khắc Trí, Võ Văn Trí, Trầm
Vân, anh chị Viện, Danh, Nguyên Nhung, Phép, và bạn đồng môn
PTG-ĐTĐ của chúng ta. Anh cho tôi xin lỗi vì trả lời
quá chậm.
.
Anh thứ tha: tuổi già có những tật xấu khó
bỏ, cũng như những ốm đau thất thường. Lúc nào tôi cũng
mong được học hỏi nơi Anh và các bạn hữu của chúng
ta.
.
Thân chúc Anh Chị và các cháu một ngày vui.
.
Thân,
Trường
[1] The truth trong the Heart Sutra. Thiết tưởng
nên dịch là “chân”.
[2] Nói cách khác là với Poncius Pilate, chỉ
có realities mà không có truth. Cho nên, không đợi câu trả lời.
[3] Tôi xin lỗi đã vô tình không nhớ
tên dịch giả và nhà xuất bản. Vã lại nên đọc bản
tiếng Anh, có khả năng dễ hiểu hơn.
[4] Ngôn ngữ Phật gia. Một số
tín hữu Ky tô giáo gọi là cái tôi hư giả—false self.
Thí dụ Thomas Merton.
[5] Trịnh Xuân Thuận. L’infini dans la paume de la main.(?)
[6] Trịnh Xuân Thuận. L’infini dans la paume de la main.(?)
[7] Như vậy, trong giới hạn định nghĩa
chân và vọng, như vừa nêu, thiết nghĩ một phần nào những
thắc mắc ở footnotes (10) của thơ Anh, ngày 15 tháng 1, 2008
[8] Thomas Merton. Contemplative Prayer.
[9] “Hỡi
Ngài ở bên kia vạn sự! Biết nghĩ gì Về Ngài?” Nguyễn
Thái Hợp. O.P. Đường vào thần học về tôn giáo. Chương
7. “Vì không thể thấu hiểu huyền nhiệm của Thiên Chúa,
nhưng lại không thể không nói về Ngài, nên con người đã
diễn tả Ngài qua vẻ hồn hảo khác nhau của tạo vật hay qua cảm
nghiệm tâm linh. Nhưng ngôn ngữ hữu hạn làm sao diễn tả nổi
tính đơn thuần và siêu việt của Thiên Chúa ? Tất cả
những gì ta có thể nói về Ngài phải chăng chỉ là những
biểu tượng, ẩn dụ và loại suy, dựa trên những hình ảnh
rất mờ nhạt được mặc khải trong Thánh kinh ?” Nguyễn Thái
Hợp. O.P. Chọc thủng bức màn huyền nhiệm. 2. (Trích mạng lưới
Dũng Lạc).
[10] Bát Nhã Tâm Kinh
[11] Bát Nhã Tâm Kinh
[12] Không mỹ tữu làm sao có thi hào Lý
Bạch? Nhưng luật chung nào mà không có những biệt
lệ..
[13] Theo soạn giả Nguyễn Phương
[14] Câu nói dân gian, tôi không nhớ rõ.
Chỉ nghe mấy anh chị tôi kể lại.
[15] Tác phẩm mỹ thuật.
[16] Thí dụ, những con người thật thà,
suy tư theo “tinh thần hình học”.
[17] Nhại Bát Nhã Tâm Kinh.
[18] Hòa Thượng Thích Viên Minh.
[19] Câu Thông 1. Dịch thơ Cổ. Mai Vĩ Sinh.
Rất nhiều chi tiết thích đáng.
[20] Dịch thơ cổ là phản động lực chống lại tiến hoá,
là chèo thuyền con ngược dòng,
Dịch
thơ cổ là thú chơi xa xỉ của lo nin, giống như thú chơi cây
cảnh,
Dịch thơ cổ là tìm qun hiện tại thực
tế, l từ chối hồn cảnh cụ thể,
Dịch thơ
cổ là mô phỏng phong cách danh gia tử đệ,
Dịch thơ cổ là đi tìm một sự trng khít cho tự ng lo hố,
Dịch thơ cổ là ngắm cảnh hoàng hôn, cư tang cho quá khứ,
chờ ngày ra đi.
Dịch thơ cổ là một cuộc
hành hương vì ta đi vào quá khứ với lịng tưởng niệm,
Dịch thơ cổ là giao lưu với quá khứ bằng ngôn ngữ
hiện đại,
Dịch thơ cổ là yêu thương
người hiện đại, chia sẻ tấm tình cổ nhn với họ,
Dịch thơ cổ là nối kết lại đường dây lịch sử,
thổi một luồng sinh khí vào quá khứ,
Dịch thơ cổ là đón nhận và chuyển
tiếp di sản của tiền nhân cho mai sau,
Dịch thơ
cổ là tìm lại một mảng nhan văn thất lạc để bồi thực
nhân văn ta,
Dịch thơ cổ là tìm lại
chính bản thn mình qua nếp nghĩ của con người muôn thuở,
Dịch thơ cổ là di dưỡng tính tình v cũng l một cch đạt
nhân.