viết về __________________________________________________________________
MỘT NIÊN TRƯỞNG
ĐỒNG MÔN
VỪA NẰM XUỐNG________________________________
“THANH SƠN TỰ TIẾU ĐẦU TƯƠNG HẠC”....
LÊ TRÚC KHANH
(Về
Nguồn - Tây Đô)
“Chúng ta muốn giáo dục học sinh lòng yêu quê
hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, thế mà thế
hệ trẻ hôm nay không hiểu gì về thời khai hoang mở cõi. Để
có đuợc một “địa đàng xanh”, một vùng “nước
bạc cơm vàng”, một “vựa lúa của cả nước” hôm
nay đâu phải là điều đơn giản. Máu, mồ hôi của
bao bậc tiền hiền đã nhỏ xuống đất nầy, để cho bóng
đèn mù u đổi thành nguồn điện sáng. Những điều
đó - tôi nghĩ - chỉ cần cho học sinh đọc quyển “Hương
rừng Cà Mau” của Sơn Nam là các em đã thấm thía
đuợc cái nghĩa, cái tình của người và đất phương
Nam”.
Trên đây là trích
đoạn 1 bài viết về Nhà Văn SƠN NAM của một CHS Phan Thanh Giản:
Lê Trúc Khanh. Từ giữa thập niên 60, Lê Trúc Khanh là cây bút
nổi tiếng, đặc biệt trong giới cầm bút của Trường Phan Thanh
Giản và của Miền Tây.
Trang Nhà xin đặc
biệt giới thiệu bài viết nầy như một lời tiễn biệt một
Niên Trưởng của Trường ta, và là một nhà văn lớn
của Miền Nam.
Chúc Niên Trưởng thong dong về
với hương của Rừng và cái nghĩa cái tình của Đất.
Trang Nhà ptgdtdusa.com
1.
Tôi đuợc
quen biết nhà văn Sơn Nam trong những năm 60 của thế kỷ 20. Lúc
ấy,còn là học sinh trường Trung Học Phan Thanh Giản (Cần Thơ),
nhưng anh em tôi cũng tập tễnh làm thơ, văn gửi đăng trên
các nhật báo, tạp chí ở miền Nam. Thơ tôi đuợc giới
thiệu trên chương trình thi văn Mây Tần của đài Phát
thanh Sài Gòn do nhà thơ Kiên Giang-Hà huy Hà phụ trách.
Nhờ vậy, nhiều lần nhóm Về Nguồn được
phỏng vấn trực tiếp về nội dung, đường lối sáng tác...
mà người phát ngôn của nhóm là anh Lê Văn Quới - anh tôi
- và tôi. Cũng từ đó, anh em chúng tôi được gặp nhà
văn Sơn Nam, ông hết lòng khuyến khích và xem chúng tôi như
những người bạn vong niên, dù tôi nhỏ hơn anh đến
hơn 20 tuổi.
Cùng
với Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam nhiều lần về Cần Thơ và nơi
hai anh tìm đến là nhà tôi - một căn nhà vách lá, lợp
tôle nằm khiêm tốn trong một con hẻm nhỏ của thành phố Cần
Thơ. Anh thích nằm đưa kẽo kẹt trên chiếc võng làm bằng
vải bố của má tôi nối qua hai cây cột dầu vuông.
Năm 1970, khi chúng tôi thực hiện Tạp chí Khơi Dòng,
một hoạt động khác của giới văn học ở miền Tây, thì
hai người đóng góp sáng tác trước tiên mà không
hề đặt bất kỳ một yêu cầu nào về nhuận bút, vẫn
là Sơn Nam và Kiên Giang. Nguyệt san Khơi Dòng số 1 với chủ đề
“Mùa xuân và con người”, xuất bản vào tháng
Giêng 1970, trên đó có bài thơ “Lúa sạ Miền Nam”
của Kiên Giang và truyện “Người đẹp Cần
Thơ” của Sơn Nam. Có lẽ, theo ngôn ngữ hiện nay, thì
phải gọi đây là ký hoặc là tự truyện mới chính
xác. Tác giả kể về một nữ sinh CầnThơ, sinh cuối năm 1932
và mất tháng 6 năm 1950. Cô nữ sinh nầy sớm có năng khiếu
văn chương, làm thơ, làm văn lúc mới hơn 10 tuổi. Nhưng
cô vẫn không vượt khỏi qui luật muôn đời “tài hoa bạc
mệnh”. Di vật còn để lại cho đời một quyển tập học
trò dày hơn trăm trang với những sáng tác của cô, viết
trong những năm tháng quê hương còn mịt mù lửa đạn.
Truyện ngắn nầy của Sơn Nam trước đó, chưa hề đăng
trên bất kỳ một tờ báo nào và sau đó, tôi cũng không
thấy nó xuất hiện lần thứ hai. Có lẽ, nhà văn muốn giữ
lại chút tình riêng cho đất Cần Thơ, nơi mà một thời
ông là học sinh với bao nhiêu ước mơ tuổi trẻ?
Mới đó mà đã hơn 40 năm trôi qua.
Khi còn sống, nhiều lúc má tôi hỏi: “Cái ông nhà
văn ôm cặp da thiệt bự chuyên đi bộ đó, sao lúc nầy
không thấy xuống thăm tụi bây?” Anh em tôi chỉ cuời
mà không trả lời. Hồi đó - nói như một số anh em làm
văn nghệ - lên Sài Gòn cứ thấy ông nào đầu bạc, ôm
cặp da, đi lầm lũi trên đuờng, thì 90% đó là nhà văn
Sơn Nam”! Cách nhìn có vẻ hài hước đó lại là
sự thật, mà suy cho cùng, đã nói lên được cái cách
sống bất cần đời của một nhà văn Nam Bộ.
2.
Là một giáo viên
dạy Văn, tôi vô cùng vui mừng khi trong giai đoạn cải cách giáo
dục những năm 80, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mạnh
dạn đưa vào chương trình Văn học 12 tác phẩm “Bắt
sấu rừng U Minh Hạ” của Sơn Nam. Thế nhưng cái chưa “mạnh
dạn” là chắc chắn giáo viên nào lúc đó dạy Văn
cũng ngầm hiểu là tác phẩm nầy không bao giờ nằm trong phần
cho đề thi tốt nghiệp. Và đáng tiếc hơn, trong những đợt
cải cách lần sau, “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” đã
không còn chỗ đứng! (Nói đúng hơn, nó chỉ còn là
bài đọc thêm trong bộ SGK Ngữ Văn Ban KHXH và NV).
Chúng ta muốn giáo dục học sinh lòng yêu quê hương đất
nước, lòng tự hào dân tộc, thế mà thế hệ trẻ hôm
nay không hiểu gì về thời khai hoang mở cõi. Để có đuợc
một “địa đàng xanh”, một vùng “nước bạc cơm
vàng”, một “vựa lúa của cả nước” hôm nay đâu
phải là điều đơn giản. Máu, mồ hôi của
bao bậc tiền hiền đã nhỏ xuống đất nầy, để cho bóng
đèn mù u đổi thành nguồn điện sáng. Những điều
đó - tôi nghĩ - chỉ cần cho học sinh đọc quyển “Hương
rừng Cà Mau” của Sơn Nam là các em đã thấm thía
đuợc cái nghĩa, cái tình của người và đất phương
Nam.
Hơn thế nữa,
chúng ta đừng quên Hương Rừng Cà Mau - nói chung, và
Bắt sấu rừng U Minh Hạ - nói riêng, được viết
ra trong thời kỳ đất nước còn chia cắt. Chính quyền miền
Nam lúc đó không muốn nhắc nhớ những từ như U Minh, vì
nó gợi lại cả quá khứ hào hùng của quân dân ta thời
chống Pháp. Sơn Nam là một trí thức tại thành phố, ông
nhắc lại những địa danh thân thương U Minh, Chắc Băng, Trèm
Trẹm... thông qua những sáng tác viết về miền Nam, là một cách
truyền đạt khéo léo và hữu hiệu bằng ngòi bút sắc
bén của mình để lại cho đời. Thế thì “hạt bụi
nghiêng mình nhớ đất quê” bằng tài năng và
cả dũng khí nữa, có đáng cho thế hệ đi sau nhắc nhở
và trân trọng?
3.
Tựa đề bài viết nầy là
một “câu chữ” trong bài hát nói “Ông phổng
đá” của nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ. Theo một giai thoại
văn học, ông viết bài thơ nầy lúc đang dạy học tại
nhà Tổng Đốc Hoàng Cao Khải. Khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, Nguyễn Khuyến chọn thái độ bất hợp tác, lấy
cớ đau mắt để từ quan. Thực dân Pháp ngẩm sai Hoàng Cao
Khải theo dõi ông bằng cách mời ông ra dạy học cho con mình.
Chung quanh họ Hoàng bấy giờ là bọn tân quan mũ cao áo rộng,
chỉ biết tuân phục kẻ thù đổi lấy hư danh. Khi vào ra nhà
Hoàng cao Khải, họ nhìn thấy nhưng không biết ông già đầu
bạc dạy học ấy là ai mà cứ âm thầm lặng lẽ như một
tượng đá. Từ cái thắc mắc của những người trẻ
chưa thấy Thái sơn, Bắc đẩu ấy, Nguyễn Khuyến sáng tác
bài thơ “Ông phổng đá”, trong đó có hai câu
:
Thanh sơn tự
tiếu đầu tương hạc.
Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu
Tạm dịch:
Ngọn núi xanh (chỉ bọn tân quan) cười ta đầu bạc trắng
như chim hạc, (nhưng) ngoài biển xanh ai cũng biết ta là chim âu .
Xin đuợc mượn câu “Thanh sơn tự tiếu đầu tương
hạc” để nói về một ngọn núi phương Nam đã
đi vào cõi vĩnh hằng. Ngọn núi đó, cũng bạc trắng
mái đầu, cũng sống lặng thầm bên cạnh dòng chảy ào
ạt của Sài Gòn dập dìu xe ngựa, vẫn luôn giữ đuợc
cái bản chất thực thà nhân hậu mà vô cùng hào phóng
của những người lưu dân thời khai hoang, mở đất.
Anh như con ong cả đời kiên trì hút mật đem lại hương
vị cho người, nhưng không phải ai cũng hiểu rằng trong vị ngọt
ngào kia có lẫn nhiều cay đắng. Mấy mươi năm quen biết, anh
em chúng tôi vẫn xem anh là một tấm gương của lòng say mê
sáng tạo và trân trọng từng trang viết của một nhà văn
gắn đời mình cùng quê hương đất nước. Ngọn núi
phương Nam không còn nữa, nhưng tài hoa còn thấm đẫm khắp
rừng đước, rừng tràm để muôn đời bát ngát một
màu xanh. Những dòng viết chia tay, xin được xem như một lời ai
điếu.
Cần Thơ, tháng 8/2008
LÊ TRÚC KHANH.