MỘT CHUYẾN
ĐI DÀI
Trên
SỔ TAY tháng trước trên Trang Nhà,
có lẽ chúng ta đã thấy được Tình Thương đã
có mặt qua câu chuyện về một căn nhà mệnh danh là Mái
Ấm Tình Thương. Tình Thương từ ngàn dặm gởi về quê
hương không chỉ giới hạn trong một làng nhỏ Phong Điền. Và
dĩ nhiên Lòng Nhân Ái hiện diện hầu hết nơi mọi người
hải ngoại. Người mình ở trong nước từ nhiều năm nay hẳn
đã thấy muôn ngàn Sợi Chỉ Hồng Nhân Ái đã nối
liền đôi bờ Biển Thái. Chúng ta xa đất nước, nhưng đất
nước mình, dân tộc mình luôn hiện diện trong mỗi trái
tim người xa xứ.
Dưới đây
là thêm một Sợi Chỉ Hồng Nhân Ái.
Đến đầu tháng 8 nầy thì mục sư Nguyễn cùng vài
người cộng sự sẽ thực hiện chuyến đi thứ 47, từ Quận
Cam về quê nhà. Thật sự thì mỗi chuyến đi của mục sư
Nguyễn không hẳn được gọi là dài dù cho được
nối bằng 20 giờ đường hàng không. Hơn 15 năm trước, chuyến
đi lần đầu tiên từ Sài Gòn đến trại phong cùi Bến
Sắn dài chỉ hơn 40 cây số. Rồi chuyến đi thứ 37 vài năm
trước đến Ninh Bình, Yên Bái có lẽ là dài nhất
cho tới nay, thì cũng chỉ có trên ngàn cây số đường
bộ từ Sài Gòn. Như vậy, có lẽ sự dài ngắn nhằm
vào ý nghĩa liên tục của những chuyến đi. Cũng
nên kể tới tấm lòng thật dày, thật sâu và thật bao la
của những người tự nguyện khăn gói lên đường. Họ
cứ đi, mỗi năm ít nhất là 2, 3 lần. Họ không muốn dừng
lại. Dù cho mái tóc xanh ngày nào bây giờ đã bạc gần
hết, dù cho thể xác đôi khi có mệt mõi, nhưng trong lòng
của họ lúc nào cũng vang lên lời cố gắng. Cứ như vậy mà những chuyến đi tiếp tục thành hình. Vậy thì,
có coi là quá đáng không khi gọi đó là một chuyến
đi dài? Chuyến đi bắt đầu từ một khởi điểm là
nơi gặp gỡ của tình thương với những nỗi khốn cùng.
Chuyến đi, qua nhiều năm nhiều tháng, đã ghé lại, đã
ưu ái gởi trao ân tình, đã mang đi đôi điều bất
hạnh. Chuyến đi dù chưa kết thúc nhưng điểm tới chắc
cũng vẫn là tụ điểm của tình thương.
Cuộc hành trình
tình thương của mục sư Nguyễn bắt đầu từ những ngày
thật xa, hơn năm mươi năm trước, khi cậu bé con nhà nghèo
15 tuổi bước ra khỏi căn nhà lá, vách đất nằm dưới
chân ngọn đồi nhỏ ở Tam Kỳ, Quảng Nam. Trong căn nhà đó,
Nguyễn đã sống trọn thời niên thiếu của mình trong thiếu
thốn, thiếu cả sự chăm sóc thương yêu của mẹ. Bạn của
Nguyễn là những vệt nắng nghiêng trên hiên nhà buổi sáng,
là những chú dế con buổi trưa kêu buồn bã, là những dãi
mây bay lang thang trên lưng chừng núi buổi chiều, và buổi tối
Nguyễn lắng hồn mình vào những trang thánh kinh nhoẹt nhòe chữ
nghĩa do ông nội để lại cho đứa cháu duy nhất của mình.
Chung quanh cậu bé Nguyễn thời ấy là nghèo. Người nghèo. Đất
cũng nghèo. Sỏi đá mọc trên từng tấc đất. Nghèo nàn
mọc trên từng thân phận con người ở đây. Hận thù có
lúc đã bứng văng tình yêu thương để đâm chồi
nẫy lộc ngay trên vùng đất khô cằn sỏi đá này. Và
hình như cũng đã có một tia sáng nào đó đã
nhiệm mầu chiếu rọi vào trí óc còn non nớt của cậu học
trò vừa học hết lớp đệ ngũ trường quận. Nguyễn học
được rằng con người sinh ra bình đẵng và tình thương
phải được san sẽ cho mọi người. Khi được chánh thức
nhập vào dòng sống của một hội thánh tại Sài Gòn thì
cuộc hành trình đi về vùng tình người ấm áp của
Nguyễn như được chắp thêm đôi cánh. Rồi những năm
tháng du học và tu học tại Seoul đã là những hành trang quý
giá cho mục sư Nguyễn đi tiếp bước đường đã chọn
của mình. Mục sư Nguyễn nhớ nhất là những ngày dài của
thập niên sáu mươi tại bịnh viện Cộng Hoà. Thương bệnh
binh nhập viện có cả trăm mỗi ngày. Sự đau đớn hiện
diện trên mỗi bệnh nhân và trên mỗi thân nhân đến
thăm. Vết thương quá đau đớn làm bật dậy những tiếng
rên la trên giường bệnh. Nỗi thương xót quá lớn của
người vợ trẻ làm bật dậy những tiếng khóc bi ai. Niềm đau
vật vã của bà mẹ già làm thoát ra những tiếng kêu thương
nức nở. Mục sư Nguyễn đã cùng sống với nỗi đau của
bệnh nhân, cùng sống với tiếng khóc của người mẹ già
neo đơn, của người vợ sớm làm thân góa bụa. Người
sứ giả của tình thương ấy đã sống hàng giờ, hàng
đêm bên giường bệnh. Sống cả với niềm đau, với nỗi
tuyệt vọng của đàn con nhỏ dại khi cỗ quan tài của cha mình
được đưa về khu chung sự trong tiếng kèn đồng hòa trộn
với tiếng khóc dưới lớp khăn sô. Nhiều năm như vậy đã
khiến vị mục sư trẻ chừng như đã cạn dòng nước
mắt.
Tưởng đã cạn dòng nước mắt. Tưởng đã
hụt bước chân đi về vùng sương đêm tấm đẫm
tình người. Vậy mà không. Những lời thánh kinh dưới chân
đồi ngày nào vẫn nghe như mới. Lời trối trăn của nội
vẫn còn văng vẳng bên tai: “Phải biết sống làm người,
nghe con!”. Nhịp đập của trái tim đầy tình người vẫn
rộn ràng trong lòng ngực. Bước chân vẫn chưa chùn. Tình
thương của đồng bào hải ngoại không thiếu. Những món
quà tình nghĩa phải tới tay người thương khó ở quê
nhà. Tất cả phải có người chuyển về. Hết trại cùi
Bến Sắn đến các trại cùi Núi Sạn, Qui Hòa, trại cùi
Đắc Kia, Đắc Kring. Hết theo chân cơn bão số 5 ra Quảng Nam, Đà
Nẵng đến cơn bão số 7, số 8 ra Thanh Hóa, Yên Bái. Rồi
xuôi Nam đào giếng nước, bắc những nhịp cầu xi măng cốt
sắt ở miền quê Bạc Liêu, Cao Lãnh. Những chiếc xe lăn. Những
xe gạo đầy ắp từ Vĩnh Long ra Trung, ra Bắc. Những mùng, mền, quần
áo, thuốc thang, kẹo bánh, giấy mực, sách vở…Những chuyến
xe đầy đồ cứu trợ đi trên những đoạn đường đất
chuồi vòng quanh chân núi, gập ghềnh, trắc trở. Chỉ một chút
xãy tay, sự rũi ro, mất mạng có thể xảy ra bất cứ lúc
nào. Những đêm ngủ tạm bợ bên đường, dãi dầu
mưa nắng. Đi. Khó khăn thế nào cũng đi. Đi làm nhiệm
vụ của một nhịp cầu. Đi đến những người đang chờ
đợi. Người phế binh ở Điện Thắng đã rớt nước
mắt nhìn chiếc xe lắt tay mới tinh của mình trước mặt mà
tưởng như mơ. Cụ già phong cùi ở Đắc Kia không tưởng
được bàn tay cụt hết ngón của mình đang được vuốt ve trong đôi bàn tay của
người mục sư trước mặt. Qua hai cơn bão dữ Demrey và Chamchu,
bà mẹ Quảng Trung, Thanh Hóa vừa mất một lượt con trai, con dâu
và hai cháu nội, đang đứng trước những người khách
lạ. Họ đến với tình thương và với những sự giúp
đỡ cần thiết trong cảnh khốn cùng. Bà mẹ có khóc cũng
không còn đủ nước mắt, có cảm ơn cũng không đủ
lời.
Một điều rất tự nhiên: Người ta, tại nhiều nơi
trên đất nước, ở miền quê, ở miền núi, miền duyên
hải, từ nhiều năm nay, đã coi sự có mặt của phái đoàn
mục sư Nguyễn là thường kỳ. Người ta chờ ông như chờ
người thân quen đi xa sắp về. Người già, người trẻ nhớ
ông. Quá một thời gian hạn định nào đó, không thấy
phái đoàn về làng, người ta lo ngại có điều chẳng
lành bất ngờ xảy ra cho mục sư Nguyễn.
Cứ như vậy mà cuộc hành trình
tiếp tục để thành một chuyến đi dài.
tbt