Th oàn Xuân Thu

DoanXuanThu.jpgTHƠ

đoàn xuân thu
 Melbourne, Australia
 ____________________________________

Dề cơm cháy!

dxt_decomchay2.jpg

Cơm chín nồi đồng, già thêm chút lửa,
dưới đáy nồi, dề cơm cháy… vàng rơm,
rãi chút đường, má rắc thêm tóp mỡ
của quê nghèo, thương quá..má- quê hương-!

Con nhớ má quê nhà bếp tỏa,
khói lên trời ẩm ướt chiều hôm,
già chút lửa, thương dề cơm cháy,
cho dòn tan, bùi, ngọt tới quê người!

Dề cơm cháy không phải dề cơm cháy,

là bữa cơm chiều: có má, có ba,
có anh, có em, quây quần mỗi tối,

có thanh bình, có những ngày vui!

Rồi binh lửa cháy lan nhà… quê cũ,
bồng bế nhau đi, khói lửa mịt mờ,

đi đi mãi… thương phận người ủ rũ,

dạt quê người đành nhận đó quê hương!

Nồi cơm điện sao già chút lửa?
dưới đáy nồi, dề cơm cháy… là mơ!
bao năm sống quê người… chạng vạng,
nẻo chưa về? chỉ thấy bóng hoàng hôn!

Nước mắt cơm chiều, người viễn xứ,
con mơ về nhà cũ đêm đêm:
ba đọc báo, má ngồi may vá,
anh em con, dề cơm cháy, bên hè.

Thương thằng em, cho mầy một miếng,
để sau này mày lãnh anh qua,

để má mất anh em mình đều khóc:

mất rồi, dề cơm cháy còn đâu?!

đoàn xuân thu.

melbourne.

Nghĩa Sỹ đọc thơ đoàn xuân thu.

 “Dề Cơm Cháy!

Má-quê-hương, bà má và quê hương nghèo khổ ngày nào vẫn luôn là hình ảnh sâu đậm nhất trong tâm trí của những kẻ tha hương, đặc biệt là những người con phải đứt ruột lìa quê mẹ, đang sống lạc loài vất vưởng ở xứ người. Nơi đây, đời sống vật chất văn minh, đầy đủ hơn, được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ, đồ ăn thức uống thừa mứa càng gợi nhớ những món ăn đạm bạc ngày xưa ở quê nhà.

Và một trong những món ăn khiến người con nhớ nhất lại là món ăn giản dị nhất, tầm thường nhất: “dề cơm cháy”. Ngày ấy cơm cháy là món ăn của con nhà nghèo, thứ mà ở những nhà dư ăn dư để họ đổ đi, hoặc cho heo, cho chó ăn. Tuy nhiên trong “cái khó”, người ta phải tìm cách thích nghi và cải tiến hoàn cảnh và do đó mà “ló cái khôn”. Cái món ăn vứt đi ấy đã được các bà má quê chế biến thành món ăn tuyệt vời: chỉ cần rưới chút hành mỡ hoặc tóp mỡ, rắc thêm chút đường thì cái dề cơm cháy “vàng rơm” kia trở thành món ăn ngon tuyệt vời với đầy đủ tính chất béo ngậy, thơm, ngon, dòn, ...

“Cơm chín nồi đồng, già thêm chút lửa,
dưới đáy nồi, dề cơm cháy… vàng rơm,
rải chút đường, má rắc thêm tóp mỡ…”

Phải chăng Đoàn Xuân Thu đang muốn ca ngợi cái hương vị đặc biệt của món ăn VN, dề cơm cháy? Nếu chỉ có thế thôi thì bài thơ chắc chẳng có gì phải bàn, bởi nhớ một món ăn ngon chỉ là một chuyện rất thường tình, như người ta vẫn truyền tụng: “miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời”. Vì thế, chắc chắn cái mà nhà thơ muốn nhắc đến không phải chỉ là món ăn ngon, không phải là “dề cơm cháy” (bởi nếu chỉ có thế thì chắc cũng chẳng hay ho gì hơn chuyện khai thác các“món ăn đặc sản” ở trong nước hiện nay. Đi tới đâu cũng thấy quảng cáo, nào là cơm cháy chà bông Ninh Kiều, cơm cháy Ninh Bình với thịt bò, tim, cật lợn xào với hành tây, nấm rơm, cà rốt, cà chua, nào là cơm cháy chà bông Sài gòn với giá 25, 30 ngàn/dĩa, cơm cháy mắm ớt chiên dòn 10 ngàn/gói, cơm cháy đặc biệt 15 ngàn/hộp,... thôi thì đủ thứ đủ loại).

Điều nhà thơ muốn nói đến là gì, xin đọc tiếp câu cuối của khổ đầu:

“của quê nghèo, thương quá Má-quê-hương!”

Thì ra là thế.“Dề cơm cháy” chỉ là biểu tượng của quê nghèo và là cái cớ để kẻ xa thương nhớ về Má, về Quê Hương dấu yêu. Từ đây cho đến cuối bài thơ, cái tứ thơ này ngày càng hiện rõ lên.

Trước hết là hình ảnh của bà Má tận tụỵ bên bếp lửa hằng ngày lo miếng cơm cho con. Sự yêu thương chăm chút của Má luôn nghĩ đến con, sao cho con có cái ăn ngon miệng ngay trong hoàn cảnh hết sức nghèo khổ. “Già chút lửa”là một cố ý đầy lòng xót thương của Má để con có được dề cơm cháy ngon miệng.

Tiếp theo là bốn câu thơ tuyệt đẹp nói lên tình thương con bao la trời biển của Má thể hiện ngay trong những chi tiết nhỏ nhặt, bình thường nhất trong cuộc sống. Tình thương ấy vừa toả rộng ra như “quê nhà bếp toả” như ấp ủ lấy đàn con, lại vừa vút cao như khói bốc lên trời như muốn thay đổi, muốn hoán cải cả hoàn cảnh, cả không gian và thời gian. Để rồi hình ảnh “dề cơm cháy” dòn tan, bùi ngọt... trở thành cái hương vị ngọt ngào, đậm đà của tình Má thương con bay xa tới tận quê người:

“Con nhớ má quê nhà bếp tỏa,
khói lên trời ẩm ướt chiều hôm,
già chút lửa, thương dề cơm cháy,
cho dòn tan, bùi, ngọt tới quê người!”

Tới đây thì nhà thơ không cần phải úp mở nữa. Anh khẳng định: “Dề cơm cháy không phải dề cơm cháy”. Rõ ràng nào phải chuyện miếng ăn, mà là chuyện gia đình đầm ấm sum vầy, chuyện quê hương ngày ấy vui vẻ,thanh bình. Đó là nỗi hoài niệm về một thời đại đã qua, một cái gì đó đã bị tước đoạt mất rồi. Dề cơm cháy một lần nữa lại là một cái cớ để người con nhớ về gia đình về quê hương dấu yêu ngày xưa ấy:

“Dề cơm cháy không phải dề cơm cháy,

là bữa cơm chiều: có má, có ba,
có anh, có em, quây quần mỗi tối,

có thanh bình, có những ngày vui!”

Bao năm sống ở xứ người, đứa con luôn hướng về quê nhà. Mỏi mòn trông đợi một cuộc đổi đời, nhưng chỉ thấy “chạng vạng” “chỉ thấy bóng hoàng hôn” để rồi lòng đau xót khôn nguôi, nhất là vào mỗi bữa cơm chiều nhớ dề cơm cháy, nhớ Má nhớ quê…để rồi chỉ còn lại niềm mơ ước hằng đêm, mơ về những kỷ niệm, những ngày vui đã mất.

“Nước mắt cơm chiều, người viễn xứ,
con mơ về nhà cũ đêm đêm:
ba đọc báo, má ngồi may vá,
anh em con, dề cơm cháy, bên hè.”

Tất cả chỉ vì Má đã mất. Má mất rồi không còn dề cơm cháy. Má mất rồi, không còn những ngày vui. Má chính là Quê hương: Má-quê-hương, nhà thơ đã khẳng định ngay từ đầu bài thơ. Má mất là quê hương đã mất, mất hết những hương vị ngọt ngào, mất hết những ngày tháng êm đềm của một thời đại tràn đầy niềm yêu thương và an bình. Bởi thế nên “anh em mình đều khóc!”

Nghĩa Sỹ

Sidney

_____________________________________________________________________

Santa Claus.

dxt_santa1.jpg

Đêm nay đại nhân xuống phố.

tháp tùng ông là cả một đoàn quân:

phát thanh, truyền hình,

ông phát súp cho những người cùng khổ.

Santa Claus có phải là ông?

trong buốt giá đêm đông

cho người cùng đinh niềm hy vọng được no!

dù chỉ một đêm thôi!

Không! Santa Claus không phải là ông;

ông mập quá! giữa bao người ốm đói.

ông chỉ là một diển viên truyền hình

xuất hiện trước ống kính

cho bản tin sẽ phát lúc bình minh.

Sáng mai mặt trời vẫn mọc,

bất công vẫn y thinh.

Khi giai cấp cùng đinh là con cừu mùa hạ

đã bị hớt hết lông.

khẩu phần ăn: cỏ khô, rơm, rạ

đem công sức dệt cho người giàu được ấm.

đời là thiên đàng của thiểu số,

là địa ngục của đám đông.

người giàu giàu thêm;

kẻ nghèo hóa mạt.

dxt_santa2.jpg

Bất công!

thì bát súp đêm đông

còn có nghĩa gì đâu?

Không! Santa Claus! người đã chết.

người chỉ là ước mơ!

là que diêm cuối cùng trong bao diêm đà cháy hết.

này em bé bán diêm yêu dấu!

ta sẽ đốt những thùng các tông

chia cùng em chút ấm

khi gió rít ngoài song.

“ Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời...”

Santa Claus người đã chết!

đời thôi đã hết

ước mơ!

.

 dxt_girl.jpg

Theo cùng anh đất nước Đại Nga!

.

Olga!

Mùa Giáng sinh!

nhưng anh đã chết,

dưỡng khí trong tàu sắp hết*

vĩnh biệt Olga! vĩnh biệt quê mình!

Anh không về được nữa,

em một mình trong ánh lửa chiều đông.

không còn ai giũ tuyết trên thềm cửa

tiếng reo mừng! ôi em yêu! Olga!

Ôi Moskva!

mùa đông băng giá.

con gấu Nga đã chìm sâu trong lòng biển cả

Bắc băng dương.

Anh gởi lại em thương

những điều anh suy nghĩ:

về cuộc sống mà chúng ta hằng yêu quý,

giờ phút cuối cùng của phần số tai ương.

Nước Nga với những người con không được bình thường:

Lenin, Stalin, Putin!!!

nhưng chúng mình vẫn có Pushkin.

Chúng ta đã làm ra AK 47

niềm tự hào của nước Nga vĩ đại.

lịch sử nước Nga đã viết ra những điều kinh hãi

máu người dân vô tội khắp hành tinh

những người đã chết dưới họng súng AK của Kalashnicov.

Tàu đã chìm xuống đại dương

dưỡng khí đà sắp hết.

anh sẽ chết!

vĩnh biệt em thương!

nhưng một điều sẽ sống:

hòa bình thôi! không tái võ trang!

dxt_house.jpg

Con gấu Nga

từ miền Siberia băng giá

đã chìm sâu trong lòng biển cả.

theo cùng anh mãi mãi

đế quốc Nga.

Linh hồn anh về lại Moskva,

về lại rừng taiga,

thảo nguyên bạt ngàn…

lộng gió.

Chúng ta sinh ra không phải là làm lính,

cho đất nước Đại Nga

danh từ phù phiếm!

đã huyễn hoặc chúng ta.

Ôi! con gấu Nga đã chìm sâu trong lòng biển cả

theo cùng anh đất nước Đại Nga.

Vĩnh biệt Olga!

đừng buồn em nhá!

đoàn xuân thu

Melbourne.

*Tiềm thủy đỉnh Kursk của Nga nỗ và chìm ở Biễn Barents ngày 12 tháng 8 năm 2000.

118 người đã không về nhà nữa mùa Giáng Sinh năm ấy!

Té sông mùa nước nổi !

tl_VNFlood.jpg

Con đã từng té sông mùa nước nổi;
má la làng,
"hàng xóm! cứu con tôi!"

thân tím ngắt, bà con đem xốc nước,
trễ chút thôi, chắc con đã đi rồi.

Người ta nói có ba hồn bảy vía,
con té sông... hồn vía mất hai phần,
con chậm, dở... biết bao lần ngơ ngẩn,
má thương con mình:  "
tội nó té sông!"

Con bên má mỗi năm mùa nước nổi,
mênh mông đất trời, mênh mông thơ,
suy nghĩ thơ, suốt ngày không nói,
má thương con mình: "
tội nó té sông!"

Sông không chết, con tìm đường ra biễn,
xa má rồi! mùa nước nổi thương mong,
đêm quê người làm thơ... nhớ má:
nhớ vô cùng, thương câu nói "...té sông !"

đoàn xuân thu

melbourne

NGHĨA SỸ

Ðọc bài thơ “Té sông mùa nước nổi”

của Ðoàn Xuân Thu

Một lần nữa hình ảnh Má lại xuất hiện trong thơ ÐXT, một Bà Má quê chân chất, đơn sơ và cũng như bao bà Má khác, thương con vô hạn. Thằng con được nuôi nấng, được ấp ủ trong tình thương bao la ấy, lại được lớn lên giữa đất trời mênh mông sông nước, giữa một vùng quê đầy ắp tình người, hỏi sao không nảy sinh ra một tâm hồn thơ mênh mông, lai láng.

Trong bài thơ, tác giả đã mượn câu chuyện xảy ra trong thời thơ ấu, một kỷ niệm trong một mùa nước nổi nơi vùng quê để nói về Má mình. Mùa nước nổi xảy ra hằng năm ở đồng bằng sông Cửu Long ấy đem phù sa, tôm cá về nuôi sống những người dân quê trong đó có Má. Và cũng như Má, nếp sống của họ đơn sơ, bình dị, đậm đà tình nghĩa láng giềng, tối lửa tắt đèn, hoạn nạn có nhau, nên khi con bị té sông, “Má la làng: ‘cô bác, cứu con tôi!”. Họ cùng chung một tín ngưỡng, cũng đơn sơ bình dị như thế. Tác giả có nhắc tới cụm từ “ba hồn bảy vía”, “té sông” là những cụm từ rất bình dân, xuất phát từ vùng quê hương này, nơi có nhiều sông nước và chuyện té sông có thể xem là rất phổ biến. Khi có người bị té sông chết hoặc suýt chết thì người ta phải hú, phải gọi ba hồn bảy (chin) vía về nhập lại với xác. Và khi một người cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như mất hồn, người ta giải thích vì nó từng bị té sông, té giếng.

Má cũng chỉ hiều đơn giản như thế. Má còn thương, còn tội nghiệp cho thằng con trai mình mỗi khi nhìn thấy nó chậm, nó khờ, ngơ ngơ ngáo ngáo. Má không biết hoặc chẳng cần biết con mình đang mơ mộng, thơ thẩn tìm tứ thơ, hoặc đang chìm đắm thả hồn trong vùng trời mây trăng nước. Má chỉ cần biết có thằng con bé bỏng, khờ khạo đang cần đến sự đùm bọc, che chở của Má. Cho dẫu sau này khi con đã khôn lớn, con có thành vương, thành tướng hay chỉ là một cu li, cù bơ cù bất, có cận kề bên Má hay đang lưu lạc nơi phương trời xa … con vẫn là thằng con té sông tội nghiệp của Má. Vì thế, không phải vô tình mà tác giả đã nhắc đi nhắc lại điệp khúc này: “Má thương con mình: ‘tội nó, té sông!”.

Và từ đó, Tình Quê, Tình Mẹ cứ mãi quay cuồng trong thơ ÐXT, thằng bé té sông năm nào.

Nghĩa Sỹ

___________________________________________________________________________________

Rót xuống chiều nhạt nắng!

dxt_3nguoi.jpg

mail bạn gởi, gởi hình đang nhậu:

Hennessy vàng ánh, lưng lưng;

xịn XO, tưởng chừng như quá đả,

vui quá mà, sao mắt lệ rưng rưng?

bởi rượu rót xuống chiều nhạt nắng,

râu tóc buồn, râu tóc bạc phơ;

vầng trán nhăn xẻ dốc đời đi xuống,

nhưng gặp nhau, còn uống, đã là mừng!

mai mốt đây, ông già chống gậy*,

sóng sánh ly, rượu cứ đổ hoài,

gặp bạn cũ, thấy ông hình quen quá!

chắc tụi mình có gặp ở đâu đây?!

say ngà ngà, nhớ toàn chuyện nhỏ,

đời lưu vong sót lại bạn già,

cũng một câu, hỏi hoài...cứ hỏi

đã uống rồi hay chưa uống đây ta?

say hết biết, nhớ hoài chuyện lớn,

đời lưu vong sót lại bạn già,

cũng một câu, hỏi hoài...cứ hỏi

tại sao mình lại lạc lối đến đây?

tưởng hỏi khó, câu trả lời dể ợt,

tại mình thua...chạy tuốt ra đây,

thân mất nước bạn sầu nên bạc tóc ?

ta cũng sầu đứt ruột, sỉn... rồi say!

*johnnie walker

đoàn xuân thu.

melbourne.

Nghĩa Sỹ đọc: 

“Rót xuống chiều nhạt nắng” thơ đoàn xuân thu.

.

Giáo Thu và các bạn thân mến !

.

Hổng phải tụi này chơi ngông đâu ! Toàn là dân cu li, kiếm cơm thôi, chớ có phải thầy bà, cán bộ đâu mà dám uống XO.

Chẳng qua là vì trong tuần rồi Hội NDCLNH mình ở Sydney có tiễn một người bạn đột ngột về bên kia thế giới khi tuổi đời chưa tới mức “cổ lai hy”.

Anh Huỳnh Ngọc Hùng, cựu hs NĐC, đại uý Võ bị DL khoá 24, thể dục buổi sáng đi bộ trong công viên rồi ngã xuống không trở về nhà nữa!

Mười Trí sau khi đưa đám tang về quyết định "phải chơi xả láng" kẻo biết đâu có ngày đẹp trời nào đó ông trời gọi về bất tử.

Chờ cho Thẩm về, mượn lý do mừng tái ngộ bạn hiền để uống cho đã. Lần này không thèm chơi bia như mọi khi nữa. Bởi thế mới có buổi họp mặt hôm đó.

Và cũng nhờ đó mà có thơ Thu.

.

Đọc bài thơ "ứng khẩu" theo kiểu “ instant message” của bạn, sao mà nó "đã" như được nhấp ly xohennessy đầu tiên vậy. Ly rượu rực lên sắc "vàng ánh lưng lưng" đủ để tỏa ra mùi hương thơm dịu dàng và đậm đà như tình bạn thâm giao, tri kỷ trong ngày tái ngộ, còn "gặp nhau, còn uống, đã là mừng".

Không vui, không mừng sao được khi vừa có rượu ngon lại vừa có bạn hiền.

.

Cứ uống đi kẻo sau này lại phải hối tiếc như Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê ngày xưa, phải không các bạn?

Nhưng tiếc thay, hình ảnh huy hoàng, lộng lẫy ấy vừa lóe lên bỗng nhập nhòe trong "mắt lệ rưng rưng"   khi tất cả chợt nhận ra một thực tế buồn: Tất cả đang đứng ở bên kia triền dốc thời gian, đã kinh qua gần hết chu kỳ sinh lão bệnh tử trong kiếp sống nhân sinh thì dẫu có muốn vui, muốn uống với bạn hiền cũng không trọn vẹn:

"Mai mốt đây, "ông già chống gậy", *

sóng sánh ly, rượu cứ đổ hoài...”

*johnnie walker

.

Hai câu chuyển ý dưới đây thật tuyệt. Thu đã sử dụng một hình ảnh ẩn dụ hết sức tài tình, vừa gợi tả hoàn cảnh, lại vừa gợi mở một chương kế tiếp không mấy vui của kiếp người:

bởi rượu rót xuống chiều nhạt nắng,

râu tóc buồn, râu tóc bạc phơ.”

.

Ly rượu bây giờ vừa cay lại vừa nồng như kiếp sống nhân sinh phù du, mong manh, tạm bợ đầy dẫy những bất trắc ấy.

Rồi cứ thế, như khi đã uống ta chỉ muốn uống cho say, thưởng thức cả những hương vị ngọt ngào, chấp nhận cả những sầu thương của thân phận làm người.

.

Uống, uống mãi cho tới khi cơn đau thật sự đến. Bởi chỉ trong cơn say túy lúy, ta mới thật sự nhận ra nỗi đau của chính mình, nỗi đau đã ám ảnh, ray rứt, dằn vặt làm ta thất điên bát đảo khiến thân không còn là thân, mình không còn là mình:

thân mất nước, bạn sầu nên bạc tóc

ta cũng sầu đứt ruột, xỉn ... rồi say !

.

Rượu ngon, bạn hiền, thân phận làm người… cứ ngỡ đã là chuyện lớn, bỗng trở thành nhỏ bé trước cơn đau của cả một thời đại, của cả một dân tộc.    

                                                                 

Nghĩa Sỹ

Sydney.

_________________________________________

Hãy cho anh chìm menợu đắng!

DXT_boat.jpg

Em Úc Châu tóc vàng sợi nhỏ,

“đất nước này nhiều thứ cho anh:

thơ anh nói sao hoài chuyện cũ ?

khi tình yêu, cơm áo đủ,đầy”.

“Hãy quên đi, xóa ngày tháng cũ,

quên đọa đầy, cay đắng, lưu vong”

anh cũng muốn nghe lời khuyên đó,

cày như trâu.. hết kiếp...cho xong.

Nhưng tiếng thơ- tiếng lòng bão nổi,

bao năm rồi cay đắng khôn nguôi.

Anh vẫn nhớ lệ sầu mắt đỏ,

đưa anh buồn qua bắc Hm Luông,

về Mỏ Cày, đêm xuôi Ba Động

tiếng người thương còn gọi anh ơi!

Thập tự giá đóng đinh tỵ nạn,

tháng tư đen...đời đứt phim rồi,

đêm đêm chiếu là thời lạng quạng

di tản trong khi đạn mịt trời!

Đêm ác mộng tràn... thời dữ dội ,

lại cứ mơ... lại thấy nhà xưa;

chim xa rừng thương cây nhớ cội,

người xa người lệ ướt như mưa.

Quá khứ bám sâu sầu sao nặng,

vệt đen dài kẽ tới tương lai,

hãy cho anh chìm men rượu đắng,

để nhà xưa..về lại...đêm nay!

đoàn xuân thu.

melbourne.

Tháng tư tình cũ!

.

Bước qua cầu sắt,

anh hỏi gắt bạn chung tình:

bướm xa hoa tại nhụy

anh xa mình tại ai?”*

.

Người xưa bị tình phụ,

quyết đón đường cô dâu,

hỏi một câu, cho rõ;

một câu đầy đắng cay:

.

"Chung tình, như em nói:

sao nỡ phụ tình nhau?

Em đã phụ anh rồi,

dĩ nhiên anh cay đắng,

chịu đựng mình anh thôi,

ngu sao mà anh hỏi?

Tù cải tạo anh về,

bến sông, âu sầu, quán

.

em yêu bước qua cầu.

người ta vui rước dâu,

về bên kia nhà chồng,

nhà họ là cán bộ,

.

dĩ nhiên họ rất giàu

nóc bằng cơi lầu đúc.

Anh không chận em lại,

để hỏi gắt một câu,

.

thừa cái thân anh biết,

thói đời...chớ gì đâu?!

Anh rót đầy ly rượu,

cạn hết nỗi đắng cay

.

của một người mất nước

mất hết...còn cơn say...

Dẫu sao cám ơn em

để anh bỏ quê mình...

.

Anh nhớ tình năm cũ,

nước mắt và tháng tư,

già rồi... anh hay khóc,

khóc tình cũ, em xưa!

Embarassed

*Ca dao

Nhân đọc bài

      “Tháng tư tình cũ” của Đoàn Xuân Thu

ThuyenNhan_boat.JPG

Bạn hiền thân mến,

Thì thói đời vẫn thế mà!

Mấy bữa nay mắc chứng gì mình lại tìm đọc Lục Vân Tiên - cái anh chàng bị bò đá đau điếng. Ngày ấy em Võ Thể Loan đẹp đẽ nhu mì, ngây thơ, yếu đuối biết bao khi đứng trước một chàng Lục Vân Tiên hùng dũng “Mày tằm, mắt phụng, môi son, mười phân cốt cách vuông tròn mười phân” cho nên lời lẽ của em cũng êm ái, ngọt ngào, đầy tín thác:


Thưa rằng: Quân tử phó công
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ
Tấm lòng thương nhớ gió mưa
Ðường xa ngàn dặm xin đưa một lời...

...Chàng dầu cung quế, xuyên dương
Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quân lựu, chơi trăng quên đèn.

Ngờ đâu, cũng từ cái miệng duyên dáng, ngọt ngào đó, lại có thể thốt ra những lời cay nghiệt, đanh thép sau đây:

Loan rằng: Gót đỏ như son
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn
Ai cho sen muống một bồn
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê
Thà không trót chịu một bề
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu
Dốc lòng chờ đợi danh nhu
Rể đâu có rể đui mù thể nay...

Vậy nên dứt tình tráo duyên. Thói đời vẫn thế mà! Phải chăng Vân Tiên nhà ta quá tin vào lời nói ngọt ngào ngày xưa? Phải chăng Vân Tiên quá khờ khạo không biết được thế thái nhân tình đen bạc nên chàng vẫn lê tấm thân tàn ma dại về nhà nhạc gia?

Không, Lục Vân Tiên không đến nỗi khờ khạo thế đâu. Bởi trong thời đại của Lục Vân Tiên, cái nền tảng đạo lý còn rất vững chắc. Những giềng mối tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức còn được mọi người tuân thủ, trân trọng và giữ gìn. Trong xã hội bấy giờ, nếu có những hạng người xấu, gian manh, hiểm độc như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thì cũng còn rất nhiều những con người tốt, biết trọng nghĩa, khinh  tài, như Vương Tử Trực, Hớn Minh, Ngư ông, Ông quán... Cho nên Vân Tiên vẫn còn lý do để mò về nhà nhạc gia. Và khi bị phụ bạc chàng mới có lý để ngỡ ngàng, thắc mắc.

Còn cái thói đời trong thời đại của bạn thì nó đã đen tối hết mức rồi. Cái biến cố tháng tư quái ác này đã làm cho mọi trật tự xã hội đều thay đổi, mọi chân lý bị biến thành hư ảo, chính nghĩa biến thành tà đạo, anh hùng thành quân cướp, ông biến thành thằng, thằng hoá ông, man rợ thành văn minh, khỉ biến thành người... thì những gì là chân chính, đạo đức, lương tâm phải sụp đổ tan tành, nhanh chóng. Cho nên thói đời đen bạc nay trở thành một quy luật của cuộc sống, một lẽ đương nhiên không cần tranh cãi thì còn có gì để thắc mắc, để trách móc.

Anh không chận em lại,

để hỏi gắt một câu,

thừa cái thân anh biết,

thói đời… chớ gì đâu?!

Chàng trai đã không trách người yêu phụ bạc bởi suy cho cùng nàng cũng chỉ là nạn nhân của cả một xã hội đã suy đồi đến tận gốc rễ. Nên chàng vẫn trân trọng, vẫn cám ơn em. Và hơn nữa, vẫn thương vẫn nhớ tình xưa mỗi độ tháng tư về....

Dẫu sao cám ơn em

để anh bỏ quê mình...

Anh nhớ tình năm cũ,

nước mắt và tháng tư,

già rồi... anh hay khóc

Nhưng tại sao mỗi độ tháng tư về anh khóc? Chắc chắn không phải chỉ vì mất mối tình xưa – nó quá nhỏ bé trước những mất mát lớn lao hơn – cái làm anh đắng cay và khóc là nhìn thấy quê hương mình không còn như xưa nữa. Nó đã bị huỷ diệt, băng hoại đến không còn gì cả. Và thế là anh tức tưởi khóc:

Anh rót đầy ly rượu,

cạn hết nỗi đắng cay

của một người mất nước

mất hết...còn cơn say...

Nghĩa Sỹ

Chú thích thêm: Chàng trai thời đại sau tháng tư đen “khôn” hơn thời xưa trong ca dao hoặc trong Lục Vân Tiên nhiều. Hắn chẳng hơi đâu mà chặn em lại hỏi gắt một câu, tại sao em phụ bạc anh. Đó là lý do tại sao sau này người ta không còn thấy quyển Lục Vân Tiên xuất hiện trên các kệ sách của Thư Viện và Nhà Sách. Cũng không thấy bóng dáng Lục Vân Tiên trong chương trình giảng dạy ở các Trường Học. Đó cũng là lý do vì sao sư phụ Nguyễn Đình Chiểu phải đui mù.


 

dxt_vo.jpg 

** Kính tặng chị Thu

Trong số mấy chục bài thơ tình của Đoàn Xuân Thu, hình ảnh người vợ hiền đã được nhà thơ nhắc đến nhiều lần. Ngoài những bài trực tiếp viết cho vợ như Cám ơn em đã yêu anh, Thương em quê mùa lũ, Đêm đêm đèn sáng, Giặt áo,... còn trong những bài khác, hình ảnh người vợ hiền đâu đó vẫn hiện lên trong thơ anh - ngay cả trong những bài viết cho tình nhân. Đây có thể xem là nét đặc biệt trong thơ tình Đoàn Xuân Thu.

Không biết Đoàn Xuân Thu có bao nhiêu người tình, nhưng nhà thơ hiện đang sống gắn bó và thuỷ chung với người vợ lấy nhau từ thuở hàn vi. Trong bài thơ mới nhất, nhà thơ đã mượn chuyện giặt áo cho vợ để điểm lại cuộc tình duyên của hai người:

Vò nhè nhẹ, nhớ mình thuở đó,

thiệt là gan... cho cái hôn đầu

thân áo... tóc, vướng vài sợi bạc,

mới hay tình ta.... thọ rất lâu.

(Giặt áo)

Tình ta thọ rất lâu, bởi họ lấy nhau vì tình, một cuộc tình vô tư, không hề tính toán thiệt hơn:

Nhớ má rầy: “con dại...
lấy ai! sao không lấy?
lại lấy nó - nhà thơ...
nhà thơ... nghèo biết mấy!”


Em cãi lời của má,
ngoan cố... em lấy anh,
giàu, nghèo em đâu sá,
đâu ngăn được tình ta.

(Cám ơn em đã yêu anh)

Vợ của nhà thơ thì cũng như bao người con gái VN khác khi xuất giá, nàng đã phải đứt ruột lìa bỏ gia đình, lìa xa cha mẹ để theo chồng:

Con theo chồng,

chỉ cách một bến sông;

má nghĩ xa ngàn dặm.

Chiều bến sông, con buồn ra giặt áo

phía kia bờ, má ảo não đứng trông.

(Chuông ơi đừng reo nữa!)

Đoàn Xuân Thu đã khắc hoạ hình ảnh người vợ trẻ, ngay từ trong thời gian đầu về nhà chồng bằng nét buồn và nỗi thương nhớ mẹ cha. Ngày ngày nàng ra bến sông giặt áo, dõi mắt về quê nhà bên kia sông. Con sông chắc không lớn lắm nên vẫn có thể nhìn thấy hình bóng má ảo não đứng trông mé bên kia. Hai má con chỉ buồn nhớ dõi mắt trông nhau, không một lời than vãn, bởi họ đều biết, một khi đã lấy chồng thì phải theo chồng. Phải có cái nhìn tinh tế và niềm cảm thông sâu sắc, nhà thơ mới khắc hoạ được nỗi đoạn trường sâu thẳm và lặng câm của người vợ trẻ, khi chỉ cách một bến sông mà thấy như xa ngàn dặm.

Rồi nàng cũng phải thực sự xa má để theo chồng. Như nước phải chảy xuôi dòng, tình cảm của nàng từ nay phải dành để cho chồng, để “đi đâu cho thiếp theo cùng”, cùng chịu chung số phận với chồng, chấp nhận mọi hiểm nguy:

em không theo chồng lên núi

em rời mẹ, xa cha

theo anh, làm vợ lính.

Em gởi tình em ra mặt trận

đêm chiến trường, em luôn ở bên anh.

(Đêm đêm đèn sáng)

Làm vợ một người lính trong một hoàn cảnh đặc biệt khi miền Nam sụp đổ, như hầu hết người vợ chiến sĩ khác, nàng còn phải trải qua trăm ngàn gian khó, thăm nuôi chồng trong chốn lao tù, chấp nhận chia xa để chồng được thoát thân trên đường vượt biên:

Em đứt ruột, khi miền nam sụp đổ.

em gởi niềm thương, nỗi nhớ

từng bước anh đày cõi bắc xa.

Anh tan tù, tìm đường vượt biển.

Em chèo xuồng đưa anh ra ngã ba sông.

nơi tình ta đôi ngả.

ngã nầy thương nhớ, ngã kia mong.

(Đêm đêm đèn sáng)

Không phải chỉ chấp nhận số phận của người vợ lính trong thời ly loạn, nàng còn chấp nhận số phận làm vợ nhà thơ nghèo. Hồi đó, người ta thường nói: “nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghèo”, người chồng mà nàng chọn có đến hai trong ba thứ nghề nghèo đó. Nàng đã can đảm chấp nhận cái nghèo, cái khổ, cái cay đắng nhọc nhằn luôn đeo đẳng trong cuộc sống. Bằng hình ảnh cái cò lặn lội bờ sông - một hình ảnh truyền thống, tiêu biểu, gợi cảm - được nhà thơ sử dụng để ca ngợi người vợ tảo tần, đảm đang của mình, nâng nàng lên ngang tầm với những người phụ nữ VN đáng kính khác trong thơ văn bình dân và bác học:

Thơ anh dán đầy vách,
khạp gạo em cạn rồi,
thương cánh cò lặn lội,
cuối bãi tới đầu sông,
em gánh gạo nuôi chồng,
lồng tiếng khóc nỉ non.

(Cám ơn em đã yêu anh)

Người vợ ngày xưa tảo tần nuôi chồng, nay lại một thân một mình vừa là mẹ, vừa là cha, nuôi dạy con cái trong một hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo. Vẫn với cái phong cách vận dụng hình ảnh cũ trong ca dao,  Đoàn Xuân Thu đã diễn tả cảm xúc của mình một cách thật giản dị và tự nhiên. Câu thơ gần như lời nói suông, không cần trau chuốt, nhưng được tác giả ngắt thành từng đoạn ngắn nghe như tiếng nấc nghẹn ngào của anh khi nhớ về người vợ còn kẹt lại chốn quê nhà trong mùa lũ:

Đèn nào cao

bằng đèn Châu Đốc

thổi ngọn gió nào độc

cho bằng gió Gò Công

thổi ngọn gió đông lạc vợ xa chồng

nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi

Câu ca dao ngày cũ

em ở lại

ru con trong mùa lũ

Anh quê người

nhớ câu hát cũ mà đau

(Thương em quê mùa lũ)

Để rồi... người phụ nữ đơn chiếc, yếu đuối trong cơn nước lũ ấy bỗng hoá thân thành Quê Hương, một quê hương “Cần Thơ quê mình” êm đềm, thơ mộng ngày trước và cũng là một quê hương khổ đau, tang tác bây giờ đang chìm trong cơn thác lũ – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tình cảm thuỷ chung của nhà thơ đối với người vợ hiền bây giờ được quyện chặt vào tình cảm sắt son của anh đối với quê hương. Nỗi thương nhớ càng trở nên quay quắt khôn nguôi:

Chiều quê người

em ơi!

Mùa nầy lá rụng

mà đời anh là chiếc lá bay bay.

Chiếc lá bay bay

về đâu? Về đâu?

Có về quê cũ

cho anh gởi về em

về Cần thơ quê mình

đang chìm trong mùa lũ

niềm thương nhớ khôn nguôi.

(Thương em quê mùa lũ)

Cho đến khi vợ chồng được đoàn tụ, người vợ vẫn chưa hết khổ đau. Đoàn tụ với chồng nơi quê xa cũng có nghĩa là ngàn trùng xa cách với cha mẹ già còn ở lại quê nhà. Nhà thơ đã thấy lòng quặn thắt  khi nghe tiếng thở dài của vợ:

 “Em còn có mẹ già bên đó!”

tiếng thơ buồn như tiếng thở than !

anh đọc thấy : “ ...hai hàng lụy nhỏ...

...có mẹ già biết bỏ cho ai ?!”

                                   (Lau lệ mình ên)

Và còn một nỗi đau âm thầm, day dứt luôn ám ảnh người đàn bà có chồng là một nhà thơ đa tình. Mặc dù biết chàng vẫn giữ tròn đạo làm chồng, nhưng đã bao lần tiếng thơ chàng đã dành riêng cho những người tình, không phải là nàng:

Em trách... “anh yêu em?!
làm thơ cho người khác,
anh biết... yêu là ghen,
anh làm em tan nát.”

                                 (Cám ơn em đã yêu anh)

Nhà thơ thấu hiểu nỗi day dứt ấy của vợ mình, nhưng “biết làm sao? khi nói thật lòng nhau”, vẫn không làm sao thay đổi được bản chất lãng mạn, đa tình của mình, chàng chỉ còn biết bày tỏ lòng biết ơn sâu xa, mong đưọc nàng thông cảm! Cám ơn em đã yêu anh, cám ơn em đã làm bài thơ anh dở dang!

“còn có một bài thơ
không bao giờ viết nổi...
chữ nghĩa dẫu khôn cùng
cũng còn là giới hạn
để diễn tả tình em.”

 “cám ơn em yêu đã...
làm bài thơ dở dang!”

Vâng, cuộc tình nào mà không có vị đắng cay, nhất là trong đời sống vợ chồng. Nhà thơ đã tự nhủ lòng, người vợ hiền hôm nay cũng từng là “tình nhân” ngày xưa ta đã từng si mê, đeo đuổi. Vì thế, muốn giữ Hạnh phúc cho khỏi bị những cơn lốc đời cuốn hút, không phải chỉ cầu mong nơi sự “cảm thông” hay những lời nói cám ơn suông, mà phải biết “tẩn mẩn”, “nhè nhẹ” để giữ cho cuộc tình luôn được “thẳng thớm”:

Giũ áo cho em tình thẳng thớm

để em quên những lúc giận hờn...

...Anh cẩn trọng phơi dây hạnh phúc

áo thương xưa nay dẫu bạc màu

(Giặt áo)

Tấm áo ấy đã bạc màu không chỉ do thời gian và còn vì cuộc đời dâu bể. Những biến cố tang thương nơi quê nhà dẫn đến bao chia lìa, mất mát trong đời sống gia đình và ngay cả trong tình cảm. Tất cả phải làm lại từ đầu, phải hàn gắn những hư hao đổ vỡ, hướng về tương lai, tạo dựng cuộc sống mới. Nơi xứ người, người vợ hiền tảo tần ngày trước, vẫn giữ được nét cần cù, đảm đang cố hữu. Ngày qua ngày, nàng cặm cụi may vá để cùng với chồng xây dựng một đời sống mới. Tác giả đã hình tượng hoá “những mũi chỉ đường kim” thật tài tình, như là phương tiện hàn gắn lại một đời rách nát, tang thương:

dxt_mayao.jpgTan ca! xe anh qua đường phố vắng.

thành phố đà ngủ say.

nhà mình đèn vẫn sáng.

em cắm cúi ngồi may

đêm quê người dài lắm ở chung quanh.

Những mũi chỉ, đường kim, em khâu lại đời ta.

rách nát!

                                                          (Đêm đêm đèn sáng)

Hình ảnh người vợ cắm cúi ngồi may giữa đêm khuya thanh vắng, giữa lúc mọi người đang ngủ say loé lên như một tia chớp, khiến người chồng có lẽ đang mệt mỏi trở về nhà sau ca làm đêm chợt bàng hoàng. Vợ chàng bây giờ chắc không còn trẻ nữa, mái tóc đã điểm sương, nét mặt có lẽ đã hằn lên nhiều nếp nhăn năm tháng, lưng nàng đã còng xuống vì những gian lao ngày trước và những vất vả bây giờ. Nhưng lúc nào và bao giờ nàng cũng như cái bóng bên chàng, âm thầm và nhẫn nhục. Tiếng thơ bỗng vỡ oà lên như tiếng khóc:

Ôi! em yêu của anh!

cho anh hôn lên vầng trán.

hôn lên những vết hằn- của trăm cay nghìn đắng.

em theo chồng, từng bước, nẻo gian nan.

(Đêm đêm đèn sáng)

Đêm đêm đèn sáng, bây giờ không còn là ánh đèn điện mà chính là ánh sáng rực rỡ toả ra từ vầng trán hằn những vết nhăn cay đắng ấy. Nó phản chiếu đức tính cần cù cao quý của người phụ nữ Việt Nam đang toả sáng nơi đất khách quê người, mang lại niềm kính phục và lòng cảm mến sâu xa cho mọi người. Và cho riêng Đoàn XuânThu:

Em mang Việt nam cần cù qua xứ lạ.

đêm đêm đèn vẫn sáng.

em khâu lại đời ta!

Nghĩa Sỹ

(Nhân ngày Valentine 2011)

_________________________________________________________

Tình Bidong!

.

Boston em, mùa này tuyết lạnh;

Melbourne anh, mùa này rừng cháy,

anh nhớ em, tình ơi! Bidong,

tình Bidong... có list thì dông!

.

Phần số khiến xui trời Bidong,

kinh hoàng vượt biễn, mình sống sót,

xuyên vào nhau hai ánh sao băng,

tình Bidong... có list thì dông!

.

Biễn gầm thét, em tựa vào anh,

biển nói gì? nói: đời ngắn lắm,

em yêu... nồng nàn... tình bão giông,

tình Bidong... có list thì dông!

.

Điên dại tình ta...tình ngắn ngủi,

tỉnh lại anh! con thơ, vợ dại;

tỉnh lại em! chim hót trong lồng,

tình Bidong...có list thì dông!

.

Tan tành mơ, thương tình pháo bông,

rực rỡ, huy hoàng rồi chợt tắt,

cuồng nhiệt tình ta...nỗi kinh hoàng,

tình Bidong... có list thì dông!

.

Vĩnh biệt anh, bay về tuyết lạnh;

vĩnh biệt em, bay về  rừng cháy,

vượt rào lễ giáo, em tiếc không?

tình Bidong... có list thì dông!

.

Ngắn ngủi tình... xin là hư không!

chôn tình ta... xa trời Bidong!

rực rỡ tình ta... sắc pháo bông!

tình Bidong có list thì dông!

.

Đêm giã từ Kế Sách.

cheoxuonghe5.jpg

Sáng bước vô trường, nghe bị đuổi;

về nhà lúi húi xếp hành trang:

bài thơ tình cũ... quần áo cũ,

hết thời dạy giáo... giờ lang thang.

.

Đến quán em quen, để trả tiền

" anh bị đuổi rồi, cuốn nóp thôi "

em buồn, con mắt rưng rưng nói

"hia giáo bỏ đi... chợ chắc buồn."

.

Em hỏi làm sao anh bị đuổi ?

"anh là thầy giáo ngụy em ơi!"

chợ quận anh xa, về xứ cũ

"cám ơn tình em... cám ơn đời."

.

Đôn Ta ...Dù Kê... em với anh,

thương người dũng sĩ, chàng Thạch Sanh,

chỉ vì tin bạn mà bạn phản,

bởi tại Lý Thông, phải sa hầm...

.

Tiệc tiển hành anh, em thết đãi:

cá sặt rằn khô, xoài thanh ca,

đường rắc chút, thêm vài lát ớt

uống cạn đời đi, lắm đắng cay!

.

Nửa khuya thức giấc đò Ngọc Diệp,

tình ta như chiếc lá giữa dòng,

"dậy đi anh yêu... về cho kịp!"

lỡ nhịp tình ta... sông cách sông.

.

Melbourne anh ở trời lưu lạc,

Kế Sách quê mình vẫn thấy đau,

thương người con gái Tiều lai ấy,

xin mình sum họp lại kiếp sau.

Quê nhà

.Cau_khi_My_Tho.jpg

Footscray

nhà thương thí miền tây

con thăm ba lần cuối,

ráng chiều hấp hối cháy chân mây,

ba nhìn con trăn trối:

"quê nhà trong trái tim ba!"

vàng thu những lá đời bay...

ba ơi! con biết một ngày sẽ xa.

.

Altona

chầm chậm chiếc xe tang,

lăn về nơi vĩnh biệt;

còn lại chút tro than,

của một đời trôi nổi,

muốn về lại cố hương.

.

Hòa Tịnh

Mộ má nhìn ra lộ Đông Dương

như trông như ngóng người thương trở về,

người thương nay đã trở về

dẩu tro than vẫn câu thề ngày xanh.

"Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành

tàu Tây kia liệt máy anh mới đành xa em.”*

 .

* ca dao

 .

đoàn xuân thu

melbourne.

Chưa mưa đã lụt !

.NNH_TiecThuong.jpg

Thương em

dải miền Trung,

chưa mưa đã lụt!”

quân anh đi

tầm tã em sùi sụt,

trong gió Lào

bỏng cháy, rát làn da!

.

Thương miền Trung mô, tê, răng, rứa

đêm cùng em hẹn lần, hẹn lữa..

hỏi ngày về, vời vợi : “biết chi mô!”

“mai tiểu đoàn anh ra tuyến lửa,

theo anh hoài câu hát thiết tha:

Răng chừ nước ráo Đồng Nai

Sông Gianh hết chảy mới phai lời nguyền”*” ...

.

Thương người lính, miền Trung ở lại,

mãi mãi không về được chốn quê,

thân là lính, thét roi cầu Vị*

chết chiến trường, da ngựa bọc thây.

Thủy quân lục chiến! Thủy quân lục chiến!

chết chiến trường, thây bọc chiếc poncho.

.

Mạnh Khương xưa khóc chồng, mưa nước mắt,

nỗi thương đau Vạn Lý sập Trường Thành!

giờ anh hiểu: sao chưa mưa đã lụt ?

bởi khóc người ngã xuống đất quê em!

.

.

*Ca dao

*Chinh Phụ Ngâm

 

     Chạm cửa thiên đường

    

Ngày 30-7-2009 và ngày 2-8-2009 vừa qua, tờ Jakarta Post tại Nam Dương loan tin nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lại tiếp tục áp lực chính phủ Nam Dương, lần này họ yêu sách đòi Nam Dương triệt hạ di tích trại tị nạn Galang.  Được biết, di tích này đã được chính quyền và cư dân địa phương tại đảo Batam trùng tu và bảo quản hàng chục năm nay để làm di tích lịch sử và công viên di sản dành cho khách hành hương, khách du lịch và cư dân địa phương đến chiêm bái và ngơi nghỉ.

(Theo tin của Archive of Vietnamese Boat People)

TaiLieu_BoatPeople305a.jpg

 Ba mươi năm

về lại Ku Ku

chiều thu lá rụng

sóng biển khóc, khóc thương người uổng tử !

rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?

.

Vượt trùng dương,

ngàn cơn bão,

em đã đến Nam Dương:

đất nước ngàn, vạn đảo;

em chạm cửa thiên đường,

cửa chưa mở...

cơn sốt rừng ập tới,

chiều thu buồn,

em nằm lại Kuku...

.

Hòm cao uỷ

phủ thân người yêu dấu,

thay vòng tay anh ấm... tấm nilong,

mộ chí đề tên, ngày em mất,

mả lạn... tàn phai

sương gió thời gian;

mộ chí khắc bằng dao

để lòng đau... anh nhớ...

.

Rượu cay đắng mang theo

rửa cốt người yêu dấu...

chiếc nhẩn cưới còn đeo,

thương hoài...tay áp út

.

Anh hú, anh kêu:

tiếng hú chiều tuyệt vọng ...

ôi! em yêu!

ôi! đất hỡi! trời ơi !

sao nỡ đóng cửa thiên đường

khi bàn tay em chạm tới.

.

Bài thơ khóc em

chiều Kuku

ngàn thu vĩnh bíệt;

anh mang hài cốt em theo

mình vĩnh biệt Kuku!

.

Kuku!

chiều thu lá rụng,

rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh !

Tân Phú Trung*.

 .

Chuẩn úy sữa về Bình Đại,

giặc bắn vu vơ, hầm nhảy đại,

lính cụ rung râu, cười như dại

mặt chuẩn úy bồ quân, rồi tím tái

.

nạt lính đùa: ai một lần không hãi?

Rồi cũng ngầu dần theo tháng năm

băng đồng, lội ruộng, nước phèn ngâm.

quần nhau với giặc hơn mươi trận

.

râu, tóc bồm xồm, tua tủa đâm.

Chiều nay giận quá! thằng giặc láo!

bắn chẳng nhằm ta trúng bình toon.

rượu đẫm mình ta, ta tưởng máu.

.

đổ rượu! trời ơi! chết sướng hơn!

Chiều! chiều mưa nhiệt đới đẫm đồng bằng,

trùm kín poncho về Tân Phú Trung

giọt ngắn, giọt dài xuôi triền nón sắt

.

bàn tay che khói thuốc đời mong manh.

Phố chợ Tân Phú Trung buồn như mưa

tạ ơn quán em cho bình toon rượu

nếu không có em, đìu hiu phố chợ

không rượu chiều nay lấy gì ta say.

.

Dẫu là rượu tiển lời vĩnh biệt

ngã xuống đời ta kín poncho

không tiếc đâu em, ta không tiếc

ngẫu nhiên về em Tân Phú Trung.

.

Bình Trung* chuệnh choạng một bến sông.

xuồng ai chợ tết chở đầy bông.

trăm, ngàn vạn thọ tưng bừng nở

chúc phúc cùng ta một nhánh bông.

.

Em nhá đừng yêu người lính trận

lính trận mà em chẳng có về!

Túy ngọa sa trường quân mạc vấn

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

.

* Tân Phú Trung một xã thuộc quận Bình Đại, Tỉnh Kiến Hòa.

Ngọn đèn chong mắt.


Con xa rồi đất quê,

đêm xuống thuyền vượt biển;

có ngọn đèn chong mắt,

đăm đăm đợi con về.


Con đã qua

mùa đông quê người

lạnh thấu xương!

để con nhớ

quê nhà ta

cả một trời nắng ấm.


Con đã qua

mùa hạ quê người

cháy rát da!

để con nhớ

quê nhà ta

cuối năm trời chớm lạnh.


Đất quê người,

thân con, đời cô quạnh;

tha thiết hoài,

nỗi nhớ má, thương quê.


Xưa bến cũ con đi;

nay bến cũ con về,

mòn mõi má đợi mong,

trong sức tàn, lực kiệt:

đèn khô dầu, lụi bấc

đôi mắt khép lại rồi.


Lá rụng phải về cội!

sao con lạc lối về?

bởi ngọn đèn chong mắt

giờ đã tắt thiên thu.


Chuông ơi! đừng reo nữa!


“Lỡ mai cha yếu mẹ già

chén cơm, đôi đũa, bộ kỹ trà ai dâng?” *


Con theo chồng chỉ cách một bến sông
;

má nghĩ xa ngàn dặm.

Chiều bến sông, con buồn ra giặt áo

phía kia bờ, má ảo não đứng trông.


Nước mất nhà tan,

con lên đường vượt biển

cách một bến sông,

giờ thêm ngàn dặm biển;

con đâu ngờ xa má lần này

là vĩnh viễn ngàn năm.


Điện thoại viễn liên,

bên kia, trời nổi nhớ

sao em lặng yên? rồi nức nở!

ôi má ơi! cả trời thương sụp đổ.

con không kịp về, giờ phút cuối má thương ơi!


Con vào, ra, tựa cửa, bóng tang thương!

xưa dải khăn sô cho quê hương.

giờ dải khăn sô cho má.

má là quê hương;

quê hương là má.


Ngôi vườn cũ ai sẽ ngồi đốt lá?

khói lên trời tìm kiếm đứa con xa.

Điện thoại viễn liên, con không buồn nghe nữa;

thôi đã tắt đời con bếp lửa!

má mất rồi! chuông reo nữa mà chi!

*ca dao.

 

Nhận của con nếu có chỉ là thơ !


Lẻ công bằng có cho và có nhận,

má chỉ cho chưa có nhận bao giờ:

má cho con cà một đời lận đận;

nhận của con nếu có chỉ là thơ.


Ngàn pho kinh sách con đã đọc,

hữu hạn vô cùng chữ nghĩa ơi;

cho vô hạn một đời lao nhọc,

những lầm than, má đã cưu mang!


Câu nhạc Y Vân thường hay bảo:

“ Mẹ thương con như biển Thái bình”

Thái Bình! Con vượt trong giông bão,

còn má thương con chỉ dịu êm!


Chiếc đòn vai

thả sợi dây dài,

đưa cỗ quan tài

từ từ xuống huyệt;

kèn đưa đám trổi giọng buồn thê thiết,

tiếng đàn cò đẫm lệ rủ khăn sô.

gậy tang chống, sao nâng đời con được?

bờ huyệt sâu,

ba tấc đất.

Má đâu?


Chiếc đòn vai

thả sợi dây dài,

đưa cỗ quan tài

từ từ xuống huyệt.

cỗ quan tài

mang hình hài

má của con yêu dấu.

họ chôn má rồi,

họ đã chôn cả thời thơ ấu của con!


        Ôi! má của con, má của con!
       
từ nay thôi chắc chẳng còn ai,
       
thương con như thế nữa?
       
bếp lửa chiều hôm chợt tắt rồi,
       
mờ bóng má chập chờn trên vách lá,
       
má về đâu? sinh, tử : cõi vô thường.

Ôi! má của con, má của con!

từ nay thôi chắc chẳng còn ai,

thương con như thế nữa?

xiêu lạc tha hương, phiêu bạt sầu,

côi cút bay giữa đời giông bão,

ước vọng tương phùng là ảo vọng

má thương ơi !

Đừng tin con gái Mỹ Tho!

 

Nhỏ đưa anh, mặt mày ủ dột

Mỹ Tho buồn, rớt hột,  lâm râm.

xe lô Minh Chánh, vừa lăn bánh

nhỏ lấy mù soa, chấm chéo khăn?!

 

Chéo khăn, sao ngăn dài giọt lệ

Xa anh rồi chẳng… dễ gì quên

nhỏ xa anh, ngọn đèn vàng võ

biếng châm dầu, lụi bấc, thâu đêm?!

 

Nhỏ viết thư, chục lần căn dặn:

“Sài Gòn! đèn ngọn đỏ, ngọn xanh

học hành nha, đừng mê bóng sắc.

Mặc ong ve, nhỏ vẫn chờ anh?!”

 

Anh tin nhỏ, Mỹ Tho, thề hẹn

Cách mặt xa lòng, mới bốn năm;

lặng lẽ, nhỏ ôm cầm thuyền khác

nhỏ chờ anh? rốt cuộc, anh lầm!!

 

Anh về trường cũ dạy môn văn

từ chung thủy, băn khoăn, ai biết ?

“chung thủy gì? phụ anh đi biệt!”

ngượng ngùng không? khi nói trăm năm!

 

chuyện tình ta đâu phải cải lương

sao nhỏ vai đào thương rất đạt?

đã vong phụ vẫn còn vớt vát

tiếng ru buồn nhỏ hát bên song!

 

“Ngày đi lúa chửa đơm bông

ngày về em đã con bồng con mang*”

 

*Ca dao

 

 Lau lệ mình ên!

 

“Em còn có mẹ già bên ấy!”

tiếng thơ buồn như một tiếng than!

anh đọc thấy hàng hàng nước mắt;

Sydney buồn mà anh lại quá xa.

 

Anh cũng có mẹ già bên ấy:

mẹ anh đã nằm dưới mộ sâu,

cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ,

mẹ chắc nhớ anh, nhớ để rầu.

 

Hai lăm tháng chạp về tảo mộ

hẹn lần, hẹn lữa, hẹn năm sau,

năm nào cũng vậy, tiền không có;

không tiền, không có vé máy bay!

 

Ngày khánh tận mà anh khánh kiệt,

chỉ biết tàng xe đến phi trường,

ai về xứ Việt, quê hương đó

cho ké, dùm tôi, nỗi đoạn trường!”

 

Em nhớ mẹ, áng chừng em khóc,

vẫn còn ai đó vỗ về em,

ai đó làm em không khóc nữa;

nỗi buồn nhớ mẹ chắc rồi quên.

 

Anh nhớ mẹ, rồi anh cũng khóc

Melbourne buồn, anh lau lệ mình ên!

 

 

 

Vết khắc thời thơ dại!

 

Trường cũ anh về xưa lối thơ

hành lang chập choạng, mắt anh mờ

run run kính lão, dò vô lớp

trường xưa tạn mặt! người xưa mơ!

 

Anh giờ về lại lơ ngơ quá

ai chỉ dùm anh chỗ hẹn thề?

cuối lớp: “đây rồi bàn năm cũ!

còn khắc tên mình: hai chữ T”.

 

Cái thời mười bảy yêu say đắm

anh khắc tên mình quấn quít nhau

ai ngờ đất nước trời binh biến

thương hải tang điền, em biển dâu.

 

Bạn bè chung lớp giờ tản lạc

đứa chết bỏ thây tại chiến trường

đứa chiếc xe lăn về cố quận

đứa thì thua trận, sống tha phương.

 

Em trước, anh sau, trồi ra biển

chữ tình, sóng dữ, vạt làm đôi

một nửa em mang về xứ Mỹ

xứ Úc anh về, ta rẽ đôi.

 

Trường đi không được nên ở lại

sầu: thương lớp cũ, khóc bàn xưa

tàn, lạc tình ta, theo vận nước

thầy, cô, trường cũ, buồn như mưa.

 

Chiều nay, một nửa anh, về lại

một nửa em, còn mãi chân mây

tên mình, vết khắc, thời thơ dại

trái tim rướm máu hãy còn đây.

 

Run run chạm lại thời hoa mộng

vết khắc tình sâu dẫu bụi mờ

(gợi nhớ thầy rầy: “không lo học!”

ai ngờ cấm túc hóa thành thơ).

 

Xế nửa dốc đời trời sắp tối

anh sợ không về kịp nữa đâu

“một nửa mang về!” em yêu dấu!

ráp lại tình ta sau biển dâu.

 

 

 

Thương cánh cò lặn lội!

 

người cho em là dại

“lấy ai? sao không lấy!

lại lấy một nhà thơ

nhà thơ nghèo biết mấy!”

 

tình cũ chẳng trăm năm

cố nhân đã ôm cầm

thản nhiên sang thuyền khác

người tham đó bỏ đăng

rằng thơ: “toàn phù phiếm!”

thuyền hoa đi biền biệt

bóng nhạn đã mù tăm

sao thơ còn tha thiết?

 

thơ anh dán đầy vách;

khạp gạo em cạn rồi

thương cánh cò lặn lội

cuối bãi tới đầu sông

em gánh gạo nuôi chồng

lồng tiếng khóc nỉ non.

 

đôi ta đã qua chiều,

cuộc đời, trời sắp tối.

cuối cùng rồi anh nói:

“còn có một bài thơ

không bao giờ viết nổi...

chữ nghĩa dẫu khôn cùng

cũng còn là giới hạn

để diễn tả tình em.”

 

“cảm ơn em yêu đã...

làm bài thơ dở dang!”

 

                                 
THE LIGHT’S ON EVERY NIGHT


The shift’s over!

I drive along deserted roads.

The whole city’s fast asleep,

But the light’s still on at home.

You sew the clothes in patience

Amid the long night on foreign soil.

With each stitch, you mend our lives,

Torn up!

By war, by defeat, by exile,

By loneliness! Life as refugees!

(East Sea we have passed!

Homesickness won’t sink.)

Oh! My love!

Let me kiss your forehead,

Wrinkled by bitterness and suffering.

You followed your husband, every step, through difficult times.

“Mother, don’t marry me faraway,

Birds sing, gibbons howl, which way back home?” *

But you didn’t go to the mountains.

Leaving your mother and father,

To be with me, as a soldier’s wife.

You sent your love to the front.

On battle nights, you stayed with me always.

You were tormented when the South collapsed.

All the love and nostalgia that you sent,

Followed my steps in the far North.

Out of concentration camp, I tried to flee.

You rowed the boat, taking me to the confluence,

Where our love was divided,

One half was longing, the other hoped.

You carried the Vietnamese hardworking spirit to the new shore,

Where the light’s still on every night,

For you to mend our lives!


*Folk song

Doan xuan Thu

Đêm đêm đèn sáng.

Tan ca!

xe anh qua đường phố vắng.

thành phố đà ngủ say;

nhà mình đèn vẫn sáng,

em cắm cúi ngồi may,

đêm quê người dài lắm ở chung quanh.

Những mũi chỉ, đường kim, em khâu lại đời ta:

rách nát!

bởi lửa binh, bởi thất trận, bởi lưu đày;

bởi cô đơn! một đời tỵ nạn!

(Biển Đông ta đã vượt!

nỗi nhớ nhà khôn qua!)

Ôi! em yêu của anh!

cho anh hôn lên vầng trán;

hôn lên những vết hằn - của trăm cay nghìn đắng,

em theo chồng, từng bước, nẻo gian nan.

“Má ơi đừng gả con xa

chim kêu, vượn hú, biết nhà má đâu.” *

em không theo chồng lên núi,

em rời mẹ, xa cha

theo anh, làm vợ lính.

Em gởi tình em ra mặt trận

đêm chiến trường, em luôn ở bên anh.

Em đứt ruột, khi miền nam sụp đổ;

em gởi niềm thương, nỗi nhớ

từng bước anh, đày cõi bắc xa.

Anh tan tù, tìm đường vượt biển;

em chèo xuồng đưa anh ra ngả ba sông:

nơi tình ta đôi ngả:

ngả nầy thương nhớ, ngả kia mong.

Em mang Việt nam cần cù qua xứ lạ:

đêm đêm đèn vẫn sáng.

em khâu lại đời ta!


*ca dao

đoàn xuân thu.

Lời người phụ trách:Kèm theo bài thơ trên đây, một cách thân mật, tác giả viết cho người phụ trách Trang Nhà: "Bài thơ nầy được mấy thằng Úc cho 500 đô. Hồi nhỏ tới lớn viết nhiều, nhưng chưa được cắc nào nên được "tiền trên trời rớt xuống" bèn bỏ ống heo để bạn bè văn nghệ tới nhà chơi, trút ống, mua rượu uống cho vui".
Sẽ có một ngày rửa tay gác kiếm,Trần mỗ chu du Melbourne để cùng Đoàn đệ ngồi trên Port Phillip Bay lai rai ba sợi, cho dzui.

Trang Nhà vừa nhận được bản dịch bài thơ The Light's on every night của Trầm Vân. Xin giới thiệu với bạn đọc và trân trọng cảm ơn thi sĩ Trầm Vân.


DỊCH BÀI THƠ
THE LIGHT'S ON EVERY NIGHT

   

ÁNH ĐÈN ĐÊM TÌNH NGHĨA

Tan ca xe chạy quanh đường

Ngủ say thành phố thân thương vắng lời

Nhà mình đèn vẫn sáng ngời

Mải may em cắm cúi ngồi cong lưng

Vòm đêm khuya ngậm sương lòng

Em khâu vá lại đời chồng thương đau

Tù đày gian khổ rối nhàu

Trầm tư vầng trán hằn sâu nếp dài

Cho anh hôn nhé bàn tay

Đường kim mũi chỉ vá ngày xa xưa

Biển đông đã vượt bao mùa

Tình quê da diết còn cưa bóng tà

"Má ơi đừng gả con xa

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu"

Chồng em khói lửa bạc đầu

Thương anh nỗi nhớ bắc cầu tìm sang

Từ hôm thất trận miền Nam

Thân tù gầy guộc võ vàng khói sương

Ra tù cơm áo chải bươn

Tóc em vẫn thả con đường hương quen

Chèo xuồng qua ngã ba đêm

Con sông nghĩa nặng sóng mềm tình em

Tiễn anh một buổi vượt biên

Lệ em sương đẫm mái hiên quê nhà

Rồi em cũng tới nơi xa

Từng đêm khâu lại đời ta đời mình

        TRẦM VÂN

Lời thầy dạy!


Con xa trường, chữ không đầy lá mít

học ít, chơi nhiều, hiểu chẳng bao nhiêu

rơi rớt hết, chỉ một điều, con nhớ

“Nhân chi sơ tính bản thiện!” thầy khuyên.


Lời thầy dạy, hành trang, cuộc binh đao

nơi máu đào, sao tìm ra cái thiện?

ai làm chiến tranh giống nòi dân Việt?

người Việt mà! sao mải miết giết nhau?


Con đã qua biết bao nhiêu làng, xóm

đâu giọng ầu ơ, đâu tiếng học bài?

em thơ dại, võng đưa vào cõi chết

ca dao buồn, ru sao hết, bi ai.


Con đã qua bao giáo đường đổ nát

duy chỉ còn sót lại gác lầu chuông

chuông gọi hồn ai? chiều thôi óng ả

Chúa gục đầu, nhỏ máu, khóc tang thương


Con đã qua bao ngôi trường đổ nát

duy chỉ còn sót lại trống trường xưa

vết xé đạn thù, tanh bành mặt trống

thì  làm sao con gọi bạn tựu trường


Tháng tư đau thương tìm về trường cũ

cái thiện đâu? khi nước mất, nhà tan

thánh hiền dạy, phấn, bảng, thầy ngã xuống

cái thiện thua rồi, cái ác vênh vang.


 Cặp đệm, nắm xôi.


Suốt một thời thơ ấu con mang theo:

cặp đệm má đương, nắm xôi má nấu

xôi nếp một, bếp chiều hôm khói toả

mía lau đường, thơm vị ngọt, con yêu!


Xuồng ba lá má là con đò dọc

hai lượt: đến trường, tan học, đón đưa

ngày tựu học, con trốn về với má

(số phận đùa! sau lại phải đi xa.)


Con lớn lên, con đi vào chiến trận

hành quân hoài mấy bận lội đồng bưng

vòng vọng mãi tiếng chày đôi má giã

giã cỏ bàng, đan cặp đệm, nhớ thương!


Nhớ má đồng bưng, ruộng, vườn, rẫy bái

chưn sình lầy, lúa nếp, cánh đồng mưa

chiều dừng quân trợn trạo nhai gạo sấy

bùi ngùi con, nhớ lại nắm xôi xưa.


Má đồng bưng rưng rưng tình mẫu tử

thương má nhiều, thương cặp đệm, nắm xôi!

Con vẫn muốn về quê gánh mận. 

con tha thiết
gọi quê mình xứ mận
máu, mồ hôi
trộn lẫn với phù sa
máu của ông cha
một thời khai khẩn
mồ hôi từng dòng
của má, của ba
 

làng quê Đạo Thạnh
sao bất hạnh!
quê mình nghèo,
đâu có nhà bảo sanh
má sanh con,
tại nhà,
trời giông bão
số phận sau này,
con,
chiếc lá bay xa
 

con tha thiết gọi quê mình xứ mận
nơi con khóc
chào đời lận đận
cắt rún
bằng miểng chén
khỏi kinh phong!
 

con tha thiết gọi quê mình xứ mận
nơi cuống nhau
ba vùi trong quê, đất
con dẫu sống tha phương
khi chết nhớ trở về.
 

con tha thiết gọi quê mình xứ mận
nhớ má của con
một đời lận đận
lận đận theo chồng,
lận đận nuôi con.
 

con tha thiết gọi quê mình xứ mận
má lấy chồng nghèo, chiếc áo bà ba
vai áo bà ba
sờn theo năm tháng
con ra đời
chiếc áo má vá vai
mụn vá dày thêm
ngày con lớn
tiền học, tiền trường, quần áo
má một tay.
 

con tha thiết gọi quê mình xứ mận
mùa cuối năm
mận đơm hoa, kết trái
má cho con hái trái mận đèo,
“nhà mình nghèo;
mận mặt bán người ta.” 
 

cuối năm, nhớ quê nhà, nhớ má
nhớ bông mận nở, trắng vuờn xưa
bao năm đã cùng trời cuối đất
vẫn muốn về gánh mận má ơi!
  

Site built & maintained by Tranbt21