TRẦN BANG
THẠCH
truyện.
_____________________________
ÔNG GIÀ
TRÊN BÃI RÁC BÓT SỐ 10
Qua khỏi thị trấn Cái Răng, chỗ gần đường Lộ Tẽ
Hàng Gòn thì bánh xe sau của chiếc Honda ôm bắt đầu xẹp.
Bánh trước cũng lần lần xẹp theo. Chú tài xế tên Chi càu
nhàu:
-Biết
mà vẫn không tránh khỏi!
Gió ngược. Ngồi phía sau xe, ông Năm cố
nói lớn tiếng:
-Chú biết cái gì vậy?
-Thì cái vụ rãi đinh xuống mặt đường.
-Thường xảy ra
lắm sao?
-Không
thường thì bọn nó lấy gì ăn.
-Ăn đinh?
-Bố ơi, mấy thằng vá vỏ xe ở đằng
trước kìa. Nó không ăn đinh, nhưng mình bị ăn đá.
-Chuyện gì nghe lạ
quá vậy?
-Chuyện
xã nghĩa mà bố. Cái gì cũng lạ hết. Ai mà dám mở
miệng cằn rằn mấy thằng vá xe về cái việc chúng nó rãi
đinh, cả cái việc tụi nó tính tiền thẳng tay, thì coi chừng
bị tụi nó. Bánh xe mình ăn đinh còn mình thì ăn đòn.
-Dân Cần Thơ, Cái
Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà. Bây giờ
sao lạ vậy?
-Thì
có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây từ sau cái
ngày ông cột đèn biết vượt biên nên cớ sự mới
ra nông nỗi nầy. Dân Cái Răng mình cũng đi tứ tán nhiều.
Kẻ lạ càng ngày càng nhiều và càng hung hăng con bọ xít.
-Còn chánh quyền
ở đâu?
-Ở khắp nơi, nhưng cá mè một lứa. Có quyền mà
không có chánh thì trị ai được. Mỗi người ăn mỗi
kiểu. Chức quyền ăn theo quyền chức. Dân khu đen ăn theo dân đen
khu. Bố lưu lại vài tuần ở cái Việt Nam nầy, bất cứ nơi
đâu, bố sẽ thấy hết những điều mà mấy mươi năm
cuộc đời của bố chưa từng thấy.
Ông Năm không nghe rõ vì còn bận nghĩ
tới cái vỏ xe sắp hết hơi. Định xuống Phụng Hiệp thăm
thằng bạn nối khố từ thời tiểu học, nhậu quắc cần câu
với nó một bữa rồi chiều tối trở về Cần Thơ để
sáng mai lên Sài Gòn bay về Mỹ. Trục trặc kỷ thuật như
thế nầy thì biết bao giờ mới tới Phụng Hiệp. Ông Năm cũng
chợt nhớ đoạn đường nầy lúc ông còn là cậu học
trò trung học hàng tuần từ nhà trọ ở Cần Thơ về thăm
nhà ở Cái Chanh. Ngay ở đây ngày xưa là bót Tây số
9. Thêm 1 cây số nữa ở đằng trước là bót số 10. Thuở
đó ông Năm mười mấy tuổi nhưng ông vẫn còn nhớ
người lớn bàn tán thật nhiều về trận đánh đoàn
công-voa Tây trên đoạn đường nầy. Trận đó có một
thiếu niên trạc tuổi ông tên là Hai Cọp đã gan dạ chạy
lăn xả vào chiếc xe jeep có viên đại úy Tây tên gọi
là Tây Râu Đỏ. Cậu bé quăng trái lựu đạn vào
xe, giết ngay tên Tây Râu Đỏ. Dân quân thắng lớn. Từ đó
người thiếu niên Hai Cọp phải bỏ xứ đi đâu mất. Cũng
từ đó Tây dựng thêm bót số 10 ở ngay nơi xảy ra trận
đánh.
Đến
lúc hai bánh xe bắt đầu xẹp lép thì cũng là lúc ông
Năm thấy hai, ba cái lều nhỏ che tạm bên lề đường với
những vật dụng vá xe lỉnh kỉnh. Khỏi mấy cái lều là đống
rác to và cao như một quả đồi nhỏ. Gió từ hướng phía
trước đưa mùi rác rưởi về phía hai người. Ông
Năm lấy tay che mũi. Xe chưa dừng lại hẳn trước cái lều đầu
tiên thì đã có mấy thằng nhỏ giành giựt khách. Đứa
thì nắm cổ xe, đứa thì đẩy yên xe về phía lều vá
xe của nó. Tài xế Chi hình như đã quen với cảnh nầy nên
để mặc mấy đứa nhỏ muốn làm gì thì làm với
cái xe xẹp bánh của mình. Chi dẫn khách vượt khỏi đống
rác, đi về hướng cái quán nước trên gió. Quán cũng
lụp xụp nhưng được hai mái che bằng lá, vách thì bằng
mấy tấm giấy dày. Hai cái bàn thấp với mấy cái ghế mũ
cũng thấp lè tè, đầy bụi bặm. Bà chủ quán đon đả
mời khách, còn người đàn ông đang nằm võng trong góc
đang đọc báo, không buồn ngó đến khách, có lẽ là
ông chủ quán.Tháng mười trời hơi âm u, sắp mưa. Gió
thổi mạnh nên mát. Tài xế Chi kéo ghế.
-Ngồi xuống đi bố, nghỉ
chưn một chút. Bây giờ muốn đi gấp cũng không được.
Hàng trong quán thật
sơ sài, trên kệ mấy chai nước lọc bên cạnh mấy chai 7-up,
vài chai bia Hậu Giang và một rỗ ổi, cốc, chuối xiêm, chuối
già. Tất cả mốc cời vì bụi.Tài xế Chi kêu một ly đá
lạnh, Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá
ở đây; kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không
mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại những nơi kém sang trọng
như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không
dám đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia
giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả tánh tình, tâm
sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời
nầy ở đây cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm
rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng bé Chi nghe người
lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác
sĩ. Có ông cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi
vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp
7! Còn bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến
sĩ. Chị giám đốc thì cái bằng tiến sĩ coi như bình
thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có hoa
vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây
giờ thì chiều nay tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ!
Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm đời nầy.
Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường
gốc miền ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí,
tới món tráng miệng bằng kem, cô tiến sĩ giám đốc dùng
bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly cà-rem
đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô
giám đốc nói là “nàm cho cà-lem bớt lóng mà
lồng chí ” !!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn
chui xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không
biết cà-lem xã hội chủ nghĩa “lóng” hay cái
hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo chơi
thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới
đó bỗng cười. Ông Năm không biết nó cười vì cái
gì. Ông lấy cái bị đeo sau lưng để xuống bàn, lấy
ra chai nước lọc, tu ngon lành. Ông Năm ngó lơ ngơ về hướng
bãi rác. Bên kia bãi rác là hai hàng xoài chạy dọc theo
con lộ nhỏ dẩn vào xóm nhà và khu vườn nằm phía sau
cánh đồng sát mặt lộ. Ông Năm loáng thoáng nhớ là
bót số 10 lúc trước nằm bên nầy lộ, đối diện với
con lộ hàng xoài. Hơn năm mươi năm rồi, hàng xoài đã
bao lần thay cây đổi lá. Bãi rác nay đã thay chỗ của cái
bót số 10. Ông Năm bắt gặp một ông già đi về hướng
quán. Gió ngược làm cho cái bọc ny lông to ông quẩy trên
vai như muốn bay về phía sau. Ông già cẩn thận để cái bọc
ny lông dựa vào vách, uể oải bước vào quán, kéo ghế
ngồi bên chiếc bàn trống. Ông già mặc cái quần kaki xanh lá
mạ bạc màu, vá tứ tung và cái áo thun 3 lỗ màu đất,
ướt mồ hôi. Có điều ông Năm lấy làm lạ về cái
đôi dép bằng vỏ xe trên đôi chân ông già; loại dép
nầy trước ngày xuống tàu hải quân tại bến Bạch Đằng
vào đêm 29 rạng 30 tháng Tư bảy lăm, chàng thanh niên Năm
Hùng chưa hề thấy nhưng nghe nói nó đã biến mất từ
mấy năm nay rồi mà. Bây giờ cán bộ văn minh hơn nhiều, giày
da, áo vest, xách samsonite. Ông Năm đoán ông già cỡ tuổi mình,
chắc cũng đã trên bảy mươi. Tự nhiên ông Năm xàng
qua ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải
khát. Ông già từ chối. Ông Năm hỏi chuyện, ông già không
mặn mà trả lời, có thể vì ông mệt, cũng có thể
ông không muốn nói chuyện nhiều với người lạ, mới gặp
ngoài đường.
-Khá hông ông anh?
-Lượm rác mà khá cái nỗi gì!
-Không, tui muốn hỏi là
nghề nầy sống được hông?
-Nghề nào mà sống hổng được. Không
nghề cũng đâu có chết. Có khi còn làm cha thiên hạ.
Biết ông già
nói ngang như cua bò, ông Năm chuyển đề tài:
-Hồi tui còn ở đây,
đống rác nầy hình như chưa có?
Tài xế Chi chen vào:
-Có rồi. Có từ
trước bảy lăm. Lúc đó rác rưỡi đã có nhưng
chưa nhiều. Sau bảy lăm thì rác nhiều hơn, rác khắp nơi.
Biết
tài xế Chi ưa nói chuyện ngoắc nghoéo, ông Năm không muốn
xen vào. Nhưng ông già lượm rác như bắt được cái
ý lắc léo của tài xế Chi:
-Rác từ làng lên tỉnh, từ trên xuống
dưới. Chú em còn nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn há.
Ông Năm giả vờ
đưa chai nước lên miệng, uống một ngụm.
Tài xế Chi vỗ tay vào vế
một cái bạch rồi oang oang:
-Đúng y chang! Tiá nuôi nói trúng hết xẫy!
Rác từ từng dưới lên từng trên, từ từng trên leo tuốt
lên sân thượng, từ đồng bằng ra hải đảo!
-Có cái
gì mà không trúng. Hỏi bất cứ thằng nhỏ nào trên đống
rác kia, nó cũng biết như vậy. Nó biết cái tòa biệt thự
nầy có mấy đống rác, biệt thự kia có mấy ổ chí,
ổ rận. Nó còn biết cái tỉnh nầy có bao nhiêu chuột lớn,
chuột nhỏ đụt khoét khắp mọi nơi.
Thấy câu chuyện mỗi
lúc thêm trầm trọng, ông Năm lại chuyển đề tài một
lần nữa :
-Ông anh có con cháu gì nhiều hông ?
-Có mà
như không.
-Chắc các cháu đi xa ?
-Cũng có đứa
ở gần.
-Vậy thì cũng có con săn sóc cho ông anh được.
-Thời nầy
mạnh ai nấy lo ông bạn ơi.
Nghe ông già gọi mình bằng bạn, ông
Năm biết ông già đang có vẻ cởi mở rồi đây. Ông
Năm đi xa hơn một chút, mục đích là để cho qua thì
giờ đang khi chờ cái vỏ xe vá xong.
-Ông anh chắc là dân
cố cựu ở đây ?
-Ừ. Nhưng mà chỉ đúng một nửa.
Bà chủ
quán xen vào :
-Tui mới là người cố cựu. Còn anh Hai đây
chỉ mới trở về sau bảy lăm.
-Chắc ông anh đi làm ăn hay đi lính ở
xa ?
Ông già ngó lơ, làm như không muốn trả lời.
Bà chủ quán chen vào gọn hơ :
-Đúng là đi lính
xa. Xa thiệt là xa. Mút mùa lệ thủy.
-Ở đâu lận ?
Bà chủ
quán hăm hở :
-Thì tận ở ngoải. Ở ngoài Bắc đó,
phải không anh Hai ? Kể chuyện Lạng Sơn Cao Bằng cán gáo cho người
ta nghe chơi đi anh Hai, nhứt là cái chuyện mấy anh tập kết nổi
loạn đòi dìa đó. Còn chuyện vượt Trường Sơn nữa.
Ông Hai vẫn làm
thinh. Câu chuyện có vẻ lý thú, ông Năm hỏi tiếp:
-À! Vậy
là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách.
-Tui xin lỗi anh
Hai nhen : Hiển hách hay không thì không thấy chớ tui thấy anh Hai
bây giờ càng ngày càng rách như cái túi ny lông cũ.
Bà chủ
quán buông tiếng ứ hự ở cuối câu nói rồi cầm cây
quạt mo cau đuổi ruồi bay quanh mấy nải chuối. Mưa bắt đầu
rải hột lắc rắc. Thằng bé dẩn cái xe tới, dựng trước
quán. Tài xế Chi trả tiền. Một phần vì trời sắp mưa lớn,
phần khác là ông Năm thấy câu chuyện tới hồi khá thích
thú nên muốn ngồi nán lại một chút nữa. Ông Năm biết
gặp phải một đồng chí lão thành nên ăn nói cẩn thận
hơn :
-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ
hưu từ lâu rồi ?
Ông Hai vẫn ngó mông lung ra ngoài con lộ,
tay vo vo mấy cọng râu bạc dưới càm. Bà chủ quán trả lời
thế :
-Nếu được cho về hưu cũng là may. Cái nầy là
bỏ việc đó. Chửi lộn một trận rồi bỏ hết sạch, phải
không anh Hai ? Lon lá, chức tước, đảng điếc, nhà cửa...bỏ
hết. Không ở tù là may. Nói đi anh Hai, nói hết nghe chơi.
Ông Hai vẫn làm
thinh. Tài xế Chi xen vào :
-Uổng vậy tía. Một đời đi cầm bảng
đỏ, giận một chút rồi bỏ...đảng sao tía ?
Ông Năm kề
tai nói nhỏ với tài xế Chi :
-Nói nhỏ nhỏ vậy,
nên cẩn thận nhen chú mầy. Tai vách mạch rừng.
-Bố đừng
có lo. Thời nầy những câu chuyện như vầy là chuyện nghe qua rồi
bỏ. Người ta bận rộn với mấy cái « cây »
và mấy tờ « đô xanh». Chẳng ai mà để ý
mấy cái chuyện bây giờ được xếp vào loại chó cán
xe như vầy. Chỉ những Việt kiều như bố mới run. Tụi tui thì...còn
khuya mới sợ. Nói đi tía nuôi, nói cái chuyện giận một
chút đó đi tía.
Bây giờ thì bà chủ quán dừng tay
đuổi ruồi. Bà ngồi xuống ghế, cạnh tài xế Chi :
-Không phải
chuyện một chút đâu à chú em. Ở trong chăn mới biết chăn
có rận.Tui nghe anh Hai nói cái gì là đạo đức cách mạng,
cái gì là cần kiệm liêm chánh gì đó. Anh Hai nói ảnh
không sống nổi với mấy cái cách mạng giả, liêm chánh
giả nên nghỉ chơi, phủi áo một cái xạch rồi về nhà
làm ruộng. Không chơi với mấy thằng người giả đó nữa.
Già, làm ruộng không nổi, đi lượm bao ny lông cho nhẹ. Coi như
bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu
có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ
chơi chịu. Cũng có nhiều người cán bộ hồi kết tàng
tàng như anh Hai vậy đó. Cuối cùng chỉ còn cái xác ốm
o, thui thủi một mình. Con cái đứa thì đi lính bên nầy,
đứa bên kia rồi chết trận, đứa thì đi học tập. Có
đứa lại nghe lời mẹ, không nhận ông già.
-Con mà không
nhận cha ? Sao vậy ?
Tài xế Chi ra vẻ sành đời :
-Nhiều nguyên
nhân lắm bố ơi. Nào là có ngài hồi kết đem bà vợ
do cơ quan cưới từ Bắc vào, bà vợ cũ và con cái không
nhìn ; nào là có ông quan to nón cối súng ngắn súng
dài đâu dám đứng ra bảo lãnh đứa con đang học tập
cải tạo. Vậy là hai đàng ô rờ lui, ba đường ba, tui đường
tui, tình nghĩa đen thui của cha con mình có thế thui ! Ôi thôi,
cả một ngàn lẻ một cái « nào là ».
Đến đây
thì nét mặt ông già hình như chùng xuống, ông lia lịa
vò vò mấy sợi râu rồi không nói không rằng ông đứng
lên định bước ra khỏi quán. Ông Năm kịp nắm tay ông
già giữ lại :
-Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái
đã.
Ông
già cố rút tay về. Ông Năm phải buông tay ông già để
lấy trong túi áo tờ 50 đô-la đưa cho ông già. Thật bất
ngờ, ông già cầm tờ giấy bạc để trên bàn, nhìn thẳng
vào mắt ông Năm, nói từng tiếng:
-Tui không phải là người ăn xin. Không có
danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí.
Xin lỗi.
-Không,
đây là tôi tự nguyện giúp đỡ ông anh chút ít hút
thuốc lá mà.
Ông già chừng như không muốn nghe thêm. Ông bước ra khỏi
quán, vát cái bọc ny lông, dòm hai đầu quốc lộ rồi bước
qua bên kia đường. Bóng ông khuất giữa hai hàng xoài dưới
trời mưa lất phất.
Nhìn cái vẻ tiu nghỉu của ông Năm, bây giờ
ông chủ quán mới buông tờ báo, rời võng đến bên
ông Năm, cắt nghĩa:
-Ông đừng ngạc nhiên. Ông Hai Cọp là như
vậy. Ông không bao giờ nhận sự thương sót của ai. Ông còn
có cái mộng khác người là lượm hết rác của cái
xã hội nầy, cho nên chung quanh căn chòi của ông đầy những
rác, thượng vàng hạ cám. Ông nói một ngày không còn
đất chứa rác, ông sẽ đốt. Có người cắc cớ hỏi :« Như
vậy là ông đốt cái chòi của ông luôn sao ? »
ông Năm không ngần ngại : Đốt luôn. Cái chòi mình
nằm giữa một đống rác to tổ bố của cả nước thì
còn tiếc cái gì nữa. Cái nhà lầu cũng không tiếc. Ông
anh và chú tài nghĩ coi : Nhiều lắm là ông Hai sống
thêm chừng mươi năm nữa, không biết ông sẽ hốt hết rác
hay đống rác sẽ mọc tay mọc chưn tiến qua phía bên kia đường,
chôn luôn căn chòi của ông Hai lúc ông đang lum khum trong chòi,
chưa kịp đốt lên cái mồi lửa.
Ông Hai Cọp ? Hai Cọp ?
Ông chủ quán mới nhắc tới cái tên nầy, phải không ?
Ông Năm bóp trán. Hai tiếng nầy bỗng hiện ra trong đầu óc
ông Năm, mới đầu còn lờ mờ, sau rõ dần, rõ dần. Hai
Cọp. Cái tên Hai Cọp hiện ra cùng với cái tên Tây Râu
Đỏ và trận đánh đoàn công-voa của Tây. Hơn nửa
thế kỷ rồi ! Đứa con của Cái Răng trước sau vẫn vậy.
-Đúng rồi.
Đúng cha nầy ! Hèn chi!
Ba người trong quán không biết ông Năm
nói cái gì. Nhưng ông Năm biết ngày mai ông chưa về Mỹ
được. Ông muốn trở lại đây một lần nữa.
Rớt xuống từ trời bây
giờ là cơn mưa lớn. Những giọt mưa như những giọt lệ
sót thương cho một đất nước đầy rác mà ông Hai
Cọp suốt một đời phục vụ và ông Năm đã nửa đời
bỏ lại.
Trần Bang Thạch
(để tặng
những người bạn Cái Răng và anh chị Huỳnh)