Chỉ còn non mười ngày nữa là năm cũ đi, năm
mới đến. Nghĩ tới 28 mùa xuân trên xứ người. Ngày nào chân ướt chân ráo tới đây, tuổi
xuân còn lưng lững trong túi hành trang đời người, lòng
tuy không đầy vì những tang thương dồn dập sau Tháng Tư Đen
nhưng nụ xuân chưa héo để kịp hứng một giọt Xuân mới
đang chờ trước mặt. Mới đó mà đã 28 năm. Ngày
tháng thì trôi nhanh nhưng nghĩ tới ngần ấy năm xa quê thì
nghe sao mà dài quá. Gần 30 năm! Nếu tính đời người là
60 thì đã nửa đời trên đất khách! Nếu kéo thêm
mười, mười lăm năm sống nữa thì cứ thế mà cộng
thêm chuỗi ngày ly xứ! Thêm một mùa Xuân là thêm một
Tết ly hương. Có trách nàng Xuân như nhà thơ Chế Lan Viên:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
đem chi xuân
đến gợi thêm sầu
thì nàng Xuân vẫn đến. Cũng như tuổi
già: dù không chờ thì nó vẫn đến. Nhà thơ Vương
Duy của thời thịnh Đường bên Tàu của hơn 1200 năm trước
đã nói rồi:
Nhật nhật nhân không lão
Niên
niên xuân cánh qui.
Tương hoan hữu tôn tửu
Bất dụng tích
hoa phi
(Tống Xuân Từ của Vương Duy 699-759)
Bản dịch
của Phạm Khắc Trí
Thêm tuổi thêm già tự nhiên thôi,
Mỗi năm
Xuân lại đâu đợi mời.
Cười chúc mừng nhau một chén rượu
Bận
tâm chi nhỉ chuyện hoa rơi.
Chắc chắn như
vậy rồi: Ngày qua ngày thì tuổi thêm già cũng như mùa
xuân năm nào cũng vẫn đến. Luật thiên nhiên là như vậy.
Nhưng mà tâm trạng con người cũng có buồn, có vui.
Xuân vẫn
đến. Tâm trạng mình vui thì Xuân đẹp biết bao, dù cho Xuân
chưa có mặt:
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm
Mấy cành
xanh, năm bảy sắc yêu yêu
Thế là Xuân. Tôi không hỏi chi
nhiều
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
(Xuân Diệu)
Hay như người
bạn thơ Mường Mán vốn người Trung nhưng khi lang bạt vào Nam
cũng thấy xuân qua chút duyên sau chéo khăn rằn:
Nhà ai quết
bánh phòng khuya quá
Nhịp chày khoan nhặt thức cùng trăng
Môi em
đỏ như là mận chín
Giấu chút duyên sau chéo khăn rằn
Và ra Bắc
cũng thấy Xuân với hoa đào qua phố và hoa Quỳnh thức giấc
giữa đêm:
Hoa đào qua phố rao xuân chín
Áo đào
qua ngõ gọi thầm nhau
Hà Nội chừng như thôi trở rét
Đóa
quỳnh chợt thức giữa chiêm bao
Còn Thế Lữ thì có khác:
Hôm
nay tạm nghỉ bước gian nan
Trong lúc gần xa pháo nổ vang
Rũ áo
phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón Xuân
sang
(Thế
Lữ)
Người khách trọ Thế Lữ nhìn Xuân đến cảm
thấy buồn dù cho khách và Xuân cùng ở trên một quê hương
thân yêu, quen thuộc, có pháo có người có xuân ngoài
ngõ. Nhưng so với Thế Lữ thì những người-xa-quê-nửa-vòng-trái-đất
như chúng ta thì chắc buồn hơn nhiều vì Xuân chỉ có lặng
lẽ ở trong lòng. Vài ba buổi tiệc tất niên, tân niên bây
giờ e rằng không đủ đem lại cho mình không khí của những
cái tết quê nhà. Đầu chải briantine bóng mượt, mặc một
bộ đồ pijama mới tinh, mang đôi guốc vông lốc cốc ra đường
đã thấy lòng vui như pháo tết. Khuya lơ ngồi ngủ gục bên
vai mẹ trước nồi bánh tét nước sôi ùn ục vẫn mơ
thấy bao giấy đỏ lì xì. Không pháo nổ vang, không có
thiên hạ đón xuân chung quanh mình như ở quê xưa. Không có
không khí Tết thì Xuân chỉ là tên gọi của một trong 4
mùa. Chẳng thế mà Nguyễn Bính đã từng than thở:
Tha
hương chẳng gặp người tri kỷ
Một cánh hoa tươi đủ ấm lòng
Tết nầy
chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chén
rượu tha hương, trời: đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận
một mùa đông
(Nguyễn Bính)
Em xa chị vào dịp Tết mà
đã buồn như vậy thì người ly hương xa nhà, xa xứ, xa
người thân thì xuân buồn biết bao nhiêu!
Ngay thời buổi bây
giờ có non hai triệu người Việt ly xứ thì tâm cảm của ngần
ấy người chắc cũng gần giống nhau: Nhớ nước, thương cha,
nhớ mẹ, nhớ người thân, người tình… và cả người
dưng. Nhớ lắm mà biết có dìa được không!
“Em còn có mẹ già bên ấy!”
tiếng thơ
buồn như một tiếng than!
anh đọc thấy hàng hàng nước
mắt;
Sydney buồn mà anh lại quá xa.
Anh
cũng có mẹ già bên ấy:
mẹ anh đã nằm dưới
mộ sâu,
cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ,
mẹ
chắc nhớ anh, nhớ để rầu.
Hai lăm
tháng chạp về tảo mộ
hẹn lần, hẹn lữa, hẹn năm sau,
năm
nào cũng vậy, tiền không có;
không tiền, không có
vé máy bay!
Ngày khánh tận mà anh khánh
kiệt,
chỉ biết tàng xe đến phi trường,
“ai
về xứ Việt, quê hương đó
cho ké,
dùm tôi, nỗi đoạn trường!”
(Lau lệ mình
ên, thơ Đoàn Xuân Thu, Úc Châu)
Cho
nên càng nghĩ càng thương cho Cụ Tiên Điền Nguyễn Du. Năm
1805 Cụ phải ra Lạng Sơn đón sứ thần nhà Thanh giữa một
ngày Xuân. Xuân đẹp nhưng chắc Cụ Tiên Điền không thấy
vui chút nào nên đã tự thán:
Nhân tự
tiêu điều, Xuân tự hảo
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm
cân
Cụ
đã không ngắm xuân mà ngắm hạt châu của mình đang
rơi xuống dưới thành Đoàn! Thương thay cho Cụ.
Rồi cũng phải
thương cho mình. Đêm Ba Mươi bấm thẻ ra khỏi sở thì đã
gần nửa đêm. Về đến nhà thì không còn ai thức. Giao
Thừa đâu chẳng thấy! Sáng Mùng Một đã vội vã ra
đi như 365 ngày khác. Tết đâu chẳng thấy!
Tết bây
giờ dù có vui chắc cũng không giống nỗi vui xưa. Nếu có
vui thì là vui gượng.
Đúng là người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ!
Trần Bang Thạch
Ngày đưa Ông Táo Đinh Hợi