Không
thể như thế được. Anh Armin nói thầm với mình nhiều lần
như vậy. Không thể có chuyện nầy. Nhưng cuối cùng Armin phải
nhận đó là sự thật. Chữ nghĩa lõm bõm, nhưng Armin có
thể đọc và hiểu được. Trước mắt anh là bản tin
nhỏ nằm khiêm nhường dưới góc mặt của trang báo Tin Địa
Phương : Tin về cái chết của bà Jean DeLong. Đúng hai tuần lễ
sau khi đưa bà Jean lên xe cứu thương, Armin mới biết được
tin tức của bà. Một tin rất buồn đối với anh. Tên của bà
Jean nằm giữa 12 tên khác. Đây là tên của những người
mới chết, tử thi đã được giảo nghiệm nhưng vẫn còn
để trong nhà xác của quận hạt Harris vì không có thân
nhân nhận xác. Bài báo cũng có nói là chuyện này xảy
ra rất thường. Tháng nào cũng có vài trường hợp như
vậy. Sau một thời gian thông báo, tử thi nào vẫn không có người
nhận thì văn phòng chung sự quận hạt sẽ lo việc chôn cất,
dĩ nhiên là tại một nghĩa trang công cộng nghèo nàn và
thiếu hẳn những nghi thức an táng trọng thể trước khi hạ huyệt.
Sẽ không có một thân nhân nào khóc thương hay nói lời
giả biệt cuối cùng với người chết. Sẽ không có một
cành hoa từ bàn tay thân nhân thả rơi xuống nắp quan tài. Nghĩ
đến điều nầy Armin thấy đau lòng thêm. Con mèo, con chó
khi chết còn có người chủ mình khóc lóc tiễn đưa
và trang trọng chôn cất nơi nghĩa trang đặc biệt dành cho những
con vật thương yêu. Có con chó chết đi còn để lại món
tiền kếch sù do cái “ will” của người chủ đã
chết. Có con mèo chết đi khiến người chủ khóc lóc suốt
tuần, mất ăn, biếng ngủ. Armin không phải là thân nhân bà
Jean, cũng không có khả năng tài chánh để làm người
hảo tâm tình nguyện đứng ra lo việc chi tiêu mai táng người
đàn bà mà nhiều năm nay Armin đã coi như người thân
nhứt của mình. Armin nghèo quá, lại một thân một mình nơi
xứ lạ này.
Armin không quên được giờ phút cuối cùng anh
thấy bà Jean. Hôm đó, hai tuần lễ trước, bà Jean quị ngã
sau cánh cửa bà vừa mở để Armin bước vào nhà. Armin buông
vội túi giấy đựng thực phẩm và mấy món gia dụng trên
tay để kịp thời đỡ bà Jean không va đầu xuống nền nhà.
Ngồi dựa vào anh, bà Jean ngoẽo đầu sang một bên, hơi thở
nặng nề, đứt quãng. Bà cố nói, tiếng được tiếng
không, Armin không hiểu gì nên càng lúng túng, nhưng anh cũng
biết điều cần thiết phải làm ngay. Armin bồng bà Jean để
nằm trên sofa rồi bấm số 911.
Khi nhân viên xe cứu thương
đến làm vài động tác cấp cứu, bà Jean trông tĩnh
hơn một chút, bà cầm tay Armin thì thào hai tiếng “cám ơn”. Armin cũng muốn nói
tiếng “cám ơn” với bà nhưng mọi chuyện bây giờ khẩn
cấp quá. Armin phải đứng dang xa để nhân viên cấp cứu làm
phận sự. Armin nắm vội mấy ngón tay xương xẫu của bà Jean
trước khi người ta đưa bà lên xe. Armin khóa cửa nhà rồi
trao chìa khóa cho nhân viên cứu cấp. Armin biết từ đây sẽ
không có ai vào ra căn nhà nhỏ nầy ngoại trừ bà Jean khi bà
mạnh khỏe trở về. Từ đó Armin mỗi ngày trông ngóng bà
Jean trở về. Điện thoại nhà bà không có người trả
lời. Cửa nhà vẫn khóa, bên trong không một ánh đèn.Vốn
tiếng Anh tiếng Mỹ nghèo nàn, lại mang thân phận người di dân
thiếu giấy tờ hợp pháp, Armin không biết đi tới bịnh viện
nào để thăm viếng bà Jean. Cũng không có ai là thân nhân
của bà Jean để hỏi. Ngày ngày trôi qua. Trong lòng Armin như
có lửa đốt. Bản tin ngắn gọn hôm nay đã làm thành
ngọn lửa đốt cháy niềm mong đợi của Armin.
Như vậy là vĩnh
viễn người đàn bà già nua, nghèo khó, cô đơn ấy
sẽ không trở lại căn nhà nầy nữa rồi. Armin cũng không còn
mỗi tuần một lần mang đến cho bà Jean túi thực phẩm đủ
để bà dùng suốt tuần lễ. Công việc nầy Armin đã làm
từ gần hai năm nay. Lúc đó Armin vừa chân ướt chân ráo
đến thành phố nhỏ Waller này từ một làng nhỏ thuộc tỉnh
Lerado nằm bên kia biên giới Mỹ và Mễ Tây Cơ. Armin may mắn được
nhận chân bán hàng tại một tiệm bách hóa nằm ngoài
rìa thành phố với đồng lương thật thấp, chỉ vừa đủ
trả phòng trọ và hai bữa ăn. Nhà bà Jean cũng ở gần tiệm,
cách chừng hai dặm đường. Mỗi tuần một lần bà Jean đi
bộ đến tiệm mua thức ăn và vài món cần dùng cho nhà
cửa. Khi biết được sức khỏe bà Jean không tốt và bà
đi đứng rất khó khăn với cái tuổi trên bảy mươi,
Armin tình nguyện làm người mang thực phẩm cho bà hàng tuần.
Vốn là đứa bé thiếu mẹ từ lúc mới chào đời,
mười tám năm nay Armin lúc nào cũng thấy mình bất hạnh,
không có mẹ để được thương yêu. Chỉ cần vài
lần tới lui với bà Jean, dù hai người rất khó khăn khi nói
chuyện với nhau vì vấn đề ngôn ngữ, nhưng tình người
hình như lúc nào cũng đi trước nên bà Jean và Armin càng
ngày càng thấy gần gũi. Armin như tìm được điều mình
đã mất là tình mẫu tử. Armin cũng thấy bà Jean đối
với mình như người mẹ. Giáng Sinh năm ngoái là lần đầu tiên Armin biết thế nào là bữa Tiệc
Nửa Đêm. Bữa ăn rất đơn sơ với mấy miếng thịt gà
chiên và chai rượu chát đỏ nhưng thật đậm đà tình
nghĩa. Hai người nghèo khó chung một niềm vui Giáng Sinh trong căn nhà
nhỏ. Đêm đó trong ánh nến lung linh huyền ảo của Đêm
Thánh Vô Cùng, lần đầu tiên Armin đã khóc
trên cánh tay của người đàn bà mà Armin thấy trước
mặt là dáng hình Đức Mẹ Maria nhân ái. Đêm đó,
không nói một lời, bà Jean đã tháo sợi dây chuyền trên
cổ, bà thân ái đeo vào cổ Armin. Đó cũng là quà
Giáng Sinh đầu tiên của đứa con côi cút trong suốt gần hai
mươi năm có mặt trên đời. Sợi dây chuyền bằng bạc
đơn sơ với tượng thánh giá nhỏ bằng ngón tay út. Có
lẽ đó là món đồ quý giá nhất của bà Jean. Bà
Jean nghèo lắm, nhiều lần bà Jean nhờ chủ tiệm cho bà mua thiếu.
Chủ tiệm cũng là người tốt bụng. Ông nói ông biết
bà Jean từ vài năm nay. Đó là người đàn bà hoàn
toàn cô đơn, sống một thân một mình trong căn nhà biệt
lập với các nhà hàng xóm. Nói là nhà chớ thật sự
nơi bà cư ngụ là túp lều nhỏ nằm phía sau một nền
nhà còn dấu vết của một cơn hỏa hoạn nhiều năm trước;
cây cỏ xung quanh mọc tự do. Con lộ lót sỏi dẫn vào nhà, cách
xa đường xe cộ lưu thông, thiếu bước chân đi lại nên
cỏ mọc lan ra tới gần giữa đường. Khi có những cơn mưa
lớn, con lộ ngập đầy nước. Căn nhà của bà cũng ngập
nước. Thỉnh thoảng vào những ngày nghỉ việc, Armin chỉ đủ
sức dọn dẹp cỏ rác quanh nhà cho phong quang một chút. Hai năm qua
tới lui với bà, Armin chưa một lần nghe bà Jean nói tới một
thân nhân nào; dễ chừng bà Jean đã sống cô đơn như
thế nầy từ nhiều năm rồi.
Như vậy những năm tháng cô đơn trên
thế gian của bà Jean đã hết. Nhưng sự cô đơn cố bám
theo cái tử thi tàn lạnh của bà thì đau đớn quá, bi thảm
quá. Một tử thi vô thừa nhận nằm mười mấy ngày trong nhà
xác để từ mấy hôm nay người ta phải rêu rao trên báo
tìm thân nhân. Hàng trăm, hàng ngàn bàng dân thiên hạ
biết rằng trên thế gian nầy có những người vô cùng bất
hạnh. Đánh mất một món đồ người ta còn tìm kiếm.
Còn bà Jean, cho tới chết vẫn biệt tăm thân nhân để lo bề
an táng. Hay thân nhân có biết nhưng vẫn làm ngơ? Chồng con bà
đâu? Cháu chắt bà đâu? Rồi đây người đàn
bà xấu số của mấy mươi năm trên đời sẽ từ giả
cõi đời trong lặng lẽ, âm thầm, không tang lễ. Thân xác
bà sẽ vùi chôn trong một nghĩa trang công cộng, không người
viếng thăm.
Không được. Không thể nào như vậy được.
Người đàn bà đã có lần là hiện thân của Đức
Mẹ trước mặt Armin trong đêm Giáng Sinh năm ngoái không thể
ra đi cô đơn như vậy được. Món quà Giáng Sinh của
bà Jean, Armin đang đeo trên cổ, phải chăng đêm ấy bà Jean
muốn nói với Armin rằng “con là người thân nhất của ta
bây giờ”? Trong trí nhớ của Armin là một bà Jean ít
nói, sống khép kín với lối xóm chung quanh, nhưng không buồn
bã. Mỗi lần gặp bà Jean là Armin thấy nụ cười trên gương
mặt già nua nhăn nheo của bà, mười lần như một. Armin nghĩ
bà Jean vừa lòng với số phận và hoàn cảnh của mình,
không một tiếng oán than, không trách mình cũng không trách
người. Nhiều khi Armin có cảm tưởng bà Jean chỉ thích nói
chuyện với mình, nhứt là mỗi khi hai người dọn dẹp
cỏ rác, cây cối quanh nhà. Giữa thiên nhiên trông bà Jean thật
vui và thật năng động. Bà vừa vun bón mấy chậu hoa, vừa
hát khẽ một bài hát có âm điệu vui mà Armin đã
nghe nhiều lần. Gặp con sâu, con dế hay cả con rắn nhỏ bà Jean chỉ
xua chúng đi chỗ khác. Có khi bà nói về dãy mây lang thang
trên nền trời, mây bay vô định, không cửa không nhà, vô
thân tứ cố, nhưng mây có cuộc sống vô tư, có ai nói
là mây có tâm sự buồn đâu. Con sóc, con chim trên cây
sau nhà cứ chạy nhảy, ca hót, nào có nghĩ tới nhà cao cửa
rộng, mồ yên mã đẹp gì đâu. Phải rồi. Lúc sống
bà Jean sống an bần, lạc đạo trong căn nhà nhỏ bằng
cái hộp, thiếu những tới lui, thăm hỏi của thân nhân ruột
thịt…thì khi chết chắc bà cũng không nghĩ gì tới những
lễ nghi, lắm khi hời hợt, theo lề theo thói. Có nghĩa gì mấy
lời thương tiếc của những người thân đã quên mất
bà từ lâu. Ý nghĩ nầy đưa đến cho Armin một quyết định
dứt khoát. Armin phải làm một cái gì trước khi quá trễ.
Thêm một Giáng Sinh sắp tới rồi. Giáng Sinh năm ngoái, Armin không
có một món quà nào cho bà Jean thân thương của mình.
Năm nay phải có. Armin tuy nghèo nàn, không một đồng xu dính
túi nhưng phải có một món quà Giáng Sinh cho bà Jean. Bà
Jean cũng nghèo nàn, nhưng bà đã cho Armin cây thánh gíá,
vật gần gũi của bà. Trong giây phút nhiệm mầu của một đêm
Thánh, Bà Jean nghèo tiền, nghèo bạc nhưng giàu tình thương,
qua món quà là vật thiết thân của mình, đã
cho Armin niềm tin và tình mẫu tử, cái mà mười mấy năm
làm người Armin còn thiếu.
Nghĩ là làm. Armin đem chuyện
an táng bà Jean bàn với ông chủ của mình. Ông chủ cũng
đồng ý với Armin là có lẽ bà Jean cũng không mong có
thân nhân đọc tin báo rồi tìm đến nhận xác bà rồi
đem chôn cất nơi đàng hoàng tử tế. Giá mà có ai
thương tình mà tình nguyện làm việc đó thì chắc
bà Jean cũng không hài lòng. Sống thế nào thì thác thế
ấy. Sống đơn giản, chết đơn giản.
-Nhưng tui
muốn được đưa tiễn bà Jean.
-Đưa
tiễn thì được, nhưng lãnh bà về chôn cất thì chắc
mình không làm nổi. Tốn kém lắm.
-Nhờ ông
chủ liên lạc với nhà xác để cho tui biết ngày giờ họ
đưa bà ra nghĩa trang.
-Việc ấy thì không khó.
Chiều
nay thời tiết trở nên lạnh hơn những ngày trước. Gió tháng
chạp lạnh như dao cắt. Trời rắc những hạt mưa nhỏ, vừa đủ
ướt áo. Ngày mai là Giáng Sinh rồi. Armin mặc phong phanh chiếc áo
gió nên run lập cập. Armin đã tới nghĩa trang từ trưa. Nghĩa
trang nằm cạnh cánh rừng, trong vuông đất trũng có thật nhiều
cây cao xung quanh, xa phố xá và nhà cửa. Đường đi trơn trợt,
nhiều đất hơn đá. Mộ là những phần đất nhỏ, bằng
mặt. Không có lấy một núm mồ. Mộ bia là những trụ xi
măng nhỏ, thấp, nhiều cái nghiêng ngã. Không một cây hoa kiểng.
Có nơi cỏ mọc cao che hết phần mộ.Lúc chập tối đoàn
đưa xác mới đến. Người ta để bốn cái quan tài
chung trong một chiếc xe mui đen. Không có xe mô-tô cảnh sát hộ
tống.Bốn cái lỗ huyệt đã được đào sẵn, nằm
gần nhau. Như vậy là những tử thi khác theo thông báo đã
có người nhận. Khi bốn quan tài đưa xuống từ chiếc xe thì
thủ tục an táng làm thật nhanh, cũng có vị mục sư đọc
kinh tập thể rất ngắn cho bốn quan tài. Ai cũng muốn làm xong cho nhanh
để về. Chỉ có mấy nhân viên nhà xác và Armin. Không
có một thân nhân nào của bốn người chết. Khi các quan
tài hạ xuống huyệt, Armin đọc thầm mấy lời kinh rồi ném
một bó hoa huệ trên mỗi nắp áo quan, tiễn đưa người
chết. Riêng phần huyệt của bà Jean thì Armin cúi đầu thật
lâu, miệng thì thầm mấy lời vĩnh biệt. Ngoài bó hoa huệ, Armin bỏ xuống lòng huyệt vòng nguyệt
quế với dãy lụa trắng viết chữ đen : « Thành
kính tặng Mẹ món quà Giáng Sinh năm nay ».
Đoàn
người và xe đã về từ lâu. Armin vẫn còn muốn ở lại
đây cho tới khuya để trông thấy một thiên thần bay lên vùng
trời cao rộng với vòng nguyệt quế còn ấm tay mình.
Xmas
2007 . Trần Bang Thạch