Nghĩ về
Học và Dạy
_________________________________________________
Nguyễn văn
Trường
BBT
Trang Nhà: GS Nguyễn Văn Trường là cựu học sinh Collège de
Cantho 1943-1948. Tác giả đã du học Pháp khi còn rất trẻ, lúc
chưa xong bậc trung học tại quê nhà. Ngay tại Pháp quốc tác
giả đã bắt đầu nghề giáo của mình. Trở về nước
Giáo sư đã sống gần hết đời mình trong ngành giáo
dục. Bài viết sau đây tác giả đã đưa ra một cái
nhìn rất mới và lạ về việc dạy và học. Chẳng
hạn khi nói về vai trò của người thầy, tác giả dùng ý
niệm "Thập tự gíá ông thầy" tức là ông
thầy phải chịu đau đớn mà làm im lặng cái TÔI của
ông thầy để đi đúng cái Thiên Chức làm Thầy. Ở
phần kết luận, tác giả viết: "Góp nhặt
liên tục và suốt đời, để đến một lúc thấy rằng
phải im lặng tất cả cái ấy, "xả bỏ" chúng đi, để
sống tối đa các ân sủng Trời ban. Cuộc sống tự nó đã
là một ân sủng. Hình như ai ai cũng vậy, đi vào nếp, vào
những thang giá trị, những nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp,
kỹ xảo,..., rồi vỡ lẽ là phải im lặng tất cả
những thứ ấy, im lặng mọi sở đắc, buông bỏ những bức
tường thành an toàn của cái TÔI, để đón lấy một
cái gì bấp bênh, mong manh, bất ổn, bất an, chưa biết. Đó
là cái giá phải trả để trưởng thành, để sống
thực, sống đầy. Và riêng ông giáo, để là một ông
giáo biết việc, biết trọn vẹn với ân sủng được
cuộc sống học và dạy của mình."
Có rất nhiều người
trong gia đình PTGĐTĐ là những nhà giáo, có lẽ hôm nay
cũng là dịp chúng ta thử nhìn lại một đoạn đường
mình đã đi qua nhiều chục năm trước sau khi đọc bài
viết rất công phu và giá trị dưới đây.
Thay mặt BBT
Trang Nhà, chúng tôi xin cảm ơn Giáo Sư Nguyễn Văn Trường
và xin đặc biêt giới thiệu bài viết cùng bạn đọc._______________________________________________
Một: Vì
sao tôi chọn nghề giáo. Duyên Trời.
Nếu
hỏi vì sao tôi chọn nghề dạy học, thì thật thà mà nói:
cuộc đời đưa đẩy.
Trước hết là vì muốn chọn cái dễ,
ít thử thách. Nhớ lại, tôi đã đặt một chân vào
một trường kỹ sư rồi chớ, nhưng rồi bỏ cuộc ra học Trường
Khoa Học. Như vậy, nhàn hơn, không bị hối thúc bởi
bài vở, có nhiều thì giờ trống để vui chơi, và nếu
cần phải sinh sống thì có thời giờ để vừa học vừa
đi làm. Nhờ vậy mà được 3 năm làm giám
thị toàn thời gian cho các trường trung học, và trong 3 năm ấy
vì trường thiếu giáo sư toán, nên tôi có dạy phụ
trội 4 giờ rồi 8 giờ mỗi tuần. Làm giám thị nội trú cho
một trường trung học, bên ngoài nghe thấy thì khủng khiếp, nhưng
nhập cuộc, khi thích nghi được với môi trường, thầy trò
đã biết nhau, thì thật nhất thế chi thần tiên. Có thể
là cái thần tiên chi nhất thế này đẩy đưa tôi sâu
vào nghề giáo.
Có thể vì lười, thiếu kiên định, cũng
có thể vì tính phóng túng của tuổi trẻ mà tôi chọn
nghề dạy học. "Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể".
Nghĩ vậy, thì không lý do gì mà chỉ chăm chăm vào việc
sách đèn. Không đàng này, cũng có đàng khác. Trời
không bỏ một ai.
Nhiệm sở đầu tiên của tôi tại quê nhà
là Viện Đại Hoc Huế, vì tôi không được nhiều lựa
chọn. Vả lại, Sông Hương, Núi Ngự, Cố Đô
cảnh đẹp, người đẹp, văn kỳ thanh, nhưng chưa biết. Huế
với tôi rất mới, và cái mới nào cũng hiểm nguy, nhưng nhiều
cuốn lôi và hứa hẹn.
"Huế đến thì dễ mà khó về." Tôi
đã thành rể của xứ Huế, và "từ ấy", tôi thành
người của làng giáo. Như xứ Huế, làng giáo, vào chẳng
khó, nhưng lắm người mải miết trong ấy đến bạc đầu
mà chẳng nghĩ bước ra. Đó là trường hợp của tôi.
Hai. Nhập gia tùy tục.
"Khảo
sát môi trường" là từ mà chúng tôi thường nói
đùa với nhau khi nhận nhiệm vụ mới. Cụ thể, phải học hỏi
về ban giám hiệu, về đồng nghiệp, về những quyền hạn mà
có khi không có trong nội quy, hay trong luật pháp học đường.
Ở đâu
rồi cũng phải học hỏi gia phong ở đó.
Về Huế, tôi không chỉ có
"ông chủ", "ban hội tề" của ông, quí vị đồng
sự và sinh viên của tôi. Tôi không chỉ tuân theo có luật
pháp học đường, những qui định về quyền hạn và trách
nhiệm, những cấu trúc hành chánh và pháp lý trực tiếp
chi phối chúng tôi. Đâu đâu cũng có những quyền
lực ngoài pháp lý. Vị thế cho quyền, quyền cho sức mạnh. Cho
nên, người mình thường ghép thế với lực, quyền với
lực. Thế lực, quyền lực. Quyền thế có khi phải ngầm hiểu
là quyền lực chỉ do cái vị thế xã hội mà thành, hoặc
vị thế do quyền lực tạo nên. Quyền thế của chủ nợ, của
điền chủ,...đôi khi trực tiếp, gần gũi, dai dẵng và khó
chịu. Những cái đó không có trong sách vở, và nếu mình
hiểu được, mình có thể tránh không biết bao nhiêu phiền
toái. Vì không được qui định trên giấy trắng mực đen,
nên chúng đổi thay vô chừng, như gió như mây. Và như
với gió, không một ai đứng ngoài được.
Nói chung, trong những
thuận nghịch của môi trường, Huế, Sàigòn, Đà Lạt,
Tây Ninh, suốt cuộc đời dạy học, môi trường có dành
cho tôi nhiều may mắn.
Ba: Tôi học làm thầy giáo
Trên đây là cái nhìn chung của tôi
về việc học hỏi và hội nhập. Chính yếu là ở chỗ
nhận thức được những phản ảnh từ quí vị đồng sự,
bạn bè, sinh viên, nói rộng hơn là từ tha nhân ở mọi nơi
chốn mà mình có qua, và không chỉ về cá nhân mình
mà cả về công việc chung.
Cụ thể ở Viện Đại Học Huế, cái
gì xảy ra ở một trường nào khác của Viện, hẳn có
tác động trên trường tôi. Chúng tôi thật là đồng
hội đồng thuyền. Chúng tôi phải sớm từ bỏ cái nhìn
cục bộ của một trường. Gần như lúc nào chúng tôi
cũng trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau để có một cái
nhìn chung của Viện Đại Học trong trong những quan hệ chằng chịch
với sinh viên, phụ huynh, chính quyền, các đồng nghiệp ở các
ngành nghề khác bên ngoài,....
Nghe được những âm vang về việc làm của
mình là một điều rất khó. Khó hơn nữa là người
Huế kín đáo và tế nhị. Ngôn ngữ địa phương, giọng
nói, cách diễn tả địa phương lắm khi làm cho tôi không
bắt được thông điệp. Ngoài ra còn những nghi thức, lễ
giáo, những tinh tế rất cố đô, mà tôi thì có khi chậm
hiểu. Không những vậy, tuổi trẻ thường háo thắng, bồng bột,
nông nổi trong một cái TÔI to lớn, mà tôi không là một
biệt lệ. Cái TÔI ấy vừa là động cơ thúc đẩy
bước lên, tiến tới, nhưng cũng là màng che làm con người
không thấy được cái thật sự của sự việc để học
hỏi, hiểu biết, và thích nghi.
Cho nên, muốn biết là một việc, tiếp cận,
nghe thấy và học được ở môi trường là một việc
khác. Bạn bè thường bảo bọn người Nam là vô sự. Thiết
nghĩ: khi còn ù ù cạc cạc, ngớ ngẩn, khi còn đóng đinh
mình trong một hình ảnh ít nhiều to lớn về ông thầy giáo
ở trong mình, thì muốn "hữu sự " hay "sinh sự" cũng không
được.
Yếu
tố văn hóa địa phương tối quan trọng, quan trọng hơn nữa
là chúng tôi ở trong thời kỳ khai phá khởi công của Viện
Đại Học Huế. Truyền thống "tôn sư trọng đạo" là
thuận duyên, nhưng có thể làm cho người dạy thỏa mãn trong
vị trí ban bố kiến thức, mà quên rằng cái học –học
làm thầy, học làm người—là thường xuyên và suốt
đời. Học làm thầy giáo không chỉ là nhằm một số
kiến thức về triết lý giáo dục, tâm lý trẻ con thanh thiếu
niên, cách điều hành lớp học, luật pháp học đường,
v.v. hay trong một vài giờ thực tập. Học làm thầy giáo tiên
quyết phải biết môi trường, và chính yếu là ở lớp
học, mỗi ngày, mỗi giờ. Lớp học là nơi người dạy thực
tập tiếp cận với học viên, người dạy học nghề trong những
tác động qua lại, thầy với trò và trò với trò.
Có lần cuối niên học,
tôi đưa cho mỗi sinh viên của tôi một tờ giấy trắng để
xin một lời góp ý. Người tiêu thụ biết món hàng hơn
bất cứ ai, người học trò biết cái dạy của ông thầy
hơn bất cứ ai. Về việc này, người sinh viên Huế, khả ái,
nương tay, thường khuyến khích bằng những lời lẽ tích cực.
Thế nên, khó cho ông thầy biết để sửa sai. Riêng tôi, tôi
được cái may hiếm có. Hai sinh viên của tôi, một gái một
trai, đã lễ phép cho tôi biết rằng trong lớp học, có lúc
tôi quá nóng nảy, lớn tiếng và "điều này chỉ làm
cho chúng con quớ thêm mà thôi".
Tôi hiểu mình dễ nóng nảy, từ lúc
còn dạy một đôi giờ mỗi tuần ở trung học. Cho nên, tôi
có những biện pháp giữ mình, nhất là trong một môi trường
mới. Tôi giữ khoảng cách cần thiết cho sự tương kính bằng
cách gọi sinh viên tôi là "Anh, Chị". Tôi có lễ phép mời lớp học tôi
ngồi khi họ đứng dậy chào tôi, và không quên có lời
cám ơn khi rời lớp học. Thiết nghĩ những nghi thức ấy có
thể nhắc tôi là "hậu sinh khả quí", mà khi giận, mất
khôn nên quên đi. Vài năm sau, tôi mới biết là "hậu
sinh khả úy". Với người Nam chúng tôi, "úy" và "quí"
đồng âm. Nhờ vậy, tôi có quí sinh viên tôi mà
không úy kỵ. Nếu còn cơ may trở lại dạy
học, tôi sẽ xin lớp học một phút im lặng để khởi đầu
giờ học. Một phút này có thể nhắc nhở lớp học và
riêng tôi, phải gìn giữ một không khí dễ chịu cho mọi
người. Tôi vẫn giữ "khả quí" hơn là "khả úy".
Tôi nhớ mãi
bài học và tự dặn mình phải bình tĩnh hơn.
Hình như đến giờ
này tôi vẫn chưa học xong. Hiểu, biết, cố gắng sửa là một
việc. Sửa được là một việc khác. Thay đổi một hành
vi cho chính bản thân, thật là khó. Thay đổi hành vi của một
người khác, nói riêng của một học viên, ắt phải khó
hơn gấp bội. Thay đổi như vậy là một phần của việc
tu sửa, tu tâm sửa tánh cho mỗi ngày thêm thích hợp cho cuộc
sống hợp quần. Tu sửa là giáo dục, giáo dục bản thân,
giáo dục con em học sinh.
Bốn: Tôi học làm
giáo dục.
Sau niên học đầu, Trường Đại Học Sư Phạm Huế
được mở rộng đào tạo giáo sư trung học đệ nhị
cấp. Tôi được bổ nhậm làm phụ tá học vụ về khoa
học cho ông khoa trưởng trường tôi.
Lúc bấy giờ vốn liếng sư phạm của tôi
thật quá non. Kinh nghiệm trung học quá ít. Kinh nghiệm ở Việt Nam
thì hoàn toàn không có. Nhưng may, tôi có được một
tuần lễ huấn luyện trong một CEMEA (Centre d'entrainement aux méthodes d'éducation
active, Trung Tâm huấn luyện phương pháp giáo dục hoạt động),
nhằm để giữ trẻ con trong các trại hè (moniteur des colonies de vacances).
Cái vốn liếng ấy, gần như không, nhưng là gạch nối và
là mầm dẫn dắt tôi vào các vấn đề giáo dục.
Tôi bắt đầu
theo dõi các bulletins của CEMEA, đọc các chỉ thị của Bộ Giáo
Dục về việc khai triển các chương trình ở Trung và Tiểu
Học, gởi xin các thông tri của Institut Pédagogique National ở Paris. Tôi
bắt đầu lắng nghe và học hỏi với các đồng nghiệp.
Những mẫu chuyện với quí vị giáo sư, hiệu trưởng, thanh
tra ở các trường Quốc Học, Đồng Khánh, Hàm nghi, Nguyễn
Tri Phương, Bán Công, và Nha Đại Diện Giáo Dục giúp tôi
không ít, về kinh nghiệm cũng như về triết thuyết giáo dục
học đường.
Tôi học về giáo dục.
Vì tất cả sinh
hoạt các khoa đều tập trung ở một vài cơ ngơi còn ít
oi của Viện, nên tôi cũng học được nhiều ở quí anh chị
dạy các khoa khác.
Đây là thời kỳ tôi làm quen với những tên
tuổi lớn của giáo dục Lycurge, Socrate, các nhà sophistes, Khổng Mạnh,
Dewey, Montessori,.... Đó là thời kỳ lượm lặt những
kiến thức đó đây, không hệ thống, và cũng là thời
kỳ mà tôi được khai tâm về Nhân Bản, Dân Tộc, Khai
Phóng.
Tôi
thích thú với định nghĩa của Institut Pédagogique National, Paris: "Mỗi
giáo sư, dầu toán, lý hóa, vạn vật, ... hay chi chi khác đều
phải là một nhà giáo dục." Giáo dục không
chỉ là truyền lại kiến thức hay dạy nghề. Giáo dục nhằm
giúp trẻ học làm người.
Tôi cũng về Huế đúng cái lúc mà "Sông
Hương vắng khách .....". Xứ của ngàn năm văn vật, không
có chỗ cho khách tà dâm, cho cờ bạc, hút sách, cho sự đồi
trụy. Nếu có thì lén lút đâu đó. Ông thầy giáo
trong cảnh này cũng chỉ có thể có những thú vui tao nhã. Nếu
có tà thì chỉ "tà tà" mà thôi, hoặc cũng lén
lút, hai mặt, bên ngoài đạo đức che kín cái tà bên
trong. Trong cái không khí thánh thiện hay "tà tà" ấy, một
trong những thú vui của tôi là đọc truyện Tàu. Tôi đã
"tà tà" xem Thủy Hử. Thủy Hử dẫn tôi đến Tây
Sương Ký, vì cả hai đều thuộc Lục Tài Tử.
Đọc Tây Sương Ký,
có hai điều đáng ghi:
Một. Truyện có thể hay trong cái thời của
nó, nhưng riêng tôi, Tây Sương Ký hay là nhờ tựa và
lời bình của Kim Thánh Thán. Ngẫm lại, chưa có một Thánh
Thán nào cho Trường Đại Học Sư Phạm của chúng tôi.
Chính quyền không làm, và nếu muốn làm cũng không làm
được. Chỉ có những sinh viên của chúng tôi làm được
mà thôi. Nói cách khác, tác phẩm phải tự giới thiệu
với môi trường. Không một tha lực nào làm được việc
này.
Hai.
Tôi học được 4 chữ. Nhuộm Mây Nẩy Trăng của Thánh
Thán. Vẽ mây cho trăng.
Nếu người xem tranh chỉ thấy mây
đẹp mà không thấy trăng. Kể như thất bại.
Dạy học
là lấy kiến thức tôi luyện con người. Kiến thức là phương
tiện, là mây, con người là cứu cánh, là trăng. Nếu sau
cùng ta chỉ có những " giá treo bằng cấp", minh chứng cho những
bồ kiến thức, thì như mây đẹp đã làm mất cái
đẹp của trăng. Tôi thèm muốn lấy hình ảnh "vẽ mây
cho trăng" này làm tôn chỉ cho trường tôi.
Năm: Thập tự giá ông thầy.
Trên 30 năm
trong làng giáo, qua nhiều chế độ khác nhau, phong trần cũng lắm,
có dạy ở các trường công, trường đạo—Cao Đài,
Đà Lạt, Vạn Hạnh, Bán Công Huế, Kiểu Mẫu Thủ Đức—,
giờ đây, gần về điểm hẹn với ông bà, nếu phải
ghi lại về nghề giáo, hay công tác giáo dục, để làm một
ông giáo biết việc, thiết nghĩ có thể tóm lược trong năm
chữ: "Thập Tự Giá Ông Thầy". Ông thầy ở đây nên
hiểu trong nghĩa rộng là ông giáo, bà giáo.
Thập tự giá
ông thầy có nghĩa là:
1. Thu nhỏ cái hình
ảnh, hay nói rộng hơn, làm im lặng con người của ông thầy,
nhằm cho cái dạy có tình, có nghĩa hơn.
2. Muốn làm được điều này, người dạy lắm khi phải
qua những thử thách có thể đau đớn. Tuy khó so với việc
bị đóng đinh trên thập giá. Nhưng về phương diện tâm
linh, thì không khác một sự thập tự giá.
3. Có
như vậy, người thầy giáo—một con người thế tục—mới
có khả năng vươn lên một thiên chức. Và đó cũng
là con đường giải thoát, thoát ra khỏi những ngụp lặn hàng
ngày, để không ngừng bằng lòng với chính mình, để
cuộc sống ngày thêm phong phú.
Trong phần này, chúng tôi cố gắng nói rõ hơn
về ba điều trên đây
@
Làm Im Lặng cái TÔI của ông
thầy.
Dạy và học là hai khái niệm tương quan. Tuy nhiên dạy
là nhằm cho người học. Người học là chính, người
dạy là phụ. Theo truyền thống và thực tiễn học đường
ta thì thầy cô giáo quá quan trọng, quá cao. "Không thầy đố
mầy làm nên". "Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy".
"Lương Sư Hưng Quốc". Cuộc sống thầy giáo càng khó
khăn, càng khổ cực, người thầy càng được "vinh danh"
trong "thiên chức". Thiết nghĩ không nên ru mình trong những lời
hay tiếng đẹp có khi quá đáng ấy. Phải trở
về với thực tiễn hằng ngày. Cái thực tiễn quan trọng nhất,
tiên quyết nhất là: người thầy trả lại cho người học
vai chính của họ, và ngươì thầy trở về với
vai phụ của mình. Nói "trả lại", “trở về”
vì trong thời của tôi, ông thầy là chính mà học trò
là phụ.
Đó
là ý nghĩa đầu tiên của "thập tự giá ông thầy".
Dạy không là tẩy
não. Tẩy não hàm ý là tẩy sạch những gì khác cái
được xem là chính thống. Trong một giới hạn nào đó,
không một ai, thầy và trò, được nghĩ, nói, hành động
ra ngoài cái chính thống.
Dạy cũng không là tuyên truyền. Tuyên truyền
thường khuếch đại (hay giảm thiểu), bóp méo, có một nói
mười (hay có mười nói một), có khi đặt điều ra mà
nói.
Ông giáo, bà giáo không gói học trò mình trong cái
nhìn hay những giá trị của mình. Cũng không đặt điều,
thêm, bớt hay nói dối. Mình không áp đặt những giá trị
của mình hay của đông đảo quần chúng. Lúc
nào cũng nhớ: tất cả đều là phụ, chỉ có người
học là chính.
Và như trên có nói qua, dạy cũng không có
nghĩa là đơn thuần truyền đạt kiến thức. Có truyền đạt
kiến thức, nhưng chỉ là phụ. Vậy, không có kẻ
trên, người dưới, kẻ ban bố kiến thức và người thụ
nhận. Đừng buộc rằng cái dạy của thầy là lời vàng
thước ngọc. Đừng tập người học nhất nhất phải nghe lời
mình dạy, đừng tập họ a dua, đừng làm họ khiếp sợ
trước quyền lực, hay quyền bính của thầy; cũng đừng tập
họ ỷ lại, cái gì cũng trông chờ ở thầy cô. Thầy cô
đều là người, và là người thì cái gì cũng
tương đối, có đúng có sai. Đừng tạo thói quen suy nghĩ
rằng thầy thì thế nào mà sai được. Thầy cô có thể
sai, sai thì nhận rằng mình sai, rồi sửa cho đúng. Với
học trò không gì bằng sự chân thật. Đừng nghĩ rằng
tuổi trẻ không hiểu những câu sáo, những gượng ép nói
cho qua, hoặc không biết thùng rỗng thì khua to.
Cũng nên tránh xa
cái thói quen dạy người phải làm thế này thế khác:
một khuyết tật rất thầy giáo là xem người
khác non kém chẳng biết gì.
Nên tập con người khi thấy mình hay bất cứ
ai mà lúc nào cũng nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng
thì phải suy xét lại: ngay trong tự thân của người đó,
chắc chắn đã có một cái gì bất ổn, cần đổi
thay.
Nên
để người học suy nghĩ và trách nhiệm về hành vi và
nói chung về cuộc sống của họ. Xin nhắc lại lần nữa: họ
là chính, hãy để họ tập trách nhiệm về cuộc sống
của họ.
Thập
tự giá ông thầy là nhấn mạnh trên những cái không,
đừng, và nên nêu trên đây.
Đó là triệt
tiêu các ý đồ tẩy não, tuyên truyền cho một "chân
lý", các ý nghĩ trừng trị, các thói quen làm thầy đời,
lấy mình làm thước đo, triệt tiêu những ý
đồ áp đặt những giá trị trên người học,... triệt
tiêu mọi cái như vậy trong người thầy.
Nói như
vậy, không có nghĩa là phủ định vai trò hay quyền bính
của người dạy, để rồi thầy trò cá mè một lứa.
Không một ai có thể làm việc được trong tình trạng hổn
mang, vô trật tự, vô kỷ cương. Trường qui là cần thiết,
và cho mọi người, trong đó có thầy, có trò. Những qui
pháp bất thành văn cũng vậy, phải được tôn trọng. Nhưng
trên hết, người thầy lúc nào cũng nhớ phải
tôn trọng cái nhân cách đang hình thành trong người học.
Thầy trò sống
với nhau ắt có nghĩa và tình. Nghĩa nói nhiệm vụ, bổn
phận, trò đối với thầy, thầy với trò. Tình nghĩa tương
sinh. Nghĩa là nền, là cơ sở luân lý cho tình, làm cho tình
càng thêm bền vững. Nghĩa có một cái đẹp đặc thù
trong nền văn hóa Đông Phương. Tuy nhiên, văn chương, thơ
phú, truyện cổ, tuồng tích của ta hình như đều nhằm gắn
con người vào nghĩa tình, mà nghĩa là chính yếu. Nếu
có tả tình thì cái tình ấy thì cũng phải sao cho thuận
với nghĩa, hoặc nếu không trọn thì đổ lỗi cho ông Trời
hay do nghiệp chướng an bài. Cho nên, tuy nói tình, tuy có khai thác
những gút mắc, bên tình bên nghĩa, chung qui rồi thì vẫn là
vì nghĩa quên tình, hoặc là "hợp tình, hợp lý" chung
chung cho thuận chiều. Dạy học nên nói tình hơn là cột người
trong nghĩa, nên để nghĩa được hiểu vô hình chung ẩn tàng
đâu đó, hay chỉ là một hệ quả đương nhiên của
tình.
Yêu
thương người học trò, ắt phải nhìn nhận nó là một
giá trị. Giá trị ấy cũng là hoài bảo, hi vọng của mình.
Cả cái thế hệ của nó là "tương lai của đất nước",
nói rộng hơn, của nhân loại. Nếu thật tình nghĩ như thế,
thì phải biết nâng niu, trân trọng giá trị ấy. Và không
chỉ có vậy, còn phải tạo bên trong người học lòng tự
tin. Nó phải tin rằng nó thật sự là một giá trị, nó
mới thấy cần thiết tu dưỡng. Trọng tâm vẫn là những
thay đổi bên trong nó: Nó muốn làm cho nó thăng hoa.
Vậy, không thể
tùy tiện. Nói riêng, mọi biện pháp bạo hành, gieo rắc khiếp
sợ phải được loại bỏ. Tẩy não, tuyên truyền, lấy quyền
lực để áp đặt một giá trị trên người khác là
bạo hành tâm linh. Thương không lúc nào là cho roi cho vọt.
Thương cũng không là chế diễu, làm cho nó hỗ thẹn, làm
nó cảm thấy con người nó nhỏ bé đi, để nó chừa
bỏ, đừng tái diễn lỗi lầm. Làm như vậy cũng là bạo
hành. Cho ngọt, cho bùi, đúng nơi, đúng lúc, đúng cách,
làm cho người biết rằng họ có giá trị, không
có nghĩa là ghét—như nói trong câu"ghét cho ngọt cho bùi"—
mà trái lại, đó là một biểu hiện của một sự chăm
sóc tích cực của người thầy. Nếu sánh dạy dỗ như
uốn nắn, hay cắt xén những cành hoang, để cây thêm hoa, quả,
lá cành, thêm đẹp, thì phải thấy những hiểm nguy của
việc làm này. Quá đà cây gãy, quá độ, cây
còi. Đừng ngộ nhận con người với cây cỏ.
Những giòng này vẫn
là cái lý của tình người dạy dành cho người học.
Cái lý làm sáng cái nghĩa của tình.
Tình thương là
tự bên trong, phát xuất từ những duyên lành cụ thể. Vui buồn,
hờn giận, chán nản, hăng say, thích thú,...là những biểu hiện
của tình, và thường thì xa lạ với lý luận phải trái
thông thường. Phải thấu hiểu những nổi dậy bên trong ấy của
người học, mà không tò mò đi sâu vào đời tư
của họ. Cho nên, cần tạo một môi trường an toàn
cho người học được tự do nói lên những nghĩ suy, thổ
lộ những tâm tình, mà không ngại bị chế diễu, cười
chê, hay trừng phạt. Muốn được như vậy, thầy cô nên
làm sao cho hình ảnh người thầy trong người học tiến về
không, để nó không còn là một trở ngại tâm lý
cho người học: Ngại bị phạt, ngại bị cười chê, ngại
bị đánh giá thấp.
Tất cả những giòng trên chỉ nói một việc:
làm im lặng cái TÔI của ông thầy.
Đó là:
-nhìn nhận mình—thầy
cô giáo—là phụ, để tất cả cho vai chính—người
học trò. Triệt tiêu mọi ý đồ bạo hành.
-tạo những điều
kiện thích hợp cho một sự đổi thay tâm lý nội
tại trong người dạy: làm triệt tiêu mọi hình ảnh—về
mình và về người học trò bên trong chính mình, hình
ảnh về mình bên trong người học trò— hay rõ hơn là
làm sao những hình ảnh ấy không lúc nào là một
trở ngại tâm lý cho việc học, và theo đó cũng không
là một trở ngại cho việc dạy.
Nói cách khác, thập
tự giá ông thầy cũng là làm im lặng những tiên kiến, những
hình ảnh có trước về người và về mình, im lặng những
giá trị lâu nay có gốc rễ sâu xa bên trong, để dễ nhận
thức được cái mới, cái đang xảy ra trước mặt. Nói
riêng, là để nhận thức được những diễn biến bên
trong người học. Có như vậy, tình thương gắn liền với
sự hiểu biết. Thương nó, vì nó, ắt phải tìm hiểu
nó. Tạo một sự im lặng bên trong mình là một đổi
thay tận gốc và cần thiết cho việc thương và hiểu này.
Mình không còn bị lăng xăng vì cái "tôi là thầy
của nó", "nó là học trò của tôi",
hoặc phải thế này, thế khác. Chỉ còn nó, người
học, mà mình phải theo dõi tâm tư.
Nghe qua như là một nghịch
lý. Dạy thông thường là truyền đạt những giá trị.
Nội dung cái dạy là văn chương, triết học, toán, lý hóa,
vạn vật, thiên văn, vân vân, là những giá trị. Thập
tự giá các tiên kiến, các hình ảnh nghe còn được.
Bỏ đi những giá trị thì còn gì để dạy, để hướng
dẫn?
Thật sự, nội dung dạy đã được qui định trong
chương trình. Trước khi vào lớp thầy cô giáo đã sẵn
có một giáo án. Đó là kế hoạch khai triển sinh hoạt
lớp học trong một tiết, trên một đề tài qui định trước.
Kế hoạch đó có thể tỉ mỉ, trong từng chi tiết, từng câu
hỏi soạn trước. Có mở, có thân bài, có kết, có
đóng. Ngoài ra, lúc nào nó cũng nằm trong kế hoạch của
toàn niên học. Cho nên, ai cũng muốn thực hiện cho kỳ được
giáo án. "Cháy giáo án" có thể xem là một sự
yếu kém hay thất bại, và cũng có thể gây phiền toái.
Kéo dài tiết học vài phút lấn sang giờ chơi, có khi cũng
không xong. Không ai có lòng học trong một không khí ồn ào
vì tiếng cười, tiếng la hét gọi nhau vọng từ sân chơi hay
hành lang. Cho nên, có người phải "chạy theo giáo án",
vì có một câu hỏi bất ngờ của học sinh, hoặc vì người
ấy hăng say giải thích trên một điểm tế nhị nào đó
của vấn đề, để khi nhìn lại thì đã gần hết giờ.
Nếu chúng ta thật nghĩ rằng dạy không chỉ là truyền đạt
giá trị, mà lấy giá trị làm duyên, để tôi luyện
con người. Nếu giá trị là đề tài để tập thứ
tự, siêng năng, cần mẫn, kiên nhẫn, trì chí, tập phân tích,
tổng hợp các vấn đề, tập diễn tả những cảm nghĩ mình
rõ ràng, mạch lạc,..... Nếu thật như vậy, thì ám ảnh
bởi giáo án, bởi các giá trị mà phải truyền đạt,
thì không nhận thức hết được sinh khí trong những hoạt động
của lớp học, trong ánh mắt, cái nhìn, qua những câu hỏi, hoặc
câu trả lời của mỗi học viên.
Truyền đạt giá
trị –vẽ mây đấy—nhưng không để mây che lấp trăng.
Làm im lặng các giá trị là nhấn mạnh đừng để
bất cứ giá trị nào lăng xăng trong tâm trí, hay thu hút tâm
trí, làm cho mất hướng nhìn trăng.
Trong suốt giòng đời,
con người thu thập kiến thức, kinh nghiệm, huân tập thói quen, hình
ảnh về mình và về người khác, lưu trữ những hệ thống
giá trị, thiết tha với những truyền thống, tự tạo cho mình một
lối suy nghĩ, một cá tính, v. v. tất cả thứ ấy được
tạm gọi ở đây là những sở đắc, hay cái TÔI.
Khi các sở đắc chiếm lãnh trọn trí tuệ, thì khó
còn chỗ cho cái mới. Làm im lặng được chúng là tạo
một khoảng trống và một thời khắc cần thiết cho
sự thấm thấu của những giá trị mới này. Làm im lặng được
chúng thì mới có khả năng nhận thức tối đa các chuyển
biến bên ngoài và bên trong của chính mình. Bên ngoài là
tha nhân, là môi trường, là lớp học, là những học sinh,
sinh viên cá biệt và cụ thể. Bên trong là những
trạng thái tâm linh, những cảm xúc và nghĩ suy của chính ông
thầy. Trong ngoài đều không ngừng chuyển biến. Quá trình chuyển
biến ấy là cuộc sống. Dạy là sống. Học là sống. Muốn
sống thật nghề dạy, người thầy nên biết làm im lặng cái
TÔI bên trong của mình.
Trong một số giòng tu công giáo, các tu sĩ nguyện
thực hiện hạnh im lặng: đi đứng, làm việc, lúc nào cũng
gìn giữ không làm tiếng động, nó chuyện với nhau thường
là bằng dấu hiệu, và khi quá cần thì nói thật khẽ.
Nói chung là gìn giữ sự tĩnh lặng trong nhà dòng. Điều
quan trọng nhất vẫn là thực hiện sự im lặng tận sâu bên
trong mỗi tu sĩ. Sự vâng lời tuyệt đối có khi là một
trắc nghiệm xem cái TÔI còn tồn tại đến mức độ nào.
Người học
Phật, ai cũng nằm lòng "vô thường", "vô ngã" và
"không".
Người thầy nên theo những gương ấy mà quản
lý lớp học của mình: Tập nhận thức lớp học và học
viên trong cái không ngừng chuyển biến của nó, tập im lặng cái
TÔI, để cái TÔI không lúc nào là màn che
cái thật sự đang xảy ra.
Thiết nghĩ thầy giáo cô giáo không là
tu sĩ. Tuy nhiên, ai ai cũng đều biết rằng cuộc sống
vốn đổi thay liên hồi, không lúc nào ngưng nghỉ. Vậy, nhìn
cuộc sống trong trình tự diễn biến của nó là cần,và
thiết thực. Cái TÔI, hay tập hợp các sở đắc thu lượm
được chỉ là sơ đồ thô sơ của quá khứ. Không
mấy khi nó phù hợp với cái mới đang xảy ra, và thường
nó là một trở ngại cho sự hiểu biết. Cho nên, bất cứ ai,
trong thực tiển cuộc sống đều cần im lặng cái TÔI của mình
để thấu triệt vô thường. Nói riêng cho thầy cô giáo.
Cuộc sống vốn đa
dạng, muôn màu, muôn sắc. Vậy, không vì khác biệt mà
ghét bỏ hay diệt trừ. Làm im lặng được cái
TÔI thì đương nhiên mọi xung khắc giữa tôi và khác
biệt với tôi sẽ mất đi cường độ, con người dễ chấp
nhận những cái khác mình. Chấp nhận không có nghĩa là
nhìn nhận rằng cái khác mình là đúng. Những
cái khác mình không nhất thiết phải đúng, hay sai. Chúng đúng
với một hệ thống giá trị nào đó, và sai đối với
một hệ thống khác. Người mà khác hẳn mình, trực diện
đối lập với mình, vẫn có quyền có tiếng nói của
họ. Vì họ ở trong một hệ thống giá trị khác, họ có
thể nghĩ đến những việc mà mình chưa nghĩ đến. Đứa
trẻ khó dạy là đứa trẻ cần được dạy dỗ nhất.
Và có thể vì đó mà người thầy học ở nó nhiều
nhất. Im lặng được cái TÔI, con người dễ chấp nhận nhau
hơn, gần nhau hơn, hiểu nhau hơn, thương nhau hơn.
Tóm lại, ở đây
giết chết cái TÔI có nghĩa là im lặng được
những tiên kiến, giá trị sẵn có, luận cương, nguyên lý,
vân vân, đang ngự trị bên trong ông giáo, bà giáo. Đó
là nhằm cho bên kia, các học viên được một
môi trường phù hợp hơn cho sự phát triển.
Giết chết cái TÔI
cũng còn nhằm giúp cho bên nầy, thầy giáo, cô giáo có
một cuộc sống thật hơn, năng động hơn, biết học trò hơn,
theo đó chắc chắn là phong phú hơn.
@ Những đau đớn tất nhiên trong việc thập tự
giá cái TÔI.
Nhân bản là cái bản chất người. Một
yếu tố hàng đầu của nó—ít nhất là trong cái nhìn
của người dạy học— là khả năng trưởng thành.
Sự trưởng
thành nào cũng có những đớn đau của nó.
Trong thời gian đứa
bé tập lật, bò, đứng chựng, mọc xương, mọc răng, vân
vân, ít đứa trẻ nào mà không bị nóng sốt, có khi
nhiệt độ lên rất cao. Đó là thí dụ cụ thể về
những đau đớn tất nhiên cho sự lớn mạnh thể chất.
Về tâm linh, trưởng thành là mở rộng đón bắt cái
mới. Cũ mới đương nhiên khác nhau, thường khi mâu thuẫn,
có lúc đối kháng như đêm với ngày. Thế nên, lòng
có đắn đo, rây rức, có bi kịch. Đó là nguồn của
những khủng hoảng tinh thần. Bi kịch có thể biến thành thảm
kịch. Vậy có nhứt đầu, nhứt óc, có đau đớn, khi tiếp
cận với cái mới.
Diễn trình hình thành gà con cũng là
diễn trình hủy diệt quả trứng, tương tự cho con tầm từ cái
kén, cho cây non từ hột giống. Cua muốn lớn phải lột
bỏ vỏ. Thí dụ như thế không thiếu. Nói chung diễn
trình trưởng thành là diễn trình từ bỏ một cái gì
đó không còn thích hợp để bắt lấy một cái gì
đó thích hợp hơn. Nói cách khác, một cái cũ chết
đi, một cái mới sinh khởi. Có một cái TÔI chết đi, để
một cái TÔI khác thế vào. Như vậy diễn biến trưởng
thành là một chuỗi tử sinh, một chuỗi thập tự giá cái
TÔI
Cái
chết nào cũng có những đớn đau của nó. Mất một người
thân, tang tóc bi thương. Để chết đi một hành vi, một
thói quen, một cách suy nghĩ, để chết đi bất cứ một cái
gì trong tâm linh, càng thiết thân, càng nuối tiếc, càng thêm
đau đớn.
Ngoài ra, cái mới là đang sinh, mình chưa biết.
Rước cái mới là chấp nhận rời bỏ cái an toàn hôm
qua, là rước sự phiêu lưu, những rũi may không lường trước
được.
Một thí dụ: Người thầy giáo trong quá trình sống—tu
tập im lặng cái tôi—đương nhiên phải rời bỏ vị
trí an toàn dễ chịu của một người trên dạy kẻ dưới
làm người. Thật là khó, thật là khổ, vì trong phút
giây im lặng được cái TÔI ấy, bỗng nhiên, mình cảm
như bị mất quyền bính, bị truất phế ra khỏi vị
trí yên ổn tôn kính ngàn đời của người thầy. Mình
cảm như trở thành con người khác, chơi vơi, không còn một
giá trị nào để bám giữ, để biện minh, để làm
cái lý tất nhiên của cảm xúc, của nghĩ suy, của hành
vi. Cuộc sống trở thành mong manh, cảm thấy như dễ bị chống đối,
va chạm, tổn thương.
Vậy muốn rước cái mới, cái đang
phát sinh, không thể tránh những cảm giác mất mát, hoang mang, chơi
vơi, bất ổn và bất an này.
Lâu lắm rồi, tôi đã quá quen độc
giảng, quen với tính thụ động của học sinh, quen với dạy một
khoa học hoàn bị, một triết thuyết có hệ thống đâu ra đó,
một văn chương hay đến thế là cùng, cái gì cũng đàng
hoàng, có lý do vững chắc. Thật dễ cho tôi, cũng dễ cho học
viên của tôi. Giờ đây, bảo tôi từ bỏ thói quen dễ
chịu ấy, không chỉ cho tôi mà cho cả học viên của tôi,
chỉ để nhằm tạo một không khí thuận tiện cho đối thoại.
Chỉ bao nhiêu đó mà thôi, thú thật, lòng tôi chẳng muốn.
Chẳng ai muốn từ bỏ một nơi êm ấm mà vượt biển phiêu
lưu. Tuy nhiên, đó là cái giá phải trả để tiếp nhận
thêm sinh lực, để ông thầy không cùn mòn như anh kép già
lải nhải năm nầy qua tháng kia cũng những điệu bộ lúc còn
thanh xuân, hoặc ca những bài xuân tình xưa cũ với giọng khàn
khàn sắp tắt.
Như vậy, chỉ nói buông bỏ một thói
quen dễ chịu mà thôi, cũng lắm cân phân, ray rức. Huống chi là
nguyên cả một cái TÔI "vĩ đại", mà từ lúc bé
thơ nhất con người được nhồi nắn mỗi ngày nhằm xây
dựng nên nó. "Phải có danh gì với núi sông", "không
thành danh cũng thành nhân", "một sự nghiệp", "một cá
tính", "phải thể hiện được con người của mình",
đó là một vài nhóm từ mà tôi được học và
còn nhớ.
Thực hiện buông bỏ cái TÔI là chấp nhận
những đớn đau sinh tử trong tâm linh. Sự đau đớn
không hẳn in như bị đóng đinh trên thập giá,
nhưng nó cũng âm ĩ, nhức nhối có khi không kém.
@ Thiên Chức.
Đọc qua, những dòng trên người sắp vào nghề
dạy, phải chùn bước. Người đang ở trong nghể cũng phải
hãi hùng.
Tuy nhiên, phải suy
nghiệm lại.
Làm im lặng cái
TÔI là điều kiện cần để trực nhận được cái
thật sự đang xảy ra của sự việc. Đớn đau ở
đây là tất nhiên, là cái giá phải trả cho sự lớn
mạnh và để tiếp cận với cái thật nhất có được.
Nói tất nhiên, tức là nói không thể tránh khỏi.
Con người bất
cứ ai đều cũng bắt đầu xây dựng cho mình một cái TÔI,
theo sự hướng dẫn, chỉ dạy của cha ông, của các thế hệ
đi trước. Rồi đến một tuổi nào đó, con người cảm
thấy vướng mắc trong cái TÔI ấy, và nhận thực rằng
nó là nguồn của khổ đau. Nó tạo nên một ảo ảnh,
một tâm lý tránh khó tìm dễ, muốn nhàn, muốn trốn chạy cái đau
đớn tất nhiên, thí dụ của sinh-lão-bệnh-tử. Vì vậy,
cái tất nhiên—cái không thể tránh— thường bị nhân
lên với một hệ số vô cùng lớn. Càng vùng vẫy, cái
lưới tất nhiên càng siết chặt. Nếu cái đau đớn
tất nhiên là một, thì khổ đau vì cái TÔI quay cuồng điên
đảo là vô cùng. Cho nên lắm người, đến tuổi nào
đó, đi tìm đạo, tìm sự an tịnh của tâm linh.
Giê-su dạy: "
Nếu ai muốn theo ta (về Nước Trời), thì hãy từ-chối mình
(phủ định cái TÔI), vác thập tự giá mình (thập tự
giá cái TÔI) mà theo ta. Vì hễ ai muốn cứu-mạng sống mình
(cái TÔI), thì phải mất (không về được Nước của
Chúa), còn hễ ai vì có ta mà mất mạng-sống mình (mất
cái TÔI), thì sẽ tìm lại được (linh hồn chân thật
ở Nước của Chúa)." Cho nên, có những dòng tu theo hạnh
khiêm cung (Christian humility) mà cốt yếu là làm im lặng cái TÔI.
Một
trong những phương tiện tu hành của người Phật Tử là phá
chấp ngã tướng (cái TÔI). Ngã tướng có rơi, thì
Chân Tâm mới hiện tiền. Chừng ấy, "cửa giải
thoát—thoát khỏi cái thế tục—hé mở"
Với con người bình thường mà không
có đức tin Ky Tô Giáo hay Phật Giáo, thì im lặng được
cái TÔI là một phương cách để thoát khỏi những khổ
đau triền miên vô cùng lớn do cái TÔI quấy nhiểu: im lặng
được cái TÔI là giữ trí não luôn mềm
dẽo, tươi mát, thích nghi được với cái mới, là giữ
cho tâm linh luôn linh hoạt, luôn đáp ứng được
với những đổi thay khách quan, là sống thật với vô thường.
Đó có thể là con đường chân hạnh phúc.
Thế nên, khi thập tự
giá cái TÔI, con người có khả năng vượt lên được
khỏi những quây cuồng, điên đảo. Nhờ vậy, sống được
trong cái bình thường, cái thật nhất của cuộc đời, chớ
không là con rối của cái "buộc phải là"
thế này, thế khác. Chừng ấy nghề dạy mới
có cơ may là một thiên chức. Sống trong thế tục đấy,
nhưng không bị cột trong những qui định thế tục, qua "sự
phải là" trong cái TÔI. Nhờ vậy, nên có
khả năng sống thêm một kích thước khác, thật hơn, trung thực
hơn, biết mình và môi trường rõ hơn. Nhờ vậy mà
không ngừng cải thiện— không vì lời dạy trong sách thánh
hiền hay kinh kệ— mà chỉ vì thấy cần thiết cho tự thân
và cho môi trường. Nói phong phú, nói thiên chức là như
vậy đó.
Lời Kết
Trường Cao Đẳng Sư Phạm
Huế có mặt từ 1957, và trở thành Đại Học
Sư Phạm Huế năm 1958. Từ đó liên tục tốt nghiệp các
khóa giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp, rồi Đệ Nhị Cấp.
Sinh viên tốt nghiệp được rãi từ Bến Hải đến Hoàng
Triều Cương Thổ. Vậy mà vẫn có người đi dạy tận
Vĩnh Long, Cần Thơ. Có nơi xa xôi, Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột. Có
nơi xôi đậu. Cam Lộ, trên đường đi Lào, hoang vu, đèo
heo hút gió. Đông Hà như một sa mạc cát nho nhỏ; mùa
gió Lào, cát nóng phỏng da chân, gió tạt cát nóng hổi
và rát cả mặt, nhà các giáo sư thời bấy giờ xây
tường đất kín, với lổ châu mai để ngăn gió, ngăn
cát, và cũng để tránh đạn pháo vô tình. Phong thổ
nào, bối cảnh nào, cũng có mặt họ. Họ tự giới thiệu
mình và trường mình bằng cách đem cái học về bên
nhà dân. Ngày ngày họ khẳng định vị thế của họ trong
nền giáo dục quốc gia.
Cho nên là một thiếu sót lớn nếu không dành một chỗ
trang trọng ở đây cho những nhà giáo tiên phong này.
Một lẽ khác.
Viết về tôi trong cái học làm thầy, thì không thể quên
họ, người thầy thật sự trong cái học làm thầy giáo, mà
lắm khi phải chịu đựng những cơn nóng nảy hay những hành
vi nông nỗi của tôi. Ghi lại công sức đóng góp của họ,
thiết nghĩ cũng là công bằng mà thôi.
“Nhuộm mây, nẩy trăng”
chưa bao giờ được chính thức xem là tôn chỉ của trường
ĐHSP Huế và Sàigòn. Nhưng hình như, chúng tôi,
trò và thầy, đều mặc nhiên hiểu, dạy không chỉ là
truyền đạt kiến thức. Cứu cánh vẫn là con người đang
hình thành trong đứa trẻ. Vậy cái ý “Nhuộm mây, nẩy
trăng “ tiềm tàng đâu đó trong tâm trí chúng tôi.
Hình như chúng tôi cũng
đồng thuận rằng các trường sư phạm chỉ hướng dẫn
trong kỹ thuật nhuộm mây và gởi gấm vài suy nghĩ về việc
nẩy trăng. Trong thực tế, nhuộm mây để làm đẹp cho trăng
hoàn toàn do tri thức, cá tính và tâm hồn của nghệ nhân,
người làm thầy cô giáo .
Phải sau 1975, khi tiếp cận được với lý thuyết
nhà Phật, tôi mới hình dung được ma lực dữ dội của
cái TÔI trong đời sống, và từ từ tập tành làm im lặng
cái TÔI. Vấn đề không là kiềm hãm, ức chế nó. Càng
muốn kiềm hãm, ức chế nó, "hàng phục" nó, diệt trừ
nó, nó càng muốn bung lên như khí dưới sức nén. Phải
gần đây, cái ý thập tự giá và thiên chức làm thầy
mới đến với tôi.
Vậy nên xem đó chỉ là những giả định
về nghề dạy học. Có điều là "thập tự giá" được
cái TÔI, cuộc sống có thể dễ chịu hẳn đi, nhất là
trong quan hệ gia đình. Đó là một điều khả thi, có khả
năng thi hành được trong cuộc sống hàng ngày. Có điều
phải kiên nhẫn và quyết tâm. Tập tạ, tập thể dục hàng
ngày, để tôi luyện sức khỏe, thì những tháng đầu
rất khổ sở. Đau các bắp thịt, đau cả châu thân, cảm
giác uể oải, muốn nghỉ ngơi, thấy cần thiết nghỉ ngơi. Trong
thời gian này, nếu nghĩ "cuộc đời đã khổ, sao lại tìm
thêm cái khổ này", thì tập mà chỉ trông cho hết giờ
tập, thì cái tâm lý khổ sẽ tăng, và sớm muộn gì
rồi cũng bỏ cuộc. Không thể nóng vội, phải chịu khó và
bền chí trong thời gian đầu; sau đó, không còn đau mình,
không còn muốn né tránh; trái lại, ngày nào không tập
thì lại thấy thiếu vắng. Dưỡng dục tâm linh cũng tương
tự, dầu thành quả có thể khó thấy hơn.
Các đồng nghiệp, các
cựu giáo sinh sư phạm, chưa hẳn đã chia xớt với tôi
về cái nhìn này. Đó cũng là phải thôi.
Trong thời bình, đưa trẻ thơ vào cái
trật tự xã hội của người lớn, cũng đã là việc
tế nhị. Thời chiến, càng khó hơn, sức ép từ nhiều phương.
Không phải ở đâu cũng có cái may mắn của những người
dạy ở các đô thị lớn.
Tai nạn nghề nghiệp trong làng giáo cũng nhiều.
1968, Tết Mậu Thân, chúng tôi mất Châu Khắc Túy. Có thể
còn nhiều anh em khác mà chúng tôi chưa được
biết. Sau 30 tháng tư 1975, đông đảo anh em bị đưa
vào các trại tập trung hoặc bị sa thảy. Có được nghe anh
Lê Phú Lư, phải bồng con bỏ xứ, vào Nam. Từ ấy không còn
tin tức về anh ấy. Năm chìm bảy nổi, vận nước linh đinh, người
thầy giáo phải theo cái bềnh bồng, rủi may của vận nước.
Nghĩ lại ghi về
họ, những con người tiên phong đáng mến và đáng kính
ấy thì cũng là một việc đương nhiên phải làm.
Là một thiếu sót khác,
nếu ở đây tôi thiếu lời cám ơn của tôi đối với
quí vị, đồng nghiệp, đồng sự, những sinh viên học sinh của
các trường mà tôi có dịp may đứng lớp, nói riêng
ở Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Huế là mối
tình đầu, nhưng Sàigòn vẫn là buổi thiếu thời và
khoảng đời còn lại.
Khởi sự bằng cái muốn được nhàn, được dễ
dãi. Rồi duyên đưa tôi vào nghề dạy. Rồi phải
học làm thầy, làm giáo dục. Góp nhặt kiến thức, kinh nghiệm,
xưa, nay, ở mọi nơi chốn. Góp nhặt liên tục và suốt
đời, để đến một lúc thấy rằng phải im lặng tất
cả cái ấy, "xả bỏ" chúng đi, để sống tối đa
các ân sủng Trời ban. Cuộc sống tự nó đã là một
ân sủng. Hình như ai ai cũng vậy, đi vào nếp, vào những
thang giá trị, những nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp, kỹ
xảo,..., rồi vỡ lẽ là phải im lặng tất cả những
thứ ấy, im lặng mọi sở đắc, buông bỏ những bức tường
thành an toàn của cái TÔI, để đón lấy một cái gì
bấp bênh, mong manh, bất ổn, bất an, chưa biết. Đó là cái
giá phải trả để trưởng thành, để sống thực, sống
đầy. Và riêng ông giáo, để là một ông giáo biết
việc, biết trọn vẹn với ân sủng được cuộc
sống học và dạy của mình.
Giờ đây, sau non
thập niên "rữa tay bỏ phấn", quí ngài khoa trưởng
và bạn bè tôi dạy phải làm một bản tường trình
cuối cùng cho sinh viên, đồng nghiệp, phụ huynh. Trên đây là
những gì cuối đời nhìn lại, mong được chia sớt, góp
ý, học hỏi.
Houston,
Tháng 4, 2000
Nguyễn Văn Trường