|
|
|
THƠ -TRUYỆN
NGUYỄN VĨNH LONG
Durham, North Carolina ______________________________________________________________________________________________________________
Điệu Bolero Tháng Tư
Buồn
1. "... Phố nhỏ đường mưa trơn lối về
Trăng sầu nhân thế đậu hoen mi
Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ
Nỗi niềm đầy lại vơi
Mỗi mùa tiễn đưa một người"
(Nỗi Buồn Gác Trọ - Mạnh Phát & Hoài Linh) Tiếng hát Cẩm
Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông
thả Mi 7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm
vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên
ngoài có tiếng gió đêm Sài-gòn vội về, bất chợt.
Vốn không "mặn" với bolero, nhưng mấy hôm nay tự dưng bọn
tôi lại vô tình chọn những bài hát loại này. Vậy mà
"thấm", mà "cảm" vô cùng. Từ trưa ngày 11 tháng
4, 1975 thì căn gác trọ của tôi trở thành điểm tụ họp
và thông tin của cả nhóm. Duy dọn về ở hẳn với tôi. Giảng
đường trở thành tin hành lang hơn là lớp học. Một số
giáo sư vắng mặt, có tin đã cùng gia đình di tản ra nước
ngoài. Sáng cả bọn vào trường, tụ tập, nghe ngóng "ai
còn, ai mất" rồi kéo nhau quán cà phê dì Năm bàn bạc
tình hình "chiến sự". Ngồi chán thì kéo nhau về căn
gác trọ tôi, vừa nấu ăn vừa nghe tin đài VOA, BBC và đàn
hát vu vơ. Tất cả năm người chúng tôi đang ngồi bẹp
dưới sàn nhà, Cẩm Vân, Ngọc Tuyền (khoa hóa sinh, bạn Vân),
Duy, Từ Dung và tôi. Đã hơn
bảy giờ, trời tối mưa lưa thưa hạt, vẫn chưa thấy bóng
dáng của Trầm Hương. Trong ban chấp hành sinh viên trường, trưởng
ban ngoại vụ, Trầm Hương họp và đi công tác liên tục.
Tuần trước, cùng ban đại diện liên trường: văn khoa, khoa học,
dược và sư phạm, đã quyên góp và chuyên chở thực
phẩm, thuốc men cứu trợ đồng bào di tản từ cao nguyên và
miền trung đang được tạm trú tại Long Thành. "Chừng như
có chuyện "lấn cấn" giữa tổng hội sinh viên Sài-gòn
và ban chấp hành các trường", Trầm Hương cho biết. Dáng
dong dỏng cao, khuôn mặt thon rạng ngời, với nụ cười có thể
"thắp sáng" cả gian phòng khi Trầm Hương hiện diện. Nhờ
sắc dáng đó, nàng rất dễ thành công trong việc vận động
quyên góp, kết hợp công tác liên trường. Tôi ngỏ ý
tình nguyện đi theo, nhưng Trầm Hương ngắt ngay: "Mình em đi
thôi. Anh ở nhà nghe ngóng tình hình gia đình. Để nếu
có chuyện gì, mất hết liên lạc thì không được. Nghe
em đi!". Tôi đành ở lại. Mà quả thật như vậy, ngày
sau cô Út tôi lên mang tin tức và quyết định của gia đình
từ Vĩnh Long. "Ở lại, không di tản. Nội dặn, dù xảy ra bất
cứ chuyện gì, con cứ ở Sài-gòn chờ tin, nhất định không
được về Vĩnh Long!", cô Út dặn đi dặn lại tôi nhiều
lần. Sau khi trả tiền trọ hết năm, đưa tôi một sợi dây
chuyền và một số tiền phòng khi "ly tán", cô Út vội
trở về Vĩnh Long ngay... Ngoài phần
tin tức chẳng đâu vào đâu của đài phát thanh Sài-gòn:
tháo lui trật tự, bảo toàn lực lượng, là bài họp ca thật
hùng tráng: "Trên đầu
súng ta đi, tổ quốc đã vươn mình Trên lưỡi lê căm thù, hờn căm như triều
sóng Ôi xôn xao... chiêng trống
hối thúc Đã giục giã
khắp chốn rộn ràng Ôi
lửa thiêng dậy bập bùng Tay
đốt lửa, tay vung kiếm Trên
đầu súng xâm lăng, xiềng xích với bạo tàn Trên lưỡi lê nô lệ, cùm gông phải
gục ngã Tay nâng niu cây súng,
súng thép..." (Trên Đầu Súng - Anh Việt Thu (*) Chợt có
tiếng xe dừng lại dưới đường. Vặn nhỏ radio, tôi đi nhanh
về phía cửa sổ và nhìn xuống. Phía sau chiếc xe Honda là
Trầm Hương áo thun nâu quần xanh đậm. Hình như người
chở là Toàn. Trầm Hương xuống xe, chào Toàn và bước
vội vã lên gác. Nàng nắm tay Từ Dung, Ngọc Tuyền đứng
trước cửa rồi chạy vào ôm chầm lấy tôi không "nể
nang" ai. Mọi người đã quá quen với tính tình sôi nổi,
tự nhiên của Trầm Hương nên không ngạc nhiên. -Mọi người cùng ăn cơm nghen. Trễ quá
rồi... Duy trong bếp nói vọng ra. Trầm
Hương vừa ngồi bẹp xuống vừa cười nói: -Đói muốn xỉu luôn. Hồi nãy mấy anh bên
khoa dược mời kéo em ở lại cùng ăn, nhưng em từ chối, nhờ
anh Toàn chở về. Thôi vừa ăn em vừa kể cho nghe. Tình hình lộn
xộn, nguy hiểm lắm. . Tôm khô
canh cải ngọt và thịt kho hột vịt, đói nên tất cả ăn
ngon vô cùng. Trầm Hương cho biết đã vận động được
công ty dược phẩm La Thành rất nhiều loại thuốc thông dụng,
trụ sinh và nhất là thuốc cầm máu đang quý hiếm. Thực
phẩm gồm gạo, mì gói, các loại đồ khô và cả rau
cải, thực phẩm tươi đóng thùng. Tất cả sẵn sàng cho
chuyến cứu trợ đồng bào di tản ở khu tạm trú Long Thành
trong ngày tới. Khi đoàn về tới trường đại học khoa học
thì đã thấy lực lượng cảnh sát dã chiến tăng cường
trong khu vực chung quanh trường. Vài thành viên trong ban chấp hành sinh
viên liên trường đã bị bắt vì tình nghi là việt
cộng nằm vùng. Nói tới đây Trầm Hương nhìn tôi ra
vẻ "quan trọng": -Không hiểu
sao có vài người lạ mặt cứ bám theo em mấy hôm nay. Cả
anh Toàn cũng nhận thấy như vậy. -Mật
vụ thì không sao. Nhưng nếu "bên kia", Hương phải thật
cẩn thận đó! Duy nói giọng
hoài nghi. Tôi nắm tay Trầm Hương: -Hay
là từ hôm nay, anh sẽ đi theo em cho an toàn. -Anh hả? Có anh theo, em càng thêm lo thôi, chứ an toàn gì!
Một mình, có chuyện em dễ xoay sở hơn, thiệt mà! -Nhỏ Hương nói đúng, có anh cũng chẳng
giúp được gì. Hơn nữa, lúc nào bên cạnh nhỏ Hương
cũng có anh Toàn và mấy anh trong ban chấp hành. Toàn là anh em chú bác ruột của Trầm Hương
bên khoa dược. Có lẽ như vậy cũng đúng, tôi đành
nói xuôi: -Vậy anh làm gì để
giúp em? -Yêu em và nhớ em là
đủ rồi! Trầm Hương nói, giọng thật nhỏ. Rồi mọi người
chợt yên lặng. Tin tức từ đài VOA lập lại việc chuyển giao
chính quyền và nội các mới của cựu tổng thống NVT và
TVH. Tất cả diễn biến lịch sử xảy ra quá nhanh, đột ngột.
Số phận mỗi con người bé nhỏ chúng tôi chừng như chỉ
chờ đợi. Chờ đợi một cơn bão nổi, chờ đợi vận
mệnh đất nước cuốn theo dòng chảy của lịch sử không
ngừng. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai muốn nói ra, nghĩ tới nhưng cũng
không thể chối từ những đau thương, mất mát đang diễn
ra từng phút từng giờ chung quanh. Đài BBC loan tin hàng loạt tướng
lãnh cao cấp, các bộ trưởng, nội các chính phủ di tản,
đào thoát khỏi Việt Nam sau cựu tổng thống NVT và phó tổng
thống NCK. Niềm tin đang cạn kiệt, và hy vọng chỉ là một
lá bài đã "lật ngửa" trên chiếu bạc. -Yên lặng kiểu này chắc chết ngột. Từ
Dung hát bài gì đi, anh đàn cho. Duy phá bầu không khí ngột ngạt và ôm cây guitar nói
với Từ Dung. -Dung hát đi Dung... Dung
hát bài gì hôm trước Dung hát ở sân trường đó...
Nhớ rồi, bài Tạ Từ Trong Đêm của Trần Thiện Thanh.
Trầm Hương nằm gối đầu trên chân
tôi, hối thúc bạn mình. Từ Dung gật đầu, ra dấu cho Duy và
cất tiếng hát: "... Anh hỏi
một câu khi trong đêm dài vọng về tiếng súng Sao em cúi mặt không nhìn đôi mắt hứa
thương em trọn đời Đầu
đường chia phôi anh không nói gì Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi Nếu anh có về khi tan chinh chiến Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em..."
Tiếng hát Từ Dung rung nhẹ, hun hút trong đêm chìm khuất.
Xa xa, văng vẳng tiếng đại bác và hàng loạt tiếng súng
vọng về, vây quanh thành phố. Điệu bolero thiết tha như đưa
tiễn đêm tháng Tư buồn lặng lẽ chìm sâu...
2. Hơn bốn mươi năm sau, vào Youtube bạn
chỉ cần đánh dòng chữ: "chương trình ca nhạc bolero"
và "nhắp" chuột nút "tìm kiếm". Hàng loạt chương
trình ca nhạc, chương trình thi ca nhạc bolero sẽ hiện lên kênh
Youtube. Từ khởi nguồn của đài truyền hình Vĩnh Long (Solo Cùng
Bolero, 2014) đến nay thì cùng khắp, Hậu Giang, Cần Thơ, thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội..v..v.. Khắp mọi miền, mọi tụ điểm
ca nhạc và đếm không hết các chương trình ca nhạc bolero
tự phát trên Youtube và các trang "mạng"... Các ca nhạc sĩ
hải ngoại về nước và được mời làm giám khảo
cho nhiều cuộc thi truyền hình ca nhạc bolero: Phương Dung, Giao Linh, Họa
Mi, Phi Nhung, Mỹ Huyền, Elvis Phương, Đức Huy,... Nhưng điều gì
đã làm cho âm nhạc một thời "ủy mị", "đồi
trụy", "phản động"... sống lại mạnh mẽ, rầm rộ từ
nam chí bắc? Từ "phản động" trở thành "trữ tình"?
Từ "đồi trụy" trỡ thành "nhân bản", bất chợt?
Hay trong hoàn cảnh xã hội hiện nay phải cần đến sự "ủy
mị", "đồi trụy" để bớt đi phần nào tính
"bạo lực" và "vô cảm"? Phải chăng sau hơn 40 năm
xây dựng và phát triển, nhà nước CSVN mới nhận ra cái
"nghèo nàn", cứng ngắt, vô hồn của văn học nghệ thuật,
nhất là lãnh vực âm nhạc. Tính trữ tình, đại chúng
và nhân bản gần như là những "yếu tố" cội nguồn
của âm nhạc Viêt Nam, đã vắng mặt trong hơn 40 năm qua? Hay chính
những "bản án" ủy mị, ru ngủ của dòng nhạc bolero được
nhà nước cho áp dụng lại trong tinh hình xã hội ngập ngụa
bất công, đàn áp, tham nhũng và "cái ác" đang lên
ngôi, ngự trị trong sinh hoạt hàng ngày? Cán cân giàu nghèo
giữa tầng lớp giai cấp "áp bức" bên trên và quần chúng
"bị trị" bên dưới, như một con dốc thẳng đứng. "Ở
đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh", dòng nhạc
bolero phải chăng sẽ góp phần hiệu quả trong công tác văn hóa
"tiếng hát át khó khăn", "tiếng hát át đấu tranh"
cho công bằng, cho sự thật của thế hệ trẻ hôm nay và ngày
mai? Nếu không có sự "đồng ý", "khếnh mại" của
nhà nước XHCN "cấp trên", thì liệu dòng nhạc "bolero"
có tự nhiên phục hồi do nhu cầu âm nhạc của quần chúng?
Sợi chỉ hồng của chuyên chính vô sản có thật "tình
cờ" xuyên suốt cả gia tài âm nhạc một thời bị lên
án "phản động" ngày xưa? "... Đời còn
nhiều bâng khuâng Có ai vì
thương góp nhặt tâm tình này Gửi giúp đến cố nhân mua nụ cười Và xin ghi kỷ niệm một đêm thôi"
(Nửa Đêm Ngoài Phố - Trúc Phương) Tiếng hát ngọt
ngào, nức nỡ của "sầu nữ" Thúy Huyền trong một chương
trình bolero đưa tôi về "kỷ niệm một đêm thôi" của
hơn 40 năm về trước. Lê Thị Từ Dung đã vĩnh viễn nằm
ở một nơi nào đó của biển Đông trong một chuyến vượt
biển. Đỗ Thị Ngọc Tuyền đã biệt tích trên một chuyến
đi đường bộ xuyên qua đất nước Cambodia. Cả hai, Từ Dung
và Ngọc Tuyền, đều ở lứa tuổi hai mươi bốn. Cặp
Cẩm Vân và Duy cũng không thành. Cẩm Vân lấy chồng, đồng
nghiệp, sau đó nghỉ dạy và hiện làm chủ hai nhà hàng
nổi tiếng ở Sài-gòn. Duy vẫn độc thân, họa sĩ vẻ phông
sân khấu, trình bày bìa sách, lịch và hiện nay có phòng
tranh ở quận 5 thành phố Sài-gòn. Trầm Hương, người con
gái dấu yêu một thuở, và chồng là Huỳnh Nam Giao sinh sống
ở Củ Chi. Hương nay đã về hưu đang cùng gia đình chăm
sóc cửa tiệm bán sinh tố, trái cây tươi. Giao sau một lần
lâm bệnh nặng, cũng đã về hưu hẳn và trông coi khu vườn
trồng cây ăn trái ở Củ Chi cho cửa tiệm. Công việc làm
ăn khá giả, cuộc sống ổn định. Chúng tôi đã bước
qua tuổi "tri thiên mệnh", tóc ngả màu bạc trắng đời
thường. Mọi nỗi vui buồn có chừng mực hơn. Trong câu chuyện
trùng phùng đã mang nhiều dấu tích của trải nghiệm, của
an phận trong mỗi nụ cười. Người ở lại, kẻ ra đi cũng
chỉ là những may rủi kiếp người? Phải chăng đời này
chúng ta chẳng "nợ nần" gì nhau, hãy để mọi niềm tin
yêu xuôi theo dòng số phận? Hãy để riêng nhau một góc
đời và cầu mong hạnh phúc cho người. Mỗi số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với
những biến động của hoàn cảnh và lớn rộng hơn, của
lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta lại lặng yên
nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía
nào, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm
nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không
có mẫu số chung cho định mệnh. Ý niệm "suy bụng ta ra bụng
người", như mấy anh mù sờ voi! Hãy mở rộng mọi ý thức
và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái
tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có
thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa
trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ
sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Trái
tim đang đập theo từng nhịp của hôm nay, sao dòng máu tôi cứ
vẫn luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ?
Những ngày tháng Tư sao vẫn buồn và khoắc khoải trôi qua:
"... Phương trời mình đi
xa thêm xa Nghe vạn mùa thu sau lưng
ta Em ơi, em ơi! Thu thiết tha
Ơi người vì ta qua phong ba Có còn gì sâu trong tâm tư
Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa"
(Tinh Lỡ - Thanh Bình)
Durham, North Carolina Những ngày tháng Tư đầy nỗi nhớ, Nguyễn Vĩnh Long (*) Nghe bài họp ca: Trên Đầu
Súng - Anh Việt Thu https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE _______________________________________________________________________________
Linh Hồn Gió
1.
Ngôi chùa nằm sâu trong
con đường nhỏ, ngoại ô thành phố Raleigh, bang North Carolina. Chùa
mang tên Vạn Hạnh, cách nhà tôi khoảng 1 giờ lái xe. Thiền
sư Vạn Hạnh, người đã phò Lý Công Uẩn lên ngôi
hoàng đế (Lý Thái Tổ), tạo dựng triều đại nhà Lý
kéo dài cả 216 năm và đã để lại bài kệ nổi
tiếng Thị Đệ Tử:
"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô "Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy "Thịnh suy như lộ thảo đầu phô Ngô Tất Tố dịch thơ: "Thân như bóng chớp,
có rồi không "Cây cối xuân
tươi, thu não nùng "Mặc cuộc
thịnh suy đừng sợ hãi "Kia
kìa ngọn cỏ giọt sương đông Hàng năm bà xã và
tôi thường đi chùa chỉ đôi ba lần, đêm Giao thừa, lễ
Phật Đản và Vu-lan. Phần ở xa, phần bà xã dựng một bàn
thờ Phật ở góc, ngay trong phòng khách, nên thường lễ tại
nhà. Lần này thì ngoại lệ, bà xã muốn đến chùa
thỉnh một cái phong linh để treo phía sau nhà. Thứ bảy, cuối
tuần bãi xe không còn chỗ, tôi phải đậu xe dọc ven đường
phía ngoài chùa. Khuôn viên chính điện thật đông người,
mùi hương khói ngào ngạt từ xa. Những người quen cười,
vẫy chào nhau, tay bắt mặt mừng. Nhìn khung cảnh chùa, tôi chợt
nhớ đến bài thơ "Nhớ Chùa" của thi sĩ, hòa thượng
Thích Mãn Giác: "... Biết đến
bao giờ trở lại quê "Phân vân
lòng gửi nhớ nhung về "Tang thương
dẫu có bao nhiêu nữa "Cũng
nguyện cho chùa khỏi tái tê
"Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
"Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung "Mái chùa che chở hồn dân tộc
"Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Ngày
xưa tôi hay theo bà nội đi chùa, gần như một hai lần trong tháng.
Ngôi chùa ở đầu làng, nằm ẩn trong khoảng sân đầy
cây kiểng và tượng Phật rất đẹp. Tôi thích nhất là
tượng Phật Quan Âm với nét thanh thoát, diệu hiền và trang nhã
đứng giữa hồ sen nhỏ. Tuy chưa hiểu những lời kinh kệ, nhưng
tôi thích nghe tiếng tụng niệm vang dìu dặt theo tiếng mõ. Cho đến
bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu hết những lời kinh kệ, nhưng mùi
hương khói trầm tỏa quyện trong tiếng niệm vang theo tiếng mõ,
như đưa tâm hồn ta thoát khỏi mọi bận phiền tục lụy
vây quanh.
Chùa Vạn Hạnh - Raleigh, North Carolina
Sau khi cùng bà xã thắp hương trong
chính điện, tôi hay đi loanh quanh vãng cảnh chùa và gặp gỡ
vài người bạn đồng hương cùng thành phố. Nhìn nét
mặt trang nghiêm của bà xã ngồi niệm Phật trong chính điện,
tôi chợt chạnh lòng. Chừng như suốt cuộc đời, bà ấy
có nhiều niềm tin để... khổ. Niềm tin chồng, tin vào mọi niềm
ước vọng của chồng. Bà xã đã hy sinh một đời làm
vợ, cho mọi mơ ước của tôi được thành hiện thực.
Rồi niềm tin vào con, đem tất cả nghị lực, lòng hy sinh để
đưa các con vươn tới những tầm cao nhất mà chúng có
thể. Riêng mình, bà xã tin số phận, tin vào định mệnh
đã dành sẵn cho mình. Nhiều lần tôi nói với bà ấy,
bây giờ đến phiên em tuy muộn, nhưng em muốn làm gì, đi đâu
hay có điều gì muốn thực hiện, hãy làm ngay đi, anh và
các con sẽ ủng hộ hết mình. "Làm gì nữa bây giờ.
Tất cả đã trở thành nếp, thành thói quen. Em sẽ không
biết phải làm gì, đi đâu nếu không có anh và con",
bà xã thường nói như vậy. Một lần tôi "đẩy"
bà ấy đi Seattle thăm người bạn gái thân thiết thời "áo
trắng", hai tuần lễ. Nhưng vừa đúng một tuần là bà
xã đã đáp chuyến bay về sớm, dù phải tốn thêm tiền
thay đổi chuyến bay! "Tâm sự, đi chơi, ăn uống một tuần
là hết chuyện. Mỗi người đã một cảnh, một góc đời,
một cuộc sống. Chỉ còn lại với nhau là ký ức, là kỷ
niệm", bà xã bùi ngùi... Trời bắt đầu có nắng, hoa cảnh chung quanh chùa rộ nở,
hoa hồng leo, hoa mười giờ, hoa hiên, hoa cúc Thái, hoa ngọc hân..
. sắc màu thắm tươi, rực rỡ. Đi quanh đã thấy nhiều
khuôn mặt lạ, nhiều gia đình thế hệ trung niên đang dần dà
thay đổi đám đông của cộng đồng người Việt ở
đây. Hỏi ra, biết được các anh, các bác phần lớn thời
gian đến chùa đều ở phía "hậu liêu", phòng ăn
dưới căn bếp. Đã lui vào hậu trường, cả một thế
hệ "tiền phong", gầy dựng ngôi chùa thuở chỉ là một
mảnh đất trống. Nay thật khang trang, xứng đáng để lại thế
hệ mai sau như một thành quả văn hóa tinh thần như hai câu thơ
của hòa thượng Thích Mãn Giác: "Mái chùa che chở hồn
dân tộc / Nếp sống muôn đời của tổ tông". 2.
Chừng
như gió và tôi là cả một duyên nợ. Từ thuở nhỏ,
tôi đã yêu những cơn gió đổi mùa mỗi năm. Bên
dòng sông nhà nội, mùa gió đổi mang theo thật nhiều ký
ức. Mùa gió đổi của mùa nước nổi. Nước ngập
tràn vào sân nhà trước, lúp xúp mí của căn nhà
dưới. Có thể ngồi câu cá ngay bên cạnh sàn nước hông
nhà. Mùa gió đổi của những ngày hè oi ả, nghỉ học
theo đám bạn trong làng đi cắm câu, tát đìa. Mùa của
ngày nước cạn, có thể đi qua bên kia sông mà không cần
phải biết bơi. Mùa của cây trái vườn sau, từng liếp chôm-chôm
sặc sỡ màu, quằng cành ăn trừ bửa. Rồi mùa gió đổi
cuối năm, đồng ngập lúa vàng, mùi thơm của nồi cơm
gạo mới. Gió đã theo tôi, thì thầm suốt quãng thời thơ
ấu... Những buổi chiều ngồi lặng
lẽ, cặm cụi chấm bài trong lớp học trống trải, chỉ có
lũ ghế bàn và gió vọng phía sân ngoài. Gió hắt hiu
của vùng biển bùn, nặc nồng mùi muối mặn. Gió vẫn thì
thầm với tôi, và nay tôi đã là bạn gió. Có những
điều tôi không biết nói với ai hay không thể nói, đành
tỉ tê cùng những cơn gió mùa trở ngọn. Có khi gió thổi
từ cuối dãy sân trường. Có khi gió bắt đầu từ ngoài
cổng, thổi dạt dào vào những khe cửa những buổi học rộn
ràng. Trò áo mới mừng đầu năm học; thầy tâm hồn mới
cho một đợt "khách qua sông"! Gió đón người và
gió tiễn đưa ai? "Gió... gió
về là về miền xuôi "Anh đưa
em nước lớn nước ròng "Để
em qua sông qua suối thăm chồng "Gió
về miền xuôi qua bốn vịnh năm vời "Đò vẫn đưa đưa ngược xuôi "Em ơi, em ơi! "Đường
về quê ta mấy bước, đường về quê xa mấy ngõ
"Mà sao người nỡ bỏ quên đường...
(Gió Về Miền Xuôi - Anh Việt Thu) Bên ngoài, bây giờ
trời cũng đang trở gió. Tiếng chuông ngân nhịp ngắn nối vài
ba nhịp dài, âm thanh khoắc khoải, thiết tha. Chừng như gió mượn
chiếc phong linh để nói lên tiếng lòng của mình trong vô lượng
đất trời, bát ngát. Chừng như vạn vật đều có một
linh hồn, một cuộc sống trong một cõi riêng của nó. Cuộc sống
thay đổi, vạn vật cũng không ngừng đổi thay. Gió phía đông
có nhịp thở không như gió phía tây? Tiếng gió của những
buổi chiều trên bến sông quê nội có còn không, khi những
dãy nhà mới xây chạy dài theo bãi nước? Có còn không,
tiếng linh hồn gió thì thầm đêm chia tay Rạch Giá, không thấy
rõ mặt người? Thuyền mang chúng tôi ra khơi, chạy dọc theo cơn
gió mùa định mệnh. Gió đùa với biển, biển đùa
với bao nhiêu thân phận con người! Gió mãi theo tôi, mang theo bao
nhiêu thao thức của bến sông chiều ngày tiễn biệt. Có gió
len lõi dọc theo con nước, dãy nhà ven sông cúi bờ kinh hay chợt
loay xoay giữa ngã ba sông về phía một bến bờ? Có bao nhiêu
hình bóng chợt thoáng qua, một đời người bắt gặp. Như
thật, như không. Những linh hồn gió ngày đó đã phương
nào? Vẫn tất bật giữa đời rong ruổi hay đã biền biệt
dấu này một đời người thương tưởng, cưu mang? Cho dù
thế nào, gió có hôm trở về như linh hồn của câu chuyện
kể hôm qua. Tiếng leng-keng ngắn dài
chợt rộn rã hơn, linh hồn của gió như trở về bên tôi
"những ngày xưa thân ái"! Có bước chân ai đang trở
về từ chập chùng dĩ vãng, mang âm vang tiếng cười nói
vọng cố nhân... Bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu nụ cười và
cả bao nhiêu đôi mắt ướt long lanh dòng lệ đã qua đời
nhau? Những người con gái ta yêu và những người con gái yêu
ta, tất cả như đang chợt hiện về trong tiếng ngân vang linh hồn
của gió? Cảm ơn người, cảm ơn đời và cảm ơn em
đã cho tôi những ngày tháng một đời không tiếc:
"... Ôm lòng đêm, "nhìn vầng trăng mới về "Nhớ chân giang hồ "Ôi
phù du, từng tuổi xuân đã già "Một ngày kia đến bờ "Đời
người như gió qua... (Phôi
Pha - Trịnh Công Sơn) Đêm chợt tĩnh lặng, sau vài cơn gió
mùa trở nhẹ. Những tiếng ngân của chiếc phong linh treo sau nhà cũng
tắt lịm, thoáng qua. Tôi nằm thẳng, cố giữ hai vành tai không
vật cản, chờ đợi tiếng linh hồn gió sẽ đến bên ngoài.
Dù là một thoáng nhẹ, bạn có nghe, tiếng linh hồn gió của
hôm qua. Huyễn hoặc, vô cùng. Có những tiếng lung linh của linh hồn
gió hôm nay? Không thể. Gió hôm nay không thể có linh hồn
nếu không phải là gió của hôm qua. Có lẽ ở một thang
tuổi nào đó, chúng ta sẽ dễ ý thức hơn cái nhỏ
bé của kiếp người, cái mong manh của hiện tại. Hãy nghiêng
tai, lắng nghe lượng từ tâm đất trờ; những linh hồn gió của
bao tháng ngày trôi xuôi một dòng thoáng chợt: "... Những người
muôn năm cũ "Hồn ở đâu
bây giờ ? (Ông Đồ - Vũ Đình Liên) Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long ____________________________________________________________________
. Hương Đêm
1.
Sống chung được hơn một
năm thì tôi và Tầm quyết định chia tay. Cũng không có gì
hệ trọng hay bi đát đến nổi thù địch. Cả tôi và
nàng đều ở tuổi quá ba mươi, đã trưởng thành
và ít nhiều dạn dày trong tình trường không ràng buộc
của trách nhiệm. Tự nguyện và tự do cho mọi lựa chọn của
bản thân. Không đổ lỗi cho ai, không oán hờn số phận. Yêu
nhau như đang yêu và cho nhau tất cả những xúc cảm, hạnh phúc
trong từng giây phút hiện hữu. Ngày mai, như rồi sẽ đến
với nhiều hoàn cảnh của chính nó, chứ không phải là
những ước hẹn trói buộc đời nhau... Tầm giữ lại căn
nhà đang ở, tôi thì dọn ra ngoài. Đơn giản, nhẹ hững
và buồn tênh.
Khu chung cư cũ kỷ nằm trên lưng
chừng trên ngọn đồi trọc. Năm nay mùa thu đến thật chậm.
Đã giữa tháng mười mà mấy rừng cây thưa vẫn còn
xanh lá thấp. Nhiều vùng trong tiểu bang lũ lụt, nước chưa kịp
rút từ những cơn mưa của mùa bão bất thường phía
biển đông. Khu chung cư chia từng cụm, mỗi cụm ba căn. Phòng tôi
ở căn bìa tầng trên, nên được thêm cánh cửa sổ
rộng bên hông. Mỗi buổi sáng từ đó, tôi có thể nhìn
thấy sinh hoạt của một góc phố. Tôi bỏ lại hết đồ
đạc cho Tầm. Thật ra phần lớn là do cả tôi và Tầm mua sắm
chung. Nằm trên miếng nệm trơ trọi trên thảm, tôi chợt nghe lòng
tha thiết một tay ôm. Nhớ Tầm bao nhiêu, tôi càng thấy thương
thân phận mình bấy nhiêu. Không hiểu sao, tôi không tìm được
một lý do nào đó để tự ái nổi lên, để quên
Tầm dễ dàng hơn. Người đàn bà biết mình đẹp
là người đàn bà để trái tim trên khung mắt và lý
trí nằm trong ngực. Họ thở bằng niềm kiêu hảnh và bước
đi bằng sự lãng quên. Là Tầm. Qua Tầm, tôi thấu hiểu tình
yêu không chỉ đơn thuần là những rung cảm của trái tim và
xác thịt. Tình yêu còn là chiếc áo khoác sắc màu lộng lẫy, cho những đòi
hỏi của thói quen xã hội chung quanh. Có lẽ, thế hệ của tôi
cuộc sống vận chuyển bằng những ký hiệu của ngôn ngữ hơn
là ý nghĩa bao hàm của nó chăng? Tôi không có câu
trả lời. Dễ hiểu, vì tôi đang dự phần, đang là nạn
nhân.
Tôi biết mình cũng giống như bao nhiêu người đàn ông
khác, tham lam và ích kỷ trong tình yêu. Trọn vẹn và tất
cả, từ đầu ngọn tóc đến ngón chân, phải là của
tôi, phải thuộc về tôi... Tầm là một ngoại lệ, trong nhiều
ý nghiã khác nhau. Khốn nổi, tôi chỉ làm chủ và thấy
Tầm tuyệt đẹp từ lỗ rún trở xuống. Điều nầy không
phải để tôi coi thường và lãng quên nàng, mà ngược
lại. Giá trị của sự thật bao giờ cũng tồn tại lâu dài
hơn những điều giả dối, đãi bôi. Tôi yêu thương và không quên được
Tầm, ít nhất nàng vẫn còn phân nửa của đời sống
thật. Con người của thế kỷ mới, chắc gì sự thật đã
có trong giấc mơ?
Tầm có quá nhiều khuôn mặt cho đời sống, quá nhiều nhịp
đập tham vọng trong một trái tim. Tôi chỉ là một dự phần
quá nhỏ. Những giây phút ngắn ngũi của ngất ngây khoái
cảm, chính là những giây phút chúng tôi sống hoàn toàn
chân thật cho nhau. Nàng thật sự tước bỏ tất cả những khuôn
mặt và trái tim ngừng đập những nhịp giả dối hằng ngày.
Giây phút đó, những tiếng kêu nguyên thủy không lừa dối
mới thật sự thuộc về nàng. Để rồi không quá hai mươi
phút sau, Tầm lại trổi dậy, mở cái laptop và di chuyển "con
chuột". ' Click..! click..! ' những tiếng khô khan, dẫn Tầm vào thế
giới con số "ma-quái " của thị trường chứng khoán. Như
một nổi đam mê cùng cực. Như một loại "cocain" thấm sâu
vào huyết quản nàng. Tầm quên tôi ngay, nói gì những giây
phút ngắn ngũi đó, so với những con số thị trường "stock".
Con số ngự trị đời sống xã hội đã đành, ngày
nay, con số ngự trị cả tình yêu và thể xác. Tôi lên tiếng
phàn nàn, Tầm giả đò câm điếc. Để rồi mỗi tháng
nàng nhìn những con số báo cáo của ngân hàng, vui cười
ngất ngưỡng và tận thưởng đêm đó với tôi, những
giây phút dục tình ngút tận... Nhưng mặt đời sống rộng
hơn mặt đêm, nên tôi và Tầm không có cùng nhiều ước
vọng. Vậy mà tôi vẫn thương nhớ Tầm, phân nửa thân
người và phân nửa phần đời tiếc nuối. Vài tuần lễ
sau, có người gặp Tầm đi chung với một thương gia lớn tuổi
người Hồng-kông. Tôi mong Tầm sẽ tìm được những con
số thích hợp cho lòng mình.
- Hi, chào ông. Chắc ông vừa mới dọn vào. Tôi tên là
Kate, người láng giềng của ông đây. - Chào cô
Kate. Tôi tên Hiếu. Rất vui mừng được biết cô là người
láng giềng của tôi...
- Cám ơn ông Hiếu. Tôi cũng hân hạnh được quen ông. Có
điều tôi phải nhắc chừng trước, để ông khỏi phiền
về sau nầy. Tôi có chú mèo đen giống Trung-đông, tên Titan,
nếu có lạc qua phòng xin ông đừng khó chịu với nó. Tính
nó hay lén lút, lang thang sang nhà hàng xóm. - Cô đừng
lo. Nếu Titan của cô ăn được cơm Việt Nam thì lúc nào
tôi cũng đón chào nó mà.
Tôi vừa nói vừa cười xã giao. Kate thì cười ngất, cảnh
cáo:
- Để rồi ông coi..! Gặp lại ông. - Chúc cô vui vẻ.
Nỗi buồn và thất vọng chợt vơi đi, khi tôi khám phá ra
người láng giềng sát vách là một cô gái da trắng thật
trẻ và vui tính. Ít ra tôi sẽ có những ngày vui chờ đón
trước mắt. Những háo hức để chạm mặt người con gái
có đôi mắt xanh lơ và hàm răng cười tươi, đều
như những hạt bắp trắng. Lần gặp đầu tiên mà tôi cứ
nhớ mãi đôi má đỏ hồng và đầy lông măng của
Kate. Chừng như cô gái ở nhà cả ngày hoặc có đi làm,
cũng chỉ part-time. Thỉnh thoảng tôi mới thấy Kate rời khỏi nhà
vào những buổi chiều cuối tuần. Vài lần tôi làm bộ tình
cờ ra hiên vẫy chào. Nàng liếc nhìn, rồi quay vội đi, như
chưa hề biết mặt, chuyện trò. Con gái Mỹ trắng, máu lạnh
như tình, tình vội như mưa. Mà chẳng hề gì tôi, người
mướn phòng mới tới. Kate làm cho một bar rượu "playboy" rất
nổi tiếng trong thành phố. Con nhỏ ăn diện như người mẫu và
rất hãnh diện về nghề nghiệp của mình. Buổi chiều đi
làm về ghé chợ, tôi mua thêm vài hộp thức ăn cho mèo.
Đã mấy tuần rồi, tôi cứ mong con mèo Titan lạc qua phòng tôi
kiếm ăn. Chắc chắn cô gái rất mê cuốn phim tình cảm dài
nổi tiếng thế giới vừa chiếu khắp nơi, Titanic. Con người đang
chìm vào cơn đói khát của sự lãng mạng, Titanic đáp
ứng kịp thời nhu cầu thời đại nầy chăng ? Với tôi, ngoài
kỹ thuật vĩ đại
và tốn kém hằng trăm triệu mỹ-kim cho những thước phim cho cảnh
đắm tàu, chuyện tình đôi trai gái chẳng làm tôi xúc
động chút nào. Một thứ bi kịch trưởng giả và đầy
tính chất "cải lương"... Trên đời tôi sợ nhất là
thằn-lằn và ghét nhất là con mèo cái. Xúi tôi làm
gì cũng được, "lận" dao đánh lộn, ngủ bãi tha ma,
nhưng kêu bắt con thằn-lằn thì tôi đành chạy trước.
Không hiểu sao tôi ớn sợ cái làn da lạnh tanh và mềm
mại của nó đến như vậy. Còn mèo, tôi ghét cay ghét
đắng cái dáng điệu õng ẹo, làm bộ ngoan hiền đầy
móng vuốt của nó... Nhưng ghét gì thì ghét, tôi cũng
phải dụ cho được con mèo Titan sang nhà tôi ăn "vụng".
Kế hoạch sẵn sàng, tôi chỉ thêm chút kiên nhẫn đợi
chờ là đủ. Chiều hôm đó, tôi chẳng phải chờ
lâu, nàng xuất hiện thật dịu dàng, e lệ phía ngoài
cửa sổ phòng tôi. Nàng không đen hết như Kate miêu tả mà
nhiều đường viền trắng, vàng như loại mèo tam thể. Tôi
lẹ tay khui hộp gan gà, bỏ vào cái chén nhỏ và kéo khung
cửa sổ lên cao. Con mắt Titan cũng giống như chủ nó, xanh lơ. Chờ
nàng ăn xong, tôi sẽ bồng qua trả lại cho chủ để có dịp
rũ buổi hẹn hò.
Có tiếng gõ cửa. Chủ nhanh hơn tôi. Cánh cửa mở rộng trước
mặt tôi là hai mẹ con người Á-châu, đứa con gái chừng
bảy tám tuổi.
- Con Sue, mèo của con có lạc sang nhà chú không ? Người đàn bà
có mái tóc dài, khuôn mặt đẹp thật giản dị và
yếu đuối.
- Xin lỗi ông, tôi đã vô ý để hở cánh cửa sổ.
Ông là người Việt, tôi thấy họ ông mới dán ở hộp
thư.
- Dạ phải. Chị gọi tôi bằng tên được rồi. Tôi tên
Hiếu. Con mèo của cháu đang ăn trong nhà. Cháu tên gì ?
- Cháu tên Hà. Để cháu vào bồng nó về, sợ phiền
chú.
- Mời chị và cháu Hà vào nhà, làm quen hàng xóm mới.
Biết có gia đình chị người Việt, cũng mừng lắm. Dạ,
chị tên gì ?
- Tôi tên Liên. Gia đình tôi ở căn cuối. Tôi phải về
có việc, hôm nào rãnh, mời anh Hiếu sang chơi. Hai mẹ con ôm mèo
về, tôi đứng nhìn theo ngơ ngẩn. Khuôn mặt đẹp thanh tú,
bình dị nầy, chừng như tôi đã gặp đâu đây. Tôi
cố moi mọi ngõ ngách của trí nhớ. Quen vô cùng mà không
nhớ từ đâu? Một lúc sau, nhìn lại chồng băng nhạc
và sách báo trên bàn, tôi chợt nhớ ra khuôn mặt đẹp
của người đàn bà vừa gặp. Hình bìa băng nhạc của
một ca sĩ nổi tiếng, với giọng ca quyến rũ và nét đẹp
thật bình dị, thanh tú. Đúng rồi, Liên có mái tóc và
khuôn mặt thật giống người nữ ca sĩ mang tên của miền biển
xanh cát mịn. Người ca sĩ tôi tương tư, từ tiếng hát
lẫn dáng người... Tại sao mẹ con Liên lại sống trong khu chung cư
rẽ tiền, cũ kỷ và không mấy an toàn nầy. Tôi lan man, tự
hỏi.
Buổi chiều chợt tắt nắng thật nhanh. Tôi thấy lòng rộn rã
với bao nhiêu sự tình xảy ra thoáng chốc, bất ngờ. Tôi muốn
tìm một quán ăn, uống chút bia và ghé quán cà-phê
nhâm nhi sau đó. Đêm sẽ đẹp vô cùng và nhiều mộng
mị. 2.
Chị Hiền gọi điện thoại nhắc
tôi về mừng năm mới với gia đình. Mẹ lúc nầy không
được khỏe, đi đứng khó khăn và thường hay nói nhảm.
Tôi không hứa vì có thể phải trực ở sở làm, nếu
không, tôi hẹn sẽ có mặt ở nhà trong dịp chào mừng năm
mới. Chị hỏi thăm Tầm. Tôi nói, hai đứa không hạp nhau và
đã chia tay. Giọng chị buồn buồn, an ủi tôi vài câu rồi
hẹn gặp lại. Tôi biết mình đã làm thất vọng nhiều
ở chị Hiền và mẹ. Bao nhiêu niềm ước vọng lớn lao của
cả hai đều đặt vào tôi, đứa con trai duy nhất của gia đình.
Tôi cũng đỗ đạt, bằng cấp đàng hoàng và
có việc làm tương đối. Nhưng đời sống bản thân
và tình cảm không làm cho hai người phụ nữ thân yêu nhất
đời tôi an tâm. Đó là việc lấy vợ có con, làm chồng
làm cha, và để mẹ tôi có cháu như bao nhiêu người
thanh niên trưởng thành khác. Hơn ba mươi tuổi mà tôi vẫn
lông bông, chẳng chịu đeo gông mọc rễ. Chuyện không cưới
hỏi mà dọn vào sống chung, thì dù có nói, giải thích
thế nào mẹ tôi cũng không hiểu. Bà chỉ lắc đầu buồn
bã, thở dài rồi nhìn bâng quơ vào khoảng quá khứ vô
hình... Mười giờ rưỡi, tôi định nằm đọc một tạp chí
mua dài hạn vừa mới nhận, thì lại có tiếng gõ cửa hối
hả. Ngạc nhiên, ai lại tìm tôi giờ nầy. Bên ngoài là
con nhỏ Kate. Mặt mày hơ hải, nó ngượng ngùng nói nhanh:
- Xin lỗi Hiếu, phải làm phiền ông... Tôi... tôi có chuyện rất
cần ông giúp đỡ. Mong ông đừng nói lại với bất cứ
ai điều nầy, tôi cảm ơn ông nhiều lắm.
- Kate hãy vào trong nhà và cứ yên tâm, tôi không hở môi
đâu! Mà Kate cần tôi giúp đỡ điều gì?
Nàng
bước vào, khép cửa và nhìn tôi thật lâu. Tôi ngửi
thấy mùi rượu trong giọng nói của Kate: - Tôi đang
cần gấp số tiền... Cần lắm, tôi có thể chết được...
Nếu Hiếu có thể giúp cho tôi một trăm đô-la ngay bây giờ,
tôi sẽ... Tôi sẽ trả lại sau nầy hoặc Hiếu muốn giải quyết
tình dục với tôi cũng được. Bất ngờ, tôi ngây người
nhìn đứa con gái da trắng. Kate dễ nhìn và thân hình thật
hấp dẫn. Nhưng lúc nầy, tôi thấy ái ngại rất nhiều. Kate
đưa tay nhìn chiếc đồng hồ dạ quang rẻ tiền. - Còn
một giờ nữa là tôi phải đi với số tiền đó. Tôi
biết ông thích tôi lắm... Nhưng nếu ông không muốn, tôi
sẽ đi ngay và tìm người khác vậy... Không chút háo
hức, nhưng tôi chợt nghĩ đến bộ mặt của tên thương
gia già Hồng-kông hôn lên mắt môi của Tầm. - Tôi có
tiền, có đủ một trăm tiền mặt. Tôi trả lời thật
nhanh và đi vào trong. Kate theo tôi, không nói thêm gì. Vào phòng
ngủ chưa kịp tắt đèn, Kate đã bắt đầu cởi ngay quần
áo. Tôi còn loay xoay thì nó đã nằm sẵn trên giường.
Hai vú Kate vung tròn và căng cứng, mình mẩy đầy tàn nhang
và nhám lông con. Kate yêu cầu tôi sờ vú nhẹ tay, không
được bóp mạnh, vì nó mới "độn silicon" cách đây
mấy tuần. Tôi càng cụt hứng hơn khi miệng nó vẫn còn nồng
mùi rượu. Kate tìm mọi cách kích thích tôi cho nhanh, cho xong chuyện.
Rồi tất cả cũng tới nơi, cũng xong phần đổi chác. Trong đời
tôi, chưa bao giờ có lần làm tình nào cảm hứng nghèo
nàn và chán chường đến như vậy. Kate cầm tiền ra khỏi
phòng, tôi vẫn còn nằm nghĩ ngợi không đâu. Tại sao tôi
lại không từ chối ngay từ đầu, những chung chạ xác thịt
giả dối và ghê tởm nầy. Tôi chợt thở dài trong nỗi cô
đơn cùng tận... Không quen chăm
sóc người bệnh, tôi lúng túng nhìn chị Liên thiêm thiếp
trên giường. Mặt tái xanh, hằn nét chịu đựng và trán
chị rịn ướt mồ hôi. Bé Hà ngồi bên giường nước
mắt tuôn tràng, tập trung hết sức xoa tay mẹ, như đã quen, đã
lập lại nhiều lần. Tôi ngõ ý đưa chị đi bệnh viện,
nhưng chị đều lắc đầu. "Quen rồi. Chịu đựng chút
sẽ qua thôi", chị cố gắng thì thào. Cũng may chiều nay tôi
về sớm. Chưa kịp lên nhà thì bé Hà đã chận lại
và cho hay mẹ nó ngất xỉu dưới sàn nhà. Tôi đỡ chị Liên lên giường,
lấy thuốc cho chị uống theo lời hướng dẫn. Nửa giờ sau khuôn
mặt chị giảm đau dần và thiếp đi. Tôi ra dấu cho bé Hà
ra phòng ngoài, để yên cho chị ngủ lấy sức. Bây giờ tôi
mới ý thức được mùi dầu nóng bay nồng chung quanh. Trên
bàn cơm nước còn lỡ dỡ, tôi hỏi bé Hà. Con bé
lắc đầu không đói. Tôi cũng bồn chồn đầy bụng.
- Mẹ bé Hà bệnh gì và lâu chưa? - Bé Hà
không biết. Nhưng đôi khi mẹ ngất xỉu làm Hà sợ!
- Rồi ba của bé Hà đâu, chú không gặp? - Ba Hà
ở gần đây lắm. Nhưng ba có mẹ và em bé khác. Lâu
lâu ba mới ghé thăm con.
Giọng nó nhẹ và buồn. Tôi chợt thở dài, đầu óc
trống rỗng. Chính những điều nầy mà tôi không muốn có
trách nhiệm, trước khi bước vào sự ràng buộc của hôn
nhân. Nó không chỉ dừng lại cuộc sống của hai cá nhân,
mà là nỗi ám ảnh
đau đớn cho tuổi thơ. Đứa trẻ sẽ trở thành người
lớn, cưu mang bao nhiêu niềm oán hận trong lòng. Nó không có
tình thương thì lấy gì ban phát. Một đời nối hai, từ
hai nối tiếp biết bao nhiêu thế hệ buộc chặt ước mơ với
chính nỗi oán hận của mình. Xã hội ghẻ lạnh và tình
người mang nhiều dấu ấn của sự hận thù quá khứ. Đôi
mắt ngây thơ của bé Hà không có cái nhìn tinh khiết
của tuổi thơ. Tôi không muốn mình đóng góp vào thế
giới đầy văn minh vật chất và thiếu vắng tình yêu nầy.
Đã quá đủ, cần phải giảm bớt đi nhiều. Dưng không
tôi buồn bực và oán trách cuộc đời. Nhìn thấy hoàn
cảnh mẹ con chị Hà, hay khi nhìn khuôn mặt vật vã, chịu đựng
của chị Liên. Khuôn mặt của chị trong cơn đau thêm đẹp
não nùng... Tôi định đứng dậy trở về phòng, nhưng
lại thôi. Bé Hà đang ngồi yên tâm bên cạnh tôi coi chương
trình hoạt họa trên màn ảnh truyền hình. Thấy tôi không
hỏi gì thêm, nó cũng không màng kể lể. Trẻ con ở đây,
trong thế hệ nầy còn biết dè dặt hơn cả tôi. Chúng nó
khôn ngoan và lớn rất nhiều hơn trước tuổi. Buổi chiều tắt
nhanh, đêm vươn rộng cánh tay ngập tràn bóng tối.
Tôi giật mình tỉnh giấc. Không biết tôi đã thiếp đi
tự bao giờ. Bên tay tôi bé Hà cũng đang ngã đầu ngủ ngon. Tiếng động vọng
ra từ trong phòng chị Liên. Tôi nhẹ tay đỡ đầu bé Hà
xuống sofa, chưa kịp đứng dậy thì đã thấy chị Liên
bước ra khỏi phòng. Thấy tôi chị gượng cười nhẹ. Trông
chị tỉnh táo và có thần sắc. Tôi bồng bé Hà vào
trong giường, trở ra thấy chị đang lui cui bắt ấm nước.
- Phiền anh Hiếu nhiều quá. Đồ ăn còn nguyên, anh đã
ăn uống gì chưa ?
- Chị đừng lo. Chị Liên thấy thế nào, khỏe hẳn chưa chị
?
- Bệnh lâu rồi anh à. Thỉnh thoảng nó trở chứng, uống thuốc
và chịu đựng một chút thì cũng qua thôi... Anh Hiếu uống
chút trà hay cà-phê sữa cho ấm. - Chị cho tôi ly cà-phê
sữa, ít cà-phê nhiều sữa... Chỉ có hai mẹ con như vầy,
xảy ra chuyện gì thì nguy hiểm quá. - Quen rồi anh...
Chị
Liên bỏ lững câu nói, khuấy ly cà-phê cho tôi và tách
trà cho chị. Mùi trà quyện lên thơm nhè nhẹ. Tự dưng tôi
thèm một ly trà hơn. Khuôn mặt mệt mõi của chị trong đêm đẹp lạ lùng. Có
lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy
một người đàn bà đẹp thật xa vắng, chiêm ngưỡng.
Không một vết vẫn đục, không một thoáng chiếm đoạt.
Tôi biết lòng mình đang rung động như mái tóc dài biếng
chải, buông lơi trong những phất phơ tình cờ. Ngụm cà-phê
nóng làm tôi dễ chịu và tỉnh hẳn. Tôi và chị ngồi
yên lặng, bâng quơ. Tách trà nóng cũng giúp chị Liên tươi
tắn hơn. Vài lần ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Chút ngượng
ngùng, chút xót xa. ...Lớn hơn
tôi bốn tuổi, chị lấy chồng lúc tuổi hai lăm. Chị Liên sinh
khó ngay đứa con trai đầu lòng. Hai mẹ con đều trải qua cơn
thập tử nhất sinh. Nhưng chỉ được vài năm sau thì đứa
bé bỏ chị ra đi. Chị buồn da diết, còn anh ấy thì bảo
lỗi tại chị sinh khó, làm đứa bé không khỏe mạnh, chết
non. Hơn năm sau, chị có thai lần nữa. Khốn khổ thay, chị lại sinh
khó. Để bảo vệ đứa nhỏ và cứu chị trong cơn hiểm
nghèo, bác sĩ phải cắt hẳn tử cung của chị. Vĩnh viễn chị
sẽ không còn sinh sản được nữa. Bé Hà là đứa
con gái duy nhất và cuối cùng của vợ chồng chị. Đã vậy,
sau khi mổ, tuy cứu mạng sống nhưng chị mất sức hoàn toàn. Mấy
tháng sau khi sanh, chị Liên mới đi đứng lại tương đối
bình thường. Không khí gia đình bắt đầu nặng nề, lấn
cấn. Chồng chị thường vắng nhà, chơi bời nhậu nhẹt
và khi về nhà chỉ nhìn quanh thở dài. Không đủ sức đi
làm, nhưng không được chứng nhận mất sức lao động, chị
lại thêm gánh nặng gia đình. Công việc làm của chồng những
năm đó lêu bêu, kinh tế nước Mỹ khó khăn, nạn thất
nghiệp trần trọng. Nay làm mai nghỉ, không chừng. Nỗi lo lắng trao
trùm không khí gia đình chị vốn đã buồn tanh. Đến
một hôm anh nói với chị rằng, vợ chồng tạm thời ly dị,
chị và bé Hà sẽ được hưởng trợ cấp của chính
phủ theo diện không chồng phải nuôi con nhỏ. Như vậy sẽ đỡ
gánh nặng cho cả gia đình. Trên mặt giấy tờ thôi, còn
bên trong vẫn tình nghiã vợ chồng. Nhiều người đã làm
như vậy. Đợi khi con lớn, hợp thức hoá lại quan hệ vợ chồng,
không khó gì. Chị đồng ý ngay. Giải pháp chồng muốn,
vã lại, thuận lợi cho mẹ con chị trong lúc ngặt nghèo nầy...
Mấy tháng đầu anh ấy thăm mẹ con chị thường xuyên. Rồi
thưa dần, vài tuần, cả tháng. Không đầy năm sau, anh ấy lập
gia đình và có đứa con trai với người đàn bà khác.
Mẹ con chị vẫn còn sống nhờ tiền trợ cấp và chị uống
thuốc mỗi ngày, vào bệnh viện mỗi tháng. Không ngờ có
một ngày chị lại trở thành một thứ "nô lệ mới"
trong cái xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ và đầy nhân
phẩm nầy..! Giọng chị chậm
rãi, đều đặn và hờ hững như không. Đã quen rồi
câm lặng. Đã chai lì những xúc cảm trong lòng. Tôi nuốt
từng ngụm cà-phê khó khăn, chua xót. - Sự thật
đơn giản có vậy. Anh Hiếu có coi thường mẹ con Liên cũng
đành chịu thôi... Liên còn chống chỏi vượt qua những cơn
đau, không phải chỉ nhờ những viên thuốc mà còn vì bé
Hà. Nó còn quá nhỏ để mất cha và luôn cả mẹ.
- Chị Liên đừng nói vậy. Mỗi người một hoàn cảnh,
một cuộc đời. Tốt và xấu của con người không lệ thuộc
vào những hoàn cảnh rủi may. Tôi luôn quý trọng và yêu
mến sự thật, cho dù nhiều lúc không phải là điều hoàn
hảo nhất.
- Cảm ơn anh Hiếu... Mong anh sẽ giữ được mãi mãi điều
tốt đẹp nầy trong lòng.
Đêm đã khuya, thoáng lạnh. Cả tôi và chị đều không
muốn cúi nhìn đồng hồ, lãng quên nhịp thời gian. Ly cà-phê
mang lại cho tôi nhiều cảm kích. Kể xong cho tôi, như trút hết
bao nỗi đớn đau trong lòng, chị phấn chấn hẳn lên. Nhìn
chị, chừng như tôi không còn thấy cơn đau vật vã đến
ngất xỉu, mà chị đã chịu đựng vừa qua. Tất cả đã
trôi xuôi theo dòng định mệnh giữa đời. Như có không
mờ ảo, như thật giả vô hình... Đêm càng sâu, khuôn
mặt chị càng thêm đẹp. Chợt ngước lên, chị Liên bắt
gặp đôi mắt tôi đang nhìn chị đăm đăm. Ánh mắt
chạm nhau như lượng trời trĩu nặng, vô biên. Tôi biết mình
phải chào chị ra về. Chị biết đến lúc phải tiễn tôi
ra cửa. Cuộc đời luôn rộng mở, nhưng những vô tình, đôi
khi khép chặt những tấm lòng.
Cánh cửa hé mở nhỏ. Khoảng
cách giữa tôi và chị không quá một tầm tay. Khuôn mặt
chị mơ hồ, thanh thoát. Tâm hồn tôi chợt vời vợi thương
yêu. Bàn tay tôi muốn đưa lên, vuốt ve mái tóc buông dài
suốt bờ dĩ vãng. Ánh mắt chị nhìn tôi tha thiết nỗi xúc
cảm không thể thành lời. Tôi khẻ chào chị. Cánh cửa khép
lại. Tôi đi dọc hành lang nghe tiếng thở dài tôi nhè nhẹ
trong ngực và thoảng đâu đây, môi mắt chị thơm ngát
hương đêm. 3.
Đi ăn trưa về, tôi nhận được voice-mail của Tầm nhắn
cần gặp tôi chiều nay sau giờ làm. Tầm không nói lý do. Tôi
gọi lại chỗ làm và nhà Tầm, chỉ có máy nhắn tin. Chắc
phải có chuyện thật khẩn cấp và hệ trọng. Tôi không chịu
nổi nhưng biết rõ tánh Tầm. Tham vọng và rất nhiều tự
ái. Hôm chia tay, không nói ra, nhưng qua ánh mắt của nàng tôi
biết là lần chia tay cuối cùng. Tôi cũng không có gì luyến
tiếc. Dường như đã hết mọi cố gắng. Dường như đã
cạn rồi ngôn ngữ cho nhau. Trong tình yêu, sự ghê gớm nhất của
cuộc chia ly không phải là lòng oán giận, mà là sự dững
dưng. Tự ái của sự oán giận không đẩy tình yêu hoàn
toàn lùi vào bóng tối. Chỉ là lớp sơn thỏa mãn dễ
trốc lên, lộ mọi nỗi tuyệt vọng của những hờn ghen. Người
đàn bà không thể quay lưng với tình yêu, họ chỉ lẩn
tránh sự lệ thuộc đầy thói quen của chiếc bóng. Tầm có
quá nhiều lệ thuộc của những thói quen đời sống, vật chất
và nhu cầu.
Cuối tháng Mười, trời tối thật nhanh và trở lạnh bất thường.
Căn phòng Tầm không có ánh đèn. Nhìn đồng hồ, tôi
đến rất đúng giờ. Tầm chưa kịp về hay còn trong chỗ
làm, nhìn lại lần nữa những bảng biểu đồ thị trường chứng khoán vừa đóng
cửa chiều nay. Thất vọng vì những triền dốc. Yêu đời vì
những đỉnh cao. Tôi vẫn đưa tay gõ cửa như một thói
quen, hờ hững.
- Anh Hiếu phải không. Vào đi anh, cửa không khóa. Rõ ràng là giọng
của Tầm. Căn phòng tối lờ mờ, tôi thấy bóng Tầm trong bộ
đồ ngủ màu trắng lụa. Tôi hỏi Tầm để đưa tay mở
đèn. Tầm ngồi co ro, để càm trên hai đầu gối chụm lại
như đứa con gái nhỏ vừa có cuộc tình lỡ, thoáng qua. Ánh
đèn soi khuôn mặt Tầm ủ rủ, tâm sắc thất lạc.
- Tầm đang bệnh? Trông em tiều tụy, xanh xao quá. - Em không
có bệnh gì đâu... Nhưng em không muốn sống nữa đây!
Rồi
Tầm ôm mặt khóc nức nỡ. Tôi ngồi xuống bên Tầm, đỡ
hai vai nàng, hỏi nhanh:
- Có chuyện gì xảy ra? Tầm nói anh nghe đi. Mùi dầu gội
đầu quen thuộc từ tóc Tầm tỏa ra thơm nhẹ. Nàng gục đầu
vào vai tôi, như phản xạ tự nhiên, buông thả. Dễ dàng phán
đoán, dễ dàng nói từ khoảng cách xa nhưng có ai phân
biệt ghét thương trong tầm tay ấm. Tôi cũng như bao nhiêu người
đàn ông khác, quên ngay đối xử của Tầm trong những ngày
qua. Nước mắt mặn và trong của người đàn bà đẹp
là một thứ vũ khí, một loại độc dược ngọt ngào
nhất của bao nhiêu trang tình sử. Biết vậy, mà đành chịu
vậy mỗi khi. Cũng may Tầm ít nước mắt, nên tôi cũng không
phải chịu đựng cảnh mũi lòng dài lâu. Nàng chùi nhanh
nước mắt, ngước nhìn tôi ánh mắt đắng cay, thảm hại.
Qua đôi mắt ấy, tôi biết Tầm đang ngập đầy tủi nhục
và hờn căm. Tôi hiểu mình cần phải lấy lại khoảng cách
cần thiết của tấm lòng. Lắng nghe và đương đầu trong
những nghịch cảnh cần thiết. Xúc cảm chỉ là kết quả của
sự nông nổi thói thường, không đáng tin cậy.
- Không phải chỉ mình em, mà nhiều người đàn bà khác
nữa, đều bị hắn lường gạt. Cả tình lẫn tiền. Thật
là hổ thẹn và đáng đời cho hạng đàn bà con gái
như em...
- Tầm nói đến người bạn thương gia Hồng-kông, thường
đi chung với Tầm.
Tôi hỏi thật thận trọng. Bắt đầu câu chuyện không đầu
không đuôi, thường là dấu hiệu sắp bùng nổ của người
đàn bà, của Tầm.
- Thằng cha già khốn nạn đó, chớ bạn gì. Hắn làm quen
với Tầm trong một cái seminar của hãng e-Trade. Có đầy đủ
giấy tờ chứng nhận hắn là đại diện một công ty mua bán
thị trường 'stock' lớn nhất nhì Hồng-kông. Hắn tìm mọi
cách để Tầm mở trương mục và mua bán 'stock' qua công ty
của hắn. Tuần lễ đầu, lời hơn hai chục ngàn. Dễ dàng,
tiền bạc kiếm vào như trở bàn tay... Không hiểu ma quỷ dẫn
đường thế nào, em trút hết tiền bạc để dành vào
trương mục của công ty hắn. Kể cả cái xe Volvo mới vừa trả
xong tháng trước. Hắn biến mất. Giấy tờ giả, công ty ma. Nhờ
luật sư truy tố, không biết hắn ở đâu, chính quyền cũng
đành chịu. Không làm gì hơn được, chỉ biết điền
đơn để đó thôi.
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người
như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực "xương máu"
của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi
hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng
tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm
đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung
đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Hèn gì, tôi sực nhớ ra, đã không thấy chiếc xe Volvo S70 màu
xanh đậm đậu trước nhà thường khi. - Bây giờ
em không biết phải làm gì. Món tiền mượn được cuối
cùng đã thanh toán hết cho luật sư. Không xe, lại phải làm
thêm job ban đêm... Không còn ai để em than oán, nên đành
gọi anh. Anh đừng giận Tầm...
- Xui rủi, không giúp đỡ ai nỡ giận Tầm. Anh có thể giúp
gì, Tầm cứ nói.
- Nhờ anh cho Tầm mượn tạm mười ngàn mua tạm chiếc xe, đi
làm. Tầm sẽ trả mỗi tháng. Trong vòng một năm em hứa sẽ
trả lại hết cho anh.
Tôi nhớ lại cái trương mục
rỗng trơn của mình trong mấy tháng qua. Mỗi thứ mỗi sắm, cơm
hàng cháo chợ từ khi dọn ra ngoài. Tuần nào xong tuần đó,
tháng nào sạch tháng đó... Tôi bất chợt nhìn khuôn mặt
Tầm. Đẹp vô cùng trong nét muộn phiền. Có lẽ, người
đàn bà đẹp nhất là những lúc buồn bã, yếu đuối.
Nhất lại là những người đàn bà đẹp như Tầm. Ánh
mắt chạm nhau. Lặng yên, rung động. Tầm ghì mặt tôi hôn
lên môi, quyện đầu lưỡi thật sâu, cuồng nhiệt. Mọi vật
chuyển động, hừng hực. Tầm như dồn nén mọi uất ức,
tràn ngập, vỡ bờ trong cơn xúc cảm thể xác. Thân thể nàng
trắng ngần, mịn màn với hai bờ ngực nhỏ đầy, xinh xắn...
Tôi chợt nhớ đến hành lang vắng lạnh dọc theo căn phòng
tôi ở. Tôi chợt nhớ đến thân thể nhám lông con và
hai vú độn 'silicon' to lớn của đứa con gái Mỹ. Trong căn phòng
tối lờ mờ, tôi ngữi có mùi hương trà thoang thoảng đâu
đây. Tôi đẩy Tầm ra, bật ngồi dậy. Tất cả bất chợt,
ngỡ ngàng. Căn phòng và Tầm nằm sẵn sàng, chờ đợi
như tấm gương soi phiá sau cả đoạn đời tôi dĩ vãng.
Tôi không thể nhìn lại để đi lùi. Tôi không thể suốt
đời làm nô lệ cho những xúc cảm của quá khứ. Thôi
tôi ơi, hãy để những ngày ấy lụi tàn...
- Anh không muốn, Tầm đừng thắc mắc... Anh để lại chiếc xe,
ngày mai sẽ trở lại ký giấy chủ quyền cho Tầm. Anh đón
xe bus, Tầm không cần phải đưa.
Thời
gian nhẹ tênh, trôi ngược. Tôi đi dọc con đường, thư thả
về một nơi đã định. Gió se sắt lạnh, phả lên khuôn
mặt tôi nỗi cô-đơn-hạnh-phúc vô cùng. Dưng không tôi
thèm một tách trà, một bàn tay gầy guộc, xanh xao. Có chút
hương đêm loang tỏa, bâng khuâng trĩu nặng những con đường
dẫn bước chân theo. Chừng như có cửa sổ nhà ai quên khép
khung che, để vệt đèn khuya soi lệch một góc đời...
Durham,
North Carolina Nguyễn Vĩnh Long
. Tiền Kiếp
1.
Căn
nhà nằm lưng chừng núi, nhìn xuống lòng thung lũng thấp. Chung
quanh là những cụm rừng thưa, chạy dài theo dãy núi Smocky Mountain
hình vòng cung. Dân số cả thị trấn miền núi không quá
một ngàn người. Hai trạm xăng, một siêu thị loại bỏ túi
và vài ba quán ăn lụp xụp của người da đỏ. Đi bác
sĩ, khám bệnh phải lái xe hơn cả giờ mới xuống tới thành
phố Asheville của bang North Carolina. Nhà cửa đất đai rất rẻ và
không khí trong lành quanh năm. Phần lớn dân chúng trong vùng sống
nhờ lượng du khách của mùa hè, và nhất là mùa thu.
Trung dọn hẳn lên căn nhà mướn nầy vào cuối mùa hạ.
Những cơn nắng dội lửa đã giảm dần, nhường cho vài
cơn mưa bụi loáng thoáng, bất ngờ. Buổi sáng Trung bàng
hoàng trước vẽ đẹp của núi rừng phủ kín trong lớp
mây mù dưới chân núi. Khí trời chợt chùng lạnh, se sắt
mù sương đủ để khu rừng thưa khẻ chuyển mình thay lá.
Những chiếc lá xanh nâu đã cong mình vàng lên sắc đỏ.
Mùi thảm hăng hắt và ẩm thấp, chứng tỏ căn nhà đã
vắng hơi người từ lâu. Nipa muốn ở lại lau chùi, dọn dẹp
nhưng Trung bảo không cần. Ông có nhiều thời gian để bận
rộn. Người y tá chìu ý ông Trung nhưng vẫn sắp xếp những
thứ cần thiết trong tủ lạnh và nhà bếp. Nàng cũng không
quên ghi chú cẩn thận số lượng thuốc men của ông trên đầu
giường ngủ. Chuyến đi dài không làm Trung mệt mỏi, trái
lại, ông thấy mình tỉnh táo và phấn khởi hẳn lên. Ít
nhất ông cũng có những chuỗi ngày trước mặt thong dong, tự
tại trong cảnh thiên nhiên của núi rừng. Một mình, niềm cô
đơn sẽ lớn hơn. Nhưng trong cùng tận cô đơn, ông sẽ
có dịp đối diện với chính mình nhiều và thành thật
hơn. Đến lúc mà mọi sự hiện diện của tha nhân đều
tạo cho ông niềm sợ hãi thực tại.
Nipa, cô y tá người Phi-líp-pin có khuôn mặt và nụ cười
thật trẻ con. Bệnh viện đã cử cô đến chỉ dẫn cách
tự chích thuốc cần đau và theo dõi bệnh tình của ông
sau khi rời viện. Lúc đầu Nipa rất dè dặt trước thái độ
buông xuôi, chờ chết của ông. Cô chỉ giúp ông thành thạo
việc tự chính giảm đau chớ không tỏ ra thân thiện với bệnh
nhân. Vài tuần lễ sau đó, một lần Thảo dẫn con đến
thăm, Nipa mới có dịp hiểu sự lựa chọn đầy nghị lực
của ông Trung. Cô đã ứa nước mắt trước cảnh chia tay,
tưởng như tạm bợ bề ngoài mà đã nghìn trùng xa cách
tận tâm. Ông cô đơn trong hạnh phúc. Ông chờ đợi cái
chết bình thản như chờ một chuyến đâu đó đi xa. Con
người rất can đảm trong lời nói, rất sâu sắc với bao nhiêu
triết lý cao xa. Nhưng khi đối diện với hiện thực hy sinh có máu,
bằng mạng sống chính bản thân thì họ lại có nhiều phương
tiện để biện minh cho hành động yếu hèn... Nên đứng
trước người đàn ông như yếu đuối, vô tư nhưng
Nipa thấy cả dòng biển ngầm mạnh mẽ. Có khi một vũng nước
trong nhìn tận đáy, lại nhận chìm những kẻ vô tình. Lắm
lúc vũng nước như đục ngầu đe dọa, lại không qua khỏi
mắt cá đôi bàn chân... Họ trở thành đôi bạn, giữa
làn ranh cận kề sinh tử... Đến một hôm Trung nhờ Nipa giúp ông
tìm mướn căn nhà nhỏ, rẽ tiền trên vùng núi. Càng
cao, càng sâu vào rừng núi càng tốt. Ông thao thao nói với
cô y tá cách chữa bệnh ung thư thiên nhiên của người Nhật.
Không thuyết phục, nhưng Nipa hứa giúp ông tìm nhà. Vã lại
cũng vào thu, cảnh núi rừng lá chuyển, biết đâu tái tạo
cho ông mầm sống mới.
Nipa đặt chiếc xe lăn và cây gậy cuối góc nhà rồi chuẩn
bị từ giả Trung. Ông ngập ngừng cám ơn. Nipa chần chừ, không
nở. Trong ánh mắt của người đàn bà tràn đầy niềm
cảm thương, nuối tiếc. Tất cả rồi cũng qua, một lần gặp
gỡ. Như kiếp người, thoáng chốc mà hệ lụy cưu mang tưởng
chừng bất tận. Bắt đầu đã khó, chấm dứt cũng không
phải dễ dàng. Nipa nhìn quanh, nhiều lần, căn nhà gỗ đơn
độc giữa lưng chừng núi. Nàng đến như cơn gió lướt
qua đời ông, không dừng lại. Niềm hy vọng cuối cùng một
đời người chính là sự trở về, trở về với chính
mình trên dòng sông bản ngã. Chạm đáy đời ông, Nipa
như bắt gặp đời mình. Khác biệt góc thời gian, soi cùng
đời mặt phẳng. Nàng đã không giữ được lời hứa,
mặc cho giòng nước mắt rơi thấm mặn khóe môi khô. Người
đàn bà Phi-líp-pin quay nhìn căn nhà lần cuối, trước khi
ngược xuống lòng đường. Đầu mùa thu, buổi trưa miền
núi ngây ngất như ly rượu mạnh. ... Sau vài tháng
hóa trị (chemo-therapy), Trung quyết định không tiếp tục nữa. Lần
cuối cùng khám bệnh, bác sĩ đã cho ông biết:
- Tiếp tục điều trị tại bệnh viện và chemo-therapy, ông có
thể kéo dài sự sống từ một đến hai năm. Nếu khước
từ, chúng tôi không dám đảm bảo cho sinh mạng ông trong vòng
sáu tháng. Mong ông suy nghĩ thật kỷ lưỡng. Tuy nhiên mọi sự
quyết định đều tùy vào ông và gia đình. Ông biết
rõ số phận của mình. Hơn nữa, sự tàn phá những tế
bào sống trong cơ thể khiến những
ngày còn lại của ông sẽ tệ hại hơn. Ông muốn mình
phải thật sáng suốt và tỉnh táo cho mọi chuẩn bị, mọi
sự lựa chọn cần thiết. Thảo đã đưa mấy đứa nhỏ
về sống với gia đình ở Dallas. Trẻ con nhiều nước mắt nhưng
cũng dễ lãng quên. Mười bốn năm chung sống vợ chồng, chia
nhau từng tháng ngày khổ đau, hạnh phúc. Tình yêu ông với
Thảo lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Nàng và
các con ông còn phải sống, cho hôm nay, cho ngày mai. Có chăng với
ông, là từng ngày cuộn trôi gần cái chết. Mấy tháng
qua, Thảo đã khóc cạn một đời nước mắt. Ông không
để chứng bệnh ung thư giết chết ông và dần mòn giết
chết niềm tin và hy vọng ngày mai của những người ông thương
yêu hết mực. Tất cả những đau đớn dù lớn lao đến
đâu, rồi cũng qua đi. Thời gian trôi xuôi giữa dòng đời
không trở lại. Tình yêu Thảo và các con lớn hơn sự hèn
nhát và lòng ích kỷ. Với Trung, tiền bạc không mua được
hạnh phúc và niềm hy vọng. Nhưng tương lai của gia đình và
các con ông không thể lệ thuộc nỗi đau và cái chết dần
mòn của ông. Thôi thì một lần chia ly còn hơn những ám
ảnh truyền kiếp.
Tất cả cuộc ly dị đều bắt đầu và kết thúc bởi
những thất vọng và oán hận. Trừ trường hợp của ông
và Thảo. Cuộc chia tay, dù trên pháp lý, của họ bắt đầu
bằng những yêu thương và lòng hy sinh vô bờ. Của ông. Của
Thảo. Của các con. Nước mắt họ không chảy xuôi theo giòng
đời thường tục. Những giòng nước mắt của họ chảy
ngược vào tận cùng giòng đời hệ lụy cưu mang. Số tiền
quá lớn cho sự dằng co với cái chết, rồi cũng phải đến,
đủ đem lại cho người sống một mai nầy tốt đẹp. Cuối
cùng rồi Thảo cũng hiểu. Trong cùng tận của đời người,
cái chết không phải là sự chia lìa vĩnh viễn. Mà chính
cuộc sống vạch ra nhiều đường ranh của biệt ly. Cánh cửa
mở rộng cho mọi nghịch cảnh, là cõi vĩnh hằng phía bên
kia. Sông có chảy trăm giòng cũng xuôi về biển mặn. Không
ai đứng trước biển xanh mơ về con lạch nhỏ bao giờ. Trong nỗi
đau cùng tận, ông vẫn ước mơ một ngày nào đó
Thảo sẽ tìm thấy hạnh phúc. Một hạnh phúc có thật cho
nàng. Như đời nầy, con người không chỉ đến để chết
mà để chiêm nghiệm hạnh phúc trong cái chết vĩnh hằng.
2.
Ông choàng tỉnh trong tiếng hú vang vọng rừng núi.
Tiếng hú hãi hùng, tuyệt vọng. Trong giấc mơ ông hay ngoài
kia thăm thẳm núi rừng. Ông cố nhớ lại, nhưng tất cả chỉ
là khoảng trống của tiềm thức miên man. Đầu hôm Trung đã
uống hai thuốc ngủ. Nằm nghiêng tai, ông lắng nghe từng tiếng động
thênh thang của đêm. Một con sói gọi đàn hay của một đàn
thú nào đó vang tiếng thách thức nhau. Tiếng hú phải mang
một cường độ ghê gớm, đẩy mất hiệu nghiệm của hai
viên thuốc ngủ cực mạnh. Con số màu đỏ thẩm trên mặt
bàn, hai giờ sáng. Ông chợt cảm thấy cơn lạnh chạy khắp
cơ thể. Hay là tiếng hú vọng từ cõi " âm ", của thế
giới bên kia. Nhắm chặc mắt, ông thở ra hít vào nhiều lần,
ngầm kiểm soát toàn bộ cơ thể. Tất cả đều bình thường,
không có triệu chứng gì của cơn bạo bệnh. Cái chết vẫn
còn xa ông, ít nhất là đêm nay. Ngày mai rồi sẽ tốt đẹp
hơn, cứ tin như vậy, ông xoay trở tìm một thế nằm thoải mái,
chờ giấc ngủ.... Tiếng hú lại vang lên, thiết tha, đau đớn.
Tiếng hú vang vọng như đánh thức cả thung lũng thấp. Ông
ngồi bật dậy, khoác chiếc
áo choàng và bước ra ngoài. Ánh trăng sáng lạnh, soi dọc
con đường mòn dẫn xuống dốc núi.
Có tiếng người, cười nói phía dưới con suối nhỏ. Ông
nghĩ đến những nàng tiên xuống tắm suối đêm trăng trong
truyện thần thoại, cổ tích. Cuộc sống giết chết trong ông bao
nhiêu ước vọng, gần kề cái chết lại mở bao nhiêu cánh
cửa tin yêu trong mỗi giấc mơ. Khoảng đất và trời. Mặt thật
và giả. Giữa thực và ảo. Chỉ là những cụm từ ngữ
nói lên sự bất lực của con người và kiếp sống. Ông
dò dẫm những bước chân, giữ gìn từng hơi thở. Ánh
trăng sánh bạc, phả lớp mù sương phủ kín rừng. Tiếng
cười nói bỗng lặng im, chìm khuất. Rồi từng tiếng nấc khẻ
vang. Ngậm ngùi, trẻ dại.
Không
biết tự bao giờ ông đã đứng đối diện với chiếc
bóng đang khóc cười, nhảy múa. Dưới trăng là khuôn
mặt tuyệt đẹp của người con gái với mái tóc dài
óng ả. Nàng chợt quay lại nhìn ông, không chút ngạc nhiên,
sợ hãi. Chừng như đã quen, đã biết từ lâu.
- Sao ông đến muộn vậy ? Em đã chờ đợi nơi nầy quá
nhiều năm tháng... Người con gái vừa nói vừa di động theo
cùng những vệt sáng tủa vây.
- Cô đã đợi tôi..? Tại sao cô biết tôi sẽ đến
nơi nầy ?
- Phải. Bất cứ điều gì, nếu ông chờ đợi, rồi
nó sẽ tới... Như em đợi ánh trăng. Có lúc tưởng nó
đi mất. Em cứ đợi, rồi ánh trăng cũng đến. - Nhưng
nếu cô không đợi, trăng cũng tới mỗi tháng kia mà...
- Ông lầm rồi. Biết bao nhiêu người không hề biết trăng về
mỗi bận. Chỉ có những người chờ đợi như em thôi... Như
em chờ và ông cũng đã đến. - Không. Nhất định
là tôi không đến đây vì sự chờ đợi của cô.
Tôi đến đây bởi sự chờ đợi của cái chết.
- Thì hẳn vậy đi. Em là cái chết của ông. Đã sao đâu
? Con người đến cuộc đời nầy chỉ để chờ đợi
cái chết kia mà... Thôi, đêm sắp tàn, đến ngồi xuống
đây với em.
Nàng nắm tay ông, ngồi xuống bờ đá. Mùi hương con gái
thoang thoảng, ngây ngất mọi xúc giác của ông. Tự lúc nào,
toàn thân ông như căng tràn sự sống. Những cảm giác sượng
đau ông cưu mang bấy lâu nay chợt tan biến. Tất cả nhẹ tênh,
mênh mông nỗi hạnh phúc không cùng. Phiến đá ấm áp
sương đêm như bàn tay ông đang ấm áp trong lòng tay con gái.
Ông chợt nhận ra toàn thân nàng chỉ phủ một lớp vải mong
manh tơ trời mờ nhạt. Ngả đầu vào vai, ông nghe từng hơi thở
nhẹ thơm của nàng phả vào bên má. Chung quanh họ, chỉ còn
thế giới của trăng.
Người con gái nằm ngữa mặt trên hai chân ông dựa theo bờ
đá. Con suối đêm mùa thu chở ngập đầy một dòng trăng.
Cũng từ đó, mỗi đêm ông đều cùng người con gái
gặp nhau dưới bờ thung lũng thấp. Có lúc họ chuyện trò.
Lắm khi họ lặng im, chừng để lắng nghe sự giao hòa của tâm
hồn con người và đất trời huyền diệu. Ông không biết
mình đang sống trong giấc mộng, hay chính giấc mơ ông đang trở
thành hiện thực đời mình. Tự hỏi. Hoài nghi. Sợ hãi.
Đôi lúc ông luôn mở trừng đôi mắt, sợ một chớp
mắt vô tình sẽ đánh mất những gì có thật chung quanh...
Khuôn mặt đẹp tuyệt trần người con gái như tỏa ra một
lớp ánh sáng dìu dịu, mơ hồ. Như hiểu lòng ông, áp
bàn tay ông lên má, người con gái muốn ông nhận thức sự
hiện hữu có thật của mình. Tất cả lung linh, mầu nhiệm. Ông
đưa tay nâng niu khuôn mặt và vuốt từng lọn tóc óng tơ
trời... Đôi mắt mở to, người con gái nhìn ông đắm say
như nhìn vào giấc mơ tiến kiếp. - Tại sao lại có
ánh trăng, lúc đi lúc về ? Tại sao sông xuôi về biển, sông
đậm nâu ngọt ngào còn biển xanh mặn bao la..? Một hôm người
con gái vô tình, chợt hỏi. Trầm ngâm phút chốc, ông khẻ
kể cho nàng nghe câu chuyện tình huyền hoặc, tựa chừng ẩn khuất
đâu đó trong tiềm thức.
" ... Ngày xưa, thuở trời đất giao hoà. Đêm chỉ ngàn
sao lấp lánh và chưa có mặt trăng hiện hữu. Mặt trời ngự
trị toàn bộ giang sơn của hệ thái dương. Shiva là con trai
thần mặt trời. Tính tình phóng khoáng và lãng mạn, Shiva
luôn có nhiều ước vọng khác thường. Năm mười chín
tuổi, tục lệ bắt Shiva phải chọn một người con gái làm
vợ. Tất cả người đẹp của xứ mặt trời không làm
cho Shiva rung động. Thần mặt trời lo lắng, còn Shiva thì ngày đêm
buồn bã, u sầu. Một hôm Shiva xin cha cho mình tự đi tìm vợ.
Thần mặt trời đồng ý với hai điều kiện. Một, không
được rời khỏi xứ mặt trời. Hai, thời gian đi tìm chỉ
trong vòng ba mươi ngày. Sau đó, nếu không tìm ra, Shiva phải
tuân lệnh cha lấy người con gái do chính thần mặt trời lựa
chọn. Shiva cúi đầu đồng ý. Lang thang khắp nơi trong xứ
mặt trời, Shiva chưa lần nào gặp người con gái trong mộng. Thất
vọng, nhiều đêm Shiva thao thức nhìn những dãy ngân hà lấp
lánh bao quanh. Chàng tự nhủ, biết đâu trái tim mình đang ở
nơi chân trời xa xăm đó. Quên mất lời cha dặn, Shiva rời xứ
mặt trời và bay về một hành tinh khác. Vô tình, Shiva ghé
vào trái đất. Choáng ngộp trước vẻ đẹp lạ kỳ,
xanh thẳm của phần đất nầy, Shiva quyết định ở lại để
tìm người con gái trong giấc mộng. Không phải tìm lâu,
Shiva yêu tha thiết ngay người con gái đầu tiên gặp mặt bên
bờ con suối nhỏ. Thùy Dương, tên nàng. Shiva say đắm với
mối tình Thùy Dương quên hẳn lời cha dặn. Ba mươi ngày
lướt qua thoáng chốc. Sứ giả của thần mặt trời tìm kiếm
Shiva khắp cả chân mây góc trời. Cuối cùng, họ vời được
Shiva trở về. Trước mặt cha, Shiva xin được cưới Thùy Dương
làm vợ. Thần mặt lắc đầu và nhắc lại điều kiện
đặt ra. Shiva không được rời khỏi xứ mặt trời, vì chàng
không thể cưới làm vợ bất cứ người con gái nào ngoài
xứ mặt trời. Shiva hỏi, tại sao. "Con là mặt trời chỉ sống
với sinh thể mặt trời. Những sinh thể của các hành tinh khác
không thể cùng tác hợp", thần mặt trời trả lời.
Tuyệt
vọng và buồn chán, Shiva đã chết trong mối tình thiên thu đó.
Hồn u uất không tan, kết đọng thành một vầng sáng vằng
vặc, suốt đời ôm trọn lấy trái đất nầy. Con người
gọi vầng sáng đó là mặt trăng. Nơi trái đất,
Thùy Dương chờ đợi người yêu đến héo mòn hương
sắc. Thùy Dương đã khóc, khóc mãi đến cạn khô
nguồn nước mắt. Mãi đến lúc vầng trăng chiếu sáng
trần ai thì nàng gục chết bên bờ suối ngày xưa gặp gỡ.
Người đời truyền tụng, nước mắt của Thùy Dương đã
nhuộm xanh và thấm mặn mọi mặt biển thế gian... ".
- Chuyện tình thần thoại thật tuyệt vời và thật đẹp,
phải không ông? Thật là tuyệt
vời và đẹp. Chính ông cũng không ngờ mình " bịa "
ra câu chuyện thần thoại lãng mạn đến như vậy ? Hơn nữa,
bổng dưng khả năng Anh ngữ của ông hôm nay vượt ra ngoài chính
sự tưởng tượng của mình. Bình thường ông nói tiếng
Anh thuộc loại " ăn đong ", lắm khi cô y tá người Nipa phải
gặn đi gạn lại nhiều lần mới hiểu nổi ông nói gì
! Hưng phấn, thừa thắng xông lên, ông tâm sự.
- Phải. Tôi tin rằng mọi sự hiện hữu trên thế gian nầy đều
bắt đầu từ một chuyện tình. Nói chi đến con người và
các sinh vật, mà ngay cả sỏi đá vô tri. Một nhạc sĩ nước
tôi đã nói, "... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
! ". (1)
- Tại sao vậy ông ?
- Vì mọi sự vật đều là hóa thân của nhau. "
Em là tôi và tôi cũng là em..." (2). - Ông càng giải
nghĩa, em lại càng khó hiểu. Mà cần hiểu làm gì, có
ai đang yêu lại phân tích và định nghĩa tình yêu ? Ông
hãy hôn môi em, tình yêu sẽ lên tiếng. Người con gái
nghiêng mặt, hiến dâng. Ông cúi xuống, hôn lên đôi môi
óng vàng, mật ngọt. Niềm lạc hoan mảnh liệt tràn vào thân
thể, nâng cao vút mọi xúc cảm cùng tận trong ông. Mọi nỗi
đau tan biến. Mọi cái chết chìm sâu. Chỉ còn lại thực
tại là niềm hạnh phúc mơ hồ, chất ngất. Ông chợt thấy
ánh trăng hạ xuống thấp dần. Thật thấp, chiếu vàng rực
rỡ khuôn mặt ông và thân thể người con gái. Muôn vàn
mạch máu cuộn tràn, ông như nhập vào ánh trăng rồi vút
cao lên bầu trời bát ngát. Người con gái chợt cong người
hú lên. Tiếng hú vang vọng khắp cả kiếp người. Ông cũng
nghiêng người nhìn lại bóng mình. Chiếc bóng rời khỏi
ông, vươn cao, rồi cũng hú vang niềm hạnh phúc mông lung. Hai tiếng
hú quyện vào nhau, cuốn hút núi rừng trong giấc mơ truyền kiếp
ngàn đời.
Ông cúi xuống đặt thân thể người con gái lên trên
bờ đá, cạnh bờ suối nhỏ. Hơi thở ra từng hồi nhè nhẹ,
đứt khoảng nàng mở trừng đôi mắt thật to nhìn ông,
môi mấp máp. Ông cố nghiêng tai thật sát, lắng nghe. Chừng như
chỉ là những lời vô nghĩa. Ông ôm chặc cơ thể nàng
mong chuyền sang hết sự sống. Tại sao không phải là ông, người
mãi đợi chờ cái chết. Mà lại là nàng, người con
gái của giấc mơ ông, thu mùa tâm tưởng. Buổi chiều hình
như lá rụng nhiều hơn trên mấy lối mòn xuống suối. Đã
cuối mùa thu rồi thần thoại mối tình ông. Không hiểu sao, dưới
những đêm trăng, khuôn mặt người con gái đôi lúc mang
nhiều đường nét của Thảo. Rồi nhạt mờ đâu đó
bóng dáng của biết bao người con gái đã qua đời ông.
Họ vẫn quanh đây trong dáng hình hiện tại. Tất cả bàng
hoàng, nuối tiếc. Như không hiểu từ tiền kiếp nào đưa
ông về khu rừng thu lũng thấp mờ sương nầy. Trong tận cùng
sự sống, ông hiểu nghĩa chia ly nghiệt ngã vô cùng cho người
ở lại. Đứng trước cái chết, ông thấy thăm thẳm hơn
ý nghĩa tình yêu của sự ra đi... Ông cúi hôn lên đôi
môi lạnh giá, ơ hờ. Nàng đã ra đi như ông rồi cũng
tới. Như tình yêu, không có điểm bắt đầu và không
có nơi chấm dứt... Ông đứng lên cất tiếng hú đớn
đau, như đánh thức cả núi rừng. Ánh trăng cuối thu vằng
vặc, đâu đây tiếng hát ai như ru giấc ngủ yên một kiếp
người.
".. . Mang ơn em trao tình một lần,
là kỷ niệm dù không đầm ấm "Mang ơn em đau khổ thật đầy, là nắng vàng dù nhốt
trong mây "Mang ơn trên cho cuộc đời
ta, vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ "Trong cơn đau một vùng hương khói, kéo ta về, về
cõi hư vô... (3)
3. Nipa ngạc
nhiên khi thấy mấy ống thuốc cầm đau còn nhiều trên kệ.
Thường khi chỉ còn vài lọ cuối cùng. Ông Trung có thể
không sợ chết, nhưng ông cần chống lại những cơn đau. Hơn
ai hết, Nipa hiểu rõ điều nầy. Hay là ông đã cạn rồi
sự phản kháng, đã quyết định bước cùng... Căn nhà
vắng lặng. Nipa nhìn quanh, chiếc gậy vẫn ở góc giường và
tách trà trên bàn chưa uống cạn. Nắm hồ sơ bệnh lý
và chăm sóc ông thời gian qua, Nipa hiểu từng chuyển biến của
cơ thể ông. Dù có một nghị lực phi thường đi nữa, ông
Trung cũng không thể vượt ra ngoài những tàn phá của chứng
ung-thư nầy. Nói chi ông đang ở trong thời kỳ cuối cùng. Bao giờ
đi ra khỏi nhà ông đều mang hờ theo cây gậy, phòng những
cơn đau tấn công bất ngờ. Nipa chợt nhận ra tờ giấy nhỏ dán
trên tủ lạnh, với giòng chữ của ông: " Tôi tập yoga và
thiền, con suối dưới thung lũng. Trung ".
Buổi trưa mùa thu, khí trời tĩnh mịch và nhẹ tênh. Nipa bàng
hoàng với vẻ đẹp của rừng núi. Thung lủng thấp như được
phủ tấm vãi tơ lụa màu đỏ, tím và vàng sặc sỡ.
Như bức tranh vẽ trong truyện cổ tích mà cô đã đọc
say sưa thuở ấu thơ. Bây giờ trước mặt là cả một tặng
phẩm tuyệt vời của tạo hóa có thật. Nipa như nhận ra được
sự mất mát to lớn của đời sống xã hội và ý thức
thiên nhiên chung quanh. Con người không những đã tự hủy tâm
cảnh mà ngay cả hiện thực bên ngoài. Giá trị thẩm mỹ
nhường chỗ cho giá trị kỹ thuật và tiện nghi. Con người
xa lạ dần với thiên nhiên và lệ thuộc vào ảo giác. Tính
thích nghi cũng từ đó mất dần, sự phản kháng cơ thể
dựa vào trợ lực hoá chất của dược phẩm. Từ cỏ hoa,
thảo mộc, Nipa đã tận mắt nhìn thấy những điều đó
xảy ra cho bệnh nhân do chính cô chăm sóc. Từ thận chứng
di-căn của ông Trung đã chuyển đến cả gan và phổi. Cái
chết, với ông, chỉ còn là phút chốc thời gian. Điều đó
không làm cho Nipa ái ngại, cảm thương. Con người rồi ai cũng
một lần chết, như thể một lần sinh ra đến với đời nầy.
Đôi khi cái chết lại là một giải thoát hoàn mỹ nhất
của đời người. Cho ông. Cho Nipa. Cho cả kiếp người vay tạm...
Nhưng là những cơn đau, những cơn đau khủng khiếp cho thân thể
sống trong chờ sự chấm dứt, ra đi. Những cơn đau mà mọi con
người không đủ sức chống trả. Sự hiện diện của cô
là chỉ nhằm giúp ông vượt qua những giây phút hãi hùng
nầy. Nipa tin vào nghị lực và lòng can đảm cho mọi hành động
của ông đối với gia đình, vợ con. Nhưng còn ông, ông
không thể dùng thứ nghị lực đó chống lại những cơn
đau nghiệt ngã để sớm chấm dứt một kiếp người. Không
nói, nhưng cả Nipa và ông điều biết phương pháp chích
không khí vào mạch máu. Như một giải pháp cuối cùng.
Điều nầy ám ảnh Nipa nhiều hơn khi nhìn thấy những ống thuốc
cầm đau còn nguyên nhiều trên kệ. Cuối đường mòn, gần con suối trong thung lũng thấp, Nipa hốt
hoảng, mở trừng đôi mắt khi thấy xác người đàn ông
nằm trên ghềnh đá tảng. Mắt nhắm nghiền, ông Trung như đang
trong giấc ngủ thật tĩnh lặng, bình yên. Không biết ông đã
nằm đây bao lâu, nhưng Nipa không nhìn thấy dấu vết chống
chỏi nào cho sự đau đớn thể chất. Cơ thể ông Trung đã
lạnh cứng. " Ông Trung. Ông Trung, tôi đây. Nipa đây mà..!
", cô y tá lẩm bẩm gọi tên trong dàn dụa nước mắt.
Tất cả cũng đã đến, một kiếp người như thể dưng
không. Núi rừng mùa thu vẫn rực rỡ sắc màu, hanh hanh màu
nắng nhẹ tênh. Nipa bấm số điện thoại di động: "911".
4.
Một cột tin nhỏ trên
trang nhất của tờ báo địa phương - Một Hiện Tượng Y -Học
Khó Giải Thích: " Asheville, North Carolina - Sáng hôm qua, người ta tìm
thấy xác người đàn ông nằm trên vực đá, dưới
một thung lũng của dãy Great Smokey Mountain. Được biết nạn nhân
mang chứng bệnh ung-thư trong thời kỳ cuối, từ chối mọi chửa trị
của bệnh viện để chờ đợi cái chết. Điều gây sôi
nổi trong dư luận là, sau khi thử nghiệm xác nạn nhân, các bác
sĩ và bệnh viện không tìm được dấu vết nào của
chứng bệnh ung-thư hiểm nghèo đã giết chết ông. Kết luận
của nhóm khảo nghiệm, nạn nhân chết vì kiệt sức, không
ăn uống trong nhiều ngày đêm bên bờ đá tảng.
Hiện
nay hội đồng y khoa Hoa Kỳ đang thương lượng với gia đình
và thân nhân nạn nhân để phân chất các nhiễm thể
của ông mong sẽ tìm ra được nguyên nhân trên. Đây là
một hiện tượng y học đầu tiên có thể sẽ làm thay đổi
tận gốc rễ các lý thuyết chửa trị chứng ung-thư của con
người. Chúng tôi hứa sẽ theo dõi thường xuyên và đưa
những tin tức mới nhất cho cuộc thử nghiệm lịch sữ nầy đến
với bạn đọc ! ".
Durham, North Carolina Nguyễn Vĩnh
Long
(1), (2): Diễm Xưa & Tôi Ơi, Đừng
Tuyệt Vọng - Trịnh Công Sơn (3):
Tưởng Niệm - Trầm Tử Thiêng _________________________________________________
1. Mùa
hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại
một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi
mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng
hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo
đời thường trước mặt với đàn con nhỏ dại. Con mất
cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn.
Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi
dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa
cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở
thành "phụ thân". Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền
tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm
cha tôi, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến
xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên
thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà
cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nộI, ngoại đều nhiều lần
đề nghị đem vài đứa về nuôi, đở tay, nhưng bà một
mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn,
tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn
định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không
muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân.
Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng
sau buổI học dồn hết tâm sức đở đần với mẹ cho tiệm
cơm và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy
lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía
sau nhà. Hơn
năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn mườn mượp phải mở
rộng thêm gần hết mặt lộ. Khách quen thuộc hằng ngày, phần
đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là
hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần
dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổI, không
mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp "mô",
hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách hành vào quán
hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc giường ngũ tạm qua
đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành
nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên
mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện,
cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán
buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng
giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới
quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh
đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc
làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được
chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa.
Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng
như bà không mấy quan tâm bởi đàn con bốn đứa. Năm đó
tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời
con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và
biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám
con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗI lần tôi đi ngang
qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngũ, nằm lắng
nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược
lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo
tam thể của bà Năm chủ nhà.
Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đũ loại bắt đầu treo
bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn
nghệ trung thu yễm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi
được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một
buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học 12, trên tôi một lớp và
trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu
tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa
tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngâm ngâm, dáng người
chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông
minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình
đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào,
Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi
và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm
nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh
để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở
trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng.
Tôi dọ biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả
nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào
ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức
thư và nói vội, "Gửi cho Loan..!". Tôi chưa kịp phản ứng,
tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về
nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm " chảng-xê"
để đọc thư anh. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều
lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày
sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó.
Ông là người khách thương
hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi
lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe
nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm
một trái pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết
thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sau mình sống
sót với bao mãnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần
mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh
đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy,
tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp
mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông
ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài
hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ
phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi
thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc
đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm,
ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi.
Ông giúp mẹ tôi dựng lại một vách mái loang lổ, đóng
lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn
nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều
lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều
từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất
của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ
tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em
tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy
món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông
kể chuyện sông hồ.
- Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi
và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn,
nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất
hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua
theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy
chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới
cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược
đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết
người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất
cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng
đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá
nược trên cù lao... Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng.
Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càng quét mọi sự sống,
an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không
chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú... Thôi
khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy
đứa lại rầy rà chú nữa.
Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú
Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ
kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn
bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên
nấp hầm "chảng-xê". Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô
cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay
và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã
giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả
người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn
sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm.
Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt
sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm
dài trằn trọc.
Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm.
Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự
bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng thở hổn hển của người
đàn ông. Đêm vắng lặng, tiếng thở lúc một rõ, dồn
dập vọng lại cùng âm thanh thịt da, vạt giường chạm lẫn
vào nhau... Rồi tất cả trở lại lặng im. Tiếng xột xoạt
của quần áo, tiếng trở mình khe khẻ từ phía ngoài giường
ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình,
ăn ngủ, làm tình với người xa lạ nào đó? Mà không,
bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người
kia là ai ? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm
từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh.
Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xãy
ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời
nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà
khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên
khuôn mặt bà... Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi
tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt
trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để
lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt
vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn
trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm
mắt tìm giấc ngũ... Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn
còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình...
Buổi chiều trãi chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng.
Tôi nén vu vơ vài mãnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai
đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng
tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác
trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ
vĩnh viễn không trở về vớI cuộc sống và nỗi thương nhớ
quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục
ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không
có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi khẻ liếc nhìn khuôn
mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và
có mang tình tôi trong đó.
- Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn
nhớ đến Lộc... Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp
quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng
kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn. Tiếng Lộc trầm buồn, không
như những lúc ôm đàn hát, "Người con gái Việt Nam
da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người
con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu
mình...", trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc
thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc.
Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến
dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang dãy chết
trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưởi tôi đông cứng
trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi
ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức. - Loan hứa chờ Lộc
trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã,
với Loan. Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết
chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI
sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin
và hy vọng...
Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc
còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và
tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì,
nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu
anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn
khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh
sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi,
Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt. Đừng nói đến
ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu
của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để
em cô đơn giữa bầu trời quá rộng... Lộc quay sang nhìn tôi
ngây dại và nắm tay tôi, xiết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức
từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, kép
chặc vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở.
Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc
lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặc bờ môi tôi
chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết
đầu lưởi tôi tê dại trong nụ hôn anh mãnh liệt. Chung quanh
như xụp đỗ dưới chân, tối tăm mê muội, khi bàn
tay tham lam của Lộc ngừng trên bờ ngực tôi... 2.
Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ
nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ
tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng
Hai vằng vặc và se sắt lạnh. Cuộc chia tay cuối cùng với dì
Út thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần
nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn
khổ trôi qua. Phiá sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là
khuôn mặt thẩn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ
tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại
tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi.
... Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia
đình tôi vào ngõ ngoặc mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ
con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và
hồi hương những gia đình "ngụy" không phải sinh quán
tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không
ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với
đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu
thương là mục tiêu đấu tranh "giai cấp" của chính quyền
mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ
bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ
học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày
đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa
trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi
ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt
hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người
khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình
tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng
đãi của đám chính quyền địa phương. "Cách mạng"
xóa bỏ tỉnh Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn
vị huyện thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có
công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư
tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú
đã vô tình giúp đở dấu trên ghe một người đàn
ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc
gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư
thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì,
cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người
hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc
ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các
đồng chí lãnh đạo tỉnh... Chú Bảy trở thành dượng
Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ.
Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng
bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No.
Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa.
Mẹ và dượng mở lại quán cơm. Cuộc sống gia đình tôi
từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng
buột bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em
tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng
trên tỉnh... Và, tôi đã biết được người đàn
ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy.
Ngày tháng qua,
tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng
kinh mà thương nhớ một người. Đã năm năm rồi thoáng
chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền
biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng
cuốn dần theo năm tháng mõi mòn. Tôi không còn là cô
học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi.
Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của
xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời
gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi.
Những cuộc tình đó thật ngắn ngũi và không để lại
một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên
tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là
những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu.
Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào
xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người
trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó,
có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẫn
bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ
chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm
người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác
hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần
tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới
lớn.
Tính về dạy trường cấp 3 thị xã vài tháng sau ngày giải
phóng. Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông, còn đang chơi vơi với
những đổi thay thì quen Tính. Chúng tôi rơi vào cuộc tình
của nhau dễ dàng, vội vã. Ngày mai là đám mây mù của
bao nhiêu từ ngữ mới, đảng ta vinh quang hạnh phúc, ngụy quân
ngụy quyền, tội ác với nhân dân... vân vân và vân vân.
Cùng với hợp tác xã, hộ khẩu, cửa hàng, gạo bán cân
từng ký, hàng nhu yếu phẩm tính đầu người... còn bao nhiêu
thứ nữa để tuổi trẻ chúng tôi lao vào những cơn lốc
của thời cuộc và cả tình yêu. Tôi và Tính ở cơn
lốc của tình yêu, để quên và cũng để biết mình
còn hiện hữu. Một đêm tôi đã trao anh những giọt máu
trinh nguyên từ cửa mình con gái, những mê sảng đầu đời
của tình yêu thể xác. Nhưng nghiệt ngã thay, trong nỗi đê
mê dục vọng tôi cứ tưởng mình đang nằm trong vòng tay của
Lộc và rên xiết gọi tên anh. Chỉ vài tháng sau, Tính bị
bắt vì tội chứa chấp tài liệu phản động và có mưu
đồ "chống phá chính quyền cách mạng". Lần cuối vào
thăm anh trong phòng tạm giam thị xã, tôi đã khóc xót xa còn
anh thì chỉ lặng nhìn tôi thương cảm. Sau đó nghe nói anh
bị áp tải lên công an tỉnh. Tôi tìm tới thì được
trả lời là đã đưa đi nơi khác, nhưng không ai cho biết
ở đâu. Tính biến khỏi cuộc tình tôi từ đó, vĩnh
viễn. Tôi hy vọng giữ lại chút gì còn lại của anh, nhưng
tất cả chỉ là niềm thất vọng. Những buổi chiều một mình,
ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã
phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không
còn ai ở lại..? 3.
Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm
lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui: - Trạm kiểm
soát... Tụi nó kêu ghé vô. Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại
chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi
vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ: - Nhớ là
mình về giỗ ngoại ở Giồng Riềng, Kiên Giang nghen con. - Dạ...
Chiếc ghe máy
cập sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác
súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe. - Đi đâu mà đông dầy
nè. Có giấy đi đường hông... Chủ ghe đâu ? - Dạ gia đình
tôi về quê đám giỗ. Có giấy đi đường đây,
trình mấy chú.
Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn
trên tay. Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy,
còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái. - Chú cho coi giấy
chứng minh nhân dân.
- Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn
đám. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi. Hai người thanh niên cầm giấy
tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. MọI
người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc
xược:
- Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ !
- Dạ chuyện gì vậy chú...
- Thì cứ lên trạm sẽ rõ.
Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ.
Tay chân tôi lạnh ngắt, nghĩ đến căn buồng tạm giam mà một
lần tôi đến thăm Tính. Trạm kiểm soát là căn nhà
lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối
căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống
cười mai mĩa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải
rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác
với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi
và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy
mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất.
Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ: - Tụi nó tình nghi mình vượt
biên.
- Làm sao bây giờ... Mẹ tôi hốt hoảng. - Đợi tụi nó đi
gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết.
Giọng dượng
Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề
trôi qua. Tôi nhớ đến những vòng kẽm gai của trại tạm gian
và khuôn mặt gian ác của tên cán bộ giữ tù lần thăm
Tính, khẻ rùng mình. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy
tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an
nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình
thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự
an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có
thể xãy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài
tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sửng sờ
ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc.
Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không
gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi xạm đen, ráng nắng. Tôi
chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút
ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn
đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy
thân của gia đình tôi cho Lộc:
- Xin báo cáo đồng chí trưởng đồn. Giấy tờ đầy
đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều
thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Gía, rất tình nghi
tổ chức vượt biên.
- Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm
vụ. Hai người
công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc
nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng
Bảy:
- Ông là chủ hộ, chủ ghe.
- Dạ phải.
Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi
sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên
mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ
là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang
trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào
vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ
đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên.
Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy
từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám
nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ
tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối
với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì.
Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa, "Từ lúc
đưa em về là biết xa nghìn trùng...", như bao lần ai cất
tiếng hát em nghe.
- Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi. Tiếng dượng Bảy làm
chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu
cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng
đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn
lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước
xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói: - Xong rồi, mình đi.
- Thiệt
hả... Ông nói gì với tụi nó vậy. Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt
bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh
tay trái, ôn tồn nói nhỏ:
- Nói gì đâu... Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi
dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ
cho đi, còn chúc hờ lên đường may mắn.
Chiếc ghe máy
dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi
không cầm được nước mắt, cắn chặc môi để không
ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía
sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình
bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Phía
trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông
sẽ về với biển... Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn
mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh, "Nơi em về ngày vui không em "Nơi em về trời xanh không em "Ta nghe nghìn giọt lệ "Rơi xuống thành hồ nước long lanh... (Như Cánh Vạt Bay
- Trịnh Công Sơn) Durham, North Carolina Nguyễn Vĩnh Long
Ngày
Tình Nhân Bỏ hạt muối vào biển
Hỏi biển có mặn thêm?
Bỏ nỗi buồn vào mắt
Nước mắt có thêm nguồn?
Chúc nhau chi trăm tuổi Cho gương soi muộn phiền Chúc bao điều hạnh phúc Tình yêu cao rộng hơn? Đêm
về theo chân nắng Sẽ sáng
phía bên người Niềm
vui và cay đắng Hai mặt
của đời thôi!
Dấu đường xưa mưa phủ
Cho cỏ non chân trời Tìm chi mùi hương cũ Khi tàn y muôn nơi! Mỗi
năm ngày Tình Nhân Gửi
chi triệu đóa hồng Màu
hoa rồi cũng úa Hỏi tay
người thủy chung?
Nguyễn Vĩnh Long
Tết Đã Qua Mùng
Ba Mươi tôi là Mùng Một em
Làn khói hương mang nắng qua thềm
Trong thiêng liêng có bao hình bóng
Theo gió bên ngoài lạnh suốt đêm
Qua sáng
Mùng Ba ngày vẫn vậy Vẫn nắng
mong manh thiếu cảnh nhà Bên mâm
cúng đủ gà, xôi, rượu Chỉ
thiếu mặt người vẳng phương xa
Chỉ mới Mùng Năm mà xa lắc
Mùa Tết em tôi mắt ngại ngần
Như thể bốn ngày chưa đếm đủ
Những lần pháo nổ nhớ người ta!
Thôi
đã qua Mùng như thể chẳng Có
mùa Tết thuở cúc vàng hoa Ngõ
nhà ai đó màu sân nắng Như
trải áo tà hương phấn xa...
Nguyễn Vĩnh Long
Những Bóng
Hình Năm Cũ 1.
"Nhà tôi bên
chiếc cầu soi nước, "em đến
thăm một lần "Bao lũ chim
rừng hợp đàn trên khắp bến xuân "Từng đôi chim trong nắng ríu rít ca u ú ù
u ú "Cành đào hoen nắng
chan hòa "Chim ca thương nhớ,
chim ngân xa u ú ù u ú "Hồn
còn ngây ngất chẳng vương... (1) Tiếng hát trầm ấm,
ngọt ngào của ca sĩ Cao Minh như vang vọng lại những dư âm của
cả một khung trời dĩ vãng. Bên ngoài gió đuổi từng cơn
lạnh buốt người, nhiệt độ xuống -5°C (23°F). Căn phòng như
co rút lại, cuộn tròn trong nỗi nhớ mịt mùng. Thuở ấy, căn
nhà trọ tôi ở không nằm "bên chiếc cầu soi nước",
như căn nhà thơ mộng của cố nhạc sĩ Văn Cao. Căn
gác trọ của tôi nằm trong hẽm nhỏ, có thể đi vào từ
cả hai phía đường. Mặt ngoài là đường Phan Đình
Phùng rẽ vào và đi ngang qua chùa Phước Hòa. Mặt sau là
đường Nguyễn Thiện Thuật, theo con hẽm đối diện cà phê
Năm Dưỡng. Để có những chiều, tôi đều lắng nghe từng
hồi chuông tĩnh vọng từ phía ngôi chùa đầu hẻm. Để
có những chiều, người con gái đưa tôi về, dừng trước
cổng chùa đúng lúc ngân lên từng hồi chuông tĩnh vọng.
Nàng chấp tay, cúi đầu khấn nguyện. Tôi hỏi. Nàng lắc
đầu, nói nhỏ: "Hổng thèm cho anh biết". Rồi quẹt đuôi
tóc vào má tôi: "Cho anh nợ em những hạt bụi đời",
cười khúc khích và quay xe chạy khuất quanh đầu ngõ. Nắng
chiều rơi nhẹ, in bóng người bụi phấn sau lưng... Tôi không
tin đời người sẽ về với cát bụi mà sẽ trở lại
với nơi chốn bắt đầu? Sống và đi qua bao nhiêu nơi chốn
bụi trần, người con gái ấy đã để lại trên má
tôi những hạt bụi đời thương nhớ. Hãy nằm yên nghỉ
bụi ơi, ở một nơi quê nhà vời vợi... Đêm cuối năm trong bao nỗi nhớ tưởng chừng như
đã lãng quên, khuất lấp chìm sâu. Những khuôn mặt, vài
cái tên mang đâu đó bóng dáng của thời gian nghiệt ngã,
bóng dáng bao cuộc tình thôi đã mộ phần. Trái tim vẫn
đập, mơ ước vẫn còn sao kiếp người đã cuối bãi
đời qua. Để người yêu dấu ơi, tôi như con thú trong đêm
xa xứ lạ buốt giá, chợt cúi đầu liếm thật sâu vào
những vết thương mình trở dậy. Nhưng đêm nay, với những
tờ lịch cận Tết quê nhà, tôi ngồi đây không phải nuối
tiếc nhớ về những khuôn mặt có tên, những môi hôn còn
hằn lại đâu đây mùi hương phấn người. Không, không
phải. Trái tim tôi đang thổn thức, quặn đau một bóng hình
người con gái tôi không còn nhớ mặt và không biết cả
tên. Người con gái chợt tình cờ, thoáng qua đời tôi chỉ
một lần, như chuyến phà ngang trong ngày cuối năm rất cũ. Không
bóng hình, không tên nhớ, vậy mà đã ám ảnh, đã
cưu mang hết cả đời này. Đêm chỉ mới bắt đầu và
ngày vẫn còn khuất sâu trước mặt... 2.
... Khoảng hơn
mười giờ, chuyến xe dừng lại bến phà Mỹ Thuận. Tôi ló
đầu ra cửa, điệu này chắc phải cả tiếng đồng hồ
mới qua được phà. Hai mươi sáu Tết, không khí thật
ồn ào, nhộn nhịp. Tiếng còi xe, tiếng rao hàng, tiếng mời gọi
nức vang dọc theo dãy hàng quán bên đường. Trong cảnh rộn
ràng của những ngày cận Tết, không khí chiến tranh cũng không
lắng dịu chút nào. Những đoàn xe nhà binh che đậy bít
bùng, từng đoàn đang chạy vội vã, vang dậy tiếng còi inh
ỏi, thúc dục. Cảnh sát, lính địa phương từng tốp xuôi
ngược theo dòng người dọc hai bên đường, đôi mắt
lặng lẽ quan sát sẵn sàng cho mọi bất trắc xảy ra. Vài
người thanh niên bị chân lại trình hỏi giấy tờ... Gói mười
ổ bánh mì Sài-gòn, được tôi treo cẩn thận trước
khi quảy chiếc túi vải xuống xe. Đây là món không thể
thiếu mỗi lần tôi về thăm nhà. Bánh mì ở đâu cũng
có, vậy mà phải là bánh mì Sài-gòn mới được.
Quà cho nhà, cho bà con chòm xóm. Mẹ tôi nói, bánh mì
Sài-gòn ăn không cũng ngon. Tôi thì không thấy như vậy.
Bánh mì Sài-gòn hay bánh mì Vĩnh Long, Cái Bè tôi ăn
cũng thấy như nhau! Mẹ và bà con quê nội nói, chắc tại
tôi ăn bánh mì Sài-gòn mấy năm nay nên quen miệng, không
thấy khác. Chứ thật sự, bánh mì Sài-gòn rất đặc
biệt, có mùi thơm và độ giòn rất là Sài-gòn,
chỉ có bánh mì Sài-gòn mới có. Tôi tin mẹ và bà
con quê nội nói đúng. Ly cà-phê và cái bánh tiêu hồi
sáng sớm vẫn còn no bụng. Thôi thì đợi trưa tới Vĩnh
Long ăn luôn trước khi xuống đò về nhà nội... Những chuyến
xe về quê cuối năm người đông như nấm, đi bộ phải
lách phải luồn mới không đụng vai chạm tay. Dưa hấu màu
xanh thẳm, bóng lưỡng chất đống dọc hai bên đường. Rồi
thì mứt, đủ loại đủ màu, bày cùng khắp trong bọc,
trong những hộp bao giấy kiếng thật đẹp và bắt mắt. Tiếng
mời mọc, nỳ nèo giá cả, tiếng cười nói rộn ràng
một không khí Tết gần kề. Đó là chưa kể mùi hủ
tiếu, cháo lòng, mùi thịt nướng thơm lừng... quyện kín
cả vùng. Tôi thương vô cùng không khí cuộc sống hai bên
bờ phà Mỹ Thuận, bận về cũng như bận đi. Có cái gì
đó bịn rịn quê nhà khi sang phà, trước khi vào Sài-gòn.
Có cái gì rộn ràng cho nửa đoạn đường gần quê
nhà hơn, khi bước chân lên chuyến phà qua bên kia bờ chờ
đợi. Tôi sẽ thấy hình dáng của mẹ gần hơn. Tiếng còi xe vang dậy,
kềm theo từng đoàn người tất bật ngược dòng. Chắc phà
vừa cập bến. Tôi thấy hơi khát, định ghé vào mua một
bọc nước mía cầm theo. Chợt đâu văng vẳng trong tiếng ồn
ào, náo nhiệt của bến phà vang lên tiếng đàn với nhịp
điệu quen tai. Tôi khựng người, lắng nghe. Tiếng đàn gần,
gần dần và quyện trong tiếng hát giọng nữ ngọt buồn:
"... Mưa ơi! Mưa ơi! Mưa gieo sầu nhân
thế Mưa nhớ ai, biết người thương có còn nhớ hay quên
Riêng ta vẫn u hoài Đêm đêm tiếp đêm nhớ mong người
Đã cách xa..." (2) Người
con gái dáng gầy gò, chiếc áo màu xanh đậm bạc màu,
một tay cầm chiếc nón lá rách vành, tay kia cầm chiếc gậy
theo sau là người đàn ông độ ôm đàn thùng, đeo
kiếng sậm đen. Tiếng hát ngân dài dịu vợi, bơ vơ trong
tiếng ồn ào, nhộn nhịp bao cuộc đời xuôi ngược chung quanh.
Vài người khách bộ hành dừng lại nhìn cô gái, rồi
bỏ vội vào chiếc nón lá rách vành những tờ giấy bạc
vô tình. Âm vang cuối cùng của bài hát đã dứt, khoảng
lặng yên như xô đẩy dòng người dòng đời náo nhiệt
hơn lên. Tiếng từng phím đàn lại rão lên một bài
hát khác. Người con gái ngẩn mặt lên, dưới mái tóc
bồng bềnh biếng chảy là đôi mắt, đôi mắt u hoài như
chẳng nhìn ai, sao xé thịt da người. Đôi môi tuổi xuân thì,
cũng phơn phớt hồng cất giọng, bất chấp gian truân hằn sâu
trên khóe mắt: "Mưa rừng
ơi, mưa rừng! Hạt mưa nhớ
ai mưa triền miên Phải chăng
mưa buồn vì tình đời Mưa
sầu vì lòng người Duyên
kiếp không lâu..." (3)
Tiếng hát thơ ngây sao vọng nỗi u hoài
trong không gian rộn rã vây quanh. Tiếng hát như bóp chặc mỗi
nhịp đập tim tôi, giữa mùa gió trở. Tiếng còi xe bất chợt
kéo tôi về thực tại. Chuyến xe tôi đang chuyển bánh về
phía bến phà. Tôi móc vội những tờ giấy bạc trong túi,
những tờ giấy bạc dành dụm suốt năm dạy kèm trong đáy
xách vải. Đi nhanh về phía tiếng hát, tôi bỏ tất cả nắm
giấy bạc và cả tấm lòng mình vào chiếc nón lá rách
vành. Tiếng hát bất thần im bặt giữa nhịp đàn. Dưới
đôi chân mày đen rậm, ánh mắt ngưởi con gái thoáng
kinh ngạc, chút bừng vui. Tôi quay đi nhanh, chạy theo chuyến xe hướng
về phía trước. Trong bước chân vội như trốn, tôi chợt
ngoái đầu nhìn lại tự dưng, để bắt gặp lại ánh
mắt thoáng hiện nụ cười cuối khóe, nhẹ tênh. Ánh mắt
ấy như xô đẩy tôi vào một khoảng không chất ngất xúc
cảm bất ngờ... Chuyến phà rời bến, thổi hơi nước trong khứu
giác tôi rộng mở. Tôi muốn la to lên niềm hạnh phúc vỡ
bờ. Tôi cũng quên mất, trong người tôi trống rỗng, không còn
gì cả. Không tiền để ăn trưa, không tiền cho chuyến đò
về nhà nội. Mà cần gì, trong tôi đang căng đầy hạnh
phúc; căng đầy mọi nỗi niềm, đầy ấp ánh mắt, bóng
hình của người con gái hát dạo ở lại bên kia bến phà
Mỹ Thuận. *** *** *** Rất nhiều
năm, nhiều năm sau nầy, trên chuyến xe về thăm lại quê nhà,
tôi nói với người lái xe dừng lại dưới chân cầu Mỹ
Thuận. Thời gian không ngừng lại chờ ai. Cuộc sống không ngừng
trôi trong mọi kiếp người hữu hạn. Tóc tôi đã bạc
màu năm tháng. Đất nước, quê hương tôi đang trẻ
lại từng ngày. Trước mắt tôi là hiện tại. Những gì
tôi nhớ, tôi muốn tìm là quá khứ, là những vùng ký
ức chìm sâu. Dọc hai bên đường là những công trình
đang xây cất, là những tấm bảng quảng cáo đầy màu
sắc của hôm nay. Thỉnh thoảng có vài tán dù bày bán
những chai nước uống, bánh trái lẻ loi. Chân cầu Mỹ Thuận
đã hiện ra phía trước. Chiếc xe chậm lại, người tài
xế trẻ quay qua tôi: -Đây là
điểm gần nhất em có thể dừng xe cho chú. Đó là một trạm xăng Petrolimex. Bên hông trạm
xăng, phía ngoài là một quán ăn nhỏ. Chiếc xe dừng và
tắt máy trước cửa quán. Tất cả lục đục xuống xe, bà
xã nói: -Mọi người vào quán
uống nước, để anh ấy đi chụp vài bức ảnh. Quá quen tính bốc đồng, cũng như những
cảm xúc riêng tư, bà xã rất tôn trọng giây phút "một
mình" của tôi. Đi dọc theo lối cỏ ven đường, tôi đã
nhìn thấy những sợi cáp treo của cầu Mỹ Thuận. Đã thấy
xa xa mặt nước sông Tiền nâu sậm và mùi hơi nước thoảng
trong gió lùa. Cảnh vật không còn chút gì để nhận ra,
nhưng bầu trời vẫn xanh với từng cụm mây trắng lơ lững như
ngày nào. Và hương vị, cái hương vị của quê tôi
cũng không hề thay đổi. Mùi hanh hanh của nắng, mùi ngây ngây
của hương đồng cỏ nội, mùi hơi nước nồng tênh phả
vào từ phía ven sông. Mùi vị mà không bất cứ vùng đất
nước nào tôi đã sống, đã đi qua có được.
Mùi vị của quê hương tôi! Mỗi bước chân tôi như
đang đi ngược về quá khứ. Ánh mắt tôi như chợt nhạt
nhòa những hình bóng của ngày xưa. Những chuyến phà ngang,
những dòng đời xuôi ngược và... một ánh mắt. Ánh
mắt của tiếng hát một đời tôi cứ hệ lụy, cưu mang.
Họ là ai? Người con gái hát dạo ngày đó là ai? Tên
gì? Hay cũng chỉ là một cái tên trên đường đời
muôn vạn nẽo. Về đâu, hởi người con gái một lần tôi
gặp giữa trời miên viễn? Họ còn hay mất, có ai nghĩ đến,
đoái hoài? Người con gái ngày nào có còn nhớ đến
tấm lòng, tôi đã bỏ lại trong chiếc nón lá rách vành
một chuyến qua sông? Buổi chiều rơi nhè nhẹ, như vẳng lại
đâu đây tiếng hát mơ hồ, hư thực. Tiếng hát của
ai? Tiếng hát tôi tâm tưởng hay tiếng người con gái hát
dạo ngày xưa của bến phà Mỹ Thuận: "... Mưa rừng ơi! Mưa rừng
Tìm đâu hởi ơi bóng người
xưa Mỗi khi mưa rừng về muộn
màng Bóng chiều về dần
tàn Lòng thương nhớ nào
nguôi..." (3) 3.
Muốn hay không, chờ đợi hay dững dưng, thời gian vẫn một
dòng xuôi chảy. Xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tuần hoàn
theo qui luật của đất trời. Có bao nhiêu mùa xuân cho một đời
người? Còn bao nhiêu mùa xuân nữa cho mỗi chúng ta? Từng phút
giây của hiện tại đang lặng lẽ trôi vào quá khứ, vĩnh
viễn. Mỗi kiếp người, chừng như là mỗi số phận. Để
mỗi số phận là cả một định mệnh an bài? Chỉ cầm một
đưa tay, chỉ cầm một bước chân rẽ lối hay chỉ cầm một
ánh mặt, là cả khúc quanh của đời người? Tôi không
tin, nhưng cũng không thể giải thích được những số phận
quanh mình... Đêm cuối năm lạnh buốt, thoáng chợt thắp lên
bao ký ức của mùa xuân đang trở về phía bên kia bờ biển
mặn. Linh thiêng làn khói tỏa, hương thơm tà áo mới trong
không gian sánh đặc của ngày Tết Nguyên Đán. Thương
tưởng những bóng hình năm cũ, chào đón những ngày
mới trước mặt, xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Bùi
Giáng như nén hương trầm tiễn một năm nữa sẽ qua:
"Xin
chào nhau giữa con đường "Mùa
xuân phía trước, miên trường phía sau... Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long
(1) Bến Xuân - Văn
Cao (2) Lạnh Trọn Đêm
Mưa - Huỳnh Anh (3) Mưa
Rừng - Huỳnh Anh _____________________________________________________________
. Người Con Gái
Kinh Cấm 1.
Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một
bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ
tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy.
Chỉ biết từ sau ngày "giải phóng", chính quyền địa
phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc.
Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện trở lại gọi tên cũ
là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai
màng đến tên gọi của cái xóm nghèo xơ xác đó...
Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá
lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp,
bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo
lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn
đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của
người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều
đời, đến nay người ta cũng rất thận trọng và ái ngại
phải nhắc đến. Chính quyền địa phương đã tổ chức
nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về
ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm
cùi nữa, mà là bà con của chúng ta và đã có nhiều
công trạng với "cách mạng" trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những
cố gắng, kêu gọi chừng như không thay đổi được gì
trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng
lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng
nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện...
Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan, vá lưới.
Phần lớn là người kinh Cấm, trong đó không ai không biết
đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới
của Mây khác với ngườI chung quanh, nhưng chỉ vì Mây đẹp.
Mây đẹp nổi tiếng cả vùng, cả huyện. Không những với
nhan sắc rực rở, mặn mà Mây lại được cả nết hiền
dịu, đảm đang. Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông
vãng lượn gian hàng lưới của nàng. Từ căn chòi lụp
xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn
cau trầu sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây lấy được
lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng nầy
cả những đám đàn bà và dân bán chợ cũng ganh ghét,
tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của
Mây, là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi
bộc phát, tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rủi
ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng
ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán
tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm
nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong tấm gương soi cô
độc. Họ, đám đàn ông con trai, chỉ lượn quanh ngắm nghía
hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông. Chưa ai trong đám họ dừng
lại, cho nàng buổi hẹn hò hay một lần chạm tay đời con gái.
Mây là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ nhưng đêm
đêm, bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân
phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá
xa xăm còn người đời thì không ai màng đến tiếng khóc
của nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn,
thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì
nàng là con gái kinh Cấm. "...
Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ
nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đời, ông
ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy giờ mẹ là cô gái trẻ,
bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại
cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán
lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám
đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm.
Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc,
âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh
Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử
đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong
mãnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ
cũng theo nếp ông bà giao vú nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất
sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống
chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, không ngủ cùng
giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn mẹ đều sắm
riêng. Mấy chục năm nay cả em và mẹ không có dấu hiệu nào
của căn bệnh hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, mẹ đau
nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng.
Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng
lại hoặc bỏ đi. Em đã quen, đã sống với sự xa lánh
của người đời như một cố nhân. Em sẽ không hờn oán
hay trách cứ gì anh đâu..! ".
Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn.
Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa
lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây
như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt
nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày.
Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập
chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ tình yêu trong tay, như một định
mệnh thiết tha không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt
Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử
thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng
như tôi dễ tin yêu hơn với cuộc đời không rộng lượng.
Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nổi sợ hãi và sự khinh miệt
của con người. Thế hệ tôi
lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh
tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé
nhỏ đến đâu cũng được che đậy, dấu kín dưới
bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống
chung với gia đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn
bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của
Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu
tháng học tập chính trị và triết học Mác Lê-nin, tôi
được "công lệnh" về dạy trường trung học phổ thông
huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được
ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre, vừa che khỏi đầu. Ba cô
một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm
trước ngó sau... Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc
xe đạp thổ tả của tôi đứt "xênh" nằm đường.
Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già dạn, phong sương
hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu
trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia
đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài,
là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài
lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính
hải quân. Sau ngày "giải phóng", anh trở về đây tiếp
tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái
tên Hai Chài đẻ ra từ đó.
Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng
được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa
trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy
kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ
sáng, Hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng
vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một
con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối
nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ,
làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nổi anh phải
nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã
mạn rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha
thiết...
- Vĩnh ơi, hãy
nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối,
để một đời luôn sợ hải và mọi người lánh xa.
- Ngoài
tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và
nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết. - Nhưng anh có cả
cuộc đời trước mặt. Còn em, chỉ có bóng tối của ngày
mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được
sự may rủi sau này! Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi
nỗi bất hạnh, nỗi bất hạnh biết trước.... Còn anh, tình
yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn
trong sự xa lánh, ghê tởm của người chung quanh..! Mây nói thật
nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy
trong chính chiếc bẫy lòng mình, xức trầy bao vết thương tuyệt
vọng.
- Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, cần
tình yêu của em mà thôi. Tình yêu em là hơi thở trái
tim anh, mất nó, đất trời nầy chỉ là một khoảng trống mênh
mông, đầy bóng tối. Mây ơi, đừng để anh phải chết
mòn trong tuyệt vọng và sống vô nghĩa giữa đám đông.
Tôi nói như lời cầu kinh, vang vọng trong gió
biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng
tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây ơi, xin đừng
lừa dối với chính mình! Vì trong mắt em, tôi đã nhìn
thấy mọi yêu thương, mọi ước vọng cho đời này nghiệt
ngã. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn
thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ
nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn
sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn
mặt Mây và nhìn thật sâu vào mắt nàng. Thật sâu như
để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hải mà người
đời đã dành cho Mây. Tuyệt nhiên không. Tôi đã nhìn
thấy tôi, trong tình yêu có thật của Mây. Và Mây đã
nhìn thấy chính mình có thật, trong tình yêu của tôi. Tình
yêu của tôi và Mây đứng ngoài thế giới đáng sợ
này. Nó không hiện hữu trong tấm gương soi và cả ánh mắt
người đời! Cuộc đời chỉ là huyễn hoặc nếu không
có tình yêu chúng ta, phải không em? Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện
lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là
tương lai hay chỉ là một định mệnh đợi chờ, tôi không
màng biết tới. Vì ở đó có Mây, vì ở đó có
tôi. - Mây, đây sẽ là
tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai
là thời điểm đã định, anh cùng gia đình Hai Chài
rời bến... Em hãy treo ngọn đèn bão trước hiên nhà vào
lúc nửa đêm và đợi ở cuối dòng kinh Cấm. Thấy ngọn
đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu
không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến
hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không
còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão
đêm nay và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm. Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy
rừng mắm. Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập,
nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt
đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền
hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được
xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi
môi nàng hé mở. Mây như lòng biển đêm bất chợt
chuyển mình trước cơn giông. Môi nàng bám chặc môi tôi
tê dại, không rời... Bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn,
dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá
chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những
sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều
vun vút gió bốc cao, thật cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế.
Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng
hạnh phúc và tuyệt vọng... 2.
Quá nửa khuya, đêm tối
đen không thấy rõ mặt người. Dọc bờ kinh Cấm, những dãy
nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp.
Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà Mây.
3. Giọng kể đều đặn của
tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ
sáng. Bên cạnh, đứa con gái điếm người Phi-líp-pin giương
đôi mắt đen tròn nhìn tôi.
- Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông ? - Vào đêm không
trăng, cuối tháng Mười năm 1980.
- Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không ?
- Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn ba mươi năm
nay.
- Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.
- Phải. Đến đó là hết. Đứa con gái thở dài nhè
nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi
để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi
dậy, nói nhỏ:
- Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.
- Nhưng... em chưa làm được gì cho ông ! Vã lại, ông đã
trả tiền "bao" em hết cả đêm nay kia mà. - Tôi biết.
Cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô
sao ?
- Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật..?
Đứa con gái nắm tay tôi giữ
lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật
giống như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi
xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh
xinh đẹp của Mây hơn ba mươi năm về trước... Tôi hôn
vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương
của cô gái.
- Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm
mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn,
tận cùng khoái cảm !
- Không. Tôi không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc
cô nhiều may mắn.
- Cám ơn ông và chào tạm biệt.
Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu
lần khác, tôi nói dối với đứa con gái điếm người
Phi. Vài năm trước, tôi đã trở về kinh Cấm để mong tìm
lại Mây. Tất cả không còn nữa. Không còn ai nhắc đến
người con gái kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống
hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do vài người hàng xóm
kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện
nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.
4. ... Đêm
đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người
đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của
con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn
năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong
bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ
là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của
Mây, như chính của bà ngày xưa... Bà nhớ rõ như mới
hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu
tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp
thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã
tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc
đời nầy. Thời gian với họ, chỉ là sự tồn tại tạm bợ
của xác thân. Với tình yêu, họ đã tìm thấy được
sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà
bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình
vô tướng... Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là
đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai
cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là
tất cả đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà
mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân
phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ,
độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn
dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa
ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng,
giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề
và ghê gớm nhất đang trừng phạt tâm hồn bà. Làm sao bà
quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ
sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ
vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh
phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó
là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng giòng nước mắt khô
lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái
chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ
còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn,
mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương
trời biển: - Mây, con
hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó
không thuộc về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột
của mẹ. Sau ngày chôn cất mẹ,
người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu
nữa. Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng
cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như
mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương
vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển
hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót
xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.
Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn
nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không
trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh Cấm đều
treo ngọn đèn bão trước hiên nhà. NGUYỄN VĨNH LONG ___________________________________________________________________________
Hương trầm cuối
năm Thắp nén hương
xin đưa tiễn thời gian Đêm cuối
năm mịt mù trầm tích cũ Làn
khói tỏa thấp dần theo dấu trũng Mặt
đời cong một vòng kín vội vàng Nâng ly rượu sao đắng
tình xứ lạ Cũng gật gù mừng
năm nữa đã qua Cứ như thể
nhìn gương soi tiều tụy Mới
thấy đời nhiều dáng vẻ kiêu xa! Đón năm mới mùi
hương trầm khói đọng Bịn
rịn đưa người khách lạ sang sông Dòng luân hồi con đò nhỏ hư không Dấu tiền kiếp trên môi đời khép cạn
Đêm
cuối năm chợt như chừng quên lãng Khói hương trầm một nén thắp trăm năm Bông tuyết trắng lạc về đâu bóng nhạn
Mắt ơ hờ thương tưởng những mê
cung..!
Đêm tuyết
rơi, chợt
nghe câu vọng cổ
Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng
cổ: "... Ai đang đi trên đường
đê, "tai lắng nghe muôn câu
hò đê mê "Vô đây
em, dù trời khuya anh vẫn đưa em về
"Giữa trưa buồn nghe não nuột lòng
ơi... (*) Câu hát cũ chạnh lòng
đêm xứ lạnh Gió ngoài hiên
rả rúc những vô cùng Thôi
đã lỡ nhịp xề xang cống líu
Ai đưa em về chiều khép hoàng hôn... Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng cổ:
"... Qua biên san kìa ai tiễn rượu vừa
tàn "Vui ca vang rồi đi tiến binh
ngoài ngàn "Người đi ngoài vạn lý quan san "Người mong chồng còn đứng muôn năm...
(*) Tiếng hát ai buồn như chuyến
phà ngang Con nước chảy thiết tha
đời khách lữ Chiếc nón lá che nghiêng khuôn mặt nửa Bóng thời gian, phân nửa phấn hương
tàn! Đêm tuyết rơi, chợt
nghe câu vọng cổ: Hò cống xang,
cống xế líu xang xề...
Nguyễn Vĩnh Long (*) Sầu Vương Ý Nhạc - Viễn Châu
Cà Phê Lá Me Tôi bắt
đầu tập uống cà phê và hút thuốc vào cuối năm lớp
đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Thật lòng mà nói, lúc đó
tôi chẳng thấy ngon lành gì, vừa đắng lại vừa khó thở.
Nhưng theo đám bạn, không hút thuốc không uống cà phê là
chưa thành "người lớn", chưa đủ điều kiện qua cổng
trường con gái trồng cây si. Cà phê thì tôi uống cà phê
sữa, cà phê ít sữa nhiều. Thuốc thì tôi thử qua mấy loại
của đám bạn rủ rê như Ruby, Bastos... khét và nặng chịu
không nổi. Cuối cùng đành phải chọn loại có đầu lọc,
thích nhất là Salem, có vị cay the the củạ bạc hà. Thế mà dần dà trở thành thói
quen, thành "nghiện". Loại thuốc lá Salem có đầu lọc rất
được ưa chuộng và thông dụng. Thông dụng đến nổi
không biết bao giờ, đã được "phụ đề" theo tiếng
Việt, đọc xuôi và đọc ngược: Sao Anh Làm Em Mệt
- Mà Em Làm Anh Sướng!
Điều đáng nói là, những người con gái "tôi yêu
và yêu tôi", đều là những cao thủ cà phê thứ thiệt:
phin đen đậm đặc, ít đường! Nên mỗi lần đi cà
phê với "nàng", nhìn tôi thật tội nghiệp. Vậy mà
đã thành bao chuyện kể, bao kỷ niệm mai này... Cà
phê Năm Dưỡng Lên Sài-gòn
tôi ở trọ căn gác trong hẽm chùa Phước Hòa, phía sau trường
tiểu học Phan Đình Phùng, do một người quen dưới quê giới
thiệu. Năm đầu tôi ăn cơm tháng của gánh cơm dì Ba,
bên hông quán cà phê Năm Dưỡng. Đây là quán cà
phê rất nổi tiếng của nhiều giới của Sài-gòn lúc bấy
giờ, từ thành phần công nhân lao động đến quân nhân
công chức và nhất là sinh viên học sinh. Bình dân, cà phê
ngon hết cở lại giá cả rất "mềm", nên khách sắp hàng,
ngồi chen chúc, la liệt ra tới mặt đường. Ly cà phê đen đặc
sệt với một cây tăm có miếng "bơ" trên đầu, quấy
lên sóng sánh và thơm phức, không thể cầm lòng được.
Quán Năm Dưỡng trong hẽm đầu đường Nguyễn Thiện Thuật
và Hồng Thập Tự, nối liền với đường Lý Thái Tổ.
Từ nhà trọ của tôi, đi bộ khoảng 10 phút là tới, rất
tiện lợi, vừa ăn cơm vừa uống cà phê luôn thể. Thích
nhất là tờ mờ 4, 5 giờ sáng, thả bộ ra quán nhâm nhi một
cà phê sữa nóng, bập bẹ vài điếu thuốc và lắng
nghe: "Người ơi, khi cố quên
là khi lòng nhớ thêm Dòng
đời là chuỗi tiếc nhớ Mơ
vui là lúc ngàn đắng cay... xé tâm hồn" (Sầu Lẻ
Bóng - Anh Bằng)
thì cuộc đời "tựa những
chiêm bao". Lại có lời đồn cà phê ở đây, chủ
quán có cho chút chất ma-túy gây nghiện. Thực hư thế nào
không biết, nhưng có điều cà phê Năm Dưỡng vẫn mãi
mãi là bao "chuyện kể" của một Sài-gòn xưa, một thời
vang bóng của tuổi trẻ bọn tôi. Nhưng điều làm tôi thích
nhất là ở Năm Dưỡng, trên bàn lúc nào cũng để
sẵn đường và sữa đặc, tha hồ tự làm một ly cà
phê theo ý mà không cần phải gọi xin thêm. Nhất là đối
với tôi, hạng uống cà phê ít sữa nhiều! Và đặc biệt
là quán cà phê Năm Dưỡng hầu hết khách hàng đều
là phái nam. Hiếm hoi lắm mới bắt gặp một "bóng hồng"
vào quán. Thêm nữa quán lúc nào cũng ồn ào, nhạc không
có gì hấp dẫn và uống cà phê như "chạy giặc",
vì phải nhường bàn cho người khác đang chờ! Cà phê Cheo Leo Nằm vạ ở cà phê Năm Dưỡng được nửa
năm thì tôi quen với Duy, cùng khoa quê ở Trà Vinh. Cùng tuổi
nhưng Duy từng trải và thổ địa Sài-gòn hơn tôi rất
nhiều. Hắn không mặn với vị cà phê và không khí của
quán Năm Dưỡng. Dù giá vừa túi tiền sinh viên nhưng không
được ngồi lâu, ồn ào và nhất là nhạc thì quá
đổi nhạt nhẽo, lê thê. Duy rủ rê tôi đến một quán
cà phê khác nổi tiếng cũng không kém, gần đó: quán
cà phê Cheo Leo. Nằm sâu trong con hẽm cùng trên đường Nguyễn
Thiện Thuật gần góc Phan Đình Phùng, quán cà phê Cheo Leo
đẹp, thanh lịch và hầu như dành cho giới nghệ sĩ, công chức,
sinh viên học sinh. Cà phê đặc biệt, loại "cứt chồn"
từ Ban Mê Thuộc được mua về, rang và pha chế tại chỗ. Cà
phê được pha bằng vợt lẫn phin, nhưng tôi thích pha bằng vợt
hơn. Độ nóng vừa tới, nguyên vẹn còn phin thì đậm
đặc thật nhưng đôi lúc phải cho vào thêm nước sôi
mới đủ độ nóng. Nhạc chọn lọc, không khí phóng khoáng,
lãng mạng và nhất là hai cô con gái xinh đẹp của ông
chủ quán. Có lẽ vì những điều này nên một ly cà
phê Cheo Leo vượt ngoài túi tiên của bọn sinh viên học sinh nghèo,
ở trọ xa nhà. Chỉ lâu lâu một chầu, nhịn ăn bóp bụng,
mới tới Cheo Leo một lần để thưởng thức cà phê và
hai người đẹp. Cô chị đẹp và ăn mặc sexy hơn cô
em, nên lần nào nàng ra tính tiền là khoản tiền "bo" cũng
cháy túi biết bao cây si (trong đó hổng chừng có cả tôi).
Từ ngày theo Duy chuyển qua quán cà phê Cheo Leo, tôi luôn hụt trước
thiếu sau, biết nói dối để mượn tiền bà chủ nhà trọ.
Hình như là cô chị tên Nguyệt và cô em tên Cầm (?). Tôi
thích nét đẹp và dáng dấp dịu hiền của Cầm nhiều
hơn. Mỗi lần ghé quán, tôi
làm bộ để chờ đợi Cầm ra mới kêu cà phê và
cả lúc tính tiền. Đến nổi những ngày đến quán sau
này, Cầm không cần phải đến hỏi mà mang ra cho tôi ly cà
phê sữa nóng, cà phê ít sữa nhiều! Cũng may tình trạng
"mê cà phê đến thiếu hụt" không kéo dài được
bao lâu thì tôi quen với N.T. Lúc đó tôi đang "tập tành"
viết kịch cho đài truyền hình Đắc-Lộ. Đây là đài
truyền hình nhỏ, được sự tài trợ của UNESCO nhằm bảo
tồn và phát huy những phong tục tập quán giá trị cổ truyền
của quê hương, đất nước. Đang theo học khoa sân khấu kịch
nghệ trường Quốc Gia Âm Nhạc, N.T làm thêm và có vài
vai diễn cho ban kịch của đài truyền hình Đắc-Lộ. Thường
khi viết xong một kịch bản, tôi nhờ N.T đọc lại và đánh
máy. Những kịch bản được chọn và phát hình, tôi
được trả một món tiền nhuận bút khá lớn, đủ
để bao bạn bè và tiêu xài cả tháng. Một lần nhận
xong, tôi rủ N.T đi ăn cơm thố Nam Sơn và cà phê quán Cheo
Leo: "... Thôi thì thôi đừng
ngại mưa mau "Đưa nhau ra tới
bên cầu nước xuôi "Sông
này đây chảy một giòng thôi "Mây đầu sông thẵm tóc người cuối sông... (1)
Tiếng hát tha thiết, vời vợi của Thái
Thanh vang lên như xô đẩy cả không gian trong quán nhỏ chìm vào
tận cùng của nỗi nhớ. Tôi và N.T chọn chiếc bàn gần cuối
dãy, mang theo nhiều ánh mắt nhìn của người chung quanh. Với khuôn
mặt trái soan đẹp, chiếc cổ thon cao với mái tóc dài, N.T luôn
thu hút và làm chủ đám đông khi hiện diện. Không phải
đợi lâu, Cầm bước ra nhìn N.T chút ngập ngừng và hỏi
uống gì. "Ly cà phê đen, ít đường, để đá
riêng", nàng gọi sành sỏi, không cần nghĩ ngợi. Cầm ghi
nhận, quay sang tôi cười cười, rồi đi vào trong. Người mang
ra không phải là Cầm mà Nguyệt, tóc búi cao với chiếc váy
ngắn, thật ngắn nếu cúi xuống thấp có thể nhìn thấy trọn
vẹn cả đôi chân dài nõn nà. "Anh đến đây thường
xuyên lắm sao? Quán cà phê nghe nhạc hay cà phê ngắm đùi
trần?", N.T cau mày. Chưa kịp phản ứng, nàng đã kéo ghế
đứng lên: " Mình đến quán khác, đi anh!". Tôi ngơ
ngác, chưa hiểu gì, vội trả tiền (vẫn còn tiếc ly cà
phê sữa nóng). "Mình đi đâu đây em?". "Cà phê
ngon nhất Sài-gòn, cà phê lá me! Em sẽ chỉ đường cho anh".
Cà phê lá me
Đó là dãy cà phê vỉa hè
nằm dọc theo đường Nguyễn Du, dưới những hàng me rợp bóng.
Từ đoạn phía trước tòa án quận 3 kéo dài qua khỏi
văn phòng của bà luật sư Ngô Bá Thành, gần đến khúc
quẹo vào vườn Tao Đàn. Hầu hết khách hàng là giáo
chức, giới văn nghệ sĩ, nhà báo và sinh viên học sinh. Cà
phê đủ loại có vợt lẫn phin, gía cả rất ư là bình
dân, vỉa hè, vừa vặn túi tiền của mọi người. Đặc
điểm nổi bật của cà phê lá me là bạn có thể ngồi
"ngâm" một ly cà phê, vài ba bình trà cũng không phiền
hà ai. Bàn ghế gỗ, nhỏ thấp và có thể tự phục vụ.
Buổi trưa trời Sài-gòn nóng như lửa đốt, nhưng nhờ
những tán me cổ thụ dọc bên đường, khách cũng thư thả
nhâm nhi ly cà phê "đứng gió". Cả mấy cô thư ký
làm trong tòa án quận cũng lấy giờ nghỉ trưa cùng tách
cà phê vội. Không ai để ý ai, chỉ tụm ba tụm bốn nhấp
từng ngụm cà phê và bàn thảo chuyện bên lề. Hòa quyện
vào tiếng cười nói là từng dòng xe cộ chạy rong ruổi
trên đường. Tất cả tạo thành không gian âm nhạc của
dãy quán cà phê lá me chen lẫn giữa đời. N.T chọn chiếc
bàn sát bờ tường chỉ có hai ghế ngồi gỗ thấp. Người
chạy bàn là những sinh viên làm thêm, cũng vừa là khách.
Ly cà phê đá ít đường cho nàng và cà phê sữa
đá, nhiều sữa cho tôi. Cà phê thơm ngào ngạt và rất
ngon. Chỉ cần vài ngụm là tất cả giác quan chừng như bùng
vỡ, lâng lâng. Ngồi dựa vào tường, nhâm nhi từng ngụm, nhìn
N.T hay nhìn bâng quơ cuộc sống đang từng dòng cuốn quanh, thật
thú vị, thật "đã". Thỉnh thoảng vài cơn gió nhẹ
về, thổi lan man từng đợt lá me bay rụng phủ mặt bàn, mặt
đường và rơi lạc lõng trên tóc người yêu dấu.
Khuôn mặt N.T đẹp lại càng đẹp thêm. Tôi có thể nhìn
rõ từng sợi chân mày vén khéo, vắt ngang dài khỏi đuôi
mắt, từng sợi lông tơ trên hai má của nàng. "Làm gì
nhìn em dữ dzậy? Anh uống thử chút cà phê của em đi", vừa
nói N.T vừa đổi vị trí hai ly cà phê. "Đắng quá mà
em uống được!", tôi nhăn mặt. "Anh uống cà phê như
người ta ăn chè cà phê", nàng cười, chế nhạo. "Uống
ly cà phê của em là tối hết ngủ luôn". "Hết ngủ thì
nhớ em". "Nhớ em, anh sợ mấy anh chàng phi công không quân dội
bom nát căn gác trọ của anh..! Còn em. Không ngủ được thì
em làm gì?". "Không ngủ được, thì em nhớ người...
dưng. Hổng thèm nhớ anh đâu mà sợ!". Cà phê vỉa hè là
cả nét văn hóa của người Sài-gòn. Cà phê lá me
là cả một "truyền thuyết" thời sinh viên, thời kỳ: "Yêu
nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài gắn bó đôi lời
- Ta quen nhau một ngày, thương nhau trọn đời, giữ cho lâu dài
(Ngăn Cách - Y Vân)", của tuổi tôi vừa lớn. Những tháng
ngày mơ ước, những bài thơ tình thấm đẫm hương
môi, những đợi chờ ngóng cổ, những chuyện đại sự "lấp
biển vá trời"... bên ly cà phê có lá me bay bay vướng
mờ kỷ niệm. Tuổi trẻ của Sài-gòn, tuổi trẻ của thời
chiến tranh cùng khắp, tuổi trẻ của những khúc tình ca:
"Theo em xuống phố trưa nay đang còn
chất ngất cơn say "Theo em bước
xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau... (2)
Và
cả những âm thanh từ quán bar đèn màu khói tỏa phía
cuối một góc đường: "As
long as I remember "The rain's been comin' down
"Clouds of mystery pourin' "Confusion on the ground "Good
men through the ages "Tryin' to find the sun
"And I wonder, still I wonder "Who'll stop the rain (3)
Cà phê lá me trở thành nơi cà
phê "xé lẻ" của tôi và N.T. Dần dà tôi đã tập
uống được phân nửa ly cà phê đen đắng và N.T thì
"ăn chè" phần cà phê sữa của tôi. Trong đắng có
ngọt và trong ngọt có đắng. Bên ly cà phê lá me mỗi trưa,
mỗi chiều có nhau hay chỉ một mình, tôi luôn nhìn thấy cuộc
sống vây quanh giữa lá bụi đường. Cái vỉa hè như khung
trời mở rộng, hơi thở tình yêu tự tại khoảng không. Có
lần N.T đưa tôi tới một quán cà phê cửa kiếng máy
lạnh nổi tiếng Sài-gòn với nhóm văn nghệ "khá giả"
của nàng: quán cà phê Cái Chùa (La Pagode), góc đường
Tự Do và Lê Thánh Tôn. Khách toàn là giai nhân tài tử,
chính khách tên tuổi, văn nghệ sĩ đi bằng xe hơi... và giá
ly cà phê là cả tuần nhịn đói của bọn sinh viên ở
trọ chúng tôi. Không khí mát lạnh giữa Sài-gòn oi bức,
như nhốt kín mọi tiếng động, mọi hơi thở của cuộc sống
ngoài kia. Trên đường về: "Lần đầu, đây cũng là
lần cuối. Anh sẽ chết ngợp vì ly cà phê thiếu khí trời",
tôi nói với N.T. "Nhìn anh, em biết. Sẽ không có lần nữa,
anh đừng giận em". "Không đâu. Đó là mặt khác,
có thật của đời sống thôi!". -- Sau này với T.H cũng vậy,
cao thủ cà phê, phin đen đậm đặc, ít đường và
không bao giờ uống có đá. Tính tình mạnh mẽ, bốc đồng
T.H thích dầm mưa Sài-gòn để... uống cà phê. Khi thì
ngồi co ro dưới tán me và cơn mưa tạt ướt cả vai lưng
áo hai đứa. Khi thì chạy tuốt lên quán cà phê Hương
gần nhà thờ Tân Định ướt mèm tóc tai quần áo, chỉ
để uống ly cà phê, chỉ để ngồi lặng im nghe hơi ấm trong
tay và nhìn những sợi mưa giăng giăng phủ mặt đời: "...
Mưa có buồn bằng đôi mắt em - Tóc em từng sợi nhỏ - Rớt
xuống đời làm sóng lênh đênh..." (Như Cánh Vạt
Bay - Trịnh Công Sơn). Những năm tháng
bên ly cà phê lá me vỉa hè, tôi học được mọi sự
sống trên cuộc đời vô thường này đều cần có tự
do và khí trời. Hạnh phúc, tình yêu cũng không ngoại lệ,
cần được nuôi dưỡng bởi bầu trời cao rộng của tự
do. Vết cắn của N.T có sâu, có rướm máu bao nhiêu, môi
tôi cũng kéo lớp da non theo ngày tháng... Tất cả chỉ còn lại
những nếp nhăn tận lòng của kỷ niệm, của dĩ vãng lúc
chìm khuất lúc chập chùng trong giấc mơ xa. Mất mát đôi
lúc không phải là những khổ đau. "Ai đưa con sáo sang sông
- Để cho con sáo sổ lồng bay xa", xót xa trách móc, phải chăng
chỉ là sự ước lệ? Hãy để con sáo bay xa, bay cao trong khoảng
trời rộng bao la có thể. N.T lấy chồng khi mới vừa hai mươi, chưa
kịp tốt nghiệp trường kịch nghệ. Chồng nàng không phải là
mấy anh phi công không quân hằng đeo đuổi, mà một viên chức
làm trong bộ ngoại giao. Cuối năm 1974, N.T theo chồng sang Tân Gia Ba (Singapore),
bỏ hẳn cuộc chơi. *** *** ***
Gần
đây trong nước với hàng loạt quán cà phê khang trang, sang trọng
mở ra cùng khắp và phát động chiến dịch "dọn dẹp"
hàng quán vỉa hè, nhất là ở Sài-gòn. Đọc tin và
xem nhiều Vlog của các bạn trong nước, tôi buồn, thật buồn và
nuối tiếc dưng không. Biết rằng thay đổi là quy luật tất
yếu của thời đại và vạn vật, nhưng sao lại khó cầm
lòng. Có nhiều nỗi khổ đau con người mong không phải gặp,
phải đối diện. Những nỗi khổ đau lấp chìm mọi ước
mơ, mọi nhân phẩm của con người. Nhưng cũng có những niềm
đau thương nâng cao tâm hồn và mơ ước của chúng ta đến
tầm cao khác. Nỗi đau thương trong tình yêu là một! Tất
cả sẽ thoáng qua, sẽ cát bụi đời này. Đến nay, mấy
chục năm sau, rong ruổi qua bao biển rộng sông dài, tôi vẫn chưa
quen uống ly cà phê đen ít đường. Tôi vẫn một đời,
sống với ly cà phê sữa nóng, nhiều sữa ít cà phê. Tôi
vẫn sống với bao nhiêu cuộc đời đổi mới, sao lòng vẫn
cũ kỷ, rêu phong. Vẫn nhiều lúc đang ngồi bên ly cà phê
lá me với N.T, với T.H... nhìn gió cuốn nghiêng nghiêng ngàn vạn
chiếc lá me bay; rồi tất cả chợt lùi dần, lùi sâu vào
khoảng không hun hút bụi đời:
"Giờ đã xa nhau, những kỷ
niệm xin vẫy chào "Vùng
lá me bay, năm tháng dài thương nhớ ai "Em cố quên đi, thương nhớ làm gì
"Tình mình như lá me rơi, trên
giòng xuôi biển khơi... (4)
Durham, North Carolina Nguyễn Vĩnh Long (1)Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng - Phạm Duy, thơ
Phạm Thiên Thư https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/dua-em-tim-dong-hoa-vang-thai-thanh.ZYILcQ4i5r.html (2)Vũng Lầy Của Chúng Ta - Lê Uyên
Phương https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-lay-cua-chung-ta-le-uyen-phuong.YZBXzhZnnDXy.html (3) Who'll Stop the Rain - Creedence Clearwater Revial
https://www.youtube.com/watch?v=lIPan-rEQJA (4) Vùng Lá Me Bay - Anh Việt Thanh
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-la-me-bay-nhu-quynh.1vOXeobFy4lf.html _________________________________________________________________
1. Tôi
bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng
về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào
tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình
vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về
chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông,
tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm
sự có mặt của một số khách "nồng cốt", để bắt
đầu chương trình. Mà bao giờ cũng vậy, các vị khách
"nồng cốt" cho các buổi sinh hoạt thính phòng nầy luôn
luôn xữ dụng giờ "dây thun" phơi nhiều nắng. Hơn nữa,
Khánh sắp tôi hát mở đầu chương trình, nên tôi sẽ
có dịp chuồn êm sau phần trình diễn... Từng động tác nhỏ,
mỗi ánh mắt vô tình của tôi cũng đã và đang là
đề tài thì thào, bàn tán của đám người chung quanh.
Tôi nhột nhạt đến khó chịu vì những cặp mắt tà tâm
của đám đàn ông cùng với những cái nhìn soi mói
của mấy bà trên khuôn mặt đẹp của tôi. Tất cả dù
quá quen thuộc, đến không còn cảm giác, nhưng lần nào
tôi cũng thấy nhân phẩm bị xúc phạm nặng nề. Ly nước
lạnh xoay tròn trên tay tôi, chừng như đang bao quanh với những lờI
tán tụng của ngườI đàn ông nào đó trong bàn. Không
hiểu sao, những người đàn ông trí thức, lịch sự và
sang trọng trước mặt không đem lại một mảy may nào chú ý
của tôi. Họ trao đổi, bàn luận những vấn đề chính
trị, xã hội và nghề nghiệp trọng đại thật say sưa, rộn
rã cố chừng khoe khoang sự thành công để chinh phục sự chú
ý của tôi. Thật ra đối với tôi, tất cả điều đó
thật buồn chán và nhạt nhẽo. Nhưng họ lại là khách của
Khánh, khán giả "chọn lọc" với món tiền thù lao béo
bở cho tiếng hát của tôi. Vậy thôi. Những buổi trình diễn
loại thính phòng nầy như một phong trào thời thượng, với
đám người thưởng thức nghệ thuật thì ít mà để
phô trương, bộ điệu và kết thành phe nhóm, bè phái
đả kích lẫn nhau thì nhiều. Không như những lần đi lưu
diễn những tiểu bang xa, những tên thành phố thật lạ, khán giả
đó mới thật sự là của tôi, vì tôi và cho riêng
tôi. Cũng vậy, ở đó tôi hát bằng tất cả rung cảm của
trái tim và bát ngát của tấm lòng; ở đó, tôi thấy
tài năng và nhan sắc của mình hiễn lộng trong cùng khắp ánh
mắt của tình người và sự ngưỡng mộ của đồng bào
tôi. Và cũng chính nơi đó, tôi đã tìm thấy tôi
như cơn bão nổi thiết tha từ một tiền kiếp đợi chờ,
mơ ước. Không như chung quanh đây, tiếng hát tôi như một
loại thời trang, một thứ hàng trang sức sau đêm dạ vũ. Những
người đàn ông chỉ là đám thiêu thân lao vào nhan
sắc tôi như lao vào đám lửa. Tự dưng tôi thèm khát
sự hờ hững, dững dưng để được một lần tôi thổn
thức cho sự lạc lõng cùng tận của chính mình. Không có
sự tuyệt vọng nào ghê gớm hơn niềm cô đơn trong giữa
đám đông, giữa những thói quen của đời sống..!
Khánh tách đám đông, tiến về
phía tôi, gật đầu ra dấu. Tôi khẻ mĩm cười, sẵn sàng.
Tôi sẵn sàng cho Khánh, nhưng cũng để sẵn sàng thoát ra
khỏi đám đông quen thuộc, chán mắt nầy... Không hiểu sao,
tôi với Khánh, cho đến bây giờ vẫn sống chung. Anh vẫn sống
sau chiếc mặt mạ giả dối và bay lượn trong vùng trời tham vọng
riêng tư. Còn tôi cứ hát ca với nhan sắc rực rỡ phủ kín
trong chiếc vỏ kén cô đơn đời mình. Chúng tôi vẫn
đi bên cạnh cuộc đời nhau như hai đường rây nằm song song
đến vô cùng, cần thiết cho chuyến tàu định mệnh? Tôi
vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng
đã hơn bốn năm rồi, hững hờ, phẳng lặng. Khánh càng
ngày càng trở thành một tay kinh doanh văn nghệ nổi tiếng. Anh thầu
tổ chức hầu hết các buổi đại nhạc hội lớn nhỏ khắp
các tiểu bang, thành phố có đông đảo ngườI Việt cư
ngụ. Ngay cả những kỳ lễ lộc, các buổi văn nghệ bỏ túi
của các hội đoàn, những buổi dạ vũ tư nhân trong các
giới đầu tư xứ nầy. Tính nghệ sĩ của Khánh mất dần.
Anh trở nên cao ngạo và đầy những tham vọng xã hộI chung quanh...
Căn nhà rộng lớn thênh thang, chiếc xe đắc tiền và những
bộ quần áo lộng lẫy như chiếc lồng cao sang nhốt kín đời
con chim sơn ca bé nhỏ. Tiếng chim hót cho người mua vui hay chính tiếng
lòng tôi cô đơn xa vắng, não nùng. Tôi có trọn vẹn
bộ mặt vật chất rực rỡ bên ngoài, nhưng trống rỗng và
thật nghèo nàn hạnh phúc bên trong. Tiếng vỗ tay vang dội căn phòng,
sau lời giới thiệu hoa mỹ thường lệ của Khánh. Tôi đứng
dậy, nụ cười tươi tắn trên môi, lướt qua giữa đám
đông và bước lên bục sân khấu. Dàn nhạc dạo lên
bài hát ưa chuộng cho tiếng hát của tôi. Ánh đèn vây
quanh chỗ tôi đứng chuyển sang màu hồng nhạt dìu dịu. Đám
đông và căn phòng chợt biến mất. Trong tôi, chỉ còn lại
là một đồi cỏ xanh mượt trong ráng chiều và gió rừng
lồng lộng. Tôi nhắm mắt tận hưởng những cảm giác tuyệt
vời, cất cao tiếng hát của lòng mình tha thiết.
"Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về, nhớ
chân giang hồ...
"Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia
bến bờ,
"đời người như gió qua...
"Thôi về đi, đường trần đâu xá
gì, tóc xanh mấy mùa...
"Có nhiều khi, từ vườn khuya bước về, bàn
chân ai rất nhẹ,
"tựa hồn như những năm xưa... (1) 2.
Hồ
nước nằm phía đông nam của thành phố, nửa thiên nhiên
nửa nhân tạo. Một bên bờ xây gạch, lót đá và cây
trồng thẳng hàng thẳng lối như một công viên. Bên kia là
bãi đầm lầy, chạy dài theo phía sau rừng thông bạt ngàn,
xanh mướt quanh năm. Dựa lưng phía trên là đập nước cao
ngất, tạo thành mặt thác đỗ ầm ĩ ngày đêm một
góc bờ hồ. Nhất là những đêm trăng, xa thành phố rực
đèn, mặt hồ trắng bạc, óng ả dãy ngân hà long lanh. Tình
cờ trên đường về một mình, tôi khám phá ra vẻ đẹp
tuyệt vời của hồ nước đêm trăng. Thế là thỉnh thoảng
những hôm có trăng trong tháng, tôi lái xe đến đây, để
lặng lẽ đắm chìm với khoảng thiên nhiên của riêng mình.
Những giây phút nầy, tôi mới thật sự đối diện với
nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc. Chừng như mọi nỗi mơ
ước của chúng ta không mất dần theo năm tháng, mà chết
dần và biến dạng theo nhu cầu của bản năng... Khánh đã
mất tôi, trong tình yêu và cả ngoài đời sống. Tôi vẫn
đứng yên, nhưng Khánh thì vùng vẫy. Con người, một sinh
vật thật trí tuệ nhưng lại sống và bị điều khiển bởi
bản năng. Khánh dãy dụa không phải vì yêu tôi, mà sự
thương tổn tự ái. Chưa bao giờ trong đời Khánh 'bị' người
đàn bà quay lưng. Chỉ có anh quay lưng với họ, ruồng rẫy
trong nỗi thương hại bề trên. Dễ hiểu, vì Khánh có tất
cả những ước mơ của phụ nữ. Khánh đẹp trai, lại là
một nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng trong giới sinh hoạt nghệ thuật.
Chừng ấy thôi đâu, Khánh còn thành công cả mặt thương
mại, giàu có vô cùng. Chung quanh anh là bóng sắc giai nhân, mắt
đầy ngưỡng mộ...
Tôi đi dọc theo bờ hồ về phía đập nước. Trăng đêm
nay sáng lạ lùng, bàng bạc. Tiếng nước đổ ào ạt,
tạt vào những bờ đá thấp đâu đó vọng về. Chừng
như tôi nghe cả tiếng lòng mình tan vỡ. Thái độ lạnh nhạt
của tôi như ngòi lửa châm vào niềm kiêu hảnh của Khánh.
Có những đêm, Khánh đem hết khả năng đàn ông trong
tình dục để chinh phục, kiềm chế mọi xúc cảm của tôi.
Bao giờ cũng vậy, trên giường ngủ, Khánh luôn đưa tôi
tới những ngất ngây của xác thịt, cực kỳ của khoái cảm.
Nhưng tất cả chỉ thoáng chốc, qua nhanh, không vang động hoặc níu
kéo được gì trong tâm não đã lụy tàn của tôi.
- Em còn muốn gì hơn nửa ở anh. Nhà cửa, danh vọng, tiền bạc
và cả đời sống vợ chồng, anh cung cấp đầy đủ đến
dư thừa. Anh không hiểu, thật sự không hiểu..? - Khánh
ơi, anh đã đem lại cho em tất cả. Tất cả những ước mơ
của một thời con gái. Em sẽ không bao giờ quên ơn đâu...
Anh đừng bận tâm đến những điều anh không hiểu. Hãy
quan tâm đến những gì anh đang có chung quanh. - Những
gì anh đang có... Anh muốn trái tim, tâm hồn em kìa. Không phải
cái thể xác chỉ phản xạ theo bản năng sinh tồn và dục
cảm. Anh có thể đui mù trong tình yêu, nhưng không thể không
phân biệt những đòi hỏi của thể xác và 'tham vọng' của
trái tim.
Rồi anh bỏ đi. Ngoài kia là những cuộc vui đang chờ đón,
mời gọi sự có mặt, nhập cuộc của anh. Vậy thôi, anh sẽ
quên tôi như một bài thơ đã làm xong, một chiếc xe đời
cũ... Chỉ còn mặt hồ trăng đêm nay ở lại với tôi, âm
thầm và mãi mãi. Tiếng tăm, danh vọng tôi lên cao bao nhiêu,
tự ái tôi càng tổn thương bấy nhiêu. Cứ như giòng
trăng sáng lạnh đổ từ tầng cao, thăm thẳm một vực đời
vỡ vụn. Tôi ngước nhìn lên đập nước, mơ cánh chim
đêm lạc cuối bờ.
Chợt lờ mờ trên cao, chừng có
bóng người vất vưởng, chuyển động trên bờ thành đập
nước. Tôi đứng hẳn lại, định thần và cố thu ngắn
tầm nhìn. Rõ ràng một bóng người đang hướng mặt xuống
đập nước. Một thoáng trong suy nghĩ, tôi hiểu mình phải chạy
thật nhanh lên những bậc thềm cao... Trước mắt tôi là chiếc
xe lăn tay dựa sát mặt tường. Tiếng chân và hơi thở đứt
khoảng của tôi làm bóng người trên thành vực quay lại.
Ánh trăng đủ chiếu sáng khuôn mặt người đàn ông
Á châu, tóc phủ hơn nửa trán và đôi chân vắt về
phía vực nước. Thân hình người đàn ông chơi vơi
giữa khoảng không, chực rơi xuống đập nước.
- Xin ông cẩn thận. Đập nước rất cao và nguy hiểm.
- Dừng lại ! Dừng lại... Nếu không tôi sẽ buông tay. Giọng nói
hốt hoảng, đầy đặc âm hưởng Á-đông. Tất cả
sự việc xảy ra chớp mắt, bất ngờ. Tôi lúng túng, nói
thật nhanh:
- Xin ông bình tỉnh, tôi không quấy rầy ông đâu..! Tôi là
người Việt Nam. Còn ông là người nước nào? - Cô
là người Việt !
Giọng nói tiếng Việt rõ ràng, sững sốt. Người đàn
ông quay hẳn người lại, đối diện với tôi. Một thoáng
yên lặng bao trùm. Ánh trăng sáng lạnh, soi rõ khuôn mặt tôi
và người đàn ông. Đôi mắt ông chợt ngây dại,
nhìn tôi đăm đắm, mê dại. - Cô là ai ? Cô
thật là người..?
Đôi môi ông mấp máy, lấp bấp như trong cơn mơ đồng
thiếp. Trong mắt ông, đêm trăng tôi lộng lẫy như một giấc
mơ huyền hoặc.
- Xin ông yên tâm. Tôi là người... là người Việt thật
mà! Ông hãy nắm tay tôi bằng da bằng thịt đây. - Nắm
tay cô, tôi phải nắm lại cuộc đời. Đó là điều
duy nhất tôi muốn từ bỏ. Vĩnh viễn từ bỏ, như nó đã
khước từ tôi.
- Cuộc đời khước từ ông, là cả đoạn đường
dài... Còn ông chối bỏ nó một cách ngắn ngủi, khoảng
khắc. Như vậy không công bằng. Ông đưa tay tôi nắm, nếu
ông vẫn còn ý định từ bỏ đời nầy, tôi sẽ thả
ông ra cũng không muộn!
- Cô đừng mĩa mai tôi. Nắm tay cô hay không, là quyết định
của tôi. Không phải của cô.
Tôi lặng lẽ đưa bàn tay về
phía người đàn ông, chờ đợi. Chung quanh tôi chừng như
chỉ là một khoảng trống mênh mông của nỗi đợi chờ.
Người đàn ông di động chậm chạm, mơ hồ. Hơi lạnh
của bàn tay xương gầy guộc, bấu vào những ngón tay tôi
dài mềm mại. Khác với thân thể 'tàn tật' của ông, là
đôi cánh tay rắn chắc đầy sức mạnh lạ thường. Giúp
chuyển người đàn ông trở lại chiếc xe lăn, mà tôi có
cảm giác chính từ đôi cánh tay đó chuyển cả sức
mạnh vào bản thân mình. Tôi đã nắm lại cuộc đời
ông, hay tôi đang nắm lại cuộc đời tôi thân thiết.
Chưa
bao giờ tôi ôm trọn vẹn cuộc sống vào lòng cho đến đêm
nay. Người đàn ông ngồi trên chiếc xe lăn, gục đầu vào
vòng ngực tôi khóc ngon lành, như đứa trẻ thơ. Những giọt
nước mắt nóng hổi thấm vào lòng tôi nỗi hạnh phúc
vô bờ. Tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc rối bời của ông
như vuốt lại cuộc đời tôi thẳng tấp. 3.
" Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
" Em là tôi và tôi cũng là em " Con diều
bay mà linh hồn lạnh lẽo
" Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo " Tôi là
ai mà còn khi dấu lệ
" Tôi là ai mà còn chân gian thế ...
" Tôi là ai, là ai. Là ai, mà yêu quá đời này... (2)
Ngả đầu trên vai Phan, tôi hát khe khẻ. Cho anh và cho riêng tôi.
Mấy tháng nay, vào những đêm có trăng tôi và Phan cũng
gặp nhau trên đập nước. Tôi đã có lại mầm sống,
anh đã có lại cuộc đời. Quá khứ và vết thương
của anh vẫn còn đó, nhưng không là hố thẳm của cái
chết. Tôi nói với anh, buông tay hoặc dứt bỏ bao giờ cũng dễ
dàng hơn sự đối diện, đấu tranh. " Có Hằng, giấc mơ
anh thiêu đốt cả đời nầy !", Phan thách thức. Tôi không
hỏi lý do đêm hôm đó. Anh cũng không thắc mắc tôi là
ai và từ đâu tới. Tất cả đều vô nghĩa cho niềm hạnh
phúc chung quanh của anh và tôi. Sự tệ hại của đời sống
hiện tại là chúng ta phải cố gắng, mọi cách để lý
giải cho tất cả hiện tượng và bản chất. Khuôn mặt người
đàn ông trên chiếc xe lăn trong đêm trăng là cả khuôn
mặt tình yêu tôi chất ngất, không ngờ. Giọt nước mắt
nóng hổi của Phan chừng như cuốn sạch trong tôi bộ mặt đời
sống giả cưu mang. Anh liệt đôi chân, nhưng Phan có cả trái
tim ngàn dặm. Tôi rực rỡ danh vọng như những bọt nước mong
manh vỗ vào bờ đá tảng mọi nỗi tuyệt vọng không cùng.
- Làm sao phân biệt được giấc mơ và đời thật, Hằng
nhỉ? Con người cũng hiện hữu trong giấc mơ như sống trong đời
thật.
- Giấc mơ là phân nửa cuộc đời trong bóng tối. Cuộc đời
là phân nửa kia của giấc mơ dưới ánh sáng của mặt
trời.
- Với anh, Hằng là là sự hiện hữu của cả hai mặt.
Ánh trăng mờ sáng soi rõ đôi mắt đằm đuối của
anh đang nhìn tôi. Suốt thời gian qua, Phan và tôi chỉ chuyện trò,
tâm sự những ước mơ thời bé dại, tuổi mới lớn và
những nghịch cảnh mà định mệnh dành cho mỗi người chúng
ta. Chưa bao giờ Phan đi xa hơn quan hệ đó, mặc dầu, tôi không
có gì để gìn giữ với anh. Trong đáy mắt anh, tôi chỉ
là một giấc mơ không có thật. Như đêm nay, những đêm
đã qua và nhiều đêm sắp tới... Đêm càng sâu, trăng
càng giăng màu sáng lạnh. Một niềm mong ước thoáng qua, tôi
cởi vội quần áo trong nỗi kinh ngạc của Phan. - Em muốn tắm.
Ở đây, ngay bây giờ !
- Hằng... Đừng nổi 'điên' như anh lúc trước. Đập
nước hồ nầy không trong sạch, không xứng đáng cho thân thể
của Hằng đâu ! Vã lại, đêm lạnh thế nầy, em tắm
sao được.
- Em có nói tắm nước bao giờ đâu. Đêm nay em muốn "tắm
trăng" thôi !
Mảnh vải cuối cùng rời khỏi
cơ thể tôi. Không gian trầm lặng, thời gian vỡ tan. Tôi quay lại,
toàn thân tắm vàng ánh trăng trong ánh mắt dại khờ, chết
ngất của Phan. Duỗi tay, tôi vuốt từng phần cơ thể mình, như
đang xối gội trong giòng suối trăng lịm mát, vô ngần.
- Tắm cho em đi Phan..!
- Anh...
Giọng nói Phan nghẽn đặc như hơi thở anh đứt khoảng từng
nhịp khó khăn. Tôi nắm tay anh, di chuyển trên mắt, mũi, môi và
xuống dần bờ ngực tròn săng đứng của tôi. Đã không
còn nữa bến bờ sự sống. Đã mất hẳn rồi khoảng cách
của sự thật và giấc mơ. Tất cả hoà tan, trộn lẫn, hồ
như...
Có môi ai cúi hôn đôi mắt tôi tơ lụa. Nụ hôn lướt
nhẹ xuống bờ môi tôi hé mở, đợi chờ. Tôi hôn trả
nồng nhiệt, quyện chặc bờ môi Phan nóng hổi. Khác với Khánh
là sự chiếm ngự, cưỡng chế để đưa tôi đến
cảm giác chất ngất của dục cảm. Phan nâng niu, trân trọng mọi
xúc cảm trên từng phần cơ thể tôi dâng hiến. Với Khánh
là một thói quen, với Phan là một ân sủng... Cuộc chiến tranh
không để lại cho Phan sự mất mát của cơ thể. Vậy mà
hoà bình đã lấy đi của anh mất nửa con người. Phan không
oán trách cuộc sống, anh chỉ thất vọng tình người. Tai nạn
rừng trong chuyến đi lấy gỗ, cắt lìa anh và tình nghiã vợ
chồng bao năm nồng ấm. Chiếc vé tàu tìm tự do của vợ dành
cho, cũng là mãnh giấy vĩnh viễn chia cắt đời Phan với tất
cả tình yêu. Tình yêu vợ con và cả tình yêu quê mẹ.
Vậy rồi anh cũng đến. Vậy rồi anh cũng sống. Đến đất
nước nầy để sống trong chết và để chết trong cuộc sống
không màng... Trăng tắm đẩm trên cơ thể tôi và Phan hoà
nhập. Trăng trải rộng giấc mơ tuyệt vời trong mọi xúc cảm
tràn bờ... Phan chậm rãi, trân trọng hiến dâng từng rung động
của anh trên mọi vùng thịt da tôi cháy rực, hân hoan. Đôi
tay anh cuốn hút. Cơ thể tôi tận cùng . Trăng đêm nay ngất
ngây, vàng óng, vỡ tan.
4.
Cuối
cùng, Khánh và tôi cũng đi đến chung cuộc. Trong lần trình
diễn tại thành phố Sidney bên Úc, tôi thấy mình khác hẳn.
Tinh thần lẫn thể chất. Tôi vốn dễ xúc cảm, mũi lòng nay
tính tình thay đổi bất thường nhiều hơn. Cáu kỉnh, gắt
gỏng vu vơ và rơi nước mắt dễ dàng, không đâu. Ăn
uống như 'mèo' và gần như sợ bửa, nhưng ngược lại, cơ
thể tôi lại càng đẫy đà, nẫy nở. Giọng tôi không
mất, nên chẳng gì làm tôi quan tâm... Cho đến những cơn
buồn nôn mỗi sáng và nhớ ra mình mất kinh hơn cả tháng,
tôi bắt đầu hoảng và đi khám bác sĩ. Kết quả không
có gì ngạc nhiên, tôi có thai ! Bước ra khỏi phòng mạch,
tôi thấy mình chơi vơi và nhẹ hẫng như lơ lững trên
mây. Tôi cảm thấy có điều gì len lén chút hoang mang, chút
hãnh diện và không biết mình phải vui hay buồn. Câu hỏi lớn
trong đầu là, đứa con đầu lòng của tôi cưu mang, của
Khánh hay của Phan đây ? Cuộc sống chừng như đã xây dựng
cho tôi toà lâu đài của mọi thói quen. Tôi không còn
điều khiển, làm chủ cuộc sống hằng ngày của mình đã
quá lâu. Tất cả tùy thuộc vào người chung quanh. Tùy thuộc
vào Khánh... Những đêm trăng huyền ảo với cuộc tình của
Phan mang đến tôi nhiều ý nghiã đời nầy, nhưng vẫn chưa
sắp trước mặt tôi con đường phải chọn. Giải pháp duy nhất
cho tôi, là phải thú thật với cả Khánh lẫn Phan? Tôi không
muốn bất cứ lựa chọn nào trong đời. Điều dễ hiểu, tôi
chỉ muốn được và không muốn mất. Có lựa chọn nào
mà không mất mát bao giờ. Tài năng và nhan sắc tôi đem
lại nhiều tật xấu và cả sự can đảm. Tôi đang ở Úc
với Khánh. Sau đêm hát thứ ba, tôi quyết định phải thú
nhận với anh. -
Khánh, em có chuyện quan trọng phải báo cho anh biết. Em đã có
thai hơn hai tháng nay !
- Hằng nói gì ? Em đã có thai, có thật chắc chắn không
? Hằng đi khám bác sĩ chưa ?
- Rồi. Em có cả giấy thử máu và nước tiểu của bác
sĩ.
Nói xong, tự dưng tôi thấy mình thật bình tỉnh, tự tin. Khánh
không nói nhiều hơn, anh châm thuốc như mọi khi có điều suy
nghĩ. Bàn tay Khánh run run kẹp điếu thuốc lá và hít thật
sâu vào lồng ngực, trước khi thả từng đợt khói ra hai bờ
cánh mũi thẳng, rộng. Khánh vẫn đẹp, thật đàn ông
như thuở nào. Tôi vẫn yên lặng chờ đợi phản ứng của
Khánh. Không gì ngạc nhiên trước thái độ suy nghĩ, đến
độ tính toán của anh, kể cả trong lãnh vực tình yêu.
Như một phản xạ. Như một thói quen của đời sống... Khánh
vẫn yên lặng, không nói thêm gì và ra phía ngoài bao-lơn
khách sạn tiếp tục hút thuốc. Yên lặng là một thái độ
đối lập và thù nghịch của Khánh. Tôi cảm thấy hơi
ân hận, hoang mang cho mọi chuyện xãy ra quá nhanh chóng. Tình yêu
hay sự thỏa mãn, trả thù. Có nhiều trò chơi trong đời,
tình yêu là trò chơi nguy hiểm nhất. Tất cả trò chơi đều
có điểm chung cuộc, trừ tình yêu. Nó chỉ có bắt đầu
và sẽ không bao giờ, không bao giờ có hồi kết cuộc. Tôi
không tin, từ lâu, khi biết mình có nhan sắc xinh đẹp. Mẹ tôi
cứ than phiền, thời bà thì cái nết đánh chết cái đẹp.
Bây giờ, cái đẹp đạp tan mọi tính nết con người. Mỹ
viện mọc lên như nấm. Vợ chồng đoàn tụ, chồng nhìn
vợ không ra. Phụ nữ ra đường, nhìn nhau trầm trồ khuôn mặt
với sóng mũi mới độn thật cao và đôi mắt mới cắt
thật to. Chỉ còn bề ngoài, cái giả bề ngoài phủ lấp
mọi giá trị tâm hồn bên trong... Nào ai đâu biết được,
bên trong lớp nhan sắc rực rỡ của tôi là cả một khoảng
trống cô đơn và nhiều thất vọng.
Sáng hôm sau tôi thức dậy đã thấy tấm giấy nhỏ ghi lại
vài hàng vội vã của Khánh. " Thu Hằng, anh có chuyện phải
trở về trước. Em sẽ cùng đoàn về sau đúng theo chương
trình dự định. Thành thật xin lỗi em. Gặp lại em sau. Anh, Đoàn
Minh Khánh ". 5.
Sương bắt đầu xuống mờ lạnh, phủ đầy.
Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay tôi hiện rõ, đã bốn
giờ sáng. Tôi ngồi trên bờ đập đá đợi Phan hơn
ba tiếng đồng hồ. Chưa một lần anh đến trể, bao giờ cũng
trước giờ tôi đến. Mỗi đêm trời trăng sáng, cho dù
tôi có đến hay không, anh vẫn ngồi trên bờ đá đợi
chờ. Phan luôn luôn là người đợi những giấc mơ có thật
đời mình. Từng đêm, đến sáng. Không sót một lần.
Vậy mà ba đêm nay, mình tôi, ngồi đây ngóng chờ. Phan không
đến. Không một dấu vết. Không một tăm hơi. Vầng trăng
vẫn còn đây một thuở mà tôi đã nghe tiếc nhớ mấy
mùa. Như mới hôm qua. Như mới giây phút nào. Tôi vẫn rực
rỡ, sáng ngời sao vầng trăng vẫn hững hờ ngả bóng..?
Từ Úc
trở về tôi chưa kịp định thần thì luật sư của Khánh
gọi tôi trong máy nhắn tin. Rằng Khánh đang chờ tôi dọn ra khỏi
nhà anh, trong vòng bốn mươi tám tiếng. Tạm thời Khánh ở
tạm tại một khách sạn nào đó. Rằng mọi giấy tờ chính
thức ly thân đang tại văn phòng và xin mời tôi đến càng
sớm càng tốt, cho cả đôi bên... Tôi vội vã đến ngay
văn phòng luật sư của Khánh. Ông giải thích rất ngắn gọn,
rõ ràng. Tôi phạm tội ngoại tình trong lúc có chồng. Khánh
chính thức ly thân và chờ thời gian ly dị. Lý do, Khánh đã
cắt ống dẫn tinh một năm trước khi làm đám cưới với
tôi. Chứng từ hợp lệ, đầy đủ... Tôi lặng người,
thờ thẩn. Khánh chưa hề nói đến. Tôi chưa biết bao giờ.
Cuối cùng, anh vẫn là anh, tôi vẫn là tôi. Hai vòng tròn,
hai cuộc đời cạnh bên nhau không cùng giao điểm. Nhưng dù
sao, tôi cũng biết được bào thai trong tôi là của Phan. Chắc
chắn của Phan !
Tôi dọn ra ngoài không lời than van, không tiếng tạ từ. Tôi mất
Khánh để được lại tôi? Hay tôi đã mất tôi như
chính ánh trăng trôi giữa giòng đời. Tôi không có câu
trả lời, mãi mãi không có câu trả lời. Như đêm nay,
đã ba đêm, tôi không còn có ai để đợi, để
chờ. Tất cả rồi cũng qua. Tất cả rồi cũng xa. Chỉ còn lại
tôi, đêm trăng tàn lạnh và ngày mai sẽ đến. Là gì,
khi tất cả với tôi đều vô nghiã..? Phan đã trở lại cuộc
đời thật của anh. Hay chính anh không muốn sống mãi trong giấc
mơ trăng lạnh, để tàn. Với Phan, anh lăn chiếc xe qua đời tôi
và không dừng lại giữa đời... Với Khánh, tôi không giữ
được anh hay tôi không giữ được chính tôi? Nhan sắc tôi
cho ai, tiếng hát tôi vì ai nếu không phải cho đất trời nầy
quá rộng? Muôn ngàn vì sao chợt từ đâu, băng thành dãy
ngân hà xuống tận giữa trời. Tôi đặt tay lên bụng, giấc
mơ trăng của tôi là đây, có thật. Tôi ơi, con ơi, ta
là ai mà đến với đời nầy? Hệ lụy, mong manh. Bước lên bờ đập đá, tôi đứng
thật cao, chất ngất trên cuộc đời cô quạnh, cuối đêm
trăng. Khán giả không còn ai. Sân khấu màn đã hạ. Tôi
sẽ cất tiếng hát, một lần, một lần để tôi đi và
cho tôi về vô lượng đất trời.
"... Trong khi ta về lại nhớ ta đi
" Đi lên non cao, đi về biển rộng " Đôi
tay nhân gian chưa hề độ lượng
" Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì... (3)
Thân thể tôi bay bổng, tuyệt vời. Ngọn gió phương nào đang
thổi ngược, tung bay bờ tóc tôi xanh, xuyên suốt mấy mùa...
Nguyễn Vĩnh Long
(1) "Phôi Pha", (2) "Tôi Ơi
Đừng Tuyệt Vọng" và (3) "Một Cõi Đi Về" của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn. _______________________________________________________
Trăng Giữa Ban Ngày 1.
Cơn mưa hắt lên mùi bùn hôi nồng nặc từ con kinh đen ngòm
phía dưới nhà sàn. Tánh trằn trọc, không ngủ được.
Phần lạ nhà, phần tiếng cười nói ồn ào vọng lại
phía trước. Nó không hiểu sao người ta có thể sống chui
rúc ở đây, chớ đừng nói chi đến việc ăn uống.
Buổi chiều mới tới, ra tắm phía sau nó phải nín mũi, ọi
lên ọi xuống mấy lần đến chảy nước mắt. Bên dưới
nhà tắm là dòng kinh nước đen bùn sền sệt, đầy rác
rưới. Tô hủ tiếu có miếng
bánh tôm chiên là món ưa thích nhất, nó cũng ráng nuốt
qua loa cho đở cào ruột. Đến tối, chị Ánh đưa mền gối
dặn nó, mới lên đường xa nên ngủ sớm và nhớ đừng
đi lang bang ra nhà phía trước ban đêm. Tánh gật đầu, nhắm
mắt rồi nằm trăn trở cho tới bây giờ. Nó thắc mắc không
biết đã mấy giờ mà chung quanh vẫn còn tiếng người ăn
uống, cười giỡn. Nghiêng tai một bên, nó chợt nghe như có
tiếng mưa rào rạt bên ngoài. Tự dưng nó muốn về nhà,
ngay bây giờ. Tánh muốn nằm trên cái chõng tre quen thuộc và
cuộn tròn trong cái mềm chỉ ngã màu của nó mỗi đêm
trời đổ mưa...
Nó giật mình tỉnh giấc bởi
tiếng cải vã và đồ đạc đổ vỡ. Tánh không hiểu
mình đã chợp mắt tự bao giờ. Tiếng khóc của người
đàn bà mỗi lúc một rõ. Rồi giọng quát tháo nhừa
nhựa của người đàn ông: - Đ.m.
mầy làm đĩ thiên hạ chưa đủ sao còn dẫn thằng con nít
về ngủ nữa..!
- Anh say quá, nói bậy không hà... Tánh là người hàng
xóm, mẹ em nhờ lên gặp em có chút chuyện nhà... Khuya rồi,
anh la lớn quá hàng xóm báo cảnh sát thì phiền lắm.
- Đ.m., tao chấp đó. Thằng nào dám gọi cảnh sát, tao đâm
lòi ruột cho biết mặt. - Anh ngủ đi cho khỏe.
Mai thức dậy muốn gì em cũng chiều hết. - Hổng
mai mốt gì hết. Đ.m. đừng làm bộ... Tao muốn làm liền bây
giờ. Còn sáng mơi, tao hổng muốn thấy bản mặt thằng nhỏ
đó nữa. Nghe chưa... Đ.m. đưa tao cái bọc áo mưa rồi
cởi quần ra.
Không còn tiếng cải vã của chị Ánh và người đàn
ông. Vài con mèo đói lang thang trên mái nhà, kêu gào thảm
thiết. Tiếng vạt giường, tiếng thịt người dội lên, dồn
dập... Tự dưng nước mắt Tánh ứa ra, ướt mặt gối. Không
hiểu tại nó nhớ nhà hay khóc thương thân phận chị Ánh.
Mười bảy tuổi, chưa lần đi xa khỏi huyện nhà, nó nào
hiểu được cuộc đời đen tối, dơ bẩn còn hơn vũng
chân trâu. Tánh nghiêng mình cấn cây viết máy Pilot chị Ánh
mua cho nó hồi chiều. Cây viết có khắc cả tên Tánh và
chị Ánh. Chị muốn nó học giỏi, nay mai trở thành người
hữu ích cho xã hội, hãnh diện gia đình, làng xóm trong đó
có chị. Tánh mắc cở, chỉ biết lí nhí cám ơn. Chị
và Tánh chụp chung một bức ảnh làm kỷ niệm. Nghiêng đầu
vào vai Tánh, nó không còn nghe mùi chanh thoảng ra từ tóc chị
nữa. Mùi dầu thơm và nắng gió cuộc đời đã thay vào
đó, quyện từng sợi tóc ngày thơ. Tánh
nâng niu cây viết máy, mùi thơm bàn tay chị vẫn còn phảng
phất đâu đây. Nó áp vào má, hít từng hơi dài,
nhắm mắt và quên đi cả mùi tanh nồng của dòng kinh đen
phía dưới. 2.
Nhà
chị Ánh phía dưới đầu cầu Dừa. Con rạch chia làng Tánh
ra làm hai phía. Một bên đất làm ruộng, bên kia là những
mương vườn thẳng tắp trồng đủ loại hoa quả và cây
ăn trái. Cha chết sớm, mấy mẹ con chị sống bằng nghề bán
xôi, chè bắp mỗi buổi chợ. Trong làng ai cũng gọi mẹ chị
là bà Sáu xôi bắp. Con gái lớn, năm lớp bảy Ánh đã
bỏ trường theo mẹ tần tảo nuôi nấng đàn em. Đối diện
phía bên kia cầu là nhà Tánh. Gia đình nó làm ruộng
nòi, đất đai bề bề mấy đời nội tổ. Sau chính sách
người cày có ruộng, gia đình Tánh chỉ còn mấy chục
công đất ruộng hương hỏa phía sau nhà. Tía nó nhìn
xa, thúc đẩy con cái học chữ, lấy đó làm nghề. Chị
Ánh lớn hơn Tánh vài ba tuổi, nhưng trước mặt chị, nó
thấy mình còn con nít nhiều lắm. Có lẽ tại chị đẹp,
đẹp nổi tiếng cả làng. Phần mồ côi cha, ra đời sớm
Ánh như loài hoa dại nở rực rỡ, hoang vu giữa chốn đồng
nội. Sáng nào trước khi đạp xe lên trường huyện Tánh
đều ghé chị Ánh mua xôi. Không ăn nó cũng mua gói theo
cho buổi trưa. Chị Ánh luôn dành nhiều tình cảm đặc biệt
cho nó. Lần nào chị cũng múc xôi nhiều, cho thêm nước cốt
và kèm theo nụ cười thật tươi tắn. Năm lớp tám, mười
bốn tuổi, Tánh bắt đầu thấy mình khan khác. Giọng nói
nó đục khàn khàn, chân tay lòng thòng thừa thải và
mặt bắt đầu lốm đốm mụn. Mỗi lần gặp mặt chị Ánh,
Tánh cảm thấy lúng túng, ngượng ngùng. Tối nào học bài
khuya, trước đi ngủ, nó đều ra phía sau hè ngóng nhìn
qua ánh đèn nhà chị, bên kia con rạch nhỏ. Tự dưng Tánh
mong trời mau sáng để được nhìn thấy nụ cười dễ
thương của chị.
Qua mùa khô, lúa đã vào bồ, tía má Tánh bắt đầu
đốt chân rạ mấy công đất để làm rẩy. Giá lúa
không lên, tía nó cắn răng phá mấy công ruộng gần nhà,
lên vồng trồng dưa hấu. Mấy năm gần đây nghề trồng dưa
trong làng phát triển dữ dội. Sau một mùa Tết, nhà nào cũng
dư tiền mua sắm đồ đạc, ghe máy và cả máy truyền hình
chạy bình. Không phải nghề chân truyền, nhưng tía nó sáng
dạ, biết đất biết phân, chắc bẩm cũng thành tiền thành
bạc. Giữa lúc đó thì trên chợ huyện tổ chức đại
hội. Dù công việc chưa xong, tía nó cũng trả tiền công
cho anh em Tánh đi coi hát. Tánh nghĩ ngay đến chị Ánh, rủ và
bao chị đi coi đại nhạc hội. Nhưng sáng nào gặp mặt, Tánh
cũng không nói được thành lời. Cuối cùng Tánh đành
lủi thủi đi một mình. Chương trình văn
nghệ đầy tiết mục hấp dẩn nhưng Tánh vẫn lãng đãng,
thờ ơ. Vãn hát, nó lang thang vòng quanh chợ huyện. Mấy hàng
quán dọc bên đường đang chuẩn bị dọn dẹp, đóng
cửa. Mọi người tản về các làng với nhiều phương tiện
khác nhau. Ghe, xuồng, đò máy và thắp đuốc đi bộ. Tánh
mang theo mấy bó đuốc, dấu ở lộ đá trước khúc rẽ
vào làng. Gió đêm xào xạc, mang theo hơi nước dọc theo
mé sông. Nó ngước nhìn lên, bầu trời đen nghịt không
thoáng một vì sao. Không chừng trời sắp đổ mưa. Cả tháng
nay khô hạn, tối ngợp sao trời. Đợi đến nay nó đi coi hát,
trời mới đổ mưa cho đáng. - Tánh...
Phải Tánh hông, đợi Ánh chút. Đúng
là tiếng chị Ánh, hay xưng tên với nó. Tim Tánh đập thình
tịch, chân tay nó lạnh hết. - May quá, theo
Tánh kịp. Về một mình, lại gần mưa, Ánh sợ chết quá.
- Chị đi một mình sao... - Đâu
dám. Với chị Xuyến. Nhưng chỉ chưa chịu về liền, mà còn
ghé ăn hàng với đám bạn trên trường huyện. Ánh phải
về, mai còn thức sớm nữa. Đi bên cạnh chị
Ánh, Tánh rộn ràng khó tả. Nó không biết nói gì thêm,
đếm từng bước chân mình trên lộ đá. Mùi hương
chanh dìu dịu tỏa ra từ mái tóc chị thoang thoảng trong đêm.
Tới gần khúc rẽ vào làng thì gió bắt đầu thổi
mạnh. Hai bó đuốc dài vẫn còn đó. Chị Ánh giúp
Tánh một tay mồi lửa. Lần đầu tiên nó chạm bàn tay mền
mại, âm ấm của chị. Dưới ánh đuốc, khuôn mặt chị
Ánh sáng hồng, đẹp hơn bao giờ hết. Nó vừa đi vừa
quơ bó đuốc soi đường. Vài khúc nhiều mô, đất
gồ ghề chị Ánh sợ vấp nắm lấy tay nó.
- Tánh đi chầm chậm lại nghen. Ánh theo hổng kịp, vấp té chết.
Nó đi chậm lại. Chị vẫn nắm chặc tay nó không buông. Khuôn
mặt chị thật gần, vài sợi tóc loà xoà vướng qua má
Tánh.
- Mai mốt Ánh đi xa, Tánh có nhớ chị hông ?
- Chị đi đâu ? Nó ngạc nhiên hỏi nhanh.
- Má định gửi Ánh lên trên tỉnh, nhờ người bà con
kiếm công việc làm khá hơn. Bán xôi bắp vầy hoài, không
đủ tiền sinh sống. Không chịu cũng không được. Đành
thôi Tánh à... Đi xa chắc Ánh nhớ làng mình và nhớ
Tánh lắm..!
Tại sao chị phải đi xa, Tánh không hiểu. Nhưng tự dưng nó
buồn muốn ứa nước mắt. Rồi mai mốt, trước đi đạp xe lên trường huyện
mỗi sáng, không còn ai gói cho nó gói xôi đặc biệt với
nhiều nước cốt dừa. Mỗi đêm học bài khuya, Tánh không
ai để nó háo hức đợi ngày mai gặp mặt. Tánh đi nép
vào chị gần hơn. Gần để đủ nghe từ chị, một mùi
thơm kỳ diệu thoáng ra, ngây ngất. Mùi thơm của bộ đồ
mới và da thịt chị. Tự dưng Tánh thấy mình lớn hẳn ra,
muốn che kín những cơn gió thổi lạnh bờ vai chị. Đâu hơn
nửa đoạn đường, vài hạt mưa rơi thấm áo Tánh.
- Chết rồi, trời mưa Tánh ơi. Chắc về không kịp quá.
- Không sao. Tháng nầy chắc trời mưa hổng lớn đâu.
Tánh dứt câu chẳng bao lâu thì mưa rào lên, lớn hột. Không
ai bảo ai, cả nó lẫn chị Ánh đi nhanh như chạy, nhìn quanh tìm
chỗ trú. Cũng may gần đó có cái quán nhỏ bên đường.
Ánh lửa bập bùng từ bó đuốc soi mặt quán che tạm bởi
tấm bạt, chừa khoảng hiên hẹp phía ngoài. Cả hai chạy lùa
vào trú. Bó đuốc lịm tắt. Mưa tạt từ bên hông dữ
dội.
- Tánh nép sát vào đây, ướt hết. Giọng
chị Ánh khàn khàn. Tánh nép sát vào. Hơi ấm từ da
thịt chị tỏa lan, truyền sang. Bờ ngực mềm mại, áp vào bờ
lưng nó. Tánh bâng khuâng, nhột nhạt. Nó nuốt nước miếng
khó khăn, ao ước trong đầu. Phải chi nó lớn hơn chị Ánh,
Tánh sẽ ôm lấy và che chở cho chị lúc nầy. Không biết
lúc nào, má Tánh kề vào má chị. Tánh nghe hơi thở
chị nóng hổi, thơm mùi dìu dịu. Nó nghĩ tới trái mận
hồng đào nhà ngoại nó trồng, nở lứa đầu mùa. Lờ
mờ trong bóng đêm, Tánh lén len quay qua, mong nhìn thấy mặt chị.
Nó chợt hốt hoảng khi đôi môi ướt lạnh của nó chạm
vào bờ môi hé nhỏ của chị. Ngoài hiên, có tiếng chớp
rền vang, như xé đêm mưa. 3. Tánh choàng tỉnh giấc. Miệng khô đắng
và tê tẩm một bên mình. Trời vẫn chưa sáng. Không biết
Tánh chợp mắt lúc nào, mộng mị chập chờn. Nó khẻ trở
mình thì chạm bờ vai ai nằm bên cạnh. Chị Ánh. Tim nó đập
lên thình thịch. Không biết chị Ánh vào ngủ bên nó tự
lúc nào. Còn thằng đàn ông khốn nạn đánh chửi chị
đâu rồi. Nó ngủ say hay đã bỏ đi. Hơi thở chị Ánh
đều và nhẹ. Chắc chị đang ngủ say. Nó không dám nhúc
nhích, chỉ mở đôi mắt thật lớn nhìn qua. Khuôn mặt chị
trong giấc ngủ say, hồn nhiên và thật đẹp. Sóng mũi thon dài
theo phía dưới đôi chúm nhỏ, hơi hé mở, chị giống
như mấy hình vẽ trong tập truyện bằng tranh. Cái giường không
rộng, lại cũ, thở mạnh cũng cong mình kẽo kẹt. Chị Ánh mở
mắt, bắt gặp Tánh đang nhìn mình đăm đắm. Chị nghiêng
qua, cười nhẹ:
- Nhà lạ, ồn ào. Khó ngủ phải hông Tánh.
- Dạ...
- Thằng chả đi rồi, Tánh không phải sợ nữa.
- Tánh không sợ. Nhưng tại sao chị phải sống với hắn.
- Một ngày nào đó, lớn lên, Tánh sẽ hiểu. Bây
giờ, Ánh chỉ muốn Tánh đừng khinh ghét chị.
- Không, Tánh không ghét. Tánh thương... Về lại quê mình
đi chị.
- Quá trễ rồi. Ánh không còn xứng đáng với gia
đình, làng xóm mình nữa. Giọng chị Ánh
trũng nước. Tánh bối rối không biết làm gì. Trong bóng
đêm, chị Ánh dụi đầu vào nó, nức nở. Dòng nước
mắt nóng hổi thấm vào da thịt Tánh, như những mũi kim đâm
sâu tâm hồn nó tơi bời. Đưa tay vuốt mái tóc mượt
dài, dỗ dành chị đừng làm nó phải khóc theo. Chị Ánh
ngước lên, kéo mặt Tánh lại gần và hôn nhẹ lên hai
má nó. Vệt nước mắt vô tình của chị vướng khóe
môi Tánh mằn mặn. Tánh hôn trả lên má chị, như một
phản xạ tự nhiên. - Con trai lớn mà không
biết hôn gì hết. Chị vừa nói vừa cười
khúc khích. Đôi môi ấm áp chị Ánh áp vào môi
nó. Tánh ngây ngất khi đầu lưỡi chị chạm đầu lưỡi
nó quấn quít. Chị kéo bàn tay Tánh đặt trên bờ ngực.
Trái vú chị mềm mại, no nê. Tánh ghì chặc hai tay vào đôi
bờ xúc cảm. Chơi vơi, cuộn chảy. Con sông nhỏ quê Tánh đang
uốn mình qua khỏi khúc sông bồi. Nó mở rộng, chảy thiết
tha hơn về phía sông cái lớn, sắp chuyển mình ra biển. Nước
con sông ngọt dịu, đục màu phù sa chợt chan hoà với lòng
biển đời xanh mặn. Cửa cuộc đời quá hẹp cho những tâm
hồn trắng trong, chân thật. Vòng tay con người không rộng lượng
bao giờ. Chỉ có nước mắt và má môi của chị tạo cho
Tánh bao nhiêu mơ ước đời nầy. Nó đang chơi vơi như
con diều trên cánh đồng lộng gió quê nhà. Tánh bở ngỡ,
vươn vai trở thành một dòng sông lớn, cuốn trôi bao nỗi
khổ đau của chị đêm nay. - Tánh ơi..!
Tiếng kêu thảng thốt của chị Ánh từ nghìn trùng vọng
lại. Có vầng trăng vằng vặc tuổi thơ, trải vàng niềm hạnh
phúc vô biên trên thân thể của Tánh và chị. Đêm
sắp tàn và ngày mai đang xô đẩy bao kiếp người phía
trước. 4. Buổi chiều tháng tư, bầu trời thành
phố Huntsville, Alabama thấp và nhiều mây. Mấy ngọn đồi thấp,
xanh mướt nối nhau như căng thành một chiếu võng đong đưa
những con đường xa lộ đan nhau theo mùa gió. Người đàn
ông cho xe chậm lại vào bãi đậu. Hampton Inn, cái khách sạn
đã vài lần ghé, tạo cho người đàn ông cảm giác
dễ chịu hơn sau mấy giờ bay dài. Một laptop xách tay, một chiếc
va-li kéo tay là hành trang quen thuộc cho những chuyến đi xa.
- Hi, tôi có đặt phòng trước. Tôi họ Nguyễn, tên
Tony. Tôi sẽ ở lại cho đến hết tuần. Bà Linda, phụ tá quản
lý người da trắng nhận ra Tony ngay. Vài lần trước ghé Huntsville
cho mấy buổi họp ngắn ngũi, Tony cũng gặp bà. Đưa thẻ chìa
khóa, bà cũng không quên nhắc Tony khách sạn cung cấp điểm
tâm mỗi sáng miễn phí. Tóc hoa râm, nhưng dáng dấp ông
vẫn còn nhanh nhẹn, tự tin. Tony buông người xuống mặt nện, chơi
vơi. Những căn phòng khách sạn bày trí nhan nhản giống nhau,
cô đơn và nhàm mắt. Phía bên ngoài khung cửa sổ, nắng
đã xuống thấp màu vàng nhạt. Ngày mai là những buổi
họp, những công việc quen thuộc đang chờ ông. Sự tái lập
của đời sống xứ nầy cho những phát triển không ngừng của
nền văn minh kỷ thuật, nhưng lại là những đọng vũng, khô
cạn dần cho biết bao nhiêu sông nước tình người. Những dòng
sông tâm hồn ông muộn phiền, không chảy. Những vời vợi trời
xanh dĩ vãng không mây. Bủa vây, tù hãm. Lòng người cửa
đóng, then cài. Đời sống chính ông cũng hóa trang nhiều
mặt. Dè dặt, bề ngoài, giả tạo trở thành phản xạ tự
nhiên trên mọi mặt phẳng cuộc đời. Tony nguội lạnh dần những
háo hức ban đầu cho những vùng đất mới. Mỗi nơi, một
thành phố hay một huyện hạt hẻo lánh với những tên gọi
lạ tai, trước tiên ông đều mở cuốn giám điện thoại
tìm những họ phổ biến của đồng hương ông. Những Nguyễn,
Lê, Trần,... Để nói lời hỏi thăm, làm quen bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ của ông. Đáp lại là, những giọng nói nhát
gừng, thoái thoát hay khước từ cả nguồn gốc cha ông. Họ
nói bằng thứ tiếng mẹ xa lạ, lạnh lùng, mù mù hàm ý.
Ông bỏ điện thoại xuống, lòng chùng nỗi thất vọng, đắng
cay. Từ đó, những chuyến đi xa, Tony không còn thói quen tìm
kiếm tình đồng hương đó nữa. Tiếng điện thoại reo.
Đầu dây kia là tiếng quen thuộc của người đàn bà da
trắng:
- Hi Tony, Liz đây. Anh tới lâu chưa. Chuyến bay thế nào, có
thoải mái không ?
- Cám ơn Liz. Mọi chuyện cũng tốt đẹp, ổn thỏa.
- Tôi muốn mời anh cùng đi ăn tối. Một tiệm ăn Ý
tôi biết rất nổi tiếng về đồ biển. Giọng
người đàn bà mời gọi. Liz tuy không chung nhóm với Tony, nhưng
là nhân viên quản lý thương mại cao cấp của công ty. Là
cố vấn kỷ thuật, Tony thường đi cùng với Liz cho những hợp
đồng thiết kế quan trọng. Người đàn ông Á-đông
trí thức, gần năm mươi, không gia đình vợ con là điều
tò mò hiếu kỳ của những người đàn bà bản xứ
làm chung. Qua sách vở, tài liệu phong tục tập quán Á-châu,
con trai lớn lên không cưới vợ vì tình yêu cũng phải vì
" mối lái ". Chưa kể là cổ lệ tục truyền, trai năm thê
bảy thiếp. Địa vị và sự thành công của Tony lại là
mục tiêu của những dòm ngó nhiều hơn. Liz là một trong những
người đàn bà da trắng tò mò đó. Chưa tới bốn
mươi, một đời chồng, Liz trải qua nhiều kinh nghiệm của tình
ái. Người đàn bà nầy không chỉ muốn nhìn ngắm, mà
nhập cuộc. Cuộc phiêu lưu tình cảm không mất mát phần ai.
Cuộc vui tự nguyện và luôn mở rộng cửa sau cho những chán chường.
Với đôi mắt xanh lơ tóc hoe vàng, bờ ngực vung đầy mời
gọi, Liz chưa từng thất bại trên tình trường. Nàng đến
với Tony tự tin, " quyết thắng ". Lần đầu tiên trong đời
Liz vấp ngả, chới với trước một người đàn ông "
thiểu số ", thẳng thắn và từ tốn. Tony bước vào phòng
ngủ nàng như dạo chơi trong khu rừng cấm lạ. Không vội vã
chiếm đoạt, không thêu thân theo từng phút giây tàn lụi.
Những
người đàn ông khác đến với Liz là như vậy và
chỉ có như vậy. Môi hôn nhộp ngạt, sự tham lam trên bờ ngực
và cuối cùng là sự biểu hiện lòng kiêu hãnh, chiếm
đoạt nghèo nàn của họ. Có ba nơi để người đàn
ông biểu lộ bản năng của họ: tiệc rượu, sòng bạc và
lúc làm tình... Để ngày mai không muốn thấy mặt. Để
gặp lại là nỗi dửng dưng, lạnh lùng. Nàng bày da thịt
cuộc chơi, họ cũng giả dối tìm vui phút chốc. Tony
khác. Ông trân trọng trên từng phần da thịt Liz. Ông chậm rãi
gần đến hững hờ. Tony đưa nàng đến tận cùng mọi
khoái cảm, ngất ngây. Để ngày mai họ mong gặp mặt nhau. Bên
quan hệ tình dục đời thường, họ còn cả tình người
rộng lượng. Ông một mực chân tình, trân trọng những tình
cảm tốt đẹp của Liz như một tặng phẩm hiến dâng. Rồi
mỗi người có một vòng tròn trong đời sống họ. Giao điểm
chính là mặt đời sống hiện tại, với bao đẩy lùi của
quán tính riêng tư. Những phát triển vượt bực của khoa
học hiện đại làm trái đất chúng ta thu nhỏ lại. Nhưng
lòng người cũng từ đó, chật hẹp hơn ? Ông quý
trọng giao điểm có được với người đàn bà bản
xứ. Liz cũng quên mất màu da trong quan hệ tình nhân. Như bao nhiêu
người đàn ông Việt Nam khác, Liz nghĩ, họ đã trải qua
những chặng đường lịch sử khổ đau, hùng tráng nhất,
phải sâu kín bên trong là những hệ lụy vượt khỏi đời
thường. Liz càng bị ông chinh phục bởi những vết thương thầm
kín trong lòng. Họ là bạn chân tình ở những phía nhìn
nhân bản đó.
Nhưng chiều nay Tony chợt lười biếng cho lời mời gọi của Liz. Ông
đang cần sự yên tịnh và niềm cô đơn riêng tư.
- Cám ơn Liz. Tôi rất ân hận là vừa ăn lở buổi
ở phi trường Dallas, vẫn còn no. Chúc Liz buổi ăn tối vui vẽ,
ngon miệng.
- Không có gì. Tony cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Hẹn gặp lại
sáng mai ở phòng thử nghiệm. Ông đã nói
dối. Từ sáng đến giờ ngoài mấy ly cà-phê và bánh
ngọt trên phi cơ, Tony chưa có bửa ăn trọn vẹn. Bụng ông cũng
đang đòi hỏi phần mình. Một buổi tối cơm Tàu, vì
ông biết chắc thành phố nầy không có một quán ăn người
Việt. Một buổi ăn yên tịnh, lặng lẽ cũng là niềm hạnh
phúc, đôi khi. Ông quý mến Liz, nhưng cũng cần những khoảng
cách. Tony rời khỏi phòng, buổi chiều không còn nữa.
Tiệm
ăn Tàu, China King, nằm khiêm nhường ở một góc đường
nhỏ. Ghế bọc và khăn trải bàn đều màu đỏ thêu
rồng phượng. Khách ăn hơn phân nửa tiệm. Tony gọi một dĩa
đồ xào biển và cơm trắng. Ngụm trà đá cuối ngày
làm ông dễ chịu và tỉnh táo hơn. Ông cảm thấy có
chút gì quá đáng trong những đối xử với Liz. Người
đàn bà da trắng, già nhân ngải non vợ chồng. Liz đến với
ông hoàn toàn tự nguyện và tự do. Sự ràng buột duy nhất
của họ chính là mối chân tình ở mỗi người. Ông không
hứa hẹn, giả dối để lợi dụng sự thỏa mãn thể xác.
Liz không cần phải bày vẽ cho một cuộc chơi. Họ đã đủ
trưởng thành để hiểu được giá trị của thời gian,
của định mệnh cuộc sống dành cho con người. Những khuôn mặt bề ngoài đã làm
họ mất quá nhiều thời gian để sống. Rữa sạch bộ mặt
tâm hồn, làm bộ mặt thể chất của họ trong sáng và quý
giá hơn. Họ giữ lại trái tim và cho nhau cuộc sống.
- Thuận muốn ăn gì, shrim hay chicken ? - Con
muốn both.
- Ok. Còn anh ?
Giọng nói tiếng Việt chen lẫn tiếng Anh của phụ nữ và trẻ
con từ phía sau làm ông chợt ngẩn người. Một gia đình trẻ
người Việt Nam ? Không kềm được sự tò mò, ông quay
lại như một phản xạ không kềm chế được. Họ, cả
ba, còn thật trẻ. Người thanh niên ngồi đối diện ông, chạm
mặt, khẻ gật đầu chào. Ông lúng túng, mĩm cười đáp
lại.
- Chú là người Việt. Người thanh
niên tiến đến bàn ông, giọng cởi mở. Ông đứng dậy,
bắt tay anh, vui mừng.
- Dạ. Tôi người Việt... Tôi tên Tánh, từ North Carolina
đến đây công tác. - Em tên Sơn. Nhìn
chú, Sơn biết là người ở xa đến. Vừa lúc
người bồi bàn mang thức ăn ra cho ông. Sơn nói nhanh:
- Hay là chú Tánh dời qua ngồi chung bàn với vợ chồng
Sơn luôn.
- Được vậy thì vui quá. Sơn giới
thiệu ông với vợ con. Hồng, tên vợ Sơn, có khuôn mặt đẹp
dịu dàng và nụ cười thật tươi. Nụ cười làm ông
ngẩn ngơ thoáng chốc. - Gia đình Sơn cũng
mới dọn đến thành phố nầy vài tháng nay. Chú đến
đây lần đầu.
- Không. Lần thứ ba rồi. Tôi đến thiết kế trạm viễn
thông không gian cho Space Shuttle Assembly Center. Sơn hớn hở
cho biết anh cũng làm trong đó, bộ phận lưu trử, database. Hồng
ít nói hơn, lo chăm sóc thức ăn cho con. Thỉnh thoảng nàng chỉ
đóng góp vài nụ cười dè dặt, cho đầm ấm bửa
ăn. Đôi lần ông cũng bắt gặp ánh mắt Hồng len lén nhìn
ông ngờ ngợ. Sơn thì nhanh nhẹn cho biết có khoảng hơn trăm
rưỡi gia đình người Việt ở rãi rác chung quanh thành phố
Huntsville. Hầu hết làm cho trung tâm không gian Nasa và trung tâm viễn
thông quân đội Hoa Kỳ. Cả ông lẫn vợ chồng Sơn đều
vui mừng gặp được người đồng hương nhưng họ giữ
nhiều khoảng cách. Hai thế hệ chừng như có cùng kinh nghiệm
cho những nhiệt tình hân hở ban đầu sẽ đem đến họ những
phiền muộn về sau. Đã trở thành một thứ qui ước tự
nhiên. Ông vẫn còn nghĩ ngợi trong nụ cười của Hồng. Bửa
ăn cũng kết thúc, bé Thuận phải ngủ sớm cho nhà trẻ ngày
mai. Nhịp sống không đợi ai, nên họ phải chạy theo cho kịp con
số thời gian vật lý. Sơn ghi vội cho số điện thoại nhà và
chỗ làm. Ông hẹn với vợ chồng Sơn buổi cơm chiều ngày
mai. Họ vui vẽ nhận lời. Ông Tánh ngồi vào
xe vẫn mông lung về nụ cười của Hồng. Ông đã gặp rất
nhiều nụ cười, nhưng chưa bao giờ ông bị ám ảnh như hôm
nay. Moi hết tận cùng trí nhớ, ông cũng không tìm được
một giải đáp nào cả. Đã gặp đâu chăng nụ cười
thật tươi nầy, đời ông ? Trí nhớ ông chợt trở nên
tồi tệ. Ông lắc đầu, đành chịu. Cho xe ra đường lớn,
về phía khách sạn, ông Tánh quên cả mở đèn xe. Đêm
chơi vơi, bắt đầu. Ông thở dài, thẩn thờ dõi mắt tìm
một vầng trăng. Bầu trời đêm thấp và đen mờ mịt.
Hơn nửa
đêm, cả nhà đã ngủ say. Nàng lặng lẽ, nhẹ tay kéo
mấy cuốn album trong hộc tủ, ôm ra phòng khách. Nàng trằn trọc
không ngủ được vì khuôn mặt, nhất là ánh mắt của
người đàn ông đứng tuổi tình cờ gặp trong bửa cơm
chiều. Đôi mắt tự tin, tha thiết nhìn nàng như quen biết thuở
nào. Nàng đã gặp ông ta ở đâu rồi chăng ? Cái nút
ruồi thật đậm dưới đuôi mắt trái của ông ? Chắc
chắn là không. Vậy mà nó theo nàng đuổi nàng đến
tận bây giờ. Dưới ánh đèn, nàng dỡ từng trang trong cuốn
album dầy cộm. Từng trang thậm trọng lướt qua. Không một dấu vết.
Cuốn thứ nhất. Cuốn thứ nhì. Con nhỏ lẩm thẩn quá chừng.
Người dưng lạ quắc, bắt họ hàng làm thân. Nàng tự
cười mình, hờ hững lướt qua cuốn album khác. Thôi cũng lở
mất ngủ, lâu lâu nhìn lại hình ảnh xưa cũng thú vị...
Cuốn album cuối cùng xếp lại, nàng thẩn thờ ngã người
xuống chiếc sofa. Có lẽ đời sống nàng vẫn chờ đợi
một hình ảnh nhạt mờ nào đó. Một cái tên trùng
hợp hay một bóng hình không thật. Cái tên của một đoạn
đường dĩ vãng mà chính nàng chưa hề băng qua. Nàng
chợt ứa nước mắt. Chồng và con đang yên giấc ngủ say cho
ngày mai có thật. Hạnh phúc đang ở trước mặt nàng có
thật. Ánh mắt đọng nước của nàng chợt dừng lại cuối
phòng. Đúng rồi ở một góc cuối của căn phòng mẹ
nàng. Nơi mà mỗi đêm bà đều nhìn ngắm hằng giờ.
Nơi bà treo bức hình họa lớn từ bức ảnh nhỏ trắng đen,
phai màu bà bọc kỷ lưỡng trong cuốn album. Bức hình mẹ nàng
chụp chung với người thanh niên, một thời mới lớn. Bức ảnh
mà bà trân trọng lau chùi hằng ngày, như một kỷ vật thiêng
liêng bất khả ly thân. Bức hình duy nhất của mẹ nàng chụp
chung với người đang luân lưu giòng máy trong nàng. Nhiều lần
hỏi mẹ, bà chỉ thở dài và nức nở thương nhớ như
mới hôm qua. Chỉ một lần, có nàng và họ chẳng bao giờ
gặp lại nhau lần nữa. Tại sao ? Tại đời bà trôi nổi theo
vũng lầy của dòng kinh nước đen cuộc đời nghiệt ngã.
Tại cuộc chiến tranh bùng nổ dữ dội, tan tát và nhận chìm
bao nhiêu thân phận con người. Tại hai giòng đời họ mãi
mãi chảy song song trên cùng mặt phẳng của định mệnh. Nhưng
đêm nay, nàng chợt nhận ra chừng như ở cuối đuôi mắt
trái của người thanh niên trong ảnh cũng in vết chiếc nút ruồi
hệ lụy.
Nàng bật ngồi dậy và cầm điện thoại bấm số quen thuộc
của mẹ. Tiếng reng từng hồi. Hai. Ba. Rồi những hồi sau nối tiếp.
Không ai nhấc chiếc điện thoại ở phía kia đầu dây. Chắc
bà đã ngủ say, quá say bởi những viên thuốc giúp bà
vượt qua bao đêm khó ngủ, bơ vơ. Không biết bà đang trong
giấc mơ đen tối một đời, hay đang tung bay trong một lần tươi
đẹp đời bà thoảng khắc... Ngày mai sẽ tới, như mọi
sự thật sẽ chồi lên theo nắng ban mai. Đêm chợt rộn rã và sâu thẳm. 5. Bên
cạnh Liz dựa vào vai ông thở đều. Mấy hôm nay cả ông và
Liz đều làm việc thật dồn dập, ngày đêm. Ông ăn tại
chỗ làm, và có ăn ngoài ông phải đi ăn với bạn đồng
nghiệp. Họ vừa ăn vừa tiếp tục các dự kiến công việc
sắp tới. Ông đã không có dịp nào để gặp lại
vợ chồng người bạn trẻ ông gặp ở quán ăn. Cho đến
một buổi sáng thật sớm, Liz gọi qua phòng ông báo cần gặp
ông gấp có chuyện khẩn cấp. Giọng Liz không đùa giỡn, làm
bộ. Ông vội qua ngay và đã thất Liz đứng đón ông ở
cửa phòng. Trông mặt Liz mệt mõi và thoáng chút lo âu. Không
phải đợi, Liz báo ông đã mất kinh hơn hai tháng và sáng
nay ói mửa đến vật vã. Ông sờ sững nhìn Liz, không biết
phải hành động và ăn nói như thế nào cho hợp cảnh.
Nàng cười trấn an ông, nếu có, chắc chắn là giọt máu
của ông. Nhưng không vì thế mà bắt buột ông phải nhận
hoàn toàn trách nhiệm. Ông có thể chối từ, Liz không oán
trách. Nàng muốn khám bác sĩ cho an tâm nên mới phiền đến
ông. Làm sao ông có thể cầm lòng được trước ánh
mắt dã dượi, xanh lơ của người đàn bà da trắng nầy.
Và họ đã cùng trở về trên chuyến bay. Qua
khung cửa, phía dưới là những thềm mây trắng đang trôi ngược.
Bầu trời xanh thắm, cùng tận. Ông không dám thở mạnh, nhúc
nhích sợ đánh thức giấc ngủ say của Liz. Không ràng buột
nhưng ông đang quằng nặng trên vai trách nhiệm của mình. Bất
giác ông chạm cuốn sổ đang đặt trong lòng. Bàn tay như một
thói quen, kéo nâng niu cây viết máy cũ kỷ. Ông cúi mắt
nhìn thật lâu bốn chữ khắc trên thân bút đã trầy
trụa, nhạt mờ. " Kỷ niệm Ánh&Tánh ". Chỉ có vậy.
Võn vẹn chỉ ngần ấy là cả một đời ông đóng
kín mọi cửa ngõ của trái tim. Tình yêu ông đã dốc
cạn, từ những buổi đầu tuổi nhỏ. Đến nay, ba mươi năm,
không chút phai nhạt lãng quên. Những tưởng sẽ quanh quẩn vòng
đời, nào ngờ là nghìn trùng xa cách. Chỉ cuối một chân
cầu, mà nửa đời tăm cá mù khơi. " Nhưng lẻ đó,
ông lại là người hạnh phúc nhất trên thế gian nầy. Người
có được một tình yêu vĩnh cữu trong tim ", Liz thường
nói với ông...
Trước
mặt ông có muôn vàn bão tố. Tận đời ông có vạn
nẽo đổi thay. Nhưng khuôn mặt và nụ cười đó, mãi
mãi sẽ là thiên-thần-hạnh-phúc bên suốt đời ông.
Trái tim người đàn ông dạt dào, thổn thức khi ký ức
ông chạm lại đôi môi bé nhỏ đọng giọt mưa đêm.
Cổ chợt khô nghẹn, đôi mắt ông trĩu nặng, nhạt mờ. Ông
cố giương ánh mắt nhìn ra khoảng trời xanh bên ngoài. Cuối
cùng ông cũng tìm thấy. Ông đã thật sự tìm thấy,
một vầng trăng vằng vặc, treo lơ lững giữa ban ngày. Nguyễn Vĩnh Long _____________________________________________________________________________________________
|
|
|