NguyenVinhLong.jpg

THƠ -TRUYỆN

NGUYỄN VĨNH LONG

                  Durham, North Carolina 

______________________________________________________________________________________________________________ 

Điệu Bolero Tháng Tư Buồn

           

 NguyenVinhLong_dieubolerothangtu.jpg

1.

"... Phố nhỏ đường mưa trơn lối về

Trăng sầu nhân thế đậu hoen mi

Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ

Nỗi niềm đầy lại vơi

Mỗi mùa tiễn đưa một người"   (Nỗi Buồn Gác Trọ - Mạnh Phát & Hoài Linh)

 

Tiếng hát Cẩm Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông thả Mi 7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên ngoài có tiếng gió đêm Sài-gòn vội về, bất chợt. Vốn không "mặn" với bolero, nhưng mấy hôm nay tự dưng bọn tôi lại vô tình chọn những bài hát loại này. Vậy mà "thấm", mà "cảm" vô cùng.  Từ trưa ngày 11 tháng 4, 1975 thì căn gác trọ của tôi trở thành điểm tụ họp và thông tin của cả nhóm. Duy dọn về ở hẳn với tôi. Giảng đường trở thành tin hành lang hơn là lớp học. Một số giáo sư vắng mặt, có tin đã cùng gia đình di tản ra nước ngoài. Sáng cả bọn vào trường, tụ tập, nghe ngóng "ai còn, ai mất" rồi kéo nhau quán cà phê dì Năm bàn bạc tình hình "chiến sự". Ngồi chán thì kéo nhau về căn gác trọ tôi, vừa nấu ăn vừa nghe tin đài VOA, BBC và đàn hát vu vơ.  Tất cả năm người chúng tôi đang ngồi bẹp dưới sàn nhà, Cẩm Vân, Ngọc Tuyền (khoa hóa sinh, bạn Vân), Duy, Từ Dung và tôi.

Đã hơn bảy giờ, trời tối mưa lưa thưa hạt, vẫn chưa thấy bóng dáng của Trầm Hương. Trong ban chấp hành sinh viên trường, trưởng ban ngoại vụ, Trầm Hương họp và đi công tác liên tục. Tuần trước, cùng ban đại diện liên trường: văn khoa, khoa học, dược và sư phạm, đã quyên góp và chuyên chở thực phẩm, thuốc men cứu trợ đồng bào di tản từ cao nguyên và miền trung đang được tạm trú tại Long Thành. "Chừng như có chuyện "lấn cấn" giữa tổng hội sinh viên Sài-gòn và ban chấp hành các trường", Trầm Hương cho biết. Dáng dong dỏng cao, khuôn mặt thon rạng ngời, với nụ cười có thể "thắp sáng" cả gian phòng khi Trầm Hương hiện diện. Nhờ sắc dáng đó, nàng rất dễ thành công trong việc vận động quyên góp, kết hợp công tác liên trường. Tôi ngỏ ý tình nguyện đi theo, nhưng Trầm Hương ngắt ngay: "Mình em đi thôi. Anh ở nhà nghe ngóng tình hình gia đình. Để nếu có chuyện gì, mất hết liên lạc thì không được. Nghe em đi!". Tôi đành ở lại. Mà quả thật như vậy, ngày sau cô Út tôi lên mang tin tức và quyết định của gia đình từ Vĩnh Long. "Ở lại, không di tản. Nội dặn, dù xảy ra bất cứ chuyện gì, con cứ ở Sài-gòn chờ tin, nhất định không được về Vĩnh Long!", cô Út dặn đi dặn lại tôi nhiều lần. Sau khi trả tiền trọ hết năm, đưa tôi một sợi dây chuyền và một số tiền phòng khi "ly tán", cô Út vội trở về Vĩnh Long ngay...

Ngoài phần tin tức chẳng đâu vào đâu của đài phát thanh Sài-gòn: tháo lui trật tự, bảo toàn lực lượng, là bài họp ca thật hùng tráng:

"Trên đầu súng ta đi, tổ quốc đã vươn mình

Trên lưỡi lê căm thù, hờn căm như triều sóng

Ôi xôn xao... chiêng trống hối thúc

Đã giục giã khắp chốn rộn ràng

Ôi lửa thiêng dậy bập bùng

Tay đốt lửa, tay vung kiếm

Trên đầu súng xâm lăng, xiềng xích với bạo tàn

Trên lưỡi lê nô lệ, cùm gông phải gục ngã

Tay nâng niu cây súng, súng thép..."  (Trên Đầu Súng - Anh Việt Thu (*)

 

Chợt có tiếng xe dừng lại dưới đường. Vặn nhỏ radio, tôi đi nhanh về phía cửa sổ và nhìn xuống. Phía sau chiếc xe Honda là Trầm Hương áo thun nâu quần xanh đậm. Hình như người chở là Toàn. Trầm Hương xuống xe, chào Toàn và bước vội vã lên gác. Nàng nắm tay Từ Dung, Ngọc Tuyền đứng trước cửa rồi chạy vào ôm chầm lấy tôi không "nể nang" ai. Mọi người đã quá quen với tính tình sôi nổi, tự nhiên của Trầm Hương nên không ngạc nhiên.

-Mọi người cùng ăn cơm nghen. Trễ quá rồi...

Duy trong bếp nói vọng ra. Trầm Hương vừa ngồi bẹp xuống vừa cười nói:

-Đói muốn xỉu luôn. Hồi nãy mấy anh bên khoa dược mời kéo em ở lại cùng ăn, nhưng em từ chối, nhờ anh Toàn chở về. Thôi vừa ăn em vừa kể cho nghe. Tình hình lộn xộn, nguy hiểm  lắm. .

Tôm khô canh cải ngọt và thịt kho hột vịt, đói nên tất cả ăn ngon vô cùng. Trầm Hương cho biết đã vận động được công ty dược phẩm La Thành rất nhiều loại thuốc thông dụng, trụ sinh và nhất là thuốc cầm máu đang quý hiếm. Thực phẩm gồm gạo, mì gói, các loại đồ khô và cả rau cải, thực phẩm tươi đóng thùng. Tất cả sẵn sàng cho chuyến cứu trợ đồng bào di tản ở khu tạm trú Long Thành trong ngày tới. Khi đoàn về tới trường đại học khoa học thì đã thấy lực lượng cảnh sát dã chiến tăng cường trong khu vực chung quanh trường. Vài thành viên trong ban chấp hành sinh viên liên trường đã bị bắt vì tình nghi là việt cộng nằm vùng. Nói tới đây Trầm Hương nhìn tôi ra vẻ "quan trọng":

-Không hiểu sao có vài người lạ mặt cứ bám theo em mấy hôm nay. Cả anh Toàn cũng nhận thấy như vậy.

-Mật vụ thì không sao. Nhưng nếu "bên kia", Hương phải thật cẩn thận đó!

Duy nói giọng hoài nghi. Tôi nắm tay Trầm Hương:

-Hay là từ hôm nay, anh sẽ đi theo em cho an toàn.

-Anh hả? Có anh theo, em càng thêm lo thôi, chứ an toàn gì! Một mình, có chuyện em dễ xoay sở hơn, thiệt mà!

-Nhỏ Hương nói đúng, có anh cũng chẳng giúp được gì. Hơn nữa, lúc nào bên cạnh nhỏ Hương cũng có anh Toàn và mấy anh trong ban chấp hành.

Toàn là anh em chú bác ruột của Trầm Hương bên khoa dược. Có lẽ như vậy cũng đúng, tôi đành nói xuôi:

-Vậy anh làm gì để giúp em?

-Yêu em và nhớ em là đủ rồi! Trầm Hương nói, giọng thật nhỏ.

 

Rồi mọi người chợt yên lặng. Tin tức từ đài VOA lập lại việc chuyển giao chính quyền và nội các mới của cựu tổng thống NVT và TVH. Tất cả diễn biến lịch sử xảy ra quá nhanh, đột ngột. Số phận mỗi con người bé nhỏ chúng tôi chừng như chỉ chờ đợi. Chờ đợi một cơn bão nổi, chờ đợi vận mệnh đất nước cuốn theo dòng chảy của lịch sử không ngừng. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai muốn nói ra, nghĩ tới nhưng cũng không thể chối từ những đau thương, mất mát đang diễn ra từng phút từng giờ chung quanh. Đài BBC loan tin hàng loạt tướng lãnh cao cấp, các bộ trưởng, nội các chính phủ di tản, đào thoát khỏi Việt Nam sau cựu tổng thống NVT và phó tổng thống NCK.  Niềm tin đang cạn kiệt, và hy vọng chỉ là một lá bài đã "lật ngửa" trên chiếu bạc.

-Yên lặng kiểu này chắc chết ngột. Từ Dung hát bài gì đi, anh đàn cho.

Duy phá bầu không khí ngột ngạt và ôm cây guitar nói với Từ Dung.

-Dung hát đi Dung... Dung hát bài gì hôm trước Dung hát ở sân trường đó... Nhớ rồi, bài Tạ Từ Trong Đêm của Trần Thiện Thanh.

Trầm Hương nằm gối đầu trên chân tôi, hối thúc bạn mình. Từ Dung gật đầu, ra dấu cho Duy và cất tiếng hát:

"... Anh hỏi một câu khi trong đêm dài vọng về tiếng súng

Sao em cúi mặt không nhìn đôi mắt hứa thương em trọn đời

Đầu đường chia phôi anh không nói gì

Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi

Nếu anh có về khi tan chinh chiến

Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em..."  

 

Tiếng hát Từ Dung rung nhẹ, hun hút trong đêm chìm khuất. Xa xa, văng vẳng tiếng đại bác và hàng loạt tiếng súng vọng về, vây quanh thành phố. Điệu bolero thiết tha như đưa tiễn đêm tháng Tư buồn lặng lẽ chìm sâu...     

 

2.

 

Hơn bốn mươi năm sau, vào Youtube bạn chỉ cần đánh dòng chữ: "chương trình ca nhạc bolero" và "nhắp" chuột nút "tìm kiếm". Hàng loạt chương trình ca nhạc, chương trình thi ca nhạc bolero sẽ hiện lên kênh Youtube. Từ khởi nguồn của đài truyền hình Vĩnh Long (Solo Cùng Bolero, 2014) đến nay thì cùng khắp, Hậu Giang, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội..v..v.. Khắp mọi miền, mọi tụ điểm ca nhạc và đếm không hết các chương trình ca nhạc bolero tự phát trên Youtube và các trang "mạng"... Các ca nhạc sĩ hải ngoại về nước và được mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi truyền hình ca nhạc bolero: Phương Dung, Giao Linh, Họa Mi, Phi Nhung, Mỹ Huyền, Elvis Phương, Đức Huy,...

NguyenVinhLong_dieubolero_2.jpg 

Nhưng điều gì đã làm cho âm nhạc một thời "ủy mị", "đồi trụy", "phản động"... sống lại mạnh mẽ, rầm rộ từ nam chí bắc? Từ "phản động" trở thành "trữ tình"? Từ "đồi trụy" trỡ thành "nhân bản", bất chợt? Hay trong hoàn cảnh xã hội hiện nay phải cần đến sự "ủy mị", "đồi trụy"  để bớt đi phần nào tính "bạo lực"  và "vô cảm"? Phải chăng sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển, nhà nước CSVN mới nhận ra cái "nghèo nàn", cứng ngắt, vô hồn của văn học nghệ thuật, nhất là lãnh vực âm nhạc. Tính trữ tình, đại chúng và nhân bản gần như là những "yếu tố" cội nguồn của âm nhạc Viêt Nam, đã vắng mặt trong hơn 40 năm qua? Hay chính những "bản án" ủy mị, ru ngủ của dòng nhạc bolero được nhà nước cho áp dụng lại trong tinh hình xã hội ngập ngụa bất công, đàn áp, tham nhũng và "cái ác" đang lên ngôi, ngự trị trong sinh hoạt hàng ngày? Cán cân giàu nghèo giữa tầng lớp giai cấp "áp bức" bên trên và quần chúng "bị trị" bên dưới, như một con dốc thẳng đứng. "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh", dòng nhạc bolero phải chăng sẽ góp phần hiệu quả trong công tác văn hóa "tiếng hát át khó khăn", "tiếng hát át đấu tranh" cho công bằng, cho sự thật của thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai? Nếu không có sự "đồng ý", "khếnh mại" của nhà nước XHCN "cấp trên", thì liệu dòng nhạc "bolero" có tự nhiên phục hồi do nhu cầu âm nhạc của quần chúng? Sợi chỉ hồng của chuyên chính vô sản có thật "tình cờ" xuyên suốt cả gia tài âm nhạc một thời bị lên án "phản động" ngày xưa?   

 

"... Đời còn nhiều bâng khuâng

Có ai vì thương góp nhặt tâm tình này

Gửi giúp đến cố nhân mua nụ cười

Và xin ghi kỷ niệm một đêm thôi"    (Nửa Đêm Ngoài Phố - Trúc Phương)

 

Tiếng hát ngọt ngào, nức nỡ của "sầu nữ" Thúy Huyền trong một chương trình bolero đưa tôi về "kỷ niệm một đêm thôi" của hơn 40 năm về trước. Lê Thị Từ Dung đã vĩnh viễn nằm ở một nơi nào đó của biển Đông trong một chuyến vượt biển. Đỗ Thị Ngọc Tuyền đã biệt tích trên một chuyến đi đường bộ xuyên qua đất nước Cambodia. Cả hai, Từ Dung và Ngọc Tuyền, đều ở lứa tuổi hai mươi bốn.  Cặp Cẩm Vân và Duy cũng không thành. Cẩm Vân lấy chồng, đồng nghiệp, sau đó nghỉ dạy và hiện làm chủ hai nhà hàng nổi tiếng ở Sài-gòn. Duy vẫn độc thân, họa sĩ vẻ phông sân khấu, trình bày bìa sách, lịch và hiện nay có phòng tranh ở quận 5 thành phố Sài-gòn. Trầm Hương, người con gái  dấu yêu một thuở, và chồng là Huỳnh Nam Giao sinh sống ở Củ Chi. Hương nay đã về hưu đang cùng gia đình chăm sóc cửa tiệm bán sinh tố, trái cây tươi. Giao sau một lần lâm bệnh nặng, cũng đã về hưu hẳn và trông coi khu vườn trồng cây ăn trái ở Củ Chi cho cửa tiệm. Công việc làm ăn khá giả, cuộc sống ổn định. Chúng tôi đã bước qua tuổi "tri thiên mệnh", tóc ngả màu bạc trắng đời thường. Mọi nỗi vui buồn có chừng mực hơn. Trong câu chuyện trùng phùng đã mang nhiều dấu tích của trải nghiệm, của an phận trong mỗi nụ cười. Người ở lại, kẻ ra đi cũng chỉ là những may rủi kiếp người? Phải chăng đời này chúng ta chẳng "nợ nần" gì nhau, hãy để mọi niềm tin yêu xuôi theo dòng số phận? Hãy để riêng nhau một góc đời và cầu mong hạnh phúc cho người.

Mỗi số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với những biến động của hoàn cảnh và lớn rộng hơn, của lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta lại lặng yên nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía nào, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không có mẫu số chung cho định mệnh. Ý niệm "suy bụng ta ra bụng người", như mấy anh mù sờ voi! Hãy mở rộng mọi ý thức và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Trái tim đang đập theo từng nhịp của hôm nay, sao dòng máu tôi cứ vẫn luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ? Những ngày tháng Tư sao vẫn buồn và khoắc khoải trôi qua:  

"... Phương trời mình đi xa thêm xa

Nghe vạn mùa thu sau lưng ta

Em ơi, em ơi! Thu thiết tha

Ơi người vì ta qua phong ba

Có còn gì sâu trong tâm tư

Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa"   (Tinh Lỡ - Thanh Bình)

  

Durham, North Carolina

Những ngày tháng Tư đầy nỗi nhớ,

Nguyễn Vĩnh Long

 

(*) Nghe bài họp ca: Trên Đầu Súng - Anh Việt Thu

https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE

 

_______________________________________________________________________________ 

Linh Hồn Gió

 

NVL_chuonggio.jpg

 1.

Ngôi chùa nằm sâu trong con đường nhỏ, ngoại ô thành phố Raleigh, bang North Carolina. Chùa mang tên Vạn Hạnh, cách nhà tôi khoảng 1 giờ lái xe. Thiền sư Vạn Hạnh, người đã phò Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế (Lý Thái Tổ), tạo dựng triều đại nhà Lý kéo dài cả 216 năm và đã để lại bài kệ nổi tiếng Thị Đệ Tử:

            "Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

"Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

"Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

"Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Ngô Tất Tố dịch thơ:

            "Thân như bóng chớp, có rồi không

"Cây cối xuân tươi, thu não nùng

"Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

"Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông

 

Hàng năm bà xã và tôi thường đi chùa chỉ đôi ba lần, đêm Giao thừa, lễ Phật Đản và Vu-lan. Phần ở xa, phần bà xã dựng một bàn thờ Phật ở góc, ngay trong phòng khách, nên thường lễ tại nhà. Lần này thì ngoại lệ, bà xã muốn đến chùa thỉnh một cái phong linh để treo phía sau nhà. Thứ bảy, cuối tuần bãi xe không còn chỗ, tôi phải đậu xe dọc ven đường phía ngoài chùa. Khuôn viên chính điện thật đông người, mùi hương khói ngào ngạt từ xa. Những người quen cười, vẫy chào nhau, tay bắt mặt mừng. Nhìn khung cảnh chùa, tôi chợt nhớ đến bài thơ "Nhớ Chùa" của thi sĩ, hòa thượng Thích Mãn Giác:

"... Biết đến bao giờ trở lại quê

"Phân vân lòng gửi nhớ nhung về

"Tang thương dẫu có bao nhiêu nữa

"Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

 

"Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

"Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

"Mái chùa che chở hồn dân tộc

"Nếp sống muôn đời của tổ tông. 

 

Ngày xưa tôi hay theo bà nội đi chùa, gần như một hai lần trong tháng. Ngôi chùa ở đầu làng, nằm ẩn trong khoảng sân đầy cây kiểng và tượng Phật rất đẹp. Tôi thích nhất là tượng Phật Quan Âm với nét thanh thoát, diệu hiền và trang nhã đứng giữa hồ sen nhỏ. Tuy chưa hiểu những lời kinh kệ, nhưng tôi thích nghe tiếng tụng niệm vang dìu dặt theo tiếng mõ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu hết những lời kinh kệ, nhưng mùi hương khói trầm tỏa quyện trong tiếng niệm vang theo tiếng mõ, như đưa tâm hồn ta thoát khỏi mọi bận phiền tục lụy vây quanh.

 

           NVL_ChuaVanHanh.jpg

                 Chùa Vạn Hạnh - Raleigh, North Carolina

 

Sau khi cùng bà xã thắp hương trong chính điện, tôi hay đi loanh quanh vãng cảnh chùa và gặp gỡ vài người bạn đồng hương cùng thành phố. Nhìn nét mặt trang nghiêm của bà xã ngồi niệm Phật trong chính điện, tôi chợt chạnh lòng. Chừng như suốt cuộc đời, bà ấy có nhiều niềm tin để... khổ. Niềm tin chồng, tin vào mọi niềm ước vọng của chồng. Bà xã đã hy sinh một đời làm vợ, cho mọi mơ ước của tôi được thành hiện thực. Rồi niềm tin vào con, đem tất cả nghị lực, lòng hy sinh để đưa các con vươn tới những tầm cao nhất mà chúng có thể. Riêng mình, bà xã tin số phận, tin vào định mệnh đã dành sẵn cho mình. Nhiều lần tôi nói với bà ấy, bây giờ đến phiên em tuy muộn, nhưng em muốn làm gì, đi đâu hay có điều gì muốn thực hiện, hãy làm ngay đi, anh và các con sẽ ủng hộ hết mình. "Làm gì nữa bây giờ. Tất cả đã trở thành nếp, thành thói quen. Em sẽ không biết phải làm gì, đi đâu nếu không có anh và con", bà xã thường nói như vậy. Một lần tôi "đẩy" bà ấy đi Seattle thăm người bạn gái thân thiết thời "áo trắng", hai tuần lễ. Nhưng vừa đúng một tuần là bà xã đã đáp chuyến bay về sớm, dù phải tốn thêm tiền thay đổi chuyến bay! "Tâm sự, đi chơi, ăn uống một tuần là hết chuyện. Mỗi người đã một cảnh, một góc đời, một cuộc sống. Chỉ còn lại với nhau là ký ức, là kỷ niệm", bà xã bùi ngùi... 

Trời bắt đầu có nắng, hoa cảnh chung quanh chùa rộ nở, hoa hồng leo, hoa mười giờ, hoa hiên, hoa cúc Thái, hoa ngọc hân.. . sắc màu thắm tươi, rực rỡ. Đi quanh đã thấy nhiều khuôn mặt lạ, nhiều gia đình thế hệ trung niên đang dần dà thay đổi đám đông của cộng đồng người Việt ở đây. Hỏi ra, biết được các anh, các bác phần lớn thời gian đến chùa đều ở phía "hậu liêu", phòng ăn dưới căn bếp. Đã lui vào hậu trường, cả một thế hệ "tiền phong", gầy dựng ngôi chùa thuở chỉ là một mảnh đất trống. Nay thật khang trang, xứng đáng để lại thế hệ mai sau như một thành quả văn hóa tinh thần như hai câu thơ của hòa thượng Thích Mãn Giác: "Mái chùa che chở hồn dân tộc / Nếp sống muôn đời của tổ tông".

 

2.

 

Chừng như gió và tôi là cả một duyên nợ. Từ thuở nhỏ, tôi đã yêu những cơn gió đổi mùa mỗi năm. Bên dòng sông nhà nội, mùa gió đổi mang theo thật nhiều ký ức. Mùa gió đổi của mùa nước nổi. Nước ngập tràn vào sân nhà trước, lúp xúp mí của căn nhà dưới. Có thể ngồi câu cá ngay bên cạnh sàn nước hông nhà. Mùa gió đổi của những ngày hè oi ả, nghỉ học theo đám bạn trong làng đi cắm câu, tát đìa. Mùa của ngày nước cạn, có thể đi qua bên kia sông mà không cần phải biết bơi. Mùa của cây trái vườn sau, từng liếp chôm-chôm sặc sỡ màu, quằng cành ăn trừ bửa. Rồi mùa gió đổi cuối năm, đồng ngập lúa vàng, mùi thơm của nồi cơm gạo mới. Gió đã theo tôi, thì thầm suốt quãng thời thơ ấu...

Những buổi chiều ngồi lặng lẽ, cặm cụi chấm bài trong lớp học trống trải, chỉ có lũ ghế bàn và gió vọng phía sân ngoài. Gió hắt hiu của vùng biển bùn, nặc nồng mùi muối mặn. Gió vẫn thì thầm với tôi, và nay tôi đã là bạn gió. Có những điều tôi không biết nói với ai hay không thể nói, đành tỉ tê cùng những cơn gió mùa trở ngọn. Có khi gió thổi từ cuối dãy sân trường. Có khi gió bắt đầu từ ngoài cổng, thổi dạt dào vào những khe cửa những buổi học rộn ràng. Trò áo mới mừng đầu năm học; thầy tâm hồn mới cho một đợt "khách qua sông"! Gió đón người và gió tiễn đưa ai?

"Gió... gió về là về miền xuôi

"Anh đưa em nước lớn nước ròng

"Để em qua sông qua suối thăm chồng

"Gió về miền xuôi qua bốn vịnh năm vời

"Đò vẫn đưa đưa ngược xuôi

"Em ơi, em ơi!

"Đường về quê ta mấy bước, đường về quê xa mấy ngõ

"Mà sao người nỡ bỏ quên đường...  (Gió Về Miền Xuôi - Anh Việt Thu)   

 

Bên ngoài, bây giờ trời cũng đang trở gió. Tiếng chuông ngân nhịp ngắn nối vài ba nhịp dài, âm thanh khoắc khoải, thiết tha. Chừng như gió mượn chiếc phong linh để nói lên tiếng lòng của mình trong vô lượng đất trời, bát ngát. Chừng như vạn vật đều có một linh hồn, một cuộc sống trong một cõi riêng của nó. Cuộc sống thay đổi, vạn vật cũng không ngừng đổi thay. Gió phía đông có nhịp thở không như gió phía tây? Tiếng gió của những buổi chiều trên bến sông quê nội có còn không, khi những dãy nhà mới xây chạy dài theo bãi nước? Có còn không, tiếng linh hồn gió thì thầm đêm chia tay Rạch Giá, không thấy rõ mặt người? Thuyền mang chúng tôi ra khơi, chạy dọc theo cơn gió mùa định mệnh. Gió đùa với biển, biển đùa với bao nhiêu thân phận con người! Gió mãi theo tôi, mang theo bao nhiêu thao thức của bến sông chiều ngày tiễn biệt. Có gió len lõi dọc theo con nước, dãy nhà ven sông cúi bờ kinh hay chợt loay xoay giữa ngã ba sông về phía một bến bờ?  Có bao nhiêu hình bóng chợt thoáng qua, một đời người bắt gặp. Như thật, như không. Những linh hồn gió ngày đó đã phương nào? Vẫn tất bật giữa đời rong ruổi hay đã biền biệt dấu này một đời người thương tưởng, cưu mang? Cho dù thế nào, gió có hôm trở về như linh hồn của câu chuyện kể hôm qua.

Tiếng leng-keng ngắn dài chợt rộn rã hơn, linh hồn của gió như trở về bên tôi "những ngày xưa thân ái"! Có bước chân ai đang trở về từ chập chùng dĩ vãng, mang âm vang  tiếng cười nói vọng cố nhân... Bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu nụ cười và cả bao nhiêu đôi mắt ướt long lanh dòng lệ đã qua đời nhau? Những người con gái ta yêu và những người con gái yêu ta, tất cả như đang chợt hiện về trong tiếng ngân vang linh hồn của gió? Cảm ơn người, cảm ơn đời và cảm ơn em đã cho tôi những ngày tháng một đời không tiếc:

"... Ôm lòng đêm,

"nhìn vầng trăng mới về

"Nhớ chân giang hồ

"Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già

"Một ngày kia đến bờ

"Đời người như gió qua... 

(Phôi Pha - Trịnh Công Sơn)

 

Đêm chợt tĩnh lặng, sau vài cơn gió mùa trở nhẹ. Những tiếng ngân của chiếc phong linh treo sau nhà cũng tắt lịm, thoáng qua. Tôi nằm thẳng, cố giữ hai vành tai không vật cản, chờ đợi tiếng linh hồn gió sẽ đến bên ngoài. Dù là một thoáng nhẹ, bạn có nghe, tiếng linh hồn gió của hôm qua. Huyễn hoặc, vô cùng. Có những tiếng lung linh của linh hồn gió hôm nay? Không thể. Gió  hôm nay không thể có linh hồn nếu không phải là gió của hôm qua. Có lẽ ở một thang tuổi nào đó, chúng ta sẽ dễ ý thức hơn cái nhỏ bé của kiếp người, cái mong manh của hiện tại. Hãy nghiêng tai, lắng nghe lượng từ tâm đất trờ; những linh hồn gió của bao tháng ngày trôi xuôi một dòng thoáng chợt:

            "... Những người muôn năm cũ

"Hồn ở đâu bây giờ ?   (Ông Đồ  - Vũ Đình Liên)

 

Durham, North Carolina

Nguyễn Vĩnh Long

 

____________________________________________________________________ 

. Hương Đêm

 NguyenVinhLong_Huongdem.jpg

 

1.

 

              Sống chung được hơn một năm thì tôi và Tầm quyết định chia tay. Cũng không có gì hệ trọng hay bi đát đến nổi thù địch. Cả tôi và nàng đều ở tuổi quá ba mươi, đã trưởng thành và ít nhiều dạn dày trong tình trường không ràng buộc của trách nhiệm. Tự nguyện và tự do cho mọi lựa chọn của bản thân. Không đổ lỗi cho ai, không oán hờn số phận. Yêu nhau như đang yêu và cho nhau tất cả những xúc cảm, hạnh phúc trong từng giây phút hiện hữu. Ngày mai, như rồi sẽ đến với nhiều hoàn cảnh của chính nó, chứ không phải là những ước hẹn trói buộc đời nhau... Tầm giữ lại căn nhà đang ở, tôi thì dọn ra ngoài. Đơn giản, nhẹ hững và buồn tênh.

           

Khu chung cư cũ kỷ nằm trên lưng chừng trên ngọn đồi trọc. Năm nay mùa thu đến thật chậm. Đã giữa tháng mười mà mấy rừng cây thưa vẫn còn xanh lá thấp. Nhiều vùng trong tiểu bang lũ lụt, nước chưa kịp rút từ những cơn mưa của mùa bão bất thường phía biển đông. Khu chung cư chia từng cụm, mỗi cụm ba căn. Phòng tôi ở căn bìa tầng trên, nên được thêm cánh cửa sổ rộng bên hông. Mỗi buổi sáng từ đó, tôi có thể nhìn thấy sinh hoạt của một góc phố. Tôi bỏ lại hết đồ đạc cho Tầm. Thật ra phần lớn là do cả tôi và Tầm mua sắm chung. Nằm trên miếng nệm trơ trọi trên thảm, tôi chợt nghe lòng tha thiết một tay ôm. Nhớ Tầm bao nhiêu, tôi càng thấy thương thân phận mình bấy nhiêu. Không hiểu sao, tôi không tìm được một lý do nào đó để tự ái nổi lên, để quên Tầm dễ dàng hơn. Người đàn bà biết mình đẹp là người đàn bà để trái tim trên khung mắt và lý trí nằm trong ngực. Họ thở bằng niềm kiêu hảnh và bước đi bằng sự lãng quên. Là Tầm. Qua Tầm, tôi thấu hiểu tình yêu không chỉ đơn thuần là những rung cảm của trái tim và xác thịt. Tình yêu còn là chiếc áo khoác sắc màu lộng lẫy, cho những đòi hỏi của thói quen xã hội chung quanh. Có lẽ, thế hệ của tôi cuộc sống vận chuyển bằng những ký hiệu của ngôn ngữ hơn là ý nghĩa bao hàm của nó chăng? Tôi không có câu trả lời. Dễ hiểu, vì tôi đang dự phần, đang là nạn nhân. 

            Tôi biết mình cũng giống như bao nhiêu người đàn ông khác, tham lam và ích kỷ trong tình yêu. Trọn vẹn và tất cả, từ đầu ngọn tóc đến ngón chân, phải là của tôi, phải thuộc về tôi... Tầm là một ngoại lệ, trong nhiều ý nghiã khác nhau. Khốn nổi, tôi chỉ làm chủ và thấy Tầm tuyệt đẹp từ lỗ rún trở xuống. Điều nầy không phải để tôi coi thường và lãng quên nàng, mà ngược lại. Giá trị của sự thật bao giờ cũng tồn tại lâu dài hơn những điều giả dối, đãi bôi. Tôi yêu thương và không quên được Tầm, ít nhất nàng vẫn còn phân nửa của đời sống thật. Con người của thế kỷ mới, chắc gì sự thật đã có trong giấc mơ?

           Tầm có quá nhiều khuôn mặt cho đời sống, quá nhiều nhịp đập tham vọng trong một trái tim. Tôi chỉ là một dự phần quá nhỏ. Những giây phút ngắn ngũi của ngất ngây khoái cảm, chính là những giây phút chúng tôi sống hoàn toàn chân thật cho nhau. Nàng thật sự tước bỏ tất cả những khuôn mặt và trái tim ngừng đập những nhịp giả dối hằng ngày. Giây phút đó, những tiếng kêu nguyên thủy không lừa dối mới thật sự thuộc về nàng. Để rồi không quá hai mươi phút sau, Tầm lại trổi dậy, mở cái laptop và di chuyển "con chuột". ' Click..! click..! ' những tiếng khô khan, dẫn Tầm vào thế giới con số "ma-quái " của thị trường chứng khoán. Như một nổi đam mê cùng cực. Như một loại "cocain" thấm sâu vào huyết quản nàng. Tầm quên tôi ngay, nói gì những giây phút ngắn ngũi đó, so với những con số thị trường "stock". Con số ngự trị đời sống xã hội đã đành, ngày nay, con số ngự trị cả tình yêu và thể xác. Tôi lên tiếng phàn nàn, Tầm giả đò câm điếc. Để rồi mỗi tháng nàng nhìn những con số báo cáo của ngân hàng, vui cười ngất ngưỡng và tận thưởng đêm đó với tôi, những giây phút dục tình ngút tận... Nhưng mặt đời sống rộng hơn mặt đêm, nên tôi và Tầm không có cùng nhiều ước vọng. Vậy mà tôi vẫn thương nhớ Tầm, phân nửa thân người và phân nửa phần đời tiếc nuối. Vài tuần lễ sau, có người gặp Tầm đi chung với một thương gia lớn tuổi người Hồng-kông. Tôi mong Tầm sẽ tìm được những con số thích hợp cho lòng mình.

 

              - Hi, chào ông. Chắc ông vừa mới dọn vào. Tôi tên là Kate, người láng giềng của ông đây. 

              - Chào cô Kate. Tôi tên Hiếu. Rất vui mừng được biết cô là người láng giềng của tôi...

              - Cám ơn ông Hiếu. Tôi cũng hân hạnh được quen ông. Có điều tôi phải nhắc chừng trước, để ông khỏi phiền về sau nầy. Tôi có chú mèo đen giống Trung-đông, tên Titan, nếu có lạc qua phòng xin ông đừng khó chịu với nó. Tính nó hay lén lút, lang thang sang nhà hàng xóm.

              - Cô đừng lo. Nếu Titan của cô ăn được cơm Việt Nam thì lúc nào tôi cũng đón chào nó mà.

           Tôi vừa nói vừa cười xã giao. Kate thì cười ngất, cảnh cáo:

              - Để rồi ông coi..! Gặp lại ông.

              - Chúc cô vui vẻ.    

           Nỗi buồn và thất vọng chợt vơi đi, khi tôi khám phá ra người láng giềng sát vách là một cô gái da trắng thật trẻ và vui tính. Ít ra tôi sẽ có những ngày vui chờ đón trước mắt. Những háo hức để chạm mặt người con gái có đôi mắt xanh lơ và hàm răng cười tươi, đều như những hạt bắp trắng. Lần gặp đầu tiên mà tôi cứ nhớ mãi đôi má đỏ hồng và đầy lông măng của Kate. Chừng như cô gái ở nhà cả ngày hoặc có đi làm, cũng chỉ part-time. Thỉnh thoảng tôi mới thấy Kate rời khỏi nhà vào những buổi chiều cuối tuần. Vài lần tôi làm bộ tình cờ ra hiên vẫy chào. Nàng liếc nhìn, rồi quay vội đi, như chưa hề biết mặt, chuyện trò. Con gái Mỹ trắng, máu lạnh như tình, tình vội như mưa. Mà chẳng hề gì tôi, người mướn phòng mới tới. Kate làm cho một bar rượu "playboy" rất nổi tiếng trong thành phố. Con nhỏ ăn diện như người mẫu và rất hãnh diện về nghề nghiệp của mình.

            Buổi chiều đi làm về ghé chợ, tôi mua thêm vài hộp thức ăn cho mèo. Đã mấy tuần rồi, tôi cứ mong con mèo Titan lạc qua phòng tôi kiếm ăn. Chắc chắn cô gái rất mê cuốn phim tình cảm dài nổi tiếng thế giới vừa chiếu khắp nơi, Titanic. Con người đang chìm vào cơn đói khát của sự lãng mạng, Titanic đáp ứng kịp thời nhu cầu thời đại nầy chăng ? Với tôi, ngoài kỹ thuật vĩ đại và tốn kém hằng trăm triệu mỹ-kim cho những thước phim cho cảnh đắm tàu, chuyện tình đôi trai gái chẳng làm tôi xúc động chút nào. Một thứ bi kịch trưởng giả và đầy tính chất "cải lương"... Trên đời tôi sợ nhất là thằn-lằn và ghét nhất là con mèo cái. Xúi tôi làm gì cũng được, "lận" dao đánh lộn, ngủ bãi tha ma, nhưng kêu bắt con thằn-lằn thì tôi đành chạy trước. Không hiểu sao tôi ớn sợ cái làn da lạnh tanh và  mềm mại của nó đến như vậy. Còn mèo, tôi ghét cay ghét đắng cái dáng điệu õng ẹo, làm bộ ngoan hiền đầy móng vuốt của nó... Nhưng ghét gì thì ghét, tôi cũng phải dụ cho được con mèo Titan sang nhà tôi ăn "vụng". Kế hoạch sẵn sàng, tôi chỉ thêm chút kiên nhn đợi chờ là đ. Chiều hôm đó, tôi chẳng phải chờ lâu, nàng xuất hiện thật dịu dàng, e lệ phía ngoài cửa sổ phòng tôi. Nàng không đen hết như Kate miêu tả mà nhiều đường viền trắng, vàng như loại mèo tam thể. Tôi lẹ tay khui hộp gan gà, bỏ vào cái chén nhỏ và kéo khung cửa sổ lên cao. Con mắt Titan cũng giống như chủ nó, xanh lơ. Chờ nàng ăn xong, tôi sẽ bồng qua trả lại cho chủ để có dịp rũ buổi hẹn hò.

            Có tiếng gõ cửa. Chủ nhanh hơn tôi. Cánh cửa mở rộng trước mặt tôi là hai mẹ con người Á-châu, đứa con gái chừng bảy tám tuổi.

               - Con Sue, mèo của con có lạc sang nhà chú không ?

           Người đàn bà có mái tóc dài, khuôn mặt đẹp thật giản dị và yếu đuối.

               - Xin lỗi ông, tôi đã vô ý để hở cánh cửa sổ. Ông là người Việt, tôi thấy họ ông mới dán ở hộp thư.

               - Dạ phải. Chị gọi tôi bằng tên được rồi. Tôi tên Hiếu. Con mèo của cháu đang ăn trong nhà. Cháu tên gì ?

               - Cháu tên Hà. Để cháu vào bồng nó về, sợ phiền chú. 

               - Mời chị và cháu Hà vào nhà, làm quen hàng xóm mới. Biết có gia đình chị người Việt, cũng mừng lắm. Dạ, chị tên gì ?

              - Tôi tên Liên. Gia đình tôi ở căn cuối. Tôi phải về có việc, hôm nào rãnh, mời anh Hiếu sang chơi.

            Hai mẹ con ôm mèo về, tôi đứng nhìn theo ngơ ngẩn. Khuôn mặt đẹp thanh tú, bình dị nầy, chừng như tôi đã gặp đâu đây. Tôi cố moi mọi ngõ ngách của trí nhớ. Quen vô cùng mà không nhớ từ đâu?  Một lúc sau, nhìn lại chồng băng nhạc và sách báo trên bàn, tôi chợt nhớ ra khuôn mặt đẹp của người đàn bà vừa gặp. Hình bìa băng nhạc của một ca sĩ nổi tiếng, với giọng ca quyến rũ và nét đẹp thật bình dị, thanh tú. Đúng rồi, Liên có mái tóc và khuôn mặt thật giống người nữ ca sĩ mang tên của miền biển xanh cát mịn. Người ca sĩ tôi tương tư, từ tiếng hát lẫn dáng người... Tại sao mẹ con Liên lại sống trong khu chung cư rẽ tiền, cũ kỷ và không mấy an toàn nầy. Tôi lan man, tự hỏi.

            Buổi chiều chợt tắt nắng thật nhanh. Tôi thấy lòng rộn rã với bao nhiêu sự tình xảy ra thoáng chốc, bất ngờ. Tôi muốn tìm một quán ăn, uống chút bia và ghé quán cà-phê nhâm nhi sau đó. Đêm sẽ đẹp vô cùng và nhiều mộng mị.

 

2.   

   Chị Hiền gọi điện thoại nhắc tôi về mừng năm mới với gia đình. Mẹ lúc nầy không được khỏe, đi đứng khó khăn và thường hay nói nhảm. Tôi không hứa vì có thể phải trực ở sở làm, nếu không, tôi hẹn sẽ có mặt ở nhà trong dịp chào mừng năm mới. Chị hỏi thăm Tầm. Tôi nói, hai đứa không hạp nhau và đã chia tay. Giọng chị buồn buồn, an ủi tôi vài câu rồi hẹn gặp lại. Tôi biết mình đã làm thất vọng nhiều ở chị Hiền và mẹ. Bao nhiêu niềm ước vọng lớn lao của cả hai đều đặt vào tôi, đứa con trai duy nhất của gia đình. Tôi cũng đ đạt, bằng cấp đàng hoàng và có việc làm tương đối. Nhưng đời sống bản thân và tình cảm không làm cho hai người phụ nữ thân yêu nhất đời tôi an tâm. Đó là việc lấy vợ có con, làm chồng làm cha, và để mẹ tôi có cháu như bao nhiêu người thanh niên trưởng thành khác. Hơn ba mươi tuổi mà tôi vẫn lông bông, chẳng chịu đeo gông mọc rễ. Chuyện không cưới hỏi mà dọn vào sống chung, thì dù có nói, giải thích thế nào mẹ tôi cũng không hiểu. Bà chỉ lắc đầu buồn bã, thở dài rồi nhìn bâng quơ vào khoảng quá khứ vô hình... Mười giờ rưi, tôi định nằm đọc một tạp chí mua dài hạn vừa mới nhận, thì lại có tiếng gõ cửa hối hả. Ngạc nhiên, ai lại tìm tôi giờ nầy. Bên ngoài là con nhỏ Kate. Mặt mày hơ hải, nó ngượng ngùng nói nhanh:

               - Xin lỗi Hiếu, phải làm phiền ông... Tôi... tôi có chuyện rất cần ông giúp đỡ. Mong ông đừng nói lại với bất cứ ai điều nầy, tôi cảm ơn ông nhiều lắm.   

               - Kate hãy vào trong nhà và cứ yên tâm, tôi không hở môi đâu!  Mà Kate cần tôi giúp đỡ điều gì?

            Nàng bước vào, khép cửa và nhìn tôi thật lâu. Tôi ngửi thấy mùi rượu trong giọng nói của Kate:

               - Tôi đang cần gấp số tiền... Cần lắm, tôi có thể chết được... Nếu Hiếu có thể giúp cho tôi một trăm đô-la ngay bây giờ, tôi sẽ... Tôi sẽ trả lại sau nầy hoặc Hiếu muốn giải quyết tình dục với tôi cũng được.

            Bất ngờ, tôi ngây người nhìn đứa con gái da trắng. Kate dễ nhìn và thân hình thật hấp dẫn. Nhưng lúc nầy, tôi thấy ái ngại rất nhiều. Kate đưa tay nhìn chiếc đồng hồ dạ quang rẻ tiền.

              - Còn một giờ nữa là tôi phải đi với số tiền đó. Tôi biết ông thích tôi lắm... Nhưng nếu ông không muốn, tôi sẽ đi ngay và tìm người khác vậy...

            Không chút háo hức, nhưng tôi chợt nghĩ đến bộ mặt của tên thương gia già Hồng-kông hôn lên mắt môi của Tầm.

              - Tôi có tiền, có đủ một trăm tiền mặt.

             Tôi trả lời thật nhanh và đi vào trong. Kate theo tôi, không nói thêm gì. Vào phòng ngủ chưa kịp tắt đèn, Kate đã bắt đầu cởi ngay quần áo. Tôi còn loay xoay thì nó đã nằm sẵn trên giường. Hai vú Kate vung tròn và căng cứng, mình mẩy đầy tàn nhang và  nhám lông con. Kate yêu cầu tôi sờ vú nhẹ tay, không được bóp mạnh, vì nó mới "độn silicon" cách đây mấy tuần. Tôi càng cụt hứng hơn khi miệng nó vẫn còn nồng mùi rượu. Kate tìm mọi cách kích thích tôi cho nhanh, cho xong chuyện. Rồi tất cả cũng tới nơi, cũng xong phần đổi chác. Trong đời tôi, chưa bao giờ có lần làm tình nào cảm hứng nghèo nàn và chán chường đến như vậy. Kate cầm tiền ra khỏi phòng, tôi vẫn còn nằm nghĩ ngợi không đâu. Tại sao tôi lại không từ chối ngay từ đầu, những chung chạ xác thịt giả dối và ghê tởm nầy. Tôi chợt thở dài trong nỗi cô đơn cùng tận...

 

           Không quen chăm sóc người bệnh, tôi lúng túng nhìn chị Liên thiêm thiếp trên giường. Mặt tái xanh, hằn nét chịu đựng và trán chị rịn ướt mồ hôi. Bé Hà ngồi bên giường nước mắt tuôn tràng, tập trung hết sức xoa tay mẹ, như đã quen, đã lập lại nhiều lần. Tôi ngõ ý đưa chị đi bệnh viện, nhưng chị đều lắc đầu. "Quen rồi. Chịu đựng chút sẽ qua thôi", chị cố gắng thì thào. Cũng may chiều nay tôi về sớm. Chưa kịp lên nhà thì bé Hà đã chận lại và cho hay mẹ nó ngất xỉu dưới sàn nhà. Tôi đỡ chị Liên lên giường, lấy thuốc cho chị uống theo lời hướng dẫn. Nửa giờ sau khuôn mặt chị giảm đau dần và thiếp đi. Tôi ra dấu cho bé Hà ra phòng ngoài, để yên cho chị ngủ lấy sức. Bây giờ tôi mới ý thức được mùi dầu nóng bay nồng chung quanh. Trên bàn cơm nước còn l d, tôi hỏi bé Hà. Con bé lắc đầu không đói. Tôi cũng bồn chồn đầy bụng.

               - Mẹ bé Hà bệnh gì và lâu chưa?

               - Bé Hà không biết. Nhưng đôi khi mẹ ngất xỉu làm Hà sợ!

               - Rồi ba của bé Hà đâu, chú không gặp?

               - Ba Hà ở gần đây lắm. Nhưng ba có mẹ và em bé khác. Lâu lâu ba mới ghé thăm con.

          

            Giọng nó nhẹ và buồn. Tôi chợt thở dài, đầu óc trống rỗng. Chính những điều nầy mà tôi không muốn có trách nhiệm, trước khi bước vào sự ràng buộc của hôn nhân. Nó không chỉ dừng lại cuộc sống của hai cá nhân, mà là nỗi ám ảnh đau đớn cho tuổi thơ. Đứa trẻ sẽ trở thành người lớn, cưu mang bao nhiêu niềm oán hận trong lòng. Nó không có tình thương thì lấy gì ban phát. Một đời nối hai, từ hai nối tiếp biết bao nhiêu thế hệ buộc chặt ước mơ với chính nỗi oán hận của mình. Xã hội ghẻ lạnh và tình người mang nhiều dấu ấn của sự hận thù quá khứ. Đôi mắt ngây thơ của bé Hà không có cái nhìn tinh khiết của tuổi thơ. Tôi không muốn mình đóng góp vào thế giới đầy văn minh vật chất và thiếu vắng tình yêu nầy. Đã quá đủ, cần phải giảm bớt đi nhiều. Dưng không tôi buồn bực và oán trách cuộc đời. Nhìn thấy hoàn cảnh mẹ con chị Hà, hay khi nhìn khuôn mặt vật vã, chịu đựng của chị Liên. Khuôn mặt của chị trong cơn đau thêm đẹp não nùng... Tôi định đứng dậy trở về phòng, nhưng lại thôi. Bé Hà đang ngồi yên tâm bên cạnh tôi coi chương trình hoạt họa trên màn ảnh truyền hình. Thấy tôi không hỏi gì thêm, nó cũng không màng kể lể. Trẻ con ở đây, trong thế hệ nầy còn biết dè dặt hơn cả tôi. Chúng nó khôn ngoan và lớn rất nhiều hơn trước tuổi. Buổi chiều tắt nhanh, đêm vươn rộng cánh tay ngập tràn bóng tối.

 

            Tôi giật mình tỉnh giấc. Không biết tôi đã thiếp đi tự bao giờ. Bên tay tôi bé Hà cũng đang ngã đầu ngủ ngon. Tiếng động vọng ra từ trong phòng chị Liên. Tôi nhẹ tay đỡ đầu bé Hà xuống sofa, chưa kịp đứng dậy thì đã thấy chị Liên bước ra khỏi phòng. Thấy tôi chị gượng cười nhẹ. Trông chị tỉnh táo và có thần sắc. Tôi bồng bé Hà vào trong giường, trở ra thấy chị đang lui cui bắt ấm nước.

               -  Phiền anh Hiếu nhiều quá. Đồ ăn còn nguyên, anh đã ăn uống gì chưa ?

               - Chị đừng lo. Chị Liên thấy thế nào, khỏe hẳn chưa chị ?

               - Bệnh lâu rồi anh à. Thỉnh thoảng nó trở chứng, uống thuốc và chịu đựng một chút thì cũng qua thôi... Anh Hiếu uống chút trà hay cà-phê sữa cho ấm.

              - Chị cho tôi ly cà-phê sữa, ít cà-phê nhiều sữa... Chỉ có hai mẹ con như vầy, xảy ra chuyện gì thì nguy hiểm quá.

              - Quen rồi anh...

            Chị Liên bỏ lững câu nói, khuấy ly cà-phê cho tôi và tách trà cho chị. Mùi trà quyện lên thơm nhè nhẹ. Tự dưng tôi thèm một ly trà hơn. Khuôn mặt mệt mõi của chị trong đêm đẹp lạ lùng. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy một người đàn bà đẹp thật xa vắng, chiêm ngưỡng. Không một vết vẫn đục, không một thoáng chiếm đoạt. Tôi biết lòng mình đang rung động như mái tóc dài biếng chải, buông lơi trong những phất phơ tình cờ. Ngụm cà-phê nóng làm tôi dễ chịu và tỉnh hẳn. Tôi và chị ngồi yên lặng, bâng quơ. Tách trà nóng cũng giúp chị Liên tươi tắn hơn. Vài lần ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Chút ngượng ngùng, chút xót xa.

 

            ...Lớn hơn tôi bốn tuổi, chị lấy chồng lúc tuổi hai lăm. Chị Liên sinh khó ngay đứa con trai đầu lòng. Hai mẹ con đều trải qua cơn thập tử nhất sinh. Nhưng chỉ được vài năm sau thì đứa bé bỏ chị ra đi. Chị buồn da diết, còn anh ấy thì bảo lỗi tại chị sinh khó, làm đứa bé không khỏe mạnh, chết non. Hơn năm sau, chị có thai lần nữa. Khốn khổ thay, chị lại sinh khó. Để bảo vệ đứa nhỏ và cứu chị trong cơn hiểm nghèo, bác sĩ phải cắt hẳn tử cung của chị. Vĩnh viễn chị sẽ không còn sinh sản được nữa. Bé Hà là đứa con gái duy nhất và cuối cùng của vợ chồng chị. Đã vậy, sau khi mổ, tuy cứu mạng sống nhưng chị mất sức hoàn toàn. Mấy tháng sau khi sanh, chị Liên mới đi đứng lại tương đối bình thường. Không khí gia đình bắt đầu nặng nề, lấn cấn. Chồng chị  thường vắng nhà, chơi bời nhậu nhẹt và khi về nhà chỉ nhìn quanh thở dài. Không đủ sức đi làm, nhưng không được chứng nhận mất sức lao động, chị lại thêm gánh nặng gia đình. Công việc làm của chồng những năm đó lêu bêu, kinh tế nước Mỹ khó khăn, nạn thất nghiệp trần trọng. Nay làm mai nghỉ, không chừng. Nỗi lo lắng trao trùm không khí gia đình chị vốn đã buồn tanh. Đến một hôm anh nói với chị rằng, vợ chồng tạm thời ly dị, chị và bé Hà sẽ được hưởng trợ cấp của chính phủ theo diện không chồng phải nuôi con nhỏ. Như vậy sẽ đỡ gánh nặng cho cả gia đình. Trên mặt giấy tờ thôi, còn bên trong vẫn tình nghiã vợ chồng. Nhiều người đã làm như vậy. Đợi khi con lớn, hợp thức hoá lại quan hệ vợ chồng, không khó gì. Chị đồng ý ngay. Giải pháp chồng muốn, vã lại, thuận lợi cho mẹ con chị trong lúc ngặt nghèo nầy... Mấy tháng đầu anh ấy thăm mẹ con chị thường xuyên. Rồi thưa dần, vài tuần, cả tháng. Không đầy năm sau, anh ấy lập gia đình và có đứa con trai với người đàn bà khác. Mẹ con chị vẫn còn sống nhờ tiền trợ cấp và chị uống thuốc mỗi ngày, vào bệnh viện mỗi tháng. Không ngờ có một ngày chị lại trở thành một thứ "nô lệ mới" trong cái xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ và đầy nhân phẩm nầy..!

 

            Giọng chị chậm rãi, đều đặn và hờ hững như không. Đã quen rồi câm lặng. Đã chai lì những xúc cảm trong lòng. Tôi nuốt từng ngụm cà-phê khó khăn, chua xót.

                - Sự thật đơn giản có vậy. Anh Hiếu có coi thường mẹ con Liên cũng đành chịu thôi... Liên còn chống chỏi vượt qua những cơn đau, không phải chỉ nhờ những viên thuốc mà còn vì bé Hà. Nó còn quá nhỏ để mất cha và luôn cả mẹ.

               - Chị Liên đừng nói vậy. Mỗi người một hoàn cảnh, một cuộc đời. Tốt và xấu của con người không lệ thuộc vào những hoàn cảnh rủi may. Tôi luôn quý trọng và yêu mến sự thật, cho dù nhiều lúc không phải là điều hoàn hảo nhất.

               - Cảm ơn anh Hiếu... Mong anh sẽ giữ được mãi mãi điều tốt đẹp nầy trong lòng.

            Đêm đã khuya, thoáng lạnh. Cả tôi và chị đều không muốn cúi nhìn đồng hồ, lãng quên nhịp thời gian. Ly cà-phê mang lại cho tôi nhiều cảm kích. Kể xong cho tôi, như trút hết bao nỗi đớn đau trong lòng, chị phấn chấn hẳn lên. Nhìn chị, chừng như tôi không còn thấy cơn đau vật vã đến ngất xỉu, mà chị đã chịu đựng vừa qua. Tất cả đã trôi xuôi theo dòng định mệnh giữa đời. Như có không mờ ảo, như thật giả vô hình... Đêm càng sâu, khuôn mặt chị càng thêm đẹp. Chợt ngước lên, chị Liên bắt gặp đôi mắt tôi đang nhìn chị đăm đăm. Ánh mắt chạm nhau như lượng trời trĩu nặng, vô biên. Tôi biết mình phải chào chị ra về. Chị biết đến lúc phải tiễn tôi ra cửa. Cuộc đời luôn rộng mở, nhưng những vô tình, đôi khi khép chặt những tấm lòng.

           

Cánh cửa hé mở nhỏ. Khoảng cách giữa tôi và chị không quá một tầm tay. Khuôn mặt chị mơ hồ, thanh thoát. Tâm hồn tôi chợt vời vợi thương yêu. Bàn tay tôi muốn đưa lên, vuốt ve mái tóc buông dài suốt bờ dĩ vãng. Ánh mắt chị nhìn tôi tha thiết nỗi xúc cảm không thể thành lời. Tôi khẻ chào chị. Cánh cửa khép lại. Tôi đi dọc hành lang nghe tiếng thở dài tôi nhè nhẹ trong ngực và thoảng đâu đây, môi mắt chị thơm ngát hương đêm.

 

3.

 

Đi ăn trưa về, tôi nhận được voice-mail của Tầm nhắn cần gặp tôi chiều nay sau giờ làm. Tầm không nói lý do. Tôi gọi lại chỗ làm và nhà Tầm, chỉ có máy nhắn tin. Chắc phải có chuyện thật khẩn cấp và hệ trọng. Tôi không chịu nổi nhưng biết rõ tánh Tầm. Tham vọng và rất nhiều tự ái. Hôm chia tay, không nói ra, nhưng qua ánh mắt của nàng tôi biết là lần chia tay cuối cùng. Tôi cũng không có gì luyến tiếc. Dường như đã hết mọi cố gắng. Dường như đã cạn rồi ngôn ngữ cho nhau. Trong tình yêu, sự ghê gớm nhất của cuộc chia ly không phải là lòng oán giận, mà là sự dững dưng. Tự ái của sự oán giận không đẩy tình yêu hoàn toàn lùi vào bóng tối. Chỉ là lớp sơn thỏa mãn dễ trốc lên, lộ mọi nỗi tuyệt vọng của những hờn ghen. Người đàn bà không thể quay lưng với tình yêu, họ chỉ lẩn tránh sự lệ thuộc đầy thói quen của chiếc bóng. Tầm có quá nhiều lệ thuộc của những thói quen đời sống, vật chất và nhu cầu.

            Cuối tháng Mười, trời tối thật nhanh và trở lạnh bất thường. Căn phòng Tầm không có ánh đèn. Nhìn đồng hồ, tôi đến rất đúng giờ. Tầm chưa kịp về hay còn trong chỗ làm, nhìn lại lần nữa những bảng biểu đồ thị trường chứng khoán vừa đóng cửa chiều nay. Thất vọng vì những triền dốc. Yêu đời vì những đỉnh cao. Tôi vẫn đưa tay gõ cửa như một thói quen, hờ hững.

               - Anh Hiếu phải không. Vào đi anh, cửa không khóa.

           Rõ ràng là giọng của Tầm. Căn phòng tối lờ mờ, tôi thấy bóng Tầm trong bộ đồ ngủ màu trắng lụa. Tôi hỏi Tầm để đưa tay mở đèn. Tầm ngồi co ro, để càm trên hai đầu gối chụm lại như đứa con gái nhỏ vừa có cuộc tình lỡ, thoáng qua. Ánh đèn soi khuôn mặt Tầm ủ rủ, tâm sắc thất lạc.

               - Tầm đang bệnh?  Trông em tiều tụy, xanh xao quá.

               - Em không có bệnh gì đâu... Nhưng em không muốn sống nữa đây!

            Rồi Tầm ôm mặt khóc nức nỡ. Tôi ngồi xuống bên Tầm, đỡ hai vai nàng, hỏi nhanh:

              - Có chuyện gì xảy ra? Tầm nói anh nghe đi.

            Mùi dầu gội đầu quen thuộc từ tóc Tầm tỏa ra thơm nhẹ. Nàng gục đầu vào vai tôi, như phản xạ tự nhiên, buông thả. Dễ dàng phán đoán, dễ dàng nói từ khoảng cách xa nhưng có ai phân biệt ghét thương trong tầm tay ấm. Tôi cũng như bao nhiêu người đàn ông khác, quên ngay đối xử của Tầm trong những ngày qua. Nước mắt mặn và trong của người đàn bà đẹp là một thứ vũ khí, một loại độc dược ngọt ngào nhất của bao nhiêu trang tình sử. Biết vậy, mà đành chịu vậy mỗi khi. Cũng may Tầm ít nước mắt, nên tôi cũng không phải chịu đựng cảnh mũi lòng dài lâu. Nàng chùi nhanh nước mắt, ngước nhìn tôi ánh mắt đắng cay, thảm hại. Qua đôi mắt ấy, tôi biết Tầm đang ngập đầy tủi nhục và hờn căm. Tôi hiểu mình cần phải lấy lại khoảng cách cần thiết của tấm lòng. Lắng nghe và đương đầu trong những nghịch cảnh cần thiết. Xúc cảm chỉ là kết quả của sự nông nổi thói thường, không đáng tin cậy.

               - Không phải chỉ mình em, mà nhiều người đàn bà khác nữa, đều bị hắn lường gạt. Cả tình lẫn tiền. Thật là hổ thẹn và đáng đời cho hạng đàn bà con gái như em...

               - Tầm nói đến người bạn thương gia Hồng-kông, thường đi chung với Tầm. 

            Tôi hỏi thật thận trọng. Bắt đầu câu chuyện không đầu không đuôi, thường là dấu hiệu sắp bùng nổ của người đàn bà, của Tầm.

               - Thằng cha già khốn nạn đó, chớ bạn gì. Hắn làm quen với Tầm trong một cái seminar của hãng e-Trade. Có đầy đủ giấy tờ chứng nhận hắn là đại diện một công ty mua bán thị trường 'stock' lớn nhất nhì Hồng-kông. Hắn tìm mọi cách để Tầm mở trương mục và mua bán 'stock' qua công ty của hắn. Tuần lễ đầu, lời hơn hai chục ngàn. Dễ dàng, tiền bạc kiếm vào như trở bàn tay... Không hiểu ma quỷ dẫn đường thế nào, em trút hết tiền bạc để dành vào trương mục của công ty hắn. Kể cả cái xe Volvo mới vừa trả xong tháng trước. Hắn biến mất. Giấy tờ giả, công ty ma. Nhờ luật sư truy tố, không biết hắn ở đâu, chính quyền cũng đành chịu. Không làm gì hơn được, chỉ biết điền đơn để đó thôi.

            Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực "xương máu" của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi. Hèn gì, tôi sực nhớ ra, đã không thấy chiếc xe Volvo S70 màu xanh đậm đậu trước nhà thường khi.

               - Bây giờ em không biết phải làm gì. Món tiền mượn được cuối cùng đã thanh toán hết cho luật sư. Không xe, lại phải làm thêm job ban đêm... Không còn ai để em than oán, nên đành gọi anh. Anh đừng giận Tầm...

               - Xui rủi, không giúp đỡ ai nỡ giận Tầm. Anh có thể giúp gì, Tầm cứ nói.

               - Nhờ anh cho Tầm mượn tạm mười ngàn mua tạm chiếc xe, đi làm. Tầm sẽ trả mỗi tháng. Trong vòng một năm em hứa sẽ trả lại hết cho anh.   

           

Tôi nhớ lại cái trương mục rỗng trơn của mình trong mấy tháng qua. Mỗi thứ mỗi sắm, cơm hàng cháo chợ từ khi dọn ra ngoài. Tuần nào xong tuần đó, tháng nào sạch tháng đó... Tôi bất chợt nhìn khuôn mặt Tầm. Đẹp vô cùng trong nét muộn phiền. Có lẽ, người đàn bà đẹp nhất là những lúc buồn bã, yếu đuối. Nhất lại là những người đàn bà đẹp như Tầm. Ánh mắt chạm nhau. Lặng yên, rung động. Tầm ghì mặt tôi hôn lên môi, quyện đầu lưỡi thật sâu, cuồng nhiệt. Mọi vật chuyển động, hừng hực. Tầm như dồn nén mọi uất ức, tràn ngập, vỡ bờ trong cơn xúc cảm thể xác. Thân thể nàng trắng ngần, mịn màn với hai bờ ngực nhỏ đầy, xinh xắn... Tôi chợt nhớ đến hành lang vắng lạnh dọc theo căn phòng tôi ở. Tôi chợt nhớ đến thân thể nhám lông con và hai vú độn 'silicon' to lớn của đứa con gái Mỹ. Trong căn phòng tối lờ mờ, tôi ngữi có mùi hương trà thoang thoảng đâu đây. Tôi đẩy Tầm ra, bật ngồi dậy. Tất cả bất chợt, ngỡ ngàng. Căn phòng và Tầm nằm sẵn sàng, chờ đợi như tấm gương soi phiá sau cả đoạn đời tôi dĩ vãng. Tôi không thể nhìn lại để đi lùi. Tôi không thể suốt đời làm nô lệ cho những xúc cảm của quá khứ. Thôi tôi ơi, hãy để những ngày ấy lụi tàn...

               - Anh không muốn, Tầm đừng thắc mắc... Anh để lại chiếc xe, ngày mai sẽ trở lại ký giấy chủ quyền cho Tầm. Anh đón xe bus, Tầm không cần phải đưa.

 

            Thời gian nhẹ tênh, trôi ngược. Tôi đi dọc con đường, thư thả về một nơi đã định. Gió se sắt lạnh, phả lên khuôn mặt tôi nỗi cô-đơn-hạnh-phúc vô cùng. Dưng không tôi thèm một tách trà, một bàn tay gầy guộc,  xanh xao. Có chút hương đêm loang tỏa, bâng khuâng trĩu nặng những con đường dẫn bước chân theo. Chừng như có cửa sổ nhà ai quên khép khung che, để vệt đèn khuya soi lệch một góc đời...

 

Durham, North Carolina

Nguyễn Vĩnh Long

 

. Tiền Kiếp

 NguyenVinhLong_Tienkiep.jpg

               

 

1.

 

            Căn nhà nằm lưng chừng núi, nhìn xuống lòng thung lũng thấp. Chung quanh là những cụm rừng thưa, chạy dài theo dãy núi Smocky Mountain hình vòng cung. Dân số cả thị trấn miền núi không quá một ngàn người. Hai trạm xăng, một siêu thị loại bỏ túi và vài ba quán ăn lụp xụp của người da đỏ. Đi bác sĩ, khám bệnh phải lái xe hơn cả giờ mới xuống tới thành phố Asheville của bang North Carolina. Nhà cửa đất đai rất rẻ và không khí trong lành quanh năm. Phần lớn dân chúng trong vùng sống nhờ lượng du khách của mùa hè, và nhất là mùa thu. Trung dọn hẳn lên căn nhà mướn nầy vào cuối mùa hạ. Những cơn nắng dội lửa đã giảm dần, nhường cho vài cơn mưa bụi loáng thoáng,  bất ngờ. Buổi sáng Trung bàng hoàng trước vẽ đẹp của núi rừng phủ kín trong lớp mây mù dưới chân núi. Khí trời chợt chùng lạnh, se sắt mù sương đủ để khu rừng thưa khẻ chuyển mình thay lá. Những chiếc lá xanh nâu đã cong mình vàng lên sắc đỏ.

            Mùi thảm hăng hắt và ẩm thấp, chứng tỏ căn nhà đã vắng hơi người từ lâu. Nipa muốn ở lại lau chùi, dọn dẹp nhưng Trung bảo không cần. Ông có nhiều thời gian để bận rộn. Người y tá chìu ý ông Trung nhưng vẫn sắp xếp những thứ cần thiết trong tủ lạnh và nhà bếp. Nàng cũng không quên ghi chú cẩn thận số lượng thuốc men của ông trên đầu giường ngủ. Chuyến đi dài không làm Trung mệt mỏi, trái lại, ông thấy mình tỉnh táo và phấn khởi hẳn lên. Ít nhất ông cũng có những chuỗi ngày trước mặt thong dong, tự tại trong cảnh thiên nhiên của núi rừng. Một mình, niềm cô đơn sẽ lớn hơn. Nhưng trong cùng tận cô đơn, ông sẽ có dịp đối diện với chính mình nhiều và thành thật hơn. Đến lúc mà mọi sự hiện diện của tha nhân đều tạo cho ông niềm sợ hãi thực tại.

 

            Nipa, cô y tá người Phi-líp-pin có khuôn mặt và nụ cười thật trẻ con. Bệnh viện đã cử cô đến chỉ dẫn cách tự chích thuốc cần đau và theo dõi bệnh tình của ông sau khi rời viện. Lúc đầu Nipa rất dè dặt trước thái độ buông xuôi, chờ chết của ông. Cô chỉ giúp ông thành thạo việc tự chính giảm đau chớ không tỏ ra thân thiện với bệnh nhân. Vài tuần lễ sau đó, một lần Thảo dẫn con đến thăm, Nipa mới có dịp hiểu sự lựa chọn đầy nghị lực của ông Trung. Cô đã ứa nước mắt trước cảnh chia tay, tưởng như tạm bợ bề ngoài mà đã nghìn trùng xa cách tận tâm. Ông cô đơn trong hạnh phúc. Ông chờ đợi cái chết bình thản như chờ một chuyến đâu đó đi xa. Con người rất can đảm trong lời nói, rất sâu sắc với bao nhiêu triết lý cao xa. Nhưng khi đối diện với hiện thực hy sinh có máu, bằng mạng sống chính bản thân thì họ lại có nhiều phương tiện để biện minh cho hành động yếu hèn... Nên đứng trước người đàn ông như yếu đuối, vô tư nhưng Nipa thấy cả dòng biển ngầm mạnh mẽ. Có khi một vũng nước trong nhìn tận đáy, lại nhận chìm những kẻ vô tình. Lắm lúc vũng nước như đục ngầu đe dọa, lại không qua khỏi mắt cá đôi bàn chân... Họ trở thành đôi bạn, giữa làn ranh cận kề sinh tử... Đến một hôm Trung nhờ Nipa giúp ông tìm mướn căn nhà nhỏ, rẽ tiền trên vùng núi. Càng cao, càng sâu vào rừng núi càng tốt. Ông thao thao nói với cô y tá cách chữa bệnh ung thư thiên nhiên của người Nhật. Không thuyết phục, nhưng Nipa hứa giúp ông tìm nhà. Vã lại cũng vào thu, cảnh núi rừng lá chuyển, biết đâu tái tạo cho ông mầm sống mới.

            Nipa đặt chiếc xe lăn và cây gậy cuối góc nhà rồi chuẩn bị từ giả Trung. Ông ngập ngừng cám ơn. Nipa chần chừ, không nở. Trong ánh mắt của người đàn bà tràn đầy niềm cảm thương, nuối tiếc. Tất cả rồi cũng qua, một lần gặp gỡ. Như kiếp người, thoáng chốc mà hệ lụy cưu mang tưởng chừng bất tận. Bắt đầu đã khó, chấm dứt cũng không phải dễ dàng.  Nipa nhìn quanh, nhiều lần, căn nhà gỗ đơn độc giữa lưng chừng núi. Nàng đến như cơn gió lướt qua đời ông, không dừng lại.  Niềm hy vọng cuối cùng một đời người chính là sự trở về, trở về với chính mình trên dòng sông bản ngã. Chạm đáy đời ông, Nipa như bắt gặp đời mình. Khác biệt góc thời gian, soi cùng đời mặt phẳng. Nàng đã không giữ được lời hứa, mặc cho giòng nước mắt rơi thấm mặn khóe môi khô. Người đàn bà Phi-líp-pin quay nhìn căn nhà lần cuối, trước khi ngược xuống lòng đường. Đầu mùa thu, buổi trưa miền núi ngây ngất như ly rượu mạnh. 

 

 

            ... Sau vài tháng hóa trị (chemo-therapy), Trung quyết định không tiếp tục nữa. Lần cuối cùng khám bệnh, bác sĩ đã cho ông biết: 

               - Tiếp tục điều trị tại bệnh viện và chemo-therapy, ông có thể kéo dài sự sống từ một đến hai năm. Nếu khước từ, chúng tôi không dám đảm bảo cho sinh mạng ông trong vòng sáu tháng. Mong ông suy nghĩ thật kỷ lưỡng. Tuy nhiên mọi sự quyết định đều tùy vào ông và gia đình.

            Ông biết rõ số phận của mình. Hơn nữa, sự tàn phá những tế bào sống trong cơ

thể khiến những ngày còn lại của ông sẽ tệ hại hơn. Ông muốn mình phải thật sáng suốt và tỉnh táo cho  mọi chuẩn bị, mọi sự lựa chọn cần thiết. Thảo đã đưa mấy đứa nhỏ về sống với gia đình ở Dallas. Trẻ con nhiều nước mắt nhưng cũng dễ lãng quên. Mười bốn năm chung sống vợ chồng, chia nhau từng tháng ngày khổ đau, hạnh phúc. Tình yêu ông với Thảo lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Nàng và các con ông còn phải sống, cho hôm nay, cho ngày mai. Có chăng với ông, là từng ngày cuộn trôi gần cái chết. Mấy tháng qua, Thảo đã khóc cạn một đời nước mắt. Ông không để chứng bệnh ung thư giết chết ông và dần mòn giết chết niềm tin và hy vọng ngày mai của những người ông thương yêu hết mực. Tất cả những đau đớn dù lớn lao đến đâu, rồi cũng qua đi. Thời gian trôi xuôi giữa dòng đời không trở lại. Tình yêu Thảo và các con lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Với Trung, tiền bạc không mua được hạnh phúc và niềm hy vọng. Nhưng tương lai của gia đình và các con ông không thể lệ thuộc nỗi đau và cái chết dần mòn của ông. Thôi thì một lần chia ly còn hơn những ám ảnh truyền kiếp.

            Tất cả cuộc ly dị đều bắt đầu và kết thúc bởi những thất vọng và oán hận. Trừ trường hợp của ông và Thảo. Cuộc chia tay, dù trên pháp lý, của họ bắt đầu bằng những yêu thương và lòng hy sinh vô bờ. Của ông. Của Thảo. Của các con. Nước mắt họ không chảy xuôi theo giòng đời thường tục. Những giòng nước mắt của họ chảy ngược vào tận cùng giòng đời hệ lụy cưu mang. Số tiền quá lớn cho sự dằng co với cái chết, rồi cũng phải đến, đủ đem lại cho người sống một mai nầy tốt đẹp. Cuối cùng rồi Thảo cũng hiểu. Trong cùng tận của đời người, cái chết không phải là sự chia lìa vĩnh viễn. Mà chính cuộc sống vạch ra nhiều đường ranh của biệt ly. Cánh cửa mở rộng cho mọi nghịch cảnh, là cõi vĩnh hằng phía bên kia. Sông có chảy trăm giòng cũng xuôi về biển mặn. Không ai đứng trước biển xanh mơ về con lạch nhỏ bao giờ. Trong nỗi đau cùng tận, ông vẫn ước mơ một ngày nào đó Thảo sẽ tìm thấy hạnh phúc. Một hạnh phúc có thật cho nàng. Như đời nầy, con người không chỉ đến để chết mà để chiêm nghiệm hạnh phúc trong cái chết vĩnh hằng.

 

           

2.

 

            Ông choàng tỉnh trong tiếng hú vang vọng rừng núi. Tiếng hú hãi hùng, tuyệt vọng. Trong giấc mơ ông hay ngoài kia thăm thẳm núi rừng. Ông cố nhớ lại, nhưng tất cả chỉ là khoảng trống của tiềm thức miên man. Đầu hôm Trung đã uống hai thuốc ngủ. Nằm nghiêng tai, ông lắng nghe từng tiếng động thênh thang của đêm. Một con sói gọi đàn hay của một đàn thú nào đó vang tiếng thách thức nhau. Tiếng hú phải mang một cường độ ghê gớm, đẩy mất hiệu nghiệm của hai viên thuốc ngủ cực mạnh. Con số màu đỏ thẩm trên mặt bàn, hai giờ sáng. Ông chợt cảm thấy cơn lạnh chạy khắp cơ thể. Hay là tiếng hú vọng từ cõi " âm ", của thế giới bên kia. Nhắm chặc mắt, ông thở ra hít vào nhiều lần, ngầm kiểm soát toàn bộ cơ thể. Tất cả đều bình thường, không có triệu chứng gì của cơn bạo bệnh. Cái chết vẫn còn xa ông, ít nhất là đêm nay. Ngày mai rồi sẽ tốt đẹp hơn, cứ tin như vậy, ông xoay trở tìm một thế nằm thoải mái, chờ giấc ngủ.... Tiếng hú lại vang lên,  thiết tha, đau đớn. Tiếng hú vang vọng như đánh thức cả thung lũng thấp. Ông ngồi bật dậy, khoác chiếc áo choàng và bước ra ngoài. Ánh trăng sáng lạnh, soi dọc con đường mòn dẫn xuống dốc núi.

 

            Có tiếng người, cười nói phía dưới con suối nhỏ. Ông nghĩ đến những nàng tiên xuống tắm suối đêm trăng trong truyện thần thoại, cổ tích. Cuộc sống giết chết trong ông bao nhiêu ước vọng, gần kề cái chết lại mở bao nhiêu cánh cửa tin yêu trong mỗi giấc mơ. Khoảng đất và trời. Mặt thật và giả. Giữa thực và ảo. Chỉ là những cụm từ ngữ nói lên sự bất lực của con người và kiếp sống. Ông dò dẫm những bước chân, giữ gìn từng hơi thở. Ánh trăng sánh bạc, phả lớp mù sương phủ kín rừng. Tiếng cười nói bỗng lặng im, chìm khuất. Rồi từng tiếng nấc khẻ vang. Ngậm ngùi, trẻ dại.

 

            Không biết tự bao giờ ông đã đứng đối diện với chiếc bóng đang khóc cười, nhảy múa. Dưới trăng là khuôn mặt tuyệt đẹp của người con gái với mái tóc dài óng ả. Nàng chợt quay lại nhìn ông, không chút ngạc nhiên, sợ hãi. Chừng như đã quen, đã biết từ lâu.

               - Sao ông đến muộn vậy ? Em đã chờ đợi nơi nầy quá nhiều năm tháng... Người con gái vừa nói vừa di động theo cùng những vệt sáng tủa vây.

              - Cô đã đợi tôi..? Tại sao cô biết tôi sẽ đến nơi nầy ?

              - Phải. Bất cứ điều gì, nếu ông chờ đợi, rồi nó sẽ tới... Như em đợi ánh trăng. Có lúc tưởng nó đi mất. Em cứ đợi, rồi ánh trăng cũng đến.

               - Nhưng nếu cô không đợi, trăng cũng tới mỗi tháng kia mà...

               - Ông lầm rồi. Biết bao nhiêu người không hề biết trăng về mỗi bận. Chỉ có những người chờ đợi như em thôi... Như em chờ và ông cũng đã đến.

               - Không. Nhất định là tôi không đến đây vì sự chờ đợi của cô. Tôi đến đây bởi sự chờ đợi của cái chết.

               - Thì hẳn vậy đi. Em là cái chết của ông. Đã sao đâu ? Con người đến cuộc đời nầy chỉ để chờ đợi cái chết kia mà... Thôi, đêm sắp tàn, đến ngồi xuống đây với em.

            Nàng nắm tay ông, ngồi xuống bờ đá. Mùi hương con gái thoang thoảng, ngây ngất mọi xúc giác của ông. Tự lúc nào, toàn thân ông như căng tràn sự sống. Những cảm giác sượng đau ông cưu mang bấy lâu nay chợt tan biến. Tất cả nhẹ tênh, mênh mông nỗi hạnh phúc không cùng. Phiến đá ấm áp sương đêm như bàn tay ông đang ấm áp trong lòng tay con gái. Ông chợt nhận ra toàn thân nàng chỉ phủ một lớp vải mong manh tơ trời mờ nhạt. Ngả đầu vào vai, ông nghe từng hơi thở nhẹ thơm của nàng phả vào bên má. Chung quanh họ, chỉ còn thế giới của trăng.

 

 

            Người con gái nằm ngữa mặt trên hai chân ông dựa theo bờ đá. Con suối đêm mùa thu chở ngập đầy một dòng trăng. Cũng từ đó, mỗi đêm ông đều cùng người con gái gặp nhau dưới bờ thung lũng thấp. Có lúc họ chuyện trò. Lắm khi họ lặng im, chừng để lắng nghe sự giao hòa của tâm hồn con người và đất trời huyền diệu. Ông không biết mình đang sống trong giấc mộng, hay chính giấc mơ ông đang trở thành hiện thực đời mình. Tự hỏi. Hoài nghi. Sợ hãi. Đôi lúc ông luôn mở trừng đôi mắt, sợ một chớp mắt vô tình sẽ đánh mất những gì có thật chung quanh... Khuôn mặt đẹp tuyệt trần người con gái như tỏa ra một lớp ánh sáng dìu dịu, mơ hồ. Như hiểu lòng ông, áp bàn tay ông lên má, người con gái muốn ông nhận thức sự hiện hữu có thật của mình. Tất cả lung linh, mầu nhiệm. Ông đưa tay nâng niu khuôn mặt và vuốt từng lọn tóc óng tơ trời... Đôi mắt mở to, người con gái nhìn ông đắm say như nhìn vào giấc mơ tiến kiếp.

               - Tại sao lại có ánh trăng, lúc đi lúc về ? Tại sao sông xuôi về biển, sông đậm nâu ngọt ngào còn biển xanh mặn bao la..?

            Một hôm người con gái vô tình, chợt hỏi. Trầm ngâm phút chốc, ông khẻ kể cho nàng nghe câu chuyện tình huyền hoặc, tựa chừng ẩn khuất đâu đó trong tiềm thức.

 

 

            " ... Ngày xưa, thuở trời đất giao hoà. Đêm chỉ ngàn sao lấp lánh và chưa có mặt trăng hiện hữu. Mặt trời ngự trị toàn bộ giang sơn của hệ thái dương.  Shiva là con trai thần mặt trời. Tính tình phóng khoáng và lãng mạn, Shiva luôn có nhiều ước vọng khác thường. Năm mười chín tuổi, tục lệ bắt Shiva phải chọn một người con gái làm vợ. Tất cả người đẹp của xứ mặt trời không làm cho Shiva rung động. Thần mặt trời lo lắng, còn Shiva thì ngày đêm buồn bã, u sầu. Một hôm Shiva xin cha cho mình tự đi tìm vợ. Thần mặt trời đồng ý với hai điều kiện. Một, không được rời khỏi xứ mặt trời. Hai, thời gian đi tìm chỉ trong vòng ba mươi ngày. Sau đó, nếu không tìm ra, Shiva phải tuân lệnh cha lấy người con gái do chính thần mặt trời lựa chọn. Shiva cúi đầu đồng ý.

            Lang thang khắp nơi trong xứ mặt trời, Shiva chưa lần nào gặp người con gái trong mộng. Thất vọng, nhiều đêm Shiva thao thức nhìn những dãy ngân hà lấp lánh bao quanh. Chàng tự nhủ, biết đâu trái tim mình đang ở nơi chân trời xa xăm đó. Quên mất lời cha dặn, Shiva rời xứ mặt trời và bay về một hành tinh khác. Vô tình, Shiva ghé vào trái đất. Choáng ngộp trước vẻ đẹp lạ kỳ, xanh thẳm của phần đất nầy, Shiva quyết định ở lại để tìm người con gái trong giấc mộng.

            Không phải tìm lâu, Shiva yêu tha thiết ngay người con gái đầu tiên gặp mặt bên bờ con suối nhỏ. Thùy Dương, tên nàng. Shiva say đắm với mối tình Thùy Dương quên hẳn lời cha dặn. Ba mươi ngày lướt qua thoáng chốc. Sứ giả của thần mặt trời tìm kiếm Shiva khắp cả chân mây góc trời. Cuối cùng, họ vời được Shiva trở về. Trước mặt cha, Shiva xin được cưới Thùy Dương làm vợ. Thần mặt lắc đầu và nhắc lại điều kiện đặt ra. Shiva không được rời khỏi xứ mặt trời, vì chàng không thể cưới làm vợ bất cứ người con gái nào ngoài xứ mặt trời. Shiva hỏi, tại sao. "Con là mặt trời chỉ sống với sinh thể mặt trời. Những sinh thể của các hành tinh khác không thể cùng tác hợp", thần mặt trời trả lời.

            Tuyệt vọng và buồn chán, Shiva đã chết trong mối tình thiên thu đó. Hồn u uất không tan, kết đọng thành một vầng sáng vằng vặc, suốt đời ôm trọn lấy trái đất nầy. Con người gọi vầng sáng đó là mặt trăng.

            Nơi trái đất, Thùy Dương chờ đợi người yêu đến héo mòn hương sắc. Thùy Dương đã khóc, khóc mãi đến cạn khô nguồn nước mắt. Mãi đến lúc vầng trăng chiếu sáng trần ai thì nàng gục chết bên bờ suối ngày xưa gặp gỡ. Người đời truyền tụng, nước mắt của Thùy Dương đã nhuộm xanh và thấm mặn mọi mặt biển thế gian... ". 

 

               - Chuyện tình thần thoại thật tuyệt vời và thật đẹp, phải không ông?

Thật là tuyệt vời và đẹp. Chính ông cũng không ngờ mình " bịa " ra câu chuyện thần thoại lãng mạn đến như vậy ? Hơn nữa, bổng dưng khả năng Anh ngữ của ông hôm nay vượt ra ngoài chính sự tưởng tượng của mình. Bình thường ông nói tiếng Anh thuộc loại " ăn đong ", lắm khi cô y tá người Nipa phải gặn đi gạn lại nhiều lần mới hiểu nổi ông nói gì ! Hưng phấn, thừa thắng xông lên, ông tâm sự.  

               - Phải. Tôi tin rằng mọi sự hiện hữu trên thế gian nầy đều bắt đầu từ một chuyện tình. Nói chi đến con người và các sinh vật, mà ngay cả sỏi đá vô tri. Một nhạc sĩ nước tôi đã nói, "... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau ! ". (1)

               - Tại sao vậy ông ?

               - Vì mọi sự vật đều là hóa thân của nhau. " Em là tôi và tôi cũng là em..." (2).

               - Ông càng giải nghĩa, em lại càng khó hiểu. Mà cần hiểu làm gì, có ai đang yêu lại phân tích và định nghĩa tình yêu ? Ông hãy hôn môi em, tình yêu sẽ lên tiếng.

            Người con gái nghiêng mặt, hiến dâng. Ông cúi xuống, hôn lên đôi môi óng vàng, mật ngọt. Niềm lạc hoan mảnh liệt tràn vào thân thể, nâng cao vút mọi xúc cảm cùng tận trong ông. Mọi nỗi đau tan biến. Mọi cái chết chìm sâu. Chỉ còn lại thực tại là niềm hạnh phúc mơ hồ, chất ngất. Ông chợt thấy ánh trăng hạ xuống thấp dần. Thật thấp, chiếu vàng rực rỡ khuôn mặt ông và thân thể người con gái. Muôn vàn mạch máu cuộn tràn, ông như nhập vào ánh trăng rồi vút cao lên bầu trời bát ngát. Người con gái chợt cong người hú lên. Tiếng hú vang vọng khắp cả kiếp người. Ông cũng nghiêng người nhìn lại bóng mình. Chiếc bóng rời khỏi ông, vươn cao, rồi cũng hú vang niềm hạnh phúc mông lung. Hai tiếng hú quyện vào nhau, cuốn hút núi rừng trong giấc mơ truyền kiếp ngàn đời.

 

 

            Ông cúi xuống đặt thân thể người con gái lên trên bờ đá, cạnh bờ suối nhỏ. Hơi thở ra từng hồi nhè nhẹ, đứt khoảng nàng mở trừng đôi mắt thật to nhìn ông, môi mấp máp. Ông cố nghiêng tai thật sát, lắng nghe. Chừng như chỉ là những lời vô nghĩa. Ông ôm chặc cơ thể nàng mong chuyền sang hết sự sống. Tại sao không phải là ông, người mãi đợi chờ cái chết. Mà lại là nàng, người con gái của giấc mơ ông, thu mùa tâm tưởng. Buổi chiều hình như lá rụng nhiều hơn trên mấy lối mòn xuống suối. Đã cuối mùa thu rồi thần thoại mối tình ông. Không hiểu sao, dưới những đêm trăng, khuôn mặt người con gái đôi lúc mang nhiều đường nét của Thảo. Rồi nhạt mờ đâu đó bóng dáng của biết bao người con gái đã qua đời ông. Họ vẫn quanh đây trong dáng hình hiện tại. Tất cả bàng hoàng, nuối tiếc. Như không hiểu từ tiền kiếp nào đưa ông về khu rừng thu lũng thấp mờ sương nầy. Trong tận cùng sự sống, ông hiểu nghĩa chia ly nghiệt ngã vô cùng cho người ở lại. Đứng trước cái chết, ông thấy thăm thẳm hơn ý nghĩa tình yêu của sự ra đi... Ông cúi hôn lên đôi môi lạnh giá, ơ hờ. Nàng đã ra đi như ông rồi cũng tới. Như tình yêu, không có điểm bắt đầu và không có nơi chấm dứt... Ông đứng lên cất tiếng hú đớn đau, như đánh thức cả núi rừng. Ánh trăng cuối thu vằng vặc, đâu đây tiếng hát ai như ru giấc ngủ yên một kiếp người.

                                   

                        ".. . Mang ơn em trao tình một lần, là kỷ niệm dù không đầm ấm

"Mang ơn em đau khổ thật đầy, là nắng vàng dù nhốt trong mây

"Mang ơn trên cho cuộc đời ta, vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ

"Trong cơn đau một vùng hương khói, kéo ta về, về cõi hư vô...  (3)

 

3.

 

Nipa ngạc nhiên khi thấy mấy ống thuốc cầm đau còn nhiều trên kệ. Thường khi chỉ còn vài lọ cuối cùng. Ông Trung có thể không sợ chết, nhưng ông cần chống lại những cơn đau. Hơn ai hết, Nipa hiểu rõ điều nầy. Hay là ông đã cạn rồi sự phản kháng, đã quyết định bước cùng... Căn nhà vắng lặng. Nipa nhìn quanh, chiếc gậy vẫn ở góc giường và tách trà trên bàn chưa uống cạn. Nắm hồ sơ bệnh lý và chăm sóc ông thời gian qua, Nipa hiểu từng chuyển biến của cơ thể ông. Dù có một nghị lực phi thường đi nữa, ông Trung cũng không thể vượt ra ngoài những tàn phá của chứng ung-thư nầy. Nói chi ông đang ở trong thời kỳ cuối cùng. Bao giờ đi ra khỏi nhà ông đều mang hờ theo cây gậy, phòng những cơn đau tấn công bất ngờ. Nipa chợt nhận ra tờ giấy nhỏ dán trên tủ lạnh, với giòng chữ của ông: " Tôi tập yoga và thiền, con suối dưới thung lũng. Trung ".

 

            Buổi trưa mùa thu, khí trời tĩnh mịch và nhẹ tênh. Nipa bàng hoàng với vẻ đẹp của rừng núi. Thung lủng thấp như được phủ tấm vãi tơ lụa màu đỏ, tím và vàng sặc sỡ. Như bức tranh vẽ trong truyện cổ tích mà cô đã đọc say sưa thuở ấu thơ. Bây giờ trước mặt là cả một tặng phẩm tuyệt vời của tạo hóa có thật. Nipa như nhận ra được sự mất mát to lớn của đời sống xã hội và ý thức thiên nhiên chung quanh. Con người không những đã tự hủy tâm cảnh mà ngay cả hiện thực bên ngoài. Giá trị thẩm mỹ nhường chỗ cho giá trị kỹ thuật và tiện nghi. Con người xa lạ dần với thiên nhiên và lệ thuộc vào ảo giác. Tính thích nghi cũng từ đó mất dần, sự phản kháng cơ thể dựa vào trợ lực hoá chất của dược phẩm. Từ cỏ hoa, thảo mộc, Nipa đã tận mắt nhìn thấy những điều đó xảy ra cho bệnh nhân do chính cô chăm sóc.

            Từ thận chứng di-căn của ông Trung đã chuyển đến cả gan và phổi. Cái chết, với ông, chỉ còn là phút chốc thời gian. Điều đó không làm cho Nipa ái ngại, cảm thương. Con người rồi ai cũng một lần chết, như thể một lần sinh ra đến với đời nầy. Đôi khi cái chết lại là một giải thoát hoàn mỹ nhất của đời người. Cho ông. Cho Nipa. Cho cả kiếp người vay tạm... Nhưng là những cơn đau, những cơn đau khủng khiếp cho thân thể sống trong chờ sự chấm dứt, ra đi. Những cơn đau mà mọi con người không đủ sức chống trả. Sự hiện diện của cô là chỉ nhằm giúp ông vượt qua những giây phút hãi hùng nầy. Nipa tin vào nghị lực và lòng can đảm cho mọi hành động của ông đối với gia đình, vợ con. Nhưng còn ông, ông không thể dùng thứ nghị lực đó chống lại những cơn đau nghiệt ngã để sớm chấm dứt một kiếp người. Không nói, nhưng cả Nipa và ông điều biết phương pháp chích không khí vào mạch máu. Như một giải pháp cuối cùng. Điều nầy ám ảnh Nipa nhiều hơn khi nhìn thấy những ống thuốc cầm đau còn nguyên nhiều trên kệ.

           

Cuối đường mòn, gần con suối trong thung lũng thấp, Nipa hốt hoảng, mở trừng đôi mắt khi thấy xác người đàn ông nằm trên ghềnh đá tảng. Mắt nhắm nghiền, ông Trung như đang trong giấc ngủ thật tĩnh lặng, bình yên. Không biết ông đã nằm đây bao lâu, nhưng Nipa không nhìn thấy dấu vết chống chỏi nào cho sự đau đớn thể chất. Cơ thể ông Trung đã lạnh cứng. " Ông Trung. Ông Trung, tôi đây. Nipa đây mà..! ", cô y tá lẩm bẩm gọi tên trong dàn dụa nước mắt. Tất cả cũng đã đến, một kiếp người như thể dưng không. Núi rừng mùa thu vẫn rực rỡ sắc màu, hanh hanh màu nắng nhẹ tênh. Nipa bấm số điện thoại di động: "911".  

 

4.

           

Một cột tin nhỏ trên trang nhất của tờ báo địa phương - Một Hiện Tượng Y -Học Khó Giải Thích: " Asheville, North Carolina - Sáng hôm qua, người ta tìm thấy xác người đàn ông nằm trên vực đá, dưới một thung lũng của dãy Great Smokey Mountain. Được biết nạn nhân mang chứng bệnh ung-thư trong thời kỳ cuối, từ chối mọi chửa trị của bệnh viện để chờ đợi cái chết. Điều gây sôi nổi trong dư luận là, sau khi thử nghiệm xác nạn nhân, các bác sĩ và bệnh viện không tìm được dấu vết nào của chứng bệnh ung-thư hiểm nghèo đã giết chết ông. Kết luận của nhóm khảo nghiệm, nạn nhân chết vì kiệt sức, không ăn uống trong nhiều ngày đêm bên bờ đá tảng.

            Hiện nay hội đồng y khoa Hoa Kỳ đang thương lượng với gia đình và thân nhân nạn nhân để phân chất các nhiễm thể của ông mong sẽ tìm ra được nguyên nhân trên. Đây là một hiện tượng y học đầu tiên có thể sẽ làm thay đổi tận gốc rễ các lý thuyết chửa trị chứng ung-thư của con người. Chúng tôi hứa sẽ theo dõi thường xuyên và đưa những tin tức mới nhất cho cuộc thử nghiệm lịch sữ nầy đến với bạn đọc ! ".

                                   

Durham, North Carolina

 

Nguyễn Vĩnh Long

                                                                                                                       

(1), (2): Diễm Xưa & Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng - Trịnh Công Sơn

(3): Tưởng Niệm - Trầm Tử Thiêng 

 _________________________________________________

  • Trời Xanh Không Em

 NguyenVinhLong_river_Troixanhkhongem.jpg

 

1.

  Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường trước mặt với đàn con nhỏ dại. Con mất cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn. Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở thành "phụ thân". Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm cha tôi, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nộI, ngoại đều nhiều lần đề nghị đem vài đứa về nuôi, đở tay, nhưng bà một mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn, tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân. Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng sau buổI học dồn hết tâm sức đở đần với mẹ cho tiệm cơm và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía sau nhà.

        Hơn năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn mườn mượp phải mở rộng thêm gần hết mặt lộ. Khách quen thuộc hằng ngày, phần đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổI, không mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp "mô", hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách hành vào quán hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc giường ngũ tạm qua đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện, cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa. Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng như bà không mấy quan tâm bởi đàn con bốn đứa. Năm đó tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗI lần tôi đi ngang qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngũ, nằm lắng nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo tam thể của bà Năm chủ nhà.

        Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đũ loại bắt đầu treo bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn nghệ trung thu yễm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học 12, trên tôi một lớp và trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngâm ngâm, dáng người chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào, Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng. Tôi dọ biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức thư và nói vội, "Gửi cho Loan..!". Tôi chưa kịp phản ứng, tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm " chảng-xê" để đọc thư anh. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó.

 

        Ông là người khách thương hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm một trái pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sau mình sống sót với bao mãnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy, tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm, ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi. Ông giúp mẹ tôi dựng lại một vách mái loang lổ, đóng lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông kể chuyện sông hồ.

          - Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn, nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá nược trên cù lao... Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng. Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càng quét mọi sự sống, an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú... Thôi khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy đứa lại rầy rà chú nữa.

         Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên nấp hầm "chảng-xê". Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm. Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm dài trằn trọc.  

        Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm. Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng thở hổn hển của người đàn ông. Đêm vắng lặng, tiếng thở lúc một rõ, dồn dập vọng lại cùng âm thanh thịt da, vạt giường chạm lẫn vào nhau...  Rồi tất cả trở lại lặng im. Tiếng xột xoạt của quần áo, tiếng trở mình khe khẻ từ phía ngoài giường ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình, ăn ngủ, làm tình với người xa lạ nào đó? Mà không, bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người kia là ai ? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh. Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xãy ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên khuôn mặt bà... Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm mắt tìm giấc ngũ... Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình...

 

        Buổi chiều trãi chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng. Tôi nén vu vơ vài mãnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ vĩnh viễn không trở về vớI cuộc sống và nỗi thương nhớ quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi khẻ liếc nhìn khuôn mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và có mang tình tôi trong đó.

          - Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn nhớ đến Lộc... Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn.  

        Tiếng Lộc trầm buồn, không như những lúc ôm đàn hát, "Người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu mình...", trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc. Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang dãy chết trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưởi tôi đông cứng trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức.

          - Loan hứa chờ Lộc trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã, với Loan. Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin và hy vọng...

        Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì, nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi, Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt. Đừng nói đến ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để em cô đơn giữa bầu trời quá rộng... Lộc quay sang nhìn tôi ngây dại và nắm tay tôi, xiết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, kép chặc vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở. Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặc bờ môi tôi chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết đầu lưởi tôi tê dại trong nụ hôn anh mãnh liệt. Chung quanh như  xụp đỗ dưới chân, tối tăm mê muội, khi bàn tay tham lam của Lộc ngừng trên bờ ngực tôi...

 

2.

  Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng Hai vằng vặc và se sắt lạnh. Cuộc chia tay cuối cùng với dì Út thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn khổ trôi qua. Phiá sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là khuôn mặt thẩn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi.

 

        ... Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia đình tôi vào ngõ ngoặc mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và hồi hương những gia đình "ngụy" không phải sinh quán tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu thương là mục tiêu đấu tranh "giai cấp" của chính quyền mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng đãi của đám chính quyền địa phương. "Cách mạng" xóa bỏ tỉnh Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn vị huyện thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú đã vô tình giúp đở dấu trên ghe một người đàn ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì, cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh... Chú Bảy trở thành dượng Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ. Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No. Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa. Mẹ và dượng mở lại quán cơm. Cuộc sống gia đình tôi từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng buột bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng trên tỉnh... Và, tôi đã biết được người đàn ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy.

        Ngày tháng qua, tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng kinh mà thương nhớ một người. Đã năm năm rồi thoáng chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng cuốn dần theo năm tháng mõi mòn. Tôi không còn là cô học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi. Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi. Những cuộc tình đó thật ngắn ngũi và không để lại một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu. Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó, có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẫn bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới lớn.

        Tính về dạy trường cấp 3 thị xã vài tháng sau ngày giải phóng. Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông, còn đang chơi vơi với những đổi thay thì quen Tính. Chúng tôi rơi vào cuộc tình của nhau dễ dàng, vội vã. Ngày mai là đám mây mù của bao nhiêu từ ngữ mới, đảng ta vinh quang hạnh phúc, ngụy quân ngụy quyền, tội ác với nhân dân... vân vân và vân vân. Cùng với hợp tác xã, hộ khẩu, cửa hàng, gạo bán cân từng ký, hàng nhu yếu phẩm tính đầu người... còn bao nhiêu thứ nữa để tuổi trẻ chúng tôi lao vào những cơn lốc của thời cuộc và cả tình yêu. Tôi và Tính ở cơn lốc của tình yêu, để quên và cũng để biết mình còn hiện hữu. Một đêm tôi đã trao anh những giọt máu trinh nguyên từ cửa mình con gái, những mê sảng đầu đời của tình yêu thể xác. Nhưng nghiệt ngã thay, trong nỗi đê mê dục vọng tôi cứ tưởng mình đang nằm trong vòng tay của Lộc và rên xiết gọi tên anh. Chỉ vài tháng sau, Tính bị bắt vì tội chứa chấp tài liệu phản động và có mưu đồ "chống phá chính quyền cách mạng". Lần cuối vào thăm anh trong phòng tạm giam thị xã, tôi đã khóc xót xa còn anh thì chỉ lặng nhìn tôi thương cảm. Sau đó nghe nói anh bị áp tải lên công an tỉnh. Tôi tìm tới thì được trả lời là đã đưa đi nơi khác, nhưng không ai cho biết ở đâu. Tính biến khỏi cuộc tình tôi từ đó, vĩnh viễn. Tôi hy vọng giữ lại chút gì còn lại của anh, nhưng tất cả chỉ là niềm thất vọng. Những buổi chiều một mình, ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không còn ai ở lại..?

 

3.

       Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui:

           - Trạm kiểm soát...  Tụi nó kêu ghé vô. 

        Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ:

           - Nhớ là mình về giỗ ngoại ở Giồng Riềng, Kiên Giang nghen con.

           - Dạ...

         Chiếc ghe máy cập sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe.

           - Đi đâu mà đông dầy nè. Có giấy đi đường hông... Chủ ghe đâu ?

           - Dạ gia đình tôi về quê đám giỗ. Có giấy đi đường đây, trình mấy chú.

        Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn trên tay.  Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy, còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái.

           - Chú cho coi giấy chứng minh nhân dân.

           - Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn đám. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi.

        Hai người thanh niên cầm giấy tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. MọI người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc xược:

           - Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ ! 

           - Dạ chuyện gì vậy chú...

           - Thì cứ lên trạm sẽ rõ.

      Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ. Tay chân tôi lạnh ngắt, nghĩ đến căn buồng tạm giam mà một lần tôi đến thăm Tính. Trạm kiểm soát là căn nhà lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống cười mai mĩa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất. Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ:

           - Tụi nó tình nghi mình vượt biên.

           - Làm sao bây giờ...  Mẹ tôi hốt hoảng.

           - Đợi tụi nó đi gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết.      

        Giọng dượng Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua. Tôi nhớ đến những vòng kẽm gai của trại tạm gian và khuôn mặt gian ác của tên cán bộ giữ tù lần thăm Tính, khẻ rùng mình. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có thể xãy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sửng sờ ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc. Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi xạm đen, ráng nắng. Tôi chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy thân của gia đình tôi cho Lộc:

           - Xin báo cáo đồng chí trưởng đồn. Giấy tờ đầy đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Gía, rất tình nghi tổ chức vượt biên.

           - Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm vụ.

        Hai người công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng Bảy:

           - Ông là chủ hộ, chủ ghe.

           - Dạ phải.

        Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên. Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì. Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa, "Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng...", như bao lần ai cất tiếng hát em nghe.

           - Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi.

        Tiếng dượng Bảy làm chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói:

           - Xong rồi, mình đi.

           - Thiệt hả... Ông nói gì với tụi nó vậy.

        Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh tay trái, ôn tồn nói nhỏ:

            - Nói gì đâu... Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ cho đi, còn chúc hờ lên đường may mắn.       

        Chiếc ghe máy dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi không cầm được nước mắt, cắn chặc môi để không ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Phía trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông sẽ về với biển... Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh,

 "Nơi em về ngày vui không em

"Nơi em về trời xanh không em

"Ta nghe nghìn giọt lệ

"Rơi xuống thành hồ nước long lanh... (Như Cánh Vạt Bay - Trịnh Công Sơn)

 

Durham, North Carolina

Nguyễn Vĩnh Long

Ngày Tình Nhân

 

TL_flowerVase.jpg

Bỏ hạt muối vào biển

Hỏi biển có mặn thêm?

Bỏ nỗi buồn vào mắt

Nước mắt có thêm nguồn?

 

Chúc nhau chi trăm tuổi

Cho gương soi muộn phiền

Chúc bao điều hạnh phúc

Tình yêu cao rộng hơn?

 

Đêm về theo chân nắng

Sẽ sáng phía bên người

Niềm vui và cay đắng

Hai mặt của đời thôi!

 

Dấu đường xưa mưa phủ

Cho cỏ non chân trời

Tìm chi mùi hương cũ

Khi tàn y muôn nơi!

 

Mỗi năm ngày Tình Nhân

Gửi chi triệu đóa hồng

Màu hoa rồi cũng úa

Hỏi tay người thủy chung?

 

Nguyễn Vĩnh Long

Tết Đã Qua Mùng

                       

Ba Mươi tôi là Mùng Một em

Làn khói hương mang nắng qua thềm

Trong thiêng liêng có bao hình bóng

Theo gió bên ngoài lạnh suốt đêm

 

Qua sáng Mùng Ba ngày vẫn vậy

Vẫn nắng mong manh thiếu cảnh nhà

Bên mâm cúng đủ gà, xôi, rượu

Chỉ thiếu mặt người vẳng phương xa

 

Chỉ mới Mùng Năm mà xa lắc

Mùa Tết em tôi mắt ngại ngần

Như thể bốn ngày chưa đếm đủ

Những lần pháo nổ nhớ người ta!

 

Thôi đã qua Mùng như thể chẳng

Có mùa Tết thuở cúc vàng hoa

Ngõ nhà ai đó màu sân nắng

Như trải áo tà hương phấn xa...

 

Nguyễn Vĩnh Long

 

Những Bóng Hình Năm Cũ   

 NguyenVinhLong_Nhungbonghinh.jpg

           

1.

"Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước,

"em đến thăm một lần

"Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân

"Từng đôi chim trong nắng ríu rít ca u ú ù u ú

"Cành đào hoen nắng chan hòa

"Chim ca thương nhớ, chim ngân xa u ú ù u ú

"Hồn còn ngây ngất chẳng vương...  (1)

 

Tiếng hát trầm ấm, ngọt ngào của ca sĩ Cao Minh như vang vọng lại những dư âm của cả một khung trời dĩ vãng. Bên ngoài gió đuổi từng cơn lạnh buốt người, nhiệt độ xuống -5°C (23°F). Căn phòng như co rút lại, cuộn tròn trong nỗi nhớ mịt mùng. Thuở ấy, căn nhà trọ tôi ở không nằm "bên chiếc cầu soi nước", như căn nhà thơ mộng của cố nhạc sĩ  Văn Cao. Căn gác trọ của tôi nằm trong hẽm nhỏ, có thể đi vào từ cả hai phía đường. Mặt ngoài là đường Phan Đình Phùng rẽ vào và đi ngang qua chùa Phước Hòa. Mặt sau là đường Nguyễn Thiện Thuật, theo con hẽm đối diện cà phê Năm Dưỡng. Để có những chiều, tôi đều lắng nghe từng hồi chuông tĩnh vọng từ phía ngôi chùa đầu hẻm. Để có những chiều, người con gái đưa tôi về, dừng trước cổng chùa đúng lúc ngân lên từng hồi chuông tĩnh vọng. Nàng chấp tay, cúi đầu khấn nguyện. Tôi hỏi. Nàng lắc đầu, nói nhỏ: "Hổng thèm cho anh biết". Rồi quẹt đuôi tóc vào má tôi: "Cho anh nợ em những hạt bụi đời", cười khúc khích và quay xe chạy khuất quanh đầu ngõ. Nắng chiều rơi nhẹ, in bóng người bụi phấn sau lưng... Tôi không tin đời người sẽ về với cát bụi mà sẽ trở lại với nơi chốn bắt đầu? Sống và đi qua bao nhiêu nơi chốn bụi trần, người con gái ấy đã để lại trên má tôi những hạt bụi đời thương nhớ. Hãy nằm yên nghỉ bụi ơi, ở một nơi quê nhà vời vợi...

Đêm cuối năm trong bao nỗi nhớ tưởng chừng như đã lãng quên, khuất lấp chìm sâu. Những khuôn mặt, vài cái tên mang đâu đó bóng dáng của thời gian nghiệt ngã, bóng dáng bao cuộc tình thôi đã mộ phần. Trái tim vẫn đập, mơ ước vẫn còn sao kiếp người đã cuối bãi đời qua. Để người yêu dấu ơi, tôi như con thú trong đêm xa xứ lạ buốt giá, chợt cúi đầu liếm thật sâu vào những vết thương mình trở dậy. Nhưng đêm nay, với những tờ lịch cận Tết quê nhà, tôi ngồi đây không phải nuối tiếc nhớ về những khuôn mặt có tên, những môi hôn còn hằn lại đâu đây mùi hương phấn người. Không, không phải. Trái tim tôi đang thổn thức, quặn đau một bóng hình người con gái tôi không còn nhớ mặt và không biết cả tên. Người con gái chợt tình cờ, thoáng qua đời tôi chỉ một lần, như chuyến phà ngang trong ngày cuối năm rất cũ. Không bóng hình, không tên nhớ, vậy mà đã ám ảnh, đã cưu mang hết cả đời này. Đêm chỉ mới bắt đầu và ngày vẫn còn khuất sâu trước mặt...   

 

2.

 NguyenVinhLong_benBac.jpg

 

... Khoảng hơn mười giờ, chuyến xe dừng lại bến phà Mỹ Thuận. Tôi ló đầu ra cửa, điệu này chắc phải cả tiếng đồng hồ mới qua được phà. Hai mươi sáu Tết, không khí thật ồn ào, nhộn nhịp. Tiếng còi xe, tiếng rao hàng, tiếng mời gọi nức vang dọc theo dãy hàng quán bên đường. Trong cảnh rộn ràng của những ngày cận Tết, không khí chiến tranh cũng không lắng dịu chút nào. Những đoàn xe nhà binh che đậy bít bùng, từng đoàn đang chạy vội vã, vang dậy tiếng còi inh ỏi, thúc dục. Cảnh sát, lính địa phương từng tốp xuôi ngược theo dòng người dọc hai bên đường, đôi mắt lặng lẽ quan sát sẵn sàng cho mọi bất trắc xảy ra.  Vài người thanh niên bị chân lại trình hỏi giấy tờ... Gói mười ổ bánh mì Sài-gòn, được tôi treo cẩn thận trước khi quảy chiếc túi vải xuống xe. Đây là món không thể thiếu mỗi lần tôi về thăm nhà. Bánh mì ở đâu cũng có, vậy mà phải là bánh mì Sài-gòn mới được. Quà cho nhà, cho bà con chòm xóm. Mẹ tôi nói, bánh mì Sài-gòn ăn không cũng ngon. Tôi thì không thấy như vậy. Bánh mì Sài-gòn hay bánh mì Vĩnh Long, Cái Bè tôi ăn cũng thấy như nhau! Mẹ và bà con quê nội nói, chắc tại tôi ăn bánh mì Sài-gòn mấy năm nay nên quen miệng, không thấy khác. Chứ thật sự, bánh mì Sài-gòn rất đặc biệt, có mùi thơm và độ giòn rất là Sài-gòn, chỉ có bánh mì Sài-gòn mới có. Tôi tin mẹ và bà con quê nội nói đúng. Ly cà-phê và cái bánh tiêu hồi sáng sớm vẫn còn no bụng. Thôi thì đợi trưa tới Vĩnh Long ăn luôn trước khi xuống đò về nhà nội... Những chuyến xe về quê cuối năm người đông như nấm, đi bộ phải lách phải luồn mới không đụng vai chạm tay. Dưa hấu màu xanh thẳm, bóng lưỡng chất đống dọc hai bên đường. Rồi thì mứt, đủ loại đủ màu, bày cùng khắp trong bọc, trong những hộp bao giấy kiếng thật đẹp và bắt mắt. Tiếng mời mọc, nỳ nèo giá cả, tiếng cười nói rộn ràng một không khí Tết gần kề. Đó là chưa kể mùi hủ tiếu, cháo lòng, mùi thịt nướng thơm lừng... quyện kín cả vùng. Tôi thương vô cùng không khí cuộc sống hai bên bờ phà Mỹ Thuận, bận về cũng như bận đi. Có cái gì đó bịn rịn quê nhà khi sang phà, trước khi vào Sài-gòn. Có cái gì rộn ràng cho nửa đoạn đường gần quê nhà hơn, khi bước chân lên chuyến phà qua bên kia bờ chờ đợi. Tôi sẽ thấy hình dáng của mẹ gần hơn.

NguyenVinhLong_benbac_2.jpg 

Tiếng còi xe vang dậy, kềm theo từng đoàn người tất bật ngược dòng. Chắc phà vừa cập bến. Tôi thấy hơi khát, định ghé vào mua một bọc nước mía cầm theo. Chợt đâu văng vẳng trong tiếng ồn ào, náo nhiệt của bến phà vang lên tiếng đàn với nhịp điệu quen tai. Tôi khựng người, lắng nghe. Tiếng đàn gần, gần dần và quyện trong tiếng hát giọng nữ ngọt buồn:

NVLong_muarung_2.jpg

"... Mưa ơi! Mưa ơi!

Mưa gieo sầu nhân thế

Mưa nhớ ai,

biết người thương có còn nhớ hay quên

Riêng ta vẫn u hoài

Đêm đêm tiếp đêm nhớ mong người

Đã cách xa..."  (2)

 

Người con gái dáng gầy gò, chiếc áo màu xanh đậm bạc màu, một tay cầm chiếc nón lá rách vành, tay kia cầm chiếc gậy theo sau là người đàn ông độ ôm đàn thùng, đeo kiếng sậm đen. Tiếng hát ngân dài dịu vợi, bơ vơ  trong tiếng ồn ào, nhộn nhịp bao cuộc đời xuôi ngược chung quanh. Vài người khách bộ hành dừng lại nhìn cô gái, rồi bỏ vội vào chiếc nón lá rách vành những tờ giấy bạc vô tình. Âm vang cuối cùng của bài hát đã dứt, khoảng lặng yên như xô đẩy dòng người dòng đời náo nhiệt hơn lên. Tiếng từng phím đàn lại rão lên một bài hát khác. Người con gái ngẩn mặt lên, dưới mái tóc bồng bềnh biếng chảy là đôi mắt, đôi mắt u hoài như chẳng nhìn ai, sao xé thịt da người. Đôi môi tuổi xuân thì, cũng phơn phớt hồng cất giọng, bất chấp gian truân hằn sâu trên khóe mắt: 

"Mưa rừng ơi, mưa rừng!

Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên

Phải chăng mưa buồn vì tình đời

Mưa sầu vì lòng người

Duyên kiếp không lâu..."  (3)

 

Tiếng hát thơ ngây sao vọng nỗi u hoài trong không gian rộn rã vây quanh. Tiếng hát như bóp chặc mỗi nhịp đập tim tôi, giữa mùa gió trở. Tiếng còi xe bất chợt kéo tôi về thực tại. Chuyến xe tôi đang chuyển bánh về phía bến phà. Tôi móc vội những tờ giấy bạc trong túi, những tờ giấy bạc dành dụm suốt năm dạy kèm trong đáy xách vải. Đi nhanh về phía tiếng hát, tôi bỏ tất cả nắm giấy bạc và cả tấm lòng mình vào chiếc nón lá rách vành. Tiếng hát bất thần im bặt giữa nhịp đàn. Dưới đôi chân mày đen rậm, ánh mắt ngưởi con gái thoáng kinh ngạc, chút bừng vui.  Tôi quay đi nhanh, chạy theo chuyến xe hướng về phía trước. Trong bước chân vội như trốn, tôi chợt ngoái đầu nhìn lại tự dưng, để bắt gặp lại ánh mắt thoáng hiện nụ cười cuối khóe, nhẹ tênh. Ánh mắt ấy như xô đẩy tôi vào một khoảng không chất ngất xúc cảm bất ngờ... Chuyến phà rời bến, thổi hơi nước trong khứu giác tôi rộng mở. Tôi muốn la to lên niềm hạnh phúc vỡ bờ. Tôi cũng quên mất, trong người tôi trống rỗng, không còn gì cả. Không tiền để ăn trưa, không tiền cho chuyến đò về nhà nội. Mà cần gì, trong tôi đang căng đầy hạnh phúc; căng đầy mọi nỗi niềm, đầy ấp ánh mắt, bóng hình của người con gái hát dạo ở lại bên kia bến phà Mỹ Thuận.   

 

*** *** ***

NguyenVinhLong_cauMyThuan.jpg 

Rất nhiều năm, nhiều năm sau nầy, trên chuyến xe về thăm lại quê nhà, tôi nói với người lái xe dừng lại dưới chân cầu Mỹ Thuận. Thời gian không ngừng lại chờ ai. Cuộc sống không ngừng trôi trong mọi kiếp người hữu hạn. Tóc tôi đã bạc màu năm tháng. Đất nước, quê hương tôi đang trẻ lại từng ngày. Trước mắt tôi là hiện tại. Những gì tôi nhớ, tôi muốn tìm là quá khứ, là những vùng ký ức chìm sâu. Dọc hai bên đường là những công trình đang xây cất, là những tấm bảng quảng cáo đầy màu sắc của hôm nay. Thỉnh thoảng có vài tán dù bày bán những chai nước uống, bánh trái lẻ loi. Chân cầu Mỹ Thuận đã hiện ra phía trước. Chiếc xe chậm lại, người tài xế trẻ quay qua tôi:

-Đây là điểm gần nhất em có thể dừng xe cho chú.

Đó là một trạm xăng Petrolimex. Bên hông trạm xăng, phía ngoài là một quán ăn nhỏ. Chiếc xe dừng và tắt máy trước cửa quán. Tất cả lục đục xuống xe, bà xã nói:

-Mọi người vào quán uống nước, để anh ấy đi chụp vài bức ảnh.

Quá quen tính bốc đồng, cũng như những cảm xúc riêng tư, bà xã rất tôn trọng giây phút "một mình" của tôi. Đi dọc theo lối cỏ ven đường, tôi đã nhìn thấy những sợi cáp treo của cầu Mỹ Thuận. Đã thấy xa xa mặt nước sông Tiền nâu sậm và mùi hơi nước thoảng trong gió lùa. Cảnh vật không còn chút gì để nhận ra, nhưng bầu trời vẫn xanh với từng cụm mây trắng lơ lững như ngày nào. Và hương vị, cái hương vị của quê tôi cũng không hề thay đổi. Mùi hanh hanh của nắng, mùi ngây ngây của hương đồng cỏ nội, mùi hơi nước nồng tênh phả vào từ phía ven sông. Mùi vị mà không bất cứ vùng đất nước nào tôi đã sống, đã đi qua có được. Mùi vị của quê hương tôi! Mỗi bước chân tôi như đang đi ngược về quá khứ. Ánh mắt tôi như chợt nhạt nhòa những hình bóng của ngày xưa. Những chuyến phà ngang, những dòng đời xuôi ngược và... một ánh mắt. Ánh mắt của tiếng hát một đời tôi cứ hệ lụy, cưu mang. Họ là ai? Người con gái hát dạo ngày đó là ai? Tên gì? Hay cũng chỉ là một cái tên trên đường đời muôn vạn nẽo. Về đâu, hởi người con gái một lần tôi gặp giữa trời miên viễn? Họ còn hay mất, có ai nghĩ đến, đoái hoài? Người con gái ngày nào có còn nhớ đến tấm lòng, tôi đã bỏ lại trong chiếc nón lá rách vành một chuyến qua sông? Buổi chiều rơi nhè nhẹ, như vẳng lại đâu đây tiếng hát mơ hồ, hư thực. Tiếng hát của ai? Tiếng hát tôi tâm tưởng hay tiếng người con gái hát dạo ngày xưa của bến phà Mỹ Thuận: 

 

NVLong_Muarung.jpg

"... Mưa rừng ơi! Mưa rừng

Tìm đâu hởi ơi bóng người xưa

Mỗi khi mưa rừng về muộn màng

Bóng chiều về dần tàn

Lòng thương nhớ nào nguôi..."  (3)

 

3.

 

Muốn hay không, chờ đợi hay dững dưng, thời gian vẫn một dòng xuôi chảy. Xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tuần hoàn theo qui luật của đất trời. Có bao nhiêu mùa xuân cho một đời người? Còn bao nhiêu mùa xuân nữa cho mỗi chúng ta? Từng phút giây của hiện tại đang lặng lẽ trôi vào quá khứ, vĩnh viễn. Mỗi kiếp người, chừng như là mỗi số phận. Để mỗi số phận là cả một định mệnh an bài? Chỉ cầm một đưa tay, chỉ cầm một bước chân rẽ lối hay chỉ cầm một ánh mặt, là cả khúc quanh của đời người? Tôi không tin, nhưng cũng không thể giải thích được những số phận quanh mình... Đêm cuối năm lạnh buốt, thoáng chợt thắp lên bao ký ức của mùa xuân đang trở về phía bên kia bờ biển mặn. Linh thiêng làn khói tỏa, hương thơm tà áo mới trong không gian sánh đặc của ngày Tết Nguyên Đán. Thương tưởng những bóng hình năm cũ, chào đón những ngày mới trước mặt, xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Bùi Giáng như nén hương trầm tiễn một năm nữa sẽ qua:

 

"Xin chào nhau giữa con đường

"Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau... 

 

NVLong_cungchuctanxuan.jpg

Durham, North Carolina

Nguyễn Vĩnh Long

 

 

(1)   Bến Xuân - Văn Cao

(2)   Lạnh Trọn Đêm Mưa - Huỳnh Anh

(3)   Mưa Rừng - Huỳnh Anh

 

_____________________________________________________________ 

. Người Con Gái Kinh Cấm

 TL_VNriver.jpg

1.

 

                   Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy. Chỉ biết từ sau ngày "giải phóng", chính quyền địa phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc. Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện trở lại gọi tên cũ là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai màng đến tên gọi của cái xóm nghèo xơ xác đó... Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp, bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều đời, đến nay người ta cũng rất thận trọng và ái ngại phải nhắc đến. Chính quyền địa phương đã tổ chức nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm cùi nữa, mà là bà con của chúng ta và đã có nhiều công trạng với "cách mạng" trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những cố gắng, kêu gọi chừng như không thay đổi được gì trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện...

 

        Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan, vá lưới. Phần lớn là người kinh Cấm, trong đó không ai không biết đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới của Mây khác với ngườI chung quanh, nhưng chỉ vì  Mây đẹp. Mây đẹp nổi tiếng cả vùng, cả huyện. Không những với nhan sắc rực rở, mặn mà Mây lại được cả nết hiền dịu, đảm đang. Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông vãng lượn gian hàng lưới của nàng. Từ căn chòi lụp xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn cau trầu sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây lấy được lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng nầy cả những đám đàn bà và dân bán chợ cũng ganh ghét, tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của Mây, là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi bộc phát, tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rủi ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong tấm gương soi cô độc. Họ, đám đàn ông con trai, chỉ lượn quanh ngắm nghía hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông. Chưa ai trong đám họ dừng lại, cho nàng buổi hẹn hò hay một lần chạm tay đời con gái. Mây là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ nhưng đêm đêm, bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá xa xăm còn người đời thì không ai màng đến tiếng khóc của nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn, thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì nàng là con gái kinh Cấm.

"... Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đời, ông ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy giờ mẹ là cô gái trẻ, bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm. Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc, âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong mãnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ cũng theo nếp ông bà giao vú nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, không ngủ cùng giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn mẹ đều sắm riêng. Mấy chục năm nay cả em và mẹ không có dấu hiệu nào của căn bệnh hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, mẹ đau nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng. Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng lại hoặc bỏ đi. Em đã quen, đã sống với sự xa lánh của người đời như một cố nhân. Em sẽ không hờn oán hay trách cứ gì anh đâu..! ".

 

                   Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn. Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày. Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ tình yêu trong tay, như một định mệnh thiết tha không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng như tôi dễ tin yêu hơn với cuộc đời không rộng lượng. Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nổi sợ hãi và sự khinh miệt của con người.

 

            Thế hệ tôi lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé nhỏ đến đâu cũng được che đậy, dấu kín dưới bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống chung với gia đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu tháng học tập chính trị và triết học Mác Lê-nin, tôi được "công lệnh" về dạy trường trung học phổ thông huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre, vừa che khỏi đầu. Ba cô một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm trước ngó sau... Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc xe đạp thổ tả của tôi đứt "xênh" nằm đường. Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già dạn, phong sương hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài, là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính hải quân. Sau ngày "giải phóng", anh trở về đây tiếp tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái tên Hai Chài đẻ ra từ đó.

             Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ sáng, Hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ, làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nổi anh phải nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã mạn rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha thiết...

                       

            - Vĩnh ơi, hãy nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối, để một đời luôn sợ hải và mọi người lánh xa.

           - Ngoài tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết.

           - Nhưng anh có cả cuộc đời trước mặt. Còn em, chỉ có bóng tối của ngày mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được sự may rủi sau này!  Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi nỗi bất hạnh, nỗi bất hạnh biết trước.... Còn anh, tình yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn trong sự xa lánh, ghê tởm của người chung quanh..!

            Mây nói thật nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy trong chính chiếc bẫy lòng mình, xức trầy bao vết thương tuyệt vọng.

           - Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, cần tình yêu của em mà thôi. Tình yêu em là hơi thở trái tim anh, mất nó, đất trời nầy chỉ là một khoảng trống mênh mông, đầy bóng tối. Mây ơi, đừng để anh phải chết mòn trong tuyệt vọng và sống vô nghĩa giữa đám đông.

         

Tôi nói như lời cầu kinh, vang vọng trong gió biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây ơi, xin đừng lừa dối với chính mình! Vì trong mắt em, tôi đã nhìn thấy mọi yêu thương, mọi ước vọng cho đời này nghiệt ngã. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn mặt Mây và nhìn thật sâu vào mắt nàng. Thật sâu như để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hải mà người đời đã dành cho Mây. Tuyệt nhiên không. Tôi đã nhìn thấy tôi, trong tình yêu có thật của Mây. Và Mây đã nhìn thấy chính mình có thật, trong tình yêu của tôi. Tình yêu của tôi và Mây đứng ngoài thế giới đáng sợ này. Nó không hiện hữu trong tấm gương soi và cả ánh mắt người đời! Cuộc đời chỉ là huyễn hoặc nếu không có tình yêu chúng ta, phải không em?

Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là tương lai hay chỉ là một định mệnh đợi chờ, tôi không màng biết tới. Vì ở đó có Mây, vì ở đó có tôi. 

 - Mây, đây sẽ là tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai là thời điểm đã định, anh cùng gia đình Hai Chài rời bến... Em hãy treo ngọn đèn bão trước hiên nhà vào lúc nửa đêm và đợi ở cuối dòng kinh Cấm. Thấy ngọn đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão đêm nay và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm.

          

Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy rừng mắm. Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập, nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi nàng hé mở.  Mây như lòng biển đêm bất chợt chuyển mình trước cơn giông. Môi nàng bám chặc môi tôi tê dại, không rời... Bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn, dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều vun vút gió bốc cao, thật cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế. Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng hạnh phúc và tuyệt vọng...

2.

Quá nửa khuya, đêm tối đen không thấy rõ mặt người. Dọc bờ kinh Cấm, những dãy nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp. Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà Mây.

 

 

3.           

             

Giọng kể đều đặn của tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ sáng. Bên cạnh, đứa con gái điếm người Phi-líp-pin giương đôi mắt đen tròn nhìn tôi.

              - Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông ?

              - Vào đêm không trăng, cuối tháng Mười năm 1980.

              - Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không ?

              - Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn ba mươi năm nay.

              - Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.

              - Phải. Đến đó là hết. 

           Đứa con gái thở dài nhè nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi dậy, nói nhỏ:

              - Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.

              - Nhưng... em chưa làm được gì cho ông ! Vã lại, ông đã trả tiền "bao" em hết cả đêm nay kia mà.

              - Tôi biết. Cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô sao ?

              - Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật..?          

Đứa con gái nắm tay tôi giữ lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật giống như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh xinh đẹp của Mây hơn ba mươi năm về trước... Tôi hôn vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương của cô gái.

              - Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn, tận cùng khoái cảm !

              - Không. Tôi không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc cô nhiều may mắn.

              - Cám ơn ông và chào tạm biệt.

        

            Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu lần khác, tôi nói dối với đứa con gái điếm người Phi. Vài năm trước, tôi đã trở về kinh Cấm để mong tìm lại Mây. Tất cả  không còn nữa. Không còn ai nhắc đến người con gái kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do vài người hàng xóm kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.

 

 

4.

... Đêm đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của Mây, như chính của bà ngày xưa... Bà nhớ rõ như mới hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc đời nầy. Thời gian với họ, chỉ là sự tồn tại tạm bợ của xác thân. Với tình yêu, họ đã tìm thấy được sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình vô tướng... Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là tất cả  đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ, độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng, giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề và ghê gớm nhất đang trừng phạt tâm hồn bà. Làm sao bà quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng giòng nước mắt khô lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn, mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương trời biển:

 

              - Mây, con hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó không thuộc về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột của mẹ.

 

           Sau ngày chôn cất mẹ, người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu nữa.  Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.

 

           Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh Cấm đều treo ngọn đèn bão trước hiên nhà. 

NGUYỄN VĨNH LONG 

 

___________________________________________________________________________ 

                                                

Hương trầm cuối năm

 

Thắp nén hương xin đưa tiễn thời gian

Đêm cuối năm mịt mù trầm tích cũ

Làn khói tỏa thấp dần theo dấu trũng

Mặt đời cong một vòng kín vội vàng

 

 Nâng ly rượu sao đắng tình xứ lạ

Cũng gật gù mừng năm nữa đã qua

Cứ như thể nhìn gương soi tiều tụy

Mới thấy đời nhiều dáng vẻ kiêu xa!

 

Đón năm mới mùi hương trầm khói đọng

Bịn rịn đưa người khách lạ sang sông

Dòng luân hồi con đò nhỏ hư không

Dấu tiền kiếp trên môi đời khép cạn

 

Đêm cuối năm chợt như chừng quên lãng

Khói hương trầm một nén thắp trăm năm

Bông tuyết trắng lạc về đâu bóng nhạn

Mắt ơ hờ thương tưởng những mê cung..!


 Đêm tuyết rơi,

chợt nghe câu vọng cổ

 

Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng cổ:

 "... Ai đang đi trên đường đê,

"tai lắng nghe muôn câu hò đê mê

"Vô đây em, dù trời khuya anh vẫn đưa em về

 

"Giữa trưa buồn nghe não nuột lòng ơi... (*)

 Câu hát cũ chạnh lòng đêm xứ lạnh

Gió ngoài hiên rả rúc những vô cùng

Thôi đã lỡ nhịp xề xang cống líu

 

Ai đưa em về chiều khép hoàng hôn...

 Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng cổ:

"... Qua biên san kìa ai tiễn rượu vừa tàn

"Vui ca vang rồi đi tiến binh ngoài ngàn

 

"Người đi ngoài vạn lý quan san

 "Người mong chồng còn đứng muôn năm... (*)

Tiếng hát ai buồn như chuyến phà ngang

Con nước chảy thiết tha đời khách lữ

 

Chiếc nón lá che nghiêng khuôn mặt nửa

 Bóng thời gian, phân nửa phấn hương tàn!

 Đêm tuyết rơi, chợt nghe câu vọng cổ:

Hò cống xang, cống xế líu xang xề...

 

Nguyễn Vĩnh Long

(*) Sầu Vương Ý Nhạc - Viễn Châu

 

Cà Phê Lá Me   

 NguyenVinhLong_caphecup.jpg        

 

Tôi bắt đầu tập uống cà phê và hút thuốc vào cuối năm lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Thật lòng mà nói, lúc đó tôi chẳng thấy ngon lành gì, vừa đắng lại vừa khó thở. Nhưng theo đám bạn, không hút thuốc không uống cà phê là chưa thành "người lớn", chưa đủ điều kiện qua cổng trường con gái trồng cây si. Cà phê thì tôi uống cà phê sữa, cà phê ít sữa nhiều. Thuốc thì tôi thử qua mấy loại của đám bạn rủ rê như Ruby, Bastos... khét và nặng chịu không nổi. Cuối cùng đành phải chọn loại có đầu lọc, thích nhất là Salem, có vị cay the the củạ bạc hà. 

NguyenVinhLong_salem.jpg

Thế mà dần dà trở thành thói quen, thành "nghiện". Loại thuốc lá Salem có đầu lọc rất được ưa chuộng và thông dụng. Thông dụng đến nổi không biết bao giờ, đã được "phụ đề" theo tiếng Việt, đọc xuôi và đọc ngược:

Sao Anh Làm Em Mệt - Mà Em Làm Anh Sướng! Điều đáng nói là, những người con gái "tôi yêu và yêu tôi", đều là những cao thủ cà phê thứ thiệt: phin đen đậm đặc, ít đường! Nên mỗi lần đi cà phê với "nàng", nhìn tôi thật tội nghiệp. Vậy mà đã thành bao chuyện kể, bao kỷ niệm mai này...

 

Cà phê Năm Dưỡng

Lên Sài-gòn tôi ở trọ căn gác trong hẽm chùa Phước Hòa, phía sau trường tiểu học Phan Đình Phùng, do một người quen dưới quê giới thiệu. Năm đầu tôi ăn cơm tháng của gánh cơm dì Ba, bên hông quán cà phê Năm Dưỡng. Đây là quán cà phê rất nổi tiếng của nhiều giới của Sài-gòn lúc bấy giờ, từ thành phần công nhân lao động đến quân nhân công chức và nhất là sinh viên học sinh. Bình dân, cà phê ngon hết cở lại giá cả rất "mềm", nên khách sắp hàng, ngồi chen chúc, la liệt ra tới mặt đường. Ly cà phê đen đặc sệt với một cây tăm có miếng "bơ" trên đầu, quấy lên sóng sánh và thơm phức, không thể cầm lòng được. Quán Năm Dưỡng trong hẽm đầu đường Nguyễn Thiện Thuật và Hồng Thập Tự, nối liền với đường Lý Thái Tổ. Từ nhà trọ của tôi, đi bộ khoảng 10 phút là tới, rất tiện lợi, vừa ăn cơm vừa uống cà phê luôn thể. Thích nhất là tờ mờ 4, 5 giờ sáng, thả bộ ra quán nhâm nhi một cà phê sữa nóng, bập bẹ vài điếu thuốc và lắng nghe:

"Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm

Dòng đời là chuỗi tiếc nhớ

Mơ vui là lúc ngàn đắng cay... xé tâm hồn"  (Sầu Lẻ Bóng - Anh Bằng)                              

 thì cuộc đời "tựa những chiêm bao". Lại có lời đồn cà phê ở đây, chủ quán có cho chút chất ma-túy gây nghiện. Thực hư thế nào không biết, nhưng có điều cà phê Năm Dưỡng vẫn mãi mãi là bao "chuyện kể" của một Sài-gòn xưa, một thời vang bóng của tuổi trẻ bọn tôi. Nhưng điều làm tôi thích nhất là ở Năm Dưỡng, trên bàn lúc nào cũng để sẵn đường và sữa đặc, tha hồ tự làm một ly cà phê theo ý mà không cần phải gọi xin thêm. Nhất là đối với tôi, hạng uống cà phê ít sữa nhiều! Và đặc biệt là quán cà phê Năm Dưỡng hầu hết khách hàng đều là phái nam. Hiếm hoi lắm mới bắt gặp một "bóng hồng" vào quán. Thêm nữa quán lúc nào cũng ồn ào, nhạc không có gì hấp dẫn và uống cà phê như "chạy giặc", vì phải nhường bàn cho người khác đang chờ!

Cà phê Cheo Leo

Nằm vạ ở cà phê Năm Dưỡng được nửa năm thì tôi quen với Duy, cùng khoa quê ở Trà Vinh. Cùng tuổi nhưng Duy từng trải và thổ địa Sài-gòn hơn tôi rất nhiều. Hắn không mặn với vị cà phê và không khí của quán Năm Dưỡng. Dù giá vừa túi tiền sinh viên nhưng không được ngồi lâu, ồn ào và nhất là nhạc thì quá đổi nhạt nhẽo, lê thê. Duy rủ rê tôi đến một quán cà phê khác nổi tiếng cũng không kém, gần đó: quán cà phê Cheo Leo. Nằm sâu trong con hẽm cùng trên đường Nguyễn Thiện Thuật gần góc Phan Đình Phùng, quán cà phê Cheo Leo đẹp, thanh lịch và hầu như dành cho giới nghệ sĩ, công chức, sinh viên học sinh. Cà phê đặc biệt, loại "cứt chồn" từ Ban Mê Thuộc được mua về, rang và pha chế tại chỗ. Cà phê được pha bằng vợt lẫn phin, nhưng tôi thích pha bằng vợt hơn. Độ nóng vừa tới, nguyên vẹn còn phin thì đậm đặc thật nhưng đôi lúc phải cho vào thêm nước sôi mới đủ độ nóng. Nhạc chọn lọc, không khí phóng khoáng, lãng mạng và nhất là hai cô con gái xinh đẹp của ông chủ quán. Có lẽ vì những điều này nên một ly cà phê Cheo Leo vượt ngoài túi tiên của bọn sinh viên học sinh nghèo, ở trọ xa nhà. Chỉ lâu lâu một chầu, nhịn ăn bóp bụng, mới tới Cheo Leo một lần để thưởng thức cà phê và hai người đẹp. Cô chị đẹp và ăn mặc sexy hơn cô em, nên lần nào nàng ra tính tiền là khoản tiền "bo" cũng cháy túi biết bao cây si (trong đó hổng chừng có cả tôi). Từ ngày theo Duy chuyển qua quán cà phê Cheo Leo, tôi luôn hụt trước thiếu sau, biết nói dối để mượn tiền bà chủ nhà trọ. Hình như là cô chị tên Nguyệt và cô em tên Cầm (?). Tôi thích nét đẹp và dáng dấp dịu hiền của Cầm nhiều hơn.

Mỗi lần ghé quán, tôi làm bộ để chờ đợi Cầm ra mới kêu cà phê và cả lúc tính tiền. Đến nổi những ngày đến quán sau này, Cầm không cần phải đến hỏi mà mang ra cho tôi ly cà phê sữa nóng, cà phê ít sữa nhiều!  Cũng may tình trạng "mê cà phê đến thiếu hụt" không kéo dài được bao lâu thì tôi quen với N.T. Lúc đó tôi đang "tập tành" viết kịch cho đài truyền hình Đắc-Lộ. Đây là đài truyền hình nhỏ, được sự tài trợ của UNESCO nhằm bảo tồn và phát huy những phong tục tập quán giá trị cổ truyền của quê hương, đất nước. Đang theo học khoa sân khấu kịch nghệ trường Quốc Gia Âm Nhạc, N.T làm thêm và có vài vai diễn cho ban kịch của đài truyền hình Đắc-Lộ. Thường khi viết xong một kịch bản, tôi nhờ N.T đọc lại và đánh máy. Những kịch bản được chọn và phát hình, tôi được trả một món tiền nhuận bút khá lớn, đủ để bao bạn bè và tiêu xài cả tháng.  Một lần nhận xong, tôi rủ N.T đi ăn cơm thố Nam Sơn và cà phê quán Cheo Leo:

"... Thôi thì thôi đừng ngại mưa mau

"Đưa nhau ra tới bên cầu nước xuôi

"Sông này đây chảy một giòng thôi

"Mây đầu sông thẵm tóc người cuối sông... (1)

Tiếng hát tha thiết, vời vợi của Thái Thanh vang lên như xô đẩy cả không gian trong quán nhỏ chìm vào tận cùng của nỗi nhớ. Tôi và N.T chọn chiếc bàn gần cuối dãy, mang theo nhiều ánh mắt nhìn của người chung quanh. Với khuôn mặt trái soan đẹp, chiếc cổ thon cao với mái tóc dài, N.T luôn thu hút và làm chủ đám đông khi hiện diện. Không phải đợi lâu, Cầm bước ra nhìn N.T chút ngập ngừng và hỏi uống gì. "Ly cà phê đen, ít đường, để đá riêng", nàng gọi sành sỏi, không cần nghĩ ngợi. Cầm ghi nhận, quay sang tôi cười cười, rồi đi vào trong. Người mang ra không phải là Cầm mà Nguyệt, tóc búi cao với chiếc váy ngắn, thật ngắn nếu cúi xuống thấp có thể nhìn thấy trọn vẹn cả đôi chân dài nõn nà. "Anh đến đây thường xuyên lắm sao? Quán cà phê nghe nhạc hay cà phê ngắm đùi trần?", N.T cau mày. Chưa kịp phản ứng, nàng đã kéo ghế đứng lên: " Mình đến quán khác, đi anh!". Tôi ngơ ngác, chưa hiểu gì, vội trả tiền (vẫn còn tiếc ly cà phê sữa nóng). "Mình đi đâu đây em?". "Cà phê ngon nhất Sài-gòn, cà phê lá me! Em sẽ chỉ đường cho anh".

Cà phê lá me

Đó là dãy cà phê vỉa hè nằm dọc theo đường Nguyễn Du, dưới những hàng me rợp bóng. Từ đoạn phía trước tòa án quận 3 kéo dài qua khỏi văn phòng của bà luật sư Ngô Bá Thành, gần đến khúc quẹo vào vườn Tao Đàn. Hầu hết khách hàng là giáo chức, giới văn nghệ sĩ, nhà báo và sinh viên học sinh. Cà phê đủ loại có vợt lẫn phin, gía cả rất ư là bình dân, vỉa hè, vừa vặn túi tiền của mọi người. Đặc điểm nổi bật của cà phê lá me là bạn có thể ngồi "ngâm" một ly cà phê, vài ba bình trà cũng không phiền hà ai. Bàn ghế gỗ, nhỏ thấp và có thể tự phục vụ. Buổi trưa trời Sài-gòn nóng như lửa đốt, nhưng nhờ những tán me cổ thụ dọc bên đường, khách cũng thư thả nhâm nhi ly cà phê "đứng gió". Cả mấy cô thư ký làm trong tòa án quận cũng lấy giờ nghỉ trưa cùng tách cà phê vội. Không ai để ý ai, chỉ tụm ba tụm bốn nhấp từng ngụm cà phê và bàn thảo chuyện bên lề. Hòa quyện vào tiếng cười nói là từng dòng xe cộ chạy rong ruổi trên đường. Tất cả tạo thành không gian âm nhạc của dãy quán cà phê lá me chen lẫn giữa đời. N.T chọn chiếc bàn sát bờ tường chỉ có hai ghế ngồi gỗ thấp. Người chạy bàn là những sinh viên làm thêm, cũng vừa là khách. Ly cà phê đá ít đường cho nàng và cà phê sữa đá, nhiều sữa cho tôi. Cà phê thơm ngào ngạt và rất ngon. Chỉ cần vài ngụm là tất cả giác quan chừng như bùng vỡ, lâng lâng. Ngồi dựa vào tường, nhâm nhi từng ngụm, nhìn N.T hay nhìn bâng quơ cuộc sống đang từng dòng cuốn quanh, thật thú vị, thật "đã". Thỉnh thoảng vài cơn gió nhẹ về, thổi lan man từng đợt lá me bay rụng phủ mặt bàn, mặt đường và rơi lạc lõng trên tóc người yêu dấu. Khuôn mặt N.T đẹp lại càng đẹp thêm. Tôi có thể nhìn rõ từng sợi chân mày vén khéo, vắt ngang dài khỏi đuôi mắt, từng sợi lông tơ trên hai má của nàng. "Làm gì nhìn em dữ dzậy? Anh uống thử chút cà phê của em đi", vừa nói N.T vừa đổi vị trí hai ly cà phê. "Đắng quá mà em uống được!", tôi nhăn mặt. "Anh uống cà phê như người ta ăn chè cà phê", nàng cười, chế nhạo. "Uống ly cà phê của em là tối hết ngủ luôn". "Hết ngủ thì nhớ em". "Nhớ em, anh sợ mấy anh chàng phi công không quân dội bom nát căn gác trọ của anh..! Còn em. Không ngủ được thì em làm gì?". "Không ngủ được, thì em nhớ người... dưng. Hổng thèm nhớ anh đâu mà sợ!". 

           

NguyenVinhLong_capheviahe.jpg

Cà phê vỉa hè là cả nét văn hóa của người Sài-gòn. Cà phê lá me là cả một "truyền thuyết" thời sinh viên, thời kỳ: "Yêu nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài gắn bó đôi lời - Ta quen nhau một ngày, thương nhau trọn đời, giữ cho lâu dài (Ngăn Cách - Y Vân)", của tuổi tôi vừa lớn. Những tháng ngày mơ ước, những bài thơ tình thấm đẫm hương môi, những đợi chờ ngóng cổ, những chuyện đại sự "lấp biển vá trời"... bên ly cà phê có lá me bay bay vướng mờ kỷ niệm. Tuổi trẻ của Sài-gòn, tuổi trẻ của thời chiến tranh cùng khắp, tuổi trẻ của những khúc tình ca:

"Theo em xuống phố trưa nay đang còn chất ngất cơn say

"Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau... (2)                                                              

 

Và cả những âm thanh từ quán bar đèn màu khói tỏa phía cuối một góc đường:

"As long as I remember

"The rain's been comin' down

"Clouds of mystery pourin'

"Confusion on the ground

"Good men through the ages

"Tryin' to find the sun

"And I wonder, still I wonder

"Who'll stop the rain (3)

 

Cà phê lá me trở thành nơi cà phê "xé lẻ" của tôi và N.T. Dần dà tôi đã tập uống được phân nửa ly cà phê đen đắng và N.T thì "ăn chè" phần cà phê sữa của tôi. Trong đắng có ngọt và trong ngọt có đắng. Bên ly cà phê lá me mỗi trưa, mỗi chiều có nhau hay chỉ một mình, tôi luôn nhìn thấy cuộc sống vây quanh giữa lá bụi đường. Cái vỉa hè như khung trời mở rộng, hơi thở tình yêu tự tại khoảng không. Có lần N.T đưa tôi tới một quán cà phê cửa kiếng máy lạnh nổi tiếng Sài-gòn với nhóm văn nghệ "khá giả" của nàng: quán cà phê Cái Chùa (La Pagode), góc đường Tự Do và Lê Thánh Tôn. Khách toàn là giai nhân tài tử, chính khách tên tuổi, văn nghệ sĩ đi bằng xe hơi... và giá ly cà phê là cả tuần nhịn đói của bọn sinh viên ở trọ chúng tôi. Không khí mát lạnh giữa Sài-gòn oi bức, như nhốt kín mọi tiếng động, mọi hơi thở của cuộc sống ngoài kia. Trên đường về: "Lần đầu, đây cũng là lần cuối. Anh sẽ chết ngợp vì ly cà phê thiếu khí trời", tôi nói với N.T. "Nhìn anh, em biết. Sẽ không có lần nữa, anh đừng giận em". "Không đâu. Đó là mặt khác, có thật của đời sống thôi!". -- Sau này với T.H cũng vậy, cao thủ cà phê, phin đen đậm đặc, ít đường và không bao giờ uống có đá. Tính tình mạnh mẽ, bốc đồng T.H thích dầm mưa Sài-gòn để... uống cà phê. Khi thì ngồi co ro dưới tán me và cơn mưa tạt ướt cả vai lưng áo hai đứa. Khi thì chạy tuốt lên quán cà phê Hương gần nhà thờ Tân Định ướt mèm tóc tai quần áo, chỉ để uống ly cà phê, chỉ để ngồi lặng im nghe hơi ấm trong tay và nhìn những sợi mưa giăng giăng phủ mặt đời: "... Mưa có buồn bằng đôi mắt em - Tóc em từng sợi nhỏ - Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh..." (Như Cánh Vạt Bay - Trịnh Công Sơn).

Những năm tháng bên ly cà phê lá me vỉa hè, tôi học được mọi sự sống trên cuộc đời vô thường này đều cần có tự do và khí trời. Hạnh phúc, tình yêu cũng không ngoại lệ, cần được nuôi dưỡng bởi bầu trời cao rộng của tự do. Vết cắn của N.T có sâu, có rướm máu bao nhiêu, môi tôi cũng kéo lớp da non theo ngày tháng... Tất cả chỉ còn lại những nếp nhăn tận lòng của kỷ niệm, của dĩ vãng lúc chìm khuất lúc chập chùng trong giấc mơ xa. Mất mát đôi lúc không phải là những khổ đau. "Ai đưa con sáo sang sông - Để cho con sáo sổ lồng bay xa", xót xa trách móc, phải chăng chỉ là sự ước lệ? Hãy để con sáo bay xa, bay cao trong khoảng trời rộng bao la có thể. N.T lấy chồng khi mới vừa hai mươi, chưa kịp tốt nghiệp trường kịch nghệ. Chồng nàng không phải là mấy anh phi công không quân hằng đeo đuổi, mà một viên chức làm trong bộ ngoại giao. Cuối năm 1974, N.T theo chồng sang Tân Gia Ba (Singapore), bỏ hẳn cuộc chơi.

 

*** *** ***

 

            Gần đây trong nước với hàng loạt quán cà phê khang trang, sang trọng mở ra cùng khắp và phát động chiến dịch "dọn dẹp" hàng quán vỉa hè, nhất là ở Sài-gòn. Đọc tin và xem nhiều Vlog của các bạn trong nước, tôi buồn, thật buồn và nuối tiếc dưng không. Biết rằng thay đổi là quy luật tất yếu của thời đại và vạn vật, nhưng sao lại khó cầm lòng. Có nhiều nỗi khổ đau con người mong không phải gặp, phải đối diện. Những nỗi khổ đau lấp chìm mọi ước mơ, mọi nhân phẩm của con người. Nhưng cũng có những niềm đau thương nâng cao tâm hồn và mơ ước của chúng ta đến tầm cao khác. Nỗi đau thương trong tình yêu là một! Tất cả sẽ thoáng qua, sẽ cát bụi đời này. Đến nay, mấy chục năm sau, rong ruổi qua bao biển rộng sông dài, tôi vẫn chưa quen uống ly cà phê đen ít đường. Tôi vẫn một đời, sống với ly cà phê sữa nóng, nhiều sữa ít cà phê. Tôi vẫn sống với bao nhiêu cuộc đời đổi mới, sao lòng vẫn cũ kỷ, rêu phong. Vẫn nhiều lúc đang ngồi bên ly cà phê lá me với N.T, với T.H... nhìn gió cuốn nghiêng nghiêng ngàn vạn chiếc lá me bay; rồi tất cả chợt lùi dần, lùi sâu vào khoảng không hun hút bụi đời:                

"Giờ đã xa nhau, những kỷ niệm xin vẫy chào

"Vùng lá me bay, năm tháng dài thương nhớ ai

"Em cố quên đi, thương nhớ làm gì

"Tình mình như lá me rơi, trên giòng xuôi biển khơi... (4)

 

Durham, North Carolina

Nguyễn Vĩnh Long

 

(1)Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng - Phạm Duy, thơ Phạm Thiên Thư

https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/dua-em-tim-dong-hoa-vang-thai-thanh.ZYILcQ4i5r.html

(2)Vũng Lầy Của Chúng Ta - Lê Uyên Phương

https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-lay-cua-chung-ta-le-uyen-phuong.YZBXzhZnnDXy.html

(3) Who'll Stop the Rain - Creedence Clearwater Revial

https://www.youtube.com/watch?v=lIPan-rEQJA

(4) Vùng Lá Me Bay - Anh Việt Thanh

https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/vung-la-me-bay-nhu-quynh.1vOXeobFy4lf.html

 

_________________________________________________________________ 

     Tóc Xanh Mấy Mùa               

 

  

TL_matna.jpg

                                           

 1.

 

            Tôi bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông, tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm sự có mặt của một số khách "nồng cốt", để bắt đầu chương trình. Mà bao giờ cũng vậy, các vị khách "nồng cốt" cho các buổi sinh hoạt thính phòng nầy luôn luôn xữ dụng giờ "dây thun" phơi nhiều nắng. Hơn nữa, Khánh sắp tôi hát mở đầu chương trình, nên tôi sẽ có dịp chuồn êm sau phần trình diễn... Từng động tác nhỏ, mỗi ánh mắt vô tình của tôi cũng đã và đang là đề tài thì thào, bàn tán của đám người chung quanh. Tôi nhột nhạt đến khó chịu vì những cặp mắt tà tâm của đám đàn ông cùng với những cái nhìn soi mói của mấy bà trên khuôn mặt đẹp của tôi. Tất cả dù quá quen thuộc, đến không còn cảm giác, nhưng lần nào tôi cũng thấy nhân phẩm bị xúc phạm nặng nề. Ly nước lạnh xoay tròn trên tay tôi, chừng như đang bao quanh với những lờI tán tụng của ngườI đàn ông nào đó trong bàn. Không hiểu sao, những người đàn ông trí thức, lịch sự và sang trọng trước mặt không đem lại một mảy may nào chú ý của tôi. Họ trao đổi, bàn luận những vấn đề chính trị, xã hội và nghề nghiệp trọng đại thật say sưa, rộn rã cố chừng khoe khoang sự thành công để chinh phục sự chú ý của tôi. Thật ra đối với tôi, tất cả điều đó thật buồn chán và nhạt nhẽo. Nhưng họ lại là khách của Khánh, khán giả "chọn lọc" với món tiền thù lao béo bở cho tiếng hát của tôi. Vậy thôi. Những buổi trình diễn loại thính phòng nầy như một phong trào thời thượng, với đám người thưởng thức nghệ thuật thì ít mà để phô trương, bộ điệu và kết thành phe nhóm, bè phái đả kích lẫn nhau thì nhiều. Không như những lần đi lưu diễn những tiểu bang xa, những tên thành phố thật lạ, khán giả đó mới thật sự là của tôi, vì tôi và cho riêng tôi. Cũng vậy, ở đó tôi hát bằng tất cả rung cảm của trái tim và bát ngát của tấm lòng; ở đó, tôi thấy tài năng và nhan sắc của mình hiễn lộng trong cùng khắp ánh mắt của tình người và sự ngưỡng mộ của đồng bào tôi. Và cũng chính nơi đó, tôi đã tìm thấy tôi như cơn bão nổi thiết tha từ một tiền kiếp đợi chờ, mơ ước. Không như chung quanh đây, tiếng hát tôi như một loại thời trang, một thứ hàng trang sức sau đêm dạ vũ. Những người đàn ông chỉ là đám thiêu thân lao vào nhan sắc tôi như lao vào đám lửa.  Tự dưng tôi thèm khát sự hờ hững, dững dưng để được một lần tôi thổn thức cho sự lạc lõng cùng tận của chính mình. Không có sự tuyệt vọng nào ghê gớm hơn niềm cô đơn trong giữa đám đông, giữa những thói quen của đời sống..!

           

Khánh tách đám đông, tiến về phía tôi, gật đầu ra dấu. Tôi khẻ mĩm cười, sẵn sàng. Tôi sẵn sàng cho Khánh, nhưng cũng để sẵn sàng thoát ra khỏi đám đông quen thuộc, chán mắt nầy... Không hiểu sao, tôi với Khánh, cho đến bây giờ vẫn sống chung. Anh vẫn sống sau chiếc mặt mạ giả dối và bay lượn trong vùng trời tham vọng riêng tư. Còn tôi cứ hát ca với nhan sắc rực rỡ phủ kín trong chiếc vỏ kén cô đơn đời mình. Chúng tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời nhau như hai đường rây nằm song song đến vô cùng, cần thiết cho chuyến tàu định mệnh? Tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng đã hơn bốn năm rồi, hững hờ, phẳng lặng. Khánh càng ngày càng trở thành một tay kinh doanh văn nghệ nổi tiếng. Anh thầu tổ chức hầu hết các buổi đại nhạc hội lớn nhỏ khắp các tiểu bang, thành phố có đông đảo ngườI Việt cư ngụ. Ngay cả những kỳ lễ lộc, các buổi văn nghệ bỏ túi của các hội đoàn, những buổi dạ vũ tư nhân trong các giới đầu tư xứ nầy. Tính nghệ sĩ của Khánh mất dần. Anh trở nên cao ngạo và đầy những tham vọng xã hộI chung quanh... Căn nhà rộng lớn thênh thang, chiếc xe đắc tiền và những bộ quần áo lộng lẫy như chiếc lồng cao sang nhốt kín đời con chim sơn ca bé nhỏ. Tiếng chim hót cho người mua vui hay chính tiếng lòng tôi cô đơn xa vắng, não nùng. Tôi có trọn vẹn bộ mặt vật chất rực rỡ bên ngoài, nhưng trống rỗng và thật nghèo nàn hạnh phúc bên trong.

           Tiếng vỗ tay vang dội căn phòng, sau lời giới thiệu hoa mỹ thường lệ của Khánh. Tôi đứng dậy, nụ cười tươi tắn trên môi, lướt qua giữa đám đông và bước lên bục sân khấu. Dàn nhạc dạo lên bài hát ưa chuộng cho tiếng hát của tôi. Ánh đèn vây quanh chỗ tôi đứng chuyển sang màu hồng nhạt dìu dịu. Đám đông và căn phòng chợt biến mất. Trong tôi, chỉ còn lại là một đồi cỏ xanh mượt trong ráng chiều và gió rừng lồng lộng. Tôi nhắm mắt tận hưởng những cảm giác tuyệt vời, cất cao tiếng hát của lòng mình tha thiết.

   

            "Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về, nhớ chân giang hồ...

            "Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia bến bờ,

            "đời người như gió qua...

            "Thôi về đi, đường trần đâu xá gì, tóc xanh mấy mùa...

            "Có nhiều khi, từ vườn khuya bước về, bàn chân ai rất nhẹ,

            "tựa hồn như những năm xưa...  (1)

 

 

2.

 

              Hồ nước nằm phía đông nam của thành phố, nửa thiên nhiên nửa nhân tạo. Một bên bờ xây gạch, lót đá và cây trồng thẳng hàng thẳng lối như một công viên. Bên kia là bãi đầm lầy, chạy dài theo phía sau rừng thông bạt ngàn, xanh mướt quanh năm. Dựa lưng phía trên là đập nước cao ngất, tạo thành mặt thác đỗ ầm ĩ ngày đêm một góc bờ hồ. Nhất là những đêm trăng, xa thành phố rực đèn, mặt hồ trắng bạc, óng ả dãy ngân hà long lanh. Tình cờ trên đường về một mình, tôi khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của hồ nước đêm trăng. Thế là thỉnh thoảng những hôm có trăng trong tháng, tôi lái xe đến đây, để lặng lẽ đắm chìm với khoảng thiên nhiên của riêng mình. Những giây phút nầy, tôi mới thật sự đối diện với nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc. Chừng như mọi nỗi mơ ước của chúng ta không mất dần theo năm tháng, mà chết dần và biến dạng theo nhu cầu của bản năng... Khánh đã mất tôi, trong tình yêu và cả ngoài đời sống. Tôi vẫn đứng yên, nhưng Khánh thì vùng vẫy. Con người, một sinh vật thật trí tuệ nhưng lại sống và bị điều khiển bởi bản năng. Khánh dãy dụa không phải vì yêu tôi, mà sự thương tổn tự ái. Chưa bao giờ trong đời Khánh 'bị' người đàn bà quay lưng. Chỉ có anh quay lưng với họ, ruồng rẫy trong nỗi thương hại bề trên. Dễ hiểu, vì Khánh có tất cả những ước mơ của phụ nữ. Khánh đẹp trai, lại là một nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng trong giới sinh hoạt nghệ thuật. Chừng ấy thôi đâu, Khánh còn thành công cả mặt thương mại, giàu có vô cùng. Chung quanh anh là bóng sắc giai nhân, mắt đầy ngưỡng mộ... 

            Tôi đi dọc theo bờ hồ về phía đập nước. Trăng đêm nay sáng lạ lùng, bàng bạc. Tiếng nước đổ ào ạt, tạt vào những bờ đá thấp đâu đó vọng về. Chừng như tôi nghe cả tiếng lòng mình tan vỡ. Thái độ lạnh nhạt của tôi như ngòi lửa châm vào niềm kiêu hảnh của Khánh. Có những đêm, Khánh đem hết khả năng đàn ông trong tình dục để chinh phục, kiềm chế mọi xúc cảm của tôi. Bao giờ cũng vậy, trên giường ngủ, Khánh luôn đưa tôi tới những ngất ngây của xác thịt, cực kỳ của khoái cảm. Nhưng tất cả chỉ thoáng chốc, qua nhanh, không vang động hoặc níu kéo được gì trong tâm não đã lụy tàn của tôi.

               - Em còn muốn gì hơn nửa ở anh. Nhà cửa, danh vọng, tiền bạc và cả đời sống vợ chồng, anh cung cấp đầy đủ đến dư thừa. Anh không hiểu, thật sự không hiểu..?

               - Khánh ơi, anh đã đem lại cho em tất cả. Tất cả những ước mơ của một thời con gái. Em sẽ không bao giờ quên ơn đâu... Anh đừng bận tâm đến những điều anh không hiểu. Hãy quan tâm đến những gì anh đang có chung quanh.

               - Những gì anh đang có... Anh muốn trái tim, tâm hồn em kìa. Không phải cái thể xác chỉ phản xạ theo bản năng sinh tồn và dục cảm. Anh có thể đui mù trong tình yêu, nhưng không thể không phân biệt những đòi hỏi của thể xác và 'tham vọng' của trái tim.

            Rồi anh bỏ đi. Ngoài kia là những cuộc vui đang chờ đón, mời gọi sự có mặt, nhập cuộc của anh. Vậy thôi, anh sẽ quên tôi như một bài thơ đã làm xong, một chiếc xe đời cũ... Chỉ còn mặt hồ trăng đêm nay ở lại với tôi, âm thầm và mãi mãi. Tiếng tăm, danh vọng tôi lên cao bao nhiêu, tự ái tôi càng tổn thương bấy nhiêu. Cứ như giòng trăng sáng lạnh đổ từ tầng cao, thăm thẳm một vực đời vỡ vụn. Tôi ngước nhìn lên đập nước, mơ cánh chim đêm lạc cuối bờ.

           

Chợt lờ mờ trên cao, chừng có bóng người vất vưởng, chuyển động trên bờ thành đập nước. Tôi đứng hẳn lại, định thần và cố thu ngắn tầm nhìn. Rõ ràng một bóng người đang hướng mặt xuống đập nước. Một thoáng trong suy nghĩ, tôi hiểu mình phải chạy thật nhanh lên những bậc thềm cao... Trước mắt tôi là chiếc xe lăn tay dựa sát mặt tường. Tiếng chân và hơi thở đứt khoảng của tôi làm bóng người trên thành vực quay lại. Ánh trăng đủ chiếu sáng khuôn mặt người đàn ông Á châu, tóc phủ hơn nửa trán và đôi chân vắt về phía vực nước. Thân hình người đàn ông chơi vơi giữa khoảng không, chực rơi xuống đập nước.

               - Xin ông cẩn thận. Đập nước rất cao và nguy hiểm.

               - Dừng lại ! Dừng lại... Nếu không tôi sẽ buông tay.

            Giọng nói hốt hoảng, đầy đặc âm hưởng Á-đông. Tất cả sự việc xảy ra chớp mắt, bất ngờ. Tôi lúng túng, nói thật nhanh:

             - Xin ông bình tỉnh, tôi không quấy rầy ông đâu..! Tôi là người Việt Nam. Còn ông là người nước nào?

             - Cô là người Việt !

          Giọng nói tiếng Việt rõ ràng, sững sốt. Người đàn ông quay hẳn người lại, đối diện với tôi. Một thoáng yên lặng bao trùm. Ánh trăng sáng lạnh, soi rõ khuôn mặt tôi và người đàn ông. Đôi mắt ông chợt ngây dại, nhìn tôi đăm đắm, mê dại.

              - Cô là ai ? Cô thật là người..?

          Đôi môi ông mấp máy, lấp bấp như trong cơn mơ đồng thiếp. Trong mắt ông, đêm trăng tôi lộng lẫy như một giấc mơ huyền hoặc.

              - Xin ông yên tâm. Tôi là người... là người Việt thật mà! Ông hãy nắm tay tôi bằng da bằng thịt đây.

             - Nắm tay cô, tôi phải nắm lại cuộc đời. Đó là điều duy nhất tôi muốn từ bỏ. Vĩnh viễn từ bỏ, như nó đã khước từ tôi.

             - Cuộc đời khước từ ông, là cả đoạn đường dài... Còn ông chối bỏ nó một cách ngắn ngủi, khoảng khắc. Như vậy không công bằng. Ông đưa tay tôi nắm, nếu ông vẫn còn ý định từ bỏ đời nầy, tôi sẽ thả ông ra cũng không muộn!

             - Cô đừng mĩa mai tôi. Nắm tay cô hay không, là quyết định của tôi. Không phải của cô.

          

Tôi lặng lẽ đưa bàn tay về phía người đàn ông, chờ đợi. Chung quanh tôi chừng như chỉ là một khoảng trống mênh mông của nỗi đợi chờ. Người đàn ông di động chậm chạm, mơ hồ. Hơi lạnh của bàn tay xương gầy guộc, bấu vào những ngón tay tôi dài mềm mại. Khác với thân thể 'tàn tật' của ông, là đôi cánh tay rắn chắc đầy sức mạnh lạ thường. Giúp chuyển người đàn ông trở lại chiếc xe lăn, mà tôi có cảm giác chính  từ đôi cánh tay đó chuyển cả sức mạnh vào bản thân mình. Tôi đã nắm lại cuộc đời ông, hay tôi đang nắm lại cuộc đời tôi thân thiết. 

            Chưa bao giờ tôi ôm trọn vẹn cuộc sống vào lòng cho đến đêm nay. Người đàn ông ngồi trên chiếc xe lăn, gục đầu vào vòng ngực tôi khóc ngon lành, như đứa trẻ thơ. Những giọt nước mắt nóng hổi thấm vào lòng tôi nỗi hạnh phúc vô bờ. Tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc rối bời của ông như vuốt lại cuộc đời tôi thẳng tấp.

 

3.

                " Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng

                " Em là tôi và tôi cũng là em

                " Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo

                " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo

                " Tôi là ai mà còn khi dấu lệ

                " Tôi là ai mà còn chân gian thế

                 ...

                " Tôi là ai, là ai. Là ai, mà yêu quá đời này... (2) 

                                 

           Ngả đầu trên vai Phan, tôi hát khe khẻ. Cho anh và cho riêng tôi. Mấy tháng nay, vào những đêm có trăng tôi và Phan cũng gặp nhau trên đập nước. Tôi đã có lại mầm sống, anh đã có lại cuộc đời. Quá khứ và vết thương của anh vẫn còn đó, nhưng không là hố thẳm của cái chết. Tôi nói với anh, buông tay hoặc dứt bỏ bao giờ cũng dễ dàng hơn sự đối diện, đấu tranh. " Có Hằng, giấc mơ anh thiêu đốt cả đời nầy !", Phan thách thức. Tôi không hỏi lý do đêm hôm đó. Anh cũng không thắc mắc tôi là ai và từ đâu tới. Tất cả đều vô nghĩa cho niềm hạnh phúc chung quanh của anh và tôi. Sự tệ hại của đời sống hiện tại là chúng ta phải cố gắng, mọi cách để lý giải cho tất cả hiện tượng và bản chất. Khuôn mặt người đàn ông trên chiếc xe lăn trong đêm trăng là cả khuôn mặt tình yêu tôi chất ngất, không ngờ. Giọt nước mắt nóng hổi của Phan chừng như cuốn sạch trong tôi bộ mặt đời sống giả cưu mang. Anh liệt đôi chân, nhưng Phan có cả trái tim ngàn dặm. Tôi rực rỡ danh vọng như những bọt nước mong manh vỗ vào bờ đá tảng mọi nỗi tuyệt vọng không cùng. 

               - Làm sao phân biệt được giấc mơ và đời thật, Hằng nhỉ? Con người cũng hiện hữu trong giấc mơ như sống trong đời thật.

               - Giấc mơ là phân nửa cuộc đời trong bóng tối. Cuộc đời là phân nửa kia của giấc mơ dưới ánh sáng của mặt trời.

               - Với anh, Hằng là là sự hiện hữu của cả hai mặt.

             Ánh trăng mờ sáng soi rõ đôi mắt đằm đuối của anh đang nhìn tôi. Suốt thời gian qua, Phan và tôi chỉ chuyện trò, tâm sự những ước mơ thời bé dại, tuổi mới lớn và những nghịch cảnh mà định mệnh dành cho mỗi người chúng ta. Chưa bao giờ Phan đi xa hơn quan hệ đó, mặc dầu, tôi không có gì để gìn giữ với anh. Trong đáy mắt anh, tôi chỉ là một giấc mơ không có thật. Như đêm nay, những đêm đã qua và nhiều đêm sắp tới... Đêm càng sâu, trăng càng giăng màu sáng lạnh. Một niềm mong ước thoáng qua, tôi cởi vội quần áo trong nỗi kinh ngạc của Phan.

             - Em muốn tắm. Ở đây, ngay bây giờ !

             -  Hằng... Đừng nổi 'điên' như anh lúc trước. Đập nước hồ nầy không trong sạch, không xứng đáng cho thân thể của Hằng đâu !  Vã lại, đêm lạnh thế nầy, em tắm sao được.

             - Em có nói tắm nước bao giờ đâu. Đêm nay em muốn "tắm trăng" thôi !

          

Mảnh vải cuối cùng rời khỏi cơ thể tôi. Không gian trầm lặng, thời gian vỡ tan. Tôi quay lại, toàn thân tắm vàng ánh trăng trong ánh mắt dại khờ, chết ngất của Phan. Duỗi tay, tôi vuốt từng phần cơ thể mình, như đang xối gội trong giòng suối trăng lịm mát, vô ngần.

               - Tắm cho em đi Phan..!

               - Anh...

            Giọng nói Phan nghẽn đặc như hơi thở anh đứt khoảng từng nhịp khó khăn. Tôi nắm tay anh, di chuyển trên mắt, mũi, môi và xuống dần bờ ngực tròn săng đứng của tôi. Đã không còn nữa bến bờ sự sống. Đã mất hẳn rồi khoảng cách của sự thật và giấc mơ. Tất cả hoà tan, trộn lẫn, hồ như...

           Có môi ai cúi hôn đôi mắt tôi tơ lụa. Nụ hôn lướt nhẹ xuống bờ môi tôi hé mở, đợi chờ. Tôi hôn trả nồng nhiệt, quyện chặc bờ môi Phan nóng hổi. Khác với Khánh là sự chiếm ngự, cưỡng chế để đưa tôi đến cảm giác chất ngất của dục cảm. Phan nâng niu, trân trọng mọi xúc cảm trên từng phần cơ thể tôi dâng hiến. Với Khánh là một thói quen, với Phan là một ân sủng... Cuộc chiến tranh không để lại cho Phan sự mất mát của cơ thể. Vậy mà hoà bình đã lấy đi của anh mất nửa con người. Phan không oán trách cuộc sống, anh chỉ thất vọng tình người. Tai nạn rừng trong chuyến đi lấy gỗ, cắt lìa anh và tình nghiã vợ chồng bao năm nồng ấm. Chiếc vé tàu tìm tự do của vợ dành cho, cũng là mãnh giấy vĩnh viễn chia cắt đời Phan với tất cả tình yêu. Tình yêu vợ con và cả tình yêu quê mẹ. Vậy rồi anh cũng đến. Vậy rồi anh cũng sống. Đến đất nước nầy để sống trong chết và để chết trong cuộc sống không màng... Trăng tắm đẩm trên cơ thể tôi và Phan hoà nhập. Trăng trải rộng giấc mơ tuyệt vời trong mọi xúc cảm tràn bờ... Phan chậm rãi, trân trọng hiến dâng từng rung động của anh trên mọi vùng thịt da tôi cháy rực, hân hoan. Đôi tay anh cuốn hút. Cơ thể tôi tận cùng . Trăng đêm nay ngất ngây, vàng óng, vỡ tan.

 

4.

 

            Cuối cùng, Khánh và tôi cũng đi đến chung cuộc. Trong lần trình diễn tại thành phố Sidney bên Úc, tôi thấy mình khác hẳn. Tinh thần lẫn thể chất. Tôi vốn dễ xúc cảm, mũi lòng nay tính tình thay đổi bất thường nhiều hơn. Cáu kỉnh, gắt gỏng vu vơ và rơi nước mắt dễ dàng, không đâu. Ăn uống như 'mèo' và gần như sợ bửa, nhưng ngược lại, cơ thể tôi lại càng đẫy đà, nẫy nở. Giọng tôi không mất, nên chẳng gì làm tôi quan tâm... Cho đến những cơn buồn nôn mỗi sáng và nhớ ra mình mất kinh hơn cả tháng, tôi bắt đầu hoảng và đi khám bác sĩ. Kết quả không có gì ngạc nhiên, tôi có thai ! Bước ra khỏi phòng mạch, tôi thấy mình chơi vơi và nhẹ hẫng như lơ lững trên mây. Tôi cảm thấy có điều gì len lén chút hoang mang, chút hãnh diện và không biết mình phải vui hay buồn. Câu hỏi lớn trong đầu là, đứa con đầu lòng của tôi cưu mang, của Khánh hay của Phan đây ? Cuộc sống chừng như đã xây dựng cho tôi toà lâu đài của mọi thói quen. Tôi không còn điều khiển, làm chủ cuộc sống hằng ngày của mình đã quá lâu. Tất cả tùy thuộc vào người chung quanh. Tùy thuộc vào Khánh... Những đêm trăng huyền ảo với cuộc tình của Phan mang đến tôi nhiều ý nghiã đời nầy, nhưng vẫn chưa sắp trước mặt tôi con đường phải chọn.

           Giải pháp duy nhất cho tôi, là phải thú thật với cả Khánh lẫn Phan? Tôi không muốn bất cứ lựa chọn nào trong đời. Điều dễ hiểu, tôi chỉ muốn được và không muốn mất. Có lựa chọn nào mà không mất mát bao giờ. Tài năng và nhan sắc tôi đem lại nhiều tật xấu và cả sự can đảm. Tôi đang ở Úc với Khánh. Sau đêm hát thứ ba, tôi quyết định phải thú nhận với anh.

               - Khánh, em có chuyện quan trọng phải báo cho anh biết. Em đã có thai hơn hai tháng nay !

               - Hằng nói gì ? Em đã có thai, có thật chắc chắn không ? Hằng đi khám bác sĩ chưa ?

              - Rồi. Em có cả giấy thử máu và nước tiểu của bác sĩ.   

            Nói xong, tự dưng tôi thấy mình thật bình tỉnh, tự tin. Khánh không nói nhiều hơn, anh châm thuốc như mọi khi có điều suy nghĩ. Bàn tay Khánh run run kẹp điếu thuốc lá và hít thật sâu vào lồng ngực, trước khi thả từng đợt khói ra hai bờ cánh mũi thẳng, rộng. Khánh vẫn đẹp, thật đàn ông như thuở nào. Tôi vẫn yên lặng chờ đợi phản ứng của Khánh. Không gì ngạc nhiên trước thái độ suy nghĩ, đến độ tính toán của anh, kể cả trong lãnh vực tình yêu. Như một phản xạ. Như một thói quen của đời sống... Khánh vẫn yên lặng, không nói thêm gì và ra phía ngoài bao-lơn khách sạn tiếp tục hút thuốc. Yên lặng là một thái độ đối lập và thù nghịch của Khánh. Tôi cảm thấy hơi ân hận, hoang mang cho mọi chuyện xãy ra quá nhanh chóng. Tình yêu hay sự thỏa mãn, trả thù. Có nhiều trò chơi trong đời, tình yêu là trò chơi nguy hiểm nhất. Tất cả trò chơi đều có điểm chung cuộc, trừ tình yêu. Nó chỉ có bắt đầu và sẽ không bao giờ, không bao giờ có hồi kết cuộc. Tôi không tin, từ lâu, khi biết mình có nhan sắc xinh đẹp. Mẹ tôi cứ than phiền, thời bà thì cái nết đánh chết cái đẹp. Bây giờ, cái đẹp đạp tan mọi tính nết con người. Mỹ viện mọc lên như nấm. Vợ chồng đoàn tụ, chồng nhìn vợ không ra. Phụ nữ ra đường, nhìn nhau trầm trồ khuôn mặt với sóng mũi mới độn thật cao và đôi mắt mới cắt thật to. Chỉ còn bề ngoài, cái giả bề ngoài phủ lấp mọi giá trị tâm hồn bên trong... Nào ai đâu biết được, bên trong lớp nhan sắc rực rỡ của tôi là cả một khoảng trống cô đơn và nhiều thất vọng.

 

            Sáng hôm sau tôi thức dậy đã thấy tấm giấy nhỏ ghi lại vài hàng vội vã của Khánh. " Thu Hằng, anh có chuyện phải trở về trước. Em sẽ cùng đoàn về sau đúng theo chương trình dự định. Thành thật xin lỗi em. Gặp lại em sau. Anh, Đoàn Minh Khánh ".

 

5.

 

               Sương bắt đầu xuống mờ lạnh, phủ đầy. Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay tôi hiện rõ, đã bốn giờ sáng. Tôi ngồi trên bờ đập đá đợi Phan hơn ba tiếng đồng hồ. Chưa một lần anh đến trể, bao giờ cũng trước giờ tôi đến. Mỗi đêm trời trăng sáng, cho dù tôi có đến hay không, anh vẫn ngồi trên bờ đá đợi chờ. Phan luôn luôn là người đợi những giấc mơ có thật đời mình. Từng đêm, đến sáng. Không sót một lần. Vậy mà ba đêm nay, mình tôi, ngồi đây ngóng chờ. Phan không đến. Không một dấu vết. Không một tăm hơi. Vầng trăng vẫn còn đây một thuở mà tôi đã nghe tiếc nhớ mấy mùa. Như mới hôm qua. Như mới giây phút nào. Tôi vẫn rực rỡ, sáng ngời sao vầng trăng vẫn hững hờ ngả bóng..?

           Từ Úc trở về tôi chưa kịp định thần thì luật sư của Khánh gọi tôi trong máy nhắn tin. Rằng Khánh đang chờ tôi dọn ra khỏi nhà anh, trong vòng bốn mươi tám tiếng. Tạm thời Khánh ở tạm tại một khách sạn nào đó. Rằng mọi giấy tờ chính thức ly thân đang tại văn phòng và xin mời tôi đến càng sớm càng tốt, cho cả đôi bên... Tôi vội vã đến ngay văn phòng luật sư của Khánh. Ông giải thích rất ngắn gọn, rõ ràng. Tôi phạm tội ngoại tình trong lúc có chồng. Khánh chính thức ly thân và chờ thời gian ly dị. Lý do, Khánh đã cắt ống dẫn tinh một năm trước khi làm đám cưới với tôi. Chứng từ hợp lệ, đầy đủ... Tôi lặng người, thờ thẩn. Khánh chưa hề nói đến. Tôi chưa biết bao giờ. Cuối cùng, anh vẫn là anh, tôi vẫn là tôi. Hai vòng tròn, hai cuộc đời cạnh bên nhau không cùng giao điểm. Nhưng dù sao, tôi cũng biết được bào thai trong tôi là của Phan. Chắc chắn của Phan !

            Tôi dọn ra ngoài không lời than van, không tiếng tạ từ. Tôi mất Khánh để được lại tôi? Hay tôi đã mất tôi như chính ánh trăng trôi giữa giòng đời. Tôi không có câu trả lời, mãi mãi không có câu trả lời. Như đêm nay, đã ba đêm, tôi không còn có ai để đợi, để chờ. Tất cả rồi cũng qua. Tất cả rồi cũng xa. Chỉ còn lại tôi, đêm trăng tàn lạnh và ngày mai sẽ đến. Là gì, khi tất cả với tôi đều vô nghiã..?

           Phan đã trở lại cuộc đời thật của anh. Hay chính anh không muốn sống mãi trong giấc mơ trăng lạnh, để tàn. Với Phan, anh lăn chiếc xe qua đời tôi và không dừng lại giữa đời... Với Khánh, tôi không giữ được anh hay tôi không giữ được chính tôi? Nhan sắc tôi cho ai, tiếng hát tôi vì ai nếu không phải cho đất trời nầy quá rộng? Muôn ngàn vì sao chợt từ đâu, băng thành dãy ngân hà xuống tận giữa trời. Tôi đặt tay lên bụng, giấc mơ trăng của tôi là đây, có thật. Tôi ơi, con ơi, ta là ai mà đến với đời nầy? Hệ lụy, mong manh.

           

Bước lên bờ đập đá, tôi đứng thật cao, chất ngất trên cuộc đời cô quạnh, cuối đêm trăng. Khán giả không còn ai. Sân khấu màn đã hạ. Tôi sẽ cất tiếng hát, một lần, một lần để tôi đi và cho tôi về vô lượng đất trời.    

 

               "... Trong khi ta về lại nhớ ta đi

               "  Đi lên non cao, đi về biển rộng

               "  Đôi tay nhân gian chưa hề độ lượng

               "  Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì... (3)

 

            Thân thể tôi bay bổng, tuyệt vời. Ngọn gió phương nào đang thổi ngược, tung bay bờ tóc tôi xanh, xuyên suốt mấy mùa...

 

                                                            Nguyễn Vĩnh Long

                                               

(1) "Phôi Pha", (2) "Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng" và (3) "Một Cõi Đi Về" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

 

_______________________________________________________ 

Trăng

Giữa

Ban Ngày

 

 TL_Moon_2.jpg

 

 

1.

 

               Cơn mưa hắt lên mùi bùn hôi nồng nặc từ con kinh đen ngòm phía dưới nhà sàn. Tánh trằn trọc, không ngủ được. Phần lạ nhà, phần tiếng cười nói ồn ào vọng lại phía trước. Nó không hiểu sao người ta có thể sống chui rúc ở đây, chớ đừng nói chi đến việc ăn uống. Buổi chiều mới tới, ra tắm phía sau nó phải nín mũi, ọi lên ọi xuống mấy lần đến chảy nước mắt. Bên dưới nhà tắm là dòng kinh nước đen bùn sền sệt, đầy rác rưới. 

NgVLong_Nhasan.jpg

Tô hủ tiếu có miếng bánh tôm chiên là món ưa thích nhất, nó cũng ráng nuốt qua loa cho đở cào ruột. Đến tối, chị Ánh đưa mền gối  dặn nó, mới lên đường xa nên ngủ sớm và nhớ đừng đi lang bang ra nhà phía trước ban đêm. Tánh gật đầu, nhắm mắt rồi nằm trăn trở cho tới bây giờ. Nó thắc mắc không biết đã mấy giờ mà chung quanh vẫn còn tiếng người ăn uống, cười giỡn. Nghiêng tai một bên, nó chợt nghe như có tiếng mưa rào rạt bên ngoài. Tự dưng nó muốn về nhà, ngay bây giờ. Tánh muốn nằm trên cái chõng tre quen thuộc và cuộn tròn trong cái mềm chỉ ngã màu của nó mỗi đêm trời đổ mưa...

            

Nó giật mình tỉnh giấc bởi tiếng cải vã và đồ đạc đổ vỡ. Tánh không hiểu mình đã chợp mắt tự bao giờ. Tiếng khóc của người đàn bà mỗi lúc một rõ. Rồi giọng quát tháo nhừa nhựa của người đàn ông:

               - Đ.m. mầy làm đĩ thiên hạ chưa đủ sao còn dẫn thằng con nít về ngủ nữa..!

              - Anh say quá, nói bậy không hà... Tánh là người hàng xóm, mẹ em nhờ lên gặp em có chút chuyện nhà... Khuya rồi, anh la lớn quá hàng xóm báo cảnh sát thì phiền lắm.

              - Đ.m., tao chấp đó. Thằng nào dám gọi cảnh sát, tao đâm lòi ruột cho biết mặt.

              - Anh ngủ đi cho khỏe. Mai thức dậy muốn gì em cũng chiều hết.

              - Hổng mai mốt gì hết. Đ.m. đừng làm bộ... Tao muốn làm liền bây giờ. Còn sáng mơi, tao hổng muốn thấy bản mặt thằng nhỏ đó nữa. Nghe chưa... Đ.m. đưa tao cái bọc áo mưa rồi cởi quần ra. 

             Không còn tiếng cải vã của chị Ánh và người đàn ông. Vài con mèo đói lang thang trên mái nhà, kêu gào thảm thiết. Tiếng vạt giường, tiếng thịt người dội lên, dồn dập... Tự dưng nước mắt Tánh ứa ra, ướt mặt gối. Không hiểu tại nó nhớ nhà hay khóc thương thân phận chị Ánh. Mười bảy tuổi, chưa lần đi xa khỏi huyện nhà, nó nào hiểu được cuộc đời đen tối, dơ bẩn còn hơn vũng chân trâu. Tánh nghiêng mình cấn cây viết máy Pilot chị Ánh mua cho nó hồi chiều. Cây viết có khắc cả tên Tánh và chị Ánh. Chị muốn nó học giỏi, nay mai trở thành người hữu ích cho xã hội, hãnh diện gia đình, làng xóm trong đó có chị. Tánh mắc cở, chỉ biết lí nhí cám ơn. Chị và Tánh chụp chung một bức ảnh làm kỷ niệm. Nghiêng đầu vào vai Tánh, nó không còn nghe mùi chanh thoảng ra từ tóc chị nữa. Mùi dầu thơm và nắng gió cuộc đời đã thay vào đó, quyện từng sợi tóc ngày thơ. 

            Tánh nâng niu cây viết máy, mùi thơm bàn tay chị vẫn còn phảng phất đâu đây. Nó áp vào má, hít từng hơi dài, nhắm mắt và quên đi cả mùi tanh nồng của dòng kinh đen phía dưới.

 

 

2.

              

Nhà chị Ánh phía dưới đầu cầu Dừa. Con rạch chia làng Tánh ra làm hai phía. Một bên đất làm ruộng, bên kia là những mương vườn thẳng tắp trồng đủ loại hoa quả và cây ăn trái. Cha chết sớm, mấy mẹ con chị sống bằng nghề bán xôi, chè bắp mỗi buổi chợ. Trong làng ai cũng gọi mẹ chị là bà Sáu xôi bắp. Con gái lớn, năm lớp bảy Ánh đã bỏ trường theo mẹ tần tảo nuôi nấng đàn em. Đối diện phía bên kia cầu là nhà Tánh. Gia đình nó làm ruộng nòi, đất đai bề bề mấy đời nội tổ. Sau chính sách người cày có ruộng, gia đình Tánh chỉ còn mấy chục công đất ruộng hương hỏa phía sau nhà. Tía nó nhìn xa, thúc đẩy con cái học chữ, lấy đó làm nghề. Chị Ánh lớn hơn Tánh vài ba tuổi, nhưng trước mặt chị, nó thấy mình còn con nít nhiều lắm. Có lẽ tại chị đẹp, đẹp nổi tiếng cả làng. Phần mồ côi cha, ra đời sớm Ánh như loài hoa dại nở rực rỡ, hoang vu giữa chốn đồng nội. Sáng nào trước khi đạp xe lên trường huyện Tánh đều ghé chị Ánh mua xôi. Không ăn nó cũng mua gói theo cho buổi trưa. Chị Ánh luôn dành nhiều tình cảm đặc biệt cho nó. Lần nào chị cũng múc xôi nhiều, cho thêm nước cốt và kèm theo nụ cười thật tươi tắn. Năm lớp tám, mười bốn tuổi, Tánh bắt đầu thấy mình khan khác. Giọng nói nó đục khàn khàn, chân tay lòng thòng thừa thải và mặt bắt đầu lốm đốm mụn. Mỗi lần gặp mặt chị Ánh, Tánh cảm thấy lúng túng, ngượng ngùng. Tối nào học bài khuya, trước đi ngủ, nó đều ra phía sau hè ngóng nhìn qua ánh đèn nhà chị, bên kia con rạch nhỏ. Tự dưng Tánh mong trời mau sáng để được nhìn thấy nụ cười dễ thương của chị.

 

            Qua mùa khô, lúa đã vào bồ, tía má Tánh bắt đầu đốt chân rạ mấy công đất để làm rẩy. Giá lúa không lên, tía nó cắn răng phá mấy công ruộng gần nhà, lên vồng trồng dưa hấu. Mấy năm gần đây nghề trồng dưa trong làng phát triển dữ dội. Sau một mùa Tết, nhà nào cũng dư tiền mua sắm đồ đạc, ghe máy và cả máy truyền hình chạy bình. Không phải nghề chân truyền, nhưng tía nó sáng dạ, biết đất biết phân, chắc bẩm cũng thành tiền thành bạc. Giữa lúc đó thì trên chợ huyện tổ chức đại hội. Dù công việc chưa xong, tía nó cũng trả tiền công cho anh em Tánh đi coi hát. Tánh nghĩ ngay đến chị Ánh, rủ và bao chị đi coi đại nhạc hội. Nhưng sáng nào gặp mặt, Tánh cũng không nói được thành lời. Cuối cùng Tánh đành lủi thủi đi một mình.

            Chương trình văn nghệ đầy tiết mục hấp dẩn nhưng Tánh vẫn lãng đãng, thờ ơ. Vãn hát, nó lang thang vòng quanh chợ huyện. Mấy hàng quán dọc bên đường đang chuẩn bị dọn dẹp, đóng cửa. Mọi người tản về các làng với nhiều phương tiện khác nhau. Ghe, xuồng, đò máy và thắp đuốc đi bộ. Tánh mang theo mấy bó đuốc, dấu ở lộ đá trước khúc rẽ vào làng. Gió đêm xào xạc, mang theo hơi nước dọc theo mé sông. Nó ngước nhìn lên, bầu trời đen nghịt không thoáng một vì sao. Không chừng trời sắp đổ mưa. Cả tháng nay khô hạn, tối ngợp sao trời. Đợi đến nay nó đi coi hát, trời mới đổ mưa cho đáng.

               - Tánh... Phải Tánh hông, đợi Ánh chút.

            Đúng là tiếng chị Ánh, hay xưng tên với nó. Tim Tánh đập thình tịch, chân tay nó lạnh hết.

               - May quá, theo Tánh kịp. Về một mình, lại gần mưa, Ánh sợ chết quá.

               - Chị đi một mình sao...

               - Đâu dám. Với chị Xuyến. Nhưng chỉ chưa chịu về liền, mà còn ghé ăn hàng với đám bạn trên trường huyện. Ánh phải về, mai còn thức sớm nữa.

            Đi bên cạnh chị Ánh, Tánh rộn ràng khó tả. Nó không biết nói gì thêm, đếm từng bước chân mình trên lộ đá. Mùi hương chanh dìu dịu tỏa ra từ mái tóc chị thoang thoảng trong đêm. Tới gần khúc rẽ vào làng thì gió bắt đầu thổi mạnh. Hai bó đuốc dài vẫn còn đó. Chị Ánh giúp Tánh một tay mồi lửa. Lần đầu tiên nó chạm bàn tay mền mại, âm ấm của chị. Dưới ánh đuốc, khuôn mặt chị Ánh sáng hồng, đẹp hơn bao giờ hết. Nó vừa đi vừa quơ bó đuốc soi đường. Vài khúc nhiều mô, đất gồ ghề chị Ánh sợ vấp nắm lấy tay nó.

               - Tánh đi chầm chậm lại nghen. Ánh theo hổng kịp, vấp té chết.

            Nó đi chậm lại. Chị vẫn nắm chặc tay nó không buông. Khuôn mặt chị thật gần, vài sợi tóc loà xoà vướng qua má Tánh.

               - Mai mốt Ánh đi xa, Tánh có nhớ chị hông ?

               - Chị đi đâu ? Nó ngạc nhiên hỏi nhanh.

               - Má định gửi Ánh lên trên tỉnh, nhờ người bà con kiếm công việc làm khá hơn. Bán xôi bắp vầy hoài, không đủ tiền sinh sống. Không chịu cũng không được. Đành thôi Tánh à... Đi xa chắc Ánh nhớ làng mình và nhớ Tánh lắm..!

            Tại sao chị phải đi xa, Tánh không hiểu. Nhưng tự dưng nó buồn muốn ứa nước mắt. Rồi mai mốt, trước đi đạp xe lên trường huyện mỗi sáng, không còn ai gói cho nó gói xôi đặc biệt với nhiều nước cốt dừa. Mỗi đêm học bài khuya, Tánh không ai để nó háo hức đợi ngày mai gặp mặt. Tánh đi nép vào chị gần hơn. Gần để đủ nghe từ chị, một mùi thơm kỳ diệu thoáng ra, ngây ngất. Mùi thơm của bộ đồ mới và da thịt chị. Tự dưng Tánh thấy mình lớn hẳn ra,  muốn che kín những cơn gió thổi lạnh bờ vai chị. Đâu hơn nửa đoạn đường, vài hạt mưa rơi thấm áo Tánh.

               - Chết rồi, trời mưa Tánh ơi. Chắc về không kịp quá.

               - Không sao. Tháng nầy chắc trời mưa hổng lớn đâu.   

            Tánh dứt câu chẳng bao lâu thì mưa rào lên, lớn hột. Không ai bảo ai, cả nó lẫn chị Ánh đi nhanh như chạy, nhìn quanh tìm chỗ trú. Cũng may gần đó có cái quán nhỏ bên đường. Ánh lửa bập bùng từ bó đuốc soi mặt quán che tạm bởi tấm bạt, chừa khoảng hiên hẹp phía ngoài. Cả hai chạy lùa vào trú. Bó đuốc lịm tắt. Mưa tạt từ bên hông dữ dội.

               - Tánh nép sát vào đây, ướt hết.

            Giọng chị Ánh khàn khàn. Tánh nép sát vào. Hơi ấm từ da thịt chị tỏa lan, truyền sang. Bờ ngực mềm mại, áp vào bờ lưng nó. Tánh bâng khuâng, nhột nhạt. Nó nuốt nước miếng khó khăn, ao ước trong đầu. Phải chi nó lớn hơn chị Ánh, Tánh sẽ ôm lấy và che chở cho chị lúc nầy. Không biết lúc nào, má Tánh kề vào má chị. Tánh nghe hơi thở chị nóng hổi, thơm mùi dìu dịu. Nó nghĩ tới trái mận hồng đào nhà ngoại nó trồng, nở lứa đầu mùa. Lờ mờ trong bóng đêm, Tánh lén len quay qua, mong nhìn thấy mặt chị. Nó chợt hốt hoảng khi đôi môi ướt lạnh của nó chạm vào bờ môi hé nhỏ của chị. Ngoài hiên, có tiếng chớp rền vang, như xé đêm mưa. 

 

3.

  Tánh choàng tỉnh giấc. Miệng khô đắng và tê tẩm một bên mình. Trời vẫn chưa sáng. Không biết Tánh chợp mắt lúc nào, mộng mị chập chờn. Nó khẻ trở mình thì chạm bờ vai ai nằm bên cạnh. Chị Ánh. Tim nó đập lên thình thịch. Không biết chị Ánh vào ngủ bên nó tự lúc nào. Còn thằng đàn ông khốn nạn đánh chửi chị đâu rồi. Nó ngủ say hay đã bỏ đi. Hơi thở chị Ánh đều và nhẹ. Chắc chị đang ngủ say. Nó không dám nhúc nhích, chỉ mở đôi mắt thật lớn nhìn qua. Khuôn mặt chị trong giấc ngủ say, hồn nhiên và thật đẹp. Sóng mũi thon dài theo phía dưới đôi chúm nhỏ, hơi hé mở, chị giống như mấy hình vẽ trong tập truyện bằng tranh. Cái giường không rộng, lại cũ, thở mạnh cũng cong mình kẽo kẹt. Chị Ánh mở mắt, bắt gặp Tánh đang nhìn mình đăm đắm. Chị nghiêng qua, cười nhẹ:

               - Nhà lạ, ồn ào. Khó ngủ phải hông Tánh.

               - Dạ...

               - Thằng chả đi rồi, Tánh không phải sợ nữa.

               - Tánh không sợ. Nhưng tại sao chị phải sống với hắn.

               - Một ngày nào đó, lớn lên, Tánh sẽ hiểu. Bây giờ, Ánh chỉ muốn Tánh đừng khinh ghét chị.

               - Không, Tánh không ghét. Tánh thương... Về lại quê mình đi chị.

               - Quá trễ rồi. Ánh không còn xứng đáng với gia đình, làng xóm mình nữa.

            Giọng chị Ánh trũng nước. Tánh bối rối không biết làm gì. Trong bóng đêm, chị Ánh dụi đầu vào nó, nức nở. Dòng nước mắt nóng hổi thấm vào da thịt Tánh, như những mũi kim đâm sâu tâm hồn nó tơi bời. Đưa tay vuốt mái tóc mượt dài, dỗ dành chị đừng làm nó phải khóc theo. Chị Ánh ngước lên, kéo mặt Tánh lại gần và hôn nhẹ lên hai má nó. Vệt nước mắt vô tình của chị vướng khóe môi Tánh mằn mặn. Tánh hôn trả lên má chị, như một phản xạ tự nhiên.

               - Con trai lớn mà không biết hôn gì hết.

            Chị vừa nói vừa cười khúc khích. Đôi môi ấm áp chị Ánh áp vào môi nó. Tánh ngây ngất khi đầu lưỡi chị chạm đầu lưỡi nó quấn quít. Chị kéo bàn tay Tánh đặt trên bờ ngực. Trái vú chị mềm mại, no nê. Tánh ghì chặc hai tay vào đôi bờ xúc cảm. Chơi vơi, cuộn chảy. Con sông nhỏ quê Tánh đang uốn mình qua khỏi khúc sông bồi. Nó mở rộng, chảy thiết tha hơn về phía sông cái lớn, sắp chuyển mình ra biển. Nước con sông ngọt dịu, đục màu phù sa chợt chan hoà với lòng biển đời xanh mặn. Cửa cuộc đời quá hẹp cho những tâm hồn trắng trong, chân thật. Vòng tay con người không rộng lượng bao giờ. Chỉ có nước mắt và má môi của chị tạo cho Tánh bao nhiêu mơ ước đời nầy. Nó đang chơi vơi như con diều trên cánh đồng lộng gió quê nhà. Tánh bở ngỡ, vươn vai trở thành một dòng sông lớn, cuốn trôi bao nỗi khổ đau của chị đêm nay.  

               - Tánh ơi..!

            Tiếng kêu thảng thốt của chị Ánh từ nghìn trùng vọng lại. Có vầng trăng vằng vặc tuổi thơ, trải vàng niềm hạnh phúc vô biên trên thân thể của Tánh và chị. Đêm sắp tàn và ngày mai đang xô đẩy bao kiếp người phía trước.  

 

 

4.

           Buổi chiều tháng tư, bầu trời thành phố Huntsville, Alabama thấp và nhiều mây. Mấy ngọn đồi thấp, xanh mướt nối nhau như căng thành một chiếu võng đong đưa những con đường xa lộ đan nhau theo mùa gió. Người đàn ông cho xe chậm lại vào bãi đậu. Hampton Inn, cái khách sạn đã vài lần ghé, tạo cho người đàn ông cảm giác dễ chịu hơn sau mấy giờ bay dài. Một laptop xách tay, một chiếc va-li kéo tay là hành trang quen thuộc cho những chuyến đi xa.

               - Hi, tôi có đặt phòng trước. Tôi họ Nguyễn, tên Tony. Tôi sẽ ở lại cho đến

hết tuần.

            Bà Linda, phụ tá quản lý người da trắng nhận ra Tony ngay. Vài lần trước ghé Huntsville cho mấy buổi họp ngắn ngũi, Tony cũng gặp bà. Đưa thẻ chìa khóa, bà cũng không quên nhắc Tony khách sạn cung cấp điểm tâm mỗi sáng miễn phí. Tóc hoa râm, nhưng dáng dấp ông vẫn còn nhanh nhẹn, tự tin. Tony buông người xuống mặt nện, chơi vơi. Những căn phòng khách sạn bày trí nhan nhản giống nhau, cô đơn và nhàm mắt. Phía bên ngoài khung cửa sổ, nắng đã xuống thấp màu vàng nhạt. Ngày mai là những buổi họp, những công việc quen thuộc đang chờ ông. Sự tái lập của đời sống xứ nầy cho những phát triển không ngừng của nền văn minh kỷ thuật, nhưng lại là những đọng vũng, khô cạn dần cho biết bao nhiêu sông nước tình người. Những dòng sông tâm hồn ông muộn phiền, không chảy. Những vời vợi trời xanh dĩ vãng không mây. Bủa vây, tù hãm. Lòng người cửa đóng, then cài. Đời sống chính ông cũng hóa trang nhiều mặt. Dè dặt, bề ngoài, giả tạo trở thành phản xạ tự nhiên trên mọi mặt phẳng cuộc đời. Tony nguội lạnh dần những háo hức ban đầu cho những vùng đất mới. Mỗi nơi, một thành phố hay một huyện hạt hẻo lánh với những tên gọi lạ tai, trước tiên ông đều mở cuốn giám điện thoại tìm những họ phổ biến của đồng hương ông. Những Nguyễn, Lê, Trần,... Để nói lời hỏi thăm, làm quen bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của ông. Đáp lại là, những giọng nói nhát gừng, thoái thoát hay khước từ cả nguồn gốc cha ông. Họ nói bằng thứ tiếng mẹ xa lạ, lạnh lùng, mù mù hàm ý. Ông bỏ điện thoại xuống, lòng chùng nỗi thất vọng, đắng cay. Từ đó, những chuyến đi xa, Tony không còn thói quen tìm kiếm tình đồng hương đó nữa. Tiếng điện thoại reo. Đầu dây kia là tiếng quen thuộc của người đàn bà da trắng:

               - Hi Tony, Liz đây. Anh tới lâu chưa. Chuyến bay thế nào, có thoải mái không ?

               - Cám ơn Liz. Mọi chuyện cũng tốt đẹp, ổn thỏa.

               - Tôi muốn mời anh cùng đi ăn tối. Một tiệm ăn Ý tôi biết rất nổi tiếng về đồ biển.

            Giọng người đàn bà mời gọi. Liz tuy không chung nhóm với Tony, nhưng là nhân viên quản lý thương mại cao cấp của công ty. Là cố vấn kỷ thuật, Tony thường đi cùng với Liz cho những hợp đồng thiết kế quan trọng. Người đàn ông Á-đông trí thức, gần năm mươi, không gia đình vợ con là điều tò mò hiếu kỳ của những người đàn bà bản xứ làm chung. Qua sách vở, tài liệu phong tục tập quán Á-châu, con trai lớn lên không cưới vợ vì tình yêu cũng phải vì " mối lái ". Chưa kể là cổ lệ tục truyền, trai năm thê bảy thiếp. Địa vị và sự thành công của Tony lại là mục tiêu của những dòm ngó nhiều hơn. Liz là một trong những người đàn bà da trắng tò mò đó. Chưa tới bốn mươi, một đời chồng, Liz trải qua nhiều kinh nghiệm của tình ái. Người đàn bà nầy không chỉ muốn nhìn ngắm, mà nhập cuộc. Cuộc phiêu lưu tình cảm không mất mát phần ai. Cuộc vui tự nguyện và luôn mở rộng cửa sau cho những chán chường. Với đôi mắt xanh lơ tóc hoe vàng, bờ ngực vung đầy mời gọi, Liz chưa từng thất bại trên tình trường. Nàng đến với Tony tự tin, " quyết thắng ". Lần đầu tiên trong đời Liz vấp ngả, chới với trước một người đàn ông " thiểu số ", thẳng thắn và từ tốn. Tony bước vào phòng ngủ nàng như dạo chơi trong khu rừng cấm lạ. Không vội vã chiếm đoạt, không thêu thân theo từng phút giây tàn lụi.

Những người đàn ông khác đến với Liz là như vậy và chỉ có như vậy. Môi hôn nhộp ngạt, sự tham lam trên bờ ngực và cuối cùng là sự biểu hiện lòng kiêu hãnh, chiếm đoạt nghèo nàn của họ. Có ba nơi để người đàn ông biểu lộ bản năng của họ: tiệc rượu, sòng bạc và lúc làm tình... Để ngày mai không muốn thấy mặt. Để gặp lại là nỗi dửng dưng, lạnh lùng. Nàng bày da thịt cuộc chơi, họ cũng giả dối tìm vui phút chốc.

            Tony khác. Ông trân trọng trên từng phần da thịt Liz. Ông chậm rãi gần đến hững hờ. Tony đưa nàng đến tận cùng mọi khoái cảm, ngất ngây. Để ngày mai họ mong gặp mặt nhau. Bên quan hệ tình dục đời thường, họ còn cả tình người rộng lượng. Ông một mực chân tình, trân trọng những tình cảm tốt đẹp của Liz như một tặng phẩm hiến dâng. Rồi mỗi người có một vòng tròn trong đời sống họ. Giao điểm chính là mặt đời sống hiện tại, với bao đẩy lùi của quán tính riêng tư. Những phát triển vượt bực của khoa học hiện đại làm trái đất chúng ta thu nhỏ lại. Nhưng lòng người cũng từ đó, chật hẹp hơn ?  Ông quý trọng giao điểm có được với người đàn bà bản xứ. Liz cũng quên mất màu da trong quan hệ tình nhân. Như bao nhiêu người đàn ông Việt Nam khác, Liz nghĩ, họ đã trải qua những chặng đường lịch sử khổ đau, hùng tráng nhất, phải sâu kín bên trong là những hệ lụy vượt khỏi đời thường. Liz càng bị ông chinh phục bởi những vết thương thầm kín trong lòng. Họ là bạn chân tình ở những phía nhìn nhân bản đó.

            Nhưng chiều nay Tony chợt lười biếng cho lời mời gọi của Liz. Ông đang cần sự yên tịnh và niềm cô đơn riêng tư.

               - Cám ơn Liz. Tôi rất ân hận là vừa ăn lở buổi ở phi trường Dallas, vẫn còn no. Chúc Liz buổi ăn tối vui vẽ, ngon miệng.

               - Không có gì. Tony cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Hẹn gặp lại sáng mai ở phòng thử nghiệm.

            Ông đã nói dối. Từ sáng đến giờ ngoài mấy ly cà-phê và bánh ngọt trên phi cơ, Tony chưa có bửa ăn trọn vẹn. Bụng ông cũng đang đòi hỏi phần mình. Một buổi tối cơm Tàu, vì ông biết chắc thành phố nầy không có một quán ăn người Việt. Một buổi ăn yên tịnh, lặng lẽ cũng là niềm hạnh phúc, đôi khi. Ông quý mến Liz, nhưng cũng cần những khoảng cách. Tony rời khỏi phòng, buổi chiều không còn nữa.    

 

            Tiệm ăn Tàu, China King, nằm khiêm nhường ở một góc đường nhỏ. Ghế bọc và khăn trải bàn đều màu đỏ thêu rồng phượng. Khách ăn hơn phân nửa tiệm. Tony gọi một dĩa đồ xào biển và cơm trắng. Ngụm trà đá cuối ngày làm ông dễ chịu và tỉnh táo hơn. Ông cảm thấy có chút gì quá đáng trong những đối xử với Liz. Người đàn bà da trắng, già nhân ngải non vợ chồng. Liz đến với ông hoàn toàn tự nguyện và tự do. Sự ràng buột duy nhất của họ chính là mối chân tình ở mỗi người. Ông không hứa hẹn, giả dối để lợi dụng sự thỏa mãn thể xác. Liz không cần phải bày vẽ cho một cuộc chơi. Họ đã đủ trưởng thành để hiểu được giá trị của thời gian, của định mệnh cuộc sống dành cho con người. Những khuôn mặt bề ngoài đã làm họ mất quá nhiều thời gian để sống. Rữa sạch bộ mặt tâm hồn, làm bộ mặt thể chất của họ trong sáng và quý giá hơn. Họ giữ lại trái tim và cho nhau cuộc sống.

               - Thuận muốn ăn gì, shrim hay chicken ? 

               - Con muốn both.

               - Ok. Còn anh ?

            Giọng nói tiếng Việt chen lẫn tiếng Anh của phụ nữ và trẻ con từ phía sau làm ông chợt ngẩn người. Một gia đình trẻ người Việt Nam ? Không kềm được sự tò mò, ông quay lại như một phản xạ không kềm chế được. Họ, cả ba, còn thật trẻ. Người thanh niên ngồi đối diện ông, chạm mặt, khẻ gật đầu chào. Ông lúng túng, mĩm cười đáp lại.

               - Chú là người Việt.

              Người thanh niên tiến đến bàn ông, giọng cởi mở. Ông đứng dậy, bắt tay anh, vui mừng.

               - Dạ. Tôi người Việt... Tôi tên Tánh, từ North Carolina đến đây công tác.

               - Em tên Sơn. Nhìn chú, Sơn biết là người ở xa đến.

            Vừa lúc người bồi bàn mang thức ăn ra cho ông. Sơn nói nhanh:

               - Hay là chú Tánh dời qua ngồi chung bàn với vợ chồng Sơn luôn.

               - Được vậy thì vui quá.

            Sơn giới thiệu ông với vợ con. Hồng, tên vợ Sơn, có khuôn mặt đẹp dịu dàng và nụ cười thật tươi. Nụ cười làm ông ngẩn ngơ thoáng chốc.

               - Gia đình Sơn cũng mới dọn đến thành phố nầy vài tháng nay. Chú đến đây lần đầu.

               - Không. Lần thứ ba rồi. Tôi đến thiết kế trạm viễn thông không gian cho Space Shuttle Assembly Center.

            Sơn hớn hở cho biết anh cũng làm trong đó, bộ phận lưu trử, database. Hồng ít nói hơn, lo chăm sóc thức ăn cho con. Thỉnh thoảng nàng chỉ đóng góp vài nụ cười dè dặt, cho đầm ấm bửa ăn. Đôi lần ông cũng bắt gặp ánh mắt Hồng len lén nhìn ông ngờ ngợ. Sơn thì nhanh nhẹn cho biết có khoảng hơn trăm rưỡi gia đình người Việt ở rãi rác chung quanh thành phố Huntsville. Hầu hết làm cho trung tâm không gian Nasa và trung tâm viễn thông quân đội Hoa Kỳ. Cả ông lẫn vợ chồng Sơn đều vui mừng gặp được người đồng hương nhưng họ giữ nhiều khoảng cách. Hai thế hệ chừng như có cùng kinh nghiệm cho những nhiệt tình hân hở ban đầu sẽ đem đến họ những phiền muộn về sau. Đã trở thành một thứ qui ước tự nhiên. Ông vẫn còn nghĩ ngợi trong nụ cười của Hồng. Bửa ăn cũng kết thúc, bé Thuận phải ngủ sớm cho nhà trẻ ngày mai. Nhịp sống không đợi ai, nên họ phải chạy theo cho kịp con số thời gian vật lý. Sơn ghi vội cho số điện thoại nhà và chỗ làm. Ông hẹn với vợ chồng Sơn buổi cơm chiều ngày mai. Họ vui vẽ nhận lời. 

            Ông Tánh ngồi vào xe vẫn mông lung về nụ cười của Hồng. Ông đã gặp rất nhiều nụ cười, nhưng chưa bao giờ ông bị ám ảnh như hôm nay. Moi hết tận cùng trí nhớ, ông cũng không tìm được một giải đáp nào cả. Đã gặp đâu chăng nụ cười thật tươi nầy, đời ông ? Trí nhớ ông chợt trở nên tồi tệ. Ông lắc đầu, đành chịu. Cho xe ra đường lớn, về phía khách sạn, ông Tánh quên cả mở đèn xe. Đêm chơi vơi, bắt đầu. Ông thở dài, thẩn thờ dõi mắt tìm một vầng trăng. Bầu trời đêm thấp và đen mờ mịt.

 

Hơn nửa đêm, cả nhà đã ngủ say. Nàng lặng lẽ, nhẹ tay kéo mấy cuốn album trong hộc tủ, ôm ra phòng khách. Nàng trằn trọc không ngủ được vì khuôn mặt, nhất là ánh mắt của người đàn ông đứng tuổi tình cờ gặp trong bửa cơm chiều. Đôi mắt tự tin, tha thiết nhìn nàng như quen biết thuở nào. Nàng đã gặp ông ta ở đâu rồi chăng ? Cái nút ruồi thật đậm dưới đuôi mắt trái của ông ? Chắc chắn là không. Vậy mà nó theo nàng đuổi nàng đến tận bây giờ. Dưới ánh đèn, nàng dỡ từng trang trong cuốn album dầy cộm. Từng trang thậm trọng lướt qua. Không một dấu vết. Cuốn thứ nhất. Cuốn thứ nhì. Con nhỏ lẩm thẩn quá chừng. Người dưng lạ quắc, bắt họ hàng làm thân. Nàng tự cười mình, hờ hững lướt qua cuốn album khác. Thôi cũng lở mất ngủ, lâu lâu nhìn lại hình ảnh xưa cũng thú vị... Cuốn album cuối cùng xếp lại, nàng thẩn thờ ngã người xuống chiếc sofa. Có lẽ đời sống nàng vẫn chờ đợi một hình ảnh nhạt mờ nào đó. Một cái tên trùng hợp hay một bóng hình không thật. Cái tên của một đoạn đường dĩ vãng mà chính nàng chưa hề băng qua. Nàng chợt ứa nước mắt. Chồng và con đang yên giấc ngủ say cho ngày mai có thật. Hạnh phúc đang ở trước mặt nàng có thật. Ánh mắt đọng nước của nàng chợt dừng lại cuối phòng. Đúng rồi ở một góc cuối của căn phòng mẹ nàng. Nơi mà mỗi đêm bà đều nhìn ngắm hằng giờ. Nơi bà treo bức hình họa lớn từ bức ảnh nhỏ trắng đen, phai màu bà bọc kỷ lưỡng trong cuốn album. Bức hình mẹ nàng chụp chung với người thanh niên, một thời mới lớn. Bức ảnh mà bà trân trọng lau chùi hằng ngày, như một kỷ vật thiêng liêng bất khả ly thân. Bức hình duy nhất của mẹ nàng chụp chung với người đang luân lưu giòng máy trong nàng. Nhiều lần hỏi mẹ, bà chỉ thở dài và nức nở thương nhớ như mới hôm qua. Chỉ một lần, có nàng và họ chẳng bao giờ gặp lại nhau lần nữa. Tại sao ? Tại đời bà trôi nổi theo vũng lầy của dòng kinh nước đen cuộc đời nghiệt ngã. Tại cuộc chiến tranh bùng nổ dữ dội, tan tát và nhận chìm bao nhiêu thân phận con người. Tại hai giòng đời họ mãi mãi chảy song song trên cùng mặt phẳng của định mệnh. Nhưng đêm nay, nàng chợt nhận ra chừng như ở cuối đuôi mắt trái của người thanh niên trong ảnh cũng in vết chiếc nút ruồi hệ lụy.

            Nàng bật ngồi dậy và cầm điện thoại bấm số quen thuộc của mẹ. Tiếng reng từng hồi. Hai. Ba. Rồi những hồi sau nối tiếp. Không ai nhấc chiếc điện thoại ở phía kia đầu dây. Chắc bà đã ngủ say, quá say bởi những viên thuốc giúp bà vượt qua bao đêm khó ngủ, bơ vơ. Không biết bà đang trong giấc mơ đen tối một đời, hay đang tung bay trong một lần tươi đẹp đời bà thoảng khắc... Ngày mai sẽ tới, như mọi sự thật sẽ chồi lên theo nắng ban mai. Đêm chợt rộn rã và sâu thẳm.

 

 

5.

           Bên cạnh Liz dựa vào vai ông thở đều. Mấy hôm nay cả ông và Liz đều làm việc thật dồn dập, ngày đêm. Ông ăn tại chỗ làm, và có ăn ngoài ông phải đi ăn với bạn đồng nghiệp. Họ vừa ăn vừa tiếp tục các dự kiến công việc sắp tới. Ông đã không có dịp nào để gặp lại vợ chồng người bạn trẻ ông gặp ở quán ăn. Cho đến một buổi sáng thật sớm, Liz gọi qua phòng ông báo cần gặp ông gấp có chuyện khẩn cấp. Giọng Liz không đùa giỡn, làm bộ. Ông vội qua ngay và đã thất Liz đứng đón ông ở cửa phòng. Trông mặt Liz mệt mõi và thoáng chút lo âu. Không phải đợi, Liz báo ông đã mất kinh hơn hai tháng và sáng nay ói mửa đến vật vã. Ông sờ sững nhìn Liz, không biết phải hành động và ăn nói như thế nào cho hợp cảnh. Nàng cười trấn an ông, nếu có, chắc chắn là giọt máu của ông. Nhưng không vì thế mà bắt buột ông phải nhận hoàn toàn trách nhiệm. Ông có thể chối từ, Liz không oán trách. Nàng muốn khám bác sĩ cho an tâm nên mới phiền đến ông. Làm sao ông có thể cầm lòng được trước ánh mắt dã dượi, xanh lơ của người đàn bà da trắng nầy. Và họ đã cùng trở về trên chuyến bay.

            Qua khung cửa, phía dưới là những thềm mây trắng đang trôi ngược. Bầu trời xanh thắm, cùng tận. Ông không dám thở mạnh, nhúc nhích sợ đánh thức giấc ngủ say của Liz. Không ràng buột nhưng ông đang quằng nặng trên vai trách nhiệm của mình. Bất giác ông chạm cuốn sổ đang đặt trong lòng. Bàn tay như một thói quen, kéo nâng niu cây viết máy cũ kỷ. Ông cúi mắt nhìn thật lâu bốn chữ khắc trên thân bút đã trầy trụa, nhạt mờ. " Kỷ niệm Ánh&Tánh ". Chỉ có vậy. Võn vẹn chỉ ngần ấy là cả một đời ông đóng kín mọi cửa ngõ của trái tim. Tình yêu ông đã dốc cạn, từ những buổi đầu tuổi nhỏ. Đến nay, ba mươi năm, không chút phai nhạt lãng quên. Những tưởng sẽ quanh quẩn vòng đời, nào ngờ là nghìn trùng xa cách. Chỉ cuối một chân cầu, mà nửa đời tăm cá mù khơi. " Nhưng lẻ đó, ông lại là người hạnh phúc nhất trên thế gian nầy. Người có được một tình yêu vĩnh cữu trong tim ", Liz thường nói với ông...

           

Trước mặt ông có muôn vàn bão tố. Tận đời ông có vạn nẽo đổi thay. Nhưng khuôn mặt và nụ cười đó, mãi mãi sẽ là thiên-thần-hạnh-phúc bên suốt đời ông. Trái tim người đàn ông dạt dào, thổn thức khi ký ức ông chạm lại đôi môi bé nhỏ đọng giọt mưa đêm. Cổ chợt khô nghẹn, đôi mắt ông trĩu nặng, nhạt mờ. Ông cố giương ánh mắt nhìn ra khoảng trời xanh bên ngoài. Cuối cùng ông cũng tìm thấy. Ông đã thật sự tìm thấy, một vầng trăng vằng vặc, treo lơ lững giữa ban ngày.  

 

Nguyễn Vĩnh Long 

_____________________________________________________________________________________________ 

 


Site built & maintained by tranbt21@gmail.com