Thơ văn

CAO VỊ KHANH

Montreal, Canada

CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá

 

Ở một chỗ

rất

gần sao... 

CVK_NJ.jpg 

 

Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ của những "Ông Hoàng bé ". Thử cho anh coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.

Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc quê hương tôi ở hướng đó.

Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuống là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà không biết vì sao.

Từ đó, bầy sao  cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Hòa Nghĩa.

Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm từng cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không. Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con nhỏ. Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lên ngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.

Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.

Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa. Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...

Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng.

Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.

Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút, vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị. Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.

Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận. Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.

Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy. Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người này để cướp lấy quyền sống của người khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà bình, công bằng và bền vững?  Có thượng đế nào chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh đó.

Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?

Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt ước mơ tôi.

 Cao Vị Khanh

__________________________________________________________________________________________ 

 

                                                                                     

... tựu trường,

xa xứ

 

Khám phá được sự có mặt của một nhân vật tiểu thuyết trong đời thật vẫn là một điều thích thú thầm kín của người đọc dù rằng điều đó chẳng ăn nhập gì hết đến giá trị văn chương của tác giả hay tác phẩm. Một chút vui phụ trội vậy mà.

 

Trong một truyện ngắn tôi đọc đã lâu, kể chuyện những ngày đầu tới Mỹ của một gia đình Việt Nam sau cuộc chạy chết năm 75. Người cha, người mẹ và đứa con trai độc nhất lên sáu tuổi. Chuyện người lớn chắc ai cũng giống nhau, không nhiều thì ít. Còn chuyện đám con nít ?

 

Hình dung trở lại những năm bảy mươi-tám mươi, đứa bé ba-bốn-năm- sáu ... tuổi, rúc trong mình cha mẹ nó dưới những khoan ghe tối đen như mực và nghẹt ứ hơi người ... Và mịt mù sóng gió. Và chực chờ hải tặc. Và

những đảo hoang trôi lênh đênh giữa góc biển với chân trời. Rồi trại tạm cư trên bãi bờ hiu quạnh. Chiếc chòi lá giữa đêm mưa rừng nhiệt đới. Những hạt cơm khô trộn lẫn với cát sỏi... Rồi đất mới tạm dung. Rồi định cư vĩnh viễn. Rồi sau đó cũng chính nó chạy lúc thúc bên chân cha mẹ cho kịp cuộc đuổi bắt một đời sống mới, lạ từ miếng ăn thức uống, lạ từ tiếng hỏi câu chào ... Nó nghĩ gì trong đầu khi thấy cha mẹ, người lớn tất bật làm lụng, tính toán, rầu rĩ, lo buồn ... đến nỗi như muốn bỏ quên nó luôn ... dù mục đích của cuộc chạy chết một phần cũng vì tương lai của chính nó.

Nó thấy gì trong những giọt nước mắt trên mặt mẹ khi trên tay còn cầm lá thư nhòe chữ được gởi đi từ một xứ đã xa. Nó nghĩ gì khi ngó cặp mắt đăm chiêu của cha khi nhắc tới người thân còn kẹt lại đâu đó ... Tội nghiệp đứa nhỏ đã mất tuổi thơ khi chưa kịp lớn ...

 

Hình dung trở lại những ngày tháng đầu ở xứ người, trong căn chung cư hẹp té, tồi tàn, và chung quanh thì đầy những khuôn mặt lạ, lạ từng cọng tóc đến vóc dáng, nhất là thứ tiếng nói đa âm với những âm sắc lạ tai xoắn xuýt nhau như một xâu chuổi ... Nó ra vào chơi đùa một mình, mớ đồ chơi xin ở nhà thờ, chiếc máy ti-vi mua ở tiệm đồ cũ ... giữa bốn bức tường cũ xì, ẩm mốc và chiếc cửa khóa kín sau khi cha mẹ nó từ sáng sớm đã vội vã xách hộp đồ ăn mỗi người mỗi hướng nhảy lên những chuyến xe buýt đầu ngày chạy băng ngang thành phố ... Hình dung trở lại, nó một mình tới bữa trưa lục tủ lạnh tìm miếng xăng-quít mà mẹ đã làm từ tối qua. Hình dung trở lại, bữa ăn trưa một mình, đứa con nít năm sáu tuổi. Hình dung trở lại những buổi sáng buổi chiều buồn tênh sau khi đã chán chê mớ đồ chơi cũ kỷ nhàm chán, bắt ghế dựa đầu vào khung cửa kiếng, từ một căn chung cư cao ngất, nhìn ngó ngu ngơ xuống cái miệng vực thẳng đứng giữa hai bức vách lầu cao ngất và xám ngắt, dưới đó xe cộ người ta qua lại huyên náo để hy vọng bắt gặp một dáng vẻ thân quen ...

 

Hình dung trở lại bữa tựu trường đầu tiên không có sương-thu-và-gió-lạnh. Nó cũng mang cặp sau lưng nhưng không có bức-tượng-trắng-trong-vườn-Lục-xâm-bảo làm bạn như khi cha mẹ nó tựu trường ... Bởi vì nó bắt đầu đi học ở một nơi không phải là quê hương của nó nữa ... Nghĩa là nó đã bị bứng khỏi cái gốc ruột rà của nó, cái gốc phải có của một đứa-bé-việt-nam với chuồn chuồn châu chấu, với tiếng dế ngoài bờ cỏ, với cánh diều giữa đồng trống, với ngõ trúc quanh co, với cầu tre lắt lẻo ... Nghĩa là nó bắt đầu đi học làm người, người Mỹ, người Canada, người Pháp, người Úc .. mặc dầu cha mẹ nó vẫn muốn trước hết và sau cùng nó mãi là người Việt Nam ... Có khó cho nó lắm không ?

Hình dung trở lại mọi nỗi khó khăn lúng túng của đứa nhỏ giữa sân trường, trong lớp học khi chung quanh từ ông thầy đến bạn học không ai giống nó, nó cũng không giống ai, cái màu tóc cái màu da và nhất là cái tiếng nói ...

 

Nghĩa là còn nhỏ xíu nó đã phải chiến đấu giống y như cha mẹ nó đã chiến đấu, tả xung hữu đột, để tìm một chỗ đứng có chút ánh sáng giữa một thế giới đầy những nhà chọc trời đã che kín hết mặt trời.

Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, rất cô đơn ... dù đi học một mình, dù tan trường một mình, dù khi về nhà phải lục dưới tấm thảm chùi chân tìm chiếc khóa rồi nhón gót lách ca lách cách trật vuột mở cho được chiếc khóa cửa hoen rỉ ...

Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, thầm lặng như nhiều đứa-bé-việt-nam cùng trang lứa với nó, trong những năm tháng lao đao đó đã chiến đấu cũng cô đơn và thầm lặng như vậy ... ở đâu đó, trên những xứ sở lưu vong ...

Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho cha, cho chú bác nó trên một mặt trận khác để chứng tỏ với thế giới rằng đó không phải là tàn dư của một đội quân bại trận.

Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho mẹ, cô dì nó trong một cuộc kháng chiến khác để cưỡng chống

lại sức hút cuồng lưu của một xả hội tân tiến, và giữ cho được nguyên tính của giọt-máu-việt-nam.

 

............................................................

 

Hình dung trở lại tấm bằng khen đầu tiên nó mang từ trường về. Mắt cha nó vụt sáng. Mắt mẹ nó bỗng rướm giọt trong veo ...

 

Hình dung trở lại đêm đầu tiên nó xa nhà để đến trọ trong một campus đại học. Cha nó vui và lo lắng. Mẹ nó mừng và lo lắng.

Hình dung trở lại những chồng bài vở cao ngất, xếp qua bên để chạy tới quán ăn đầu đường chùi rửa từng chồng dĩa chén cao ngất, để khuya về chong đèn ôn luyện có khi tới hửng sáng rồi lại ôm sách vở chạy vội tới giảng đường. Hình dung trở lại những chiếc bánh pizza cha nó chạy giao qua phố xá vắng tanh lúc nửa đêm về sáng, sau tám giờ làm chính thức trong nhà máy để cho nó thêm chút tiền túi, phòng khi... Hình dung trở lại những đống vải mẹ nó ôm về từ hảng may, rồi chui vào một góc khuất, may luôn tới khuya lơ khuya lắc để sắm thêm cho nó chiếc áo lạnh khi gió đông đang vội vã thổi về.

Hình dung trở lại ... Hình dung trở lại ...

 

Hình dung trở lại ngày tốt nghiệp. Áo thụng mão mủ. Cha nó quằn vai vì sức trì của những kiện hàng quá khổ. Mẹ nó hấp háy tia mắt lợn cợn bụi mù từ những xưởng may kín mít. Cả hai sao bỗng quên hết nhọc nhằn !

...........................................................................

 

Còn nhiều chuyện để nói lắm, những chuyện để đời.

Những đứa-bé-việt-nam lớn lên ở một chỗ không phải Việt Nam.

....................................

Nhưng thôi. Đủ rồi.

 

Vấn đề là tên lính nhỏ can trường đó, những tên lính nhỏ can trường đó, đã chiến thắng, từng trận nhỏ, rồi trận lớn .. Cấp bằng đại học. Vị trí khả dĩ trong một xả hội dị chủng. Những đóng góp ít nhiều cho đất nước đã đem lòng cưu mang sau khi tương lai nó đã bị hũy diệt ngay trên chính xứ sở của nó từ sau cuộc bại trận của cha ông. Sự thành công đó còn là dịp cho cha mẹ chú bác nó, người đã chết, kẻ lưu lạc, người tù tội ... được có lần minh chứng cho lý tưởng mà họ đã xả thân để bảo vệ, dù có phải thất bại : con người chỉ được phát triển toàn vẹn trong một xả hội tự do và nhân bản.

 

Tháng tám nhiều năm sau, nhân vật đứa-nhỏ trong truyện đã nhảy ra khỏi cái khung truyện cũ chật hẹp để bắt đầu viết cho chính nó một cái truyện mới, khung truyện lần này chắc chắn sẽ rộng lớn hơn, thênh thang những chân trời ... Truyện của nó có thêm nhân vật mới, tình tiết mới, như loại feuilleton đăng báo mà mỗi ngày được đánh dấu bằng mấy chữ ngày-mai-đăng-tiếp như một hứa hẹn những khai mở bất ngờ đầy thú vị.

( nó đang làm như cha mẹ nó, bạn bầy trang lứa nó, gầy dựng và tiếp tục gìn giữ chút di sản ông bà, ở phần đất mới, rất xa mảnh đất quê hương )

 

Này chú-bé-nhân-vật mà tôi đã cảm mến khi đọc truyện, chú can trường lắm !

 

 

viết thêm

 

Tháng 9 năm nay, tôi lại có dịp ghé qua một buổi lễ tựu trường. Trường tiểu học, học trò mới cũ trai gái ồn ào và lộn xộn như một bầy ong vở tổ. Đám quen mặt tụ năm tụ ba ríu rít hỏi han kể lể. Mấy đứa bé vừa từ một nhà trẻ gởi sang, níu riết tay cha mẹ ông bà đi những bước chân líu ríu như bầy sẻ nhỏ.

Bất ngờ, rất bất ngờ, tôi gặp lại cậu-bé-nhân-vật cũ của tôi. Bao nhiêu năm qua rồi, từ đó. Đã bao nhiêu con nước xa dòng. Cũng chẳng hơi sức

đâu mà đếm nữa. Chỉ biết trước mặt tôi là một người đàn ông trẻ, chững chạc, quần áo thẳng thớm, lịch sự. Cạnh bên là một phụ nữ tây phương, cũng chừng tuổi, da trắng tóc nâu và mắt có màu xanh biếc. Giữa hai người là một đứa bé trai, có làn da trắng của mẹ và màu tóc đen của cha, vừa đi vừa nhún nhảy theo bước chân người lớn. À, cậu-bé-con, nhân vật trong cái truyện ngắn theo cha mẹ bỏ nước, vượt biển chết tìm đất sống của gần ba mươi năm trước, vừa đi học chữ mới vừa ngọng nghệu tập nói tiếng nước mình. Đến hôm nay, ngày đầu một năm học mới, dắt tay đưa đến trường, đứa con đầu lòng, kết tinh của một sự phối ngẫu kỳ diệu giữa hai dòng máu lạ chảy từ hai lục địa mênh mông xui đâu mà gặp gỡ. Lắm khi cũng chỉ từ những trái ngang của lịch sử. Vậy mà rồi, đôi lúc lại là những kết cuộc có hậu, đẹp và vui như bất cứ một câu chuyện cỗ tích nào được kể bằng hai tiếng ... ngày xưa !

 

Buổi sáng hôm nay, trên khắp cùng mặt đất, sẽ có bao nhiêu đứa trẻ việt-nam-vàng-trắng-đen-đỏ lần đầu theo cha mẹ tới trường để học đọc học viết thứ chữ không phải ... chữ-việt-nam. Điều đó có đáng buồn hơn nếu còn kẹt lại bên đó để bị nhồi nhét vào đầu thứ chữ nghĩa câu cú đã bị biến thái một cách quái gỡ đến đỗi người đi xa mươi năm sẽ phải ngỡ ngàng như Từ Thức khi lỡ bước về trần.

Đó là chưa kể đến những dụng tâm đầy hậu ý đã loại bỏ hết những bài Việt sử vốn dĩ đã là và phải là những bài học vỡ lòng của bao nhiêu thế hệ người Việt, làm thành chất keo sơn kết chặt họ với đất đai xứ sở quê hương tổ quốc. Vậy mà ...

 

Nhất là gần đây lại nghe tin có kẻ ( bọn ! ) lại còn muốn thay đổi cả cách viết, đánh vần ... của chữ quốc ngữ, thứ phương tiện duy nhất để phổ biến, gìn giữ, lưu truyền cái vốn liếng văn hóa đã ngàn năm của dân tộc. Thứ chữ viết đó đã là chiếc cầu bắt qua tấm lòng của bao nhiêu thế hệ, là cái gạch-nối người đời sau với muôn đời trước, cũng như chính là vốn liếng còn lại sau bao nhiêu chắt lọc nghiệt ngã của cả một dòng lịch sử đã quá đỗi trầm luân. Thứ vốn liếng đầy ắp bao nhiêu lời ân cần dạy dỗ,

dặn dò ... của người đi trước đã khuất mặt để lại cho người tới sau còn biết đâu là gốc tích của chính mình mà hãnh diện mà chiến đấu để bảo vệ tới kỳ cùng nền độc lập và quyền tự chủ của một mảnh giang san đã giành được bằng bao nhiêu máu xương của từng bao nhiêu thế hệ. Từ ngàn ngàn câu ca dao tục ngữ vốn chỉ là truyền khẩu đến những bản hùng văn với hằng hằng câu chữ như đã được trích máu từ đầu ngón tay ra mà viết, từ những vần thơ minh triết ẩn tàng dưới nóc am mây trắng đến uẩn khúc đoạn trường bi thiết qua hơn ba ngàn câu lục bát mà hơn ba trăm năm rồi không phai lợt chút sắt son ... Còn nữa, còn Nguyễn Trải với Bình Ngô đại cáo lấy chí nhân thay cường bạo, còn Bà huyện Thanh Quan với thơ Đường mà hồn thơ không vướng bận chút luật thơ, còn Hồ Xuân Hương tinh quái với mớ chữ nghĩa léo lắt, còn khúc ngâm Cung Oán đài các, còn khúc ngâm Chinh phụ ngọt ngào như nước suối trong veo, còn bao nhiêu công trình nghiên cứu lịch sử địa dư, dịch thuật khoa học tư tưởng từ túi khôn của nhân loại mà hằng hà sa số tài năng của dân tộc đã nặn tim vắt óc để lại cho đời sau.

Cả cái gia tài vô giá đó rồi còn được tồn tại tới ngày nay để con cháu có dịp học lấy sự tinh khôn, thấm nhuần được tấm lòng nhân hậu của cha ông, nối tiếp được tính quật cường của tiền nhân là do đã được ghi chép lại trong những văn bản kể từ khi có chữ viết.

 

( Có cần kể ra không những khổ công của cả một lớp tiền nhân những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã tìm tòi chăm chút uốn nắn để biến thứ chữ mới tượng hình mà mục đích chỉ nhằm rao giảng đạo chúa trở thành một phương tiện học hỏi và sáng tạo cho cả khối dân tộc kịp chân bước vào thời đại mới. Những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá Học, Nguyễn văn Vĩnh ... rồi Phạm Quỳnh với tạp chí Nam Phong, rồi Tản Đà ngoài bắc Hồ Biểu Chánh trong nam... rồi ... v.v... và v.v... Kế đó tiếp nối những khai phá của những Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng ... với phong trào Thơ mới như sự ngửng mặt của một hồn tính việt nam thức tỉnh sau cả ngàn năm lệ thuộc vào ý hệ phương bắc ... Chữ nghĩa một ngày một dồi dào, mỗi lúc

mỗi hoa gấm. Xảy đến cuộc chia cắt đất nước năm 54, nhưng ở miền nam là cả một trời sáng tạo nhằm phá vở mọi thành trì cổ điển để tạo nên những cổ điển mới ... Những đột phá của Mai Thảo với nhóm Sáng Tạo, Nguyên Sa với Hiện Đại, Vũ Khắc Khoan với Vấn đề, Nguyễn Khắc Hoạch với Thế kỷ Hai Mươi, Viên Linh với Khởi Hành ... những Võ Phiến, Đinh Hùng, Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình Toàn, Tô Thùy Yên, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ v.v ... và v.v... Làm sao kể hết ! Làm sao kể đủ ! Còn những người lính vừa đánh trận vừa viết truyện. Những anh học trò vừa học bài vừa làm thơ. Từ thành phố đến núi rừng, đâu đâu cũng rộn ràng những dòng chữ, những khám phá và những kết tinh. Thơ văn bay nhiều không thua lửa đạn. Còn nhiều nhiều lắm ! Làm sao kể hết ! Mà thật ra có kể hết được đâu nét tài hoa ngùn ngụt đó.

 

Bây giờ tự dưng rồi đòi hủy bỏ thứ chữ viết ruột rà đó để thay bằng một loại qui ước mới chẳng hợp lý hợp tình mà cũng chẳng một mảy may cần thiết. Làm vậy chẳng khác gì thẳng tay chặt đứt chiếc cầu bắt qua triệu triệu tấm lòng dân Việt từ muôn đời trước đến ngần ấy đời sau.

Lịch sử Việt đã trải qua hơn hai ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc mà người Việt ở trong nước hay biệt xứ khắp cùng mặt đất, mà người Việt từ mấy ngàn năm trước đến người Việt của mấy ngàn năm sau còn hiểu được nhau, còn kết nối được nhau, còn có cơ liên lạc được nhau phải chăng chính là do thứ chữ Việt đã được sáng tạo, điểm xuyết và giảng dạy từ gần bốn trăm năm nay. Vậy hà cớ gì mà đòi đổi đòi thay. Vậy hà cớ gì mà muốn bứng cả gốc rể của một rừng đại thụ vốn toàn là gỗ quí.

Nếu không vì thứ tự cao tự đại ngu xuẩn thì hẵn cũng vì một thứ mưu đồ đen tối nào đó.

 

Dòng sinh mệnh của ngôn ngữ cũng y như của con người, cũng sinh diệt thăng trầm theo lẽ tự nhiên nhưng lẽ đâu không cố luyện cho tinh tuyền lại đem học-đòi-pha-trộn-chắp-vá-vay-mượn-quá-ư-ngu-xuẩn với thứ

chữ của nước ngoài, nhất là thứ nước ngoài vốn dĩ đã là giặc trong từ hơn mấy ngàn năm lập nước và giữ nước của cha ông.

 

v.v... và v. v...

 

Còn điều gì để nói thêm, buổi hôm tựu trường trên một xứ sở tạm trú, cách xa nơi sanh đẻ hơn nửa vòng trái đất, nơi bên nây ngày lên thì bên kia đêm xuống, nơi có những đứa-trẻ-việt-nam từ sanh ra đã có cha mẹ ông bà cứ tha thiết móm cho nó ê a từng dấu giọng sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng dù không phải không biết mai kia mốt nọ, thứ tiếng mẹ-đẻ-cha-đẻ đó cũng chỉ còn là những hoài vọng về một gốc gác đã mù. Nhất là trong một thế giới đang trên đà tiến bộ bằng những đôi-hia-bảy-dặm.

 

Dẫu vậy, họ vẫn ru, vẫn ầu ơ ... từng khuya hôm, vẫn móm đút từng trưa sớm ... từng tiếng từng chữ ... dẫu biết rằng ... dẫu biết rằng ... !

 

Vui thêm hay buồn thêm, buổi sáng tựu trường này, lần thứ bao nhiêu trong đời tôi, biệt xứ !

 

Cao vị khanh

______________________________________________________________________________ 

 

 Lý Bạch: Tương Tiến Tữu. Cao Vị Khanh: Phóng dịch 

 CVK_tuongtientuu.jpg

 

  

 

Tương tiến tửu

Lý Bạch

 

Quân bất kiến:

Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!

Hựu bất kiến:

Cao đường minh kính bi bạch phát,

Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.

Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,

Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!

Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,

Thiên kim tán tận hoàn phục lai.

Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,

Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.

Sầm phu tử,

Đan Khâu sinh.

Thương tiến tửu,

Bôi mạc đình!

Dữ quân ca nhất khúc,

Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:

"Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,

Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,

Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.

Trần vương tích thời yến Bình Lạc,

Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước".

Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,

Kính tu cô thủ đối quân chước.

Ngũ hoa mã,

Thiên kim cừu,

Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,

Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

                                                                                                                                                      phóng dch

 

Mời rượu

 

Này anh có thấy hay không

Hoàng Hà chảy miết một dòng ra khơi

Mẹ cha sáng tóc xanh ngời

Chiều ra bạc trắng như vùi tuyết đông

Say đi những lúc vừa lòng

Đừng cho chén cạn ngại ngùng soi trăng

Tài ta ắt sẽ có phần

Ngàn vàng tiêu cạn sẽ hoàn lại thôi

Dê, trâu xẻ thịt tiệc vui

Ba trăm chén đủ cạn rồi tính sau

Này Sầm, này bạn Đan Khâu

Đừng ngưng chén, hãy cùng nhau trọn bề

Vì nhau xin hát chẳng nề

Mời nghe cho kỹ lời quê dông dài

" Chỉ cần rượu đủ men say

Sá gì châu ngọc mà hoài cuộc chơi

Tiếng tăm rồi cũng một thời

Còn chăng thiên cổ tiếng người say sưa"

Trần Vương mở tiệc vui đùa

Mười ngàn đấu rượu thi đua uống tràn

Đâu vì tiền ít, ngại ngần

Mau mau mua rượu đãi đằng bạn thân

Này ngựa, này áo kim ngân

Nhỏ ơi đổi rượu phá tan thành sầu

 

 

Cao vị khanh

tháng 5-2018

 

để tặng Hoàng Xuân Sơn và Vũ Hoàng Thư

 

__________________________________________________________________________ 

 

CVK_Tybahanh.jpg

Tỳ bà hành  

Bạch Cư Dị

 

* Năm Nguyên Hòa thứ 10, Bạch Cư Dị bị biếm trích về đất Giang Châu. Năm sau, đêm thu tiễn bạn nơi bến Tầm Dương, cảm tiếng tỳ bà của người ca kỷ về già bỏ thân lưu lạc, làm cám cảnh mình bó thân chỗ lưu đày mà viết nên Tỳ Bà Hành.

 

Năm thất quốc thứ 43, tôi vì nạn nước, lưu lạc quê người hơn 40 năm, đọc lại hành của Tư Mã Giang Châu mà cám cảnh mình, bèn phóng bút dịch ngang ra lục bát. Hay dở đúng sai ? Mặc. Chuyện xưa viết lại nỗi mình. Trăm đau nghìn hận, mình mình thương vay.

 

 

  

 















調



 


 

Tỳ hành

 

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ

 

 









漿



西










 

 

Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch.
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.

 
























 

 

Điền đầu ngân tì kích tiết toái,

Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa thế thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,

 












滿

Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.

Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á triều triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thùy tối đa,
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

 

 

Bài hành Tỳ Bà

phóng dịch


Đêm Tầm Dương, tiễn người đi

Lá mùa thu quạnh thầm thì nỗi riêng.

Người xuống ngựa, kẻ dưới thuyền

Sáo đàn không tiễn rượu phiền không vui.

Men say càng thấm ngậm ngùi

Trăng soi mặt nước lòng vùi dập đau.

Vẳng đâu vọng lại tiếng sầu

Giây tỳ bà, điệu kinh cầu ... nghẹn tim !

Tiếng đàn chìm giữa lòng đêm,

Người đi kẻ ở buồn kềm tay nhau.

Hỏi han cho rõ âm hao.

Tỳ bà bặt tiếng ly tao ! Ngại ngùng ?

Ghé thuyền tỏ dạ khiêm cung,

-Bình sinh mấy thuở trùng phùng nghiệp hoa

Khêu đèn, bày tiệc cùng ta,

Ân cần mời gọi gần xa mấy lần.

Đàn che nửa mặt, phân vân.

Tay so cần trúc tay lần giây tơ.

Cung cầm vừa mới dạo hờ,

Mà sầu dạ khách đã mờ... sương đêm.

Thiết tha từng sợi tơ mềm,

Năm cung réo rắt từng niềm bi thương.

Khúc đầu tay lựa Nghê Thường,

Đàn Lục Yêu chuyển như mường tượng mưa,

Rạt rào âm nhặt âm thưa,

Khi to khi nhỏ cho vừa nỉ non.

Lại khi tiếng mất tiếng còn,

Tiếng chim lượn gió, tiếng dồn suối xa,

Lúc róc rách, lúc vỡ òa,

Rồi ngưng bặt như nước đà lập đông.

Tình buồn đọng cứng cõi lòng,

Thinh im mà tưởng phiêu bồng cõi mơ.

Đang khi nín lặng như tờ,

Dưng không chuyển động tưởng cờ lịnh bay.

Rập rình vó ngựa dặm dài,

Quân đi cuốn gió lung lay đất trời.

Rồi ...dưng trời đất chơi vơi,

Tay thuôn bốn ngón ghìm hơi tỳ bà.

 

Đàn kêu tiếng xé lụa hoa.

Rồi im. Rồi nín. Rồi là ... nghẹn câm.

Bốn bề lặng lẽ, u trầm,

Sót trăng thu lạnh dọi thầm sông thu.

Gác đàn, gài phím, ôn nhu,

Rằng:- quê thiếp vốn kinh đô thị thành.

Hà Mô lăng, quê mẹ sanh,

Mười ba tuổi đã rành cung tỳ bà.

Danh lừng năm ngón tài hoa,

Mỗi nắn phím, mỗi tụng ca rộn ràng.

Mỗi ghen tức, mỗi điểm trang,

Thu Nương cũng phải chịu hàng lánh xa.

Lời ca đổi vóc lụa là,

Lược trâm bắt nhịp ngọc ngà vở tan.

Những chàng trai trẻ Ngũ Lăng,

Nghìn vàng mua lấy cung đàn mỹ nhân.

Quần hồng lấm giọt rượu ngon,

Đời vui cứ tưởng vuông tròn mãi sau.

Ai ngờ vui chốc buồn lâu,

Tử sinh ai biết, cơ cầu ai hay.

Cô già tuổi hạc vụt bay,

Tùng chinh em chịu đắng cay vạn phần.

Thoắt chiều thoắt sáng, hoa tàn.

Sắc phai vẻ thắm, hương tan vị mời.

Cổng nhà sớm vắng, chiều lơi,

Ngựa xe qua chẳng ghé lời hỏi han.

Ngày qua tháng tới, muộn màng,

Gá thân nương dựa khách buôn thương hồ.

Kẻ trần tục, nhám tay thô, 

Sớm chiều quên lãng bỏ cô độc người.

Khuya hôm thuyền lỡ làng trôi,

Cảm thân thế, mộng lại thời xuân xanh !

Lệ buồn ướt đẫm từng canh,

Nhòe son, nhạt phấn cho đành chiêm bao.

-Tỳ bà đã giục cơn sầu,

Kiếp hồng nhan lại làm đau nỗi mình !

Cùng chung kiếp nạn điêu linh,

Gặp nhau chẳng đợi phải tình thân quen.

Nghĩ mình đã lắm ưu phiền,

Tầm-Dương-đất-trích buồn riêng chuyện đời.

 

Xứ xa lạ cảnh lạ người,

Sớm trưa chiều tối khuya thui thủi buồn.

Ngày qua rồi tháng theo luôn,

Năm theo vội vã như ruồng rẫy nhau.

Một đời quá nửa chiêm bao,

Nửa rầu hận nước, nửa đau hận mình

Buồn vui rồi cũng làm thinh,

Ai chia ai xẻ những bình minh tươi.

Buồn vui rồi cũng ngậm ngùi,

Ai than thở những chiều rơi quạnh chiều.

Ở đây vui ít buồn nhiều,

Rượu đơn chiếc đắng trăm điều dở dang !

Mỗi ngày mỗi cuộc điêu tàn,

Ai người san bớt nỗi hoang tịch đời  (*)

-Ở đây buồn một riêng tôi,

Sao đem cung oán làm bồi hồi nhau.

Riêng, chung  cũng một điệu sầu,

Vì nhau gảy lại khúc đau đoạn trường.

Lặng người, lắng lại tang thương,

Bốn giây bật khóc bài trường hận ca.

Cung trầm cung bổng thiết tha,

Điệu hờn điệu tiếc xót xa điệu lầm.

Tiếng đàn dứt, lệ khôn cầm !

Áo-xanh-một-thuở khóc thầm, từ khi ...

 

Cao vị khanh

ngày 14 tháng 5 năm 2018

9.31 PM

* thơ riêng ghép với buồn chung, một vần.

 

 

_________________________________________________________________________ 

 

                                                                                         

  

CVK_LoitranTinh.jpg

 

LỜI TRẦN TÌNH CỦA NGƯỜI THẦY CŨ 

 

 

trích...

...........

 

1.

 

Tại sao đến hôm nay tôi lại viết những dòng này ? Những dòng chữ lẽ ra phải được viết ra từ nhiều năm trước. Tại sao tôi đã giữ kín trong lòng hơn suốt hai mươi mấy năm nay những điều tôi sẽ nói bây giờ. Bởi vì tôi thấy nó tầm thường, quen thuộc đến nhàm chán. Nó hao hao giống với hàng trăm hàng ngàn câu chuyện đã được kể ra. Câu chuyện về một quê hương bị bức tử, của hai mươi lăm triệu người bị tước đoạt quyền sống một cách ngang nhiên, tức tưởi. Câu chuyện tôi kể có khác không ? Chắc là không ! Chỉ thay đổi một cái tên, một nhân dáng là có một câu chuyện đời thương tâm, quen thuộc đến độ cái thương tâm khó còn làm xúc động ai nữa. Tội nghiệp cho tôi, tội nghiệp anh, tội nghiệp em, những con người đã quen với cái bất hạnh đến thành dửng dưng, quen với cái tan nát đến độ chai lì. Tội nghiệp trái tim Việt Nam đã  quá độ cằn cỗi.

 

Vậy tại sao tôi còn viết. Tại sao trong cái buổi chiều nắng nhạt ở một thành phố ven biển miền tây nước Mỹ, bỗng nhiên tôi gặp lại em, người học trò cũ. Người thiếu phụ trên dưới 40, trong bộ âu phục lịch sự đã đến chào tôi bằng tiếng thầy vốn quá xa lạ từ hơn hai mươi năm nay, giữa một nơi lạ lẫm đến từng cọng cỏ ngọn cây, đã làm tôi thảng thốt đến độ sững sờ. Em đó sao, cô học trò ngày xưa rụt rè như thỏ con, cứ mỗi lần được gọi trả bài là mắt như rươm rướm, ngồi im như pho tượng nhỏ, thành khẩn và tin cậy, nghe tôi mở đầu bài giảng Chinh phụ bằng cái hình ảnh tuyệt vời của tiếng trống trận dập dồn làm lay động cả bóng trăng xưa. Cái cô học trò nhỏ vẫn thường tung tăng chiếc áo dài chưa-biết-sầu trong những quán bán quà vặt ngoài cổng trường, vẫn thường len lén cắm vội cánh hoa tươi lên bàn thầy như một lời cám ơn nhỏ nhẹ và kín đáo. Tại sao hôm đó, giữa những lời thăm hỏi nồng nàn hay dửng dưng, giữa nỗi ngậm ngùi của một thân quen gặp lại, nỗi hụt hẩng của một cái tên biệt tích, cái náo nức của một lời hẹn tái ngộ, em bỗng hỏi tôi một cách điềm đạm và ân cần, điềm đạm như cánh hoa dại ngắt vội bên đường và ân cần như ngón tay vụng lén cắm vội lên góc bàn viết, em đã hỏi tôi :

           -Vậy chớ thầy đã sống ra sao từ hai mươi mấy năm nay ?

 

Câu hỏi bỗng làm tôi giựt mình. Tôi đã sống ra sao từ hai mươi lăm năm nay ? Có lần nào tôi đã hỏi mình như vậy ? Cuộc sống như dòng sông phẩn nộ, cuốn phăng ta đi không-nghĩ-lại-qua-đêm ! Người xưa đã nghĩ vậy, bây giờ tôi thấy còn đúng hơn nữa. Con sông Việt Nam chảy tẻ thành triệu nhánh, có nhánh dài nhánh ngắn, nhưng nhánh nào cũng chảy miết xa nguồn. Có lần nào mỏi mê chèo chống ta ngó lại đời ta ? Bến nước nào bỏ lại ? Bãi bờ nào đành đoạn xa ? Những cầu sương điếm cỏ ! Những quán khách dặm trường ! ... Có một lần nào ngồi lại ta tính toán đời ta chưa ? Những được thua còn mất ! Những ân oán nợ nần ! Ta đã làm được gì đời ta ? Hai mươi lăm năm qua mãi miết như tên bại tướng lọt giữa vòng vây, tả xung hữu đột, đến lúc kiếm gãy cờ tan mà vòng thù còn trùng điệp, tự dưng sao thấy lòng ngao ngán chỉ muốn buông tay ngồi bệt xuống vệ đường, bật khóc. Bởi lẻ, trong phút giây, tất cả rồi ra sẽ nhạt nhòa như một cái gì không có thật.

 

Tôi đã sống thế nào trong những năm qua ? Sao bỗng dưng tôi thèm được một lần tâm sự dù biết rằng ở giữa lòng ốc mượn, có nói gì cũng không hết tang thương. Hai mươi lăm năm có phải đã đủ khoảng cách và bình tĩnh để nhìn lại một chặng đường.

 

Tôi, thằng sinh viên 19 tuổi năm 65 đến trường Văn Khoa để lang thang ngoài hành lang lộng gió thường hơn trong giảng đường chật nứt, đã ngồi ở quán cà-phê Văn lâu hơn ở thư viện, vẫn viết vội những câu thơ bất chợt lên góc mấy bao thuốc lá rồi bỏ quên đâu đó mất biệt, đã chảy nước mắt nghe Khánh Ly đi chân trần hát tôi-có-người-yêu-chết-trận-Ba-gia ... trên nền đất cũ cạnh đường Lê Thánh Tôn, đã đọc ngấu nghiến truyện Bắt trẻ đồng xanh của Salinger suốt một đêm thức trắng, đã đi trình diện vào trường Đại Học Sư Phạm với chiếc quần jean bạc thếch và đầu tóc dài ngổ ngáo, đã ngồi mò mẫm học nắn nót từng nét chữ tàu và cũng hay lang thang ngoài phố để nghe người nhạc sĩ già oằn người thổi bản Summertime lúc nửa đêm về sáng. Thằng thanh niên lạ lùng, tên giáo sư trẻ ra trường năm vừa hai mươi ba tuổi, lãng mạn như một bài thơ tình, đứng đắn -hay cố gắng đứng đắn- như một nhà giáo lão thành, với những mâu thuẩn trùng trùng đó đã sống thế nào từ hai mươi lăm năm nay ? Từ cuộc đổi đời năm ấy ?

 

... Lệnh đầu hàng từ Sài Gòn loan ra trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lời báo dữ như tiếng sấm trái mùa làm nổ tung giông bão đang giậm giựt giữa thinh không. Lòng người cũng giống thinh không buổi đó, ngầy ngật cơn nóng sốt thời cuộc, âm ỉ một niềm lo nghĩ không nguôi. Người ta chờ đợi một cái gì đó xảy ra, một cái gì mơ hồ không dám nghĩ tới vậy mà cứ lẩn quẩn trong đầu. Từ vài tháng gần đây, tin tức chiến sự và chính trị mỗi ngày mỗi tồi tệ. Mùa mưa sắp đến. Cộng quân chuẩn bị đánh lớn như mọi năm. Ở Sài Gòn thì năm phe bảy phái rình rập nhau tranh giành quyền hành. Rồi Cao Miên và Lào lần lượt thất thủ. Rồi miền Trung di tản. Cao nguyên bỏ ngỏ. Từ giữa tháng ba, những chiếc bè mỏng manh chở người lánh giặc từ vùng giới tuyến đã bắt đầu tấp vào bờ biển Phan Thiết, Vũng Tàu. Người ta xầm xì bàn tán về một giải pháp liên hiệp, những cắt đất chia ranh, hoặc tệ hơn nữa, một đảo Phú Quốc như trạm tự do cuối cùng cho đám người cùng khổ. Người ta lo lắng, nghi ngại, hy vọng rồi thất vọng, rồi lại tiếp tục lo lắng, nghi ngại ... Những người có tiền của, quyền thế thì chộn rộn sửa soạn cho một chuyến đi xa. Còn đa số tiếp tục sống trong nỗi hoang mang, trì trệ. Trường học vẫn còn mở cửa nhưng chỗ ngồi đã thưa trống dần. Sợ chờ đợi kéo lê ngày tháng một cách mệt nhọc.

 

Cho đến buổi trưa ngày 30, trời đất bỗng như tan tành trong một giây một phút. Lệnh buông súng xắn xả như viên đạn bắn trúng ngay tim. Trong một chốc, cả miền Nam như ngừng thở. Người ta sửng sốt, bàng hoàng, ngây dại như tỉnh như mê. Người ta thử nghe đi nghe lại như cố nghĩ mình nghe lầm, như có một cái gì đó không thật. Mọi người chết điếng nhìn nhau, lẳng lặng, thất thần. Rồi bỗng như một cơn đau kích xúc mãnh liệt ùa tới, mọi người chợt hiểu. Cái không dám nghĩ tới đã tới. Tới thật. Đến lúc đó, nỗi sợ hãi như một cơn gió lạ thổi rút vào người, luồn theo mạch máu làm tê liệt châu thân, căng thẳng đầu óc, cổ khô, miệng đắng, chân tay rời rã. Người ta biết không phải chiêm bao, người ta biết mình đang ở giữa một sự thật, cái sự thật mạnh hơn cả đạn trái phá, nổ tung hết cả ước mơ của một đời người, giựt sập hết mọi niềm tin của bao thế hệ. Người ta cảm thấy chới với, hụt hẩng, ngơ ngác, bối rối ... Người ta đổ túa ra đường, chạy vội về nhà, nhốn nháo một cách vô ích như chỉ để có một cái gì đó để làm, như chỉ để lấp đầy cái khoảng trống khủng khiếp vừa hiện ra giữa đời sống, trong lòng người.

 

Miền Nam chống giặc từ 30 năm không phân thắng bại, vậy mà tự dưng sụp đổ trong vòng 55 ngày. Dân theo quân kéo nhau chạy chết, dẫm đạp lên nhau, trong khi đạn thù xối xả đuổi sau lưng, xác bỏ sình thối bên vệ đường mù bụi hay trôi tấp theo sóng biển vật vờ.

 

Địa ngục ở một chỗ rất gần và rất thật !

 

Anh nghĩ gì, hởi người lính trẻ, khi anh kê súng tự bắn vào đầu, buổi sáng ngày 30 bên chân cầu xa lộ. Có phải cái hình ảnh cuộc tháo chạy thảm hại của cả một chế độ đã làm anh hổ thẹn ? Hay cái cao ngạo sừng sững của hồn thiêng sông núi đã không cho anh khuất nhục ? Cái chết của anh có phải là lời cảnh cáo hay chỉ là lời nhận lỗi của cả một thế hệ bị hy sinh ?

 

Có ai còn nhớ không anh ?

 

Vậy đó mà miền Nam mất.

Vậy đó mà dâu bể tang thương.

Người cộng sản vào thành phố với lời phủ dụ ngon ngọt không-đụng-tới-cây-kim-sợi-chỉ của người dân. Tuy nhiên thực tế khác xa cả trời cả vực. Ai cũng biết sẽ có nhiều thay đổi nhưng không ai ngờ sự thay đổi rốt ráo và tàn tệ tới vậy. Người ta bắt đầu một cuộc tàn phá mới sau 30 năm tàn phá đất nước và con người bằng súng đạn. Cuộc chiến tranh hũy diệt mới, ít ồn ào hơn, cũng không kém phần tàn độc. Bằng những âm mưu thâm hiểm và những tính toán xảo quyệt mà người ta đã tìm cách quân-bình-hóa hai miền nam-bắc, thay vì tìm cách nâng cao đời sống của miền Bắc, người ta lại kéo tụt đời sống của miền Nam xuống cho ngang tận mức kiệt cùng. Bằng cách nào thì cũng không che giấu được cái tâm lý hèn hạ nhỏ nhen vì ghen tức của đám lãnh tụ mất lương tri, sôi sụt ý muốn trả thù trước một miền Nam phồn thịnh dù vừa xây dựng vừa phải chống giặc. Song song với những cuộc đổi tiền- một hình thức phá giá đồng bạc- những cuộc cướp giựt tài sản của tư nhân được ngụy danh là cải tạo kinh tế xả hội, gom hết mọi tài lực, vật lực và nhân lực của đất nước vào trong tay một nhóm người vừa ngu dốt vừa cuồng tín, người cộng sản tổ chức một cuộc tráo đổi " vĩ đại'' và " ngoạn mục ". Hằng ngày, hằng đêm từng đoàn xe vận tải bít bùng, những chuyến xe lửa dài thậm thượt vội vội vàng vàng tháo gỡ máy móc, dụng cụ tân tiến cồng kềnh chở rầm rộ về Bắc, để rồi chở quay ngược vào Nam những đoàn bộ đội ngờ nghệch, những cán bộ xảo quyệt, những đám dân nghèo đói từ hai-mươi-năm-xả-hội-chủ-nghĩa, đổ xô vào những thành phố mới chiếm để tiếp tục cuộc vơ vét, xin xỏ, tráo trở, mua rẻ, hăm dọa ... đủ kiểu đủ cách gom góp từ cái chén, đôi đủa, cái đồng hồ, chíếc xe đạp, cái ti-vi ... đến căn nhà, dãy phố ... Cùng lúc, nhà tù được ngụy danh là trại cải tạo mọc lên như nấm dại, trong thành phố, ngoài đồng hoang, hay tít trên những vùng rừng sâu nước độc. Bằng thông báo chỉ thị mập mờ, nhà cầm quyền mới lừa gạt đưa vào tù hàng trăm ngàn quân nhân công chức của chế độ cũ trong khi hàng giờ hàng phút, từ miệng những chiếc loa treo mắc khắp hang cùng ngỏ hẻm ra rả những lời bao dung khoan hồng hòa họp hòa giải ... Sau những cuộc sàng lọc, kẻ nhốt trong Nam, người đày ra Bắc. Từng đoàn tù chất chồng trên những toa tàu chở súc vật chạy băng băng trong đêm tối kinh hoàng, từ Nam ra Bắc, đổ xuống và dẩn giải qua những xóm làng xa lạ và thù nghịch. Hai bên đường, dân chúng được tổ chức, xúi giục chửi rủa ném đá vào những xác người tả tơi thất thểu. Cuộc trừng phạt trả thù không kể ngày tháng, người tù không danh số, không bản án một khi bước vào trong cổng trại tự nhiên biến mất như chìm lẫn vào những rừng cây bạt ngàn, mất hút trong những đồi núi chập chùng, không còn lại chút dấu vết. Thế giới không hay biết -hay không muốn biết đến- dãy quần-đảo-ngục-tù nằm mênh mông ngay trong lòng đất nước như một vết chàm ô nhục. Ở đó người tù bị bỏ đói ngày này sang tháng khác đến độ phải ăn cả côn trùng, củ dại để sống sót, phải lượm mót từng bao cát mục nát để chắp vá che thân, phải lao động khổ sai bằng tay không và chân trần đến kiệt lực. Ở đó, bệnh hoạn không một viên thuốc, cô lập bít kín mọi tin tức bên ngoài, người tù còn phải chịu đựng một cuộc tra khảo tinh thần thường trực bằng những màn tự khai, tự thú, phản tỉnh ... Đã không ít người còn có dịp trở ra.

 

Địa ngục trần gian có ở một nơi rất gần và rất thật.

 

 

trích ......

 

.........

2.

 

Có lẻ để chấm phá cho đủ nét bi-hài của vở-tuồng-giải-phóng, tôi và một số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tù-cải-tạo với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh : " dạy học trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh phá cách mạng (sic)".

....................

Nhiều đêm, nằm trằn trọc trên tấm tôn lạnh buốt, trong ngôi đình làng được biến thành trại tù, tôi bật cười khan khi nghĩ tới tội danh " khôi hài " đến chết người này. Hóa ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái, nghĩa yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng thức cái đẹp, tôn trọng sự chân thực ... là một cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như vậy nếu theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù, phản trác, lật lọng mới là " cách mạng ". Nghĩ mà thương cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn trong thời đại dối trá.

....................

Giữa đêm oan khuất mịt mờ âm khí của trại giam, tôi cứ thao thức, mắt mở trao tráo, lăn lộn với những thắc mắc không lời giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm ? Tại sao hòa bình ? Để làm gì đống xương vô định đó ? Chẳng lẻ để đánh đổi sự lệ thuộc này bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại hơn cả vạn vạn lần ?

....................

Trong những lúc cùng quẩn nhất, sao tự nhiên tôi nhớ lại cặp mắt thất thần của người thi sĩ vô danh trong cuốn phim Docteur Djivago chiếu ở Sài Gòn mới vài năm trước. Trên chuyến xe lửa chở tù đi lưu đày xuyên Tây-bá-lợi-á vào thời kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước Nga, chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một góc trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như trống hoác, sâu thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động như cố chụp bắt cho được con trăng đang chạy vun vút ngược đường tàu. Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại vầng trăng lãng mạn đó nữa khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay của lũ sát nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu, bơ vơ đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu hắt chiếu rọi qua dặm trường thất lạc, như một thú nhận cho sự bất lực của những giá trị tinh thần trước cơn bạo hành của lịch sử. Cặp mắt như một hoi hóp của lương tri, báo hiệu cho thời đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ nhìn tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi thấy mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết. Và dân tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối chờ chết trong mẻ lưới khổng lồ đó.

Những câu hỏi " tại sao " cứ tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi trong cuộc sống tù đày vốn đã không có gì dễ chịu. Những ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm, những người cầm quyền mới không biết phải giải quyết ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã bắt nhốt vào đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy buồn bực chua chát. Có dịp tiếp xúc với những cán bộ chính trị và quân sự của họ, tôi càng thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và càng thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học vấn ấu trỉ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng tín vừa nông cạn của họ sẽ đưa đất nước tới đâu ? Có lúc nghe họ nói chuyện, tôi có cảm tưởng đang đứng trước một đám người máy, lập đi lập lại y nguyên, không sai một dấu phẩy, không sót một dấu chấm những điều đã được cấy nhét vào bộ óc của họ, y như một con két nói líu lo mà không biết mình nói gì. Rồi ra chúng ta sẽ sống ( hay chết !) ra sao với những người chủ mới, cầm quyền với mớ kiến thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và nhất là đường lối chính trị lỗi thời ? Rõ ràng chúng ta đang sống vào một thời kỳ oái oăm của lịch sử, mới hết tang thương này đã vội sang đoạn trường khác. Những trái ngang đã liên tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa bình, chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng ta sẽ tiếp tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái cảnh một người học trò cũ, trước giấu mặt như một kẻ nằm vùng nay là một cán bộ thành danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò chuyện bên kia hàng rào kẻm gai một buổi trưa giáp tết có phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không ? Đứa học trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp đệ tam đến đệ nhất. Đứa học trò đã cùng tôi tranh luận về những chủ nghĩa chính trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở bãi Đá bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn Sơn rái. Nó có một cái tên khá đặc biệt mà tư tưởng và hành động đã làm tôi nghi ngờ - không, tôi biết chắc là có liên hệ với phía bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật đó ? Tại sao tôi không báo với nhà trường ? Với chính quyền ? Tôi đồng ý với nó ? Chắc chắn là không. Thương nó ? Có thể có. Nhưng ở cương vị một người thầy, tôi có làm công việc điềm chỉ đó được không ? Điều tôi giữ kín có phải không ? Và như vậy tôi sẽ nói thế nào về người em họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa ra trường được 6 tháng, lãnh nguyên một tràng đạn AK  trong đêm hưu chiến tết Mậu Thân, chết không kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà chưa có được một người yêu để biết thương nhớ. Sự kín miệng của tôi có phải là một phản bội trắng trợn với những người bạn đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong những cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch ba-lô súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày di hành tối nằm tiền đồn, để giữ an ninh cho một thành phố, một ngôi trường được yên lành học tập, một ngôi chợ được yên lành mua bán.

Tôi sẽ nói gì về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi chỉ là ngày tháng đợi chờ, về người góa phụ mới hai mươi tuổi ẳm đứa con sơ sinh đi nhận xác chồng, về những người mẹ người cha suốt đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác vọng về, về viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp Cai Lậy, về những hầm chôn người tập thể ở Huế, về trái lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ đầu xuân ... và sẽ nói gì với người bạn tù đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc trong các trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người phế binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ ?

Có lời nào để biện hộ cho cái thái độ im lặng đó ?

Câu hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho được câu trả lời. Nhưng có câu trả lời nào đâu em ! Ai nói được cho tôi thái độ của người học trò cũ, người cán bộ của tỉnh ủy bây giờ, nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín " bí mật '' của người thầy cũ dưới thời " công an trị ".

Ai sẽ giải thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ, thụ hưởng của người-dân-hậu-phương suốt cuộc chiến 30 năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện mà mỗi gốc cây là mìn bẩy, mỗi bãi cỏ che giấu một hầm chông tẩm độc, mỗi lời nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn dựng thâm hiểm ...

Ai sẽ giải thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài Gòn xa hoa, những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc, những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy bằng cả tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương khô ngày này sang tháng khác ...

Ai sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông dân biểu buôn lậu, những ông trí thức ngồi xa-lông bàn chuyện quét dọn xã hội, những tuyệt- thực-tự-thiêu, những bãi-khóa-xuống-đường, những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày, những phong-trào-đòi-quyền-sống v.v... và v.v... Ai sẽ chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của anh, của chị, của chúng ta trong cơn đổ vở này ? !

Có ai không ? Hay chỉ là những im lặng đồng lõa, những nín thinh cam phận, những lãng tránh vu vơ, hay chỉ là những đổ thừa tệ bạc, những trốn chạy hèn nhát ... Và tôi, tôi đã đóng vai trò gì trong vở tuồng trường hận đó ? !

Cái trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta đến đâu, làm sao tính toán đo lường được. Chỉ thấy rõ một điều là ngày hôm đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận, người thầy đã từ chối làm một-việc-cần-làm . Hằng hà sa số  công-việc-cần-làm khác đã bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh ... Và bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vở, cảnh tù đày, nỗi tiếc hận có phải là cái giá của một nền đạo đức mà tôi đã được nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này đã chọn lựa, đã chiến đấu để bảo vệ cho dù đó là một trong những đầu mối của cuộc thất bại trong cuộc chiến trường kỳ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai .

Ai sẽ trả lời ? Và trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó ?

 

Những ngày cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường, lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám tù tụ năm tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ chiều để sưởi ấm. Ngọn lửa rọi chập chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy buồn thắt dạ bởi không ai biết được ngày về. Cái lạnh kỳ cục chui rút vào xương tủy làm như để nhắc nhở con đường khổ nạn nằm ngay chính trong ta. Sân trại rộng mênh mông, rải rác vài đóm lửa hiu hắt, mập mờ mấy bóng người quấn khăn mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui trông không khác gì cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ chịu nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn sàng che giấu giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày, ngay cả những lúc cuốc đất đào mương dở rào phá cổng, những cặp mắt cú vọ của bọn vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm như đã thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn tránh khỏi bị cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt giam. Đêm về, chỉ còn ta và bóng tối. Đêm về chỉ có ta và gió và mây và tất cả những gì mà chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước đoạt, tự do đã bị cướp mất. Những ngày đó tôi làm từng câu thơ vụn vặt, rời rạc giữa hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá nặng còng lưng, lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi quên, đợi đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài thơ lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt nhục nhằn.

 

Tôi ba mươi tuổ̉i chế́t không mồ

Giữa trái tim nồng nhát chém khô

Đã khóc Khuấ́t Nguyên thời trẻ dại

Mắ́t giờ cay xé chuyện dời đô

 

Tôi viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi, cho một dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu khúc cho người còn sống hay đã chết. Tôi viết luôn cho người chưa sanh ra, bởi vì đất nước mà tôi để lại cho em sẽ không còn là cái quê hương hiền lành với tình người rạt rào như sóng lúa và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi đã khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt đã chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra có giọt nước mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương này.

 

Ôi vết thương sầu tận đáy tim

Năm năm vật vã nỗi đau chìm

Đêm đêm máu gọi trường thiên hận

Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm

 

Cái vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn mưng mủ nhiều năm về sau nữa.

 

trích .......

 

..........

3.

 

Sau hơn một năm nhốt lên nhốt xuống và chuyển từ trại tù này sang trại tù khác tôi được thả ra khỏi cái nhà tù nhỏ để đẩy vào cái nhà tù lớn hơn ngoài xả hội, cũng vô cớ như khi bị bắt đi tù.

 

Kể từ hôm đó, tôi sống lưu vong ngay trên chính đất nước tôi !

..................................................

............................................

.....................................

 

Không ! Người ta không còn quê hương khi không còn thấy liên hệ gì nữa với mảnh đất vườn rau, công viên phố xá ... nhất là với nếp tinh thần đang bị ép uổng theo một thứ chủ nghĩa vừa ngoại lai vừa quái đản. Cuộc sống từ đó bị hạ thấp xuống ngang hàng thú dữ.

 

Từ đó, bị dồn vào đường cùng, người Việt miền Nam bắt đầu tìm lối bỏ nước ra đi, bằng đường bộ hay bằng đường biển thì cũng chỉ là tuyệt vọng hóa liều, một kiểu đi tìm cái sống trong cái chết. Đi mà không biết chừng nào đi. Đi được rồi không biết chừng nào tới. Nếu tới cũng không biết tới đâu. Chưa kể những bẫy gài, những gạt gẫm, những mìn chôn ở bìa rừng, những đồn bót hiểm hóc, những dãy đá ngầm khôn dò, những mùa chướng không chừng đổi, đám hải tặc chực chờ và sau hết biển cả như một người tình phản trắc. Ở lại để chết dần mòn hay bỏ đi để chết dấp dúi ở một bờ bãi nào đó, người ta chọn cách thứ hai với chút hy vọng mỏng còn hơn sợi chỉ mành treo chuông. Vậy mà người ta vẫn tìm đủ cách để ra đi, bán nhà bán cửa, trốn chui trốn nhủi, nhịn đói nhịn khát để ra đi. Những người Việt mà nếp sống ngàn đời dính liền với ngọn rau tấc đất, với mồ mả ông bà, những người Việt mà đạn bom mấy chục năm không tách rời họ ra được khỏi làng xóm, mà thiên tai bão lụt chỉ làm họ nặng lòng hơn nữa với quê hương, đến cùng cũng dứt bỏ ra đi. Quả nhiên câu chuyện " Hà chính mãnh ư hổ " đâu phải chỉ có trong sách xưa thôi đâu. Đến cuối thế kỷ 20 người ta vẫn không sợ gì hơn sợ chính trị hà khắc. Người dân Việt vốn quen cực khổ như đã ngàn năm cực khổ với quê mẹ nghèo nàn, vẫn bám vào mảnh đất cằn cỗi như gốc tre già bấu rễ trong lòng đất có nghiêng ngã theo gió bão, nhưng vẫn ở đó, dẻo dai, bền bĩ, an nhiên tự tại. Có ai bỏ đi đâu, đời này sang đời khác, dính liền như núm ruột. Vậy mà lần này bỏ đi thiệt, cắt ruột mà đi.

Tôi đã thấy những cơn đau cắt ruột đó. Có thật trong mắt bà mẹ dặn dò gởi gắm đứa con trai 10 tuổi cho người quen dắt trốn. Có thật trong cái siết vai vội vàng của người chồng chia dẩn hai con đi trước để lại hai đứa cho vợ đợi chuyến sau. Có thật trong cái lạy tử biệt cha mẹ già. Có thật trong cái vuốt mắt cho đứa em kiệt sức giữa đường. Có thật trên xác thân trần truồng của em gái bị luân phiên hãm hiếp ở đảo Ko-Kra. Có thật ... Mà đúng ra làm sao tôi thấy hết được hằng hà cơn đau cắt ruột đó ? Hơn 10 năm, bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu người tới được một bãi bờ nào đó, còn bao nhiêu người đi mà không tới, hay tới mà không kịp lên bờ vì thuyền lật chìm ngay nơi bãi đến !

Ở đảo Bi-đông, trên một góc đồi ngó cheo leo ra biển cả có một nghĩa trang sơ sài và những nấm mộ không tên. Ở đó ngày đêm gió heo hút thổi, cây cỏ lần lữa vàng,

Ở đó, trại đã đóng cửa, người ta đã bỏ đi hết, những núm đất chắc đã lạn mất, những mộng đời bỏ dỡ, giữa đường ...

 

Tôi cũng bỏ xứ ra đi năm 80. Thuyền ra bến khoảng 3giờ sáng. Đêm mịt mù như tấm lòng bỏ lại. Tiếng máy chạy rì rầm không át được tiếng sóng vổ ngược rập rền. Khi thuyền chui ngang Cầu đúc để ra biển, sao bỗng nhiên tôi nghe tim nhói đau. Có phải không, tôi đang chạy trốn lần nữa cái trách nhiệm của mình. Năm năm ở đó, dò la nghe ngóng, hy vọng rồi thất vọng, tôi chẳng làm được gì ngoài cái việc tự cứu mình. Đất nước của tôi, đất nước của em, chúng ta bỏ lại mặc dầu có ai không tiếc thương. Xứ sở bị kềm kẹp nghẹt thở, bên kia biển là tự do hy vọng. Mọi người bỏ đi là lối thoát cho mình. Nhưng còn đó nguyên vẹn một cơn đau, còn đó đầy ứ những uất nghẹn. Ai sẽ cởi ách giùm ta nếu không phải là ta ! Một vài nhen nhúm phản kháng bị dập tắt trong trứng nước. Rồi thôi, coi như một việc đã rồi, mọi sự đã an bày, mọi người đều yên phận. Gục đầu ở lại hay cúi đầu bỏ đi cũng chỉ là chấp nhận một tình trạng không chấp nhận được. Chắc tại ta bất tài thiếu đức. Hay tại ta không đủ niềm tin. Hay vì cuộc chiến đã kéo dài quá mức, dài hơn cả độ dài của những tấm lòng trung kiên nhất, đến lúc kể cả những cánh tay rắn chắc và dẻo dai nhất cũng đành bỏ mặc buông xuôi ... Nước mất, chúng ta đành làm kẻ thất phu bỏ trốn. Chúng ta lần lượt bỏ đi, kẻ trước người sau, bất kể nguy hiềm kề cận từng bước. Cả thế giới khâm phục nỗi nhục nhằn mà người ra đi đã gánh chịu. Tuy nhiên đi mà em thơ còn thiếu bầu sửa ngọt, đi mà cha mẹ già còn bữa cháo bữa rau, đi mà cả nước vẫn tiếp tục chìm đắm trong cảnh ngu dốt nghèo đói, vẫn tiếp tục sống trong sự đối đãi bất nhân ... thì quả thật có phải là đầu hàng thêm một lần thứ hai nữa ? Sao ngày trước có Việt Câu Tiễn nằm gai để đừng quên nỗi nhục mà nay kẻ sĩ ít người còn chịu nếm mật để nhớ hận xưa Có phải tại phần số dân ta không ? Hay chính vì tại chúng ta là một dân tộc quá mau quên, lại còn nhẹ dạ !

 

Tôi cũng vậy, tôi đang bỏ đi xa đây, hởi quê hương khốn khổ !

 

Bốn ngày sau, thuyền tới đảo Bi-dong. Con thuyền nhỏ và mỏng như chiếc lá khô đổ lên bãi 90 người mất hồn, mệt lã. Chân lảo đảo vì say sóng, đầu còn lao đao giữa mộng và thực, bỗng nhiên tôi ứa nước mắt khi nhìn thấy lá cờ cũ bay phần phật trên cổng trại giữa một ngày gió lớn. Màu vàng lợt lạt, vải tưa sút sổ như đã treo ở đó từ lâu lắm, chắc đâu từ ngày người tỵ nạn đầu tiên đặt chân lên đảo. Chỉ có ba lằn gạch đỏ là còn đậm nét, cuốn bay ngoằn ngoèo, vùng vằng như thể vẫn còn giận dữ. Cái màu vàng đã phai, mấy lằn gạch đỏ còn đậm sao bỗng làm tôi khóc. Có phải tại tôi nhìn thấy màu vàng xơ xác đó trên màu da của tôi, của những người bạn đồng thuyền đang bở ngở dắt dìu nhau lê lết lên bãi, của những người đồng cảnh đến trước đang nhốn nháo kéo đến hỏi han tìm kiếm, của hàng trăm ngàn người đồng tình đang lưu lạc lang thang trong các trại tỵ nạn, và của hàng triệu triệu đồng bào tôi còn đang oằn oại ở xứ ngục tù. Có phải tại tôi nhìn thấy mấy lằn đỏ đó như mấy vệt máu tươi trên xác anh xác chị nằm chết la liệt vì miểng đạn pháo dọc Đại lộ kinh hoàng, vì viên đạn bắn sẻ lẻ loi từ một gốc cao su bên đường 13, vì trái mìn bẫy hèn hạ và mù lòa không phân biệt được một quân xa hay một chiếc xe đò chở dân đi chợ sớm. Có phải tại tôi thấy màu đỏ đó giống như màu máu đang chảy mệt nhọc trong huyết quản tôi, cũng giống y như màu máu đã chảy lênh láng trên đất nước tôi suốt ba mươi năm qua một cách vô lý và vô ích. Có phải không chính màu cờ đó mà anh đã tập chào kính ngay từ tuổi mới đến trường, đã theo anh suốt những năm tháng dài đi giữ nước, đã gói ghém thi hài anh buổi đưa anh vào lòng đất, bây giờ đây lá cờ đó đang bay vật vờ trên một đảo hoang ở giữa chừng biển lạ. Sao tôi thấy có một cái gì thảm thiết lắm. Sao tôi thấy chừng như mình quá đỗi bội bạc. Những người đã chết không còn vui hay buồn. Nhưng những kẻ còn sống làm sao vui được !

Tôi mang nặng cái tâm tình đó đi định cư ở một vùng đất lạnh. Ở đây có những tháng mùa đông dài như bất tận. Gió đồng không khô khốc thổi tuyết bay mù mịt. Trời xám ngắt làm thèm nhớ một giọt nắng tươi. Mỗi lần ra đường là áo khăn trùm quấn sùm sụp từ đầu đến chân, nhiều năm sau vẫn không quên được cái hơi nóng nồng nàn của trời đất cũ, đêm chiêm bao cứ thấy đi về ngồi quanh bếp lửa quê nhà. Nhưng riết rồi cũng quen, quen cả cái lạnh nứt da bỏng thịt, quen với mùa màng chộn rộn, quen với nếp sống tất bật đến nỗi không có thì giờ để buồn tủi. Ban ngày làm công cho một tiệm buôn của Tàu, tối chạy giao hàng cho tiệm ăn của Ý. Cuộc sống kể ra cũng tạm yên. Số tiền kiếm được nhín nhút cũng đủ cho mấy miệng ăn ở đây và một phần chăm đút cho cha mẹ còn kẹt ở đó. Nghĩ ra cũng đáng công băng sông vượt biển ! Mấy năm đầu qua mau như sợi giây đàn căng cứng, sống chẳng kịp đắn đo. Nhưng rồi càng sống càng thấy mình lệch lạc. Nhiều khuya một mình lái xe về qua mấy con phố vắng hoe, lòng bỗng nhiên chùng xuống như sợi giây đàn lỏng phiếm, có khảy lên cũng chẳng nghe được tiếng nào ra hồn. Chẳng lẻ trầy trật chạy chết thoát sang đây để suốt đời bương chải lo cho mấy cái miệng ăn, còn lời hẹn lớn ngày bỏ ra đi sao chẳng lo được cho trót. Theo đuổi lắm lần rồi cũng chỉ thấy còn lại toàn đắng cay. Những lời thề xưa nghe sao thơn thớt ở đầu môi. Bạn đồng tâm một ngày một vắng vẻ. Có lắm khi giữa buổi chuyện trò chợt lỡ lời nhắc chuyện ngày xưa cũng đủ làm đôi người khó chịu. Mấy năm lận đận gồng mình nuôi thân nuôi con và nuôi chí cả chỉ làm mình thành cô đơn hơn nữa. Dường như đã không ít người quyết tình quên cho đỡ phiền toái. Thật ra nói mà không trách được ai. Cái nợ nước nặng bằng non bằng biển, có một thời hình như ai cũng nhớ cũng mang. Nhưng rồi chuyện quê hương mà có lúc đem rao bán, đổi chác làm sao cho khỏi chán chường. Người thiên hạ cũng giống như chim bị tên sợ ná, đôi lần đem tấm lòng son gởi gắm, việc lớn đã không thành thì chớ, lắm khi lại thấy cảnh xôi thịt tranh giành, thử hỏi làm sao giữ cho bền chí được. Chắc tại căn phần của đất nước ta. Hay như đã nói tại chính chúng ta, chúng ta là một dân tộc quá mau quên. Có phải không, hãy thử nghĩ lại coi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ cha bỏ mẹ đã xẻ thịt cho ta chào đời, đã vắt cạn bầu sửa lép cho ta kháu khỉnh, đã còng lưng cho ta đứng thẳng lên làm người, đến ta khôn lớn mẹ cha mòn mõi mắt mờ chân yếu ta lại bỏ mà đi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ trời bỏ đất đã che chở cưu mang, đã cho ta hạt cơm ngon, mùi hương lạ, đã cho ta biết tình đầu ngây ngất, biết nghĩa nặng vợ chồng, đã cho ta bạn bè chung thủy, dạy ta biết buồn vui, nhớ thương, hờn giận ... và còn bao nhiêu thứ khác nữa mà ta sẽ không bao giờ tìm được ở một nơi không phải là quê hương. Vậy mà đến chừng đất nước hoạn nạn, ta lại bỏ xứ mà đi. Đi như vậy đâu phải như người Tàu ở Đài Sơn Phúc Kiến đi tìm miếng ăn manh áo, rồi đến lúc phú quý thì " áo gấm về làng ". Dĩ nhiên không ai chối cãi cái chén cơm ăn từng bữa, nhưng đánh đổi hết núi sông bằng miếng thịt cá, thì kể ra cũng đáng thẹn thùng. Quên lửng món nợ mà ta đã vay là không tròn chữ " tín ". Tay bắt mặt mừng với kẻ thù hôm qua là không tròn chữ " nghĩa ". Làm người không có " tín nghĩa " thì lấy gì mà ngẩng mặt lên đối đãi với đời !

Rõ ràng từ 25 năm trước, chính chúng ta đã lên tiếng kêu gào vang dội bằng những cuộc vượt biên hãi hùng làm cả thế giới rúng động. Cuộc-bỏ-phiếu-bằng-chân như một trả lời dứt khoát ngay mặt lũ tuyên truyền láo khoét, mở toang cánh cửa khóa kín che đậy thực-tế- Việt-Nam cho nhân loại có dịp nhìn thấy mặt thật của cái-gọi-là-lương-tâm-loài-người mà người cộng sản vẫn luôn miệng rêu rao. Nếu chúng ta đã không trực tiếp đánh đuổi được bạo quyền thì ít nữa chúng ta cũng đã gián tiếp làm một việc cần-làm, biểu lộ tối thiểu ý thức phản kháng của một dân tộc tự trọng. Ít nữa cha mẹ ta cũng đỡ phần tủi hổ, bạn bè ta cũng có chỗ gởi lòng và đất nước ta còn có cơ hy vọng. Rõ ràng thế giới đã mở cửa đón chúng ta như những người trốn chạy độc tài. Rõ ràng lòng hào hiệp đó là một vinh danh cho ý thức tự do. Chúng ta đến đệ tam quốc gia như những người tỵ-nạn- chính-trị. Sao không giữ lấy niềm hãnh diện đó dù là một hãnh diện rất tội nghiệp. Bởi vì dẫu sao đó là chút liêm sĩ còn sót lại của một dân tộc có lịch sử và văn hiến lâu đời.

Tại sao lại kéo nhau về khi tình thế vẫn giống y như ngày bỏ ra đi ? Làm như vậy có phải chính tay ta bôi lấm cái hình ảnh đầy cảm tính của người-thuyền-nhân trong lòng thế giới. Chúng ta có đang làm bẽ bàng những ủng hộ trước đây hoặc gây ngộ nhận đáng tiếc rằng mọi sự đã thay đổi tốt đẹp ở đó. Mỗi bước đi về hôm nay là một bước đi xa thêm cái ước vọng mà mỗi người ở bên này hay bên kia đã thắc thẻo trông ngóng từ một phần tư thế kỷ nay.

Trở về như vậy có phải là đầu hàng thêm một lần thứ ba nữa !

 

Em thấy đó người ta đang lũ lượt kéo nhau về, thản nhiên như mới bỏ đi hôm qua hôm kia. Thản nhiên như không có gì đã xảy ra ở giữa lòng ta hay ở bên kia biển lớn. Làm như những nấm mồ la liệt đã lạn mất dưới ba tấc cỏ, những trại tù đã hết sạch, những hờn oán đã tiêu tan. Làm như xác tàu nằm chơ vơ trên bờ bãi hoang vu là bộ xương cá mục, những trinh tiết rơi rớt trên đảo hoang mọi rợ là cái giá phải chăng, những xác chết trôi dập rã rời trên đầu sóng dữ chỉ có trong ác mộng. Làm như chuyến vượt biên bán sống bán chết là cuộc du ngoạn đồng tình và lý thú. Làm như cái chuyện anh em ta, bạn bè ta bị đày đọa đến bỏ xác trong các trại tập trung sau khi đã buông súng là hợp công lý, cái chuyện nhẫn tâm mua bán xua đuổi hàng triệu người ra biển dữ là thuận đạo trời, cái sách lược chèn ép kềm giữ con dân trong sự tối tăm ngu dốt là hợp lòng người.

Tại sao lại hăm hở kéo nhau về khi mà mọi sự mọi việc mọi chuyện mọi thứ mọi lối mọi cách mọi kiểu mọi điều ... vẫn ù lì trì trệ như nước ao tù hãm đã ù lì trì trệ từ ngàn ngàn năm xưa năm xửa. Thử bình tâm mà xét coi. Từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn rặt một bài bản cũ xì, mốc thếch, lỗi thời mà thiên hạ bốn phương đã đào huyệt chôn bỏ từ đời nào. Cái đau lòng là ngay tại đất mẹ của nó, người ta cũng đã sáng mắt phủi bỏ cái chủ nghĩa tàn hại bất nhân đó như phủi bỏ một loài sâu nhặng ghê tởm thì tại Việt Nam những đầu óc cầm quyền già nua tối ám vẫn khăng khăng cứng đầu cứng cổ nhắm mắt nhắm mủi quơ quào bám riết lấy, cương quyết theo đuôi như chưa bao giờ cương quyết đến vậy. Trong khi cả thế giới đang hào hứng lên đường cho kịp vận hội mới, thì tại Việt Nam họ vẫn bịt mắt bịt tai tiếp tục chằng giữ dòng sinh mệnh của dân tộc, tiếp tục trì kéo dân lành đi cho hết cuộc trầm luân. Những chiêu bài " đổi mới ", " cởi trói " chỉ là những giả vờ làm mà mắt kẻ ngây thơ, còn thật sự thì tiếng nói của lương tâm chỉ có thể cất lên đằng sau những chấn song tù ngục.

 

Có ai nghĩ rằng về như vậy là mặc nhiên thỏa hiệp với độc tài, là tiếp tay bóp chết cái phôi dân chủ còn trong trứng nước.

Tại sao lại rủ rê kéo nhau về vô tư như một chuyến đi chơi xa. Làm như chốn đó là một nơi nào xa lạ lắm, chẳng có một chút liên hệ ruột rà. Làm như tai điếc mắt mù nên không thấy cái sinh hoạt " ồn ào và náo nhiệt " hiện nay chỉ là mặt nổi của một xả hội tuyệt vọng đến độ buông thả, cái kiểu ăn chơi " chết bỏ " chẳng cần biết đến ngày mai. Bên cạnh đó, đại đa số thì nghèo đến độ cũng thành ra buông thả, chạy ăn từng bữa nên cũng chẳng còn biết đến ngày mai. Bởi vì có một ngày mai nào đâu để lo, có một ngày mai nào đâu để chuẩn bị. Người ta sống qua ngày nào hay ngày nấy, không một mảy may hy vọng vào tương lai. Đó có phải là một trong những lý do mà chúng ta phải bỏ đi. Tại sao trước đó không chịu nỗi mà bây giờ trở về lại khứng chịu ? Hay tại cảnh tình lam lủ đó không có ta, chẳng dính dáng gì đến vợ con ta, nên mắt ta bàng quang, lòng ta thanh thản. Vậy chớ còn nỗi nhục của lần trốn chạy ? Nỗi căm hận cuộc bách hại cha ông ? Nỗi đớn đau thắt ngặt của nghèo đói và ngu dốt ? Chẳng lẻ 25 năm đã làm mòn trí nhớ để thấy thù là bạn. Hay thật sự ta chỉ là một đám cùng dân mòn đầu tha phương cầu thực, không ý thức chẳng lý tưởng, đến khi có đồng tiền rủng rỉnh thì tìm về khoe áo gấm, để thỏa mãn cái sở thích " sadique " chỉ khoái lạc khi thấy người chung quanh đau khổ.

Dĩ nhiên ai cũng có cha mẹ già cần về phụng dưỡng, em út cần bảo bọc. Nhưng có cần thiết và hợp tình không đi thưởng lãm vịnh Hạ Long, lăng tẩm Huế, phố xá Sài Gòn ... nhởn nhơ phè phỡn như một đoàn du lịch dư ăn dư mạc, khi hai bên đường sông núi vẫn xác xơ, cây cỏ còn buồn rầu và lòng người nặng nề uất hận. Anh hay chị có gặp không, dài theo tam cấp mấy ngôi đền, lấp ló sau mấy hàng cột, từng bầy trẻ nhỏ lang thang chờ đợi mấy đồng bạc bố thí của anh chị, mà lẻ ra giờ đó phải ngồi trong lớp học. Có một cái gì không ổn, có một cái gì trục trặc, phải không ? Anh hay chị có lần nào ăn uống linh đình trong một nhà hàng sang trọng mà trước cửa hàng chục đứa bé lem luốt đang chực chờ vét hột cơm thừa húp tô canh cặn của anh chị không ? Có một cái gì quá bất nhẫn, phải không ? Có khi nào anh chị thả dài nhởn nhơ trên bãi biển Vũng Tàu Nha Trang Phan Thiết để nhìn cái hoạt cảnh của những cô gái bán hàng rong và bán luôn cả thân xác. Có lần nào được nghe kể lại về những trò chơi của đám du khách Việt kiều trong các căn phòng khách sạn dành cho người nước ngoài chưa ? Những đồng đô-la được thảy ra để trả giá từng bộ phận trên tấm thân phụ nữ trần truồng giữa tiếng cười sặc sụa hơi rượu thịt. Ngay cả với một cô điếm thập thành, cái trò mua bán đó đã là một cái gì quá ư tàn nhẫn. Biết đâu cô gái đó đã không là nạn nhân của một chế độ mà chính chúng ta nhờ nhanh chân hơn, nhờ may mắn hơn đã chạy thoát. Đùa giỡn như vậy có phải là đùa giỡn trên chính sự tan nát của lòng ta không ? Dòm quanh coi có những lối rẽ nào cho những cuộc đời khốn khổ đó ? Vẫn những mặt người thờ thẫn, những cặp mắt u ám, những lưng còng tóc rối, những chân tay khẳng khiu, những xác thân gầy đét, những cuộc đời buồn hiu ... Xứ nào cũng có người nghèo đói, nhưng tại sao người nghèo đói ở xứ mình không có một chút may mắn nào để thoát ra. Dòm quanh coi những trường học, nhà thương, đường xá, cầu cống ... đã có gì là dấu hiệu của một sự phát triển đúng đắn có kế hoạch cho một tương lai lâu dài chưa ? Hay chỉ là những vá víu tạm thời, chụp giựt, những chương trình sớm thay chiều đổi hoặc là những bày biện vẽ vời cốt để trám cho đầy bảng thống kê, nhất là để trám cho đầy cái túi tham không đáy của bọn người man trá. Ngó suốt từ nam ra bắc có tìm ra được một dấu hiệu nào cho lòng thành khẩn, ân cần của kẻ cầm quyền lo cho con dân như những thời thịnh trị.

Như vậy tại sao lại rầm rộ kéo về ?

Có phải tại chúng ta là một dân tộc quá nhẹ dạ. Mới nghe giở cái giọng o bế đòi nối liền " khúc ruột ngoài ngàn dặm " là đã mũi lòng, mà không chịu nhớ đến hằng chục triệu " ruột thịt " khác vẫn còn đang tiếp tục bị chèn ép thắt buộc đến mức oằn oại ở trong nước. Tại sao họ không lo nối cho liền lạc những khúc đời tơi tả đó, mà lại phải tốn công vòng vo đi níu kéo những kẻ đã bỏ trốn, đã bị giáng cho cái tội phản quốc tày trời, đôi khi năm lần bảy lượt mới vượt thoát sau khi đã bị cướp hết từ vòng vàng đến nhà cửa, nhất là nhân phẩm của một con người. Hay là tại vì những kẻ đó đã " hết " phản quốc vì trong túi đã có chút đỉnh đô la sau nhiều năm cày cục ở xứ người. Và vì vậy, một sớm một chiều trở thành khúc " ruột tượng " của chế độ. Người ta nhân danh hai chữ dân tộc không ngượng miệng, kêu gào đến thảm thiết đám con dân đã bỏ trốn ở nước ngoài, vốn dĩ đã bị chèn ép xua đuổi không chút xót thương trở về để tiếp tế, hợp tác, xây dựng lại đất nước sau khi đã thẳng tay tàn phá và vẫn đang thẳng tay vơ vét, hưởng thụ trên đầu trên cổ của đám dân đen còn kẹt lại, những tài nguyên nhân vật lực đang có sẵn. Nghĩ ra thấy trân tráo, vô luân một cách thảm hại.Vậy mà vẫn có những chuyến trở về !!!

Vâng, vẫn có những chuyến trở về.

Người ta vẫn ngang nhiên đi về qua lại vui chơi, mua bán, làm ăn chẳng một chút bận lòng. Vẫn tiếp tục qua lại cửa quan với tờ giấy năm, mười đô-la kẹp giữa sổ thông hành, vẫn tiếp tục coi tờ giấy bạc như tấm danh thiếp " passe-partout ". Và như vậy, mặc nhiên tiếp tục thông đồng với nhà cầm quyền, phát triển và nuôi dưỡng một hệ thống tham nhũng hối lộ chằng chịt, tiếp tục nuôi béo cho những cánh tay bạo lực đang bóp cổ bịt miệng đám người thấp cổ bé miệng, tiếp tục nuôi béo cho những bàn chân bạo lực đang dẫm đạp lên những phận người vô tội - hay chính là thân phận của anh em bạn bè quyến thuộc của chính họ còn kẹt lại.

Điều đáng nói là người ta coi việc làm đó như một chuyện đương nhiên, không thắc mắc, chẳng bận tâm. Một chuyện tầm thường như trăm ngàn chuyện tầm thường nhất. Nhưng mà có thấy không, cái bi đát là đến một lúc cái tầm thường đó nổi tiếng như một đặc-điểm-việt-nam . Chúng ta có thấy ray rứt gì không ?

 

Hai mươi lăm năm đã qua, qua nhanh như một cơn lốc. Tôi đã già đi nhiều. Những mộng ước cũng theo tóc bạc dần. Chuyện nước non vẫn còn đó, nguyên vẹn. Mười lăm năm trước tôi đã kết thúc một bài thơ bằng cái hình ảnh tuy cay đắng nhưng nghe còn rạo rực :

 

Ta lơ láo giữa bầy chim múa rối

Làm sao về trổi kịp khúc hoan ca ?

 

Mới gần đây tôi lại viết, nhưng sao chỉ thấy buồn hiu :

 

Ôi đất nước có còn vui kịp

Một đời tôi héo úa từng giờ !

 

Thơ tôi cũng bắt đầu thấm mệt như đời tôi vậy. Hai mươi lăm mất nước. Hai mươi năm lưu lạc rồi còn gì. Chữ hiếu không tròn mà chữ trung cũng không trọn. Nghĩ lại còn thua kẻ thất phu ngậm than rửa hờn cho chủ cũ. Nhớ đến Bá Di Thúc Tề chẳng chịu ăn rau Chu mà thêm thẹn với đời.

Chuyện lớn không làm được, chuyện nhỏ càng thêm vụn vặt. Ngó quanh quất chỉ thấy lệ cũ đã đóng khô, xếp xó trong từng góc bụi nhòa. Sợ mai kia mốt nọ, đám nhỏ lớn lên có khi tự hỏi sao mình ở đây, ở một nơi không phải chỗ mình ? Có ai không để bắt đầu câu chuyện kể : " Ngày xưa, đã lâu lắm, có một lũ người bỏ xứ ra đi rồi ... không kiếm được đường về ... "

 

 

... Độ rày, trời sắp sửa vào thu. Ngày bỗng dưng ngắn lại và đêm, đêm thì cứ dài ra như không sáng nữa. Những cơn gió lạnh chiều chiều từ dãy núi xa ở bên kia con sông lớn đã bắt đầu thổi về thành phố mang theo cái mông quạnh của những đồng cỏ bạt ngàn ở mạn bắc, và đồng thời cũng mang đi mất bầy sẻ nhỏ thường làm vui góc phố quạnh hiu. Chỉ còn lại những dây thép đen xấu xí với hàng cột đèn trơ trụi. Công viên trước nhà vắng ngắt, bầy trẻ nhỏ đã rút vào nhà, bỏ trơ lại bãi cát vô hồn, chiếc cầu tuột xiêu vẹo và những dây xích đu im lìm.  Cái không gian vốn dĩ rất lặng lẽ của một góc phố nhỏ với những căn nhà kín cửa quanh năm lại càng lạnh lùng hơn khi gió bấc trở mùa. Khu vườn sau nhà xao xác gió, lá rụng sớm hơn mọi năm. Những chiếc lá úa nằm rải rác trên sân cỏ, buồn hiu như xác giấy hoa của một đêm vui vừa tàn. Trời đất đang sửa soạn cho một cuộc thay đổi lớn, bất tận. Và con người, con người ở đâu trong cuộc tuần hoàn miên man của vũ trụ ?

Sao bỗng nhiên tôi chùn tay, muốn ngừng viết. Có ích lợi gì không những điều tôi đã và sắp viết ra. Sao bỗng nhiên giọng văn của tôi trở nên sầu thẳm quá đỗi. Có phải tại đứa con trai út vừa đi nhập trường ở một thành phố xa, bỏ lại gian nhà đã trống lại còn trống hơn ? Tại nó mang đi mất một phần thân xác và tâm hồn tôi ? Hay tại vì cái khoảng trống lớn giữa đời tôi đã không lấp bớt được chút nào lại còn tiếp tục khơi rộng hơn nữa ? Có phải đó chỉ là sự tiếp tục bình thường của dòng đời miên viễn, chỉ là sự lập lại một lần nữa hàng triệu triệu biệt ly ?

Đưa con đi xa lần này, suốt con đường trở về hơn bảy tiếng đồng hồ lái xe, sao tự nhiên tôi như thấy lại và hiểu rõ ràng hơn lúc nào hết tấm lòng của ba tôi buổi chiều xuân năm mậu thân, khi con đường quốc lộ số 4 bị cắt đứt, ba tôi phải đưa tôi ra bến tàu xin quá giang một đoàn tàu quân đội về Sài-gòn nhập học. Năm đó, nhà cháy, của cải tan hoang, ba tôi 58 tuổi, tóc sương phơ phất, bộ quần áo bà ba trắng quen thuộc sao như rộng hơn thường khi. Ông đứng đó không nói một lời nào, tay xách túi quần áo của tôi, lo lắng bồn chồn, cặp mắt vắng vẻ... Rồi tàu rời bến, mặt sông rộng mênh mông, gió lên và chiều xuống. Ông đứng đó, đằng sau lưng một mặt trời tẻ lạnh, bỗng nhiên tôi thấy ba tôi giống như một pho tượng, im lìm, chịu đựng, nhẫn  nhục như suốt một đời đã nhẫn nhục nuôi lớn bầy con quá đông. Tàu xa dần, pho tượng vẫn im lìm, bất động. Và bỗng dưng, tôi như thấy một giọt nước mắt nào đó đọng mơ hồ trên khóe mắt ba tôi. Giọt nước mắt mà dường như ba tôi đã cố nén tự nãy giờ. Từ lâu lắm. Từ câu nói vói " thôi con đi ". Từ lúc móc đưa cho tôi xấp tiền cuối. Từ lúc nhà cháy. Từ lúc dắt tôi đi thi tú tài. Từ lúc dắt tôi đi thi trung học, tiểu học. Từ lúc ẳm tôi đặt tôi vào nôi ... Ba tôi có nói gì đâu ? Trời đất có nói gì đâu mà dòng đời vẫn sinh sinh diệt diệt !

Vậy tại sao tôi lại dài dòng kể lể ? Để làm gì ? Để em hiểu tôi hơn ? Để làm gì ? Có cần lắm không ?

Tại sao tôi bỗng trở nên sầu thảm thái quá !

Có cần thiết không em ? Người thiếu phụ đoan trang với gia đình gương mẫu, sau ít nhiều lận đận với vận nước nổi trôi, cũng đã vói được tới bờ hạnh phúc, thứ hạnh phúc bình thường, giản dị mà tôi vẫn thường cầu mong cho những người thân yêu của tôi, em có phải biết những điều tôi đã nói, những gì tôi đã sống ? Mà tại sao em phải biết ?

 

                                      Những dòng chữ này rồi sẽ có một dịp may nào đến với em hay sẽ được xếp lại và cất vào một hộc tủ, bỏ quên như hàng chồng bản thảo đã bị bỏ quên, đâu đó, quến bụi trong những xó xỉnh của đời tôi. Tuy nhiên, lần này, nếu có cái dịp may hãn hữu đó, xin em hãy đọc một cách từ tốn, điềm đạm, từng chữ từng dòng. Hết trang này, rồi trang khác. Hết tờ này lật sang tờ khác. Rồi cũng sẽ đến trang cuối cùng. Cũng giống như những trang giấy của cuộc đời. Giống như tôi, tôi cũng đang lật tiếp, không ngừng tay, những trang giấy của đời mình. Sẽ đến một lúc chỉ còn những trang giấy bỏ không, lở dở ...

                                      Nếu có đọc, hãy coi đây như tiếng kêu chót của loài thiên nga tuyệt vọng, một thứ trần tình của thế hệ đang tàn lụi dần, cái thế hệ của những người thầy sinh bất phùng thời. Cái thế hệ dở dang. Cái thế hệ oan trái. Tôi đã được hưởng rất nhiều ân huệ của người đi trước, nhưng không đáp đền lại được gì cho người đến sau như cái lý tưởng mà tôi đã được nuôi dạy. Mấy ngàn năm tình nặng nghĩa sâu của dân tộc đã un đúc tôi nên người, đã ru tôi bằng những vần ca dao trìu mến, đã âu yếm tôi bằng những điệu ầu ơ vỗ về, đã tắm mát tôi bằng dòng suối cỗ tích ngọt ngào và đã nuôi tôi khôn lớn bằng bầu sữa mầu mỡ của lịch sử. Tôi đã làm gì được với tất cả cái vốn liếng quí báu đó đâu em. Tôi mơ mộng năm 18 tuổi, tôi rong chơi năm 25, tôi chững chạc năm 30 tuổi. Tất cả cái gia tài truyền thống đó, nét tài hoa ngùn ngụt đó, truyện Kiều với hơn ba ngàn câu thơ thăm thẳm, Chinh Phụ Ngâm là giọt lệ trong veo, Cung Oán đài các ngay trong hận tình uẩn khúc. Còn bao nhiêu câu ca dao tươi mát như rau cỏ ngoài vườn. Còn cuộc chiến cự Bắc phạt Tây, cuộc Nam tiến là thiên trường ca vô tận. Lịch sử máu xương đầy dẫy những nấm mồ vô danh, để cho ngọn tre già còn phơ phất tiếng ru trưa, để cho bụi lúa còn trổ đòng đòng tươm sửa, để bầy trẻ nhỏ ê a tiếng đánh vần, để mái đình còn thơm mùi hương khói. Những nấm mồ vô danh từ thuở Đống Đa, Ngọc Hồi. Những nấm mồ vô danh từ thuở Gia Định, Trấn Tây. Những nấm mồ vô danh ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Giả, An Lộc, Phước Long, Châu Đốc, đường số 9, quốc lộ 13 ... dấp dúi bên bờ cát duyên hải, chen chúc giữa rừng già cao nguyên, vùi dập dưới bùn lầy châu thổ ...

Tôi đã làm gì ? Thế hệ tôi đã làm được gì đâu em ! Chúng tôi đã bỏ dở một cuộc chiến. Chúng tôi đã đầu hàng một kẻ thù. Và như vậy có xứng đáng để phàn nàn hay không ? Cái cơ hội được đóng góp vào cuộc chiến dựng nước và giữ nước của cha ông đã bị bỏ lỡ một cách ngây thơ vô tội vạ, cái hạnh phúc tuyệt vời của tự do đã bị xem thường khi có nó trong tay, thì khi bị tước đoạt, người ta còn có quyền tiếc rẻ hay không ? Hay chỉ nên lặng lẽ cúi đầu và ... câm nín. Mặc kệ những khuya khoắc trở trăn ! Những sớm hôm thắc thỏm!

Tôi có nên viết tiếp hay không ? Có đáng để khượi lại một vết thương đã lành - hay tưởng như đã lành, gọi dậy một phần đời đã ngủ yên - hay tưởng đã ngủ yên, tiếp tục làm khó chịu, mệt mỏi thêm những cuộc đời đã quá sức mệt mỏi. Có đáng bắt mọi người phải nhớ lại, đau khổ, thương xót hoài hoài ngay khi cả chính mình cũng chỉ là một nỗi bất lực thảm hại. Dường như đã quá trễ nãi để nhắc nhở, đã đủ muộn màng để lãng quên ?!

 

Vậy hãy coi đây như một điều rất đỗi riêng tư, một món nợ mà tôi chưa kịp trả. Món nợ tôi đã vay 25 năm trước mà 25 năm sau vẫn chưa quên, thì câu trả lời của tôi hôm đó quả có vô tình quá hay không -" Thì tôi cũng đã sống như mọi người "

Tôi đã trả lời giống như khi trả lời với mọi người khác. Điều đó có phật ý em không ? Em đâu còn là cô học trò nhỏ, dịu dàng và tinh quái, để tôi là ông thầy có thể bắt nạt dễ dàng. Em đã là một người lớn, chững chạc, điềm đạm và ân cần. Giọng nói tuy nhẹ nhàng trong trẻo nhưng dường như đã vẩn đục ít nhiều gió bụi của thời gian. Và cặp mắt, tia nhìn sao tôi thấy lao đao những dấu hỏi xốn xang. Cặp mắt đó, dịu dàng nhưng quyết đoán, tra vấn tôi ngay khi em không nói lời nào, sao tôi thấy có một vẻ gì chừng như ái ngại. Có phải bằng trực giác em đã nghe được từ đâu đó nhịp điệu của những bước tàn phai. Tôi có chủ quan quá không ? Sao từ buổi chiều hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh hoài về cái tia nhìn có một chút ngơ ngác, một chút phiền muộn, một chút trách móc, một chút hờn giỗi. Như tôi đã không nói thật. Như tôi đã giấu diếm một điều gì. Em có quyền nói chuyện ngang hàng vì em cũng đã có những ưu tư của người lớn. Có thể trong tấm lòng rất nhân ái của em, hình ảnh người thầy già cỗi đồng nghĩa với điêu tàn, cái bất ngờ bao hàm sự mất mát, sự tình cờ có nghĩa rất mong manh và cuộc tái ngộ chỉ là mặt trái của chia ly.

 

                                      Ôi biết thời gian có chịu ngừng

 

Tôi đã viết một câu thơ như vậy, sau khi chia tay. Và thêm nữa, một hẹn hò

                                      Rủ nhau mai mốt về quê cũ

                                      Giảng nốt bài thơ bỏ nửa chừng

 

Có phải chỉ là để tự an ủi mình trước vòng quay ác nghiệt của thời gian. Đâu còn một buổi học nào nữa. Làm sao em mặc lại áo lụa đến trường, tóc bay theo gió sớm và lòng mới nguyên như giấy trắng, đâu còn chiếc bàn học gỗ thô màu xám, viết mực tím và sách vở âu lo. Tôi đâu còn giờ trên bục giảng, với phấn trắng bảng đen, để cùng em mở cánh cửa đời vạn đại, đưa em vào thế giới gấm hoa của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, của Nguyễn Du, Phan Huy Vịnh ... tìm bắt lại cái nhịp lòng đằm thắm của lớp người đi trước, khơi lại cùng em nguồn suối nhân bản của dân tộc để em và các bạn lớn lên, vững chải như ngàn thu và tươi tắn như tầm xuân mới nụ, chân thành với mình và rộng lượng với người, tạo dựng cái thế quân bình tuyệt diệu của tâm hồn Á Đông trước sức cám dỗ của văn minh Tây Phương. Tôi muốn sửa soạn cho học trò của tôi cái sức mạnh dịu dàng của ngọn tre Việt Nam trước bão táp, để mai sau dù-có-bao-giờ các em vẫn là người Việt Nam trong cái nghĩa thuần túy nhất của nó. Tôi có lý tưởng quá không em ? Tôi có làm được việc đó chưa ?

Công việc bị cắt ngang đột ngột. " Bài thơ bỏ nửa chừng " có phải là niềm tiếc hận khôn nguôi về một lý tưởng bị phản bội, một trách nhiệm không chu toàn, một giấc mơ không trọn vẹn. Cái nhìn của em, nỗi quan hoài của em có phải là đoạn nối dài của bài thơ dang dở đó !

Thôi thì, xin em hãy đọc ở đây như một cố gắng hết lòng của người thầy cũ để trả cho xong một món nợ tinh thần. Một lần rồi thôi. Món nợ mà tôi đã gây ra khi tạo cho các em niềm tín cẩn, lòng kính mến, sự cầu toàn ... trong những giờ giảng dạy trước đây. Nhưng mà tôi, tôi có làm được gì không ? Năm học đã chấm dứt một cách tức tưởi mà không chờ tiếng trống bãi trường.

Tôi chưa nói hết được điều muốn nói. Em chưa học đủ điều cần học. Tôi và em đều có một cái gì đó lở dở chưa làm, một cái gì ngang ngửa chưa xong. Chắc vì vậy, mỗi người đều cảm thấy bất an, thấy thiêu thiếu, thấy hụt hẩng ... Có thể cái gì đó mong manh quá nên mỗi người đều như ray rứt khi nghĩ lại. Có thể cuộc đổi đời phủ phàng quá nên mỗi người đều cảm thấy ngỡ ngàng. Giống như cơn mưa bóng mây chưa đủ ướt mặt người đã dứt. Giống như cơn mơ nửa chừng bị đánh thức. Giống như cuốn tiểu thuyết bị xé mất trang sách cuối cùng. Người ta bở ngở, bực tức hay tiếc nuối. Cái chờ đã không đến. Sự mong mỏi không được đền đáp. Người ta thấy xốn xang như đánh mất một cái gì quí giá lắm. Người ta cảm thấy chới với như bước lỡ vào khoảng trống bất ngờ. Người ta cảm thấy bối rối như bỏ quên một cái gì thân thiết lắm mà lại quá đỗi mơ hồ.

Tuy vậy cứ an tâm đi em. Cuộc đời tự nó rất giản dị. "Trời sẽ tối tiếc thương rồi sẽ hết. Và dấu giày mai sẽ lá sương che " Từ nhiều năm trước tôi vẫn thích câu thơ của Nguyễn Đình Toàn. Em thấy đó, có gì rắc rối đâu, cái cõi quạnh hiu này. Ngày đến rồi ngày đi, đêm tới. Và bóng tối sẽ trùm lên tất cả. Những dấu yêu, những ghét bỏ. Những đợi chờ cũng như những lỗi hẹn. Những khuôn mặt thân quen, những bóng hình xa lạ. Mặt đất này vẫn là nơi để người ta đến rồi đi. Cuộc đời này vẫn là chốn để người ta tụ hợp rồi ly tán. Tất cả sẽ mòn phai dần dần như dấu giày đã qua đây một ngày nào, sương sẽ cuốn đi từng lớp mỏng và lá sẽ lấp lên từng chiếc một. Con đường trước mặt cũng chỉ là một dãy mây trôi, ngã rẽ là những khúc quanh vô định, lời hứa hẹn chỉ là cơn gió thoảng và ước mơ cũng chỉ là những an ủi ngậm ngùi. Tất cả sẽ biến mất kể cả sắt son tưởng là thắm thiết, kể cả đá vàng đã tưởng là bền chặt.

Trời sẽ tối ! Có thời gian nào không trôi đâu em. Có dấu vết nào còn mãi đâu em. Những tiếc thương, đọng lại như vệt sương trên ngọn cỏ, cũng sẽ tan trong một phút một giây. Người ta náo nức gặp gỡ. Người ta rạo rực chia tay. Một tháng. Một năm. Rồi tất cả sẽ trở lại bình thường, rất bình thường. Cái mặt hồ im lìm chợt xao động vì một chiếc lá rơi sẽ trở lại im lìm như đã tự trăm năm. Mọi người sẽ trở lại với nếp sống thường nhật, với trách nhiệm bổn phận. Mọi người sẽ trở lại với văn phòng, với xưởng thợ, với tiệm buôn, với công việc của một người vợ, một người mẹ, một người chồng, một người cha. Người ta sẽ bận tíu tít với chợ búa, với đồng tiền kiếm được hay mất đi, với ngôi nhà mới tậu, với chức vụ mới thăng, với việc làm mới mất ...

Vậy đó em, trái đất vẫn tiếp tục quay đều cái vòng quay của nó. Một năm mười hai tháng. Một tháng ba mươi ngày. Một ngày hai mươi bốn giờ. Mùa hè đã qua. Mùa thu đang tới. Và mùa đông sẽ chực chờ trước cửa. Những người sắp tới, sẽ tới. Những người sắp đi, sẽ bỏ đi.

 

Tất cả cũng chỉ là những người khách vô tình trong cuộc tuần hành miên man của vũ trụ.

Và chúng ta, chúng ta cũng chỉ là những sơ sẩy của một toan tính định mệnh.

                            

Em đừng khóc, đừng buồn đừng nhìn nữa

                                                Cứ cúi đầu, cứ thế rồi ra đi

                                             Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết

                                                      Và dấu giày, mai sẽ lá sương che  (*)

 

Vâng, những tiếc thương rồi sẽ hết.

 

Và tôi, và em, và dấu giày trở lại, mốt mai sẽ chỉ còn là một vết sương che .

 

Bóng tối sẽ trùm lên tất cả.

 

Những tiếc thương rồi sẽ hết.

 

Những tiếc thương sẽ hết .

 

 

 

                                                                                                            Cao vị khanh

CVK_Loitrantinh_2.jpg 

 

 

CVK_Biencuonghanh.jpg

tháng 4,

đọc lại Biên cương hành

của Phạm Ngọc Lư

 

Biên cương hành

 Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?

Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai ương
Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khi đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hoá thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương

Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương
Chiều hôm bắc tay làm loa gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
Gọi ai giữa sơn cùng thuỷ tận?
Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
Em đâu, quê nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây trắng ra biên cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông
Thôi em, chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
Há một mình ta xuôi biên tái
"Nhất khứ bất phục phản" là thường!

Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.


5-1972


 

************** 

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Bài hành bắt đầu bằng một tiếng chào. Tiếng chào câu hỏi từ muôn đời vẫn được coi là biểu tượng của sự thân ái, mời mọc, thiện ý, hảo tâm... Có ai mà chào người dưng nước lả. Hay có ai mà gật đầu chào một kẻ thù, một đối tượng sẵn sàng nuốt sống, ăn gan, uống mật mình đâu. Vậy mà Phạm Ngọc Lư lại gật đầu, lại vẩy tay chào... mối hiểm họa đang chờn vờn ngay... trước mắt mình.

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Dù vậy, nguyên câu thứ nhất  bảy chữ toàn vần bằng, mà hết sáu chữ là loại phù bình thanh. Giọng ngang ngang, không cao không thấp, nghe ra cái điệu khinh khỉnh... như chào mà không chào. Chào mà không lấy gì làm thân thiết, lại như có chút gì thách đố.

Biên cương biên cương chào biên cương

Thật ra, đã có thời, trên cái xứ sở khốn khổ của chúng ta, biên cương hay rừng núi hay thành phố hay đồng bằng, kể cả chợ búa hay trường học... đã có gì khác nhau đâu. Tất cả đã được người ta biến thành mọi bãi chiến trường. Ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có thể là trận địa, một khi lòng người đã bị nhuộm đỏ bằng sự cuồng tín và ngụy trá. Nghĩ vậy rồi, đọc lại câu mở đầu bài Biên cương hành mới nhận ra được hết sự cay đắng, niềm xót xa của một kẻ sĩ trót sanh nhằm-thế-kỷ.

Ông tới đó, Củng sơn, một thị trấn hẻo lánh nằm dạt về phía biên giới Lào, nơi mà máu-đã-nuôi-rừng-xanh-xanh-ngắt-núi-chập-chùng-như-dãy-mồ-chôn.

Hình dung một thế đất, bốn phía rừng núi vây quanh, chướng khí mù mịt, gió Lào thốc tháo, mà mỗi thân cây đã được vun phân bén gốc bằng máu me xương thịt của bao nhiêu trai trẻ được xua tới đó để giết người hoặc bị người giết. Điệp tự xanh-xanh ( ngắt )sẽ tính ra bằng bao nhiêu cân lượng của bao nhiêu nấm mồ ( kể cả không có được một nấm mồ ) để dựng lên một phong cảnh núi rừng toàn bích !

Thử nghĩ coi, bài thơ được ghi làm vào tháng 5 năm 1972, lúc ông vừa 26 tuổi. Năm 72, mà trong bất cứ trí nhớ dù đã quá sức mòn mỏi của những người Việt miền nam vẫn chưa bao giờ quên được. Cái gọi là chiến dịch xuân hè, người miền bắc xua đại quân vượt sông Bến Hải, xé bỏ hiệp định Genève, công khai đánh phá khắp nơi. Bình Trị Thiên. Kontum. Peiku. Bình Long. An Lộc... trọn phần đất ở phía nam vĩ tuyến 17 chìm trong đạn pháo mịt mù. Lính tráng hai bên, dân lành vạ lây chết oan như rạ. Năm đó Phạm Ngọc Lư hai mươi sáu tuồi. Và ông cảm khái làm hành Biên cương.

Tuổi hai mươi, lứa tuổi vừa hết non nhưng chưa đủ dạn dày, lứa tuổi sắp sửa cho một lên đường hướng tới những phương trời cao rộng. Vậy mà người thanh niên đó đã bị chặn hết mọi ngỏ ngách, mọ̣i hy vọng đã bị dìm chết, mọi dự phóng đã bị bóp nghẹt ... bằng đủ thứ dã tâm ác ý nhằm dồn đẩy cho được tuổi trẻ bước lọt vào con đường một chiều ... con đường sinh tử.

Người thi sĩ đó, lớp tuổi trẻ đó đối diện tương lai mình với tâm trạng cay đắng cùng cực. Vậy còn lạ không khi ông viết

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt

Núi chập chùng như dãy mồ chôn

 

Lời chào như một tiếng cười mỉa, hay bi tráng hơn, một tiếng cười gằn, phẩn uất, mặc kệ, bất chấp... của một kẻ giác đấu bị đưa ra đấu trường mà mọi vòng thành đã bít kín. Nghĩa là không có mảy may một chọn lựa nào khác. Hoặc chết. Hoặc sống. Chết ! Hết chuyện. Sống ? Đã hẵn là may mắn chưa sau khi mặt mày đã nám khói đạn bom, sau khi ngón tay trỏ đã tê điếng vì siết cò súng tới rướm máu ? Câu hỏi trở nên vấn nạn bậc nhất cho cuộc chiến tranh tương tàn đó.  Người thanh niên miền nam nước Việt sinh ra và lớn lên được nuôi dạy trong tinh thần khai phóng, nhân bản và dân tộc. Họ được dạy dỗ yêu nước thương nòi, quí trọng đồng chủng cùng giòng máu đỏ da vàng, họ được uốn nắn theo tinh thần nhân nghĩa ngay từ thưở còn ê a đánh vần từng chữ cái. Huyền thoại cái-bọc-trăm-con đã được giảng dạy hết sức ân cần để in sâu vào ý thức họ ngay từ buổi khai tâm. Lớn lên, hít thở không khí tự do - dù có còn hạn chế, họ vẫn có cơ hội tiếp xúc với mọi trào lưu tiến bộ của nhân loại về mọi mặt. Từ đó, tâm hồn họ trở nên giàu có, phóng khoáng, nhân bản ... biết bao nhiêu. Do vậy, khi phải đối đầu với kẻ thù cùng màu da rõ ràng là một thách đố quá bất công và bất nhân của định mạng. Nghĩ lại coi, có phải. Bắn một viên đạn vào kẻ bên kia chiến tuyến là một việc làm chẳng đặng đừng trong khi lòng họ băn khoăn hết sức. Phía bên kia, ngược lại trăm phần. Lịch sữ đã chứng minh triệu triệu điều như vậy.

Bởi vậy khi đối diện với thực tại của cuộc chiến tranh tương tàn đó người thanh niên miền nam, người thi sĩ đó còn thái độ nào khác ngoài sự chấp nhận nó một cách... chua chát đến ngậm ngùi.

Biên cương biên cương đi biền biệt.

Chưa hết thanh xuân đã cùng đường.

 

Trọn bài hành là một cực tả về tính chất vô lý đến bi đát của cuộc tranh giành xương máu đồng loại vừa qua, trải ra từ trái tim của một kẻ có lòng. Cái tuyệt vời là trong suốt 66 câu 7 chữ không có một chỗ nào để lộ ra sự phẩn nộ. Dù là người trong cuộc, chịu chung kiếp hẩm hiu, ông làm thơ với giọng điệu bi tráng, khẩn thiết mà trầm tỉnh, đau đớn mà không bi lụy. Cho nên dù âm điệu của bài thơ rất trung tính, người ta vẫn nghe ra từ đó tiếng kêu trầm thống của cả một dân tộc bị đọa đày, bị cấu xé, bị giành giựt đến tang thương bởi chính những kẻ cùng chung một nguồn gốc tổ tiên !!! Chữ chở nghĩa trọn tình, từ tốn mà thâm trầm hết mực. Ông không tả cảnh núi rừng mà thấy núi rừng phủ chụp như thiên la địa võng. Ông không tả cảnh sát phạt mà nghe ra như súng nổ đạn bay. Đọc thơ mà tai như nghe ù ù gió thổi, tưởng đâu hồn tử sĩ bay vật vờ trên bãi chiến còn úng khói.

Đây biên cương, ghê thay biên cương

Tử khí bốc lên dày như sương

Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu

 

Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào rồi cũng sanh ra kẻ hèn nhát, người anh hùng. Nhưng cuộc chiến đó, qua hồn của kẻ sĩ làm thơ, không có mảy may vinh quang, mà chì rặt có điêu tàn. Không có người thắng kẻ bại mà chỉ rặt có nạn nhân. Những nạn nhân bị ném ra đất chết như vãi-đậu. Cái chữ nôm na mà ôi sao ai oán ! Vãi đậu. Còn chữ nào tượng hình hơn cho cái chiến-thuật-biển-người đem nướng con đen trong lửa đỏ. Lính tráng được xô ra bãi chết như một lũ hình nhân được cắt bằng giấy không biết vui buồn, không có yêu thương hờn giận. Chỉ là một lũ hình nhân vô tri vô giác trong tay đám phù thủy núp kín dưới tầng tầng công sự, bị ném ra như vãi đậu để giành giựt cho được thứ tham vọng ngông cuồng. Nỗi cay đắng cùng cực của kẻ sĩ Phạm Ngọc Lư thể hiện rõ ràng trong hai chữ cho-rậm, ta về theo cho rậm chiến trường. Cho rậm, rậm đám ... người ta hay nói vậy. Nhưng thường nói trong những cuộc vui. Ở đây, giữa cuộc chiến, lấy gì vui mà về-cho-rậm-đám. Nếu không phải  một nỗi bi phẩn cùng cực của một tâm hồn hết sức nhạy cảm trước nỗi bất lực của mình khi thấy chuyện bất nhân bày ra hằng giây hằng phút trước mắt mình. Ôi người thi sĩ tội nghiệp giữa một thời vô đạo. Người thi sĩ đó, kẻ đã được nuôi dạy trong không khí hoa lệ của văn học cỗ điển, với những hồn thơ nhân bản tuyệt vời của một thuở Đường thi lộng lẫy đã đem cái phong cách trang trọng của thơ xưa vào thơ mình. Chữ nghĩa của ông cỗ kính mà nhẹ nhàng, kinh điển mà phóng túng khiến cho bài hành vừa có vẻ xa xôi trang trọng mà lại gần gũi với người trong cuộc biết mấy. Bằng phong độ của một bậc thức giả và nghệ sĩ, ông đã phóng tầm mắt xuyên suốt cõi địa chấn để nhìn thấu qua rừng núi, cỏ cây, đất đá, đạn bom... cái bị che át bởi tiếng nổ, bị chôn vùi bởi đất đá cày xới, bởi đường mật tuyên truyền, bởi rù quến chủ nghĩa... cái thực ở đằng sau mọi giả trá, cái còn lại sau những nát tan... Ông đã thấy đằng sau những núi non trùng điệp bị nổ tung vì đạn mìn, đằng sau những thét gào say máu giữa khói súng và ánh thép loang loáng của dao găm, ông đã thấy ra cái không gian lặng ngắt sót lại, đã nhìn ra cái hình ảnh lạnh lẽo sau cùng, đã nghe ra tiếng kêu gào vô thanh của những... cô hồn, thêm nữa tiếng khóc lặng lẽ nuốt ngược vào lòng của những... cô phụ.

Đá mang dáng dấp hình chinh phụ

Trơ vơ chớp núi đứng bồng con

Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy

Đá vọng phu mọc khắp biên cương

 

Ông ta thấy rõ ràng như một với một là hai, mà có phải ai cũng thấy ra những hồn oan vất vưởng, hay nghe ra tiếng đời vô vọng đó.

 

26 tuổi. Đã đủ già chưa để cằn cỗi. Đã hết mơ mộng chưa để chai đá. 26 tuổi. Cái tuổi như hoa mới hết thời hàm tiếu mà chưa tới lúc mãn khai. Vậy sao nhìn ra chỉ thấy cái điêu tàn. Cái tuổi lẻ ra đang trên bệ phóng để nhắm tới tương lai. Cái tuổi đã được chuẩn bị để dành cho những hẹn ước. Vậy mà sao gần như con đường trước mặt đã bị phong tỏa kín bưng đến nỗi không dám nghĩ tới cả một lời hẹn ước.

Thôi em, sá chi ta mà đợi

Sá chi hạt cát giữa sa trường

Sa trường anh hùng còn vùi dập

Há rằng ta biết hẹn gì hơn ?

 

Thương cảm và trân quí biết bao nhiêu tâm hồn thi sĩ đó. Ông làm thơ không phải cốt để tả cái chon von của núi cao, cái thăm thẳm của rừng già, cái hiểm hóc của hang động, cái ngặt nghèo của đèo cả, ông làm hành để nói lên cái oan nghiệt của chiến tranh, cái chờ đợi vô vọng của những người cha người mẹ có con cái bị xua vào chỗ chết, của những người con gái có tình nhân thất hẹn, của những người vợ có chồng bị ném như vãi đậu vào cuộc bắn giết hung tàn. Bài hành như một dấn thân vào phía mặt thật của chiến tranh bị che giấu, bị tô vẻ bằng những ngôn từ hoa mỹ. Ở phía đó, hoàn toàn không có gì hết, không tiếng gầm của bom đạn, không có tiếng thét của trái tim búng máu, không có tiếng la của da thịt rách nát... Ở đó là một sự im lặng tuyệt cùng, im lặng tuyệt đối. Ở đó là tiếng kêu không vuột ra được khỏi hai bờ môi. Ở đó là cặp tròng ráo hoảnh không còn đủ một giọt nước mắt chảy xuôi. Ở đó là cái lỗ trống khủng khiếp của người mẹ mất con, của người vợ mất chồng, của đứa con mới lọt lòng đã mất cha... Cái thấy của ông khác với cái thấy của những bản tin chiến sự, khác với cái thấy của xảo ngôn ra rả trong những tuyên ngôn tuyên cáo. Cái thấy của ông là cái thấy của con-mắt-trông-thấu-cả-sáu-cõi*. Thơ của ông được làm ra từ những-giọt-máu-chảy-ở-đầu-ngọn-bút *. Cho nên, mỗi năm đến tháng tư, lục ra đọc lại Biên Cương Hành lại nghe như có giọt nước-mắt-thấm-trên-tờ-giấy* khi người thi sĩ ấy vẩy bút làm thơ...

Quả vậy, nói được gi thêm nữa. Hành được làm bằng hết tài hoa bút mực và tấm lòng mẫn cảm đến muôn đời. Hồn thi sĩ rướm những giọt máu còn rây rớt trên từng ngọn cỏ lá cây, trây trét trên đất đá vô tri, từ mươi năm trước, từ hôm qua, mà hôm nay, mà ngày mai... vẫn tiếp tục thấm máu của bao nhiêu trai trẻ bị xô đẩy tới đó để tiếp tục giết nhau, giết nhau tận tình như những kẻ cuồng sát dù trong lòng họ không thiếu nỗi bi thương.

Cho nên, ở đó giữa núi rừng cô tịch, ông thấy từng đoàn cô hồn kéo đi lũ lượt. Những cô hồn giận dữ !

Cô hồn một lũ nơi đất trích

Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng

Chém cây cho đỡ thèm giết chóc

Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương

 

Rừng núi cô tịch có gì vui sao kéo nhau vào đó mà tan thây nát thịt. Có nghe chăng tiếng hát ngông cuồng bi thiết của lũ người bị lừa gạt bị dụ dỗ bị mê hoặc mà ném thân vào hiểm địa làm mồi cho súng đạn vô tình. Ai nghe được tiếng kêu uất hận đó ngoài người thi sĩ đang độ tuổi đôi mươi. Và ai ngoài ông để cảm thông được nỗi ai oán của những người trẻ chết trận mà chưa một lần được nếm chút hạnh phúc trần gian. Chữ nghĩa được chọn lọc tinh tế mà không lộ chút kỷ xảo. Phạm Ngọc Lư đã sống tận tình kiếp sống của người trong cuộc. Hẵn, ông đã không ngại dấn mình vào chỗ thâm sơn cùng cốc đó để nghe cây rừng rùng mình, đề nghe đất đá run rẩy... sau mỗi bận súng đạn gầm thét. Mà chắc phải vậy, phải tận mắt cảnh núi lở đèo nghiêng, đất đá nát ngấu, rừng cháy tan hoang bỏ trơ cây cối cụt đầu, hầm hố chằng chịt ... mới cảm ra được sức tàn phá đó nổ banh trên thịt xương người ra sao, mới nhận ra được lửa nướng cháy da người khét lẹt thế nào, mới nghe được tiếng kêu thất thanh xé ruột làm sao khi lưỡi dao bén ngót đâm lút vào thân xác. Phải ở đó, mới nghe ra được tiếng gọi từ thăm thẳm của cả một lớp trẻ đương tuổi yêu đời yêu người mà bị bức tử đoạn đành.

Chiều hôm bắt tay làm loa gọi

Gọi ai nơi viễn xứ tha phương ?

Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận ?

Ai người thiên cổ tiếc máu xương ?

 

Tiếng gọi u uất nghe đến nát lòng. Mà rồi tiếng gọi cũng chỉ rơi vào cõi vô vọng. Như triệu triệu tiếng kêu đòi khác, vẫn rền rĩ, từ tiếng súng đầu tiên phát nổ ...

Chẳng vậy, mà hơn 40 năm qua, vẫn còn nguyên tiếng gọi giải oan cho bao nhiêu người đã chết, chết mà không biết vì sao mình chết, chết mà lịch sử bị đẩy cho quay ngược lại vòng quay, mà đất nước đi ngược lại chiều tiến bộ, mà năm này sang năm khác, đất nước trở lại y nguyên cái tình trạng từ thời người ta xua con trẻ đi làm chuyện ... giải phóng.

 

Hãy đọc lên thành tiếng thêm một lần, 6 câu cuối của bài thơ để nghe lại hết nỗi oan khiên của nguyên mấy thế hệ bị hy sinh cho một chủ nghĩa bất cận nhân tình. Đọc lên thành tiếng để nghe dội lại tim ta tiếng kêu thương của từng lời kinh khổ

Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.

 

Hai mươi mấy tuổi đời của những năm 60, 70 ... hay xa hơn nữa từ những năm 30, 40, 50 ... thử nghĩ lại, đã có khi nào, trên mảnh đất gầy còm hình chữ S, mà tuổi trẻ Việt Nam được sống yên lành đề dự phóng tương lai cho chính mình và đồng loại mình. 6 câu thơ cuối, Phạm Ngọc Lư làm cho ông, cho thế hệ ông và cho cả bao nhiêu người tuổi trẻ trước ông, kể từ khi có một lũ người đi vay mượn thứ chủ nghĩa ngoại lai và không tưởng đem về bày trò giết chóc đề̉ áp đặt lên quê hương. Từ đó, súng nổ, dao đâm, dìm nước thả trôi sông... từ đó, tang thương... từ đó, đoạn trường... từ đó...

Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương

 

Từ đó một hẹn thề là trăm lỗi hẹn, có một hạt giống gieo là đã cả vườn cây cháy rụi, một đứa bé ra đời là đã bao nhiêu trai trẻ bỏ xác góc núi bìa rừng. Bởi vậy, đến một lúc, ngay cả đương tuổi thanh xuân, người ta cũng bỏ mặc buông xuôi, như thể mọi vẫy vùng đều vô ích, mọi phản kháng đều bất khả.  

Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương

Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi

 

Hề chi ! Sá chi ! Mặc kệ ! Những tán thán từ người ta chỉ dùng đến khi bị dồn vào đường cùng. Ờ , mà tuổi trẻ Việt Nam thời đó, thời của những biên cương rào kín lòng người, thời của súng đạn ngoại bang được nhét vào tay, thời của mắt bị bịt kín... rồi bị xô bị đẩy bị lùa từng đoàn từng lũ vào eo chết thì... nếu không ... hề chi, sá chi... thì cũng có làm gì hơn được !

Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi

Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương

 

Hề chi ! Hề chi ! Tán thán tự được lập lại hai lần phải chăng để hình dung hai cánh tay buông xuôi, bỏ mặc, khi người ta đã ở chỗ cùng đường, tuyệt lộ.

Biên cương hành. Đọc lại mà sống lại cùng ai một đoạn trường !

Chính vì vậy, mươi năm trước đọc qua đã ngậm ngùi, bây giờ đọc lại còn nguyên cơn đau thắt ruột với vẫn nguyên nỗi cảm phục nét tài hoa tót chúng. Rõ ràng, đọc lại Biên Cương Hành, thấy nguyên vẹn nỗi oan ức của hàng đoàn hàng lũ cô hồn cô phụ đi vất vơ cạnh bên phía lề oan trái của lịch sử.  

Hành. Loại thơ sủng ái của những bậc tài tình thiên cổ lụy. Chữ cuồn cuộn như nước đổ trường giang. Ý tiềm ẩn như rồng thiêng thấy đầu mà không thấy đuôi. Chính vì loại thơ vừa lề luật vừa phá thể khiến cho người làm thơ mặc tình phóng bút.

Trong tay bậc tài hoa, hành làm ... thốn tâm thiên cổ.

Cho nên, đọc hành làm sao mà không thấy dạ mang mang. Nay-đời-xa-người-khuất, đọc hành Phạm Ngọc Lư như thấy lại lòng mình, làm sao không cảm khái đến trăm nỗi xót xa. Xót xa cho đời. Xót xa cho người.

Xót xa cho vận nước.

Hành. Đổ Phủ. Bạch Cư Dị. Lý Bạch ... Rồi Thâm Tâm. Nguyễn Bính. Thanh Nam. Tô Thùy Yên. Viên Linh... Và Phạm Ngọc Lư.

 

Vâng. Và Phạm Ngọc Lư.

 

Cao vị khanh

* như một lời đã hứa

* chữ của Mộng Liên Đường chủ nhân

 

 

__________________________________________________________________________________________________________ 

  

 

 CVK_lesfeuillesmortes.jpg

                                                                                                   Thủ bút của Jacques Prévert 

 

YVES MONTAND - Les Feuilles Mortes - Bing video

et ... Les feuilles mortes

 

CVK_song.jpg

Viết cho những người đã yêu nhau .

Rồi xa nhau...

mà chẳng biết vì sao ...


Trong suốt cuộc yêu thương mà chừng như bội bạc, đã có lần nào tôi kể em nghe về một bài hát cũ mà người ta đã hát thay cho một tiếng thở dài.

Ờ như một tiếng thở dài vậy em.

 

Bài hát là một tình khúc nổi tiếng từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước mà cho đến nay, hơn bảy mươi năm rồi... vẫn chưa thôi gây xốn xang trong lòng người, mỗi bận tình cờ nghe lại...Thơ của Jacques Prévert, người thi sĩ thích đùa giỡn với chữ nghĩa như đã bung thùa tuổi trẻ mình trên đường phố Paris. Bài thơ đó, Les feuilles mortes, được viết dựa theo một điệu nhạc soạn cho vũ khúc ballet bởi Joseph Kosma rồi được dùng làm nhạc đề cho một cuốn phim của Marcel Carné. Công trình họp soạn là một cách thức phá thể, như ý muốn vượt thoát cái hiện thế điêu tàn và trì trệ của một thời vừa im tiếng súng. Ra đời trong sự thờ ơ của người đương thời nhưng rồi chẳng mấy chốc trở thành bài ca ưa chuộng của hàng triệu người khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, hẵn không ít kẻ đã nghe ra như một niệm khúc cho riêng mình. Bài hát được trình bày theo thể điệu Jazz, nhịp bốn-bốn mở đầu với cung trưởng và kết thúc bằng cung thứ, với những chuyển cung vừa lả lướt vừa điệu nghệ, những âm giai thay đổi lên xuống bất chợt, có khi đẩy nốt nhạc lên tới quảng 5 quảng 8 làm như mỗi nốt nhạc là một chiếc lá lìa cành, bay chập choạng rồi để mặc gió cuốn đi vất vưởng ... vất vưởng như những tình nhân trong cuộc xô đẩy phũ phàng của định mệnh ...

 

Nếu có dịp may một lần nào nữa, tôi sẽ lục tìm để cùng em nghe lại, Yves Montand... Giọng nam, khàn đục như quến khói, trầm uất như thoát ra từ một cõi đời đã lạnh. Bài hát mở đầu không bằng tiếng ca mà bằng mấy câu thơ được đọc lên như chỉ để nói thầm, như chỉ nói cho mình mình nghe. Dù ngay câu nói đầu tiên đã bật ra một tiếng gọi. Đại danh từ ngôi thứ hai. Tu. Em. Có điều tiếng gọi chìm lấp trong âm sắc u ẩn của giọng kèn saxo, làm người nghe có cảm gíác dường như người được gọi đã lánh mặt vào một cõi đời nào khác. Oh, je voudrais tant que tu te souviennes. Des jours heureux quand nous étions amis. Bởi vậy rốt lại chỉ còn là một lời độc thoại mà sao nghe ra thủ thỉ như o ấp từng chữ một, làm như người kia đâu đó ... vẫn kề bên. Tôi mong ước làm sao cho em còn nhớ lại. Những ngày hạnh phúc khi chúng ta sống bên nhau. Những ngày tháng đó, đời đẹp biết bao nhiêu. Và mặt trời ấm áp hơn bây giờ rất nhiều

Oh, je voudrais tant que tu te souviennes,

Des jours heureux quand nous étions amis,

Dans ce temps-là, la vie était plus belle,

Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,

Tu vois, je n'ai pas oublié...
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Et le vent du nord les emporte
Dans la nuit froide de l'oubli.
Tu vois, je n'ai pas oublié
La chanson que tu me chantais.

Rồi cả dàn nhạc trổi lên quấn quýt theo tiếng kèn đồng não nuột đưa đẩy cho tiếng hát vuột ra, bộc bạch từng nỗi xót xa ...

C'est une chanson qui nous ressemble
Toi, tu m'aimais et je t'aimais

Tiếng hát so đo từng lời, kể lể từng chữ như muốn phanh phui từng nghĩa, mơn trớn như hơi thở nồng nàn mà âm vọng lại nằng nặng như bàn tay gầy, thô, ve vuốt lên miệng một vết thương chưa lành, ve vuốt mà làm đau râm ran theo từng ngón vỗ về. Tiếng hát lặng lờ  bay đi, tiếng buồn dội lại đè nặng lên lồng ngực, ray rứt như tiếng nứt rạn của mặt băng dưới sức ép của thời tiết đổi mùa. Nhịp slow chậm, trì trì như ngày tháng mỏi mòn dẫm đau lên những đợi chờ đã vô vọng ...

Mais la vie sépare ceux qui s'aiment

Nhưng rồi cuộc đời chia cách những người yêu nhau
Tout doucement, sans faire de bruit

Lặng lẽ chẳng để lại một tiếng vang

Nghe như một tiếng thở dài hơn là một điều than oán. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ. Không một trách móc. Không một oán hờn.

Et la mer efface sur le sable

Les pas des amants désunis.
Và rồi biển cả xóa dần những dấu chân trên cát của những cặp tình nhân bị chia lìa

Có phải đã xa rồi, xa lắm rồi, ngày tháng đó, mùa hè ấm, góc phố xưa, đêm lễ hội gần tàn, ly rượu cuối ngày ngoài hiên một quán thưa khách, nghiêng đầu bụm tay che gió thắp thêm điếu thuốc, vừa khi ngẩng lên, bất chợt, một thoáng hiện... Ai kìa. Bỗng dưng trăm dấu nhớ. Tim hụt nhịp. Dáng nữ kiêu sa. Mái tóc rối gió vẫn nguyên đường ngôi chẻ lệch. Tia nhìn lặng mà lao xao réo gọi. Ờ hai con mắt vốn đã xốn xang, bây giờ se thắt thêm mấy dấu chân chim đã mỏi.  Ơ .. ơ ... có phải là ... ? Ồ ! Em ! Rồi vòng tay siết vội. Phút chốc, hương mùa yêu cũ. Tiếng cười nhẹ trên đôi môi đã thiếu phụ. Khóe mắt rươm rướm hồ như đọng một thoáng sương đêm. Rồi bỗng nhiên hiện tại nhòa đi. Rồi cả một quá khứ bỗng ùa về... Mấy chục năm trời biệt dạng. Một tích tắc, nguyên vẹn như thuở... ngày xưa.

Như vậy đó chúng ta gặp lại. Bất ngờ như mọi thứ tình cờ. Đêm còn lại toàn dấu tích.

Hai mươi lăm năm bỗng như chớp mắt. Tình yêu trở ngược mạnh như cơn gió dữ, thổi tan hết mọi ngại ngần.

Và rồi... nụ hôn không kềm giữ dưới chân bức tường đá, cũ từ đã trăm năm. Quá khứ trùng vây. Tương lai bất định. Mặc kệ. Ôi nụ hôn mang đôi cánh thiên thần đưa người ta vượt cõi trần gian tù ngục. Phút chốc mà thiên thu. Phút chốc thành định mệnh.

 

Ờ, tôi nghĩ em còn nhớ. Dù bây giờ chúng ta đã xa nhau như hai tinh cầu thất lạc. Xa đến nỗi khoảng cách không tính được bằng lời. Dù vậy làm sao mà quên được hả em. Những giây phút mà người ta chỉ sống một lần, trong một đời. Làm sao quên được em, dù trí nhớ là thói quen bạc bẽo nhất của con người. Năm ba năm, mười mươi năm, rồi bây giờ, những ngày tháng cuối, tôi vẫn còn nhớ. Dù như những chiếc lá khô rụng lả tả đã được xúc đi từng bựng. Kể cả những kỷ niệm và ngay cả những hối tíếc đã bị thời gian cuốn đi rồi lấp kín trong bóng tối thăm thẳm của lãng quên. Tôi nghĩ em vẫn còn nhớ. Cũng như tôi.

 

Mùa hè năm đó. Oh, je voudrais tant que tu te souviennes. Cả một thế giới mênh mông bỗng thu nhỏ lại. Giờ giấc nhập nhằng không còn định được bằng dấu mốc của thời gian. Mặt trời mặt trăng sông nước núi non góc đường nẻo phố, mọi thứ trở nên thừa thải. Chúng ta có cần đến đâu. Hoa lá cỏ cây dù đương lúc mãn khai cũng không còn sức quyến dụ. Mùa hè năm đó. Khi chúng ta có nhau. Khi chúng ta bên nhau. Sau hai mươi lăm năm bặt tung tăm tích. Mùa hè đó. Thời tiết mùa màng đã vì chúng ta mà rạng rỡ. Những lọn nắng vàng cứ tha thiết vờn lên mái tóc em ngoan. Những ngọn gió ấm từ phía nam thổi tới ve vuốt hoài hai bờ vai bỏ hở. Trong tay tôi, em phó mặc mọi điều. Trong nhau, chúng ta quên hết mọi thứ. Chiến tranh. Nghề nghiệp. Bổn phận. Trách nhiệm. Giáo điều. Hết thảy mọi thứ đã kéo dạt chúng ta ra hai phía suốt hai mươi lăm năm đằng đẳng. Chỉ còn tôi. Chỉ còn em. Chỉ còn chúng ta. Ôi mùa hè năm ấy.

Des jours heureux quand nous étions amis,

Dans ce temps là, la vie était plus belle,

.......................

Nous vivions, tous les deux ensemble,

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

 

Với nhau mọi thứ đều trở nên tuyệt vời. Em nhớ không. Có phải khi hạnh phúc người ta trở nên dễ tánh. Có nhau, người ta có cần gì hơn nữa đâu. Ngay cả miếng bánh chiên ăn vội bên lề đường. Ngay cả ngụm cà phê bán trong ly giấy, tay cầm, tay quàng lưng nhau vừa đi vừa uống, len lách qua đám đông mỗi bận xuống phố. Ngay cả căn phòng khách sạn nhỏ xíu như cái tổ chim tìm mướn vội vàng, khi trời hửng sáng bữa gặp lại, sau gần một đêm thức trắng đưa nhau lội lang thang qua những đường phố vắng tanh. Kể lể. Phân trần. Nhưng có cần đâu. Trong tận cùng cái góc kín nhất của lòng nhau, đã có bao giờ chúng ta mất nhau. Suốt đoạn trường đó. Bởi vậy khi gặp lại, hạnh phúc như chút bọt bèo vớt vát được sau cơn hồng thủy thành ra giản dị biết bao nhiêu. Giản dị đến độ nhỏ nhoi, đến gần như vô nghĩa. Chỉ cần sự có mặt của nhau đã là nguồn cơn hạnh phúc. Mùa hè đó, mọi thứ trở nên hoàn hảo. Ngay cả mặt trời dường như ấm hơn mọi khi. Làm sao không ấm hơn khi tình yêu luôn là ngọn lửa hừng hực, đốt cháy da thịt người trong suốt cuộc yêu đương.

Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui

 

Em nghĩ coi. Có phải những câu hát đã nói giùm ta như vậy.

 

Làm sao quên hả em. Người đã yêu tôi thầm kín thời con gái, từ hai mươi lăm năm trước.

Làm sao biết được, thoáng yêu rồi... rồi mất biệt nhau luôn.

Dòng đời trôi xa. Em lưu lạc đâu đâu. Tôi xô dạt phương nào. Ai biết được. Vậy rồi, dưng không, chúng ta gặp lại nhau.

Thử hỏi, trong suốt khoảng thời gian thăm thẳm đó, có lần nào nghe ngóng được chút tăm hơi. Vậy mà gặp lại rồi, y như mới hôm qua hôm kia. Y như 4 giờ sáng bữa mới vào xuân, chuyến xe liên tỉnh, đèn ngoại ô vàng không giấu được nét hốt hoảng trong mắt nhìn bỗng dưng thất lạc, bàn tay níu không muốn rời như dự cảm một hiểm họa chực chờ, buổi sáng em đưa tôi về quê. Rồi tai ương ụp xuống. Rồi quốc lộ bị cắt đứt. Rồi tù tội. Rồi biển xa. Rồi thôi. Rồi thôi. Dẫu vậy làm sao người ta cắt đứt được một thứ không thể cắt đứt. Sau hai mươi lăm năm. Mọi thứ vụt nối lại như chưa từng bị bứt rời.

 

Dù hai mươi lăm năm có ngắn đâu em. Hai mươi lăm năm dài lắm, dài đằng đẳng. Dài đến nỗi em đã là thiếu phụ. Nghĩ cho cùng hai chữ thiếu phụ buồn lắm em. Tôi có muốn nghĩ tới đâu mà rồi cứ phải đắn đo, mỗi lượt gặp nhau.

 

Trong tình yêu, có chi mà trách cứ. Người ta tìm đến nhau, đâu có ai mời gọi ai, đâu có ai kéo níu ai. Trong tình yêu, người ta tìm đến nhau rất tình cờ. Tình cờ như hằng hà sa số lần gặp gỡ trong cõi đời nghìn muôn vạn nẻo này.  Rồi người ta xa nhau. Cũng tình cờ như hằng hà sa số chuyện đổ vở kể từ khi người ta biết yêu nhau.

Làm sao người ta dự đoán được sẽ gặp nhau, rồi yêu nhau, rồi xa nhau... buổi sáng mai, lúc chiều xuống, giữa khuya hôm... đầu mùa xuân, bữa cuối thu hay ngay giữa ngày đông mà ai cũng cần một vòng tay ấm...

Tất cả rồi chỉ là trò chơi của định mệnh. Và con người, con người rồi ra chỉ là những chiếc lá rơi trong vòng xoáy của cơn gió vô tình...

 

Mặc kệ những hẹn thề hay bội ước, bất kể sắt son hay ruồng rẫy, cho dù thắm thiết hay lạt lẽo, rồi hạnh phúc hay khổ đau, tất cả, tất cả cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền đang quay tròn, quay tròn hết sức mình. Sấp. Ngửa. Sẽ đến lúc, một lúc nào đó, vòng quay phải ngừng lại. Và tất cả, những người yêu nhau, và tôi và em, ai có phần nấy ...

 

Dẫu vậy, em thấy đó, làm sao tôi có thể quên...

Tu vois je n'ai pas oublié.

( dù như ) vô số những chiếc lá chết được xúc đổ đi,

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,

những kỷ niệm yêu dấu của chúng ta, ngay cho dù là những tiếc nuối

Les souvenirs et les regrets aussi,

cũng sẽ bị gió từ phương bắc thổi về cuốn đi

Et le vent du nord les emporte,

chôn kín hết vào bóng tối lạnh lùng của quên lãng

Dans la nuit froide de l'oubli.

 

Vâng, tôi có quên đâu. Nhưng dẫu vậy, tôi có giữ lại được gì khi đời sống như biển lạ. Và những tình cờ như những con sóng vô tình cứ vổ vật vờ lên bờ bãi đời ta. Mọi thứ rồi chỉ là bọt bèo trôi tắp theo đẩy đưa bất định của dòng đời miên viễn... không khởi đầu cũng chẳng chung cuộc. Ai nói được sẽ ra sao... ngày sau ! Bởi vậy oán trách gì nhau khi hạnh phúc đã chứa sẵn mầm thiên tai. Trong tái ngộ đã hiển hiện lần ly biệt. Đã có lần Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An nhắc nhở... ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...Tại chúng ta quàng vai đun đẩy nhau vào khu vườn cấm ... Ôi những cánh dơi mù lòa ... đáng thương. Và đáng trách ? Không, tại sao ... Tại sao oán trách khi yêu đương đã là viên đá mà lời sấm rủa đã bắt Sisyphe phải lăn lên tới chót đỉnh trong khi cái chỗ của nó là ở dưới chân núi. Bởi vậy khổ dịch của Sisyphe có phải là số phận của những tình nhân yêu thương nhau trong tuyệt vọng. Như... tôi và em. Không gặp. Đời có gì vui. Gặp. Đời như nhắp chút rượu thơm rổi dư vị đắng chát cặn lại không thôi. Nhịp đời nặng thê thiết như một điếu khúc được phát ra từ một đĩa hát cũ được quay đi quay lại. Đã dặn em đừng chờ đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ chờ cứ đợi. Đã nhắc tôi đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ đợi cứ chờ. Ôi những cánh dơi mù lòa ... Bởi vậy, gặp lại rồi, rồi lại phải xa nhau. Xa nhau mãi. Mãi mãi.

 

Tu vois, je n'ai pas oublié,

La chanson que tu me chantais...

C'est une chanson, qui nous ressemble,

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

Nous vivions, tous les deux ensemble,

 

Dẫu vậy em thấy đó, tôi có quên đâu. Những gặp gỡ len lách. Những hẹn hò tránh né. Những kỷ niệm. Bài hát lần nào em đã ru tôi giữa gối chăn xô lệch. Thần tiên gảy cánh đêm xuân. Bước lạc sa xuống trần. Thành tình nhân đứng giữa trời không. Khóc mộng thiên đường. Câu thơ nào tôi đã viết lên bóng tối từng trang thương nhớ sau những ngụm rượu đắng từng đêm. Ta sẽ chờ nhau giữa mịt mùng. Khi ngày mất tích đêm thất tung. Khi năm khánh kiệt đời tuyệt tận. Em bồ tát khóc lệ bao dung. Và còn bao nhiêu trang chữ chưa bao giờ viết ra. Mà làm sao viết ra cho hết, nỗi lòng tôi, tâm sự em. Tình yêu trễ muộn của chúng ta. Dù ngay từ lần đầu tiên gặp lại, làm sao chúng ta không biết, con đường chúng ta đi sẽ là con đường khổ nạn. Và em, em sẽ là người mang đội vòng gai. Con đường em đi sỏi đá, đồi Golgotha dốc ngược, chân trần, em dang thân gánh tội để đền tôi. Làm sao đây em, làm sao nói được hết, uẩn khúc em, oan nghiệt tôi. Đời bủa vây giữa trùng trùng oan trái. Và chúng ta, ôi những cánh dơi mù, bay chập choạng giữa mịt mùng cạm bẫy. Hạnh phúc giương tay đón gọi rồi xô giạt người tới phũ phàng. Hạnh phúc rót mời từng ly rượu ngọt pha dậm cường toan. Rượu càng nhắp càng say, độc dược càng ngấm. Từng ngày qua, từng đêm tới. Mỗi một ngụm tình là một tự hủy. Càng lúc chúng ta càng hốt hoảng khi tình yêu và cuộc đời như hai mặt của một lời chúc dữ. Người ta chỉ được chọn lựa một trong hai. Không bao giờ được cả đôi. Đó có phải là thân phận bất toàn của chúng ta, con vật người trần trụi và hèn mọn trước quyền lực của siêu nhiên... Em thấy đó. Tình yêu của chúng ta, thứ của cải vô giá của chúng ta, có đáng gì đâu so với sức tàn phá mãnh liệt của thời gian, ép uổng của định mệnh, xô đẩy bất chấp bởi những tình cờ chẳng ai ngờ được. Chúng ta sống chết, thù hận hay yêu đương, hạnh phúc hay đau khổ cho đến gặp gỡ hay biệt ly... cũng chỉ là cười khóc múa may như những hình nhân vô tích sự. Mình có quyết định được gì cho số phận của mình đâu. Tôi. Em. Đã có ai chờ đợi ai như chúng ta đã chờ đợi nhau. Đã có ai tặng cho nhau nỗi đắm say, niềm quyến luyến... và nhất là tiếng cười lanh lảnh của tuổi trẻ tìm lại được từ sau những mất mát vì thời cuộc như chúng ta đã tặng cho nhau. Vậy mà, em ơi, rồi cũng có mấy ai được may mắn như gã Thôi Giao trong tích xưa. Hầu môn nhất nhập thâm như hải. Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân. Có phải đã một lần bước chệch khỏi đời nhau là mãi mãi như hai tinh cầu đã bay lệch vào hai hướng khác nhau. Chuyện sum hợp chẳng qua chỉ là một thứ huyền thoại để tự vỗ về của những tâm hồn đã hơn một lần tuyệt vọng. Mùa hè năm đó qua đi, dòng đời quay trở lại cái vòng quay bất tuyệt của nó. Và chúng ta, chúng ta như hai viên sỏi bọt bèo bị bắn văng ra hai hướng bởi cái sức ly tâm tàn nhẫn của đời sống với mọi thứ định chế từ đã ngàn đời. Tội nghiệp em. Tội nghiệp tôi. Chúng ta yêu quý nhau biết bao nhiêu. Chúng ta mê đắm nhau biết bao nhiêu. Vậy mà ...

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

Cuộc đời cắt chúng ta ra làm hai mảnh, ném đi hai ngã không chút nương tay. Cuộc đời xô chúng ta ra hai hướng chẳng thèm chút ngó ngàng. Chia đôi một cặp tình nhân đắm đuối như phủi một hạt bụi váng vất chẳng làm cau một nét mày.

Et la vie sépare ceux qui s'aiment,

Tout doucement, sans faire de bruit.

Đành đoạn.

 

Nghe lại đi em, một lần nữa, đoạn cuối của bài nhạc, tiếng kèn đồng vút lên rồi chùi xuống thê thiết, như muốn dìm sâu hết mọi dấu tích tình nhân vào mớ dư âm đang dần dần lịm tắt. Mọi dấu vết, kể cả những kỷ niệm cho dù nhạt nhẽo nhất vẫn không thoát khỏi những lượn sóng thời gian xô dạt vào quên lãng... Như sóng biển cứ xóa hoài những vết chân trên cát, những dấu chân sóng đôi  đã dìu nhau qua đó, một lần nào ...

Et la mer efface sur le sable,

Les pas des amants désunis.

Rồi còn lại gì, còn lại gì đâu, những mắt rủ môi mời, những ngọt lời đẹp ý, những nhắc nhở nôn nao, những đổi trao tha thiết, những đắp đổi đền bù, và ... và những tay quíu chân kềm khi đêm mê đắm vở òa hạnh phúc ...

Còn gì đâu ... có còn lại gì đâu ...

 

Dẫu vậy, như đã tự hứa với chính mình, tôi sẽ giữ mãi trong tôi, dù chỉ là những hình ảnh, dù chỉ là những vang bóng của mùa hè năm ấy, khi tay trong tay, chúng ta đi những bước thênh thang ngay trên con đường thập giá, giữa những nguyền rủa của số mệnh và bây giờ giữa những tang thương sót lại sau những mất mát không thế nào, không có gì, bù đắp lại được.

 

Nhen em, lời tôi kể lể nghe ra như một tiếng thở dài hơn là một điều than oán. Như chính bài hát cũ. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ. Không một trách móc. Chẳng một oán hờn.

...............................

 

Em biết không, câu kết của bài thơ, dù không được nhắc đến trong bài hát, vẫn là một lời hứa, dù chỉ là ... hứa với chính mình 

Et la chanson que tu chantais
Toujours, toujours je l'entendrai !

Và bài ca em đã hát cho tôi nghe lần nào, tôi vẫn còn nhớ...  Nhớ hoài !

Cao v khanh

 

 

 

 

  

                                                                                                             

 

 

CVK_Chuyenchieccau.jpg


Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ quê như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến. Dù là một lời đay nghiến. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suông sẻ gì đâu.

Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài Gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Lạ vậy đó. Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Như đã gặp rồi đâu đó, quen quen. Như đã nghe rồi đâu đó, mài mại. Ly hương, người đi xa tưởng là bỏ hình lại ở chốn cũ mà quên rằng bóng cứ lúc thúc theo sau. Nó cặp kè, léo lách, lẩn lút loanh quanh. Cứ như vậy mà dằng co níu kéo. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê !

Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, dẫu người ở phố thị mà lòng vẫn đặc sệt nhà quê. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngó lơ mơ ngủ dật dờ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Nhớ đủ thứ. Kể cả những thứ không đáng nhớ. Nói gì đến thứ không thể nào quên.

Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Hay chính những lượn sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất. Nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.

Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, cũng thấy mình trễ nãi, về tới bến rồi mà cứ hụt hoài chuyến phà chót qua sông... Thẩn thờ đứng lại đó, nhìn ngó bâng quơ rồi thấy lại y nguyên cái cõi thân quen, y như khi đời còn thơm thảo. Từng mặt người qua kẻ lại, từng lối tắt đường quanh...

Nghĩ lại cũng lạ. Lội sông lội suối đã đời rồi mà rốt lại chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng tây nam đến đó phát đổ ròng ròng đến sạt bờ lỡ bãi. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắt cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt xuống phà qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ cho nguội máy, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm. Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi.

Nói vậy mà lỡ có kẹt lại lâu lâu thì cũng chẳng lấy gì làm phiền hà cho lắm. Xe tắt máy, khách bước xuống bãi đậu, vung vai vặn mình vài cái cho dản gân cốt rồi là miệng chắt lưỡi, hoặc lầm thầm rủa xả vài tiếng trong khi chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước hai bên đường. Mấy chốc, đời vui trở lại. Giữa đồng không rồi bỗng thành ra một buổi chợ đông. Hai bên lộ, người ta che bạt, dựng chòi lợp lá, khá hơn chút gá vài ba tấm tôn, khá hơn chút nữa tụ lại thành một dãy tiệm có cửa nẻo hẵn hòi. Mà điều lều trại hay phố xá cũng đều xập xệ như chỉ để che mưa đụt nắng qua ngày. Ờ mà đúng vậy, có ai mà nghĩ được ghé qua đây rồi ở lại luôn đây. Cái chỗ giữa đường giữa xá !

Hàng hóa thì chưng dọn luông tuồng đến luộm thuộm, đồ khô trộn lộn với đồ tươi, bánh mứt xen kẻ với túi xách giỏ đệm, đồ ăn thức uống tràn ra tới lề đường vậy mà len qua lách lại sao thấy ngồ ngộ y như những cái ngoắc tay khều vai bá cổ. Bởi vậy người qua lại rồi thấy vui tai lạ mắt, Rồi ai nấy cũng thành ra dễ tánh. Vậy đó đời vui biết mấy. Cái chỗ không phân biệt giàu nghèo sang hèn, ai đến rồi cũng phải lội bộ ngang qua. Đã không tránh được thì sao không hả lòng ra mà hưởng. Mà hơn nữa, thực phẩm trần gian thì bày ra ê hề mời đón. Người đi xa lỡ độ đường chưa đói vẫn nghe ruột dạ cồn cào. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Những xâu mía ghim tươm nước ngọt như đọng sương mai, những trái khóm Bến Lức xẻ năm xẻ bảy rịn mật vàng lườm, những chùm nem Nha Mân treo xum xoe ngả ngớn... Điệu đời hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng, quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn. Kế bên, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó, mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nỗi. Bởi vậy mà  khách giang hồ  qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đỗ vốn đã ồn ào lại được thêm phần...ầm ĩ.

Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên ... sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt tình ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận, về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi.

Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng làm điệu bắt cong cong. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc. Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống trì trì nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.

Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.

Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cái ngủ đậu chực hờ trên mí mắt. Tiếng xe chạy ù ù êm tai như tiếng ru em. Nó chịu thua. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi...Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Bở ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao-đơn-hườn-tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ... còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt, bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu. Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông "xếp bắc", miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn, vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn. Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu "bông-tông" thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa "bông-tông" là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:"Coi chừng thử thắng xe qua phà". Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ, bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng quen rồi vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoác hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích. Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dở bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi phăng phăng ngược chiều. Gặp mùa lũ chướng xem chừng phà còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên phía bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy đến hết đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẩm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.

Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. 

 

Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên trung học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du giữa ban ngày ban mặt. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. "Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa". Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người nên tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột. Bạn bè trai gái, thân sơ bất kể, ai tôi cũng mời cũng rủ rê cho được. Ở đó tôi huyên thuyên dẩn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có người cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì dẩy nẩy đòi về. Nhưng mặc. Rốt lại chỉ còn tôi với cái bến nước của riêng tôi. Nơi vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại.

Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh... Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến rơi nước mắt: "tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ". Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe. Thì thôi ai có phần nấy.

Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã học được bao nhiêu điều của trường đời mà trường học thì không thấy đâu có dạy. Bãi trường năm 67, tôi từ Sài-gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà giàu được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà kể. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn cùng tuổi, tối ngày chúi mủi vào sách vở làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo.

Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết. Chỉ biết khi tôi bắt đầu qua lại thường xuyên thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như một tấm phông cảnh cũ mèm bỏ quên trong một góc hậu trường sau khi gánh hát dọn đi. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận. Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt. Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu. Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang, tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm... Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.

Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.

Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới lên xe xuống ngựa, từ bậc tài trí đến kẻ ngu ngơ, những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xâm " hận kẻ bạc tình" sau lưng thì xâm " thù người hại bạn" đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ "liên hoành" với lại "hợp tung". Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi "tách bến sang ngang", có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi... quất ngựa truy phong bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông định mạng. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng gói đậu phọng rang để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi kết cái bến phà Mỹ Thuận như bạn tâm giao, mà hơn nữa như một bậc thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Giữa tuổi đôi mươi có lúc tôi thấy tự tin như một kẻ lõi đời. Kể ra cũng đáng cho một kiểu đời gạo chợ nước sông mà ăm ắp tình người.

Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy đời sao hụt hẩng !

 

Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Con gái chị Hằng chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.

 

Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tú Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời. Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người quen kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phức cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế chuyên bóp hầu bóp cổ dân đen vốn đã dư ăn dư mặc thì ngày càng thêm phục phịch phủ phê. Còn người bị đày đọa vốn đã mót từng hạt gạo thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hể thiêng liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi trẻ con vẫn phải lội sông lội suối để đến trường, mà con bệnh trầm kha vẫn phải chầu chực đút lót để có được viên thuốc, mà tuổi già đã sát kề miệng huyệt còn phải gồng gánh để lấp liếm cái miệng ăn, mà nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam được đem ra trưng bày và rao bán qua những chợ thịt người được tráo danh là gả-chồng-xa-xứ, mà ......., mà ......, mà kể ra có xuể đâu những trái oan ở đó, thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.

Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng chẳng thua gì Kim môn kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi giây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suông sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt... tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng "hồi xưa...". Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.

Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắt lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?

Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.   

Cao v khanh 

 

 

CVK_SGmarket.jpg 

Chênh vênh ,

nỗi nhớ...

 CAO VỊ KHANH

tạp bút


 

T ôi ở Rạch Giá mười năm, mười năm cuối của quảng đời ba mươi lăm năm ở Việt Nam, từ khi sanh ra đến khi bỏ đi... sau hai mươi năm ở Vĩnh Long và năm năm ở Sài Gòn. Những gì đã quên ? Và những gì còn nhớ ? Lòng sao cứ chênh vênh giữa nhớ giữa quên...

20 năm ở Vĩnh Long, cái thời của tuổi ăn-chưa-no-co-chưa-ấm...

Vĩnh Long. Tôi nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa đẩy đưa nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu.

 

Vĩnh Long. Tôi nhớ hàng sao đứng nín thinh. Tan trường áo trắng đẹp vô tình. Theo em trao lén bài thơ nhỏ. Chớp vội vành cong con mắt xinh.

 

Còn gì nữa hả Vĩnh Long ? Mút xa hơn chút nữa ...

... Ờ ... há . Em có về qua ngõ hẹn xưa. Đường Trương Vĩnh Ký nắng hay mưa. Thềm rêu mấy dấu giày thương nhớ. Chắc cũng buồn theo ngọn gió đùa.

 

Vĩnh Long ! Con đường Trương Vĩnh Ký. Con đường nhỏ nằm lặng lờ dưới hai hàng cây sao cao vút rải đầy những chiếc cánh nâu nâu, quay tròn như bông vụ mỗi mùa gió chướng. Con đường trải đá xám len lách giữa hai bờ cỏ dại, lập lờ đất-thánh-tây nằm lúp xúp những hàng thánh giá trắng lờ mờ. Khu nghĩa trang rộng chừng mẩu tây, cây cối xanh um với những hàng mộ được xây cất ngay hàng thẳng lối, dành riêng cho giới quyền thế từ thời người Pháp còn ở đây vẫn được chăm sóc tử tế. Hoa tươi thỉnh thoảng vẫn được thấy cắm trên đầu mộ. Và những tượng thánh đục đẽo bằng đá trắng vẫn còn giữ nguyên bộ điệu phủ dụ rất ân cần. Dẫu vậy vẫn toát ra từ đó một vẻ gì u trầm khó tả. Ở đó thời gian như đã đứng sựng lại làm người qua đường rồi tự nhiên cũng nín bặt tiếng cười. Ngày qua tháng, tháng qua năm chỉ nghe tiếng gió thổi xào xạc trên những chòm cổ thụ cao chót vót. Và rền rĩ, tiếng ve kêu vang suốt hai mùa mưa nắng. Những cũng chính ở đó, từ một góc khuất, đứa nhỏ đang lớn là tôi đã nhìn thấy lần đầu tiên bộ mặt của chiến tranh. Những trận đánh trong cuộc chiến trước đó phần lớn chỉ xảy ra ở bưng biền, sau khi đất nước bị cắt đôi chỉ còn là những kỷ niệm mơ hồ dù đau đớn trong đầu những người lớn tuổi. Còn tôi, đứa nhỏ mới chập chửng biết đi đã được mang vào sống ở thành phố thì hai chữ chiến tranh chỉ còn vang lên một âm vọng gần như vô nghĩa. Nhưng rồi chẳng đợi lâu, đất nước yên bình được đâu mấy năm thì tiếng súng bắt đầu nổ lại. Người ta lại bắt đầu bày trò chơi xương máu. Mới đầu chỉ nghe vọng lại từ xa, tiếng súng ấy, nghe xa lắm, đâu từ phía những làng mạc mà tôi chỉ mới nghe nhắc tên nhưng chưa từng biết tới. Dầu vậy, trên môi người lớn thỉnh thoảng tôi đã nghe tiếc chắc lưỡi như một tiếng kêu trời ơi không thành lời. Cho đến một hôm, trên đường học về, tôi gặp một đám tang. Đám tang thưa thớt người đưa tiễn. Chỉ có một bà lão gầy gò và năm ba người mặc quân phục trạc tuổi đôi mươi. Trên tấm di ảnh là khuôn mặt một người con trai còn trẻ. Trẻ lắm, cũng trạc tuổi những người đi tiễn anh. Và đặc biệt, trên chiếc quan tài có phủ một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Người đàn bà duy nhất, chắc là mẹ của người chết, vừa đi vừa quẹt hai con mắt đỏ hoe. Đám tang của một người lính chết trận. Đám tang của một đứa con trai vừa mới trưởng thành đã sớm bỏ lại thêm đơn chiếc bà mẹ già góa bụa. Buổi trưa đó tôi đã đứng lại, nép mình bên hàng rào, nhìn suốt tang lễ. Tôi đã đứng đó, nghe người lính thổi thê thiết điệu kèn chiêu niệm, nhìn những người bạn đồng ngũ đứng nghiêm chào kín, ngó mấy người phu thòng giây hạ huyệt, thấy người mẹ khóc nức lên rồi khuỵu xuống và nghe tiếng kêu con ơi bật ra đứt ruột. Lần đó tôi thấy tận mặt chiến tranh. Rồi từ đó, khoảnh đất bỏ trống dần dần lấp đầy thêm những nấm mộ mới. Và từ đó, suốt cuộc lớn khôn, có lần nào tôi không nghe hai tiếng chiến tranh được nhắc đi nhắc lại, ngày này sang ngày khác !

 

Nhưng rồi chiến tranh hay không, tôi cũng lớn lên theo những bước chân qua lại hằng ngày trên con đường Trương Vĩnh Ký quen thuộc đó.

 

Đi thêm chừng vài trăm bước nữa, qua khỏi nghĩa trang tới ngã tư Trưng Nữ Vương, thêm vài chục bước nữa tẻ vào ngôi nhà ba gian bên trái, ngói âm dương rêu xanh đã mấy lớp, nơi tuổi nhỏ tôi đã chạy nhảy thênh thang giữa cõi lòng rộng đến mênh mông của cha mẹ, mặc kệ chiến tranh như một bóng ma lởn vởn quanh mình, mặc kệ mấy bức tường tu viện chắn ngang ở bên kia đường như nhắc nhở trăm điều cấm kỵ giữa khi đất nước đang rục rịch đổi mới. Dẫu vậy, làm sao kềm được cái tuổi nhỏ hoang đàng với những vết chân phung phá ...

 

Ơi Vĩnh Long, cái thời trung học áo trắng quần xanh, tấm phù hiệu phải được may dính liền lên miệng túi lại chỉ được nhét trong túi quần, đợi đến khi sách vở đến cổng trường mới được moi ra, liếm nước miếng rồi dán hờ lên ngực áo, rồi len lách giữa đám đông bạn hữu đang hối hả tuôn đến lớp, tránh né mấy cặp mắt cú vọ của thầy cô giám thị khó dàn trời. Ôi cái thời làm học trò trung học trời thương cho chữ nghĩa nhiều hơn hai bàn tay mười ngón, từ những bài tập làm văn tả tình tả cảnh đến phanh phui nỗi lòng Thúy Kiều tâm sự Cung Oán viết thôi mệt nghĩ, vậy mà được thầy cô cho đem rao giảng khắp cả lớp dưới tới lớp trên. Trong khi những môn thực dụng hơn bội phần thì hể không ú a thì cũng ú ớ. Những bài toán hình học đại số với lại vật lý hóa học cứ rối mịt trong cái đầu rối mù. Ngược lại ba cái thứ lăng nhăng ái tình vớ vẩn kiểu bà Tùng Long thì lại sáng lán hết biết. Tình cảm lớn nhanh không thèm đợi tuổi tác. Vừa mới đậu được cái bằng Trung học đệ nhất cấp, leo lên cửa lớp đệ tam đả lọt chìm vào đôi mắt có sóng to gió lớn của cô bạn học cùng lớp, áo dài vải nội hóa trắng tinh và mái tóc thề bỏ lửng ngang vai, dắt nhau bỏ lớp trốn vào khu văn miếu, lẩn quẩn loanh quanh mấy gốc sao cổ thụ, nói với nhau rặt chuyện mưa-xuân-với-nắng-hè mà lòng thì chăm bẳm toàn chuyện tình của khách giang hồ với kỷ nữ...

Ôi Vĩnh Long của cái thời mê mấy câu  thơ của Nguyên Sa mà người anh trai đi học ở Sài Gòn mang về làm náo nức thêm đứa em ham đua đòi còn ở tỉnh nhỏ.

Người dáng dấp bơ vơ của bầu trời hải đảo

Tóc bồng bềnh trên nếp trán ưu tư

Những ngón tay dài ướp trọn mấy nghìn thu

Mà men sáng và màu trăng trong vời vợi

Lời thơ đẹp như cái tựa của chính nó càng làm nôn nao thêm tấm lòng mỏng mảnh như tờ giấy pelure. Mực xanh mực đỏ mực tím mực nào cũng hút cũng thấm rồi trộn lộn vào nhau như một nồi xào bần sau ba ngày tết.

Bởi vậy. Cho nên nỗi.

Ôi cái tuổi Vĩnh Long chân bám đất mà lòng vói mãi bóng trăng sao. Bởi vậy bây giờ thì sao cứ hay nhớ lại mà hồi đó thì sao lại cứ hay quên ngang. Ơi những trang thư tình viết trên giấy kẻ hàng xé từ tập vở học trò rồi nhét giấu trong một tập sách đem cho mượn dù không ai ngỏ lời hỏi mượn. Hổng biết có phải tại vì chưa-thấy-quan-tài-chưa-đổ-lệ hay sao mà mới nứt mắt là đã vung tay viết thư tình bất kể. Hẹn hò với cô bạn cùng lớp đâu được hơn nửa năm là đã ... ôm cầm sang thuyền khác. Cô em nhỏ của một chị bạn học, đã có lúc đóng vai trò làm chim nhạn đưa tin cho cặp tình-nhân-tập-sự sao bỗng một hôm trở nên sáng dạ đem lòng mê muội thích anh bạn của chị mình bèn tình nguyện làm cô em-ngồi-bên-song-cửa cho anh-đứng-dựa-tường-hoa. Những số báo Thời Nay- tạp chí có dáng dấp như Reader' s Digest bây giờ, trở thành cái hộp thư cho tình nhớ qua nhớ lại dù hai nhà cách nhau chưa quá một dặm dài. Thôi thì văn thơ chuyện tích ở đâu mà tuôn ra lớp lớp như mây bay gió cuốn. Chuyện trên trời dưới đất, chuyện Roméo et Juliette, chuyện Paul et Virginie, chuyện Hai Sắc Hoa Ti-gon, kể cả tuồng cải lương Sơn Nữ Phà Ca ... được đem ra xào tới xào lui làm tròn xoe hai con mắt nai chưa biết kẽ chân mày. Những dòng chữ tỏ tình tả oán không chút đắn đo bất kể lòng người rối rắm mấy lần hơn tơ nhện. Ơi những cuộc tình bốc cháy như lửa rơm. Mới nhúm lên đã tắt ngúm. Tưởng là yêu đến chết bỏ mà mới ba bảy hai mươi mốt ngày là đã hụt hơi, bèn tìm đường đào tẩu sang cõi đào nguyên khác. Ơi những hẹn hò của cái thời mới-lớn, ngây thơ... vô số tội,  yêu đương như một cách làm dáng cho ra kiểu... người lớn !

Người lớn ? ! Rồi sẽ có lúc người ta sợ làm người lớn biết bao nhiêu. Vậy mà có lúc người ta còn nhỏ xíu mà vẫn muốn làm người lớn cho được. Bởi vậy, cho nên ...

Thuở đó, những năm 60, Vĩnh Long như một cô gái ở làng xa mới ra tỉnh, dùng dằng nửa chợ nửa quê... Dĩ nhiên gái nào mà rồi không muốn làm dáng, kể cả gái quê... bởi vậy chẳng mấy lúc mặt mày thì trây trét son phấn mà mình mẩy thì lại lấm lem bụi đời. Bắt đầu, chỉ là vài ba cái quán nước dựng trên bãi đất trống ngay bên ngã ba sông Cái đổ vào kinh Thiềng Đức. Bãi trống vốn là chợ cá ban ngày, chiều về cá mắm tan hàng nhường chỗ cho phố thị lên đèn xanh đỏ. Sụp tối, chè cháo bánh tiêu bánh bò hột vịt lộn khô mực khô cá đường nem nướng mì khô mì nước hoành thánh... được bày ra từng xe, từng xề, từng gánh, lộ thiên bình đẳng... hết mực bình dân. Khách cứ thoải mái ngồi bệt ... xuống đất mà ... thưởng thức. Tài tử giai nhân nam phụ lão ấu, bất kể ban ngày làm thầy chú hay phu phen gì cũng vậy, cứ đêm đêm là diện bộ rồi dắt nhau ra đó... mua vui. Đêm nào cũng nô nức yến anh. Thấy làm ăn được, mấy cái quán nước kề bên cũng thay phông đổi cảnh. Hồi đầu chỉ là xá-xị-con-nai, nước chanh nước mía, nước dừa, sinh tố ... rồi mỗi ngày mỗi... nâng cấp cho kịp đà tiến hóa... ăn chơi. Từ từ thêm vào thực đơn mấy món la-de-con-cọp, vài chai rượu tây made-in-Chợ-Lớn... và đặc biệt là món... chiêu-đãi-viên-má-phấn-môi-hường-em-vì-hoàn-cảnh. Từ đó, đêm Vĩnh Long vui hết biết. Từ đó, cậu nhỏ càng muốn làm người-lớn hết biết luôn.

Kịp thời đúng lúc, mới vừa mon men lên lớp sửa soạn thi tú-tài-một thì cha đổi đi làm việc xa, nhà trống trải chỉ còn mẹ già và ba đứa em, cậu nhỏ tấn lên đêm đêm còn đang chóa mắt vì ánh-sáng-phồn-hoa... thì chẳng biết may hay rủi mà lại kết huynh đệ toàn với mấy anh chiến-sĩ-cộng-hòa. Mấy anh lớn đó làm lính đánh giặc, thường khi hành quân xa mà hể về tới chợ là cứ kéo thằng em kết nghĩa la cà mấy chỗ ... cấm-trẻ-em-dưới-mười-tám-tuổi. Riết rồi quán chị Tư Tùng, quán cô Pha Lê... biết mặt thằng học trò hỉ mủi chưa sạch mà cứ học đòi kiểu cách Trần Huyền Trân, rượu-vào-nâng-cổ-áo-lên-cao-dăm-ba-mồi-thuốc-đi-chung-bóng ... Cứ vậy mà đua đòi. Mà tối tối lén mẹ mua chuộc em út canh cửa, gác cổng cho thằng anh làm khách... dạ hành dởm. Tới hơn nửa đêm mới mò về, rồi thắp đèn vừa tụng bài vở vừa ngủ gà ngủ gật.

Như vậy rồi tôi lớn dần lên theo chiến tranh song song với những hệ quả của nó. Súng nổ càng lớn thì miểng đạn càng văng tứ tung. Du kích bỏ súng ngựa trời hồ hởi chụp cây AK 47 với lại B 40 của Nga Tàu bắn phá tứ tung. Sập nhà cháy cửa mà còn sập luôn mọi thứ nề nếp. Bên nây, bạn bè thấy chuyện bất bằng hè vô tiếp cứu. Người Mỹ và bầu đoàn kéo vào Việt Nam càng lúc càng đông thì nhu cầu phục vụ đời sống càng lúc càng tân tiến. Mấy cái quán chợ cá thành ra như gái lỡ thời. Mấy cô chiêu đãi áo bà ba với lại quần lãnh Mỹ A trở nên quê mùa quá độ. Bởi vậy mà quán-rượu-bán-trà-đá mà người Mỹ gọi là Saigon tea, còn dân chơi bản địa thì gọi là xì-nắc-ba mọc lên như nấm dại. Ngã ba Cần Thơ, từ chỗ đổi đường mù bụi của quốc lộ 4 trở thành khu Vĩnh-Long-by-night cái rụp. Bỗng chốc mà bảng hiệu tiếng tây tiếng mỹ rợp trời. Ban ngày, hành khách đường xe lục tỉnh vội vội vàng vàng thay xe đổi cộ. Nhưng đêm xuống, đèn xanh đỏ chớp lia chớp lịa, khách vãng lai qua lại thì cứ nhẩn nha, tha hồ chọn lựa cõi bồng lai. Chiêu đãi viên từ bốn phương tụ về, guốc cao gót lắc ca lắc cắc như tiếng song lang gỏ nhịp, áo dài thắt eo tới nín thở, soie Phi soie Pháp láng coóng, mousselin mỏng te, quần sa-teng láng lẩy cộng thêm son phấn Mascara và mùi Chanel Number five mua lậu từ PX thơm phức ... cứ như là trẩy hội chiêu quân. Trong tiệm thì đèn mờ, nhạc rock xập xình... Bia 33 thiệt, giả, vodka, rhum Bacardi... chảy tràn như suối. Cả một thế giới Kinh Kha thời mới quay cuồng, cười giỡn khều móc chọc phá... thả dàn như sợ mai qua sông Dịch rồi bít đường về . Mà thiệt vậy, cho tới lúc đó, súng nổ đâu có xa nữa... Ai biết được. Cắc bùm... một tiếng. Rồi đời. Bởi vậy, lính tráng Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân ... xa quê, lính tráng Việt Nam ... xa nhà cứ hể rảnh ra là ... xả láng.

Quen ăn rồi thành không quen nhịn, tôi cũng theo gót đàn anh mà ... lên lớp. Giã từ Chợ Cá. Lần mò tới Ngã ba Cần thơ. Dẫu không nhẵn mặt nhưng cũng chẳng phải thập thò. Cứ theo gót đàn anh mà khám phá đêm trường... muôn mặt. Những đêm Vĩnh Long khi tuổi học trò đang châu đầu vào đèn sách, thì tôi ngả ngớn trên mấy chiếc ghế cao cẳng kê sát cái quầy gỗ láng bóng, tưởng đến hình ảnh người lữ khách phong sương tạt qua quán rượu ở Macau những đêm lưu lạc trong tập Mơ Hương Cảng của Vũ Khắc Khoan...! Rồi thì lại tiếp tục cái trò mua chuộc em út canh cửa gác cổng... Để đến khi mò về tới nhà thì lương tâm (?) thất lạc đâu không biết mà  bỗng quay về rồi ngắt rồi nhéo rồi tru tréo tới độ lại phải mắt nhắm mắt mở lục bài vở ra mà tụng niệm. Ôi cái thời học làm người lớn vừa truân chuyên vừa... hả hê biết bao ! Vậy rồi đậu tú-tài-hai. Vậy là phải giã từ Vĩnh Long, nối tiếp con đường vừa học chữ vừa học làm người lớn lên tới tận... Hòn ngọc Viễn Đông.

Ngày rời Vĩnh Long đi học xa, làm sao ngờ được... đi rồi biền biệt xa mãi tới bây giờ... Vĩnh Long còn đó, ở cuối đường. Cách mấy cầu ngang mấy dặm sương. Như thể dang tay là giáp mặt. Sao lòng thiên lý vẫn tha hương.

Rồi còn gì nữa không Vĩnh Long ?

Hẵn là còn nhiều lắm, nhiều nhiều lắm. Nhưng, giờ này, những nấm mồ đã phế tích, hết những quen biết đã trầm luân. Mọi nẻo đời đã bít lối từ sau cuộc điêu tàn. Còn... có ai về qua những lối trăng. Ðường về Tân Ngải miệt Trường An.  Nhà ai bông bưởi rơi đầy ngõ ... !!!

 

Lên Sài Gòn ! Ờ ngộ vậy đó. Ở Vĩnh Long mà đi Sài Gòn thì nói là lên Sài Gòn. Làm như Sài Gòn ở tuốt đâu tận trên thiên đàng. Mà thiệt. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ ...

5 năm ở Sài Gòn khởi đi từ căn gác trọ mang số  32/32 đường Thành Thái, ngang dọc không quá năm bảy thước vuông mà chồng chất mười mấy mạng con trai dưới-tỉnh-mới-lên... Đêm nhiệt đới nồng nã, quần áo sách vở vất bỏ tứ tung, vậy mà có khi mấy cô chiêu đãi bán quán rượu gần đó bị ế độ, trễ giới nghiêm cứ ghé qua chen vô ngủ đỡ. Sáng giựt mình dụi mắt thức dậy, bỗng thấy như có điều gì kỳ diệu thảng thốt quanh đây.

Sài Gòn mở đầu cho cơn sốt-lữ-thứ lây truyền từ cái thuở Nguyễn Bính khăn gói vô nam, Sài Gòn của lần đầu tiên xa-nhà-có-phép, của tiền mẹ cho ăn cơm một tháng tiêu hết một tuần, của tô phở giữa tháng lỏng bỏng nước mở góc đường Kỳ Ðồng, của khúc bánh mì cuối tháng gặm thiệt kỹ cho tiết hết cái chất béo của lớp tinh bột dẽo nhẹo, của chiếc quần jean trổ màu xanh bạc, của tập giấy mỏng nhét túi quần sau, sáng tinh sương mắt nhắm mắt mở chạy ù ra ngã tư Hùng Vương cho kịp chuyến xe buýt từ Chợ Lớn đổ ra trạm chánh Phạm Ngũ Lão rồi chạy ù qua bám thành cửa, đu tòn ten chuyến buýt tẻ qua khu văn khoa Cường Ðể. Giảng đường chi-hồ-giả-giả buổi sáng chấm dứt, lội qua ngã ba Ðồn Ðất mua khúc bánh mì thịt ngó mấy em nữ sinh áo trắng jupe trắng Saint Paul tan học chờ xe nhà tới rước, rồi lội vô Sở thú, vừa gặm bánh mì ăn trưa vừa ngắm nhìn bầy khỉ đú đởn trong cái lồng to bằng cái nhà... rồi có khi chùi xuống nằm dài dưới một tàn cây cổ thụ, thả hồn đi lạng quạng qua mấy cái bến mê bờ nhớ nào đó hay tỏ bộ siêng năng cơm cha áo mẹ công thầy mà lẩm nhẩm bài vở chờ giờ trở lại giảng khóa buổi chiều...

Sài Gòn ! 5 năm Sài Gòn bỏ trăng châu thổ đâm đầu theo bầy sao đêm đeo vắt vẻo trên thành cửa sổ những mặt tiền cao ốc, lung lăng và háo hức như đứa bé lần đầu chúi mắt vào cái lồng kiến vạn hoa... Sài Gòn của hè Lê Lợi chiều thứ bảy, khuya Hầm Gió mù mù, trưa trà đá Pagode, tối bia nâu Givral... Sài Gòn lê la Ngã Tư Quốc Tế, nhắm mắt nín mũi nốc ly rượu thuốc lề đường ra mắt đàn anh đứng bến Nguyễn Cư Trinh. Sài Gòn solex, tóc phủ gáy, áo bó thân, quần ống loa sáng đưa người cửa trước Gia Long, chiều đón người cửa sau Lê Văn Duyệt, mình gảy gập trên guidon như cua-rơ đường trường phóng nuớc rút chỉ sợ trễ hẹn làm mất lời-thề-chung-thủy. Sài Gòn lính quýnh hai mặt giáp công xách xe không chạy tháo. Sài Gòn của Rex, Ðại Nam, Eden không sót một phim mới, nhớ mặt tài tử không sót một tên quen. Và...rạp chiếu bóng thường trực Lê Lợi chuyên môn chiếu lại phim hay đã cũ, chui vô  trốn cái nóng của căn gác lợp tôn, ngồi ngủ gà ngủ gật với tiếng máy lạnh rì rì và những bóng áo dài trắng nữ sinh trốn học mập mờ trong bóng tối đồng lõa...

Sài Gòn, còn gì nữa, 5 năm làm sinh viên không-sách-vở-cầm-tay... Sài Gòn của Văn Cảnh, của Arc en Ciel với mấy cô vũ nữ người Trung Hoa mặc xường xám xẻ tới háng, của quán cà phê Pasteur với tách cà phê phin đen kịt và cái máy hát băng Akai bự tổ chảng suốt ngày rên rỉ không biết mệt mấy bài hát phản chiến của người nhạc sĩ thời thượng... Nhất là cô hàng có mái tóc dài như suối thả lênh đênh theo sóng nhạc lênh đênh... mà  càng lênh đênh hơn nữa khi ẩn hiện đàng sau màng khói thuốc Bastos xanh mù mịt, khô hoắc và cay xè. Sài Gòn thêm dởm dáng mỗi bận bát phố Lê Lợi với gói thuốc lá hiệu Lucky Strike có cái quầng đỏ chói bỏ trong túi áo trên may bằng vải tetoron mỏng dánh để tỏ bộ... dân chơi (?)...

Ờ rồi còn những phòng trà mà không chuyên bán trà, những phòng trà mà tình nhân hẹn hò nhau, mà bạn bè rủ rê nhau mỗi khi chiều tắt nắng, đèn thắp lên thay những vì sao đêm... Tới ngồi ở đó trong bóng tối mập mờ để nghe Jo Marcel lừng khừng hát Mộng dưới hoa của Phạm Đình Chương, nghe  Lệ Thu ngậm ngùi chia hai bãi chiều theo con nắng xế, nghe Thanh Thúy rên rỉ... khi biết em mang kiếp cầm ca... anh còn yêu em nữa không, nghe Sĩ Phú phát giác hạnh phúc nào không tà tơi không đáng cay, nghe Anh Khoa tiếc nuối đưa em sang sông làm chi để chiều nay tôi buồn... Đèn xanh đỏ chập chờn, không gian bít bùng, khói thuốc lá vật vờ bay lên, tiếng hát thê thiết bay lên rồi lắng xuống, lắng sâu xuống tới sát đáy những linh hồn còn trẻ sớm bị dập vùi vì ám ảnh chiến tranh. Thôi thì học hành, thi cử gì cũng  bay tuốt mất tiêu chớ còn hơi sức đâu mà thắc thẻo ..

Còn gì nữa, những năm Sài Gòn tập làm người lớn mà tâm hồn chưa dứt sữa...

Sài Gòn viết thơ tình mướn cho bạn đổi bữa cà-phê thuốc lá hoặc được giá hời bữa nhậu thịt rừng với bia 33 ướp lạnh tới đặc sệt như nước đá bào Thanh Hải dọc đường Bùi Viện... Sài Gòn Nancy với tô hủ tiếu ăn chịu có tiền thối của cô nàng xíu-chẻ đẹp người đẹp nết, ngồi két thâu tiền mà tấm lòng rộng còn hơn lòng bà Phiếu mẫu. Sài Gòn với sạp cơm bình dân bến xe lục tỉnh, nồi niêu xoang chảo bày sát tới mặt đường, cơm dĩa nóng hổi trộn lộn với cát bụi đô thành, nước đá trà lu uống chung với cặn cáo nhớt dầu trây trét. Vậy mà cơm nước nhân hậu từng bữa, kể cả những khi buýt về trễ chuyến, hàng họ đã dọn dẹp lên xe kéo, dĩa cơm thịt kho hột vịt cho thằng-hai-dưới-tỉnh-lên-học-nghề vẫn giữ riêng úp dưới cái lồng bàn... Trời ơi nhớ lại mà muốn rưng rưng, chiều nay ... !

Vậy đó, Sài Gòn muôn mặt, xanh vàng tím đỏ, sang cả bụi đời, vụng về lịch lãm, building ngõ hẻm, phòng ốc thênh thang, gác gỗ mái tôn, nữ sinh em chả, gái nhảy thập thành, mặt trắng thư sinh, mặt chằng du đảng... ôi thôi kể sao cho đủ cho hết mọi mặt của Sài Gòn, mặt ngất lên hí hửng, mặt cúi xuống buồn hiu, mặt nào cũng nhớ cũng thương ...

Sài Gòn với Đồng-Khánh-matinée bữa cuối tuần, kéo nhau đi nhảy đầm bằng cái giá mạt rệp, lận trái chanh nhỏ trong túi quần khi ra sàn nhảy bay bướm mấy điệu xì-lô. Sài Gòn của Duy Tân bóng nhỏ đường chiều, của xóm yêu hoa Yên Đổ, của trăng đêm Phú Nhuận, của gió sớm thổi lá me bay Tự Do, của nắng chiều lồng lộng bến Bạch Đằng, của lang thang không biết mỏi chợ sách cũ lề phải Lê Lợi, của tiệm sách mới Khai Trí, Xuân Thu bên lề trái cùng phía tiệm kem Mai Hương, Thiên Thai, Phan Thị Trước ...

Sài Gòn đua đòi đợt-sóng-mới, cặp nách sách Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học của Phạm Công Thiện, Le malentendu của Albert Camus, Tư tưởng Hiện Đại của Bùi Giáng, rồi hổ lốn Thiền Luận của Suzuki với lại Yêu của Chu Tử rồi Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng... rồi ôi thôi hết Nietzche tới Hegel, rồi nhảy qua Teilhard de Chardin, lộn vòng Bắt Trẻ Đồng Xanh của J.D. Salinger ... Love Story của Erich Segal... rồi mua rồi đọc rồi nóng ruột chờ từng ngày những tạp chí văn chương Thế Kỷ Hai Mươi của thầy Nguyễn Khắc Hoạch, Vấn Đề của thầy Vũ Khắc Khoan, Văn với Trần Phong Giao làm chủ bút... Và Khởi Hành rồi Thời Tập của Viên Linh, và Bách Khoa với những tùy bút tuyệt vời của Võ Phiến... Vừa mua Trình Bày vừa lục tìm đọc cho được sách của nhóm Quan Điểm vừa mơ màng đọc Áo mơ phai của Nguyễn Đình Toàn... kể cả báo Tuổi Ngọc của Duyên Anh, vừa theo lớp triết tây của linh mục Lê Tôn Nghiêm vừa mê lớp triết đông của linh mục Kim Định, vừa uốn mình uốn mẩy tập " vẽ " chử tàu qua ba trăm bài thơ Đường với thầy Giản Chi vừa mơ mộng với lục bát Phạm Thiên Thư nhè nhẹ như ca dao ... lãng đãng trong đó là những Lệnh Hồ Xung mỗi ngày đi máy bay từ Hồng Kông qua vừa uống rượu vừa múa kiếm vừa thất tình cô nàng Nhạc Linh San...

Sài Gòn nói sao cho hết... Làm sao nói cho hết. Cái thuở làm sinh viên một lúc hai trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm. Vừa học làm thầy mô phạm vừa mơ làm văn thi sĩ bẻ khóa luân thường... Làm sao nói hết cái háo hức của ngựa non háu đá, của đam mê văn chương nghệ thuật, của mơ mộng khai phá, vói cao... với cao tới tận đâu đâu... tận tới những những phương trời chỉ có trong viễn mộng.

Sài Gòn mặn lạt chua cay ngọt bùi, ắp lẫm thực phẩm trần gian. Sài Gòn ngốn bao nhiêu sách vở vẫn không no mà Sài Gòn còn ăn uống bao nhiêu món cũng không ớn. Sài Gòn La Cigale kiểu cách nắp bàn khăn ăn trắng bóc, dao nỉa lách cách, miếng thịt bò Chateaubriand, rượu chát đỏ Bordeaux theo anh làm tử đệ vương gia. Sài Gòn cái-bang ăn đứng đầu đường ăn lê la góc chợ. Rượu tây, la-de, kể cả rượu trắng ngâm thuốc bắc, hay ngâm rắn rít thằn lằn cắc ké của mấy chú ba, chiên xào Quảng Đông, chưng hấp Triều Châu, cà-ri chà-và-ma-ní ... Món bắc món trung món nam đủ mùi đủ vị. Sài Gòn của bánh cuốn Ngã sáu Ngô Tùng Châu, của nai nướng ngói Phan thị Tảo, của cà phê Năm Dưởng, của cháo đêm Tân Định, của cơm gà Siu Siu, của vịt quay Tôn Thọ Tường... của nghêu sò ốc hến lề đường Nguyễn Tri Phương, của mì cây nhản Đakao, của cà-ri dê Trần Bình Trọng, của cơm tấm Trần Quí Cáp, của thịt vịt chấm nước mắm gừng Hồng Thập Tự, của bánh mì thịt nguội Tám Lự Bàn Cờ, của mâm phá-lấu trước quán nước mía Viễn Đông góc đường Pasteur, của tô phở Tàu Bay, của hủ tiếu Thanh Xuân, của hột gà chiên ốp-la ốp-lết Thanh Bạch, của xe đồ chua me xoài cốc ổi ngâm nước cam thảo vàng lườm quết chút muối ớt ở mấy cái ngã tư ngã năm ngã sáu ngã bảy, của trái dừa xiêm góc đường Hùng Vương vạt dao ba nhát ngọt lịm như có hơi thở ai thổi mát suốt cả ruột rà...

Ăn chơi nhậu nhẹt la cà đàng điếm... Bốn bức tường cấm kỵ gần như muốn đâm đầu hút đổ cả bốn bên. Ờ ai chắc cũng có một thời xốc nổi... vậy mà bộ ông bà hộ độ hay sao, mà ngày ngày vẫn lặn lội chui vô chốn cửa-khổng-sân-trình để dùi mài kinh sử !

Bởi vậy Sài Gòn làm sao quên. Sài Gòn còn nữa chớ. Còn Văn khoa cũ góc Lê Thánh Tôn, Văn Khoa mới cuối đường Cường Để với giảng đường rộng minh mông và dãy hành lang hun hút gió, còn gốc phượng già rũ bóng lên cái quán cà phê sinh viên bàn ghế lỏng chỏng và những bao thuốc lá chi chít những câu thơ bất chợt, ném vội vào thùng rác trước khi bỏ đi. Sài Gòn còn mấy lớp hè bắt chước giọng Parisien ở trụ sở Pháp Văn Đồng Minh hội. Sài Gòn uốn lưởi hao-đu-you-đu với mấy cô thanh nữ mắt xanh tóc vàng của ông Kennedy gởi qua theo chương trình Peace Corps ở hội Việt Mỹ. Sài Gòn còn những đêm đại học xá Minh Mạng thức trắng mắt mùa thi, học bù học dồn học rút vì mấy tháng đầu năm còn mãi rong chơi, chồng cours quay ronéo từ đầu khóa tới cuối khóa chất đống trong góc phòng ám bụi, đến chừng lục ra đọc lại thấy lạ hoắc như đọc kinh phạn, văn học Lý Trần trộn với văn chương La Hy lợn cợn như ly cà phê pha vụn uống lúc 3 giờ khuya, gói mì Nhựt Bổn bốn giờ sáng nấu trong lon sữa guigoz ăn xong vụt bỏ...

Sài Gòn của ba năm học làm thầy mà lòng thì cứ lung lăng cái kiểu học trò hoang đàng chi địa...

5 năm Sài Gòn theo-thầy-học-đạo chính tà bất kể nghĩ lại được bao nhiêu gắn bó ngoại trừ cái mớ hổ lốn đếm vuột mấy đầu ngón tay của những mối tình une-certaine-rencontre theo kiểu Françoise Sagan hóa ra cũng chỉ như chiếc bản lề cho 10 năm Rạch Giá.

 

Rạch Giá, tháng 6 năm 70.

Tôi tới Rạch Giá lần đầu vào một chiều mưa tháng sáu. Cơn mưa hè bất chợt trùm lên phố xá cái vẻ lướt thướt buồn thiu. Bỏ Sài Gòn về Rạch Giá, tôi mang tâm trạng của kẻ bị biếm giáng về miền đất trích. Phố xá gì đi-lên-đi-xuống chưa hụt một làn hơi đã trở-về-chốn-cũ chẳng bù với thủ đô chạy bù đầu mà ngó đâu cũng chẳng thấy tới đâu. Xế tối, sau khi trình diện nhiệm sở mới nơi trường trung học cất đâu không cất cất ngay giữa chỗ đồng không mông quạnh, tôi buồn tình ghé lại ngôi quán lộ thiên bên bờ con sông nhỏ chảy chui ngang cây cầu đúc đổ ra cửa biển. Con sông chiều mưa, nước đục. Gọi chai bia 33, đốt điếu thuốc quen tay, thả khói hoang mang ngó mấy về lục bình trôi vật vờ mà lòng cứ muốn ngâm ngang mấy câu nhật mộ hương quan với lại yên ba giang thượng... Vĩnh Long thì khỏi kể, Sài Gòn đâu dễ quên...

Vậy mà, ba mươi mấy năm sau nghĩ lại, sao Rạch Giá lại chiếm một chỗ quá lớn trong lòng tôi ...

Khởi đầu vậy đó... kiểu người-dưng-nước-lã !

Vậy mà rồi nỗi nhớ dằng dai tới vậy sao !

Ờ , vậy đó ...

Rạch Giá, có phải khởi đi từ chiếc cổng tam quan như một lời chào hỏi vừa trịnh trọng vừa thân ái. Khu sân bay Lạc Hồng nhỏ xíu bốc bụi mù trời mỗi lần có mấy chiếc L19 đáp xuống vội vã, rồi lại mù bụi vội vã cất cánh bay lên, chai bia con cọp không đá uống với tên bạn phi công ngay trên phi đạo, dưới bóng mát của thân máy bay từ căn cứ Bình Thủy bay qua một buổi trưa cuối năm không hẹn, rượu không đủ say mà chính chai bia uống dở nửa chừng của nó bỏ lại khi lệnh hành quân cấp tốc bốc nó bay lên lại làm dụi mắt, bụi cay hay mắt cay, vậy rồi mình có gặp lại lần nào nữa không hả T., Rạch Giá có phải là con đường trải sỏi rộng không quá tầm tay, hai bên là hai hàng khuynh diệp dẩn vào căn nhà nhỏ quét vôi xám cất theo lối biệt thự song lập, nhà được chia làm nhiều phòng, mỗi phòng chiếm ngự một tên độc thân, chia nhau tiền nhà và chia nhau cả những niềm vui độc-thân-tại-chỗ. Ở đó, những đêm rằm, con trăng tẩm màu xanh ngọc bích, có tiếng đàn tây ban cầm chơi nhạc cổ điển của tên bạn tài hoa, năm ngón tay bấm vuốt búng khảy trên sáu sợi tơ đồng có lúc như làm rung rinh cả bóng trăng in trong tách cà phê đen đậm, dưới gốc những cây táo tàu sai quả, đôi khi còn có cả những tiếng ca huyễn hoặc của một loài ngư nữ lên cạn. 

Rạch Giá vui chân theo con lộ thẳng tắp tới Cầu Ðúc, ngang qua mấy cái ngã tư ngã ba gọi tên nghe ngồ ngộ, ngã ba Am Ông Ðịa, ngã tư Xả Mai ... quán là một căn nhà vách ván lợp tôn, đồ nhậu thì tạp nhạp, mấy cô chiêu đãi nghe đâu từ mấy miệt giặc giã chạy dạt về, bia rượu mạnh uống tràn sau những giờ dạy mệt đừ, đêm tỉnh lỵ đèn vàng, bình yên như một ốc đảo giả tạo giữa sự xâm thực không ngừng của sa mạc chiến tranh, cả bọn một đám từ xa đổi về, không gia đình thân thích, giục nhau uống cạn những ly đầy khi thành phố sắp sửa giới nghiêm và tiếng đại bác dội về như tiếng trống cầm canh của một thuở thanh bình đã xa như huyền thoại... Rạch Giá đi chợ có nhà lồng bán đủ thứ thập vật, từ cô hàng vải duyên dáng tới xề bánh hỏi thịt quay, tôm càng xanh nướng lửa than thơm ngát, nhúm rau sống tươi rói như mới hái ngoài vườn. Khu chợ cá xây kiểu nhà sàn lâu ngày dậy mùi tanh từ mỗi góc lan can, chiều chiều ghe cào ghe xịp đổ lên hàng tấn cá biển hàng đống sò huyết, ngôi nhà gạch cũ kỹ nằm khuất trong một con hẽm có những vì tường sậm đỏ, 4g chiều vắng im, mấy người bạn trọ chung còn bận dạy lớp, chiếc áo bà ba hở nút cổ, ngồi thu hai chân lên càm, quạt cái bếp than chiều, hai gò má đỏ hồng lấm tấm mấy giọt mồ hôi, lật trở, đợi từng con sò hả miệng, gia thêm chút muối tiêu, vắt thêm giọt chanh... anh thử đi để biết hương vị quê em... Rạch Giá lông bông những chiều có nắng quái, thứ nắng vàng hực hắt lên từ một mặt trời sắp lặn. Tên bạn xách Honda tới đèo nhau chạy loanh quanh phố chợ đợi giờ cơm chiều. Phố xá chợ búa đã dọn dẹp xong, bạn hàng hối hả thu tóm ra về, bỏ lại những quầy hàng phủ bạt, kệ sạp lỏng chỏng, xe cây, xe xích lô gác mũi nằm chỏng chơ, rác rưới bay vơi vơi như những lá phướng rắc đường, dưới bờ sông buổi sáng chen chúc ghe thuyền bây giờ còn trơ lại cái bãi nước trống không. Cảnh chợ chiều mang một vẻ đẹp buồn chi lạ. Cái lạ đến từ cảm giác hụt hẩng trước sự thay đổi đột ngột và đối nghịch đến dị thường. Xe chạy vụt vặt qua Cầu Sắt, ván gổ kêu đau... Rẻ trái, ráng chiều đỏ ửng trước mặt. Biển lấp lánh thủy tinh. Sóng vổ ngàn năm vào kè đá. Tiếng dội buồn, nhàm chán như tiếng khuê phụ oán. Bỏ xe, leo lên ngồi trên bực thạch. Áo phanh nút ngực, gió vịnh thổi phần phật tranh với nhịp tim, biển dậy mùi muối mặn pha với mùi rong tanh tanh... Ngày muốn ngừng. Ðêm đâu đó bỗng khều vai thân mật. Mặt trời mệt lã nhún mình vào lòng biển còn  cố nhoi lên vung vẩy những tia sáng cuối cùng. Chính những tia nắng cuối cùng đó, thứ nắng quái chiều hôm đó, bỗng làm rực rỡ cái vẻ tàn phai của một ngày vừa hết, ngay lúc đó, cả đến những phế tích cũng trở nên lộng lẫy. Bức tường đá chắn biển bị sóng đánh nứt nẻ như sắp sụp tới nơi bỗng đẹp u uất như một vết thương trí mạng. Ngoài xa, Hòn Tre thu mình lại thành một khối im lặng đen.

Rạch Giá còn gì nữa...

5 năm đầu dạy học ở trường Nguyễn Trung Trực. Ngôi trường có con đường xẻ ngang đến lạ đời, bên nây năm sáu dãy lớp cất ngay bon thẳng thớm như trại gia binh, bên kia nghêng ngang hai dãy lầu đâu góc hình thước thợ, con lộ đá nằm tỉnh bơ ở giữa, đứng bên ni ngó bên nớ kêu ơi ới cứ như gọi đò qua sông. Vậy mà cũng lạ, trường vẫn ăn nên làm ra, thầy dạy trò học vẫn đâu ra đó. Sáng sáng chiều chiều áo trắng vạt ngắn vạt dài vẫn tung tăng như đàn bướm vở gió...

Ờ như đàn bướm lượn ! Thử tưởng lại giữa trưa một ngày nắng tốt. Nắng đổ tung tóe trên mái tôn, trên đường nhựa, mọi thứ như thiu ngủ, cả đến hàng cây lá thơm cũng trân mình đứng bóng, tiếng kẻng tan trường bỗng giựt dậy, ngay khi âm vang còn chưa tan hết, một thứ âm thanh khó tả của hàng ngàn cái miệng mở ra cùng một lúc với hàng triệu đề tài đã bị nhốt kín trong suốt buổi học sáng ... rồi là từ mọi cửa lớp tuôn ra cái dòng suối trắng, chảy miên man vào cái biển nắng lung linh để thoáng chốc, khi những tà áo vừa bắt được nhịp gió, tất cả vụt bay lên, chấp chới bay lên, ờ như một đàn bướm lượn. 

Rạch giá thuở đó đẹp lãng mạn làm sao trong con mắt phóng đãng của một gã tuổi trẻ từ chối bị nhốt kín vào một thứ nghề nghiệp đầy những khung cửa hẹp.

Rạch Giá của... nhớ em, xưa áo trắng. Tóc xấp xả bờ lưng. Sách vở đời chưa nặng. Gái nhỏ buồn không dưng.

5 năm làm thầy, hồn vẫn lung lăng cứ muốn đạp tung cửa lớp...

Vậy mà Rạch Giá vẫn ép mình vào khuôn khổ. Em ươm sầu thiếu nữ. Buồn con gái dậy thì. Tôi hiền như thú dữ. Nằm gậm nhắm lương tri.

Đến giờ, sau bao nhiêu dâu bể, tôi còn có thể tự hào được không em, đã giữ cho cái quan hệ thầy trò còn mãi là biểu tượng cao quí giữa một thời kỳ đã có quá nhiều niềm tin bị đổ vở. Bên trong hàng rào của trường sở, chúng ta bằng mọi cách, đã dựng lên tấm vách ngăn ý thức để chu toàn cho được bổn phận và trách nhiệm, dù không phải dễ dàng.

Rạch Giá dẫu có chút xót xa vẫn vui, vẫn bằng lòng.

5 năm phấn trắng bảng đen với những gò ép khuôn thước, sao hồn còn đủ mộng để thoát ra cái họa hóa thạch của tuổi nghề...

Kể ra cũng may, bên ngoài cửa lớp, Rạch Giá mở ra trước mắt tôi một thế giới mới vừa bí ẩn vừa quyến rũ lạ lùng. Cửa biển thì lầm thầm hoài không biết mỏi tiếng gọi của một cõi mênh mông chưa từng chạm mặt. Đảo xa xôi thì tên gọi nghe lạ hoắc lạ huơ. Hòn Rùa, hòn Sơn Rái, hòn Củ Tron, đảo Phú Quốc mới nhắc cứ tưởng vọng âm đâu từ cái thời Gia Long còn bôn ba tẩu quốc. Phía đất liền, tên gọi những Miệt Thứ thì huyển hoặc như cả cái cõi U Minh huyền bí mà vùng đất mang tên.

Ngày tháng bó chân trong trường lớp, đầu óc cấm cố trong nghề nghiệp, còn kẽ hở nào hơn cho những giấc mơ ?

Như vậy mà Rạch Giá đã hào phóng mở ra cho tôi những lối thoát. Cuối tuần, lễ lạc, cùng với vài ba tên học trò thân tín, chiếc áo ấm mỏng khoác vai, thêm cái túi vải lận thêm bộ quần áo cũ, vài ba ổ bánh mì, thêm một hai hộp cá khô, thầy trò chạy vội ra Bến Cảng, ỉ ôi ghe cào ghe xịp, quá giang chạy tuốt ra mấy hòn đảo vắng người... Rồi trời xanh, mây trắng và biển cũng xanh lơ. Rồi nắng vàng, cát trắng và lòng người ở đảo cũng vàng ròng. Chơn chất, hào phóng ... thả mặc cho thầy trò lang thang đầu bờ cuối bãi. Thời đó, ở đâu cũng đầy những luật lệ. Nhất là trong những thành phố, thị trấn hay cả làng mạc xa xôi. Dĩ nhiên đó cũng là điều dễ hiểu, kể từ khi con người chịu hợp lại sống quây quần. Ra đường phải giữ lề phải. Mười giờ tối đêm đêm là ra-dio nhắc nhở ... xin hạ bớt âm thanh vừa đủ nghe để khỏi làm phiền lòng hàng xóm. Dĩ nhiên là giọng cô xướng ngôn nghe âm ái như dỗ ngọt bên tai, mà điều ai nhằn nhện là có đường thấy thầy phú-lít gỏ cửa ... Lại còn thêm cuộc chiến tranh quái gở mà đám người cuồng tín và vong bản từ miền bắc thì thụt đâm đầu vào giết chóc tàn phá miền nam nên luật lệ phải nghiêm nhặt là cái chắc. Bởi vậy mà lâu rồi, đêm ở đây không còn là đêm của vũ trụ. Đêm được tính bằng sự an toàn của làng xóm. Đêm bị rút ngắn lại theo nhu cầu của tình thế. Sau 12 giờ khuya làm gì thì làm, bê trễ cách mấy cũng phải tìm cách về nhà, bỏ lại phố phường đường xá đồng ruộng... cho chó mèo chuột cống chuột lắt chuồng chuồng châu chấu rong chơi hay phá phách tùy ý. Kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bởi vậy mà thích hay không người miền nam vẫn phải chấp nhận sự thiệt thòi này. Tôi cũng vậy, đã từ lâu, lâu lắm, có vui chơi la cà cách mấy, cuộc vui dẫu đang hồi rộn rã tới đâu, hơi rượu có đang bốc lên tới tận mây xanh, lời tình tự có đang lâm ly cách mấy... cũng vẫn phải hối hả dằn ly hay gở tay quấn quíu rồi mạnh ai về nhà nấy... cho kịp giờ giới nghiêm !

Vậy mà trên những hòn đảo không tên nằm choi loi trong một góc nhỏ của đại dương, lần đầu tiên tôi được sống cái cảm giác tự do tuyệt đối mà Krishnamurti đã rao giảng trong sách Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng. Ở đó, ngày như đêm, bãi cát mênh mông nối liền biển cả và rừng núi, không một bóng người kể cả một tiếng chim, nghĩa là vắng bặt mọi thứ ràng buộc của trần thế, ngay cả dấu chân ta rồi có rồi không, có ta, không có ta, trời đất có kể gì ta. Mặc ngày mặc đêm, mặc tháng mặc năm, những lượn sóng vẫn triền miên vổ rì rào, rì rầm, ngày đêm, đêm ngày, tuần tuần, tháng tháng, năm năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, có tôi, không có tôi, sóng vẫn vổ hoài vổ hủy lên bãi cát, ghềnh đá ... Thiên nhiên vô tận, thời gian vô cùng. Tôi là ai. Ta là gì trong cái cõi vô thủy vô chung. Nắng lên, trời biển huy hoàng, bao la tới muốn ngộp thở. Ngày hụp xuống khỏi chân trời, vòm đêm nhung nhúc sao hôm, nằm ngửa trên cát, há miệng thở hơi đầy, nghe cả trời sao chạy tọt vào cổ họng, vừa thấy hồn bỗng thênh thang vừa thấy xác thân bỗng nhẹ hẩng. Rồi bỗng thấy như muốn chảy nước mắt khi thấy mình ràn rụa hạnh phúc. Còn gì ràng buộc, có gì ràng buộc, vậy rồi từ đâu bỗng dậy lên một ý thức tự do đến tuyệt cùng. Mọi thứ, quần áo, tên tuổi, nghề nghiệp, bổn phận, trách nhiêm, tôn giáo, phe phái ... mọi thứ mọi điều rồi chỉ là sản phẩm của xả hội, của số đông, được đặt ra, vô tình hay cố ý, chỉ để giam giữ con người trong những nhà tù của chính mình, để từ đó đau khổ hạnh phúc rồi ra chỉ là những hệ lụy mà con người đã bày ra rồi làm khổ chính họ. Ý thức tự do tuyệt đối có phải là bước đầu của ý thức giải thoát ? Những câu hỏi được đặt ra, rồi có được trả lời thích đáng. Hay cũng chỉ là mãi mãi những vấn nạn... tự muôn đời !

Dẫu vậy, những lần ở đó, những bình minh tựa cõi hồng hoang, những tà dương y đời tận thế... một mình giữa cõi bao la đã cho tôi những cảm giác tuyệt vời mà cuộc sống nơi đất liền chưa bao giờ ban phát. Trải nghiệm đó đã cho tôi thấy mình hạnh phúc. Hạnh phúc ? Hạnh phúc lớn lao và nhỏ bé, hạnh phúc bí ẩn và lồ lộ, hạnh phúc khó tìm và dễ ợt, hạnh phúc xa xôi và hạnh phúc gần xịt, trong tầm tay, ngay kế bên, sao từ khai thiên lập địa người ta vẫn mãi đi tìm !!! Có phải hạnh phúc là cái bây giờ, ngay lúc này, cái mình đang có, đôi khi đơn giản và nhỏ nhoi. Nhỏ nhoi và vô nghĩa như kiểu con dã tràng lắng quắng xây ổ trên cát, đâu biết chút thôi sóng biển ùa vào, xóa sạch... nó lại lăng xăng lính quính tha cát... tha cát.. sóng biển lại xóa sạch... vậy mà hỏi dã tràng có hạnh phúc không, hạnh phúc ngay cái lúc tưởng mình đang xây tổ ấm cho chính mình. Hạnh phúc đó chớ, mặc dù ...

Có phải của trời cho vô tận của mình riêng như ai đó đã nói. Vấn đề là tự mình có phát hiện được cho chính mình. Ngay bon. Đúng lúc. Và như vậy, có phải hạnh phúc và khổ đau đã nằm sẵn trong từng sát na hiện thế. Tìm đâu cho xa. Tìm xa đâu cho khó. Chính từ ta trong ta từng giây từng phút một. Lạc thú ở trong ta, từng ngày ta sống, từng việc ta làm, mỗi mỗi đều chứa sẵn trong đó hạnh phúc và khổ đau. Ai biểu chụp bậy thì ráng chịu !

Có phải từ đó tôi đã tìm ra được sự thăng bằng khi đong đưa trên sợi giây chăng ngang giữa đời riêng và xã hội, giữa thúc bách của nghề nghiệp và bung thùa của cá tính.

Vậy đó mà tôi sống cái đời làm thầy của tôi một cách hồn nhiên như mây thì bay đi, mặc dù ...

Vậy đó ... những lần theo bè bạn hay học trò rong chơi xuống tận những nơi gọi là Miệt Thứ chỉ vì nghe cái câu ca dao sương-khuya- ướt-đẫm-vườn-bầu-em-về-Miệt-Thứ-bỏ-sầu-cho-ai thấy sao mà trắc trở đến mũi lòng đến nỗi muốn về qua cho biết. Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ Năm ... Xẻo Rô, Tắc Cậu, Đường Xuồng ... sông rạch chằng chịt, rủ nhau cởi giỏ vọt lướt như bay trên mặt nước đục lờ, leo qua mấy chiếc cầu tre lắt lẻo, xăn quần men theo những vạt tràm sủng nước, vừa đi vừa sợ tên bay đạn lạc vừa nghĩ ngợi đến công lao của những người trăm năm cũ ...

Trong khói sóng mênh mông

Có bóng người vô danh

...Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi, đốt lửa giữa rừng thiêng... (*)

 

Ờ cái thuở của những người tay rìu tay rựa, dám bỏ mảnh đất đã yên nơi yên chỗ chèo xuồng ba lá dấn mình vào vùng đất dữ, lau sậy, rắn rít, cọp beo cá sấu và nhất là thứ sương lam chướng khí quậy lên từ những cánh rừng trầm thủy. Phải kể là nếu không tứ chiếng thì cũng phải là tay yên hùng mới làm được cái chuyện nghiêng đồng chắt nước đốt rừng làm rẩy trăm cay ngàn đắng đó. Bởi vậy mà về đó rồi mới thấy thán phục rồi yêu mến làm sao vùng đất quê mùa mà thói quen hào phóng hẵn đã phát sinh từ tinh thần thượng võ của lớp lớp người đi khai phá.

 

Sướng lắm. Rượu đế của mấy ông làng ông xả rót từ cả can nhựa, đổ vô thau rồi pha với nước dừa xiêm, ly cao cẳng thì chặt cụt cẳng để không đứng thẳng được mà cứ phải chuyền tay nốc cạn ly đầy rồi rót đầy ly cạn ... rắn rằn ri cóc nấu cháo thịt trắng tươi như thịt gà xé phay, thịt trúc nấu cà-ri, cá lóc tát đìa còn nhảy đùi đụi bọc sình nướng trui, cá sặc để vẩy bỏ nguyên con vô chảo mở sôi sùng sục nhả nhớt lềnh bềnh, rau sống rau thơm hành ngò xả ớt tía tô húng thơm húng lủi... thì thôi ê hề, cứ vói tay ra ngắt là thơm ngát cả bữa... đào-viên-kết-nghĩa. Cả một nghệ thuật ăn uống rặt mùi nam-kỳ- quốc. Lại nữa lắm khi tửu hứng, chụp lấy cây guitar khoét phím sâu hoắm tích tịch tình tang sáu câu vọng cổ ôi sao mà mùi tận mạng. Say rượu hay say tình người ai biết được đây !

 

Vậy đó ! Rạch Giá vậy đó. Học trò học thì dạy. Rượu mời thì uống. Tình phải điệu thì yêu. Đời sống như bữa tiệc trần gian, nếm hoài không hết vị. Đời vui biết mấy. Lương tháng không đủ xài mà sao vẫn sẵn để tiêu hoang bất kề. Bây giờ mà có muốn làm bảng kế toán lại cũng chẳng biết cộng trừ nhơn chia sao cho ra lẽ. Canh bạc đời bỏ ra có chút vốn mà lợi thu về đếm mãi chẳng lơi tay.

...................................

Vậy đó mà rồi dâu bể cho đành ! Vậy đó rồi xảy ra cái biến cố tháng tư. Tôi ba mươi tuổi chết không mồ. Giữa trái tim nồng, nhát chém khô...

Sau ngày định mệnh đó, trường đóng cửa. Học trò tứ tán. Tôi khăn gói vô ... tù cho đúng điệu hòa-hợp-hòa-giải của" đảng và nhà nước ". Tù ? Cải tạo ? Ờ mà nhớ mà nhắc làm chi cái chuyện tù-cải-tạo vừa ngây ngô vừa gian ác đó cho nó thêm tủi hổ vong linh ông bà tổ tiên đã dày công mở nước và dựng nước bằng tinh thần đại-nghĩa- lấy-chí-nhân-thay-cường-bạo. Lịch sử gọi là mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc bị hạ màn cái rụp. Để dựng lên tuồng mới, đào thương với kép mùi thì không có vai mà hề thì ôi thôi lũ khũ ! Quên đi, quên cho nhẹ bớt phận người !!!

 

Ra tù. Rạch Giá trở thành nơi dung thân dù vẫn là một thứ ngục tù không có hàng rào gai kẽm. Ý định về quê khựng lại với lời nhắn cản của cha. Làng xóm hẹp té với những đòn thù ti tiện. Tôi ở lại với Rạch Giá, làm tên du thủ thứ thiệt. Vác mướn, bưng hồ, đội gạo, cái gì cũng làm, ngoại trừ cái chuyện gọi là chạy mánh thì chịu thua, hổng biết sao mà cứ ngại cái kiểu lanh tay lẹ miệng. Bộ đồ lính từ thời Thủ Ðức nhuộm đen mốc thếch. Tay chân trầy xước và cái đầu thì trầy trật những xung khắc oái ăm. Rạch Giá tuôn ra đường mua bán mọi thứ của cải vốn được cất giữ lâu năm làm gia bảo, nhưng có một thứ mà người ở đó không bao giờ chịu mua bán. Ðó là sự hào sảng phát sinh từ giòng máu của tiền nhân đã xẻ rạch đào mương đắp đập xô lùi biển cả.

5 năm cuối ở Rạch Giá. Cái nhớ của tôi dừng lại ở những tấm lòng hào sảng đó.

5 năm cuối ở đó, thằng tuổi trẻ vỡ mộng, tên thầy giáo thất chí là tôi bỗng khám phá ra một điều tưởng chỉ còn trong sách Quốc-văn-giáo-khoa-thư-lớp-đồng-ấu : những tấm lòng vàng.

Từ chợ Rạch Giá chạy theo đường liên tỉnh ngược về hướng Cần Thơ, khoảng 9 cây số  thì tới một cây cầu có tên gọi rất ngộ, cầu Quằn. Ngay trên cái dốc cao bên nây cầu, về phía Rạch Giá, rẽ phải là một con lộ đá, không, phải gọi là lộ đất trộn đá mà mỗi bận mưa xuống, đất theo nước mưa xói mòn chảy trôi về hai phía lề thấp, phần còn lại thì hóa thành bùn non, dẻo nhẹo đeo dính những bước chân bộ hành hoặc những vòng bánh xe qua lại. Sau năm 75, năm khi mười họa mới có một chiếc xe hơi gập ghềnh bò qua, còn thì đa số là xe lam ba bánh chở khách, hoặc là xe đạp chạy sì sụp, lách, né... chẳng khác gì thi xe đạp lái khéo. Nói vậy chớ con đường đất đá chạy lúp xúp vòng vo theo bờ sông, chui dưới tàn lá những bụi tre già phờ phệt khói bụi, ngang qua những mái tranh thấp lũm chũm, những bụi hoa không tên  nở dại suốt hai mùa mưa nắng vẫn mang một vẻ đẹp gì ngồ ngộ. Chạy quen trên những phố xá đông người, len lách kèn cựa qua lại những ngã tư ngã năm, ngó đâu cũng thấy xi-măng với gạch ngói riết rồi lòng cũng đâm ra hục hặc với những thứ không đâu. Có dịp quày trở lại, đi qua những ngõ tre lối trúc mới thấy cái vẻ an nhiên tự tại của cảnh vật và người nơi đó. Giặc thì giặc, miễn bom đạn chưa tràn tới, thì làng quê vẫn có cái vẻ êm ả của một mặt nuớc ao bèo ngày lặng gió. Những buổi trưa hè, ghé lại đụt nắng dưới bụi tre lão bên đường, ngó lá tre vừa lắt lay trong bóng nắng vừa kêu lất phất theo chỉ một làn gió nhẹ khảy qua thấy đời sao mà ơi...bình yên quá đỗi ! Rồi lại muốn chùi mình xuống nằm dài lên lớp lá tre khô rục đó mà ngủ một giấc cho...quên-mẹ-nó-đời ! Nhưng mà có ngủ được đâu, những ngày tháng đó !

Những ngày tháng đó tôi còn phải chạy thêm cho hết con đường dài đâu cỡ ba bốn cây số để tới một khu chợ có tên là chợ An Hòa. Chợ không có nhà lồng mái lợp, chỉ có mấy cái sạp gổ che bằng mấy tấm vải bạt sút sổ, thêm mấy cái thúng mẹt rổ rá chen nhau xúm xít trên một khoảnh đất rộng không quá mươi thuớc vuông. Ðối diện là một dãy tiệm buôn, cũng lụp xụp như mọi dãy phố tiệm ở miền quê. Cái thì bán chạp phô. Cái thì bán vải. Cái thì kê vài ba cái bàn gổ làm tiệm nước, buổi sáng cũng hủ tiếu bánh bao cà phê xíu mại. Người ra kẻ vô cũng ì xèo... Qua khỏi chợ chừng trăm thước là một ngôi trường nhỏ, xây từ hồi nào không biết mà nền kê đá tảng cao gần nửa thước tây, mái lợp tôn,  ngay cổng có cây bả đậu già khụ, giữa trưa rợp bóng cả nửa sân trường. Ở đó, tôi đã gặp và đã sống dưới tán che của một thân cổ thụ. Và cả một nhánh liễu dẫu đã xa rồi một thưở chương đài.

Bác sáu M. là một người đàn ông rặt bộ bình dân, trạc tuổi ba tôi lúc đó. Dáng dấp xuề xòa, cười nói hồn nhiên, hay mặc bộ py-ja-ma vải sọc ngay cả trong nhà hay ngoài ngõ. Ông sống chắp nối với một người đàn bà tàu và có hai con, một gái một trai. Khi đã thân thích, có lần bác tâm sự với tôi, bác là con trai độc nhất của một người mẹ góa bụa sớm, nhà nghèo, nên chỉ được cho học tới lớp ba đã phải xô ra đời tập kiếm sống. Vậy mà nghe bác sáu nói chuyện, người ta như thấy một người đứng tuổi ăn nói hùng biện, lý lẻ sâu sắc, câu chữ rạch ròi không thua bất cứ một ai kể cả những tay khoa bảng bằng cấp đeo đầy mình. Cho tới tháng tư năm bảy mươi lăm, bác là chủ tịch nghiệp đoàn xe lam. Chắc số trời dung ruổi bác gặp tôi rồi không biết do đâu mà đem lòng cảm mến. Số là hai năm sau khi tù về, nhà nước vốn chủ trương ngu dân nhưng cũng ra điều làm giáo dục, vẫn cho mở lại cửa trường, dĩ nhiên là với chương trình thay đổi hoàn toàn. Rồi vì thiếu người dạy học cho ra vẻ xôm tụ bèn quơ quào thêm đám tù gốc giáo... cho trở lại cái nghề cũ. Tôi cũng được hưởng lây... sự vinh quang đó. Nhưng hẵn là do cái liên hệ ruột thịt với quá nhiều tàn-dư-chế-độ-cũ nên không được trở lại trường-cũ-tình-xưa. Mà bị đưa vào một ngôi trường nhỏ ở ngoại ô Rạch Giá. Bởi vậy mới có chuyện ba sinh hữu hạnh, tôi được gặp bác sáu. Từ đó, nẩy sinh ra một mối giao cảm lạ lùng. Một bên, một người già đã tới tuổi sáu mươi, một bên, còn trai trẻ, qua năm ba bữa cà-phê, năm bảy hơi thuốc Samit ... đã coi nhau như ruột rà. Từ đó, ông theo tôi như cái bóng hộ mạng, che phủ cho tôi qua hết mọi tai ương. Tù về, tôi nghèo rớt mồng tơi. Mượn được chiếc xe đạp cà tàng, sáng sáng còng lưng đường trường xa từ chợ Rạch Giá vô tới An Hòa, vừa tới trước nhà bác ngay đầu chợ, là như đã canh sẵn, bác chụp vội cái áo phủ ngoài, thò tay lấy bao thuốc lá trong cái thùng bán thuốc lá lẻ của bác gái, bước vội ra chặn tôi lại rồi khoác tay ... vô thầy. Vừa nói vừa rẽ ngoặt vô cái tiệm nước của chú ba ... kế bên. Vậy rồi, bác một ly phé-nại, tôi một cốc xây-chừng, dậm thêm khói thuốc lá Thái Lan vốn là một thứ de-luxe thời buổi ấy, bữa chuyện thời thế, bữa tràm qua thế thái nhân tình, bác cháu đối ẩm, tương tri như tự đời nào. Có bữa thấy tôi lau mồ hôi nhỏ giọt, mặt mủi xanh lè, lại còn lớn tiếng kêu phổ ky gọi nấu cho tôi tô hủ tiếu. Trời, thời buổi ấy sáng gói xôi còn không dám ăn thì tô hủ tiếu bốc khói thơm phức quả là một thứ xa xỉ phản-cách-mạng. Vậy mà ông Mạnh Thường Quân ngay lúc cả nước đang hồ hởi bò lết lên chủ nghĩa xả hội đã cho tôi bất kể. Vậy đó, vậy đó. Bác sáu bảo bọc tôi như cha với con. Vốn có uy tín với làng xóm cũ thành ra bác cũng có thế với đám phường khóm mới. Dựa vào đó, mọi động tịnh của đám công an địa phương xỉa xói vào tôi đều được bác dang tay ra hóa giải. Có khi còn bỏ tiền ra đãi đằng đám cốt đột để mua cho tôi sự bằng an. Ngày qua ngày, bằng sự bao che của một bậc trưởng thượng như bác sáu, tôi qua lại riết rồi được tin cậy trở nên thân tình với hết đầu trên xóm dưới. Nay chỗ này mời bữa cơm đạm bạc, mai chỗ kia bữa giỗ linh đình. Bà con chòm xóm tin cậy nơi bác rồi cũng coi tôi như thân thuộc. Vậy đó, tháng thêm tháng, hai bác cháu càng lúc càng gắn bó. Bác đi đâu cũng kéo tôi theo. Cúng đình, cúng miểu, cưới hỏi, tang ma, giỗ chạp chỗ nào có bác là không thể thiếu mặt tôi. Có lần bác nói thẳng với tôi chỗ này họ nấu ăn ngon miệng lắm, thầy đi với tôi cho biết. Chắc bác nói khéo cho tôi no bụng khi biết tôi đang gồng mình nhịn nhọt với đồng lương chết đói và nhất là với số vốn liếng chữ nghĩa hết thời không đong được nửa lon gạo mọt. Vậy rồi, có lần thấy tôi quá túng quẩn, nhằm kỳ bãi trường, bác sáu kêu tôi ghé nhà rồi cầm xấp tiền mới tinh biểu lương hướng vầy làm sao thầy sống mà dạy học. Tui cho thầy mượn 3000 đồng (sau khi đám cầm quyền mới phù phép biến 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa thành 1 đồng Cộng Hòa Xả hội Chủ Nghĩa) làm vốn, về hỏi đường tìm cách mua bán với người ta. Rồi chừng nào có ăn gom vốn trả lại cho tui. Trời, giữa thời buổi mánh mun gạt gẩm nhau từng cây kim sợi chỉ, tự dưng xách tiền cho mượn không chờ một lời hỏi vay mà cũng không một tờ giấy lộn làm bằng, tôi sững sờ đến muốn ú ớ. Ở đời có vậy sao ? Thời buổi xả hội chủ nghĩa mà có vậy sao ?

Mà có thiệt !

Bác sáu ơi con nhắc ra đây như một nén hương lòng, thắp lại chút kỷ niệm, chút xíu kỷ niệm chẳng đáng đâu vào đâu chớ lấy gì mà cân đo đong lường được hết ân tình ân nghĩa, vốn chỉ là khái niệm trừu tượng chẳng hình thù không màu sắc. Không màu sắc mà tô son dặm phấn lại cho đời. Không hình thù mà lại lồng lộng bóng mát khi trời làm khô hạn. Chữ nghĩa, dao cọ rõ là đành bất lực. Làm sao con viết, vẽ, ra được cái mênh mông của tấm lòng bác cưu mang. Không chút máu huyết ruột thịt, chẳng họ hàng thân thích, không gần gũi xóm giềng, chẳng mảy may lợi lộc, vậy mà đưa tay ra vớt, nghiêng vai ra gánh, đỡ đần cho một kẻ thất thế ngay khi thú dữ đang đội lốt làm người. Thi ân bất cầu báo. Làm mà chẳng màng ơn nghĩa. Còn hào phóng nào hơn hào phóng đó nữa không !

Mà đã hết đâu, thứ ơn nghĩa trời biển đó. Đến lúc ngặt nghèo hơn nữa, chính dưới cái bóng phủ rợp đời tôi của bác, tôi quen biết một người bạn trẻ. Đùm bọc trong tấm lòng nhân ái của bác, người bạn đã dành cho tôi và gia đình bốn người một chuyến vượt biên miễn phí. Miễn phí trăm phần trong khi mỗi đầu người được tính giá bằng hai lượng vàng. Vị chi là tám lượng. Tám lượng ! Khi tôi không có được trong tay một váng vất bụi vàng chớ nói chi đến lượng. Tôi có mơ không ? Không ! Rồi chuyến đi suông sẻ ... Rồi... tôi mất bác sáu từ lần đó. Ở lại bên nhà, cách trời cách biển, tuổi già đến lúc mõn hơi. Bác sáu bỏ đi chưa nghe được từ miệng tôi một tiếng cám ơn. Tôi biết, bác sáu không chờ nghe. Tôi biết bác sáu không cần nghe. Nhưng ... nhưng rồi làm sao ?... Có những tách cà-phê buổi sáng, ở đây, khi tuổi đời đã xế, tôi nhớ ... tôi nhớ lại ... xót xa ... !!!

Vâng con nhớ lại, nhớ lại từng chút, từng phút một, những khi bác cháu mình qua lại, còn nhau ...

Rạch Giá. Ơi Rạch Giá. Chốn ở để mà thương chớ đâu phải đi để mà nhớ. Vậy mà...

Nhớ lắm, Rạch Giá ơi ! Dẫu đâu phải chỉ có tiếng cười. Dẫu nhiều lắm, những tiếng khóc. Kể cả, khóc thầm. Rất thầm.

Rạch Giá. Nếu người về lỡ ai tìm hỏi bạn. Cho gởi lời tạ lỗi, dẫu muộn màng. Chén trà khuya, hơi thuốc đẫm thâm ân. Và tay chuốc rượu nồng chưa nhắp cạn.

Vậy đó, Rạch Giá An Hòa, con đường dài chưa quá mươi cây số, mà nợ nần nhau quá đỗi. Ngày hai buổi đạp xe, đạp đi đạp về, khi nắng lưa thưa lúc mưa nặng hạt. Vòng xe lăn trên sỏi đá, buồn hiu. Vòng xe lăn trên bùn lầy, vùi dập. Và lắm khi còn lăn nghiến trên nỗi buồn tôi, điệu trái oan. Vâng, giữa khi không ai chờ không ai đợi, giữa khi mọi mơ mộng bị dìm chết ngay từ trong trứng nước, nói gì đến chuyện đèo bồng hoa nguyệt, ngày hai buổi đạp xe cọc cạch, cọc cạch ... đầu óc thả lỏng chỉ muốn làm cây lá vô tri. Vậy mà sao thổi lại chi cơn gió lạ làm lay lắt cọng cỏ đã bỏ xó bên đường. Sao tự dưng tỏ dạ yêu thương. Ờ sao dưng không đem lòng phủ dụ. Nép kín trong một góc đời, lánh mặt trong hờn tủi, mỗi lời nói, mỗi điệu bộ sao ngầm chứa mỗi yêu thương. Chút ít tiền kín đáo nhét vội trong túi áo bỏ quên khi biết tôi thiếu hụt. Chén cơm tấm mẳn nấu vội, chiều mưa bất chợt giữ chân kẻ trễ đường về. Trưa im im, phòng riêng trong một góc trường, mấy điếu thuốc lá lẻ, ly cà phê đá pha sẵn, chiếc khăn tay thấm nước mát, mỗi trưa nắng lửa để sẵn góc bàn viết, ngay khi tôi vừa đạp xe tới, dựng vội vào gốc cây, xoay người bước vào, người đã chờ người, lặng lẽ như đá vọng phu ... Có giao ước gì đâu khi ngang trái đã chận kín hết mọi ngã đời. Vậy mà sao vẫn chờ vẫn đợi, vẫn cho, cho hết, kể cả cái trân quí nhất đã gìn giữ suốt một thời con gái. Tội tình chi lắm vậy trời ! Vậy mà tôi, rồi  tôi có làm được gì đâu để đắp đổi lại chút ân tình ẩn mật đó !

Cho đến khi vì thúc bách của thời thế tôi bỏ đi, biệt xứ. Ở hai bờ đại dương, lặng ngắt tăm hơi. Năm bảy năm sau, tin xa. Cả nhà chìm tàu đâu đó trên biển dữ. Xác trôi tấp bờ bãi nào không ai biết. Bi kịch của cả nước, cộng thêm bi kịch của riêng mình !!!


Có lời nào đủ sám hối. Có giọt nước mắt nào xóa nhòa được vết nám trong một góc tim tôi. Người ơi, buồn lắm làm sao nói. Nước mắt mà chi ? Chẳng kịp rơi !

.....................

 

35 năm làm người dân Việt sống trên xứ sở đầy ắp tai ương. Chút vui nào cũng lẫn lẫn chút buồn. Có lần nào, người Việt vui trọn một niềm vui ?

Có bao giờ vui trọn một niềm vui ? Câu hỏi dội ngược vào lòng như một tiếng tức tưởi.

Dẫu vậy, nghĩ lại thêm rồi thấy ơn nghĩa trùng trùng. Năm năm, mười năm... ngày tháng đếm tới đếm lui chỉ như một chớp mắt trên dòng đời miên viễn. Mà sao ân tình của lòng người bảo bọc với đất đai cưu mang thì đếm hoài không xuể.

 

Giờ này cách trời cách biển.  Và người, người thì đã mù mịt cố nhân.

Xin một lần cho tôi được nói hai tiếng cám ơn.

 

Ơn người. Ơn đời.

Xin cúi đầu hướng ra đủ bốn phương tám hướng, vì nghĩ cho cùng có hướng nào mà không phưởng phất bóng NGƯỜI đã dang tay đỡ đần tôi, những khi đời trở chứng.

cvk_writer.jpg

Cám ơn Vĩnh Long.

Cám ơn Sài Gòn.

Cám ơn Rạch Gíá.

Vẫn còn hoài đó, từng nỗi nhớ mông mênh ...

Rất đỗi mông mênh ...

                                                                                                                         

Cao vị khanh

tháng 3 năm 2018 

_________________________________________________________________

(*) Sơn Nam   

 

ắtắt

 

Có một thời se sắt                                      

 

CVK_Comotthoisesat.jpg

 

 

Em xa đâu bỗng gọi

đâu tận cõi hai mươi

Ôi tiếng người diệu vợi

Bay suốt mấy tầng đời


Nhớ xưa em áo trắng

Tóc xấp xả bờ lưng

Sách vở đời chưa nặng

Gái nhỏ buồn không dưng


Em ươm sầu thiếu nữ

Buồn con gái dậy thì

Tôi hiền như thú dữ

Nằm gậm nhấm lương tri


Những chiều tan học muộn

Mưa bay kín sân trường

Em về theo gió cuốn

Đường lạnh mấy tầng sương


Mùa hè bông phượng nở

Ai bày tiệc rượu mừng

Mai về quê cách trở

Sao mắt nhỏ rưng rưng


Tôi đi lòng xuôi ngược

Em giấu giọt lệ ngà

Làm sao em biết được

Đời bày cuộc chia xa


Vậy đó rồi đi biệt

Hai mươi ... ba mươi năm

Tính những lần thua thiệt

Sót một mối tình câm


Em từ xa gọi lại

Làm nhớ tuổi hai mươi

Trái tim đời đã mõi

Thấy lại một giờ vui


Cám ơn em đã nhắc

Hàng phượng cuối sân chơi

Bạn bè xưa thất lạc

Chừng xanh cỏ ngậm ngùi


Em bây giờ thiếu phụ

Buồn có để ai hay

Tôi cằn thân cỗ thụ

Gần trọn kiếp lưu đày


Cám ơn em đã nhắc

Dù đã quá xa xôi

... có một thời se sắt

Từng ánh mắt, miệng cười ...


Cao vị khanh

 

 

CVK_Mar3_CoChienRiver.jpg

 

Chiều tháng tư về qua sông Cổ Chiên

 

Gió quậy tư bề sóng nhọn hoắc

Thuyền quay như lá cuối mùa rơi

Người qua sông muộn tay ghìm chặt

Vực trống chìm sâu đến rụng rời

 

Nước chảy hung hăng lở sạt bờ

Tưởng ngàn vó ngựa sải qua mau

Người về từ cõi đầy xương sọ

Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau

 

Nước vẫn tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn

Ngó lục bình trôi tưởng rã hàng

Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ?

Mà cứ trông chừng một bóng sang

 

Thuở nhỏ qua sông ý đã liều

Thách trời, kiêu ngạo cả hư vô

Hai mươi năm lẻ về vội vã

Nước mất, đường quê rặt bóng mồ

 

Gió đẩy thuyền đi, hận quá giang

Cồn xa bỗng lạnh rợn âm quen

Chiêng trống thời xưa gào xung trận

Trách kẻ đời nay để phận hèn

 

 

Cao vị khanh

 

CVK_Ruoumoi.jpg

Rượu chiều

Ly rượu chiều chưa cạn

Lòng đã lạnh đầu hôm

Con mắt xưa nhìn trộm

Con mắt buồn như than

 .............................

Ngửa cổ nốc ngụm chót

Rượu đắng đến bẽ bàng

                                                    Cao vịkhanh

CVK_Ruoukhoc.jpg 

 

Rượu khóc

Có bữa về qua quán bụi đời

La cà đàn đúm kiểu tay chơi

Rượu say bỗng nhớ người hào kiệt

Ba-ngàn-tử-đệ bó thây phơi !

 

    Rượu tiễn

Chén đầ̀u xin tống-tiễn-nhị-ca

Chén này để hết lại phần ta

Rót ra tám cõi mời bằng hữu

Đã chế́t hay còn nhố́t trại xa ...

                                                 Cao vị khanh 

________________________________________________________________ ______________

 

 

 Tưởng niệm 50 năm Tết Mậu Thân (1968-2018):

với

CAO VỊ KHANH:

CaoViKhanh_Khucdoantruong.jpg

 và

ĐOẠN TRƯỜNG KHÚC                        

Clickhere_Bamvoday.gif

  https://1drv.ms/w/s!AivKU8Cy4J3AgP4UekK8JeuBm2reYA

 

 


CaoViKhanh_TangHue.jpgtết MẬU THÂN 1968

Trích trường thi

KHÚC ĐOẠN TRƯỜNG    

_________________

 

 

 

.................... 38                       

Người sinh Bắc lìa cha xa mẹ

Chết trời Nam ai kẻ gói thây

Tủi người nát bấy hình hài

Còn thương tâm sự đắng cay vạn phần

 

39                                                         

Lính miền Nam chết trần, chết trụi

Bộ đội Hồ chết bụi, chết bờ

Bé nào nằm chết như mơ

Già nào chết chẳng có mồ có quan

 

 40                                                   

Đâu hả dạ lòng lang dạ sói

Chểm chệ trong hang tối Ba-đình

Gầm gừ kế độc điêu linh

Xua quân vào phố, đinh ninh bất ngờ

 

 

41                                                     

Đón Tết đến Xuân chờ hoa nở

Xóm làng Nam hớn hở sum vầy

Mẹ mừng con tụ đông đầy

Giao thừa rước lễ pháo dây nổ dòn

 

42                                                      

Dưa hấu đỏ, trái tròn chưa xẻ

Bánh chưng xanh, nếp tẻ chưa sôi

Bập bùng, lửa dậy sáng trời

Pháo mừng chưa tắt đã nhồi pháo binh

 

 43                                                        

Du kích xả rập rình ngõ tối

Bộ đội miền nón cối lao nhao

''Người nách súng, kẻ tay dao

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sô

 

 

44                                                 

Anh về phép bên nôi con nhỏ

Chị đãi chồng cho bỏ lúc xa

Vui vầy chưa kịp chào cha

Nỗi vui sum họp thành ra nỗi sầu

 

45                                                 

''Tổng-công-kích'' đập đầu chôn sống

Tết Mậu Thân rõ giống hung tàn

Cả làng trọn phố tan hoang

Ba mươi, mùng một, khăn tang trắng đường

 

46                                                       

Khắp miền Nam phừng phừng lửa dậy

Mỗi tỉnh thành, một bãi tương tàn

Làm sao cho sập cho tan

Làm cho tàn rụi bẽ bàng mới oai

                                  

47                                                        

Ôi Vĩnh-long, nhớ hoài phố nhỏ

B 40 cháy đỏ đêm xuân

Người người tốc chạy gian truân

Con cõng mẹ trốn đạn tưng ngang đầu

 

48                                                      

Tiếng khóc kể, giọng sầu đêm thẳm

Người lết bò, chân giẫm tử thi

Hỡi người điên giữa xuân thì

Sao nằm chết, có hiểu gì đạn bom!

 

49                                                 

Ôi Phú-thọ, xóm chòm hiu quạnh

Ngõ tối nghèo tẻ lạnh, đời thua

Vách nhà thưa dột nắng mưa

Sớm hôm cơm hẩm, canh thừa nuôi con

 

 

50                                                     

Ai bày chuyện tranh còn được mất

Xua đặc công bám rát dân nghèo

Chốt cày từng tổ da beo

Nhà nhà bốc cháy, của vèo vèo bay

 

51                                                     

Anh thương phế cụt tay, què cẳng

Địu con thơ gánh nặng nồi niêu

Chị mù quờ quạng gậy xiêu

Trần vai áo rách chạy liều thoát thân

 

52                                                      

Đêm thương khó, tần ngần ánh chớp

Lửa hoả châu thoi thóp ma trơi

Mèo hoang gào đói rụng rời

Chó rong lạc chủ tru bồi hồi khuya    

 

 

 53                                                  

Ôi Huế đẹp, Huế xưa muôn thuở

Nón lá che cặp vở qua sông

Nắng mưa e ấp, thẹn thùng

Những cô gái Huế ngại ngùng làm duyên

 

54                                        

Ai bảo Huế xây nền đất yểm

Hồn ma Hời tím rịm đền hoang

Những đồi, những núi lang thang

Muôn binh ngàn tướng chết oan trận tiền

 

55                                              

Giặc vào Huế, thú điên thoát cũi

Say máu tươi, tanh tưởi thù riêng

Những chàng mang nợ bút nghiên

Những nàng khuê các xâu liền từng dây

 

56                                                  

Thầy kinh kệ đêm ngày chuông mõ

Cha áo chùng hằng tỏ niềm yêu

Những o buôn thúng chợ chiều

Những anh lính trẻ lỡ trìu mến ai

 

57                                                 

Tết sum họp đổi ngày tang khốc

Hố bươi nông chẳng nhọc công sâu

Đẩy xô ra chốn thảm sầu

Dao đâm, mắt bịt, đạn xâu từng hàng

 

58                                              

Ai đã khóc, khô cằn nước mắt

Ai đã la, tiếng tắt đầu môi

Uất hờn nghẹn ứ chẹn lời

Ai nghe được tiếng ''hởi trời'' vô thanh

 

Cao Vị Khanh 

cvk_hoangthanhHue.jpg CVK_caskets.jpg

 

____________________________

 

  




 

CVK_diloanhquanhvoitbt.jpg 

đi loanh quanh ...

với   TRẦN BANG THẠCH

 

CAO VỊ KHANH

 

 

Bắt đầu bằng một chuyện-trên-trời, cái chuyện vấn-đáp giữa cậu bé Hạng Thác và ông vạn thế sư biểu họ Khổng. Cái thứ chuyện để dạy đời thì hổng là trên-trời thì là gì ?

... Khi Hạng Thác hỏi vậy chớ lông mày có mấy sợi thì Khổng Tử bí. Dù đó là một câu hỏi lảng nhách về một thứ lảng òm và thiệt tình là lảng xẹt vì chẳng ăn nhằm gì tới đạo lớn là thứ chuyên trị của người đối diện. Lại là thứ hiển nhiên tới nỗi chẳng làm ai bận tâm dù là mọc ngay boong trên mặt người.

Ờ có những chuyện ngay trước mắt sát bên tai mà chừng hỏi lại thì ai cũng chưng hửng. Không nghe không thấy không hay không biết. Đúng ra là tại vô tình, tại hổng-để-ý, tại xem thường hay tại ... hay tại ... bị ... bởi ... vì ... ( ở đời có hàng triệu thứ tại-bởi-vì khi người ta ... bí ! )

 

Có hôm nào ngồi buồn kiểu vọc-nước-giỡn-trăng mà rảo mắt quanh mình, nhẩn nha ngó bộ bàn ăn với mấy cái ghế bọc da ( mấy cái ghế ? ), cái bàn thờ vốn là cái tủ kiến kiểu tây có chưng mấy chai rượu ( mấy chai ? ), mấy bức tranh của Monet treo trên tường vẽ nội cái góc vườn ở Giverny nhìn dưới nhiều thời khắc khác nhau ( mấy bức tranh ? ) ... Nhìn ra xa một chút, mà nói đâu cho xa xôi, quanh đây thôi, ngay trong ngôi nhà mình đang sống, sớm hôm ra vô từng bữa ... thử hỏi coi nhà mình có bao nhiêu cửa sổ, cửa cái trổ ra hướng nào, đông tây nam bắc ? Còn cái cửa sổ phòng ngủ nữa quay về đâu mà con trăng sáng đầu hôm cứ xui ta thao thức, bâng khuâng nhớ lại một chốn nào ... Giả sử vậy, câu hỏi về những đồ vật quen thuộc nhất, gần gủi nhất đó có phải đôi khi lại làm mình ngơ ngẩn. Ngơ ngẩn không phải vì xa lạ. Ngơ ngẩn vì quá gần gủi. Ngơ ngẩn vì quá quen thuộc. Quen vì thấy hoài thấy hủy. Thuộc vì vốn của mình chớ có phải của ai đâu !

 

Ờ , ở đời vậy đó. Có những cái vốn của mình như tứ đại ngũ uẩn - mà Phật đã lỡ một lần nêu lên nghi vấn về quyển sở hữu, còn nhiều cái khi không mình quơ quào nhận đại là của mình, thí dụ như là cái nhà của tôi, chiếc xe của tôi, hàng xóm của tôi, thậm chí đến con vợ của tôi ... mà lắm khi nghe hỏi tới mới giựt mình ... coi lại ! À xe mình mang bản số gì há ? Nhớ không ? ... Con vợ tui cao mấy thước ? -ủa nói lộn nói lại vợ tui cao thước mấy ?. Biết không, dù vẫn nói là ... đầu gối tay ấp ? Còn mấy cái vòng số một số hai số ba nữa, sức mấy mà có người thứ hai biết được ngoại trừ ông Đông Hồ mua-áo-cho-người-yêu mà khỏi phải xách thước đo trước ? ) ... Còn bà lão người Trung Hoa hay bắt ghế ngồi trước hàng ba, im ỉm và xa vắng như một cung nữ về chiều bị đày vào lãnh cung, sáng qua gật đầu chào, chiều về gật đầu chào, bà ta gục gặc chào lại khi mình qua sáng, gục gặc chào khi mình về qua chiều ... Lâu ngày rồi thành một hình ảnh quen thuộc, quen thuộc đến độ  làm quên bẵng có một người ngồi hôm sớm, buồn hiu ở một góc hiên ... Sau một mùa đông dài và khắc nghiệt, mùa xuân tới rồi mà chưa thấy lại cái ghế và người ngồi đó. Sáng đi qua, chiều về lại, có một cái gì thiêu thiếu, đâu đây ... Rồi mùa xuân qua, mùa hè tới vẫn chưa thấy lại, hàng ba vẫn bỏ trống ... một hôm nghe trẻ nít hàng xóm dọa nhau về một bóng ma tàu ... giựt mình hỏi lại. À thì ra, người đàn bà tàu đã chết giữa mùa đông năm ngoái, ngay khi cơn bão tuyết thứ nhất vừa đổ xuống. À là như vậy, chỗ đó đã có một người đàn bà nhỏ thó hay ngồi lặng lẽ ngó trời ngó đất, lặng lẽ tới đỗi làm mình tưởng đến một thứ quí phi thất sủng ngồi nhớ tiếng vua đòi ... Người đàn bà đó mấy tuổi, tên gì, con cháu ra sao ? Suốt một đời ( bao nhiêu năm ? ) theo cha mẹ bỏ Trùng Khánh ? Hàng Châu ?... gồng gánh nhau qua Việt Nam rồi năm 75 ? hay 76 ? hay 80 ... theo con cái cỏng bồng nhau lội biển qua tuốt bên này, cái cuộc đời nạn phụ dằng dặc đó lao khồ có thua gì cuộc vạn lý trường chinh của Mao-xếnh-xáng đâu mà không nghe ai nói tới ... Không hay ! Không biết ! Vậy mà người đàn bà đó trong mấy năm nay đã là láng giềng trong cái khu phố không nhiều lắm cái màu da vàng sẫm này. Tại thói đời cứ hay nhìn lên, hay nhìn xa hơn cái tầm con mắt mình, ngóng cao hơn cái cần cổ mình ... cho ra vẻ nhìn xa trông rộng theo kiểu con-mắt-nhìn-ra-tám-cõi !

Kể ra quanh quẩn đây còn có bao nhiêu thứ dẫu "nhìn" mà không "thấy", có thấy cũng không thông. Mà có thông cũng không đủ lòng nghĩ đến.

 

Vậy mà rồi có người nhìn và thấy, thấy rồi lại mang lòng nghĩ đến, mà lại nghĩ miên man tới nơi tới chốn ... về những cái vụn vặt, lẻ tẻ, không đâu ra đâu. Những cái thứ ở ngay sát bên mình, lẩn lút, loay hoay, lặng lẽ xoay trở quanh quanh, mờ mờ nhạt nhạt, tưởng như không mà có, có thật. Những mẫu chuyện đời không có quá một chi tiết hiếu kỳ đủ để khêu gợi sự tò mò của người bên cạnh. Thứ chuyện đời mà người nghe đã có sẵn câu phản ứng ... ối-hơi-đâu-mà-nghe !

Mà thật ra nếu chịu lắng lòng mà nghe thì dường như có nhiều điều để nghe lắm. Niệm-thiên-địa-chi-du-du ...

 

Ông Trần Bang Thạch là một trong những người hay lắng nghe những tiếng đời không lấy gì làm huyên náo đó. Làm như một kẻ nhàn du trong một cuộc đời rất là chộn rộn, ông ta đi tới đi lui, lẩn tha lẩn thẩn, đôi khi lúc tha lúc thúc một mình ( chớ ai mà rảnh rổi đi cùng ), ông ta qua lại nhẹ nhàng, nói năng chậm rãi, từ tốn như sợ làm kinh động cái nhịp sống vốn dĩ rất trầm kha ... như một người khách bàng quang chẳng mắc mớ gì hết với cái dòng đời rộn rịp xuôi ngược quanh quanh. Mà thật ra cái vẻ nhàn lãm đó không giấu được chút nào cái nhìn rất tinh tế, cái soi mói rất mắc mỏ ngay tới những cái không ra gì -mà có cái gì ra cái gì chớ của cái cõi ba-vạn-sáu-ngàn-ngày-là-mấy này. Độc-sảng-nhiên-nhi-thế-hạ.

 

Nội cái chuyện mua nhà ( căn nhà thì nhỏ như cái hộp quẹt mà cái chuyện mua nhà thì xưa chỉ ít hơn trái đất xưa có chút đỉnh thôi mà ông cũng thấy và nghe ra trong đó bao nhiêu là chuyện đáng nói làm người nghe theo cũng thấy bụng dạ dàu dàu ). Căn nhà ở đường Bush. Mà đường Bush nào nhỉ ? Phải đường Bush ở Houston ? Mà sao nghe ra cũng hao hao cái chuyện mua nhà đâu đó ở New Jersey, ở Dallas, ở Toronto, ở Montréal ... mà lại cũng y chang cái chuyện mua nhà ở bên tây bên úc ... trong những chương đầu của cuốn truyện dài ngàn chương tỵ nạn. Cũng là ... nhà nhỏ, cũ, hai phòng ngủ ... nhà thuộc loại frame house nên giá rẻ ... Cái chuyện mua nhà của đám người bừng-con-mắt-dậy thấy mình thân sơ thất sở với mớ điều kiện ắt-có-mà-chưa-đủ : nhỏ, cũ, rẻ tiền. Thật ra có một điều kiện khác không có giá trị gì hết trên thị trường mà dường như ở đây lại là điều làm cho cái ắt-có thành đủ. Hai ông bà T gì đó ( gọi là ông bà A, ông bà B, ông bà C hay ông bà Danh ... cũng được vậy ) đã quyết định chọn mua căn nhà trên đường Bush đó chỉ vì ... hai hàng me keo. Hai hàng me keo ! Đúng là lãng nhách. Cái loại cây mọc đầy, hoang dại, thừa thải trên đất cát miền Nam, chẳng ít lợi gì ngoài cái việc chụm củi, chỉ được mớ bóng lá giao đầu phả chút hơi mát dịu dàng xuống những buổi trưa miền Nam nóng hổi, cho đám con nít đánh trỏng, bắn cu-li, hay mấy chị vú em ẳm con chủ ra ngồi nói chuyện tào lao hoặc có giá hơn chút là trân mình chịu trận mấy cái màn tình tự trai gái thiếu chỗ tự tình... Vậy đó cái thứ me keo chẳng làm nên tích sự gì.

Nhưng bỗng dưng, khi đi xa rồi, thì mấy hàng me kéo đó lại đâm ra đầy sự tích. Sự tích về một Châu đốc, Rạch giá, Cần thơ, Vĩnh long, Sa đéc, Nha Trang, Phan Thiết ... cả Sài gòn hay cả miền-nam-miền trung-cao-nguyên-đồng-tháp ... với những con đường lớn nhỏ dài ngắn, cong queo hay thẳng tắp rợp toàn một bóng me keo. Sự tích về những ngôi trường làng, trường tỉnh với vuông sân chơi mát rượi, những góc đường góc phố với hàng xe bán nước đá-bào-đậu-đỏ-bánh-lọt-em-tan-trường-về-anh-theo-Ngọ-về ... đã hơn một lần đụt nắng che mưa dưới cái tàn lá lưa thưa xanh mướt. Sự tích về chính một quê hương lưu đày trong lòng người đi, thứ quê hương bỏ thì thương mà vương thì tội. Ờ hai hàng me keo nối liền bến đò chợ Cái Dầu với thị trấn Hòa Hảo đã là máu là thịt là xương là da của anh chị.

 

Vậy đó hai hàng me keo ở đây ( hay hàng còng ở đó, hay hàng bả đậu trong này, hay hai hàng sầu đâu ngoài nớ cũng vậy, mà hai hàng khuynh diệp góc phố, hai hàng sua đủa dưới quê, hay hai hàng phượng đỏ đã-nhỏ-xuống-lòng-tôi-những-giọt-châu ... ) cũng chỉ là những đắp đổi qua ngày đoạn tháng cho những mắc mớ trong lòng, giữa khi mình ngó đâu cũng thấy lạ hoắc lạ huơ. Nhớ lại mà bồi hồi, cái thời buổi gì kỳ cục. Thời đó, người ta cứ hay quơ quào chụp bắt bất cứ cái gì đang-có-trước-mắt mà lại mang mang hơi hướm cái-đã-khuất-mắt như để ... thu ngắn lại mấy tấc lòng cố quận. Thời đó ai nấy cũng thấy như mình đang phụ rẫy một cái gì, một cái gì đang lầm than quá đỗi ... Bởi vậy rồi cái hàng me keo đó, cái cọng rau húng lủi đó, giàn bầu giàn bí đó, cái cầu gổ bắt xéo cong cong đó ... trong những ngày lạc lõng bơ vơ đó, đã có giá trị như những chiếc phao thấp thoáng trên dòng đời lơ ngơ, người ta vói chụp níu nó lại với mình như cố níu lại chút xíu quê-nhà một sớm một chiều dưng không mà xa mù xa mịt. Nói cách khác, tìm cho mình một hình ảnh rồi vỗ về mình là quen thuộc chỉ cốt để trấn áp sức phản kháng vô thức của cái mầm chùm gởi trước khi đành chịu tháp mình vào một thân cây khác giống lạ nòi.

Chút xíu đó thôi, cái hàng me keo đó, bỗng làm người ta thấy gần lại, cái quê hương khốn khổ. Và ... người ta yên chí làm lại ... cuộc đời ! Cái hàng me keo đó ( hay cọng rau muống mắc dàn trời, hay đòn bánh tét gói bằng miếng plastic nhuộm xanh, hay nhánh forsythia nở hoa vàng giữa mùa tuyết trắng ... ) đã gở giùm nhiều người lắm, những sợi chỉ nhện mắc mớ, những ngày ai nấy mới bỏ quê ... Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương.

 

Cái ông Trần Bang Thạch này, lẩm rẩm vậy mà thâm lắm. Lý do gì mua nhà thì không biết chứ tại cái hàng-me-keo mà mua nhà thì biết ý nhau quá mạng. Cái lý do không văn tự nào chứng giám ( kể cả giấy tờ bằng khoán nhà đất ) mà nó lại có giá trị của một sự thề nguyền rằng ... dẫu có xa nhà mà không xa quê. Dĩ nhiên lời thề có sắt son hay không thì hồi sau phân giải. Nhưng mà hồi đó vậy đó. Ai cũng có một nỗi lòng !

 

Kể chuyện mua nhà thật ra là để kể chuyện đời-ta-ở-xứ-người. Mà đường vào đời ta ở xứ người thì cũng giống như đường-vào-tình-yêu của Trúc Phương vậy, chỉ có trăm-lần-vui mà có tới vạn-lần-buồn. Ông tẳn mẳn tỉ mỉ vòng vo từ hàng me keo quê người tới cái vườn nhỏ xíu trồng đủ thứ rau quê mình, chính là để nói tới cái giấc mộng thiệt lớn trong cái nhà thiệt nhỏ của một người Việt Nam ở xứ người mà cứ tưởng ở xứ mình. Ông bà T mua nhà vì muốn dựng nên một cảnh sống quê-nhà ở quê-người. Có điều, cây cỏ ép uổng còn tàm tạm chớ con người thì đã có cái khuôn phép của xả hội quanh nó. Người Việt ở nước ngoài là tháp cái đời mình vào đời người chớ làm sao mà ngược lại. Cho nên ông T mua nhà với bao nhiêu là mộng lớn với mộng con mà chừng con lớn rồi thì con cũng mông lung như mộng. Đó là một sự thật rất ... thật. Ông T tính mở lớn nhà thêm khi con cái lớn lên, che thêm mái dựng thêm phòng khi có dâu có rể y chang cái tính toán của một người-việt-trăm-phần-cốt-y. Nhưng mà đâu có vuông tròn như vậy, đường vào đời ta ! Cách nói loanh quanh của Trần Bang Thạch là dẫn mình đi qua những căn phòng bề bộn đồ đạc ăm ắp tiếng cười rồi dẫn mình quày trở lại cũng chính căn phòng đó khi đồ đạc đã dọn hết đi, mọi âm thanh đã tắt hết vì người ở đó chỉ là khách trọ, đến rồi đi, bỏ lại đó cái trống trơn làm bằng cho chứng phù du của sự thế. Ông ta đi loanh quanh mà rồi tới ngay boong cốt lõi. Làm gì thì làm, mua nhà mua block, mua đất cất nhà hay xây kim tỉnh hay mua gì gì đi nữa thì nhà đất hay gì gì đó cũng là của người chớ không phải của mình. Nhà với đất thì tiếng mình làm chủ mà mấy ông chủ ngân hàng thì cứ đứng xớ rớ kề bên. Con cái lớn lên ở xứ này thì theo điệu của xứ này mà bung ra tứ xứ. Chùm gởi có quấn cây trăm vòng thì cây cứ là cây và chùm gởi thì cứ lặc lìa lặc lọi mớ rễ lá lạc loài. Ông Trần Bang Thạch viết chuyện mua nhà mà như viết cả hành trình của một người Việt Nam ở xứ người, mà như viết cả hành trình của một CON NGƯỜI qua suốt một cuộc lữ. Đọc Căn nhà trên đường Bush là theo ông loanh quanh những nẻo đời bất tận, vòng tới vòng lui, xoay qua trở lại, giống như trò chơi rồng rắn, đi đâu rồi cũng trở lại chỗ bắt đầu, chỗ-khởi-đi cũng là chỗ- trở-về của một đời người đó thôi. Đã bắt đầu từ một số không, thì chấm hết bằng cái chấm than cũng là phải phải. Họa may như bà T, ngày tính sổ cuối đời chỉ còn một nhúm tro than của người ba sinh hương lửa để mang theo đã phải kể là vạn hạnh. Chấm than.

 

Vậy đó, ông Trần Bang Thạch có nói chuyện gì cao xa đâu, toàn là ba cái chuyện-đầu-trên-xóm-dưới, từ-thành-đến-tỉnh, đăng lên báo thì cũng chỉ ở trang ba trang tư. Chuyện của ông ta gần xịt, quanh quất đâu đây. Nhưng trong cái quanh quất chòm xóm có cái hun hút của thiên địa du du. Ông ta nói chuyện hàng ngày, nhản tiền. Mà trong cái nhản tiền đó có cái biến thiên của trời đất thường hằng. Chuyện của tôi, của anh, của chị, của người hàng xóm, của ông giáo già về hưu lỡ một kỳ hẹn chót với môn sinh, của anh tài xế xe hàng tan tành hạnh phúc từ sẩy tay của định mệnh, của chị lao công da đen hy sinh cho chồng con tới hết đời, của anh chàng A-Phú-Hản ( hay Việt hay Miên hay Lèo ... ? ) lưu vong và buồn rầu cứ hay ra bờ sông ngó mấy ống khói tàu vật vờ mà thả hồn theo nước lớn nước ròng về cố xứ, của người đàn ông già hết thời đi lượm lon nhỏ làm việc lớn, của ông kép hát cả đời góp vui cho thiên hạ đến giờ chót có chút vui riêng mà cũng chẳng kịp vui ... nghĩa là của những con người bình thường với mơ ước vui buồn hạnh phúc khổ đau cũng bình thường như chính cái cuộc sống rất đỗi bình thường không-có-gì-để-nói của họ. Cái để nói ở đây chính là tấm lòng mẩn cảm của ông đã nhìn ra, nghe được từ những sự việc rất bình thường đó cái lớn lao trong nhỏ nhoi, cái phổ quát từ những riêng tư, cái không thường giữa những việc quá thường. Nhân vật của ông - mà có gọi là nhân vật được không, những ông bà T, anh Benito Vasquez, chị Rosa, bà Carol ... hay ai ai nữa ... mà nếu không gọi là nhân vật thì gọi là gì trong cái vở tuồng ba hồi sáu cảnh mười tám cái linh đinh đó ? Họ không sắm tuồng, múa may cười khóc theo một kịch bản nào hết, nếu không nói là chỉ theo có cái sắp xếp của ông đạo diễn ở tuốt trên ... trời. Cái quay búng sẵn ... Nhân vật của ông sống cái đời của họ, vậy thôi. Mà qua đó cũng không thông điệp chẳng tuyên ngôn gì ráo trọi. Họ chỉ làm cái chuyện như anh, như tôi, như chị  đã đang và sẽ làm, chẳng anh hùng cũng không tiên tiến, không vĩ đại mà cũng không ti tiện, họ làm cái chuyện họ phải làm, không cao cả mà cũng không thấp hèn. Họ làm cái chuyện cần làm. Vậy thôi. Chấm và hết. Dẫu vậy, nói vậy mà rồi không phải vậy. Bởi vì, để làm một việc xem ra tầm thường, lắm khi không dễ chút nào ... đôi khi để làm một việc ngó bộ nhỏ nhoi lại phải cần một tấm lòng vô cùng quảng đại ...

Cho nên đọc truyện của Trần Bang Thạch nghe kể toàn chuyện lụn vụn lặt vặt, thứ chuyện mới nghe qua thấy đơn giản làm sao. Vậy mà chừng nghĩ lại không đơn giản chút nào. Mà làm sao đơn giản cho được. Cuộc đời vốn trăm mặt. Mà ông Trần Bang Thạch này còn muốn lôi ra cái mặt thứ một trăm lẻ một nữa là khác.

 

Theo Trần Bang Thạch đi loanh quanh vào một thế giới rất thực là khép lại con mắt mộng mị để nhìn ngó cuộc đời như chính nó là nó. Thứ cuộc đời rất quen thuộc với tất cả những kỳ quặc đã quay ta mòng mòng. Thứ cuộc đời rất vô nghĩa với tất cả những nghĩa lý đã làm ta chóng mặt. Cũng như thứ cuộc đời với tất cả những nhỏ nhoi  rất phi thường của nó vậy. Ông ta phanh phui rất ân cần. Ông ta soi mói tới hết dạ. Ông ta lật tới lật lui những mảnh đời, ngắm nghía so đo cân nhắc để tìm cái chỗ-thương-cho-được ( mà thật ra có cuộc đời nào mà không đáng thương giữa cái cõi đời rất đáng ghét này ). Cho nên ông ta nghe thấy được những điều mà mọi người không nghe thấy. Cả đến một điều chưa kịp nói giữa hai cha con sau khi đã tử biệt. Cả đến nụ cười mãn nguyện của mẹ từ trên mây, nhiều năm sau, khi bầy con mồ côi vừa thành đạt. Ông cảm được hết, kể cả những hạnh phúc rất trái cựa, những đau khổ rất lặng lẽ, những oái ăm ẩn nấp đằng sau cái vẻ nhởn nhơ của những nếp đời rất mực phẳng phiu. Có điều khác với cái lối bi quan cố hữu của đa số, Trần Bang Thạch luôn tìm được từ trong nghịch cảnh một sự thỏa hiệp nào đó với bi kịch. Ông thấy ra trong sự nhẫn nại chịu đựng khó khăn là bài học rốt ráo của mọi sự lầm than, trong tận cùng của mọi oan khiên đều có những thăng hoa rất là luân-lý-giáo-khoa-thư. Ông luôn tìm cách nhìn đời qua hai mặt của một đồng tiền.

Đó có phải là một cái nhìn ngây thơ vô tội va. Một cái nhìn ... rất ư là ba phải. Không, cái nhìn đó thật ra xuất phát từ một tâm địa rất lành. Lành như văn chương của ông vậy.

Lành như câu viết rất giản dị, gần gũi với văn nói, đặc biệt là lối nói miền Nam. Nhưng là một miền Nam kẻ-chợ. Lâu lâu lại chêm vào đôi ba chữ đặc sệt miệt-vườn làm điếng người như cái miệng cô ba cười nháng nháng cái răng "dàng". Mạch văn suông sẻ, lưu loát, chắc-tại-vì-bỏ-nước-đi-lâu-rồi, đọc lên nghe khoái tai, nghe như dễ-ợt-ai-viết- cũng-được mà thật ra cái kỳ khu thì đã nằm sẵn trong sự chọn lựa và sắp xếp chữ nghĩa theo một luật lệ âm thanh nào đó của riêng ông.

Văn của ông vì vậy nghe nhẹ hều, chữ nghĩa êm ru bà rù, lại lẩn tha lẩn thẩn giông giống điệu mấy ngón tay rờ rẩm đâu đâu ... vậy rồi giữa lúc đang u u mê mê, ông nhéo một cái, móng tay sắc lẻm, làm ai nấy nhói đau mà không kịp kêu " ái " ... vì cái đau đã thấm sâu, sâu lắm, thấu tuột vào tới ruột gan ... thức ăn dư thừa ( của bà mẹ già nấu sẵn " dụ " mấy đứa con về ăn mà nó ...không về ) bà còn có thể đổ đi, còn nỗi buồn của người mẹ già nua ... bà biết đổ đi đâu ! Trời ơi nỗi buồn biết "đổ" đi đâu ! Chữ " đổ "của ông quả là hết ý. Có thua gì chữ " đổ " trong múc-ánh-trăng-vàng-đổ-đi. Có điều múc buồn "đổ " đi còn có cái vẻ giận-lẫy-dễ-thương-hết-sức của mấy bà mẹ già móm xọm thương con đứt ruột, muốn đem đổ-hết-cho-rồi-mà-sợ-rủi-nó-về-nó-đói-bụng. Chữ hết nghĩa ông ơi. Còn nữa nè ... sáng sáng vừa đi bách bộ vừa nghe chim hót trên ngọn me keo, vừa thấy lòng mình đang mọc cánh bay về một thỏi cù lao bên bờ sông Hậu. Sao tui khoái cái chữ " thỏi " của ông lắm vậy. Làm cho nỗi thiết tha với khoảng cù lao nhỏ xíu của ông bỗng lớn vọt lên, tỉ lệ nghịch với tầm vóc được thu nhỏ lại thành thỏi bỏ-lọt-túi-áo, kiểu như thỏi kẹo thỏi đường hay " thỏi " tình của mấy anh si hồi xưa thương-em-không-biết-để-đâu-để-trong-túi-áo-lâu-lâu-lại-dòm vậy đó. Lại nữa, có lần theo ông về thăm mẹ ở miệt lục tỉnh, đang mơ mơ màng màng trước cảnh cũ người xưa, bỗng ông giáng cho mấy chữ bên bờ kinh xáng thổi, tui muốn té ngữa ông ơi ! Ờ mấy cái bờ kinh xáng thổi giữa một miền Nam sông nước ngổn ngang làm cho cái xa xôi nó bỗng xích lại gần tận mặt, gần tận mặt mà vẫn đoạn đành thiên lý nên giữa lòng ta bỗng quậy chút ba đào.

Cái lối viết theo kiểu người dưng nước lả, đứng nép bên đường, để mặc cho sự tình nối đuôi nhau liền lạc như tính liên tục của dòng đời, đôi khi chuyện tới sau làm phản đề cho chuyện tới trước khiến cho bố cục gây đột biến một cách tự nhiên làm người đọc bị lôi cuốn một cách dễ chịu, buồn vui rồi hờn giận theo lúc nào không biết mà buồn vui hờn giận gì cũng nhẹ nhàng thanh thản ... đến nỗi có đôi khi lại thấy có chính mình ở trỏng ... là một lối-viết-rất-trần-bang-thạch. Lối viết của một người tốt bụng.

Ông Trần Bang Thạch ơi, ông làm văn chương tuyệt cú lắm. Văn chương là loay hoay loanh quanh vậy đó ông. Đâu cần phải gồng mình thở phì phò như kéo cây kéo gổ. Hay trân mình trân mẩy mà la lối ba cái chuyện triết lý bí hiểm siêu hình siêu việt trời ơi đất hởi mới là văn chương. Làm văn chương thì thủng thẳng mà làm, thấy đâu nói đó, thấy gì nói nấy, thấy-sao-nói-vậy-người-ơi. Nội cái cõi trước mặt sau lưng mà nói, nói hoài cũng không hết. Khỏi làm bộ làm tịch, phồng mang trợn mắt làm chi cho thêm bí hiểm cái sự đời. Ai thấy chuyện ngàn sao thì bay bổng nói chuyện trên trời. Ai thấy chuyện xe cán chó hay chó đụng xe thì rà rà kể chuyện dưới đất. Còn ai nghe được tiếng đời rủ rỉ như ông thì cứ rù rì mà kể lể. Gió lớn có cái khoái-tai-phong-dã thì gió hiu hiu có cái êm ái thầm thì.

Thầm thì thì thấm.

Cao Vị Khanh

* Đọc lại tập truyện QUẨN QUANH CHUYỆN ĐỜI của Trần Bang Thạch xuất bản năm 2006

Đăng lại từ  lyhuong-rachgia.blogspot.com

  

Enter supporting content here