Thơ
văn
CAO VỊ KHANH
Montreal, Canada
CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá
Ở một
chỗ
rất
gần sao...
Có lần người
bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi
uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những
vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ
của những "Ông Hoàng bé ". Thử cho anh coi lại điệu vũ
của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện
thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống
được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.
Chỗ tôi đang ở cũng
là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông
bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn
xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi
lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến,
có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và
lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ
trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con
mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách
thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm
nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh
đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì
sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng
của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam.
Chắc quê hương tôi ở hướng đó.
Thuở mười một mười hai tuổi,
mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuống
là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa
ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời
vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt
cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu
ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy
nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi
chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi
con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở
đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa như để nháy gọi nhau,
một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã
rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như
tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương hột mẳn đều như
tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm
chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ.
Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có
một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra
không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một
lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì
sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới
khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra,
trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn
đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi
bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ
trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt
mà không biết vì sao.
Từ đó, bầy sao cứ lấp lánh theo tôi như những cặp
mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở
thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng.
Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi
thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước
ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Hòa Nghĩa.
Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê
đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy
mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn
nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con
người đã làm nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm từng
cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu
tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người
dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một
thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó
đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy
mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của
ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư
vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi
cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không.
Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu
vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn
dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được
cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước
mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất
động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền
hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép
lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái
nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng
hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một
lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp
đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh
người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay
tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng
mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá
điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của
thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người.
Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại
cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền
hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy
không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới
làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt,
mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn
người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người
mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn
hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro,
xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn
hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này,
nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước
đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở
máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn
gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước
đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm
chiều với vợ và bầy con nhỏ. Một phút trước đó còn
vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà
mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong
mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu
tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa
nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh
không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng
lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc
với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng
thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có
trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng
nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện
trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn
đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn
nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung.
Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương.
Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau
khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn
của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê
rợn nổi lên ngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn
gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.
Có còn lại chăng, những
ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong
lòng mọi người.
Mấy
ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường
phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến,
hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết
tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt,
những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của
một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một
đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người
lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong
tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa
khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống
lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra
nữa. Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...
Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc
đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng.
Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi
năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi.
Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa
bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi
xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy
năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ
về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê
muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất
nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được
tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi
chờ mà cứ sợ không còn dịp.
Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa
đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca
hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường
như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở,
tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của
lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán
và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia
và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc
sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ
lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười.
Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu
da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi
tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng
đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng
sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn
độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một
tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia,
cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này,
kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ
thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn.
Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm
đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc
cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa
tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng
tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda.
Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống
ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút,
vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng
nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi.
Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của
tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng
ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của
địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng
như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã
mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng
có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi
làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt
bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị.
Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.
Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm
buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó
gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống
y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của
thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như
thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như
thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch
sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người
thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận.
Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu
thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang
động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.
Hành động sát nhân
một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì
đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy
ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết
để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng
nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng
một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người
vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy.
Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người
này để cướp lấy quyền sống của người khác có
phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà
bình, công bằng và bền vững? Có thượng đế nào
chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện
minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và
nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại
thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh
đó.
Nhiều ngàn
năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn
đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa
đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu
trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm
trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn
còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm
giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu.
Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại.
Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê
hương?
Những đêm
như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời.
Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt
ước mơ tôi.
Cao Vị Khanh
__________________________________________________________________________________________
... tựu trường,
xa xứ
Khám phá được
sự có mặt của một nhân vật tiểu thuyết
trong đời thật vẫn là một điều thích thú
thầm kín của người đọc dù rằng điều đó
chẳng ăn nhập gì hết đến giá trị văn chương
của tác giả hay tác phẩm. Một chút vui phụ trội vậy
mà.
Trong một truyện ngắn tôi đọc đã lâu, kể
chuyện những ngày đầu tới Mỹ của một gia
đình Việt Nam sau cuộc chạy chết năm 75. Người cha,
người mẹ và đứa con trai độc nhất lên sáu
tuổi. Chuyện người lớn chắc ai cũng giống
nhau, không nhiều thì ít. Còn chuyện đám con nít ?
Hình dung trở
lại những năm bảy mươi-tám mươi, đứa bé ba-bốn-năm-
sáu ... tuổi, rúc trong mình cha mẹ nó dưới những khoan
ghe tối đen như mực và nghẹt ứ hơi người ...
Và mịt mù sóng gió. Và chực chờ hải tặc. Và
những đảo hoang trôi lênh đênh giữa
góc biển với chân trời. Rồi trại tạm cư trên
bãi bờ hiu quạnh. Chiếc chòi lá giữa đêm mưa rừng
nhiệt đới. Những hạt cơm khô trộn lẫn với
cát sỏi... Rồi đất mới tạm dung. Rồi định
cư vĩnh viễn. Rồi sau đó cũng chính nó chạy lúc
thúc bên chân cha mẹ cho kịp cuộc đuổi bắt một
đời sống mới, lạ từ miếng ăn thức uống,
lạ từ tiếng hỏi câu chào ... Nó nghĩ gì trong đầu
khi thấy cha mẹ, người lớn tất bật làm lụng,
tính toán, rầu rĩ, lo buồn ... đến nỗi như muốn
bỏ quên nó luôn ... dù mục đích của cuộc chạy chết
một phần cũng vì tương lai của chính nó.
Nó thấy gì trong những giọt nước
mắt trên mặt mẹ khi trên tay còn cầm lá thư nhòe
chữ được gởi đi từ một xứ đã
xa. Nó nghĩ gì khi ngó cặp mắt đăm chiêu của cha khi nhắc
tới người thân còn kẹt lại đâu đó ... Tội
nghiệp đứa nhỏ đã mất tuổi thơ khi chưa kịp
lớn ...
Hình dung trở lại những ngày tháng đầu ở
xứ người, trong căn chung cư hẹp té, tồi tàn, và
chung quanh thì đầy những khuôn mặt lạ, lạ từng
cọng tóc đến vóc dáng, nhất là thứ tiếng
nói đa âm với những âm sắc lạ tai xoắn xuýt
nhau như một xâu chuổi ... Nó ra vào chơi đùa một
mình, mớ đồ chơi xin ở nhà thờ, chiếc máy
ti-vi mua ở tiệm đồ cũ ... giữa bốn bức tường
cũ xì, ẩm mốc và chiếc cửa khóa kín sau khi cha
mẹ nó từ sáng sớm đã vội vã xách hộp
đồ ăn mỗi người mỗi hướng nhảy lên
những chuyến xe buýt đầu ngày chạy băng ngang thành phố
... Hình dung trở lại, nó một mình tới bữa trưa
lục tủ lạnh tìm miếng xăng-quít mà mẹ đã làm từ
tối qua. Hình dung trở lại, bữa ăn trưa một mình,
đứa con nít năm sáu tuổi. Hình dung trở lại những
buổi sáng buổi chiều buồn tênh sau khi đã chán
chê mớ đồ chơi cũ kỷ nhàm chán, bắt ghế
dựa đầu vào khung cửa kiếng, từ một căn
chung cư cao ngất, nhìn ngó ngu ngơ xuống cái miệng vực
thẳng đứng giữa hai bức vách lầu cao ngất và
xám ngắt, dưới đó xe cộ người ta qua lại huyên
náo để hy vọng bắt gặp một dáng vẻ thân quen
...
Hình
dung trở lại bữa tựu trường đầu tiên không
có sương-thu-và-gió-lạnh. Nó cũng mang cặp sau lưng nhưng
không có bức-tượng-trắng-trong-vườn-Lục-xâm-bảo
làm bạn như khi cha mẹ nó tựu trường ... Bởi vì nó
bắt đầu đi học ở một nơi không phải là
quê hương của nó nữa ... Nghĩa là nó đã bị bứng
khỏi cái gốc ruột rà của nó, cái gốc phải có
của một đứa-bé-việt-nam với chuồn chuồn
châu chấu, với tiếng dế ngoài bờ cỏ, với
cánh diều giữa đồng trống, với ngõ trúc quanh
co, với cầu tre lắt lẻo ... Nghĩa là nó bắt đầu
đi học làm người, người Mỹ, người Canada, người
Pháp, người Úc .. mặc dầu cha mẹ nó vẫn muốn
trước hết và sau cùng nó mãi là người Việt
Nam ... Có khó cho nó lắm không ?
Hình
dung trở lại mọi nỗi khó khăn lúng túng của đứa
nhỏ giữa sân trường, trong lớp học khi chung quanh từ ông
thầy đến bạn học không ai giống nó, nó cũng không
giống ai, cái màu tóc cái màu da và nhất là cái tiếng
nói ...
Nghĩa là còn nhỏ xíu nó đã phải chiến đấu
giống y như cha mẹ nó đã chiến đấu, tả xung hữu
đột, để tìm một chỗ đứng có chút
ánh sáng giữa một thế giới đầy những
nhà chọc trời đã che kín hết mặt trời.
Vậy đó, thằng bé đó đã
chiến đấu, rất cô đơn ... dù đi học một
mình, dù tan trường một mình, dù khi về nhà phải
lục dưới tấm thảm chùi chân tìm chiếc khóa rồi
nhón gót lách ca lách cách trật vuột mở cho được
chiếc khóa cửa hoen rỉ ...
Vậy
đó, thằng bé đó đã chiến đấu, thầm
lặng như nhiều đứa-bé-việt-nam cùng trang lứa
với nó, trong những năm tháng lao đao đó đã chiến
đấu cũng cô đơn và thầm lặng như vậy
... ở đâu đó, trên những xứ sở lưu vong ...
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất
nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho
cha, cho chú bác nó trên một mặt trận khác để
chứng tỏ với thế giới rằng đó không phải
là tàn dư của một đội quân bại trận.
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất
nhiều tên lính nhỏ khác - đã chiến đấu thay cho
mẹ, cô dì nó trong một cuộc kháng chiến khác để
cưỡng chống
lại sức
hút cuồng lưu của một xả hội tân tiến, và
giữ cho được nguyên tính của giọt-máu-việt-nam.
............................................................
Hình dung trở
lại tấm bằng khen đầu tiên nó mang từ trường
về. Mắt cha nó vụt sáng. Mắt mẹ nó bỗng rướm
giọt trong veo ...
Hình dung trở lại đêm đầu tiên nó xa
nhà để đến trọ trong một campus đại học. Cha nó
vui và lo lắng. Mẹ nó mừng và lo lắng.
Hình dung trở lại những chồng bài vở
cao ngất, xếp qua bên để chạy tới quán ăn đầu
đường chùi rửa từng chồng dĩa chén cao ngất,
để khuya về chong đèn ôn luyện có khi tới hửng
sáng rồi lại ôm sách vở chạy vội tới giảng
đường. Hình dung trở lại những chiếc bánh pizza cha
nó chạy giao qua phố xá vắng tanh lúc nửa đêm về
sáng, sau tám giờ làm chính thức trong nhà máy để
cho nó thêm chút tiền túi, phòng khi... Hình dung trở lại
những đống vải mẹ nó ôm về từ hảng may, rồi
chui vào một góc khuất, may luôn tới khuya lơ khuya lắc
để sắm thêm cho nó chiếc áo lạnh khi gió đông
đang vội vã thổi về.
Hình
dung trở lại ... Hình dung trở lại ...
Hình dung trở lại ngày
tốt nghiệp. Áo thụng mão mủ. Cha nó quằn vai vì sức
trì của những kiện hàng quá khổ. Mẹ nó hấp
háy tia mắt lợn cợn bụi mù từ những xưởng
may kín mít. Cả hai sao bỗng quên hết nhọc nhằn !
...........................................................................
Còn nhiều
chuyện để nói lắm, những chuyện để đời.
Những đứa-bé-việt-nam lớn lên
ở một chỗ không phải Việt Nam.
....................................
Nhưng
thôi. Đủ rồi.
Vấn đề là tên lính nhỏ can trường
đó, những tên lính nhỏ can trường đó, đã chiến
thắng, từng trận nhỏ, rồi trận lớn .. Cấp
bằng đại học. Vị trí khả dĩ trong một xả hội
dị chủng. Những đóng góp ít nhiều cho đất nước
đã đem lòng cưu mang sau khi tương lai nó đã bị hũy diệt
ngay trên chính xứ sở của nó từ sau cuộc bại trận
của cha ông. Sự thành công đó còn là dịp cho cha mẹ
chú bác nó, người đã chết, kẻ lưu lạc, người
tù tội ... được có lần minh chứng cho lý tưởng
mà họ đã xả thân để bảo vệ, dù có phải
thất bại : con người chỉ được phát triển toàn
vẹn trong một xả hội tự do và nhân bản.
Tháng tám
nhiều năm sau, nhân vật đứa-nhỏ trong truyện đã
nhảy ra khỏi cái khung truyện cũ chật hẹp để bắt
đầu viết cho chính nó một cái truyện mới,
khung truyện lần này chắc chắn sẽ rộng lớn
hơn, thênh thang những chân trời ... Truyện của nó có
thêm nhân vật mới, tình tiết mới, như loại feuilleton
đăng báo mà mỗi ngày được đánh dấu bằng
mấy chữ ngày-mai-đăng-tiếp như một hứa hẹn
những khai mở bất ngờ đầy thú vị.
( nó đang làm như cha mẹ nó, bạn bầy
trang lứa nó, gầy dựng và tiếp tục gìn giữ
chút di sản ông bà, ở phần đất mới, rất
xa mảnh đất quê hương )
Này chú-bé-nhân-vật mà tôi đã
cảm mến khi đọc truyện, chú can trường lắm !
viết thêm
Tháng 9 năm nay, tôi lại có dịp ghé qua một
buổi lễ tựu trường. Trường tiểu học,
học trò mới cũ trai gái ồn ào và lộn xộn
như một bầy ong vở tổ. Đám quen mặt tụ năm
tụ ba ríu rít hỏi han kể lể. Mấy đứa bé
vừa từ một nhà trẻ gởi sang, níu riết tay cha mẹ
ông bà đi những bước chân líu ríu như bầy sẻ
nhỏ.
Bất ngờ, rất bất
ngờ, tôi gặp lại cậu-bé-nhân-vật cũ của
tôi. Bao nhiêu năm qua rồi, từ đó. Đã bao nhiêu con nước
xa dòng. Cũng chẳng hơi sức
đâu
mà đếm nữa. Chỉ biết trước mặt tôi là
một người đàn ông trẻ, chững chạc, quần áo
thẳng thớm, lịch sự. Cạnh bên là một phụ nữ
tây phương, cũng chừng tuổi, da trắng tóc nâu và
mắt có màu xanh biếc. Giữa hai người là một
đứa bé trai, có làn da trắng của mẹ và màu tóc
đen của cha, vừa đi vừa nhún nhảy theo bước chân người
lớn. À, cậu-bé-con, nhân vật trong cái truyện ngắn
theo cha mẹ bỏ nước, vượt biển chết tìm đất
sống của gần ba mươi năm trước, vừa đi học
chữ mới vừa ngọng nghệu tập nói tiếng nước
mình. Đến hôm nay, ngày đầu một năm học mới,
dắt tay đưa đến trường, đứa con đầu
lòng, kết tinh của một sự phối ngẫu kỳ diệu
giữa hai dòng máu lạ chảy từ hai lục địa mênh mông
xui đâu mà gặp gỡ. Lắm khi cũng chỉ từ những
trái ngang của lịch sử. Vậy mà rồi, đôi lúc lại
là những kết cuộc có hậu, đẹp và vui như
bất cứ một câu chuyện cỗ tích nào được
kể bằng hai tiếng ... ngày xưa !
Buổi sáng hôm nay, trên
khắp cùng mặt đất, sẽ có bao nhiêu đứa trẻ
việt-nam-vàng-trắng-đen-đỏ lần đầu theo cha mẹ
tới trường để học đọc học viết thứ
chữ không phải ... chữ-việt-nam. Điều đó có
đáng buồn hơn nếu còn kẹt lại bên đó để
bị nhồi nhét vào đầu thứ chữ nghĩa câu cú
đã bị biến thái một cách quái gỡ đến
đỗi người đi xa mươi năm sẽ phải ngỡ ngàng
như Từ Thức khi lỡ bước về trần.
Đó là chưa kể đến những
dụng tâm đầy hậu ý đã loại bỏ hết những
bài Việt sử vốn dĩ đã là và phải là những
bài học vỡ lòng của bao nhiêu thế hệ người
Việt, làm thành chất keo sơn kết chặt họ với
đất đai xứ sở quê hương tổ quốc. Vậy
mà ...
Nhất là gần đây lại nghe tin có kẻ ( bọn ! ) lại
còn muốn thay đổi cả cách viết, đánh vần
... của chữ quốc ngữ, thứ phương tiện duy nhất
để phổ biến, gìn giữ, lưu truyền cái vốn
liếng văn hóa đã ngàn năm của dân tộc. Thứ
chữ viết đó đã là chiếc cầu bắt qua
tấm lòng của bao nhiêu thế hệ, là cái gạch-nối
người đời sau với muôn đời trước, cũng
như chính là vốn liếng còn lại sau bao nhiêu chắt lọc
nghiệt ngã của cả một dòng lịch sử đã quá
đỗi trầm luân. Thứ vốn liếng đầy ắp
bao nhiêu lời ân cần dạy dỗ,
dặn dò ... của người đi trước đã khuất
mặt để lại cho người tới sau còn biết đâu
là gốc tích của chính mình mà hãnh diện mà chiến
đấu để bảo vệ tới kỳ cùng nền độc
lập và quyền tự chủ của một mảnh giang san đã
giành được bằng bao nhiêu máu xương của từng
bao nhiêu thế hệ. Từ ngàn ngàn câu ca dao tục ngữ
vốn chỉ là truyền khẩu đến những bản hùng
văn với hằng hằng câu chữ như đã được
trích máu từ đầu ngón tay ra mà viết, từ những
vần thơ minh triết ẩn tàng dưới nóc am mây trắng
đến uẩn khúc đoạn trường bi thiết qua hơn ba
ngàn câu lục bát mà hơn ba trăm năm rồi không phai lợt
chút sắt son ... Còn nữa, còn Nguyễn Trải với Bình
Ngô đại cáo lấy chí nhân thay cường bạo, còn Bà
huyện Thanh Quan với thơ Đường mà hồn thơ không
vướng bận chút luật thơ, còn Hồ Xuân Hương
tinh quái với mớ chữ nghĩa léo lắt, còn khúc ngâm
Cung Oán đài các, còn khúc ngâm Chinh phụ ngọt ngào như nước
suối trong veo, còn bao nhiêu công trình nghiên cứu lịch sử
địa dư, dịch thuật khoa học tư tưởng từ túi
khôn của nhân loại mà hằng hà sa số tài năng của
dân tộc đã nặn tim vắt óc để lại cho đời
sau.
Cả cái gia tài vô giá đó
rồi còn được tồn tại tới ngày nay để
con cháu có dịp học lấy sự tinh khôn, thấm nhuần
được tấm lòng nhân hậu của cha ông, nối tiếp
được tính quật cường của tiền nhân là
do đã được ghi chép lại trong những văn bản kể
từ khi có chữ viết.
( Có cần kể ra không những khổ
công của cả một lớp tiền nhân những năm cuối
thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã tìm tòi chăm chút
uốn nắn để biến thứ chữ mới tượng
hình mà mục đích chỉ nhằm rao giảng đạo chúa trở
thành một phương tiện học hỏi và sáng tạo cho cả
khối dân tộc kịp chân bước vào thời đại
mới. Những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn
Trọng Thuật, Nguyễn Bá Học, Nguyễn văn Vĩnh ... rồi
Phạm Quỳnh với tạp chí Nam Phong, rồi Tản Đà ngoài bắc
Hồ Biểu Chánh trong nam... rồi ... v.v... và v.v... Kế đó
tiếp nối những khai phá của những Nhất Linh, Khái
Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng ... với phong trào Thơ mới như
sự ngửng mặt của một hồn tính việt nam thức
tỉnh sau cả ngàn năm lệ thuộc vào ý hệ phương
bắc ... Chữ nghĩa một ngày một dồi dào, mỗi
lúc
mỗi hoa gấm. Xảy đến
cuộc chia cắt đất nước năm 54, nhưng ở miền
nam là cả một trời sáng tạo nhằm phá vở mọi
thành trì cổ điển để tạo nên những cổ
điển mới ... Những đột phá của Mai Thảo với
nhóm Sáng Tạo, Nguyên Sa với Hiện Đại, Vũ Khắc
Khoan với Vấn đề, Nguyễn Khắc Hoạch với Thế
kỷ Hai Mươi, Viên Linh với Khởi Hành ... những Võ Phiến,
Đinh Hùng, Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình
Toàn, Tô Thùy Yên, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy
Vũ v.v ... và v.v... Làm sao kể hết ! Làm sao kể đủ
! Còn những người lính vừa đánh trận vừa
viết truyện. Những anh học trò vừa học bài vừa
làm thơ. Từ thành phố đến núi rừng, đâu
đâu cũng rộn ràng những dòng chữ, những khám
phá và những kết tinh. Thơ văn bay nhiều không thua lửa
đạn. Còn nhiều nhiều lắm ! Làm sao kể hết
! Mà thật ra có kể hết được đâu nét
tài hoa ngùn ngụt đó.
Bây giờ tự dưng rồi đòi hủy
bỏ thứ chữ viết ruột rà đó để thay bằng
một loại qui ước mới chẳng hợp lý hợp
tình mà cũng chẳng một mảy may cần thiết. Làm
vậy chẳng khác gì thẳng tay chặt đứt chiếc
cầu bắt qua triệu triệu tấm lòng dân Việt
từ muôn đời trước đến ngần ấy đời
sau.
Lịch sử Việt đã trải
qua hơn hai ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc mà
người Việt ở trong nước hay biệt xứ khắp
cùng mặt đất, mà người Việt từ mấy
ngàn năm trước đến người Việt của mấy
ngàn năm sau còn hiểu được nhau, còn kết nối
được nhau, còn có cơ liên lạc được nhau phải
chăng chính là do thứ chữ Việt đã được
sáng tạo, điểm xuyết và giảng dạy từ gần
bốn trăm năm nay. Vậy hà cớ gì mà đòi đổi
đòi thay. Vậy hà cớ gì mà muốn bứng cả gốc
rể của một rừng đại thụ vốn toàn là gỗ
quí.
Nếu không vì thứ tự
cao tự đại ngu xuẩn thì hẵn cũng vì một thứ
mưu đồ đen tối nào đó.
Dòng sinh mệnh của ngôn
ngữ cũng y như của con người, cũng sinh diệt thăng trầm
theo lẽ tự nhiên nhưng lẽ đâu không cố luyện cho
tinh tuyền lại đem học-đòi-pha-trộn-chắp-vá-vay-mượn-quá-ư-ngu-xuẩn
với thứ
chữ của nước
ngoài, nhất là thứ nước ngoài vốn dĩ đã
là giặc trong từ hơn mấy ngàn năm lập nước
và giữ nước của cha ông.
v.v... và v. v...
Còn điều gì để nói thêm,
buổi hôm tựu trường trên một xứ sở tạm
trú, cách xa nơi sanh đẻ hơn nửa vòng trái đất, nơi
bên nây ngày lên thì bên kia đêm xuống, nơi có những
đứa-trẻ-việt-nam từ sanh ra đã có cha mẹ ông bà
cứ tha thiết móm cho nó ê a từng dấu giọng sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng
dù không phải không biết mai kia mốt nọ, thứ tiếng
mẹ-đẻ-cha-đẻ đó cũng chỉ còn là những hoài
vọng về một gốc gác đã mù. Nhất là trong
một thế giới đang trên đà tiến bộ bằng
những đôi-hia-bảy-dặm.
Dẫu vậy, họ vẫn ru, vẫn ầu
ơ ... từng khuya hôm, vẫn móm đút từng trưa sớm
... từng tiếng từng chữ ... dẫu biết rằng
... dẫu biết rằng ... !
Vui thêm hay buồn thêm, buổi sáng tựu
trường này, lần thứ bao nhiêu trong đời tôi, biệt
xứ !
Cao vị khanh
______________________________________________________________________________
Lý Bạch: Tương Tiến Tữu. Cao Vị Khanh: Phóng
dịch
將進酒
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải
bất phục hồi!
Cao đường minh kính
bi bạch phát,
Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý
tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất
hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu
thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Thỉnh quân vị ngã
khuynh nhĩ thính:
"Chung cổ soạn ngọc bất túc
quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!
Cổ lai thánh hiền giai
tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần vương tích
thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên
tứ hoan hước".
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối
quân chước.
Hô nhi tương xuất
hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ
sầu.
Này anh có thấy
hay không
Hoàng Hà chảy miết
một dòng ra khơi
Mẹ cha sáng
tóc xanh ngời
Chiều ra bạc trắng
như vùi tuyết đông
Say đi những
lúc vừa lòng
Đừng cho chén cạn ngại
ngùng soi trăng
Tài ta ắt sẽ có phần
Ngàn vàng tiêu
cạn sẽ hoàn lại thôi
Dê, trâu xẻ
thịt tiệc vui
Ba trăm chén đủ cạn
rồi tính sau
Này Sầm, này bạn
Đan Khâu
Đừng ngưng chén, hãy
cùng nhau trọn bề
Vì nhau xin hát
chẳng nề
Mời nghe cho kỹ lời
quê dông dài
" Chỉ cần rượu
đủ men say
Sá gì châu ngọc mà
hoài cuộc chơi
Tiếng tăm
rồi cũng một thời
Còn chăng thiên
cổ tiếng người say sưa"
Trần Vương
mở tiệc vui đùa
Mười ngàn
đấu rượu thi đua uống tràn
Đâu vì
tiền ít, ngại ngần
Mau mau mua rượu
đãi đằng bạn thân
Này ngựa,
này áo kim ngân
Nhỏ ơi đổi rượu
phá tan thành sầu
để tặng
Hoàng Xuân Sơn và Vũ Hoàng Thư
__________________________________________________________________________
Tỳ bà hành 琵琶行
Bạch Cư Dị
* Năm
Nguyên Hòa thứ 10, Bạch Cư Dị bị biếm trích về
đất Giang Châu. Năm sau, đêm thu tiễn bạn nơi bến
Tầm Dương, cảm tiếng tỳ bà của người ca kỷ
về già bỏ thân lưu lạc, làm cám cảnh mình bó thân
chỗ lưu đày mà viết nên Tỳ Bà Hành.
Năm thất
quốc thứ 43, tôi vì nạn nước, lưu lạc quê người
hơn 40 năm, đọc lại hành của Tư Mã Giang Châu mà cám cảnh
mình, bèn phóng bút dịch ngang ra lục bát. Hay dở đúng sai
? Mặc. Chuyện xưa viết lại nỗi mình. Trăm đau nghìn
hận, mình mình thương vay.
琵琶行
潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
Tỳ bà hành
Tầm
Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu
sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu
dục ẩm vô quản huyền
Tuý bất thành hoan thảm tương
biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thuỷ thượng
tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm
vấn đàn giả thuỳ
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng
trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
Do bão
tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng
thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền
yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô
hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê
thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như
cấp vũ
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
Tiểu
huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu
châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết
lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu
ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình
sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao
thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch.
Tứ huyền
nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô
ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát
sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự
ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ
trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo
phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện
tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng
tiêu bất tri số.
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
Điền
đầu ngân tì kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng
quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh
lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi
trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền
nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán
tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị
thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương
thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ
bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm
nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa
thế thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian
đán mộ văn hà vật,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
Đỗ quyên
đề huyết viên ai minh.
Xuân giang
hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á triều triết nan
vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên
nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn
lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn
giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thùy tối đa,
Giang Châu tư
mã thanh sam thấp.
Bài hành Tỳ Bà
phóng dịch
Đêm Tầm Dương,
tiễn người đi
Lá mùa thu quạnh thầm thì nỗi riêng.
Người xuống ngựa, kẻ dưới
thuyền
Sáo
đàn không tiễn rượu phiền không vui.
Men say càng thấm ngậm ngùi
Trăng soi mặt nước
lòng vùi dập đau.
Vẳng đâu vọng lại tiếng sầu
Giây tỳ bà, điệu
kinh cầu ... nghẹn tim !
Tiếng đàn chìm giữa lòng đêm,
Người đi kẻ ở buồn
kềm tay nhau.
Hỏi
han cho rõ âm hao.
Tỳ bà bặt tiếng ly tao ! Ngại ngùng ?
Ghé thuyền tỏ dạ khiêm
cung,
-Bình sinh
mấy thuở trùng phùng nghiệp hoa
Khêu đèn, bày tiệc cùng ta,
Ân cần mời
gọi gần xa mấy lần.
Đàn che nửa mặt, phân vân.
Tay so cần trúc
tay lần giây tơ.
Cung cầm vừa mới dạo hờ,
Mà sầu dạ khách đã
mờ... sương đêm.
Thiết tha từng sợi tơ mềm,
Năm cung réo rắt từng niềm
bi thương.
Khúc
đầu tay lựa Nghê Thường,
Đàn Lục Yêu chuyển như mường
tượng mưa,
Rạt rào âm nhặt âm thưa,
Khi to khi nhỏ cho vừa nỉ non.
Lại khi tiếng mất tiếng
còn,
Tiếng
chim lượn gió, tiếng dồn suối xa,
Lúc róc rách, lúc vỡ
òa,
Rồi
ngưng bặt như nước đà lập đông.
Tình buồn đọng cứng
cõi lòng,
Thinh
im mà tưởng phiêu bồng cõi mơ.
Đang khi nín lặng như tờ,
Dưng không chuyển
động tưởng cờ lịnh bay.
Rập rình vó ngựa dặm dài,
Quân đi cuốn
gió lung lay đất trời.
Rồi ...dưng trời đất chơi vơi,
Tay thuôn bốn ngón
ghìm hơi tỳ bà.
Đàn kêu tiếng xé lụa hoa.
Rồi im. Rồi nín. Rồi là ... nghẹn câm.
Bốn bề lặng
lẽ, u trầm,
Sót
trăng thu lạnh dọi thầm sông thu.
Gác đàn, gài phím, ôn nhu,
Rằng:- quê thiếp vốn
kinh đô thị thành.
Hà Mô lăng, quê mẹ sanh,
Mười ba tuổi đã rành cung tỳ bà.
Danh lừng năm ngón
tài hoa,
Mỗi
nắn phím, mỗi tụng ca rộn ràng.
Mỗi ghen tức, mỗi điểm
trang,
Thu Nương
cũng phải chịu hàng lánh xa.
Lời ca đổi vóc lụa là,
Lược trâm bắt nhịp
ngọc ngà vở tan.
Những chàng trai trẻ Ngũ Lăng,
Nghìn vàng mua lấy cung đàn mỹ nhân.
Quần hồng
lấm giọt rượu ngon,
Đời vui cứ tưởng vuông tròn mãi sau.
Ai ngờ vui chốc
buồn lâu,
Tử
sinh ai biết, cơ cầu ai hay.
Cô già tuổi hạc vụt bay,
Tùng chinh em chịu đắng cay
vạn phần.
Thoắt
chiều thoắt sáng, hoa tàn.
Sắc phai vẻ thắm, hương tan vị mời.
Cổng nhà sớm
vắng, chiều lơi,
Ngựa xe qua chẳng ghé lời hỏi han.
Ngày qua tháng tới, muộn
màng,
Gá thân
nương dựa khách buôn thương hồ.
Kẻ trần tục, nhám tay thô,
Sớm chiều
quên lãng bỏ cô độc người.
Khuya hôm thuyền lỡ làng trôi,
Cảm thân thế,
mộng lại thời xuân xanh !
Lệ buồn ướt đẫm từng
canh,
Nhòe son,
nhạt phấn cho đành chiêm bao.
-Tỳ bà đã giục cơn sầu,
Kiếp hồng nhan
lại làm đau nỗi mình !
Cùng chung kiếp nạn điêu linh,
Gặp nhau chẳng đợi
phải tình thân quen.
Nghĩ mình đã
lắm ưu phiền,
Tầm-Dương-đất-trích
buồn riêng chuyện đời.
Xứ xa lạ cảnh lạ
người,
Sớm
trưa chiều tối khuya thui thủi buồn.
Ngày qua rồi tháng theo luôn,
Năm theo vội vã
như ruồng rẫy nhau.
Một đời quá nửa chiêm bao,
Nửa rầu hận nước,
nửa đau hận mình
Buồn vui rồi cũng làm thinh,
Ai chia ai xẻ những bình minh tươi.
Buồn vui rồi
cũng ngậm ngùi,
Ai than thở những chiều rơi quạnh chiều.
Ở đây vui ít
buồn nhiều,
Rượu đơn chiếc đắng trăm điều dở
dang !
Mỗi
ngày mỗi cuộc điêu tàn,
Ai người san bớt nỗi hoang tịch đời
(*)
-Ở
đây buồn một riêng tôi,
Sao đem cung oán làm bồi hồi nhau.
Riêng, chung cũng
một điệu sầu,
Vì nhau gảy lại khúc đau đoạn trường.
Lặng người,
lắng lại tang thương,
Bốn giây bật khóc bài trường hận
ca.
Cung trầm
cung bổng thiết tha,
Điệu hờn điệu tiếc xót xa điệu
lầm.
Tiếng
đàn dứt, lệ khôn cầm !
Áo-xanh-một-thuở khóc thầm, từ
khi ...
Cao vị khanh
ngày 14 tháng
5 năm 2018
9.31 PM
* thơ riêng ghép với buồn chung,
một vần.
_________________________________________________________________________
LỜI TRẦN TÌNH CỦA NGƯỜI THẦY
CŨ
trích...
...........
1.
Tại sao đến hôm nay tôi lại viết những
dòng này ? Những dòng chữ lẽ ra phải được viết
ra từ nhiều năm trước. Tại sao tôi đã giữ kín
trong lòng hơn suốt hai mươi mấy năm nay những điều
tôi sẽ nói bây giờ. Bởi vì tôi thấy nó tầm
thường, quen thuộc đến nhàm chán. Nó hao hao giống
với hàng trăm hàng ngàn câu chuyện đã được
kể ra. Câu chuyện về một quê hương bị bức
tử, của hai mươi lăm triệu người bị tước
đoạt quyền sống một cách ngang nhiên, tức tưởi.
Câu chuyện tôi kể có khác không ? Chắc là không
! Chỉ thay đổi một cái tên, một nhân dáng là
có một câu chuyện đời thương tâm, quen thuộc
đến độ cái thương tâm khó còn làm xúc động
ai nữa. Tội nghiệp cho tôi, tội nghiệp anh, tội
nghiệp em, những con người đã quen với cái bất
hạnh đến thành dửng dưng, quen với cái tan nát đến
độ chai lì. Tội nghiệp trái tim Việt Nam đã
quá độ cằn cỗi.
Vậy tại sao tôi còn viết. Tại
sao trong cái buổi chiều nắng nhạt ở một thành
phố ven biển miền tây nước Mỹ, bỗng nhiên
tôi gặp lại em, người học trò cũ. Người thiếu
phụ trên dưới 40, trong bộ âu phục lịch sự đã
đến chào tôi bằng tiếng thầy vốn quá xa
lạ từ hơn hai mươi năm nay, giữa một nơi lạ lẫm
đến từng cọng cỏ ngọn cây, đã làm tôi thảng
thốt đến độ sững sờ. Em đó sao, cô học
trò ngày xưa rụt rè như thỏ con, cứ mỗi lần được
gọi trả bài là mắt như rươm rướm, ngồi im như
pho tượng nhỏ, thành khẩn và tin cậy, nghe tôi mở
đầu bài giảng Chinh phụ bằng cái hình ảnh tuyệt
vời của tiếng trống trận dập dồn làm lay
động cả bóng trăng xưa. Cái cô học trò nhỏ vẫn
thường tung tăng chiếc áo dài chưa-biết-sầu trong
những quán bán quà vặt ngoài cổng trường, vẫn
thường len lén cắm vội cánh hoa tươi lên bàn thầy
như một lời cám ơn nhỏ nhẹ và kín đáo. Tại
sao hôm đó, giữa những lời thăm hỏi nồng nàn
hay dửng dưng, giữa nỗi ngậm ngùi của một thân
quen gặp lại, nỗi hụt hẩng của một cái tên biệt
tích, cái náo nức của một lời hẹn tái ngộ,
em bỗng hỏi tôi một cách điềm đạm và ân
cần, điềm đạm như cánh hoa dại ngắt vội bên
đường và ân cần như ngón tay vụng lén cắm vội
lên góc bàn viết, em đã hỏi tôi :
-Vậy chớ thầy
đã sống ra sao từ hai mươi mấy năm nay ?
Câu hỏi
bỗng làm tôi giựt mình. Tôi đã sống ra sao từ
hai mươi lăm năm nay ? Có lần nào tôi đã hỏi mình
như vậy ? Cuộc sống như dòng sông phẩn nộ,
cuốn phăng ta đi không-nghĩ-lại-qua-đêm ! Người xưa
đã nghĩ vậy, bây giờ tôi thấy còn đúng hơn
nữa. Con sông Việt Nam chảy tẻ thành triệu nhánh, có
nhánh dài nhánh ngắn, nhưng nhánh nào cũng chảy miết
xa nguồn. Có lần nào mỏi mê chèo chống ta ngó lại
đời ta ? Bến nước nào bỏ lại ? Bãi bờ nào
đành đoạn xa ? Những cầu sương điếm cỏ ! Những
quán khách dặm trường ! ... Có một lần nào ngồi
lại ta tính toán đời ta chưa ? Những được thua còn
mất ! Những ân oán nợ nần ! Ta đã làm được
gì đời ta ? Hai mươi lăm năm qua mãi miết như tên bại
tướng lọt giữa vòng vây, tả xung hữu đột, đến
lúc kiếm gãy cờ tan mà vòng thù còn trùng điệp,
tự dưng sao thấy lòng ngao ngán chỉ muốn buông tay ngồi
bệt xuống vệ đường, bật khóc. Bởi lẻ,
trong phút giây, tất cả rồi ra sẽ nhạt nhòa như một
cái gì không có thật.
Tôi đã sống thế nào trong
những năm qua ? Sao bỗng dưng tôi thèm được một
lần tâm sự dù biết rằng ở giữa lòng
ốc mượn, có nói gì cũng không hết tang thương.
Hai mươi lăm năm có phải đã đủ khoảng cách và bình
tĩnh để nhìn lại một chặng đường.
Tôi,
thằng sinh viên 19 tuổi năm 65 đến trường Văn Khoa
để lang thang ngoài hành lang lộng gió thường hơn trong
giảng đường chật nứt, đã ngồi ở quán
cà-phê Văn lâu hơn ở thư viện, vẫn viết vội
những câu thơ bất chợt lên góc mấy bao thuốc
lá rồi bỏ quên đâu đó mất biệt, đã
chảy nước mắt nghe Khánh Ly đi chân trần hát tôi-có-người-yêu-chết-trận-Ba-gia
... trên nền đất cũ cạnh đường Lê Thánh Tôn,
đã đọc ngấu nghiến truyện Bắt trẻ đồng
xanh của Salinger suốt một đêm thức trắng, đã đi
trình diện vào trường Đại Học Sư Phạm với chiếc
quần jean bạc thếch và đầu tóc dài ngổ ngáo,
đã ngồi mò mẫm học nắn nót từng nét chữ
tàu và cũng hay lang thang ngoài phố để nghe người nhạc
sĩ già oằn người thổi bản Summertime lúc nửa đêm
về sáng. Thằng thanh niên lạ lùng, tên giáo sư trẻ ra
trường năm vừa hai mươi ba tuổi, lãng mạn như một
bài thơ tình, đứng đắn -hay cố gắng đứng
đắn- như một nhà giáo lão thành, với những
mâu thuẩn trùng trùng đó đã sống thế nào
từ hai mươi lăm năm nay ? Từ cuộc đổi đời
năm ấy ?
... Lệnh đầu hàng từ Sài Gòn loan ra
trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lời báo dữ như tiếng sấm
trái mùa làm nổ tung giông bão đang giậm giựt giữa
thinh không. Lòng người cũng giống thinh không buổi đó,
ngầy ngật cơn nóng sốt thời cuộc, âm ỉ một
niềm lo nghĩ không nguôi. Người ta chờ đợi một
cái gì đó xảy ra, một cái gì mơ hồ không dám
nghĩ tới vậy mà cứ lẩn quẩn trong đầu.
Từ vài tháng gần đây, tin tức chiến sự và
chính trị mỗi ngày mỗi tồi tệ. Mùa mưa sắp
đến. Cộng quân chuẩn bị đánh lớn như mọi
năm. Ở Sài Gòn thì năm phe bảy phái rình rập nhau tranh
giành quyền hành. Rồi Cao Miên và Lào lần lượt
thất thủ. Rồi miền Trung di tản. Cao nguyên bỏ ngỏ. Từ
giữa tháng ba, những chiếc bè mỏng manh chở người
lánh giặc từ vùng giới tuyến đã bắt đầu
tấp vào bờ biển Phan Thiết, Vũng Tàu. Người
ta xầm xì bàn tán về một giải pháp liên hiệp,
những cắt đất chia ranh, hoặc tệ hơn nữa, một
đảo Phú Quốc như trạm tự do cuối cùng cho đám
người cùng khổ. Người ta lo lắng, nghi ngại, hy vọng
rồi thất vọng, rồi lại tiếp tục lo lắng, nghi
ngại ... Những người có tiền của, quyền thế
thì chộn rộn sửa soạn cho một chuyến đi xa. Còn
đa số tiếp tục sống trong nỗi hoang mang, trì trệ.
Trường học vẫn còn mở cửa nhưng chỗ ngồi
đã thưa trống dần. Sợ chờ đợi kéo lê
ngày tháng một cách mệt nhọc.
Cho đến buổi
trưa ngày 30, trời đất bỗng như tan tành trong một
giây một phút. Lệnh buông súng xắn xả như viên
đạn bắn trúng ngay tim. Trong một chốc, cả miền Nam
như ngừng thở. Người ta sửng sốt, bàng hoàng,
ngây dại như tỉnh như mê. Người ta thử nghe đi nghe lại
như cố nghĩ mình nghe lầm, như có một cái gì đó
không thật. Mọi người chết điếng nhìn nhau, lẳng
lặng, thất thần. Rồi bỗng như một cơn đau
kích xúc mãnh liệt ùa tới, mọi người chợt
hiểu. Cái không dám nghĩ tới đã tới. Tới thật.
Đến lúc đó, nỗi sợ hãi như một cơn gió
lạ thổi rút vào người, luồn theo mạch máu làm
tê liệt châu thân, căng thẳng đầu óc, cổ
khô, miệng đắng, chân tay rời rã. Người ta biết
không phải chiêm bao, người ta biết mình đang ở giữa
một sự thật, cái sự thật mạnh hơn cả đạn
trái phá, nổ tung hết cả ước mơ của một đời
người, giựt sập hết mọi niềm tin của bao thế
hệ. Người ta cảm thấy chới với, hụt hẩng,
ngơ ngác, bối rối ... Người ta đổ túa ra đường,
chạy vội về nhà, nhốn nháo một cách vô ích
như chỉ để có một cái gì đó để làm,
như chỉ để lấp đầy cái khoảng trống khủng
khiếp vừa hiện ra giữa đời sống, trong lòng
người.
Miền Nam chống giặc từ 30 năm không phân
thắng bại, vậy mà tự dưng sụp đổ trong vòng
55 ngày. Dân theo quân kéo nhau chạy chết, dẫm đạp lên
nhau, trong khi đạn thù xối xả đuổi sau lưng, xác bỏ
sình thối bên vệ đường mù bụi hay trôi tấp
theo sóng biển vật vờ.
Địa ngục ở một chỗ rất
gần và rất thật !
Anh nghĩ gì, hởi người lính
trẻ, khi anh kê súng tự bắn vào đầu, buổi sáng
ngày 30 bên chân cầu xa lộ. Có phải cái hình ảnh cuộc
tháo chạy thảm hại của cả một chế độ đã
làm anh hổ thẹn ? Hay cái cao ngạo sừng sững của hồn
thiêng sông núi đã không cho anh khuất nhục ? Cái chết
của anh có phải là lời cảnh cáo hay chỉ là lời nhận
lỗi của cả một thế hệ bị hy sinh ?
Có ai còn
nhớ không anh ?
Vậy đó mà miền Nam mất.
Vậy đó mà dâu bể tang thương.
Người cộng sản vào thành
phố với lời phủ dụ ngon ngọt không-đụng-tới-cây-kim-sợi-chỉ
của người dân. Tuy nhiên thực tế khác xa cả trời
cả vực. Ai cũng biết sẽ có nhiều thay đổi nhưng
không ai ngờ sự thay đổi rốt ráo và tàn tệ
tới vậy. Người ta bắt đầu một cuộc
tàn phá mới sau 30 năm tàn phá đất nước và
con người bằng súng đạn. Cuộc chiến tranh hũy diệt
mới, ít ồn ào hơn, cũng không kém phần tàn độc.
Bằng những âm mưu thâm hiểm và những tính toán
xảo quyệt mà người ta đã tìm cách quân-bình-hóa
hai miền nam-bắc, thay vì tìm cách nâng cao đời sống
của miền Bắc, người ta lại kéo tụt đời sống
của miền Nam xuống cho ngang tận mức kiệt cùng. Bằng
cách nào thì cũng không che giấu được cái tâm lý
hèn hạ nhỏ nhen vì ghen tức của đám lãnh tụ mất
lương tri, sôi sụt ý muốn trả thù trước một
miền Nam phồn thịnh dù vừa xây dựng vừa phải
chống giặc. Song song với những cuộc đổi tiền-
một hình thức phá giá đồng bạc- những cuộc
cướp giựt tài sản của tư nhân được ngụy
danh là cải tạo kinh tế xả hội, gom hết mọi tài lực,
vật lực và nhân lực của đất nước vào
trong tay một nhóm người vừa ngu dốt vừa cuồng
tín, người cộng sản tổ chức một cuộc
tráo đổi " vĩ đại'' và " ngoạn mục ". Hằng
ngày, hằng đêm từng đoàn xe vận tải bít bùng,
những chuyến xe lửa dài thậm thượt vội vội
vàng vàng tháo gỡ máy móc, dụng cụ tân tiến cồng
kềnh chở rầm rộ về Bắc, để rồi
chở quay ngược vào Nam những đoàn bộ đội
ngờ nghệch, những cán bộ xảo quyệt, những
đám dân nghèo đói từ hai-mươi-năm-xả-hội-chủ-nghĩa,
đổ xô vào những thành phố mới chiếm để
tiếp tục cuộc vơ vét, xin xỏ, tráo trở, mua rẻ, hăm
dọa ... đủ kiểu đủ cách gom góp từ cái chén, đôi
đủa, cái đồng hồ, chíếc xe đạp, cái ti-vi
... đến căn nhà, dãy phố ... Cùng lúc, nhà tù được
ngụy danh là trại cải tạo mọc lên như nấm dại, trong thành
phố, ngoài đồng hoang, hay tít trên những vùng rừng
sâu nước độc. Bằng thông báo chỉ thị mập
mờ, nhà cầm quyền mới lừa gạt đưa vào
tù hàng trăm ngàn quân nhân công chức của chế độ
cũ trong khi hàng giờ hàng phút, từ miệng những chiếc
loa treo mắc khắp hang cùng ngỏ hẻm ra rả những lời bao
dung khoan hồng hòa họp hòa giải ... Sau những cuộc sàng
lọc, kẻ nhốt trong Nam, người đày ra Bắc. Từng đoàn
tù chất chồng trên những toa tàu chở súc vật
chạy băng băng trong đêm tối kinh hoàng, từ Nam ra Bắc,
đổ xuống và dẩn giải qua những xóm làng xa lạ
và thù nghịch. Hai bên đường, dân chúng được
tổ chức, xúi giục chửi rủa ném đá vào những
xác người tả tơi thất thểu. Cuộc trừng phạt
trả thù không kể ngày tháng, người tù không danh số,
không bản án một khi bước vào trong cổng trại tự
nhiên biến mất như chìm lẫn vào những rừng
cây bạt ngàn, mất hút trong những đồi núi chập
chùng, không còn lại chút dấu vết. Thế giới không
hay biết -hay không muốn biết đến- dãy quần-đảo-ngục-tù
nằm mênh mông ngay trong lòng đất nước như một
vết chàm ô nhục. Ở đó người tù bị bỏ
đói ngày này sang tháng khác đến độ phải ăn
cả côn trùng, củ dại để sống sót, phải lượm
mót từng bao cát mục nát để chắp vá che thân, phải
lao động khổ sai bằng tay không và chân trần đến
kiệt lực. Ở đó, bệnh hoạn không một viên
thuốc, cô lập bít kín mọi tin tức bên ngoài, người
tù còn phải chịu đựng một cuộc tra khảo tinh thần
thường trực bằng những màn tự khai, tự thú,
phản tỉnh ... Đã không ít người còn có dịp trở
ra.
Địa ngục trần gian có ở một nơi rất gần
và rất thật.
trích
......
.........
2.
Có lẻ để chấm phá cho đủ
nét bi-hài của vở-tuồng-giải-phóng, tôi và một
số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tù-cải-tạo
với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh : " dạy
học trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh
phá cách mạng (sic)".
....................
Nhiều đêm, nằm trằn trọc
trên tấm tôn lạnh buốt, trong ngôi đình làng được
biến thành trại tù, tôi bật cười khan khi nghĩ tới
tội danh " khôi hài " đến chết người này.
Hóa ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái,
nghĩa yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng
thức cái đẹp, tôn trọng sự chân thực ... là một
cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như vậy nếu
theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù, phản
trác, lật lọng mới là " cách mạng ". Nghĩ mà thương
cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn trong thời
đại dối trá.
....................
Giữa đêm oan khuất mịt mờ
âm khí của trại giam, tôi cứ thao thức, mắt mở trao
tráo, lăn lộn với những thắc mắc không lời
giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm ? Tại sao hòa bình
? Để làm gì đống xương vô định đó ? Chẳng
lẻ để đánh đổi sự lệ thuộc này
bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại hơn cả vạn
vạn lần ?
....................
Trong những lúc cùng quẩn nhất, sao
tự nhiên tôi nhớ lại cặp mắt thất thần
của người thi sĩ vô danh trong cuốn phim Docteur Djivago chiếu ở
Sài Gòn mới vài năm trước. Trên chuyến xe lửa
chở tù đi lưu đày xuyên Tây-bá-lợi-á vào thời
kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước Nga,
chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như
cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn
cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một
góc trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như
trống hoác, sâu thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động
như cố chụp bắt cho được con trăng đang chạy vun vút
ngược đường tàu. Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn
bao giờ thấy lại vầng trăng lãng mạn đó nữa
khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay của lũ sát
nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù
nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu,
bơ vơ đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu
hắt chiếu rọi qua dặm trường thất lạc, như
một thú nhận cho sự bất lực của những giá
trị tinh thần trước cơn bạo hành của lịch sử. Cặp
mắt như một hoi hóp của lương tri, báo hiệu cho thời
đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ nhìn
tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi thấy
mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết.
Và dân tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối
chờ chết trong mẻ lưới khổng lồ đó.
Những câu hỏi " tại sao " cứ
tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi trong cuộc sống
tù đày vốn đã không có gì dễ chịu. Những
ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô
tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm,
những người cầm quyền mới không biết phải
giải quyết ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã
bắt nhốt vào đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy
buồn bực chua chát. Có dịp tiếp xúc với những
cán bộ chính trị và quân sự của họ, tôi càng
thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và càng
thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học
vấn ấu trỉ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng
tín vừa nông cạn của họ sẽ đưa đất nước
tới đâu ? Có lúc nghe họ nói chuyện, tôi có cảm
tưởng đang đứng trước một đám người
máy, lập đi lập lại y nguyên, không sai một dấu
phẩy, không sót một dấu chấm những điều
đã được cấy nhét vào bộ óc của họ, y
như một con két nói líu lo mà không biết mình nói gì.
Rồi ra chúng ta sẽ sống ( hay chết !) ra sao với những
người chủ mới, cầm quyền với mớ kiến
thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và
nhất là đường lối chính trị lỗi thời
? Rõ ràng chúng ta đang sống vào một thời kỳ oái
oăm của lịch sử, mới hết tang thương này đã
vội sang đoạn trường khác. Những trái ngang đã liên
tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt
vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa
bình, chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng
ta sẽ tiếp tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái
cảnh một người học trò cũ, trước giấu mặt
như một kẻ nằm vùng nay là một cán bộ thành
danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò chuyện
bên kia hàng rào kẻm gai một buổi trưa giáp tết có
phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không ? Đứa
học trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp
đệ tam đến đệ nhất. Đứa học trò
đã cùng tôi tranh luận về những chủ nghĩa chính
trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở
bãi Đá bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn
Sơn rái. Nó có một cái tên khá đặc biệt mà
tư tưởng và hành động đã làm tôi nghi ngờ
- không, tôi biết chắc là có liên hệ với phía
bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật
đó ? Tại sao tôi không báo với nhà trường ? Với
chính quyền ? Tôi đồng ý với nó ? Chắc chắn
là không. Thương nó ? Có thể có. Nhưng ở cương
vị một người thầy, tôi có làm công việc
điềm chỉ đó được không ? Điều tôi giữ
kín có phải không ? Và như vậy tôi sẽ nói thế
nào về người em họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa
ra trường được 6 tháng, lãnh nguyên một tràng đạn
AK trong đêm hưu chiến tết Mậu Thân, chết không
kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà chưa có
được một người yêu để biết thương
nhớ. Sự kín miệng của tôi có phải là một
phản bội trắng trợn với những người bạn
đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong những
cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún
sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch
ba-lô súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày
di hành tối nằm tiền đồn, để giữ an
ninh cho một thành phố, một ngôi trường được
yên lành học tập, một ngôi chợ được yên
lành mua bán.
Tôi sẽ nói gì
về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi
chỉ là ngày tháng đợi chờ, về người góa
phụ mới hai mươi tuổi ẳm đứa con sơ sinh đi nhận
xác chồng, về những người mẹ người cha suốt
đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác vọng về, về
viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp Cai Lậy,
về những hầm chôn người tập thể ở
Huế, về trái lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ
đầu xuân ... và sẽ nói gì với người bạn tù
đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc trong các
trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người phế
binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ ?
Có lời nào để biện hộ cho cái
thái độ im lặng đó ?
Câu
hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu
quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho
được câu trả lời. Nhưng có câu trả lời nào
đâu em ! Ai nói được cho tôi thái độ của người
học trò cũ, người cán bộ của tỉnh ủy bây giờ,
nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín "
bí mật '' của người thầy cũ dưới thời
" công an trị ".
Ai sẽ giải
thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ,
thụ hưởng của người-dân-hậu-phương suốt
cuộc chiến 30 năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện
mà mỗi gốc cây là mìn bẩy, mỗi bãi cỏ
che giấu một hầm chông tẩm độc, mỗi lời
nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn
dựng thâm hiểm ...
Ai sẽ giải
thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài Gòn xa hoa,
những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc,
những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy
bằng cả tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương
khô ngày này sang tháng khác ...
Ai
sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông
dân biểu buôn lậu, những ông trí thức ngồi
xa-lông bàn chuyện quét dọn xã hội, những tuyệt-
thực-tự-thiêu, những bãi-khóa-xuống-đường,
những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày, những phong-trào-đòi-quyền-sống
v.v... và v.v... Ai sẽ chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của
anh, của chị, của chúng ta trong cơn đổ vở này ? !
Có ai không ? Hay chỉ là những im lặng
đồng lõa, những nín thinh cam phận, những lãng tránh
vu vơ, hay chỉ là những đổ thừa tệ bạc, những
trốn chạy hèn nhát ... Và tôi, tôi đã đóng vai trò
gì trong vở tuồng trường hận đó ? !
Cái trách nhiệm của mỗi người
trong chúng ta đến đâu, làm sao tính toán đo lường
được. Chỉ thấy rõ một điều là ngày hôm
đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía
kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận,
người thầy đã từ chối làm một-việc-cần-làm
. Hằng hà sa số công-việc-cần-làm khác đã
bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh ... Và
bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vở, cảnh
tù đày, nỗi tiếc hận có phải là cái giá
của một nền đạo đức mà tôi đã được
nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ
thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này
đã chọn lựa, đã chiến đấu để bảo
vệ cho dù đó là một trong những đầu mối
của cuộc thất bại trong cuộc chiến trường kỳ
giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và
cái sai .
Ai sẽ trả lời ? Và
trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó ?
Những ngày
cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường,
lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám
tù tụ năm tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ
chiều để sưởi ấm. Ngọn lửa rọi chập
chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy buồn
thắt dạ bởi không ai biết được ngày về.
Cái lạnh kỳ cục chui rút vào xương tủy làm như để
nhắc nhở con đường khổ nạn nằm ngay chính trong
ta. Sân trại rộng mênh mông, rải rác vài đóm lửa
hiu hắt, mập mờ mấy bóng người quấn khăn
mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui trông không khác gì
cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ chịu
nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở
thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn
sàng che giấu giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày,
ngay cả những lúc cuốc đất đào mương dở
rào phá cổng, những cặp mắt cú vọ của bọn
vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm như đã
thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ
đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn
tránh khỏi bị cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt
giam. Đêm về, chỉ còn ta và bóng tối. Đêm về
chỉ có ta và gió và mây và tất cả những gì mà
chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những
câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước
đoạt, tự do đã bị cướp mất. Những ngày
đó tôi làm từng câu thơ vụn vặt, rời rạc giữa
hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá nặng còng lưng,
lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi quên, đợi
đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm
cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài
thơ lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt
nhục nhằn.
Tôi ba mươi tuổ̉i chế́t không
mồ
Giữa trái tim nồng
nhát chém khô
Đã khóc
Khuấ́t Nguyên thời trẻ dại
Mắ́t giờ cay xé chuyện dời đô
Tôi
viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi, cho một
dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu
khúc cho người còn sống hay đã chết. Tôi viết
luôn cho người chưa sanh ra, bởi vì đất nước
mà tôi để lại cho em sẽ không còn là cái quê hương
hiền lành với tình người rạt rào như sóng lúa
và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi đã
khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt
đã chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra
có giọt nước mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương
này.
Ôi vết thương sầu tận đáy tim
Năm năm vật vã nỗi
đau chìm
Đêm đêm
máu gọi trường thiên hận
Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm
Cái
vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn
mưng mủ nhiều năm về sau nữa.
trích
.......
..........
3.
Sau hơn một năm nhốt lên nhốt xuống
và chuyển từ trại tù này sang trại tù khác tôi được
thả ra khỏi cái nhà tù nhỏ để đẩy vào cái
nhà tù lớn hơn ngoài xả hội, cũng vô cớ như
khi bị bắt đi tù.
Kể từ hôm đó, tôi sống
lưu vong ngay trên chính đất nước tôi !
..................................................
............................................
.....................................
Không
! Người ta không còn quê hương khi không còn thấy liên
hệ gì nữa với mảnh đất vườn rau, công
viên phố xá ... nhất là với nếp tinh thần đang
bị ép uổng theo một thứ chủ nghĩa vừa ngoại lai
vừa quái đản. Cuộc sống từ đó bị hạ
thấp xuống ngang hàng thú dữ.
Từ đó, bị dồn
vào đường cùng, người Việt miền Nam bắt
đầu tìm lối bỏ nước ra đi, bằng đường
bộ hay bằng đường biển thì cũng chỉ là tuyệt
vọng hóa liều, một kiểu đi tìm cái sống trong
cái chết. Đi mà không biết chừng nào đi. Đi được
rồi không biết chừng nào tới. Nếu tới cũng
không biết tới đâu. Chưa kể những bẫy gài,
những gạt gẫm, những mìn chôn ở bìa rừng,
những đồn bót hiểm hóc, những dãy đá ngầm
khôn dò, những mùa chướng không chừng đổi,
đám hải tặc chực chờ và sau hết biển cả
như một người tình phản trắc. Ở lại để
chết dần mòn hay bỏ đi để chết dấp dúi
ở một bờ bãi nào đó, người ta chọn cách
thứ hai với chút hy vọng mỏng còn hơn sợi chỉ mành
treo chuông. Vậy mà người ta vẫn tìm đủ cách để
ra đi, bán nhà bán cửa, trốn chui trốn nhủi, nhịn đói
nhịn khát để ra đi. Những người Việt mà nếp
sống ngàn đời dính liền với ngọn rau tấc
đất, với mồ mả ông bà, những người Việt
mà đạn bom mấy chục năm không tách rời họ ra được
khỏi làng xóm, mà thiên tai bão lụt chỉ làm họ nặng
lòng hơn nữa với quê hương, đến cùng cũng dứt
bỏ ra đi. Quả nhiên câu chuyện " Hà chính mãnh ư hổ
" đâu phải chỉ có trong sách xưa thôi đâu. Đến
cuối thế kỷ 20 người ta vẫn không sợ gì hơn
sợ chính trị hà khắc. Người dân Việt vốn
quen cực khổ như đã ngàn năm cực khổ với
quê mẹ nghèo nàn, vẫn bám vào mảnh đất cằn
cỗi như gốc tre già bấu rễ trong lòng đất
có nghiêng ngã theo gió bão, nhưng vẫn ở đó, dẻo
dai, bền bĩ, an nhiên tự tại. Có ai bỏ đi đâu, đời
này sang đời khác, dính liền như núm ruột. Vậy
mà lần này bỏ đi thiệt, cắt ruột mà đi.
Tôi đã thấy những cơn đau
cắt ruột đó. Có thật trong mắt bà mẹ dặn
dò gởi gắm đứa con trai 10 tuổi cho người quen dắt
trốn. Có thật trong cái siết vai vội vàng của người
chồng chia dẩn hai con đi trước để lại hai đứa
cho vợ đợi chuyến sau. Có thật trong cái lạy tử
biệt cha mẹ già. Có thật trong cái vuốt mắt cho đứa
em kiệt sức giữa đường. Có thật trên xác
thân trần truồng của em gái bị luân phiên hãm hiếp
ở đảo Ko-Kra. Có thật ... Mà đúng ra làm sao tôi thấy
hết được hằng hà cơn đau cắt ruột đó
? Hơn 10 năm, bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu người tới
được một bãi bờ nào đó, còn bao nhiêu người
đi mà không tới, hay tới mà không kịp lên bờ vì
thuyền lật chìm ngay nơi bãi đến !
Ở đảo Bi-đông, trên một góc đồi
ngó cheo leo ra biển cả có một nghĩa trang sơ sài và những
nấm mộ không tên. Ở đó ngày đêm gió heo hút
thổi, cây cỏ lần lữa vàng,
Ở đó, trại đã đóng cửa, người
ta đã bỏ đi hết, những núm đất chắc đã
lạn mất, những mộng đời bỏ dỡ, giữa đường
...
Tôi cũng bỏ xứ ra đi năm 80. Thuyền ra bến khoảng
3giờ sáng. Đêm mịt mù như tấm lòng bỏ lại. Tiếng
máy chạy rì rầm không át được tiếng sóng
vổ ngược rập rền. Khi thuyền chui ngang Cầu đúc
để ra biển, sao bỗng nhiên tôi nghe tim nhói đau. Có
phải không, tôi đang chạy trốn lần nữa cái trách
nhiệm của mình. Năm năm ở đó, dò la nghe ngóng, hy vọng
rồi thất vọng, tôi chẳng làm được gì ngoài
cái việc tự cứu mình. Đất nước của tôi,
đất nước của em, chúng ta bỏ lại mặc dầu có
ai không tiếc thương. Xứ sở bị kềm kẹp nghẹt
thở, bên kia biển là tự do hy vọng. Mọi người bỏ
đi là lối thoát cho mình. Nhưng còn đó nguyên vẹn một
cơn đau, còn đó đầy ứ những uất nghẹn.
Ai sẽ cởi ách giùm ta nếu không phải là ta ! Một vài
nhen nhúm phản kháng bị dập tắt trong trứng nước.
Rồi thôi, coi như một việc đã rồi, mọi sự
đã an bày, mọi người đều yên phận. Gục đầu
ở lại hay cúi đầu bỏ đi cũng chỉ là chấp
nhận một tình trạng không chấp nhận được.
Chắc tại ta bất tài thiếu đức. Hay tại ta không
đủ niềm tin. Hay vì cuộc chiến đã kéo dài quá
mức, dài hơn cả độ dài của những tấm lòng
trung kiên nhất, đến lúc kể cả những cánh tay
rắn chắc và dẻo dai nhất cũng đành bỏ mặc
buông xuôi ... Nước mất, chúng ta đành làm kẻ thất
phu bỏ trốn. Chúng ta lần lượt bỏ đi, kẻ trước
người sau, bất kể nguy hiềm kề cận từng
bước. Cả thế giới khâm phục nỗi nhục nhằn
mà người ra đi đã gánh chịu. Tuy nhiên đi mà em thơ
còn thiếu bầu sửa ngọt, đi mà cha mẹ già còn bữa
cháo bữa rau, đi mà cả nước vẫn tiếp tục chìm
đắm trong cảnh ngu dốt nghèo đói, vẫn tiếp tục
sống trong sự đối đãi bất nhân ... thì quả
thật có phải là đầu hàng thêm một lần thứ
hai nữa ? Sao ngày trước có Việt Câu Tiễn nằm
gai để đừng quên nỗi nhục mà nay kẻ sĩ ít
người còn chịu nếm mật để nhớ hận
xưa Có phải tại phần số dân ta không ? Hay chính vì
tại chúng ta là một dân tộc quá mau quên, lại còn
nhẹ dạ !
Tôi cũng vậy, tôi đang bỏ đi xa đây, hởi
quê hương khốn khổ !
Bốn ngày sau, thuyền tới đảo
Bi-dong. Con thuyền nhỏ và mỏng như chiếc lá khô đổ
lên bãi 90 người mất hồn, mệt lã. Chân lảo
đảo vì say sóng, đầu còn lao đao giữa mộng và
thực, bỗng nhiên tôi ứa nước mắt khi nhìn thấy
lá cờ cũ bay phần phật trên cổng trại giữa
một ngày gió lớn. Màu vàng lợt lạt, vải tưa sút
sổ như đã treo ở đó từ lâu lắm, chắc
đâu từ ngày người tỵ nạn đầu tiên đặt
chân lên đảo. Chỉ có ba lằn gạch đỏ là còn đậm
nét, cuốn bay ngoằn ngoèo, vùng vằng như thể vẫn
còn giận dữ. Cái màu vàng đã phai, mấy lằn
gạch đỏ còn đậm sao bỗng làm tôi khóc. Có phải
tại tôi nhìn thấy màu vàng xơ xác đó trên màu
da của tôi, của những người bạn đồng thuyền
đang bở ngở dắt dìu nhau lê lết lên bãi, của
những người đồng cảnh đến trước đang
nhốn nháo kéo đến hỏi han tìm kiếm, của hàng
trăm ngàn người đồng tình đang lưu lạc lang thang trong
các trại tỵ nạn, và của hàng triệu triệu đồng
bào tôi còn đang oằn oại ở xứ ngục tù. Có
phải tại tôi nhìn thấy mấy lằn đỏ đó như
mấy vệt máu tươi trên xác anh xác chị nằm chết
la liệt vì miểng đạn pháo dọc Đại lộ kinh hoàng,
vì viên đạn bắn sẻ lẻ loi từ một gốc cao
su bên đường 13, vì trái mìn bẫy hèn hạ và mù
lòa không phân biệt được một quân xa hay một
chiếc xe đò chở dân đi chợ sớm. Có phải tại
tôi thấy màu đỏ đó giống như màu máu đang
chảy mệt nhọc trong huyết quản tôi, cũng giống y như
màu máu đã chảy lênh láng trên đất nước tôi
suốt ba mươi năm qua một cách vô lý và vô ích.
Có phải không chính màu cờ đó mà anh đã tập
chào kính ngay từ tuổi mới đến trường, đã
theo anh suốt những năm tháng dài đi giữ nước, đã
gói ghém thi hài anh buổi đưa anh vào lòng đất, bây
giờ đây lá cờ đó đang bay vật vờ trên
một đảo hoang ở giữa chừng biển lạ. Sao tôi
thấy có một cái gì thảm thiết lắm. Sao tôi thấy
chừng như mình quá đỗi bội bạc. Những người
đã chết không còn vui hay buồn. Nhưng những kẻ còn
sống làm sao vui được !
Tôi
mang nặng cái tâm tình đó đi định cư ở một
vùng đất lạnh. Ở đây có những tháng mùa đông
dài như bất tận. Gió đồng không khô khốc
thổi tuyết bay mù mịt. Trời xám ngắt làm thèm
nhớ một giọt nắng tươi. Mỗi lần ra đường
là áo khăn trùm quấn sùm sụp từ đầu đến
chân, nhiều năm sau vẫn không quên được cái hơi
nóng nồng nàn của trời đất cũ, đêm chiêm
bao cứ thấy đi về ngồi quanh bếp lửa quê
nhà. Nhưng riết rồi cũng quen, quen cả cái lạnh nứt
da bỏng thịt, quen với mùa màng chộn rộn, quen với nếp
sống tất bật đến nỗi không có thì giờ
để buồn tủi. Ban ngày làm công cho một tiệm buôn
của Tàu, tối chạy giao hàng cho tiệm ăn của Ý. Cuộc
sống kể ra cũng tạm yên. Số tiền kiếm được
nhín nhút cũng đủ cho mấy miệng ăn ở đây và
một phần chăm đút cho cha mẹ còn kẹt ở đó.
Nghĩ ra cũng đáng công băng sông vượt biển ! Mấy
năm đầu qua mau như sợi giây đàn căng cứng, sống
chẳng kịp đắn đo. Nhưng rồi càng sống càng
thấy mình lệch lạc. Nhiều khuya một mình lái xe về
qua mấy con phố vắng hoe, lòng bỗng nhiên chùng xuống
như sợi giây đàn lỏng phiếm, có khảy lên cũng chẳng
nghe được tiếng nào ra hồn. Chẳng lẻ trầy
trật chạy chết thoát sang đây để suốt đời
bương chải lo cho mấy cái miệng ăn, còn lời hẹn
lớn ngày bỏ ra đi sao chẳng lo được cho trót. Theo đuổi
lắm lần rồi cũng chỉ thấy còn lại toàn đắng
cay. Những lời thề xưa nghe sao thơn thớt ở đầu
môi. Bạn đồng tâm một ngày một vắng vẻ.
Có lắm khi giữa buổi chuyện trò chợt lỡ lời
nhắc chuyện ngày xưa cũng đủ làm đôi người
khó chịu. Mấy năm lận đận gồng mình nuôi
thân nuôi con và nuôi chí cả chỉ làm mình thành cô đơn
hơn nữa. Dường như đã không ít người quyết
tình quên cho đỡ phiền toái. Thật ra nói mà không
trách được ai. Cái nợ nước nặng bằng non
bằng biển, có một thời hình như ai cũng nhớ
cũng mang. Nhưng rồi chuyện quê hương mà có lúc đem
rao bán, đổi chác làm sao cho khỏi chán chường. Người
thiên hạ cũng giống như chim bị tên sợ ná, đôi
lần đem tấm lòng son gởi gắm, việc lớn đã
không thành thì chớ, lắm khi lại thấy cảnh xôi thịt
tranh giành, thử hỏi làm sao giữ cho bền chí được.
Chắc tại căn phần của đất nước ta. Hay như đã
nói tại chính chúng ta, chúng ta là một dân tộc quá
mau quên. Có phải không, hãy thử nghĩ lại coi. Bỏ quê hương
chúng ta bỏ cha bỏ mẹ đã xẻ thịt cho ta chào đời, đã
vắt cạn bầu sửa lép cho ta kháu khỉnh, đã còng
lưng cho ta đứng thẳng lên làm người, đến ta
khôn lớn mẹ cha mòn mõi mắt mờ chân yếu ta lại
bỏ mà đi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ trời bỏ đất
đã che chở cưu mang, đã cho ta hạt cơm ngon, mùi hương lạ,
đã cho ta biết tình đầu ngây ngất, biết nghĩa
nặng vợ chồng, đã cho ta bạn bè chung thủy, dạy ta biết
buồn vui, nhớ thương, hờn giận ... và còn bao nhiêu
thứ khác nữa mà ta sẽ không bao giờ tìm được
ở một nơi không phải là quê hương. Vậy mà
đến chừng đất nước hoạn nạn, ta lại bỏ
xứ mà đi. Đi như vậy đâu phải như người
Tàu ở Đài Sơn Phúc Kiến đi tìm miếng ăn manh
áo, rồi đến lúc phú quý thì " áo gấm về
làng ". Dĩ nhiên không ai chối cãi cái chén cơm ăn từng
bữa, nhưng đánh đổi hết núi sông bằng miếng
thịt cá, thì kể ra cũng đáng thẹn thùng. Quên lửng
món nợ mà ta đã vay là không tròn chữ " tín ".
Tay bắt mặt mừng với kẻ thù hôm qua là không tròn
chữ " nghĩa ". Làm người không có " tín nghĩa
" thì lấy gì mà ngẩng mặt lên đối đãi
với đời !
Rõ ràng từ
25 năm trước, chính chúng ta đã lên tiếng kêu gào
vang dội bằng những cuộc vượt biên hãi hùng
làm cả thế giới rúng động. Cuộc-bỏ-phiếu-bằng-chân
như một trả lời dứt khoát ngay mặt lũ tuyên truyền
láo khoét, mở toang cánh cửa khóa kín che đậy thực-tế-
Việt-Nam cho nhân loại có dịp nhìn thấy mặt thật
của cái-gọi-là-lương-tâm-loài-người mà người
cộng sản vẫn luôn miệng rêu rao. Nếu chúng ta đã
không trực tiếp đánh đuổi được bạo quyền
thì ít nữa chúng ta cũng đã gián tiếp làm một
việc cần-làm, biểu lộ tối thiểu ý thức
phản kháng của một dân tộc tự trọng. Ít nữa
cha mẹ ta cũng đỡ phần tủi hổ, bạn bè ta cũng
có chỗ gởi lòng và đất nước ta còn có
cơ hy vọng. Rõ ràng thế giới đã mở cửa đón
chúng ta như những người trốn chạy độc tài.
Rõ ràng lòng hào hiệp đó là một vinh danh cho ý thức
tự do. Chúng ta đến đệ tam quốc gia như những
người tỵ-nạn- chính-trị. Sao không giữ lấy niềm
hãnh diện đó dù là một hãnh diện rất tội
nghiệp. Bởi vì dẫu sao đó là chút liêm sĩ còn
sót lại của một dân tộc có lịch sử và văn
hiến lâu đời.
Tại sao
lại kéo nhau về khi tình thế vẫn giống y như ngày
bỏ ra đi ? Làm như vậy có phải chính tay ta bôi lấm
cái hình ảnh đầy cảm tính của người-thuyền-nhân
trong lòng thế giới. Chúng ta có đang làm bẽ bàng những
ủng hộ trước đây hoặc gây ngộ nhận đáng
tiếc rằng mọi sự đã thay đổi tốt đẹp
ở đó. Mỗi bước đi về hôm nay là một
bước đi xa thêm cái ước vọng mà mỗi người
ở bên này hay bên kia đã thắc thẻo trông ngóng từ
một phần tư thế kỷ nay.
Trở về như vậy có phải là đầu hàng
thêm một lần thứ ba nữa !
Em thấy đó người
ta đang lũ lượt kéo nhau về, thản nhiên như mới bỏ
đi hôm qua hôm kia. Thản nhiên như không có gì đã xảy
ra ở giữa lòng ta hay ở bên kia biển lớn. Làm như
những nấm mồ la liệt đã lạn mất dưới
ba tấc cỏ, những trại tù đã hết sạch, những
hờn oán đã tiêu tan. Làm như xác tàu nằm chơ vơ
trên bờ bãi hoang vu là bộ xương cá mục, những trinh
tiết rơi rớt trên đảo hoang mọi rợ là cái giá
phải chăng, những xác chết trôi dập rã rời trên
đầu sóng dữ chỉ có trong ác mộng. Làm như chuyến
vượt biên bán sống bán chết là cuộc du ngoạn
đồng tình và lý thú. Làm như cái chuyện anh em ta, bạn
bè ta bị đày đọa đến bỏ xác trong các trại tập
trung sau khi đã buông súng là hợp công lý, cái chuyện
nhẫn tâm mua bán xua đuổi hàng triệu người ra biển
dữ là thuận đạo trời, cái sách lược chèn
ép kềm giữ con dân trong sự tối tăm ngu dốt là
hợp lòng người.
Tại sao
lại hăm hở kéo nhau về khi mà mọi sự mọi việc
mọi chuyện mọi thứ mọi lối mọi cách mọi kiểu
mọi điều ... vẫn ù lì trì trệ như nước
ao tù hãm đã ù lì trì trệ từ ngàn ngàn năm
xưa năm xửa. Thử bình tâm mà xét coi. Từ chính trị
đến kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn rặt một
bài bản cũ xì, mốc thếch, lỗi thời mà thiên
hạ bốn phương đã đào huyệt chôn bỏ từ
đời nào. Cái đau lòng là ngay tại đất mẹ của
nó, người ta cũng đã sáng mắt phủi bỏ cái chủ
nghĩa tàn hại bất nhân đó như phủi bỏ một loài
sâu nhặng ghê tởm thì tại Việt Nam những đầu
óc cầm quyền già nua tối ám vẫn khăng khăng cứng
đầu cứng cổ nhắm mắt nhắm mủi quơ quào
bám riết lấy, cương quyết theo đuôi như chưa bao
giờ cương quyết đến vậy. Trong khi cả thế
giới đang hào hứng lên đường cho kịp vận hội
mới, thì tại Việt Nam họ vẫn bịt mắt bịt tai tiếp
tục chằng giữ dòng sinh mệnh của dân tộc, tiếp
tục trì kéo dân lành đi cho hết cuộc trầm luân.
Những chiêu bài " đổi mới ", " cởi trói
" chỉ là những giả vờ làm mà mắt kẻ ngây thơ,
còn thật sự thì tiếng nói của lương tâm chỉ
có thể cất lên đằng sau những chấn song tù
ngục.
Có ai nghĩ rằng về như vậy là mặc nhiên
thỏa hiệp với độc tài, là tiếp tay bóp chết
cái phôi dân chủ còn trong trứng nước.
Tại sao lại rủ rê kéo nhau về vô tư như
một chuyến đi chơi xa. Làm như chốn đó là một
nơi nào xa lạ lắm, chẳng có một chút liên hệ
ruột rà. Làm như tai điếc mắt mù nên không thấy
cái sinh hoạt " ồn ào và náo nhiệt " hiện nay
chỉ là mặt nổi của một xả hội tuyệt vọng
đến độ buông thả, cái kiểu ăn chơi " chết
bỏ " chẳng cần biết đến ngày mai. Bên cạnh
đó, đại đa số thì nghèo đến độ cũng
thành ra buông thả, chạy ăn từng bữa nên cũng chẳng
còn biết đến ngày mai. Bởi vì có một ngày
mai nào đâu để lo, có một ngày mai nào đâu để
chuẩn bị. Người ta sống qua ngày nào hay ngày nấy,
không một mảy may hy vọng vào tương lai. Đó có phải là
một trong những lý do mà chúng ta phải bỏ đi. Tại sao trước
đó không chịu nỗi mà bây giờ trở về lại
khứng chịu ? Hay tại cảnh tình lam lủ đó không có ta, chẳng
dính dáng gì đến vợ con ta, nên mắt ta bàng quang, lòng
ta thanh thản. Vậy chớ còn nỗi nhục của lần trốn
chạy ? Nỗi căm hận cuộc bách hại cha ông ? Nỗi
đớn đau thắt ngặt của nghèo đói và ngu dốt
? Chẳng lẻ 25 năm đã làm mòn trí nhớ để thấy
thù là bạn. Hay thật sự ta chỉ là một đám cùng
dân mòn đầu tha phương cầu thực, không ý thức
chẳng lý tưởng, đến khi có đồng tiền
rủng rỉnh thì tìm về khoe áo gấm, để thỏa mãn
cái sở thích " sadique " chỉ khoái lạc khi thấy người
chung quanh đau khổ.
Dĩ nhiên ai
cũng có cha mẹ già cần về phụng dưỡng, em út cần
bảo bọc. Nhưng có cần thiết và hợp tình không
đi thưởng lãm vịnh Hạ Long, lăng tẩm Huế, phố
xá Sài Gòn ... nhởn nhơ phè phỡn như một đoàn
du lịch dư ăn dư mạc, khi hai bên đường sông núi vẫn
xác xơ, cây cỏ còn buồn rầu và lòng người
nặng nề uất hận. Anh hay chị có gặp không, dài
theo tam cấp mấy ngôi đền, lấp ló sau mấy hàng
cột, từng bầy trẻ nhỏ lang thang chờ đợi mấy
đồng bạc bố thí của anh chị, mà lẻ ra giờ đó
phải ngồi trong lớp học. Có một cái gì không ổn,
có một cái gì trục trặc, phải không ? Anh hay chị có
lần nào ăn uống linh đình trong một nhà hàng sang trọng
mà trước cửa hàng chục đứa bé lem luốt đang
chực chờ vét hột cơm thừa húp tô canh cặn của
anh chị không ? Có một cái gì quá bất nhẫn, phải
không ? Có khi nào anh chị thả dài nhởn nhơ trên bãi biển
Vũng Tàu Nha Trang Phan Thiết để nhìn cái hoạt cảnh của
những cô gái bán hàng rong và bán luôn cả thân xác.
Có lần nào được nghe kể lại về những
trò chơi của đám du khách Việt kiều trong các căn phòng
khách sạn dành cho người nước ngoài chưa ? Những đồng
đô-la được thảy ra để trả giá từng bộ
phận trên tấm thân phụ nữ trần truồng giữa
tiếng cười sặc sụa hơi rượu thịt. Ngay cả với
một cô điếm thập thành, cái trò mua bán đó
đã là một cái gì quá ư tàn nhẫn. Biết đâu
cô gái đó đã không là nạn nhân của một chế
độ mà chính chúng ta nhờ nhanh chân hơn, nhờ may mắn
hơn đã chạy thoát. Đùa giỡn như vậy có phải
là đùa giỡn trên chính sự tan nát của lòng ta không
? Dòm quanh coi có những lối rẽ nào cho những cuộc đời
khốn khổ đó ? Vẫn những mặt người thờ
thẫn, những cặp mắt u ám, những lưng còng tóc
rối, những chân tay khẳng khiu, những xác thân gầy
đét, những cuộc đời buồn hiu ... Xứ nào cũng
có người nghèo đói, nhưng tại sao người nghèo đói
ở xứ mình không có một chút may mắn nào để
thoát ra. Dòm quanh coi những trường học, nhà thương, đường
xá, cầu cống ... đã có gì là dấu hiệu của
một sự phát triển đúng đắn có kế hoạch
cho một tương lai lâu dài chưa ? Hay chỉ là những vá víu
tạm thời, chụp giựt, những chương trình sớm thay chiều
đổi hoặc là những bày biện vẽ vời cốt
để trám cho đầy bảng thống kê, nhất là để
trám cho đầy cái túi tham không đáy của bọn người
man trá. Ngó suốt từ nam ra bắc có tìm ra được
một dấu hiệu nào cho lòng thành khẩn, ân cần
của kẻ cầm quyền lo cho con dân như những thời thịnh
trị.
Như vậy tại sao lại rầm
rộ kéo về ?
Có phải
tại chúng ta là một dân tộc quá nhẹ dạ. Mới nghe
giở cái giọng o bế đòi nối liền " khúc ruột
ngoài ngàn dặm " là đã mũi lòng, mà không chịu
nhớ đến hằng chục triệu " ruột thịt "
khác vẫn còn đang tiếp tục bị chèn ép thắt buộc
đến mức oằn oại ở trong nước. Tại sao họ
không lo nối cho liền lạc những khúc đời tơi tả
đó, mà lại phải tốn công vòng vo đi níu kéo những
kẻ đã bỏ trốn, đã bị giáng cho cái tội phản
quốc tày trời, đôi khi năm lần bảy lượt mới
vượt thoát sau khi đã bị cướp hết từ vòng
vàng đến nhà cửa, nhất là nhân phẩm của
một con người. Hay là tại vì những kẻ đó đã
" hết " phản quốc vì trong túi đã có chút đỉnh
đô la sau nhiều năm cày cục ở xứ người. Và
vì vậy, một sớm một chiều trở thành khúc
" ruột tượng " của chế độ. Người
ta nhân danh hai chữ dân tộc không ngượng miệng, kêu
gào đến thảm thiết đám con dân đã bỏ trốn
ở nước ngoài, vốn dĩ đã bị chèn ép xua đuổi
không chút xót thương trở về để tiếp tế,
hợp tác, xây dựng lại đất nước sau khi đã
thẳng tay tàn phá và vẫn đang thẳng tay vơ vét, hưởng
thụ trên đầu trên cổ của đám dân đen còn
kẹt lại, những tài nguyên nhân vật lực đang có
sẵn. Nghĩ ra thấy trân tráo, vô luân một cách thảm
hại.Vậy mà vẫn có những chuyến trở về
!!!
Vâng, vẫn có những chuyến
trở về.
Người ta vẫn
ngang nhiên đi về qua lại vui chơi, mua bán, làm ăn chẳng một
chút bận lòng. Vẫn tiếp tục qua lại cửa quan với
tờ giấy năm, mười đô-la kẹp giữa sổ thông
hành, vẫn tiếp tục coi tờ giấy bạc như tấm
danh thiếp " passe-partout ". Và như vậy, mặc nhiên tiếp
tục thông đồng với nhà cầm quyền, phát triển
và nuôi dưỡng một hệ thống tham nhũng hối
lộ chằng chịt, tiếp tục nuôi béo cho những cánh
tay bạo lực đang bóp cổ bịt miệng đám người
thấp cổ bé miệng, tiếp tục nuôi béo cho những
bàn chân bạo lực đang dẫm đạp lên những phận
người vô tội - hay chính là thân phận của anh em bạn
bè quyến thuộc của chính họ còn kẹt lại.
Điều đáng nói là người ta coi
việc làm đó như một chuyện đương nhiên, không
thắc mắc, chẳng bận tâm. Một chuyện tầm
thường như trăm ngàn chuyện tầm thường nhất.
Nhưng mà có thấy không, cái bi đát là đến một
lúc cái tầm thường đó nổi tiếng như một
đặc-điểm-việt-nam . Chúng ta có thấy ray rứt
gì không ?
Hai mươi lăm năm đã qua, qua nhanh như một cơn
lốc. Tôi đã già đi nhiều. Những mộng ước
cũng theo tóc bạc dần. Chuyện nước non vẫn còn
đó, nguyên vẹn. Mười lăm năm trước tôi đã
kết thúc một bài thơ bằng cái hình ảnh tuy cay đắng
nhưng nghe còn rạo rực :
Ta lơ láo giữa bầy chim múa
rối
Làm sao về trổi
kịp khúc hoan ca ?
Mới gần đây tôi lại viết, nhưng
sao chỉ thấy buồn hiu :
Ôi đất nước có
còn vui kịp
Một đời
tôi héo úa từng giờ !
Thơ tôi cũng bắt đầu thấm
mệt như đời tôi vậy. Hai mươi lăm mất nước.
Hai mươi năm lưu lạc rồi còn gì. Chữ hiếu không
tròn mà chữ trung cũng không trọn. Nghĩ lại còn thua kẻ thất
phu ngậm than rửa hờn cho chủ cũ. Nhớ đến Bá
Di Thúc Tề chẳng chịu ăn rau Chu mà thêm thẹn với đời.
Chuyện lớn không làm được,
chuyện nhỏ càng thêm vụn vặt. Ngó quanh quất chỉ thấy
lệ cũ đã đóng khô, xếp xó trong từng góc
bụi nhòa. Sợ mai kia mốt nọ, đám nhỏ lớn lên có
khi tự hỏi sao mình ở đây, ở một nơi không
phải chỗ mình ? Có ai không để bắt đầu câu
chuyện kể : " Ngày xưa, đã lâu lắm, có một
lũ người bỏ xứ ra đi rồi ... không kiếm được
đường về ... "
... Độ
rày, trời sắp sửa vào thu. Ngày bỗng dưng ngắn
lại và đêm, đêm thì cứ dài ra như không sáng nữa.
Những cơn gió lạnh chiều chiều từ dãy núi xa ở
bên kia con sông lớn đã bắt đầu thổi về
thành phố mang theo cái mông quạnh của những đồng cỏ
bạt ngàn ở mạn bắc, và đồng thời cũng mang
đi mất bầy sẻ nhỏ thường làm vui góc phố
quạnh hiu. Chỉ còn lại những dây thép đen xấu xí với
hàng cột đèn trơ trụi. Công viên trước nhà vắng
ngắt, bầy trẻ nhỏ đã rút vào nhà, bỏ trơ lại
bãi cát vô hồn, chiếc cầu tuột xiêu vẹo và
những dây xích đu im lìm. Cái không gian vốn dĩ rất
lặng lẽ của một góc phố nhỏ với những căn
nhà kín cửa quanh năm lại càng lạnh lùng hơn khi gió bấc
trở mùa. Khu vườn sau nhà xao xác gió, lá rụng sớm
hơn mọi năm. Những chiếc lá úa nằm rải rác trên
sân cỏ, buồn hiu như xác giấy hoa của một đêm
vui vừa tàn. Trời đất đang sửa soạn cho một
cuộc thay đổi lớn, bất tận. Và con người,
con người ở đâu trong cuộc tuần hoàn miên man của
vũ trụ ?
Sao bỗng nhiên tôi
chùn tay, muốn ngừng viết. Có ích lợi gì không
những điều tôi đã và sắp viết ra. Sao bỗng
nhiên giọng văn của tôi trở nên sầu thẳm quá đỗi.
Có phải tại đứa con trai út vừa đi nhập trường
ở một thành phố xa, bỏ lại gian nhà đã trống
lại còn trống hơn ? Tại nó mang đi mất một phần
thân xác và tâm hồn tôi ? Hay tại vì cái khoảng trống
lớn giữa đời tôi đã không lấp bớt được
chút nào lại còn tiếp tục khơi rộng hơn nữa ? Có
phải đó chỉ là sự tiếp tục bình thường của
dòng đời miên viễn, chỉ là sự lập lại một
lần nữa hàng triệu triệu biệt ly ?
Đưa con đi xa lần này, suốt con đường
trở về hơn bảy tiếng đồng hồ lái xe, sao
tự nhiên tôi như thấy lại và hiểu rõ ràng hơn
lúc nào hết tấm lòng của ba tôi buổi chiều xuân
năm mậu thân, khi con đường quốc lộ số 4 bị
cắt đứt, ba tôi phải đưa tôi ra bến tàu xin quá
giang một đoàn tàu quân đội về Sài-gòn nhập
học. Năm đó, nhà cháy, của cải tan hoang, ba tôi 58 tuổi,
tóc sương phơ phất, bộ quần áo bà ba trắng
quen thuộc sao như rộng hơn thường khi. Ông đứng đó
không nói một lời nào, tay xách túi quần áo của
tôi, lo lắng bồn chồn, cặp mắt vắng vẻ...
Rồi tàu rời bến, mặt sông rộng mênh mông,
gió lên và chiều xuống. Ông đứng đó, đằng
sau lưng một mặt trời tẻ lạnh, bỗng nhiên tôi thấy
ba tôi giống như một pho tượng, im lìm, chịu đựng,
nhẫn nhục như suốt một đời đã nhẫn
nhục nuôi lớn bầy con quá đông. Tàu xa dần, pho tượng
vẫn im lìm, bất động. Và bỗng dưng, tôi như
thấy một giọt nước mắt nào đó đọng mơ
hồ trên khóe mắt ba tôi. Giọt nước mắt mà
dường như ba tôi đã cố nén tự nãy giờ.
Từ lâu lắm. Từ câu nói vói " thôi con đi ".
Từ lúc móc đưa cho tôi xấp tiền cuối. Từ
lúc nhà cháy. Từ lúc dắt tôi đi thi tú tài. Từ
lúc dắt tôi đi thi trung học, tiểu học. Từ lúc ẳm
tôi đặt tôi vào nôi ... Ba tôi có nói gì đâu ?
Trời đất có nói gì đâu mà dòng đời vẫn
sinh sinh diệt diệt !
Vậy
tại sao tôi lại dài dòng kể lể ? Để làm gì
? Để em hiểu tôi hơn ? Để làm gì ? Có cần
lắm không ?
Tại sao tôi bỗng
trở nên sầu thảm thái quá !
Có cần thiết không em ? Người thiếu phụ đoan
trang với gia đình gương mẫu, sau ít nhiều lận đận
với vận nước nổi trôi, cũng đã vói được
tới bờ hạnh phúc, thứ hạnh phúc bình thường,
giản dị mà tôi vẫn thường cầu mong cho những người
thân yêu của tôi, em có phải biết những điều tôi
đã nói, những gì tôi đã sống ? Mà tại sao em phải
biết ?
Những dòng chữ này rồi sẽ có một dịp may nào
đến với em hay sẽ được xếp lại và cất
vào một hộc tủ, bỏ quên như hàng chồng bản thảo
đã bị bỏ quên, đâu đó, quến bụi trong những
xó xỉnh của đời tôi. Tuy nhiên, lần này, nếu có
cái dịp may hãn hữu đó, xin em hãy đọc một cách
từ tốn, điềm đạm, từng chữ từng dòng.
Hết trang này, rồi trang khác. Hết tờ này lật
sang tờ khác. Rồi cũng sẽ đến trang cuối cùng.
Cũng giống như những trang giấy của cuộc đời.
Giống như tôi, tôi cũng đang lật tiếp, không ngừng
tay, những trang giấy của đời mình. Sẽ đến một
lúc chỉ còn những trang giấy bỏ không, lở dở ...
Nếu có đọc, hãy coi đây như tiếng kêu chót của
loài thiên nga tuyệt vọng, một thứ trần tình của
thế hệ đang tàn lụi dần, cái thế hệ của
những người thầy sinh bất phùng thời. Cái thế
hệ dở dang. Cái thế hệ oan trái. Tôi đã được
hưởng rất nhiều ân huệ của người đi trước,
nhưng không đáp đền lại được gì cho người
đến sau như cái lý tưởng mà tôi đã được
nuôi dạy. Mấy ngàn năm tình nặng nghĩa sâu của dân
tộc đã un đúc tôi nên người, đã ru tôi bằng
những vần ca dao trìu mến, đã âu yếm tôi bằng
những điệu ầu ơ vỗ về, đã tắm mát
tôi bằng dòng suối cỗ tích ngọt ngào và đã
nuôi tôi khôn lớn bằng bầu sữa mầu mỡ
của lịch sử. Tôi đã làm gì được với tất
cả cái vốn liếng quí báu đó đâu em. Tôi mơ
mộng năm 18 tuổi, tôi rong chơi năm 25, tôi chững chạc
năm 30 tuổi. Tất cả cái gia tài truyền thống đó,
nét tài hoa ngùn ngụt đó, truyện Kiều với hơn ba
ngàn câu thơ thăm thẳm, Chinh Phụ Ngâm là giọt lệ trong
veo, Cung Oán đài các ngay trong hận tình uẩn khúc. Còn bao
nhiêu câu ca dao tươi mát như rau cỏ ngoài vườn. Còn cuộc
chiến cự Bắc phạt Tây, cuộc Nam tiến là thiên
trường ca vô tận. Lịch sử máu xương đầy
dẫy những nấm mồ vô danh, để cho ngọn tre già
còn phơ phất tiếng ru trưa, để cho bụi lúa còn
trổ đòng đòng tươm sửa, để bầy trẻ
nhỏ ê a tiếng đánh vần, để mái đình còn
thơm mùi hương khói. Những nấm mồ vô danh từ
thuở Đống Đa, Ngọc Hồi. Những nấm mồ
vô danh từ thuở Gia Định, Trấn Tây. Những nấm
mồ vô danh ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Giả, An Lộc,
Phước Long, Châu Đốc, đường số 9, quốc
lộ 13 ... dấp dúi bên bờ cát duyên hải, chen chúc giữa
rừng già cao nguyên, vùi dập dưới bùn lầy châu
thổ ...
Tôi đã làm gì
? Thế hệ tôi đã làm được gì đâu em !
Chúng tôi đã bỏ dở một cuộc chiến. Chúng
tôi đã đầu hàng một kẻ thù. Và như vậy
có xứng đáng để phàn nàn hay không ? Cái cơ hội
được đóng góp vào cuộc chiến dựng nước
và giữ nước của cha ông đã bị bỏ lỡ một
cách ngây thơ vô tội vạ, cái hạnh phúc tuyệt vời
của tự do đã bị xem thường khi có nó trong tay, thì khi
bị tước đoạt, người ta còn có quyền tiếc
rẻ hay không ? Hay chỉ nên lặng lẽ cúi đầu và ... câm
nín. Mặc kệ những khuya khoắc trở trăn ! Những
sớm hôm thắc thỏm!
Tôi
có nên viết tiếp hay không ? Có đáng để khượi
lại một vết thương đã lành - hay tưởng như đã
lành, gọi dậy một phần đời đã ngủ yên
- hay tưởng đã ngủ yên, tiếp tục làm khó chịu,
mệt mỏi thêm những cuộc đời đã quá sức
mệt mỏi. Có đáng bắt mọi người phải nhớ
lại, đau khổ, thương xót hoài hoài ngay khi cả chính mình
cũng chỉ là một nỗi bất lực thảm hại. Dường
như đã quá trễ nãi để nhắc nhở, đã
đủ muộn màng để lãng quên ?!
Vậy hãy coi đây
như một điều rất đỗi riêng tư, một món
nợ mà tôi chưa kịp trả. Món nợ tôi đã vay 25 năm
trước mà 25 năm sau vẫn chưa quên, thì câu trả lời
của tôi hôm đó quả có vô tình quá hay không -" Thì
tôi cũng đã sống như mọi người "
Tôi đã trả lời giống như khi trả lời
với mọi người khác. Điều đó có phật ý
em không ? Em đâu còn là cô học trò nhỏ, dịu dàng và
tinh quái, để tôi là ông thầy có thể bắt
nạt dễ dàng. Em đã là một người lớn, chững
chạc, điềm đạm và ân cần. Giọng nói tuy nhẹ nhàng
trong trẻo nhưng dường như đã vẩn đục ít nhiều
gió bụi của thời gian. Và cặp mắt, tia nhìn sao tôi thấy
lao đao những dấu hỏi xốn xang. Cặp mắt đó,
dịu dàng nhưng quyết đoán, tra vấn tôi ngay khi em không nói
lời nào, sao tôi thấy có một vẻ gì chừng như
ái ngại. Có phải bằng trực giác em đã nghe được
từ đâu đó nhịp điệu của những bước
tàn phai. Tôi có chủ quan quá không ? Sao từ buổi chiều
hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh hoài về cái tia nhìn
có một chút ngơ ngác, một chút phiền muộn, một
chút trách móc, một chút hờn giỗi. Như tôi đã
không nói thật. Như tôi đã giấu diếm một
điều gì. Em có quyền nói chuyện ngang hàng vì em cũng
đã có những ưu tư của người lớn. Có thể
trong tấm lòng rất nhân ái của em, hình ảnh người
thầy già cỗi đồng nghĩa với điêu tàn, cái
bất ngờ bao hàm sự mất mát, sự tình cờ
có nghĩa rất mong manh và cuộc tái ngộ chỉ là mặt
trái của chia ly.
Ôi biết thời gian có chịu ngừng
Tôi đã viết
một câu thơ như vậy, sau khi chia tay. Và thêm nữa, một
hẹn hò
Rủ nhau mai mốt về quê cũ
Giảng nốt bài thơ bỏ nửa chừng
Có phải chỉ
là để tự an ủi mình trước vòng quay ác nghiệt
của thời gian. Đâu còn một buổi học nào nữa.
Làm sao em mặc lại áo lụa đến trường, tóc bay theo
gió sớm và lòng mới nguyên như giấy trắng, đâu
còn chiếc bàn học gỗ thô màu xám, viết mực
tím và sách vở âu lo. Tôi đâu còn giờ trên bục
giảng, với phấn trắng bảng đen, để cùng em mở
cánh cửa đời vạn đại, đưa em vào thế giới
gấm hoa của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, của
Nguyễn Du, Phan Huy Vịnh ... tìm bắt lại cái nhịp lòng đằm
thắm của lớp người đi trước, khơi lại cùng
em nguồn suối nhân bản của dân tộc để em và
các bạn lớn lên, vững chải như ngàn thu và tươi tắn
như tầm xuân mới nụ, chân thành với mình và rộng
lượng với người, tạo dựng cái thế quân
bình tuyệt diệu của tâm hồn Á Đông trước
sức cám dỗ của văn minh Tây Phương. Tôi muốn sửa
soạn cho học trò của tôi cái sức mạnh dịu dàng của
ngọn tre Việt Nam trước bão táp, để mai sau dù-có-bao-giờ
các em vẫn là người Việt Nam trong cái nghĩa thuần
túy nhất của nó. Tôi có lý tưởng quá không em
? Tôi có làm được việc đó chưa ?
Công việc bị cắt ngang đột ngột.
" Bài thơ bỏ nửa chừng " có phải là niềm tiếc
hận khôn nguôi về một lý tưởng bị phản bội,
một trách nhiệm không chu toàn, một giấc mơ không
trọn vẹn. Cái nhìn của em, nỗi quan hoài của em có phải
là đoạn nối dài của bài thơ dang dở đó !
Thôi thì, xin em hãy đọc ở đây
như một cố gắng hết lòng của người thầy
cũ để trả cho xong một món nợ tinh thần. Một
lần rồi thôi. Món nợ mà tôi đã gây ra khi tạo
cho các em niềm tín cẩn, lòng kính mến, sự cầu
toàn ... trong những giờ giảng dạy trước đây. Nhưng
mà tôi, tôi có làm được gì không ? Năm học đã
chấm dứt một cách tức tưởi mà không chờ
tiếng trống bãi trường.
Tôi chưa nói hết được điều muốn nói.
Em chưa học đủ điều cần học. Tôi và em đều
có một cái gì đó lở dở chưa làm, một
cái gì ngang ngửa chưa xong. Chắc vì vậy, mỗi người
đều cảm thấy bất an, thấy thiêu thiếu, thấy
hụt hẩng ... Có thể cái gì đó mong manh quá nên mỗi
người đều như ray rứt khi nghĩ lại. Có thể
cuộc đổi đời phủ phàng quá nên mỗi người
đều cảm thấy ngỡ ngàng. Giống như cơn mưa bóng
mây chưa đủ ướt mặt người đã dứt. Giống
như cơn mơ nửa chừng bị đánh thức. Giống như
cuốn tiểu thuyết bị xé mất trang sách cuối cùng.
Người ta bở ngở, bực tức hay tiếc nuối.
Cái chờ đã không đến. Sự mong mỏi không được
đền đáp. Người ta thấy xốn xang như đánh
mất một cái gì quí giá lắm. Người ta cảm
thấy chới với như bước lỡ vào khoảng trống
bất ngờ. Người ta cảm thấy bối rối như
bỏ quên một cái gì thân thiết lắm mà lại quá
đỗi mơ hồ.
Tuy vậy
cứ an tâm đi em. Cuộc đời tự nó rất giản
dị. "Trời sẽ tối tiếc thương rồi sẽ hết.
Và dấu giày mai sẽ lá sương che " Từ nhiều năm
trước tôi vẫn thích câu thơ của Nguyễn Đình
Toàn. Em thấy đó, có gì rắc rối đâu, cái
cõi quạnh hiu này. Ngày đến rồi ngày đi, đêm tới.
Và bóng tối sẽ trùm lên tất cả. Những dấu
yêu, những ghét bỏ. Những đợi chờ cũng như những
lỗi hẹn. Những khuôn mặt thân quen, những bóng hình
xa lạ. Mặt đất này vẫn là nơi để người
ta đến rồi đi. Cuộc đời này vẫn là chốn
để người ta tụ hợp rồi ly tán. Tất cả
sẽ mòn phai dần dần như dấu giày đã qua đây
một ngày nào, sương sẽ cuốn đi từng lớp mỏng
và lá sẽ lấp lên từng chiếc một. Con đường
trước mặt cũng chỉ là một dãy mây trôi, ngã
rẽ là những khúc quanh vô định, lời hứa hẹn chỉ
là cơn gió thoảng và ước mơ cũng chỉ là những
an ủi ngậm ngùi. Tất cả sẽ biến mất kể
cả sắt son tưởng là thắm thiết, kể cả đá
vàng đã tưởng là bền chặt.
Trời sẽ tối ! Có thời gian nào không
trôi đâu em. Có dấu vết nào còn mãi đâu em. Những
tiếc thương, đọng lại như vệt sương trên ngọn
cỏ, cũng sẽ tan trong một phút một giây. Người ta náo
nức gặp gỡ. Người ta rạo rực chia tay. Một tháng.
Một năm. Rồi tất cả sẽ trở lại bình thường,
rất bình thường. Cái mặt hồ im lìm chợt xao
động vì một chiếc lá rơi sẽ trở lại im lìm
như đã tự trăm năm. Mọi người sẽ trở lại
với nếp sống thường nhật, với trách nhiệm
bổn phận. Mọi người sẽ trở lại với văn
phòng, với xưởng thợ, với tiệm buôn, với
công việc của một người vợ, một người
mẹ, một người chồng, một người cha. Người
ta sẽ bận tíu tít với chợ búa, với đồng
tiền kiếm được hay mất đi, với ngôi nhà
mới tậu, với chức vụ mới thăng, với việc
làm mới mất ...
Vậy đó
em, trái đất vẫn tiếp tục quay đều cái vòng
quay của nó. Một năm mười hai tháng. Một tháng ba mươi
ngày. Một ngày hai mươi bốn giờ. Mùa hè đã
qua. Mùa thu đang tới. Và mùa đông sẽ chực chờ trước
cửa. Những người sắp tới, sẽ tới. Những
người sắp đi, sẽ bỏ đi.
Tất cả cũng chỉ
là những người khách vô tình trong cuộc tuần hành
miên man của vũ trụ.
Và chúng
ta, chúng ta cũng chỉ là những sơ sẩy của một toan tính
định mệnh.
Em đừng khóc, đừng
buồn đừng nhìn nữa
Cứ cúi đầu, cứ thế rồi ra đi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giày, mai sẽ lá sương che (*)
Vâng, những
tiếc thương rồi sẽ hết.
Và tôi, và em, và dấu
giày trở lại, mốt mai sẽ chỉ còn là một vết
sương che .
Bóng tối sẽ trùm lên tất cả.
Những
tiếc thương rồi sẽ hết.
Những tiếc
thương sẽ hết .
Cao vị khanh
tháng 4,
đọc lại Biên
cương hành
của
Phạm Ngọc
Lư
Biên cương hành
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi
cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh
mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa
khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay
khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình
chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày
tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân
đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi
ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường
anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Núi tiếp
rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai ương
Quân len lỏi dưới tàn
lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khi đằng
đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hoá thành
thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá
mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương
Đây biên
cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như
sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi
ơi ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương
Chiều hôm bắc tay làm loa
gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
Gọi ai giữa sơn cùng
thuỷ tận?
Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
Em đâu,
quê nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây trắng ra biên cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta nhắm mắt
tay buông
Thôi em, chớ liều thân cô phụ
Chiến trường
nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng sông
Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
Há một mình ta xuôi
biên tái
"Nhất khứ bất phục phản" là thường!
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu
khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi! buổi
chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
5-1972
**************
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu
nhương
Bài hành
bắt đầu bằng một tiếng chào. Tiếng chào
câu hỏi từ muôn đời vẫn được coi là biểu
tượng của sự thân ái, mời mọc, thiện ý, hảo
tâm... Có ai mà chào người dưng nước lả. Hay có ai
mà gật đầu chào một kẻ thù, một đối
tượng sẵn sàng nuốt sống, ăn gan, uống mật
mình đâu. Vậy mà Phạm Ngọc Lư lại gật đầu,
lại vẩy tay chào... mối hiểm họa đang chờn vờn
ngay... trước mắt mình.
Biên
cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Dù vậy, nguyên câu thứ
nhất bảy chữ toàn vần bằng, mà hết sáu
chữ là loại phù bình thanh. Giọng ngang ngang, không cao không thấp,
nghe ra cái điệu khinh khỉnh... như chào mà không chào. Chào
mà không lấy gì làm thân thiết, lại như có chút
gì thách đố.
Biên cương
biên cương chào biên cương
Thật ra, đã có thời, trên cái xứ
sở khốn khổ của chúng ta, biên cương hay rừng núi
hay thành phố hay đồng bằng, kể cả chợ búa
hay trường học... đã có gì khác nhau đâu. Tất cả
đã được người ta biến thành mọi bãi chiến
trường. Ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có
thể là trận địa, một khi lòng người đã
bị nhuộm đỏ bằng sự cuồng tín và ngụy trá.
Nghĩ vậy rồi, đọc lại câu mở đầu bài
Biên cương hành mới nhận ra được hết sự
cay đắng, niềm xót xa của một kẻ sĩ trót sanh nhằm-thế-kỷ.
Ông tới đó, Củng
sơn, một thị trấn hẻo lánh nằm dạt về phía
biên giới Lào, nơi mà máu-đã-nuôi-rừng-xanh-xanh-ngắt-núi-chập-chùng-như-dãy-mồ-chôn.
Hình dung một thế đất, bốn
phía rừng núi vây quanh, chướng khí mù mịt, gió Lào
thốc tháo, mà mỗi thân cây đã được vun phân
bén gốc bằng máu me xương thịt của bao nhiêu trai trẻ
được xua tới đó để giết người hoặc
bị người giết. Điệp tự xanh-xanh ( ngắt )sẽ
tính ra bằng bao nhiêu cân lượng của bao nhiêu nấm mồ
( kể cả không có được một nấm mồ )
để dựng lên một phong cảnh núi rừng toàn bích
!
Thử nghĩ coi, bài
thơ được ghi làm vào tháng 5 năm 1972, lúc ông vừa
26 tuổi. Năm 72, mà trong bất cứ trí nhớ dù đã
quá sức mòn mỏi của những người Việt miền
nam vẫn chưa bao giờ quên được. Cái gọi là chiến
dịch xuân hè, người miền bắc xua đại quân vượt
sông Bến Hải, xé bỏ hiệp định Genève, công khai đánh
phá khắp nơi. Bình Trị Thiên. Kontum. Peiku. Bình Long. An Lộc...
trọn phần đất ở phía nam vĩ tuyến 17 chìm trong
đạn pháo mịt mù. Lính tráng hai bên, dân lành vạ lây
chết oan như rạ. Năm đó Phạm Ngọc Lư hai mươi sáu
tuồi. Và ông cảm khái làm hành Biên cương.
Tuổi hai mươi, lứa tuổi vừa
hết non nhưng chưa đủ dạn dày, lứa tuổi sắp
sửa cho một lên đường hướng tới những
phương trời cao rộng. Vậy mà người thanh niên đó
đã bị chặn hết mọi ngỏ ngách, mọ̣i hy vọng đã
bị dìm chết, mọi dự phóng đã bị bóp nghẹt ...
bằng đủ thứ dã tâm ác ý nhằm dồn đẩy
cho được tuổi trẻ bước lọt vào con đường
một chiều ... con đường sinh tử.
Người thi sĩ đó, lớp tuổi trẻ đó
đối diện tương lai mình với tâm trạng cay đắng
cùng cực. Vậy còn lạ không khi ông viết
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu
nhương
Máu đã nuôi rừng
xanh xanh ngắt
Núi chập chùng
như dãy mồ chôn
Lời chào như một tiếng cười
mỉa, hay bi tráng hơn, một tiếng cười gằn, phẩn
uất, mặc kệ, bất chấp... của một kẻ giác
đấu bị đưa ra đấu trường mà mọi vòng thành
đã bít kín. Nghĩa là không có mảy may một chọn lựa
nào khác. Hoặc chết. Hoặc sống. Chết ! Hết
chuyện. Sống ? Đã hẵn là may mắn chưa sau khi mặt
mày đã nám khói đạn bom, sau khi ngón tay trỏ đã tê điếng
vì siết cò súng tới rướm máu ? Câu hỏi trở
nên vấn nạn bậc nhất cho cuộc chiến tranh tương
tàn đó. Người thanh niên miền nam nước Việt
sinh ra và lớn lên được nuôi dạy trong tinh thần khai
phóng, nhân bản và dân tộc. Họ được dạy dỗ
yêu nước thương nòi, quí trọng đồng chủng cùng
giòng máu đỏ da vàng, họ được uốn nắn theo
tinh thần nhân nghĩa ngay từ thưở còn ê a đánh vần
từng chữ cái. Huyền thoại cái-bọc-trăm-con đã được
giảng dạy hết sức ân cần để in sâu vào ý
thức họ ngay từ buổi khai tâm. Lớn lên, hít thở
không khí tự do - dù có còn hạn chế, họ vẫn có
cơ hội tiếp xúc với mọi trào lưu tiến bộ
của nhân loại về mọi mặt. Từ đó, tâm hồn
họ trở nên giàu có, phóng khoáng, nhân bản ... biết
bao nhiêu. Do vậy, khi phải đối đầu với kẻ thù
cùng màu da rõ ràng là một thách đố quá bất
công và bất nhân của định mạng. Nghĩ lại coi, có phải.
Bắn một viên đạn vào kẻ bên kia chiến tuyến
là một việc làm chẳng đặng đừng trong khi lòng
họ băn khoăn hết sức. Phía bên kia, ngược lại trăm
phần. Lịch sữ đã chứng minh triệu triệu điều
như vậy.
Bởi vậy khi đối
diện với thực tại của cuộc chiến tranh tương
tàn đó người thanh niên miền nam, người thi sĩ đó
còn thái độ nào khác ngoài sự chấp nhận
nó một cách... chua chát đến ngậm ngùi.
Biên cương biên cương đi biền biệt.
Chưa hết thanh xuân đã cùng
đường.
Trọn bài hành là một cực tả
về tính chất vô lý đến bi đát của cuộc
tranh giành xương máu đồng loại vừa qua, trải ra từ
trái tim của một kẻ có lòng. Cái tuyệt vời là
trong suốt 66 câu 7 chữ không có một chỗ nào để
lộ ra sự phẩn nộ. Dù là người trong cuộc,
chịu chung kiếp hẩm hiu, ông làm thơ với giọng điệu
bi tráng, khẩn thiết mà trầm tỉnh, đau đớn mà
không bi lụy. Cho nên dù âm điệu của bài thơ rất
trung tính, người ta vẫn nghe ra từ đó tiếng kêu
trầm thống của cả một dân tộc bị đọa đày,
bị cấu xé, bị giành giựt đến tang thương bởi
chính những kẻ cùng chung một nguồn gốc tổ tiên
!!! Chữ chở nghĩa trọn tình, từ tốn mà thâm trầm
hết mực. Ông không tả cảnh núi rừng mà thấy
núi rừng phủ chụp như thiên la địa võng. Ông không tả
cảnh sát phạt mà nghe ra như súng nổ đạn bay. Đọc thơ
mà tai như nghe ù ù gió thổi, tưởng đâu hồn
tử sĩ bay vật vờ trên bãi chiến còn úng khói.
Đây biên cương, ghê thay biên cương
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa
máu
Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào rồi
cũng sanh ra kẻ hèn nhát, người anh hùng. Nhưng cuộc chiến
đó, qua hồn của kẻ sĩ làm thơ, không có mảy may vinh
quang, mà chì rặt có điêu tàn. Không có người thắng
kẻ bại mà chỉ rặt có nạn nhân. Những nạn nhân
bị ném ra đất chết như vãi-đậu. Cái chữ
nôm na mà ôi sao ai oán ! Vãi đậu. Còn chữ nào tượng
hình hơn cho cái chiến-thuật-biển-người đem nướng
con đen trong lửa đỏ. Lính tráng được xô ra bãi chết
như một lũ hình nhân được cắt bằng giấy
không biết vui buồn, không có yêu thương hờn giận.
Chỉ là một lũ hình nhân vô tri vô giác trong tay đám
phù thủy núp kín dưới tầng tầng công sự,
bị ném ra như vãi đậu để giành giựt cho được
thứ tham vọng ngông cuồng. Nỗi cay đắng cùng cực
của kẻ sĩ Phạm Ngọc Lư thể hiện rõ ràng trong hai chữ
cho-rậm, ta về theo cho rậm chiến trường. Cho rậm,
rậm đám ... người ta hay nói vậy. Nhưng thường
nói trong những cuộc vui. Ở đây, giữa cuộc chiến,
lấy gì vui mà về-cho-rậm-đám. Nếu không phải
một nỗi bi phẩn cùng cực của một tâm hồn
hết sức nhạy cảm trước nỗi bất lực của
mình khi thấy chuyện bất nhân bày ra hằng giây hằng
phút trước mắt mình. Ôi người thi sĩ tội nghiệp
giữa một thời vô đạo. Người thi sĩ đó,
kẻ đã được nuôi dạy trong không khí hoa lệ của
văn học cỗ điển, với những hồn thơ nhân
bản tuyệt vời của một thuở Đường thi lộng
lẫy đã đem cái phong cách trang trọng của thơ xưa vào
thơ mình. Chữ nghĩa của ông cỗ kính mà nhẹ nhàng,
kinh điển mà phóng túng khiến cho bài hành vừa có
vẻ xa xôi trang trọng mà lại gần gũi với người
trong cuộc biết mấy. Bằng phong độ của một
bậc thức giả và nghệ sĩ, ông đã phóng tầm
mắt xuyên suốt cõi địa chấn để nhìn thấu
qua rừng núi, cỏ cây, đất đá, đạn bom... cái bị
che át bởi tiếng nổ, bị chôn vùi bởi đất
đá cày xới, bởi đường mật tuyên truyền,
bởi rù quến chủ nghĩa... cái thực ở đằng
sau mọi giả trá, cái còn lại sau những nát tan... Ông đã
thấy đằng sau những núi non trùng điệp bị nổ
tung vì đạn mìn, đằng sau những thét gào say máu giữa
khói súng và ánh thép loang loáng của dao găm, ông đã thấy
ra cái không gian lặng ngắt sót lại, đã nhìn ra cái hình
ảnh lạnh lẽo sau cùng, đã nghe ra tiếng kêu gào vô thanh
của những... cô hồn, thêm nữa tiếng khóc lặng
lẽ nuốt ngược vào lòng của những... cô phụ.
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chớp núi đứng bồng
con
Khu chiến ngày tràn lan lửa
dậy
Đá vọng phu mọc khắp
biên cương
Ông ta thấy rõ ràng như một với một
là hai, mà có phải ai cũng thấy ra những hồn oan vất
vưởng, hay nghe ra tiếng đời vô vọng đó.
26 tuổi.
Đã đủ già chưa để cằn cỗi. Đã hết
mơ mộng chưa để chai đá. 26 tuổi. Cái tuổi
như hoa mới hết thời hàm tiếu mà chưa tới lúc
mãn khai. Vậy sao nhìn ra chỉ thấy cái điêu tàn. Cái
tuổi lẻ ra đang trên bệ phóng để nhắm tới
tương lai. Cái tuổi đã được chuẩn bị để
dành cho những hẹn ước. Vậy mà sao gần như con đường
trước mặt đã bị phong tỏa kín bưng đến nỗi
không dám nghĩ tới cả một lời hẹn ước.
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn
?
Thương
cảm và trân quí biết bao nhiêu tâm hồn thi sĩ đó.
Ông làm thơ không phải cốt để tả cái chon von của
núi cao, cái thăm thẳm của rừng già, cái hiểm hóc
của hang động, cái ngặt nghèo của đèo cả, ông làm
hành để nói lên cái oan nghiệt của chiến tranh, cái
chờ đợi vô vọng của những người cha người
mẹ có con cái bị xua vào chỗ chết, của những người
con gái có tình nhân thất hẹn, của những người
vợ có chồng bị ném như vãi đậu vào cuộc
bắn giết hung tàn. Bài hành như một dấn thân vào
phía mặt thật của chiến tranh bị che giấu, bị tô
vẻ bằng những ngôn từ hoa mỹ. Ở phía đó, hoàn
toàn không có gì hết, không tiếng gầm của bom đạn,
không có tiếng thét của trái tim búng máu, không có tiếng
la của da thịt rách nát... Ở đó là một sự im lặng
tuyệt cùng, im lặng tuyệt đối. Ở đó là
tiếng kêu không vuột ra được khỏi hai bờ môi.
Ở đó là cặp tròng ráo hoảnh không còn đủ một
giọt nước mắt chảy xuôi. Ở đó là cái lỗ
trống khủng khiếp của người mẹ mất con, của người
vợ mất chồng, của đứa con mới lọt lòng đã
mất cha... Cái thấy của ông khác với cái thấy
của những bản tin chiến sự, khác với cái thấy
của xảo ngôn ra rả trong những tuyên ngôn tuyên cáo. Cái
thấy của ông là cái thấy của con-mắt-trông-thấu-cả-sáu-cõi*.
Thơ của ông được làm ra từ những-giọt-máu-chảy-ở-đầu-ngọn-bút
*. Cho nên, mỗi năm đến tháng tư, lục ra đọc lại
Biên Cương Hành lại nghe như có giọt nước-mắt-thấm-trên-tờ-giấy*
khi người thi sĩ ấy vẩy bút làm thơ...
Quả vậy, nói được
gi thêm nữa. Hành được làm bằng hết tài hoa
bút mực và tấm lòng mẫn cảm đến muôn đời.
Hồn thi sĩ rướm những giọt máu còn rây rớt
trên từng ngọn cỏ lá cây, trây trét trên đất đá
vô tri, từ mươi năm trước, từ hôm qua, mà hôm
nay, mà ngày mai... vẫn tiếp tục thấm máu của bao nhiêu
trai trẻ bị xô đẩy tới đó để tiếp tục
giết nhau, giết nhau tận tình như những kẻ cuồng
sát dù trong lòng họ không thiếu nỗi bi thương.
Cho nên, ở đó giữa
núi rừng cô tịch, ông thấy từng đoàn cô hồn
kéo đi lũ lượt. Những cô hồn giận dữ
!
Cô hồn một lũ nơi đất
trích
Vỗ đá mà ca ngông
hát cuồng
Chém cây cho đỡ
thèm giết chóc
Đỡ thèm
môi mắt gái buôn hương
Rừng núi cô tịch có gì vui sao kéo
nhau vào đó mà tan thây nát thịt. Có nghe chăng tiếng hát
ngông cuồng bi thiết của lũ người bị lừa gạt
bị dụ dỗ bị mê hoặc mà ném thân vào hiểm
địa làm mồi cho súng đạn vô tình. Ai nghe được
tiếng kêu uất hận đó ngoài người thi sĩ đang
độ tuổi đôi mươi. Và ai ngoài ông để
cảm thông được nỗi ai oán của những người
trẻ chết trận mà chưa một lần được nếm
chút hạnh phúc trần gian. Chữ nghĩa được chọn lọc
tinh tế mà không lộ chút kỷ xảo. Phạm Ngọc Lư đã
sống tận tình kiếp sống của người trong cuộc.
Hẵn, ông đã không ngại dấn mình vào chỗ thâm
sơn cùng cốc đó để nghe cây rừng rùng mình,
đề nghe đất đá run rẩy... sau mỗi bận súng
đạn gầm thét. Mà chắc phải vậy, phải tận
mắt cảnh núi lở đèo nghiêng, đất đá nát
ngấu, rừng cháy tan hoang bỏ trơ cây cối cụt đầu,
hầm hố chằng chịt ... mới cảm ra được sức
tàn phá đó nổ banh trên thịt xương người ra sao,
mới nhận ra được lửa nướng cháy da người
khét lẹt thế nào, mới nghe được tiếng kêu
thất thanh xé ruột làm sao khi lưỡi dao bén ngót đâm
lút vào thân xác. Phải ở đó, mới nghe ra được
tiếng gọi từ thăm thẳm của cả một lớp trẻ
đương tuổi yêu đời yêu người mà bị bức
tử đoạn đành.
Chiều
hôm bắt tay làm loa gọi
Gọi
ai nơi viễn xứ tha phương ?
Gọi
ai giữa sơn cùng thủy tận ?
Ai
người thiên cổ tiếc máu xương ?
Tiếng gọi
u uất nghe đến nát lòng. Mà rồi tiếng gọi cũng
chỉ rơi vào cõi vô vọng. Như triệu triệu tiếng
kêu đòi khác, vẫn rền rĩ, từ tiếng súng
đầu tiên phát nổ ...
Chẳng
vậy, mà hơn 40 năm qua, vẫn còn nguyên tiếng gọi giải
oan cho bao nhiêu người đã chết, chết mà không biết
vì sao mình chết, chết mà lịch sử bị đẩy
cho quay ngược lại vòng quay, mà đất nước đi ngược
lại chiều tiến bộ, mà năm này sang năm khác, đất
nước trở lại y nguyên cái tình trạng từ thời
người ta xua con trẻ đi làm chuyện ... giải phóng.
Hãy đọc
lên thành tiếng thêm một lần, 6 câu cuối của
bài thơ để nghe lại hết nỗi oan khiên của nguyên
mấy thế hệ bị hy sinh cho một chủ nghĩa bất
cận nhân tình. Đọc lên thành tiếng để nghe dội
lại tim ta tiếng kêu thương của từng lời kinh khổ
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày
về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang
lễ
Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi ! kiếp cây
rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
Hai mươi
mấy tuổi đời của những năm 60, 70 ... hay xa hơn nữa
từ những năm 30, 40, 50 ... thử nghĩ lại, đã có khi nào,
trên mảnh đất gầy còm hình chữ S, mà tuổi
trẻ Việt Nam được sống yên lành đề dự
phóng tương lai cho chính mình và đồng loại mình. 6 câu
thơ cuối, Phạm Ngọc Lư làm cho ông, cho thế hệ ông
và cho cả bao nhiêu người tuổi trẻ trước ông, kể
từ khi có một lũ người đi vay mượn thứ
chủ nghĩa ngoại lai và không tưởng đem về bày trò
giết chóc đề̉ áp đặt lên quê hương. Từ
đó, súng nổ, dao đâm, dìm nước thả trôi sông...
từ đó, tang thương... từ đó, đoạn trường...
từ đó...
Thôi em, còn chi ta
mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Từ
đó một hẹn thề là trăm lỗi hẹn, có một
hạt giống gieo là đã cả vườn cây cháy rụi, một
đứa bé ra đời là đã bao nhiêu trai trẻ bỏ xác
góc núi bìa rừng. Bởi vậy, đến một lúc,
ngay cả đương tuổi thanh xuân, người ta cũng bỏ mặc
buông xuôi, như thể mọi vẫy vùng đều vô ích,
mọi phản kháng đều bất khả.
Hề chi ! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
Hề
chi ! Sá chi ! Mặc kệ ! Những tán thán từ người
ta chỉ dùng đến khi bị dồn vào đường cùng.
Ờ , mà tuổi trẻ Việt Nam thời đó, thời của
những biên cương rào kín lòng người, thời của
súng đạn ngoại bang được nhét vào tay, thời của mắt
bị bịt kín... rồi bị xô bị đẩy bị lùa từng
đoàn từng lũ vào eo chết thì... nếu không ... hề
chi, sá chi... thì cũng có làm gì hơn được !
Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương
Hề
chi ! Hề chi ! Tán thán tự được lập lại hai lần
phải chăng để hình dung hai cánh tay buông xuôi, bỏ mặc,
khi người ta đã ở chỗ cùng đường, tuyệt
lộ.
Biên cương
hành. Đọc lại mà sống lại cùng ai một đoạn trường
!
Chính vì vậy,
mươi năm trước đọc qua đã ngậm ngùi, bây giờ
đọc lại còn nguyên cơn đau thắt ruột với vẫn
nguyên nỗi cảm phục nét tài hoa tót chúng. Rõ ràng, đọc
lại Biên Cương Hành, thấy nguyên vẹn nỗi oan ức
của hàng đoàn hàng lũ cô hồn cô phụ đi vất
vơ cạnh bên phía lề oan trái của lịch sử.
Hành. Loại thơ sủng ái
của những bậc tài tình thiên cổ lụy. Chữ cuồn
cuộn như nước đổ trường giang. Ý tiềm
ẩn như rồng thiêng thấy đầu mà không thấy
đuôi. Chính vì loại thơ vừa lề luật vừa phá
thể khiến cho người làm thơ mặc tình phóng bút.
Trong tay bậc tài hoa, hành làm ... thốn
tâm thiên cổ.
Cho
nên, đọc hành làm sao mà không thấy dạ mang mang. Nay-đời-xa-người-khuất,
đọc hành Phạm Ngọc Lư như thấy lại lòng mình, làm
sao không cảm khái đến trăm nỗi xót xa. Xót xa cho đời.
Xót xa cho người.
Xót xa cho vận
nước.
Hành. Đổ
Phủ. Bạch Cư Dị. Lý Bạch ... Rồi Thâm Tâm. Nguyễn Bính.
Thanh Nam. Tô Thùy Yên. Viên Linh... Và Phạm Ngọc Lư.
Vâng. Và
Phạm Ngọc Lư.
Cao vị khanh
* như một lời đã hứa
* chữ của Mộng Liên Đường
chủ nhân
__________________________________________________________________________________________________________
Thủ
bút của Jacques Prévert
YVES MONTAND - Les Feuilles Mortes - Bing video
et ... Les feuilles mortes
Viết cho những người
đã yêu nhau .
Rồi
xa nhau...
mà chẳng
biết vì sao ...
Trong suốt
cuộc yêu thương mà chừng như bội bạc, đã có
lần nào tôi kể em nghe về một bài hát cũ mà
người ta đã hát thay cho một tiếng thở dài.
Ờ như một tiếng thở dài
vậy em.
Bài hát là một tình khúc nổi tiếng
từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước mà cho đến
nay, hơn bảy mươi năm rồi... vẫn chưa thôi gây xốn
xang trong lòng người, mỗi bận tình cờ nghe lại...Thơ
của Jacques Prévert, người thi sĩ thích đùa giỡn với
chữ nghĩa như đã bung thùa tuổi trẻ mình trên đường
phố Paris. Bài thơ đó, Les feuilles mortes, được viết dựa
theo một điệu nhạc soạn cho vũ khúc ballet bởi Joseph Kosma
rồi được dùng làm nhạc đề cho một cuốn
phim của Marcel Carné. Công trình họp soạn là một cách thức
phá thể, như ý muốn vượt thoát cái hiện thế
điêu tàn và trì trệ của một thời vừa im tiếng
súng. Ra đời trong sự thờ ơ của người đương
thời nhưng rồi chẳng mấy chốc trở thành bài
ca ưa chuộng của hàng triệu người khắp nơi trên
thế giới. Trong số đó, hẵn không ít kẻ đã
nghe ra như một niệm khúc cho riêng mình. Bài hát được
trình bày theo thể điệu Jazz, nhịp bốn-bốn mở
đầu với cung trưởng và kết thúc bằng cung thứ,
với những chuyển cung vừa lả lướt vừa điệu
nghệ, những âm giai thay đổi lên xuống bất chợt,
có khi đẩy nốt nhạc lên tới quảng 5 quảng 8 làm
như mỗi nốt nhạc là một chiếc lá lìa cành,
bay chập choạng rồi để mặc gió cuốn đi vất
vưởng ... vất vưởng như những tình nhân trong cuộc
xô đẩy phũ phàng của định mệnh ...
Nếu có dịp
may một lần nào nữa, tôi sẽ lục tìm để cùng
em nghe lại, Yves Montand... Giọng nam, khàn đục như quến khói, trầm
uất như thoát ra từ một cõi đời đã lạnh.
Bài hát mở đầu không bằng tiếng ca mà bằng
mấy câu thơ được đọc lên như chỉ để
nói thầm, như chỉ nói cho mình mình nghe. Dù ngay câu nói
đầu tiên đã bật ra một tiếng gọi. Đại
danh từ ngôi thứ hai. Tu. Em. Có điều tiếng gọi chìm
lấp trong âm sắc u ẩn của giọng kèn saxo, làm người
nghe có cảm gíác dường như người được gọi
đã lánh mặt vào một cõi đời nào khác. Oh,
je voudrais tant que tu te souviennes. Des jours heureux quand nous étions amis. Bởi vậy rốt
lại chỉ còn là một lời độc thoại mà sao nghe ra
thủ thỉ như o ấp từng chữ một, làm như người
kia đâu đó ... vẫn kề bên. Tôi mong ước làm
sao cho em còn nhớ lại. Những ngày hạnh phúc khi chúng ta sống
bên nhau. Những ngày tháng đó, đời đẹp biết
bao nhiêu. Và mặt trời ấm áp hơn bây giờ rất
nhiều
Oh, je voudrais tant que tu te souviennes,
Des jours heureux quand nous étions amis,
Dans ce temps-là, la vie était plus belle,
Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui.
Les
feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Tu vois, je n'ai
pas oublié...
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Et le vent du nord les emporte
Dans la nuit froide de l'oubli.
Tu vois, je n'ai pas oublié
La
chanson que tu me chantais.
Rồi cả
dàn nhạc trổi lên quấn quýt theo tiếng kèn đồng
não nuột đưa đẩy cho tiếng hát vuột ra, bộc
bạch từng nỗi xót xa ...
C'est
une chanson qui nous ressemble
Toi, tu m'aimais et je t'aimais
Tiếng hát so đo từng lời, kể lể từng
chữ như muốn phanh phui từng nghĩa, mơn trớn như hơi
thở nồng nàn mà âm vọng lại nằng nặng như
bàn tay gầy, thô, ve vuốt lên miệng một vết
thương chưa lành, ve vuốt mà làm đau râm ran theo từng
ngón vỗ về. Tiếng hát lặng lờ bay đi, tiếng
buồn dội lại đè nặng lên lồng ngực, ray rứt
như tiếng nứt rạn của mặt băng dưới sức
ép của thời tiết đổi mùa. Nhịp slow chậm, trì
trì như ngày tháng mỏi mòn dẫm đau lên những đợi
chờ đã vô vọng ...
Mais la vie
sépare ceux qui s'aiment
Nhưng rồi cuộc
đời chia cách những người yêu nhau
Tout doucement, sans faire
de bruit
Lặng lẽ chẳng để
lại một tiếng vang
Nghe
như một tiếng thở dài hơn là một điều
than oán. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng
lẽ. Không một trách móc. Không một oán hờn.
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis.
Và rồi biển cả xóa dần
những dấu chân trên cát của những cặp tình nhân
bị chia lìa
Có phải đã
xa rồi, xa lắm rồi, ngày tháng đó, mùa hè ấm,
góc phố xưa, đêm lễ hội gần tàn, ly rượu
cuối ngày ngoài hiên một quán thưa khách, nghiêng đầu
bụm tay che gió thắp thêm điếu thuốc, vừa khi ngẩng
lên, bất chợt, một thoáng hiện... Ai kìa. Bỗng
dưng trăm dấu nhớ. Tim hụt nhịp. Dáng nữ kiêu sa. Mái
tóc rối gió vẫn nguyên đường ngôi chẻ lệch.
Tia nhìn lặng mà lao xao réo gọi. Ờ hai con mắt vốn đã
xốn xang, bây giờ se thắt thêm mấy dấu chân chim
đã mỏi. Ơ .. ơ ... có phải là ... ? Ồ ! Em ! Rồi
vòng tay siết vội. Phút chốc, hương mùa yêu cũ.
Tiếng cười nhẹ trên đôi môi đã thiếu phụ.
Khóe mắt rươm rướm hồ như đọng một thoáng
sương đêm. Rồi bỗng nhiên hiện tại nhòa đi.
Rồi cả một quá khứ bỗng ùa về... Mấy
chục năm trời biệt dạng. Một tích tắc, nguyên vẹn
như thuở... ngày xưa.
Như vậy
đó chúng ta gặp lại. Bất ngờ như mọi thứ tình
cờ. Đêm còn lại toàn dấu tích.
Hai mươi lăm năm bỗng như chớp mắt.
Tình yêu trở ngược mạnh như cơn gió dữ, thổi
tan hết mọi ngại ngần.
Và
rồi... nụ hôn không kềm giữ dưới chân bức
tường đá, cũ từ đã trăm năm. Quá khứ trùng
vây. Tương lai bất định. Mặc kệ. Ôi nụ hôn
mang đôi cánh thiên thần đưa người ta vượt cõi
trần gian tù ngục. Phút chốc mà thiên thu. Phút chốc
thành định mệnh.
Ờ, tôi nghĩ em còn nhớ. Dù
bây giờ chúng ta đã xa nhau như hai tinh cầu thất lạc.
Xa đến nỗi khoảng cách không tính được bằng
lời. Dù vậy làm sao mà quên được hả em. Những
giây phút mà người ta chỉ sống một lần, trong
một đời. Làm sao quên được em, dù trí nhớ
là thói quen bạc bẽo nhất của con người. Năm ba năm, mười
mươi năm, rồi bây giờ, những ngày tháng cuối,
tôi vẫn còn nhớ. Dù như những chiếc lá khô
rụng lả tả đã được xúc đi từng bựng. Kể
cả những kỷ niệm và ngay cả những hối tíếc
đã bị thời gian cuốn đi rồi lấp kín trong bóng
tối thăm thẳm của lãng quên. Tôi nghĩ em vẫn còn
nhớ. Cũng như tôi.
Mùa hè năm đó. Oh, je voudrais tant que tu te
souviennes. Cả một thế giới mênh mông bỗng thu nhỏ
lại. Giờ giấc nhập nhằng không còn định được
bằng dấu mốc của thời gian. Mặt trời mặt
trăng sông nước núi non góc đường nẻo phố, mọi
thứ trở nên thừa thải. Chúng ta có cần đến
đâu. Hoa lá cỏ cây dù đương lúc mãn khai cũng không
còn sức quyến dụ. Mùa hè năm đó. Khi chúng ta có
nhau. Khi chúng ta bên nhau. Sau hai mươi lăm năm bặt tung tăm tích.
Mùa hè đó. Thời tiết mùa màng đã vì chúng
ta mà rạng rỡ. Những lọn nắng vàng cứ tha thiết
vờn lên mái tóc em ngoan. Những ngọn gió ấm từ
phía nam thổi tới ve vuốt hoài hai bờ vai bỏ hở.
Trong tay tôi, em phó mặc mọi điều. Trong nhau, chúng ta quên hết
mọi thứ. Chiến tranh. Nghề nghiệp. Bổn phận.
Trách nhiệm. Giáo điều. Hết thảy mọi thứ đã
kéo dạt chúng ta ra hai phía suốt hai mươi lăm năm đằng
đẳng. Chỉ còn tôi. Chỉ còn em. Chỉ còn chúng ta. Ôi
mùa hè năm ấy.
Des jours heureux
quand nous étions amis,
Dans ce temps là, la vie
était plus belle,
.......................
Nous vivions, tous les deux ensemble,
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Với nhau mọi thứ đều trở
nên tuyệt vời. Em nhớ không. Có phải khi hạnh phúc người
ta trở nên dễ tánh. Có nhau, người ta có cần gì
hơn nữa đâu. Ngay cả miếng bánh chiên ăn vội bên
lề đường. Ngay cả ngụm cà phê bán trong ly giấy,
tay cầm, tay quàng lưng nhau vừa đi vừa uống, len lách
qua đám đông mỗi bận xuống phố. Ngay cả căn
phòng khách sạn nhỏ xíu như cái tổ chim tìm mướn
vội vàng, khi trời hửng sáng bữa gặp lại, sau gần
một đêm thức trắng đưa nhau lội lang thang qua những
đường phố vắng tanh. Kể lể. Phân trần.
Nhưng có cần đâu. Trong tận cùng cái góc kín nhất
của lòng nhau, đã có bao giờ chúng ta mất nhau. Suốt
đoạn trường đó. Bởi vậy khi gặp lại, hạnh
phúc như chút bọt bèo vớt vát được sau cơn hồng
thủy thành ra giản dị biết bao nhiêu. Giản dị đến độ
nhỏ nhoi, đến gần như vô nghĩa. Chỉ cần sự
có mặt của nhau đã là nguồn cơn hạnh phúc. Mùa
hè đó, mọi thứ trở nên hoàn hảo. Ngay cả mặt
trời dường như ấm hơn mọi khi. Làm sao không ấm
hơn khi tình yêu luôn là ngọn lửa hừng hực, đốt
cháy da thịt người trong suốt cuộc yêu đương.
Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui
Em nghĩ coi. Có
phải những câu hát đã nói giùm ta như vậy.
Làm
sao quên hả em. Người đã yêu tôi thầm kín thời
con gái, từ hai mươi lăm năm trước.
Làm sao biết được, thoáng yêu rồi...
rồi mất biệt nhau luôn.
Dòng
đời trôi xa. Em lưu lạc đâu đâu. Tôi xô dạt phương
nào. Ai biết được. Vậy rồi, dưng không, chúng
ta gặp lại nhau.
Thử hỏi, trong
suốt khoảng thời gian thăm thẳm đó, có lần nào
nghe ngóng được chút tăm hơi. Vậy mà gặp lại
rồi, y như mới hôm qua hôm kia. Y như 4 giờ sáng bữa
mới vào xuân, chuyến xe liên tỉnh, đèn ngoại ô vàng
không giấu được nét hốt hoảng trong mắt nhìn
bỗng dưng thất lạc, bàn tay níu không muốn rời
như dự cảm một hiểm họa chực chờ, buổi
sáng em đưa tôi về quê. Rồi tai ương ụp xuống.
Rồi quốc lộ bị cắt đứt. Rồi tù tội.
Rồi biển xa. Rồi thôi. Rồi thôi. Dẫu vậy
làm sao người ta cắt đứt được một thứ
không thể cắt đứt. Sau hai mươi lăm năm. Mọi thứ
vụt nối lại như chưa từng bị bứt rời.
Dù
hai mươi lăm năm có ngắn đâu em. Hai mươi lăm năm dài
lắm, dài đằng đẳng. Dài đến nỗi em đã
là thiếu phụ. Nghĩ cho cùng hai chữ thiếu phụ buồn
lắm em. Tôi có muốn nghĩ tới đâu mà rồi cứ
phải đắn đo, mỗi lượt gặp nhau.
Trong tình yêu,
có chi mà trách cứ. Người ta tìm đến nhau, đâu
có ai mời gọi ai, đâu có ai kéo níu ai. Trong tình yêu, người
ta tìm đến nhau rất tình cờ. Tình cờ như hằng
hà sa số lần gặp gỡ trong cõi đời nghìn muôn
vạn nẻo này. Rồi người ta xa nhau. Cũng tình cờ
như hằng hà sa số chuyện đổ vở kể từ
khi người ta biết yêu nhau.
Làm
sao người ta dự đoán được sẽ gặp nhau, rồi
yêu nhau, rồi xa nhau... buổi sáng mai, lúc chiều xuống,
giữa khuya hôm... đầu mùa xuân, bữa cuối thu hay ngay
giữa ngày đông mà ai cũng cần một vòng tay ấm...
Tất cả rồi chỉ là trò chơi
của định mệnh. Và con người, con người rồi
ra chỉ là những chiếc lá rơi trong vòng xoáy của cơn
gió vô tình...
Mặc kệ những hẹn thề hay bội
ước, bất kể sắt son hay ruồng rẫy, cho dù
thắm thiết hay lạt lẽo, rồi hạnh phúc hay khổ đau,
tất cả, tất cả cũng chỉ là hai mặt của một
đồng tiền đang quay tròn, quay tròn hết sức mình.
Sấp. Ngửa. Sẽ đến lúc, một lúc nào đó,
vòng quay phải ngừng lại. Và tất cả, những người
yêu nhau, và tôi và em, ai có phần nấy ...
Dẫu vậy,
em thấy đó, làm sao tôi có thể quên...
Tu vois je n'ai pas oublié.
(
dù như ) vô số những chiếc lá chết được
xúc đổ đi,
Les feuilles mortes se
ramassent à la pelle,
những kỷ niệm
yêu dấu của chúng ta, ngay cho dù là những tiếc nuối
Les souvenirs et les regrets aussi,
cũng sẽ bị gió từ phương bắc thổi
về cuốn đi
Et le vent du nord les
emporte,
chôn kín hết vào bóng
tối lạnh lùng của quên lãng
Dans
la nuit froide de l'oubli.
Vâng, tôi có quên đâu. Nhưng dẫu vậy,
tôi có giữ lại được gì khi đời sống như
biển lạ. Và những tình cờ như những con sóng vô
tình cứ vổ vật vờ lên bờ bãi đời
ta. Mọi thứ rồi chỉ là bọt bèo trôi tắp theo đẩy
đưa bất định của dòng đời miên viễn... không
khởi đầu cũng chẳng chung cuộc. Ai nói được
sẽ ra sao... ngày sau ! Bởi vậy oán trách gì nhau khi hạnh phúc
đã chứa sẵn mầm thiên tai. Trong tái ngộ đã
hiển hiện lần ly biệt. Đã có lần Nguyễn
Đình Toàn và Vũ Thành An nhắc nhở... ngày thần
tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...Tại chúng
ta quàng vai đun đẩy nhau vào khu vườn cấm ... Ôi những
cánh dơi mù lòa ... đáng thương. Và đáng trách ? Không,
tại sao ... Tại sao oán trách khi yêu đương đã là viên
đá mà lời sấm rủa đã bắt Sisyphe phải lăn lên
tới chót đỉnh trong khi cái chỗ của nó là ở dưới
chân núi. Bởi vậy khổ dịch của Sisyphe có phải là
số phận của những tình nhân yêu thương nhau trong tuyệt
vọng. Như... tôi và em. Không gặp. Đời có gì vui. Gặp.
Đời như nhắp chút rượu thơm rổi dư vị đắng
chát cặn lại không thôi. Nhịp đời nặng thê thiết
như một điếu khúc được phát ra từ một
đĩa hát cũ được quay đi quay lại. Đã dặn em đừng
chờ đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ chờ cứ
đợi. Đã nhắc tôi đừng đợi. Nhưng sao vẫn
cứ đợi cứ chờ. Ôi những cánh dơi mù lòa
... Bởi vậy, gặp lại rồi, rồi lại phải xa nhau.
Xa nhau mãi. Mãi mãi.
Tu vois, je n'ai pas oublié,
La chanson que tu me chantais...
C'est une chanson, qui
nous ressemble,
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Nous vivions, tous les deux ensemble,
Dẫu vậy
em thấy đó, tôi có quên đâu. Những gặp gỡ
len lách. Những hẹn hò tránh né. Những kỷ niệm. Bài
hát lần nào em đã ru tôi giữa gối chăn xô lệch.
Thần tiên gảy cánh đêm xuân. Bước lạc sa xuống
trần. Thành tình nhân đứng giữa trời không. Khóc
mộng thiên đường. Câu thơ nào tôi đã viết
lên bóng tối từng trang thương nhớ sau những ngụm
rượu đắng từng đêm. Ta sẽ chờ nhau giữa
mịt mùng. Khi ngày mất tích đêm thất tung. Khi năm khánh
kiệt đời tuyệt tận. Em bồ tát khóc lệ
bao dung. Và còn bao nhiêu trang chữ chưa bao giờ viết ra. Mà
làm sao viết ra cho hết, nỗi lòng tôi, tâm sự em. Tình
yêu trễ muộn của chúng ta. Dù ngay từ lần đầu
tiên gặp lại, làm sao chúng ta không biết, con đường
chúng ta đi sẽ là con đường khổ nạn. Và em, em sẽ
là người mang đội vòng gai. Con đường em đi sỏi
đá, đồi Golgotha dốc ngược, chân trần, em dang thân
gánh tội để đền tôi. Làm sao đây em, làm
sao nói được hết, uẩn khúc em, oan nghiệt tôi.
Đời bủa vây giữa trùng trùng oan trái. Và chúng ta, ôi
những cánh dơi mù, bay chập choạng giữa mịt mùng cạm
bẫy. Hạnh phúc giương tay đón gọi rồi xô giạt người
tới phũ phàng. Hạnh phúc rót mời từng ly rượu
ngọt pha dậm cường toan. Rượu càng nhắp càng say,
độc dược càng ngấm. Từng ngày qua, từng đêm
tới. Mỗi một ngụm tình là một tự hủy. Càng
lúc chúng ta càng hốt hoảng khi tình yêu và cuộc đời
như hai mặt của một lời chúc dữ. Người ta chỉ
được chọn lựa một trong hai. Không bao giờ được
cả đôi. Đó có phải là thân phận bất toàn
của chúng ta, con vật người trần trụi và hèn mọn
trước quyền lực của siêu nhiên... Em thấy đó.
Tình yêu của chúng ta, thứ của cải vô giá của chúng
ta, có đáng gì đâu so với sức tàn phá mãnh liệt
của thời gian, ép uổng của định mệnh, xô đẩy
bất chấp bởi những tình cờ chẳng ai ngờ
được. Chúng ta sống chết, thù hận hay yêu đương,
hạnh phúc hay đau khổ cho đến gặp gỡ hay biệt
ly... cũng chỉ là cười khóc múa may như những hình nhân
vô tích sự. Mình có quyết định được gì
cho số phận của mình đâu. Tôi. Em. Đã có ai chờ
đợi ai như chúng ta đã chờ đợi nhau. Đã có
ai tặng cho nhau nỗi đắm say, niềm quyến luyến...
và nhất là tiếng cười lanh lảnh của tuổi trẻ
tìm lại được từ sau những mất mát vì thời
cuộc như chúng ta đã tặng cho nhau. Vậy mà, em ơi, rồi
cũng có mấy ai được may mắn như gã Thôi Giao trong
tích xưa. Hầu môn nhất nhập thâm như hải. Tòng
thử Tiêu Lang thị lộ nhân. Có phải đã một lần
bước chệch khỏi đời nhau là mãi mãi như hai tinh
cầu đã bay lệch vào hai hướng khác nhau. Chuyện
sum hợp chẳng qua chỉ là một thứ huyền thoại để
tự vỗ về của những tâm hồn đã hơn một
lần tuyệt vọng. Mùa hè năm đó qua đi, dòng đời
quay trở lại cái vòng quay bất tuyệt của nó. Và chúng
ta, chúng ta như hai viên sỏi bọt bèo bị bắn văng ra hai hướng
bởi cái sức ly tâm tàn nhẫn của đời sống
với mọi thứ định chế từ đã ngàn đời.
Tội nghiệp em. Tội nghiệp tôi. Chúng ta yêu quý nhau
biết bao nhiêu. Chúng ta mê đắm nhau biết bao nhiêu. Vậy
mà ...
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Cuộc đời cắt chúng ta ra làm hai
mảnh, ném đi hai ngã không chút nương tay. Cuộc đời
xô chúng ta ra hai hướng chẳng thèm chút ngó ngàng. Chia đôi
một cặp tình nhân đắm đuối như phủi một
hạt bụi váng vất chẳng làm cau một nét mày.
Et la vie sépare ceux qui s'aiment,
Tout doucement, sans faire de bruit.
Đành
đoạn.
Nghe lại đi em, một lần nữa, đoạn cuối
của bài nhạc, tiếng kèn đồng vút lên rồi chùi
xuống thê thiết, như muốn dìm sâu hết mọi dấu
tích tình nhân vào mớ dư âm đang dần dần lịm
tắt. Mọi dấu vết, kể cả những kỷ niệm
cho dù nhạt nhẽo nhất vẫn không thoát khỏi những lượn
sóng thời gian xô dạt vào quên lãng... Như sóng biển
cứ xóa hoài những vết chân trên cát, những dấu
chân sóng đôi đã dìu nhau qua đó, một lần
nào ...
Et la mer efface sur le sable,
Les pas des amants désunis.
Rồi còn lại gì, còn lại gì đâu, những mắt
rủ môi mời, những ngọt lời đẹp ý, những nhắc
nhở nôn nao, những đổi trao tha thiết, những đắp
đổi đền bù, và ... và những tay quíu chân kềm
khi đêm mê đắm vở òa hạnh phúc ...
Còn gì đâu ... có còn lại gì đâu ...
Dẫu
vậy, như đã tự hứa với chính mình, tôi sẽ
giữ mãi trong tôi, dù chỉ là những hình ảnh, dù chỉ
là những vang bóng của mùa hè năm ấy, khi tay trong tay, chúng
ta đi những bước thênh thang ngay trên con đường thập
giá, giữa những nguyền rủa của số mệnh và
bây giờ giữa những tang thương sót lại sau những mất
mát không thế nào, không có gì, bù đắp lại được.
Nhen
em, lời tôi kể lể nghe ra như một tiếng thở
dài hơn là một điều than oán. Như chính bài hát
cũ. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ.
Không một trách móc. Chẳng một oán hờn.
...............................
Em biết không, câu
kết của bài thơ, dù không được nhắc đến
trong bài hát, vẫn là một lời hứa, dù chỉ là
... hứa với chính mình
Et
la chanson que tu chantais
Toujours, toujours je l'entendrai !
Và bài ca em đã hát cho tôi nghe lần nào,
tôi vẫn còn nhớ... Nhớ hoài !
Cao vị khanh
Đã lâu lắm tôi không về lại Việt
Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ
ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không,
tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới
vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như
những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm
trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa
đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn
đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến
xót xa. Tôi nhớ quê như một người tình bị phụ rẫy
nhớ lời đay nghiến. Dù là một lời đay nghiến. Vậy
mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì
rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có
suông sẻ gì đâu.
Những năm
mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài Gòn trọ
học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số là tôi đã
bắt đầu thấy nhớ. Lạ vậy đó. Vẫn có những chiều
đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy
chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe.
Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ
mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên
cổ. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Như
đã gặp rồi đâu đó, quen quen. Như đã nghe rồi
đâu đó, mài mại. Ly hương, người đi xa tưởng là
bỏ hình lại ở chốn cũ mà quên rằng bóng cứ lúc
thúc theo sau. Nó cặp kè, léo lách, lẩn lút loanh quanh. Cứ như
vậy mà dằng co níu kéo. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi
lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc
nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm
sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó
đất quê !
Vậy đó, suốt
mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, dẫu người ở phố
thị mà lòng vẫn đặc sệt nhà quê. Hở ra là nhớ. Nhớ
từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ
đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi
quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi nhớ hoài.
Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở
bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè, lượm đá thảy
lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một
người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại
bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy
nằm dài ra đó ngó lơ mơ ngủ dật dờ mặc cho cuộc đời
xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều
biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến
đứt ruột. Nhớ đủ thứ. Kể cả những thứ
không đáng nhớ. Nói gì đến thứ không thể
nào quên.
Như cái bến phà
Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu
thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này,
lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác.
Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh
ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông
như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải
con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã
chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Hay chính những lượn
sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn
tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít. Bằng lý do nào,
thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi
tôi nhớ nhiều nhất. Nhất là từ lúc biết mình khó có
dịp qua lại nữa.
Những năm mới
bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy về quê cũ.
Mà lần nào cũng vậy, cũng thấy mình trễ nãi, về
tới bến rồi mà cứ hụt hoài chuyến phà chót
qua sông... Thẩn thờ đứng lại đó, nhìn ngó bâng
quơ rồi thấy lại y nguyên cái cõi thân quen, y như khi đời
còn thơm thảo. Từng mặt người qua kẻ lại, từng
lối tắt đường quanh...
Nghĩ
lại cũng lạ. Lội sông lội suối đã đời rồi
mà rốt lại chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó
thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với
cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở
miền tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi nam đến đó
là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ
Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng tây nam
đến đó phát đổ ròng ròng đến sạt bờ lỡ
bãi. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá,
người ta chưa đủ sức bắt cầu. Xe đò, xe hàng tới đó
là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi
lượt xuống phà qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh
chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì
phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp
ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ cho nguội
máy, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm
mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại
mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào
náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm. Làm
như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới
rồi lại cứ mong cho mau đi.
Nói
vậy mà lỡ có kẹt lại lâu lâu thì cũng chẳng lấy
gì làm phiền hà cho lắm. Xe tắt máy, khách bước
xuống bãi đậu, vung vai vặn mình vài cái cho dản gân
cốt rồi là miệng chắt lưỡi, hoặc lầm
thầm rủa xả vài tiếng trong khi chân thì xắn xả nhắm hướng
mấy cái quán nước hai bên đường. Mấy chốc,
đời vui trở lại. Giữa đồng không rồi bỗng
thành ra một buổi chợ đông. Hai bên lộ, người
ta che bạt, dựng chòi lợp lá, khá hơn chút gá vài ba
tấm tôn, khá hơn chút nữa tụ lại thành một dãy
tiệm có cửa nẻo hẵn hòi. Mà điều lều
trại hay phố xá cũng đều xập xệ như chỉ
để che mưa đụt nắng qua ngày. Ờ mà đúng vậy,
có ai mà nghĩ được ghé qua đây rồi ở lại
luôn đây. Cái chỗ giữa đường giữa xá !
Hàng hóa thì chưng dọn luông
tuồng đến luộm thuộm, đồ khô trộn
lộn với đồ tươi, bánh mứt xen kẻ với túi
xách giỏ đệm, đồ ăn thức uống tràn ra tới
lề đường vậy mà len qua lách lại sao thấy ngồ
ngộ y như những cái ngoắc tay khều vai bá cổ. Bởi
vậy người qua lại rồi thấy vui tai lạ mắt, Rồi
ai nấy cũng thành ra dễ tánh. Vậy đó đời
vui biết mấy. Cái chỗ không phân biệt giàu nghèo
sang hèn, ai đến rồi cũng phải lội bộ ngang qua. Đã
không tránh được thì sao không hả lòng ra mà hưởng.
Mà hơn nữa, thực phẩm trần gian thì bày ra ê hề
mời đón. Người đi xa lỡ độ đường chưa đói
vẫn nghe ruột dạ cồn cào. Cơm nước trái cây bốn
mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào
chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng
da xanh mướt mà phát thèm. Những xâu mía ghim tươm nước
ngọt như đọng sương mai, những trái khóm Bến Lức
xẻ năm xẻ bảy rịn mật vàng lườm, những chùm
nem Nha Mân treo xum xoe ngả ngớn... Điệu đời hơn nữa, những
xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới
trong lồng kiếng, quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn. Kế bên,
mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm
thấu tới thiên đình. Kề đó, mấy chai bia con cọp sắp hàng
dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nỗi. Bởi vậy mà
khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần
ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình
qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình
tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết
chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái
bến đỗ vốn đã ồn ào lại được thêm phần...ầm
ĩ.
Nhưng mà tại sao là Mỹ
Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền tây
còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu,
Chợ Gạo, Cổ Chiên ... sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có
Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông cò quận chín
trong tuồng cải lương Tuyệt tình ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh
Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận, về Mỹ
Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm
trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn
rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới
vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không
dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn.
Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của
tôi thôi.
Vốn là quê tôi
cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số
gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ
chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê
lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc
cầu xi-măng làm điệu bắt cong cong. Con đường hiền lành
thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc
sắc. Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát
êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống trì trì nhàm
chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối
ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn
đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn
rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên
qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không
khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người
đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã
lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt
ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một
chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm
như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là
những chuyến lên đường.
Ờ,
những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành
lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua
phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm
trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông
đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một
tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài
Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng.
Trời gần tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng
xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật
to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có
được đâu. Cái ngủ đậu chực hờ trên mí mắt.
Tiếng xe chạy ù ù êm tai như tiếng ru em. Nó chịu thua. Nhưng
mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã
giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò.
Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi...Đứa bé giựt
mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc
sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn
cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ
ngác tưởng trong chiêm bao. Bở ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái
là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh
mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó
đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười
giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người
lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó
ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở
nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường
ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà
nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường
hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng
có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao-đơn-hườn-tán,
ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ...
còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp,
chờn vờn một sức sống mãnh liệt, bừng bừng ngay kề bên
cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám
phá kỳ diệu. Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu.
Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ đi
những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như
để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng
sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí
mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả
cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên
cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập
vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới
cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây
vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của
mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi
tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn
xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự
chỉ dẫn của ông "xếp bắc", miệng ngậm tu-huýt mặt câng
câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò
lên cầu từ tốn, vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu
nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy
lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp
khi xe lỡ trớn. Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới
vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu "bông-tông"
thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm
chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa "bông-tông"
là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ
vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu
đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà
lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà
thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có
một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:"Coi chừng thử
thắng xe qua phà". Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống
sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành
xuống xe đi bộ, bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời
vận. Mà chắc cũng quen rồi vì ông tài xế coi bộ bình
tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà
thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng
lại đúng lúc ông kiểm soát khoác hai tay ra dấu ngừng. Tất
cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi
ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây
chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích. Rồi đợi
đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người
kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư
vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng
đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy
xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được
có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi
tuốt trên phòng lái ra lệnh dở bửng. Ai đó đánh một
tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới
không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không
được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi
từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói
sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước
bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng
dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng
cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy
chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy
nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ
có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một
chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi phăng phăng ngược
chiều. Gặp mùa lũ chướng xem chừng phà còn nhàn nhã hơn
nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống
tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên phía bờ bên
kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có
thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường.
Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào
cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy,
ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu
nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy
giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng
mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh.
Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê
hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến
nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy
đến hết đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như
đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó.
Nó chăm bẩm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống
dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách
đột ngột, từ đó.
Như vậy
mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược
lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như
lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt
nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà
và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một
chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo
nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước
có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết
lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không
có khởi đầu và cũng không có kết thúc.
Có phải
tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã
giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông
bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên trung học, tôi vẫn
thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp
cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một
đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy
vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với
cuộc mộng du giữa ban ngày ban mặt. Không biết có phải tại
tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa
trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. "Tôi
đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa".
Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người nên tôi
mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột. Bạn bè trai
gái, thân sơ bất kể, ai tôi cũng mời cũng rủ rê
cho được. Ở đó tôi huyên thuyên dẩn giải hoặc trầm
ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của
tôi vậy. Có người cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số
thì dẩy nẩy đòi về. Nhưng mặc. Rốt lại chỉ còn
tôi với cái bến nước của riêng tôi. Nơi vừa
có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ
thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng
giang hồ qua qua lại lại.
Bến nước
là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ
của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc,
Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh... Họ băng ngang thì thôi chớ còn
xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không
chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi
mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng
có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi
đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là
nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không,
ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông
Tàu xưa đã cảm thán đến rơi nước mắt: "tiền
bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa
chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ". Đó là một quán
trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc
hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui
vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé
qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt.
Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà
khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi
có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng
làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với
bạn bè mà không ai chịu nghe. Thì thôi ai có phần nấy.
Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi
đã học được bao nhiêu điều của trường
đời mà trường học thì không thấy đâu có
dạy. Bãi trường năm 67, tôi từ Sài-gòn về quê nghỉ
hè, cô bạn con nhà giàu được cha mẹ lo cho đi du học ở
Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm
tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu
mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình
đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được
một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người
ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Trời ơi
lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ
mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng
vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa
ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà kể. Con tim dù
lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước
chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm
sư phụ. Mấy thằng bạn cùng tuổi, tối ngày chúi mủi
vào sách vở làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm
của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng
bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn,
từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không
tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo.
Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này
nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước
hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào
tôi không biết. Chỉ biết khi tôi bắt đầu qua lại thường
xuyên thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó
lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột
đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm
bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng
mà ông ta mờ nhạt quá nên riết rồi người ta cũng lờ
đi coi như một tấm phông cảnh cũ mèm bỏ quên trong một
góc hậu trường sau khi gánh hát dọn đi. Ông ta ngồi yên
như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng
nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không
nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn
thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ
mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như
gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường
nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại
rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn
chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất
chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm
chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý
tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì
lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông
ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào
rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như
không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông
thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt
nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo
cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết
ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của
âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến
nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí
ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu
réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay
ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh
lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù
vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái
đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường
cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt. Một lúc mưa bỗng
tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng
bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu.
Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến
tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi
không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ
với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một
nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy
tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù
mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù
đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó
không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người
hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc
nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến
khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh.
Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu. Thuở đó
đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì
gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại
xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà
buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn
mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây
độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị
như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó
nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn
thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài
kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi
đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay
ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập
làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu
không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê
hoang, tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn
đi tìm bạn tri âm... Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình
thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến
phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa
đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi
cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như
vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng
căn mạt kiếp tới lên xe xuống ngựa, từ bậc tài
trí đến kẻ ngu ngơ, những tay đâm thuê chém mướn,
coi trời bằng vung, trước ngực thì xâm " hận kẻ bạc tình"
sau lưng thì xâm " thù người hại bạn" đến người
cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia
như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ
gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ "liên hoành" với
lại "hợp tung". Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón
tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người
yêu đòi "tách bến sang ngang", có ông dẫn cô nhân
tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó
rồi... quất ngựa truy phong bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên
bờ sông định mạng. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng
ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả
đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ
như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép
nài từng gói đậu phọng rang để nuôi bà mẹ tật
nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời
đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không
thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ
cảnh đời mà có học đến già người trong trường
lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi kết
cái bến phà Mỹ Thuận như bạn tâm giao, mà hơn nữa
như một bậc thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón
khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường.
Giữa tuổi đôi mươi có lúc tôi thấy tự
tin như một kẻ lõi đời. Kể ra cũng đáng cho một
kiểu đời gạo chợ nước sông mà ăm ắp
tình người.
Bởi vậy bỏ
đi xa rồi mới thấy đời sao hụt hẩng !
Ở đây xa quá
lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô
canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô
rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc
tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng
nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà
hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà
cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột
chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Con gái chị
Hằng chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn
nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên
bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy đó
tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi
còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi
mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa
một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến.
Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây
giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó
nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn.
Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán
sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa.
Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm
ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ
hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng
được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm
nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt
mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tú Xương
ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định
quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi
nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không
chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn
rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình.
Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn
bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời. Cũng như
tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người quen kẻ lạ rầy rà,
lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ
riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này,
những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phức cái cho được
việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn
chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ
xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường
tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi.
Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền
thế chuyên bóp hầu bóp cổ dân đen vốn đã
dư ăn dư mặc thì ngày càng thêm phục phịch phủ phê.
Còn người bị đày đọa vốn đã mót từng
hạt gạo thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được
vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng
liêng nào đó. Mà hể thiêng liêng thì phải có công
bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản.
Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này
đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với
đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã
đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi trẻ con vẫn
phải lội sông lội suối để đến trường,
mà con bệnh trầm kha vẫn phải chầu chực đút
lót để có được viên thuốc, mà tuổi già
đã sát kề miệng huyệt còn phải gồng gánh
để lấp liếm cái miệng ăn, mà nhân phẩm
của phụ nữ Việt Nam được đem ra trưng bày và
rao bán qua những chợ thịt người được tráo danh
là gả-chồng-xa-xứ, mà ......., mà ......, mà kể ra có
xuể đâu những trái oan ở đó, thì thử hỏi
có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa,
cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn
không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát
mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ
tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi
chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm
hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất
theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng
chẳng thua gì Kim môn kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một
chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi.
Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi giây cáp cong cong. Nhìn trong
hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có
con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng
buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn
đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suông sẻ, khách
đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới
nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao
khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn
nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù.
Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường
xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể
chuyện Tam quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc
nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và
ngón đàn tận tuyệt... tất cả rồi sẽ được xếp
vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt
đầu bằng hai tiếng "hồi xưa...". Có thể mấy chi tiết
mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước.
Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội
vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn
chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể
cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới
đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng
khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ
là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu
bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp
cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối
tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên
từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu
mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây
cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người
nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì
có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn
tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số
không ít người.
Và nhất là
cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp
trong lòng người mà không chịu lo bắt lại để mọi tấm
lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp
đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê
nhà.
Cao vị khanh
Chênh vênh
,
nỗi nhớ...
CAO VỊ KHANH
tạp bút
T ôi ở Rạch
Giá mười năm, mười năm cuối của quảng đời ba mươi
lăm năm ở Việt Nam, từ khi sanh ra đến khi bỏ đi... sau hai mươi
năm ở Vĩnh Long và năm năm ở Sài Gòn. Những gì đã
quên ? Và những gì còn nhớ ? Lòng sao cứ chênh vênh giữa
nhớ giữa quên...
20 năm ở Vĩnh
Long, cái thời của tuổi ăn-chưa-no-co-chưa-ấm...
Vĩnh Long. Tôi nhớ như in dãy phố tàu.
Bạn bè dăm đứa đẩy đưa nhau. Áo phanh ngực đón
mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu.
Vĩnh
Long. Tôi nhớ hàng sao đứng nín thinh. Tan trường áo trắng
đẹp vô tình. Theo em trao lén bài thơ nhỏ. Chớp vội vành
cong con mắt xinh.
Còn gì nữa hả Vĩnh Long ? Mút xa hơn chút nữa
...
... Ờ ... há . Em có về
qua ngõ hẹn xưa. Đường Trương Vĩnh Ký nắng hay mưa.
Thềm rêu mấy dấu giày thương nhớ. Chắc cũng
buồn theo ngọn gió đùa.
Vĩnh Long ! Con đường Trương Vĩnh
Ký. Con đường nhỏ nằm lặng lờ dưới hai hàng
cây sao cao vút rải đầy những chiếc cánh nâu nâu,
quay tròn như bông vụ mỗi mùa gió chướng. Con đường
trải đá xám len lách giữa hai bờ cỏ dại, lập lờ
đất-thánh-tây nằm lúp xúp những hàng thánh giá
trắng lờ mờ. Khu nghĩa trang rộng chừng mẩu tây,
cây cối xanh um với những hàng mộ được xây
cất ngay hàng thẳng lối, dành riêng cho giới quyền
thế từ thời người Pháp còn ở đây vẫn
được chăm sóc tử tế. Hoa tươi thỉnh thoảng vẫn
được thấy cắm trên đầu mộ. Và những
tượng thánh đục đẽo bằng đá trắng vẫn
còn giữ nguyên bộ điệu phủ dụ rất ân cần.
Dẫu vậy vẫn toát ra từ đó một vẻ gì
u trầm khó tả. Ở đó thời gian như đã đứng
sựng lại làm người qua đường rồi tự nhiên
cũng nín bặt tiếng cười. Ngày qua tháng, tháng qua năm
chỉ nghe tiếng gió thổi xào xạc trên những chòm cổ
thụ cao chót vót. Và rền rĩ, tiếng ve kêu vang suốt
hai mùa mưa nắng. Những cũng chính ở đó, từ
một góc khuất, đứa nhỏ đang lớn là tôi đã
nhìn thấy lần đầu tiên bộ mặt của chiến
tranh. Những trận đánh trong cuộc chiến trước đó
phần lớn chỉ xảy ra ở bưng biền, sau khi đất
nước bị cắt đôi chỉ còn là những kỷ niệm
mơ hồ dù đau đớn trong đầu những người
lớn tuổi. Còn tôi, đứa nhỏ mới chập chửng
biết đi đã được mang vào sống ở thành
phố thì hai chữ chiến tranh chỉ còn vang lên một âm
vọng gần như vô nghĩa. Nhưng rồi chẳng đợi
lâu, đất nước yên bình được đâu mấy
năm thì tiếng súng bắt đầu nổ lại. Người
ta lại bắt đầu bày trò chơi xương máu. Mới đầu
chỉ nghe vọng lại từ xa, tiếng súng ấy, nghe xa lắm,
đâu từ phía những làng mạc mà tôi chỉ mới
nghe nhắc tên nhưng chưa từng biết tới. Dầu vậy,
trên môi người lớn thỉnh thoảng tôi đã nghe tiếc
chắc lưỡi như một tiếng kêu trời ơi không
thành lời. Cho đến một hôm, trên đường học
về, tôi gặp một đám tang. Đám tang thưa thớt
người đưa tiễn. Chỉ có một bà lão gầy
gò và năm ba người mặc quân phục trạc tuổi đôi
mươi. Trên tấm di ảnh là khuôn mặt một người
con trai còn trẻ. Trẻ lắm, cũng trạc tuổi những người
đi tiễn anh. Và đặc biệt, trên chiếc quan tài có
phủ một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Người đàn
bà duy nhất, chắc là mẹ của người chết, vừa
đi vừa quẹt hai con mắt đỏ hoe. Đám tang của một
người lính chết trận. Đám tang của một đứa
con trai vừa mới trưởng thành đã sớm bỏ lại
thêm đơn chiếc bà mẹ già góa bụa. Buổi trưa đó
tôi đã đứng lại, nép mình bên hàng rào, nhìn suốt
tang lễ. Tôi đã đứng đó, nghe người lính thổi
thê thiết điệu kèn chiêu niệm, nhìn những người
bạn đồng ngũ đứng nghiêm chào kín, ngó mấy
người phu thòng giây hạ huyệt, thấy người mẹ
khóc nức lên rồi khuỵu xuống và nghe tiếng kêu
con ơi bật ra đứt ruột. Lần đó tôi thấy
tận mặt chiến tranh. Rồi từ đó, khoảnh đất
bỏ trống dần dần lấp đầy thêm những
nấm mộ mới. Và từ đó, suốt cuộc lớn
khôn, có lần nào tôi không nghe hai tiếng chiến tranh được
nhắc đi nhắc lại, ngày này sang ngày khác !
Nhưng rồi
chiến tranh hay không, tôi cũng lớn lên theo những bước
chân qua lại hằng ngày trên con đường Trương Vĩnh
Ký quen thuộc đó.
Đi thêm chừng vài trăm bước
nữa, qua khỏi nghĩa trang tới ngã tư Trưng Nữ Vương,
thêm vài chục bước nữa tẻ vào ngôi nhà ba gian bên
trái, ngói âm dương rêu xanh đã mấy lớp, nơi tuổi
nhỏ tôi đã chạy nhảy thênh thang giữa cõi lòng rộng
đến mênh mông của cha mẹ, mặc kệ chiến tranh như
một bóng ma lởn vởn quanh mình, mặc kệ mấy
bức tường tu viện chắn ngang ở bên kia đường
như nhắc nhở trăm điều cấm kỵ giữa khi đất
nước đang rục rịch đổi mới. Dẫu vậy,
làm sao kềm được cái tuổi nhỏ hoang đàng với
những vết chân phung phá ...
Ơi Vĩnh Long, cái thời trung học áo
trắng quần xanh, tấm phù hiệu phải được may
dính liền lên miệng túi lại chỉ được nhét
trong túi quần, đợi đến khi sách vở đến
cổng trường mới được moi ra, liếm nước
miếng rồi dán hờ lên ngực áo, rồi len lách
giữa đám đông bạn hữu đang hối hả tuôn đến
lớp, tránh né mấy cặp mắt cú vọ của thầy
cô giám thị khó dàn trời. Ôi cái thời làm học
trò trung học trời thương cho chữ nghĩa nhiều hơn hai bàn
tay mười ngón, từ những bài tập làm văn tả
tình tả cảnh đến phanh phui nỗi lòng Thúy Kiều tâm
sự Cung Oán viết thôi mệt nghĩ, vậy mà được
thầy cô cho đem rao giảng khắp cả lớp dưới tới
lớp trên. Trong khi những môn thực dụng hơn bội phần
thì hể không ú a thì cũng ú ớ. Những bài toán
hình học đại số với lại vật lý hóa học cứ
rối mịt trong cái đầu rối mù. Ngược lại ba
cái thứ lăng nhăng ái tình vớ vẩn kiểu bà
Tùng Long thì lại sáng lán hết biết. Tình cảm lớn
nhanh không thèm đợi tuổi tác. Vừa mới đậu
được cái bằng Trung học đệ nhất cấp,
leo lên cửa lớp đệ tam đả lọt chìm vào đôi
mắt có sóng to gió lớn của cô bạn học cùng lớp,
áo dài vải nội hóa trắng tinh và mái tóc thề
bỏ lửng ngang vai, dắt nhau bỏ lớp trốn vào khu văn miếu,
lẩn quẩn loanh quanh mấy gốc sao cổ thụ, nói với
nhau rặt chuyện mưa-xuân-với-nắng-hè mà lòng thì
chăm bẳm toàn chuyện tình của khách giang hồ với
kỷ nữ...
Ôi Vĩnh Long của
cái thời mê mấy câu thơ của Nguyên Sa mà người
anh trai đi học ở Sài Gòn mang về làm náo nức thêm
đứa em ham đua đòi còn ở tỉnh nhỏ.
Người dáng dấp bơ vơ của bầu trời
hải đảo
Tóc bồng bềnh
trên nếp trán ưu tư
Những
ngón tay dài ướp trọn mấy nghìn thu
Mà men sáng và màu trăng trong vời vợi
Lời thơ đẹp như cái tựa
của chính nó càng làm nôn nao thêm tấm lòng mỏng mảnh
như tờ giấy pelure. Mực xanh mực đỏ mực tím
mực nào cũng hút cũng thấm rồi trộn lộn
vào nhau như một nồi xào bần sau ba ngày tết.
Bởi vậy. Cho nên nỗi.
Ôi cái tuổi Vĩnh Long chân bám
đất mà lòng vói mãi bóng trăng sao. Bởi vậy bây
giờ thì sao cứ hay nhớ lại mà hồi đó thì sao
lại cứ hay quên ngang. Ơi những trang thư tình viết trên
giấy kẻ hàng xé từ tập vở học trò rồi
nhét giấu trong một tập sách đem cho mượn dù không
ai ngỏ lời hỏi mượn. Hổng biết có phải tại
vì chưa-thấy-quan-tài-chưa-đổ-lệ hay sao mà mới
nứt mắt là đã vung tay viết thư tình bất kể.
Hẹn hò với cô bạn cùng lớp đâu được hơn
nửa năm là đã ... ôm cầm sang thuyền khác. Cô em
nhỏ của một chị bạn học, đã có lúc đóng vai trò
làm chim nhạn đưa tin cho cặp tình-nhân-tập-sự sao bỗng
một hôm trở nên sáng dạ đem lòng mê muội thích
anh bạn của chị mình bèn tình nguyện làm cô em-ngồi-bên-song-cửa
cho anh-đứng-dựa-tường-hoa. Những số báo Thời
Nay- tạp chí có dáng dấp như Reader' s Digest bây giờ, trở
thành cái hộp thư cho tình nhớ qua nhớ lại dù hai nhà
cách nhau chưa quá một dặm dài. Thôi thì văn thơ chuyện
tích ở đâu mà tuôn ra lớp lớp như mây bay gió
cuốn. Chuyện trên trời dưới đất, chuyện
Roméo et Juliette, chuyện Paul et Virginie, chuyện Hai Sắc Hoa Ti-gon, kể
cả tuồng cải lương Sơn Nữ Phà Ca ... được đem
ra xào tới xào lui làm tròn xoe hai con mắt nai chưa biết kẽ
chân mày. Những dòng chữ tỏ tình tả oán không chút
đắn đo bất kể lòng người rối rắm
mấy lần hơn tơ nhện. Ơi những cuộc tình bốc
cháy như lửa rơm. Mới nhúm lên đã tắt ngúm.
Tưởng là yêu đến chết bỏ mà mới ba bảy
hai mươi mốt ngày là đã hụt hơi, bèn tìm đường
đào tẩu sang cõi đào nguyên khác. Ơi những hẹn hò
của cái thời mới-lớn, ngây thơ... vô số tội,
yêu đương như một cách làm dáng cho ra kiểu... người
lớn !
Người lớn ? ! Rồi
sẽ có lúc người ta sợ làm người lớn biết
bao nhiêu. Vậy mà có lúc người ta còn nhỏ xíu mà
vẫn muốn làm người lớn cho được. Bởi
vậy, cho nên ...
Thuở đó,
những năm 60, Vĩnh Long như một cô gái ở làng xa mới
ra tỉnh, dùng dằng nửa chợ nửa quê... Dĩ nhiên gái
nào mà rồi không muốn làm dáng, kể cả gái quê...
bởi vậy chẳng mấy lúc mặt mày thì trây trét
son phấn mà mình mẩy thì lại lấm lem bụi đời.
Bắt đầu, chỉ là vài ba cái quán nước dựng
trên bãi đất trống ngay bên ngã ba sông Cái đổ
vào kinh Thiềng Đức. Bãi trống vốn là chợ
cá ban ngày, chiều về cá mắm tan hàng nhường chỗ
cho phố thị lên đèn xanh đỏ. Sụp tối, chè cháo
bánh tiêu bánh bò hột vịt lộn khô mực khô cá
đường nem nướng mì khô mì nước hoành thánh...
được bày ra từng xe, từng xề, từng gánh, lộ
thiên bình đẳng... hết mực bình dân. Khách cứ
thoải mái ngồi bệt ... xuống đất mà ... thưởng
thức. Tài tử giai nhân nam phụ lão ấu, bất kể
ban ngày làm thầy chú hay phu phen gì cũng vậy, cứ đêm
đêm là diện bộ rồi dắt nhau ra đó... mua vui. Đêm
nào cũng nô nức yến anh. Thấy làm ăn được,
mấy cái quán nước kề bên cũng thay phông đổi
cảnh. Hồi đầu chỉ là xá-xị-con-nai, nước chanh
nước mía, nước dừa, sinh tố ... rồi mỗi
ngày mỗi... nâng cấp cho kịp đà tiến hóa... ăn
chơi. Từ từ thêm vào thực đơn mấy món la-de-con-cọp,
vài chai rượu tây made-in-Chợ-Lớn... và đặc biệt
là món... chiêu-đãi-viên-má-phấn-môi-hường-em-vì-hoàn-cảnh.
Từ đó, đêm Vĩnh Long vui hết biết. Từ đó,
cậu nhỏ càng muốn làm người-lớn hết biết
luôn.
Kịp thời đúng lúc,
mới vừa mon men lên lớp sửa soạn thi tú-tài-một
thì cha đổi đi làm việc xa, nhà trống trải chỉ
còn mẹ già và ba đứa em, cậu nhỏ tấn lên đêm
đêm còn đang chóa mắt vì ánh-sáng-phồn-hoa... thì
chẳng biết may hay rủi mà lại kết huynh đệ toàn
với mấy anh chiến-sĩ-cộng-hòa. Mấy anh lớn
đó làm lính đánh giặc, thường khi hành quân xa mà
hể về tới chợ là cứ kéo thằng em kết
nghĩa la cà mấy chỗ ... cấm-trẻ-em-dưới-mười-tám-tuổi.
Riết rồi quán chị Tư Tùng, quán cô Pha Lê... biết
mặt thằng học trò hỉ mủi chưa sạch mà cứ học
đòi kiểu cách Trần Huyền Trân, rượu-vào-nâng-cổ-áo-lên-cao-dăm-ba-mồi-thuốc-đi-chung-bóng
... Cứ vậy mà đua đòi. Mà tối tối lén mẹ
mua chuộc em út canh cửa, gác cổng cho thằng anh làm khách...
dạ hành dởm. Tới hơn nửa đêm mới mò về,
rồi thắp đèn vừa tụng bài vở vừa ngủ
gà ngủ gật.
Như vậy
rồi tôi lớn dần lên theo chiến tranh song song với những
hệ quả của nó. Súng nổ càng lớn thì miểng
đạn càng văng tứ tung. Du kích bỏ súng ngựa trời
hồ hởi chụp cây AK 47 với lại B 40 của Nga Tàu bắn
phá tứ tung. Sập nhà cháy cửa mà còn sập luôn
mọi thứ nề nếp. Bên nây, bạn bè thấy chuyện
bất bằng hè vô tiếp cứu. Người Mỹ và
bầu đoàn kéo vào Việt Nam càng lúc càng đông thì
nhu cầu phục vụ đời sống càng lúc càng tân tiến.
Mấy cái quán chợ cá thành ra như gái lỡ thời.
Mấy cô chiêu đãi áo bà ba với lại quần lãnh
Mỹ A trở nên quê mùa quá độ. Bởi vậy mà
quán-rượu-bán-trà-đá mà người Mỹ gọi là
Saigon tea, còn dân chơi bản địa thì gọi là xì-nắc-ba
mọc lên như nấm dại. Ngã ba Cần Thơ, từ chỗ
đổi đường mù bụi của quốc lộ 4 trở
thành khu Vĩnh-Long-by-night cái rụp. Bỗng chốc mà bảng hiệu
tiếng tây tiếng mỹ rợp trời. Ban ngày, hành khách
đường xe lục tỉnh vội vội vàng vàng thay xe đổi
cộ. Nhưng đêm xuống, đèn xanh đỏ chớp lia chớp
lịa, khách vãng lai qua lại thì cứ nhẩn nha, tha hồ chọn
lựa cõi bồng lai. Chiêu đãi viên từ bốn phương
tụ về, guốc cao gót lắc ca lắc cắc như tiếng
song lang gỏ nhịp, áo dài thắt eo tới nín thở, soie Phi soie
Pháp láng coóng, mousselin mỏng te, quần sa-teng láng lẩy cộng
thêm son phấn Mascara và mùi Chanel Number five mua lậu từ PX thơm
phức ... cứ như là trẩy hội chiêu quân. Trong tiệm
thì đèn mờ, nhạc rock xập xình... Bia 33 thiệt, giả,
vodka, rhum Bacardi... chảy tràn như suối. Cả một thế giới
Kinh Kha thời mới quay cuồng, cười giỡn khều móc
chọc phá... thả dàn như sợ mai qua sông Dịch rồi bít
đường về . Mà thiệt vậy, cho tới lúc đó,
súng nổ đâu có xa nữa... Ai biết được. Cắc
bùm... một tiếng. Rồi đời. Bởi vậy, lính
tráng Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân ... xa quê, lính tráng Việt
Nam ... xa nhà cứ hể rảnh ra là ... xả láng.
Quen ăn rồi thành không quen nhịn, tôi cũng theo
gót đàn anh mà ... lên lớp. Giã từ Chợ Cá. Lần
mò tới Ngã ba Cần thơ. Dẫu không nhẵn mặt
nhưng cũng chẳng phải thập thò. Cứ theo gót đàn
anh mà khám phá đêm trường... muôn mặt. Những đêm
Vĩnh Long khi tuổi học trò đang châu đầu vào đèn
sách, thì tôi ngả ngớn trên mấy chiếc ghế cao
cẳng kê sát cái quầy gỗ láng bóng, tưởng
đến hình ảnh người lữ khách phong sương tạt
qua quán rượu ở Macau những đêm lưu lạc trong tập
Mơ Hương Cảng của Vũ Khắc Khoan...! Rồi thì lại tiếp
tục cái trò mua chuộc em út canh cửa gác cổng... Để
đến khi mò về tới nhà thì lương tâm (?) thất
lạc đâu không biết mà bỗng quay về rồi
ngắt rồi nhéo rồi tru tréo tới độ lại phải
mắt nhắm mắt mở lục bài vở ra mà tụng niệm.
Ôi cái thời học làm người lớn vừa truân chuyên
vừa... hả hê biết bao ! Vậy rồi đậu tú-tài-hai.
Vậy là phải giã từ Vĩnh Long, nối tiếp con đường
vừa học chữ vừa học làm người lớn lên
tới tận... Hòn ngọc Viễn Đông.
Ngày rời Vĩnh Long đi học xa, làm sao ngờ được...
đi rồi biền biệt xa mãi tới bây giờ... Vĩnh
Long còn đó, ở cuối đường. Cách mấy cầu
ngang mấy dặm sương. Như thể dang tay là giáp mặt.
Sao lòng thiên lý vẫn tha hương.
Rồi còn gì nữa không Vĩnh Long ?
Hẵn là còn nhiều lắm, nhiều nhiều
lắm. Nhưng, giờ này, những nấm mồ đã phế
tích, hết những quen biết đã trầm luân. Mọi nẻo
đời đã bít lối từ sau cuộc điêu tàn.
Còn... có ai về qua những lối trăng. Ðường về Tân Ngải
miệt Trường An. Nhà ai bông bưởi rơi đầy ngõ
... !!!
Lên Sài Gòn ! Ờ ngộ vậy đó. Ở Vĩnh
Long mà đi Sài Gòn thì nói là lên Sài Gòn. Làm như Sài
Gòn ở tuốt đâu tận trên thiên đàng. Mà thiệt.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ ...
5 năm ở Sài Gòn khởi đi từ căn gác trọ mang số
32/32 đường Thành Thái, ngang dọc không quá năm bảy thước
vuông mà chồng chất mười mấy mạng con trai dưới-tỉnh-mới-lên...
Đêm nhiệt đới nồng nã, quần áo sách vở
vất bỏ tứ tung, vậy mà có khi mấy cô chiêu đãi
bán quán rượu gần đó bị ế độ, trễ
giới nghiêm cứ ghé qua chen vô ngủ đỡ. Sáng giựt
mình dụi mắt thức dậy, bỗng thấy như có điều
gì kỳ diệu thảng thốt quanh đây.
Sài Gòn mở đầu cho cơn sốt-lữ-thứ lây truyền
từ cái thuở Nguyễn Bính khăn gói vô nam, Sài Gòn của
lần đầu tiên xa-nhà-có-phép, của tiền mẹ cho ăn cơm
một tháng tiêu hết một tuần, của tô phở giữa tháng
lỏng bỏng nước mở góc đường Kỳ Ðồng, của khúc
bánh mì cuối tháng gặm thiệt kỹ cho tiết hết cái chất
béo của lớp tinh bột dẽo nhẹo, của chiếc quần jean trổ màu
xanh bạc, của tập giấy mỏng nhét túi quần sau, sáng tinh sương
mắt nhắm mắt mở chạy ù ra ngã tư Hùng Vương cho kịp
chuyến xe buýt từ Chợ Lớn đổ ra trạm chánh Phạm Ngũ Lão
rồi chạy ù qua bám thành cửa, đu tòn ten chuyến buýt tẻ
qua khu văn khoa Cường Ðể. Giảng đường chi-hồ-giả-giả buổi
sáng chấm dứt, lội qua ngã ba Ðồn Ðất mua khúc bánh mì
thịt ngó mấy em nữ sinh áo trắng jupe trắng Saint Paul tan học chờ
xe nhà tới rước, rồi lội vô Sở thú, vừa gặm bánh
mì ăn trưa vừa ngắm nhìn bầy khỉ đú đởn trong cái
lồng to bằng cái nhà... rồi có khi chùi xuống nằm dài dưới
một tàn cây cổ thụ, thả hồn đi lạng quạng qua mấy cái
bến mê bờ nhớ nào đó hay tỏ bộ siêng năng cơm cha áo
mẹ công thầy mà lẩm nhẩm bài vở chờ giờ trở lại
giảng khóa buổi chiều...
Sài
Gòn ! 5 năm Sài Gòn bỏ trăng châu thổ đâm đầu theo
bầy sao đêm đeo vắt vẻo trên thành cửa sổ những mặt
tiền cao ốc, lung lăng và háo hức như đứa bé lần đầu
chúi mắt vào cái lồng kiến vạn hoa... Sài Gòn của hè
Lê Lợi chiều thứ bảy, khuya Hầm Gió mù mù, trưa trà đá
Pagode, tối bia nâu Givral... Sài Gòn lê la Ngã Tư Quốc Tế, nhắm
mắt nín mũi nốc ly rượu thuốc lề đường ra mắt đàn
anh đứng bến Nguyễn Cư Trinh. Sài Gòn solex, tóc phủ gáy, áo
bó thân, quần ống loa sáng đưa người cửa trước Gia Long,
chiều đón người cửa sau Lê Văn Duyệt, mình gảy gập
trên guidon như cua-rơ đường trường phóng nuớc rút chỉ
sợ trễ hẹn làm mất lời-thề-chung-thủy. Sài Gòn lính
quýnh hai mặt giáp công xách xe không chạy tháo. Sài Gòn
của Rex, Ðại Nam, Eden không sót một phim mới, nhớ mặt tài tử
không sót một tên quen. Và...rạp chiếu bóng thường trực
Lê Lợi chuyên môn chiếu lại phim hay đã cũ, chui vô trốn
cái nóng của căn gác lợp tôn, ngồi ngủ gà ngủ gật
với tiếng máy lạnh rì rì và những bóng áo dài trắng
nữ sinh trốn học mập mờ trong bóng tối đồng lõa...
Sài Gòn, còn gì nữa, 5 năm làm
sinh viên không-sách-vở-cầm-tay... Sài Gòn của Văn Cảnh, của
Arc en Ciel với mấy cô vũ nữ người Trung Hoa mặc xường xám
xẻ tới háng, của quán cà phê Pasteur với tách cà phê
phin đen kịt và cái máy hát băng Akai bự tổ chảng suốt
ngày rên rỉ không biết mệt mấy bài hát phản
chiến của người nhạc sĩ thời thượng... Nhất
là cô hàng có mái tóc dài như suối thả lênh đênh
theo sóng nhạc lênh đênh... mà càng lênh đênh hơn nữa
khi ẩn hiện đàng sau màng khói thuốc Bastos xanh mù mịt,
khô hoắc và cay xè. Sài Gòn thêm dởm dáng mỗi
bận bát phố Lê Lợi với gói thuốc lá hiệu Lucky
Strike có cái quầng đỏ chói bỏ trong túi áo trên may bằng
vải tetoron mỏng dánh để tỏ bộ... dân chơi (?)...
Ờ rồi còn những phòng trà mà
không chuyên bán trà, những phòng trà mà tình nhân hẹn
hò nhau, mà bạn bè rủ rê nhau mỗi khi chiều tắt nắng,
đèn thắp lên thay những vì sao đêm... Tới ngồi
ở đó trong bóng tối mập mờ để nghe Jo Marcel
lừng khừng hát Mộng dưới hoa của Phạm Đình Chương,
nghe Lệ Thu ngậm ngùi chia hai bãi chiều theo con nắng xế,
nghe Thanh Thúy rên rỉ... khi biết em mang kiếp cầm ca... anh còn yêu em nữa
không, nghe Sĩ Phú phát giác hạnh phúc nào không tà tơi không
đáng cay, nghe Anh Khoa tiếc nuối đưa em sang sông làm chi để
chiều nay tôi buồn... Đèn xanh đỏ chập chờn, không
gian bít bùng, khói thuốc lá vật vờ bay lên, tiếng
hát thê thiết bay lên rồi lắng xuống, lắng sâu
xuống tới sát đáy những linh hồn còn trẻ sớm
bị dập vùi vì ám ảnh chiến tranh. Thôi thì học hành,
thi cử gì cũng bay tuốt mất tiêu chớ còn hơi
sức đâu mà thắc thẻo ..
Còn
gì nữa, những năm Sài Gòn tập làm người lớn mà
tâm hồn chưa dứt sữa...
Sài
Gòn viết thơ tình mướn cho bạn đổi bữa cà-phê
thuốc lá hoặc được giá hời bữa nhậu
thịt rừng với bia 33 ướp lạnh tới đặc sệt
như nước đá bào Thanh Hải dọc đường Bùi Viện...
Sài Gòn Nancy với tô hủ tiếu ăn chịu có tiền thối
của cô nàng xíu-chẻ đẹp người đẹp nết, ngồi
két thâu tiền mà tấm lòng rộng còn hơn lòng bà
Phiếu mẫu. Sài Gòn với sạp cơm bình dân bến
xe lục tỉnh, nồi niêu xoang chảo bày sát tới mặt đường,
cơm dĩa nóng hổi trộn lộn với cát bụi đô
thành, nước đá trà lu uống chung với cặn cáo
nhớt dầu trây trét. Vậy mà cơm nước nhân hậu
từng bữa, kể cả những khi buýt về trễ chuyến,
hàng họ đã dọn dẹp lên xe kéo, dĩa cơm thịt kho hột
vịt cho thằng-hai-dưới-tỉnh-lên-học-nghề vẫn giữ
riêng úp dưới cái lồng bàn... Trời ơi nhớ lại
mà muốn rưng rưng, chiều nay ... !
Vậy đó, Sài Gòn muôn mặt, xanh vàng tím đỏ,
sang cả bụi đời, vụng về lịch lãm, building ngõ hẻm,
phòng ốc thênh thang, gác gỗ mái tôn, nữ sinh em chả,
gái nhảy thập thành, mặt trắng thư sinh, mặt chằng
du đảng... ôi thôi kể sao cho đủ cho hết mọi mặt
của Sài Gòn, mặt ngất lên hí hửng, mặt cúi
xuống buồn hiu, mặt nào cũng nhớ cũng thương ...
Sài Gòn với Đồng-Khánh-matinée
bữa cuối tuần, kéo nhau đi nhảy đầm bằng cái
giá mạt rệp, lận trái chanh nhỏ trong túi quần khi ra sàn
nhảy bay bướm mấy điệu xì-lô. Sài Gòn của
Duy Tân bóng nhỏ đường chiều, của xóm yêu hoa Yên
Đổ, của trăng đêm Phú Nhuận, của gió sớm thổi
lá me bay Tự Do, của nắng chiều lồng lộng bến
Bạch Đằng, của lang thang không biết mỏi chợ sách cũ
lề phải Lê Lợi, của tiệm sách mới Khai Trí, Xuân
Thu bên lề trái cùng phía tiệm kem Mai Hương, Thiên Thai,
Phan Thị Trước ...
Sài Gòn
đua đòi đợt-sóng-mới, cặp nách sách Ý Thức
Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học của Phạm Công Thiện,
Le malentendu của Albert Camus, Tư tưởng Hiện Đại của Bùi Giáng,
rồi hổ lốn Thiền Luận của Suzuki với lại
Yêu của Chu Tử rồi Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị
Hoàng... rồi ôi thôi hết Nietzche tới Hegel, rồi nhảy
qua Teilhard de Chardin, lộn vòng Bắt Trẻ Đồng Xanh của J.D. Salinger
... Love Story của Erich Segal... rồi mua rồi đọc rồi nóng ruột
chờ từng ngày những tạp chí văn chương Thế Kỷ
Hai Mươi của thầy Nguyễn Khắc Hoạch, Vấn Đề
của thầy Vũ Khắc Khoan, Văn với Trần Phong Giao làm chủ
bút... Và Khởi Hành rồi Thời Tập của Viên Linh,
và Bách Khoa với những tùy bút tuyệt vời của Võ
Phiến... Vừa mua Trình Bày vừa lục tìm đọc cho được
sách của nhóm Quan Điểm vừa mơ màng đọc Áo mơ
phai của Nguyễn Đình Toàn... kể cả báo Tuổi Ngọc
của Duyên Anh, vừa theo lớp triết tây của linh mục Lê
Tôn Nghiêm vừa mê lớp triết đông của linh mục Kim
Định, vừa uốn mình uốn mẩy tập " vẽ
" chử tàu qua ba trăm bài thơ Đường với thầy
Giản Chi vừa mơ mộng với lục bát Phạm Thiên Thư
nhè nhẹ như ca dao ... lãng đãng trong đó là những Lệnh
Hồ Xung mỗi ngày đi máy bay từ Hồng Kông qua vừa
uống rượu vừa múa kiếm vừa thất tình
cô nàng Nhạc Linh San...
Sài Gòn
nói sao cho hết... Làm sao nói cho hết. Cái thuở làm sinh
viên một lúc hai trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm.
Vừa học làm thầy mô phạm vừa mơ làm văn thi sĩ
bẻ khóa luân thường... Làm sao nói hết cái háo hức
của ngựa non háu đá, của đam mê văn chương nghệ
thuật, của mơ mộng khai phá, vói cao... với cao tới tận
đâu đâu... tận tới những những phương trời
chỉ có trong viễn mộng.
Sài
Gòn mặn lạt chua cay ngọt bùi, ắp lẫm thực phẩm
trần gian. Sài Gòn ngốn bao nhiêu sách vở vẫn không
no mà Sài Gòn còn ăn uống bao nhiêu món cũng không ớn.
Sài Gòn La Cigale kiểu cách nắp bàn khăn ăn trắng bóc, dao
nỉa lách cách, miếng thịt bò Chateaubriand, rượu chát đỏ
Bordeaux theo anh làm tử đệ vương gia. Sài Gòn cái-bang ăn đứng
đầu đường ăn lê la góc chợ. Rượu tây,
la-de, kể cả rượu trắng ngâm thuốc bắc, hay ngâm
rắn rít thằn lằn cắc ké của mấy chú ba, chiên
xào Quảng Đông, chưng hấp Triều Châu, cà-ri chà-và-ma-ní
... Món bắc món trung món nam đủ mùi đủ vị. Sài Gòn
của bánh cuốn Ngã sáu Ngô Tùng Châu, của nai nướng
ngói Phan thị Tảo, của cà phê Năm Dưởng, của cháo đêm
Tân Định, của cơm gà Siu Siu, của vịt quay Tôn Thọ Tường...
của nghêu sò ốc hến lề đường Nguyễn
Tri Phương, của mì cây nhản Đakao, của cà-ri dê Trần
Bình Trọng, của cơm tấm Trần Quí Cáp, của thịt vịt
chấm nước mắm gừng Hồng Thập Tự, của
bánh mì thịt nguội Tám Lự Bàn Cờ, của mâm phá-lấu
trước quán nước mía Viễn Đông góc đường
Pasteur, của tô phở Tàu Bay, của hủ tiếu Thanh Xuân, của
hột gà chiên ốp-la ốp-lết Thanh Bạch, của xe đồ
chua me xoài cốc ổi ngâm nước cam thảo vàng lườm
quết chút muối ớt ở mấy cái ngã tư ngã
năm ngã sáu ngã bảy, của trái dừa xiêm góc đường
Hùng Vương vạt dao ba nhát ngọt lịm như có hơi thở ai thổi
mát suốt cả ruột rà...
Ăn
chơi nhậu nhẹt la cà đàng điếm... Bốn bức
tường cấm kỵ gần như muốn đâm đầu
hút đổ cả bốn bên. Ờ ai chắc cũng có một
thời xốc nổi... vậy mà bộ ông bà hộ độ
hay sao, mà ngày ngày vẫn lặn lội chui vô chốn cửa-khổng-sân-trình
để dùi mài kinh sử !
Bởi
vậy Sài Gòn làm sao quên. Sài Gòn còn nữa chớ. Còn
Văn khoa cũ góc Lê Thánh Tôn, Văn Khoa mới cuối đường
Cường Để với giảng đường rộng minh mông
và dãy hành lang hun hút gió, còn gốc phượng già rũ
bóng lên cái quán cà phê sinh viên bàn ghế lỏng chỏng
và những bao thuốc lá chi chít những câu thơ bất
chợt, ném vội vào thùng rác trước khi bỏ đi. Sài
Gòn còn mấy lớp hè bắt chước giọng Parisien ở
trụ sở Pháp Văn Đồng Minh hội. Sài Gòn uốn
lưởi hao-đu-you-đu với mấy cô thanh nữ mắt xanh
tóc vàng của ông Kennedy gởi qua theo chương trình Peace Corps ở
hội Việt Mỹ. Sài Gòn còn những đêm đại học
xá Minh Mạng thức trắng mắt mùa thi, học bù học dồn học
rút vì mấy tháng đầu năm còn mãi rong chơi, chồng cours
quay ronéo từ đầu khóa tới cuối khóa chất đống trong góc
phòng ám bụi, đến chừng lục ra đọc lại thấy lạ hoắc
như đọc kinh phạn, văn học Lý Trần trộn với văn chương
La Hy lợn cợn như ly cà phê pha vụn uống lúc 3 giờ khuya, gói
mì Nhựt Bổn bốn giờ sáng nấu trong lon sữa guigoz ăn xong vụt
bỏ...
Sài Gòn của ba năm học
làm thầy mà lòng thì cứ lung lăng cái kiểu học trò
hoang đàng chi địa...
5 năm Sài
Gòn theo-thầy-học-đạo chính tà bất kể nghĩ lại
được bao nhiêu gắn bó ngoại trừ cái mớ hổ
lốn đếm vuột mấy đầu ngón tay của những
mối tình une-certaine-rencontre theo kiểu Françoise Sagan hóa ra cũng chỉ
như chiếc bản lề cho 10 năm Rạch Giá.
Rạch Giá, tháng 6 năm
70.
Tôi tới Rạch Giá lần đầu
vào một chiều mưa tháng sáu. Cơn mưa hè bất chợt trùm
lên phố xá cái vẻ lướt thướt buồn thiu. Bỏ Sài Gòn
về Rạch Giá, tôi mang tâm trạng của kẻ bị biếm giáng về
miền đất trích. Phố xá gì đi-lên-đi-xuống chưa hụt
một làn hơi đã trở-về-chốn-cũ chẳng bù với thủ
đô chạy bù đầu mà ngó đâu cũng chẳng thấy tới
đâu. Xế tối, sau khi trình diện nhiệm sở mới nơi trường
trung học cất đâu không cất cất ngay giữa chỗ đồng không
mông quạnh, tôi buồn tình ghé lại ngôi quán lộ thiên
bên bờ con sông nhỏ chảy chui ngang cây cầu đúc đổ
ra cửa biển. Con sông chiều mưa, nước đục. Gọi chai bia
33, đốt điếu thuốc quen tay, thả khói hoang mang ngó mấy về lục
bình trôi vật vờ mà lòng cứ muốn ngâm ngang mấy câu nhật
mộ hương quan với lại yên ba giang thượng... Vĩnh Long thì khỏi
kể, Sài Gòn đâu dễ quên...
Vậy
mà, ba mươi mấy năm sau nghĩ lại, sao Rạch Giá lại chiếm một
chỗ quá lớn trong lòng tôi ...
Khởi
đầu vậy đó... kiểu người-dưng-nước-lã !
Vậy mà rồi nỗi nhớ dằng dai tới
vậy sao !
Ờ , vậy đó
...
Rạch Giá, có phải khởi đi
từ chiếc cổng tam quan như một lời chào hỏi vừa trịnh trọng
vừa thân ái. Khu sân bay Lạc Hồng nhỏ xíu bốc bụi mù
trời mỗi lần có mấy chiếc L19 đáp xuống vội vã, rồi
lại mù bụi vội vã cất cánh bay lên, chai bia con cọp không
đá uống với tên bạn phi công ngay trên phi đạo, dưới
bóng mát của thân máy bay từ căn cứ Bình Thủy bay qua một
buổi trưa cuối năm không hẹn, rượu không đủ say mà
chính chai bia uống dở nửa chừng của nó bỏ lại khi lệnh hành
quân cấp tốc bốc nó bay lên lại làm dụi mắt, bụi cay hay
mắt cay, vậy rồi mình có gặp lại lần nào nữa không
hả T., Rạch Giá có phải là con đường trải sỏi
rộng không quá tầm tay, hai bên là hai hàng khuynh diệp dẩn vào
căn nhà nhỏ quét vôi xám cất theo lối biệt thự song lập,
nhà được chia làm nhiều phòng, mỗi phòng chiếm ngự một
tên độc thân, chia nhau tiền nhà và chia nhau cả những niềm vui
độc-thân-tại-chỗ. Ở đó, những đêm rằm, con trăng
tẩm màu xanh ngọc bích, có tiếng đàn tây ban cầm chơi
nhạc cổ điển của tên bạn tài hoa, năm ngón tay bấm
vuốt búng khảy trên sáu sợi tơ đồng có lúc như
làm rung rinh cả bóng trăng in trong tách cà phê đen đậm, dưới
gốc những cây táo tàu sai quả, đôi khi còn có cả những
tiếng ca huyễn hoặc của một loài ngư nữ lên cạn.
Rạch Giá vui chân theo con lộ thẳng tắp
tới Cầu Ðúc, ngang qua mấy cái ngã tư ngã ba gọi tên nghe
ngồ ngộ, ngã ba Am Ông Ðịa, ngã tư Xả Mai ... quán
là một căn nhà vách ván lợp tôn, đồ nhậu thì tạp
nhạp, mấy cô chiêu đãi nghe đâu từ mấy miệt giặc giã
chạy dạt về, bia rượu mạnh uống tràn sau những giờ dạy mệt
đừ, đêm tỉnh lỵ đèn vàng, bình yên như một ốc
đảo giả tạo giữa sự xâm thực không ngừng của sa mạc
chiến tranh, cả bọn một đám từ xa đổi về, không gia đình
thân thích, giục nhau uống cạn những ly đầy khi thành phố sắp
sửa giới nghiêm và tiếng đại bác dội về như tiếng
trống cầm canh của một thuở thanh bình đã xa như huyền thoại...
Rạch Giá đi chợ có nhà lồng bán đủ thứ thập vật,
từ cô hàng vải duyên dáng tới xề bánh hỏi thịt quay,
tôm càng xanh nướng lửa than thơm ngát, nhúm rau sống tươi
rói như mới hái ngoài vườn. Khu chợ cá xây kiểu nhà
sàn lâu ngày dậy mùi tanh từ mỗi góc lan can, chiều chiều
ghe cào ghe xịp đổ lên hàng tấn cá biển hàng đống
sò huyết, ngôi nhà gạch cũ kỹ nằm khuất trong một con
hẽm có những vì tường sậm đỏ, 4g chiều vắng im, mấy
người bạn trọ chung còn bận dạy lớp, chiếc áo bà ba hở
nút cổ, ngồi thu hai chân lên càm, quạt cái bếp than chiều,
hai gò má đỏ hồng lấm tấm mấy giọt mồ hôi, lật trở,
đợi từng con sò hả miệng, gia thêm chút muối tiêu, vắt
thêm giọt chanh... anh thử đi để biết hương vị quê em... Rạch
Giá lông bông những chiều có nắng quái, thứ nắng vàng
hực hắt lên từ một mặt trời sắp lặn. Tên bạn xách
Honda tới đèo nhau chạy loanh quanh phố chợ đợi giờ cơm chiều.
Phố xá chợ búa đã dọn dẹp xong, bạn hàng hối hả
thu tóm ra về, bỏ lại những quầy hàng phủ bạt, kệ sạp
lỏng chỏng, xe cây, xe xích lô gác mũi nằm chỏng chơ, rác
rưới bay vơi vơi như những lá phướng rắc đường, dưới
bờ sông buổi sáng chen chúc ghe thuyền bây giờ còn trơ lại
cái bãi nước trống không. Cảnh chợ chiều mang một vẻ đẹp
buồn chi lạ. Cái lạ đến từ cảm giác hụt hẩng trước
sự thay đổi đột ngột và đối nghịch đến dị thường.
Xe chạy vụt vặt qua Cầu Sắt, ván gổ kêu đau... Rẻ trái,
ráng chiều đỏ ửng trước mặt. Biển lấp lánh thủy tinh.
Sóng vổ ngàn năm vào kè đá. Tiếng dội buồn, nhàm
chán như tiếng khuê phụ oán. Bỏ xe, leo lên ngồi trên bực
thạch. Áo phanh nút ngực, gió vịnh thổi phần phật tranh với
nhịp tim, biển dậy mùi muối mặn pha với mùi rong tanh tanh... Ngày
muốn ngừng. Ðêm đâu đó bỗng khều vai thân mật. Mặt
trời mệt lã nhún mình vào lòng biển còn cố nhoi lên
vung vẩy những tia sáng cuối cùng. Chính những tia nắng cuối
cùng đó, thứ nắng quái chiều hôm đó, bỗng làm rực
rỡ cái vẻ tàn phai của một ngày vừa hết, ngay lúc đó,
cả đến những phế tích cũng trở nên lộng lẫy. Bức tường
đá chắn biển bị sóng đánh nứt nẻ như sắp sụp
tới nơi bỗng đẹp u uất như một vết thương trí mạng.
Ngoài xa, Hòn Tre thu mình lại thành một khối im lặng đen.
Rạch Giá còn gì nữa...
5 năm đầu dạy học ở trường Nguyễn
Trung Trực. Ngôi trường có con đường xẻ ngang đến lạ
đời, bên nây năm sáu dãy lớp cất ngay bon thẳng thớm như
trại gia binh, bên kia nghêng ngang hai dãy lầu đâu góc hình thước
thợ, con lộ đá nằm tỉnh bơ ở giữa, đứng bên ni ngó
bên nớ kêu ơi ới cứ như gọi đò qua sông. Vậy mà
cũng lạ, trường vẫn ăn nên làm ra, thầy dạy trò học
vẫn đâu ra đó. Sáng sáng chiều chiều áo trắng vạt
ngắn vạt dài vẫn tung tăng như đàn bướm vở gió...
Ờ như đàn bướm lượn ! Thử
tưởng lại giữa trưa một ngày nắng tốt. Nắng đổ tung
tóe trên mái tôn, trên đường nhựa, mọi thứ như thiu
ngủ, cả đến hàng cây lá thơm cũng trân mình đứng
bóng, tiếng kẻng tan trường bỗng giựt dậy, ngay khi âm vang còn
chưa tan hết, một thứ âm thanh khó tả của hàng ngàn cái
miệng mở ra cùng một lúc với hàng triệu đề tài đã
bị nhốt kín trong suốt buổi học sáng ... rồi là từ mọi
cửa lớp tuôn ra cái dòng suối trắng, chảy miên man vào cái
biển nắng lung linh để thoáng chốc, khi những tà áo vừa bắt
được nhịp gió, tất cả vụt bay lên, chấp chới bay
lên, ờ như một đàn bướm lượn.
Rạch giá thuở đó đẹp lãng
mạn làm sao trong con mắt phóng đãng của một gã tuổi trẻ
từ chối bị nhốt kín vào một thứ nghề nghiệp đầy những
khung cửa hẹp.
Rạch Giá của... nhớ
em, xưa áo trắng. Tóc xấp xả bờ lưng. Sách vở
đời chưa nặng. Gái nhỏ buồn không dưng.
5 năm làm thầy, hồn vẫn lung lăng cứ muốn
đạp tung cửa lớp...
Vậy mà
Rạch Giá vẫn ép mình vào khuôn khổ. Em ươm sầu
thiếu nữ. Buồn con gái dậy thì. Tôi hiền như
thú dữ. Nằm gậm nhắm lương tri.
Đến giờ, sau bao nhiêu dâu bể, tôi còn
có thể tự hào được không em, đã giữ cho
cái quan hệ thầy trò còn mãi là biểu tượng
cao quí giữa một thời kỳ đã có quá nhiều
niềm tin bị đổ vở. Bên trong hàng rào của trường
sở, chúng ta bằng mọi cách, đã dựng lên tấm
vách ngăn ý thức để chu toàn cho được bổn
phận và trách nhiệm, dù không phải dễ dàng.
Rạch Giá dẫu có chút xót xa vẫn
vui, vẫn bằng lòng.
5 năm phấn
trắng bảng đen với những gò ép khuôn thước, sao hồn còn
đủ mộng để thoát ra cái họa hóa thạch của tuổi nghề...
Kể ra cũng may, bên ngoài cửa
lớp, Rạch Giá mở ra trước mắt tôi một thế
giới mới vừa bí ẩn vừa quyến rũ lạ lùng.
Cửa biển thì lầm thầm hoài không biết mỏi
tiếng gọi của một cõi mênh mông chưa từng chạm
mặt. Đảo xa xôi thì tên gọi nghe lạ hoắc lạ huơ.
Hòn Rùa, hòn Sơn Rái, hòn Củ Tron, đảo Phú Quốc mới
nhắc cứ tưởng vọng âm đâu từ cái thời
Gia Long còn bôn ba tẩu quốc. Phía đất liền, tên
gọi những Miệt Thứ thì huyển hoặc như cả cái
cõi U Minh huyền bí mà vùng đất mang tên.
Ngày tháng bó chân trong trường lớp,
đầu óc cấm cố trong nghề nghiệp, còn kẽ
hở nào hơn cho những giấc mơ ?
Như vậy mà Rạch Giá đã hào phóng mở ra
cho tôi những lối thoát. Cuối tuần, lễ lạc, cùng
với vài ba tên học trò thân tín, chiếc áo ấm
mỏng khoác vai, thêm cái túi vải lận thêm bộ quần
áo cũ, vài ba ổ bánh mì, thêm một hai hộp cá
khô, thầy trò chạy vội ra Bến Cảng, ỉ ôi ghe cào
ghe xịp, quá giang chạy tuốt ra mấy hòn đảo vắng người...
Rồi trời xanh, mây trắng và biển cũng xanh lơ. Rồi
nắng vàng, cát trắng và lòng người ở đảo
cũng vàng ròng. Chơn chất, hào phóng ... thả mặc cho thầy
trò lang thang đầu bờ cuối bãi. Thời đó, ở
đâu cũng đầy những luật lệ. Nhất là
trong những thành phố, thị trấn hay cả làng mạc xa xôi.
Dĩ nhiên đó cũng là điều dễ hiểu, kể
từ khi con người chịu hợp lại sống quây quần.
Ra đường phải giữ lề phải. Mười giờ tối
đêm đêm là ra-dio nhắc nhở ... xin hạ bớt âm thanh
vừa đủ nghe để khỏi làm phiền lòng hàng xóm.
Dĩ nhiên là giọng cô xướng ngôn nghe âm ái như dỗ
ngọt bên tai, mà điều ai nhằn nhện là có đường
thấy thầy phú-lít gỏ cửa ... Lại còn thêm cuộc
chiến tranh quái gở mà đám người cuồng tín
và vong bản từ miền bắc thì thụt đâm đầu
vào giết chóc tàn phá miền nam nên luật lệ phải
nghiêm nhặt là cái chắc. Bởi vậy mà lâu rồi,
đêm ở đây không còn là đêm của vũ trụ. Đêm
được tính bằng sự an toàn của làng xóm. Đêm
bị rút ngắn lại theo nhu cầu của tình thế. Sau 12 giờ
khuya làm gì thì làm, bê trễ cách mấy cũng phải tìm
cách về nhà, bỏ lại phố phường đường
xá đồng ruộng... cho chó mèo chuột cống chuột
lắt chuồng chuồng châu chấu rong chơi hay phá phách
tùy ý. Kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bởi vậy
mà thích hay không người miền nam vẫn phải chấp
nhận sự thiệt thòi này. Tôi cũng vậy, đã
từ lâu, lâu lắm, có vui chơi la cà cách mấy, cuộc
vui dẫu đang hồi rộn rã tới đâu, hơi rượu
có đang bốc lên tới tận mây xanh, lời tình tự
có đang lâm ly cách mấy... cũng vẫn phải hối hả
dằn ly hay gở tay quấn quíu rồi mạnh ai về nhà
nấy... cho kịp giờ giới nghiêm !
Vậy mà trên những hòn đảo không tên nằm
choi loi trong một góc nhỏ của đại dương, lần đầu
tiên tôi được sống cái cảm giác tự do tuyệt
đối mà Krishnamurti đã rao giảng trong sách Tự Do Đầu
Tiên Và Cuối Cùng. Ở đó, ngày như đêm, bãi
cát mênh mông nối liền biển cả và rừng núi,
không một bóng người kể cả một tiếng chim,
nghĩa là vắng bặt mọi thứ ràng buộc của trần
thế, ngay cả dấu chân ta rồi có rồi không, có
ta, không có ta, trời đất có kể gì ta. Mặc ngày
mặc đêm, mặc tháng mặc năm, những lượn sóng
vẫn triền miên vổ rì rào, rì rầm, ngày đêm,
đêm ngày, tuần tuần, tháng tháng, năm năm, mười
năm, trăm năm, ngàn năm, có tôi, không có tôi, sóng vẫn
vổ hoài vổ hủy lên bãi cát, ghềnh đá ... Thiên
nhiên vô tận, thời gian vô cùng. Tôi là ai. Ta là gì
trong cái cõi vô thủy vô chung. Nắng lên, trời biển
huy hoàng, bao la tới muốn ngộp thở. Ngày hụp xuống
khỏi chân trời, vòm đêm nhung nhúc sao hôm, nằm ngửa
trên cát, há miệng thở hơi đầy, nghe cả trời
sao chạy tọt vào cổ họng, vừa thấy hồn bỗng
thênh thang vừa thấy xác thân bỗng nhẹ hẩng. Rồi
bỗng thấy như muốn chảy nước mắt khi thấy
mình ràn rụa hạnh phúc. Còn gì ràng buộc, có gì ràng
buộc, vậy rồi từ đâu bỗng dậy lên
một ý thức tự do đến tuyệt cùng. Mọi thứ,
quần áo, tên tuổi, nghề nghiệp, bổn phận,
trách nhiêm, tôn giáo, phe phái ... mọi thứ mọi điều
rồi chỉ là sản phẩm của xả hội, của số
đông, được đặt ra, vô tình hay cố ý, chỉ
để giam giữ con người trong những nhà tù của chính
mình, để từ đó đau khổ hạnh phúc rồi
ra chỉ là những hệ lụy mà con người đã bày
ra rồi làm khổ chính họ. Ý thức tự do tuyệt
đối có phải là bước đầu của ý thức
giải thoát ? Những câu hỏi được đặt ra, rồi
có được trả lời thích đáng. Hay cũng chỉ là
mãi mãi những vấn nạn... tự muôn đời !
Dẫu vậy, những lần ở
đó, những bình minh tựa cõi hồng hoang, những tà
dương y đời tận thế... một mình giữa cõi
bao la đã cho tôi những cảm giác tuyệt vời mà cuộc
sống nơi đất liền chưa bao giờ ban phát. Trải nghiệm
đó đã cho tôi thấy mình hạnh phúc. Hạnh phúc ? Hạnh
phúc lớn lao và nhỏ bé, hạnh phúc bí ẩn và lồ
lộ, hạnh phúc khó tìm và dễ ợt, hạnh phúc xa
xôi và hạnh phúc gần xịt, trong tầm tay, ngay kế bên,
sao từ khai thiên lập địa người ta vẫn mãi đi
tìm !!! Có phải hạnh phúc là cái bây giờ, ngay lúc này,
cái mình đang có, đôi khi đơn giản và nhỏ nhoi. Nhỏ nhoi
và vô nghĩa như kiểu con dã tràng lắng quắng xây
ổ trên cát, đâu biết chút thôi sóng biển ùa
vào, xóa sạch... nó lại lăng xăng lính quính tha cát... tha cát..
sóng biển lại xóa sạch... vậy mà hỏi dã tràng có
hạnh phúc không, hạnh phúc ngay cái lúc tưởng mình đang
xây tổ ấm cho chính mình. Hạnh phúc đó chớ, mặc
dù ...
Có phải của trời cho
vô tận của mình riêng như ai đó đã nói. Vấn
đề là tự mình có phát hiện được cho chính
mình. Ngay bon. Đúng lúc. Và như vậy, có phải hạnh phúc
và khổ đau đã nằm sẵn trong từng sát na hiện
thế. Tìm đâu cho xa. Tìm xa đâu cho khó. Chính từ ta
trong ta từng giây từng phút một. Lạc thú ở trong ta,
từng ngày ta sống, từng việc ta làm, mỗi mỗi
đều chứa sẵn trong đó hạnh phúc và khổ đau.
Ai biểu chụp bậy thì ráng chịu !
Có phải từ đó tôi đã tìm ra được
sự thăng bằng khi đong đưa trên sợi giây chăng ngang
giữa đời riêng và xã hội, giữa thúc bách của
nghề nghiệp và bung thùa của cá tính.
Vậy đó mà tôi sống cái đời
làm thầy của tôi một cách hồn nhiên như mây thì
bay đi, mặc dù ...
Vậy đó
... những lần theo bè bạn hay học trò rong chơi xuống tận
những nơi gọi là Miệt Thứ chỉ vì nghe cái câu ca
dao sương-khuya- ướt-đẫm-vườn-bầu-em-về-Miệt-Thứ-bỏ-sầu-cho-ai
thấy sao mà trắc trở đến mũi lòng đến
nỗi muốn về qua cho biết. Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ
Năm ... Xẻo Rô, Tắc Cậu, Đường Xuồng ... sông
rạch chằng chịt, rủ nhau cởi giỏ vọt lướt như bay
trên mặt nước đục lờ, leo qua mấy chiếc cầu
tre lắt lẻo, xăn quần men theo những vạt tràm sủng nước,
vừa đi vừa sợ tên bay đạn lạc vừa nghĩ ngợi
đến công lao của những người trăm năm cũ ...
Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
...Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi, đốt lửa giữa
rừng thiêng... (*)
Ờ cái thuở của những người tay rìu
tay rựa, dám bỏ mảnh đất đã yên nơi yên chỗ
chèo xuồng ba lá dấn mình vào vùng đất dữ,
lau sậy, rắn rít, cọp beo cá sấu và nhất là thứ
sương lam chướng khí quậy lên từ những cánh
rừng trầm thủy. Phải kể là nếu không tứ
chiếng thì cũng phải là tay yên hùng mới làm được
cái chuyện nghiêng đồng chắt nước đốt
rừng làm rẩy trăm cay ngàn đắng đó. Bởi vậy
mà về đó rồi mới thấy thán phục rồi
yêu mến làm sao vùng đất quê mùa mà thói quen hào
phóng hẵn đã phát sinh từ tinh thần thượng võ
của lớp lớp người đi khai phá.
Sướng lắm.
Rượu đế của mấy ông làng ông xả rót từ
cả can nhựa, đổ vô thau rồi pha với nước dừa
xiêm, ly cao cẳng thì chặt cụt cẳng để không đứng
thẳng được mà cứ phải chuyền tay nốc cạn
ly đầy rồi rót đầy ly cạn ... rắn rằn ri cóc
nấu cháo thịt trắng tươi như thịt gà xé phay, thịt
trúc nấu cà-ri, cá lóc tát đìa còn nhảy đùi đụi
bọc sình nướng trui, cá sặc để vẩy bỏ nguyên
con vô chảo mở sôi sùng sục nhả nhớt lềnh bềnh,
rau sống rau thơm hành ngò xả ớt tía tô húng thơm húng
lủi... thì thôi ê hề, cứ vói tay ra ngắt là thơm
ngát cả bữa... đào-viên-kết-nghĩa. Cả một nghệ
thuật ăn uống rặt mùi nam-kỳ- quốc. Lại nữa
lắm khi tửu hứng, chụp lấy cây guitar khoét phím sâu
hoắm tích tịch tình tang sáu câu vọng cổ ôi sao mà
mùi tận mạng. Say rượu hay say tình người ai biết
được đây !
Vậy đó ! Rạch Giá vậy đó.
Học trò học thì dạy. Rượu mời thì uống. Tình
phải điệu thì yêu. Đời sống như bữa tiệc
trần gian, nếm hoài không hết vị. Đời vui biết
mấy. Lương tháng không đủ xài mà sao vẫn sẵn
để tiêu hoang bất kề. Bây giờ mà có muốn
làm bảng kế toán lại cũng chẳng biết cộng trừ
nhơn chia sao cho ra lẽ. Canh bạc đời bỏ ra có chút vốn mà
lợi thu về đếm mãi chẳng lơi tay.
...................................
Vậy
đó mà rồi dâu bể cho đành ! Vậy đó rồi
xảy ra cái biến cố tháng tư. Tôi ba mươi tuổi chết không
mồ. Giữa trái tim nồng, nhát chém khô...
Sau ngày định mệnh đó, trường đóng
cửa. Học trò tứ tán. Tôi khăn gói vô ... tù cho đúng
điệu hòa-hợp-hòa-giải của" đảng và nhà nước
". Tù ? Cải tạo ? Ờ mà nhớ mà nhắc làm chi cái
chuyện tù-cải-tạo vừa ngây ngô vừa gian ác đó
cho nó thêm tủi hổ vong linh ông bà tổ tiên đã dày
công mở nước và dựng nước bằng tinh thần
đại-nghĩa- lấy-chí-nhân-thay-cường-bạo. Lịch sử
gọi là mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc bị
hạ màn cái rụp. Để dựng lên tuồng mới, đào
thương với kép mùi thì không có vai mà hề thì ôi
thôi lũ khũ ! Quên đi, quên cho nhẹ bớt phận người
!!!
Ra tù. Rạch Giá trở thành nơi dung thân dù vẫn là
một thứ ngục tù không có hàng rào gai kẽm. Ý định
về quê khựng lại với lời nhắn cản của cha. Làng xóm
hẹp té với những đòn thù ti tiện. Tôi ở lại với
Rạch Giá, làm tên du thủ thứ thiệt. Vác mướn, bưng hồ,
đội gạo, cái gì cũng làm, ngoại trừ cái chuyện
gọi là chạy mánh thì chịu thua, hổng biết sao mà cứ
ngại cái kiểu lanh tay lẹ miệng. Bộ đồ lính từ thời
Thủ Ðức nhuộm đen mốc thếch. Tay chân trầy xước và cái
đầu thì trầy trật những xung khắc oái ăm. Rạch Giá tuôn
ra đường mua bán mọi thứ của cải vốn được cất giữ
lâu năm làm gia bảo, nhưng có một thứ mà người ở đó
không bao giờ chịu mua bán. Ðó là sự hào sảng phát sinh
từ giòng máu của tiền nhân đã xẻ rạch đào mương
đắp đập xô lùi biển cả.
5 năm cuối ở Rạch Giá. Cái nhớ của tôi dừng lại
ở những tấm lòng hào sảng đó.
5 năm cuối ở đó, thằng tuổi trẻ vỡ mộng, tên
thầy giáo thất chí là tôi bỗng khám phá ra một điều
tưởng chỉ còn trong sách Quốc-văn-giáo-khoa-thư-lớp-đồng-ấu
: những tấm lòng vàng.
Từ chợ
Rạch Giá chạy theo đường liên tỉnh ngược về hướng
Cần Thơ, khoảng 9 cây số thì tới một cây cầu có tên
gọi rất ngộ, cầu Quằn. Ngay trên cái dốc cao bên nây cầu,
về phía Rạch Giá, rẽ phải là một con lộ đá, không,
phải gọi là lộ đất trộn đá mà mỗi bận mưa xuống,
đất theo nước mưa xói mòn chảy trôi về hai phía lề
thấp, phần còn lại thì hóa thành bùn non, dẻo nhẹo đeo
dính những bước chân bộ hành hoặc những vòng bánh xe
qua lại. Sau năm 75, năm khi mười họa mới có một chiếc xe hơi
gập ghềnh bò qua, còn thì đa số là xe lam ba bánh chở khách,
hoặc là xe đạp chạy sì sụp, lách, né... chẳng khác gì
thi xe đạp lái khéo. Nói vậy chớ con đường đất đá
chạy lúp xúp vòng vo theo bờ sông, chui dưới tàn lá những
bụi tre già phờ phệt khói bụi, ngang qua những mái tranh thấp lũm
chũm, những bụi hoa không tên nở dại suốt hai mùa mưa nắng
vẫn mang một vẻ đẹp gì ngồ ngộ. Chạy quen trên những phố
xá đông người, len lách kèn cựa qua lại những ngã tư
ngã năm, ngó đâu cũng thấy xi-măng với gạch ngói riết
rồi lòng cũng đâm ra hục hặc với những thứ không đâu.
Có dịp quày trở lại, đi qua những ngõ tre lối trúc mới
thấy cái vẻ an nhiên tự tại của cảnh vật và người
nơi đó. Giặc thì giặc, miễn bom đạn chưa tràn tới,
thì làng quê vẫn có cái vẻ êm ả của một mặt nuớc
ao bèo ngày lặng gió. Những buổi trưa hè, ghé lại đụt
nắng dưới bụi tre lão bên đường, ngó lá tre vừa lắt
lay trong bóng nắng vừa kêu lất phất theo chỉ một làn gió nhẹ
khảy qua thấy đời sao mà ơi...bình yên quá đỗi ! Rồi
lại muốn chùi mình xuống nằm dài lên lớp lá tre khô
rục đó mà ngủ một giấc cho...quên-mẹ-nó-đời ! Nhưng
mà có ngủ được đâu, những ngày tháng đó !
Những ngày tháng đó tôi còn
phải chạy thêm cho hết con đường dài đâu cỡ ba bốn
cây số để tới một khu chợ có tên là chợ An Hòa.
Chợ không có nhà lồng mái lợp, chỉ có mấy cái sạp
gổ che bằng mấy tấm vải bạt sút sổ, thêm mấy cái thúng
mẹt rổ rá chen nhau xúm xít trên một khoảnh đất rộng không
quá mươi thuớc vuông. Ðối diện là một dãy tiệm buôn,
cũng lụp xụp như mọi dãy phố tiệm ở miền quê. Cái
thì bán chạp phô. Cái thì bán vải. Cái thì kê vài
ba cái bàn gổ làm tiệm nước, buổi sáng cũng hủ tiếu
bánh bao cà phê xíu mại. Người ra kẻ vô cũng ì xèo...
Qua khỏi chợ chừng trăm thước là một ngôi trường nhỏ,
xây từ hồi nào không biết mà nền kê đá tảng cao
gần nửa thước tây, mái lợp tôn, ngay cổng có cây
bả đậu già khụ, giữa trưa rợp bóng cả nửa sân
trường. Ở đó, tôi đã gặp và đã sống dưới
tán che của một thân cổ thụ. Và cả một nhánh liễu
dẫu đã xa rồi một thưở chương đài.
Bác sáu M. là một người đàn
ông rặt bộ bình dân, trạc tuổi ba tôi lúc đó.
Dáng dấp xuề xòa, cười nói hồn nhiên, hay mặc
bộ py-ja-ma vải sọc ngay cả trong nhà hay ngoài ngõ. Ông sống
chắp nối với một người đàn bà tàu và
có hai con, một gái một trai. Khi đã thân thích, có lần
bác tâm sự với tôi, bác là con trai độc nhất
của một người mẹ góa bụa sớm, nhà nghèo, nên
chỉ được cho học tới lớp ba đã phải xô ra đời
tập kiếm sống. Vậy mà nghe bác sáu nói chuyện,
người ta như thấy một người đứng tuổi
ăn nói hùng biện, lý lẻ sâu sắc, câu chữ rạch
ròi không thua bất cứ một ai kể cả những tay khoa
bảng bằng cấp đeo đầy mình. Cho tới tháng tư
năm bảy mươi lăm, bác là chủ tịch nghiệp đoàn xe
lam. Chắc số trời dung ruổi bác gặp tôi rồi
không biết do đâu mà đem lòng cảm mến. Số là
hai năm sau khi tù về, nhà nước vốn chủ trương ngu
dân nhưng cũng ra điều làm giáo dục, vẫn cho mở
lại cửa trường, dĩ nhiên là với chương trình
thay đổi hoàn toàn. Rồi vì thiếu người dạy
học cho ra vẻ xôm tụ bèn quơ quào thêm đám tù gốc
giáo... cho trở lại cái nghề cũ. Tôi cũng được
hưởng lây... sự vinh quang đó. Nhưng hẵn là do cái
liên hệ ruột thịt với quá nhiều tàn-dư-chế-độ-cũ
nên không được trở lại trường-cũ-tình-xưa.
Mà bị đưa vào một ngôi trường nhỏ ở ngoại
ô Rạch Giá. Bởi vậy mới có chuyện ba sinh hữu
hạnh, tôi được gặp bác sáu. Từ đó, nẩy
sinh ra một mối giao cảm lạ lùng. Một bên, một người
già đã tới tuổi sáu mươi, một bên, còn trai
trẻ, qua năm ba bữa cà-phê, năm bảy hơi thuốc Samit ... đã
coi nhau như ruột rà. Từ đó, ông theo tôi như cái bóng
hộ mạng, che phủ cho tôi qua hết mọi tai ương. Tù về,
tôi nghèo rớt mồng tơi. Mượn được chiếc
xe đạp cà tàng, sáng sáng còng lưng đường trường
xa từ chợ Rạch Giá vô tới An Hòa, vừa tới trước
nhà bác ngay đầu chợ, là như đã canh sẵn, bác
chụp vội cái áo phủ ngoài, thò tay lấy bao thuốc lá
trong cái thùng bán thuốc lá lẻ của bác gái, bước
vội ra chặn tôi lại rồi khoác tay ... vô thầy. Vừa
nói vừa rẽ ngoặt vô cái tiệm nước của chú
ba ... kế bên. Vậy rồi, bác một ly phé-nại, tôi
một cốc xây-chừng, dậm thêm khói thuốc lá
Thái Lan vốn là một thứ de-luxe thời buổi ấy,
bữa chuyện thời thế, bữa tràm qua thế thái
nhân tình, bác cháu đối ẩm, tương tri như tự
đời nào. Có bữa thấy tôi lau mồ hôi nhỏ giọt,
mặt mủi xanh lè, lại còn lớn tiếng kêu phổ ky
gọi nấu cho tôi tô hủ tiếu. Trời, thời buổi
ấy sáng gói xôi còn không dám ăn thì tô hủ tiếu
bốc khói thơm phức quả là một thứ xa xỉ phản-cách-mạng.
Vậy mà ông Mạnh Thường Quân ngay lúc cả nước
đang hồ hởi bò lết lên chủ nghĩa xả hội
đã cho tôi bất kể. Vậy đó, vậy đó.
Bác sáu bảo bọc tôi như cha với con. Vốn có uy tín với
làng xóm cũ thành ra bác cũng có thế với đám phường
khóm mới. Dựa vào đó, mọi động tịnh của đám
công an địa phương xỉa xói vào tôi đều được
bác dang tay ra hóa giải. Có khi còn bỏ tiền ra đãi đằng
đám cốt đột để mua cho tôi sự bằng an.
Ngày qua ngày, bằng sự bao che của một bậc trưởng
thượng như bác sáu, tôi qua lại riết rồi được
tin cậy trở nên thân tình với hết đầu trên
xóm dưới. Nay chỗ này mời bữa cơm đạm bạc,
mai chỗ kia bữa giỗ linh đình. Bà con chòm xóm tin cậy
nơi bác rồi cũng coi tôi như thân thuộc. Vậy đó,
tháng thêm tháng, hai bác cháu càng lúc càng gắn bó. Bác
đi đâu cũng kéo tôi theo. Cúng đình, cúng miểu, cưới
hỏi, tang ma, giỗ chạp chỗ nào có bác là không thể
thiếu mặt tôi. Có lần bác nói thẳng với tôi
chỗ này họ nấu ăn ngon miệng lắm, thầy đi
với tôi cho biết. Chắc bác nói khéo cho tôi no bụng
khi biết tôi đang gồng mình nhịn nhọt với đồng
lương chết đói và nhất là với số vốn
liếng chữ nghĩa hết thời không đong được
nửa lon gạo mọt. Vậy rồi, có lần thấy tôi
quá túng quẩn, nhằm kỳ bãi trường, bác sáu kêu
tôi ghé nhà rồi cầm xấp tiền mới tinh biểu
lương hướng vầy làm sao thầy sống mà dạy học.
Tui cho thầy mượn 3000 đồng (sau khi đám cầm quyền
mới phù phép biến 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa
thành 1 đồng Cộng Hòa Xả hội Chủ Nghĩa) làm
vốn, về hỏi đường tìm cách mua bán với người
ta. Rồi chừng nào có ăn gom vốn trả lại cho tui. Trời,
giữa thời buổi mánh mun gạt gẩm nhau từng cây kim
sợi chỉ, tự dưng xách tiền cho mượn không chờ
một lời hỏi vay mà cũng không một tờ giấy
lộn làm bằng, tôi sững sờ đến muốn ú
ớ. Ở đời có vậy sao ? Thời buổi xả hội
chủ nghĩa mà có vậy sao ?
Mà
có thiệt !
Bác sáu ơi con
nhắc ra đây như một nén hương lòng, thắp lại
chút kỷ niệm, chút xíu kỷ niệm chẳng đáng đâu
vào đâu chớ lấy gì mà cân đo đong lường
được hết ân tình ân nghĩa, vốn chỉ là khái
niệm trừu tượng chẳng hình thù không màu sắc.
Không màu sắc mà tô son dặm phấn lại cho đời.
Không hình thù mà lại lồng lộng bóng mát khi trời
làm khô hạn. Chữ nghĩa, dao cọ rõ là đành bất
lực. Làm sao con viết, vẽ, ra được cái mênh mông
của tấm lòng bác cưu mang. Không chút máu huyết ruột
thịt, chẳng họ hàng thân thích, không gần gũi xóm giềng,
chẳng mảy may lợi lộc, vậy mà đưa tay ra vớt,
nghiêng vai ra gánh, đỡ đần cho một kẻ thất thế
ngay khi thú dữ đang đội lốt làm người. Thi ân
bất cầu báo. Làm mà chẳng màng ơn nghĩa. Còn hào
phóng nào hơn hào phóng đó nữa không !
Mà đã hết đâu, thứ ơn nghĩa trời
biển đó. Đến lúc ngặt nghèo hơn nữa, chính
dưới cái bóng phủ rợp đời tôi của bác, tôi
quen biết một người bạn trẻ. Đùm bọc trong tấm
lòng nhân ái của bác, người bạn đã dành cho tôi
và gia đình bốn người một chuyến vượt
biên miễn phí. Miễn phí trăm phần trong khi mỗi đầu
người được tính giá bằng hai lượng vàng.
Vị chi là tám lượng. Tám lượng ! Khi tôi không có
được trong tay một váng vất bụi vàng chớ nói
chi đến lượng. Tôi có mơ không ? Không ! Rồi chuyến
đi suông sẻ ... Rồi... tôi mất bác sáu từ lần
đó. Ở lại bên nhà, cách trời cách biển, tuổi
già đến lúc mõn hơi. Bác sáu bỏ đi chưa nghe được
từ miệng tôi một tiếng cám ơn. Tôi biết,
bác sáu không chờ nghe. Tôi biết bác sáu không cần
nghe. Nhưng ... nhưng rồi làm sao ?... Có những tách cà-phê
buổi sáng, ở đây, khi tuổi đời đã xế,
tôi nhớ ... tôi nhớ lại ... xót xa ... !!!
Vâng con nhớ lại, nhớ lại từng chút, từng
phút một, những khi bác cháu mình qua lại, còn nhau ...
Rạch Giá. Ơi Rạch Giá. Chốn ở
để mà thương chớ đâu phải đi để mà
nhớ. Vậy mà...
Nhớ lắm,
Rạch Giá ơi ! Dẫu đâu phải chỉ có tiếng cười.
Dẫu nhiều lắm, những tiếng khóc. Kể cả,
khóc thầm. Rất thầm.
Rạch
Giá. Nếu người về lỡ ai tìm hỏi bạn. Cho gởi
lời tạ lỗi, dẫu muộn màng. Chén trà khuya, hơi
thuốc đẫm thâm ân. Và tay chuốc rượu nồng
chưa nhắp cạn.
Vậy đó,
Rạch Giá An Hòa, con đường dài chưa quá mươi cây số,
mà nợ nần nhau quá đỗi. Ngày hai buổi đạp
xe, đạp đi đạp về, khi nắng lưa thưa lúc mưa nặng
hạt. Vòng xe lăn trên sỏi đá, buồn hiu. Vòng xe lăn trên
bùn lầy, vùi dập. Và lắm khi còn lăn nghiến trên
nỗi buồn tôi, điệu trái oan. Vâng, giữa khi không
ai chờ không ai đợi, giữa khi mọi mơ mộng bị dìm
chết ngay từ trong trứng nước, nói gì đến chuyện
đèo bồng hoa nguyệt, ngày hai buổi đạp xe cọc cạch,
cọc cạch ... đầu óc thả lỏng chỉ muốn làm cây
lá vô tri. Vậy mà sao thổi lại chi cơn gió lạ làm lay
lắt cọng cỏ đã bỏ xó bên đường. Sao tự
dưng tỏ dạ yêu thương. Ờ sao dưng không đem lòng phủ
dụ. Nép kín trong một góc đời, lánh mặt trong hờn
tủi, mỗi lời nói, mỗi điệu bộ sao ngầm
chứa mỗi yêu thương. Chút ít tiền kín đáo
nhét vội trong túi áo bỏ quên khi biết tôi thiếu hụt.
Chén cơm tấm mẳn nấu vội, chiều mưa bất
chợt giữ chân kẻ trễ đường về. Trưa im
im, phòng riêng trong một góc trường, mấy điếu
thuốc lá lẻ, ly cà phê đá pha sẵn, chiếc khăn tay
thấm nước mát, mỗi trưa nắng lửa để
sẵn góc bàn viết, ngay khi tôi vừa đạp xe tới, dựng
vội vào gốc cây, xoay người bước vào, người
đã chờ người, lặng lẽ như đá vọng phu ... Có
giao ước gì đâu khi ngang trái đã chận kín hết
mọi ngã đời. Vậy mà sao vẫn chờ vẫn đợi,
vẫn cho, cho hết, kể cả cái trân quí nhất đã
gìn giữ suốt một thời con gái. Tội tình chi lắm
vậy trời ! Vậy mà tôi, rồi tôi có làm được
gì đâu để đắp đổi lại chút ân tình
ẩn mật đó !
Cho đến
khi vì thúc bách của thời thế tôi bỏ đi, biệt
xứ. Ở hai bờ đại dương, lặng ngắt tăm hơi.
Năm bảy năm sau, tin xa. Cả nhà chìm tàu đâu đó trên biển
dữ. Xác trôi tấp bờ bãi nào không ai biết. Bi
kịch của cả nước, cộng thêm bi kịch của riêng mình
!!!
Có
lời nào đủ sám hối. Có giọt nước mắt
nào xóa nhòa được vết nám trong một góc tim tôi.
Người ơi, buồn lắm làm sao nói. Nước mắt
mà chi ? Chẳng kịp rơi !
.....................
35 năm làm người dân Việt sống
trên xứ sở đầy ắp tai ương. Chút vui nào cũng
lẫn lẫn chút buồn. Có lần nào, người Việt
vui trọn một niềm vui ?
Có
bao giờ vui trọn một niềm vui ? Câu hỏi dội ngược
vào lòng như một tiếng tức tưởi.
Dẫu vậy, nghĩ lại thêm rồi thấy
ơn nghĩa trùng trùng. Năm năm, mười năm... ngày tháng đếm
tới đếm lui chỉ như một chớp mắt trên dòng
đời miên viễn. Mà sao ân tình của lòng người
bảo bọc với đất đai cưu mang thì đếm hoài không
xuể.
Giờ này cách trời cách biển. Và người,
người thì đã mù mịt cố nhân.
Xin một lần cho tôi được nói hai tiếng
cám ơn.
Ơn người. Ơn đời.
Xin cúi đầu hướng ra đủ bốn
phương tám hướng, vì nghĩ cho cùng có hướng nào
mà không phưởng phất bóng NGƯỜI đã dang tay đỡ
đần tôi, những khi đời trở chứng.
Cám ơn Vĩnh Long.
Cám ơn Sài Gòn.
Cám
ơn Rạch Gíá.
Vẫn còn
hoài đó, từng nỗi nhớ mông mênh ...
Rất đỗi mông mênh ...
Cao
vị khanh
tháng 3 năm 2018
_________________________________________________________________
(*) Sơn Nam
ắtắt
Có một
thời se sắt
Em xa đâu bỗng gọi
đâu tận cõi hai mươi
Ôi tiếng người
diệu vợi
Bay suốt mấy tầng đời
Nhớ xưa em áo trắng
Tóc xấp xả bờ lưng
Sách vở đời chưa
nặng
Gái
nhỏ buồn không dưng
Em ươm sầu thiếu nữ
Buồn con gái dậy thì
Tôi hiền
như thú dữ
Nằm gậm nhấm lương tri
Những chiều tan học muộn
Mưa bay kín sân trường
Em về theo gió
cuốn
Đường
lạnh mấy tầng sương
Mùa hè bông phượng nở
Ai bày tiệc rượu mừng
Mai về quê
cách trở
Sao mắt nhỏ rưng rưng
Tôi
đi lòng xuôi ngược
Em giấu giọt lệ ngà
Làm sao em biết được
Đời bày
cuộc chia xa
Vậy đó
rồi đi biệt
Hai mươi ... ba mươi năm
Tính những lần thua thiệt
Sót một mối
tình câm
Em từ xa gọi
lại
Làm
nhớ tuổi hai mươi
Trái tim đời đã mõi
Thấy lại một giờ
vui
Cám ơn em đã nhắc
Hàng phượng
cuối sân chơi
Bạn bè xưa thất lạc
Chừng xanh cỏ ngậm ngùi
Em bây giờ thiếu phụ
Buồn có để ai hay
Tôi cằn thân
cỗ thụ
Gần trọn kiếp lưu đày
Cám ơn em đã nhắc
Dù đã quá xa xôi
... có một thời se sắt
Từng ánh
mắt, miệng cười ...
Cao
vị khanh
Chiều tháng tư về
qua sông Cổ Chiên
Gió
quậy tư bề sóng nhọn hoắc
Thuyền
quay như lá cuối mùa rơi
Người
qua sông muộn tay ghìm chặt
Vực
trống chìm sâu đến rụng rời
Nước chảy hung hăng
lở sạt bờ
Tưởng ngàn
vó ngựa sải qua mau
Người
về từ cõi đầy xương sọ
Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau
Nước vẫn
tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn
Ngó
lục bình trôi tưởng rã hàng
Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ?
Mà cứ trông chừng một bóng sang
Thuở
nhỏ qua sông ý đã liều
Thách
trời, kiêu ngạo cả hư vô
Hai
mươi năm lẻ về vội vã
Nước
mất, đường quê rặt bóng mồ
Gió đẩy thuyền
đi, hận quá giang
Cồn xa bỗng
lạnh rợn âm quen
Chiêng trống
thời xưa gào xung trận
Trách
kẻ đời nay để phận hèn
Cao vị khanh
Rượu chiều
Ly
rượu chiều chưa cạn
Lòng
đã lạnh đầu hôm
Con
mắt xưa nhìn trộm
Con
mắt buồn như than
.............................
Ngửa cổ nốc ngụm
chót
Rượu đắng đến
bẽ bàng
Cao vịkhanh
Rượu
khóc
Có bữa về qua quán bụi đời
La cà đàn đúm
kiểu tay chơi
Rượu say bỗng nhớ người hào kiệt
Ba-ngàn-tử-đệ
bó thây phơi !
Rượu
tiễn
Chén
đầ̀u xin tống-tiễn-nhị-ca
Chén này để hết lại phần
ta
Rót ra tám cõi
mời bằng hữu
Đã chế́t hay còn nhố́t trại xa ...
Cao
vị khanh
________________________________________________________________
______________
Tưởng
niệm 50 năm Tết Mậu Thân (1968-2018):
với
CAO VỊ KHANH:
và
ĐOẠN TRƯỜNG KHÚC
https://1drv.ms/w/s!AivKU8Cy4J3AgP4UekK8JeuBm2reYA
tết MẬU
THÂN 1968 Trích trường
thi
KHÚC ĐOẠN TRƯỜNG
_________________
.................... 38
Người sinh Bắc lìa cha xa mẹ
Chết
trời Nam ai kẻ gói thây
Tủi người nát bấy hình hài
Còn thương tâm sự đắng cay vạn phần
39
Lính miền
Nam chết trần, chết trụi
Bộ đội Hồ chết bụi,
chết bờ
Bé nào nằm chết như mơ
Già
nào chết chẳng có mồ có quan
40
Đâu hả dạ
lòng lang dạ sói
Chểm chệ trong hang tối Ba-đình
Gầm gừ kế độc điêu linh
Xua quân vào phố,
đinh ninh bất ngờ
41
Đón Tết đến Xuân chờ hoa nở
Xóm làng
Nam hớn hở sum vầy
Mẹ mừng con tụ đông đầy
Giao thừa rước lễ pháo dây nổ dòn
42
Dưa
hấu đỏ, trái tròn chưa xẻ
Bánh chưng xanh, nếp
tẻ chưa sôi
Bập bùng, lửa dậy sáng trời
Pháo mừng chưa tắt đã nhồi pháo binh
43
Du kích xả rập rình ngõ tối
Bộ đội miền
nón cối lao nhao
''Người nách súng, kẻ tay dao
Đầu trâu
mặt ngựa ào ào như sô
44
Anh về phép bên nôi con nhỏ
Chị đãi chồng cho bỏ lúc
xa
Vui vầy chưa
kịp chào cha
Nỗi
vui sum họp thành ra nỗi sầu
45
''Tổng-công-kích''
đập đầu chôn sống
Tết Mậu Thân rõ giống hung tàn
Cả làng trọn phố tan hoang
Ba mươi, mùng một,
khăn tang trắng đường
46
Khắp
miền Nam phừng phừng lửa dậy
Mỗi tỉnh thành, một bãi tương tàn
Làm sao cho sập cho tan
Làm cho tàn rụi
bẽ bàng mới oai
47
Ôi Vĩnh-long, nhớ
hoài phố nhỏ
B 40 cháy đỏ đêm xuân
Người người tốc chạy gian truân
Con cõng mẹ trốn
đạn tưng ngang đầu
48
Tiếng khóc kể,
giọng sầu đêm thẳm
Người lết bò, chân giẫm tử thi
Hỡi người điên giữa xuân
thì
Sao nằm
chết, có hiểu gì đạn bom!
49
Ôi
Phú-thọ, xóm chòm hiu quạnh
Ngõ tối nghèo tẻ lạnh, đời thua
Vách nhà thưa dột nắng mưa
Sớm hôm cơm hẩm,
canh thừa nuôi con
50
Ai bày chuyện tranh còn được mất
Xua đặc
công bám rát dân nghèo
Chốt cày từng tổ da
beo
Nhà nhà bốc cháy, của vèo vèo bay
51
Anh thương
phế cụt tay, què cẳng
Địu con thơ gánh nặng
nồi niêu
Chị mù quờ quạng gậy xiêu
Trần
vai áo rách chạy liều thoát thân
52
Đêm thương khó,
tần ngần ánh chớp
Lửa hoả châu thoi thóp ma trơi
Mèo hoang gào đói rụng rời
Chó rong lạc chủ tru bồi hồi khuya
53
Ôi
Huế đẹp, Huế xưa muôn thuở
Nón lá che cặp
vở qua sông
Nắng mưa e ấp, thẹn thùng
Những
cô gái Huế ngại ngùng làm duyên
54
Ai bảo Huế xây nền đất yểm
Hồn
ma Hời tím rịm đền hoang
Những đồi, những núi
lang thang
Muôn binh ngàn tướng chết oan trận tiền
55
Giặc vào
Huế, thú điên thoát cũi
Say máu tươi, tanh tưởi
thù riêng
Những chàng mang nợ bút nghiên
Những nàng khuê các xâu liền từng dây
56
Thầy kinh kệ đêm
ngày chuông mõ
Cha áo chùng hằng tỏ niềm yêu
Những o buôn thúng chợ chiều
Những anh lính trẻ
lỡ trìu mến ai
57
Tết sum họp đổi ngày tang khốc
Hố bươi nông chẳng nhọc công sâu
Đẩy
xô ra chốn thảm sầu
Dao đâm, mắt bịt, đạn
xâu từng hàng
58
Ai đã khóc, khô cằn nước mắt
Ai đã la, tiếng tắt đầu môi
Uất hờn nghẹn ứ
chẹn lời
Ai nghe được tiếng ''hởi trời'' vô thanh
Cao
Vị Khanh
____________________________
đi loanh quanh ...
với TRẦN
BANG THẠCH
CAO
VỊ KHANH
Bắt đầu bằng một chuyện-trên-trời,
cái chuyện vấn-đáp giữa cậu bé Hạng Thác
và ông vạn thế sư biểu họ Khổng. Cái thứ
chuyện để dạy đời thì hổng là trên-trời
thì là gì ?
... Khi Hạng Thác hỏi
vậy chớ lông mày có mấy sợi thì Khổng Tử
bí. Dù đó là một câu hỏi lảng nhách về một
thứ lảng òm và thiệt tình là lảng xẹt vì chẳng
ăn nhằm gì tới đạo lớn là thứ chuyên trị
của người đối diện. Lại là thứ hiển
nhiên tới nỗi chẳng làm ai bận tâm dù là mọc
ngay boong trên mặt người.
Ờ có những chuyện ngay
trước mắt sát bên tai mà chừng hỏi lại thì ai cũng
chưng hửng. Không nghe không thấy không hay không biết. Đúng
ra là tại vô tình, tại hổng-để-ý, tại xem thường
hay tại ... hay tại ... bị ... bởi ... vì ... ( ở đời có
hàng triệu thứ tại-bởi-vì khi người ta ... bí !
)
Có hôm nào ngồi buồn kiểu vọc-nước-giỡn-trăng
mà rảo mắt quanh mình, nhẩn nha ngó bộ bàn ăn với
mấy cái ghế bọc da ( mấy cái ghế ? ), cái bàn
thờ vốn là cái tủ kiến kiểu tây có chưng
mấy chai rượu ( mấy chai ? ), mấy bức tranh của Monet
treo trên tường vẽ nội cái góc vườn ở Giverny nhìn
dưới nhiều thời khắc khác nhau ( mấy bức tranh
? ) ... Nhìn ra xa một chút, mà nói đâu cho xa xôi, quanh đây
thôi, ngay trong ngôi nhà mình đang sống, sớm hôm ra vô từng
bữa ... thử hỏi coi nhà mình có bao nhiêu cửa sổ,
cửa cái trổ ra hướng nào, đông tây nam bắc
? Còn cái cửa sổ phòng ngủ nữa quay về đâu
mà con trăng sáng đầu hôm cứ xui ta thao thức, bâng khuâng
nhớ lại một chốn nào ... Giả sử vậy, câu
hỏi về những đồ vật quen thuộc nhất, gần
gủi nhất đó có phải đôi khi lại làm mình ngơ ngẩn.
Ngơ ngẩn không phải vì xa lạ. Ngơ ngẩn vì quá gần
gủi. Ngơ ngẩn vì quá quen thuộc. Quen vì thấy hoài
thấy hủy. Thuộc vì vốn của mình chớ có phải
của ai đâu !
Ờ , ở đời vậy đó. Có những
cái vốn của mình như tứ đại ngũ uẩn - mà
Phật đã lỡ một lần nêu lên nghi vấn về
quyển sở hữu, còn nhiều cái khi không mình quơ
quào nhận đại là của mình, thí dụ như là cái nhà
của tôi, chiếc xe của tôi, hàng xóm của tôi, thậm
chí đến con vợ của tôi ... mà lắm khi nghe hỏi tới
mới giựt mình ... coi lại ! À xe mình mang bản số gì
há ? Nhớ không ? ... Con vợ tui cao mấy thước ? -ủa nói
lộn nói lại vợ tui cao thước mấy ?. Biết không,
dù vẫn nói là ... đầu gối tay ấp ? Còn mấy
cái vòng số một số hai số ba nữa, sức mấy
mà có người thứ hai biết được ngoại trừ
ông Đông Hồ mua-áo-cho-người-yêu mà khỏi phải xách
thước đo trước ? ) ... Còn bà lão người Trung Hoa hay
bắt ghế ngồi trước hàng ba, im ỉm và xa vắng
như một cung nữ về chiều bị đày vào lãnh
cung, sáng qua gật đầu chào, chiều về gật đầu
chào, bà ta gục gặc chào lại khi mình qua sáng, gục gặc
chào khi mình về qua chiều ... Lâu ngày rồi thành một
hình ảnh quen thuộc, quen thuộc đến độ làm
quên bẵng có một người ngồi hôm sớm, buồn
hiu ở một góc hiên ... Sau một mùa đông dài và
khắc nghiệt, mùa xuân tới rồi mà chưa thấy
lại cái ghế và người ngồi đó. Sáng đi qua,
chiều về lại, có một cái gì thiêu thiếu, đâu
đây ... Rồi mùa xuân qua, mùa hè tới vẫn chưa thấy
lại, hàng ba vẫn bỏ trống ... một hôm nghe trẻ nít
hàng xóm dọa nhau về một bóng ma tàu ... giựt mình
hỏi lại. À thì ra, người đàn bà tàu đã chết
giữa mùa đông năm ngoái, ngay khi cơn bão tuyết thứ
nhất vừa đổ xuống. À là như vậy, chỗ
đó đã có một người đàn bà nhỏ thó hay
ngồi lặng lẽ ngó trời ngó đất, lặng lẽ
tới đỗi làm mình tưởng đến một thứ
quí phi thất sủng ngồi nhớ tiếng vua đòi ... Người
đàn bà đó mấy tuổi, tên gì, con cháu ra sao ? Suốt
một đời ( bao nhiêu năm ? ) theo cha mẹ bỏ Trùng Khánh ? Hàng
Châu ?... gồng gánh nhau qua Việt Nam rồi năm 75 ? hay 76 ? hay 80 ...
theo con cái cỏng bồng nhau lội biển qua tuốt bên này,
cái cuộc đời nạn phụ dằng dặc đó lao khồ
có thua gì cuộc vạn lý trường chinh của Mao-xếnh-xáng
đâu mà không nghe ai nói tới ... Không hay ! Không biết !
Vậy mà người đàn bà đó trong mấy năm nay đã
là láng giềng trong cái khu phố không nhiều lắm cái
màu da vàng sẫm này. Tại thói đời cứ hay nhìn lên,
hay nhìn xa hơn cái tầm con mắt mình, ngóng cao hơn cái cần
cổ mình ... cho ra vẻ nhìn xa trông rộng theo kiểu con-mắt-nhìn-ra-tám-cõi
!
Kể ra quanh quẩn đây còn
có bao nhiêu thứ dẫu "nhìn" mà không "thấy",
có thấy cũng không thông. Mà có thông cũng không đủ
lòng nghĩ đến.
Vậy mà rồi có người nhìn
và thấy, thấy rồi lại mang lòng nghĩ đến, mà
lại nghĩ miên man tới nơi tới chốn ... về những
cái vụn vặt, lẻ tẻ, không đâu ra đâu. Những cái
thứ ở ngay sát bên mình, lẩn lút, loay hoay, lặng lẽ
xoay trở quanh quanh, mờ mờ nhạt nhạt, tưởng như không
mà có, có thật. Những mẫu chuyện đời không
có quá một chi tiết hiếu kỳ đủ để khêu
gợi sự tò mò của người bên cạnh. Thứ chuyện
đời mà người nghe đã có sẵn câu phản ứng
... ối-hơi-đâu-mà-nghe !
Mà
thật ra nếu chịu lắng lòng mà nghe thì dường như
có nhiều điều để nghe lắm. Niệm-thiên-địa-chi-du-du
...
Ông Trần Bang Thạch là một trong những người
hay lắng nghe những tiếng đời không lấy gì làm
huyên náo đó. Làm như một kẻ nhàn du trong một cuộc
đời rất là chộn rộn, ông ta đi tới đi
lui, lẩn tha lẩn thẩn, đôi khi lúc tha lúc thúc một
mình ( chớ ai mà rảnh rổi đi cùng ), ông ta qua lại nhẹ
nhàng, nói năng chậm rãi, từ tốn như sợ làm
kinh động cái nhịp sống vốn dĩ rất trầm
kha ... như một người khách bàng quang chẳng mắc mớ
gì hết với cái dòng đời rộn rịp xuôi ngược
quanh quanh. Mà thật ra cái vẻ nhàn lãm đó không giấu
được chút nào cái nhìn rất tinh tế, cái soi mói
rất mắc mỏ ngay tới những cái không ra gì -mà có
cái gì ra cái gì chớ của cái cõi ba-vạn-sáu-ngàn-ngày-là-mấy
này. Độc-sảng-nhiên-nhi-thế-hạ.
Nội cái chuyện
mua nhà ( căn nhà thì nhỏ như cái hộp quẹt mà cái chuyện
mua nhà thì xưa chỉ ít hơn trái đất xưa có chút
đỉnh thôi mà ông cũng thấy và nghe ra trong đó bao nhiêu
là chuyện đáng nói làm người nghe theo cũng thấy
bụng dạ dàu dàu ). Căn nhà ở đường Bush. Mà đường
Bush nào nhỉ ? Phải đường Bush ở Houston ? Mà sao nghe ra cũng
hao hao cái chuyện mua nhà đâu đó ở New Jersey, ở Dallas,
ở Toronto, ở Montréal ... mà lại cũng y chang cái chuyện mua
nhà ở bên tây bên úc ... trong những chương đầu
của cuốn truyện dài ngàn chương tỵ nạn. Cũng là
... nhà nhỏ, cũ, hai phòng ngủ ... nhà thuộc loại frame house
nên giá rẻ ... Cái chuyện mua nhà của đám người
bừng-con-mắt-dậy thấy mình thân sơ thất sở
với mớ điều kiện ắt-có-mà-chưa-đủ
: nhỏ, cũ, rẻ tiền. Thật ra có một điều kiện
khác không có giá trị gì hết trên thị trường mà
dường như ở đây lại là điều làm cho cái
ắt-có thành đủ. Hai ông bà T gì đó ( gọi là ông
bà A, ông bà B, ông bà C hay ông bà Danh ... cũng được
vậy ) đã quyết định chọn mua căn nhà trên đường
Bush đó chỉ vì ... hai hàng me keo. Hai hàng me keo ! Đúng
là lãng nhách. Cái loại cây mọc đầy, hoang dại, thừa
thải trên đất cát miền Nam, chẳng ít lợi gì
ngoài cái việc chụm củi, chỉ được mớ bóng
lá giao đầu phả chút hơi mát dịu dàng xuống những
buổi trưa miền Nam nóng hổi, cho đám con nít đánh
trỏng, bắn cu-li, hay mấy chị vú em ẳm con chủ ra ngồi
nói chuyện tào lao hoặc có giá hơn chút là trân mình
chịu trận mấy cái màn tình tự trai gái thiếu
chỗ tự tình... Vậy đó cái thứ me keo chẳng
làm nên tích sự gì.
Nhưng
bỗng dưng, khi đi xa rồi, thì mấy hàng me kéo đó
lại đâm ra đầy
sự tích. Sự tích về một Châu đốc, Rạch
giá, Cần thơ, Vĩnh long, Sa đéc, Nha Trang, Phan Thiết ... cả Sài
gòn hay cả miền-nam-miền trung-cao-nguyên-đồng-tháp ... với
những con đường lớn nhỏ dài ngắn, cong queo hay thẳng
tắp rợp toàn một bóng me keo. Sự tích về những
ngôi trường làng, trường tỉnh với vuông sân chơi
mát rượi, những góc đường góc phố với
hàng xe bán nước đá-bào-đậu-đỏ-bánh-lọt-em-tan-trường-về-anh-theo-Ngọ-về
... đã hơn một lần đụt nắng che mưa dưới
cái tàn lá lưa thưa xanh mướt. Sự tích về chính
một quê hương lưu đày trong lòng người đi, thứ
quê hương bỏ thì thương mà vương thì tội. Ờ
hai hàng me keo nối liền
bến đò chợ Cái Dầu với thị trấn Hòa
Hảo đã là máu là thịt là xương là da của anh chị.
Vậy đó hai hàng me keo ở đây ( hay
hàng còng ở đó, hay hàng bả đậu trong này, hay hai hàng
sầu đâu ngoài nớ cũng vậy, mà hai hàng khuynh diệp
góc phố, hai hàng sua đủa dưới quê, hay hai hàng phượng
đỏ đã-nhỏ-xuống-lòng-tôi-những-giọt-châu ... )
cũng chỉ là những đắp đổi qua ngày đoạn tháng
cho những mắc mớ trong lòng, giữa khi mình ngó đâu
cũng thấy lạ hoắc lạ huơ. Nhớ lại mà bồi
hồi, cái thời buổi gì kỳ cục. Thời đó, người
ta cứ hay quơ quào chụp bắt bất cứ cái gì đang-có-trước-mắt
mà lại mang mang hơi hướm cái-đã-khuất-mắt như
để ... thu ngắn lại mấy tấc lòng cố quận.
Thời đó ai nấy cũng thấy như mình đang phụ rẫy
một cái gì, một cái gì đang lầm than quá đỗi
... Bởi vậy rồi cái hàng me keo đó, cái cọng rau húng
lủi đó, giàn bầu giàn bí đó, cái cầu gổ
bắt xéo cong cong đó ... trong những ngày lạc lõng bơ vơ
đó, đã có giá trị như những chiếc phao thấp
thoáng trên dòng đời lơ ngơ, người ta vói chụp níu
nó lại với mình như cố níu lại chút xíu quê-nhà
một sớm một chiều dưng không mà xa mù xa mịt.
Nói cách khác, tìm cho mình một hình ảnh rồi vỗ
về mình là quen thuộc chỉ cốt để trấn áp
sức phản kháng vô thức của cái mầm chùm gởi
trước khi đành chịu tháp mình vào một thân cây
khác giống lạ nòi.
Chút xíu
đó thôi, cái hàng me keo đó, bỗng làm người ta thấy
gần lại, cái quê hương khốn khổ. Và ... người
ta yên chí làm lại ... cuộc đời ! Cái hàng me keo đó
( hay cọng rau muống mắc dàn trời, hay đòn bánh tét gói
bằng miếng plastic nhuộm xanh, hay nhánh forsythia nở hoa vàng giữa
mùa tuyết trắng ... ) đã gở giùm nhiều người
lắm, những sợi chỉ nhện mắc mớ, những
ngày ai nấy mới bỏ quê ... Cử đầu vọng minh nguyệt.
Đê đầu tư cố hương.
Cái ông Trần Bang Thạch
này, lẩm rẩm vậy mà thâm lắm. Lý do gì mua nhà
thì không biết chứ tại cái hàng-me-keo mà mua nhà thì
biết ý nhau quá mạng. Cái lý do không văn tự nào chứng
giám ( kể cả giấy tờ bằng khoán nhà đất
) mà nó lại có giá trị của một sự thề nguyền
rằng ... dẫu có xa nhà mà không xa quê. Dĩ nhiên lời
thề có sắt son hay không thì hồi sau phân giải. Nhưng
mà hồi đó vậy đó. Ai cũng có một nỗi
lòng !
Kể chuyện mua nhà thật ra là để kể
chuyện đời-ta-ở-xứ-người. Mà đường
vào đời ta ở xứ người thì cũng giống như
đường-vào-tình-yêu của Trúc Phương vậy, chỉ
có trăm-lần-vui mà có tới vạn-lần-buồn. Ông
tẳn mẳn tỉ mỉ vòng vo từ hàng me keo quê người
tới cái vườn nhỏ xíu trồng đủ thứ rau quê
mình, chính là để nói tới cái giấc mộng
thiệt lớn trong cái nhà thiệt nhỏ của một người
Việt Nam ở xứ người mà cứ tưởng ở
xứ mình. Ông bà T mua nhà vì muốn dựng nên một
cảnh sống quê-nhà ở quê-người. Có điều,
cây cỏ ép uổng còn tàm tạm chớ con người thì
đã có cái khuôn phép của xả hội quanh nó. Người
Việt ở nước ngoài là tháp cái đời mình
vào đời người chớ làm sao mà ngược lại.
Cho nên ông T mua nhà với bao nhiêu là mộng lớn với
mộng con mà chừng con lớn rồi thì con cũng mông lung
như mộng. Đó là một sự thật rất ... thật.
Ông T tính mở lớn nhà thêm khi con cái lớn lên, che thêm
mái dựng thêm phòng khi có dâu có rể y chang cái tính
toán của một người-việt-trăm-phần-cốt-y.
Nhưng mà đâu có vuông tròn như vậy, đường vào
đời ta ! Cách nói loanh quanh của Trần Bang Thạch là dẫn
mình đi qua những căn phòng bề bộn đồ đạc
ăm ắp tiếng cười rồi dẫn mình quày trở
lại cũng chính căn phòng đó khi đồ đạc đã dọn
hết đi, mọi âm thanh đã tắt hết vì người
ở đó chỉ là khách trọ, đến rồi đi, bỏ
lại đó cái trống trơn làm bằng cho chứng phù du
của sự thế. Ông ta đi loanh quanh mà rồi tới ngay boong
cốt lõi. Làm gì thì làm, mua nhà mua block, mua đất cất
nhà hay xây kim tỉnh hay mua gì gì đi nữa thì nhà đất
hay gì gì đó cũng là của người chớ không phải
của mình. Nhà với đất thì tiếng mình làm chủ
mà mấy ông chủ ngân hàng thì cứ đứng xớ
rớ kề bên. Con cái lớn lên ở xứ này thì
theo điệu của xứ này mà bung ra tứ xứ. Chùm gởi
có quấn cây trăm vòng thì cây cứ là cây và chùm
gởi thì cứ lặc lìa lặc lọi mớ rễ lá
lạc loài. Ông Trần Bang Thạch viết chuyện mua nhà mà
như viết cả hành trình của một người Việt
Nam ở xứ người, mà như viết cả hành trình của
một CON NGƯỜI qua suốt một cuộc lữ. Đọc
Căn nhà trên đường Bush là theo ông loanh quanh những nẻo
đời bất tận, vòng tới vòng lui, xoay qua trở lại,
giống như trò chơi rồng rắn, đi đâu rồi cũng
trở lại chỗ bắt đầu, chỗ-khởi-đi cũng
là chỗ- trở-về của một đời người
đó thôi. Đã bắt đầu từ một số không,
thì chấm hết bằng cái chấm than cũng là phải
phải. Họa may như bà T, ngày tính sổ cuối đời chỉ
còn một nhúm tro than của người ba sinh hương lửa để
mang theo đã phải kể là vạn hạnh. Chấm than.
Vậy
đó, ông Trần Bang Thạch có nói chuyện gì cao xa đâu,
toàn là ba cái chuyện-đầu-trên-xóm-dưới, từ-thành-đến-tỉnh,
đăng lên báo thì cũng chỉ ở trang ba trang tư. Chuyện
của ông ta gần xịt, quanh quất đâu đây. Nhưng trong cái
quanh quất chòm xóm có cái hun hút của thiên địa du du. Ông
ta nói chuyện hàng ngày, nhản tiền. Mà trong cái nhản tiền
đó có cái biến thiên của trời đất thường
hằng. Chuyện của tôi, của anh, của chị, của người
hàng xóm, của ông giáo già về hưu lỡ một kỳ
hẹn chót với môn sinh, của anh tài xế xe hàng tan tành hạnh
phúc từ sẩy tay của định mệnh, của chị lao công
da đen hy sinh cho chồng con tới hết đời, của anh chàng
A-Phú-Hản ( hay Việt hay Miên hay Lèo ... ? ) lưu vong và buồn
rầu cứ hay ra bờ sông ngó mấy ống khói tàu
vật vờ mà thả hồn theo nước lớn nước
ròng về cố xứ, của người đàn ông già
hết thời đi lượm lon nhỏ làm việc lớn, của
ông kép hát cả đời góp vui cho thiên hạ đến giờ
chót có chút vui riêng mà cũng chẳng kịp vui ... nghĩa là
của những con người bình thường với mơ ước
vui buồn hạnh phúc khổ đau cũng bình thường như
chính cái cuộc sống rất đỗi bình thường
không-có-gì-để-nói của họ. Cái để nói ở
đây chính là tấm lòng mẩn cảm của ông đã
nhìn ra, nghe được từ những sự việc rất
bình thường đó cái lớn lao trong nhỏ nhoi, cái phổ
quát từ những riêng tư, cái không thường giữa
những việc quá thường. Nhân vật của ông - mà
có gọi là nhân vật được không, những ông bà
T, anh Benito Vasquez, chị Rosa, bà Carol ... hay ai ai nữa ... mà nếu không
gọi là nhân vật thì gọi là gì trong cái vở tuồng
ba hồi sáu cảnh mười tám cái linh đinh đó ? Họ không
sắm tuồng, múa may cười khóc theo một kịch bản
nào hết, nếu không nói là chỉ theo có cái sắp
xếp của ông đạo diễn ở tuốt trên ... trời.
Cái quay búng sẵn ... Nhân vật của ông sống cái đời
của họ, vậy thôi. Mà qua đó cũng không thông điệp
chẳng tuyên ngôn gì ráo trọi. Họ chỉ làm cái chuyện
như anh, như tôi, như chị đã đang và sẽ làm, chẳng
anh hùng cũng không tiên tiến, không vĩ đại mà cũng
không ti tiện, họ làm cái chuyện họ phải làm, không
cao cả mà cũng không thấp hèn. Họ làm cái chuyện cần
làm. Vậy thôi. Chấm và hết. Dẫu vậy, nói
vậy mà rồi không phải vậy. Bởi vì, để
làm một việc xem ra tầm thường, lắm khi không dễ
chút nào ... đôi khi để làm một việc ngó bộ
nhỏ nhoi lại phải cần một tấm lòng vô cùng quảng
đại ...
Cho nên đọc truyện
của Trần Bang Thạch nghe kể toàn chuyện lụn vụn lặt
vặt, thứ chuyện mới nghe qua thấy đơn giản làm
sao. Vậy mà chừng nghĩ lại không đơn giản chút nào.
Mà làm sao đơn giản cho được. Cuộc đời vốn
trăm mặt. Mà ông Trần Bang Thạch này còn muốn lôi
ra cái mặt thứ một trăm lẻ một nữa là khác.
Theo Trần
Bang Thạch đi loanh quanh vào một thế giới rất thực
là khép lại con mắt mộng mị để nhìn ngó cuộc
đời như chính nó là nó. Thứ cuộc đời rất
quen thuộc với tất cả những kỳ quặc đã quay
ta mòng mòng. Thứ cuộc đời rất vô nghĩa với
tất cả những nghĩa lý đã làm ta chóng mặt. Cũng
như thứ cuộc đời với tất cả những nhỏ
nhoi rất phi thường của nó vậy. Ông ta phanh phui rất
ân cần. Ông ta soi mói tới hết dạ. Ông ta lật
tới lật lui những mảnh đời, ngắm nghía so đo
cân nhắc để tìm cái chỗ-thương-cho-được
( mà thật ra có cuộc đời nào mà không đáng
thương giữa cái cõi đời rất đáng ghét này
). Cho nên ông ta nghe thấy được những điều mà
mọi người không nghe thấy. Cả đến một
điều chưa kịp nói giữa hai cha con sau khi đã tử
biệt. Cả đến nụ cười mãn nguyện của mẹ
từ trên mây, nhiều năm sau, khi bầy con mồ côi
vừa thành đạt. Ông cảm được hết, kể cả
những hạnh phúc rất trái cựa, những đau khổ
rất lặng lẽ, những oái ăm ẩn nấp đằng
sau cái vẻ nhởn nhơ của những nếp đời rất
mực phẳng phiu. Có điều khác với cái lối bi
quan cố hữu của đa số, Trần Bang Thạch luôn tìm
được từ trong nghịch cảnh một sự thỏa hiệp
nào đó với bi kịch. Ông thấy ra trong sự nhẫn nại
chịu đựng khó khăn là bài học rốt ráo của mọi
sự lầm than, trong tận cùng của mọi oan khiên đều
có những thăng hoa rất là luân-lý-giáo-khoa-thư. Ông
luôn tìm cách nhìn đời qua hai mặt của một đồng
tiền.
Đó có phải là một
cái nhìn ngây thơ vô tội va. Một cái nhìn ... rất
ư là ba phải. Không, cái nhìn đó thật ra xuất phát
từ một tâm địa rất lành. Lành như văn chương
của ông vậy.
Lành
như câu viết rất giản dị, gần gũi với văn
nói, đặc biệt là lối nói miền Nam. Nhưng là
một miền Nam kẻ-chợ. Lâu lâu lại chêm vào đôi
ba chữ đặc sệt miệt-vườn làm điếng
người như cái miệng cô ba cười nháng nháng cái
răng "dàng". Mạch văn suông sẻ, lưu loát, chắc-tại-vì-bỏ-nước-đi-lâu-rồi,
đọc lên nghe khoái tai, nghe như dễ-ợt-ai-viết- cũng-được
mà thật ra cái kỳ khu thì đã nằm sẵn trong sự
chọn lựa và sắp xếp chữ nghĩa theo một luật
lệ âm thanh nào đó của riêng ông.
Văn của ông vì vậy nghe nhẹ hều, chữ
nghĩa êm ru bà rù, lại lẩn tha lẩn thẩn giông giống
điệu mấy ngón tay rờ rẩm đâu đâu ... vậy
rồi giữa lúc đang u u mê mê, ông nhéo một cái,
móng tay sắc lẻm, làm ai nấy nhói đau mà không kịp kêu
" ái " ... vì cái đau đã thấm sâu, sâu lắm,
thấu tuột vào tới ruột gan ... thức ăn dư
thừa ( của bà mẹ già nấu sẵn " dụ " mấy
đứa con về ăn mà nó ...không về ) bà còn
có thể đổ đi, còn nỗi buồn của người
mẹ già nua ... bà biết đổ đi đâu ! Trời
ơi nỗi buồn biết "đổ" đi đâu ! Chữ
" đổ "của ông quả là hết ý. Có thua gì chữ
" đổ " trong múc-ánh-trăng-vàng-đổ-đi. Có điều
múc buồn "đổ " đi còn có cái vẻ giận-lẫy-dễ-thương-hết-sức
của mấy bà mẹ già móm xọm thương con đứt ruột,
muốn đem đổ-hết-cho-rồi-mà-sợ-rủi-nó-về-nó-đói-bụng.
Chữ hết nghĩa ông ơi. Còn nữa nè ... sáng sáng
vừa đi bách bộ vừa nghe chim hót trên ngọn me keo, vừa
thấy lòng mình đang mọc cánh bay về một thỏi cù
lao bên bờ sông Hậu. Sao tui khoái cái chữ " thỏi
" của ông lắm vậy. Làm cho nỗi thiết tha với
khoảng cù lao nhỏ xíu của ông bỗng lớn vọt lên, tỉ
lệ nghịch với tầm vóc được thu nhỏ lại thành
thỏi bỏ-lọt-túi-áo, kiểu như thỏi kẹo thỏi đường
hay " thỏi " tình của mấy anh si hồi xưa thương-em-không-biết-để-đâu-để-trong-túi-áo-lâu-lâu-lại-dòm
vậy đó. Lại nữa, có lần theo ông về thăm
mẹ ở miệt lục tỉnh, đang mơ mơ màng màng trước
cảnh cũ người xưa, bỗng ông giáng cho mấy chữ bên
bờ kinh xáng thổi, tui muốn té ngữa ông ơi ! Ờ
mấy cái bờ kinh xáng thổi giữa một miền
Nam sông nước ngổn ngang làm cho cái xa xôi nó bỗng
xích lại gần tận mặt, gần tận mặt mà
vẫn đoạn đành thiên lý nên giữa lòng ta bỗng
quậy chút ba đào.
Cái lối viết theo kiểu người dưng nước
lả, đứng nép bên đường, để mặc cho sự
tình nối đuôi nhau liền lạc như tính liên tục của
dòng đời, đôi khi chuyện tới sau làm phản đề
cho chuyện tới trước khiến cho bố cục gây đột
biến một cách tự nhiên làm người đọc bị
lôi cuốn một cách dễ chịu, buồn vui rồi hờn
giận theo lúc nào không biết mà buồn vui hờn giận
gì cũng nhẹ nhàng thanh thản ... đến nỗi có đôi
khi lại thấy có chính mình ở trỏng ... là một lối-viết-rất-trần-bang-thạch.
Lối viết của một người tốt bụng.
Ông Trần Bang Thạch ơi, ông làm văn chương tuyệt cú
lắm. Văn chương là loay hoay loanh quanh vậy đó ông. Đâu
cần phải gồng mình thở phì phò như kéo cây kéo
gổ. Hay trân mình trân mẩy mà la lối ba cái chuyện
triết lý bí hiểm siêu hình siêu việt trời ơi
đất hởi mới là văn chương. Làm văn chương
thì thủng thẳng mà làm, thấy đâu nói đó, thấy
gì nói nấy, thấy-sao-nói-vậy-người-ơi. Nội
cái cõi trước mặt sau lưng mà nói, nói hoài cũng
không hết. Khỏi làm bộ làm tịch, phồng mang trợn
mắt làm chi cho thêm bí hiểm cái sự đời. Ai thấy
chuyện ngàn sao thì bay bổng nói chuyện trên trời.
Ai thấy chuyện xe cán chó hay chó đụng xe thì rà rà
kể chuyện dưới đất. Còn ai nghe được tiếng
đời rủ rỉ như ông thì cứ rù rì mà kể
lể. Gió lớn có cái khoái-tai-phong-dã thì gió hiu hiu có
cái êm ái thầm thì.
Thầm thì thì thấm.
Cao Vị Khanh
* Đọc lại tập truyện QUẨN QUANH CHUYỆN
ĐỜI của Trần Bang Thạch xuất bản năm 2006
* Đăng
lại từ lyhuong-rachgia.blogspot.com