VĂN            

 
LuongNgocThanh_self_3.jpg
LƯƠNG NGỌC THÀNH
Rạch Giá 

Cựu học sinh PTG
______________________________

                                                   CÁI TÊN THÀNH XÌ.

 

Trường tôi có những điều khiến nhiều trường khác trên thế giới này phải chào thua và tôi, một học trò bình thường, có cái nick name mà ai nấy đều phải thích thú, dễ nhớ, thắc mắc và ấn tượng, "Thành Xì."

   Dẫu cho không thật sự hài lòng với cái nick name này cho lắm, tôi cũng như bất cứ ai trong trường, kể cả ông hiệu trưởng đáng kính, bác Nhất hiền lành, dù không muốn, dù không thích, cũng không thể nào chối bỏ hay hoán cải cái tên mà chỉ có dân NLS Bảo Lộc chúng tôi mới có mà thôi. Cứ nghĩ mà xem? Đâu có ai tự dưng nặn óc, suy nghĩ với một sự quan tâm nhất định cho cái tên của ta đâu nhỉ? Hồi tôi còn bé, bố mẹ tôi phải vâng theo ý của bà nội tôi để gọi tôi là "Tèo". Bà đã thương yêu thằng cháu trai đầu lòng lắm đấy chứ. Ông nội tôi, người ưa nói vần nói điệu, ủng hộ ngay,

"Tên xấu xí làm cho ông bà không để ý."

"Thằng Tèo rồi tới thằng Tài.

Đẻ con trai có tiền xài hoài."

Có ai nói tên Tèo xấu chưa nhỉ? Nghe ai gọi tên "Tèo", tôi nghĩ ngay đến những người trong giòng họ nội ngoại ở Tham Lương, Bà Điểm hoặc vài người hàng xóm ở Cần Thơ hồi tôi còn bé.

    Vào Trung học Phan Thanh Giản, tôi đã không có tên gì nhưng vừa đặt chân vào trường NLS Cần Thơ, tôi có một nhóm anh em kết nghĩa, gồm những chàng trai cứng đầu, quyết chí lên Bảo Lộc. Người đầu sỏ, Lý Thái Lâm, là Hai Khùng. Tôi đứng thứ 6- Sáu Ngố. Nhưng cái tên này ít ai biết và không có gây một ấn tượng gì cả. Tôi thậm chí nhiều lúc đã quên bẳng cái tên đó. Nhưng ở đại học tôi có một tên còn được gọi cho đến bây giờ, Lương Cộ. Rõ ràng lớp phó Lý Xuân Tha- MS-71 đã đặt tên này cho tôi. Cứ mỗi khi lớp tôi đi lao động, ngoại khóa, công tác hay thực tập, việc gì lớn nhỏ nặng nhọc đều được tôi gánh vác. Đệm hát một bài hát nào mới cả lớp gọi tôi. Làm một bài bích báo, ban báo chí réo gọi tôi. Nửa đêm đói bụng cồn cào, tụi bạn cùng phòng lôi tôi dậy. Mỗi khi tới phiên phòng tôi trực nấu cơm cho ký túc xá, tôi dĩ nhiên làm bếp trưởng. Khi không đủ tiền trả cho chầu cà phê nào đó, tôi chắc phải đương đầu với chủ quán thôi. Những bó củi, giỏ đồ đá banh, bao gạo nặng chịch được lớp phó Lý Xuân Tha giao cho tôi "cõng". Khi có những mâm thức ăn thừa, hơi hôi thiu hắn vừa mỉm cười vừa ra hiệu cho tôi "tém sạch."

   Vì Long Kh'mer thương mến, coi tôi như một hướng đạo sinh. Nó đã đặt tên tôi là "Gấu Rừng đảm đang."  Thấy tôi chu  toàn công việc những hè lên ở tại lò nem Má Chánh trên Bảo Lộc, Long Kh'mer còn nói,

"Trên đây ai cũng thương nhắc tên mầy hoài đó thằng quỷ xứ. Mầy biết ba tao nói về mầy thế nào không hả?"

Một hôm ông nói với tao, "Thằng Thành Xì có tướng lắm đó."

Tao hỏi ngay,

"Tướng gì vậy ba?"

Ổng tỉnh bơ nói ngay,

"Tướng cướp."

  Cả hai đứa tôi cười sặc sụa vì tôi chưa hề làm trái khuấy một chuyện gì và vì tôi quá lành tính lành nết hay "sinh viên chân yếu tay mềm" như theo cách nói của má Chánh.   

Rất nhiều người đã thắc mắc. Rất nhiều giả thuyết giai thoại đã được họ đặt ra. Rất nhiều lời đàm tiếu về cái tên Thành Xì. Họ kê ra nhiều cái "xì", xì ke, Xì be, xì dách, xì thẩu, xì trum, xì tin, xì po hoặc thậm chí là xì xằng. Có lần tôi nghe ai đó giả định "xì" là xì gà. Có kẻ khác cho rằng tôi ưa ăn xì dầu mới có cái tên này. Những ai ở miền tây, người ưa lấy cái thứ tự để ráp vào tên tục như: Hai Đoàn, Sáu Nghĩa, Út Vinh, rất ấn tượng khi nghe giới thiệu tên tôi. Các vị nữ nhi thì mỉm cười và tôi chẳng hiểu chữ "xì" ấy tạo nên điều gì trong cái cười của họ. 

Vậy nên tôi có quyền tự hào, khoái chí khi có nhiều người quan tâm đến cái tên của tôi. 

    Mới lên Bảo Lộc được một ngày, chúng tôi đã được phong danh là "Băng Cần Thơ." Tuần sau đó, khi Tâm Dê thấy Phúc Lùn mừng vui đến đỏ mặt khi nhận bất cứ bức thơ nào, nó phát biểu,

"Đúng là Băng Cần ‘Thơ' rồi."

Có lẽ, trước khi chết, tôi sẽ căn dặn vợ con hay tôi tự tay viết vào di chúc,

"Để bạn tôi dễ tìm thăm ,

mình và hai con nhớ khắc trên mộ bia hai chữ Thành Xì."

    Bà Bảng chủ nhà cho chúng tôi ăn ngon, đúng giờ, thức ăn bốc khói nghi ngút. Tuổi dậy thì và việc chuyển lên ở một nơi có độ cao, nhiệt độ khá lý tưởng đã khiến chúng tôi thay đổi rất nhanh. Tôi lên cân hàng tuần. Bữa ăn nào cũng được chúng tôi thanh toán thật nhanh. Các thứ bát, đĩa được chúng tôi "liếm" sạch bóng. Sau bữa ăn, cái bụng chúng tôi chỉ được đầy hơn phân nửa, nhất là tôi, người lên cân nhiều nhất. Đầu năm học tôi có 45 ký lô- chiều cao 1m 65. Tháng thứ ba sau khi nhập học, tôi cân được 52 ký- chiều cao 1m 67. Không lên được Bảo Lộc học, chắc tôi mãi còn là anh chàng cao kều.

LuongNgocThanh_Self_Australia_2018.jpg

  Thành Xì tại Úc 2018: Thành Xì Po

Sau hai tháng đầu đói rét, chúng tôi có một vị cứu tinh. Trọng Cọp cho biết bác nó có một miếng vườn bỏ hoang. Với xà bất, túi bao, dao, mác trong tay, chúng tôi được nó dẫn đi đến tận nơi để "khai thác." Như chuột sa hủ nếp, chúng tôi chặt quày chuối này, nhổ lên vài gốc khoai mì ở nơi kia nhưng cái thứ khoái khẩu nhất là mấy giồng khoai lang. Như một mỏ lộ thiên, xới nhẹ lên chúng tôi nhận ra ngay các củ khoai tím. Chỗ nào có một vài lá mầm nhú lên y như là phía dưới ấy là một củ khoai tròn to như một cái bát ăn cơm. Thay vì cùng tụi nó đào bới, tôi kéo nhẹ lên các củ khoai như thể đó là chiến lợi phẩm của riêng tôi.

  

    Ngay tối đó, chúng tôi nấu một nồi khoai lang to tướng. Khi các anh chàng khác chọn lựa củ này, củ nọ, tôi chỉ nhắm vào củ nào to tròn như trái vú sữa, rất nhiều tinh bột. Sau bữa ăn, tôi là người đầu tiên phát ra cái âm thanh vừa gây buồn cười vừa gây ngạc nhiên. Tôi cứ nhằm cái mầm non để kéo lên củ to tròn khi đi ăn trộm và tôi cũng trung thành nhằm vào củ to tròn đó mà tọng vào mồm hằng đêm. Suốt một năm học lớp 10, suốt những đêm dài, cái điệp khúc ấy, cái tiếng xì ấy đã khiến tôi có cái tên độc đáo như thế đấy.

    Ngoài cái giai thoại ấy, tôi còn là kẻ không chịu ăn một chút gia vị gì vì sợ khó tiêu hóa. Có thể tôi là người duy nhất trong lớp tôi không uống cà phê- một chất kích thích, theo suy nghĩ của tôi lúc ấy. Trong lớp tôi là tay chơi thể thao đúng điệu, cần cù, chịu tập luyện rất "xì po". Trong đội bóng đá đại diện tỉnh năm 1972 đi dự Đaị Hội Thể Dục Thể Thao Học Sinh tại Phan Rang, khi mà Trần Ngọc Sĩ (TL- 72) làm thủ môn, tôi là tiền đạo. Tôi cũng là người chơi bóng rổ tiến bộ nhất trong băng Cần Thơ của tôi.

   Không có trường Bảo Lộc, không có các củ khoai tròn to ấy, chắc không có tôi như ngày nay. Và không có cái tên Thành Xì, tôi chắc phải có cái tên nào khác đấy thôi. Nhưng thú thật, tôi rất yêu thích cái tên của tôi. Nếu cần hiểu thêm điều gì, xin mail cho tôi: thanhxi19855@gmail.com. 

 

 

    Rạch Giá 21- 5- 2012

    Thành Xì TL- 71

                                        MỒNG HAI TẾT

 

  Có biết bao nhiêu điều người ta có thể làm trong ngày mồng hai tết mà tôi có thể hình dung ra nhưng họ không thể tưởng tượng nỗi tôi đã làm gì từ 3 giờ sáng ngày mồng hai của năm Nhâm Ngọ 2002.

   

LuongNgocThanh_mong2tet.jpg

Có một dạo sau năm 1975, dãy phố ngay góc rẻ xuống Cầu Trắng, Tiệm kính Phú Vinh cũ, đã từng là nhà sách, cửa hàng văn hóa phẩm và là "Cửa hàng ăn uống". Mỗi khi lên Bảo Lộc, đi ngang qua đây, tôi đều ghé mắt nhìn vào dảy phố ấy. Năm 1977, trong cửa hàng có treo một bức tranh sơn dầu đen trắng. Nó đập ngay vào tâm trí tôi và đã khiến tôi luôn ước ao vẽ lại nó trong khỏang 10 năm cho đến lúc tôi tình cờ mua được tập tranh của họa sĩ - một giáo sư giảng dạy về phong cảnh người Nga- Ivan Ivanovich Shishkin (1832 - 1898). Bức tranh gây ấn tượng mạnh mẻ đến mức ngày ngày tôi luôn mong đến lúc vẽ lại cái phong cảnh rừng nỗi tiếng thế giới ấy.

 

   Chính vì thế mà trong một chuyến lên Dalat nhân để kỷ niệm 5 năm ngày cưới 1989, tôi đã đặt mua một khung tranh 2 x 1,2 mét để chuẩn bị cho bức tranh tôi mong muốn sẽ có ngày nào đó chép vẽ lại.

    Vào năm 1998, ngay phía trước nhà, tôi mở ra một phòng vẽ quảng cáo như là cách kiếm thêm ít thu nhập, giúp được 2 nhân công và cách tôi tự khẳng định mình. Tôi đã có dịp thiết kế một số kiểu chữ, một số bảng hiệu, neon sign đẹp mắt và làm bảng hiệu mica hộp đèn lần đầu tiên tại Rạch Giá.  

    Việc dạy học chiếm khá lớn thì giờ của tôi trong năm. Nhưng những học trò của tôi vội vàng nghỉ ngay từ rằm tháng chạp và rồi họ đi học lại khoảng rằm tháng giêng. Họ cứ thoải mái nghỉ còn tôi mất một tháng thu nhập một cách không thoải mái. Tôi có một nhóm học trò thân thiết đến thăm vào ngày mồng 4 tết vài năm liên tiếp. Sau đó, tôi cảm thấy trống trãi, buồn bả ngay từ ngày mồng hai tết.

 

  Trước đó 6 năm, tôi đã từng thuê xe tải sang lấp đất cái mương to phía sau vườn sau khi đã mua 15 mét khối đất ruộng. Có được khoảng đất 18 mét x 40 mét vườn sau nhà, tôi quyết định trồng xoài cát Hòa Lộc. Các cây giống chiết cành mau phát triển và mẹ tôi mau chóng có một niềm vui thật lớn với các bà bạn gần xa, có một vườn xoài thẳng tấp. Có năm tôi chọn việc làm cỏ miếng vườn ngay sáng mồng hai tết và từ chối đi qua Cần Thơ chơi với vài đứa bạn đồng môn Phan Thanh Giản bên ấy.

   Năm nào tôi cũng có lời mời của Thi Lùn lên Bảo Lộc, Cậu Doản lên Đà Lạt. Bạn bè mong muốn làm tôi vui nhưng làm sao tôi có thể vui thú gì khi mà tôi chẳng có một khoản để dành ít nhất cho tiền lì xì, tiền vé xe, tiền xăng, và cho khoảng nhỏ nhất để vá xe...? Làm sao tôi có thể thoải mái khi mà lòng tôi nặng nỗi lo mưu sinh, nỗi buồn cho cái cách tôi phải bó tay bó chân ở cái nơi mà cơ hội khá ít ỏi với tôi. Nhìn mẹ tôi ngày càng già đi, con tôi ngày càng lớn lên, tôi ngày càng buồn phiền, lo toan, vẩn vơ, ngày ngày làm những điều tôi phải làm chứ không phải những điều tôi ưa thích.

   Ngày 13 tháng 6 năm 2001, mẹ tôi vĩnh viễn ra đi, để lại trong lòng tôi một lổ hỏng thật lớn, một nỗi buồn không thể diển tả được bằng lời và một nỗi đau không có loại thuốc men nào làm có thể làm thuyên giảm được. Cuối năm ấy, tôi mang ra cái khung tranh để ráp lại. Tôi sơn lót miếng ván ép và ráp vào khung. Chiều ngày mùng một, kê khung tranh lên giá vẽ, bày biện các tube sơn dầu, cọ vẽ trên bàn để sáng sớm hôm sau, mồng hai tết, tôi vẽ lại bức tranh tôi đã nhìn thấy trên Bảo Lộc 23 năm trước.

 

   Từ 3 giờ sáng ngày mồng hai, tôi bắt tay vào việc, phóng bức tranh mẩu, 6,5 x 14 cm thành bức trang lớn hơn 30 lần. Tôi chọn tâm điểm là con gấu đứng ngước nhìn lên, mảng sương mù chung quanh là vùng ánh sáng tương phản. Suốt ngày mồng hai tết, tôi chẳng hề có khách hoặc học trò đến thăm. Tôi chẳng hề phải nghỉ tay, không có một phút bận lòng. Tôi đứng trước giá vẽ như một tay thợ chép tranh mải mê việc cho kịp ngày giao cho khách hàng. Tôi quên hết mọi việc xảy ra chung quanh. Tôi chăm chú vào các đường nét rỏ nét nhất, các nhánh cây, vết nứt tét của cái cây thông và hàng trăm chi tiết sinh động sống thực khác.

    Sáng ngày hôm sau, người đầu tiên nhìn thấy tôi vẽ là thầy Danh. Khi đi thể dục ngang nhà, ông thầy giáo có tiếng ở đây có thể cho rằng tôi có một bức tranh chép phải hoàn tất trong tháng giêng. Những ai khác có thể rất ngạc nhiên khi nhìn cái tông màu trắng đen và họ không thích thú gì với công việc tôi đang làm. Nhưng tôi chỉ làm cái tôi thích, vẽ ra cái tôi cảm nhận và muốn được ai đó nhìn ngắm.

    Sáng ngày mồng 4, bức tranh dần hiện ra cái nội dung của nó. Bước ra phòng vẽ trước nhà ngắm nhìn một lúc, đứa con gái nhỏ ngây thơ reo lên,

"Ah, ba vẽ mấy con gấu của nhà mình."

Tay chân bê bết các vết sơn dầu, tôi không thể xoa lên tóc con bé được. Cuối thấp người xuống, nhìn vào gương mặt xinh xắn của đứa con gái 4 tuổi, tôi hỏi nó,

"Con gấu ba đâu? Gấu con đâu?"

Con bé trỏ ngón tay lên,

"Gấu ba to nhất đứng dưới đất. Gấu con đang đứng trên cây nhìn xuống gấu anh hai đó, phải không ba?"

Tôi cảm động hỏi nhỏ,

"Còn gấu mẹ đâu con?"

Ánh mắt sáng quắt, con bé tiếp tục chỉ tay qua bên phải một tí,

"Ba đang vẽ ra đó. Con gấu mẹ đang đứng canh chừng 2 anh em con đó!"

Tôi quay ngang giấu diếm giọt nước mắt ứa xuống. Tôi rất e ngại phải nghe nó hỏi,

"Gấu bà nội đâu rồi ba?"  

  Trên bàn thờ mẹ tôi giửa phòng khách, di ảnh của người rỏ ra đấy. Bà nhìn buồn bả, ưu phiền. Mỗi khi con tôi điều gì đấy sai quấy, tôi đều bảo cháu đến trước bàn thờ bà nội lạy bà 3 lần để xin lỗi. Nó thơ ngây không hiểu tại sao người ta cho "cái hộp bằng gỗ rất to" của bà cháu xuống đất ở trên Bà Điểm Hốc Môn. Nó có thể tự hỏi nay sao có hình bà nội trên cái bàn cao cao này. Khi muốn xin trái cây mà mẹ cháu vừa cúng bà nội, cháu đều hỏi tôi. Tôi nghiêm mặt lại trả lời con gái,

"Con ra xin bà nội đi con."

Konica ngoan ngoản như anh nó, Canon. Nó làm theo lời tôi. Khi cháu trở lại, tôi hỏi,

"Bà nội nói sao vậy con?"

Nó thản nhiên nói dối với tôi,

"Nội nói, con muốn ăn gì thì cứ lấy đi."

 

    Đến xế chiều ngày mồng 5, tôi có một học trò ghé thăm. Lâm NguyênVũ, từ Hà Tiên ra Rạch Giá chơi rồi đến chúc tết tôi,

"Tết có gì vui không thầy?"

Chỉ vào bức tranh sắp hoàn chỉnh, tôi trả lời,

"Niềm vui rất lớn tôi mới có ở trong đó đó."

Tôi nhờ hắn phụ một tay để treo tác phẩm của tôi lên ngay giửa phòng khách như người ta treo một vật quý giá nhất. Tôi nhìn ra các nét cọ vụng về, thô thiển và tôi tự hứa sẽ có ngày tôi mang nó xuống để tô điểm lại. Ngày ấy có thể sẽ là ngày mồng hai tết của năm nào đó tôi vừa có một mất mát nào khác.  Ngày ấy có khi sẽ không bao giờ đến vì tôi sẽ vẽ một bức tranh khác với một tinh thần khác. Nhưng thế nào tôi cũng sẽ bắt đầu một công việc gì mới mẻ vào sáng mồng hai tết. 

 

     Đến khi con gái đủ khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe cái gì tôi đang vẽ ra hôm nay đây, bốn con gấu trong rừng. Cuộc đời giống như một cánh rừng to lớn mênh mông vô tận. Cuộc đời như một mái nhà chung cho nhiều thứ. Nó có thể chứa mọi thứ đẹp xấu. Nó cũng có thể chứa mọi thứ rất giá trị, rất vô giá trị. Trong đời, biết bao nhiêu nỗi hiểm nguy điều tốt đẹp, biết ngần nào là cơ may, mất mát. Người ta được sinh ra đời như ai đó đi vào rừng mà không có một chút hiểu biết gì về nó cả.

 

    Mỗi người giống như một lá cây trong rừng. Sau khi rụng xuống, chiếc lá trở về với đất mẹ. Nó sẽ được hồi sinh ở một thế giới mới mẻ nào khác hoặc nó chỉ sẽ nằm yên nơi đấy với mẹ cho đến mục rữa thành một phần của mẹ.

 

         Rạch Giá, mồng hai tết năm Quý tỵ

         Lương Ngọc Thành

 

                                             BÁC BA

 

     Trong những người cha mẹ của bạn học, Bác Ba là người thương tôi nhất và tôi để lại trong lòng Bác ấy nhiều ấn tượng tốt đẹp ngay từ khi biết tôi cho đến những ngày sau cùng của bác.

     Năm học đệ ngũ, 8-2, NLS Cần Thơ- 1968, tôi phải đến nhà Hậu để đi quá giang nó trên chiếc xe đạp đòn giông của nó. Hằng sáng tôi luôn đến sớm.  Bác Ba thấy tôi luôn đến đúng giờ trong khi người trong nhà phải gọi 6 Hậu dậy. Bác có khi cằn nhằn nó,

"Hậu đâu rồi? Lẹ lên để thằng Thành chờ tự nãy giờ"

Dịp kế đó Bác Ba gặp tôi khi tôi đang nấu cơm tại hàng ba trước lớp trong lúc hè chúng tôi ở trên trường làm ruộng. Bác Ba lắc đầu hỏi tôi,

"Lát nữa tụi con ăn cơm với cái gì?"

Tôi gãi đầu gãi tai, ấp úng như đứa học trò không thuộc bài,

"Chắc tụi con ăn chao nữa."

Bác Ba móc bóp ra, dúi vào tay tôi một ít tiền,

"Con đi mua thịt xá xíu hay cái gì đó. Mua thêm rau nữa nghe không? Có thức ăn mới có sức để làm việc chứ."

Sau khi cả nhà 6 Hậu dọn nhà về nơi ở mới, tôi phụ suốt mấy buổi. Tôi phải ăn cơm với cả nhà. Trong những lúc vắng vẻ sau bữa ăn, vì xem tôi như người thân thiết, Bác Ba gái đã buộc miệng kể với tôi,

"Thằng Hậu có phước lắm. Cả nhà thương nó như ruột thịt. Mẹ nó bỏ cho ổng bắt về nuôi khi nó mới một hai tuổi gì đó. Con thân với nó, con khuyên nó ráng học. Bác Ba chỉ mong nó học giỏi để lo tấm thân nó thôi."

Đúng là 6 Hậu được đối xử công bằng, cái công bằng của Bác Ba Phép- một cán bộ hành chánh khi mà Ba tôi lâu nay đâu có biết hai anh em tôi sống ra sao. Bác Ba thường nhắc thằng Hùng- em út trong nhà- chở tôi đến nhà để hai đứa tôi tập bơi ở cái lung khá lớn sau nhà mỗi khi con nước lớn. Sau lần đầu tiên tôi theo Hậu về bên Nội nó, đa số Cô Dượng thương tôi đặc biệt là Bà Nội. Sau lần đó, mỗi dịp tết, Bác Ba lại sai thằng Hùng đến nhà tôi để xin phép má tôi cho tôi được theo cả nhà về bên Nội. Tôi nhớ rõ năm đầu tiên, Bác Ba giới thiệu tôi với bà con xa gần,

"Thằng Thành này là bạn học với thằng Hậu."

Năm sau đó và mãi về sau này, Bác đổi lại,

"Thằng này là cháu tôi."

Ít ai hình dung nỗi sung sướng của tôi như thế nào đâu. Ít ai thèm một tiếng kêu yêu thương như thế. Tôi được xem như có một quê hương mới, có một vị trí như 6 Hậu. Bà Nội thấy tôi hiền lành, chịu khó nên càng "kết" tôi hơn. Bà có vài lần hỏi tôi,

"Con về đây chơi thường có để ý đứa nào không? Con của Cô nào cũng được hết há. Nội đứng ra lo hết cho. Nội gả không cho"

Nghe vậy, Bác Ba thích ý lắm, cười híp mắt,

"Thằng Thành thế nào cũng làm cháu rể trong gia đình này rồi." 

Tôi thẹn thùng đỏ mặt hoài. Chị Năm, chị Hằng, tiếp lời Bác ba,

"Bà Nội chịu là xong hết hà Thành ơi. Chà Chà, Thành sướng hơn 6 Hậu rồi còn gì."

Tôi chỉ mong 6 Hậu không mặc cảm. Tôi muốn nó được Bác Ba thương lo như tôi tự mong được có người cha như Bác vậy, cái mong mỏi bình thường của một đứa con trai rất bình thường. Hậu ít nói như tôi nhưng nó ngông như tên gọi của nó- 5 Ngông còn tên tôi là 6 Ngố- theo bí danh trong Bụi Gia Trang của chúng tôi. Nó không hề hé môi về cái lai lịch của nó, về ý kiến của Bác Ba hay về những gì Nội nói với tôi. Lần đầu tiên đến nhà tôi- 12/5 Lê Lai- là lần Bác Ba được tôi mời đến dự tiệc "chia tay để đi Bảo Lộc học" do chính tay tôi tổ chức. Bác ngạc nhiên vì không thấy có ai khác trong nhà. Biết Bác muốn hỏi gì đó, tôi nhỏ nhẹ giải thích,

"Dạ Má con đi làm ca tối. Chị con chắc là có tiệc tùng gì với mấy người đồng nghiệp. Còn em con... nó đi chơi tối ngày."

Bác ái ngại hỏi tôi một chi tiết,

"Ai lo nấu nướng mấy món này?"

"Dạ con có nhờ chị hàng xóm phụ một chút. Con tự nấu hết. Dạ con nấu quen rồi."

Đã từng dự hàng ngàn buổi tiệc, Bác Ba không ngờ có một bữa tiệc do một thằng con trai 15 tuổi tổ chức. Dĩ nhiên, Bác khuyên chúng tôi cố học và mời cả nhóm chúng tôi ăn sáng trước khi lên đường. 6 Hậu chắc không để ý tôi đã hãnh diện đến dường nào đâu. Đầu kỳ nghỉ hè năm 1973, sau một năm có nhiều kẻ đã phải gác bút nghiên để đi quân dịch, 6 Hậu đã làm một chuyện quá sức ngông mà dĩ nhiên làm tôi sững sốt và làm Bác Ba rất đau lòng. Biến mất hôm đầu tiên, nó lái chiếc xe Honda của Bác Ba đi dong ruỗi đến tận Đà Lạt với một nhóm bạn. Bao nhiêu ngày nó vắng nhà là bấy nhiêu buồn phiền chồng chất khiến mái tóc của Bác Ba bạc hơn và Bác Ba như già đi 10 tuổi. Hằng ngày, trên đường đi đến lớp luyện thi của "Thầy Trí Ba Túi dạy toán"- "Thầy Lễ dạy triết", tôi đi tắt ngang nhà 6 Hậu. Lần nào gặp tôi là lần ấy Bác cảm thấy đau nhói vì thấy tôi đi học trong khi 6 Hậu đi chơi. Sau khi 6 Hậu trở về, Bác Ba- một cán bộ ngành cảnh sát, chở nó ra một tiệm hớt tóc quen. Đưa tiền cho nó xong, Bác phải đi công chuyện ngay. Cũng vài phút ngay sau đó, 6 Hậu rời tiệm hớt tóc- với cái mái tóc vẫn như cũ.

    Năm học lớp đệ nhất, năm khó khăn nhất, có một việc rất lớn xảy ra giữa hai cha con. Bác Ba chậm gởi tiền lên cho nó. 6 Hậu xem như ông già muốn làm khó nó. Thay vì lo học, nó vùi đầu vào quán cà phê, những cuốn truyện dịch dầy cộm. Cậu Doãn là một đồng minh thân cận. Băng Cần Thơ chúng tôi hết ý kiến. Tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nó trong lớp.

   Bác Ba phải đi cải tạo sau ngày giải phóng nên tôi đã không gặp Bác trong những lần tôi từ trường ghé lại thăm nó. Cái dịp đặc biệt- trung tuần tháng tư- tôi ghé thăm cũng là lần cuối cùng tôi gặp được Bác Ba. Tôi thẩn thờ hay tin nó đang ở trong trại giam Cây Gừa. Ngoài việc mang theo cho nó một đôi giày và một áo thun đá banh củ, tôi còn mang theo một món quà tinh thần rất lớn lao mới mẻ- "tao sắp ra trường rồi đây nè."

Bác Ba xế chiều hôm đó, đang ngồi chùi ống khói, chăm dầu hôi vào hai cây đèn. Buồn bã, già nua và mệt mỏi, Bác Ba nói một câu tôi còn nhớ đến bây giờ,

"Thằng Hậu lại bỏ đi nữa rồi Thành ơi. Nó bỏ bạn, bỏ bè lại rồi con ơi."

                                             

                                           Rạch Giá Sep 4- 2010

                                     Lương Ngọc Thành- Thành Xì TL71    

 

                                            MẠ CHÁNH

   (Ở Bảo Lộc nhiều người biết tiếng lò nem của bà Chánh nhưng rất ít ai biết Mạ Chánh có một tình sử thật độc đáo.)

 

   Tại số 23/3 đường Gia Hội, xóm Trần Trạch, mạ Chánh đã được sinh ra và lớn lên trong phủ của bà Công chúa Đồng Phú. Là con út trong một gia đình nho giáo dòng giõi thứ 25 của vua Thiệu Trị, đang học lớp 5, Cours Supérieur, tuổi 15, mạ Chánh không biết chi ngoài việc học lấy bằng Primaire Élémentaire. 

   Cậu học sinh con một Trương Chánh từ huyện Tam kỳ, Quảng Nam, được gia đình gửi ra Hội An trọ học. Sống gần một khu nhà thổ, nơi ăn chơi ồn ào náo nhiệt của giới mày râu, cậu học trò vốn thường nghịch phá ấy đã có rất ít tiến bộ. Dù chỉ theo nghề nem chả của ông bà, ba ruột của Chánh luôn luôn mong cậu con một ấy học giỏi. Vốn không sanh được con, cô dượng của cậu xem Chánh như con ruột. Cha ruột và cha nuôi, một thầy thuốc, cùng quyết định đưa cậu Chánh đang học lớp đệ tứ, rời Hội An ra học trường Tư Thục Thuận Hóa, cố đô Huế.

    Một hôm, một người bạn của dì của Mạ đến xin cho một cậu học trò Chánh lớn hơn Mạ 4 tuổi ở trọ học. Vốn rất ít nói nhưng học khá giỏi, Chánh nhanh chóng khiến cho ông ngoại thương yêu. Dù tuổi cao đang bệnh hoạn, ông luôn quan tâm đến người học trò xứ Quảng ấy. Mỗi khi có quà bánh, thức ăn ngon, ông đều nhắc cô con gái út chia phần cho Chánh. Biết sức khỏe yếu dần, người cha xứ Huế rất muốn cho "con ni" gần với "thằng nớ" hơn. Quá thương Chánh, ông ta luôn thầm nghĩ ra cách để giữ người học trò xứ Quảng ấy ở lại Huế luôn. Ông bảo Trương Đức Chánh dạy kèm cho cô con gái út môn toán và Pháp văn, 3 buổi tối một tuần. Được sống trong khung cảnh nên thơ của vùng có nhiều đền đài lăng tẩm núi Ngự sông Hương, Trương Chánh còn bị một sức hấp dẫn rất mạnh từ người con gái Huế mà chàng giảng dạy.

   Sau khi nghỉ tết năm Ất Dậu, 1944, Trương Chánh từ Tam Kỳ, Quảng Nam trở ra Huế với một cái chân bị băng bó. Thay vì hỏi han "ông thầy dạy kèm" vừa bị tai nạn gì, cô học trò nhỏ, Trần Thị Mãi Tiếu, cứ che miệng cười ra vẻ trêu chọc. Chàng đã cứ tưởng là,

  "Mãn mùa toóc gạo rơm khô,
   Bạn về quê bạn biết nơi mô kiếm tìm?"

Tiếu càng ít quan tâm đến cái vết thương ấy, ông thầy Chánh càng dỗi hờn. Chánh chỉ còn biết trách thầm,

"Người mô mà vô tình như rứa?"

Sự vô tình ấy như thúc giục thêm chàng trai xứ Quảng, họ Trương tiến thêm một bước. Sau gần một năm dạy kèm cho cô học trò Huế, một buổi tối, trong giờ học, thầy Chánh viết ra trên một mẩu giấy nhỏ một thông điệp vô cùng vắn tắt và độc nhất vô nhị. Lòn tay xuống dưới mặt bàn, dùng chân khều chân của cô học trò nhỏ, thầy Chánh trao một mảnh giấy nhỏ,

"Tiếu có thương anh không?"

Đang rất lo lắng về 10 bài toán phải nộp vào sáng mai, nhất là đang ngồi trong bàn học gần giường bệnh của cha, không hé miệng nói đến nửa lời, người học trò Mãi Tiếu vò ngay mảnh giấy nhỏ ấy và buông nó rơi xuống sàn nhà.

Không màng đến chuyện gì chung quanh, thầy Chánh lòn tay xuống bàn cố trao cho người học trò đang ngồi thẹn thùng trước mặt một mảnh giấy nữa, với cùng một câu hỏi,

"Tiếu có thương anh không?"

Lần nào cũng vậy, chữ Tiếu được chàng viết hoa và gạch dưới. Lần nào đón nhận, người thiếu nữ Huế chưa biết thế nào là thương yêu ấy cũng vò nhỏ rồi buông rơi nó xuống sàn nhà, thầm mong sao cho thời gian trôi qua thật nhanh.

  "Tình về Đại Lược. 

   Duyên ngược Kim Long.

  Tới đây là chỗ rẽ của lòng.

  Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?"

Một bên, người con gái 16 tuổi, "ốt dột", không nói một lời nào. O Mãi Tiếu chỉ cúi rủ mái tóc dài che mặt, trong lòng vừa lo sợ vừa hờn giận. Bên phía bên kia bàn, người thanh niên họ Trương, 20 tuổi, cũng không nói một lời nào mà cứ tiếp tục viết và trao cho O Tiếu mảnh giấy khác cho đến hết buổi học. Những mẩu giấy bị vò nhỏ ấy vương vãi khắp dưới mặt bàn.

   "Núi cao chi lắm núi ơi,
    Núi che mặt trời không thấy người thương."

    Sau khi không được nàng phúc đáp, chàng bèn viết thư về cho cha ruột và cha nuôi. Hai người cha lập tức ra Huế để gặp ngay người anh cả của Mãi Tiếu để xin làm đám hỏi và có thể là cưới "chạy tang". Bà mẹ của Tiếu liền phản đối, vì theo lời bà giải thích,

"O Tiếu còn nhỏ lắm, còn phải đi học. Mai này, sau khi ông quy tiên, mạ còn trông nhờ vào O, chăm sóc kề cận chứ hỉ." 

Ba của Tiếu thì cho rằng đến lúc sắp ra đi như vầy ông chỉ muốn nhìn thấy cảnh Trương Chánh trở thành con rể. Ông mong sao được cặp tân lang tân nương dâng cho ông miếng bánh, ly rượu lễ. 

   Biết ngày một yếu dần, ông đồng ý làm một đám cưới gấp trước khi ông trút hơi thở sau cùng.

Khoảng 11 giờ đêm hôm ấy, với 3 mâm trầu rượu, 1 trên bàn thờ tổ tiên, một trên bàn thờ Phật và một mâm lễ. Xính lễ của gia đình họ Trương là một đôi bông tai và 3 tờ giấy bạc Đông Dương. Cạnh giường bệnh, người anh rể của Mãi Tiếu viết tay tờ giấy hôn thú. Mãi Tiếu không được mặc áo cưới, không trang điểm, không có họ nhà gái chúc mừng, cho quà và không có lạy xuất gia. Khi cặp nam nữ ấy đang đứng sánh đôi thắp hương bàn thờ tổ tiên, tiếng pháo nổ trước sân khiến nhiều người hàng xóm chạy đến xem. Ông được đỡ dậy để nhìn thấy quang cảnh đám cưới của cô gái út. Để ông hưởng chút ít lễ cưới, người con rể đút cho ông một tí bánh. Ông vui lòng nhấm nháp trên đầu môi. Một số người dự lễ lại có ý kiến để ông nhấm chút rượu. Ông mỉm cười nhìn đôi tân lang tân nương rồi nhấm nháp một chút rượu được người rể lớn dâng đến miệng. Cốc rượu lễ vừa được lấy ra, Ông cũng vừa ngả đầu nhẹ về phía phải, nhắm mắt ra đi trong tiếng khóc rống lên của mọi người.

    Sau cái đám cưới chạy tang ấy, cô dâu Tiếu thi đậu bằng Primaire và chú rể Chánh thi đậu Diplôme và được bà mẹ vợ làm một cặp vịt vừa để cúng người chồng quá cố vừa để khao chàng rể hiền, hiếu học.

    Suốt đời Mạ chỉ có ba Chánh và cuộc tình của Mạ thật đáng đọc.

                                                           Rạch Giá 21- 05- 2013

                                                               Thành Xì- TL 71

 

                                              MÁ NĂM

 

     Nếu kiếp sau được phép chọn một người mẹ đẻ, tôi chọn ngay Má Năm vì nhiều lý do và Má Năm chắc sẽ hạnh phúc hơn, Long Kh'mer cũng sẽ vui hơn nhiều.

    Ngay sau khi gặp Long Kh'mer, sáng hôm sau nó dắt chúng tôi đến quán Má Năm để uống cà phê. Má nhận ra thằng Khuê Bầu ngay. Long giới thiệu tôi như là một người bạn mới của nó và công dân mới của Bảo Lộc. Má Năm pha hai cái "phin" đãi 2 đứa tôi một cách ân cần. Trưa hôm ấy, chúng tôi ra quán để tận dụng khoản cơm cháy trong cái nồi cơm to má vừa bán xong. Má nấu các món ăn mặn thật đặc sắc. Dân xe tải gốc nam bộ rất mê món ăn của Má Năm. Khách đi xe Đà Lạt sau ghé ăn một lần, luôn luôn buộc tài xế ghé quán của má dẫu cho phải ngồi chờ má bắt thêm cơm hay làm thêm món ăn họ đặt. Chị Năm cũng góp phần làm quán đắt khách với cái cách chị hỏi chuyện vừa dọn bàn vừa trả lời các câu hỏi của thực khách một cách thân mật tự nhiên. Vài hôm tối trời, má còn mời mấy tay tài xế một đĩa đồ nhấm khi họ quyết định ngủ lại Bảo Lộc, bên lề đường, ngay trước quán của Má Năm.

    Gọi là quán vậy thôi chứ nó chỉ là một khoảng hơn 10 mét vuông, trong cái mái che ở phía sau của chợ Bảo Lộc. Quán gồm một cái quầy- cái hộp hình chữ nhật có 3 cạnh, chiều dài vừa bằng chiều cao của má và đủ chỗ cho hai mẹ con chui vào lọt thỏm trong đó và 2 bộ bàn nhôm xếp, ọp ẹp, ghế đẩu hơi xiêu vẹo và không có bảng hiệu. Mặt trên quầy là chỗ má bày những thứ cần cho việc buôn bán, cái tủ thuốc lá, một vài hũ rượu, một cái kệ gỗ cũ kĩ chứa chai lọ đựng đồ gia vị hay bất cứ thứ gì khác. Má Năm không hề hé răng than phiền cái cơ nghiệp má có để nuôi sống hàng chục người trong nhà. Mỗi khi trời mưa, chị Năm phải lay hoay che chèn chỗ hổng này, hứng nước dột chỗ khác. Trừ chị Tư ở nhà nuôi một cháu tàn tật và làm nội tướng, Thành Lát, Hạnh Ù, Dung Đen phải đi làm để phụ với má. Mọi người trông nhờ vào cái quán này của Má Năm.

   Má Năm có cái tên khai sinh trùng khớp với tên của "Liên Hải Cẩu"- Nguyễn Thị Liên- quê quán Trà Vinh. Ba Năm gốc Tàu- Quảng Đông, từng là thợ cơ khí của hãng Bason. Sau khi thua lỗ trong việc làm ăn, và sau khi được giới thiệu lên Bảo Lộc sửa xe cho một ông tây chủ đồn điền, ba Năm dắt má Năm và 6 đứa con lên B'lao lập nghiệp. Trước khi về Pháp, ông tây giới thiệu má nấu ăn cho cha sở. Sau này cha sở giúp má Năm vào làm thợ nấu cho Tòa hành chánh huyện B'lao. Sinh thêm 3 đứa con nữa, tảo tần suốt năm, má Năm đến nay chưa có dịp nào về thăm lại nơi "chôn nhau cắt rún". Sau ngày Giải phóng, má bày ra một sạp bán ngay ở Bến xe. Chưa có lần nào Má Năm nghỉ bán để đi đâu cả. Mọi chuyện trong nhà chị Tư chăm lo. Chị Năm sát cánh với má lo cho nồi cơm chung cho 11 người. Ba Năm bó gối ở nhà. Yếm thế, buồn đời, ông dần dà thành kẻ nghiện rượu. Khi con bé Hạnh Ù, Dung Đen hay thằng Tèo ra quán để đem thức ăn về, tụi nó hay kể cho Má nghe ở nhà ba Năm vừa quậy như thế nào. Dĩ nhiên, Long Kh'mer rất ray rức về chuyện ấy. Anh của nó- Thành Lát- cũng góp phần làm nó buồn thêm bởi cái ngang tàng bê tha của hắn và cả chuyện hắn cãi vã với ba Năm nữa.

     Một lần, khi Má Năm nghe Long kể về tôi,

"Thành Xì ở ký túc xá ăn cơm tập thể với bo bo và bột mì. Còn cơm hả? Má mà lấy cục cơm chọi con chó, nó dám lăn đùng ra chết lắm đó má."

Má Năm tặc lưỡi, hỏi tôi,

"Cực khổ quá vậy hả con?"

Thằng Long lẻo mép đó "châm thêm dầu vào lửa",

"Mỗi tháng nó được 21 đồng tiền học bổng đó má. Có khi nào nó có xu nào dính túi đâu Má?"

Má Năm trợn mắt, nhìn tôi,
"Rồi sao con có tiền ăn quà hàng bánh gì hả con?"

"Nó còn cạy cơm cháy nhà bếp để ăn sáng đó má!"

Má xoa đầu tôi,

"Mèn đét ơi! Tội nghiệp thằng nhỏ quá chừng. Thôi ráng nghen con. Ra trường xong, lên đây ở với má."   

     Tôi thấy run run trong lòng dù trời đang nắng ráo. Dãy phố cũ kỹ phía sau chợ Bảo Lộc bỗng dưng lung lay nhảy múa trước mắt tôi. Mặt đất như đang rung rinh, như sắp có trận động đất. Sau khi có má Chánh rồi, tôi vừa có thêm một người má nữa ở Bảo Lộc này mà mẹ ruột của tôi nào có hay. Cái chòi, mái tole, được che chắn tạm bợ xiêu vẹo này, cái sạp bán tềnh toàng thế này bỗng trở thành một căn nhà nhỏ xinh xắn ấm áp. Các vật dụng tềnh toàng bỗng trở thành bông hoa, thành đồ trang trí đẹp mắt. Tôi thầm cảm ơn má và ước chi tôi không còn một lựa chọn nào khác. Tôi thầm mơ ước sao tôi có thể làm được điều gì đó để giúp cho Má ngay tức khắc. Dọn bàn, bưng thức ăn ra cho khách là chuyện tôi làm được. Má rầy tôi,

"Để cho chị Năm làm! Con ngồi chơi với thằng Long đi. Con khuyên nó ít nhậu lại giùm cho má."

Quay sang nó, má cũng "mần" nó luôn,

"Cái thằng quỷ này nè. Cứ tới giờ cơm là nó dắt "thằng nhỏ" đi đâu mất biệt vậy hà. Để nó ở lại quán má tẩm bổ cho nó chứ"

     Long Kh'mer chưa kể nhiều chuyện về má Năm cho tôi nghe nhưng tôi cũng chẳng  cần biết thêm một điều nào nữa cả. Tôi chưa nghe má than phiền ai. Tôi không hề nghe má mắc mứu một điều gì. Má đi lễ hằng chiều chủ nhật. Cha Thịnh, vì quý tài năng Long Kh'mer- người vẽ tặng cho cha một bức chân dung Chúa Jesus rất tuyệt- với cái tựa đề rất sốc "Đại Ca Jesus"- nên cũng rất quý mến Má Năm. Một lần tôi được Má Năm rủ đi chợ. Tôi nghe biết bao nhiêu tiếng chào, tiếng hỏi han của các bà nội trợ hay bà bán hàng. Má vui vẻ giới thiệu tôi với mọi người,

"Bạn của thằng Long, lên đây nghỉ hè."

Có khi má lại buộc miệng,

"Cháu tôi, học ở Sài Gòn."

Tôi cảm động nhất khi nghe má bảo với họ rằng,

"Con trai tui đó. Nó về trên này nghỉ hè."

Ai đi chợ Bảo Lộc và nhiều người dân Bảo Lộc hôm ấy chắc phải tự hỏi,

"Bà Năm sao có lắm con đến thế nhỉ?"

     Mỗi khi có chuyến xe tải quen ghé lại trong một cơn mưa phùn hay vào một chiều tối có gió lạnh, má hỏi ngay bác tài,

"Nhâm nhi chút gì cho ấm bụng nhen con."

"Dạ, má cho gì con nhậu cái đó."

Má Năm nấu thật nhanh một món thơm phức, bốc khói. Rót ngay một ly rượu trắng, má mời mọc người thực khách kia như một đứa con từ xa mới về,

"Vô đi, chờ má nấu chút xíu nhen!"

    Chưa có một thực khách nào phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Dù cho các bàn ăn và ghế ngồi hơi lung lay, chỗ ngồi của họ có khi bị mưa hắt vào hay bị dột, nhưng thức ăn má nấu, cái cách má tiếp họ làm họ rất hài lòng. Cũng chưa có ai trong nhà không thương lo và tội nghiệp cho má. Tôi thấp thỏm lo lắng,

"Ngày tháng cứ trôi qua, bà mẹ già rồi sẽ xa ta."

Tôi ao ước một ngày thấy má bớt vất vả. Tôi mong sao có ai trong nhà mang má về phụng dưỡng để má chỉ ngồi ăn trầu, đọc kinh, bồng ẵm cháu và thỉnh thoảng được về Trà Vinh thăm quê hương.  

   Sau chuyến Long Kh'mer bất ngờ qua Rạch Giá thăm tôi, tháng 5 năm 1993, chỉ nhận được một món quà rất nhỏ của tôi- hộp dầu cù là của Thái Lan, má Năm mừng rỡ buộc miệng nói ngay với Long Kh'mer,

"Thằng Thành Xì tìm đâu cái hủ dầu "quá đả" vậy con. Biểu nó có rảnh thì lên trên này chơi thăm má nghen! Nhắc nó mua cho má một hủ dầu nữa nhen."

  Khi Long Khmer xuống dự đám cưới của tôi, tháng 3 1994, thấy nó đeo tang, tôi mới biết là má Năm đã đi hơn 3 tháng sau một cơn bệnh nặng.

   Má Năm ơi,

"Con chỉ muốn ngã vào lòng má, nghẹn ngào nói nhỏ rằng,

 "Má ơi! con sẽ lên thăm má và con sẽ mang cho má nhiều thứ má thích nữa kìa!" 

 

                                                                     Rạch Giá 16- 10- 2011

                                                                      Lương Ngọc Thành

    

                                                   ĐI THĂM MẸ

                                                  TL_mother.jpeg 

         Ai có mẹ đều phải thường xuyên đi thăm. Tôi đã vắng xa mẹ tôi 4 năm. Khi đi thăm người, tôi đã có một hành trình ít có ai tưởng tượng ra được.

         Một lần chị tôi, trên đường đi về kinh tế mới Long Đất, ghé trường ĐH Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức để thăm tôi. Chị ấy kể cho tôi nghe cái nơi mẹ tôi đang ở: Ngả ba kinh Quản Thống, Sóc Xoài, Hòn Đất, Kiên Giang - nơi tôi hứa chỉ sẽ đến sau khi tôi tốt nghiệp. Được nhà trường tiếp tục đào tạo từ tháng 9,1975, tôi quyết tâm tự lực- không để chuyện gia đình chi phối, không trở về gặp mẹ tôi cho đến khi thành đạt. Trong khi chờ nhận quyết định phân công của nhà trường, tôi đã xin phép ban quản lý ký túc xá để đi thăm bà mẹ ruột, ngày 12 tháng 9 năm 1979. Từ 4 giờ sáng, tôi đã có mặt tại Xa cảng miền Tây để sắp hàng mua vé xe Rạch Giá. Quá nhiều cầu nhỏ, quá nhiều ổ gà lớn và 2 cái phà quá tải đã khiến cho chuyến xe chậm hơn nhiều so với mong muốn rất thông thường của đứa con đi thăm mẹ như tôi. Đến 4 giờ rưỡi chiều, tôi mới đến bến xe Rạch Giá. Biết không còn kịp đò, tôi đi xe lôi về bến xe Lam. Chờ thêm vài người hành khách đi trễ, bác tài mong kiếm thêm vài đồng bạc lúc cuối ngày. Tôi ước gì có được khoản tiền ấy để tôi yêu cầu ông ấy cho xe lăn bánh sớm hơn. Ngoài trời chuyển mưa rất to còn trong lòng tôi thì có nỗi lo rất lớn. Nếu tôi không tìm được nhà mẹ tôi đêm nay, rất có thể tôi được xem như một kẻ xấu, như một tên tù vượt ngục.

Chiếc xe Lam khiến tôi khổ sở hơn chiều tối hôm đó. Nó cà giật cà giật như một con gà bệnh, mắc giây thun, như gã say rượu chân hươu đá chân nai. Cơn mưa đổ xuống như thác nước lớn trong mùa mưa. Hai bên đường không có một bóng người hay xe cộ nào khác. Những ánh đèn dầu lù mù loé ra khỏi các khe cửa hớ hênh hoặc các vách lá tềnh toàng làm cho tôi thêm lo sợ. Trên xe có cả thảy 7 người. Họ đã quen với các chuyến xe chót như thế trong khi, với tôi, đó là chuyến xe kinh hoàng nhất tôi từng đi. Tiếng máy xe nổ vang, trộn lẫn trong tiếng sấm chớp, tiếng mưa rơi nặng hạt đập lên nóc mui xe, tiếng gió rít qua các khoảng cách giữa các ô cửa kéo và tiếng đập hoảng loạn trong tim tôi tạo ra một bản hoà tấu kinh dị nhất trong thế giới âm nhạc. Để tự trấn tỉnh tôi cố hình dung ra mẹ tôi lúc ấy. Bà có thể ngồi bên bếp lò- được kê bằng các viên gạch thẻ, chụm các bó rơm nhỏ, các khúc gỗ đước trong một cái chòi lá thấp nhỏ bé, không cửa sổ, không có gian, buồng hoặc bàn ghế gì cả. Bà cũng có thể nằm thở dài trên một cái giường- nẹp tre là cái vạt giường, miếng đệm bằng lát thay cho miếng nệm, bốn khúc gỗ tràm to bằng bắp chân làm chân giường- cái giường ít có một hoạ sĩ trẻ tuổi nào có thể vẽ ra được.

Khi đó tôi thèm được đi trên cái xe đò 52 chỗ ngồi lao vun vút lúc xuống mấy con dốc trên quốc lộ 20 đi Bảo Lộc. Tôi ước chi có một phép mầu đẩy chiếc xe lam cũ kĩ chậm chạp chết tiệt này thật nhanh đến cái kênh Quản Thống gì đó để tôi gặp mẹ tôi ngay tức khắc. Một người khách xuống xe dọc đường làm vơi đi một ít tải trọng nhưng lại chất thêm lên một ít hoang mang lo lắng. Một người khách nào đó ngoắc xe dừng lại- cũng là có thể là kẻ ngoắc tôi lại để hỏi như tát nước vào mặt tôi:

"Đi đâu vào giờ này hả? Xuống đây làm gì hả"  

Dọc theo đừơng bộ đi Hà Tiên là một con sông dài song song. Từ Rạch Giá, cứ mỗi 3 hoặc 5 kí lô mét là một cây cầu- cầu số một- cầu số hai. Tôi hỏi thăm mới biết rằng kinh Quản Thống nằm khoảng 2 phần ba tính từ cầu số 3 đến cầu số 4- chợ Sóc Soài. Thẳng góc về phía Long Xuyên là các con kinh nhỏ, một đầu ra biển còn đầu kia dắt vô khu tứ giác Long Xuyên. Về bên phía đầu kinh đổ ra biển là khu vực dân cư của người Kh'mer và một số hộ nông dân nghèo.

      Chiếc xe qua cầu số hai một cách khá vất vả. Khi xuống dốc cầu, nó chạy nhanh hơn nhiều. Vượt qua chợ Mỹ Lâm vắng ngắt, rồi chốc sau nó đổ lại bến xe. Mọi người trong chiếc áo mưa lục đục xuống xe, không một tiếng chào, không một tiếng cám ơn. Bước xuống xe nhanh nhẩu, mình trần, đầu trần, mặc cho nước mưa tạt rát trên gương mặt còn búng ra sữa của tôi, tôi hỏi ông tài xế hom hem, đang co ro trong cái áo khoác đẫm nước:

"Từ đây đến kinh Quản Thống còn bao xa nữa vậy bác?"

"Khoảng 9 cây số."

" 9 cây số! Còn xe tàu gì đi đến đó không bác?"

"Trời tạnh ráo thì còn đón đò, xin quá giang được. Mưa giông như vầy thì vô phương."

Ông ta, lộ vẻ nghi ngờ, đã hỏi nhỏ tôi:

"Cậu đi đâu giờ nầy có một mình vậy?"

"Cháu từ Sài Gòn về thăm mẹ cháu ở kinh Quản Thống, bên kia sông."

" Tôi cứ tưởng xuống đây để...gì gì đó chứ. Hồi nãy sao cậu không ngủ lại Rạch Giá? Giờ này vô đó ớn lắm. Ghé nhà tôi nghỉ lại qua đêm đi. Sáng có đò sớm. Nhà tôi gần đây nè."

Tôi linh cảm như có mẹ tôi đang chong đèn chờ tôi. Tôi biết mẹ tôi có thể thức trắng đêm nay mong đợi tôi. Nếu tôi không đến được tối nay, mẹ tôi chắc vì buồn lo mà già đi vài tuổi, tóc bạc đi quá phân nửa. Tôi lễ phép từ chối rồi chào ông tài xế tử tế. Mặc cho mưa gió, tôi bước nhanh đi về phía trước.

Hai bên đường các căn nhà lá đóng cửa im ỉm. Ánh đèn dầu yếu ớt như cuộc đời của một kẻ đau bệnh. Tôi bước bì bỏm trên mặt đường có nhiều ổ gà, nay nằm chìm trong nước mưa. Có khi tôi như trên đường, có lúc tôi như lội trong cái ao nhỏ. Đôi giày da từ thời ông ngoại tôi còn thanh niên có thể là một vật gia bảo của ai đó bổng trở thành một chứng nhân tội nghiệp cho chuyến độc hành của tôi. Tôi cảm thấy hai chiếc giày như tăng lớn lên một cỡ, da giày mềm nhũn. Cái ba lô tôi mang trên vai, mặc dù sũng nước trở nên nhẹ tênh như tôi đang cảm thấy mỗi khi vượt qua một đoạn đường.  Sau hai kí lô mét đầu, tôi vượt qua vài chùm tre tầm giông nơi mà bóng tối trở nên khủng khiếp, nơi mà ai cũng có thể nghĩ ra những điều tệ hại, ma quái nhất. Mỗi khi có sấm sét, ánh sáng từ bầu trời rọi rất nhanh xuống như để ra hiệu cho tôi, thúc đẩy tôi và cảnh cáo tôi. Một tay bất lương nào đó bất kỳ có thể bất ngờ chạy vồ ra nắm lấy tay tôi, lôi tôi xuống chiếc xuồng tam bản ọp ẹp và chèo thẳng đến một nơi hẻo lánh nào đó như một vụ bắt cóc ngoạn mục. Điều thú vị nhất là không có ai trả tiền chuộc. Nếu có lục soát hết người tôi, tên bắt cóc có thể tìm ra một số tiền mua được một bao thuốc lá đen. 

Có một luồng điện khá mạnh chạy suốt cơ thể tôi như thể tôi bị sét đánh vậy. Tôi muốn vụt bỏ chạy khi tôi nghe tiếng nổ giòn tan của một chiếc xuồng máy gần đó, tiếng máy rất to. Tôi định la to lên để át tiếng mưa, tiếng động cơ:

"Ai đó cho tôi quá giang với." hoặc "Cứu tôi với." hay rất tội nghiệp:

"Tôi đi thăm mẹ tôi ở kinh Quản Thống, tôi không phải là kẻ xấu. Làm ơn giúp tôi với!" 

Tội nghiệp tôi ư? Ông trời gầm một cái thật to, át tiếng kêu của tôi. Tiếp theo là tiếng khởi động của chiếc xuồng máy, bỏ tôi lại một mình trên đường vắng trong cơn mưa vẫn còn nặng hạt. Tôi tự vấn:

"Chẳng phải ta lâu nay bị bỏ rơi một mình hay sao? Chẳng phải ta đã một mình vượt qua biết bao gian khổ hay sao? Chẳng phải ta vừa trải qua 4 năm học Đại Học với một ít tiền học bổng nhưng với quá nhiều khó khăn. Nếu người chiến sĩ nào đó sống sót được trong rừng một thời gian trước khi bị bắt, ta cũng có thể đi bộ nhanh đến Kinh Quản Thống ấy trước khi bị ai đó chụp bắt."

    Tôi như tiếp thêm sức mạnh. Tôi như được một liều thuốc tiên. Tôi như trẻ lại 5 tuổi. Tôi muốn chạy thật nhanh đến cái kinh chết tiệt ấy, vừa chạy vừa la:

"Con về đây mẹ ơi! Con về đây mẹ ơi!". 

Vừa đến đầu kinh, thay vì hỏi nhờ ai bơi xuồng qua sông, tôi muốn nhảy đùng xuống và bơi ngay qua sông. Tôi muốn ôm ghì lấy mẹ tôi và cả hai cùng khóc nức nở. Cả hai cùng không nói ra được một lời nào.

    Qua cầu số ba, trời vẫn còn mưa to, tôi vẫn một mình trên đường. Tôi thấy nhà dân rất thưa thớt. Kinh Kiên Hảo thẳng tắp hướng về phía đất liền, hướng bên tay trái đổ ra biển. Bên phải con đường, ít có nhà, chòi lá nên quang cảnh sáng sủa hơn. Tôi không hề thấy mỏi mệt hay đói khát. Cái cảm giác đến nhà, gặp mẹ làm tôi quên hết mọi thứ. Tôi bền bỉ như một lực sĩ đi bộ đường trường. Tôi biết đôi giày sắp rời ra từng mảnh. Tôi biết có ai đang sắp đuổi bắt tôi. Tôi hình dung mẹ tôi đang ngóng chờ tiếng gọi đò của tôi. Tôi vượt qua đoạn đường 3 kí lô mét như người ta tản bộ trong một công viên nhỏ. Khi thấy một cụm mái nhà lá san sát nhau và bên kia sông có một kinh nhỏ, tôi tự nhủ chắc là đây rồi. Tôi đi nhanh hẳn lên như có ma đang đuổi theo ở ngay sau lưng. Tôi bỗng la lên thật to- tiếng của ai đó kêu cứu lúc nửa đêm:

"Bà Sáu ơi! Bà Sáu ơi."

Một cánh cửa phên nhích lên khi có một giọng bên trong phát ra:

"Ai kiếm bà Sáu giờ nầy vậy hả?"

"Dạ, dạ, tôi là con của bà Sáu nè. Dì làm ơn đưa tôi qua sông giùm nhe. Tôi xuống đây trễ quá. Làm ơn nhe."
  Đội nón lá lụp xụp, tay cầm cây dầm, người phụ nữ- như được mẹ tôi dặn dò trước nhiều lần- không hỏi, nói thêm điều gì nữa, cẩn thận bước xuống chiếc xuồng nhỏ được cột sát bên vách nhà và sẵn sàng đưa tôi qua sông.

     Tôi vội bước xuống, lòng nhẹ nhõm, vui như một du kích được xuồng đưa vào khu an toàn, như người tù được đón sau một chuyến vượt ngục gian lao. Khi qua được hơn hai phần ba con sông, trời còn mưa, trong bóng tối đen như mực, tôi bỗng buột miệng kêu lên:

"Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi, mẹ! Con về đây mẹ ơi".

Tiếng kêu từ trái tim của một con chim lạc đàn gọi mẹ.

Không ai từng nghe thấy. Không ai lập lại được như thế đâu!

                                          

Rạch Giá 15-1-10

 Lương  Ngọc Thành

                                                         

 

 

                                     THU HƯƠNG - CẦN THƠ

 

    Hằng tuần chúng tôi đều có thư từ Cần Thơ. Trong khi thằng Phúc Lùn mừng đến đỏ mặt tía tai khi nhận thư của Hồng Vân, giống như tôi khi nhận thư của Thanh Vân, Trọng Thỏ- trưởng lớp- trầm tĩnh cho cái phong bì vào sấp sách vở nó đang ôm trên tay. Ai cũng biết nó chỉ nhận thư của một người: Nguyễn Thị Thu Hương.

    Trên đường Võ Tánh, cạnh trường tiểu học Võ Tánh, ở cùng hẻm 2, ngay góc khúc quẹo phải vô nhà nó, Thu Hương ngày ngày để mắt tới anh chàng hơi còm, hơi cà khêu, hơi kênh kiệu và rất ít nói ấy. Nàng không thấy có bạn hắn đến chơi. Nàng cũng không hề thấy chàng đi đâu ngoài giờ đi học hay đi chơi bóng rổ. Nàng không hề thấy chàng quở trách em út, không hề bị bố mẹ la mắng. Khi chàng vào lớp 8 Nông Lâm Súc Cần Thơ, thấy chàng lấm lem khi đi học về, với ít rau muống, rau lang trên cái yên xe sau, tim nàng bắt đầu rung động rộn ràng hơn mỗi khi gặp chàng.

Thu Hương thường tự hỏi,

"Làm sao có anh chàng nào vừa hiền ngoan, chịu khó lại vừa lành tính lành nết cần cù như thế này nhỉ?"

Tình cờ được cậu út dạy cho đàn guitar cổ điển, Trọng Thỏ- vốn là kẻ ham thích âm nhạc, cần cù với các ngón tay dẻo dai khẳng khiu này học rất nhanh. Với cây đàn cũ khá tốt người cậu tốt bụng tặng cho hắn, Trọng Thỏ trở thành một tay chơi guitar classic có hạng trong lứa tuổi 15 khi ấy. Tính khí của hắn vốn được bộc lộ lâu nay qua ngòi viết- chải chuốt lả lướt, qua cú sút bóng rổ nắn nót kỹ lưỡng, giờ đây, ôm đàn lên mỗi buổi tối sau giờ học bài, hắn làm cho Thu Hương thêm say mê đắm đuối.  Xưa kia, nhờ có chàng Trương Chi xấu xí cất tiếng hát, nàng Mị Nương đã nhanh chóng bình phục bệnh tình. Nay nghe tiếng đàn của chàng Trọng Thỏ- người chắc hẳn đẹp trai hơn Trương Chi nhiều- nàng Thu Hương bỗng dưng sinh bệnh.

    Thiếu tiếng đàn của chàng, bệnh của nàng trở nên nặng hơn. Trong hè vừa hết lớp 9, đầu năm học 1970- 1971, biết chàng phải đi đến tận Bảo Lộc để nộp đơn chuyển trường, Thu Hương cảm thấy xốn xang, lo lắng, đứng ngồi không yên. Viết hết những 4 trang vở học trò, Thu Hương vận dụng tất cả vốn liếng văn chương thi phú và vài cánh hoa ép khô để bộc lộ tình cảm của nàng. Nàng giải bày những điều đã khiến nàng yêu quý, kính trọng người thanh niên cùng xóm- hai nhà đối diện và dĩ nhiên nàng chỉ xin chàng im lặng mỉm cười với nàng- một đặc ân  duy nhất- Khéo léo thuyết phục Như Trang- em gái của Trọng Thỏ trao thư tận tay chàng và giữ kín chuyện này. Mối tình của hai người bắt đầu sau khi Trọng Thỏ ta đọc thư. Tối hôm ấy, Trọng Thỏ đàn hay hơn bao giờ hết và Thu Hương cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết khi nhìn thấy chàng mỉm cười với nàng.

   Tối hôm trước ngày chàng lên đường đi Bảo Lộc nhập học, 27- 8- 1971, dưới gốc cây trứng cá, họ ngồi cạnh nhau trong bóng tối trong yên lặng và ngay khi chàng "Thỏ" ấy vừa nắm lấy tay nàng, nước mắt nàng tuôn trào như con suối Đam Rong mùa mưa lũ. Thu Hương như muốn ngã gục xuống chân chàng,

"Anh đi lên đó ráng lo học và giữ sức khỏe. Em sẽ gởi lên cho anh những thứ anh cần với cả trái tim em."

Trọng Thỏ xúc động, bối rối vì lần đầu tiên chàng nghe những lời lẽ như thế, 

"Hương ở lại ráng học. Chừng nào về anh sẽ có quà cho Hương nhé."    

 Thu Hương đáp ngay như đã chuẩn bị sẵn,

"Chỉ cần anh về với em là đủ lắm rồi."

   Trên Bảo Lộc, ngay những ngày đầu tiên, hắn rất nghiêm túc, lo học, không hề màng tới điều gì khác ngoài việc cùng nhóm chúng tôi lội bộ qua trường tàu Đồng Nhân chơi bóng rổ. Cơm chiều vừa xong, nhâm nhi chút trà xanh, đánh đàn một lúc, hắn lao ngay vào sấp tập vở. Hắn tụng bài như một tay sư trẻ tụng kinh và muốn làm cho sư cả hài lòng. Hắn đặt quyển vở, rất sạch với chữ đẹp bay bướm, trên tay đi đi lại lại lầm thầm đọc bài giống như một nhà sư sắp giác ngộ. Hắn bực dọc khi có thằng nào ồn ào. Hắn liếc trừng mắt khi có ai chọc ghẹo, to tiếng. Giống như khi chúng tôi chơi bóng rổ với nhau, hắn cau có, khó chịu khi đứa nào chuyền bóng hay lên rổ trái ý của hắn hay sút hụt một quả bóng ngon ăn. Nhưng mỗi khi đọc thư của nàng, hắn tỏ ta tư lự, mỉm cười khá hài lòng và trầm tĩnh.

Ngay tuần đầu tiên hắn có thư của người tình- Thu Hương- từ Cần Thơ. Vừa thấy mặt thằng Phúc Lùn đỏ ngây ngất như say rượu và Trọng Thỏ vui sướng hớn hở khi nhận thư nàng, Tâm Dê- thằng chẳng được thư của ai- đã nghĩ ngay đến cụm từ "cần thư- thư tín". Hắn đã đặt tên cho nhóm 6 đứa chúng tôi,

"Băng Cần Thơ đúng là "cần thơ" mà!"

Vừa nhận được địa chỉ nhà trọ, từ Cần Thơ, Thu Hương gởi lên cho chàng yêu thương một chiếc áo len. Mỗi tháng Trọng Thỏ đều nhận được quà của nàng, nào là cá khô, bánh kẹo, tập vở, giấy viết thư, giấy chậm mực, vải quần áo và gần ngày trung thu năm ấy, chàng nhận được một cái bánh trung thu từ người con gái đang yêu chàng tha thiết. Chúng tôi thèm thuồng, ganh tị. Hét Quắn cứ nhìn hắn cười mỉm chi. Hậu Bào chọc tức hắn,

"Mầy viết thư hỏi nó coi một cái bánh làm sao đủ chia cho cái nhà trọ mười thằng ốm đói thiếu ăn này chứ hả?"

Phúc Lùn bênh vực,

"Mầy ngon thì kiếm người yêu đi rồi bảo nàng gởi bánh lên cho mày xơi một mình nhé. Tụi này "đếch thèm đâu nhé."

Thằng Đức Cống - CT- 71- chọc quê,

"Để tớ đánh điện tín về nhà bảo mẹ tớ gởi lên ngay 10 cái nhé. Thằng Đức Cống còm cõi này xin tiền xài thì khó chứ xin mẹ thức ăn thì có ngay."

Tuấn Bùi- CN-71- có dịp vào cuộc,

"Trọng Thỏ ơi! mầy viết thư xin nàng mấy con khô cá Sặc nữa nhé. Từ bé đến giờ, tớ chỉ ở tại Phương Lâm chưa hề biết cái thứ chi mà ngon đến như thế."

   Thu Hương chắc vui lắm khi biết cả nhà trọ chúng tôi trầm trồ thèm muốn các thứ nàng gởi lên. Nếu có một cuộc thi "người tình chu đáo", tôi sẽ bầu chọn ngay Thu Hương- người đáng làm cho tất cả những ai từng mài đủng quần trên ghế trường NLS Bảo Lộc phải ganh tị.

    Sau 3 tháng hè gắn bó với nhau hơn, năm học sau, Thu Hương gởi quà nhiều hơn năm học trước. Ngoài những thứ năm trước Trọng Thỏ đã nhận, năm sau, thỉnh thoảng chàng một mình lên bưu điện để nhận "manđa". Để yên chí không bị mất những thư, quà quan trọng, Thu Hương đã nhờ địa chỉ của ông chủ nhà Vũ Ngọc Bảng. Vốn ít thổ lộ, Trọng Thỏ cất giữ mọi thứ Thu Hương một cách kỹ lưởng hoặc nhờ bà Bảng giữ hộ. Hắn bắt đầu mặt áo sơ mi trắng mới toanh. Cái đồng hồ cũ năm lớp 10 bổng trở thành một cái "đổng" mới "keng" mà thằng Hậu Bào đã thèm chảy nước dãi.

    Năm học cuối, Trọng Thỏ- Nguyễn Phước Trọng- ăn mặc chỉnh tề nhất lớp, học lực cũng khá nhất lớp, và Thu Hương vẫn là người tình chung thủy nhất- người duy nhất gởi thư và quà cho hắn nhưng lạ thay hắn chưa hề kể lể cái đoạn kết về mối tình này. Sau ngày giải phóng, chúng tôi nghe đồn rằng Thu Hương đã cùng gia đình vượt biên bỏ lại một trong những mối tình nổi tiếng nhất của cả hai trường NLS.

 

 

Rạch Giá 17- 11-2012

Lương Ngọc Thành  

                                               MỘT TỐI GHÉ THĂM  

   

   Càng nhiều lần thằng Long Kh'mer hoặc Khuê Bầu ghé thăm tôi tại trường Đ.H Sư Phạm Kỹ Thuật ở Thủ Đức, thì càng ít lần tôi đi thăm thằng Hậu Bào tại ấp Mỹ Hưng, Cái Vồn, Bình Minh- Vĩnh Long.

 

   Sau ngày 30 tháng 4, trong nhóm Phan Thanh Giản vào NLS, lập nhóm Bụi Gia Trang, Băng Cần Thơ lên Bảo Lộc để học đệ nhị cấp ngành Lâm Nghiệp, nó và tôi có hai thứ duy nhất. Tôi là kẻ duy nhất còn học tiếp đại học và nó và đứa duy nhất về quê bên nội để làm ruộng. Nhằm để giữ gìn đất đai, để tránh tai tiếng là cảnh sát, ba của thằng Hậu đã quyết định bán căn nhà bên rất đẹp ở Cần Thơ để về vườn. Dẩu sống trong nơi xa xôi khó đến đó, Hậu đôi khi cũng có bằng hữu đến thăm như thể hắn đang ở bất cứ một nơi bình thường nào đó ở Cần Thơ vậy. Đang ở nội trú nghiêm ngặc, thời khóa biểu dầy đặc, thường xuyên đá banh cho đội trường, trong nhóm bạn học Cần Thơ, tôi là người khó đi thăm nó nhất. Hơn thế nữa, 3 tuần nghỉ hè và 8 ngày nghỉ tết, mọi sinh viên về quê còn tôi lên Bảo Lộc thay vì về Cần Thơ. Lắm lúc tôi đi lên Bảo Lộc chỉ một ngày trong lúc tôi có 3 ngày được nghỉ học để ôn thi học kỳ.

   

LNThanh_dongque.jpg

Tôi cần Bảo Lộc như một người già yếu cần dưỡng khí, như một kẻ bệnh tâm thần cần một nơi để an dưỡng. Tôi muốn đi Bảo Lộc bất cứ lúc nào giống như người ta muốn được xuất viện, người lính muốn nghỉ phép, một kẻ ngồi tù muốn được về thăm gia đình đơn giản vì, sau khi học ở đấy 3 năm, Bảo Lộc là nơi tôi đã trải qua 3 lần nghỉ hè, ăn 2 cái tết. Tôi đi lên đó giống như bất kỳ ai khác muốn đi về quê nhà, như những người ở hải ngoại mong về quê hương vậy.

 

         May mắn thay, Hậu Bào không sống cô đơn và cần về Bảo Lộc như tôi. Sống chung với một mẹ già và người chị dâu góa bụa có ba đứa cháu nhỏ, nó đang có một mái ấm gia đình. Nó làm ruộng, rẫy, chất nấm rơm, thu hái trái cây trong vườn 4 mùa trong năm. Nó luôn bận rộn với vài loại trách nhiệm và luôn có đầy ấp niềm vui. Nó còn có nhiều chàng nông dân trẻ thích nó. Họ thích chơi đá banh, uống cà phê sáng sớm hay chiều tối để bàn luận chuyện ruộng nương, để nghe nó kể chuyện học, chuyện đời của nó và dĩ nhiên là để bàn việc nhậu nhẹt với nó nữa. Họ quý nó vì nó có chữ nghĩa, có những trải nghiệm và có thể vì cái chất "Bảo Lộc" đã thấm nhập sâu đậm trong người của nó nữa. Có bà con bên nội rất đông và vì ba nó là trưởng nam, nó phải lo tổ chức, hay đi dự rất nhiều đám tiệc, giỗ chạp. Cô nào, Dượng nào cũng yêu thương nó như con. Làm hội trưởng nông dân ấp, nó phải đi họp, đi tiệc tùng của các hội viên. Là một chàng trai độc thân từng trải, dáng vóc hấp dẩn, ăn nói chậm rõ chững chạc, nó có một vài người phụ nữ lở thì, đàn bà góa bụa đem lòng yêu thương nó cho nên nó có thể đến với họ bất cứ lúc nào nó muốn. Là một thầy "giáo làng", nó có nhiều phụ huynh kính quý nó. Có thằng em trai và một chị khá giả thường rước mẹ nó qua Cần Thơ, cho nên nó có nhiều chuyến đi qua Cần Thơ để đón rước mẹ nó về. So với tôi, nó có hơn tôi nhiều thứ, chỉ trừ một điều- không còn được ngồi trong lớp học, không còn được đi đến trường. Thế mới hiểu tại sao ngày 25 tháng 12 năm ngoái, sau khi nhóm bạn bên Cần Thơ có một việc nhỏ nhặt gây mích lòng nhau, nó một mình đón xe đò lên Thủ Đức để thăm tôi.

   Trong một buổi xế chiều còn nắng nóng, bất ngờ biết có được một ngày nghỉ lễ, tôi quyết định đón xe Cần Thơ về thăm nó. Xuống xe bên dốc cầu Cái Vồn Nhỏ lúc trời đã tối mịt, tôi cứ vội vả đi nhanh vào. Khỏang hơn 4 cây số với khỏang 36 cây cầu lớn nhỏ tôi mới đến được nhà nó. May cho tôi, có hai khách bộ hành chia cho tôi chút ánh sáng từ cây đuốc họ cầm trên tay khi qua vài cây cầu nhỏ gập ghềnh. Một trong hai người ấy gợi chuyện trước,

 "Anh Hai đi đâu"dìa chể" quá" dậy?"

Tôi phải cố gắng nói dối,

"Tôi có chút công chuyện gấp lắm."

Họ tò mò,

"Anh đi thăm ai trong này "dậy" anh Hai."

Biết nhiều người ở đây biết tên ba của Hậu, tôi đáp nhanh,

" À, tôi đi thăm Bác Ba Phép."

Người đi song hành tỏ vẻ thông cảm với tôi,

"À, ổng mất hồi năm rồi. Bà Ba giờ cũng già yếu rồi. Chừng nào "dìa" tới nhà tui rồi, chờ tui kiếm cho anh một cây đuốc khác nhen."

    Cây đuốc là một bó lá dừa khô được cột chặt. Khi muốn cho nó sáng thêm hơn, người cầm đuốc quơ quơ hai ba lượt. Được chỉ bảo như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn khi một mình đi trong bóng tối đen như mực. Vừa cố đi nhanh, tôi vừa nhẫm đếm và cố nhớ số cây cầu tôi vừa đi qua.

     Nhờ ánh lửa, tôi nhận ra cổng vào và tránh vấp phải hàng đá xanh dắt vào nhà. Giống như căn ba gian to lớn mái ngói trên nền cao, nhà thừa tự cạnh bên- còn có chút ánh sáng nhỏ trên bàn thờ ông bà, căn nhà, của gia đình nó, nhỏ mái tole cũ, được dựng tạm sau ngày 30 tháng 4, tối thui. Tôi gọi tên nó thảng thốt,

   "Hậu ơi. Hậu ơi. Thành Xì nè."

Một chốc sau, có tiếng trả lời yếu ớt của ai đó,

  "Thành hả! ra nhà sau nè....đẩy cửa vô đi con."

Tay cầm cây bó đuốc đã gần tàn, khói tỏa đen thui, tay lần theo cái vách lá, tôi tìm được cửa hông. Từ trong cái buồng nhỏ, má nó bước ra thảng thốt hỏi tôi,

  "Sao đi đâu mà giờ này mới tới? Cơm nước gì chưa con?"

Tôi chào bà và đáp ngay,

   "Dạ, xế chiều con mới lên xe lận. Kẹt phà Mỹ Thuận quá lâu nữa đó Bác."

Đặt cây đèn trên cái bàn gỗ mục nát vài chỗ, bác Ba gái run run lắc tay,

  "Bây thiệt khổ quá. Chắc đói bụng lắm rồi phải hông?"

Nghe xong, tôi không còn thấy mệt một chút nào nữa cả. Vịn cánh tay tôi, bà già chỉ về hướng cái bếp có ba cái "lò cà ràng",

  "Con bưng nồi cơm qua đây, có chén mắm chưng ở trong đó đó. Gọt mấy trái chuối chát ra ăn đở nghen Thành. Thắng Hậu với mấy đứa nữa ra ruộng đặt lợp tự sập tối đến giờ."

   Đang bụng đói cồn cào, tôi lẹ làng làm theo lời bác ba gái và một mình "nhập tiệc" ngay sau khi bà trở vào trong buồng. Dìu bác Ba đến cửa, tôi nhanh chân bước lên gian nhà trên để đốt nhang bàn thờ của bác Ba và hai ông anh sĩ quan của nó đã mất tích trước năm 1975.

   Tôi như đang ở ngay trong nhà của chính mình. Lần đầu tiên theo nó về đây 10 năm trước, bác Ba giới thiệu tôi là, "bạn học của thằng Hậu.". Nhưng ngay từ lần thứ hai, tôi nghe rõ lời bác nói với mọi người trong cái xã này,

   "Thằng Thành này là cháu tôi."

Bà nội của Hậu thương tôi như thằng cháu cưng. Có vài lần bà bảo tôi,

"Ưng bụng đứa nào, muốn làm con rể của ai con cứ nói đại ra đi. Bà nội đứng ra lo đám cưới hết cho."

 

    Cơm trắng tinh dẻo mềm lúc đó ngon như thể là mì spaghetty của dân Ý và chén mắm kho còn sót lại trong cái nồi đó đáng đem so với một cái lẩu hải sản. Trái chuối chát thiệt xứng với một miếng bắp cải Kim chi. Sống 2 năm trong nội trú, ăn nhiều bo bo, bột mì, tôi đã quá quen những bữa ăn "hạng bét" rồi. Khi ấy, tôi như đang có một đại tiệc. Tôi ăn ngấu nghiến đến phát nghẹn đến mấy lần. Bình trà không còn chút hơi ấm khi đó ngon như một ly bia Đức lạnh teo. Cái đèn dầu phộng nằm trên bàn xếp hình tròn siêu vẹo, lúc đó trông như thể một đèn kiểu được trang hoàng độc đáo trong một nhà hàng sang trọng. Một mình một bàn tiệc, tôi vừa ăn vừa suy nghĩ,

  "Hạnh phúc đôi khi thật đơn giản, thật nhỏ nhoi. Ta hưởng cái ta đang cần. Ta tự cảm thấy đủ."

   Đêm ở thôn quê thật vắng lặng. Tôi không nghe thấy gì khác ngoài tiếng côn trùng, tiếng chó sủa từ rất xa vọng lại. Cái bếp lờ mờ ẩn hiện trong khu nhà lá phía sau này. Nó như muốn gợi lên cái nơi nào đó mà tôi ước muốn được chung sống với mẹ tôi. Gian nhà lá dừa, các cây cột tràm nhỏ khẳng khiu, cái chỏng tre ọp ẹp, cánh cửa xiêu vẹo là tất cả những thứ tôi đang mơ đến.

    Tôi bỗng giật mình khi nghe một tiếng kêu lên,

   « Có ai trong nhà kìa ! »

Tiếng của thằng Hậu lên giọng rắn rõi.

    «Ai trong nhà vậy ? »

Cố gắng nín thinh, lua hết những hột cơm còn xót trong chén, vừa đặt nó xuống bàn, tôi nghe tiếng reo lên của thằng Sáu Lát,

« Ủa, Thành Xì ! »  

Đẩy mạnh cái cánh cửa chỉ được khép hờ, Hậu bước vội vào để ôm tôi bỏ ngay phía sau nó, Sáu Lát, Chị Hai và Sơn, thằng cháu trai gầy gò khoảng 12 tuổi.

 

   Đêm khuya hôm ấy, nhà thằng Hậu tưng bừng như thể nó có một tiệc lớn. Hàng xóm chung quanh nghe có tiếng đàn hát nhạc du ca và Trịnh Công Sơn của tôi, tiếng cười vang của 3 đứa tôi cùng với 5 thằng bạn nông dân khác, sau đó một đổi đã đến với chúng tôi. Mặc dù nghèo khó, ít chữ nghĩa hoặc kiến thức, với tay lấm chân bùn, quần áo vá víu nhiễm phèn vàng như nghệ, họ có trong lòng những thứ mà tôi quý mến, cái trong sạch, tinh khiết, thật thà chất phác và đôn hậu, cái thứ mà tôi ít thấy trong những người khác ở thị thành.

 

                                                                 Rạch Giá  14- 10- 2012

                                                                             Lương Ngọc Thành  

 

 

        CÁI ĐĨA NHẠC 

Nghe thêm Tác giả đàn & hát về Mẹ: TaiLieu_Me.jpg

 https://www.youtube.com/results?search_query=me+toi-+tran+tien+thanh+luong+guitar

 

Tôi được nhận một đĩa nhạc vừa được thu thanh của nhạc sĩ Ngọc Lễ để chia buồn cái tang mẹ của tôi.

    Anh ta còn mẹ nhưng tôi đã mất mẹ vào tháng 6 năm 2001. Sau khi an táng bà, ngày đầu tiên đã thật dài, thật kỳ lạ, thật trống vắng đối với tôi. Thức dậy thật sớm và sau một lúc lâu thẫn thờ bất động, thật tự nhiên, tôi đã mail cho Ngọc Lễ người nhạc sĩ thân thiết với tôi sau bài "Xe đạp ơi" tôi đã dịch.

"Ngọc Lễ thân !

Trên thế gian này không ai có thể thay thế mẹ ta được. Buồn thay mẹ tôi vừa vĩnh viển ra đi.

Chúng ta cùng hiểu rằng không có điều gì mà ta không thể không làm được để mẹ ta hạnh phúc.

Tôi nhớ mẹ tôi vô cùng."

  

LNThanh_NgocLe.jpg

Chiều hôm đó tôi nhận được mail của người tôi đang mong đợi chia xẻ nỗi buồn của tôi.

Đôi nghệ sĩ Phương Thảo - Ngọc Lễ 

  Trong bức mail ngắn gọn đó, Ngọc Lễ đã viết bằng tiếng Anh,

Dear Brother Thanh (Anh Thành thân!)

We all love Moms, don't we?

Chúng ta đều yêu thương mẹ, đúng không anh?

We have recorded a song "Nho den me."

Chúng tôi vừa thu thanh xong bài "Nhớ mẹ".

We offer you this song as a small gift.

Tặng anh như là một món quà mọn.

We hope it helps you release your grief.

Mong ca khúc này giúp được anh vơi đi nỗi buồn.

 Ngọc Lễ- Phương Thảo

   Tôi đã nóng lòng chờ đợi và hồi hộp khi nhận cái phong bì một tuần sau đó và 2 giọt nước mắt của tôi đã chảy thành hàng xuống đến cằm khi tôi nhìn thấy cái CD với những chữ trên đó,

"Nhớ đến mẹ" mến tặng anh Thành."

LuongNgocThanh_CD.jpg 

  Như họ đã đoán, tôi đã khóc rất nhiều khi nghe đĩa nhạc đó. Làm sao tôi không nhớ đến mẹ tôi, người đã cưu mang tôi 9 tháng trong bụng và đã quyết định để tôi sống khi bà muốn cùng tôi tự vẫn lúc tôi chưa tròn một tuổi. Làm sao tôi không nhớ đến mẹ người đã bỏ hằng bao nhiêu ngày đêm mong tôi thành đạt, mong có cháu ẳm bồng, mong tôi ngày một khấm khá. Thật tiếc thay tôi không thể tự tay chăm sóc cho người nhiều hơn vì bà chỉ nằm trên giường bệnh đúng 3 đêm hai 2 ngày sau một cơn ngưng tim, cái hậu quả của 20 năm bị tiểu đường.

  Thật giá trị thay 48 giờ với tôi được ngồi bên giường bệnh của người trong phòng cấp cứu, yên lặng, hiền lành, ngoan ngoãn. Thật đáng để mọi người con xem cái cảnh tôi chăm sóc mẹ tôi. Thật xứng đáng với tôi vì tôi đã tự nhận ở lại VN 19 năm trước và trong lúc lâm chung chỉ có tôi ngồi kế bên kêu gào tiếc nuối,

"Mẹ ơi! mẹ không chờ để nhìn thấy mặt em và chị con sao mẹ ơi?"

  Làm sao tôi có thể nguôi được những mất mát mà không có thứ gì điều gì có thể khỏa lấp được.    Lúc một giờ sáng tôi đi đi lại lại trong phòng khách, nhìn dư ảnh lần này và lần khác. Không có một phép mầu nào, lời kinh nào, không có một thứ hương khói nào, một lời phán truyền của bất cứ ai có thể giúp mẹ tôi nguôi nỗi thương nhớ chúng tôi. Không có một đấng tối cao nào có thể giúp mẹ tôi quay về. Tôi thẩn thờ, chậm rãi đốt thêm một nén nhang cho mẹ tôi rồi khóc vì tôi "nhớ đến mẹ".

    Những gì tôi nghe khiến tôi khóc nhiều hơn,

"Mẹ  hôm nào cũng ngồi nhớ thương con....

Ha há ha hà, con cũng rất nhớ mẹ, nhớ mẹ."  

  Tôi đã lại bỏ nhà lên cao nguyên lập nghiệp sau ngày 30 tháng 4 khoảng 2 tuần. Tôi lại rời mẹ tôi để đi học lại từ tháng 9 năm 1975 cho đến khi tôi lặn lội đến cái chòi lá trong một đêm mưa tháng 7 năm 1979. Nhưng đến năm sau đó tôi bỏ mọi thứ đã có ở Sài Gòn. Tôi mới đưa mẹ về chung sống trong một căn nhà lá tồi tàn mà tôi đã xin ở đậu. Chị và em tôi đã trốn đi để lại tôi trong lòng mẹ tôi hai lỗ hổng lớn. Họ cho tôi một cơ hội, họ vô tình giao cho tôi trách nhiệm "được chăm sóc mẹ".

    Tôi đã làm mọi thứ, giúp những người hàng xóm hết lòng, tự tập tành hết cách, tránh hết những điều tai tiếng để đem về cho mẹ tôi niềm vui, niềm tự hào, tiếng khen tặng, sự kính nể và hơn hết là hạnh phúc cái mà bà lâu nay đã không có. Tôi mua bao xi măng để xếp thành bao đựng đường đậu. Tôi tự đi nhận bảng về để vẽ. Tôi tự tập làm thợ chụp ảnh dạo trong lúc tự học Anh Văn. Tôi được thầy tôi đến tận nhà mời tôi đi dạy.

    Tôi nhớ mẹ. Tôi nhớ đến những gì tôi đã làm được những gì chưa. Tôi hồi tưởng biết bao nhiêu buổi sáng sớm đã mài giũa đèn sách bút nghiên trên Bảo Lộc để có ngày mà tôi làm tròn được chữ hiếu. Tôi tưởng tượng được những buổi sáng cùng lúc đó mẹ tôi ở Cần Thơ đang đun nước pha cho các vị khách ghiền những ly cà phê đen nóng hoặc những buổi như vậy, ở Rạch Giá, mẹ tôi phải chèo xuồng vào kinh đi thăm đồng. Tôi nhớ lâu trước đó những ngày tháng mẹ tôi vác một bao quần áo to nặng trĩu về nhà để giặt ủi. Tôi nhớ đã lâu hơn thế là những lúc mẹ tôi theo ba tôi đi buôn bán nhiều nơi trong thiếu thốn vất vả trong sự chịu đựng ông chồng nhiều bê tha, ít trách nhiệm. Tôi nhớ cái bướu cổ mà mẹ tôi mang nặng nhiều năm cho đến ngày nó biến mất sau đám ma ông nội tôi. Tôi nhớ những bữa cơm do mẹ tôi nấu, những con cá chiên thật giòn cho riêng tôi, những khứa cá lóc to thắm màu với những hạt tiêu đen bốc mùi thơm.

     Tôi có thể kể ra lần tôi đã khiến mẹ tôi trồ lên mừng rỡ ngạc nhiên, khi tôi cho bà xem bao nhiêu tiền tôi kiếm được sau khi tôi đi chụp hình 3 ngày tết, giao xong một cái bảng quảng cáo to tướng hay số tiền nhỏ tôi kiếm được sau khi bán được những bao giấy đựng đường đậu do chính tay tôi cắt dán từ những bao giấy đựng xi măng. Tôi nhớ rõ mẹ tôi đã hãnh diện như thế nào lúc mà tôi trả xong số tiền trả góp để lấy chiếc xe Honda Dream mới. Tôi nhớ những lần mẹ tôi cười vui khi có những bà bạn ra sau vườn xem 5 hàng xoài tôi đã trồng, chăm sóc như một nhà vườn thứ thiệt, những trái xoài cát Hòa Lộc thơm ngon bà đã cắt ra mời khách ăn ngay trong miếng vườn to rộng sạch đẹp. 

     Tôi nhớ ánh mắt, vẻ mặt hớn hở của mẹ tôi hai lần đón cháu nội chào đời. Tôi hình dung ra được cảnh mẹ tôi bồng cháu trên tay đi sang nhà cạnh bên hay dắt cháu đi lẩm đẩm bên cạnh bà. Tôi nhớ những lần hiếm hoi mẹ tôi giận hai vợ chồng tôi, nào là không chịu sanh con, nào là không chịu làm điều này, không mua sắm thứ bà đã chọn. Tôi nhớ những mẫu chuyện bà kể về thời kỳ theo ba tôi đi nhiều nơi. Tôi nhớ những kỷ niệm bà đã kể khi chúng tôi ở Pleiku, Quy Nhơn. Tôi nhớ những cái tên bà thường nhắc. Tôi thuộc lòng các câu mẹ tôi đã kể về ông nội hay bà ngoại. Tôi nhớ những gì mẹ kể về những lần chị hai tôi từ Sài Gòn xuống tận nơi mẹ tôi ở để làm tình làm tội và những lần bà muốn tự vẫn vì thằng em hút sách của tôi.

  Tôi nhớ mẹ tôi nhiều đến nỗi tôi bật khóc bất cứ lúc nào tôi kể về người. Ngọc Lễ có lẽ nên tìm hiểu điều đó và viết thêm một ca khúc mới, "Mẹ tôi" 

                                                                  Rạch Giá, May 7, 2013

                                                                      Thành Xì- TL-71 


CẦN THƠ- CUỘC THĂM VIẾNG KHÔNG ĐƯỢC PHÉP

 

    Đâu phải ai cũng được phép đến thăm mẹ tôi tại Cần Thơ và cũng không phải ai cũng được phép làm nhói đau trái tim của tôi vốn đã lâu trước đó bị ung nhọt, âm ỉ rướm máu.

 

     Hè năm đó, 1977, đi theo một bạn học, ở cùng phòng, nàng xuống Cần Thơ. Trong khi cô bạn đi thăm người anh họ, nàng có dịp riêng tư hưởng những ngày hè ở miệt sông nước Hậu Giang trong lúc tôi lên đường đi lên Bảo Lộc tá túc 3 tuần trong cái lò nem "Bà Chánh", gia đình của một thằng bạn học cũ. Vì có ít thời giờ rỗi rãi, trong khi cô bạn ấy, Thu Hương, phải lo toan ít việc cho ông anh, thầy Hoàng, đang dạy tại N.L.S Cần Thơ, nàng tự nghĩ đến việc thăm gia đình tôi, 12/5 Lê Lai- Khu Văn Hoá, Cần Thơ. Dẫu cho yêu tôi rất nhiều, nàng biết rất ít về gia đình tôi, nơi mà tôi xem như sắp sửa xụp đổ nhưng tôi lại chẳng có thể làm gì để giúp mẹ tôi cả.

    Sau 3 năm học ở Bảo Lộc về, tôi nhận ra mức độ rạn nứt, lún lầy của căn nhà, mức độ trụy lạc của em tôi và nỗi thống khổ mà mẹ tôi từ lâu nay phải chịu đựng. Ba tôi từ lâu nay chẳng hề một chút gì lo cho nó. Cái chất của thằng đàn anh quậy phá, và cái gốc lính ngụy đã khiến cho chính quyền ở đó cũng phải tránh né nó. Ông anh thứ Ba, đang học cải tạo ngoài Bắc, chỉ có thể nhắn tin về thăm mẹ tôi và nhắc tôi phải cố học. Phải theo chồng, một hạ sĩ quan không quân, đi kinh tế mới tận trên Long Đất, Bà Rịa, chị Tư của tôi không giúp được bà mẹ người mà chị ấy hết mực yêu thương giống như tôi. Tôi buộc lòng phải giấu nhẹm những chuyện này với mọi người, kể cả với nàng. Nhiều lần bên nhau, nàng kể cho tôi nghe rất nhiều về gia đình khá đầm ấm của nàng. Có thể nàng quên hoặc ái ngại để hỏi tôi về những gì đang xảy ra trong gia đình tôi. Điều duy nhất nàng biết là những tiếng thở dài, hoặc im lặng, cái khoảnh khắc im lặng khi chúng tôi nói về gia đình.

   Tôi buộc lòng phải đem cái nỗi đau đớn khó diễn tả đó đổ trút ra ngoài sân bóng đá, đổ trút nó vào những buổi tập ngòai mưa to, hoặc dưới cái nắng như lửa đốt, trên mặt sân cát khô nóng. Tôi đem nỗi đau không diễn tả được ấy đổ trút vào những cú sút mạnh hoặc những lần bay người hết cỡ để chụp quả bóng bất chấp hai cùi chỏ hay đầu gối rướm máu. Khi làm trọng tài trong các giải đấu trong trường, không cần hai giám biên, tôi thổi còi một cách rắn chắc để minh định cái lỗi đó của ai trong nhiều trận đá bóng. Tiếng còi nhắc nhở mọi người và chính tôi, đó là lỗi. Ai là người mắc lỗi!?

    Cái đau trong tim tôi có lẽ chẳng thể nào đem sánh được với bất cứ thứ gì tôi đã và đang cố tìm cách khỏa lấp. Để có thể ngủ được, dầu đã mệt nhoài vì buổi trưa tập bóng cho đến lúc mọi người kéo nhau lên khu phòng học với ánh đèn sáng choang, tôi cố đưa nỗi ray rức khó tả vào các đoạn nhạc classic hàng đêm sau giờ ký túc xá tắt đèn. Tôi chơi đàn như một thằng gàn dở, khoe khoang, ngang tàng. Tôi đánh ra hết những bài tôi chơi được, nhớ được. Tôi vui khi biết có một số "thính giả" đang nghe tôi và có cả những "khán giả" trực tiếp đến dự. Những chàng sinh viên ấy ngồi quanh tôi, nhen nhúm lửa nấu một ít nước sôi để làm một phin cà phê mà tôi sẽ được mời nhâm nhi một ngụm trước. Điếu thuốc đen trong những lúc ấy mới ngon làm sao. Có nhiều đêm, tôi gục đầu trên cần đàn, các ngón tay làm việc mãi cho đến khi chúng và tôi mỏi nhừ mới thôi. Một đêm nọ, ngồi trong phòng ký túc xá, hướng cây đàn về phía cái tủ âm tường, tôi đánh ngón bài "Lòng Mẹ" hai ba lần và đã khiến năm đứa trong phòng, theo lời Lộc nhiều năm sau có dịp xuống Cần Thơ kể lại với tôi,

"Đêm đó, mày làm tụi tao nhớ nhà đến mất ngủ."

 

   Để có thể thăng bằng một phần nào, từ trường, tôi thường lẻn trốn về Cần Thơ bất cứ khi nào có thể, một ngày nghỉ để ôn thi hoặc ngày cuối tuần nào đó. Để có thể vui sống 3 tuần nghỉ hè trên Bảo Lộc, tôi đã làm việc rất chăm chỉ như một tay thợ làm lá chuyên nghiệp trong lò nem chả của Má Chánh. Tôi đã sống ở đấy một cách rất ngoan hiền và nhận được nhiều lời khen ngợi, nhắc nhở.

   La Di, con gái út của má Chánh, người thương mến tôi như anh ruột, đã vòng tay ôm ngang bụng tôi, ngây ngô, thật thà hỏi tôi rằng,

"Sao anh không ở trên này với nhà em? Anh học và ở đây cũng được vậy."

Tôi vuốt tóc cô bé, nghẹn ngào không thốt lên được nửa lời. Cố gắng lắm tôi mới trả lời được vắn tắt,

 "Anh muốn lắm chứ!"

  Một người bạn cùng phòng, Phan Văn Đon, vui tính, thật thà, đã nhận xét,

"Đi Cần Thơ hay Bảo Lộc về, thằng Thành Xì vui như tết. Vài hôm sau nó lại buồn như thể nhà nó đang có tang vậy."

 

   Người yêu tôi âm thầm trước đó, người đã nghe tôi tâm tình ngay khi tôi mới quen nàng, đã hỏi tôi thật ngây thơ,

"Sao anh không về với gia đình?"

Tôi chỉ biết im lặng khi mà trong lòng nỗi buồn chợt tăng lên hai, ba lần.

Tôi im lặng đến mức không ai hiểu nổi. Có một lần, mấy thằng cùng lớp, vào uống cà phê khi thấy tôi ngồi một mình trong góc quán, đã phải lên tiếng châm chọc tôi,

"Ê, Thành Xì, nghe đồn mầy đang luyện"thiên linh cái" phải không mậy?"

Cứ yên lặng thản nhiên như không nghe thấy gì, tôi rít sâu vào một hơi thuốc lá như để ém nhẹm điều mà không có từ ngữ nào diễn tả được.

 

   Khi tôi đi dạo bên nàng những buổi chiều, dù trên bầu trời còn chút vệt nắng đỏ cam, trong lòng tôi lại đen ngòm như cái tối của đêm 30 vậy. Tôi chưa có ý định nắm tay nàng khi nàng thổn thức muốn được tôi ôm vào lòng. Như một phản xạ, tôi chiều ý nàng một cách vô ý thức. May thay tôi còn nhận được cảm giác yêu thương trai gái và tôi đã làm nàng hài lòng. Mừng cho nàng thay, trong khi tôi đúng lúc ấy cũng cần có nàng để tôi truyền cho nàng một luồng điện rất mạnh, một hơi thở thật sâu, một niềm an ủi to lớn vì tôi được yêu và đang thể hiện tình yêu đó với nàng. Tôi ghì nàng chặt và đến nỗi nàng không thể thở được. Nhiều lần nàng thì thầm với tôi,

"Em chỉ mong đến ngày em làm cho anh thật sự hạnh phúc. Em mong được sống bên anh."

   Tôi chỉ tự nhủ,

"Làm sao em có thể làm anh hạnh phúc khi anh có rất nhiều nỗi đau, đau vì biết mẹ anh khổ sở mà anh chẳng biết làm sao để có thể giúp được người."

 Làm sao nàng sống được bên tôi trong khi tôi chỉ muốn sống bên mẹ tôi cái cách mà chỉ có tôi mới hiểu được. Làm sao nàng làm cho tôi được hạnh phúc khi mà nàng không nhận ra cái đau trong lòng tôi.

   Là con của một thầy giáo nghỉ hưu, người có 7 con, đang về quê hương làm ruộng, để lại căn nhà gần kề chợ Thủ Thừa, Long An, cho người con gái lớn quán xuyến các em nhỏ. Nàng chẳng có một ưu phiền, một vấn đề nhỏ lớn nào trong gia đình trong khi tôi thì ngược hẳn lại. Nàng có một lý lịch tốt, và một tương lai sau khi ra trường khá bình thường. Ngược lại, với cái lý lịch như vậy, họ có thể đuổi tôi bất cứ lúc nào. Họ có thể ghép tôi với bất cứ lỗi lầm nhỏ nhặt nào để loại tôi ra khỏi những kẻ ngoan ngoãn khác.

    Mỗi chiều tối cuối tuần khi đi bên nhau, tôi thật sự muốn nàng giữ im lặng, hoặc gây cho tôi phải thốt ra những gì tôi cần nói, muốn nói hoặc cả hai cùng yên lặng cho đến lúc phải trở vào ký túc xá. Tôi muốn cho nàng hiểu sự khác biệt trong hai đứa tôi, sự mất mát thiếu thốn trong tôi và tôi cũng không cần che giấu cái ý định bỏ học, thay vì trở về Cần Thơ, tôi muốn lên Bảo Lộc kiếm việc làm.

 

   Một lần, sau khi đi một vòng ngắn quanh khuôn viên của trường, nàng mời tôi uống cà phê tại một quán mới mở. Khi tôi hỏi nàng uống gì, cô ấy nhìn tôi, mỉm cười với tôi và đáp rằng,

  "Anh uống gì em uống thức ấy."

Sau đó nàng thổ lộ với tôi là nàng sẽ làm bất cứ điều gì tôi muốn. Cô ấy đâu ngờ tôi đã đáp lại,

  "Anh chỉ muốn em thật chắc chắn về những gì em đang nghĩ và đang làm." 

Đoán biết là nàng không hiểu thấu hết ý của tôi, tôi giải thích,

 "Em có chắc rằng em sẽ được hạnh phúc với anh sau này không?"

Ngả đầu lên vai tôi, nàng chỉ đáp vắn tắt,

 "Yêu anh, em chấp nhận hết."

    

   Tại phòng khách nhà tôi, tự giới thiệu là bạn thân của tôi, nàng được mẹ tôi tiếp đón niềm nở. Bà hỏi ngay,

"Cháu có biết nó học hành như thế nào không?"

Nàng vui mừng trả lời,

"Ảnh học giỏi và còn chơi thể thao rất hay trong trường nữa đó bác."

Bà rơm rớm nước mắt khi nghe nàng kể về chuyện ăn uống, sinh hoạt...

"Thiếu thốn như vậy làm sao nó vừa học vừa chơi thể thao được hả cháu?"

Cô ta tỏ ra tự nhiên hơn,

"Ảnh có khi còn chụp"gôn" cho Công ty bột giặt Viso nữa. Chắc ảnh có tiền lương hay gì gì đó bác."

 

    Khi kể lại cho tôi nghe cuộc thăm viếng ấy, nàng không ngờ tôi đã bật khóc như một đứa trẻ. Nàng đã bị tôi quát mắng và tôi tuyên bố rằng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng.

    Tôi đã không thể hỏi nàng trọn vẹn cái câu hỏi này,

     "Em có biết rằng anh đã tự hứa gì trong lòng của anh không hả?"

 

Gặp lại nhau, nhiều năm sau đó, vì nàng cứ vặn hỏi điều mà tôi đã thề, tôi mới thổ lộ,

      "Đến khi nào thành đạt, ta mới được phép trở về nhà."

 

    Rạch Giá, Ngày 22- 11- 2012

   Lương Ngọc Thành

  

 

ĐIẾU THUỐC ĐẦU TIÊN

LuongNgocThanh_Dieuthuoc.jpg 

 

    Những ai hút thuốc lá đều có riêng một lý do, nhưng thường thì họ không nhớ rõ ngày giờ và cái nguyên cớ khiến họ châm điếu thuốc đầu đời ấy. Với tôi, điếu thuốc đầu tiên cũng đáng nhớ như biết bao là ký ức khác trong thuở thiếu thời hoặc trong lúc cắp sách tới trường.

    Tôi học lớp Năm 3 tại trường Tiểu Học Tham Tướng, Cần Thơ. Một phần ba học sinh trong lớp tôi học khá giỏi. May mắn được ở trong nhóm đó nhưng tôi là kẻ ốm yếu nhất. Một buổi chiều chuyển mưa, tôi bị một cơn cảm lạnh đột ngột. Tôi thấy trời đất quay cuồng khi đang đứng nhìn cả lớp đùa giỡn trong giờ ra chơi. Hồng Hạnh, đang đứng cạnh bên, nhận ra sự khác thường trên gương mặt của tôi. Hạnh kêu lên thảng thốt,

"Thành ơi ! có sao không? Ai chạy đi kêu cô giùm coi?"

Hạnh và một ai đó mà tôi không thể nhận ra đã dìu tôi vào lớp trong khi cô Thủy đã được báo tin rằng tôi bị trúng gió.

    Cô Thủy lớp tôi nổi tiếng là hiền thục, khó khăn, dạy giỏi và cạo gió hay nữa. Cô gom tất cả các chai dầu gió của học trò trong lớp. Bị cởi trần, tôi bị cô bắt đứng úp mặt xuống bàn. Bốn năm học trò được cô chỉ định lên để kềm tay khoá chân tôi lại. Hạnh tình nguyện làm người thoa dầu để cô Thủy chỉ có cạo và cạo. Tôi như con lươn bị cạo sạch nhớt trước khi bị đem ra xào nấu. Tôi không biết thợ nấu sẽ là ai, nhưng cô Thủy đang là thợ cạo. Đồng 50 xu bằng nhôm với cạnh sắc bén, được cô Thủy miết sát trên da lưng, liên tục được Hồng Hạnh bôi trơn bằng dầu gió. Trời tối sầm vì các đám mây đen ngòm khi da lưng của tôi cũng chuyển thành màu nâu bầm đen. Mỗi cú sấm chớp ngoài lớp giống mỗi nhác cạo như xé da thịt. Mỗi lần cô miết kéo mạnh cái đồng 50 xu đó là mỗi lần tôi uốn éo cái lưng hoặc kêu gào lên đau đớn. Sau hơn nửa giờ ra tay, sau khi cạo xong, cô Thủy kêu người gọi xe xích lô để đưa tôi về nhà và cũng chính tay Hạnh với cô đưa tôi lên xe. Hạnh thản nhiên chen lên ngồi kế tôi như một người chị gái như nảy giờ đã từng vuốt ve, đã xức dầu và đã phụ giúp cô cạo tôi cho đến khi tôi "hết gió".

  Tôi cảm phục Cô Thủy và cảm ơn Hồng Hạnh. Tôi bị Hạnh làm choáng ngợp vì cái cảm giác tiếp xúc rất con gái của Hạnh. Chúng tôi thân với nhau hơn và từ đó tôi giúp Hạnh viết bài, cho Hạnh xem các bài luận văn và toán của tôi và đến một ngày kia Hạnh cho tôi xem hình của bạn trai của nàng. Hắn ngồi cười rất tươi trên bàn cà phê. Trên bàn tay phải thon đẹp thư sinh là một điếu thuốc lá, toả khói. Hạnh không chút ngại ngùng kể cho tôi nghe về hắn:

"Ảnh đang học lớp đệ tam. Ảnh học giỏi mà chơi đàn rất hay nữa. Ảnh ít khi gặp được mình lắm. Lâu lâu ảnh dắt mình đi uống càphê nghe nhạc. Ảnh hút thuốc Pall Mall không à?"

Tôi bổng thấy mình như một thằng nhóc con, hỉ mũi chưa sạch. Thằng nhóc ấy chẳng biết thế nào là đánh đàn, hút thuốc ra làm sao thì làm gì nó có được một cô bạn gái để dắt đi uống cà phê cơ chứ. Lòng tự ái ở trong tôi  nổi lên như một cơn sóng thần- đập vỡ, kéo ngã mọi thứ trên đường mà nó đi qua. Nó cũng phá tan mọi tiền lệ, định kiến, mọi ràng buộc, mọi áp đặt. Tôi thấy mình thật đáng tội nghiệp. Có cha là lính quân Y, tôi theo ông thuyên chuyển nhiều nơi, Pleiku, Quy nhơn, Châu Đốc và rồi đến Cần Thơ. Tôi đã không có một thời thơ ấu đẹp đẻ như bao nhiêu kẻ khác. Tôi chẳng được cha tôi dạy cho một điều gì mới mẻ, tốt đẹp. Mẹ và chị tôi dường như chẳng quan tâm gì đến thằng nhóc con, nhỏ nhắn, ít nói lầm lì như tôi cả.

 

   Hồng Hạnh lớn hơn tôi hai tuổi. Ba má nàng ly dị nhau khi nàng còn tấm bé. Từ Sài Gòn hai mẹ con Hạnh về lập nhiệp ở Cần Thơ sau khi mẹ nàng gãy đổ hôn nhân lần thứ hai và nhất là khi ông bố dượng có vẻ muốn xàm xở với nàng. Cuộc sống một mẹ một con khiến nàng dạn dĩ trưởng thành hơn trước tuổi. Nhà của nàng là một quán cà phê khá nổi tiếng ở khu vực này. Thỉnh thoảng nàng phụ với mẹ trông coi quán. Hắn ta- Dũng Tiến- là một trong những khách hàng quen thuộc. Một thanh niên, khá điển trai, sành âm nhạc, có vẻ lõi đời, việc có bạn gái sớm như hắn là điều dễ hiểu và cũng dễ hiểu tại sao một thằng nhóc tì, như tôi, con nhà binh nghèo chẳng hiểu biết gì về cái thế giới của những thanh niên. Tôi cảm thấy như có một giòng máu nóng chạy thật nhanh vào cơ thể. Tôi thấy như có ai đó bơm cho tôi một liều thuốc kích thích hay một loại phân hoá tố nào đó khiến tôi như lớn hẳn lên vậy. Hạnh thường kể cho tôi nghe việc Dũng Tiến đã hút thuốc ngần nào thì tôi càng thường thấy mình ganh tị với hắn ngần ấy.

    Sách vở và trường học đâu có dạy tôi những điều như thế. Thầy cô chưa hề nói ra những từ vựng mà người đời thường hay nói như vậy. Sách vở chứa đựng quá nhiều điều hay, nhiều chuyện đẹp, thế còn chuyện đời với những sự thật phũ phàng, xấu xa, những con người bỉ ổi, đốn mạt, những trò lừa phỉnh, lợi dụng nhau? Hồng Hạnh và tôi có chung một điều muốn tìm hiểu: "Tại sao ba chúng tôi đã bỏ đi?". Tôi có một thắc mắc: "Tại sao đàn ông thanh niên hút thuốc? Tại sao Hạnh thích cái tên Dũng Tiến kia mà không phải là ai khác cơ chứ?"  

    Hạnh thân với tôi nhất trong lớp. Nàng cho tôi ăn quà nàng mang theo trong cặp. Nàng mua cho tôi những ly đá đậu pha xi rô. Màu nâu đậm của những hạt đậu quyện với màu đỏ tươi rất bắt mắt của nước xi rô màu đỏ tươi. Sau khi mỉm cười với tôi rất duyên dáng, nàng trao tôi ly nước và tôi như té lọt chết đuối vào trong cái ly đá đậu lạnh teo và ngọt lịm đó. Nàng rủ tôi đội chung áo mưa với nàng trên đường về. Tôi thấy nóng bừng bừng như người đang lên cơn sốt rét khi mà cái vai hoặc lưng áo trắng hồng của nàng chạm vào người tôi. Lớn tuổi nhất trong lớp, nàng ngồi bàn cuối cùng trong lớp. Lạc lỏng nhất trong lớp, nàng cần một ai đó kề cận!? Thằng nhóc ốm yếu được nàng chăm sóc như một thằng em hôm nào bị trúng gió nay thành một người bạn trẻ, người có thể chia xẻ được nhiều điều với nàng. Tôi muốn mình lớn nhanh lên để được ngồi cạnh nàng. Tôi muốn thỉnh thoảng bị trúng gió để được Cô Thủy và Hạnh chăm sóc. Tôi bổng thấy yêu những ngày đi học. Tôi quý trọng công dạy dỗ, công cạo gió hôm nào của cô Thủy. Tôi còn hình dung được những cái xoa vuốt êm ái của bàn tay nàng- nóng và êm êm đến rợn người. Tôi tự dưng thương lớp, thương trường học. Tôi nhớ tiếng trống giờ ra chơi, tiếng trống tan học. Tôi cảm được cái mát dịu khi chúng tôi đứng núp nắng dưới tàng cây bàng khá to ở góc phải của lớp tôi. Tôi có thể vẽ ra chiếc xe Suzuki Dame của cô Thủy và mô tả tỉ mỉ cái cách cô dắt xe ra khỏi cổng trường. Và tôi nhớ rõ ràng như vừa mới xem cái hình của chàng Dũng Tiến đẹp trai mà Hạnh tươi cười hạnh phúc khoe với tôi. Tôi để ý đến cái cách mà hắn kẹp điếu thuốc trên hai ngón tay một cách rất điệu nghệ.

 

                                 Tôi hoặc ít nghe Hạnh kể về Dũng Tiến hoặc tôi cũng ít dám hỏi nàng về hắn. Giữa hai đứa tôi có một cái gì khó tả. Nhưng tôi có thể cảm thấy nhớ nàng mỗi khi nàng vắng mặt. Tôi thấy xốn xang khi nàng nói chuyện huyên thuyên với đứa con trai nào khác. Tôi thấy hồi hộp, lo lắng cho nàng mỗi khi nàng bị cô gọi trả bài. Mặt tôi nóng bừng bừng khi nàng cầm tay tôi, hoặc nàng vổ nhẹ vào vai tôi. Cái cảm giác rất nhanh như một luồn điện ấy cứ lập đi lập lại khi chúng tôi đi bên nhau, tay nàng vô tình chạm vào tay tôi. Tôi có khi- thật trẻ con- mong sao cho cái năm học lớp năm này kéo dài mãi. Tôi, dĩ nhiên, muốn học giỏi nhất trường để được cô Thủy và Hạnh thương quý hơn và tôi đã có lúc- thật ngây ngô- muốn mình thành con gái để thật thân với nàng. Tôi lại có khi- thật ngông cuồng- muốn hút thuốc trước mặt nàng.

   

     Chúng tôi chia nhau nhiều thứ nhưng có một thứ mà tôi không thể chia cho nàng: sức học của tôi. Em trai tôi đã bỏ học và điều ấy như ép tôi học chăm chỉ lên hai ba lần. Mẹ tôi đã khóc nhiều đêm với nó trong khi ba tôi xem như chẳng có việc gì phải lo. Mẹ tôi đã bỏ cơm chiều thường xuyên kể từ khi nó bỏ học, đi chơi về trễ nhưng ba tôi cứ hàng tuần về nhà vài lần. Tôi âm thầm muốn làm mẹ tôi ngạc nhiên, hãnh diện và hạnh phúc. Cái cách duy nhất mà khi ấy tôi có thể làm được đó là: Thi đậu vào lớp đệ thất trường công lập- Phan Thanh Giản- có tiếng nhất ở miền Tây- Tôi thường nghĩ về Hạnh bất cứ khi nào tôi nghe nói về cuộc đời, phụ nữ hoặc về hạnh phúc gia đình. Tôi thầy mình trưởng thành nhanh hơn những đứa con trai khác trong lớp và tôi tiến gần tới Hạnh hơn tất cả thanh niên trên đời này.

 

  Trong ngày chia tay lớp học, cô Thủy rưng rưng nước mắt. Cả lớp tôi ai nấy đều đưa tay lên chùi nước mắt khi chuyền nhau những cuốn lưu bút. Tôi là người duy nhất được cô khen ngợi vì tôi vượt trội lên vào cuối năm và vì tôi sẽ thi đậu. Tôi là người được cô nhớ nhất vì cái lần cô cạo gió cho tôi. Cô chúc mừng tôi và rất tin là tôi sẽ tiến xa hơn nữa. Tôi cũng là người duy nhất được Hạnh tặng cây viết Pilot với cái ngòi viết mạ vàng và tôi cũng là người khách duy nhất được Hạnh mời đi ăn chiều tối hôm ấy. Trong cái tiệm mì vịt tìm gì gì đó gần bến Ninh Kiều, chúng tôi là hai thực khách nhỏ tuổi nhất. Sau khi ăn xong, tôi rủ nàng sang một quán cà phê cách đấy không xa- một nơi yên tỉnh- để chúng tôi có dịp nói chuyện và chia tay nhau. Trước khi nói với nàng câu nàng muốn nghe, tôi đã đi đến cái quầy để hỏi mua một điếu thuốc Pall Mall. Châm điếu thuốc một cách vụng về, cố gắng hít vào một hơi ngắn, kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay, tôi lấy hết sức bình tỉnh để có thể nói nhỏ với nàng,

"Thành sẽ không bao giờ quên Hạnh."

   Tôi nắm chặt bàn tay nàng khi tôi vừa thấy hai giọt nước mắt trào ra, lăn dài xuống đôi gò má tròn trỉnh xinh xắn, có điểm một chút phấn hồng. Dù cảm thấy quay cuồng, choáng váng, tôi vẫn tiếp tục hút hết điếu thuốc trong khi nàng, để yên bàn tay cho tôi nắm, im lặng nhìn tôi như không biết nói ra điều gì hoặc vì có quá nhiều điều muốn nói.   

                                                               Rạch Giá 28-03-12

                                                               Lương Ngọc Thành

 

        

 

VỀ CẦN THƠ NGHỈ TẾT

TL_hoamaihoadao.jpg 

 

 Sau khi thi xong đệ nhất lục cá nguyệt, lớp đệ tam, trường TH. Nông Lâm Súc Bảo Lộc, học sinh nào ở xa nhà phải lo về quê ăn Tết. "Băng Cần Thơ"- 6 đứa chúng tôi- đã có một chuyến đi vô tiền khoán hậu.

 

      Tôi là người đã nghĩ ra cái cách để đánh dấu những ngày còn lại trên Bảo Lộc. Tôi dùng giấy bìa cứng và kẻ trên đó những 5 ngày thi, môn thi cuối học kỳ một năm học lớp đệ tam- 1971- 1972. Tôi dán chúng lên thanh trên của cửa ra vào như người ta dán những lá bùa vậy. Năm thanh giấy lay động khi có ai mở cửa ra vào, nhắc nhở chúng tôi rằng: còn 5 ngày thi nữa mới về nhà được. Vào ngày đầu tiên, tôi rời nhà sau cùng và giữ chìa khoá nhà. Tôi tự âm thầm thôi thúc tôi làm bài nhanh nhất vì tôi không màng đến viết hết ra giấy những gì trong vở như những bạn học khác. Và đúng như điều tôi đã dự tính, tôi đã 5 ngày liên tiếp thi xong sớm nhất, ra về nhà ngay và tự tay tôi xé phăng đi 5 cái miếng giấy tôi đã sáng tạo ra ấy.

Thở phào nhẹ nhõm, tôi đã làm tròn trách nhiệm, trút bỏ xong cái gánh nặng học hành của đệ nhất lục cá nguyệt- 1/6 của ba năm học mà tôi sẽ phải vượt qua.

 

    Các "chiến hữu" khác lần lượt về đến nhà. Tất cả cứ như vừa được mãn hạn tù hoặc như vừa được cho ân xá về quê ăn Tết. Sau buổi cơm trưa, chúng tôi không tài nào ngủ trưa được. Trọng Thỏ là thằng đề xướng ra chuyện giặt mùng mền vì cho rằng sau khi về tết, mùng mền sẽ lên meo mốc. Tôi hưởng ứng ngay cái đề xướng đó. Có thằng chỉ mang đồ ra phơi nắng buổi trưa. Thằng Phúc Lùn thì chỉ bận tâm đến số thư sách vở và các thứ lỉnh kỉnh khác. Chưa xong việc thứ nhất, chúng tôi nghe Hoàng Cận tung một một cái tin hắn mới vừa thu thập về,

"Gom ra giữa sân nhà tất cả sách vở giấy bài, áo quần, tất vớ, giày cũ, và tất cả những thứ gì có thể đốt được. Tối nay mình đốt lửa trại."

Mới nghe xong, tôi thấy hơi xốc. Nhưng ngẫm nghĩ lại, tôi thấy đó là một ý kiến hay. Vừa nhận ra cái thông tin mà các học trò của các trường Nông Lâm Súc khác chắc phải rất ngạc nhiên, tôi xung phong làm trước. Các chàng trai trong cái nhà trọ của Ông Bảng hết lòng theo tôi. Ai có rương, như Thuận Què, sẽ nhận giữ những thứ quý báu của những ai không cần mang chúng theo về Tết: giấy viết thư, dao cạo râu, học phẩm. Trừ áo quần thường mặc ra, tất cả được mang ra, chất thành một đống to để được chúng tôi đốt tối hôm ấy.

     Khi chúng tôi đang lăng xăng dọn dẹp, ông chủ nhà tốt bụng qua thăm:

"Có anh nào muốn mua trà về cho gia đình không? Tôi có quen với trà Đỗ Hữu, tôi mua được giá rẻ hơn."

Quả là một câu hỏi đáng được một tràng pháo tay. Tôi giật thót người, tự nhủ,

"Tiền cơm tiền nhà ta còn nợ nửa tháng. Giờ ta phải mua trà nữa ư?"

Ông Bảng ôn tồn nói tiếp,

"Các anh đừng ngại. Bà nhà tôi ứng tiền cho các anh mượn mua trà. Anh nào cần cứ lên tiếng."

Cả nhà trọ của chúng tôi nhao nhao lên,

"Em mua 5 gói."

Có tiếng của ai đó,

"Em muốn mua 10 gói trà ngon."

Tiếng ai đó cất lên cao,

"Em chỉ cần 6 gói thôi anh."

Và cái giọng Bắc rất đặc trưng của thằng Đức Cống đã kết thúc cuộc tranh luận:

"Em gửi anh Bảng 5 nghìn đây. Anh mua bằng hết số tiền này đi nhé. Ai cần bao nhiêu mà chả được!?"

Gọi thằng Hải Bầu đi theo, Ông Bảng phóng chiếc xe Honda 67 nhanh ra cổng rào khi trời hơi sập tối. Chờ đợi càng lâu, chúng tôi càng thêm phần háo hức rạo rực. Ông Bảng trở về với 2 bịch trà thất to trên vai thằng Hải, 1 cái bao nhỏ hơn phía trên cái bình xăng xe. Chúng tôi reo hò như lũ trẻ con trong cô nhi viện được phát quà. Khi nhận 10 gói trà, thằng Phúc đỏ mặt tía tai vì vui mừng như ngày đầu tiên nó được thư của người bạn gái của nó từ Cần Thơ vậy. Luận Già cũng đỏ mặt vì xúc động trong khi thằng Đức Cống trào phúng:

"Bố mẹ ơi! Con có quà cho bố mẹ đây. Con cưng của bố mẹ sắp về rồi đây!

Bố ơi! Con có chè cho bố đây. Mẹ ơi! Con sắp đem cái thân xác còm nheo này về cho mẹ xem đây."

    Đúng là chỉ mỗi thằng Đức Cống kén ăn ấy còn nguyên vẹn cái thân còm. Tụi tôi đều lên cân. Tôi đứng đầu trong danh sách ấy. Lúc ra đi, từ Cần Thơ- tháng 9-1971, tôi cân đúng 45 ký. Ngày mai, tháng 2- 1972, tôi trở về nhà nghỉ tết, sau 5 tháng học, với một thân thể 53 ký- 8 ký lô tôi "kiếm được" trong những tháng đi học xa nhà mặc dù ăn uống thiếu thốn. Mẹ tôi chắc trợn mắt rồi ôm ghì lấy tôi. Các cô gái hàng xóm chắc thích thú ngắm tôi như thể một chàng trai trẻ mới đi học bên Tây- Âu trở về.

   Buổi cơm chiều bình thường ngày hôm ấy đã trở thành buổi tiệc tất niên. Các món ăn mà hàng ngày chúng tôi dành nhau ấy bổng dưng trở thành các món cao lương mỹ vị. Những ly trà nóng chúng tôi uống sau buổi cơm bỗng biến thành các ly bia tươi mát lạnh. Một buổi chiều đẹp nhất từ ngày chúng tôi dọn đến đây.

 

   Buổi tối đêm ấy ấm cúng lên nhờ cái đống lửa trại trước sân nhà. Củi đốt là những thứ chúng tôi đã mang ra từ lúc xế chiều. Theo truyền thống bất thành văn của học sinh xa nhà ở đây, tôi châm lửa. Tôi mang đàn ra trong khi chúng nó đứng chung quanh. Tôi bắt đầu chương trình văn nghệ ngẫu hứng bằng bài hát nổi tiếng: của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, "Ly rượu mừng."

"...Từ nơi xa xa, có bà mẹ già từ lâu mong con mắt vương lệ nhoà. Chúc bà một sớm quê hương. Bước con về hoà nỗi yêu thương. Há ha ha hà..."

Tôi hát vang theo khúc hát ý nghĩa ấy và đôi mắt tôi cũng cảm được từ ngữ rất tượng hình, ý nghĩa ấy "mắt vương lệ nhoà". Có ai mà không cảm động chứ?.

    Trời quá nửa đêm khi buổi lửa trại kết thúc. Trời lạnh căm khi ánh lửa cuối cùng tắt đi. Chúng tôi vô nhà và tự mỗi đứa nổi lên ngọn lửa trong lòng. Thằng nào cũng vỡ lẽ là chăn mền chưa kịp khô. Ngồi co ro, bó gối cho đỡ lạnh, tôi bắt đầu buổi trò chuyện cuối năm, chờ sáng,

"Khi tao về đến nhà, thế nào má tao cũng luộc cho một nồi hột vịt lộn."

Thuận Què, với cái giọng ồ ề, ráo quảnh, tiếp theo ngay:

"Ông bà già tao chắc đổ bánh xèo cho cả xóm ăn quá."

"Thôi tụi mình ra bến Ninh Kiều ăn bánh cống đi." Trọng Thỏ nói lớn.

"Tao thèm một con vịt quay quá chừng." Phúc lùn thống thiết kêu lên.

"Tao phải vô trong ruộng để phụ với ông bà già. Có thằng nào theo tao về dưới chơi không? Tao dắt đi bắt chim , đuổi chuột, tát đìa đã lắm". Hét quắn lên tiếng.

Bỗng có tiếng nhỏ nhẹ của Bác Luận:

"Tôi phải phụ bà già nấu xôi hàng sáng."

Có tiếng cười khúc khích của ai đó:

"Có xôi gà không Bác Luận? Tụi tui ghé lại ăn một bụng rồi đi tiếp."

Tôi chen vào,

"Điệu này chắc tụi mình thức tới sáng quá. Có gì ăn không tụi bay, tao đói muốn xỉu rồi nè."

 

     Thiếp đi từ lúc nào không hay, nhưng khi giật mình thức giậy, tôi nhận ngay ra trời khoảng gần giờ đi học. Tôi la to,

 "Dậy đi thôi! Đi về. Đi về. Đi về nè!"

Tuấn- quê ở Phương Lâm- và Hải Bầu- người Dốc Mơ- rủ nhau về trước. Thằng Đức Cống, người Sài Gòn, khoác trên vai một cái xách tay nhẹ tưng, lững thững đi theo. Nó chào chung hết cả nhà, giọng nói vang vang:

"Tớ về trước nhé. Qua Tết này, tớ ở lại nhà luôn rồi. Ở trên này vui mà cực khổ quá. Thằng Thành Xì dành ăn hết nên nó to béo ra. Tớ ngày càng gầy còm. Mẹ tớ chắc nhìn tớ không ra đâu." 

Mặc xác nó, chúng tôi đều biết nó nói đùa. Thằng Điệp và Bác Luận đi theo Đức Cống ra bến xe Bảo Lộc. Băng Cần Thơ chúng tôi có cái cách riêng. Chúng tôi nấu nước chè xanh uống thay cho bữa ăn sáng. Chờ đến khi có chuyến xe đầu tiên từ Đà Lạt về, khoảng hơn 9: 30, chúng tôi rời nhà trọ. Đứng chung một nhóm, chúng tôi mong có một xe còn đủ chỗ trống ghé rước cả băng chúng tôi. Sau vài chuyến đầy khách chạy vụt qua, có một xe rước băng tụi tôi lúc gần 10 giờ rưỡi. Dù bụng dạ cồn cào, tay chân bủn rủn, tôi thấy như đang bay về nhà. Chiếc xe đò ấy chứa đầy hành khách như chúng tôi chứa đầy niềm hân hoan- về nhà nghỉ tết, năm Nhâm Tý, với một thành tựu, một món quà lớn.

    Tại quán một cơm ở Định Quán, vì hơi trễ bữa, mọi hành khách ăn cơm rất ngon. Băng Cần Thơ chúng tôi chia nhau ăn nguyên một quày chuối cũng rất ngon. Đường về Sài Gòn hôm ấy dài hẳn ra mặc dù chiếc xe đò hôm ấy chạy nhanh hơn rất nhiều. Chúng tôi xuống bến xe Petrus Ký lúc 4 giờ rưỡi. Đón ngay xe về Cần Thơ, trong chúng tôi không có đứa nào có cảm giác đói mệt. Thay vào đó là cái cảm giác sắp được đón chào, sắp được yêu thương hơn. Đoạn đường về Cần Thơ cũng như thể cố tình kéo dài ra hơn, cố tình khiến chúng tôi sốt ruột hơn.

Tôi thầm nghĩ,

"Về đến nhà trễ hơn, bữa cơm tối nay sẽ ngon nóng hơn và mọi người sẽ vui mừng hơn."

 Nhưng mọi thứ, mọi người chung quanh sao thật hờ hững, vô tình. Không có ai để ý tới chúng tôi nếu chúng tôi không có mang vác trên vai một bao trà to tướng. Có người hỏi tôi trống lốc,

"Trà này ở đâu vậy?"

"Ở Bảo Lộc." tôi cũng cộc lốc trả lời.

"Bảo Lộc là ở đâu vậy?" người hành khách ngồi cạnh tôi thắc mắc.

Tôi có dịp khoe cái nơi tôi đang học, quảng cáo ngôi trường chúng tôi vừa chuyển lên học,

"Gần Đà Lạt đó! Tụi tui từ trường PTG Cần Thơ lên học ở Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Hôm nay về ăn tết. Số trà này là quà tặng của trường, mỗi đứa một bao, mười gói trà sen, Đỗ Hữu."

 

    Tại bến phà Cần Thơ, nhìn những ánh đèn bên kia sông Hậu được rọi sáng hơn bởi ánh trăng rằm tháng chạp. Mặt sông như được giác đầy vàng và  lòng tôi được lấp thêm đầy sức sống. Tôi muốn nhảy ngay xuống giòng sông, bơi qua, chạy một mạch tới nhà. Cả xóm tôi sẽ ngạc nhiên khi nghe tiếng kêu thảng thốt của tôi,

 "Má ơi con về nghỉ Tết đây."

 

 

Rạch Giá  30- 01 -2018      

Lương Ngọc Thành

 

                                                                                    

   

 

                             QUYỂN TỰ ĐIỂN BỊ ĐÁNH TRÁO

LuongNgocThanh_book.jpg 

 

     Tôi đã từng rất nghèo khó nhưng có một kẻ nào đó, trong Hải Quan phi trường Tân Sơn Nhất, vì nghèo khó hơn tôi hoặc vì quá cần tiền, đã phải đánh tráo cuốn tự điển, giá trị 5 bảng Anh- một món quà tặng của đài BBC gửi tặng tôi sau khi họ chọn đọc truyện "Quyển tự điển cho con", tác phẩm đầu tay của tôi.

 

     Được vào làm một công ty bất kỳ nào đó là một thử thách, có thể tính bằng hàng chục chầu nhậu nhẹt, cậy nhờ những kẻ có chức quyền hoặc hàng chục lần thăm viếng hoặc với ngần ấy tiền quà cáp. Tôi được mời gọi đi làm sau khi được chính họ - Sở Lâm Nghiệp Kiên Giang- đãi một tiệc lớn- vì tôi đã chụp rất hay trong hai trận đá banh cuối giải để giúp họ đoạt giải vô địch tỉnh năm đó. Họ rất vui mừng khi nhận ra rằng tôi có bằng "Tú tài Lâm Nghiệp" của trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc và một bằng Đại học chính quy. Họ đã không màng đến việc tôi trước đó bị một công ty sa thải vì một chuyện tế nhị "có chị em vừa đi vượt biên". Họ cũng đã không ngờ rằng khi tôi nhận lời chụp cho họ hai trận đá quan trọng đó, tôi đã đang nấu rượu lậu với gia đình bên vợ và dĩ nhiên trước đó không có chút thì giờ rỗi để đụng đến trái banh.

   Tôi được họ nhận vào làm cho Công Ty Lâm Sản, trong một công trường xây dựng một xưởng cưa, 15x60 mét. Vào khoảng tháng 5 năm 1985, với bằng đại học, làm giám sát công trường, tôi có một mức lương thấp kỷ lục- 50 đồng/ tháng- tương đương 25 gói thuốc lá đen hạng bét. Tôi dành nhiều thì giờ để đọc tài liệu, theo dõi từng công đoạn nhỏ nhặt, ghi chép cẩn thận mọi phần việc vì tôi mong sao không mắc sai phạm chuyên môn nào và học được một nghề phụ mới, nghề xây dựng. Không có một khoản thu nhập, trợ cấp gì thêm, tôi cảm thấy bế tắc. Một hôm tôi phải ứng tiền của thủ quỹ để mua một món đồ cho công trình. Tình cờ còn lại một khoản tiền ít ỏi, tôi mua một cái radio nhỏ. Từ đấy hằng đêm tôi nghe đài BBC để mong mở mang tầm nhìn ra bên ngoài, học được ít tiếng Anh và vào tối 27 tháng 7, 1985, tôi bắt được một tin rất hay,

     "Chúng tôi mở mục truyện ngắn từ Việt Nam, từ các ngòi viết không chuyên và được gởi từ Việt Nam. Đặc biệt chúng tôi không để tâm đến chính kiến của người viết. Tác giả có truyện được chọn đọc, sẽ được chúng tôi gởi tặng một quyển tự điển Oxford, có giá trị 5 bảng Anh."

 

   BBC công bố hằng đêm khoảng suốt một tháng. Hai vợ chồng tôi mừng như trẻ sắp được quà. Chúng tôi bàn thảo một kế hoạch. Là thư ký đánh máy trong một công sở, cô ấy lén đánh từng trang từ bài viết tay của tôi. Là người chưa từng viết bao giờ, chưa từng làm văn giỏi bao giờ, tôi phải dành rất nhiều thì giờ cho cái truyện "đầu tay" ấy, dựa theo chuyện đứa cháu nhà nghèo nhưng hiếu học Anh Văn. Tôi viết về việc nó không có được một cuốn tự điển như e rằng cho con của chúng tôi sau này. Suốt 2 tuần liền, ngày qua ngày, người viết, kẻ đánh máy, chúng tôi hoàn tất phần đầu của cái giấc mơ nhận được món quà- quyển tự điển- một cách đơn sơ, tội nghiệp. Tôi thầm nghĩ sau này thằng bé con của chúng tôi sẽ rất tự hào về cái món quà độc đáo đó. Tôi do dự, e ngại vì có thể bị kết tội "viết thư ra nước ngoài hoặc liên lạc với đài nước ngoài" cho đến khi nghe chuyện đầu tiên "Cái áo len" của một tác giả ở Đà Lạt. Vét tiền dành dụm, chúng tôi cố gởi bức thư tới đài BBC, bên trong có 4 trang giấy đánh máy. Bức thư có chứa một thứ tình thương thân, thương con, thương cho cái nghèo khó nhưng nó lại chứa một hy vọng "được đền bù xứng đáng". Tôi không hề nghĩ đến trị giá bằng tiền- 5 bảng Anh mà tôi luôn nghĩ đến cái giá trị tinh thần, cái giá trị nhân bản, cái giá trị của luật nhân quả. Thứ bảy hàng tuần, từ lúc 10:30 tối, chúng tôi hồi hộp mong đợi tin vui.

 

      Và cái gì đến đã đến. Đêm hôm 22-11-1985, tôi nghe BBC công bố danh sách các chuyện sắp được đọc. Cái tiêu đề, cái cụm từ " Quyển tự điển cho con" nghe họ đọc vừa ngọt ngào nhưng lại vừa dữ dội như một cơn lốc mạnh. Nó như bốc tôi lên cao, cuốn xoáy tôi trên không trung và ném tôi xuống một cái ao đầm tăm tối với nước tanh tưởi, đen ngòm. Tôi sung sướng như một sinh viên vừa nghe tên mình được xướng lên trong ngày tốt nghiệp. Không giống như Archimedes đã kêu lên: "Eureka, I have found it"- trần truồng chạy trên đường phố sau khi phám phá ra định luật nâng của nước, tôi đã phải nín câm, đôi khi còn lo sợ bị công an đến hỏi tội. Ngày mà tôi nhận được quyển tự điển của BBC có lẽ là ngày đáng ghi nhớ suốt đời tôi và nó chắc phải là món quà ý nghĩa nhất mà một người cha bất kỳ nào đó có thể tạo ra cho con của ông ta. 

      Hằng đêm thứ bảy chúng tôi hồi hộp nghe đọc các truyện với một niềm vui khôn tả. Và trong cái nhà lá nhỏ được chủ nhà cho ở tạm, dột nát, ẩm thấp và tồi tàn ấy, tôi ấp ủ một giấc mơ. Nó đơn giản như cái giấc mơ lúc học xong ở Bảo Lộc về Trảng Bom học Kiểm Lâm của tôi trước đó 14 năm. Tôi mơ sẽ có một đứa con. Tôi mơ có một nghề phụ. Tôi mơ có một căn nhà nhỏ- như cái căn tôi đang ở nhờ đây vậy. Tôi mơ con tôi học giỏi- như tôi đã từng mơ hồi ở Bảo Lộc. Tôi mơ làm một người cha có trách nhiệm- người cha mà tôi đã và đang không có. Tôi mơ đến ngày trao tay cho con tôi cuốn tự điển "BBC" và bảo với nó rằng,

"Nếu ba tạo ra được cuốn tự điển này, con sẽ tạo ra hàng ngàn cuốn như thế, phải không con?"

  Kẻ nào, người đã đánh tráo quyển tự điển đó nghe, đọc được điều này, chắc sẽ hối hận lắm và sẽ phải tìm đến hay viết thư cho tôi để xin lỗi, nếu như y còn có chút lương tâm.

      Tôi đã viết thư cho BBC hai lần để thỉnh cầu một quyển khác hoặc nhận được cái phiên bản truyện ngắn đó hoặc thậm chí một thư phúc đáp nhưng tôi đã không nhận được hồi âm gì. Tôi e ngại rằng con tôi sẽ không tin vào chuyện này. Tôi e rằng tôi sẽ có thể làm vẩn đục cái niềm tin mà nó đặt vào tôi. Đánh mất niềm tin của một người, có thể được ví như việc đâm vào tim họ một nhát dao. Việc làm ai đó thất vọng có thể được ví như việc gây một vết thương trên thân thể kẻ đó. Tôi không trách kẻ đánh tráo cái quyển tự điển ấy nhiều bằng cái việc hắn"đánh tráo tình người, đánh mất niềm tin."

     Ít ai hiểu được niềm vui rất "người" của tôi khi tôi tự nguyện đọc báo sáng cho công nhân trong xưởng cưa nghe. Không ai trong số họ biết rằng tôi phải rời nhà lúc 6 giờ, đạp xe 8 cây số với cái bụng trống không, để đến kịp lúc. Tôi đã làm như vậy hàng ngày chỉ vì tôi sung sướng khi tất cả họ rất im lặng, lắng nghe tôi đọc. Các thầy cô giáo chắc chắn hiểu được niềm vui đó của tôi, "niềm vui có kẻ lắng nghe bài giảng". Những công nhân vốn ít đến trường cũng cố gắng đến kịp giờ vì sợ bị điểm danh như học trò trong lớp mà cũng vừa để không phụ công tôi đọc. Họ khoái được  nghe cái giọng hoặc cách đọc của tôi. Tôi thật "phê" khi nghe ai đó nói về tôi,

   "Ông Thành đọc nghe "đã" quá."

Tôi âm thầm học được một bài học mà tôi đặt tên là 3 T- " Tôn trọng chính mình- Tôn trọng kẻ khác- và Trách niệm về hành vi của mình."

 

     "Quyển tự điển cho con." kể về một thằng học trò nhỏ, lớp 8, mồ côi cha. Là một công nhân bình thường, mẹ của thằng bé không lo được cho nó sách hay, vở tốt chứ nói gì đến quyển tự điển. Hằng ngày cậu bé chăm lo học và được chọn vào lớp chuyên Anh Văn. Được sắp hạng nhì trong lớp chuyên Anh, vì thằng bé thua hẳn người hạng nhất về từ vựng. Xin mẹ một quyển tự điển chưa được, thằng bé phải mượn của mấy đứa bạn học trong lớp và thức khuya để tra từ vựng trong các bài đọc khó. Một đêm, mẹ con đều phải thức khuya để học. Thằng bé ngủ gục trên bàn học trong lúc mẹ nó đang chăm chú đọc một công văn khó hiểu dài dòng. Chợt mẹ nó nghe tiếng của thằng con mớ,

"Mẹ cố tìm mua cho con một quyển tự điển nghe mẹ, nghe mẹ..."

    Bà mẹ bật khóc và đến trước bàn thờ của người chồng quá cố để đốt một nén nhang và để tâm tình. Bất ngờ người mẹ nó nhớ lại cái đồng hồ đo điện kế- cái công cụ mà ông ta đã từng rất cần, rất yêu quý. Bà mẹ đem bán nó đi để mua cho thằng con một quyển tự điển. Thằng bé thật vui khi nhận món quà và nó cảm động hơn nhiều khi đọc dòng chữ mẹ nó nắn nót viết trên trang đầu tiên,

"Tặng con yêu của mẹ. Không có từ nào trong quyển tự điển này có thể giải thích được tình yêu của mẹ đâu con ạ!"

 

    Giống như những gì Carpenters hát bài Mr. Postman, ngày nào tôi cũng trông chờ ông phát thư như thời còn đi học trên Bảo Lộc. Người phát thư đã không đến vì tôi mượn địa chỉ bên gia đình vợ tôi. Một ngày cuối năm, 24 tết năm đó, thằng cháu vợ hớn hở đạp xe đến nhà tôi với bịch quà từ đài BBC. Tôi ôm ghì nó và lì xì cho nó một ít tiền rồi hí hửng mở ra xem. Ngoài bìa phong bì to có ghi rõ mọi thứ tôi hằng mong đợi. Nhưng bên trong, cùng kích thước ấy là một quyển sách cũ bằng tiếng Đức. Cái quyển tự điển tôi mong đợi ấy đã bị đánh tráo. Tôi chết lặng và quyết định giữ nó cho đến ngày hôm nay. Đến nay, câu chuyện xảy ra được 32 năm. Con trai tôi- Lương Nhất Anh- năm nay được 27 tuổi, khá giỏi Anh Văn do chính tôi dạy.

    Tôi vẫn thường tự hỏi,

"Có ai muốn xem quyển tự điển bị đánh tráo đó không nhỉ?"

Dẫu sao, tôi cứ gìn giữ nó cẩn thận như một món đồ có giá trị, giá trị thật đấy!

 

   Rạch Giá 10-2-2017

   Lương Ngọc Thành

                                                                                                    

                                            

        

  

                                             LỜI HỨA ĐẦU NĂM

                           LNThanh_lich.jpg

       Trước thềm năm mới, người Việt hay Mỹ, ở Việt Nam hay ở tại Hoa Kỳ, đều có những quyết tâm, hứa hẹn, quyết tâm chuyển biến trong năm mới. Vì nhiều lý do khác nhau, chính họ nuốt lời hứa và hằng năm họ lập lại cái điệp khúc này. Vào cuối năm 1987, tôi đã có một quyết tâm và tôi đã hoàn toàn thực hiện được.

 

      Bắt chước công vịêc của thằng Khuê Bầu TL-73, làm lịch bên Cần Thơ, để làm bớt đi cái nghèo khổ đeo đẳng và để chứng minh với đời rằng một học trò Nông Lâm Súc có những tài mọn và biết cách biến chúng thành nghề phụ, tôi đã quyết định làm 100 tấm lịch. Tôi trước đó hỏi xin thằng Khuê một khung cưa lọng. Nó còn hào phóng cho tôi luôn một lố lưỡi cưa. Nhân khi bà chị vợ đi công tác trên Đà lạt, tôi đã nhờ bà ấy hỏi Cậu Doãn mua giùm tôi 100 miếng ván ngo mỏng 2 mm khổ 20-40 cm để tôi cưa chữ "Chúc mừng năm mới"- công đoạn khó nhất- một thách thức lớn nhất với ai làm nghề này.

 

    Không có ai phụ hoặc chỉ dẫn, không có một ngân quỹ gì, không có thì giờ làm chính thức, không có kinh nghiệm trước và chưa hề biết cưa lọng, tôi chỉ có mỗi cái ý chí, niềm tin, "Làm để học." và"Tạo tiền để sống". Với chữ "Nhẫn" to tướng trong đầu, đúng vào sáng sớm ngày 1-8-1987 tôi đã bắt đầu làm lịch. Ngày ngày vẫn đi làm từ 6:30 giờ sáng đến 5:30 chiều, tôi làm lịch vào buổi tối. Công việc của một giám sát công trình của tôi khiến tôi phải đi làm khá đúng giờ, về đúng giấc. Hằng ngày việc ghi chép, theo dõi, mục kích các thay đổi kết cấu hoặc các số liệu đã khiến tôi mệt nhoài.

    Những buổi tối trước đây, tôi phải dành thì giờ để đọc hiểu bản vẽ, các thông số, quy định, chỉ số kỹ thuật trong ngành xây dựng. Vào tối hôm ấy, tôi tập cưa lọng. Chú tâm hết mức vì chỉ có ngần ấy lưỡi cưa, tôi đã rất vất vả. Đến 11 giờ, tôi đã làm gãy 3 lưỡi sau khi đã cưa được 3 bộ chữ. Tôi kêu bà xã tôi giăng mùng để tôi không còn bị lũ muỗi quấy rầy. Ngồi trong mùng, tôi cưa tiếp tục được hơn 11 bộ chữ khi trời gần sáng.

 

     Tôi phân chia làm hai loại lịch: loại bằng nền ván, loại kia bằng nền giấy carton. Tôi phải làm đơn xin mua gỗ tạp và xẻ mỏng 3 mm, khổ: 32-45 cm. Trong khi tôi và nhiều công nhân ở cái Công Ty Lâm Sản đấy biết là "họ" từng biếu không hoặc bán rẻ cho các xếp trong ngành Lâm Nghiệp hay trong tỉnh 3 khối gỗ tốt cất nhà, họ bác đơn xin mua 2 tấc gỗ tạp của tôi với lời giải thích là:

"Bán gỗ tạp cho một công nhân sẽ mang tai tiếng lắm."

Tôi đành phải đi mua gỗ cây gòn của một khách hàng người rất xa lạ với tôi. Có thế tôi mới thắm thía cái chuyện đời, cái bất công, cái giả dối trân tráo không có trong sách vở. Ván được tôi chà phẳng, hong khô, phơi, sơn lót và rồi sơn lót nền. Carton được tôi thay bằng các miếng vách thùng giấy để hạ giá thành. Tôi phải đạp xe đi lùng tìm mua các thùng giấy bỏ đi. Nền tấm lịch là một trong yếu tố chánh trong việc làm lịch. Tôi chọn sơn nền màu đỏ cho lịch bằng gỗ và nền màu vàng cho loại lịch nền giấy bằng carton. Trong một chuyến đi Sài Gòn, tôi tìm ra một cơ sở in còn lưu khoảng 50 hình "Phước Lộc Thọ." Tôi chọn ngay đó làm đề tài cho loại lịch nền giấy. Từ quyết định ấy, tôi nghĩ ra thêm việc cưa lộng những đồng tiền và sơn thiếp vàng. Khi những toan tính của tôi có vẻ diễn ra khá suông sẻ, tôi tăng nhanh tiến độ và sự tự tin.

 

    Bên phần lịch nền gỗ, tôi tìm thêm mẫu "hoa hồng", "ông thần tài" và "phi mã".

Từng chiều tối, mỗi sáng sớm, mỗi giây khắc, kể từ ngày bắt tay làm lịch, tôi dồn hết tâm sức vào mục đích tôi đã vạch ra. Nếu tôi đã từng làm chủ bản thân tôi trong 5 năm học ở 2 trường Nông Lâm Súc, nếu tôi đã vác cây thang tre dài 6 mét đi vẽ bảng dạo ở Rạch Giá được và nếu như tôi đã cầm cái máy chụp hình cũ kỹ trên tay đi chụp dạo được, tôi cũng có thể làm được một trăm tấm lịch đấy thôi! Không một giây phút nào tôi đã bỏ phí như tôi đã không hề phí một giây phút nào để học trên Bảo Lộc. Một vài ngưòi hàng xóm đến hỏi tôi cho con em họ đến phụ việc hoặc học nghề. Tôi phì cười và bảo với họ rằng:

"Thì tôi cũng đang học nghề đấy thôi!"

 

     Từ các ý tưởng, phần việc được tôi sửa soạn trước, tôi bắt đầu công đoạn hoàn thiện vào ngày 15 tháng 10, 1987. Căn nhà lá nhỏ ẩm thấp tôi đang ở nhờ, nơi Phạm Đức Ngân và Huỳnh Thiên Tài đã từng ghé thăm, bỗng trở thành một xưởng sản xuất lịch. Hai màu vàng đỏ phủ kín các màu khác trong nhà. Các hình nền lịch phủ đầy đầu óc tôi. Các chi tiết lớn nhỏ trùm kín cái đầu tôi. Các chữ bằng gỗ thông được tôi cưa nhẹ nhàng nhanh chóng như một thợ chuyên nghiệp. Các nét viết lá tre chữ "kính tặng" hoặc "kính biếu" được tôi cưa nhuyễn đến độ các khách hàng sau này tưởng rằng tôi có một thợ cưa giỏi. Tôi không nói chuyện này với ai. Tôi không tuyên bố kết quả này với ai. Tôi cũng đã không nhờ vả ai về bất cứ phần việc gì. Đến lúc những tấm lịch đầu tiên được hoàn thành, tôi mới thật sự có những giấc ngủ ngon, dẫu cho đó là những giấc ngủ rất ngắn: 3 giờ mỗi ngày. Chủ nhật là ngày tôi làm việc 19 giờ một ngày. Hai việc khó làm ấy chỉ có khó đối với ai đấy thôi; chứ với tôi đó là "điều bình thường.". Tôi luôn tự hỏi:

"Chẳng phải ta đã từng học 19 giờ trong những ngày chủ nhật trên Bảo Lộc đấy sao? Chẳng phải ta đã ngủ 4 giờ hàng ngày trong năm học lớp 12 đấy sao?"

Tôi tự làm phép so sánh và tự dặn lòng:

"Nếu ta đã từng ôm một chồng sách từ nhà trọ vào trường học hàng sáng chủ nhật để học, thì ta sẽ ôm một chồng lịch đi bán được đó thôi."

 

    Cái khó khăn nào cũng có nỗi vui do nó mang lại. Chồng lịch đầu tiên-10 tấm- tôi ra lò vào ngày 3 tháng 11. Trên đường đi làm, tôi hân hoan, tự tin khi ghé lại một sạp báo ở Rạch Sỏi để ký gửi. Cái giá bán hơi thấp tôi đưa ra khiến họ nhận ngay. Niềm vui của tôi hôm ấy không có bút mực nào diễn tả được. Từ hôm đó nó luôn lộ trên gương mặt tôi- vốn có vẻ khó khăn gay go. Tôi tăng tốc để sớm đưa các tác phẩm đầu tay và cũng là duy nhất của tôi ra thị trường. Ngoài các gia đình quen biết, tôi đã đến từng sạp báo, nhà sách ở Rạch Giá và tôi đã ra về với một niềm tự hào rằng họ sẽ bán hết cái sản phẩm chính tay tôi làm ra. Tôi làm hết sức mình để đúng hẹn, để làm vui lòng chính tôi, để làm một cảnh báo với thiên hạ rằng:

"Dân Nông Lâm Súc tụi tôi có thể làm bất cứ điều gì chúng tôi muốn."  

 

    Tôi đã bán sạch 100 tấm lịch trước ngày 22 tháng 12 năm 1987. Lợi nhuận không đáng kể, nhưng tôi thu được một lợi ích không có gì có thể sánh được, những bài học không có thầy cô nào có thể dạy được: lòng tự tin. Tôi tin vào chính hai bàn tay tôi khéo léo, trái tim đầy ắp máu nóng và khối óc minh mẫn của tôi. Tôi tin vào những gì tôi đã dầy công tập luyện. Tôi tin vào luật nhân quả. Tôi tin vào cái khả năng mà chỉ có học trò Nông Lâm Súc mới tin: "Muốn thì được.", "Tạo tiền để sống. Sống để phụng sự."

   Hơn những ích lợi thông thường mà ai cũng có thể nhận ra được, tôi được má tôi lo lắng và thương tôi hơn. Bà khoe với hàng xóm rằng tôi có thể kiếm được nhiều tiền lắm và quan trọng hơn là  tôi nhờ như thế mới làm cho bà được lên chức "Bà Nội" như bà hằng mong đợi.

 

    Những năm sau đó, những quyết tâm, hứa hẹn đầu năm của tôi là: làm ra 100 phiên bản một bức tranh đẹp để bán, tập chụp hình và làm thợ chụp hình, vẽ bảng hiệu, học Anh Văn rồi thành thầy giáo. Theo một chuổi những thành tựu đã đạt được hàng năm, tôi đã làm tròn lời nguyện ước lớn lao của đời tôi: "Đứa con hiếu thảo." và cái nguyện ước lớn thứ hai: "Người cha có trách nhiệm."

 

  Rạch Giá 21-12-2012

  Lương Ngọc Thành

 

                                   CÁI BƯU ẢNH ẤY

 

    Nếu học trò đệ nhất cấp có những bài văn, vài bức thư hoặc một bưu ảnh từ người cha thật xúc động mà Phạm Anh Tuấn đã khoe tôi, họ sẽ có thể học giỏi môn Việt Văn hơn, sẽ yêu cuộc đời này hơn và họ sẽ tiến xa hơn trên con đường đời mà trên đó có nhiều đoạn chông gai, hiểm trở khiến nhiều lần họ ngã gục hay thậm chí muốn bỏ cuộc.

    Dù chỉ thân thiết với nhau hơn trong năm học đệ lục ở Phan Thanh Giản, Cần Thơ, nhất là nhờ chơi bóng rổ chung, tôi không thể nhớ được nguyên cớ gì khiến Tuấn khoe với tôi tấm bưu ảnh ấy nhưng tôi nhớ như in cái bố cục và đặc biệt là những dòng chữ đẹp thẳng tắp trải đầy mặt sau của nó. Trong đó, có đầy tình thương, trách nhiệm, mong ước và những lời khuyên bảo của người cha mà đứa con nào cũng thèm muốn được đọc, sẽ phải ghi nhớ và rồi sẽ phải học giỏi. Mặc áo măng tô mầu trắng xám nhạt, vóc người tầm thước, gương mặt rắn rỏi, hai tay trong hai túi áo, ba của Tuấn đứng chếch trước một xe lửa có người đi ra đi vào. Trên mặt sau, ông viết đầy kín chữ màu xanh vừa nhỏ vừa đẹp mắt.

Ba của Tuấn đã làm đến chức tổng bí thư Dân Xã Đảng thuộc Hòa Hảo. Trong khi ông Trịnh Minh thế và Ông Bảy Viễn làm việc cho chính quyền. Họ nhờ ông Sĩ Thanh mua chuộc ba của Tuấn ra làm việc với giá 1000 lượng vàng. Ông cương quyết từ chối và bị bắt cóc. Thoát khỏi vụ bắt cóc ấy, ba của Tuấn trốn sang Nam Vang tá túc với ông Phan Hà (còn có tên là Thành Nam) người làm việc cho Ông Ba Cụt- một tay Việt Minh nổi tiếng. Sau khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền, nhóm Ba Cụt, Bảy Viễn, bị chính quyền lùng bắt. 

   Sáu năm chồng sống ở Nam Vang, bà mẹ của Tuấn đã có sáu lần qua thăm chồng, học làm bánh Copo và mang thai ba lần. Tuấn là một trong 3 đứa con ông bỏ lại ở Cần Thơ trước đó. Từ Nam Vang ông xuống tàu qua Pháp năm 1960 khi mà Tuấn mới 5 tuổi rưỡi. Khi lưu vong bên Pháp, vì chịu ơn nghĩa, ba của Tuấn nể tình, có phần thân thiết nhiều hơn và sau cùng ông đã sống với người con gái của ông Bảy Viễn. Dĩ nhiên ông ấy giấu diếm gia đình bên Việt Nam. Bác ấy thường viết thư về nhà cho vợ và 6 đứa con và trong mỗi bức thư ấy luôn có câu- theo lời của Tuấn,

"....mong có ngày gia đình đoàn tụ bên Pháp."

Với tôi lên Bảo Lộc học để thành một kiểm lâm là đủ. Nhưng đối với Tuấn điều đó không có giá trị gì. Nó mong ngày đi du học Pháp hoặc ngày ba nó bảo lãnh cả nhà qua xum họp như lời ba nó đã viết trên cái bưu ảnh đó,

"Tuấn thương yêu của ba.

Là con trai cả, con phải thay ba gánh vác việc gia đình. Con còn phải thay mặt mẹ lo cho hai đứa em trai của con.

Bên này ba không nề hà một việc lớn nhỏ gì. Sống lưu vong ba không có gì mong muốn hơn là ngày độc lập để ba được trở về nước, đoàn tụ với vợ con. Hơn bất cứ ai trên đời này, ba thèm tự do, gia đình và tình cha con.

Trong cái bưu ảnh này, ba đang đứng trước một sân ga, chuẩn bị lên tàu đi làm. Khó mà tìm ra một người Việt Nam ở đây nhưng rất dễ mất đi cái chất Việt Nam, cái tình quê hương, cái giá trị nhất của người Việt Nam- gia đình- ở cái nơi được mang danh là "thủ đô tráng lệ" này.

Là một học sinh, con chỉ phải lo có một chuyện- học giỏi. Còn ba ư? Là một người chồng, một người cha của 6 đứa con, là một người lưu vong ở Pháp, ba có hàng trăm chuyện phải lo toan, đối phó.

Ba không trải hết lòng ba trên tấm bưu thiếp này được. Để hiểu lòng của ba con cứ nhân lên một một triệu lần những gì con vừa đọc và mười vạn lần cái cảm giác mà con vừa có mỗi khi đọc nó.

      Ba yêu thương của con."

  Phạm Anh Tuấn lên Sài Gòn để theo học trong một trường nổi tiếng Phục Hưng, 11 Ngô Lê Cát Sài Gòn 3, để có tú tài Pháp để du học trong khi tôi lên NLS Bảo Lộc học chuyên ngành Thủy  Lâm. Tết năm Quý Sửu, 1973, chúng tôi gặp nhau tại nhà Phùng Trương. Dù có vẻ xa lạ, nhưng đứa nào cũng biết rằng đứa kia có một đường đi riêng, lý lẽ riêng và có cung cách riêng biệt. Sau ngày 30 tháng 4, giấc mơ đi du học của Tuấn vỡ tan tành so với việc may mắn được đi học lại của tôi. Nó còn phải nghe lời mẹ vào trong vườn ở Ba Xe- Cờ Đỏ- để tạo ra một vẻ bọc mới, chuẩn bị cho một lối sống mới. Quá bất đắc chí như nhiều người cùng lứa tuổi, nó cảm thấy như sắp mất hết mọi thứ trên đời này trừ mẹ nó ra.

    Tình cờ gặp lại tôi tại nhà một thằng bạn cũ tháng 12 năm 1975, thức rất khuya với nhau, nó kể ra những thứ mà có tôi, người nhận vào. Phước Tòng và tôi đã giúp nó bình tâm lại. Sau tết năm Ất Mão, tôi lại có dịp về Cần Thơ có dịp gặp lại Tuấn. Biết tôi sắp đi Cà Mau với một người bạn mới quen, Tuấn vội vã xuống chợ xin mẹ cho đi theo. Để được phép của mẹ, Tuấn hứa rằng nó sẽ đồng ý về vườn sau chuyến đi ấy.

     Hai ngày trong chuyến đi đó, Tuấn rất thích đàn hát những bài nó biết hoặc nó hát theo tôi một cách tha thiết. Nó nài nỉ tôi ghé nhà nó để tắm và ăn trưa. Nó đạp xe đưa tôi ra bến xe về Sài Gòn. May thay nó được giới thiệu vào đá bóng cho một xí nghiệp và trong một lúc rỗi rãi, nó cùng nhóm bạn đã ghé lên trường tôi ở Thủ Đức để theo Khuê Bầu làm một chuyến về quê Quảng Ngãi và đó là lần cuối cùng tôi gặp nó.

    Theo một chuyến vượt biển tháng 7 năm 1978, nó hoàn toàn mất tung tích. Tấm bưu ảnh ấy có thể một lúc nào ấy nhòa đi trong tâm trí của nó hoặc theo nó xuống đáy biển hay trôi dạt vào một hoang đảo nào đó hay tan rữa trong nước biển nhưng nó luôn luôn còn in đậm nét trong tâm trí tôi. 

    Tuấn ơi! Mày có biết như thế không?

                                                                          Rạch Giá Feb 18, 2013

                                                                                                            Thành Xì- TL 71    

 

 

CẦN THƠ - MÙA HÈ NĂM 1974

 

CT_BenNinhKieu_revised.jpg 

 

   Đó là mùa hè duy nhất trong đời, tôi đã cảm thấy có lúc rất nóng bức đến nghẹt thở nhưng có lúc lại lạnh buốt đến nhức nhối và nó đã đưa cuộc đời tôi vào bước ngoặc mới mẻ, một đoạn đường dài cho đến tận ngày nay.

    Sau hơn 270 đêm, năm cuối đệ nhất cấp, tôi đã mài bút nghiên trên Bảo Lộc nơi yên tĩnh, mát lạnh. Nay ở Cần Thơ, tôi còn có khoảng 90 ngày đêm nữa để chuẩn bị đi thi đại học. Nóng ồn ào vào ban ngày, nóng và muỗi vào ban đêm đã làm giảm rõ rệt kết quả việc học của tôi. Lo lắng vì cái mức thấu hiểu và tốc độ giải bài không tăng lên khiến tôi căng thẳng, giảm cân và không còn một chút vui thú gì. Cần Thơ, với nhiều người, luôn luôn là nơi thoải mái, thanh bình nhưng lại không phải với tôi. Mẹ tôi chắc đã từng kể lể với lối xóm rằng,

"Thằng Thành con tôi đang chuẩn bị thi đại học."

   Cho đến bây giờ, mẹ tôi đã không được nghe tôi kể rằng chỉ vài hôm trước đó khi tôi từ Bảo Lộc về ghé lại thăm nội tôi, ba tôi đã bác bỏ việc tôi muốn học tiếp,

"Về nói với mẹ mày tao biểu đi lính đi. Tao không lo nổi nữa đâu."

 Bà có thể vỡ tim vì tức giận. Bà có thể làm tôi khóc mù mắt. May mà sự chịu đựng của tôi đủ để ấp ủ cái đau đó riêng trong lòng. Tôi phải đậu kỳ thi này với bất cứ giá nào.

   Cứ khoảng vài lần một tuần, em tôi dắt nhóm đàn em của nó về khuynh tả cái căn gác sau nhà. Tôi đã thất kinh hồn vía khi nghe nó ra lệnh cho đám đệ tử choai choai của nó,

"Lột đồ con Nhung Nai ra, "dần" cho nó một trận." hoặc

"Cạo đầu thằng Khanh Rỗ cho tao."

Cũng khoảng vài lần một tuần, Bùi Chí Thông, Thông Chảo, người xóm tôi, Huỳnh Thiên Tài hoặc Nguyễn Bảo Toàn ghé thăm tôi. Tài Râu đã có một ý kiến của "một thiên tài",

   "Mày mang sách vở vào thư viện Hội Việt Mỹ trên đường Tự Đức đó mà ngồi học. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ mà mày còn được phép nghe nhạc Mỹ giải trí nữa."

   Tôi lập tức nghe theo và tôi nhận ra ngay cái giá trị của "nơi đáng ngồi học" đó. Bắt chước một số người, sau khi học đứ đừ, tôi nhỏ nhẹ xin người quản thủ thư viện nghe nhạc. Cái head phone tốt của Mỹ và cái băng magnet các bài hát của Carpenters đã khiến tôi quên hết mọi mệt nhọc, căng thẳng. Bài "Top of the world" có lẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm tôi tính từ hôm đầu tiên tôi nghe được. Sáng chiều hai lần tôi đến cái nơi chỉ dành cho ai giỏi Anh Văn ấy để học ôn thi.

 

   Tôi bồi hồi nhớ lại cái hè trước đó. Hằng sáng, tôi nhẹ nhàng cắp tập sách theo hẻm cạnh nhà thằng Liêm Ốm, Liêm Thầy Pháp, đi học cái lớp toán lý hóa của thầy Trí Ba Túi. Hiểu bài, làm bài tập đúng phóc và cách tếu của thầy Lễ Râu dạy triết khiến tôi cảm thấy mùa hè trước đẹp hơn bao giờ cả. Tôi mơ có ngày giải được bất cứ bài tập khó nào, mơ đến ngày đi thi, ngày cắp sách lên đại học. Còn bây giờ, phải chi tôi chỉ mới bắt đầu năm học đệ nhất cấp.

   Thi rớt đối với tôi còn có nghĩa là,

"Con không cha như nhà không nóc."

Thi rớt chắc chắn đồng nghĩa với việc vào quân trường và vào quân trường rất có thể đồng nghĩa với vào bệnh viện để lại một chân hoặc vào nằm vĩnh viễn trong lòng đất. Càng nghĩ đến cái "tam đoạn luận "ấy, tôi càng "tam sầu bạch xác". Sau mùa hè đỏ lửa, chính nhóm "Bụi Gia Trang" đều mặc áo nâu đã đưa cái hòm của Thuận Què lớp tôi ra nghĩa trang đó thôi.

     Các rạp xi nê Tây Đô, Huỳnh lạc, Casino với các phim nổi tiếng đang trình chiếu chỉ dành cho ai đó chứ không phải cho tôi. Khương Đại Vệ, Địch Long, Trần Quang Thái hoặc Alian Delon, Michael Douglas và Brigitte Bardot là những thần tượng của bất cứ ai khác chứ không phải của tôi. Bất cứ cuốn phim gì cũng có thể hay với bất cứ ai khác trừ tôi ra. Quán kem Lan Hương, gần rạp Huỳnh Lạc hay cà phê "Ta Bắc" dưới chân cầu Cái Khế, hay Cà Phê Mây Bốn Phương gần góc đường Phan Đình Phùng là điểm đến lý tưởng của những nam thanh nữ tú nào khác chứ đã không bao giờ là nơi của tôi. Các điểm đến tình tứ, lộng gió ở Bãi Cát, Vườn Ổi hay bến Ninh Kiều là những chỗ hẹn hò của những cặp trai gái nào khác thôi chứ không phải cho nàng và tôi.

    Thanh Vân qua thăm tôi vào 7: 30 tối cuối tuần. Cô ấy thật cảm quý cái tính cách của tôi. Người thanh niên hừng hực lửa của tôi đã không hề dám chạm nhẹ vào người nàng ngoài lần đầu tiên nắm tay khi tôi nói tôi yêu nàng. Chưa bao giờ tôi có ý định rủ Thanh Vân đi đâu cả. Chưa bao giờ tôi có ý định ôm nàng nhẹ vào lòng và nói với nàng rằng,

"Em phải ủng hộ anh. Anh phải đi tới."

     Một trưa Chủ Nhật, linh tính có ai lay cái cánh cửa sắt dưới nhà, tôi men xuống gác để xem. Thanh Vân đang vịn vào thanh cửa đứng ngóng chờ tôi. Mình trần trụi, lấm tấm mồ hôi, tôi chỉ tiếp chuyện với nàng trong ít phút,

"Em biết anh bận học nhưng chị Nguyệt cứ bảo em qua đây mời anh về quê em ở Cái Tắc."

Thẹn thùng vì phải nói dối, tôi ấp úng,

"Anh đang làm dở dang mấy toán khó. Anh không đi được đâu. Cho anh gửi lời cám ơn chị ấy nhé."

Tiễn nàng về, tôi tự nghĩ,

"Có thể chị Vân buồn lắm."       

     Mọi người vào thời gian này thời điểm khác có những cái nhìn nhận, ký ức khác nhau về Cần Thơ. Tôi nhớ mùa hè ở Cần Thơ năm1974 đó như in. Tôi sống nhưng trong lòng sắp chết đi phân nửa. Ai có trải qua nỗi niềm này mới thông hiểu cho tôi.

                                            Sydney July 18, 2014

                                                    Lương Ngọc Thành

                                              

 

Site built & maintained by tranbt21@gmail.com