THƠ VĂN
Nguyễn Ngọc Tuyết
Cần Thơ, CHS-GS Phan Thanh Giản
CAU TRẦU GÓC CHỢ
Mỗi
sáng tôi đều ra ngồi quán cà phê trước khu chợ gần
nhà. Quán bình dân, cà phê không ngon nhưng ngồi riết rồi
quen, không đi lại thấy nhớ. Nhớ cái không khí bát nháo,
tiếng nói chuyện ồn ào của những người buôn gánh bán
bưng, mấy anh công chức, mấy cụ già sáng sáng tấp vào
đây. Tiện thể mình cũng đi bộ một vòng tập thể dục
luôn vậy mà. Quán cà phê ở gần con đường nhỏ dẫn
vào chợ. Ngay góc chợ đó hôm nào một chị tuổi trung niên,
mặt mày hiền lành cũng bày ngay dưới đất một mẹt cau,
một ốp trầu, hũ vôi bên cạnh mấy sề chuối, cóc và
mấy thứ linh tinh khác. Trầu xanh chỉ một ốp đặt trên mâm,
buồng cau kế bên cũng ít trái thôi chứ chẳng phải đầy
đặn gì. Cái chỗ ngồi và mấy món hàng nhỏ nhoi dường
như lọt thỏm trong khu chợ đông đúc và mấy hàng trái
cây bề thế bên trên khiến tôi không để ý mỗi lần
vào chợ. Hôm rồi có chị bán vé số ngồi uống cà
phê bàn bên chợt bị chú ong vò vẻ bay lạc đến chích
cho một phát, đau đến nhảy dựng. Ai đó liền kêu chị
chạy lại góc chợ xin một ít vôi bôi vào sẽ hết nhức
ngay tức thì. Đúng là vôi ăn trầu hay thiệt! Chị bán vé
số chạy về miệng cười tí toét. Vậy nên tôi mới biết
tới cái góc nhỏ bán trầu cau kia.
Mon men lại hỏi chuyện lúc
chị bán hàng đang ngồi không mới biết nhà chị ở ngay thành
phố, mấy món hàng kia đều có mối đem lại. Thường ngày
trầu cau bán được rất ít. Giờ đâu ai ăn trầu nữa
cô, họa chăng còn mấy bà lão, mấy người khách lại
mua chỉ để cúng thôi. Lâu lâu mấy nhà có đám cưới
chạy lại đây đặt buống cau, ốp trầu thì tui đặt lại
dùm. Chị bán trầu cau nói vậy. Nghe mà chạnh nhớ đến
hàng cau tầm vung trước cửa nhà ở quê chồng. Ngày trước
cả xóm còn rất nhiều người ăn trầu nên má chồng tôi
trồng thêm mấy nọc trầu vàng trong vườn. Mấy dây trầu quấn
quanh, uốn lượn trên mấy cây dừa thẳng tắp, chỉ để biếu
cho mấy bà bạn chứ không bao giờ bán. Thỉnh thoảng có người
đến xin mấy dây lương (dây mọc dưới đất) để
làm thuốc chửa bệnh đau cột sống hay thấp khớp gì đó.
Những lúc có đám giỗ, đám cưới trong quê, nhìn mấy
cụ già vừa nói chuyện vừa thong thả ngồi ngoáy trầu trên
bộ ngựa gõ rồi nhai bỏm bẻm mà cảm thấy ấm áp làm
sao! Tưởng như thời gian như đi chậm lại, hồn xưa phách cũ
của làng quê, bến nước, sân đình vẫn còn đây
và nét đẹp truyền thống của một nền "Văn hóa làng"
vẫn còn hiện diện đâu đó. Giờ thì hàng cau trước
nhà tôi đã bị đốn hết để mở rộng hương lộ,
mấy dây trầu vàng bóng mượt từ ngày má chồng tôi
mất cũng đã rụi tàn. Vả lại trong làng trong xóm nào
còn ai ăn trầu nữa đâu. Thế hệ của những ông già bà
cả cỡ má chồng tôi đã lần lượt khuất bóng hết
rồi. Mấy đứa nhỏ lớp con cháu sau này có khi còn chưa
thấy dây trầu, buồng cau nữa là.. Và vẻ đẹp rực rỡ
một thời, nổi tiếng một thời của những miệt như "Mưới
tám thôn vườn trầu", của những cô gái vườn trầu
xưa chắc cũng trở thành huyền thoại mất thôi!
Đứng nói chuyện một lúc lại
có một cô còn khá trẻ đến nhờ chị têm sẵn chục
miếng trầu cau đem về. Cũng chẳng phải têm trầu cánh phượng
hay làm khéo gì, chị bán trầu chỉ cuộn miếng trầu xanh thành
hình phễu rồi bổ trái cau làm tư nhét vào mỗi cái một
miếng là xong. Không biết người mua đem về cúng kiếng hay đặt
lên mâm thay thế cho cả buồng cau, ốp trầu trong đám cưới.
Mọi thứ giờ tinh giản lắm rồi, đâu phải như ngày xưa
nhà trai phải lựa buồng cau cho tròn, trái cau phải chẵn, phải đẹp,
ốp trầu đặt trên mâm cũng phải là trầu vàng, lá nào
lá nấy phải đều nhau..Chưa hết, khi mâm trầu cau đưa lên
bàn thờ, cô dâu chú rễ còn chui vào trong màn tranh nhau hái
cau, lấy trầu với ý nghĩ ai hái được trước sẽ cầm
chịch trong gia đình. Đúng là vui hết biết luôn!
Chị bán hàng còn cho biết, có
ngày chị chỉ bán được chục trái cau, vài lá trầu,
chẳng nhiều nhặn gì, toàn khách quen thôi. Nghe mà nuối tiếc
những ngày huy hoàng của trầu cau thuở nào. Lại nghĩ, giờ đã
bước vào mùa xuân, mùa cưới xin rộn rả, không biết
rồi có mấy người đến góc chợ này đặt những ốp
trầu, buồng cau để trang trọng đặt lên mâm lễ cho cô dâu
chú rễ chui vào màn tranh nhau hái cau, lấy trầu như ngày xưa?
Dĩ nhiên, đời sống công nghiệp mà, "Đất lề, quê
thói" đã ngày càng phai nhạt rồi! Và, những câu thơ
như thế này có phải rồi sẽ bị lãng quên:
Nhà em có một giàn trầu
Nhà tôi có một hàng
cau liên phòng
(Tương tư- Xuân Diệu)
Nguyễn Ngọc Tuyết
_________________________________________________________________________________________________________________________________________
BẰNG HỮU CA
Bạn cũ ngồi quanh bàn
Chuyện trò cười híp mắt
Xa trường bốn sáu năm
Nay lại về họp mặt.
Xòe bày tay mãi
đếm
Bạn xưa còn nhiêu
đây
Một vòng bàn chưa
kín
Cho nỗi nhớ dâng đầy!
Bạn
tóc giờ bạc trắng
Bạn
mặt hằn nếp nhăn
Nước
thời gian gội mãi
Phai tàn
nét thanh xuân.
Nhưng tiếng cười xưa ấy
Vẫn hào sảng vang vang
Rót đầy niềm hạnh phúc
Cuộc hạnh ngộ miên trường.
Nâng ly mừng
bạn cũ
Chúc cả người
phương xa
Một vòng bàn
chưa kín
Bạn vẫn về bên
ta.
Rồi bắt chước người xưa
Cụng ly mà ca rằng :
« Bằng hữu chi giao đạm nhược thủy »
Rượu say.. lòng rưng rưng..
TRONG CÁNH CỬA MÙA
XUÂN
Trong ngăn kéo mùa đông
Tôi dấu tròn giọt nước
mắt
Cuốn theo cả những mùa hè, mùa thu
Đong đưa giấc
ngủ dài,
Như loài thú say giấc đông miên
Như chú
nhím xếp gai nhọn nằm yên nghi ngại,
Sợi nắng rớt hững
hờ,
Cuộn mình tôi làm kén .
Ngày qua mau qua mau
Dòng
sông hiền hòa rộng lượng
Mở lòng khôn cùng
Cho tôi
về hong tóc bằng mặt trời hồng Vỡ tung mình theo gió,
Biết
mùa xuân bên thềm !
Mùa xuân về thả bay bay nỗi nhớ
Con suối nhỏ chảy tràn
Qua tháng năm, qua từng gương mặt
bạn bè,
Qua tình yêu một thời xa khuất
Thoảng hương
nồng nguyệt quế
Ngào ngạt cả một thời tuổi trẻ
Kỷ
niệm về lớp lớp như mây
Đêm giao thừa thắp hồng ngọn
nến
Mắt sóng sánh biết cười,
Khi mùa xuân bay qua, bay
qua ...
Trong ngăn kéo mùa đông
Tôi dấu tròn giọt
nước mắt
Đợi mùa xuân về chảy tràn nỗi nhớ
Rót xuống dòng sông rộng lượng
Đón chút hương
nồng ai đốt lá mà thơm !
QUA CẦU NGẢ NÓN
...
Buổi sáng chị lại ra con
đường mới phóng phía sau nhà. Đứng ở đây có
thể thấy rõ con lộ chạy dài ra hướng cầu Cần Thơ. Mấy
ngày nay trong xóm, trong phường chỗ nào cũng râm ran chuyện cầu
Cần Thơ đã được hợp long, trước thời hạn cả tháng.
Quả là chuyện đáng mừng. Nhưng đọc báo chị cũng biết
con đường dẫn lên cầu còn bề bộn lắm, hạn định
thông cầu không biết có đúng kỳ như niềm mong mỏi của
người dân đồng bằng không? Thằng em chồng bên Vĩnh Long mới
hôm rồi chạy qua đây hồ hởi:
-
Mấy cây cầu dẫn bên em gần xong cả rồi! Sao bên này "chậm
như rùa vậy"?
- Chú hỏi tôi
tôi biết hỏi ai? Tôi có phải nhà thầu thi công đâu. Dân
vùng này đa số chỉ đi nhổ cỏ mướn, ngày 30.000 đồng
thôi.
Thằng nhỏ còn nói ra vẻ
như người lớn:
- Phải chi anh Thanh
còn sống, bây giờ đã được thấy thành quả rồi!
Tim chị như hụt một nhịp đập. Mấy
năm rồi mà sao vẫn đau nhói. Thằng nhỏ thiệt kỳ! Đang vui
sao cứ nhắc chuyện buồn. May mà con bé Như không có đó.
Chứ không thế nào nó cũng khóc rồi cự nự cậu út
nó rum trời cho coi. Mới mười tuổi hơn mà nó như già trước
tuổi, khôn lanh, nhạy bén đến nổi chị còn thấy sợ. Mỗi
lần ra đây, nhìn hút theo con đường chạy ra ngoài xa kia người
mẹ trong chị lại xót xa nhớ từng câu nói của con:
- Sao mình phải về quê ngoại vậy mẹ? Bên
kia người ta lên nhà lầu hết rồi.
- Sao mình giỗ ba bên này chứ không phải bên nhà nội?
Sao chú ba, cô tư, chú Út mỗi lần đến nhà mình lại
khóc? Mấy người đó nhớ ba hả mẹ?
Mỗi lần nghe con hỏi, mỗi lần nhìn vào đôi mắt
long lanh, trong sáng của con chị lại nhớ anh tha thiết. Trời, sao mà đôi
mắt con bé giống ba nó đến vậy! Dường như biết trước
mình sẽ đi xa, anh đã để lại cho chị, người vợ trẻ
cái phiên bản này đây. Để mỗi lần nhìn vào đôi
mắt con gái, chị vừa ngậm ngùi xa xót lại vừa có chút
ấm áp của tình yêu nồng thắm còn đọng lại.
Như bây giờ vậy, chị đi lần đến
cây cầu bắc qua rạch Cái Răng sắp sửa hoàn thành, hình
dung ra con đường dẫn lên cầu lớn lòng lâng lâng. Chị biết,
phía dưới kia còn một cây cầu y như thế vẫn đang thi công.
Mấy tháng qua, cây cầu xi măng nhỏ bắc vào ngôi đình xưa
của vùng này đã được dở ra, nâng lên cao vút cho
những xà lan chở vật tư, chở sắt thép đi ngang qua. Giờ cầu
đã được thả về vị trí cũ, có nghĩa là cây
cầu bắc ngang qua con rạch phía trong cũng sắp xong rồi. Gió sáng
thổi mát rượi, trong trí chị, hình ảnh những con đường
từ khắp nơi trong vùng châu thổ như những mạch máu hồng
hào, tươi rói cùng chảy về cây cầu lớn vừa được
hợp long trên dòng sông Hậu phù sa màu mỡ, nước chảy cuồn
cuộn thật hoành tráng, lớn lao biết chừng nào. Giống như những
con sông lớn, sông bé, những kinh rạch chằng chịt của vùng đất
mênh mông đã một thời là mạch sống còn của những
lưu dân đi mở cõi, những con đường đang thi công hướng
về tâm điểm cầu Cần Thơ hôm nay chính là huyết mạch
của cuộc sống bừng bừng cuộn chảy trên đất "Chín Rồng"
đó thôi. Huống hồ...trong lớp lớp phù sa mỗi năm theo mùa
nước nổi tràn về dòng sông Hậu này còn thấm cả
máu của những người xây cầu! Ừ, sao mà chị cứ nhớ
làm gì, nỗi đau thắt gan thắt ruột ấy. Mọi thứ chẳng phải
đã trôi qua như nước chảy dưới chân cầu rồi sao? Dù
gì chị cũng đứng vững, đã nuôi nấng con cái đàng
hoàng. Trong chị mọi thứ vẫn như mới hôm qua. Cái hôm buổi
sáng anh cười thật tươi, hôn phớt trên má vợ rồi đi
làm như mọi ngày, rồi đi mãi không về. Nhưng có lúc,
chị cũng nhận ra chuyện ấy dường như đã lùi xa mịt mù.
Điều đó cũng không lấy gì làm lạ phải không?
Đứng trên con lộ mở về phía chân
cầu bên này, chị lại nhớ về xóm cũ, về căn nhà một
thời đã là tổ ấm của gia đình chị. Anh sống khôn
thác thiêng chắc sẽ hiểu hết nỗi lòng của chị, hiểu vì
sao chị đem con về quê ngoại và cũng sẽ hiểu cả tâm sự
của chị mỗi lần về lại quê chồng mà.
Vừa về đến đầu xóm, chị
hai Ngà đang ngồi trước cửa nhà đã kêu í ới:
- Mới về hả em? Con Như đâu, không
dắt về à?
- Dạ, em về thăm
bà nội một lát. Nghe thằng Út nói bà bị cảm.
Người phụ nữ cùng xóm xởi lởi:
- Ôi, bệnh già mà. Trái gió trở
trời là rêm mình rêm mẩy vậy thôi.
Rồi chị huyên thuyên kể cho cô bạn láng giềng
đủ thứ chuyện nơi này, cứ như cô ta đã rời xa xóm
cũ hàng chục năm rồi vậy. Nào là bà Bảy xe lôi tuy ông
Bảy không còn chạy xe lôi được nữa nhưng nhờ mấy trăm
triệu đền bù cho thằng con trai đã lên nhà lầu. Nào là
con nhỏ Huệ bán chuối nưóng trong xóm đã lấy chồng khác,
thằng chồng mới như "Chuột sa hủ nếp" bởi con vợ trong sổ
tiết kiệm có sẵn mấy trăm triệu. Còn bà Ba Thời, có hai
thằng con trai bị nạn giờ khá giả lắm nhưng tối ngày rầu
rỉ, khóc đến mờ mắt bởi đứa con dâu lớn tập tụi
theo đám bạn chưng diện mốt miết đi đàn đúm tối
ngày sáng đêm ở đâu đó, bỏ mặc nhỏ cháu nội
sáu bảy tuổi cho bà lo. May mà thằng em khi bị tai nạn còn chưa
có vợ. Còn nữa, gia đình ông Năm Sĩ sau khi thằng con trai lớn
bị nạn đã bỏ xứ lên Sài Gòn mở quán cơm, quán
nước gì rồi...
Dứt được
mấy câu chuyện miên man của chị Hai Ngà quả là hết hơi.
Chị nhớ mỗi lần về lại xóm cũ, những câu chuyện cứ
bủa vây, siết chặt khiến chị muốn ngộp thở. Những con người,
những cái tên một thời quen thuộc với chị biết mấy giờ
sao trở nên lạ lẫm ngỡ ngàng bởi những thay đổi đột
ngột, những quay ngoắt dữ dội của họ. Tai nạn ụp xuống, cả
một xóm nghèo tan đàn sẩy nghé, tang thương trùm phủ.
Tiếng kêu khóc, rên rỉ bởi cảnh ngộ đau lòng khiến nhà
nhà như thu mình lại, gắn kết vào nhau thành một khối với
cùng một tấm lòng. Cái xóm xiêu vẹo, ngả nghiêng dọc
bờ sông này đã cố gắng đứng vững, cố gắng sống
còn sau mấy ngày kinh hoàng, thảm khốc. Riêng chị, lao đao trước
cái chết của chồng đã không đủ can đảm ở lại
đây. Chị thấy mình như một kẻ hèn nhát, giáo gẫy
gươm tàn trên trận mạc khi đưa đứa con gái nhỏ tìm
về mái nhà bình yên của mẹ, núp bóng từ đó đến
nay, lúc nào cũng tự nhũ: "không được nhớ, không được
nhìn lại! Phải quên hết, cắn răng lại mà quên để tiếp
tục sống".
Vậy mà, mỗi lần
về thăm chị không sao khỏi choáng váng, chóng mặt. Cái xóm
nhà lá, nhà cây xơ xác, liêu xiêu giờ đã mất tăm.
Thay vào đó là dãy nhà mới cất, không đồng bộ,
mỗi nhà mỗi kiểu nhưng nhà nào cũng khang trang, bề thế. Giá
không phải người từng ở xóm này có khi chị còn tưởng
mình đi lạc nữa đó. Thiệt là mừng thì có mừng nhưng
dù sao cũng nghe như có gì đó vướng víu trong lòng. Bởi
không chỉ có bọn trẻ mới lớn đua đòi, bài bạc, đá
gà, ngồi quán suốt ngày mà người lớn xóm này cũng
sống khác lắm. Những người lao động chân chất ngày nào
đâu vắng cả rồi? Cái xóm trước đây từng cung cấp
thợ hồ, thợ sơn, thợ xây cho thành phố, cái xóm có những
nhà nông cần cù, chắt chiu trồng rau, làm vườn trên từng
mảnh đất nhỏ giờ còn được gì?
Bà má chồng nằm trên giường bệnh thấy con
dâu về gắng gượng ngồi dậy:
-
Cái thằng Út chỉ tài lanh. Già cả rồi nay đau mai ốm vậy
thôi chứ có gì nặng đâu. Con về làm gì. Bỏ con bỏ
cái cho ai?
- Dạ không sao. Con Như học
bán trú trong trường má à. Chiều mới phải rước về.
Chị nhìn bà má chồng, nhớ lại
những giận hờn, trách móc của bà khi chị ngỏ ý đưa
con về quê ngoại.
- Chồng mới chết
mà cô đành lòng bỏ nhà bỏ cửa ra đi sao? Có muốn
gì cũng chờ xả tang chồng đã chứ! Xóm này bộ chỉ
mình cô mất chồng à?
May làm
sao mấy đứa em chồng đã ủng hộ chị. Có lẽ chúng hiểu
nỗi đau, nỗi hoãng loạn trong lòng chị. Cũng có thể vì
bé Như nữa. Nó còn nhỏ quá, rời xa chốn này nó sẽ
không bị ám ảnh về sau. Giờ lâu ngày có vẻ bà má
chồng đã nguôi ngoai rồi. Có lần bà nắm tay chị, ngọt
ngào:
- Có khi con đem con về quê
lại là điều hay. Xóm này tụi nhỏ nhiều đứa bỏ học
chơi bời hư hỏng lắm rồi. Tại cha mẹ anh chị chúng rủng rỉnh
tiền bạc mà không nên thân mới vậy.
Ừ, hoá ra đồng tiền có sức mạnh hũy hoại
đến vậy sao? Trước đây xóm nhỏ nghèo khổ, ai cũng lo
kiếm ăn đầu tắt mặt tối. Tai nạn ụp xuống nào ai muốn.
Giờ nhà cửa khang trang rồi sao nhiều người sa đà lạc lối
quá. Hay mọi người tưởng tiền ăn hoài không hết bởi
trước giờ họ có nhiều tiền vậy đâu!
Mỗi lần về đây, nhìn những biến động
quay cuồng của cái xóm nghèo ngày nào chị cứ băn khoăn,
ray rứt trong lòng. Cứ nghĩ, nếu thảm hoạ không xảy ra thì sao?
Chắc mọi người vẫn cần cù lao động, vẫn đổ mồ
hôi sôi nước mắt nhọc nhằn kiếm sống. Vậy cuộc sống
khấm khá của họ giờ đây chẳng tốt hơn sao? Cớ gì chị
phải nhọc tâm. Dù sao, mọi người vẫn vui mùng khi thấy chị.
Những cô bác chị em vẫn vồn vả níu kéo chị vào nhà
đấy thôi. Uống một ngụm nước, nghe bao nhiêu là chuyện chỗ
này chỗ khác, vui buồn cứ lẫn lộn, đầu óc cứ ong ong u
u thế nào. Bởi chị nghiệm ra niềm vui của những bạn chung xóm
ngày nào hầu như chỉ là chuyện sắm sửa đồ đạc,
áo quần, vui chơi thoả sức. Hoạ hoằn mới có người khoe gửi
tiết kiệm lấy lời lo cho con ăn học... Ít thấy ai suy tính chuyện
làm ăn, lao động cho căn cơ, ổn định.
Có phải vì vậy mà lần nào về lại quê
chồng chị cũng cảm thấy mệt mỏi, rã rời. Dường như mấy
nhịp cầu sập năm đó đã làm sập luôn cuộc sống
bình dị mộc mạc của cái xóm nghèo này dù không phải
tất cả đều bị mất mát. Mai này cầu lớn thông rồi,
chẳng biết những người bên ấy có tìm được vận
hội mới nào không hay cứ sống "thả nổi" cho đến khi
tiền bạc bay hết trong những vui chơi hưởng thụ không cần biết
tới ngày mai?
Buổi trưa vừa đi làm về, bà
má đã đón chị ở cái cổng tre ngoài ngõ thông báo
tin sốt dẽo:
- Thằng Lợi con bà
Hai Lựu mới bị công an bắt hồi sáng?
- Sao vậy? Thằng nhỏ hiền lành lắm mà!
- Vậy mới nói. Tại thằng Út nhà mầy đó.
Tự nhiên xúi thằng nhỏ qua bên đó coi đá gà.
- Coi đá gà hay cá độ đá
gà?
- Không. Hôm nay giỗ bà Hai,
thằng nhỏ nghèo quá chưa biết lấy gì cúng thì nghe thằng
Út nói là "Gà xác" bên đó bán rẻ lắm. Thằng
Lợi mới qua chỗ đá gà chờ tụi nó đá xong mua con gà
xác về làm giỗ. Ai dè mới đứng xớ rớ bị công an
ụp tới, bắt luôn.
- Tội nghiệp
quá! Mà sao má lại cười?
Bà
già vẫn cười ngất:
- Nó về
rồi. Con vợ nó quýnh quá chạy đến nhà ông thầy cũ
thời trung học. Nghe nói ông thầy thương cho hoàn cảnh của nó
nhờ mấy thằng học trò làm công an bảo lãnh nó ra đó.
Hú hồn thằng nhỏ!
Quả là
chuyện bi hài! Nghe mà cười chảy nước mắt. Cũng chẳng trách
được thằng em chồng. Nó chỉ muốn giúp thằng bạn học
cũ thôi mà. Thằng Lợi lại càng tội nghiệp! Xưa giờ nó
là đứa con hiếu thảo lắm. Chỉ tại số nghèo không ngóc
đầu lên được. Con vợ lúc trước đi nhổ cỏ cho nhà
thầu Trung Quốc làm cầu ngày cũng được ba chục ngàn đủ
tiền gạo, thằng chồng làm mộc đang lúc ế ẩm nên nhà
lúc nào cũng túng bấn.
Từ
chuyện thằng Lợi chị lại nghĩ về cái xóm bên kia sông Hậu.
Ý là có cái bắc Cần Thơ mà thằng nhỏ còn liều
mạng sang đó, sau này đường đi thông thống rồi cái
xóm nhỏ ấy không biết có đổi thay phát triển gì không?
Khi đi lên cầu có thể nào họ quên bao người thân đã
hoà trộn máu thịt vào mảnh đất dưới chân cầu này!
Chẳng lẽ nỗi đớn đau mất mát không làm người ta sống
tốt đẹp được sao?
Chị lại thấy mình ra đứng ngó
mông về phía con đường tráng nhựa đang làm dang dỡ dưới
chân cầu. Nhìn hút tầm mắt cũng chỉ thấy con đường
chạy về phía xa chứ nào thấy cầu kì gì nhưng chị vẫn
hình dung cây cầu rõ mồn một. Đã là những ngày giáp
Tết. Chẳng mấy tháng nữa thôi người dân đồng bằng sẽ
vui sướng được đứng trên cây cầu lớn nhất vùng
châu thổ để nhìn xuống quê nhà. Hạnh phúc thay khi trong khoảng
trăm năm của cuộc đời, hạnh vận của cư dân xứ này
đã đến những hai lần với hai cây cầu đẹp đẽ tráng
lệ như những giấc mơ hoa, như những chuyện cổ tích giữa đời
thường.
Đứng trên con đường
vỗng cao, nhìn về phía thành phố rồi nhìn xuống mái đình
cong vút rêu phong và những căn nhà lúp xúp chạy dài theo
con rạch vào Cái Chanh, Cái Muồng, lòng chị dậy lên bao nỗi
cảm hoài. Chị nghĩ đến người chồng yêu dấu đã
mất, nghĩ đến ngày mình dắt tay con lên cầu Cần Thơ, hoà
vào dòng người cuồn cuộn kéo về từ khắp nơi, nao nức,
vui mừng, nghĩ đến những vận hội mới mở ra cho người dân
cần cù, lam lũ của vùng đất này...Ừ, mình có cầm
lòng để cười vui được không đây?
Trước mắt chị, cây cầu lớn lao đẹp đẽ
hình những chữ A chỉa thẳng lên trời, vươn mình trong nắng
ấm phương Nam vẫn lấp loáng, rưng rưng...
Nguyễn Ngọc Tuyết
ĐI QUA TRƯỜNG CŨ
Tôi đi
qua ngôi trường
Thấy ngổn ngang gạch đá,
Những viên gạch rơi xuống từ bức tường
Mới đập xuống
hôm qua để xây trường mới
Lòng bỗng nhói đau
Ôi trăm năm trường xưa!
Trăm năm nước thời gian gội rửa
Trăm năm rồi "Nước vẫn
một dòng trong"!
Dãy hành lang
vẫn còn nguyên màu gạch đỏ
Còn ấm dấu chân người
lớp lớp đan xen,
Và trong từng khung cửa lớp
Nghe đâu đó tiếng cười vui khúc khích
Những tia nắng ban mai nghịch
ngợm
Dệt thành tơ vương vấn mãi hồn ai!
Và bảng đen, và
phấn trắng
Còn nhớ không em trầm ấm tiếng giảng bài,
Trên bục này cô
giáo đứng bâng khuâng
Mắt sáng môi hồng học trò ôi thương quá
Bởi trong cô
vẫn tươi rói tuổi xuân thì
Biết bao mùa xanh xưa trong ngôi
trường cũ
Cô trò ta thắm thiết nghĩa đồng môn!
Sân trường kia vẫn mênh mông trải rộng
Cây liêm già rắc
hoa vàng rực rỡ
Gốc bồ đề xòe tán góc sân
Hoa phượng vĩ kết từng
chùm đỏ thắm
Bao hè vui- tiễn từng cánh chim bay
Để tất cả lại về trong rộn rả
Ngày hội trường trời
đất cũng nồng say
Thắp một nén nhang trên phòng truyền thống
Ngước nhìn lên
ba chữ "Sư đạo tôn"
Tưởng nhũng ân sư đang mỉm miệng cười
Rưng rưng niềm tưởng
nhớ!
Tôi đi ngang qua ngôi trường
Tất cả sẽ
thành vôi vữa
Mai này trường mới dẫu hình hài như cũ
Biết tìm đâu
hồn phách một thời xưa!
21-2-2017
TÙY BÚT
TRƯỜNG CŨ
Năm rồi nghe tin trường cũ sắp
bị đập bỏ để xây trường mới, học trò khắp nơi
kéo nhau về rất đông. Thứ bảy, chủ nhật nào xe gắn máy
cũng đầy nghẹt bãi xe, xe hơi cũng đậu dài trước cổng.
Mà cũng phải thôi, ngôi trường cổ kính dựng nên từ
năm 1917 bên dòng sông Hậu hiền hòa êm ả này giờ sắp
trăm năm tuổi rồi, đã xuống cấp lắm rồi! Nhà thầu xây
dựng của Pháp ngay từ khi trường hơn 50 năm tuổi đã gởi
thư cảnh báo mấy lần rồi. Còn nhớ những ngày hội trường
70 năm, 80 năm rồi 90 năm, nhiều thế hệ học sinh đã trở về
họp mặt đồng môn, đồng song mừng mừng tủi tủi với biết
bao kỷ niệm thắm nồng sống lại nơi cảnh cũ trường xưa.
Đó là những ngày cả trường ngập đầy hoa, tràn trề
những lời chúc mừng từ khắp nơi bay về. Những cánh chim bay xa
thật xa, những học sinh thân yêu ngày cũ đã trở về, hòa
nhịp đập tim mình với trường xưa để những ngày kỉ
niệm ấy trở thành "hội tao phùng" của thầy xưa, bạn
cũ dào dạt tình yêu thương. Những ngày hội ấy, dưới
mái trường này, trên từng lối đi này, những cái đầu
bạc trằng, những mái tóc muối tiêu hay đen mượt đều
không có gì quan trọng. Bởi, tất cả chúng tôi là "Đồng
môn", là một phần máu thịt, tinh anh của ngôi trường, là
bề dày lịch sử, là kí ức vẫn luôn nằm đâu đó
ở nơi này. Đáng quý nhất là trải bao nhiêu năm, bao lớp
thời gian gội rửa, dáng dấp trường tôi vẫn như xưa. Mái
ngói rêu phong, vòm cửa tròn thân thuộc với hình ảnh gà
Gaulois bằng đồng bên trên, dãy hành lang chạy dài qua các
khung cửa lớp như còn ấm dấu chân người. Cả cây bồ
đề ở một góc lễ đài nữa. Võ có sù sì hơn,
cành nhánh có um tùm rậm rạp hơn nhưng gốc cây già vẫn
sừng sững đó, bốn mùa xanh lá gợi cho kẻ trở về những
năm tháng hồn nhiên trong trẻo tuổi thanh xuân. Và đây nữa,
mấy cầu thang gỗ dẫn lên lầu, bao nhiêu năm rồi in biết mấy
dấu chân, giờ đã mòn lẵn nhưng vẫn đứng đó cho
đám học trò sờ lên tay vịn láng bóng bước nhẹ
lên từng bậc thang mà lòng rưng rưng bao nỗi cảm hoài.
Những ngày
này ngồi dở lại mấy tập kỷ yếu về ngôi trường đã
mấy lần thay tên đổi họ này mà lòng xao xuyến, bồi
hồi. 70 năm, 80 năm rồi 90 năm, những cuốn kỷ yếu của collège
de Cần Thơ, trung học Phan Thanh Giản, trường cấp 3 TP Cần Thơ và
giờ là trường THPT Châu Văn Liêm vẫn còn nguyên vẹn trên
tay dù bao nhiêu là "Nước chảy qua cầu". Giống như ba
chữ "Sư đạo tôn" trên tấm bảng gỗ trong phòng truyền
thống bao nhiêu năm vẫn còn tươi màu mực, vẫn rạng ngời
lòng kính ngưỡng, biết ơn các ân sư từng giảng dạy
tại trường. Những tấm bảng nhỏ bằng đồng, chữ trắng
ghi tên các thầy cô quá vãng cứ càng ngày càng dài
thêm theo bề dày lịch sử của ngôi trường khiến lớp hậu
bối chúng tôi mỗi lần vào đó, thắp nén nhang trên bàn
thơ, lòng lại thấy ngậm ngùi. Trên mặt gỗ phẳng hai bên
còn chạm hai câu đối bằng chữ quốc ngữ đầy ý nghĩa:
Hậu học được nhờ khuôn mẫu trước
Tiên công ghi nhớ nén hương nay.
Là học trò suốt 7 năm trung
học, xanh mướt một thời áo trắng sân trường, tốt nghiệp
trường sư phạm tôi lại may mắn trở về đứng trên bục
giảng của trường xưa , dạy dỗ lớp đàn em và vinh dự
đứng trên lễ đài trong sân cờ cùng một số thầy cô
cũ để càng ngày càng hiểu sâu hơn về lẽ khép mở
của ngôi trường. Bởi mỗi năm cổng trường lại mở rộng
cho những đàn chim tung cánh bay đi nhưng không bao giờ để mất
chúng. Những cánh chim, dù có trở lại hay không vẫn giữ mãi
hình ảnh ngôi trường yêu dấu ấy trong tim. Thế nên bao thế
hệ học trò đã trở về, ghi lại cảnh cũ người xưa
suốt năm vừa qua và tôi phải đi theo chúng mệt bở hơi tai.
Đây là sân trường, nơi bọn mình tập thể dục, tập
kéo co dưới sự chỉ đạo của thầy. Kia là cây liêm xẹt
thường trải thảm vàng đầy sân khi tới mùa trổ bông.
Còn cây bồ đề già cỗi ngay góc sân này nữa, còn
nhớ không, nhớ không, nó vẫn thả mấy trái tròn tròn
đen sì rơi xuống đất là bẹp dí, nhảo nhoẹt dơ
ơi là dơ. Rồi cả cô trò kéo lên lớp cũ, dàn cảnh
chụp hình một tiết học ngày xưa, có cô giảng bài, có
trò đứng lên phát biểu...cười nói rân trời. Sau những
cười vui, phá phách như thuở nào, có một lúc cả đám
chợt lặng thinh. Ai đó cất tiếng nói bâng quơ. Không biết
trường mình xây lại sẽ ra sao đây ta? Dù phục dựng y như
kiến trúc cũ nhưng biết có còn hồn phách gì không? Những
câu nói như chứa đầy niềm tiếc nuối, bâng khuâng khiến
mọi thứ như chùng xuống..
Nhìn đám học trò hối hả chụp hình mọi nơi, mọi góc
cạnh của ngôi trường thân yêu, sao tôi cứ chạnh lòng nhớ
mấy câu thơ từ một bài "chiêu niệm" trong kỷ yếu của
trường:
..Tiếng trống ấu thơ dẫn ta về lớp cũ,
Để ta gặp lại ta xưa...
Thầy kia- bạn đó-ai thẫn thờ- ai vội vã
Hành lang xưa lãng đãng bóng ai qua ?
Trở về trường- ta lại gặp ta... !
Bây giờ đã là những
ngày sau Tết. Mấy hôm nay đi qua trường đã thấy búc tường
đầu tiên bị đập xuống rồi, gạch đá ngổn ngang. Đám
học trò đã được dời qua ngôi trường dạy nghề ở
gần bên, chật hẹp một chút nhưng cũng ổn. Có điều tôi
phải gọi ngôi trường của tôi là « Trường cũ »
để phân biệt với trường mới rồi, phải không ?
Ôi, ngôi
trường của tôi ! Sau trăm tuổi này rồi nó sẽ ra sao? Hình
dáng, hồn cốt thế nào? Có lẽ tôi nên mượn lời bạt
trong một tập kỷ yếu để tự an ủi mình rằng " Dẫu trăm
năm hoặc nghìn năm thì trên con sông đời vô tận ấy,
trường chúng ta- mãi mãi một dòng trong"...
NGUYỄN NGỌC TUYẾT