Tiến Sĩ
HUỲNH
LONG VÂN
Sydney, Úc Châu
Cựu HS Phan Thanh Giản Cần Thơ
______________________________________________________________________________
Tiến sĩ Huỳnh Long Vân, Sydney 23/11/2018
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20181126-nhung-quan-ngai-ve-du-an-thuy-loi-cai-lon-cai-be
Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) là vùng hạ lưu cuối cùng của sông Mekong, thành
hình hơn 3000 năm trước do bồi tụ phù sa. Đây là một
đồng trũng có vùng bị ngập nước vào mùa mưa và
vùng ngập mặn vào mùa khô ; đất bị nhiễm phèn, nhiễm
mặn.
Hệ thống thủy lợi theo nguyên
tắc trị thủy ở đồng bằng sông Hồng, được xây dựng
sau năm 1975 đã giúp Việt Nam, chỉ trong vòng một thế hệ, từ
một nước nghèo, nơi mà Nhà nước phải chia khẩu phần
gạo theo nhân khẩu, trở thành một trong số các quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu trên thế giới và có mức thu nhập
trung bình.
Nhưng sau vài năm, lần
lượt lộ ra những tác động tiêu cực trên môi trường
và những bất cập của các công trình thủy lợi ở ĐBSCL.
Đê bao làm ruộng đồng mất đi nguồn dinh dưỡng quan trọng.
Rửa chua tháo phèn cải tạo đất đai lại làm ô nhiễm
và acit hóa nguồn nước trong các sông rạch. Xây đê biển
và các cống hạn chế nước mặn xâm nhập vào mùa khô
để trồng lúa thì lại tạo nên mâu thuẫn mặn- ngọt,
làm gián đoạn giao thông thủy nội địa ở các địa
phương, làm chết các loại rừng phòng hộ ở ven biển.
Những vấn đề môi trường to lớn
này đã thúc đẩy các nhà khoa học trong và ngoài nước
kêu gọi chính phủ thực hiện các biện pháp hài hòa giữa
lợi ich kinh tế và môi trường trong dài hạn. Nhưng bất chấp
mọi quan ngại của nhiều tầng lớp trong xã hội, Bộ Nông Nghiệp
& Phát Triển Nông Thôn (BNN&PTNT) vẫn tổ chức thảo luận triển
khai dự án thủy lợi Cái Lớn Cái Bé (CLCB). Điều này
gây lo ngại và bất đồng trong giới các nhà khoa học về
những tác động môi trường và hiệu quả của dự án.
Hôm nay chúng tôi xin mời quý vị nghe
ý kiến của tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc nhóm Nghiên cứu
Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long Úc Châu, trả lời phỏng vấn RFI
từ Sydney.
Tiến sĩ Huỳnh Long Vân,
Sydney23/11/2018Nghe
RFI : Thưa ông Huỳnh
Long Vân, để thính giả hiểu rõ hơn vấn đến, trước
hết xin ông nói sơ qua về Dự án thủy lợi Cái Lớn Cái
Bé?
TS Huỳnh Long Vân : Vùng
dự án này được giới hạn phía Bắc là kênh Cái
Sắn, phía Nam và Đồng Nam là kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp,
phía Đông Bắc là sông Hậu và phía Tây là vịnh
Thái Lan, trên địa bàn của 6 tỉnh thành Kiên Giang, Cà Mau,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang và Cần Thơ.
Các mục đích của dự án là : Kiểm
soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa nuôi trồng thủy sản
ven biển và sản xuất nông nghiệp trong vùng ; ứng phó với biến
đổi khí hậu, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển vào
mùa khô, phòng chống cháy rừng ; tăng cường khả năng thoát
lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn ; kết hợp giao
thông thủy bộ trong vùng dự án
RFI
: Thưa ông Huỳnh Long Vân, vậy các nhà khoa học có
những quan ngại gì về các mục tiêu của dự án này, trước
hết là về mục tiêu kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn
mặn - ngọt ?
TS Huỳnh Long Vân
: Công trình CLCB không thể ngặn mặn cho toàn vùng của
dự án, mà chỉ chận được nước biển tràn vào
từ vịnh Thái Lan, vì nước mặn còn xâm nhập vào vùng
dự án từ biển Đông theo hướng từ sông Hậu qua ngả sông
Cái Côn, rạch Mái Dầm, hướng từ Đại Ngải Sóc Trăng
theo các kênh trục và hướng Bạc Liêu đổ về Phụng Hiệp,
Long Mỹ, Vị Thanh, thuộc tỉnh Hậu Giang, một đơn vị nằm trong vùng
của dự án. Vì thế, mục tiêu kiểm soát mặn của dự
án không đạt được, ngay cả sau khi giai đoạn 2 của công
trình được hoàn tất.
Xây
cống ngăn mặn không giải quyết, mà ngược lại gây ra mâu
thuẫn giữa mặn và ngọt : Dự án Quản Lộ-Phụng Hiệp ngọt
hoá bán đảo Cà Mau, có trị giá đầu tư gần 1400 tỉ
đồng (thời giá 1990), với hàng trăm cống đập, đê biển,
đê sông ngăn mặn, được xây dựng với mục đích
đưa nước ngọt từ sông Hậu về bán đảo Cà Mau, cấp
nước tưới ruộng lúa cho tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên
Giang. Tuy nhiên, sau 5 năm xây dựng đã bộc lộ những bất cập
trong mục tiêu, gây bất mãn và thất vọng cho người dân
địa phương. Hàng trăm nông dân đã đòi phá cống,
phá đập để lấy nước mặn nuôi tôm. Để giải
quyết mâu thuẫn mặn-ngọt, chính phủ đã quyết định
chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang nuôi tôm và mô
hình tôm-lúa được áp dụng.
Dự án Ngọt hóa bán đảo Cà Mau xem như thất bại,
phá sản, là một bài học đắt giá và một kinh nghiệm
quý báu cho thấy xây công trình thủy lợi Cái Lớn Cái
Bé sẽ không đem lại sự hài hòa mặn - ngọt.
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, dự
án CLCB cũng tiềm ẩn những nguy cơ gì đối với các loại
thủy sản nuôi trồng trong vùng ?
TS
Huỳnh Long Vân : Nghêu, sò, tôm, cua biển và một số
thủy sản mặn, lợ khác được nuôi trồng ở 2 huyện ven
biển An Minh và An Biên nằm trong vùng của dự án. Nếu hai cống
thủy lợi CLCB được thiết kế và đóng lại vào mùa
khô, khối nước bên trong sẽ bị ô nhiễm do tích tụ các
chất phế thải, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón v.v. và
khi cống mở, nguồn nước ô nhiễm này sẽ theo nước ròng
thoát ra cửa biển, làm thủy sản bên ngoài cống và ở
vùng ven biển cận kề chết trắng.
Cá
tép nước ngọt di chuyển từ sông rạch ra các bãi đẻ
nơi cửa sông để sinh sản và các ấu trùng ngược lại
theo dòng triều vào bên trong sông tìm các bãi ăn để
tăng trưởng. Vì thế, khi được xây, các cống ngăn mặn
CLCB sẽ làm gián đoạn chu trình sinh trưởng của thủy sản
nước ngọt và lượng cá tôm trong sông sẽ giảm dần.
Như thế khó có thể đồng thuận
với lập luận cho rằng dự án CLCB sẽ góp phần ổn định
phát triển sản xuất thủy sản ở vùng ven biển tỉnh Kiên
Giang.
RFI : Thưa ông Huỳng
Long Vân, còn các mục tiêu ứng phó BĐKH, nước biển dâng,
tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển, phòng chống cháy rừng
có còn phù hợp với tình hình của vùng đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay ?
TS Huỳnh
Long Vân : Những người chủ trương công trình CLCB cho rằng
ĐBSCL có trọng trách đảm bảo an ninh lương thực và do tình
hình hạn hán năm 2016, nước biển dâng và nguồn nước
ngọt sẽ cạn kiệt do tác động từ thượng nguồn, nên cần
cấp bách xây dựng công trình CLCB.
Quan niệm ĐBSCL có trọng trách đảm bảo an ninh lương là
tư duy thuộc về quá khứ, vì theo tinh thần nghị quyết 120/NQ-CP phát
triển bền vững ĐBSCL, chính phủ có chủ trương chuyển đổi
từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế nông nghiệp, chú trọng
đến chất lượng hơn số lượng.
Nước biển dâng do tác động của BĐKH chỉ khoảng
3mm/năm, trong khi ĐBSCL bị sụt lún trung bình khoảng 3cm/năm, tức 10
lần nhiều hơn và nguyên nhân chính là do khai thác nước
ngầm để phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Xây công trình
CLCB gây thêm ô nhiễm, gián tiếp tạo thêm môt động lực
làm gia tăng tốc độ sụt lún và ĐBSCL sẽ chìm trong nước
biển sớm hơn, không cần đến ảnh hưởng của nước biển
dâng do tác động của BĐKH. Vì thế, "cấp bách xây dựng
công trình CLCB để ứng phó với BĐKH và nước biển dâng"
là điều không hợp lý.
Ngoài
ra công trình CLCB làm gián đoạn sự trao đổi chất dinh dưỡng
giữa nước sông với thủy triều, làm mất đi môi trường
nước lợ, vì thế sẽ làm cho rừng ngập mặn như rừng
đước, rừng nước lợ với cây dừa nước chết dần,
từ đó làm suy giảm khả năng ứng phó với những tác
động của BĐKH, giông bảo, sạt lở bờ biển và phá vỡ
kế hoạch tái tạo rừng ngập mặn ở ven biển được một
số quốc gia như Đức, Hà Lan v.v.. tài trợ.
Về mục tiêu cung cấp nước
ngọt cho vùng ven biển và phòng chống cháy rừng, dự án CLCB
sẽ chuyển nước sông Hậu theo ngả kênh đào Thốt Nốt
và kênh trục KH6 cung cấp nước ngọt cho vùng bán đảo Cà
Mau. Tuy nhiên, ở phía Tây sông Hậu có chằng chịt những kênh
đào thẳng góc với nhau, có nhiều vùng giáp nước, các
kênh bị bồi lấp, nên không đủ khả năng chuyển tải nước
từ sông Hậu đến cuối kênh. Theo dự tính, kênh Thốt Nốt
và KH6 sẽ được nạo vét, nhưng thử hỏi có bảo đảm
đem được nước sông Hậu đến khu vực ven biển phía
Tây không ? Vì trước đây, trong dự án Ngọt hóa bán
đảo Cà Mau, có dự trù dẫn nước ngọt của sông Hậu
theo ngả sông Cái Côn, kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp tưới ruộng
đất bán đảo Cà Mau, nhưng đã thất bại vì nguồn
nước chỉ đến địa hạt Sóc Trăng.
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân, dự án
CLCB cũng được cho là nhằm chống những tác động của
các đập thủy điện ở thượng nguồn. Mục tiêu này
có đúng không ?
TS Huỳnh
Long Vân : Nói rằng vì những tác động của các
đập thủy điện ở thượng nguồn khiến nguồn nước bị
cạn kiệt vào mùa khô và nước biển dâng, nên phải
xây dựng công trình CLCB là hoàn toàn sai, vì tác động
tiêu cực của các đập thủy điện là giữ lại phù
sa và ngăn trở các loài cá di chuyển đến các nơi sinh
sản và tăng trưởng.
Vận hành
đập thủy điện không giữ lại nước như lầm tưởng,
mà có hệ quả ngược lại. Thật vậy, từ khi các đập
thủy điện của Trung Quốc xây trên dòng chính sông Mêkông
vận hành, lưu lượng dòng chảy của sông Mêkông đo được
tại trạm quan trắc Chiang Saen, nơi biên giới Trung Quốc và Lào, đã
tăng khoảng 30% vào mùa khô.
Nếu
vì lo ngại việc Thái Lan và Cam Bốt chuyển nguồn nước sông
Mêkông để gia tăng sản xuất nông nghiệp, làm cạn kiệt
nguồn nước dòng chính sông Mekong mà xây công trình CLCB và
trữ ngọt bằng cách chuyển nước sông Hậu vào vùng dự
án, thì đây quả thật là một lập luận thơ ngây và
đầy mâu thuẫn, vì dự kiến này không phải để ứng
phó, mà thực ra đồng lõa với 2 quốc gia láng giềng làm
cạn kiệt dòng nước sông Mêkông.
Trước tình huống này, đúng ra phải tiết kiệm
nước ngọt bằng cách bỏ lúa vụ 3, giảm dần diện tích
trồng lúa ở vùng ven biển phía Tây, hay cấy trồng các loại
lúa chịu mặn sẵn có, hoặc thay vì công trình CLCB, nhà nước
nên đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến nước
ngọt từ nước biển, hoàn toàn thân thiện với môi trường,
để giải quyết bài toán mặn - ngọt và giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm của ĐBSCL.
RFI
: Các nhà khoa học có những quan ngại gì về tác
động môi trường và những lợi ích không thiết thực
của dự án CLCB ?
TS Huỳnh
Long Vân : Bản Đánh giá Tác động Môi trường
của dự án do Viện Kỹ thuật Biển-Viện Khoa học Thủy lợi
Việt Nam thực hiện cho rằng khi vận hành, các cống chỉ đóng
trong mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mỗi tháng đóng
cửa cống vài ngày, mỗi ngày đóng vài giờ để kiểm
soát mặn. Tất cả thời gian còn lại cửa cống luôn mở để
nước được lưu thông, do đó ô nhiễm môi trường
rất ít.
Nhưng tác động của
thủy triều Biển Đông, Biển Tây, và dòng nước sông
Hậu trên vùng dự án rất phức tạp, nên việc vận hành
các cống không hề đơn giản như tuyên bố.
Ngoài việc trấn an với tác động môi trường
rất nhỏ, báo cáo còn cho rằng công trình CLCB sẽ đem lại
lợi ích từ gia tăng diện tích trồng lúa 3 vụ, nhưng quên
đi một hậu quả là mỗi ha lúa 3 vụ phải cần đến 7.5kg
thuốc bảo vệ thực vật. Vùng dự án rộng hơn 900 ngàn ha
và chỉ một phần của diện tích tự nhiên này trồng lúa
3 vụ, thì môi trường cũng sẽ bị ô nhiễm đến mức
độ rất đáng ngại.
Tóm
lại, dự án thủy lợi CLCB là một công trình rất tốn kém,
tổn phí gần 7.000 tỷ đồng, nhưng phần tác động môi
trường được đánh giá sơ sài, chủ quan, những lợi
ích nêu lên trong đề cương xét ra rất mâu thuẫn, khó
tin, tuy nhiên hiện đang manh nha từng bước tiến hành xây dựng.
Những nghiên cứu khoa học và tham khảo
với người dân và cán bộ địa phương của một số
nhà khoa học chuyên ngành ở ĐBSCL, cùng những thất bại của
những công trình thủy lợi trước đây, cho thấy những mục
tiêu dự án CLCB đề ra khó có thể đạt được và
sẽ gây ra vô vàn hệ lụy về môi trường cho một vùng
rộng lớn gần bằng ¼ diện tích ĐBSCL.
Vì thế, thay mặt Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng
Nai Cửu Long Úc châu, tôi xin kiến nghị thủ tướng chính phủ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không phê duyệt dự án
thủy lợi CLCB, một công trình có khả năng phá vỡ chiến
lược phát triển bền vững ĐBSCL ứng phó với BĐKH của
Nghị quyết 120 /NQ-CH do chính TT phê duyệt và ban hành vào ngày
17/11/2017.
_______________________________________________________________________________________________________________
Đài phát thanh RFI phỏng vấn TS
HUỲNH LONG VÂN (Úc Châu)
Sạt lở đồng bằng Cửu Long: Kịch
bản không hồi kết
Thanh Phương phỏng vấn
Phát Thứ Hai, ngày 09 tháng 7 năm 2018
Một phần tỉnh An Giang bên
bờ sông Cửu Long chìm trong lũ lụt.
Ảnh chụp ngày 28/9/2011REUTERS/Duc Vinh
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi sinh sống của
khoảng 20 triệu người, là vùng canh tác nông nghiệp lớn nhất
nước, nhưng do những tác động gây ra bởi các hoạt động
sinh hoạt và sản xuất của con người, cũng như những đặc
tính thiên nhiên của vùng châu thổ, nên bờ sông, bờ biển
của khu vực bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng.
Sạt lở không chỉ xảy ra vào mùa
mưa lũ mà ngay cả trong mùa khô, đe dọa trực tiếp đến
sinh mạng, tài sản và cuộc sống của cư dân và các công
trình cơ sở hạ tầng.
Theo những
tài liệu của hai Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn và
Bộ Tài Nguyên & Môi Trường, ĐBSCL có 562 vị trí ở bờ
sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 800km, trầm
trọng nhất ở An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Bạc Liêu và Cà
Mau.
Trước đây sạt lở chỉ
xảy ra ở bờ biển phía Đông của bán đảo Cà Mau nhưng
trong vòng vài năm gần đây cả ở phía Tây nằm trong vịnh
Thái Lan. Vào tháng 5 vừa qua một số vị trí nằm trên bờ
kinh Thạnh Đông, quận Cái Răng, vàm sông Ô Môn (Thành Phố
Cần Thơ), bờ sông Chợ Mới Cái Côn, thuộc thị trấn Mái
Dầm (Tỉnh Hậu Giang) và bờ kinh Hai Quý, thị xã Bình Minh (Tỉnh
Vĩnh Long) cũng bị sạt lở, khiến nhiều nhà cửa sụp chìm
trong đáy nước.
Sau đây mời
quý vị nghe phần phỏng vấn Tiến sĩ Huỳnh Long Vân, Nhóm Nghiên
cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu.
Tiến sĩ Huỳnh Long Vân 09/06/2018
RFI: Xin kính chào ông Huỳnh Long Vân, trước hết
ông có thể cho biết là những nguyên nhân nào khiến bờ
sông, bờ biển ĐBSCL bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng như
thế?
TS Huỳnh Long Vân: Sạt lở ở
ĐBSCL do tác động cộng hưởng của nhiều nguyên nhân khác
nhau:
1. Các đập thủy điện
thượng nguồn của Trung Quốc (TQ) giữ lại khoảng 50% khối lượng
phù sa thô.
2. Khai thác bừa bãi
bùn cát làm biến dạng lòng sông và thay đổi dòng chảy
(không chỉ Việt Nam mà Cam Bốt và Lào cũng nạo vét cát
sông Mêkông để xuất khẩu).
Hai
nguyên nhân nêu trên phá vỡ trạng thái cân bằng có từ
lâu đời của các lớp phù sa trầm tích ở ĐBSCL, khiến
bờ sông bị sạt lở và bờ biển bị xói mòn khủng khiếp,
riêng Cà Mau mỗi năm mất đến hàng trăm ha đất dọc bờ
biển.
3. Khai phá rừng ở thượng
nguồn tạo ra lũ có tác động xói mòn trong khi đó hệ
thống đê bao khép kín hầu hết những vị trí thoát lũ.
4. Ghe máy có mã lực cao vận chuyển
trên sông rạch.
5. Địa hình
và những đặc tính địa chất của ĐBSCL: ĐBSCL có địa
thế thấp dễ bị ngập nước và cấu tạo bởi những lớp
than bùn, phù sa xốp, đất cát pha lộn, nên có độ kết
dính rất thấp, do đó dễ tan rã trước những tác động
của các dòng nước xoáy và sóng to. Ngoài ra ĐBSCL có
nhiều sông rạch chằng chịt thẳng góc với sông Tiền và
sông Hậu, điều kiện để dòng chảy ở những nơi hợp
lưu tạo ra những luồng xoáy ngầm bào khoét các bờ sông.
Điển hình là vụ sạt lở bờ sông trong tháng 5 vừa
qua ở phường Thới Lợi, huyện Ô Môn, Thành Phố Cần Thơ.
RFI: Vậy cho tới nay chính quyền Việt
Nam đã thực hiện những giải pháp nào để ứng phó
với tình trạng sạt lở này?
TS Huỳnh Long Vân: Trong nhiều năm qua, chính quyền trung
ương và địa phương đã đề ra những biện pháp
ứng phó như xây dựng đê biển, kè bê tông, phục hồi
các rừng phòng hộ, trồng các loại cây dọc bờ sông nơi
có nguy cơ sạt lở, chỉ thị thiết lập bản đồ những khu
vực có nguy cơ sạt lở để gia cố và thiết lập các
khu tái cư. Và trước tình trạng sạt lở nghiêm trọng trong
tháng qua, thủ tướng đã đồng ý hỗ trợ 2.500 tỷ đồng
đề khắc phục sạt lở vùng ĐBSCL.
RFI: Nhưng vì sao những giải pháp đó không có
tác động gì đáng kể trong việc ngăn chận tình trạng
sạt lở ở ĐBSCL?
Bờ
biển ĐBSCL bị sạt lở nghiêm trọng do việc Trung Quốc xây dựng
các đập thủy điện ở thượng nguồn Mêkông, khai thác
nước ngầm và những tác động của biến đổi khí
hậu mực nước dâng cao, mưa bão và sóng to, gió mạnh. Còn
sạt lở các bờ sông là do việc khai thác bùn cát thiếu
kiểm soát, bên cạnh những tác động của các đập thủy
điện thượng nguồn.
Trong khi đó
những giải pháp chống sạt lở hiện nay rất tạm bợ, không
mang tính chiến lược bền vững và sau đây là một số
dẫn chứng cho thấy Việt Nam có vẻ thiếu tự tin, kém phần tích
cực trong việc khắc phục những nguyên nhân sạt lở cốt lõi
nêu trên.
RFI : Phản ứng của
Việt Nam đối với việc Trung Quốc, Lào và Cam Bốt xây dựng
các đập thủy điện trên dòng chính sông Mêkông ra
sao?
TS Huỳnh Long Vân:
Ở Trung Đông, khi chính phủ Jordani công bố ý định xây đập
trên dòng chính sông Jordan, Israel đã dọa sẽ dùng vũ lực
và đã ngăn chặn được kế hoạch này. Trong khi đó,
Việt Nam vì quá yếu so với Trung Quốc nên e dè và không đưa
ra những phản đối hay đe dọa trả đũa nào.
Công ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc xác
định quyền sử dụng tài nguyên nước của các quốc gia
nằm trong lưu vực của một dòng sông quốc tế, nhưng với điều
kiện không gây tổn hại cho các quốc gia khác trong cùng lưu
vực. Nhưng Việt Nam không đưa vấn đề này ra trước Liên
Hiệp Quốc hay một Tòa án Quốc Tế, vì biết rằng ở diễn
đàn Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc có quyền phủ quyết và thái
độ trịch thượng của Trung Quốc bất chấp phán quyến của
Tòa Án Trọng Tài Thường Trực về đường chữ U chín
đoạn (đường lưỡi bò) ở Biển Đông cho thấy con đường
pháp lý sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Ấy là chưa
kể hành động này sẽ làm mất lòng ông láng giềng
khổng lồ ở phía Bắc.
Lào
và Cam Bốt sẽ xây 11 đập thủy điện trên dòng chính
hạ lưu Mekong và khi đưa vào sử dụng sẽ giữ thêm 30% khối
lượng phù sa, vì thế tình trạng sạt lở ở ĐBSCL sẽ
ngày càng nghiêm trọng hơn. Thảm họa trước mắt nhưng trớ
trêu thay trong số các đơn vị trúng thầu xây các đập
thủy điện này lại có một công ty của Việt Nam bên cạnh
những Tập đoàn của Trung Quốc.
Như vậy phải chăng Việt
Nam không chỉ chịu lépvế mà còn góp tay với các
quốc gia thượng nguồn khai thác tài nguyên nước gây tác
hại cho ĐBSCL?
RFI : Đó là
nói về nguyên nhân bên ngoài, còn về những nguyên nhân
nội tại, những biện pháp đã được thực hiện cũng
chẳng có tác động gì? Vì sao vậy, thưa ông?
TS Huỳnh Long Vân: Nguyên nhân chủ
yếu là tình trạng khai thác thiếu ý thức tài nguyên thiên
nhiên.
Khai thác nước ngầm phục
vụ sản xuất nông ngư nghiệp khiến nền đất ĐBSCL sụt lún,
làm gia tốc những tác động gây sạt lở do nước biển
dâng cao dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Người
dân được khuyến cáo chuyển đổi canh tác lúa sang sản
xuất hoa màu tiết kiệm nước; nhưng hoa quả sản xuất không
có thị trường tiêu thụ, được mùa thì mất giá
gây thua lỗ, nên người dân cứ tiếp tục trồng lúa. Lúa
thóc bán không hết không sợ ế ẩm, vì có thể dự
trữ, không bị hư hao như rau quả.
Việt
Nam đang trên đà phát triển cần tiếp tục xây dựng các
cơ sở hạ tầng, các khu kỹ nghệ, nên rất cần cát bùn
để làm nền nhà và mặt bằng, vì thế việc khai thác
cát sẽ không bị đình chỉ và tệ hại hơn nữa là
mỗi tỉnh thành trong ĐBSCL được quyền tùy tiện cấp phép
nạo vét cát trong sông.
Phải chăng
người dân ĐBSCL cam chịu số phận ngậm bồ hòn làm ngọt!
RFI: Thưa ông Huỳnh Long Vân, như
vậy tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL sẽ
không thể nào chấm dứt ?
TS
Huỳnh Long Vân: Mặc dù chính quyền trung ương và địa
phương rất quan tâm về những tai họa này, nhưng toàn thể
bờ sông, bờ biển của ĐBSCL không thể được bao bọc bởi
các hệ thống đê, kè dựa trên các công nghệ tân tiến
kiên cố, vì phạm vi rộng lớn, nên quá tốn kém, vượt
quá khả năng tài chính của Việt Nam.
Giả sử có thực hiện được đi nữa thì bất
cứ công trình nào cũng có tuổi thọ, nên sau một thời gian
sẽ suy sụp, không còn hữu dụng như trường hợp đê biển
ở Gành Hào, Cà Mau là một bằng chứng cụ thể. Vì thế
phải chấp nhận giải pháp tìm cách gia cố những nơi có
nguy cơ sạt lở. Nhưng gia cố chỗ này, thì chỗ khác sẽ bị
tác động, phá sóng nơi này, thì sóng sẽ đập vào
các vị trí kế cận.
Tóm
lại tình trạng sạt lở ĐBSCL là một kịch bản gần như
không có hồi kết, hay nói khác hơn đây là một chứng
bệnh trầm kha nhưng không có phương cách trị liệu hữu hiệu.
Như thế thử hỏi "Con đường phát triển bền vững ĐBSCL"
sẽ đi về đâu?
_______________________________________________________________________________________________________
TẠP CHÍ VIỆT NAMPodcast
Thanh Phương
Phát Thứ Hai, ngày 11 tháng 12 năm 2017
Đài phát thanh RFI phỏng vấn
TS HUỲNH LONG VÂN
(CHS/PTG, hiện sống
ở Sydney, Úc Châu)
Nghe qua link hay bản văn dưới
đây:
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20171211-dong-bang-song-cuu-long-truoc-nhung-tac-dong-do-chinh-con-nguoi-gay-ra
Đồng bằng
Cửu Long trước những tác động của con người
Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng
cộng 13 tỉnh, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của
cả nước. Tính đến tháng 04/2017, đồng bằng sông Cửu
Long đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi
trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng lúa gạo
xuất khẩu và 65% sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của cả
nước.
Tuy nhiên, đồng bằng sông
Cửu Long đã và đang đối đầu với ba thách thức lớn
mang tính sống còn: Thứ nhất, tác động của biến đổi
khí hậu và nước biển dâng. Thứ hai, quá trình phát triển
nội tại. Thứ ba, tác động do khai thác và sử dụng nước
của các quốc gia ở thượng nguồn.
Nhìn chung, những thách thức mà đồng bằng sông Cửu
Long đang đối phó là do tác động của con người hơn là
do tác động của biến đổi khí hậu. Hôm nay, xin mời quý
vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc Nhóm Nghiên
Cứu Văn Hóa Đồng Nai-Cửu Long, Úc châu, về vấn đề này:
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân,
trước hết về tác động của khai thác và sử dụng nước
của các quốc gia ở thượng nguồn, có mối liên quan nào
giữa tình trạng sạt lở trầm trọng của bờ biển đồng
bằng sông Cửu Long và các đập thủy điện của Trung Quốc?
TS Huỳnh Long Vân: Hiện nay, trên
dòng chính sông Mekong có 8 hồ chứa thủy điện, 7 của Trung Quốc
và 1 của Lào. Đồng bằng sông Cửu Long nhận khoảng 89% khối
lượng nước từ thượng nguồn, và 160 triệu tấn phù sa/năm,
trong đó 50% là phù sa thô. Phù sa thô là vật liệu chắn
sóng bảo vệ vùng ven biển chống sạt lở và bồi lấp đồng
bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, kể
từ khi các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành, khối
lượng phù sa thô này hoàn toàn bị giữ lại ở các
hồ chứa nước, khiến cho dọc theo bờ biển đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay có 49 điểm/266km bị sạt lở nghiêm trọng và
mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất khoảng 500 ha đất.
Về sạt lở bờ sông, theo Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, miền Tây hiện có 513 điểm
sạt lở, với tổng chiều dài 520 km, đe dọa cuộc sống hàng
nghìn hộ dân cùng nhiều công trình hạ tầng. Tác động
xói mòn của "dòng nước đói phù sa" và
việc khai thác cát ở các lòng sông là nguyên nhân chính
gây ra sạt lở các bờ sông. Và sạt lở dọc theo các kinh,
rạch là do vận chuyển của các ghe thuyền trang bị các động
cơ quá mạnh.
RFI : Vậy
thì, thưa ông Huỳnh Long Vân, chúng ta phải có những giải pháp
ứng phó như thế nào với tình trạng sạt lở đó?
TS Huỳnh Long Vân : Đối với
sạt lờ bờ biển, ta có thể thiết lập hàng rào phá sóng
bằng những vật liệu rắn chắc như các trụ cột, các khối
đá hoặc bê tông, đồng thời tái tạo, phục hồi rừng
ngập mặn. Đối với sạt lở bờ sông, phải chấm dứt tệ
nạn khai thác cát trái phép, không đúng quy hoạch. Đối
với sạt lở kinh rạch, phải cấm ghe máy sử dụng các động
cơ mã lực cao.
RFI : Đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay còn gặp tình trạng bị sụt lún.
Vậy thì nguyên nhân là vì sao và phải có giải pháp
nào để ngăn chận tình trạng đó ?
TS Huỳnh Long Vân : Kết quả nghiên cứu
của dự án " Rise and Fall" tại đồng bằng sông
Cửu Long, do Đại học Cần Thơ phối hợp với Đại học Utrecht
(Hà Lan) thực hiện, cho thấy sự sụt lún của đồng bằng sông
Cửu Long là vấn đề đáng lo ngại. Nguyên nhân là do việc
khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát và quá trình đô
thị hóa. Riêng ở Cà Mau - tỉnh ngày đêm khai thác hơn
400.000 m3 nước ngầm, theo nghiên cứu của các chuyên gia thuộc
Viện Địa Kỹ Thuật Hoàng Gia Na Uy, nền đất của tỉnh Cà
Mau mỗi năm sụt lún 1.56-2.3cm và mảnh đất ở phần cuối của
lãnh thổ Việt Nam có nguy cơ biến mất trong vài thập niên nữa.
Dưới tác động của biến đổi
khí hậu, nước biển dâng khoảng 3mm/năm, trong khi ở nhiều nơi
vùng nông thôn của đồng bằng sông Cửu Long, mức độ
sụt lún khoảng 10-20mm/năm. Riêng khu vực thành thị và ở các
khu công nghệ, mức độ sụt lún khoảng 25mm/năm. Sụt lún còn
có tác động cộng hưởng với việc mất nguồn phù sa
thô, khiến cho bờ biển bị sạt lở trầm trọng hơn, mất rừng,
nước mặn xâm nhập sâu vào nội vùng, các sông và
các tầng nước ngầm. Riêng đối với tỉnh Cà Mau, nếu
để tình trạng sạt lở sụt lún tiếp tục như hiện nay,
mỗi năm có thể mất đến 90.000ha .
Để ngăn chặn tình trạng sụt lún ở đồng bằng
sông Cửu Long, các chuyên gia đều đồng ý là cần có
biện pháp hạn chế khai thác nguồn nước ngầm và đưa
ra những đề xuất như sau:
Ở
vùng thượng nguồn châu thổ (Đồng Tháp, Khu Tứ Giác Long
Xuyên..), có nguồn nước mặt dồi dào, nên có thể xây
dựng các hồ trử nước trong mùa lũ, giảm sản xuất lúa
vụ 3 và giảm xây dựng đê bao để vừa giữ được
nước mặt, vừa bổ cập cho nước ngầm.
Ở vùng giữa của châu thổ với các đô thị
như Cần Thơ, Long An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, phải triệt để cấm khai thác
nước ngầm, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trang bị
công nghệ tái sử dụng nước thải sau khi đã được
xử lý.
Ở vùng ven biển, cần
xây dựng các hồ chứa nước mưa, kết hợp với việc xây
dựng các đường ống dẫn nước ngọt từ khu vực thượng
nguồn châu thổ.
Được biết,
tỉnh Cà Mau đang triển khai kế hoạch xây dựng các hồ chứa
nước ngọt, có diện tích từ 200 ha đến 300 ha. Bên cạnh đó,
địa phương cũng dự kiến tận dụng một số các tuyến
sông, kinh, rạch để tích trữ nước ngọt phục vụ sản
xuất. Bến Tre cũng đã tiến hành xây các hồ chứa nước
ngọt có dung tích 1 triệu m3.
Chính
phủ cũng đang tiến hành kế hoạch đầu tư 1.7 tỷ đôla
và o dự án cung cấp 200.000-300.00 m3/ngày đêm nước ngọt,
lấy từ sông Hậu cung cấp cho 7 tỉnh thành của miền Tây sông
Hậu.
Ngoài ra, hiện nay công nghệ
biến nước mặn thành ngọt bằng những kỹ thuật Nano và Reverse
Osmosis tương đối rẻ tiền, nên thiết nghĩ đây cũng là
một giải pháp khả thi cần được lưu ý.
RFI: Riêng Cần Thơ thì hiện nay bị
ngập vào mùa nước nổi. Tác động của các đê
bao là như thế nào ? Vì sao Cần Thơ và các thành phố
khác bị ngập khi có mưa to ?
TS
Huỳnh Long Vân : Các đê bao ở Đồng Tháp và khu
Tứ giác Long Xuyên được xây dựng để ngăn chận nước
lũ tràn vào ruộng đồng của vùng này giúp canh tác lúa
vụ 3. Kế hoạch này dẫn đến hậu quả tai hại là gần
như toàn bộ khối nước lũ theo sông Tiền và sông Hậu
đổ xuống các vùng phía dưới như Cần Thơ, Sóc Trăng,
Long An, Vĩnh Long. Những tỉnh thành này vốn có nền đất rất
thấp so với mặt biển và không được bao che bởi các bờ
đê, nên nước lũ tràn bờ ngập phủ nhiều tuyến đường
trong thành phố, đặc biệt ở những nơi gần các kinh rạch.
Ở Cần Thơ vào tháng 09 và 10 vừa
qua, mực nước sông Hậu đã lên cao đến 1,90m, mức báo
động 3, cùng lúc với triều cường, nên một số tuyến
đường như các đường 30 Tháng 4, Châu Văn Liêm, Mậu
Thân ở quận Ninh Kiều, đường Bùi Hữu Nghĩa, ở quận Bình
Thủy bị ngập nước (mặc dù mặt đường đã được
nâng cao nhiều lần với các lớp nhựa), khiến xe cộ ì ạch,
cư dân bì bõm trong nước. Riêng ở Sóc Trăng, nông dân
phải đốn mía dù còn non, để tránh bị ngập úng.
Trong tháng 09 vừa qua, tại Hội nghị thảo
luận chiến lược chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp
đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng với biến đổi
khí hậu, tổ chức tại Cần Thơ, thủ tướng đã đồng
ý cấp ngân khoản để kiện toàn, nâng cao khả năng xả
lũ của đập Trà Sứ và khuyến cáo giảm dần canh tác
lúa vụ 3. Ngoài ra, được biết thành phố Cần Thơ cũng
có dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước
thải và ứng phó với tình trạng ngập úng ở hai quận Ninh
Kiều và Bình Thủy.
Ngoài ảnh
hưởng của đê bao, thành phố Cần Thơ và một số nơi
khác như ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi khi có mưa lớn,
một số nơi trong thành phố cũng bị ngập nước. Nguyên nhân
là do hệ thống thoát nước cũ kỹ hay quá sơ sài; ngoài
ra cũng do một số kinh rạch, vốn là nơi nước rút, nay được
lấp đất để làm mặt bằng trong kế hoạch đô thị
hóa; mở rộng và xây thêm đô thị dàn trải, khiến
một diện tích lớn đất đai bị xi măng hóa, nên việc
thoát nước bị chậm lại. Tình trạng ngập nước này
trở nên tồi tệ hơn nếu xảy ra cùng lúc với triều cường.
RFI: Trước những tác động
của biến đổi khí hậu và việc Thái Lan chuyển dòng nước
sôngMêkông và Cam Bốt cũng có ý định muốn sử
dụng nguồn nước ở Biển Hồ để gia tăng sản xuất nông
nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long phải có kế hoạch ứng phó
như thế nào trước tình trạng sẽ thiếu nước trầm trọng
vào mùa khô?
TS Huỳnh Long
Vân : Thái Lan định làm dự án Khon-Loei-Chi-Mun để hàng
năm chuyển 4,5 tỉ m3 nước từ sông Mekong qua sông Loei, để
tưới vùng Đông Bắc. Cam Bốt cũng rục rịch muốn sử dụng
khối nước ở Biển Hồ để mở rộng diện tích canh tác
nông nghiệp.
Trước đây, vào
năm 1989, Thái Lan đã triển khai, nhưng thất bại, một dự án
tương tự để chuyển nước sông Mekong, trong kế hoạch gia tăng
sản xuất nông nghiệp ở khu vực Isaan, miền Đông Bắc Thái
Lan. Còn ý định của Cam Bốt hiện còn trong giai đoạn thai nghén.
Tuy nhiên, thiết nghĩ nhà chức trách
Việt Nam cũng nên tiến hành xây dựng các hồ chứa nước,
để ứng phó với tình trạng thiếu nước trầm trọng có
thể xảy ra trong tương lai và xem đây như một "biện
pháp không hối tiếc", nghĩa là nếu kế hoạch của Thái
Lan một lần nữa thất bại và Cam Bốt từ bỏ ý định
của mình, thì việc xây dựng các hồ chứa nước cũng
sẽ góp phần đáng kể vào giải pháp ứng phó với
tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long do việc
khai thác nước ngầm quá đáng. Và trước những toan tính
này của hai quốc gia láng giềng, việc giảm dần canh tác lúa
vụ 3 để tiết kiệm nước cũng là điều phải dứt khoát.
RFI: Biến đổi khí hậu,
nước biển dâng cao, tình trạng ngập úng ở vùng Đồng
Tháp, Tứ Giác Long Xuyên sẽ trầm trọng hơn và nước mặn
sẽ lấn sâu vào nội địa khiến diện tích canh tác giảm
dần. Vậy phải có giải pháp nào để sản xuất và cuộc
sống người dân không bị ảnh hưởng hoặc tồi tệ hơn
?
TS Huỳnh Long Vân: Ngày
17/11/2017, thủ tướng chính phủ CHXHCN Việt Nam đã ban hành nghị
quyết 120/NQ-CP, công bố chiến lược chuyển đổi mô hình phát
triển đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi
khí hậu. Chiến lược này xác định biến đổi khí
hậu và nước biển dâng cao là xu thế tất yếu, một thách
thức lớn lao đối với đồng bằng sông Cửu Long và vạch
ra đường hướng phát triển kinh tế đồng bằng sông Cửu
Long trong tương lai, bao gồm hai tiểu vùng nêu ra trong câu hỏi trên.
Nghị quyết còn nhấn mạnh là việc
phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải phù hợp với điều
kiện thực tế, và trong quy hoạch không chỉ có nước ngọt,
mà nước lợ, nước mặn cũng được xem là nguồn tài
nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế.
Và nghị quyết120/NQ-CP đưa ra một số giải pháp
tổng thể, trong đó có phần thúc đẩy phát triển kinh tế
và xây dựng đô thị thích hợp với các tiểu vùng
sinh thái:
Vùng ngập sâu (Đồng
Tháp và một phần của khu Tứ giác Long Xuyên) trở thành vùng
quản lý ngập và trữ nước ngọt, nhằm chủ động cung
cấp nước ngọt cho toàn thể châu thổ; diện tích lúa vụ
3 sẽ được giảm dần và lối sản xuất nông nghiệp độc
canh, tăng sản lượng lúa gạo sẽ được chuyển sang luân
canh với các loại cây trồng, thủy sản khác để tận dụng
nước lũ ; hoàn chỉnh các công trình xây dựng những cụm
dân cư vượt lũ và phát triển đô thị ở tiểu vùng
này được hạn chế.
Vùng
sinh thái nước ngọt (nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và Tây
sông Hậu) là vùng sản xuất nông nghiệp (lúa, trái cây
và hoa màu...). Đây là tiểu vùng thuận lợi cho phát triển
đô thị, nhưng không dàn trải, để dành đất nông
nghiệp màu mở cho sản xuất.
Vùng
ven biển (ven biển Đông, biển Tây và bán đảo Cà Mau là
vùng có những chuyển đổi, sẽ mở rộng nuôi trồng thủy
sản nước lợ trong điều kiện nước mặn xâm nhập, gắn
với trồng rừng ngập mặn, và phát triển luôn cả ngành
nuôi hải sản ở vùng biển ngoài khơi (nuôi trồng rong biển,
cá biển, tôm hùm, ..). Việc mở rộng đô thị ở vùng
này cũng cần hạn chế, để giảm rủi ro do thiên tai gây ra
bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Giải pháp nêu trên không can thiệp thô bạo vào
điều kiện tự nhiên, không xây dựng các đê biển bao
bọc toàn bộ vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, như
ở Hà Lan, nhưng dựa vào tính đặc trưng của từng tiểu
vùng để thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế
của mỗi khu vực, đảm bảo cuộc sống của người dân trong
châu thổ. Giải pháp này dựa theo phương châm "chủ
động sống chung với lũ, với nước lợ và mặn" để
biến thách thức thành cơ hội.
Còn
đối với vấn đề nước biển dâng khiến diện tích
canh tác bị giảm dần thì trong mô hình phát triển bền vững
đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu
cho thấy: "kinh tế nông nghiệp" có chất lượng
cao sẽ thay thế lối canh tác nông nghiệp trước đây chú trọng
đến sản lượng để đảm bảo an ninh lương thực; những
giống lúa đặc sản, cao sản sẽ được lựa chọn và
gieo gặt trên những cánh đồng lớn bằng phương tiện cơ
giới ; công nghệ chế biến thực phẩm sẽ được kết hợp
để gia tăng chuổi giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Như thế, mặc dù diện tích canh tác
sẽ bị thu hẹp, nhưng mức thu nhập của nông dân sẽ được
nâng cao.
Tưởng niệm Kinh lược sứPHAN THANH GIẢN:
Tấm gương sáng
cho hậu thế
______________________________________________________
Huỳnh Long Vân Ph.D
Phan Thanh Giản sinh năm 1796 mất năm 1867, quê quán
tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri. Ông là một danh nhân của vùng
đất Bến Tre. Cuộc đời ông là những ngày tháng trắc
trở, gian truân từ lúc sinh ra cho đến cuối đời. Ông là
vị Tiến sĩ Nho học đầu tiên và duy nhứt của đất Nam
kỳ, phụng sự 3 triều vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
41 năm (1826 đến 1867) cụ Phan Thanh Giản phụng
sự đất nước và dân tộc là thời điểm của cao trào
chủ nghĩa thực dân và ngoại giao bằng tàu chiến và súng
đạn. Các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Hoà Lan, Anh, Pháp, Ý, Hoa Kỳ sau cuộc ‘Cách mạng Kỹ
nghệ' thành công đã đua nhau tràn sang Châu Á tìm kiếm
thị trường tiêu thụ hàng hóa, chiếm cứ đất đai để
khai thác tài nguyên bản địa phục vụ cho nền kỹ nghệ chính
quốc.
Bi kịch cuối đời của cụ Phan gắn liền với giai đoạn
các tỉnh Nam kỳ bị thực dân Pháp xâm chiếm (1862-1867), mà
đỉnh điểm là việc ba tỉnh miền Tây Nam kỳ gồm Vĩnh Long,
An Giang, và Hà Tiên lọt vào tay quân xâm lăng Pháp lúc ông
đang được giao trọng trách Kinh lược sứ trấn giữ các
tỉnh này. Thành mất, cụ Phan Thanh Giản đã chọn cho mình cái
chết như một vị tướng trung liệt.
Nhắc đến cái chết của cụ Phan khiến tôi bùi ngùi
xúc động nhớ lại hình ảnh bà nội tôi 70 năm về trước,
lau chùi nước mắt mỗi khi nghe bộ đỉa hát "Phan Thanh Giản
tuẩn tiết". Hỏi sao lại khóc, bà lặng lẽ trả lời: "Tội
nghiệp Ông Cố quá". Thực hư ra sao và gần xa thế nào của
mối liên hệ này thật tình tôi không rõ, tuy nhiên có
một sự ngẩu nhiên đầy thích thú là tên họ Phan Thanh
Giản ít nhiều đánh dấu từng giai đoạn của cuộc đời
tôi: thời thơ ấu học trường làng và ở chung nhà với
người Bà, thỉnh thoảng mở "dàn máy hát" để Bà
nghe lại cuộc đời cụ Phan; lên trung học xuống Cần Thơ mỗi
ngày theo đường Phan Thanh Giản cấp sách đến trường Trung
học Phan Thanh Giản; vào đại học yêu cô nữ sinh viên Kim Chung
học cùng phân khoa Dược và cô ta, nay là hiền thê của
tôi, ở trọ trong căn nhà ở đường Phan Thanh Giản; tốt
nghiệp đại học được trưng tập vào binh chủng quân y,
phục vụ nhiều năm trong một bệnh viện có tên Quân Y Viện
Phan Thanh Giản Cần Thơ, một đơn vị chửa trị thương bệnh
binh quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu để gìn giữ
an ninh lãnh thổ miền Tây Nam phần Viêt Nam. Sau ngày 30/04/1975 tên tuổi
Phan Thanh Giản ở mọi nơi đều bị xóa mất, nhưng sợi dây
vô hình liên kết đời tôi với cụ Phan vẫn không bị
đứt đoạn, vì hình ảnh và công đạo của cụ được
gói gém trọn vẹn trong nguyện vọng của tôi, tha thiết mong thấy
danh dự cụ được phục hồi và đây là một phần của
đề tài
Tưởng
niệm Kinh lược sứ Phan Thanh Giản:
Tấm gương sáng cho hậu
thế
trình bày, trong buổi lễ
tưởng niệm 150 năm cụ Phan Thanh Giản tuẩn tiết tổ chức tại
Việt Việt Học ở California, Hoa Kỳ, với 4 phần chánh sau đây:
- Mất 6 tỉnh Nam kỳ
và những chánh sách sai lầm của vua Tự Đức và Triều đình
Huế
- Xử trảm hậu cụ Phan: Bản
án bất công và oan nghiệt
- Cần
Thơ với nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản
- Nhân phẩm Phan Thanh Giản và những bài học cho các thế
hệ sau
1. Mất 6 tỉnh Nam kỳ vào
tay quân Pháp và những chánh sách sai lầm của vua Tự Đức
và Triều đình Huế
Triều
Nguyễn có những đóng góp to lớn vào việc thống nhứt đất
nước, mở rộng bờ cỏi, nhưng cũng chính trong triều đại
này, đặc biệt dưới thời vua Tự Đức, Việt Nam bị thực
dân Pháp thôn tính, trước tiên là 6 tỉnh Nam kỳ. Nguyên
nhân của việc mất nước, tuy có nhiều nhận định khác
nhau nhưng các học giả và các nhà sử học đều đồng
ý ở một điểm: nhà Nguyễn đã thi hành môt số chánh
sách sai lầm, tai hại nhứt là ‘bế quan tỏa cảng và "cấm
đạo, sát đạo".
Lỗi lầm
này rất hiển nhiên khi chúng ta so sánh những chánh sách ngoại
giao, ngoại thương của Nhật Bản, Thái Lan với những đường
lối điều hành việc nước của Trung Quốc và Việt Nam vào
giữa thế kỷ thứ XIX trước làn sóng xâm lăng của Hoa Kỳ,
Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Y Pha Nho v.v..
1.1 Nhật Bản
Vào
tháng 8 năm 1853, đề đốc Matthew Perry của hải quân Hoa Kỳ với
4 hắc thuyền tiến vào vịnh Edo mang thư của Tổng Thống Millard Fillmore,
yêu cầu Nhật Bản mở cửa giao thương và hẹn một năm sau
sẽ trở lại để nhận trả lời từ phía Nhật Bản. Khi chiến
hạm ra đi họ nổ súng rầm trời với đạn mã tử bắn
từ 73 khẩu súng thần công để thị oai. Không đợi đến
một năm, mà sáu tháng sau đề đốc Perry đã hối hả
trở lại với 10 chiến thuyền và 1600 binh sĩ để làm áp lực
và một hiệp ước thuộc loại bất bình đẳng được
ký kết giữa chánh quyền Mạc phủ của Nhật Bản và Hoa Kỳ,
mở cửa cho hai nước, và sau đó với các quốc gia phương
Tây khác, giao thương. Qua hiệp ước này Nhật Bản thấy được
sự yếu kém của mình nên nhanh chóng tiến hành canh tân xứ
sở, tiếp thu toàn diện văn minh thế giới phương Tây và sau
15 năm từ một đất nước phong kiến Nhật Bản tiến lên hàng
cường quốc, bảo toàn được xứ sở khỏi cao trào xâm
lăng của phương Tây.
1.2 Thái Lan
Vào năm 1855, khi Ông John Bowring, Thống đốc
Hồng Kông, xuất hiện trên một chiến hạm ở cửa sông Chao
Phraya, Hoàng đế Mongkut (Rami IV) nhanh chóng ký Hiệp ước Bowring, hủy
bỏ độc quyền thương mại của nhà vua, bải bỏ thuế nhập
khẩu, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc buôn bán của
Anh Quốc ở Thái Lan. Những hiệp ước tương tự cũng được
ký với nước Phổ (Đức) vào năm 1862, với Áo và Hung
Gia Lợi vào năm 1869. Ký các hiệp ước bất bình đẳng
này, hoàng gia mất đi phần lớn nguồn lợi tức có từ lâu
đời nhưng ngược lại giúp Thái Lan hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu, biến Thái Lan trở thành một trung tâm đầu
tư và một thị trường tiêu thụ hàng hóa của phương
Tây. Mặt khác sản phẩm của Thái Lan như gạo, khoáng sản,
và gổ liêm cũng được nhà vua cho phép xuất khẩu sang phương
Tây. Sau đó vua Mongkut tiến hành canh tân xứ sở, xây dựng đường
xá, đào kinh, cải cách nông nghiệp gia tăng diện tích đất
canh tác và cho người Hoa nhập cư để gia tăng sản xuất nông
nghiệp, giúp Thái Lan trở nên phổn thịnh. Vua Mongkut (Rama IV) và người
kế vị là vua Chulalongkorn (Rama V), ứng dụng những phát minh khoa học của
phương Tây để phát triển quốc phòng, học hỏi những
kiến thức tân tiến ngay cả với những thừa sai thay vì sát hại
họ, giao thiệp với Tòa thánh Vatican và các lãnh đạo phương
Tây, áp dụng đường lối ngoại giao khôn khéo biến Thái
Lan thành vùng trái độn, ngăn chận được ý đồ
xâm lăng của Pháp và Anh quốc.
1.3 Trung Quốc
Trong khi đó
với Trung Quốc thì hoàn tòan trái ngược; trước đòi
hỏi của chính phủ Anh được quyền tự do buôn bán nha phiến từ Ấn Độ thuộc Anh, nhà Mãn Thanh tuyệt đối nghiêm cấm, từ đó xảy ra hai
cuộc chiến tranh Nha phiến giữa Trung Quốc và Anh quốc; kết quả Trung Quốc thảm bại nên phải công nhận thương
quyền buôn nha phiến của ngoại quốc và phải ký nhiều hiệp ước bất bình đẳng, mở nhiều cảng cho các nước ngoài vào thông thương. Hồng Kông bị cắt làm nhượng địa cho Anh quốc, Ma Cao trở thành thuộc
địa của Bồ Đào Nha. Nhiều nước khác như Đức, Pháp,
Nhật, Nga...theo chân nước Anh buộc Trung Hoa phải chấp nhận nhiều điều
kiện bất bình đẳng. Với hiệp ước Hoàng Phố 1844, Pháp
chánh thức đặt chân lên lãnh địa Trung Hoa. Ở phía Bắc,
năm 1850 quân đội Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm đóng
Mãn Châu.
1.4 Việt
Nam
1.4.1
Vương triều Nguyễn và vua Tự Đức
Từ lâu đời là một chư hầu của Trung Quốc,
nên trong điều hành quốc sự, vua quan Việt Nam rập khuôn theo nhà
nước phong kiến ở phương Bắc và trước áp lực xâm
lăng của ngoại bang vào giữa thế kỷ XIX đã áp dụng chánh
sách bế quan tỏa cảng và cấm đạo.
Vua Gia Long đã nhiều lần từ chối người Anh đến
xin được mua bán và ngay cả người Pháp việc mua bán cũng
không được thuận lợi. Gia Long và Minh Mạng đã khước
từ tổng cộng 30 đoàn ngoại giao và ngoại thương phương
Tây muốn đặt quan hệ với Việt Nam. Chánh sách bế quan tỏa
cảng làm cho Việt Nam cô lập với thế giới bên ngoài và
công thương nghiệp bị đình đốn nghiêm trọng.
Nhằm đề phòng và ngăn chặn sự mở
rộng truyền bá đạo Thiên Chúa ở trong nước, vua Minh Mạng
cho ban hành các chỉ dụ cấm đạo, truy nã ráo riết các
thừa sai, điều này đã dẫn tới một hậu quả là máu
của các thừa sai và giáo dân đã đổ. Đến thời
Tự Đức, việc cấm đạo càng gắt gao hơn, nhằm mục đích
tận diệt Thiên Chúa giáo ở Việt Nam khiến các thừa sai phải
kêu gọi chánh phủ Pháp can thiệp vào Việt Nam để giải
cứu người theo Thiên Chúa giáo.
Ngoài
hai chánh sách đầy lỗi lầm trên, dưới thời triều Nguyễn
tuy "trọng nông ức thương" nhưng nông dân vẫn bị bốc
lột. Dân chúng khổ sở nên có hàng trăm cuộc nổi dậy
từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, nổi bật
hơn cả là các cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Nông Văn
Vân, Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát. Trong khi xã hội trở nên bất
ổn vua Tự Đức cho xây thành ‘Vạn Niên Cơ' tức Khiêm
Lăng. Công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn
nhẫn, dẫn đến cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Mặt khác
vốn bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo,
triều đình nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi, đặc
biệt dưới thời vua Tự Đức lấy Tứ Thư, Ngũ Kinh làm
mẫu mực, rất chú trọng đến văn chương thi phú, và
xao lãng về quân sự và quốc phòng. Vũ khí và
trang thiết bị không được tân trang. Trang bị bộ binh rất lạc
hậu: đa phần là gươm và giáo, 10 người mới có 1 khẩu
súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Súng thần
công được bố trí không để phát huy hỏa lực mà
là để tránh khỏi bị nước mưa làm hư hại. Thủy
binh không có đủ khả năng để bảo vệ bờ biển chống
hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách
vở phương Tây mà quay trở về với binh thư yếu lược của
Trần Hưng Đạo.
1.4.2
Triều thần
Đám quần thần
cũng giam mình trong những giáo lý đã chết cứng của Thánh
hiền nên rất bảo thủ, vẫn nghĩ phương Tây kém văn minh
không đáng tin cậy nên quay lưng lại mọi trào lưu tiến hóa
trên thế giới, khước từ mọi đề nghị cải cách đất
nước của từng lớp trí thức yêu nước cấp tiến và
không noi theo gương Nhật Bản, Tháí Lan đã khôn ngoan tiếp
đón Tây Phương, học hỏi những tiến bộ về khoa học
kỹ thuật để canh tân xứ sở và tránh được ngoại
xâm.
Gỏ cửa yêu cầu được
tự do truyền đạo và buôn bán nhưng bị làm ngơ nên
nhiều cuộc tấn công của hải quân Pháp vào Việt Nam đã
diễn ra, mở đầu bằng cuộc bắn phá cửa biển Đà
Nẵng năm 1856.
*
Từ năm 1858 đến 1861 quân Pháp nhiều lần tiến đánh Đà
Nẳng và Gia Định và quân ta thảm bại trên khắp mặt
trận, nhưng triều đình Huế vẫn tiếp tục bác bỏ những
yêu cầu của Pháp và Y Pha Nho được tự do truyền đạo
và giao thương.
*
Từ tháng 02/1861 đến tháng 03/1862 quân Pháp lần lượt đánh
chiếm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Bà Rịa và Vĩnh
Long.
* Tiếp
đến Pháp dùng tàu chiến phong tỏa đường biển, chận
nguồn tiếp tế lương thực từ đồng bằng sông Cửu Long ra
Phú Xuân khiến triều đình Huế bị "chết nghẻn". Bó
tay nên vào tháng 04/1862 vua Tự Đức đề nghị xin mở cuộc
hoà đàm và chấp nhận những điều kiện tiên quyết của
Pháp đưa ra.
1.4.3 Phan Thanh Giản và
sứ mạng cứu vãn tình thế tuyệt vọng của đất nước
a. Hòa ước
Nhâm Tuất 1862
Phan Thanh Giản được
vua Tự Đức cử làm Chánh sứ toàn quyền đại thần và
Lâm Duy Thiếp làm Phó sứ để đám phán với Pháp.
Sau 4 ngày thương thuyết từ 30/05/1862 đến 02/06/1862 Việt Nam đồng
ý nhường Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn
Đảo; bồi thường chiến phí 4 triệu đồng bạc trả trong
10 năm, và chấp thuận cho người Pháp và Y Pha Nho được quyền
tự do truyền đạo và buôn bán.
b. Đi sứ sang Pháp năm 1863 để
chuộc 3 tỉnh miền Đông
Mặc
dù Hòa ước Nhâm Tuất 1862 được vua Tự Đức phê
chuẩn nhưng nhà vua vẫn lo lắng tìm cách chuộc lại phần đất
đã mất. Điều đình với soái phủ Pháp ở Sài
Gòn thất bại, nên triều đình Huế quyết định gởi sứ
bộ sang Pháp và Y Pha Nho để thương thuyết. Phan Thanh Giản được
cử làm Chánh sứ và Phạm Phú Thứ làm Phó sứ.
Ở Paris Phan Thanh Giản đã trình lên
Hoàng đế Napoleon III mục đích của sứ bộ là xin chuộc
3 tỉnh miền Đông Nam kỳ. Vào ngày 17/07/1864, Aubaret đại diện
cho Pháp tới Huế ký với Phan Thanh Giản một hòa ước mới,
trong đó Pháp sẽ trả 3 tỉnh miền Đông cho Việt Nam.
Nhưng các tướng tá từng chỉ huy
các trận chiến ở Việt Nam kịch liệt phản đối. Bộ Trưởng
Hải quân và Thuộc địa, Chasseloup Laubat, khuyến nghị giữ nguyên
Hòa ước 1862 nếu không sẽ từ chức. Vì thế Napoleon phải
nhượng bộ và việc chuộc lại 3 tỉnh miền Đông bất thành.
Sứ mạng không thành vì sự thắng thế của phe chủ chiến
của Pháp chứ không phải vì cụ Phan không hết lòng.
c. Pháp
chiếm 3 tỉnh miền Tây và Phan Thanh Giản tuẩn tiết
Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa
Chasseloup Laubat khẳng định: chiếm luôn các tỉnh miền Tây sẽ
giúp ổn định toàn bộ Nam kỳ và mở đường sang Cao Miên,
nên đầu năm 1867 quân Pháp đã làm xong kế hoạch, lập
8 Thanh tra tòa cho 3 tỉnh và bố trí nhân sự để chờ lệnh
đến nơi làm việc. Ngày 15/06/1867 De la Grandière rời Sài Gòn
xuống Vĩnh Long với 17 chiến hạm. Nửa đêm 19/06/1867 hạm đội
tới Vĩnh Long và sáng hôm sau ra lệnh cho Phan Thanh Giản phải nộp
thành trong vòng 2 tiếng đồng hồ với lý do Pháp cần chiếm
3 tỉnh miền Tây để chấm dứt "phiến loạn" và "giặc
cướp" mà triều đình bất lực trong việc ngăn chận. Nghĩ
rằng đụng độ tại chỗ với Pháp đầy vũ khí tối
tân là vô ích, chỉ làm tổn hại thêm quân lính, cụ
Phan Thanh Giản ra lệnh không cho đánh trả. Pháp chiếm Vĩnh Long và
trong các ngày sau đó thôn tính luôn hai thành An Giang và Hà
Tiên.
Mất thành Vĩnh Long, cụ Phan
Thanh Giản sau 15 ngày tuyệt thực không chết, quyết định uống
thuốc độc chấm dứt cuộc đời.
2.
Xử trảm hậu cụ Phan Thanh Giản: Bản án bất công
và oan nghiệt
Sau khi mất 3 tỉnh
miền Tây Nam kỳ, ngày 24/10/1867 vua Tự Đức xuống chiếu truyền
truy cứu trách nhiệm của tất cả những quan chức liên quan đến
việc làm mất sáu tỉnh Nam kỳ. Đầu năm 1869, nhà vua cho công
bố bản án kết tội Phan Thanh Giản có trách nhiệm trong việc
để mất sáu tỉnh Nam kỳ vào tay giặc Pháp: ba tỉnh miền
Đông vì mất cảnh giác và lơ là trong việc thương thuyết
với Pháp, ba tỉnh miền Tây vì không nắm được thời
cơ. Với tội danh này, tên tuổi Phan Thanh Giản bị đục khỏi
bia tiến sĩ, và mặc dầu đã chết vẫn cứ bị kêu án
chặt đầu, xem như là lời cảnh cáo đối với các
thế hệ sau.
Thử hỏi phán quyết này có đúng không?
Phan Thanh Giản được triều đình giao
phó sứ mạng hòa đàm với Pháp, và cụ Phan ký Hòa
ước Nhâm Tuất 1862 nhường 3 tỉnh miền Đông. Việc làm
này của cụ xét ra đúng với thẩm định của vua Tự Đức
và triều đình; vì trước đó khi cử Phan Thanh Giản
làm Chánh sứ toàn quyền đại thần vua tôi đã bàn
định kỹ các khả năng, giải pháp kể cả việc "cắt
đất": "Kẻ kia (Charner) trước có xin giao hết cả tỉnh thành
và đất phụ thuộc của Gia Định, Định Tường và đóng
quân ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Nay bọn kia tất không khỏi
cố ý yêu cầu cắt đất Biên Hòa, Vĩnh Long giao cho họ để
mong cho hòa ước cũ tất phải thành. Nay vâng xét nghĩ: ở
Gia Định từ thành cũ, kẻ kia đã lập đồn để đóng
và địa giới ở ven sông hai huyện Tân An, Cửa An thuộc hạt
ấy, một số vùng ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa và đất
phụ cận ở ngoài thành tỉnh Định Tường, nghĩ hãy tạm
cho bọn kia quản nhận cư trú; còn điạ phận các hạt khác
cùng là toàn hạt tỉnh Vĩnh Long, đều nên giao trả về nước
ta quản trị..."
Ngoài ra nếu
Phan Thanh Giản ký hòa ước nhượng đất cho Pháp trái ý
vua thì tại sao Tự Đức tiếp tục giao phó nhiều trọng trách
giao thiệp với Pháp và năm 1863 chính vua Tự Đức đã phê
chuẩn hòa ước, làm lễ đại triều ở điện Thái
Hòa tiếp sứ thần hai nước Pháp, Y Pha Nho để trao đổi văn
bản hòa ước.
Dẩu sao trong Hòa
ước Nhâm Tuất 1862, cụ Phan đã đòi lại được tỉnh
Vĩnh Long và trong cái thế chiến trường tan nát ấy, việc dành
lại được một tỉnh cũng là một thắng lợi, tuy khiêm nhượng;
đúng ra phải được ghi công hơn là bắt tội. Vì thế
việc vua Tự Đức kết tội cụ Phan "đem 3 tỉnh Gia Định,
Biên Hoà, Định Tường cho người khác một cách dễ dàng"
là điều không hợp lý và oan nghiệt.
Về việc mất 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, những văn
bản của triều đình còn lưu lại cho thấy khi nhận được
mật tin quân Pháp muốn chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ
vua Tự Đức và triều đình thấy "thế đất (miền Tây)
cheo leo, muốn giữ cho không lấn cũng khó" nên đưa cụ Phan
Thanh Giản vào Nam, không để chuẩn bị đánh nhau với quân
Pháp, mà là hy vọng vào uy tín và tài ngoại giao của cụ
để thuyết phục quân Pháp nghiêm chỉnh thi hành Hòa ước
Nhâm Tuất 1862. Là một nhà thâm Nho nên nghĩ rằng không
phải vũ lực mà nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mới đáng
sợ nên khi giao cho cụ Phan Thanh Giản trọng trách này vua Tự Đức
dặn dò như sau "Lấy trung tín làm đầu thì cọp dữ
cũng phải tránh qua; con cá sấu hung bạo cũng bơi xa. Mọi người
đều phải nghe theo điều nhân nghĩa". Những chủ trương,
và suy nghĩ của triều đình như thế ắt dẫn đến hậu
quả tất nhiên là không thể nào giữ được ba tỉnh miền
Tây và giả sử vua Tự Đức có cử bất cứ nhà ngoại
giao nào thì chắc chắn cũng không thuyết phục được Pháp
từ bỏ ý đồ chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Chúng
ta là những chứng nhân của lịch sử Việt Nam thời cận đại,
hẳn không quên 2 sự kiện lịch sử quan trọng: Hiệp định Paris
1973 và biến cố lịch sử ngày 30/04/1975.
Ký hiệp định
Paris 1973 dẫn đến sự sụp đổ toàn diện của chánh thể
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhận
lãnh trách nhiệm này. Hai Ông Ngoại trưởng Phạm Đăng Lâm
và Trần Văn Lắm lần lượt là Trưởng phái đoàn
đàm phán của VNCH không hề bị khiển trách, và sau này
được đề cử và tín nhiệm vào những chức vụ quan
trọng khác: một Ông được bổ nhiệm Đại sứ VN tại
Anh Quốc và một vị được bầu vào chức vụ Chủ tịch
Thượng Nghị viện. Trái lại trong Hoà ước Nhâm Tuất 1862,
thay vì phải liên đới chịu trách nhiệm trước dân tộc
vì đã áp dụng những chánh sách sai lầm trong việc giữ
nước trước áp lực xâm lăng của quân Pháp, vua Tự Đức
và triều đình lại tìm cách đổ trút tội lỗi lên
vai vị Chánh sứ đại thần Phan Thanh Giản. Bất công nào bằng!
Còn về việc mất 3 tỉnh miền Tây vào tay quân Pháp
thì bi kịch lịch sử này đã tái diễn khi các tỉnh vùng
Hậu Giang và phần còn lại của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa
rơi vào tay quân đội Cộng sản Bắc Việt vào ngày 30/04/1975.
Mặc dù sau đó có hàng trăm ngàn quân, cán, chánh Việt
Nam Cộng Hòa phải bị tù đày và hơn triệu người bất
chấp hiễm nguy bỏ xứ ra đi tìm tự do, nhưng hơn 40 năm trôi
qua không hề có một tập thể hay phiên tòa nào kết
án Tổng Thống Dương Văn Minh là hèn nhát, vì biết rằng
quyết định của Ông ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa
buông súng là hành động thức thời trước tình thế
tuyệt vọng của đất nước; và thật sự quyết định
này đã tránh được những đổ nát và chết chóc
vô ích. Cán cân quân sự vào thời điểm 1975 nghiên hẳn
vế phía lực lượng Cộng sản Bắc Việt và đó cũng
là tình huống mà cụ Phan Thanh Giản đã gặp phải trước
sức mạnh xâm lăng của quân đội Pháp có nhiều vũ khí
và phương tiện chiến tranh tối tân, và lối đánh chưa
từng có trong binh thư phương Đông. Để tránh những tổn
hại sinh mạng, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản đã không đối đầu
với quân Pháp.
Công lý nào có thể biện hộ cho phán
quyết bất công đối với vị Đại thần suốt đời yêu
nước thương dân? Phải chăng xử trảm hậu cụ Phan là chuyện"
Trăm dâu đổ đầu tầm" cốt để gở tội cho vua Tự
Đức và đám triều thần bảo thủ đã thi hành những
chánh sách sai lầm trước âm mưu xâm lăng của thực dân
Pháp.
3. Cần Thơ
với nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản
Năm 1885, vua Đồng Khánh xóa án trảm hậu và
khôi phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học sĩ cho cụ Phan,
nhưng oan nghiệt vẫn tiếp tục bám riết cụ. 96 năm sau ngày tuẫn
tiết vẫn không được nằm yên dưới đáy mồ, vì
trong cuộc hội thảo lịch sử được tổ chức tại Hà Nội
năm 1963, dưới sự chỉ đạo của Ông Trần Huy Liệu, cụ Phan
Thanh Giản lại bị lôi ra tòa và bị kết án là kẻ hèn
nhát dâng thành cho giặc Pháp, tên bán nước. Chính vì
bản chất vu oan và thóa mạ này mà sau ngày 30/4/1975 ở miền
Nam Việt Nam có những chỉ thị và hành động thất nhân tâm
đối với cụ Phan - nào là bức tượng cụ Phan ở Văn Thánh
Miếu Vĩnh Long vị bắn xuyên tim, bức tượng trước 1975 đặt
tại trung tâm thị xã Bến Tre bị vùi lấp ở vũng lầy, bức
tượng giữa sân trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ bị
đập phá cùng với ngôi trường bị mất học hiệu, các
con đường mang tên Phan Thanh Giản cũng bị thay tên - khiến quần
chúng phẩn uất.
Trước những
phê phán sai lầm này của giới sử học miền Bắc, đại
diện người dân Cần Thơ là tập thể các cựu giáo sư
và cựu học sinh trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ ở hải
ngoại đã đồng hành với người dân hai tỉnh Vĩnh Long
và Bến Tre tích cực vận động, kiên nhẩn đòi hỏi Nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVH) phải trả
lại công bằng cho vị Tiến sĩ Nho học đất Nam kỳ.
3.1 Cụ Phan Thanh Giản được
lịch sử tôn vinh
Ngày 20/01/2008
Viện Sử học CHXHCNVN trong công văn số 16/VSH phúc đáp công văn
số 04/DSVH-DT ngày 02/01/2008 của Cục Di sản Văn hóa về việc đánh
giá sự nghiệp công lao đóng góp của cụ Phan Thanh Giản có
ý kiến trả lời như sau:
".......Về
nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản đã có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên sâu, nhiều cuộc Hội thảo khoa học được
tổ chức để đánh giá một cách khách quan về cuộc
đời, sự nghiệp và những cống hiến của Ông đối với
lịch sử dân tộc. Về cơ bản, các nhà sử học đánh
giá cao về công lao của ông trên nhiều lĩnh vực chính trị,
ngoại giao, văn hóa. Khi thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây
(1867), Ông đã tuẩn tiết để giữ trọn chữ trung. Với nhận
thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật lịch
sử Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình
thức khác nhau....."
Viện Trưởng
Nguyễn Văn Nhật
3.2 Tôn tạo các di tích cụ Phan
Dựa trên những kết luận đánh giá
của Viện Sử học, ngày 24/01/2008 Cục Di sản Văn hóa đã
có công văn cho phép tôn vinh Phan Thanh Giản và trên cơ sở đó
kiểm kê các di tích liên quan đến nhân vật, lập kế
họach tu bổ, tôn tạo.
Tháng 05/2008
GS Nguyễn Trung Quân và tôi đã về Việt Nam: ở Hà Nội chúng
tôi tiếp xúc với TS Nguyễn Quốc Hùng, Cục Phó Thường trực,
Cục Di sản Văn hóa, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam và nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch
kiêm Tổng thư ký, và ở Cần Thơ tham dự buổi họp đặc
biệt của Hội đồng Nhân dân Thành phố Cần Thơ để
thảo luận và triển khai công việc bảo tồn, tôn tạo các
di tích cụ Phan trong đó có ngôi trường Trung học Phan Thanh Giản
Cần Thơ.
Trước tin vui cụ Phan được
lịch sử tôn vinh, tôi tham gia chương trình "Mỗi người một
giọt đồng dựng tượng cho Danh nhân" do Tạp chí Xưa & Nay,
Cơ quan ngôn luận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, chủ trương
để bảo tồn và tôn tạo các di tích Phan Thanh Giản.
- Vào ngày 05/08/2008 tượng
cụ Phan Thanh Giản do Ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng CHXHXNVN
phụng hiến, đã được an vị ở Văn Thánh Miếu Vĩnh
Long. Vì vừa từ Việt Nam trở về Sydney vào cuối tháng 5 nên
tôi đã đề nghị Ban Tổ chức mời ba cựu giáo sư Lê
Minh Thuận, Lê Văn Quới, Quách Thị Trang và ba cựu học sinh La Phú
Xương, Huỳnh Phước Duyên, Hồ Trung Thành của trường Trung học
Phan Thanh Giản Cần Thơ tham dự buổi lễ khánh tượng này.
- Năm sau vào ngày 18/04/2009 tôi và Kim Chung về
Việt Nam tham dự lễ an vị tượng cụ Phan - do chúng tôi phụng hiến
- tổ chức tại trường Trung học Phan Thanh Giản ở quận Ba Tri, tỉnh
Bến Tre.
- Đến ngày 26/08/2017 tới
đây, thêm một tượng cụ Phan - cũng do chúng tôi phụng hiến
- sẽ được an vị tại Ngôi Miếu thờ cụ Phan trong khuôn viên
Lăng Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, Sài Gòn; tôi và Kim
Chung sẽ về Việt Nam tham dự buổi lễ này.
Xua & Nay ........@yahoo.com>
5 Jun at 12:21 PM
To: Van Huynh
Message body
Chào anh Long Vân
Tôi
vừa trao đổi với Ban Quý Tế Lăng Lê Văn Duyệt, được
biết ngày giỗ lần thứ 150 cụ Phan Thanh Giản là ngày 26 tháng
8 năm 2017 (ngày 5 tháng 7 Âm lịch) , Ngày giỗ cụ Phan năm nay được
tổ chức trang trọng vì là năm chẵn (150 năm) kết hợp với
lại lễ an vị tượng cụ . Vậy thông tin để anh có kế
hoạch về Việt Nam tham dự
Về dòng lạc khoảng để
sau bức tượng có nội dung :
Chương
trình "Mỗi người một giọt đồng đúc tượng Danh nhân"
Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam - Tạp
chí Xưa và Nay chủ trương
Ông, bà Huỳnh Long Vân
- Cựu học sinh Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ
Phụng hiến
Chúc sức khỏe anh chị và gia đình
Kính
Nguyễn Hạnh
3.3
Bảo tồn kiến trúc trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ
Cần Thơ có ngôi trường lớn
nhứt ở miền Hậu giang mang tên vị Kinh lược sứ, được
xây vào năm 1917 nay đã hư hỏng xuống cấp không
đảm bảo an toàn cho giảng dạy. Giới hữu trách của Thành
Phố Cần Thơ sau nhiều lần họp bàn có quyết định đập
bỏ xây mới hoàn toàn. Vì ngôi trường có giá trị
lịch sử và được sự ủng hộ của giới sử học, Hội
đồng Di sản Văn hóa, các giáo sư chuyên gia kiến trúc trong
nước nên tôi đã đề nghị và được lãnh đạo
Thành Phố Cần Thơ cứu xét chấp thuận để một dãy lầu
được giữ nguyên và trùng tu. Hy vọng trong tương lai chúng
ta sẽ nhìn thấy tên họ vị Tiến sĩ Nho học đất Nam kỳ
ghi trong danh hiệu của di tích lịch sử này
4. 4.
Nhân phẩm Phan Thanh Giản
và những bài học cho các thế hệ sau
Cụ Phan Thanh Giản có tính ngay thẳng cương trực,
không phù hợp mấy với nếp truyền thống vua chúa thời phong kiến
vì thế trong cuộc đời quan lộ có những bước thăng trầm:
có lúc bị cách chức, bị giáng chức. Nhưng trong bất cứ
cương vị nào ông cũng luôn luôn trung thành, mẫn cán, lo
làm tròn sứ mạng phò vua, giúp nước. Ngoài tài năng,
phẩm giá đáng quý, ở cụ Phan là tấm lòng yêu nước
thương dân, và cuộc sống cần kiệm thanh bạch. Làm quan có
lúc đến nhất phẩm triều đình, nhưng quyền lực và danh
vọng không làm ông bị tha hóa như nhiều quan chức khác, trước
sau ông vẫn giữ nhân cách cao đẹp của mình.
Những năm 1843, 1849, 1852, 1853, 1859 cụ Phan Thanh Giản dâng sớ
lên vua Thiệu Trị và Tự Đức nêu lên thực trạng
của đất nước về kinh tế, xã hội và đề xuất yêu
cầu "cải cách chốn quan trường", "lựa người trung lương",
"chỉnh đốn thói quen của sĩ phu", "quan tốt mà dân yên",
"dựa vào pháp luật mà cai trị", "chửa hồi bệnh
đau khổ của nhân dân", "nuôi dân chăm cày cấy",
"nuôi quân trù phương lược", "binh giỏi lương đủ
như nguồn nước chảy mãi không hết".
Khi đi Pháp về, tầm mắt của cụ được mở
rộng, cụ đã kêu gọi bá quan văn võ mau thức tỉnh canh tân
đất nước trong bài Tự Thán:
Từ ngày đi sứ đến Tây
Kinh
Thấy việc Âu Châu
phải giựt mình
Kêu
rú đồng ban mau thức dậy
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.
và khuyên vua mở cửa giao thiệp với các nước
bạn, giao thương với nước ngoài, cho dân xuất dương du học.
Đó cũng là những việc sau này Nguyễn Trường Tộ và
Phan Châu Trinh đề xướng.
Nhân
cách và lối sống của cụ Phan cao đẹp như thế nên dù
ở bất cứ giai đọan lịch sử nào cũng là những tấm gương
sáng cho hậu thế noi theo.
Mỗi đức
tính "Thanh Liêm" của cụ cũng là một bài học quý
báu dành cho xã hội Việt Nam ngày nay vì giờ đây "Tham
Nhũng" đã trở thành một "Quốc Nạn".
42 năm trôi qua nơi quê nhà dân chúng sống
trong cảnh an bình, nhưng xã hội vẫn chưa thật sự phồn vinh, vì
nền kinh tế còn ọp ẹp, quá lệ thuộc vào Trung Quốc, không
sánh bằng một số nước khác trong khu vực Đông Nam Á,
đặc biệt khi so với Hàn Quốc, từng là một trong những
xứ nghèo nhứt thế giới, nhưng sau khi đất nước có được
một thể chế dân chủ tự do thật sự và chỉ sau 20 năm xây
dựng (1980-2000) trở nên giàu mạnh, và hiện nay là quốc gia
có nền kinh tế đứng hàng thứ 4 ở Á châu và
thứ 11 trên thế giới.
Ngoài
ra ngày nay, mặc dù quê hương Việt Nam đã im tiếng súng
nhưng hiễm họa ngoại xâm từ phương Bắc vẫn còn đó,
an ninh và chủ quyền biển đảo ở Biển Đông là vấn đề
thời sự nóng bỏng nên một số điều cụ Phan Thanh Giản
đã đề xuất với vua Thiệu Trị, Tự Đức ngày trước
trong các sớ tâu, như "lấy ý dân để sửa đổi chánh
pháp", "cải cách việc tuyển dụng quan lại", đáng kể
nhứt là "tư tưởng canh tân để nước nhà phồn
thịnh và hùng mạnh" vẫn còn có giá trị cho đất
nước Việt Nam và đối với những ai nặng lòng với tổ
quốc, quan tâm đến sự phát triển xứ sở, toàn vẹn lãnh
thỗ lãnh hải và tiền đồ của dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Châu bản triều Nguyễn.
Tự Đức nhị thập niên. Tứ nguyệt Thất nguyệt. Ngày 17-11-T
Đ XX (1867) tr.187-190
2. Đại
Nam thực lục, t.31. Hà Nội, 1974, tr. 65-66.
3. Đại Nam thực lục, t.31. Hà Nội, 1974, tr. 296.
4. Đại Nam thực lục,
t.37. Hà Nội, 1977, tr. 23-35
5.
Đại Nam chính biên liệt truyện, t.4. Huế 1993, tr. 37-42
6. Hoàng Lại Giang: "Phan Thanh Giản
- Một Nhân cách lớn". Thế kỷ XXI Nhìn về Nhân Vật
Lịch Sử Phan Thanh Giản tr.165-171. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn.
Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
7.
Huỳnh Long Vân: "Phan Thanh Giản và việc mất 6 tỉnh Nam kỳ".
Tập san số 11 năm 2017 Nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long
Úc châu tr. 71-90
8.
Huỳnh Long Vân: "Vận động bảo tồn kiến trúc Trường
Trung Học Phan Thanh Giản Cần Thơ". Phát biểu tại ĐH PTG& ĐTĐ
XXI tổ chức vào ngày 06/5/2017 tại Houston, Texas, USA, www.ptgdtdusa.com
- Lăng Tự Đức https://vi.wikipedia.org/wiki/Lăng_Tự_Đức
10. Nguyễn Nghị, Nguyễn Hạnh: "Phan
Thanh Giản, nhà yêu nước, người mở đường". Thế
kỷ XXI Nhìn về Nhân vật Lịch sử Phan Thanh Giản tr.221-228. Nhà Xuất
Bản Văn Hóa Sài Gòn. Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
11. Phạm Văn Sơn: "Chung quanh cái chết
và trách nhiệm của Phan Thanh Giản trước các biến cố
của Nam kỳ cuối thế kỷ XIX". Đặc khảo về Phan Thanh Giản
tr. 84-100. Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản Hồng Đức. Tạp chí
Xưa & Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ.
12. Phan Huy Lê: "Phan Thanh Giản (1796-1867) con người, sự nghiệp
và bi kịch cuộc đời". Thế kỷ XXI Nhìn về Nhân Vật
Lịch Sử Phan Thanh Giản tr. 291-307. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn.
Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
13. Phù
Lang Trương Bá Phát: "Kinh Lược Đại thần Phan Thanh Giản
với sự chiếm cứ ba tỉnh miền Tây". Đặc khảo
về Phan Thanh Giản tr. 46-83. Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản Hồng
Đức. Tạp chí Xưa & Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ.
14. Trần Mỹ Vân: "Phan Thanh Giản:
150 năm nhìn lại". Bài thuyết trình tại buổi phát hành
Tập san số 11 năm 2017 Nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu
Long Úc châu tổ chức vào ngày 09/04/2017 tại Cabramatta Bowling Club,NSW, Australia,
www.Lyhuong.net
15. Trần Quốc Giám: "Cuộc
đời Phan Thanh Giản (1796 -1867)". Đặc khảo về Phan Thanh Giản tr.101-124.
Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản Hồng Đức. Tạp chí Xưa
& Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ
16.
Văn Tạo: "Sự nghiệp và vai trò lịch sử của Phan Thanh Giản".
Thế kỷ XXI Nhìn về Nhân vật Lịch sử Phan Thanh Giản tr.23-36. Nhà
Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn. Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
_______________________________________________________________________________________________________________________
Bài phát biểu tại ĐH PTG-ĐTĐ
XXI
6/05/2017
Houston, Texas.
USA
Vận động bảo
tồn kiến trúc trường TH Phan Thanh Giản Cần Thơ
Huỳnh
Long Vân Ph. D
chs PTG niên khóa 1954 -1961
Kính thưa quý Thầy, Cô, anh chị em chs hai trường
Phan Thanh Giản - Đoàn Thị Điểm (PTG-ĐTĐ), đồng hương Cần
Thơ và thân hữu.
Hôm
nay ngày Đại Hội (ĐH) PTG-ĐTĐ thế gới lần thứ XXI tưởng
niệm 150 năm cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết và kỷ niệm sinh nhựt
lần thứ 100 của Trường Trung Học Phan Thanh Giản (TH PTG) Cần Thơ, tôi
thành thật cám ơn Ban Tổ chức dành cho cơ hội trình bày
quá trình vận động bảo tồn kiến trúc trường TH Phan Thanh
Giản Cần Thơ.
Cụ Phan Thanh Giản
chết không phải chỉ 1 lần mà đến 3 lần
- Lần thứ nhứt sau khi không giữ được
ba tỉnh miền Tây Nam kỳ, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản xem đây là
một trọng tội đối với triều đình nên đã tự xử
bằng chén thuốc độc kết liểu cuộc đời.
- Lần thứ hai cụ Phan bị vua Tự Đức bức tử
với bản án "truy đoạt tất cả chức hàm, đẻo bỏ
tên ở bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu, xem đây
là một lời cảnh cáo đối với các thế hệ mai sau".
Nhưng đến năm 1885 cụ Phan Thanh Giản được vua Đồng Khánh
xóa án và phục nguyên hàm Hiệp tá Đại học sĩ.
- Và lần thứ ba tại cuộc hội thảo lịch
sử được tổ chức tại Hà Nội năm 1963, dưới sự chỉ
đạo của Ông Trần Huy Liệu, cụ Phan Thanh Giản lại bị lôi
ra tòa và bị kết án là kẻ hèn nhát dâng thành cho
giặc Pháp, tên bán nước. Chính vì bản chất vu oan và
thóa mạ này mà sau ngày 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam có những
chỉ thị và hành động thất nhân tâm đối với cụ
Phan, khiến quần chúng phẩn uất và đòi hỏi nhà cầm quyền
CS Việt Nam phải trả lại công bằng cho vị Tiến sĩ Nho học đất
Nam kỳ.
I.
Thành phần tích cực vận động để danh dự cụ Phan được
phục hồi vào năm 2008
- Trước hết là người dân hai tỉnh Vĩnh Long và Bến
Tre.
- kế đến là bức thư của
ông Nguyễn Sinh Trung người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, viết năm 1994, gởi lên Bộ Chánh trị, Chủ Tịch Nước
và Quốc hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
- và các cựu giáo sư (cgs) và cựu học
sinh (chs) trường Phan Thanh Giản Cần thơ ở hải ngoại.
II.
Tôn tạo di tích cụ Phan
- Vào ngày 05/8/2008 tượng cụ Phan Thanh Giản do một nhân vật
trong nước phụng hiến, đã được an vị ở Văn Thánh
Miếu Vĩnh Long. Vì vừa trở về Úc châu từ Việt Nam vào
cuối tháng 5/2008, nên tôi cáo lỗi vắng mặt nhưng đã đề
nghị ban tổ chức mời 3 cgs và 3 chs trường TH PTG Cần Thơ sang tham dự.
- Năm sau vào ngày 18/4/2009 tôi và nhà tôi
là cựu nữ sinh Huỳnh Thị Kim Chung về Việt Nam tham dự lễ an vị
tượng cụ Phan, tổ chức tại trường TH PTG ở quận Ba Tri, tỉnh
Bến Tre. Tượng này do tôi phụng hiến.
- Và trong vài tháng tới đây, thêm một bức tượng
khác của cụ Phan, cũng do tôi kính tặng, sẽ được đặt
tại Lăng Ông Bà Chiểu, Sài Gòn; một nơi hiển linh của vùng
đất Nam Kỳ.
III.
Vận động phục hồi học hiệu Phan Thanh Giản
Đã có kế họach chuyển tên họ người
cán bộ CS Châu Văn Liêm sang trường Đảng Cần Thơ và
hoàn trả học hiệu Phan Thanh Giản cho trường cũ của chúng ta,
nhưng vì nhân vật có thế lực chánh trị mạnh mẽ, người
đã nhiệt tình hậu thuẩn kế hoạch này, từ trần đột
ngột, nên mọi việc dang dở. Những chi tiết vận động có trong
bài viết của tôi trong Đặc san 22 của ĐH PTG-ĐTĐ lần này.
IV. Bảo tồn
kiến trúc ngôi trường cổ
- Từ năm 2010, dựa theo tinh thần Công văn số 190/SXD-QLXD
đề ngày 15/3/2010 của Sở Xây dựng Thành Phố (TP) Cần Thơ,
sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) TP Cần Thơ nhiều lần
đề nghị với Ủy Ban Nhân Dân (UBND) TP Cần Thơ đập bỏ
và xây mới trường PTG/Châu Văn Liêm (PTG/CVL), nhưng lần nào
cũng gặp phải những ý kiến phản đối mạnh mẽ của quần
chúng nên buộc phải tạm gác lại để bàn bạc; thỉnh
thoảng ra thông cáo trường xuống cấp không còn an toàn để
giảng dạy và cứ thế kéo dài năm này qua năm khác, sửa
chữa vá víu nên trường ngày càng hư hỏng trầm trọng
hơn.
- Không đồng ý với thái
độ chủ quan này của sở GD&ĐT TP Cần Thơ và nhân dịp
kỷ niệm 40 năm thiết lập bang giao giữa Cộng hòa Pháp Quốc và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước kia và nay là Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên ngày 07/ 02/ 2013 tôi đã gởi
thư đến Ông Jean Noel Poirier, Đại sứ Pháp tại Việt Nam nêu
lên cách xử lý trái ngược của TP Cần Thơ đối với
2 công trình Pháp xây cất trước đây: đó là việc
nhà cầm quyền Cần Thơ đã sớm tu sửa Cái khám lớn
Cần Thơ thành một địa điểm tham quan, trưng bày những hình
ảnh, bích chương và mô hình thực dân Pháp đàn áp,
tra tấn dã man những người Cộng sản Việt Nam (CSVN), trong khi đó
thì gần như bỏ mặc trường PTG/CVL mà tiền thân là Collège
de Cần Thơ, đang suy sụp xuống cấp.
- Nếu vì mối hận thù của một dân tộc từng bị đô
hộ ngày xưa mà giờ đây tìm cách xóa bỏ một cơ
sở tượng trưng sự đóng góp của thành phần tiến bộ
trong chánh quyền Pháp cho người dân miền Tây Nam phần Việt Nam
trong lãnh vực giáo dục thì quả thật là một động thái
không hợp thời, đặc biệt trong giai đoạn mà hai chánh phủ
Việt Pháp đang tiếp tục cải thiện và nâng cao mối bang giao giữa
hai quốc gia. Vì thế tôi trân trọng đề nghị Ông Đại
sứ Pháp thảo luận với lãnh đạo TP Cần Thơ đồng thời
thúc giục để ngôi trường được trùng tu.
- Đáp lại yêu cầu của tôi, vào tháng
11/2013, Ông Đại sứ Pháp từ Hà Nội vào Cần Thơ thăm
trường PTG/CVL và cả Cái khám lớn Cần Thơ; 2 tuần sau đó
2 kỹ sư người Pháp đến khảo sát trường và một
công ty trùng tu của Pháp phát hoạ 2 phương án trùng tu: trùng
tu một dãy nhà tốn 32 tỉ VN, trùng tu toàn bộ là 72 tỉ VN,
họ bảo hành 10 năm và công trình sẽ được gìn giữ
thêm 100 năm nữa.
Điều
này cho thấy đập bỏ xây mới không phải là giải pháp
duy nhứt. Nhưng thử hỏi
- Phải chăng vì bản tính cố chấp nên vào tháng 7/2015,
Ông Trần Trọng Khiếm, Giám đốc sở GD&ĐT TP Cần Thơ công
bố: "Sau bốn năm bàn bạc giữa các cơ quan hữu quan và
được Thành ủy, Hội Đồng Nhân Dân (HĐND), UBND TP Cần
Thơ cho ý kiến, và chiếu theo Quyết định số 3178/QĐ-UBND phê
duyệt vào ngày 30/10/2014, sở đã chọn phương án xây mới
trường, với tổng kinh phí xây dựng 98 tỷ đồng. Chủ đầu
tư cũng đã ứng vốn 54,7 tỷ đồng để chuẩn bị xây
dựng và để có mặt bằng giao cho đơn vị thi công,
ngôi trường sẽ được đập bỏ vào ngày 20/7/2015".
- Tin tức này làm tôi bùi ngùi
xúc động, đã thúc đẩy tôi tìm mọi cách để
tạm ngưng kế họach đập bỏ này.
1. Yêu cầu Hội Khoa
Học Lịch Sử VN (KHLSVN) và Hội đồng Di sản Văn hóa VN can thiệp
Tôi trực tiếp trình bày sự việc
này với nhà sử học Dương Trung Quốc (Phó Chủ tịch Hội
Khoa Học Lịch sử Việt Nam) và Giáo sư Tiến sĩ Vũ Minh Giang (Phó
Giám Đốc Trường Đại Học Quốc gia Hà Nội kiêm Phó
Chủ Tịch Hội đồng Di sản Văn hóa Việt Nam).
- Vài ngày sau đó một đại diện của
Hội KHLSVN đã trình bày với lãnh đạo TP Cần Thơ, cho rằng
trường TH PTG/CVL không phải là di sản riêng của TP Cần Thơ mà
là một di sản cấp quốc gia, nên TP Cần Thơ cần xem xét lại
quyết định đập bỏ này.
-
Và trong một phiên họp định kỳ, Hội đồng Di sản Văn
hoá VN cũng có ý kiến thống nhứt là nên có phương
án trùng tu.
2.
Ý kiến phản biện của các Giáo sư Kiến trúc
Tiếp đến tôi đã tiếp xúc
với: Kiến trúc sư (KTS) Hoàng Đạo Kính, Ông là Giáo
sư Tiến sĩ trường (GSTS) Đại Học (ĐH) Kiến trúc
Hà Nội và KTS Trần văn Khải, là Phó Giáo sư Tiến sĩ
(PGSTS) trường ĐH Kiến Trúc và Trường ĐH Tôn Đức
Thắng TP Hồ Chí Minh yêu cầu hai vị này tham gia công tác phản
biện.
[* GSTS Hoàng Đạo Kính cũng
là thành viên của Nhóm các chuyên gia quốc tế Ba Lan, Ý,
Pháp, Anh và Việt Nam (Hoàng Đạo Kính, Đặng Văn Bài) đảm
trách công tác trùng tu Quần thể Tháp Chăm Mỹ Sơn, một
di tích văn hóa thế giới, thuộc xả Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam.
* PGSTS Trần Văn Khải
từng đọat giải thưởng kiến trúc và trùng tu ở ĐH Rotterdam,
The Netherlands].
- Trao đổi ý kiến với tôi, GS Hoàng Đạo
Kính đã nói:
"Thưa
anh,
Tôi xin chia xẻ tâm tư và nguyện vọng của các cựu
thầy cô và học sinh trường PTG/CVL. Tôi sẽ cố gắng
hết sức để góp phần giữ lại ngôi trường có học
hiệu này".
Và sau đó
trong một bài viết đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 09/7/2015, GS
Hoàng Đạo Kính đã nêu lên quan điểm "Không
việc gì phải tuyên án tử trường THPT Châu Văn Liêm"
và Ông tình nguyện làm cố vấn không công cho việc trùng
tu ngôi trường.
-
PGS Trần Văn Khải có bài viết cho rằng "Bảo tồn trường
Châu Văn Liêm là khả thi" trên báo Tuổi Trẻ ngày
14/7/2015 và đến ngày 24/7/2015, KTS Trần Văn Khải và đại diện
của Hội KHLSVN đi Cần Thơ khảo sát trường Châu Văn Liêm.
Ban tuyên giáo Thành ủy Cần Thơ đã trực tiếp hướng
dẫn đi thăm Trường. KTS Trần Văn Khải có ý kiến như sau:
"mặc dù trường đã có nhiều lần trùng tu, nhưng do
làm không đến nơi đến chốn nên xuống cấp nhiều, tuy
nhiên Trường có khả năng trùng tu được, vì đây
là công trình đơn giản chứ không phức tạp lắm". KTS
Trần Văn Khải cũng khẳng định với các vị của Ban tuyên
giáo là giữ nguyên ý kiến đã viết trên báo Tuổi
Trẻ trước đây.
Trong điện thư gởi cho tôi sau đó,
KTS Trần Văn Khải viết:
"Chào anh Vân,
Thành thật cám
ơn lại anh đã viết email cám ơn tôi. Tôi rất ít khi xuất
hiện trước công luận.........nhưng lần này tôi thấy bức xức
quá trước những quan niệm sai lầm rõ ràng và tai hại nên
nhận viết bài trên báo. Thật vui khi được nhiều người
hưởng ứng và xin cám ơn".
3. Đề nghị những giải
pháp trùng tu ngôi trường
Vì
trước đây Tòa Đại sứ Pháp đã tỏ ra quan tâm đến
ngôi trường nên một lần nữa vào ngày 19/7/2015 tôi gởi
đến Ông Đại sứ Jean Noel Poirier một bức thư yêu cầu nghiên
cứu, hỗ trợ về mặt kỹ thuật [kể cả tài chánh nếu
có thể] để cùng với các chuyên gia Việt Nam đề ra phương
án trùng tu, bảo tồn kiến trúc ngôi trường cổ ở Cần
Thơ mà Pháp đã xây dựng vào năm 1917.
Tôi đề nghị:
- toàn ngôi trường gồm 3 dãy lầu nên
gia cố, bảo quản và giữ lại như một di tích, còn trường
Châu Văn Liêm thì dời đi vĩnh viễn đến trường An Khánh
thay vì tạm thời như theo kế hoạch của sở GD&ĐT TP Cần Thơ
trước đây.
- hoặc trùng tu "một
khu vực giới hạn" gồm một dãy lầu và cái cổng
chánh (quay mặt ra đường Xô Viết Nghệ Tỉnh) để trở thành
một di tích.
Đề
nghị này cũng được chuyển đến TP Cần Thơ.
4. Cần Thơ định
đoạt số phận ngôi trường trăm tuổi
Ảnh mới chụp cuối tháng 4/2017: Dãy đầu
(đường Phan Thanh Giản) vẫn đứng vững sau khi các dãy khác
bị phá huỹ để trùng tu
- Ngày 16/3/2016 trong buổi hội thảo "Dự án trường
TH Phổ Thông Châu Văn Liêm", UBND TP Cần Thơ cho biết có mời
công ty kiến trúc Arep của Pháp khảo sát, tư vấn, và đơn
vị này đã đưa ra 3 phương án trùng tu, cải tạo. Nhưng
theo Ban Quản Lý Dự Án Xây dựng số 2-TP Cần Thơ thì cả
3 phương án đều có tổng mức đầu tư cao hơn xây mới, với nhiều loại vật liệu phải nhập khẩu.
Tin tức báo chí còn cho biết thêm là trong phần kết luận buổi
hội thảo, ông Lê Văn Tâm, Phó chủ tịch UBND TP Cần Thơ cho
biết, địa phương sẽ lựa chọn giữa hai phương án được
nhiều đại biểu đặt ra là: xây mới hoàn toàn hoặc
giữ một phần nhỏ để làm di tích.
- Hoang mang vì tin tức trên, nên ngày 26/4/2016 tôi đã điện
thoại về Cần Thơ hỏi thăm hai vị Phó Chủ tịch UBND TP Cần
Thơ về dự án xây dựng trường PTG/CVL, và được cho biết
"vì báo chí không nắm vững tình hình nên có những
thông tin thiếu chính xác; kế hoạch xây mới toàn trường
đã bị dẹp bỏ, và trường sẽ được trùng tu theo
một phương án phù hợp với điều kiện thực tiễn. Hiện
đang chờ chỉ thị của Thành Uỷ để thông qua quyết định
này ở HĐND trong khóa họp sắp tới".
- Ngày 22/7/2016, tại kỳ họp thứ hai HĐND TP Cần Thơ,
các đại biểu đã thông qua nghị quyết về xây dựng Trường
Trung Học Phổ Thông Châu Văn Liêm, theo phương án trùng tu kết
hợp với xây dựng mới theo kiến trúc cũ với tổng kinh phí
dự tính 105 tỉ đồng. Cụ thể là:
- trùng tu nâng cấp theo
hiện trạng và kiến trúc cũ của Pháp đối với dãy
nhà (giáp đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) và khối nhà hiệu
bộ (giáp phía góc đường Ngô Quyền và Trương Định)
-
xây dựng mới các khối còn lại theo kiến trúc cũ của Pháp.
- Thời
gian thi công từ tháng 02/2017 đến hết năm 2018.
- Quyết định này đúng với đề nghị
"Trùng tu một khu vực giới hạn" mà tôi đã
đưa ra trước đây, một phương án giữ được nét
kiến trúc cũ và đảm bảo an toàn. Đây là tin mừng
mà tôi đã mong đợi từ nhiều năm qua, và liền sau đó
tôi điện thoại cám ơn và gởi điện thư cho một vị
Phó Chủ tịch của UBND TP Cần Thơ ghi nhận thiện chí và tinh
thần cầu thị của giới hữu trách, đồng thời đưa ra 3
đề nghị như sau:
-
tận dụng các vật liệu còn nguyên vẹn của hai dãy lầu
được tháo dỡ vào công việc trùng tu
- thiết lập hồ sơ
xếp hạng dãy lầu quay mặt ra đường Xô Viết Nghệ Tỉnh
thành một di tích
-
dành khối nhà hiệu bộ làm Phòng Truyền thống .
- Sau đó tôi nhận được
điện thư phúc đáp có nội dung như sau:
"Kính chào TS Huỳnh Long Vân
Xin cám ơn và rất trân trọng những ý
kiến đề nghị của Ông. Thật sự tôi rất vui mừng khi biết
được việc quyết định phương án đã được
sự thống nhất đồng tình của cộng đồng đặc biệt
của những Cô Chú anh chị là cựu học sinh của Trường. Tôi
sẽ tiếp thu và lưu ý các đề nghị của Ông và sẽ
trưng cầu ý kiến góp ý trong quá trình triển khai thiết kế
chi tiết và thi công.
Kính chúc Ông và gia đình mọi
sự như ý và tiếp tục có nhiều đóng góp hữu ích.
Xin trân trọng cám ơn. Kính chào"
- Kết luận
- Là người dân đất
Nam kỳ Lục tỉnh, tôi rất hân hạnh và cảm kích được
tham gia phong trào vận động phục hồi danh dự cụ Phan Thanh Giản, vị
đại thần từng được vua ban thưởngchiếc kim khánh khắc
4 chữ "Liêm, Bình, Cần, Cán", một nhà trí thức yêu
nước thương dân nhưng cuối đời phải lâm vào cảnh
bế tắc trong bối cảnh gian truân và đau thương của đất
nước.
- Là một chs của ngôi
trường lớn nhứt Hậu giang, tôi hãnh diện và sung sướng được
đứng trong đại gia đình Phan Thanh Giản Cần Thơ, trong nghĩa Thầy
Trò, tình bằng hữu của những năm tháng dưới mái trường
thân yêu, góp phần vào công cuộc gìn giữ từ học hiệu
đến kiến trúc và những giá trị văn hóa - giáo dục
của ngôi trường mẹ, chiếc nôi của Viện Đại học Cần
Thơ.
- Trong hơn 10 năm qua, hiểu rõ
tiếng nói của mình không đủ trọng lượng, nhưng không
vì thế mà "trùm chăn bó gối". Được sự ủng
hộ nồng nhiệt của 3 vị GS cựu Hiệu trưởng, tôi đã chọn
con đường "đối thoại trực tiếp, thẳng thắn với giới
hữu trách trong nước" và đạt được những kết quả
nêu trên. Với một phần của ngôi trường được trùng
tu, tôi hy vọng trong tương lai sẽ nhìn thấy tên họ vị Tiến
sĩ Nho học đất Nam kỳ trong danh hiệu của di tích lịch sử này.
Trân trọng kính chào và kính chúc tất cả có được
những ngày họp mặt vui vẻ và nhiều ý nghĩa.
Nhìn
lại hơn 10 năm sinh hoạt:
Tập san Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai &
Cửu Long Úc Châu
là ‘nhịp cầu giữa quá khứ và hiện
tại'
* Ngọc
Hân, Đài VOA Washington
DC phỏng vấn TS HUỲNH LONG VÂN
Sinh
hoạt của cộng đồng Người Việt ở nước ngoài rất
đa dạng nhưng không phải tại đâu cũng có tổ chức nghiên
cứu văn hóa và đặc biệt là ấn phẩm nghiên cứu văn
hóa người Việt. Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu
Long và tập san nghiên cứu có thể là một ngoại lệ đáng
ghi nhận.
Chúng tôi thảo luận với
Chủ bút, Tiến sĩ Huỳnh Long Vân về nội dung của Tập
San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long, được xuất bản
và phát hành liên tục tại Sydney từ năm 2007.
Tiến sĩ Carl Thayer
trả lời phỏng vấn của Ngọc
Hân tại Hội Thảo Biển Đông
do Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng
Nai & Cửu Long tổ chức, Sydney 22-5-2011 (Photo:
TQL)
Ngọc Hân: Kính chào Tiến sĩ Huỳnh Long
Vân - Với tư cách là cựu chủ bút nhiều năm, xin Anh cho biết
Tập san Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long phản ảnh như
thế nào mục đích của tổ chức nghiên cứu?
Ts
Huỳnh Long Vân: "Thân chào
Cô Ngọc Hân và quí thính giả Đài VOA - Đài Tiếng
Nói Hoa Kỳ.
"Những bài vở đăng trong tập san Nghiên cứu
Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu phản ảnh đúng tôn
chỉ và mục đich của Nhóm đề ra với rất nhiều
bài viết về
- Xứ sở ở đồng bằng sông Cửu Long như Cần
Thơ qua mấy vần ca dao, Bạc Liêu quê hương tôi, các điạ
danh như Bến Tre, Saigon, Gia Định, Cao Lãnh, Vĩnh Long cũng được nhắc
đến qua những bài hồi ký;
- Tôn giáo đặc biệt của vùng đất
mới này như đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Bữu sơn Kỳ Hương;
- Nghệ
thuật thì có những bài viết về Ông Cao văn Lầu người
khai sinh ra bài vọng cổ, cải lương, hát bộ v.v.;
- Những nhân
vật đặc biệt của miền Nam như Ông Phan Thanh Giản, Petrus Trương
Vĩnh Ký, Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Lộc v.v.;
- Lịch sử khai phá
vùng đất phương Nam thì có những bài viết về Vương
quốc Phù Nam , vai trò của người Hoa trong việc sáng lập miền
Tây với công trình của Mặc Cửu, công lao của nhà Nguyễn
mở mang bờ cõi;
- Giáo dục thì có những bài viết nêu
lên những đặc tính ưu việt của nền giáo dục VNCH, cổ
vũ cho các chương trình dạy tiếng Việt cho con trẻ Việt Nam;
- Môi
trường thì không thiếu những bài vở nghiên cứu sâu rộng
về những ảnh hưởng của các đập thuỷ điện xây trên
dòng chính và biến đổi khí hậu trên sản xuất nông
ngư nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long".
Ngọc
Hân: Như Anh vừa trình bày, những bài
viết nầy nhìn về quá khứ lịch sử. Tập
san có nêu và thảo luận các vấn đề đương
đại mà Việt Nam và các nước trong Vùng đối
phó không Anh?
Ts Huỳnh Long Vân:
"Tuy nhiên nếu nhìn lại những sinh hoạt của Nhóm Nghiên Cứu
Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long trong thời gian qua, chúng ta có
thể nhận thấy là Nhóm không theo đuổi chiều hướng
"inwards looking" nghĩa chỉ nhìn về quá khứ, mà công việc
nghiên cứu đã được mở rộng, "có xưa phải có
nay" sinh hoạt của Nhóm trở nên linh động hơn, có nhiều quan
tâm đến tình hình đất nước. Nhóm Nghiên Cứu
Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long dần dần trở thành như
một tổ chức phi chánh quyền NGO và chương trình sinh hoạt ít
nhiều mang sắc thái của một tổ chức xã hội dân sự, mặc
dù những mục đích đề ra ban đầu vẫn được giữ
nguyên.
"Trong chiều hướng
mới này thì Nhóm đã làm những gì trong thời gian qua?
"Về
nhân sự: Ban điều hành của Nhóm không chỉ gồm những anh
em sinh ra ở vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh mà con được sự hợp tác
của những anh em sinh quán miền Bắc và miền Trung. Tác giả bài
vở là những học giả người Việt có quê quán từ Bắc
chí Nam và những thân hữu hiện sống ở Hoa Kỳ Canada, Anh Quốc,
Pháp, Đức v.v...
"Bài vở không chỉ nói về vùng đất
Nam Phần. Những bài viết và phát biểu trên các hệ thống
truyền thanh và truyền hình về môi trường, không chỉ chú
tâm đến sông Cửu Long mà còn bao gồm cả miền Trung và
miền Bắc như những tại họa gây nên bởi việc các đập
thủy điện ở miền Trung xả lũ, tình trạng sạt lở bờ
biển Việt Nam từ Bắc chí Nam, ảnh hưởng của Biến đổi
Khí hậu trên các châu thổ sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long.
"Những yếu kém trong nền giáo dục hiện tại
ở VN so với thời trước 1975.
"Tình trạng lệ thuộc của nền kinh
tế Việt Nam đối với Trung Quốc.
"Nghiên cứu về những ảnh hưởng
của hiệp ước TPP đối với kinh tế và tiến trình dân
chủ hoá ở Việt nam và của Thoả ước Paris về Biến đổi
Khí hậu đối với tình trạng ngập lụt vào mùa mưa
và ngập mặn vào mùa khô ở đồng bằng sông Cửu Long.
"Thêm
vào đó là những nghiên cứu về sự hình thành và
phát triển của cộng đồng người Việt ở Úc châu, về
tổ chức Phật giáo Việt Nam tại Úc".
Ngọc Hân: Trong
suốt 10 năm qua, có những dấu ấn nổi bật
nào đáng chú ý, thưa Anh?
Ts Huỳnh
Long Vân: Những hoạt động nổi bật gồm
những diễn tiến sau đây:
"Mỗi năm khi phát hành
tập san đều có những diễn giả có tầm vóc quốc tế
đến để thuyết trình và thảo luận về một đề tài
liên quan đến tình hình Việt Nam. Về diễn giả người Việt
trước hết là Ls Lưu Tường Quang, cựu Tổng Giám Đốc Hệ
thống Truyền Thanh đa ngôn ngữ Úc châu, cá nhân tôi, cựu
Thẩm phán Trương Minh Hoàng, Gs Ts Nguyễn Thanh Liêm, cựu Thứ Trưởng
Bộ Giáo dục VNCH, Gs Ts Nguyễn Viết Trương, cựu Khoa Trưởng Đại
học Nông học Cần Thơ kim cựu Phó Viện Trưởng VĐH Cần
Thơ. Về diễn giả ngoại quốc có Gs Ts Carl Thayer thuộc Học Viện
Quốc Phòng Úc Châu, Gs Ts Philip Hirsh, Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu Tài nguyên sông Mekong, Gs Ts Suiwah Leung, chuyên gia kinh tế Việt Nam
thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Úc Châu ANU và trong dịp
phát hành TS 11 sắp tới vào ngày 09/04/2017 Ts Trần Mỹ Vân, Viện
Đại học South Australia sẽ là diễn giả và trình bày đề
tài : "Phan Thanh Giản: 150 năm nhìn lại".
"Trong lãnh vực vận
động ngoại giao, Nhóm cũng đã nhiều lần tiếp xúc với
Bộ Ngoại giao Úc cũng như gởi những văn thư đến Ngoại
trưởng của các quốc gia tài trợ Ủy hội sông Mekong như Úc
Châu, Hoa Kỳ, Nhật Bản nêu lên mối quan tâm của chúng tôi
về những tác động tiêu cực của các đập thủy điện
xây trên dòng chính hạ lưu sông Mekong đối với sự phát
triển bền vững nông ngư nghiệp của đồng bằng sông Cửu
Long và yêu cầu có những biện pháp nhằm chận đứng
hay làm giảm bớt những tác hại về môi trường gây ra bởi
các đập thuỷ điện này.
"Và mới đây để đáp lại
lời kêu gọi của Bộ Ngoại Giao chánh phủ Liên bang Úc châu,
Nhóm cũng đã gởi Bản Văn đóng góp ý kiến trong việc
thiết lập chánh sách ngoại giao trong tương lai của Úc, đặc
biệt đối khu vực Á châu và Thái Bình Dương trong đó
có mối bang giao của Úc với Trung Quốc và Việt Nam
"Những
nét nổi bật đặc biệt trong sinh hoạt của Nhóm Nghiên Cứu
Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu sở dĩ đạt được,
trước tiên nhờ sự đồng tâm của tất cả thành viên
của Nhóm. Tuy nhiên bên cạnh đó là nhờ sự nhiệt tâm
và hỗ trợ đắc lực của một vài nhân vật nếu
chúng tôi không nêu ra ở đây thì quả là điều thiếu
sót to lớn và người mà tôi muốn nhắc đến là Ls Lưu
Tường Quang. Ngoài những đóng góp rất to lớn với khả
năng và kiến thức chuyên môn sâu rộng, Ls Lưu Tường Quang
còn tạo điều kiện để chúng tôi nhận được sự
hỗ trợ quý báu của các cơ quan truyền thông quốc tế -
trước hết phải nhắc đến Đài VOA và Thông Tín Viên
Ngọc Hân, kế đến Chương trình Việt Ngữ của đài
phát thanh quốc tế Pháp RFI, đài truyền thanh điạ phương
2VNR, và đài truyền hình VietFaceTV Úc Châu, đã giới thiệu
những sinh hoạt của Nhóm với khán thính giả Việt Nam trên toàn
cầu".
Hội thảo "40 Năm Nhìn Lại" (từ trái)
Ts Huỳnh Long Vân, Ls Lưu Tường Quang, Giáo sư Ts Carl
Thayer, Ls Nguyễn Văn Thân và cựu Thẩm Phán Trương
Minh Hoàng nhân Lễ Phát hành Tập san 9 Nghiên
Cứu Văn Hoá DN &CL tại Sydney ngày 12.04.2015 (Photo (c) Mã
G Tường)
Ngọc
Hân: Các diễn giả danh tiếng góp phần
vào chủ đề như thế nào, thưa Anh?
Ts Huỳnh Long Vân:
"Gs Ts Carl Thayer là chuyên gia hàng đầu thế giới về an ninh khu vực
Biển Đông, Á châu và Thái Bình Dương và có những
hiểu biết sâu rộng về tình hình chánh trị Việt Nam. Ông
đã hai lần tham dự lễ phát hành Tập San Nghiên cứu Văn
Hóa Đồng Nai & Cửu Long và lần lượt trình bày
về "Tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam,
Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei" và "Những tranh chấp trong
Nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam và Dự đoán về
thành phần của Bộ Chánh trị Việt Nam sau Đại Hội
12".
"Gs Ts Philip Hirsh là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên
sông Mekong AMRC, thuộc Đại học Sydney. Ông đã trình bày về
những tác động tiêu cực trên môi trường của các đập
thủy điện xây trên dòng chính hạ lưu Mekong và đề
nghị dùng những kinh nghiệm của Úc Châu trong việc quản lý
nguồn nước của hệ thống các sông Murray và Darling của Úc
để quản lý nguồn nước sông Mekong.
"Gs Ts Suiwah Leung là
Giáo Sư về Kinh tế của Học Viện Crawford về các Chánh sách
Công thuộc ANU. Gs Suiwah Leung, chuyên gia về Kinh tế Việt Nam, đã trình
bày về "Kinh tế vĩ mô của Việt Nam" nêu lên những sai
lầm nghiêm trọng và tình trạng tham nhũng trong việc thưc thi các
chánh sách kinh tế của Việt Nam, và đưa ra những thay đổi
cải tổ sâu rộng cần phải có trong các lãnh vực ngân hàng,
đầu tư, doanh nghiệp quốc doanh nếu Việt Nam muốn đạt
được những tăng trưởng bền vững".
Ngọc
Hân: Thưa Ts Huỳnh Long Vân - Nhìn về tương
lai, Nhóm Nghiên cứu và Tập san sẽ như thế nào trong
5 năm sắp tới?
Ts Huỳnh Long
Vân: "Chúng tôi đã sinh hoạt trong hơn
10 năm qua và đến ngày 9/04/2017 chúng tôi phát hành Tập
San 11 tức là 11 năm theo đuổi mục đích đề ra. Trong cuộc
sống bình thường, 11 năm là thời gian không quá dài cho một
sự nghiệp, nhưng vì hầu hết anh em chúng tôi đều, tóc không
phải điểm sương, mà đều đã trắng như hoa tuyết,
sống nay chết mai, nên trả lời câu hỏi về sinh hoạt của Nhóm
trong 5 năm sắp tới thì quả thật là điều khó khăn.
"Nói
thế nhưng ít nhiều chúng tôi cũng có một vài dự định:
- Sẽ cố gắng phát hành Tap San 12 và
sau đó tùy cơ ứng biến, có thể sẽ ngưng hình thức
in ấn phát hành Tập San hằng năm như hiện nay và bài vở
sẽ đưa lên website của Nhóm và trong khi đó hằng năm vẫn
tiếp tục tổ chức những buổi hội thảo thường lệ.
- Ước mong có sự tham gia và tiếp tay
của thành phần trẻ để tiếp nối con đướng chúng tôi
đề ra".
Ngọc Hân:
Xin cảm ơn Ts Huỳnh Long Vân.
* Ngọc Hân
tường trình Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA từ Sydney Australia.
(Nguồn:
Chương trình VOA lúc10 giờ tối Thứ Hai 20.03.2017)
_____________________________________________________________________________________
Phan Thanh Giản
và
việc mất 6 tỉnh Nam kỳ
Huỳnh Long Vân Ph.D
Phan Thanh Giản, có tên tự là Tịnh
Bá và Đạm Như, hán hiệu là Lương Khê và biệt
hiệu là Mai Xuyên, xuất thân trong một gia đình nghèo khổ,
tổ tiên từ Bình Định di cư vào đồng bằng sông Cửu
Long và trên quê hương mới cũng phải 3 lần thay đổi mới
định cư ở thôn Tân Thạnh, huyện Tân An, dinh Long Hồ
(sau là huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện
Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Cha làm Thủ hạp là một viên chức nhỏ,
bị tội oan phải tù 3 năm ở Vĩnh Long. Phan Thanh Giản mồ côi mẹ
từ lúc lên 7 tuổi, được mẹ kế và nhiều người
giúp đở cho ăn học thành tài. Năm 29 tuổi (1825) đậu cử
nhân ở Gia Định, năm sau (1826) đậu Tiến sĩ ở kỳ thị Hội
tại Kinh đô Huế và được triều đình bổ dụng ngay
sau đó. Vị Tiến sĩ Nho học đầu tiên và duy nhứt này
của đất Nam kỳ phụng sự 3 triều vua Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị
và Tự Đức nhưng trên đường quan lộ trải qua nhiều bước
thăng trầm, tột đỉnh vinh quang là Thượng Thư, thành viên
Viện Cơ Mật và tận cùng làm người quét dọn nơi công
quán.
Vua Minh Mạng khen ông là: "Người
ngay thẳng, quả cảm, học lực rộng và có biệt tài; ông
được vua Tự Đức ban thưởng chiếc kim khánh khắc bốn chữ
"Liêm-Bình-Cần-Cán". Đến khi ‘lão lai, tài tận"
Phan Thanh Giản vẫn được vua Tự Đức sử dụng.
Điều đau đớn là 41 năm (1826 đến
1867) Phan Thanh Thanh Giản phụng sự triều Nguyễn là giai đoạn đầy
biến động trên đất nước Đại Nam và cả thế giới.
Các quốc gia phương Tây đua nhau tràn sang phương Đông tìm
kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa, chiếm cứ đất đai
khai thác tài nguyên bản địa để phục vụ cho nền kỹ
nghệ chính quốc. Đặc biệt 5 năm cuối đời Phan Thanh Giản (1862-1867)
là thời gian đầy thách thức gây ra bởi hai biến cố có
tầm vóc quốc sự, tạo nên hoàn cảnh bế tắc khiến Ông
phải tuyệt mạng:
1.Trách nhiệm của Phan Thanh Giản trong việc
ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông
(Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và Côn Đảo, bồi
thường chiến phí 4 triệu đồng bạc trả trong 10 năm, chấp
thuận cho người Pháp và Tây Ban Nha được quyền tự do
truyền đạo và buôn bán.
2. Để mất
ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên năm 1867.
I.
Nội bộ triều Nguyễn dưới
thời Minh Mạng và Tự Đức.
Vua Gia Long là người rất thông minh, do được nhiều tướng
tá Tây phương giúp đánh Tây Sơn, nên có dịp thăm
dò chủ trương của Tây phương đối với các nước
lạc hậu thời bấy giờ. Thấy người da trắng ào ạt kéo
sang Á Đông vào cuối thế kỷ 18 và chiếm các nước
nhược tiểu như Ấn Độ, Nam Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai,
Miến Điện v.v.. làm thuộc địa, Gia Long hiểu rõ dã tâm
của Tây phương: áo dài thâm đi trước, binh lính thực
dân đi sau là hai hiện tượng gắn liền, khiến nhà vua hốt
hoảng, nên sau khi hạ được nhà Tây Sơn, Ông liền áp
dụng chánh sách bế quan tỏa cảng và sau đó đã tiểu
di cho Minh Mạng những thủ đoạn ghê gớm của đám "Bạch
Quỷ" để liệu bề đối phó trong tương lai.
Dưới triều Minh Mạng, Pháp hết nài nỉ
đến dọa nạt triều đình Huế để được tự do truyền
giáo, điều này không những không được triều đình
Huế chấp thuận mà các con chiên đạo Ki tô còn bị
đàn áp thẳng tay theo chủ trương cấm đạo của vua thế
tổ. Biết rõ sớm muộn Pháp cũng sẽ gây sự nên vua Minh Mạng
cử phái đoàn Tôn Thất Lương qua Paris và London nhằm xoa dịu
tình thế căng thẳng giữa Việt Nam với hai cường quốc Anh, Pháp,
nhưng trong khi sứ đoàn có mặt ở Pháp thì Hội truyền giáo
người Pháp và phái đoàn của điện Vatican đã ngấm
ngầm vận động với hai chánh phủ Anh, Pháp tẩy chay những
giao hảo với triều đình Huế; vì thế phái đoàn Tôn
Thất Lương không thể làm tròn sứ mạng được giao phó.
Đến đời Tự Đức, âm mưu
của thực dân càng trắng trợn hơn: tháng 4/1857 vua Napoleon III thiết
lập Ủy ban nghiên cứu các quốc gia Đông Dương và đến
tháng 05/1857 Ủy ban này trình lên nhà vua đề nghị mở cuốc
viễn chinh qua Việt Nam.
Vào tháng 11/1857 nhân cớ 2 giáo sĩ
người Tây Ban Nha bị hành quyết theo lệnh của vua Tự Đức
và việc sứ giả Charles de Montigny không thể làm áp lực lên
triều đình Huế, Hoàng đế Napoleon III ra lệnh cho Rigault de Genouilly
đem quân đánh phá Việt Nam và trừng phạt triều đình
Huế.
II. Mất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ và
Hòa ước Nhâm Tuất 1862
1. Quân lính Tây phương
đánh phá Việt Nam
Ngày
1/9/1858 Rigault de Genouilly với 15 chiến hạm, 1500 tên lính Tây và 850 tên
lính Phi Luật Tân, thuộc dân của Tây Ban Nha đánh vào cửa
Đà Nẵng. Vua Tự Đức cho hạ ban 2000 lính, cử Trần Hoàng,
Tổng đốc Nam Ngãi và Tham tán Đào Trí chỉ huy cuộc
chiến chống Pháp; sau đó lại cử thêm nhiều danh tướng, kể
cả Nguyễn Tri Phương là kỳ tướng nhất của triều đình,
tham gia chống giặc, nhưng quân ta bị đánh tan khắp nơi. Hai thành
An Hải và Điện Hải bị vây hãm, đồn Nại Hiện, Hóa
Quê cũng bị tấn công; tướng tá chết hằng loạt. Qua năm
1859, quân Pháp đánh đồn Hải Châu. Tướng Tống Phước
Minh và Nguyễn Duy cũng thua trận.
Với
những ưu thế về quân sự, Pháp buộc Việt Nam phải ký một
Hiệp ước cho phép được tự do truyền đạo Công giáo,
cho tàu thuyền Pháp vào buôn bán, nhường cho Pháp một vùng
đất hoặc Việt Nam phải chịu sự bảo hộ của Pháp. Nhưng
bị triều đình Huế một mực bác bỏ.
Sau đó quân Pháp phần bị dịch tả hoành
hành nặng nề, phần khác được tin có 10 ngàn dân quân
của triều đình trên đường từ Huế tiến vào Đà
Nẳng, nên De Grenouilly bỏ ý định tiến quân đánh chiếm Huế
và đưa đại bộ phận theo đường biển trực chỉ vào
Nam Kỳ với ý định đánh chiếm xứ này tạo thêm áp
lực với triều đình Huế. Đại tá Toyon và một số quân
lính được để lại ở Đà Nẳng.
Tháng 2/1859 Đô đốc Rigault de Genouilly đưa quân
đánh phá thành Gia Định. Từ ngày 9/02/1859 đến 17/02/1859 quân
hai bên giáp chiến, hỏa lực của địch rất mạnh, quân Việt
Nam thua tơi bời chạy tán loạn đi các tỉnh lận cận. Đề
đốc Võ Duy Ninh, Án sát Lê Từ tuẫn tiết. Trương Văn
Uyển Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long, Định Tường) đem quân
tiếp viện, thấy thành Gia định đã mất phải vội vàng
rút lui.
Sau khi thanh toán được
vị trí này Rigault giao thành cho Trung tá hải quân Jauréguibéry
rồi trở ra Trung kỳ một lần nữa đánh phá Đà Nẵng,
công hãm các đồn dễ dàng như những lần trước và
tiến quân đến đâu Nguyễn Tri Phương phải rút lui đến
đó. Qua một người Hoa làm môi giới, Rigault đề nghi mở
cuộc thương thuyết với triều đình Huế với 3 đòi hỏi
chủ yếu: tự do truyền đạo Công giáo, tàu thuyền Pháp được
tự do ra vào các cửa khẩu và nhượng cho Pháp một cửa
khẩu làm căn cứ. Việt Nam chỉ đồng ý cho tàu thuyền Pháp
ra vào buôn bán ở Đà Nẵng.
Đầu năm 1860 Đô Đốc Page thay thế De Grenouilly cũng yêu cầu
mở lại hòa đàm với đòi hỏi cho Công giáo được
phép truyền đạo và xin đặt 3 lãnh sự Pháp ở 3 cửa
khẩu, nơi tàu thuyền Pháp được ra vào buôn bán.
Triều đình Huế họp bá quan văn
võ tham khảo ý kiến về 3 điểm: hòa, thủ hay chiến.
Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế đứng
đầu phe chủ hòa, cho rằng cơ giới của địch quá mạnh,
ta không chống nổi, tuy nhiên hảy cố thủ đã rồi mới nghị
hòa để giảm bớt tham vọng của đối phương.
Một số đông khác còn nêu ra trường
hợp nhà Thanh bên Trung Quốc, cũng chịu thua bọn "Bạch Quỷ"
ở các thương cảng, nay ta còn kém Trung Quốc mà đo tài
thử sức với họ chưa chắc gì làm hơn được, nên
lấy cách chủ đải khách mà đối phó là tốt hơn
cả, nghĩa là thi hành kế trì cửu rồi tùy cơ ứng biến
sau.
Một nhóm khác trái lại chủ
trương Công hơn Hòa. Đứng đầu có Tô Linh, Phạm Hữu
Nghị, Hồ Sĩ Thuần...
Vua Tự Đức
trước sự bối rối của các đình thần, kẻ chẳng người
chuộc, hạ chiếu trưng cầu ý kiến toàn quốc, quan từ tri huyện
trở lên, đại chúng thì đủ mặt sắc dân, rồi cũng
chẳng ai nghĩ được phương lược giá trị nào. Thế
rồi Nguyễn Tri Phương được vua cử đứng ra thương thuyết,
trách Pháp đưa ra quá nhiều yêu sách và phía Việt Nam
chỉ đồng ý cho tàu Pháp thông thương buôn bán, không
cho đặt lãnh sự, còn Công giáo thì ai đã trót theo đạo
thì được giữ đạo nhưng không được nhận thêm
tân tòng. Cuộc thương thuyêt kéo dài trong 3 tháng nhưng không
mang lại môt kết quả nào.
Đầu
năm 1861 sau khi chiến tranh ở Trung Quốc chấm dứt, Đô Đốc Charner
gom quân vào Việt Nam, đánh chiếm thêm một số đồn
lủy và tỉnh thành: triệt hạ đồn Chí Hoà (Pháp gọi
là đồn Kỳ Hòa) sau hai ngày tấn công (24-25/2/1861), thành Mỹ
Tho sau 12 ngày (1-12/04/1861). Lúc này điều kiện hòa đàm của
Pháp còn nặng nề hơn, ngoài việc yêu cầu được tự
do truyền đạo Công giáo và thông thương buôn bán, còn
đòi nhượng cho họ toàn bộ các tỉnh Gia Định, Mỹ
Tho, Thủ Dầu Một, kèm thêm 4 triệu đồng bạc bồi thường
chiến phí. Việt Nam bác bỏ cả hai yêu sách.
Ngày 29/11/1861 Bonard thay thế Charner, một mặt củng cố các
vị trí đã chiếm được và mặt khác mở rộng khu
vực chiếm đóng: chiếm thêm Biên Hòa vào ngày 16/12/1861, Bà
Rịa ngày 7/01/1862 và Vĩnh Long ngày 22/03/1862.
Đến thời điểm này Pháp không còn nghĩ tới
thương thuyết nữa, nhưng tàu Forbin, trong lúc đi tuần tiểu chặn
đường tiếp tế lương thực của Việt Nam, đã ghé Thuận
An vào tháng 04/1862 và đột nhiên nhận được thư của
triều đình Huế đề nghị mở cuộc hoà đàm. Được
tin tức do tàu Forbin mang về, Bonard lập tức cho tàu Forbin trở lại Thuận
An mang theo 2 điều kiện tiên quyết là Huế phải ứng trước
100 ngàn quan cho tiền bồi thường chiến tranh và cử ngay Đặc sứ
toàn quyền theo tàu Forbin vào Sài Gòn bắt đầu thương
thuyết. Triều đình Huế ưng thuận
2. Lý do triều đình
Huế muốn hòa đàm
Có
nhận định cho rằng vua Tự Đức và triều đình Huế, đột
nhiên muốn hòa đàm vớí Pháp vào thời điểm này,
vì triều đình muốn được rảnh tay ở phía Nam để
đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở miền Bắc, vì dưới
thời nhà Nguyễn, ở Bắc kỳ thường xảy ra lụt lội, mất
mùa sanh ra cướp bóc và bất ổn. Từ đầu triều Tự Đức
đến năm 1862 có hơn 40 cuộc nổi dây, dưới danh nghĩa phù
Lê, hay của một số giáo dân được các thừa sai Pháp
và Tây Ban Nha ủng hộ, đặc biệt là nhóm do chủng sinh
Lê Duy Phụng cầm đầu được Cố Trường làm quân sư.
Thực ra các toán nổi dậy này trang bị thô sơ không phải
là những địch thủ đáng sợ của quân triều đình,
nên hòa đàm với Pháp không để dẹp loạn phía Bắc
mà chính là để triều đình được tồn tại. Phú
Xuân sống nhờ lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng
đường tiếp tế lúa gạo bằng đường biển từ miền
Nam ra Huế hoàn toàn bi phong tỏa bởi tàu của Pháp theo chiến lược
của Đô đốc Charner nên Huế buộc lòng phải ngồi vào
bàn thương thuyết.
3.
Hòa ước Nhâm Tuất 1862
Vua Tự Đức hạ chiếu cử Phan Thanh Giản làm Chánh sứ
toàn quyền đại thần và Lâm Duy Hiệp làm Phó sứ. Theo
Đại Nam Thực lục chánh biên đệ tứ kỷ thì
trước khi các sứ giả vào Nam điều đình, vua tự Đức
cho triều thần bàn định từng điểm đề nghị của Pháp
làm chuẩn để các sứ giả tuân theo. Bản phúc tâu của
triều thần viết "Kẻ kia (Charner) trước có xin giao hết cả
tỉnh thành và đất phụ thuộc của Gia Định, Định Tường
và đóng quân ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Nay bọn kia tất
không khỏi cố ý yêu cầu cắt đất Biên Hòa, Vĩnh Long
giao cho họ để mong cho hòa ước cũ tất phải thành. Nay vâng
xét nghĩ: ở Gia Định từ thành cũ, kẻ kia đã lập đồn
để đóng và địa giới ở ven sông hai huyện Tân An, Cửa
An thuộc hạt ấy, một số vùng ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa
và đất phụ cận ở ngoài thành tỉnh Định Tường,
nghĩ hãy tạm cho bọn kia quản nhận cư trú; còn điạ phận
các hạt khác cùng là toàn hạt tỉnh Vĩnh Long, đều nên
giao trả về nước ta quản trị..."
Vua phê bảo rằng "Khoản đạo Gia Tô công hành,
quyền không cho được, nếu bất đắc dĩ thì bắt giáo
sĩ đó phải trình các chỗ, như ở Nam kỳ thì cho ở
Gia Định, Bắc kỳ thì cho ở Nam Định hoặc Hải Dương. Hai
khoản nói "người Tây được qua lại trong toàn quốc; "đặt
quan ở Kinh" cũng quyền không cho được.Ở các hạt Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa, chỉ cho họ ở một đôi chỗ
để buôn bán nếu không thuận thỉ chỉ chuộc lại mà
thôi. Khoản người Y Pha Nho xin ở và đánh thuế, nên bác....
"
Đại Nam thực lục đệ
tứ kỷ viết tiếp:
Khi các
sứ giả vào bái biệt, vua Tự Đức ban ngự tửu và dặn
dò ân cần: "Nước đang lâm vào hồi nguy cấp, phải
nhờ những nhà lão luyện, đem hết tài năng, giữ cho được
biên cương: công ấy cao hơn Lạn Tương Như đã đem ngọc
Biện Hòa về cho nước Triệu".
Ngày 15/05/1862, sứ giả Việt Nam xuống tàu Hải Bằng, từ Huế
đến cửa Hàn (Đà Nẵng) rồi theo tàu biển Đoan Loan nhờ
tàu Forbin kéo vào Gia Định. Tới nơi ngày 26/05/1862.
Theo
phúc tấu của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp gởi triều đình
Huế, ngay sau khi ký kết Hòa ước, thì chỉ có một cuộc
họp chung giữa Bonard và Palanca với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp vào
ngày 29/05/1862 trong buổi lễ kiểm tra thư ủy quyền của đại diện
các bên. Từ 30/05/1862 đến 02/06/1862, trong bốn ngày, là những cuộc
trao đổi giữa các sứ giả của triều đình Huế và Aubaret
với một thông dịch viên người Hoa, Lý Liên Phương. Thoạt
đầu phía Pháp đưa ra bản dự thảo gồm 8 khoản, trong đó
có 2 khoản bắt Việt Nam phải trả 5 triệu đồng bạc tiền bồi
thường chiến tranh và nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ; phía Việt
Nam không chấp nhận. Sau đó Pháp đưa ra đề nghị bồi
thường 4 triệu thay vì 5 triệu và nhường 4 tỉnh thay vì 6; phía
Việt Nam cũng không chấp nhận. Cuối cùng sau vài ngày bàn cải,
Pháp đồng ý trả lại Vĩnh Long và đảo Phú Quốc.
Hòa ước gồm 12 khoản, được
ký kết trên soái hạm Dupersé giữa đại diện 3 nước
vào ngày 05/06/1862.
Bản phúc tấu
của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp còn cho biết "Đối với
các nhận xét của thần đẳng về khoản liên quan đến
"tự do tôn giáo", ông Aubaret quyết liệt phản bác. Nhận
thấy tính tình của viên chỉ huy là người cương trực
nhưng nóng nảy, đã thay đổi những điều có thể được
trong bản hoà ước, thần đẳng thấy không được phép
kéo dài thêm các cuộc thảo luận sợ làm hỏng việc hòa
đàm và gây thêm rắc rối, thần đẳng đã ký tên
vào bản hòa ước ".
Đại
cương, Pháp hưởng mọi quyền lợi, Y Pha Nho chỉ hưởng quyền
truyền giáo, thương mại hạn chế và một phần tiền bồi
thường chiến phí. Vài điều khoản quan trọng của Hòa ước
như:
- Khoản 2. Người
Pháp và Y Pha Nho được tự do giảng đạo Gia Tô.
- Khoản 3. Nhường cho Pháp Biên
Hoà, Định Tường và Gia Định, đảo Côn Lôn. Người
Pháp được tự do đi lại trên sông Nam kỳ.
- Khoản 5. Người Pháp và Y Pha Nho
được buôn bán ở Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên.
- Khoản 8. Đại Nam phải trả
4 triệu đồng chiến phí trong hạn 10 năm.
Hai hôm sau, sứ bộ Việt Nam rời Sài Gòn về Huế,
tới nơi ngày 10/06/1862.
Khi sứ giả tâu bày kết quả lên
vua Tự Đức, nhà vua than rằng: "Ôi con dân mấy triệu! Tội
gì đến thế! Đau lòng thay! Hai ngươi không chỉ là tội
nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời
nữa".
Vua Tự Đức bất bình
muốn trì hoãn việc phê chuẩn Hòa ước, nhưng Bonard không
ưng thuận và sau cùng lễ hỗ giao Hòa ước được tổ
chức vào ngày 14/04/1863 tại điện Thái Hoà.
Sau đó vì đình thần chủ trương: "Việc
nhường đất bồi tiền như thế không hợp, nhưng điều
ước mới định mà cải nghị ngay, vị tất họ không chịu,
vậy xin chi 2 sứ thần đến ở gần, từ thương chước để
chuộc lỗi trước, rổi sẽ sai sứ thông vấn, tùy cơ chước
nghị" nên Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản làm Tổng đốc
Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp làm Tuần vũ Thuận Khánh để tiện việc
giao thiệp với Pháp.
III. Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp và Y Pha Nho
Sau ngày Hòa ước Nhâm Tuất được
ký kết, vua Tự Đức vẫn lo lắng tìm cách chuộc lại phần
đất đã mất vì Gia Định là quê hương của Từ
Dũ Thái hậu và Nam kỳ là đất khai cơ của nhà Nguyễn.
Điều đình với soái phủ Pháp
ở Sài Gòn thất bại, nên triều đình Huế quyết định
gởi sứ bộ sang Pháp và Y Pha Nho để thương thuyết. Phan Thanh Giản
được cử làm Chánh sứ và Phạm Phú Thứ làm Phó
sứ. Ngày 21/06/1863, trước khi sứ bộ ra đi, vua Tự Đức đã
dặn dò Phan Thanh Giản như sau:
- "Ta
nhất sơ thông sứ để mưu chuộc đất, ý quan Pháp thế
nào?"
- "Ý họ thế
nào tôi chưa biết rõ, nhưng gấp quá e chưa tất được."
- "Vậy thì sai sứ đi có ích
chi? Phan Thanh Giản còn không biết rõ huống hồ người khác.
Các ngươi đi chuyến này liệu nói thế nào cho được,
nếu không nghe, nên lưu lại cố nói, sao cho động lòng họ,
chứ đi không về rồi hoặc bỏ mạng không về thì có
ích lợi gì cho nước?"
Vua
Tự Đức hỏi thêm:
- "Trước
kia ngươi bỏ Nam kỳ chắc là có cân nhắc, vậy ngươi còn
có ý gì nữa không?"
-
"Xem kỹ thời thế, không thế không được. Tôi nay phụng
mệnh đi sứ, xong việc hay không còn tùy được ở hai nước.
Tôi chỉ biết hết lòng hết sức mà thôi."
Vua Tự Đức cảm động không cầm được
nước mắt khi bảo các quan:
- "Đất
đai ấy, nhân dân ấy của tiền triều mở mang, nhóm họp để
lại, nay các ngươi phải đồng tâm lo liệu sao cho ta khỏi hổ
thẹn, khỏi lo lắng."
Rồi vua
dặn dò sứ thần:
- "Quốc
thư phải đưa cho đến nơi, đừng để các quan đương
sự ngăn đón, đừng chuyên tin lời người thông ngôn
v.v.. Sứ thần là người thay mặt vua, đừng lạy mà nhục
quốc thể".
Khi tiển chân ra
cửa điện, vua còn hỏi thêm Phan Thanh Giản:
- "Nếu người ta không cho chuộc thì ngươi có
cách gì đối phó không? "
Phan Thanh Giản tâu:
- "Tôi
xin nhận chân sứ mạng, dầu cuộc đàm phán bị bế tắc,
thì lũ tôi có thể duy trì mối tình thân thiện, để
nuôi hy vọng về tương lai; nếu có thể "đem ngói đổi
vàng" thì lúc nào lũ tôi cũng sẵn sàng, ngoài ra lũ
tôi không có cách gì khác".
Vua Tự Đức vỗ vai Phan Thanh Giản và nói:
- " Ngươi đã chịu hy sinh trước sứ
mạng, thì ta cũng chắc được khỏi tội với đời sau; đất
3 tỉnh là xương máu của dân, chuộc lại là chuộc tội
cho ta, để cho dân thỏa lòng nguyện vọng".
Sứ bộ tới Paris ngày 13/09/1863 và đến ngày 07/11/1863
vào bệ kiến Napoleon III tại điện Tuileries. Phan Thanh Giản đệ trình
quốc thư lên Napoleon III và trình bày mục đích của sứ
bộ là xin chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ.
Vài hôm sau, Bộ Ngoại giao Pháp mời sứ bộ tới,
hứa sẽ nghiên cứu rồi sửa lại Hòa ước 1862, và sau đó
sẽ ký kết một hòa ước khác. Phan Thanh Giản cũng tuyên
bố đại lược rằng: "Sứ bộ Việt Nam xin chuộc 3 tỉnh
miền Đông và Việt Nam sẽ trả mỗi năm 2 hay 3 triệu vô hạn
định hoặc sẽ trả 40 triệu trong 1 lần. Người Pháp có quyền
cư trú tại 3 hải cảng của Việt Nam và tự do thương mại,
đồng thời Việt Nam sẽ nhượng cho Pháp hải cảng Sài Gòn".
Chánh phủ Pháp chấp thuận việc sửa
đổi Hòa ước 1862, soạn ra một bản dự thảo mới và trao
cho sứ bộ Việt Nam trước khi đoàn lên đường sang Y Pha Nho.
Sau khi xong việc sứ bộ về đến Việt
Nam ngày 21/03/1864, Phan Thanh Giản tường trình kết quả lên vua Tự
Đức. Vua Tự Đức và triều thần đều vui mừng và tán
thưởng công lao của sứ bộ. Vua Tự Đức bèn phong Phan Thanh Giản
lúc ấy đã 68 tuổi làm Thương thư bộ Lại như cũ.
Sau đó không lâu, Aubaret đại diện
cho Pháp tới Huế ký với Phan Thanh Giản một hòa ước mới
vào ngày 17/07/1864, trong đó Pháp sẽ trả 3 tỉnh miền Đông
cho Việt Nam.
Tuy nhiên không khí hân
hoan mừng vui ở triều đình Huế không kéo dài được
bao lâu vì phe nhóm thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa, đứng
đầu là Chasseloup Laubat, Bonard, De la Grandière đã ráo riết vận
động chống lại việc cho chuộc đất. Tháng 11/1864 Chasseloup Laubat đệ
trình lên Napoleon III bản phúc trình, dưạ theo quan điểm của
De la Grandière và đặc tính trù phú của vùng đất Nam
kỳ, kịch liệt chỉ trích ý kiến chiếm đóng thu hẹp ở
Nam kỳ và khuyến nghị giữ nguyên Hòa ước 1862. Và theo đó
Napoleon quyết định không cho chuộc đất, điều này khiến vua
tự Đức tức giận và Phan Thanh Giản lại một lần nữa bị
cách lưu.
IV. Pháp chiếm 3 tỉnh
miền Tây và Phan Thanh Giản tuẫn tiết
Sau khi hòa ước Aubaret bị bãi bỏ, ở ba tỉnh miền
Tây nghĩa quân ta đánh phá khắp nơi; thế là người
Pháp tính ngay đến việc chiếm nốt những tỉnh này để
hoàn tất việc thôn tính và bình định toàn bộ Nam kỳ.
Biết được âm mưu của địch, Tổng đốc Vĩnh Long là
Trương Văn Uyển mật tâu về triều đình. Tự Đức muốn
cử một người được Pháp tin phục vào Nam để đối
phó với bọn chúng, nên theo đề cử của Đoàn Thọ
và Trần Tiển Thành, bèn tha tội cách lưu và phong cho Phan Thanh
Giản hàm Hiệp biện Đại học sĩ Hộ bộ Thượng thư,
sung Kinh lược sứ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Nhưng Phan Thanh Giản
dâng sớ xin từ khước sự khai phục [vì trước đó không
lâu có lẽ vì quá chán nản và mệt mỏi lắm rồi
nên Phan Thanh Giản đã dâng sớ xin về hưu, nhưng bị Tự Đức
khước từ].
Buộc lòng phải
nhận một sứ mạng vô cùng khó khăn, nên trước khi ra đi
Phan Thanh Giản tâu rằng chủ trương của ông là hành xử đúng
theo tinh thần Hòa ước Nhâm Tuất 1862.Tự Đức cũng ngỏ ý
"muốn hòa bình cho dân tộc được yên ổn, nhưng không
nên vì lẽ ấy mà khuất phục tình hình một cách thụ
động".
Trong khi ở Vĩnh Long,
ngoài việc phải xoa dịu Pháp về sự đánh phá của nghĩa
quân, Phan Thanh Giản còn thương thuyết với họ về yêu sách
đòi nốt 3 tỉnh miền Tây.
Năm
1866 trước những khó khăn ở Nam kỳ, Phan Thanh Giản lại dâng sớ
xin hưu trí, viện lẽ tuổi già sức yếu không đảm đương
được việc lớn; nhưng một lần nữa không được Tự
Đức chấp thuận.
Trong khi đó
về phía Pháp, được sự đồng ý của tân Tổng trường
Hải quân và Thuộc điạ Rigault de Genouilly nên De la Grandière thảo
kế hoạch hành quân, quyết định vào mùa mưa, sẽ dùng
đường thủy mở cuộc tấn công đánh chiếm 3 tỉnh miền
Tây.
Ngày 15/06/1867 De la Grandière rời
Sài Gòn xuống Vĩnh Long với 17 chiến hạm. Nửa đêm 19/06/1867 hạm
đội tới Vĩnh Long. Theo báo cáo của Tổng đốc Trương Văn
Uyển thì sáng hôm sau De la Grandière cho viên quan ba hải quân cùng
với tên Cố Trường vào thành đưa phong thư và mời tỉnh
quan xuống tàu nói chuyện. Trong thư đại ý nói rằng: "Viên
quan Tây thấy bọn giặc quấy rối lâu nay phần nhiều là dân
của tỉnh Châu Đốc, nay y muốn quí quốc nhường lại ba tỉnh
miền Tây để y kiểm soát thì chúng không dám quấy rối
như xưa". Xem xong thư, Tổng đốc Trương Văn Uyển và
các tỉnh quan cùng nhau thương nghị và sau đó Kinh lược
sứ Phan Thanh Giản và Án sát Võ Doãn Thanh theo bọn chúng xuống
soái hạm cố biện thuyết, trách Pháp đã vịn vào cớ
nhỏ mọn mà đã vội làm thương tổn đến đại
nghĩa v.v.. nhưng De la Grandière trả lời rằng: "Hổn ý thế
nào, đã nói trong bức thư" và ra lệnh cho Phan Thanh Giản
phải nộp thành trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Cuối cùng, khi không
còn gì để thương thuyết, Phan Thanh Giản và Võ Doãn Thanh
trở về thành, thì quân lính Pháp với súng ống vào
theo: khi thấy quan Kinh lược là người có quyền hành cao nhứt
trở về và không biết kết quả cuộc thương thảo ra sao, các
quan đầu tỉnh của Vĩnh Long như Tổng đốc Trương Văn Uyển,
Bố chánh Nguyễn Văn Nhã, Lãnh binh Huỳnh Chiêu không biết làm
gì và muốn làm gì cũng trở tay không kịp. Thế là thành
Vĩnh Long bị quân Pháp chiếm. Phan Thanh Giản yêu cầu Pháp đừng
nhiễu hại dân và tiền lúa trong kho vẫn do Việt Nam nắm giữ.
Sau đó Phan Thanh Giản lấy tiền lúa nộp cho Pháp để thanh toán
một phần tiền bồi thường năm đó.
Sau khi đã làm chủ thành Vĩnh Long, De La Grandière đã
ép buộc Kinh lược sứ Phan Thanh Giản viết thư bắt quan chức hai
tỉnh Châu Đốc và Hà Tiên phải đầu hàng. Phan Thanh Giản
đã viết bức thư thông báo về tình hình ở Vĩnh Long,
nhưng De la Grandière dùng bức thư có dấu ấn và với mưu
kế gian xảo chiếm nốt Châu Đốc ngày 21/06/1867 và Hà Tiên
3 hôm sau đó mà không tốn một viên đạn.
Sau khi mất thành Vĩnh Long, Phan thanh Giản ra tạm trú ở
một ngôi nhà tranh ở ngoại ô Vĩnh Long và vào ngày 08/07/1867,
Phan Thanh Giản viết một lá sớ gửi lên vua Tự Đức, nội dung
như sau:
" Nay gặp thời gian bĩ,
việc dữ khởi ở trong cõi, khí xấu xuất hiện ở biên thùy;
việc cõi Nam kỳ, một chốc đến thế này, không thể ngăn
cản nổi, nghĩa tôi đáng chết, không dám sống cẩu thả
để cái nhục lại cho quân phụ. Đức hoàng thượng rộng
xét xưa nay, biết rõ trị loạn: người thân kẻ hiền trong
nước cùng lòng giúp đỡ, kình cẩn phép trời, thương
người cùng khổ, lo trước tính sau, đổi dây thay bánh, thể
lực còn có thể gì làm được.Tôi tới lúc tát
nghỉ, nghẹn ngào không biết nói sao, chỉ gạt nước mắt tỏ
lòng quyến luyến, trông mong khôn xiết".
Sau đó ông xếp triều phục, ấn triện, 23 đạo
bằng sắc được cấp thưởng từ khi làm quan, kèm với lá
sớ trao cho một người đem ra Huế. Con cháu được gọi tới
đông đủ, Phan Thanh Giản bắt đầu tuyệt thực ngày 19/07/1867.
Bình tĩnh và sáng suốt Ông khuyên con cháu nên lo học hành,
không được làm việc cho Pháp và căn dặn lo liệu tang ma
cho ông thật giản dị và di bút: "Minh tỉnh thỉnh tỉnh, nhược
vô ứng thư. Đại Nam hải nhai lão thư sanh tánh Phan chi cữu, diệc
dĩ thứ chi mộ", nghĩa là "tấm minh tinh xin bỏ đi, nếu
không thì ghi: cái cữu của người học trò già họ Phan
ở góc bể nước Đại Nam, mộ chí cũng để như thế"
đồng thời ông còn làm mấy vần thơ tuyệt mạng:
Thời trời, lợi đất, lại người
hòa,
Há dễ ngồi coi phải
nói ra,
Lăm trả ơn vua đền
nợ nước,
Đành cam gánh
nặng ruổi đường xa.
Lên
ghềnh xuống thác thương con trẻ,
Vượt biển trèo non cám phận già,
Những tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!
Không chết sau 15 ngày tuyệt thực, Phan Thanh
Giản quyết định uống dấm thanh hòa với thuốc phiện chấm
dứt cuộc đời và thi hài của ông được con cháu đưa
về an táng tại làng Bảo Thạnh theo như ý muốn của người.
V. Vụ án Phan Thanh Giản và các các quan chức ở sáu tỉnh
Nam kỳ.
Tháng 9/1867 Nguyễn
Tri Phương và Vũ Trọng Bình tâu xin xét xử Phan Thanh Giản và
các tỉnh thần ba tỉnh miền Tây Nam kỳ đã không biết chống
giữ.
Nhưng ngày 24/10/1867, vua Tự Đức
xuống chiếu truyền truy cứu trách nhiệm của tất cả những quan
chức liên quan đến việc làm mất sáu tỉnh Nam kỳ, từ Nguyễn
Tri Phương, Tôn Thất Cáp, Phạm Thế Hiển, cho tới Phan Thanh Giản,
Lâm Duy Thiếp và các quan chức của ba tỉnh miến Tây Nam kỳ.
Dụ rằng: "sáu tỉnh Nam kỳ bị
mất, bọn Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thiệp, Phạm Thế Hiển,
Nguyễn Bá Nghi đánh giá bất lực để mất nước; Phan
Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp nghị hòa bỏ mất, hỏng ở quảng giữa;
kế tiếp lũ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản vâng
mệnh đi sứ lại không được công trạng gì bỏ mất
ở sau; từ đấy về sau lũ Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn
Huy Cơ, Trần Hoán nhân câu thả hèn kém, mất ở sau cùng,
giao nghị xử ngay chờ chỉ quyết định..."
Tháng 4/1868, Cơ Mật Viện và đình thần đem
vụ án ra xét xử, chủ yếu là Phan Thanh Giản và các quan chức
ở Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên.
Đầu năm 1869, nhà vua cho công bố bản án của tất
cả các quan lại liên quan đến việc mất sáu tỉnh Nam kỳ
từ Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Bá Nghi cho tới lãnh
binh các tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên đều bị giáng
chức hoặc tù đày. Riêng "nguyên Hiệp biện Đại học
sĩ lãnh Kinh lược sứ Phan Thanh Giản trước đã cùng Lâm
Duy Thiếp sơ suất định hòa ước, đem ba tỉnh Định, Biên,
Tường khinh thường cho người; sau sung Kinh lược sứ lại để
lở cơ hội, nên các tỉnh Long-Giang-Hà đều mất. Hai tội đều
nặng, tuy sau khi việc đã rồi, chết cũng chưa đủ che được
tội. Vậy Phan Thanh Giản cho cùng với Lâm Duy Thiếp đã quá cố
đều tước bỏ chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến
sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu. Giết kẻ đã chết
để răn về sau..."
VI. Kết tội Phan Thanh Giản: bản án bất công và oan nghiệt
Tại đồn Chí Hoà vua Tự Đức
phong cho Nguyễn Tri Phương chức Tổng thống quân vụ đại thần,
nghĩa là được quyền thay vua điều hành mọi việc để
giữ thành Gia Định. Nguyễn Tri Phương có gần một năm để
điều động mấy vạn dân binh tu bổ thành theo ý mình. Tiền
muôn bạc trượng đã dồn vào thành này! Thử hỏi hai
vị Tổng thống quân vụ và "phó vương" đại thần
này đã giữ thành được bao lâu?
"2 ngày rưỡi"!
Nguyễn Duy, em ruột bị tử trận. Phạm Thế Hiển bị thương.
Rồi chính Nguyễn Tri Phương cũng bị trúng đạn. Quân lính
Đại Nam dù dũng cảm, quyết tử cũng không sao chống lại giặc
Tây Dương.
Mất Gia Định và
mất luôn 3 tỉnh miền Đông thêm cả Vĩnh Long, một tỉnh miền
Tây. Vua Tự Đức thảng thốt kêu lên giữa đình thần:
"Tội để mất Gia Định
thành trước hết thuộc Nguyễn Tri Phương và tội này phải
chịu xử trảm".
Trên chiến
trường đã như thế, thì không thể nào một nhà ngoại
giao có thể thay đổi được tình thế.
Cuối năm 1861, Charner đòi cắt toàn tỉnh Gia Định,
một phần Định Tường xung quanh Mỹ Tho và Thủ Dầu Một trong
tỉnh Biên Hòa, nhưng triều đình Huế bác bỏ. Là người
Việt Nam có lương tri không ai muốn cắt đất nhường cho Pháp
nhưng trước tình thế nguy ngập vào đầu năm 1862, nếu muốn
hòa hoãn với Pháp, thì không thể nào không nhượng bộ.
Trong bản phúc tấu của triều thần, việc cắt nhượng đất
theo như đòi hỏi trước của Charner được coi là không
thể tránh. Ngoài ra nếu Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp ký hòa
ước nhượng đất cho Pháp trái ý với triều đình
là phạm tội lớn, đáng chém đầu thì chữ ký phải
bị triều đình phủ nhận và hòa ước không được
Tự Đức phê chuẩn. Nhưng hai chánh và phó sứ chỉ bị
khiển trách nhẹ nhàng là "phần nhiều chưa phù hợp",
xếp đặt chưa giỏi và vẫn được thăng quan tiến chức,
tiếp tục được giao phó cho những trọng trách giao thiệp với
Pháp: Ông chánh làm Tổng đốc và Ông phó làm Tuần
vũ tỉnh Vĩnh Long và năm 1863 chính Tự Đức đã phê chuẩn
hòa ước, làm lễ đại triều ở điện Thái Hòa tiếp
sứ thần hai nước Pháp, Y Pha Nho để trao đổi văn bản hòa
ước.
Dẩu sao trong Hòa ước
Nhâm Tuất 1862, Phan Thanh Giản đã đòi lại được tỉnh
Vĩnh Long. Trong cái thế chiến trường tan nát đó thì việc
dành lại được một tỉnh Vĩnh Long cũng là một thắng lợi,
tuy khiêm nhượng. Và kết quả đó là nguyên do của cuộc
đi sứ sang Pháp và Y Pha Nho của phái bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú
Thứ, Ngụy Khắc Đản. Trong hoàn cảnh khó khăn về tài chánh
của chánh phủ Pháp, Phan Thanh Giản đã làm được một
việc: thuyết phục được vua Napoleon III chấp nhận cho triều đình
Huế chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Nhưng cuối cùng việc ấy
không thành vì sự tranh dành và thắng thế của phe chủ chiến
của Pháp chứ không phải vì cụ Phan không hết lòng.
Sau khi Gia Định thành thất thủ, đáng
lẽ triều đình Huế phải phái vào Nam kỳ một vị quan võ
năng lực nhứt, nhưng đình thần lại nghị cụ Phan, một quan
văn vào chống đở. Tại sao lại có quyết định nghịch
lý này? Những văn bản của triều đình còn lưu lại
cho thấy vua Tự Đức đưa cụ Phan Thanh Giản vào Nam là hy vọng
vào uy tín và tài ngoại giao của cụ để thuyết phục quân
Pháp thông cảm mà nghiêm chỉnh thi hành Hòa ước Nhâm
Tuất 1862. Nhưng cụ Phan không làm được việc ấy. Và giả
sử vua Tự Đức có cử bất cứ ai khác ngoài cụ Phan thì
chắc chắn cũng không ai giử được 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Ngoài ra tưởng cũng cũng cần nêu lên ở đây một tài
liệu trong Châu bản triều Nguyễn có ghi:
Bài tấu của Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình, Trần
Tiễn Thành, Phan Huy Ích, Phạm Phú Thứ xét trình tội trạng
của Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyên Hữu Cơ, Trần Hoàn
trong vụ Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. Những người này
đã bỏ thành không kháng cự trước sức tấn công của
quân Pháp là vì có lời thẩm nghị trước đây của
đình thần là: các quan chức phải bỏ thành, không được
chống cự nếu quân Pháp tấn công. Nếu quân Pháp chiếm Vĩnh
Long thì rút về An Giang, Hà Tiên...Như thế về mặt pháp
lý thì Phan Thanh Giản đã tuân thủ đúng thẩm nghị của
đình thần.
Ngoài ra theo Đại
Nam thực lục thì vào năm 1866, khi biết rõ âm mưu của quân
Pháp muốn chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, Tự Đức và triều
đình một mặt "khiến ba tỉnh ấy một lòng chống giữ"
mặt khác lại thấy "thế đất cheo leo, muốn giữ cho không lấn
cũng khó" và ‘tư cho quan Kinh lược không đánh nhau với
quân Pháp, tự giải rút lui". Những chủ trương và giải
pháp này của triều đình ắt phải dẫn đến hậu quả
tất nhiên là không thể nào giữ được ba tỉnh miền Tây.
Mất ba tỉnh miền Tây là hậu
quả của những chủ trương sai lầm của Tự Đức và triều
Nguyễn, nhưng Phan Thanh Giản là một tín đồ của Nho giáo rất
mực trung thành với nhà vua, yêu nước thương dân cũng xem
đây là một tội lỗi của mình nên đã tự xử bằng
cái chết
Tuy nhiên kết tội Phan
Thanh Giản bán nước dâng thành cho giặc là một bản án
bất công oan nghiệt, nhằm đổ tội cho Phan Thanh Giản để bao che
những sai lầm của Tự Đức và triều Nguyễn. Có lẽ tác
giả Đại Nam chính biên liệt truyện phần nào đã thấu
hiểu Phan Thanh Giản khi nhận xét: "Thanh Giản là người ngay thực,
giữ lòng liêm khiết, làm quan cần mẩn, thận trọng, gặp việc
dám nói. Trải thời ba triều, vẫn được yêu quý. Đến
khi mang cờ tiết đi Nam, thế không làm sao được, biết tội
tự uống thuốc độc chết. Thực là ở chổ người ta khó
xử. Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài
lời nói". Có lẽ vì thế mà năm 1885, vua Đồng
Khánh đã khôi phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học
sĩ cho Phan Thanh Giản.
Tài liệu tham khảo
1.
Trần Quốc Giám: "Cuộc đời Phan Thanh Giản (1796 -1867)". Đặc
khảo về Phan Thanh Giản tr.101-124. Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản
Hồng Đức. Tạp chí Xưa & Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ
2. Phạm Văn Sơn: "Chung
quanh cái chết và trách nhiệm của Phan Thanh Giản trước các
biến cố của Nam kỳ cuối thế kỷ XIX". Đặc khảo
về Phan Thanh Giản tr. 84-100. Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản Hồng
Đức. Tạp chí Xưa & Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ.
3. Phù Lang Trương Bá
Phát: "Kinh Lược Đại thần Phan Thanh Giản với sự chiếm
cứ ba tỉnh miền Tây". Đặc khảo về Phan Thanh Giản tr. 46-83.
Tập San Sử Địa. Nhà Xuất bản Hồng Đức. Tạp chí Xưa
& Nay. Số ĐKKHXB: 4054-2015/CXBI-PH/25-105/HĐ.
4.
Hoàng Lại Giang: "Phan Thanh Giản - Một Nhân cách lớn". Thế
kỷ XXI Nhìn về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản tr.165-171. Nhà Xuất
Bản Văn Hóa Sài Gòn. Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
5. Phan Huy Lê: "Phan Thanh Giản
(1796-1867) con người, sự nghiệp và bi kịch cuộc đời". Thế
kỷ XXI Nhìn về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản tr. 291-307. Nhà Xuất
Bản Văn Hóa Sài Gòn. Số ĐKKHXB: 794-2006/CXB/2-13-06/VHSG
6. Đại Nam thực lục, t.31. Hà
Nội, 1974, tr. 65-66.
7.
Đại Nam thực lục, t.31. Hà Nội, 1974, tr. 296.
8. Đại Nam thực lục, t.37. Hà Nội, 1977,
tr. 23-35.
9. Đại Nam
chính biên liệt truyện, t.4. Huế 1993, tr. 37-42.
10. Châu bản triều Nguyễn. Tự Đức nhị thập niên.
Tứ nguyệt Thất nguyệt. Ngày 17-11-T Đ XX (1867) tr.187-190.