|
|
|
THƠ - TRUYỆN Năm Mới 2019 & Tết Kỷ Hợi _______________________________________________________________________________________ Trầm Vân,
Mailoc, Songquang, Phương
Hà, Nguyễn Ngọc Tuyết, đoàn xuân thu, Đan Quế Phong, Trúc
Ty, Mai Duy Khôi TRẦM VÂN:
MAILOC,
SONGQUANG, PHƯƠNG HÀ: NĂM TÀN Thư
phòng quạnh quẽ, lạnh chiều đông. Mưa gió lê thê buốt giá hồn.
Sương trắng mơ hồ giăng
khắp phố Lá vàng
tan tác chảy theo dòng. Đèn
sao nhấp nháy rực đường phố Nhạc thánh u trầm vọng cõi không. Thoi thóp năm tàn, cuốn lịch mỏng
Mấy tờ còn lại, sắt se
trông!
Mailoc 12-23-18
Họa:
VẮNG
EM, MƯA CHIỀU CUỐI NĂM
Bên phố nhỏ chiều mưa lạnh
vắng Ta một mình đọng
lắng sầu tư Màn mưa
như sáng sương mù Nhớ
em chỉ biết tìm dư ảnh người Ngày cuối
năm chiều rơi lặng lẽ Cảm
thương ta quạnh quẻ thân già Nỗi buồn len lén lan xa Bao
năm đất khách xem là khói mây Trời vào
Đông đêm dài ngày ngắn Bóng thời gian lẵng lặng chôn vùi Tìm đâu lại được ngày vui ?
Bên em ,đã mất ....bùi ngùi
nhớ thương
Cơn mưa tạnh,phố phường tấp
nập Người dập dìu
hấp tấp chen vai Góc kia một
lão ăn mày Nghĩ thương
số kiếp cùng loài lạc đâu ? Bản "Đêm
đông" lời sao buồn bả Tiếng
ca ai rỉ rả chiều hôm Đã
len vào tận tâm hồn Tìm
em nào thấy ...chỉ còn trong mơ songquang (Một
chiều cuối tuần cuối năm 2018)
Dallas 12/29/2018
Chiều Buồn Cuối Năm
Chầm chậm bước trong chiều im vắng Ta nghe lòng nhẹ lắng trầm tư Hoa dầu xoay tít cánh dù Mỏng manh, vô định, phù du kiếp
người. Đã buông bỏ cuộc đời chẳng
luyến Thì tiếc chi một
chuyến dối già Hãy bay,
bay tít thật xa Lượn chao
chấp chới, la đà trong mây.
Dẫu đã biết có ngày
tóc trắng Từng sợi buồn
vương vấn rơi...rơi.. Mắt
mờ, môi héo, da mồi Mà
sao lòng vẫn bồi hồi tiếc thương. Còn đâu
nữa bạn đường một thuở Lá thư tình bỡ ngỡ trao tay Bây giờ tình chửa nhạt phai Mà người xa vắng tìm hoai, thấy đâu ?
Mưa nhẹ rơi, giọt sầu rỉ rả Trời tối sầm hối hả đêm buông
Nghe trong hơi lạnh buốt hồn
Mùa đông vẫn đó, xuân
còn...rất xa !
Phương Hà
( Saigon, chiều cuối năm 2018 )
3. NGUYỄN NGỌC TUYẾT: TRÊN BẾN SÔNG XUÂN
Một giọt
nước bắn vào mặt làm Mai giật mình ra khỏi giấc ngủ mê
mệt. Không phải sương mà là giọt mưa. Ôi, trong miền Nam
này mà có mưa xuân sao? Đúng là thời tiết thất thường
thiệt! Cơn mưa chỉ rỉ rả, chỉ rì rào trên mui ghe lợp lá
nhưng cũng đủ ướt đống xoài, đống bưởi ngoài
kia bởi trên chiếc ghe lớn của nhà, mui ghe chỉ bung ra có nửa, đủ
cho hai mẹ con co rúc qua đêm thôi mà. Mai nhìn ra ngoài, mẹ đang
lúi húi trùm mấy tấm ni lông cho mớ trái cây còn vun đầy.
Cũng phải thôi, mẹ con Mai mới từ Cái Chanh chạy ra chợ trên bến
sông này chiều qua, sáng mai mới có bạn hàng đến cân
xoài, cam, bưởi về bán Tết. Hi vọng đắt hàng thì lui ghe
trước Tết vài ngày, kịp lo cúng kiếng. Ế hàng như năm
rồi có khi trưa hai mươi chín, ba mươi mới về nhà. Sống
dựa vào mấy công vườn trồng bưởi, xoài, đu đủ,
cam sành năm nào Mai cũng theo mẹ ra khu chợ Cần Thơ này, bán
trái cây cho bạn hàng trên chợ kiếm ít tiền lo Tết cho nhà.
Đi riết thành quen, cứ qua ngày cúng ông Táo lòng cô gái
trẻ lại chộn rộn, náo nức, thèm thuồng cái không khí
nhộn nhịp, ồn ào trên bến chợ nức tiếng vùng sông nước
miền Tây này. Nghe kìa, trời
mới tinh mơ mà chợ dưới mé sông đã rộn ràng, náo
nhiệt rồi. Mấy ghe nhỏ, ghe lớn đậu chung quanh đã tất bật
hẳn lên. Chị Ba kế bên chuẩn bị sắp mấy buồng chuối ra mũi
ghe, ông Tư hôm nào cũng ra chợ thật sớm để lên dừa
tươi. Dừa lên hết trên vựa là ông lại quay ghe đi về
các xóm trong bẻ dừa tiếp. Ghe dưa của thiếm Bảy năm nào
cũng đậu trên sông đến cuối phiên chợ Tết, năm bán
hết, năm phải chở về bán rẻ cho mấy nhà nghèo trong rạch.
Còn lại cam, quýt, bưởi không đếm xuể. Những ghe thương
hồ thoắt đến, thoắt đi nhưng hầu như cứ gần Tết là
lại về đây nên Mai hầu như quen thuộc rất nhiều người,
cô không cần nhìn cây bẹo treo ở mũi cũng biết ghe đó
bán gì rồi. Thậm chí Mai còn có thể chuyền từ ghe này
qua ghe khác để lên bờ nữa.
Mới rửa mặt xong, gánh bún riêu của bà Ba đã đến.
Bún riêu.. bún giò heo đây.. Tiếng rao lãnh lót trôi dài
theo sông nước. Mai mỉm cười. Bà Ba thiệt là.. Mấy chục
năm bán bún riêu cập bến sông, tiếng rao của bà vẫn vang
lên sớm nhất và không thể lẫn lộn được. Nghe nói có
lần nhà báo phỏng vấn, bà nói "bao nhiêu năm gắn với
chiếc ghe, gánh bún nuôi con cái trưởng thành, giờ có thể
nghỉ ngơi nhưng ở nhà buồn quá, sáng sớm cứ phải ra chợ
bán thôi.
Mai ló ra ngoài cùng lúc ghe bún cập lại. Bà Ba cười tươi
rói: -
Sao, ăn gì con? Ra hồi nào? -
Cho con tô bún giò. Con mới ra chiều qua. Chợ có gì mới không
bà Ba? Vừa cúi xuống bóc bún
vào tô, bà Ba vừa lắc đầu: -
Thì chợ Tết năm nào chẳng vậy hả con? Nhưng coi bộ bông
năm nay "hiu" à Mai. Bông cúc, bông mai là bông chủ lực
mà trước Tết rớt hết rồi, không biết còn bông bán
Tết không? Mấy hôm nay tao thấy vạn thọ, xương rồng lên nhiều,
bông hồng thì lai rai, chờ vài bửa nữa coi. Mới nói tới bông là đã thấy ghe bông trờ
tới rồi. Mai vui vẻ kêu lớn: -
Anh Quân phải không? Hay quá, lại gặp anh nữa rồi! Chàng trai đứng trên chiếc ghe vừa mới tới cũng
cười toe toét: -
Cô Mai đây rồi. Tôi biết mà, không có Mai làm sao có
Tết chứ! -
Thôi đi ông hàng bông, giỡn hoài. Năm nay anh có mai tốt không
nè? Nhìn mấy chậu bông chất
đầy ghe, Quân lắc đầu: -
Mai coi đi, còn chừng chục gốc là đang nụ nở kịp Tết thôi,
mấy gốc kia đã nở bung hết, giờ chỉ còn lá thôi. Giữ
cách gì cũng không được. Mai
nhìn sang ghe bông rồi nhìn Quân, anh bạn từ Bình Thủy hằng
năm vẫn đậu ghe gần cô mà buồn theo anh. Quân không bỏ học
giữa chừng như Mai, anh đang học đại học năm thứ hai thì cha
mất, anh phải bỏ học về gồng gánh gia đình, tiếp mẹ nuôi
hai em ăn học. Cả nhà mấy đời trồng bông, vừa bỏ mối
suốt năm, vừa bán Tết. Mai quen Quân từ những chuyến chở hàng
bán Tết trên bến sông này mấy năm nay. Quân lớn hơn 3 tuổi
nên Mai vẫn xem Quân như anh, tình bạn mỗi năm mỗi thân thiết
dù thỉnh thoảng cả hai mới gặp nhau vào lúc cận Tết như
vầy. - Sao,
năm nay cây trái thế nào? Tiếng
Quân hỏi làm Mai giật mình: -
Thì..cũng tàm tạm vậy thôi. Có điều năm nay bưởi nhà
em thất thu quá, neo bán Tết không được bao nhiêu. Chừng nào
về anh nhớ qua em lựa một cặp chưng bàn thờ nghe! - Ừ, anh cũng sẽ chọn cho em cặp cúc cao dậu một
chút. May mà cúc của anh không bị dịch bệnh đó.
Đúng là mấy chậu cúc ta, cúc
đại đóa trong ghe đẹp thật. Riêng đám cúc mâm xôi
là Mai chẳng ưa chút nào. Nhưng Quân nói: - Bán có này có kia mà em. Sở thích mỗi
người mỗi khác chứ. Giống như em thích mai truyền thống 5 cánh,
người ta thích mai phú quý nhiều lớp cánh hay mai tứ quý nở
suốt năm vậy mà. Đúng là
anh hàng hoa lẻo lự thiệt. Nghĩ vậy nhưng sau khi phụ mẹ cân mấy
chục ký xoài, vài chục bưởi cho một vựa quen trên bờ,
Mai cũng vui vẻ theo Quân lên chợ giữ dùm chỗ cho Quân dọn bông
lên. Chợ đông, lại ít tiền nên Quân chỉ thuê được
một khoảnh tí nị để chưng bông. Gặp khách mua nhiều phải
dẫn xuống ghe. Được cái chỗ bán bông của anh nằm kế
quán cà phê rất ngon bên đường nên mỗi lần có khách
vào uống cà phê, ngắm bông cũng tiện.. Quán nước này
mấy ngày Tết làm ăn được lắm, tàu du lịch liên tục
ghé lại, Khách vãng lai ngồi ngoài sân cũng đông, chủ
quán pha cà phê mệt nghỉ. Chợ Tết trên bến Ninh Kiều nổi
tiếng từ xưa đến nay nên mấy ngày xuân "trên bến dưới
thuyền" vẫn hấp dẫn, vẫn phong phú sắc màu là vậy, làm
sao không ra họp chợ cho được. Mấy
ngày chợ Tết rồi cũng qua mau. Trên bến sông xuân đã có
nhiều ghe bông, ghe trái cây mở máy quay về sau khi chất hết hàng
cho vựa hoặc cho người mua lẻ. Đám chủ dưa hiu hắt vì mấy
cơn mưa sát Tết làm dưa hấu thất thu đã lui ghe từ sớm.
Thiếm Bảy lái dưa than: - Năm
nay chắc nhà thím ăn Tết héo rồi Mai ơi. Mấy cơn mưa trái
mùa làm dưa mới búng hường nổ hết trơn. Đám
dưa còn lại vét bán cũng không được bao nhiêu!
Mẹ con Mai cũng ráng bán mão hết
số trái cây còn lại, chuẩn bị về nhà, mai đã 29 còn
gì. Đêm hai tám Tết, Mai lên
chợ, ngồi bán tiếp Quân mấy chậu bông cuối cùng. Có lẽ
vì bông năm nay ít nên ghe bông của anh đã bán gần hết.
Chợ bông đêm nay đông nghẹt người mua bởi đây đã
là đêm sát Tết rồi. Nếu không mua thì mai chỉ còn bông
vụn thôi. Đang cầm bình tưới
sương cho mấy chậu cúc, Mai chợt nghe Quân la lên: - Thầy! Cô! Thầy cô đi
mua bông hả? Nhìn lên, một cặp
tuổi trung niên đang đứng săm soi đám cúc vàng rực trong
khi Quân chạy tới bên cạnh. Anh hàng hoa lộ vẻ mừng rỡ ra mặt,
lăng xăng chỉ hết chậu bông này đến chậu bông khác.
Cuối cùng ông thầy lựa được cặp cúc thật đều
bông, dậu cao, thanh thoát. Quân ôm cặp cúc ra xe cho thầy rồi quay
lại, cười tươi rói với Mai: -
Thầy cũ hồi trung học của anh đó. Lâu quá mới gặp lại.
- Vậy bán cho
thầy cặp cúc bao nhiêu? Anh chàng
trợn mắt: - Bán chác gì!
Tặng thầy còn không hết. Sợ thầy không chịu lấy, năn nỉ
muốn chết đó. Vui quá trời! Mai
nhìn gương mặt rạng rỡ của anh bạn, lòng ngập tràn niềm
vui. Hình như anh hàng hoa tíu ta tíu tít thường ngày đã
trở về làm anh học trò nhỏ, tâm hồn trong trẻo hồn nhiên
như thuở nào. Đêm mùa xuân
vẫn trôi...trôi về sáng. Mai trở về ghe giúp mẹ dọn đồ
để quay về. Từ biệt Quân, từ biệt mấy ghe quen còn ở lại
với lời hẹn mọi khi: -
Ăn Tết vui vẻ! Năm sau gặp lại! Ừ,
năm hết Tết đến, như Quân, như chị Ba, thiếm Bảy, ông
Tư mình nhất định trở lại nơi này. Bởi trên dòng sông
xuân này, ở khu chợ quen thuộc này, không chỉ có những ghe
thương hồ bán buôn mọi thứ ghé lai mỗi độ xuân về,
không chỉ có những quán cà phê đông nghẹt dọc theo con
đường, những chuyến đò ngang đưa người qua lại sáng
sáng, chiều chiều và những con người bao năm trôi nổi với
dòng sông, với bến sông xưa...Mà, đó còn là tình
yêu thương gắn kết của những cảnh đời gian khó, là
cảm xúc đôi lúc thăng hoa, đẹp đẽ tưới đẫm
tâm hồn của những con người họp tan theo con nước lớn nước
ròng. Ghe rời bến, những chiếc
ghe chở bông từ từ quay đầu, từ từ tỏa ra như những bông
hoa bung cánh rực rỡ sắc màu, khu chợ trên bến sông mới đây
ghe xuồng san sát, đông ken đã lùi dần, lùi dần. Trước
mắt Mai, trong lấp lánh nắng xuân hình ảnh hai chậu cúc Quân
ôm trong tay cho ông thầy cũ vẫn vàng rực, lung linh... NGUYỄN NGỌC TUYẾT Cần Thơ ĐOÀN
XUÂN THU: NHƯN
MỠ ĐÒN BÁNH TÉT! Ngày Tết, miền Bắc
ăn bánh chưng với dưa hành (cũ hành ta). Chính vì vậy mới
có câu đối là: ‘Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh
chưng xanh'. Miền Trung ăn bánh
tét với dưa món (đu đủ, củ kiệu, cũ hành tím, cà
rốt, ớt hoặc trái su). Miền Nam, nhứt là miệt Lục tỉnh Nam Kỳ
ăn bánh tét với dưa cãi hay cũ cãi giòn rụm ngâm nước
mắm y. Có người cho rằng bánh
tét nguyên ủy là của người Chàm, nước Chiêm Thành
(192-1832) phần đất nay thuộc về miền Trung Việt Nam. Rồi bực thức
giả nầy cầm cọ lên vẽ vời, gắn râu, thêm ria là: "Mùa
xuân năm Kỷ Dậu 1789, anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (người
Tây Sơn, phía Tây Bình Định, miền Trung đất của nước
Chiêm Thành ngày cũ) mang quân ra Bắc, đánh đuổi quân xâm
lược Mãn Thanh do Vua Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà.
Lúc bấy giờ quân lính được
nghỉ ngơi, ăn Tết sớm, trước khi đánh vào thành Thăng
Long. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà
gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình
dạng như bánh tét ngày nay. Anh
lính mang bánh mời vua Quang Trung. Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về
loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà
làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ
vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng nhưng khi ăn bánh này
thì lại không thấy đau nữa (?!) (Chắc anh lính nầy bị đau
bao tử) Cái huyền thoại nầy có
nhiều chỗ khó tin, khó thuyết phục. Một là bánh nầy nguyên
ủy của Chiêm Thành thì ắt người Chàm đã đặt
tên. Thí dụ như ‘mắm bò hóc' của người Khmer thì
mình cũng kêu là ‘mắm bò hóc' đấy thôi).
Hai là đi lính, vợ ở nhà làm
bánh tét gởi cho. (?!) Đâu có KBC (khu bưu chính) như sau nầy,
biết anh yêu ở đâu mà gởi chớ? Ba là làm lính trơn dễ gì gặp mặt, kề cận được
long nhan để ‘long nhong' mời Hoàng thượng ăn bánh? Rồi Vua mới
đặt tên là bánh Tết? Tui
cho rằng tét bánh ra từng khoanh bằng dây lạt, tước từ thân
cây chuối lúc đó hay bằng cọng chỉ cắn vào răng như
sau nầy nên nó tên là bánh tét. Cái tên bánh là do quý phụ nữ quê mình đặt
đấy. Bột gạo tráng trên lò cách thủy thì gọi là
bánh tráng. Nướng nó cong vồng lên thì gọi bánh phồng.
Giống cái lỗ tai heo thì gọi là bánh tai heo. Giống miếng thịt
ba rọi thì gọi là bánh da lợn... (Nhân đây mình cũng bàn vô tán ra về mấy cái
địa danh của vùng lục tỉnh quê mình luôn. Ngoài cái tên
của vua chúa ban cho, chỉ xài tên giấy tờ, còn người dân
mình lần đầu tiên đặt chưn tới thấy sao kêu vậy hè.
Như Mỹ Tho, tiếng Khmer có nghĩa là con gái đẹp. Có cây
cầu băng qua sông, quẹo đeo giống cái cổ cò thì gọi là
cầu Cổ Cò. Ngay cả cái đất
Cần Thơ, nơi sông nước có nhiều cá sặc rằn, nên người
Khmer đặt tên là ‘Kìn Tho'; người Việt mình gọi trại
thành Cần Thơ. Nhưng cũng có
ông anh mình, đầu óc cực kỳ địa phương, bác bỏ
cách giải nghĩa từ nguyên về địa danh Cần Thơ của Nam bộ
học Sơn Nam, cứ khăng khăng cho rằng: Chúa Nguyễn Ánh đêm
trăng nghe tiếng đàn, tiếng thơ véo von trên sông Hậu nên
đặt tên là Cầm Thi đọc riết thành Cần Thơ (?)
Lịch sử cho thấy rằng Nguyễn Huệ nhứt
định truy nã ráo riết nhằm giết cho được Nguyễn Ánh
để trừ hậu hoạn, nên trên đường bôn tẩu xang bang
xấc bất thì có thời giờ đâu mà cầm với thi chớ?
Phần Cần Thơ, tên loài cá sặc
rằn, hay hết biết rồi thì cần chi phải là Cầm Thi mới hay ?
Sài Gòn là một rừng gòn hay quá thể; sau nầy VC cố gắng
xóa tên mà đâu có được nè. Nhưng có cái nầy
là tui tin nè. Bánh tét là do mấy bà vợ làm, còn mấy
chồng chỉ có biết ăn. Cái
tui tin nhứt bánh tét, để lâu không bị thiu, là một loại
quân lương của đồng bào mình nấu sẵn, khi quân ta trẩy
qua, bà con hậu phương ủng hộ tiền tuyến, cho mỗi chú lính
vài đòn, vắt tòn ten trên đòn gánh. Nhanh và gọn khỏi
dừng quân nấu cơm lâu lắc, hầu thần tốc hành quân ra Bắc
để rượt Tôn Sĩ Nghị chạy có cờ về bên kia Lưỡng
Quảng. Tui ngờ rằng quân Tàu ăn
bánh bao không no lâu bằng quân ta ăn bánh tét. Đói bụng
cứ ăn bánh bao hoài hè, cứ lo hẩu xực bánh bao nên quân
ta mới thừa cơ xuất kỳ bất ý, tốc chiến tốc thắng rượt
quân nó hoảng loạn, chạy sập cả cầu phao bắt qua sông Hồng
thuở ấy. Rồi ông bà mình từ miền Trung vào miền Tây
khai khẩn, trên con đường lưu lạc, vác gạo theo để nấu
cơm thì nhiêu khê, nặng nề quá! Chi bằng trước khi bỏ xứ
lên đường lưu lạc, chơi một nồi bánh tét ế kinh, quảy
theo ăn suốt cuộc hành trình khai khẩn đất phương Nam.
*** Dân
làm ruộng quê mình chuyên trồng lúa nước nên có gạo,
có nếp là chuyện đương nhiên. Gạo để nấu cơm ăn
mỗi ngày; còn nếp để thổi xôi và làm bánh tét.
Cũng như Tây trồng lúa mì nên nó ăn bánh mì chớ
không ăn cơm như chúng ta. Tui cũng
ngờ rằng bánh tét cũng nếp, cũng nhưn thịt mỡ y chang như
cái bánh chưng của đồng bào miền Bắc. Hai loại bánh nầy
là anh em ruột thịt với nhau. Bánh chưng có trước làm anh, bánh
tét có sau làm em. Bánh chưng
hình vuông vì gói bằng lá dong, to bảng, khó xé, miền Bắc
có rất nhiều. Vào tới miền Trung lá dong ít, lá chuối nhiều,
dễ xé, thì thay vì hình vuông bánh chưng dài ra thành đòn
bánh tét. Miền Trung, miền Nam nước
Việt mình chuối nhiều cơ man nào mà nói, lá chuối dùng
để gói, dây chuối dùng để buộc, trái chuối dùng
để làm nhưn. Bà con mình
khoái ăn thịt heo nên không có gì ngạc nhiên khi bánh tét
có nhưn mỡ. Miền Tây mình
bánh tét bán lai rai năm mười hai tháng. Thèm cứ ra chợ mua
ăn với dưa kiệu, dưa cãi, dưa
đu đủ xanh, dưa hành, dưa bông điên điển, dưa cà
pháo chua chua ăn cho đỡ ngán. Còn muốn mằn mặn thì ăn
với cũ cải trắng ngâm nước mắm. Cái sâu sắc của truyền thống tối giao thừa nhà nào
cũng có một nồi bánh tét ế kinh để ăn trong ba bữa Tết
là vầy: Anh mình yêu và xót em suốt cả năm quần quật
hoài trong bếp, giờ tết chỉ có ba hôm, phải cho em khỏi nấu
cơm, để mấy em hưởn, rảnh rang, ngày xòe tướng xanh tướng
đỏ, đánh bài tứ sắc; còn đêm về rũ chàng, đôi
ta sẽ lắc bầu cua. Thương vợ
nhưng không nói ra vì sợ nó nhỏng nhẻo, nó lừng, nên
bày đặt chuyện ba ngày Tết cấm lửa. Làm gì có chuyện
đó. Ông Táo chầu trời bữa 23 al rồi, đêm giao thừa là
ổng đã lù lù trở lại sau một tuần ‘vacation' quá đã
với tiên nữ trên thiên đình rồi giờ về thì phải
về nổi lửa lên chớ! Vậy mà
có em cạn suy, kém nghĩ, không hiểu tình anh yêu em bao la như núi
Thái Sơn cứ càm ràm chồng chúa vợ tôi miết hè.
Suốt cả năm, viết bài khều nhẹ,
chọc quê em yêu, giờ tới Tết tui cũng phải tự mình ăn năn,
hối lỗi bằng cách nịnh xạo để em vui. Vì chữ có câu
rằng lời nói không mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa
lòng em. Vừa lòng em mà không tốn tiền quà cáp, quần áo,
nước hoa gì ráo trọi thì ngu sao mà mình hổng làm?
Nịnh rằng: Em yêu không những là một
người làm bánh tét tài hoa mà còn là một nhà họa
sĩ. Đòn bánh tét với em là một tác phẩm hội họa
xuất sắc như tranh của Picasso. Nếp
trắng em nhuộm màu xanh, hy vọng tình ta không có xót xa bằng màu
xanh vắt từ lá dứa hay rau bò ngót. Em là dân Cần Thơ, muốn
độc quyền cầm, bánh tét hổng giống ai, chơi luôn màu tím
hoa sim, bằng lá cẩm. Em còn dùng
nếp màu trắng, màu xanh, màu tím để chơi vào ruột một
đòn bánh chữ "ANH", đòn còn lại chữ "YÊU".
Em dùng cọng chỉ tét ra hai khoanh đặt lên trên dĩa trẹt, hiện
ra hai chữ "ANH YÊU'! Còn cục mỡ làm nhưn, ẩn dụ là em.
Ai bảo bánh tét không mang tình thơ mộng gì ráo đâu nè?
***
Ôi nhớ xưa hồi mới cưới vợ,
em yêu và tui mướn cái nhà trong hẻm 5 đường Lý Thái
Tổ Cần Thơ, gần bên hẻm Tài Xỉu và nhà vẽ Bút Ngân.
Cách nhà một căn là một lò bánh
Tét. Cả ngày những nồi nấu bánh Tét to đùng nghi ngút
khói và hơi nước. Những đòn bánh tét nấu vừa xong,
lấy ra khỏi nồi, nhúng vào nước lạnh, treo lủng lẳng trên
những cây sào vắt ngang bờ tường, chờ xe ba bánh đến chở
ra chợ bán. Nhà ấy có một
em, da mặt trắng như bông bưởi, (chắc có lẽ nhờ xông hơi
nước thoát ra từ nồi nấu bánh tét của má em), làm sở
Mỹ, ăn diện rất văn minh, son môi còn thắm Sylvie Vartan. Sau tháng Giêng năm 73, Mỹ theo kế láu cá
của Henry Kissinger bắt tay với Tàu cộng bỏ rơi bạn đồng minh,
rút chạy về nước hết ráo. Mười giờ ông Chánh về
tây, cô ba ở lại lấy thầy thông ngôn. Nhưng em không lấy
thầy thông ngôn mà cứ ở vậy, cà nhỏng chống xâm lăng,
để mấy thằng háo sắc như tui thèm nhễu nước miếng chơi.
Tui ‘địa' em hoài, nước chảy đá cũng mòn, có lần
em cho tui một đòn bánh tét nhưn mỡ. Chu choa ngon thấu trời!
Thiên hạ thường nói: Đường
đến tim phải qua cái bao tử của anh. Con gái nó khoái mình
là nó cho mình ăn cục mỡ nhưn đòn bánh tét trước;
còn cục mỡ của em thì em cứ nhứ nhứ trước miệng mèo.
Bà chằn lửa của tui đánh
hơi được cái thói mèo mả gà đồng, mắt em trợn
dọc trắng dã làm tui xanh mặt. Qua nhà em bánh tét, tui hổng dám
nhìn quanh nhìn quất chỉ gầm mặt bước đi luôn. Thiệt là
nhục mà! Đá mòn sông cạn,
sau cuộc biển dâu, tui vọt luôn qua Úc. Có lần thằng bạn còn
kẹt trong nước, qua facebook, hỏi tui còn nhớ em ba lò bánh tét năm
xưa ngày cũ hay không? Bây
giờ em đã là bà ba Giám đốc công ty bánh tét lá
cẩm nổi tiếng nhứt Cần Thơ, bánh tét xuất cảng qua tới
tận Singapore cho con cháu của Lý Quang Diệu tét... nên giàu thôi
hết biết. Việt kiều Úc, bèo
cỡ chú mầy, chưa chắc rớ được tới cục nhưn mỡ trong
đòn bánh tét của em đâu. Thôi
tình ta đã dỡ dang. Xin hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau, để
anh ‘quằm' cái nhưn mỡ, nằm cốt lõi, ngay chính giữa đòn
bánh tét của em, anh ăn được có một lần, nên vẫn còn
thèm lắm đó. đoàn xuân thu. Melbourne ĐAN
QUẾ PHONG MÀU TÍM HOA MUA TỬ Y LAN Mùng
hai Tết, tôi muốn ra ngoài. Lúc mọi người vẫn còn say ngủ
vì thức trể đón giao thừa Thạch thả bộ ra bến Ninh Kiều
tìm một quán café hy vọng có một số tiệm đã khai trương.
Sau khi tìm được một quán nhỏ bên
cạnh hàng phượng vĩ nổi bật lá xanh như tán dù, thân
được sơn trắng trồng dọc theo lối đi dọc bờ sông.
Rũ mình yểu
điệu từ ngàn xưa vẫn là những cây liễu liêu trai lã
ngọn xuống bờ nước. Xen kẻ đầy sáng tạo, thật dễ thương,
thật tiện nghi cho các cặp tình nhân khi người ta xen vào một
cái băng đá ẩn đâu đó trong bóng một giàn hoa giấy,
dưới tàng của khóm dừa, hay cạnh một bức tượng. Những
chiếc du thuyền nho nhỏ buông chèo đậu dọc theo cái cầu tàu
xa lạ, có lẻ mới xây, bắt gie ra bến sông. Cái quán nhỏ
bé được căng bằng vải tăng màu ngà ngà xọc xanh dương
cũ kỷ đang phần phật tung gió sớm rải rác độ mươi
chiếc bàn con. Chàng chọn cái chỗ ngồi có thể nhìn ra
bờ con sông quen thuộc nơi mà Thạch đã hối hả rời bỏ
trong một ngày hoảng loạn, hoàng hôn nức nở, chia ly xé lòng
cách đây 40 năm. Duyên số. - Thạch lẩm bẩm - Cái chậu hoa tím của chị?? - Ông muốn nói chậu hoa Mua? Bà chủ nói
đặt nó trong tiệm sẽ mua may bán đắc. Những tiệm "Mua,
Café " đều có một chậu hoa nầy làm biểu tượng.
Thạch chợt quay lại vì nghe tiếng phía
sau lưng mình. - Hôm nay trời không
có nắng, khí hậu lạ lùng, mưa rào ngày hôm qua, ra ngoài
không tốt cho sức khỏe của ba đâu! - Ba cần chút không khí tươi mát, nằm hoài đối
diện bốn bức tường buồn chán lắm con không hiểu đâu.
- Anh Giang đi chơi mệt ngủ trễ vì
chưa quen lắm với múi giờ ở đây, con sẽ về chở anh ấy
tới rồi mình tìm chỗ ăn sáng. Ba thấy trong người thế
nào? - Từ khi ngưng tiêm hóa
trị ba thấy khá hơn chút con ạ. Hơn 60 tuổi thì sống là
phần thưởng, mà phần thưởng thì không thể đòi
hỏi, ba rất sẵn sàng. Được trở lại Viêt Nam thăm mồ
mả cha mẹ thì chuyến đi có thể là lần cuối nầy còn
đòi hỏi gì hơn. - Con không
muốn nghe tư tưởng bi quan nầy của ba nữa đâu. Đây cũng
là ý kiến của anh Giang để cả nhà chúng ta tổ chức gặp
nhau và ăn Tết ở đây, bây giờ ba muốn đi đâu thì
con chở ba đi? Con mượn xe của cậu Tuấn, con chạy vững lắm ba đừng
lo. - Ba biết, nhưng hiện tại ba
chỉ thích ngồi đây một lát rồi cuốc bộ vòng vòng
thôi. Cần Thơ nhỏ lắm. - "Mua,
Café " cái tên quán nầy lạ quá phải không ba? .
- Con có thấy chậu hoa tím nhỏ khiêm
tốn núp sau hòn non bộ kia không? Hoa Mua đó, họ chọn làm
tên cho cửa tiệm. Con nhìn xem cây cỏ vùng nhiệt đới thật
sung sướng vì ấm quanh năm có những loại hoa vô danh nhưng đẹp
dịu dàng. Thỉnh thoảng người ta lại khám phá ra một loại
hoa rừng, một loại Lan lạ như tiên nữ trong rừng sâu trong chuyện
liêu trai. Hãy nhìn những cây Liễu yểu điệu làm dáng nghiêng
bóng bên dòng con sông Hậu lúc triều lên ba thấy nó đẹp
đến não lòng, và vị trí cái quán café nầy thật
là tuyệt vời phải không con? -
Ba là hòn đá lớn chẻ dòng chảy làm đôi cho ra Thanh Giang
và Thanh Thủy trong veo mỹ miều, theo con là tuyệt vời nhất cho nên
không còn chỗ cho đóa hoa Sim tím đó đâu ba.
- Sao lại ganh tị với hoa! "Hoa Sim", nó
là "hoa Mua" Hoa Sim rất nổi tiếng, tên của thơ Hữu Loan, nhạc
Phạm Duy, đầu tiên là Dzũng Chinh và sau đó các ca sĩ khác
thi nhau đưa cao giọng hát, còn đóa hoa nầy quê mùa như
tên gọi, nép mình sợ gió lay, từng cánh từng cánh âm
thầm không tranh sắc khoe hương nhưng... Ai đem hoa ra phố thị cho hoa sợ
hãi, khép nép ngỡ ngàng. Thạch bổng ngưng lại, tự nhiên sao lại nói nhiều thế.
- Thầy uống café nóng hay lạnh đây?
-Cô cho café đen không đường
pha kiểu espresso làm ơn.
Thạch già đi từ một năm nay, xanh xao, bàn tay gầy nổi những đường
gân, vẫn thích nhấm nháp ly café tí tẹo đặc quánh pha
nước nhứt. Thủy biết ý ba mình từ bao nhiêu năm. Không cần
nhiều chỉ cần thơm ngon. - Cho cho
tôi café đen lạnh và thêm một ly sữa tươi nóng cho ba tôi.
Quay sang Thạch, Thanh Thủy nói:
- Có sữa tốt hơn ba à. Con có
được chiếc xe làm chân, sẽ khám phá quanh thành phố. Ở
đây cũng đẹp nhưng ngồi một nơi lâu đôi chân cứ
ngọ nguậy khó chịu! - Ba hiểu
mà, ba có thể tự lo được con gái ạ Thanh Thủy uống nhanh ly của mình, quay sang hôn lên má
Thạch một cái rồi quay xe chạy trở lên hướng đường Huê
Viên cũ. Mình
thật yêu đóa hoa Mua cô lẻ nhỏ nhắn đó mà đến
ngôi quán bé nhỏ nầy một tuần nay sao? Có hương sáng tinh
mơ của sương mai pha cùng cây cỏ, có tia nắng sớm xa xa của
bình minh gợi nhớ một ngày của 50 năm xưa. Vợ chàng muốn con mình là dòng chảy của mình
nên chọn tên con gái Thanh Thủy- cho tới hiện tại, giống vợ chàng,
rất dịu dàng xen vào đời sống của chàng từ khi mẹ nó
mất -con trai Thanh Giang rất dễ thương nhưng hơi cứng cổ, luôn chống
đối chuyện lập gia đình dù đã hơn 30, may thay Tết nầy
nó hứa giới thiệu chàng cô bạn gái nửa Úc nửa Việt
mà nó đã bị tiếng sét. Chàng thấy mệt, bao giờ thì
hết trách nhiệm đây? Chàng sợ nước, nước dễ sợ
như thế nào Thạch đã biết nhưng sao số kiếp Thạch cứ
vướng víu vào nước không ngừng nghỉ. Hồi xưa cha Thạch
hay giãng cho chàng nghe về vũ trụ, hay về thiên nhiên "sức mạnh
của nước" mà cái ấn tượng đập vô đầu chàng
nhiều nhất là câu "nước chảy đá mòn" Chàng là
đá mà vậy đối thủ đầu tiên của chàng không ai
xa lạ là nước, thứ mà không nắm bắt được: Tùy
lúc mà mềm mại uyển chuyển theo dòng suối mơ, hay gặp thời
cơ bay lượn nhởn nhơ khoe sắc mây hồng. Rơi xuống trần nước
cũng lấp lánh nhỏ xinh làm giọt sương trong. Góp nhặt được
sức mạnh thác nước ầm ầm là nguồn của bao con sông lớn.
Nước là cứu tinh của nhân loại và cũng là Đại Hồng
Thủy tận diệt mọi người. Người con gái mang tên Thủy vợ
chàng có đầy đủ hết mọi đức tính đó!!
"sơn cùng thủy tận", Như Thủy đã về với biển cả
sau khi bào nhẵn ngọn đồi trọc và lưu lại đây trách
nhiệm cho chàng với Thanh Giang và Thanh Thủy. Thanh Thủy đang đi dạy toán ở Trung học,
đã lập gia đình với người bản xứ chưa có cháu
nào. Thanh Giang cũng vừa hoàn tất cao học ở Boston College, sau một
năm trao đổi học sinh ở Đại học Úc Đại Lợi trở
về tự nhiên đòi món quà là cùng gia đình đi chơi
ở Việt Nam. Tháng trước, vừa vặn bệnh Ung thư của chàng
đã phát táng qua lá phổi thứ nhì và bác sĩ cho biết
chỉ còn độ 6 tháng chàng vẫn chưa cho con trai biết. Trách nhiệm
của người làm cha xong thì đổ gục. Trách nhiệm làm con
chàng đã theo lệnh cha cưới Như Thủy cô láng giềng hiền
thục đền cái ơn Như Thủy đùm bọc gia đình cha mẹ
chàng lúc chàng đi học tập. Sao đời tôi có quá nhiều
trách nhiệm! Tôi chỉ muốn một chút thả lỏng. Cho tầm mắt lãng đãng nhìn về phía
chậu hoa Mua bị khuất sau chậu Hạnh và Mai. Con bé bưng café ra nói-
Tết mà bà chủ đã mua thêm mấy chậu hoa hôm chiều 30-,
làm cái hủ sành cao màu da bò trồng Mua bị dời sát bờ
kè. Hôm nay Mua chỉ nỡ có một đóa nhưng 6 cánh màu tím
thẩm, nhụy cong rúng rẩy chừng như đã quen với nắng gió
bụi trần. Thạch định bước
lại vuốt nhẹ cánh hoa tiên thì có một chiếc Honda dừng bên
đường, hai thiếu phụ vào quán, chọn ngay chiếc bàn cạnh
cội dừa kiểng. Vì đúng vào hướng nhìn của chàng
nên chàng chú ý: Một bà mặc áo khoát xám ngắn đeo
khẩu trang, người thứ hai mặc áo tím nhạt cổ bâu thấp,
không mang áo ngoài, dù chưa tới 8 giờ, tiết xuân lành lạnh.
Họ gở nón đội đầu đặt lên bàn, ngồi xuống và
quay lưng về phía tôi góc 45 độ. Chị chủ bước tới chào
hai người. Họ chừng như thân quen gọi: "Một ly café sữa nóng đi cô Oanh và ...hình như
một cafe đen không đường? Giọng bà kia nhỏ và nhẹ, chỉ
nghe tiếng: "cám ơn em " khi chị chủ quay lưng đi.
Thạch chú
ý người mặc áo tím như có một hấp lực. Dáng bà
ta không thể nói là ốm nhưng thon gọn bước đi tự tin cho
cái tuổi ít lắm cũng ngủ tuần nầy. Chiếc áo vải ren màu
hoa cà cắt khéo, kết dài trước ngực hàng nút hạt trai
trắng đơm dầy, điểm thêm chiếc nơ cuộc hờ ngang vòng
eo sau lưng. Tay áo lửng, muselin mềm cùng màu trang nhã hơi loe ra từ
chỏ tay cũng kết nơ mỗi bên làm duyên một cách kín đáo.
Mái tóc nâu đen, cắt lô lô làm gương mặt phúc hậu,
trẻ hơn tuổi đời vì chỉ trang điểm nhẹ, nước da trắng
thiếu nắng không mang khẩu trang như đa số quý bà quý cô
địa phương, Thạch quyết đoán là Việt Kiều, nhưng bà
không mặc đầm, chỉ chiếc quần lụa đen, mềm, giày cũng
nâu đen như màu cái bóp da nhỏ quàng qua vai. Bà bước
vòng qua khỏi mấy khóm cây đến đứng tựa vào bờ kè,
nhìn ra bến sông trầm tư. Xa xa những chiếc ghe chờ khách đến
thuê chèo đi dạo qua bờ xóm chài hay cồn Ấu, bà vơ một
cành Liễu đang lã lơi theo gió lướt thướt ngậm vào
miệng. Lá Phượng xanh mướt, không đúng mùa trổ hoa cũng
xung xăng như rì rào, thân thiết tỉ tê, như cần vuốt ve.
Bà ngồi xuống băng đá thở nhẹ như luyến tiếc, như
bâng khuâng. Lúc sau bà quay vào: -
Ô, ô! Tự nhiên bà đứng
lên tiến gần chậu hoa Mua, đóa hoa tím thẩm nổi bật giữa
màu lá xanh đã làm bà chú ý. Như không tin, bà gở
đôi kiếng cận để nhìn cho kỷ, mắt bà sáng long lanh một
cách thích thú rồi há hốc mồm ngạc nhiên, hai tay nắm chặt
tì lên ngực như dằn cơn xúc động, lẩm bẩm "TỬ
Y LAN" đoạn quay lại hỏi bà kia. -
Có thật là Tử Y Lan tươi mát, giữa Mai vàng Cúc tím
Thược dược, Mẫu đơn? -
Chị không nhận ra chậu hoa Mua chị từng tưng tiu trước khi rời Việt
Nam sao? - Em vẫn giữ cho nó sống
tới hôm nay?! Hồi đó có nhiều hoa hơn. Thạch thấy ngờ
ngợ với chiếc mũi dọc dừa thật cao, chiếc miệng nhỏ và đôi
mắt sâu. Ai mà biết tên nàng tiên hoa của chàng. Chỉ có
một người con gái độc nhất cùng chàng khám phá ra loại
hoa bị bỏ quên nầy bên bờ lạch nước trong chảy róc rách
một ngày xưa thật là xưa,Tuyền!
Đôi mắt vô hồn từ
ngày chàng bị bệnh như sáng lên chớp thật nhanh rồi nhắm
lại một giây, môi mấp máy muốn nói gì nhưng khép lại,
xoay mặt qua hướng khác cho nàng không nhìn thấy, bần thần nhìn
những tảng Lục Bình theo con nước rong đầu tháng dâng cao dập
dềnh bên mạng những chiếc thuyền neo xa xa như điểm xuyết cho mặt
sông màu khói. Hồi ức
một lần nữa lại trở về Trong
khi cả đoàn cấm trại trong ngày lễ Phật đãn trên chùa
Kiến Quốc, cùng chia nhau chơi trò chơi tìm báu vật, tôi và
Tuyền ngẩn ngơ nhìn những đóa hoa tím thẩm ngậm sương
long lanh e lệ điểm dáng giữa rừng lá xanh. Nhìn đôi mắt
long lanh say đắm của Tuyền quỳ xuống ve vuốt từng cánh rồi hôn
lên hoa áp vào má và kể cho tôi nghe đây là một khám
phá thú vị riêng của nàng khi còn ở nhà quê Tuyền dẫn
con bò "bê bê "đi ăn cỏ, và nàng cũng không biết
hoa tên gì!? Sau một lúc hai chúng tôi bèn đồng ý gọi
là loài hoa hoang dã lẻ loi đó là "Tử Y Lan" cái tên
nghe cải lương làm sao nhưng ngại gì chỉ có tôi và Tuyền
gọi như thế. Sao lại là Tuyền?
Hơn bốn mươi năm như cái chớp mắt. Mình đã già
sao lòng vẫn nhớ! Cô bé nữ sinh trường Đoàn dáng mành
như liễu có mái tóc dài. Những ngày chạy xe đạp theo
sau dõi bước chân em đi nhẹ nhàng như trôi chầm chậm trên
đường Ngô Quyền quanh qua Hòa Bình lung lay bóng phượng, con đường
học trò và tôi về nhà nắn nót, trau chuốt chọn lời,
viết lên một bài thơ mà không dám gởi cho ai kia. Đại lộ Ngô Quyền in gót em. Cơn gió chiều hôn tóc em mềm Nghe thương sao dáng em hờn mát, Anh bước quay về thức trắng đêm. -HLT-
Nhà nghèo chiến tranh lan tràn mình tản
cư ra thành phố bỏ hết ruộng đất trong Kinh Cùng. Ba tôi tập
tểnh tìm một việc xắp xếp sách vở ở thư viện Đại
Học Cần Thơ lương ba cọc ba đồng, mẹ buôn quần áo cũ
dưới chợ, mình dùng khai sanh của thằng em cho tuổi nhỏ xuống
và đậu được vào trường Phan một năm với Tuyền.
Mình gặp Tuyền từ năm đệ ngủ, Tuyền 15 mà mình đã
18 tuổi trong lớp Judo Thanh Long của thầy Ung Phụng Võ cũng là đàn
anh ở trung học tỉnh nhà. Mình đọc ở đâu đó cái
định nghĩa tình yêu là "tiếng sét", là cái rung động
của con tim ngay lần gặp gở ban đầu. Hôm đó cũng như thường
lệ sau khi cơm nước xong mình cuộn bộ đồ võ quảy lên
vai tàng tàng lội bộ xuống trường võ ở đường Ông
Hành, nó nhìn ra mặt sông, sau Sân Banh, trước khi tới cầu Tham
Tướng. Như thường lệ cũng có rất đông khán giả
đa số là nhóm trẻ, đứng nhìn từ hai góc của cái
"Tapis" . Mắt mình chợt dừng lại trước một nữ võ sinh
mới, tóc rẽ đôi cuộc hai lọn gọn gàng với hai sợi nơ
vải tím. Gương mặt cô bé bầu bỉnh da ngâm, miệng nhỏ,
mũi thật cao như được thẩm mỹ và đôi mắt tròn.
Đôi mắt! đôi mắt nai ngơ ngác nhìn chăm chú anh Ung Phụng
Võ đang giảng về cách đánh của môt đòn vai, cách
xoay người như thế nào để bứng đối phương lên mà
ném. Tiếng "Ki ai" hét lên của anh trước khi vụt Lương
vinh Kiều (con thầy Lương Vinh Sanh) làm cô bé giật mình đặt
tay lên ngực. Chắc thấy mình "chết nhát" nên xấu hỗ
nhìn chung quanh, không thấy ai chú ý cô cúi mặt mĩm cười,
ôi nụ cười làm tôi đau và say đến trọn kiếp người.
Tôi không giỏi võ, vì trong lớp tôi
còn hai anh cao đai hơn. Học vấn thì chỉ bằng lớp với nàng,
thì làm sao lọt vào mắt xanh của em. Chúng tôi có làm Bích
Báo ở võ đường và khám phá ra rằng Tuyền viết cũng
khá thế là L.V. Kiều khuyên tôi mở hội thơ -vì biết tâm
sự của tôi- để mời Tuyền vào. Sau hai năm ở võ đường Thanh Long,Tuyền bị ba mình bắt
bỏ Judo (ông không thích sự đụng chạm nam và nữ khi luyện
võ mà Tuyền giờ đã lớn), em chỉ mới lên đai xanh dương.
Chiếc cầu nối của chúng tôi trong thơ văn, học tập và đoàn
đội. Chẳng ai nói gì với ai nhưng giữa chúng tôi "Tình
trong như đã". Rồi tôi rủ áo thư sinh sau năm tú tài
1. Tôi thành sĩ quan Pháo binh sau khóa Thủ Đức và Tuyền tiếp
tục Sư Phạm đại học. Thời gian nầy những cánh thư chiến
trường xa, những cánh hoa Mua tím buồn ép vào trang thư trên
đường hành quân mỗi khi có dịp, tôi không dám đi xa
hơn vì biết thân "Chiến trường da ngựa" còn em thì
im lặng đợi chờ ngày tôi chiến thắng trở về. Nhưng tôi
không chiến thắng. Làm sao tôi quên được cái lần về
phép năm 1974 đúng ra là dự lễ tốt nghiệp Cử Nhân của
nàng như thư nàng mời, tôi chỉ nép mình trong một góc
quán café vệ đường ngang Đại học len lén nhìn từ
xa. Tôi đang gặp khó khăn khi chống lại quyết định của Ba
Mẹ tôi, muốn chọn lựa Như Thủy về làm dâu. Cô láng
giềng tôi xem như em gái, là cánh tay mặt của mẹ tôi, là
ân nhân của gia đình tôi sau cơn bạo bệnh của ba tôi, từ
ngày tin em tôi đền nợ nước. Đá vẫn lì lộm dù hết còn góc cạnh, nhưng có
lẻ đến biến cố 1975, Thạch tôi không còn là viên đá
lớn bên dòng suối mà đã biến thành sỏi và tan tác
vì tiếng gầm thét của tai nhà, vận nước và từ bao giờ
tôi đã bị cuốn ra khơi, bị đẩy chới với theo ngọn triều
lên, dìm miên mang sâu thẳm dưới vực biển, hoãng loạn đánh
mất cành Mua của một trời hoa bướm. Như Thủy đã cuốn tôi đi theo gia đình nàng vượt
biên và tôi định cư Mỹ!
- Má, dì út. anh Giang, chúng con
gặp nhau ở trường, đã từng nói qua với má. Chào má
và dì đi anh. - Thưa hai cô,
con là Thanh Giang bạn của Cẩm Thạch, hôm nay hân hạnh diện kiến
cô và dì Út. - Chào cậu,
nói tiếng Việt cũng khá ha. Tốt lắm. Ngồi xuống, muốn uống
gì gọi cho cháu nó mang ra, quán nầy của em gái cô, cháu
Giang khỏi phải trả tiền. Thạch
chết điếng, Cẩm Thạch, Cẩm Thạch đứa con gái Thanh Giang muốn
giới thiệu chàng là con của Tuyền. Chàng lặng lẻ đứng
lên nhẹ nhàng rút lui về phía bên kia của hàng hoa giấy sau
khi dằn tiền café trên bàn. -
Ô ba, con nè, chờ con chút, con muốn giới thiệu ba... Làm sao đây? Sao chàng chẳng chết sớm hơn 6 tháng!
Sao chàng về Việt Nam làm gì. Đáng lẻ chàng chuồn đi
nãy giờ thì đâu gặp cảnh nầy.!!... ĐAN QUẾ
PHONG TRÚC TY: GIỌT
XUÂN TRÊN ÁO
Những chùm hoa nguyệt quế vừa nở đêm qua Thoảng hương nồng ngoài khung cửa Ngắt vài cánh hoa thả vào ly nước Như giữ chút hương thầm ngày
cũ Nụ hôn đầu bên thềm
xưa Xanh thẳm trời cao ngút mắt Say đắm xuân thì một thuở nào
xa! Có giữ được
không, được không? Đêm
về mộng mị Sóng sánh mắt
nhìn, rượu ngọt chảy trên môi
Một mảnh trăng nghiêng chao vào giấc ngủ
Ươm nụ cười- hạnh phúc ngu ngơ! Có giữ được không, được không? Trên bàn tay bé nhỏ Hơi thở nồng nàn đọng lại đêm
qua Giọt nước mắt tiễn người
đi xa mãi Đón mùa xuân
bằng nụ cười buồn!
Những chùm hoa nguyệt quế rưng rưng
Cứ nở thêm, nở thêm ngào ngạt
Nỗi cô đơn cũng ngào ngạt như đêm Thương một giọt xuân vừa rơi trên
áo Ta cuộn mình vào ôm trọn
giấc cô miên!
TRÚC TY MAI DUY KHÔI: Ngày Tết nói chuyện Mai Tặng
hiền nội Thanh Mai MAI DUY KHÔI
1. Một chút cội nguồn... Miền Nam nước ta nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới là môi trường thích hợp cho hoa mai đơm bông
nẩy lộc mỗi độ xuân về - khác với miền Bắc, khí hậu
có phần lạnh lẽo hơn, nên thuận lợi cho hoa đào khoe sắc. Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ tươi thắm như một biểu
tượng của vận may, hạnh phúc. Màu vàng dịu ngọt như hàm
chứa sự vinh hiển, thanh cao. Đào - Mai từ rất lâu đã trở
thành người bạn đồng hành thân thiết của ngày Tết
cổ truyền Việt Nam. Cây mai vàng - loài cây nhiệt đới -
đã mọc từ lâu ở miền Nam, được xem như một loại
cây rừng, ít ai để ý tới. Đến năm 1698, Chưởng cơ
Nguyễn Hữu Cảnh đưa ông cha ta vào Nam lập nghiệp. Theo phong tục
cổ truyền, Tết đến là phải có cành đào, nhưng ở
miền Nam, làm sao tìm được loại cây quý hiếm này. Thấy
cây mai vàng cũng ra hoa đúng tết, ông cha ta mới có sáng kiến,
chặt cành mai chưng thế cho cành đào. Kể từ đó mới
bắt đầu có phong tục chưng mai trong ba ngày Tết ở miền Nam. Mai vàng miền Nam còn gọi là Huỳnh Mai thuộc họ Ochnaceae, có
tên khoa học Ochna integerrima, là cây đa niên, có thể sống trên
100 năm, gốc to, rễ lồi lõm, thân xù xì, cành nhánh nhiều,
lá mọc xen. Ngoài thiên nhiên, cây mai tự rụng lá vào mùa
đông và ra hoa vào mùa xuân. Do đó, ông cha ta đã lảy
hết lá mai vào tháng chạp âm lịch, để kích thích cho
cây mai ra hoa rộ vào dịp Tết Nguyên đán. Trong vườn nhà
của dân miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long, gần như người
nào, nhà nào cũng chú ý tạo cho cây mai vàng vốn mọc
ngoài mép vườn, bờ mương thành cây kiểng quý trước
sân nhà, để hàng năm có hoa vàng chào đón xuân
mới. Một cành mai vàng là biểu tượng của Phúc và Lộc.
Một cây kiểng mai vàng còn là biểu tượng của THỌ nữa.
Mai trong quan niệm của người miền Nam là may mắn: (nói: "may"
thành "mai" và xem "mai" khác nào "may"). 2. Sứ
giả của mùa xuân... tri kỷ của bao tao nhân mặc khách Mỗi loài hoa đều có đức tính riêng, mang vẻ đẹp
riêng. Nhưng trong đám muôn hồng nghìn tía ấy, dễ có hoa
nào sánh được với hoa mai. Người đời yêu cành mai mềm
mại, phảng phất dáng dấp của người con gái dịu dàng. Thi
nhân xem mai tượng trưng cho niềm tiết tháo, cho sự thanh cao của mình.
Bởi vậy cây mai không chê đất xấu, chẳng sợ mưa nắng
bất thường; hoa mai không mang nét đẹp kiêu sa, nhưng trong sự dung
dị có ẩn tàng nét tinh anh, phảng phất hương thơm thanh khiết.
Hương mai rất thơm. Đặc biệt khi tiết trời đầu năm càng
lạnh, hoa mai càng tỏa hương thơm ngát. Hoa mai có tính kiên
định, biết tự khẳng định mình, không bị thời tiết đổi
thay làm cho thay đổi. Có khi xuân đến sớm hay muộn so với thời
gian, nhưng không vì thế mà hoa mai trễ nải việc đơm hoa kết
nụ của mình. Trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa thời tiết bất
thường, mai vẫn âm thầm đơm hương, và đến thời khắc,
dẫu gió xuân chưa về, mai vẫn khai hoa. Lựa một nhành mai chưng
Tết, khách yêu mai khó tính, thường chú ý các điểm
sau: các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe,
nụ bụ bẫm, lá non vừa nhú, nhụy âm dương, cành tứ
quý... Nhụy âm dương chỉ đạo vợ chồng hòa hợp, cành
tứ quý chỉ bốn mùa gió thuận mưa hòa. Người ta còn
cho rằng một cành mai nở không đúng vào dịp Tết, mai vừa
nở đã rụng, hoặc các nhánh phân bố không hợp cách
là không tốt. Chưa có loài hoa nào được thơ văn
nước ta nhắc đến nhiều như hoa mai. Mai đi vào "Thơ thiền"
của Mãn Giác thiền sư đời Lý: "Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tận - Đình tiền tạc dạ nhất chi mai". (Đừng
tưởng xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước nở cành
mai). Mai có mặt trong "Thơ thần" của Nguyễn Trãi đời Lê:
"Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà? Ái duyên tuyết bạch,
mai phương khiết" (Yêu mai, yêu tuyết vì đâu? Vì tuyết
trắng trong, mai thơm thanh khiết). Hình ảnh hoa mai cũng được thi hào
Nguyễn Du mượn để tả nét đẹp quý phái, đoan trang của
nhị Kiều "Mai cốt cách, tuyết tinh thần - Mỗi người một vẻ,
mười phân vẹn mười" Tản Đà thì dùng hình ảnh
"Xương mai một nắm hao gầy" để nói lên nỗi niềm
của mình trong lời "Thề non nước". Ngay như Nguyễn Đình
Chiểu, khi đôi mắt của ông không còn nhìn được sắc
vàng rực rỡ của hoa mai, thì hình ảnh về loài hoa xuân ông
từng yêu quý vẫn được ông ghi lại trong ký ức và
được vẽ ra bằng nét bút tài hoa: "Hữu tình thay ngọn
gió đông. Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang". Và khi muốn
nói về cuộc hội ngộ đầy nét thi vị, tao nhã giữa đôi
trai tài gái sắc Vân Tiên - Nguyệt Nga, ông lại mượn hình
ảnh của mai để so sánh "Mai hòa vận điểu, điểu hòa
vận mai". Rồi Sương Nguyệt Anh, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương,
Chế Lan Viên, Thanh Hải... cũng có những vần thơ đằm thấm
trữ tình viết về hoa mai... Không làm sao ghi kể hết! Chừng đó
thôi, cũng đủ nói lên cái địa vị cao quý của hoa mai
trong lòng thi nhân Việt Nam! Theo một số nhà Mai học, có hai câu
thơ, tương truyền của Chu thần Cao Bá Quát, xứng đáng là
câu tuyệt bút, với ngôn từ đẹp nhất, trân trọng nhất
mà người ta có thể viết ra để xưng tụng hoa mai: "Thập
tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (Mười năm chu du tìm gươm cổ Cả đời chỉ cúi
lạy hoa mai) 3. Tôi và Mai... Từ nhỏ tôi đã
yêu hoa mai. Khu vườn nhỏ của ngoại tôi, được vây bọc
bởi một hàng rào trồng toàn mai. Mỗi độ tết, bọn trẻ
con chúng tôi tụ tập đùa vui nơi đây, lòng tôi ngất
ngây với rừng mai vàng rực rỡ. Lớn lên, biết đọc sách,
biết yêu, tôi yêu nhất những người con gái tên Mai. Tôi
mê Sơn nữ Chi Mai trong tiểu thuyết "Bông hoa rừng", tôi say đắm
cô Mai hiền thục trong "Nửa chừng xuân" (Khái Hưng). Và tôi
cũng mê luôn cụ Đào Tấn, một nhà thơ lỗi lạc, một
nhà viết tuồng xuất sắc quê Bình Định - vì cụ đã
một đời sống chết với hoa mai. Cụ trồng cả một vườn
mai trước sân nhà ở làng Vĩnh Thịnh với câu liễn treo trưa
trước "Mai viên" (Vườn mai): "Dĩ vi danh tự, vi viên phố Diệc hữu nhân duyên, hữu tính tình" (Đã có tên
hiệu, tên vườn Âu cũng là nhân duyên, là cốt cách) Cụ lấy bút hiệu là Mộng Mai, Mai Tăng, làm rất nhiều thơ
về mai, chọn núi Huỳnh Mai để gởi nắm xương tàn với
bài "Đề Mai Sơn thọ viên" qua hai câu kết: "Mai Sơn
tha nhật tàng mai cốt Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn" (Mai
mốt non mai ta gởi xác Ưng cho mai dỗ giấc Mai tăng) Và như
tiền định, tôi gặp người con gái tên Mai và cùng nhau đi
trọn đường trần... Người ta từng gọi tên của một
quốc gia bằng một loài hoa, dù loài hoa đó không là tài
sản riêng của đất nước ấy lại hiện diện ở hầu
khắp thế giới: Bungari là đất nước hoa hồng, Hà Lan là
xứ sở của hoa tulip, anh đào là biểu tượng của
xứ Phù Tang... Cũng là hoa, là lá, là cỏ cây như bao loài
thảo mộc khoác, nhưng những loài hoa ấy mang trên mình sứ mệnh
của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một
dân tộc, được xưng tụng là "quốc hoa". Hoa mai ở Việt
Nam - mỗi độ xuân về - từ Huế trở vào - nhà nào cũng
tươi thắm một nhành mai trên bàn thờ gia tiên! Hơn một nửa
dân tộc quý chuộng loài hoa xuân này, cái vị trí của
Mai - theo thiển ý - rất xứng đáng là "quốc hoa" - tiêu
biểu cho cốt cách của dân tộc Việt Nam... Cuối năm 2018 Mai
Duy Khôi
_______________________________________________________________________________
TRUYỆN XUÂN 2018 CHÂU LÊ
CÂY MAI GIÀ CỦA 40 NĂM TRƯỚC
Mới vừa
rồi, ông anh cả của tôi từ quê nhà Trường Long gọi điện
thoại qua hỏi thăm sức khoẻ gia đình tôi, vì thỉnh thoảng
anh có nghe tin nầy tin kia liên quan đến địa phương tôi đang
cư ngụ bây giờ. Anh em nói chuyện vui vẻ với nhau, chợt nhiên
anh nhắc tới Ba của chúng tôi qua đời năm 1980 lúc tôi còn
đang "miệt mài" trong trại "tù cải tạo" tận rừng
già Xuyên Mộc tỉnh Đồng Nai. Anh nói: "Sắp đến Tết rồi, mỗi khi nhìn thấy
cây mai trồng trước sân nhà là anh buồn đến rơi nước
mắt. Công lao của Ba vun trồng từ nhỏ, còn sống đến bây
giờ. Ba kể thời điểm trồng, tính đến nay đã tròn 40
năm rồi". Mốc thời gian tính tới nay tròn 40 năm, có
nghĩa là Tết năm 1973, cái Tết đầu tiên vừa có Hiệp
định Paris ký tại Pháp ngày 27 tháng giêng 1973..., đồng minh
bắt đầu rút quân khỏi miền Nam của VNCH để rồi kéo
theo bao nhiêu hệ lụy cho đến ngày cả miền Nam bị cộng sản
miền Bắc cưỡng chiếm ngày 30-4-1975! Tôi thở dài nói với
anh tôi: "Anh nhắc cây mai, em nhớ ngay là anh nhắc
tới công lao của Ba khi "bứng" cây mai phía sau vườn đem trồng
trước sân nhà mình và ra công chăm sóc để nhắc nhớ
một thời điểm trọng đại của cuộc nội chiến Quốc - Cộng
suốt hơn 21 năm dài đăng đẳng. Ba có ngờ đâu chỉ
mấy năm sau, cả miền Nam phải gánh chịu bao thảm hoạ... cho đến
ngày ba mất vì trọng bệnh!". Bên kia đầu dây
điện thoại, anh tôi nói với giọng buồn buồn. Tôi chen vào
"nói trên đường dây như vầy, rủi họ
theo dõi thì phiền cho anh". "Không sao đâu. Anh già rồi,
còn sợ gì nữa!". Rồi anh nói như ngại không còn
dịp để tỏ bày với em út: "Những năm
chú còn bị "kẹt trong trại tù cải tạo", ba bệnh sạn
thận hành hạ nhưng cứ dặn anh đừng cho chú biết. Phần Ba,
ba kể rằng, Ba trồng cây mai trước sân nhà, chỗ mà trước
đây đặt bàn thờ thông thiên ngoài trời, hằng đêm
đốt nhang cầu trời khẩn Phật cho đất nước thanh bình, nhà
nhà êm ấm, nhưng... phải phá bỏ, vì chính phủ của Việt
Minh thời đó bắt đầu kiểm kê tài sản từng nhà để
thu thuế đảm phụ. Họ cho đếm từng cái lư hương trên
bàn thờ, đếm từng gốc cây cau, cây dừa, cây xoài, cây
cóc..., tức là những cây ăn trái, lúc đó quê mình
rất ít người trồng cam quít, để họ ước tính "hoa
lợi" mà đánh thuế từng nhà. Nhiều nhà trong quê mình
đồng loạt dẹp bỏ bớt lư hương, chỉ để trên bàn
thờ một lư hương để thờ cúng gia tiên, bàn thờ thông
thiên phải dẹp bỏ... Nhiều cây cau, cây dừa, bà con đốn
bỏ để khỏi phải đóng thuế. Hình ảnh sinh hoạt làng
xóm thời Việt Minh kiểm soát tiêu điều như vậy ở quê
mình, Ba kể lại nghe buồn não nuột. Qua thời Đệ Nhất Cộng
Hoà, đời sống của nhân dân khá lên, quyền tự do của
con người được tôn trọng, những vườn cây ăn trái
như cam, quít, cau, dừa phát triển mạnh thật nhanh, Ba nói "quê mình "an cư lạc nghiệp" thật
rồi. Thế nhưng... chiến tranh ‘Quốc - Cộng" lại bùng lên,
nhất là sau ngày có tổ chức của bọn Việt Minh nằm vùng
được miền Bắc dựng lên tháng 12-1960 "Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam", làng xóm lại tiêu điều thêm. Đệ
Nhất Cộng Hoà ở miền Nam bị quân nhân đảo chánh, nhiều
biến cố đau lòng liên tục xảy ra. Rồi bước sang Đến
Nhị Cộng Hoà đời sống bất an nhiều hơn bởi cuộc chiến
"Quốc - Cộng" ngày thêm ác liệt. Mãi đến tháng giêng
1973, Ba nghe nói Hiệp định Paris ký kết đem lại Hoà Bình cho
đất nước. Ba nói rằng để "thử nghiệm
xem Hoà Bình kéo dài bao lâu?, đời
sống an cư lạc nghiệp đến mức độ nào?", nên Ba mới trồng một cây mai ngay chỗ mà ngày trước
ba đã dẹp bàn thờ thông thiên trước sân nhà để... chờ xem". Giọng của
anh tôi chợt nhiên nhỏ lại, với giọng xúc động: "Nhưng, chú ơi, Ba đã tàn hơi kiệt sức chỉ vài
năm sau cái ngày tháng 30-4 1975 oan khiên đó, để rồi vĩnh
viễn rời bỏ cõi đời trước khi chú được ra khỏi
tù, Ba đâu còn sống để chứng kiến thảm hoạ đau lòng
của đất nước và dân tộc trong thời "cai trị" của
nhà nước CS bây giờ!". Tôi chận lời: "Thôi, anh đừng nói nữa. Mọi
điều xảy ra trên đất nước mình, bây giờ ở hải
ngoại nầy tụi em đều nghe, đều biết hết rồi, không chừng
biết còn nhiều hơn những gì anh kể. Anh chị
và các cháu hãy thận trọng và tự bảo vệ. Chủ nghĩa
CS tàn độc vô nhân là như vậy. Thật bất hạnh cho đất
nước và dân tộc mình. Anh đâu biết, đất nước mình
sắp sửa trở thành một quận huyện của Tàu Cộng rồi còn
gì!". Anh tôi nói: "Không
hiểu chú có biết trong nước bây giờ xảy ra quá nhiều tệ
nạn. Mỗi lần nói chuyện với vài viên chức chính quyền
địa phương, tụi nó thuộc lớp tuổi con cháu của mình,
có ý nói "sao nạn cướp giựt, hành hung giết chết người
nhiều quá mà không có biện pháp gì nhăn chận?". Tụi
nó nói: "Có chớ. Nhưng
tất cả đều do tàn dư Mỹ Ngụy để lại!".
Anh nói "đã gần 40 năm rồi, làm sao còn tàn dư Mỹ
Nguỵ mà mấy đứa nói như vậy?". Tụi nó trả lời:
"Mỗi lần dự hội họp, các đồng chí
lãnh đạo cấp trên đều nhắc câu đó!". Tôi
chen vào: "À, thì ra vậy!".
"Nói chuyện với chú, anh chợt nhớ Tết năm nay Giáp Ngọ
cũng là năm tuổi của Út Tâm - em trai út của chúng mình?
Năm đó anh nghe kể lại, má sanh nó vào đúng giờ giao thừa
1954, cũng là năm mà Hiệp Định Geneve được ký kết và
chia cắt đất nước kéo dài đến hai mươi năm sau lại
có thêm Hiệp định Paris. Rất buồn, nó đã vượt ra được
khỏi đất nước để tạo lập cuộc sống mới, vậy mà
không được hưởng gì, phải lìa đời ở tuổi 30 do
bạo bệnh. Có lẽ Ba của chúng ta sống vào những thời điểm
đau thương của đất nước như vậy nên mới có ý
định trồng một cây mai trước nhà để mà nhắc nhớ!".
Chuyện
cây mai mà Ba trồng cách đây đã bước qua khỏi năm thứ
40, là đất nước mình đã trải qua ngần ấy năm thống
hận. Tôi ngậm ngùi "Tội nghiệp Ba của chúng mình lúc nào cũng mang canh
cánh bên lòng về tương lai và cuộc sống con người trước
thử thách của một chủ nghĩa, một chế độ như chế độ
CS, mà bản chất của nó vốn không tốt đẹp gì đã
bị những "tín đồ ngoạn đạo" như HCM đến các
đàn em kế tục lãnh đạo ở Bắc Bộ Phủ duy trì, củng
cố suốt mấy chục năm qua, cố vơ vét tài sản của nhân
dân, đất nước để trở thành "Tư Bản Đỏ"
trước sự đói nghèo của toàn dân, và lại còn luồn
cúi để làm tai sai cho bọn Tàu Cộng nữa". Từ phía bên kia đầu dây, tôi nghe
tiếng thở dài của ông anh cả thương kính của mình.
CHÂU LÊ (Houston - Texas - Vào Tết Giáp
ngọ 2014) ______________________________________________
TRUYỆN XUÂN 2016 Huỳnh Minh Bích Nga, Trẩn Cẩm Quỳnh Như, Trần Bang Thạch NHỮNG CÁNH THIỆP CÒN NGUYÊN TRONG HỘP Huỳnh Minh Bích Nga Mở thùng lưu trữ, nguyên một hộp sắt
hiện ra. Cái hộp bánh tây xưa cũ mà người già vẫn
dùng để cất giấy tờ các thứ. Ngồi bần thần mãi, trong hộp là những tấm thiệp Giáng
Sinh, Tết Tây, Tết Ta xưa .. Phong bì ngoài bìa đã vàng ố,
nhưng sắc màu son thếp bên trong vẫn rực rỡ tươi nguyên.
Nhìn những tấm thiệp, mà vài tấm có số tuổi gần nữa
thế kỷ..Lại nhớ ba quay quắt. Ba
là một người tỉ mỉ, chu đáo. Và cần kiệm nữa.
Cứ đầu tháng 12 là ba đi ra Khai Trí
mua thiệp. Cũng như mở lại cái hộp lưu trữ xem lại số thiệp
năm trước để đi gởi thiệp chúc Tết. Lại nhớ, Tết rảnh rổi là ba ngồi xem thiệp cũ.
Người xưa như ba và trang lứa có cách gởi thiệp rất lạ.
Một cánh thiệp mỏng in hình vẽ mang ý nghĩa trang trọng, bên
trong là tờ giấy dầu mỏng. Trên tờ giấy dầu ấy, người
gởi thiệp sẽ ghi lời chúc bằng nét chữ viết tay thật nắn
nót. Nét chữ thường nghiêng với mở đầu bằng chữ cái
in hoa thật mềm mại. ( lại nhớ ba.
Ba có cách viết chữ theo kiểu Gô Tích (gothic) thật đẹp)
Thường thì với những tấm
thiệp không quan trọng. Ba sẽ lấy phần giấy dầu hay giấy lụa mỏng
có ghi lời chúc bên trong, bỏ riêng vào phong bì có lưu địa
chỉ gởi và cất lại vào hộp. Còn thiệp trống, ba giao lại
cho các con. Rồi ba đưa giấy, ba khuyến khích các con dán phong bì.
Rồi cũng chính ba là người ngồi rọc giấy lụa. Cũng như
ngồi kẻ hàng giấy kê, để các con có thế viết thẳng
hàng qua dòng kẻ thẳng ở giấy lót kê .. Ngồi với ba, với bút mực, giấy chậm.
Con của ba đã tập viết những dòng chúc đầu tiên đến
ông bà nội ngoại, cô cậu gần xa.. Những dòng chữ trẻ con
lem nhem, nhưng đó là bài học giao tế đầu đời..
Để sau nầy có thói quen, hể tháng
11 là đi xem thiệp, lựa thiệp, để mua những cánh thiệp gởi
cho bạn bè, người quen.. Rồi cũng
mỉm cười khi phát hiện ra mình đang có tính "tủn mủn"
như ba, đó là lựa loại thiệp không in năm. Để biết đâu,
người nhận có thể dùng để quay vòng tiếp.. Có thể ai đó sẽ chê trách. Nhưng đó
là ba, người thiếu niên lớn lên từ đồng ruộng. Nơi có
bà nội tảo tần, cần kiệm không dám ăn, dám mặc. Chắt
chiu từng quyển tập, ngòi viết cho ba đi học xa để thoát khỏi
binh bạo chiến chinh. Còn ba là anh trò nghèo, tiết kiệm đến
từng mẫu bút chì nhỏ, cục tẩy cứng .. Vì ba biết, ba đã
rất may mắn. May hơn rất nhiều bạn bè ấu thời với gia cảnh
tá điền, tá thổ.. Mở mắt ra là cọng lúa với con trâu..
Còn với cái gia đình yêu thương
của ba, ba có thể cho cho các con ăn no mặc ấm, thập chí ăn ngon
mặc đẹp. Nhưng phải biết đâu là điểm dừng, điểm
hợp. Như những tấm thiệp đó. Ba nói: Chúng được in
ra từ giấy, mà để có giấy. Người ta phải đốn cây.
Rừng không phải là tài nguyên thiên nhiên vô tận để
muốn là lấy.. Một
tấm thiệp quay vòng, một phong bì tự dán. Một tờ giấy tận
dụng, tất cả đều là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên..
mặc kệ ai đó chỉ trích là chúng ta hà tiện, keo kiệt:
Nói nếu chúng ta cứ làm như thế thì còn chổ nào
cho người kinh doanh buôn bán.. Mà hãy nghỉ đến một tấm
giấy loại sẽ được phân hủy sau khi đi hết một vòng đời
dài hữu ích của nó. Trong nhà, con vẫn hợp với ba hơn. Vì
nếu con đánh vỡ một cái ly. Mẹ và bà ngoại sẽ gào
lên, người trách con phá của, vô dụng.., rồi kẻ thì la
mắng, người thì lăm lăm đòn roi.. Để bạo lực làm
bài học ghi nhớ. Chỉ có riêng
ba, ba sẽ ôn tồn nói con lấy chổi đi hốt và quét, gói
cho kỹ kẻo người đổ rác sẽ bị thương vì nó. Rồi
nhẹ nhàn bảo thêm: Con hãy chào tạm biệt đi, vì cái
ly ấy đã làm xong phận đời cho mình. Đã kết thúc
sự phục vụ tiện nghi cho cuộc sống. Hãy ráng nhớ điều đó
để không phạm phải nữa ". Ngày
ba mất, con nghe như tiếng lưỡi cưa thần chết xé ngang tim mình.
Như thấy một cây đại thụ che bóng xuống đời con thình
lình đổ ập.. Khi đó, con đã
từng hứa. Con sẽ thay ba, mỗi năm sẽ gởi những cánh thiệp đi
cho những người quen của ba. Để cái dòng chảy của những
cánh thiệp sẽ không bao giờ dừng lại, như ba vẫn sống. Nhưng rồi, con cảm thấy quá khó. Chữ viết
con không thể đẹp chân phương như ba, con cũng khó ngồi ngẩm
nghỉ, tỉ mỉ viết rồi dán giấy, dán tem... Con đã quen gõ
những ngón tay trên bàn phím vi tính.. Rồi con quyết định cất lại những cánh thiệp lưu trữ
của ba vào hộp cũ. Để
mỗi lần nhớ ba, lại lọ mọ mở thùng, cầm ra. Ngồi săm soi
xem. Để thấy một
năm lại trôi qua trên từng tờ thiệp xưa cũ. Để quen dần với nổi trống vắng của
một cây đại thụ đã rút hết tinh túy cho đời. LẨN THẨN CUỐI NĂM Trần Cẩm Quỳnh Như
14/1/10 - Bạn thân mến, còn khoảng
một tháng nữa là Tết. Giờ này lối xóm đã bắt đầu
sơn phết nhà cửa (ôi cái mùi sơn dễ sợ quá, hồi
nhỏ thấy thơm, cứ hay rủ thằng Út chạy ra sân mà hít,
bây giờ già rồi sao cơ thể tự dưng sinh ra khó khăn khó
chịu, nghe mùi sơn muốn làm mệt). Đi chợ thấy hoa giả đủ
màu đủ kiểu tràn xuống đường, củ kiệu, bông cải
trắng phau. Những túi củ cải trắng và cà rốt phơi khô
quéo làm tui nhớ củ cải nhận nước mắm của Má tui hồi
xưa quá, giòn khấy mà mặn ngọt đậm đà, không cần
chất bảo quản, không cần bỏ tủ lạnh mà để bao lâu
cũng không hư. Cứ nhớ hoài món ăn xưa ngày Tết : một
gắp củ cải nhận nước mắm đỏ au khép nép bên khoanh
bánh tét "hoành tráng" chiên vàng hai mặt giòn rụm,
màu lá cẩm tím lịm mướt rượt tôn lên màu đậu
xanh vàng rực, ở giữa là cục mỡ trắng muốt, mới nhìn
đã cảm nhận vị béo ngọt nơi đầu lưỡi (ặc ặc
nuốt nước miếng). Lâu rồi không ăn bánh tét vì nhà
chồng chỉ ăn bánh chưng. Ông xã lại rủ năm nay gói bánh
chưng, trời mới nghe đã phát đau lưng, gói bánh chưng cực
lắm bạn ơi, nhứt là đối với người bệnh tật như
tui. Thôi không nói trước, tới đó khỏe thì "duyệt",
còn lịch xịch thì chắc phải đi mua một cặp bánh chưng cho
ổng, ghét cái họ bán mắc gấp mấy lần mình gói, mà
nếp dầy mo, có khi thịt còn bị thủm, lại thấy báo nói
họ bỏ cục pin vô nồi nấu cho bánh mau chín, nghe sợ quá...
20/1/10 - Còn hơn hai mươi ngày nữa là
Tết. Mấy hôm trước ông trời ổng buồn, ổng mưa lạnh âm
u mấy ngày liên tiếp, tui trùm đầu, mang vớ, mặc hai ba lớp áo
như cái củ hành, đắp hai cái mền mà nhớ mấy đứa
nước ngoài, đời sống cao, cái gì cũng hơn mình nhưng
chắc chắn cái khoản nắng ấm là tụi nó thua mình xa. May mắn
tui không đi được, nếu không chắc đã chết cóng nơi
xứ người (nói kiểu "nho xanh không đáng miệng người
phong lưu" của La Fontaine trong "Con Cáo Và Chùm Nho", đi hoài
không được lại dài mỏ nói may !). May là trời chỉ lạnh
có ba ngày, thấy nắng hửng lên mừng quá, đến trưa thì
hầm hập, lại than trời ơi, nóng ! Thiệt ông trời cũng ăn ở
chẳng vừa lòng người !!! Mấy cây vạn niên thanh tui chiết
cành cho con bạn rồi thay đất trồng lại toàn bộ luôn. Kỳ
này thành công mỹ mãn, cây mau lại sức, không có thời
gian héo lá. Trồng xong muốn sụm cái lưng, xới đất ra đã
cực (vì nó cứng ngắc toàn là rễ), lượm trùng còn
cực hơn, vì sợ bỏ đất dư vào bao cột lại mấy con trùng
sẽ chết tội nghiệp nên ráng căng mắt tìm để lượm
ra cho vào chậu cây mới. Lại nhớ những nhà sư vừa cuốc
đất vừa đọc kinh vãng sanh cho trùng, còn tui, cứ mỗi khi xắn
một xuổng đứt đôi con trùng thì tui lại xin lỗi nó, rồi
tui lại tiếp tục xắn đất, rồi tui lại xuýt xoa xin lỗi, bỗng
hơi mắc cỡ vì tự thấy mình sao... đạo đức giả. Xin
lỗi cái nỗi gì, người ta chết ngắc rồi còn chi ! Có những
thứ mất mác chết chóc không bao giờ xin lỗi cũng không bao giờ
sửa sai được, nhưng người ta vẫn cứ tiếp tục làm để
rồi lại tiếp tục xin lỗi tập hai, tập ba... 28/1/10 - Xem hình chậu mai của nhỏ bạn thấy ham. Nó đi
làm, không có thì giờ chăm sóc nhưng mai vẫn đơm nụ
ra hoa, mà hoa mai của nó cánh bầu bầu, thế cánh mạnh mẽ rất
đẹp. Nhớ hồi đó mỗi Tết anh Ba tui đi mua mai rất khó tính,
vô vườn mai, thích cây nào thì ảnh kêu chủ vườn cưa
ngang, rồi tính bao nhiêu thì tính. Nhà tui không thích mai quá
nhiều cánh (mai hăm bốn cánh lạ thì có lạ nhưng không
đẹp vì cánh nằm sắp lớp như cá mòi), cũng đừng
quá ít, cỡ bảy tám cánh là vừa đẹp, cánh mai phải
tròn và hữu lực, mỏng manh nhưng trơn phẳng không nhăn nheo. Mua
mai còn phải đoán nụ, cũng hên xui thí mồ, nụ trâu tưởng
đâu hoa lớn, dè đâu lại là hoa cánh nhọn, nụ mập
ú lúc nở ra cả đóa hoa chỉ bằng ngón tay cái y như mai
rừng ! Cứ chờ cây nào có vài đóa "đại diện",
thấy ưng ý rồi hãy mua là chắc ăn. Chưng mai cũng là chuyện dài ! Có người biểu cho Aspirine
hay B1 vào bình để hoa lâu tàn, có người lại xúi bỏ
vô một muỗng thuốc tẩy. Mấy chùm mai nở rộ thì xịt phớt
chút keo xịt tóc từ dưới lên, bảo đảm rất lâu không
gãy cánh. Hồi tui còn nhỏ, có bà hàng xóm mua một nhánh
mai đầy nụ rất xôm, bữa trước bữa sau nụ rụng tá lã
xác pháo, hai vợ chồng bả lo lắng ra mặt, cho là có điềm
xui. Tối đó thấy ông chồng lọ mọ đem cành mai lên phơi
sương trên mái nhà, nhưng hôm sau nụ vẫn tiếp tục rụng
cho tới khi cành mai trụi lủi, chỉ còn phơ phất vài cái lá
non tim tím thê thảm. Lúc đó tui còn nhỏ, không để ý
coi năm đó chuyện mai rụng có ảnh hưởng xấu đến chuyện
làm ăn buôn bán của nhà đó không. Nhà tui tuy đạo
Phật nhưng ít tin dị đoan. Mồng một Tết anh Ba tui hay tếu : "Anh
Ba xẻ trái dưa này ra, hễ đỏ là của anh Ba, hễ "hầm
tương" (hường tâm) là của tụi bây nghen !", làm tụi
con nít hổng chịu cự rân trời ! Có
một kỷ niệm khó quên lúc ở rẫy Long Khánh (sau 75), để
tui kể bạn nghe. Một bữa gần Tết trời se lạnh, thằng Út ở
đâu chạy ào vô bếp kéo tui ra, đẩy lên xe bò :" Chị
Năm, đi với em đằng nầy!". Tui với lấy cái áo bà ba
đen khoác trùm ngoài cái áo vá đang mặc, hai bàn tay còn
lọ nghẹ đen thùi, vừa đi vừa cằn nhằn :" Đi đâu
mà như ăn cướp, cái thằng khỉ đột này !". Xe bò
nó mượn của thằng Bảy chuyên đi rừng đốn củi, nó
giơ cây đót quất cái trót vào mông con bò y chang một
tay đi rừng thực thụ. Tui xót con bò già, giằng lấy cái cây.
Đó là một cây roi dài, đầu mút là một cái gai
nhọn, dùng để quất vào mông con bò để nó đau, sợ
mà đi nhanh. Thiệt nhẫn tâm, da bò dày vậy mà đót một
cái là rịn máu liền, cho nên mông con bò kéo xe nào cũng
lấm tấm thẹo đốm... Xa lắm, đâu mấy cây số đường
rừng. Loáng thoáng vài người lom khom cuốc bên những vạt đất
rừng mới dọn, khói đốt cành từng đống mù mịt, lá
rừng cháy ngay ngáy buồn buồn... Thằng Út chợt chỉ tay về phía
trước, nó la "Èng éng eng !". Tui trợn mắt, chợt tức ngực,
ngộp thở... Kìa một rừng mai vàng rực, bát ngát. Hương
mai ngan ngát, ngọt dịu như màu vàng vương giả. Một cơn gió
thoảng, mai rụng lấm tấm, phơi phới, thoát tục. Tui nhảy xuống
xe, len vào giữa những cây mai già cỗi, tay run run sờ từng cành
lớn xù xì, hít vào đầy phổi cái không khí dịu
dàng tĩnh lặng của rừng mai, tự nhiên nước mắt chảy ròng
ròng... Cả rừng mai nhìn xa thì đẹp vô cùng, nhưng
chặt một nhánh đem về chưng Tết đỡ ghiền thì xấu hoắc
vì nhìn kỹ, cánh mai rừng không đẹp, năm cánh nhỏ xíu
như cái móng tay đứa con nít, dầy dầy, thưa thưa. Nhánh
không khí lực, cành không thứ lớp, nụ xơ rơ bé tí.
So với mai cánh tròn hữu lực, mai cánh nhọn ẽo ợt, thì cánh
mai rừng (nghe dân ở đây họ gọi là "mai sẻ") đơ
đơ, thưa thớt, để lộ khoảng trống giữa năm cánh, giống
như mai vườn bị... suy dinh dưỡng ! Đó là lần đầu tiên
cũng là lần cuối cùng tui được ngắm rừng mai. Tiếc là
lúc đó nhà suy sụp rồi, đâu có máy chụp hình để
chụp lại cảnh rừng vàng ươm làm kỷ niệm ! Nhiều lần
tui muốn trở lại rừng mai nhưng anh Ba tui rầy, biểu con gái vô rừng
không nên, bộ bây muốn làm cô Huỳnh Mai trong "Hương rừng
Cà Mau" sao ! Ờ ờ, ở cái xó xỉnh chó ăn đá gà
ăn muối đó mà gặp được một người như anh chàng
Tư Lập trong truyện của Sơn Nam thì đoạn đời "ẩn sĩ
quy điền" của tui chắc cũng đỡ phần tẻ nhạt hic !
Nhà tui ai cũng mê màu mai vàng quí
phái (và rất không ưa mai tứ quí !), chớ không phải chỉ
vì nghe người ta nói mai tượng trưng cho sự chung thủy trong tình
yêu, vì nó luôn nở đúng hẹn vào dịp xuân về. Hồi
xưa anh Hai tui bay đi bay về Đà Lạt - Cần Thơ, Tết nào ảnh
cũng chịu khó xách về một cành đào và một bó glaïeuls
đỏ thẫm để chưng mấy ngày xuân. Đào Đà Lạt
màu hồng nhẹ, đẹp thanh tân chớ không đỏ lòe như đào
Bắc, glaïeuls thì sang trọng, nụ hoa chắc mẫm, đỏ rực, tuy vậy
vẫn phải nhường chỗ cho cành mai vàng nghiêng mình trang trọng
giữa phòng khách trong cái lục bình cưng của ông Ngoại, và
mai năm nào cũng phải là một cành lớn có nhánh dài rũ
xuống la đà, nhánh chi chít nụ vươn ra gần hết chiều dài
cái bàn cẩm lai. Nhắc tới Tết
gia đình, sao mà nhiều kỷ niệm ! Một chuyện đã đi vào
giai thoại tham ăn của thằng em út nhà tui, đó là một đêm
giao thừa, lúc đó tui cỡ mười tuổi, thằng Út tám. Thông
thường, mấy người lớn hay thức suốt đêm Ba mươi, còn
tụi con nít thì thức góp chuyện một chút đã ríu mắt
rồi. Ngủ được một giấc dài, thấy no mắt rồi, tui thức
dậy lắng nghe, mấy người lớn vẫn ngồi nói chuyện rôm rả
ở phòng ngoài, pháo vẫn đì đùng gần xa. Tui tưởng
gần sáng rồi, con nít mà, nôn Tết muốn chết, lật đật
thức dậy đi rửa mặt súc miệng. Nghe Má la : "Mới hai giờ
sáng hà con, đi ngủ lại đi". Tui quê quá, cười ngỏn
nghẻn, chợt ngó vô phòng thấy thằng Út đang ngồi chông
ngốc trong mùng, chắc cũng tính thức dậy, thấy tui lỡ bộ, nó
bèn nằm xuống ngủ tiếp. Chợt nghe anh Ba nói : "Hay là
mình khui trái vải ăn đi" (thời đó trái vải hộp Đài
Loan ngon lắm, nhà tui có cái "gu" bỏ trái vải vô ngăn
đá tủ lạnh, để cho nó đặc sột sột ăn ngon tuyệt
cú mèo!). Chị Hai nói : "Thằng Út mà nghe thế nào cũng
tỉnh ngủ liền cho coi". Thấy anh Ba nháy nháy: "Nó ngủ say rồi,
tụi mình ăn hết đừng cho nó hay". Anh Ba đi dạy thì nghiêm
khắc, mà về nhà hay giỡn cù nhây lắm, biết tánh thằng
Út ham ăn, và cũng biết nó chưa ngủ lại, ảnh quyết tâm
chọc nó tới bến, mới làm bộ lấy muỗng gõ leng keng vô
ly rồi biểu chị Tư : "Con Mai đi lấy đồ khui coi, ngồi đó
nhăn răng cười hoài !". Chị Hai nói : "Tao đi lấy nước
đá đây!", vừa nói chỉ vừa bụm miệng ráng nín
cười. Trong mùng, thằng Út nãy giờ ráng nằm im mà tức
lắm, tức anh ách, tức cứng ngực, cục tức nó bự tràn rồi
vỡ bờ : "Hụ hụ hụ hụ hụ !!!" Ổng khóc quá trời
quá đất luôn, làm mấy anh chị em tui được một bữa cười
đã đời. Sau này lớn rồi thằng Út vẫn hay bị đem chuyện
này ra chọc hoài, nó ghét lắm. Ôi, những ngày xưa
xum họp hạnh phúc nay còn đâu ! Sao tui muốn khóc quá bạn ơi
! 3/2/10 - Còn đúng mười ngày
nữa là Tết. Vừa dạy học vừa dọn dẹp nhà cửa mệt
muốn tắt thở, lại bị thằng nhóc dụ khị : "Mẹ à, Tết
rảnh mẹ con mình làm cơm rượu ăn nghe". "Mẹ con mình"
có nghĩa là tui nấu nếp trộn men, vắt sơ, còn nó thì
vo lại cho chắc viên cơm rượu rồi bỏ vô keo. Cơm rượu
bán ngoài chợ mắc như quỉ mà còn sợ tay người ta không
sạch, làm ở nhà rẻ hơn nhiều lắm, chỉ có cái ngồi
vắt rồi vo, mỏi vai đau lưng lắm, nấu nửa ký nếp ngồi vo
"oải chè đậu" luôn. Bởi vậy người ta bán mắc là
do nặng công chớ không phải do nhiều vốn. Cơm rượu người
Bắc thì khỏe re, nếp lứt trộn men rồi bỏ đại vô thố,
chừng được lấy muỗng xúc ăn. Tùy theo gu, người Nam chê
cơm rượu người Bắc bời rời, xột xột, hậu chua chua. Người
Bắc chê cơm rượu người Nam ngọt khé cổ, "bố ai mà
ăn được" !!! 5/2/10 (22 âl)
- Mấy ngày giáp Tết vệ sinh nhà cửa lu bu muốn chết mà có
bà lối xóm chạy qua rủ rỉ nhờ coi tướng con dâu tương
lai, trời ơi làm như mình là thầy tướng số thứ thiệt
không bằng. Tui không thể nhận lời, vì biết một câu nói
của mình có thể ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân đại
sự của người ta, sợ thất đức, nên tui chỉ khen con nhỏ sáng
láng chớ không chịu coi tướng, viện lý do "thầy tướng"
còn "non tay". Thật sự con nhỏ giọng kim quá cao nghe the thé và
cặp mắt bự nhưng lộ quang sáng rực như minh tinh Lâm Đại ngày
xưa, chắc là không ổn rồi. Ôi trời cũng là duyên số
hết ! Nếu Nguyệt Lão đã lấy chỉ đỏ cột hai thanh tre quăng
xuống hồ, tụi nó có duyên với nhau thì chạy trời không
khỏi nắng hai đứa tụi nó cũng phải gắn bó với nhau cả
đời để... trả nợ cho nhau ! Chuyện
coi tướng cô dâu này làm tui chợt nhớ một chuyện buồn của
gia đình bạn anh Ba tui. Trong đám bạn từ hồi còn để chỏm
của anh Ba có một anh tên T, anh này hiền lành, hay cười, gương
mặt tròn vo hao hao ca sĩ Thanh Phong (ban tam ca Sao Băng hồi xưa : Thanh Phong, Duy Mỹ,
Phương Đại). Ảnh vốn là giáo sư nhưng không biết sao
lại bị đi sĩ quan. Mỗi lần anh T về phép, anh Ba tui hay kéo cả
đám bạn bè về nhà họp mặt ăn uống. Một bữa nghe mấy
ảnh nói lén về tướng mặt của vợ sắp cưới anh T : "Sao
kỳ quá, con nhỏ có nụ cười buồn bã gì đâu!".
Lấy vợ đâu được vài tháng, anh T tử trận. Lần đó
thấy anh Ba tui khóc hai mắt đỏ hoe... Lại nhớ lúc tui mới
chừng mười bốn mười lăm gì đó, có nghe Ba tui nói
tướng con QN công danh lận đận, chỉ được cái hậu vận
bình an, nhưng quí mà không phú. Mình còn con nít, chẳng
có ý niệm gì về ba cái tướng số, giờ gẫm lại dường
như cũng... không sai mấy ! 8/2/10 (25 âl)
- Mệt mỏi. Làm hoài sao không hết việc. Loay hoay, loay hoay. Lăng xăng,
lăng xăng... Lắm lúc thấy mình giống hình ảnh viên
cỏ lông chông. Viên cỏ tròn xoe như một đóa bồ công
anh khổng lồ, cứ bay lông chông theo gió qua những đồi cát miền
Trung trơ trọi cằn cỗi. Gió thổi tới đâu, cỏ lăn tới
đó. Lăn tới vô cực hay lăn tới buổi hoàng hôn của cuộc
đời rồi nằm xuống vô danh ? Tôi
có chờ đâu, có đợi đâu Đem chi xuân lại
gợi thêm sầu? Với tôi, tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau! Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho
tôi những lá vàng? Với của hoa tươi, muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang! Ai biết hồn tôi say mộng ảo Ý thu góp lại cản
tình xuân? Có một người nghèo
không biết Tết Mang lì chiếc áo độ thu tàn!
Có đứa trẻ thơ không biết khóc Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran! Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc
cuối ngàn. (Xuân - Chế Lan Viên) TCQN 02/2010 - Xuân Canh Dần LOANH QUANH CHUYỆN TẾT NHỨT Trần Bang Thạch
1.NỖI MÌNH CUỐI NĂM
Cuốn lịch của năm Ất Mùi đang mõng
dần. Không còn bao lâu nữa tờ lịch cuối sẽ bay đi. Chợt
nghĩ đến nhiều điều. Có những điều - thật nhiều điều
- mơ mơ, hồ hồ, không rõ tên, không định hình, định
tướng. Nghĩ đến cuộc sống trước măt? Nghĩ tới con,
tới cháu, bà con quyến thuộc, thân hữu bạn bè? Nghĩ tới
một quê hương ở xa? Nghĩ tới ngày về hưu, về kinh tế
thế giới? ...Tất cả những điều này mình đã nghĩ nhiều
rồi, nhiều ngày, nhiều năm rồi; đâu phải đợi đến
những ngày năm cùn tháng tận này, bây giờ. Vậy thì mình đang suy nghĩ điều gì?
Có phải bắt nguồn từ một bài cổ thi vừa đọc được?
Nhân
giai dục đắc trường niên thiếu Vô ná bài môn bạch phát thôi Nhất hướng phá sầu, sầu bất tận
Bách phương hồi tị
lão tu lai Trên đây là 4 câu đầu của bài Đường
thi thất ngôn bát cú Tuế Vãn Tự Cảm của nhà thơ
Vương Kiến (751-835). Bài thơ do 1 vị thầy cũ của Nhóm Thơ
Thẩn Cho Vui của thầy trò chúng tôi gởi tới và thầy cũng
đã cắt nghĩa từng câu và dịch toàn bài, 8 câu. Cá
nhân tôi trước đây có đọc vài bài thơ của Vương
Kiến nhưng chưa thấy bài này; hay đã thấy nhưng đọc
vào những hoàn cảnh không gian, thời gian không thích hợp để
tạo nên ấn tượng, kéo theo sự suy nghĩ của mình. Thầy PKT
ơi, những ngày gần cuối năm và gần cuối đời của thầy
lẫn trò mình, thầy đã giương cung nhả ra mũi tên Tuế
Vãn Tự Cảm và bản dịch Nỗi Mình Cuối Năm làm
trúng tim nhiều người. Phải là nhiều người vì đã
có thơ phụ họa từ Hoa Kỳ, Việt Nam, Pháp, Úc... Nỗi Mình Cuối Năm PKT
Trẻ
mãi suốt đời ai chẳng muốn, Nhưng sao ngăn được tóc sương pha. Sầu đong vô tận bao giờ cạn, Già tránh trăm phương vẫn cứ già.
Những ngày cuối năm thường khiến cho người
ta đếm tuổi và có những nỗi lo bâng quơ, cả những nỗi
buồn mông lung. Nỗi mình cuối năm. Phải rồi! Những ngày
này mình đã nghĩ nhiều đến nỗi mình, điều
mà trước đây mình chưa hề nghĩ, hay nghĩ một cách rất
lờ mờ khi cái tuổi của mình còn xanh, hay ngay cả lúc nó
tròm trèm, trên dưới sáu mươi. Bây giờ thì mình
đang lần mò bước qua mấy chặn đường đi đến cái
đích "cổ lai hi" thì những câu thơ "Sầu đong
vô tận bao giờ cạn" bay đến, ghim ngay vào cái bầu tâm
sự của mình. Hỏi sao mà không suy nghĩ? Cái trẻ thì
không thể giữ mãi, cứ đi đi, được thôi. Vạn vật
trên trái đất nầy có cái gì là không lão hóa.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn
thanh. Tóc sương pha thì cứ pha cho bạc trắng. Tóc bạc,
da mồi chỉ sự sống lâu mà! Cái già muốn đến thì
cứ đến, "cổ lai hi" mà! Chỉ có cái sầu là coi mòi
không ổn. Có mấy ai càng già càng vơi cái sầu? Hình
như cái sầu và cái lo ở tuổi già là anh em họ. Ai cũng
muốn lánh xa cặp bài trùng này mà xem ra chẳng dễ. Càng
già càng lo. Càng lo càng sầu. Tâm sầu bạch phát. "Nỗi
mình" là ở đây. Cái lo cho mình có đó mà
như đang ở đâu đâu, mênh mang trời đất, nó chạm
vào tỉ tỉ nơ-rôn của mình bất cứ lúc nào, cho nên
nó vô tận, nó cứ đầy. Nhiều cái sầu không tên không
tuổi, không hình không tướng là vậy. Hôm qua nhận một lá
thư dài của một thầy cũ gởi từ Aulnay, Pháp quốc. Thầy viết:
" Sống qua cái tuổi 60, được năm nào coi như được
trời cho năm đó, kể như được thêm "bonus". Thầy đã
được "bonus" hơn chục năm rồi, còn các em chắc cũng
được vài ba năm. Những năm "bonus" mình chỉ cần sống
lành, sống đẹp, sống an lạc, thảnh thơi...Thầy tin tưởng ở
"nhân quả", mình gieo nhân tốt thì sẽ gặt hái được
quả tốt". Nghĩ cho cùng cái sầu của mình là do cái
lo. Lo cho mình thì ít mà lo cho người thì nhiều. Sống lành,
sống đẹp là cách sống hai chiều: Lấy cái Nhân để
sống lành cho người là đem về cái Quả nhãn tiền,
chính là cái đẹp, cái an lạc, thảnh thơi cho mình. Sống
như vậy không phải là dễ.
Biết là "Sầu đong vô tận bao
giờ cạn" Nhưng vẫn cứ nghĩ tới cái nỗi mình. Tuổi
sắp thêm, sắp thêm "bonus" mà bao nhiêu cái lành, cái
đẹp mình sẽ làm được đây, trong những năm tháng
tới để tạo cái nhân? Bây giờ bắt đầu thì
coi như đã trễ! Trễ còn hơn không! Cuối cùng, có lẽ
sự lo nghĩ cuối năm - nỗi mình- là ở đó. Ý nghĩ nầy dẫn người viết đến 1
bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác. 2.TRƯỚC MẮT VIỆC ĐI MÃI / TRÊN ĐẦU GIÀ ĐẾN
RỒI Có một bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác
(1052-1096) từ nhiều năm nay thường được giới văn nhân và
các phương tiện truyền thông đại chúng nhắc tới mỗi
lần năm hết tết đến. Đó là bài thơ chữ Hán gồm
6 câu, tổng cộng 34 chữ tựa là Cáo Tật Thị Chúng. Đa
số những bài viết hay bài nói thường không nhắc toàn
bộ bài thơ mà chỉ nêu hai câu cuối, có lẽ vì nó
có chất thơ và chất thiền, lại phù hợp cho những bài
viết về Xuân: Mạc vị xuân
tàn hoa lạc tận Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai mà có
người dịch là: Đừng tưởng
xuân tàn hoa rụng hết Đêm
qua, sân trước, nở cành mai
Cái khám phá thích thú có lẽ
là ở điểm này: bài thơ thường xuất hiện trong các
bài viết về Xuân nhưng rõ ràng không phải là một bài
thơ Xuân. Tứ của bài thơ (thi tứ) không phải là miêu tả
cảnh sắc của mùa Xuân. Mặc dù hai câu mở đầu tác
giả có nói: Xuân khứ bách
hoa lạc Xuân đáo bách
hoa khai tức là Xuân đi có
trăm hoa rụng, Xuân sang có trăm hoa nở và hai câu kết, như
đã nêu ở trên, cũng có xuân, có hoa, đặc biệt là
có hoa mai; nhưng rõ ràng tứ thơ nằm ở chỗ khác. Nó nằm
ở tựa bài thơ là Cáo Tật Thị Chúng tức là Có
Bệnh Báo Mọi Người. Hoàn cảnh để viết bài thơ
có thể tạm suy diễn thế này: Một ngày tác giả có bệnh,
chắc là vào một ngày Xuân, tác giả nghĩ tới mùa Xuân
rồi nghĩ tới mình cho nên viết bài thơ trên. Và tứ thơ
được thể hiện rõ ở hai câu thứ 3 và thứ 4: Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai dịch là: Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi. Như vậy tác giả
đã mượn mùa Xuân để nói tới một đời người.
Xuân đến Xuân đi. Người đến người đi. Đi nhưng
còn để lại một cái gì. Như một cành mai mới nở của
một xuân qua. Như một dư âm của một hồi chuông đỗ. Như
cái còn lại của những năm tháng trôi trên phận người.
Cái còn lại không phải là bất kỳ một cái gì. Càng
không thể là cái xấu. Trước
mắt việc đi mãi Trên đầu
già đến rồi. Đọc 2 câu
thơ được viết hơn 900 năm trước mà như nghe đâu đây
tiếng lao xao của những mắc xích đời mình. Biết bao điều
đã đi qua rồi. Tóc đã bạc trên đầu. Hơn bảy mươi
mùa Xuân đã đi qua mà trước sân đời của nhà
mình có mấy lần hoa nở? Mình đã làm được gì
đâu mà tuổi đời gần cạn. Thiền sư Mãn Giác chỉ
sống có 44 năm. Sống một đời đạo hạnh, thanh cao, nho nhã.
Cành mai đời Người mà Người để lại chắc nhiều
hoa. Bài thơ trác tuyệt Cáo Tật Thị Chúng là một.
Hiểu được lẽ sinh lẽ diệt không
phải là chuyện dễ. Trước ngài Mãn Giác, Thiền Sư Vạn
Hạnh cũng đã dạy: Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhâm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô Rõ ràng thân người như ánh chớp, có
rồi trở lại không. Cũng như mùa xuân cây cỏ tươi tốt,
đến mùa thu thì tàn tạ khô héo. Lẽ thịnh suy là vậy,
hơi đâu mà lo sợ vì thịnh suy thay nhau như khoảnh khắc của
hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Sống chân thật với mình và với người thì sá
gì cái lẽ thịnh suy. Biết sống như vậy là điều không
dễ. Cuộc đời cũng đâu có dễ cho người đời!
Càng không dễ cho người biết sống!
Ngày xuân tàn, đâu phải trước
sân nhà ai cũng còn một đóa mai mới nở ! 3.THÊM MỘT CÁI TẾT THA HƯƠNG Bạn thân
mến xa xôi, Lâu lắm không có
thư gởi bạn. Biết bạn trông nhưng không làm sao được.
Hết việc này tới việc kia chúng bám theo mình như hình với
bóng, bám gần 40 năm qua mà chưa buông. Nhớ khi xưa, việc của
sở làm thì không chạy được. Tự động bứt nó ra
thì nhận giấy báo màu hồng mang đến sở xã hội xin tiền
thất nghiệp. Còn vài công việc có tính cách văn hóa,
xã hội mình tự góp tay vào dù có bận cách nào thì
vẫn không muốn bỏ. Nó là chất bổ dưỡng, là thuốc
an thần cần thiết cho cuộc sống rất ư là nhức đầu ở
đây. Đi làm về khuya, ngồi gõ cho xong cái truyện, thấy hạnh
phúc làm sao. Họa hoằng có một ngày nghỉ cuối tuần để
có dịp tham dự một buổi thuyết trình về văn hóa, thấy
một ngày có ý nghĩa. Ước chi một ngày có 36 tiếng đồng
hồ chớ không phải là 24 để mình được thông thả
một chút làm chuyện này chuyện nọ, và để có thể
ầu ơ ví dầu với bạn cho vui. Nhiều khi tôi nghĩ có người
để san xẻ, để trút bầu tâm sự cho cái đầu bớt
quẩn cũng là cần thiết. Thiên hạ ở đây với những cái
đầu đầy chữ nghĩa và bằng cấp chắc cần phải giải
quyết mấy cái quẩn nầy trước hơn ai hết. Ở một nơi xa
xôi, đèo heo hút gió ấy chắc bạn không nghe chuyện mới
ràng ràng đây của một chàng địa ốc gần năm mươi
tuổi, nhân đêm Giáng Sinh, chàng mặc quần áo ông Santa Claus
đến nhà người vợ cũ rồi nả súng bắn chết cả chục
người kể cả cái mạng của mình. Mấy năm trước
nữ phi hành gia có học vị tiến sĩ, nghề nghiệp vững vàng,
chồng con đề huề, yêu ngang hông một đồng nghiệp, lại mang
tội mưu sát tình địch. Cũng mấy năm trước một nữ
nha sĩ cũng mang tội sát hại ông chồng nha sĩ bằng chiếc Mercedes.
Trước đó đôi năm, một nữ y tá vợ một kỷ sư
phục vụ tại Trung Tâm Không Gian Hoa Kỳ, gọi tắt là NASA, trấn
nước giết tất cả 5 con ruột trong bồn tắm nhà mình. Cả
3 người đàn bà nầy đều thuộc giới thượng lưu trí
thức và cùng cư ngụ trong vùng gia cư sang trọng Clear Lake của Houston.
Tại làm sao vậy? Chất thuốc an thần nào để chữa những cái
quẩn này đây? Tôi thì không lo rồi. Tôi có những bạn
văn. Tôi có những sinh hoạt bổ dưỡng tinh thần. Và tôi có
bạn để tâm sự mà. Phải không bạn? Bạn thân mến xa xôi, Hôm
nay là ngày đưa ông táo về chầu Ngọc Hoàng. Bên ấy
bạn cũng sắp đón Tết. Xuân là của đất trời mà.
Chỉ có cái khác là bạn đón xuân trên quê hương
mình. Còn tôi thì đón xuân lử thứ. Đón mấy mươi
cái xuân như vậy rồi! Bạn xem có não lòng chưa? Cứ mỗi
lần Tết đến là nhớ câu thơ Thế Lữ để mà buồn
thêm: Rũ áo phong sương nơi gác trọ/ Lặng nhìn thiên
hạ đón xuân sang. Còn ông Thanh Nam hơn ba mươi năm trước
đã lia thêm một nhát chém vào tâm sự của người ly
hương: "Một năm người có 12 tháng, ta có năm dài
một tháng Tư".Tôi đã ở trên đất nước nầy
dài hơn thời gian tôi sống trên đất nước mình. Và
sẽ sống nơi đây cho hết đời, chắc vậy. Nhưng mà không
hiểu sao mình vẫn không bỏ được cái ý nghĩ cho rằng
nơi đây vẫn là đất tạm, là một thứ quán trọ.
Cho nên cái Tết nào cũng khiến mình buồn bã vu vơ vì
tết nào cũng là Tết Tha Hương. Bỗng nhớ mấy câu thơ
cũ của mình : nên mỗi ngày qua thêm một nỗi buồn riêng thêm một chút ngậm ngùi cố thổ ở ở, đi đi ta làm khách trọ sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên đường
để
mỗi đêm dài điếm cỏ cầu sương ta mơ làm người Lý Bạch đê đầu tư cố hương để thấy hồn mình lượn lờ nơi viễn
phố. Hôm nào cắc cớ, bạn thử hỏi những người
mà bạn quen biết đang sống xa quê hương để xem bạn có
được mấy người chờ xuân, đón xuân và vui xuân
với tâm trạng y chang như thời trước ở quê nhà. Lý do đơn
giản là Tết ở đây là tết ly hương; ngày Tết của
mình đâu có nằm trong danh sách những ngày nghỉ lễ của
nhà nước. Cho nên ai cũng phải đi cày như mọi bữa. May mắn
lắm có được ngày tết rơi vào cuối tuần thì đi
một vòng hội chợ tết để có cảm tưởng mình cũng
ăn tết như ai. Nhưng bạn ạ, nhìn những em bé mình càng thương
cảm chúng nó hơn. Các cháu cũng tươi cười nhìn lân,
nghe pháo, cũng rối rít nhận tiền lì xì. Các cháu bây
giờ ở đây đâu có biết chờ Tết. Thấy múa lân
ngồ ngộ thì cười thôi. Nghe pháo nổ từng tràng dài thì
thích thú; đâu biết đấy là những tập tục rất đặc
thù thường chỉ xảy ra vào dịp tết đã có từ lâu
đời trên quê cha và đã trở thành những sinh hoạt có
tính cách văn hóa của nước mình. Điều tội nghiệp
khác nữa là các cháu cũng không có cái háu hức của
mình thời trẻ. Thời đó "chờ tết" hình như thú
vị hơn "ăn tết", phải không bạn? Đứa trẻ thời ấy
mỗi năm đón Tết từ đầu tháng Chạp, hay trước đó
nữa, khi người người trong gia đình chuẩn bị ăn tết. Đón
Tết qua những đêm ngủ gà ngủ gật nhìn mẹ tráng bánh
phồng bánh tráng, nhìn bà gói bánh tét bánh chưng, nhìn
chị làm bánh mứt. Bộ đồ mới bằng vải sọc đơn
sơ, đôi guốc vông có quai bằng mũ trong vắt có vẽ mấy
cánh mai vàng cũng đủ làm đứa bé thời đó sung sướng
quên ăn, tối nằm ôm đôi guốc, gối đầu trên giấc
mơ đẹp mà ngủ. Ngày Tết cùng các bạn nhỏ kéo nhau
đi trên đường làng, trên đường phố, tay cầm cây
pháo chuột, miệng cắn hạt dưa đỏ mồm miệng. Gặp người
lớn khoanh tay cúi đầu mừng tuổi, đôi khi được vài cắc
lì xì. Ghé nơi nầy đặt mấy xu trên trái bầu, con cua.
Ghé nơi kia xào bài ba lá. Sao mà vui quá chừng. Đứa bé
nơi ấy thời ấy ăn tết ăn nhứt thỏa chí thỏa tình. Thời
đó đứa bé sống trong cái háu hức chờ Tết và vui
Tết của cả làng, cả phố và của cả dân tộc. Cho nên
người ta nói vui như tết, thật chẳng sai. Các cháu ở đây tuy không cảm nhận được
hết ý nghĩa sâu xa và tinh thần dân tộc trong 3 ngày tết, nhưng
khi các cháu có dịp cùng vui chơi trong những hội tết được tổ
chức hàng năm tại nhiều nơi có đông người Việt thì
các cháu đã phần nào sống với văn hóa mình. Các
em thấy, các em tham gia rồi dần dần các em hiểu và sẽ duy trì
nó. Tôi không thể tưởng tượng ở một nơi nào đó
bây giờ, hay ở những năm nào đó sau nầy không có một
hội tết nào được người mình đứng ra tổ chức thì
mình ăn tết ở đâu, cụ già dẩn các cháu đi đến
đâu để cho ông cháu sống vài giờ với cái tết dân
tộc? Không có Hội Tết hàng năm thì ngày tết sẽ âm
thầm lặng lẽ trôi qua và các cháu thì không biết Tết
Nguyên Đán là gì. Bạn thân
mến xa xôi, Tết tha hương thì
buồn thật, nhưng những cái tết trên quê hương đã một
thời in sâu trong ký ức mình cũng phần nào làm lòng mình
ấm trong cái lạnh của mùa xuân xứ người. Trần Bang Thạch
|
|
|