|
|
|
THƠ & TRUYỆN GIÁNG SINH
2019: 1.Trầm Vân - 2.đoàn xuân
thu - 3.Kim Quang - 4. Xướng họa: Danh Hữu, Mailoc - 5.Dương Hồng Thủy 2015: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Trầm Vân, Kim
Oanh, Đông An, Danh Hữu Nguyên
Nhung, Huỳnh Minh Bích Nga, Dương Hồng Thủy, Trần Bang Thạch _________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ Thơ, truyện Giáng Sinh 2019: 1.
TRẦM VÂN: 2.
TẠP GHI đoàn xuân thu: Mùa Giáng Sinh vui! Hồi xưa, quê mình tựu trường
vào tháng Chín, học riết tới tháng Sáu mới bãi trường,
nghỉ ‘hè' (tức ra hè mà nghỉ). Còn Úc tựu trường
vào cuối tháng Giêng; bãi trường vào cuối tháng Chạp,
cũng là nghỉ ‘hè', ra biển chọc cá mập cho nó ‘phập'.
Niên học chia ra làm 4 học kỳ; cứ học
9, 10 hoặc 11 tuần là nghỉ xả hơi hai tuần, ở nhà ‘quậy'.
Cuối học kỳ 4, nghỉ lâu nhứt tới 5 tuần cả thảy, để
học trò ăn lễ Giáng Sinh, Merry Christmas và mừng Năm mới, Happy New
Year! Mùa lễ hội của Mỹ bắt
đầu từ lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) tới giao thừa Tây. Còn ở
Úc là từ Melbourne Cup (Đua ngựa), thứ Ba đầu tiên, tháng Mười
Một tới giao thừa Tây. So lại, Úc
ăn rồi chơi nhiều hơn Mỹ. Hổng có gì lạ đâu, thưa
bà con, vì Úc nổi tiếng làm biếng nhứt thế giới mà.
Riêng người Việt tỵ nạn mình ở
Úc, hổng cần đợi tới cuối năm mới nhậu, cứ cuối tuần
là có ‘độ', tuần nào y như tuần nấy. Mùa lễ hội, Mít mình thì khoái ăn thịt
gà ta; còn Úc khoái ăn thịt gà tây. Nên đám gà
ta cà nanh với đám gà tây "Tụi bây chỉ bị ‘xử
đẹp' vào ngày lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh thôi hả?
Thiệt là may mắn! Bọn tớ, Chúa nhựt nào cũng đi chầu ông
bà ông vải hết trơn hè!" (Có anh mình hơi bị tự ti mặc cảm nên cảm thán rằng
tây bao giờ cũng hơn ta. Ngay gà ta cũng thua gà tây nữa! Nghĩ vậy
không hoàn toàn đúng! Đâu phải ta lúc nào cũng thua. Tùy
lúc chớ! Như tui nè hồi mới chân ướt chân ráo, bị
Úc nó chơi gác, ăn hiếp dài dài từ trong sở ra tới ngoài
đời. Nhưng ở đây lâu, mình mọc nanh, đâu có ngán
đứa nào. Biết điều, nhậu nhẹt bù khú với nhau; cầm
bằng ra vẻ ta đây là ‘Úc rặt', ngon hơn; thì xin lỗi...
nhà ai nấy ở, rượu ai nấy uống; vợ ai nấy ‘cự' vậy
thôi. Làm gì nhau hè?) ***
Nhớ mùa Giáng Sinh năm ngoái, dắt em
yêu đi mua sắm ở ‘High Point Shopping Centre' trong tiếng nhạc rộn ràng
Jingle Bells của mùa Giáng Sinh. Trong siêu
thị, có Santa Claus ngồi để bà con mình chụp hình kỷ niệm
(có trả tiền, dĩ nhiên). Santa
Claus gọi tui bằng ‘bro' tức ‘brother' (anh); trong lúc gọi em yêu của
tui bằng ‘cháu'. Em yêu khoái qua trời vì nghĩ mình vẫn còn
thuở thanh xuân; chẳng qua em mới vừa nhuộm tóc. Còn tui, giận xanh
râu luôn! "Ê! Santa kỳ thị tuổi tác phải không? ‘Boss'
của chú mầy là ai, kêu nó ra đây để tao chính thức
‘còm len' (than phiền) một chút coi!" Santa nghe tui hăm như vậy, mặt xanh chành như đít nhái,
vì sợ mất ‘job' nên giả lả là: "Take it easy mate!" (Thôi!
Bỏ qua đi Tám!) Tối về, khi em yêu
của tui đã ngáy ‘ò ó o', tui vẫn còn ấm ức, tức,
nên sau vài ly rượu đỏ; lên Facebook, tui gọi cho thằng bạn học
cũ bên Little Saigon để trút bầu tâm sự. Ai dè nó cũng va
vào hoàn cảnh đau đớn hịt như tui. "Để ăn mừng lễ Giáng Sinh, kiểu Mỹ, bắt
chước thần tượng Sở Khanh, mày râu nhẵn nhụi; áo quần
bảnh bao, tao bèn đi hớt tóc đầu đinh, xong còn nhuộm đen
kịt, không quên xức nước hoa ‘Xà neo' ba số 5. Mặc cái quần jean mới nè, có xé te tua
ở đầu gối, hết 150 đô, cái áo chim cò mới có chữ
‘Free hugs' (ôm miễn phí) nè hết 100 đô; đôi giày thể
thao Adidas gần 200 đô. Xong dung dăng dung dẻ, dắt trẻ đi chơi, đưa
em xuống phố trưa nay đang còn nhức mỏi hai vai. Sở dĩ đóng bộ đàng hoàng như vậy vì
tao muốn ‘xứng' với em yêu, mái tóc người vợ trẻ, từ
Hốc Bà Tó Việt Nam tao khều ra, rồi lãnh qua đây. Hai đứa ‘tính tình tang' lang thang vô siêu
thị. Em đòi chụp hình Giáng Sinh ở Mỹ để gởi về Tía
Má em bên ấy an tâm là em đang sống trong một cuộc đời nhung
lụa ở cái xứ tư bản giãy chết nầy. Ôi muốn là chiều! Dù chụp chỉ mấy tấm hình
mà bay hết một ông ‘Benjamin Franklin'. Trong lúc móc chi tới 100 đô,
đau quá; thì em yêu lại khoái quá chừng vì được
Santa gọi là cháu; còn hỏi em có muốn ngồi lên đùi nó
để chụp hình kỷ niệm hay không? Tao trừng mắt nhìn, em cụp xuống, hổng dám ho he gì ráo;
xong tao chuyển đôi mắt hình viên đạn qua Santa thì bất ngờ
thay, ‘giả' phân bua bằng tiếng Việt: "Con giỡn chút chơi mà
ghen tuông gì ông Ngoại?" Tao
ngạc nhiên đến ‘đứng hình' luôn. Người Việt mình
ốm yếu nhỏ con, thì làm sao kiếm được cái ‘job' mập,
làm Santa Claus, cho được chớ? Santa
Claus dê xồm nầy sợ tao ghen, nóng mặt lên là nó mũi ăn
trầu cái đầu xỉa thuốc; bèn tìm cách làm tao bớt giận
bằng câu chuyện làm quà là: "Từ hôm Lễ Tạ Ơn
là con Mỹ đen, vợ cháu đã tẩm bổ bằng gà lôi đút
lò rồi. Ngày nào cũng gà lôi và gà lôi, bụng lồi
lên nhưng trái khinh khí cầu. Mà nó cứ dụ: "Honey! Honey! Rán
ăn đi, cho mập cho có da, có thịt hai đứa mình giống hịt...mới
được! Chớ đứng gần nhau cứ số 1 và số 0 hoài, kỳ
quá. Hai nhờ cái thể hình ‘ú nu' như vậy mới kiếm được
‘job' mập, làm Santa Claus, thêm chút đỉnh tiền để bánh
mì bơ cho bầy con lủ khủ, ăn như xáng xúc! Vợ chồng dẫu
cày sâu cuôc bẩm suốt năm chỉ đủ cái bỏ vào mồm.
Phép thường niên 4 tuần, năm, honey cứ tụ bè tụ đảng
ăn nhậu hoài thì trước sau gì nhà nầy cũng thành ‘homeless'!"
Nhưng công bằng mà nói: tay Santa
Claus gốc Mít nầy nhận xét cũng hổng có trật! Hai đứa mình
giờ cũng già rồi. (Giống như cây thông Giáng Sinh, chủ yếu
để trưng bày, trang trí coi chơi; chớ đâu còn làm ăn
gì được nữa?) *** Mít dê Mít là chuyện thường tình!
Úc cũng hay dê sảng con gái Việt Nam mình lắm. Vì mấy em, mình
hạc xương mai, dáng đi uyển chuyển như ‘Thanh Tuyền' và giọng
nói ngọt ngào như ‘Đan Nguyên' vậy. Còn con vợ Úc của
nó, chụp hình Giáng Sinh hồi năm ngoái về nhà in ra để
lộng kiếng (liệng cống) mà giờ vẫn chưa xong. Mới đây nè bên Mỹ, có một em nặng tới
300 pounds vô ý đè chết ông chồng đó. Tay bạn nhậu người
Úc nghe tui kể chuyện khó tin nhưng có thiệt nầy xanh mặt mày
hết ráo, run run hỏi: "Hổng biết chừng nào sẽ tới phiên
tui?" Thằng bạn Úc nầy nó
tên là ‘Ó zì' (Ozzie), tui chọc quê gọi nó là "Ó
đâm' (‘đâm' phiên âm chữ ‘dump' nghĩa là ngu).
Qua nước người ta, nhiều phong tục tập
quán sở tại, không biết hỏi ai; chi bằng mình hỏi dân thổ
địa. Dẫu vậy có nhiều câu tui hỏi nó cũng bí lù
hè. (Thiệt là ngu thấy ớn). "Xứ
tao chuông nhà thờ luôn óng ả; còn xứ nầy sao ít nghe tiếng
chuông ngân?" Thì ‘Ó zì' cắt nghĩa: "Ít thiệt!
Nhưng lai rai cũng có! Úc, đất nước tự do, đa văn hóa,
đa sắc tộc, đa tôn giáo: Anh giáo, Thiên Chúa giáo, Cơ
Đốc giáo, Tin lành rồi đạo Phật, đạo Hindu, đạo Hồi...
và còn nhiều đạo khác Chuông
nhà thờ, giáo đường, đền chùa cũng có luật có
lệ. Nước Úc tự do không phải muốn làm gì là làm.
Điều căn bản nhứt của quyền tự do là trước hết phải
tôn trọng quyền tự do của người khác. Như Anh giáo tấu nhạc thánh ca trong giáo đường;
Phật giáo tụng kinh trong chùa; Hồi giáo trong ‘mosque; chớ không
có bắt ‘ô bẹt lưa' vọng ra ngoài đường như mấy
cái xứ Trung Đông." Biết
vậy, nhưng mỗi mùa Giáng Sinh, tui lại nhớ hoài, nhớ tha thiết
tiếng chuông nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, tui cùng em yêu
(40 năm tình cũ) tay trong tay tan lễ nửa đêm ngày ấy. *** Thằng bạn
Úc ‘Ó zì' của tui cũng tin vào Thượng Đế nhưng không
ngoan đạo lắm; ít khi đi nhà thờ trừ những ngày lễ lớn.
Năm rồi, Thánh lễ nửa đêm
vừa xong, linh mục chánh xứ làm chủ lễ đứng trước cửa,
bắt tay giáo dân chúc: "Merry Christmas!" Một mùa Giáng sinh vui!
‘Ó zì' bước tới; vị
linh mục bắt tay nó, rồi kéo sang một bên nói: "Con phải
gia nhập Đạo quân Chúa Cứu Thế nhe!""Thưa Cha! Con đã
gia nhập rồi đó ạ!" "Ủa! Sao cha ít gặp con quá! Năm
chỉ hai lần, một vào lễ Giáng Sinh; hai là vào lễ Phục Sinh?"
"Thưa Cha chẳng qua trong Đạo quân Chúa Cứu Thế con làm việc
cho Sở Mật vụ!" ‘Ó zì'
có một đứa con trai tên là "Oi' năm nay lên 8 tuổi. Sở dĩ
đặt tên con là ‘Oi' vì năm nào tranh giải quần vợt quốc
tế mở rộng, vào đầu tháng Hai tại Melbourne nè, Úc thắng
được chỉ một cú đánh là cố động viên một
đứa xướng lên "Ozzie! Ozzie! Ozzie" Cả khán đài phụ
họa hò reo ‘Oi! Oi! Oi" Vui hết biết! (Nếu dịch ra tiếng
Việt mình là "Úc! Úc! Úc! Ơi! Ơi! Ơi!" vậy
mà). Một vài ngày trước
Lễ Giáng Sinh, vợ vẫn còn đi làm nên ‘Ó zì' phải
lui cui dưới bếp. Thằng ‘Oi' đang chơi xe lửa chạy bằng pin, (quà
Giáng Sinh) trong phòng khách. Chiếc
xe lửa ngừng lại và giọng của ‘Oi' vang lên: "Tất cả
những thằng ‘quỷ hó' và những đứa con gái ‘cà chớn
lửa' xuống xe ngay. Đây là trạm cuối cùng. Hành khách nào
còn lại thì dán chặt cái ‘mông' vào ghế ngồi; vì
chiếc xe lửa sẽ xuống dốc để quay đầu trở lại. Nghe rõ
không mấy con bò tót ?!" ‘Ó
zì' nghe vậy, giận quá: "Nè không được dùng cái
ngôn ngữ đường phố, đá cá lăn dưa chợ Victoria trong
nhà nầy. Chú mầy là con nhà gia giáo! Giờ đứng vô góc
phòng, hai tiếng đồng hồ để ăn năn tội lỗi của mình.
Hết giờ phạt, chú mầy sẽ được tiếp tục chạy xe lửa;
nhưng hãy nhớ dùng ngôn ngữ thiệt lịch sư nghe không?"
Hai tiếng sau, hết giờ phạt, ‘Oi' lại
chơi với chiếc xe lửa. Lần nầy thì: "Hành khách lưu
ý! Lưu ý! Quý vị nào xuống xe lửa xin vui lòng nhớ mang theo
tất cả các hành lý của mình. Xin cám ơn quý vị đã
đáp chuyến xe nầy, Hy vọng đây là một hành trình thú
vị. Mong quý khách sẽ tiếp tục đi xe lửa nầy lần tới. Xin
đa tạ! Còn quý vị nào
còn ngồi trên xe, xin cảm phiền để hành lý dưới chỗ
ngồi của mình và xin nhớ không được hút thuốc trong xe.
Mong quý vị đã có một chuyến đi thoải mái và vui vẻ
với chúng tôi hôm nay. Xin cám ơn." Khi nghe con mình nói vậy, ‘Ó zì' rất lấy làm hài
lòng, bỗng nghe nó nói tiếp: "Còn quý khách nào đã
bị trễ hai tiếng đồng hồ; nếu bực bội thì xin than phiền
với ‘ông già cà chớn' đang nấu cơm trong bếp!"
Merry Christmas!
đoàn xuân thu. melbourne
3. KIM
QUANG 4.
XƯỚNG HỌA: Danh Hữu, Mailoc: Bài Xướng:
Giáng Sinh
" Rộn rã ngày về góp sức ta" Nghe sao mà,
ấm áp chan hòa !
Đường đời đâu mãi, sầu khôn
dứt;
Trần thế rồi ra, họa cũng qua.
"Nhộn nhịp Giáng Sinh, mừng Chúa Thánh
Tưng bừng Thế Nước, rực đèn hoa"
Dẫu là mơ mộng, là hy vọng;
Đất nước tuy xa, lòng chẳng xa !
Nói chẳng xa! dù cách núi sông,
Cuối năm, cánh thiệp mượn chim hồng :
Vài lời nhắn nhủ về quê mẹ,
Dăm tiếng hẹn hò theo gió đông.
Mỗi độ xuân sang, se sắt dạ,
Từng khi tết đến, vẩn vơ lòng.
Năm năm thêm tuổi, đầu thêm bạc,
Chồng chất thêm nhiều, bao ước mong ...
Danh Hữu
Paris 2015
*** Bài Họa:
Nỗi Niềm Cuối Năm
Song vắng năm tàn rượu với ta
Quê hương thương nhớ lệ chan hoà
Thời gian lặng lẽ nhanh nhanh bước
Cánh hạc rã rời thấp thoáng qua
Cúc trắng bên hè đã rụi cánh
Đào hồng sân ngọai sắp ra hoa
Ngày về hi vọng dường không thấy
Đất nước dân tình dạ xót xa !
Xót xa đầu bạc với non sông
Da diết tình quê gởi hạc hồng
Thiên hạ tưng bừng mừng Thánh Chúa
Một người rười rượi thắm chiều đông
Buồn tênh đất khách cho thương cảm
Lạnh lẽo đèn khuya khiến chạnh lòng
Đất nước dậm chân không chuyển đổi
Hết rồi hi vọng với hoài mong!
Mailoc
12-19-15
5. Dương Hồng Thủy Mùa Noel Năm Cũ Đêm
Noel chúng mình Giáo đường
sáng lung linh Ta hát mừng Thánh
Chúa Tìm nhau vai để dựa.
Ngày
ấy đã xa xôi Hai ta cách
biệt rồi Em đi không trở
lại Tình mình chỉ thế
thôi ? Đêm nay Chúa ra đời Nhưng ta buồn ngơ ngác Không thương con phận bạc Mỗi mùa Noel qua...
Sáng qua ta gói quà Gởi về người đi xa Một trái tim rướm máu Kẻ lảng tử không nhà. Dưới trời
sao lấp lánh Môi ta chừng tê
lạnh Chúc em được bình
yên Bên Thiên Chúa nhân
từ... Dương hồng Thủy
24/12/2018
_________________________________________________________________________ .THƠ GIÁNG
SINH 2015
Giáo Đường Galang
Giáo
đường lung linh bóng ,
Hương gió tràn mênh mông .
Trên trời
cao tiếng hát ,
Phút thiêng liêng
ngập lòng .
Bên tượng Mẹ kính yêu ,
Đôi
mắt sầu đăm chiêu
Trái tim từ sâu thẵm ,
Đã ban ơn thật
nhiều .
Thánh giá xa vời lắm ,
Theo gió chuông chiều ngân .
Tiếng
A-men trầm lắng ,
Hồn thánh thót mưa dầm
Dáng
xinh xinh tiên kiều ,
Êm
ái tiếng kinh chiều .
Muôn
hoa đèn lấp lánh , ,
Sao nghe lòng hắt hiu .
*** *** *** Nay , giáo đường
im bóng , Tôi lặng thầm mong
ngóng . Đôi mắt huyền nhung
trong , Còn vương mãi tơ
lòng . Gió , tóc huyền lay lay , Tôi nhớ nàng như say . Bài thánh ca đêm ấy , Ngàn đời thật khó phai
Lá rơi rơi mơ hồ , Mối duyên xưa xa mờ , Ôi ! làm tôi xao xuyến , Thuyền xa rồi bến mơ . Biết tới đâu
tìm kiếm , Sóng mắt huyền
nhung trong . Phút thần tiên quá
ngắn , Lưu luyến mãi không
cùng ! Mailoc
( 12-15-15 )
Giáo Đường
In Bóng
Giáo đường in bóng lung linh,
Gió
hương tràn ngập nghe tình mênh mông.
Trời cao tiếng hát
vút không,
Phút thiêng liêng bỗng
ngập lòng cô liêu
Ngước
nhìn tượng mẹ kính yêu,
Xa xăm đôi
mắt đăm chiêu bên trời.
Trái
tim sâu thẳm tình người,
Đã
ban ơn khắp cho đời ngát hương.
Cao cao trên nóc
thánh đường,
Tiếng chuông theo gió
gió luồn đưa chuông.
A-men trầm lắng u buồn,
Hồn như tắm gôi ơn nhuần Chúa ban.
Dáng xinh trong buổi
chiều tàn,
Yêu kiều gió quyện qua làn tóc ai.
Cầu kinh nho nhỏ bên tai, ,
Đêm sao lắp lánh cho dài ngẩn ngơ.
*****
Giáo đường im bóng ơ hờ,
Lặng thầm tôi nhớ ai chờ ai mong.
Nhìn trời ánh mắt ai trong,
Nghe như xao xuyến tơ lòng vấn vương.
Gió lay lay
tóc người thương,
Nhớ nàng
tôi nhớ nhớ dường như say.
Thánh
ca dìu dịu bên tai,
Tình tôi lãng
đãng khó phai ngàn đời.
Mơ hồ trông lá
rơi rơi,
Mối duyên xưa đã
xa rời bến mơ.
Lòng ôi, xao
xuyến bơ phờ,
Thuyền
mơ rời khỏi bến mơ mất rồi !
Biết đâu tìm kiếm
bên trời,
Mắt huyền tựa sóng
thu rơi mộng vàng.
Phút thần tiên
ngắn vội tan,
Luyến lưu lưu luyến
bàng hoàng niềm tây !
Đỗ Chiêu
Đức
(12-16-2015 )
(Cảm tác qua bài hát "Giáo
Đường Im Bóng" của Nguyễn thiện Tơ) Nô En Hoài Vọng
Mùa
Nô En lại đến Những tiếng chuông
leng keng Bóng ông già Nô En
Lờ mờ trong sương khói Đất chuyển
mình bối rối Rung từng cành cây
khô Mầm xanh nhú bật ngờ
Trên núi đồi hoang gió Giáo đường
hồi chuông đổ Mừng Chúa sinh
ra đời Tiếng đồng ca reo vui
Thắp sáng trời hy vọng Những câu kinh cháy
bỏng Cầu chấm dứt chiến tranh
Cầu muôn nẻo an lành Hoa tình thương rực nở Gió đong đưa nhịp
võng Đón bao người rong chơi
Phố lấp lánh nụ cười Niềm vui hòa nhịp thở Mình lang thang bên
phố Nhớ quá bóng em xa Chuông nhà thờ Đức Bà Gõ buồn lên quá khứ Nhớ Nô En ngày đó
Dắt nhau đến giáo đường
Tóc em ngát hương thơm Chúa mỉm cười độ lượng Câu kinh em
cầu nguyện Rực đỏ bờ môi
ngoan Chợt thấy bóng thiên đàng
Lửng lơ trên thánh giá Rồi Nô
En xa lạ Tình lầm lỡ chia ly
Chỉ còn xót xa ghì Bước chân buồn đơn lẻ Đêm Nô En quạnh
quẽ Gửi về em vần thơ
Có cho tình ngủ nhờ Trên bờ mi khép mở ? Có chớp dài nỗi nhớ
Kéo kỷ niệm về giăng Trái tim vỡ phiến băng Nô En về mở cửa ? Trầm
Vân Tiếng
Gọi Đêm Giáng Sinh Vô phương tìm kiếm
người ta Giáng Sinh về khắp mọi nhà người ơi Người
đang ở tận phương trời Có nghe tiếng gọi của tôi .....
nhớ người..??? Giáo Đường vắng bóng ai rồi Bên
hàng bạch lạp tôi ngồi tự soi Bóng tôi hoà lẫn bóng
người Nhưng đôi lòng vẫn tách rời hai phương Hồi chuông vang vọng Thánh Đường Tim tôi hoà nhịp nghìn
thương trăm lời Vang tiếng ca đến vạn nơi Nguyện xin Ân
Chúa cho vơi nỗi sầu
Kim
Oanh LẠY
CHÚA TÔI Cây thông
đứng- đèn hoa treo chớp tắt Ông Noel khẻ khẻ nhíu đôi mày Những hồi chuông rung đổ vọng đâu đây
Như giục giã mọi tâm hồn yêu
nước Lại Giáng Sinh
trên khắp miềnTổ Quốc Lòng
nao nao nguyện khấn Chúa Ngôi Hai Mắt
sáng ngời đức Chúa ngự trên cao Quì dưới Chúa con cúi đầu ước nguyện:
Đất Việt Nam cơ đồ liền một
dãy Từ tiền nhân dựng
nước thuở Vua Hùng Được
vẹn nguyên được an lạc thanh bình Vùng biển đảo đồng bằng cùng đồi núi
Người nông dân từ miền quê nhiểm
mặn Nước về nguồn
thắm ngọt cả non sông Dẫn
nước qua vạn nẻo dẫu thăng trầm Màu xanh lúa trãi dài theo gió lộng
Lạy Chúa Tôi nơi đèn hoa tối
sáng Phố thị đông xin Chúa
nhỏ hồng ân Kẻ sống gầm
cầu kẻ khố rách áo ôm Hết
đói lạnh giữa tiết trời băng giá Những trẻ thơ lạc loài nơi phố xá
Sống lang thang bởi số phận không nhà
Tìm miếng ăn với bao nổi xót xa
Không là bé bán diêm thời mông
muội Lạy Chúa Tôi
Việt Nam nhiều thứ "lạ" Chất
chồng lên trĩu nặng mỗi con người Chất độc lạ loan
ra như nước lũ Hại dân
lành vô tội nát tả tơi... Chúa Ơi! Giáng
Sinh chuông đổ ngân nga Mong niềm
vui tới mọi nhà ấm êm. Đông AnSaigon,
ngày 16 tháng 12 năm 2015 Mừng
Giáng sinh đến Giáng sinh lại
đến, nhớ quê xa, Mừng Chúa
trên trời, nở vạn hoa. Dẫu
cảnh vẫn y tuồng, lối cũ, Mà
người như đã khác, ngày qua. Ngọ Mùi tuế khứ chưa bình ổn, Thân Dậu niên lai ước thái hòa. Mong biết mấy, nước non vận hội,
Để ta về, góp sức quê ta.
Danh Hữu II.
TRUYỆN GIÁNG SINH 2015
NGỌN
NẾN LUNG LINH * Nguyên Nhung
Tôi không nhớ
được mùa Giáng Sinh năm ấy tôi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc
chỉ độ lên mười. Có lẽ đó là một mùa Giáng
Sinh khá buồn và ảm đạm vì các anh chị tôi đi làm,
đi học xa chưa về kịp, ở nhà quạnh quẽ chỉ còn hai mẹ
con. Thời thơ ấu, tôi thèm lắm những bóng đèn xanh đỏ
chớp nháy trên cây Giáng Sinh, một hang đá bằng giấy quết
mực đen với những tượng Thánh xinh xinh bằng đất nung. Nhưng
mộng ước ấy xa vời lắm đối với một đứa trẻ mười
tuổi quá bé bỏng, trong lúc mẹ tôi xoay sở lo cho các con cơm
ăn áo mặc là một gánh nặng nhọc nhằn, trên đôi vai
bé nhỏ của người đàn bà góa bụa. Là một đứa trẻ con, nhưng dường
như ông Trời đã cho tôi một tâm hồn khá nhạy cảm để
âm thầm tìm niềm vui cho mình từ những nhỏ nhoi nhất. Bởi vậy,
đêm Giáng Sinh năm ấy dù không có đèn sao nhấp nháy,
những trái châu xanh đỏ, nhưng tôi đã biết dùng những
chiếc kẹo đủ màu để treo lên nhánh cây dương xỉ
nhặt được trong khu nhà thờ, khi người ta đến đó trang
hoàng hang đá cho mùa Giáng Sinh. Duy nhất một ngọn nến trắng
bập bùng, ánh sáng lung linh hắt lên tường bóng một cành
cây và một bóng người. Ngọn nến trắng đêm ấy đã
làm cho cành cây và cái bóng của đứa trẻ thơ như
lớn hơn, in lên tường chập chờn một giấc mơ tuyệt vời
ấm áp. Tôi không nhớ được hết cảm giác đó vì
thời gian qua đi khá lâu, nhưng cảm nhận về ngọn nến trắng
thời thơ ấu đã giúp tôi vượt qua nhiều nỗi buồn, mỗi
khi lẻ loi, thất vọng, tôi vẫn cứ nhớ hoài ngọn nến trắng
mùa Giáng Sinh năm tôi mười tuổi. Tôi còn nhận được
một món quà đặc biệt của bà hàng xóm, bạn của
mẹ tôi, cho đến bây giờ dù thời gian qua đi mấy chục năm,
tôi vẫn hình dung ra được hình dáng và mùi vị của
nó: một củ khoai lang nướng. Món quà Giáng Sinh nghèo nàn của bà hàng xóm
quê mùa thật vừa bụng tôi lắm, dù rằng mẹ tôi có
làm vài món ăn đặc biệt cho ngày Lễ. Tôi mơ màng
nhìn ngọn nến lung linh soi lên cây Giáng Sinh của tôi, cứ gọi
như vậy vì nó là niềm vui có thể làm được của
một đứa trẻ con mười tuổi, củ khoai nướng gói trong mảnh
lá chuối còn nóng hổi, mùi mật ngọt của khoai bốc lên
thơm lừng, mùi rơm rạ hình như còn ủ trong lớp vỏ khoai
cháy xém. Nụ cười trìu mến trên khuôn mặt hiền lành
của bà hàng xóm, khi đưa cho tôi món quà Giáng Sinh nghèo
nàn ấy. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ khuôn mặt quê
mùa, chân thật của bà, củ khoai lang nướng đêm Giáng Sinh
ngày thơ ấu đã theo tôi vào đời. Khi trưởng thành,
những lúc bụng đói mắt cay, đời gặp lúc gian nan, buồn
tủi, tôi cũng nhớ củ khoai nướng, nhớ mùi khoai lang nướng.
Khi sung sướng hạnh phúc ở quê người, đời no đủ những
cao lương mỹ vị, tôi cũng nhớ mùi khoai nướng. Phải chăng
trong tôi vẫn vấn vương thứ TÌNH NGƯỜI nhỏ nhoi ấy, không
thể mua được bằng tiền. . . 2- Tôi
yêu đóm lửa ngọn nến trắng từ hồi còn thơ ấu, chắc
là ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm xưa cũng đi theo tôi
đến những chặng đường còn lại của đời người.
Có một câu chuyện tôi sắp kể ra đây, đó là câu
chuyện của ông cụ Rôbéctô tôi có dịp gặp ở ngôi
nhà nguyện. Mỗi ngày, sau Thánh Lễ buổi sáng, mọi người
đã lục tục ra về, ngôi nhà nguyện đóng kín cửa như
chìm trong yên lặng và bóng tối, chỉ còn lại duy nhất một
ngọn nến trắng trên bàn thờ. Ánh nến hắt lên tường
những chấm sáng lung linh, soi lên bức tượng Đức Mẹ bồng
con bằng thạch cao trắng toát. Nến trắng và tượng trắng, tất
cả chỉ là một màu trắng nhưng nghe trong thinh lặng chút bình
an tràn ngập tâm hồn. Tôi ngồi lại một lúc giữa những hàng ghế chỏng trơ
không còn ai, nhìn chăm chăm lên ngọn nến. Tôi ở lại một
mình chỉ vì thích đóm lửa nhỏ nhoi của ngọn nến, say
sưa nhìn đóm lửa lay lắt tỏa ánh sáng hắt hiu xuống
chiếc khăn trải bàn cũng màu trắng, trong cái tĩnh lặng của
tâm hồn. Tôi không cầu nguyện gì đâu, nhưng cảm giác
bình yên khi nhìn ánh sáng của cây nến trắng đã rất
đủ. Chắc hẳn trong mỗi đời người ai cũng có lúc thèm
sự yên tĩnh của tâm hồn. À không, ở dãy ghế bên kia
còn một ông già Mễ Tây Cơ, ông vẫn quỳ im lặng nhìn
lên ngọn nến như tôi vậy, nhưng khác hơn là miệng ông
mấp máy cầu nguyện. Mặt ông héo quắt với chòm râu bạc,
đôi mắt đăm đăm nhìn lên ngon nến, nét mặt thành
khẩn như đang cố bám lấy một niềm hy vọng nơi bức tượng
Thánh trên bàn thờ. Buổi sáng nay đi ngang công viên để đến nhà nguyện,
tôi đã nhìn thấy mùa Đông trở về, một rừng lá
vàng khô xôn xao đuổi nhau lăn xuống cuối dốc, trơ lại những
nhánh cây khô, treo trên đó là những thân tầm gửi đang
đong đưa theo gió sớm. Buổi sáng đầu mùa Đông mang theo
chút giá buốt, khu công viên chỉ lác đác dăm người
đi bộ, và những cây hoa dại có một sức chịu đựng dẻo
dai, nở những bông hoa li ti trên bờ cỏ ven đường. Khi ngọn nến tàn là lúc ấy tôi
với ông già Mễ cùng ra khỏi ra nguyện. Ánh sáng leo lét của
ngọn nến cháy bập bùng rồi gần như lả xuống trong lòng
chiếc bình thủy tinh trong suốt, y như cái ngoẹo đầu cuối cùng
của một người khi từ giã cõi đời. Ông già Mễ mỉm
cười chào tôi trước sân nhà nguyện, ở đấy có
một vườn hoa nhỏ và hai băng ghế dài đặt song song đối
diện nhau. Có khi tôi cũng ngồi lại một chút để nhìn vẩn
vơ lũ chim sẻ đang nhảy nhót trên sân tìm mồi, bỗng đồng
loạt bay ào lên khi thấy có bóng người bước tới. Đôi
khi tôi và ông Rôbéctô hay trao đổi vài câu chuyện nhỏ,
cái miệng móm mém của ông phều phào kể cho tôi nghe những
nỗi buồn nho nhỏ trong gia đình, ông hay đi nhà thờ để cầu
nguyện cho đứa cháu đang đi lính ở phương xa. Khi biết tôi ở lại một mình cũng
chỉ vì thích ánh sáng lung linh của ngọn nến trắng, và câu
chuyện mùa Giáng Sinh thời thơ ấu, ông RôBécTô cảm động
lắm. Đôi mắt ông hấp háy, nhòa ướt qua giọng nói
khàn khàn ẩm đục. Mùa Giáng Sinh đến, trời bắt đầu
lạnh hơn, tôi có ý nghĩ chuẩn bị một món quà cho ông
bạn già vong niên trước ngày Lễ Giáng Sinh. Có gì đâu,
tôi lại nhớ đến củ khoai lang nướng bà hàng xóm tặng
tôi đêm Giáng Sinh, bây giờ nghe ông Rôbéctô thích vài
món ăn Việt Nam, tôi nghĩ đến chuyện tặng ông một hộp
cơm rang và chục cái chả giò tôm thịt. Chẳng có gì hơn
bằng một món quà đáp ứng đúng sự ưa thích của
người nhận, ông Rôbéctô cảm động lắm khi nhận món
quà của tôi buổi sáng trước Lễ Giáng Sinh vài hôm, tôi
thấy đôi mắt ông nhòa lệ khi nắm lấy tay tôi nói phều
phào những lời cảm ơn. Tôi không
nghĩ đến việc cho đi để nhận lại một món quà thật
dễ thương của ông Rôbéctô vài hôm sau đó. Khi tan
buổi lễ, ông gặp tôi trước sân nhà nguyện, với một
gói giấy hoa thật đẹp, thì ra ông già đã nhờ cô
con gái mua hộ cho tôi một món quà thật xinh: đó là chiếc
áo len màu hồng nhạt. Vẫn cái giọng Mễ Tây Cơ lùng bùng
những thanh âm nằng nặng, ông nói rằng món quà này thật
là thích hợp cho tôi, người phụ nữ Á Đông có dáng
dấp nhỏ nhắn và nước da trắng trẻo. Quả thật chiếc áo
len màu hồng khi mặc vào đã làm tôi như trẻ lại hằng
chục tuổi. Món quà của ông Rôbéctô đã thắp lại
trong tôi ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm nào, với củ khoai
lang nướng khi tôi là cô bé lên mười thuở ấy. . . Ông Rôbéctô đã
qua đời vài năm nay, ông chết vì bịnh ung thư phổi. Những
năm cuối của cuộc đời, ông không đến được nhà
nguyện mỗi ngày, nhưng trước khi chết ông vẫn mong được
gặp lần cuối khuôn mặt yêu thương của những người Việt
ông quen biết. Rất tiếc là tôi không thường gặp ông sau
này, nhưng tôi biết ông ra đi rất êm ả. Người ta kể
rằng trong những giây phút cuối cùng của đời người, ông
chỉ xin đốt lên cho mình một ngọn nến. . . 3- Những ngày cuối năm với những cơn mưa mùa Đông
làm ẩm ướt không gian, đất trời như nặng trĩu một nỗi
sầu da diết. Trong căn nhà vắng lặng, bóng chiều hình như đến
vội với những giọt mưa rả rích ngoài hiên. Trời rét lắm,
gió và rét khiến những chú chim sẻ nhiều chuyện không ríu
rít như mọi ngày, chúng rủ nhau vào trốn gió sau bụi mía,
lả mình vào hàng rào đang rung rung những chiếc lá úa. Những
con chim sẻ mùa Đông trông thật dễ thương, xù lông ra tròn
quay như một cụm len màu nâu xám biết nhảy nhót. Góc vườn nơi cửa sổ nhà bếp
rất khuất gió, bụi mía sắp tàn như một mái nhà tranh
trống trước hở sau, che tạm cho một gia đình nghèo khổ. Sau cơn
mưa, trời chuyển qua những đợt gió lạnh buốt xương, tôi
đứng từ trong nhà nhìn ra khung cửa kính nhà bếp, tò mò
nhìn mấy chú chim sẻ núp dưới vòm lá mía. Cũng đỡ
buồn lắm khi ngắm nhìn bầy chim sẻ mùa Đông, y như những
đứa trẻ bụi đời trên vỉa hè thành phố một đêm
mưa nào đó, rúc vào nhau trong tấm chiếu trải bên lề đường,
cuộn tròn lại với nhau đưới tấm chăn bẩn . Mấy con chim sẻ
cũng khôn ngoan rủ nhau tụ vào một chỗ, có con đang co ro ngủ
gật, có con mắt láo liên, thỉnh thoảng lại lách chách bay
lên tàu lá như vừa tìm được một con mồi đỡ lòng
cho ngày Đông buốt giá. Nhu cầu ăn để sống vẫn bắt
nó phải tìm mồi dù đôi cánh lảo đảo trong gió rét
như muốn rơi xuống thảm cỏ, trông thật tội nghiệp. Đứng trong nhà nhìn qua
lớp cửa kính trong suốt, ở góc phòng chớp tắt những chiếc
đèn nhấp nháy trên cây Giáng Sinh, tôi thấy con chim bé bỏng
đang vỗ vỗ đôi cánh nhỏ, rồi gõ cái mỏ nhỏ xíu
lên mặt kính, cũng tò mò nhìn tôi, làm như nó cũng
thèm thuồng được vào trú ẩn trong căn nhà có ánh
đèn ấm áp. Tôi chia xẻ được gì đây? Người
và chim là hai thế giới khác hẳn nhau, và có lẽ dù được
cho ăn no, chú chim sẻ vẫn không thích thú gì khi bị con người
giam chú vào cái lồng chim chật hẹp. Những chú chim sẻ mùa
Đông như những búp len xậm màu, xếp hàng xúm xít vào
nhau để trốn gió sau rặng mía ven bờ rào, lại dẫn đưa
tôi đến một khía cạnh khác của con người, mà ở câu
chuyện này tôi vẫn thấy cái đẹp nhỏ nhoi của Tình Người
ấm áp biết bao nhiêu. Đó là câu chuyện của hai người
vô gia cư, hay là chuyện "lá rách đùm lá nát"
đã làm thức dậy chút bâng khuâng trong tâm hồn những quả
tim chai đá. 4- Một buổi tối mùa Đông
trước ngày Lễ Giáng Sinh, trời mưa phùn, rét như cắt ruột.
Đường phố vắng xe qua lại, phía xa là những ánh đèn
màu rực rỡ chớp tắt quấn trên những thân cây ven đường.
Suốt một tuần sắp lễ Giáng Sinh, thời tiết bỗng dưng âm
ỉ rét, những đợt gió lạnh từ hướng Bắc thổi về,
người có việc ra đường co ro trong những chiếc áo ấm dày
cộm và khăn phu la quấn quanh cổ. Hình như người ta ngại đi
ra đường vào một tối trời mưa như vậy, chỉ còn một
vài cửa hàng bán "fast food" và cà phê là còn mở
cửa, có dăm người khách ngồi im lặng trầm ngâm trước
khay thức ăn ăn uống uể oải. Khách đến tiệm vào giờ
này có lẽ là những kẻ xa nhà, thiếu một bếp lửa hồng
để sưởi ấm cõi lòng cô quạnh, ngày giáp Lễ thường
sau giờ làm việc, ai nấy hối hả về nhà chuẩn bị đón
mừng lễ Giáng Sinh. Người
phụ nữ bán hàng đang dọn dẹp mấy thứ lặt vặt, mong đến
giờ đóng cửa để đi về, vì chỉ còn mấy tiếng
đồng hồ nữa là đến nửa đêm. Bà nghĩ đến hai
đứa con đi học xa vừa về nhà với mẹ mấy hôm nay, đã
lâu lắm người mẹ chỉ mong được gặp các con trong những
dịp Lễ Tạ Ơn hay mùa Giáng Sinh, và bà đã chuẩn bị
những món ăn truyền thống mùa Giáng Sinh cho các con từ mấy
ngày hôm trước. Gia cảnh đơn chiếc vì năm ngoái người
chồng đã qua đời sau một tai nạn, bà vẫn ở một mình
trong căn chung cư cũ kỹ, những ngày gió mưa căn nhà nhỏ như
càng ẩm ướt, lạnh lẽo. Ngay khi ấy, cánh cửa tiệm bật mở đem theo một làn
gió buốt lạnh vào trong tiệm ăn, hai người đàn ông chùm
đụp trong những tấm chăn bẩn bước vào tiệm. Người phụ
nữ nghĩ đó là hai người khách cuối cùng, vì bà
cũng nhớ ra đó là hai người đàn ông nghèo khổ, không
có một mái nhà, chỗ trú của họ là cái gầm cầu
ngoài xa lộ đi về hướng Galveston. Thỉnh thoảng họ có dắt
nhau đến đây, trông họ có vẻ là hai anh em, người đàn
ông lớn tuổi trông vẻ mặt rất ngây ngô như một đứa
trẻ chậm phát triển. Trong hai người đàn ông ấy, ông già gương mặt đờ
đẫn, ngờ nghệch nhìn thế giới xung quanh ông như nhìn một
thế giới khác, thời gian đã cày lên khuôn mặt ông những
nếp nhăn chằng chịt, bộ râu hung hung nay đã xám ngoét, bết
vào nhau như một cụm rơm bẩn. Người đàn ông kia trẻ
hơn, có đôi mắt màu xanh lơ trông hiền lành như màu
biển, co ro trong chiếc áo rét bằng dạ xám bẩn và cũ. Họ
rét lắm, chằng đụp lên người những quần áo và chăn
bẩn, bốc lên một mùi hôi. Ngoài trời, cơn mưa phùn mùa
Đông như những chiếc kim khâu luồn từng giọt căm căm vào
xương tủy, gió nhiều hơn mưa, mưa và gió lại là hai
vị Thần nguy hiểm của những người bần cùng, nghèo khổ. Hai người đứng xếp hàng
chờ đợi. Người đàn ông trung niên vét mãi hết túi
này đến túi kia được một nắm hào lẻ, chưa đầy
một đồng bạc nhưng cũng đủ mua một ly cà phê nóng. Theo
quy định của cửa hàng, khách vào tiệm phải mua một món
gì mới được phép ngồi lại. Trời rét ngọt ở bên
ngoài, nhưng trong tiệm thật ấm vì có máy sưởi, quần áo
của hai người đàn ông nghèo khổ toát ra một mùi hôi
khiến những người trong tiệm phải nhăn mặt. Mua xong ly cà phê,
họ vội vã dẫn nhau vào cái bàn xa nhất, như sợ rằng mùi
hôi trên quần áo, cái nheo nhóc, bẩn thỉu của thân phận
người nghèo cũng sẽ làm những người xung quanh khó chịu. Người phụ nữ bán hàng
để ý nhìn hai người "homeless" mà chỉ mua có một ly
cà phê. Khi nhận ly cà phê trên tay bà, người đàn ông
trẻ hơn vội vã đưa cánh tay dìu người đàn ông
già đi về chiếc bàn trong góc tối. Hình ảnh đó khiến
bà xúc động, một người "không có gì" cũng đang
cố sức giúp một người" không có gì" gượng đứng
trên cõi đời đầy đau khổ, khi họ nhường cho nhau ủ đôi
bàn tay lạnh cóng vào ly cà phê nóng còn bốc khói. Người
đàn ông trẻ hơn đẩy ly cà phê vào đôi tay ông
bạn già đang run rẩy, rồi một chốc người kia lại đẩy
ly cà phê sang phía người đối diện, họ cứ chuyền tay nhau
ly cà phê nóng còn bốc khói mà không uống ngụm nào.
Họ cần một chút ấm trong đêm nay, mà cơn gió tháng chạp
lạnh lẽo đã luồn vào gầm cầu trống trải khiến họ
rét run bần bật . Thời tiết và thời gian là đôi bạn đồng
hành ác độc đè lên đôi vai họ một cách nghiệt
ngã, để họ không còn sức chịu đựng mà chống chỏi
cơn giá rét mùa Đông như những năm trước. Người phụ nữ đứng trong quầy
hàng, như bứt rứt trước cái khổ của đồng loại.
Dù sao bà cũng có một mái nhà để chui ra chui vào, dù
sao bà cũng có hai đứa con, và lát nữa đây khi tiệm đóng
cửa, con bà sẽ đến đón mẹ về nhà để đón
mừng ngày Lễ Giáng Sinh. So sánh giữa hai cái khổ, bà vẫn
thấy mình hạnh phúc hơn hai người đàn ông "homeless"
kia. Không biết nghĩ sao, bà móc túi tìm vài đồng bạc
lẻ, và thật sung sướng khi đóng vai một người khách, bà
có đủ tiền mua tặng cho hai người đàn ông nghèo khổ
một khay thức ăn nóng hổi. Bà bưng khay thức ăn đến cái
bàn của hai người đàn ông, với một nụ cười dịu
dàng và câu chúc "Giáng Sinh Vui Tươi", bên chiếc
khay còn thêm một ngọn nến trắng cắm trong cái ly nhỏ bằng thủy
tinh trong suốt, bà vừa mua nó hồi trưa nay tại một tiệm chín
mươi chín xu để buổi tối đặt trên bàn ăn, đốt
lên ngọn lửa giáng sinh ấm áp mừng ngày xum họp trong gia đình. Hai người "homeless" ngỡ
ngàng nhìn người phụ nữ. Người đàn ông mắt màu
xanh lơ có chòm râu bạc nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của
người phụ nữ tốt bụng, nói lời cảm ơn nghẹn ngào với
đôi mắt rưng rưng. Ông đẩy khay thức ăn qua cho người bạn
già ngớ ngẩn của mình, bằng ánh mắt thương yêu trìu
mến. Ngọn nến mà người đàn bà tốt bụng vừa đốt
lên để mừng Giáng Sinh, cho họ một cảm giác tuyệt vời hạnh
phúc, vì họ đang tận hưởng được sự trân trọng
như những con người bình thường trong xã hội. Sau khi ăn xong khay thức ăn, người đàn
ông trẻ tuổi dọn dẹp rồi lại dìu người bạn già ra
khỏi tiệm ăn. Đi qua chỗ người phụ nữ, ông ta ngước đôi
mắt xanh và mấp máy một lời chúc tốt lành nhất mùa
Giáng Sinh đến người phụ nữ, họ mỉm cười với nhau. Đã
tới giờ đóng cửa, hai kẻ cùng khổ không nhà ấy dẫn
nhau trở về cái dạ cầu, nơi trú ẩn của họ hằng bao nhiêu
năm nay, họ xin người đàn bà cho họ mang theo ngọn nến trắng.
Bụng đã no, lòng đã ấm vì tình người như một
món quà Giáng Sinh quá bất ngờ, vừa rơi xuống từ Trời
để họ biết là vẫn còn những tấm lòng tử tế trên
cõi đời này. Người phụ nữ cũng sửa soạn ra về, mang
theo trong lòng một niềm vui nhỏ nhoi mà thật là ấm áp. Đôi
mắt xanh hiền hậu của người "homeless" nhìn bà lúc nãy
trông quen quá, dường như bà đã nhìn thấy ở đâu?
Sau một phút nghĩ ngợi, bà chợt "à"ø lên một tiếng
nhỏ. Phải rồi, đó là đôi mắt tượng Chúa treo trên
vách nhà nguyện, ngồi giữa một bầy trẻ thơ đang ríu rít
đứng xung quanh. 5- Người ta kể cho tôi nghe một
câu chuyện khác, lần này thì tôi nhớ ra ông Tom, người
đưa thư da đen quen thuộc vùng ngoại ô SouthEast. Ông Tom gốc gác
người Phi Châu, da đen bóng, tổ tiên ông bao đời đã
từng sống nơi vùng đầm lầy Lousiana, người du lịch đó
đây có thể thấy bên ven đường đi Baton Rouge, đài kỷ
niệm những bước chân đầu tiên của người nô lệ da
đen trên xứ Mỹ. Ông
Tom làm nghề phát thư cho khu vực này khá lâu, từ khi hàng
cây sồi ven đường còn bé tý, những căn nhà khang trang
thuở ấy nay đã cũ kỹ, và chủ nhân những căn nhà ấy
bây giờ có thể là một bà cụ già đi không vững,
đám trẻ đã đi đâu mất, chỉ còn những tiếng chim
ríu rít trên rặng sồi là còn y nguyên. Ông Tom biết hết
những căn nhà trên con đường River, biết cả những căn nhà
lần lượt đổi chủ, và những phụ nữ xinh đẹp dễ
thương năm nào, nay bước vào tuổi già còn lại một
mình trong khu nhà êm ả đầy bóng cây râm mát. Ông Tom thân với cụ Mary
nhất, cũng từ cái hôm ông bị một con chó trong khu vực ra được
cổng rào, rượt ông chạy trối chết rồi vấp chân vào
bậc xi măng bên vệ đường, ngã lăn ra trước cổng nhà
cụ Mary, đúng vào lúc bà cụ ra mở thùng thư để lấy
thư như thường lệ. Bà cụ nhìn người đưa thư da đen
ái ngại, rồi bà mời ông vào ngồi nghỉ trên chiếc ghế
đá ở sân trước, trong khi ông Tom chưa hoàn hồn vì cái
ngã đau làm đầu gối ông bị trầy trụa, rướm máu. Bà cụ Mary vào nhà, lúc
trở ra bà bưng cho ông một ly nước cam, với một túi vải
đựng dăm thứ thuốc sát trùng và băng cá nhân. Bà
dịu dàng bảo ông Tom vén ống quần lên cho bà xem vết thương,
nhẹ nhàng lau vết thương cho ông rồi băng lại cẩn thận. Ông
Tom cảm thấy dễ chịu quá, trước kia ông vẫn ngấm ngầm cho
rằng đâu đó là sự chia cách của màu da, của con người
giữa những tầng lớp xã hội, và những đau buồn của dĩ
vãng từ đời tổ tiên khiến ông có ít nhiều mặc cảm
với người da trắng. Hai người mỉm cười với nhau, chỉ có
thế mà ông Tom nhớ mãi vì hôm ấy là một ngày đẹp
nhất của mùa thu . . . Từ
đó họ thành đôi bạn vong niên của nhau. Ông Tom cũng biết
thêm bà cụ Mary sống cu ky có một mình, con cháu bà ở một
thành phố khác, từ khi cụ ông qua đời thì bà Mary cô
quạnh thêm vì vắng người hủ hỉ. Mỗi ngày đem thư đến
khu vực này, ông Tom luôn mong thấy khuôn mặt và nụ cười
hiền lành của bà bạn vong niên ra lấy thư, hôm nào vắng
bà cụ là ông Tom lại cảm thấy không yên bụng. Năm nay mùa Giáng Sinh lại đến.
Mùa Đông rét hơn mọi năm, hay là ông Tom nay đã yếu
để thấy rằng cơn gió mùa Đông Bắc bỗng dưng lại
khắc nghiệt hơn những năm trước. Sau mùa Giáng Sinh ông Tom sẽ
có những ngày nghỉ phép, ông về thăm lại anh em của mình
ở vùng đầm lầy Lousiana, ông sẽ trở về khu nhà tồi tàn,
cũ kỹ nhưng ấm áp tình thương gia đình. Trước khi đi,
ông Tom sẽ nói cho bà Mary biết những ngày ông đi vắng, và
ông cũng mong rằng con cháu bà sẽ về xum họp với bà trong những
ngày nghỉ lễ cuối năm. Những ngày cuối năm bận rộn, ông
Tom lái xe đem đầy nhóc những cánh thiệp Giáng Sinh, thùng
thư nào cũng có những cánh thiệp mang đầy lời chúc tốt
đẹp, nhưng hai ngày qua mà thùng thư của bà Mary vẫn còn
nguyên, không thấy bà lấy thư như mọi khi. Ông Tom lái xe đi rồi lại băn khoăn
nghĩ ngợi mãi, không yên lòng chút nào cả. Bà bạn già
của ông không biết đi đâu, ra sao? Lúc trước mỗi lần
đi vắng đôi ngày, bà có nói cho ông Tom biết, nhưng lần
này ông chỉ nghe bà khoe người con trai sẽ về thăm, lũ cháu
đi nghỉ Đông với bạn bè ở miền Bắc. Chắc chắn là
bà Mary ở trong nhà, nhưng lý do nào mà thùng thư của bà
hai hôm rồi vẫn chưa lấy? Đáng lẽ ông Tom lái xe về Bưu
Điện khi đã bỏ hết thư trong ngày, nhưng nghĩ sao ông lại
quành xe về nhà bà cụ Mary, và ông rón rén mở cánh
cổng rào thấp, hồi hộp gõ cửa chờ đợi. Ông gõ năm,
bảy lần, ông bần thần trong dạ, linh tính cho ông biết bà bạn
già không đi đâu, nhưng chẳng biết vì sao bà không mở
cửa. Tuổi già sống
một mình như bà cụ Mary là chấp nhận tất cả nỗi cô
đơn, buồn rầu, hiu quạnh, chưa kể những cơn bịnh đến bất
ngờ không chống đỡ được. Ông Tom định bỏ đi nhưng
lòng không an ổn, ông nhớ lại buổi chiều thu hôm nào bà
Mary đã lật đật lấy cho ông một ly nước cam, đã lau
chùi băng lại vết thương trầy trụa trên đầu gối ông,
đã cho ông một nụ cười hiền dịu nhất của tình nhân
loại. Không nghĩ gì nữa, ông Tom quyết định gọi "emergency"
để báo cáo về sự vắng mặt của bà bạn già dễ
mến của mình. Khi người ta phá cửa vào nhà, bà Mary chỉ
còn thoi thóp thở, nằm bất động trên giường với khuôn
mặt xanh lướt. . . . Câu
chuyện của người đưa thư da đen cứu sống một người
đàn bà già nua cô độc trong căn nhà ở đường River,
người ta có đưa lên chương trình truyền hình địa
phương buổi tối áp lễ Giáng Sinh. Chẳng biết có ai nghĩ
gì về những nỗi buồn đầy ắp trong cuộc sống thường
ngày, hay chỉ có ông Tom đang cầu nguyện cho bà bạn già mau
bình phục. NGUYÊN NHUNG______________________________ NHỮNG MÙA ĐÔNG ĐI
QUA Huỳnh Minh Bích Nga
Ba tôi chưa bao giờ
ghét mùa Đông, dù cái lạnh sẽ khiến chân ông tê
buốt. Khi đó ông sẽ vừa xoa chân vừa cười: Ba kế thừa
ông nội chứng viêm khớp. Trước Giáng sinh hai tuần, ba tôi sẽ mở cái hộp giày,
trong đó là những tấm thiệp Giáng Sinh năm cũ kẹp trong cuốn
sổ ghi chép. Ông chậm rãi đọc lại từng nội dung, xem lại
từng tấm hình. Rồi trân trọng mở bút, chọn thiệp, nắn
nót từng câu chữ. Với những người bạn đã mất, ông ngừng lại một
chút. Rồi lại chọn thiệp, suy nghỉ về lời chúc dành cho những
người thân của họ..Công việc đó sẽ khiến ông mất
cả ngày. Nhưng sau khi hoàn thành cái việc viết thiệp chúc
mừng Giáng Sinh và Năm Mới cho từng người, bỏ vào bao thư
niêm kín, rồi đi ra Bưu Điện gởi. Ông về và ngủ rất
ngon. Gia đình tôi
không theo đạo, nhưng nhà vẫn trưng bày cây thông. Đêm
24 có bánh khúc cây, có cháo hà hay cà ri gà. Bữa ăn
chiều 24 bao giờ ba tôi cũng thấy rất vui, không vì có nhiều
thức ăn ngon- mà vì sum họp gia đình. Năm 74, gia đình tôi mới về lại Sài
Gòn. Tôi đọc trong sách báo về chuyện đi chơi Giáng Sinh
ở trung tâm, nơi có đèn màu, hoa giấy và ngập tràn người
đi bộ trong trang phúc đẹp nhất. Nhưng ước gì thì ước,
ba tôi không chở ra, ông bảo: Ra đó để dẫm bẹp nhau chứ
làm gì ( ông vẫn còn ám ảnh cái sự dẫm bẹp trên
chiếc cầu trong Sở Thú thời trẻ). Bù lại, ông cho phép tôi
và các em đi chơi loanh quanh trong cư xá, thăm viếng cái nhà
thờ nhỏ trong con đường cuối xóm, và có thể đi xa hơn:
Qua xứ đạo Nam Hòa xem người ta đi lễ. Tôi lớn, có người yêu. Chúng tôi đã
có một giáng sinh tay trong tay đi dạo quanh những con đường Lê
Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi. Ngắm nam thanh nữ tú trong trang phục
đẹp, ngắn bánh kem qua cửa kính các cửa hàng Givral và
Brodard, mặc kệ tóc đầy hoa giấy mà những đứa trẻ tung
ném. Khi về, ba tôi luôn là người chờ cửa. Khi tôi đi lấy chồng, rồi em trai tôi
cưới vợ. Ba tôi như buồn hẳn. Nhà tôi tuy đông người,
nhưng những người còn lại, chẳng mấy khi nói cười với
ngọt ngào được. ba tôi xem báo, rồi xếp trang báo có câu
tựa về chuyện hạnh phúc, về sự ngọt ngào yêu thương
nhau. Về câu chuyện ngụ ngôn về cái cây phiền muộn. mà
như ông từng kể: Ba muốn đi làm về là bỏ hết mọi phiền
muộn ở bên ngoài. Ba ước gì cả nhà luôn đối xử
với nhau dịu dàng.. Mùa
Đông rồi vẫn tới, cây thông Noel vẫn nhấp nháy đèn
vui tươi. Căn nhà nơi ba tôi ở ngày càng chật chội hơn,
vì vừa phải chứa hàng mua sắm của vợ và con gái lớn.
Không có cái không khí ấm áp và tiếng cười. ba tôi
vẫn ngồi chờ cửa, nhưng là chờ các con đi chơi đêm về
khuya, để là người cuối cùng khép cửa trong sự an lòng,
vì đã điểm danh đầy đủ sự trở về bình an và
yên ngủ của các con. Mùa Đông, tôi hay về thăm ba. Để xoa bóp hộ ông
tấm thân phải ngồi lâu hay bị tê cứng. Để kiểm tra ba tôi
có còn đủ thuốc tiểu đường và viêm khớp.
Và để nghe ông nói
như than về những lời muối xát của các đứa con vô tâm.
Về chuyện ông khuyên chúng chớ đi khuya quá, thời buổi trộm
cướp.. Đáp lại là sự hỗn xược vô lễ. Để chỉ biết an ủi vỗ
về: Thôi đừng chấp ba ạ. Giáng sinh cũng vào dịp gần cuối năm, ai cũng cầu
mong cho gia đình, người thân, bạn bè qua một năm gặp được
nhiều điều an lành. Ba tôi cũng vậy. Những năm sau nầy, ba tôi không còn viết
thiệp giáng sinh và năm mới nữa. ông mệt và không đủ
sức. Rồi ba tôi
mất, những người đến viếng đều nhắc về những tấm
thiệp chúc Giáng Sinh và Năm Mới của ba tôi. Đều rưng rưng:
Khi thấy cuối năm không có thiệp của ba con, gia đình bác biết
ba con đã yếu nhiều. Nhà bác ai cũng trân trọng từng tấm
thiệp ấy, chữ ba con đẹp hiếm có. Sau tang lễ là dọn dẹp, tôi bê về nhà
cái hộp giày của ba, ngồi mở xấp thiệp cột theo thứ tự
từng năm ra. Xem sổ ghi chép, rồi xem những tấm thiệp ba tôi đã
chuẩn bị gởi theo từng địa chỉ. Có lúc, tôi cũng muốn kế thừa công
việc của ba, tiếp tục gởi đi những cánh thiệp cho những người
bạn của ba tôi và gia đình của họ. Nhưng tôi không thể
viết, tay và đầu cứ khô cứng. Tôi biết mình không thể là ba, cả đời ông
sống tận tụy, hy sinh để mang niềm vui, bình an đến cho gia đình,
bạn bè, và cho muôn người khác. Một mùa giáng sinh lại đến, những bài
hát Giáng Sinh lại reo vang. Những thiên thần sẽ chấp cánh bay ước
nguyện cho mọi người. Ba tôi chính là một trong những thiên thần đó. ông
đã vỗ nhẹ đôi cánh bay qua đời tôi- và đời rất
nhiều người, như ngàn ngọn đèn lung linh soi sáng. Cho một mùa Giáng sinh an lành. HUỲNH MINH BÍCH NGA Sài Gòn, Dec 2015 ________________________________ Cần Thơ - Những Ngày Chớm Đông
* Dương
hồng Thủy
Chợ đêm Cần Thơ Cần
Thơ làm gì có mùa Đông ? Nhưng tôi yêu Cần Thơ
nhất là vào thời điểm tháng cuối năm dương lịch.
Thời gian nầy, buổi chiều dạo chơi bến Ninh Kiều đôi lúc
gió tạt phất phơ khiến bạn rùng mình. Hơi lạnh đấy.
Cái lạnh như nhẹ nhàng ve vuốt, mơn trớn thịt da... Vào chặp tối du khách bách bộ
càng nhiều. Những tà áo tung bay đủ màu sắc. Những chiếc
xe đẩy, những gánh hàng rong hai bên đường cũng ... nhiều
hơn. Không biết phải vui hay buồn khi những mãnh đời cơ cực
kiếm sống về đêm đông hơn khách đi dạo.
Dù
sao, Cần Thơ chớm Đông không có những cành phượng với
những bông hoa màu đỏ nhưng về cuộc sống vẫn đỏ đậm
tình người. Từng cặp. Từng cặp, biểu hiện tình yêu qua
từng hành động nắm tay, từng ánh mắt, nụ cười, lời
nói cho nhau. Thời tuổi
trẻ, khi có chuyện buồn đến mùa Đông mới thấu hiểu.
Có những tối cô đơn trong mưa chiều mới được cãm
thông. Mùa Đông là một nỗi ám ảnh của cuộc đời
khi tình yêu bị lãng quên. Tôi yêu mùa Đông luôn đong
đầy thương nhớ thật lâu như mặt trời đang chạy trốn
đâu đó trên bầu trời... ... Bên vệ đường, phía đầu phiên chợ
đêm, những bà cụ, những em gái đang xoay tròn quả bắp nướng
trên bếp than hồng. Cạnh đó, là những chị đang ép mỏng
từng khoanh khoai mì đã chín cho vào vĩ nướng. Mùi thơm
khoai mì nướng sực nức hương lúa đồng quê, gợi lại
thuở nào tuổi ấu thơ. Phía bên kia đường là những xe bán trái cây
gọt sẵn gồm cóc , ổi, chùm ruột. Gần bên, có những nồi
chè, thúng xôi... Cạnh đó là xe đẩy đang chiên chuối
chiên, khoai lang chiên, có cả trái sa kê chiên bóng bẩy màu
vàng, bắt mắt mời gọi khách nhàn hạ đi ngang...Tới lui tạo
thành ảo ảnh là những em bé bán đậu phộng rang, những
ông lão bán vé số, những người tàn tật ôm đàn
đi hát rong... Càng
khuya, tiết trời càng mát lạnh. Dường như, chớm Đông gió
lạnh như rượt đuổi nhau quay về quấn quýt phiên chợ từ
chiều. Những khách âm thầm đi dạo. Những ông tây, bà đầm
vẫn rão bước đều trong đêm lạnh. Hoạt cảnh cũng tự
tỏa lên sức sống dịu ngọt yên bình của một thủ phủ
miền Tây sông nước. Sáng nay, mùa Đông Cần
Thơ đã rõ nét quay về. Nắng ươm vàng soi rọi hững
hờ trên Cúc họa mi con phố hoa đường Hai bà Trưng. Trời trong xanh. Gió
nhẹ hiu hiu. Những cô gái đẹp đang cầm những bó hoa trên
tay. Chiếc khăn quàng mỏng điệu đà quanh cổ. Những chiếc
áo choàng dường như khoe gu thời trang, màu sắc của chủ nhân
hơn là để bảo vệ cái lạnh đầu mùa. Chồi hoa Cúc
mơn mởn hực vàng như điểm tô màu má của em. Ôi
những hoa cúc vàng của mùa Đông. Cúc càng rực rỡ hơn
khi cái lạnh gia tăng của một ngày Đông vừa hiện diện.
Ngoài kia, trên các con đường
nhựa, nắng vẫn vàng hụ hợ với màu vàng hoa Cúc. Đông
về luôn thầm lặng nhưng quyến rũ vô cùng. Cũng như chuyện
tình yêu luôn ràng buộc bâng khuâng giữa nhớ và thương.
Không có mùa nào trong năm thể hiện rõ nét chuyện của
lứa đôi - những câu chuyện thường sôi nổi dịp Đông
về. Ngày nay, nhiều
loại cúc vàng nhập từ Châu Âu, Nhật Bản hay được cấy
mầm, lai giống. Chúng rất đẹp và sang trọng Nhưng tôi yêu
cúc thuần Việt của tôi. Có bao giờ bạn nhìn loài hoa cúc
vàng và tự hỏi : tại sao loài hoa giản dị đến vậy, với
những lá răng cưa bé tí đến vậy lại có thể cho ra
những chùm cúc vàng chóe tinh khôi luôn làm say đắm lòng
người. Những ngày
bãng lãng mùa Đông cũng khiến tôi nhớ và thích những
chậu Cúc họa mi có từng cánh trắng mỏng manh, thân dày, lá
mảnh, đơn sơ như lứa tuổi mười tám, hai mươi.
Cúc họa mi tinh khôi trong
đáy mắt em. Cho gò má em hây hây của mỗi sáng trên đường
phố. Bông cúc họa mi bé như một cúc áo nhỏ nhoi, cánh
hoa mỏng tang, nụ hoa e ấp... mà tỏa hương thơm làm ngây ngất
lòng người.
Không cần rực rỡ kiêu
sa, hoa cúc họa mi vẫn khiến cho lòng người say đắm vì vẻ
thuần khiết giản dị của nó. Hoa cúc họa mi làm cho đất
trời bãi hoãi se sắt khi vào Đông. Vẻ đẹp của cúc
họa mi khiến bạn nao lòng. Cần Thơ hàng năm vẫn vậy. Cần Thơ vào Đông
vẫn là Cần Thơ sông nước của miền đồng bằng. Mùa
Đông Cần Thơ vẫn có nắng vàng nhạt ấm áp tình người.
Mùa Đông đã quay lại Cần Thơ như em đang đi bỗng ngoảnh
lại nở một nụ cười duyên, háy mắt với người tình
muôn thuở. Cũng như...
em vẫn là mùa Đông của tôi. Dương hồng Thủy __________________________
MÓN
QUÀ GIÁNG SINH
Trần Bang Thạch
Không thể
như thế được. Anh Armin nói thầm với mình nhiều lần như
vậy. Không thể có chuyện nầy. Nhưng cuối cùng Armin phải nhận
đó là sự thật. Chữ nghĩa lõm bõm, nhưng Armin có thể
đọc và hiểu được. Trước mắt anh là bản tin nhỏ
nằm khiêm nhường dưới góc mặt của trang báo Tin Địa
Phương : Tin về cái chết của bà Jean DeLong. Đúng hai tuần lễ
sau khi đưa bà Jean lên xe cứu thương, Armin mới biết được
tin tức của bà. Một tin rất buồn đối với anh. Tên của bà
Jean nằm giữa 12 tên khác. Đây là tên của những người
mới chết, tử thi đã được giảo nghiệm nhưng vẫn còn
để trong nhà xác của quận hạt Harris vì không có thân
nhân nhận xác. Bài báo cũng có nói là chuyện này xảy
ra rất thường. Tháng nào cũng có vài trường hợp như
vậy. Sau một thời gian thông báo, tử thi nào vẫn không có người
nhận thì văn phòng chung sự quận hạt sẽ lo việc chôn cất,
dĩ nhiên là tại một nghĩa trang công cộng nghèo nàn và
thiếu hẳn những nghi thức an táng trọng thể trước khi hạ huyệt.
Sẽ không có một thân nhân nào khóc thương hay nói lời
giả biệt cuối cùng với người chết. Sẽ không có một
cành hoa từ bàn tay thân nhân thả rơi xuống nắp quan tài. Nghĩ
đến điều nầy Armin thấy đau lòng thêm. Con mèo, con chó
khi chết còn có người chủ mình khóc lóc tiễn đưa
và trang trọng chôn cất nơi nghĩa trang đặc biệt dành cho những
con vật thương yêu. Có con chó chết đi còn để lại món
tiền kếch sù do cái " will"của người chủ đã
chết. Có con mèo chết đi khiến người chủ khóc lóc suốt
tuần, mất ăn, biếng ngủ. Armin không phải là thân nhân bà
Jean, cũng không có khả năng tài chánh để làm người
hảo tâm tình nguyện đứng ra lo việc chi tiêu mai táng người
đàn bà mà nhiều năm nay Armin đã coi như người thân
nhứt của mình. Armin nghèo quá, lại một thân một mình nơi
xứ lạ này. Armin không quên được
giờ phút cuối cùng anh thấy bà Jean. Hôm đó, hai tuần lễ
trước, bà Jean quị ngã sau cánh cửa bà vừa mở để
Armin bước vào nhà. Armin buông vội túi giấy đựng thực
phẩm và mấy món gia dụng trên tay để kịp thời đỡ bà
Jean không va đầu xuống nền nhà. Ngồi dựa vào anh, bà Jean ngoẽo
đầu sang một bên, hơi thở nặng nề, đứt quãng. Bà cố
nói, tiếng được tiếng không, Armin không hiểu gì nên càng
lúng túng, nhưng anh cũng biết điều cần thiết phải làm ngay.
Armin bồng bà Jean để nằm trên sofa rồi bấm số 911. Khi nhân viên
xe cứu thương đến làm vài động tác cấp cứu, bà
Jean trông tĩnh hơn một chút, bà cầm tay Armin thì thào hai
tiếng "cám ơn". Armin cũng muốn nói tiếng "cám ơn"
với bà nhưng mọi chuyện bây giờ khẩn cấp quá. Armin phải
đứng dang xa để nhân viên cấp cứu làm phận sự. Armin nắm
vội mấy ngón tay xương xẫu của bà Jean trước khi người
ta đưa bà lên xe. Armin khóa cửa nhà rồi trao chìa khóa cho
nhân viên cứu cấp. Armin biết từ đây sẽ không có ai vào
ra căn nhà nhỏ nầy ngoại trừ bà Jean khi bà mạnh khỏe trở
về. Từ đó Armin mỗi ngày trông ngóng bà Jean trở về.
Điện thoại nhà bà không có người trả lời. Cửa nhà
vẫn khóa, bên trong không một ánh đèn.Vốn tiếng Anh tiếng
Mỹ nghèo nàn, lại mang thân phận người di dân thiếu giấy
tờ hợp pháp, Armin không biết đi tới bịnh viện nào để
thăm viếng bà Jean. Cũng không có ai là thân nhân của bà
Jean để hỏi. Ngày ngày trôi qua. Trong lòng Armin như có lửa
đốt. Bản tin ngắn gọn hôm nay đã làm thành ngọn lửa
đốt cháy niềm mong đợi của Armin. Như vậy là vĩnh viễn người
đàn bà già nua, nghèo khó, cô đơn ấy sẽ không trở
lại căn nhà nầy nữa rồi. Armin cũng không còn mỗi tuần một
lần mang đến cho bà Jean túi thực phẩm đủ để bà dùng
suốt tuần lễ. Công việc nầy Armin đã làm từ gần hai năm
nay. Lúc đó Armin vừa chân ướt chân ráo đến thành
phố nhỏ Waller này từ một làng nhỏ thuộc tỉnh Lerado nằm bên
kia biên giới Mỹ và Mễ Tây Cơ. Armin may mắn được nhận
chân bán hàng tại một tiệm bách hóa nằm ngoài rìa
thành phố với đồng lương thật thấp, chỉ vừa đủ
trả phòng trọ và hai bữa ăn. Nhà bà Jean cũng ở gần tiệm,
cách chừng hai dặm đường. Mỗi tuần một lần bà Jean đi
bộ đến tiệm mua thức ăn và vài món cần dùng cho nhà
cửa. Khi biết được sức khỏe bà Jean không tốt và bà
đi đứng rất khó khăn với cái tuổi trên bảy mươi,
Armin tình nguyện làm người mang thực phẩm cho bà hàng tuần.
Vốn là đứa bé thiếu mẹ từ lúc mới chào đời,
mười tám năm nay Armin lúc nào cũng thấy mình bất hạnh,
không có mẹ để được thương yêu. Chỉ cần vài
lần tới lui với bà Jean, dù hai người rất khó khăn khi nói
chuyện với nhau vì vấn đề ngôn ngữ, nhưng tình người
hình như lúc nào cũng đi trước nên bà Jean và Armin càng
ngày càng thấy gần gũi. Armin như tìm được điều mình
đã mất là tình mẫu tử. Armin cũng thấy bà Jean đối
với mình như người mẹ. Giáng Sinh năm ngoái là lần đầu
tiên Armin biết thế nào là bữa Tiệc Nửa Đêm. Bữa ăn
rất đơn sơ với mấy miếng thịt gà chiên và chai rượu
chát đỏ nhưng thật đậm đà tình nghĩa. Hai người
nghèo khó chung một niềm vui Giáng Sinh trong căn nhà nhỏ. Đêm
đó trong ánh nến lung linh huyền ảo của Đêm Thánh Vô Cùng, lần
đầu tiên Armin đã khóc trên cánh tay của người đàn
bà mà Armin thấy trước mặt là dáng hình Đức Mẹ
Maria nhân ái. Đêm đó, không nói một lời, bà Jean đã
tháo sợi dây chuyền trên cổ, bà thân ái đeo vào cổ
Armin. Đó cũng là quà Giáng Sinh đầu tiên của đứa
con côi cút trong suốt gần hai mươi năm có mặt trên đời.
Sợi dây chuyền bằng bạc đơn sơ với tượng thánh giá
nhỏ bằng ngón tay út. Có lẽ đó là món đồ quý
giá nhất của bà Jean. Bà Jean nghèo lắm, nhiều lần bà Jean
nhờ chủ tiệm cho bà mua thiếu. Chủ tiệm cũng là người tốt
bụng. Ông nói ông biết bà Jean từ vài năm nay. Đó là
người đàn bà hoàn toàn cô đơn, sống một thân
một mình trong căn nhà biệt lập với các nhà hàng xóm.
Nói là nhà chớ thật sự nơi bà cư ngụ là túp lều
nhỏ nằm phía sau một nền nhà còn dấu vết của một cơn
hỏa hoạn nhiều năm trước; cây cỏ xung quanh mọc tự do. Con lộ
lót sỏi dẫn vào nhà, cách xa đường xe cộ lưu thông,
thiếu bước chân đi lại nên cỏ mọc lan ra tới gần giữa
đường. Khi có những cơn mưa lớn, con lộ ngập đầy nước.
Căn nhà của bà cũng ngập nước. Thỉnh thoảng vào những
ngày nghỉ việc, Armin chỉ đủ sức dọn dẹp cỏ rác quanh nhà
cho phong quang một chút. Hai năm qua tới lui với bà, Armin chưa một lần
nghe bà Jean nói tới một thân nhân nào; dễ chừng bà Jean đã
sống cô đơn như thế nầy từ nhiều năm rồi. Như vậy những năm tháng cô đơn trên
thế gian của bà Jean đã hết. Nhưng sự cô đơn cố bám
theo cái tử thi tàn lạnh của bà thì đau đớn quá, bi thảm
quá. Một tử thi vô thừa nhận nằm mười mấy ngày trong nhà
xác để từ mấy hôm nay người ta phải rêu rao trên báo
tìm thân nhân. Hàng trăm, hàng ngàn bàng dân thiên hạ
biết rằng trên thế gian nầy có những người vô cùng bất
hạnh. Đánh mất một món đồ người ta còn tìm kiếm.
Còn bà Jean, cho tới chết vẫn biệt tăm thân nhân để lo bề
an táng. Hay thân nhân có biết nhưng vẫn làm ngơ? Chồng con bà
đâu? Cháu chắt bà đâu? Rồi đây người đàn
bà xấu số của mấy mươi năm trên đời sẽ từ giả
cõi đời trong lặng lẽ, âm thầm, không tang lễ. Thân xác
bà sẽ vùi chôn trong một nghĩa trang công cộng, không người
viếng thăm. Không được.
Không thể nào như vậy được. Người đàn bà đã
có lần là hiện thân của Đức Mẹ trước mặt Armin trong
đêm Giáng Sinh năm ngoái không thể ra đi cô đơn như vậy
được. Món quà Giáng Sinh của bà Jean, Armin đang đeo trên
cổ, phải chăng đêm ấy bà Jean muốn nói với Armin rằng "con
là người thân nhất của ta bây giờ"? Trong trí nhớ của
Armin là một bà Jean ít nói, sống khép kín với lối
xóm chung quanh, nhưng không buồn bã. Mỗi lần gặp bà Jean là
Armin thấy nụ cười trên gương mặt già nua nhăn nheo của bà,
mười lần như một. Armin nghĩ bà Jean vừa lòng với số phận
và hoàn cảnh của mình, không một tiếng oán than, không trách
mình cũng không trách người. Nhiều khi Armin có cảm tưởng
bà Jean chỉ thích nói chuyện với mình, nhứt là mỗi
khi hai người dọn dẹp cỏ rác, cây cối quanh nhà. Giữa thiên
nhiên trông bà Jean thật vui và thật năng động. Bà vừa
vun bón mấy chậu hoa, vừa hát khẽ một bài hát có âm
điệu vui mà Armin đã nghe nhiều lần. Gặp con sâu, con dế hay cả
con rắn nhỏ bà Jean chỉ xua chúng đi chỗ khác. Có khi bà nói
về dãy mây lang thang trên nền trời, mây bay vô định, không
cửa không nhà, vô thân tứ cố, nhưng mây có cuộc sống
vô tư, có ai nói là mây có tâm sự buồn đâu. Con
sóc, con chim trên cây sau nhà cứ chạy nhảy, ca hót, nào có
nghĩ tới nhà cao cửa rộng, mồ yên mã đẹp gì đâu.
Phải rồi. Lúc sống bà Jean sống an bần, lạc đạo trong
căn nhà nhỏ bằng cái hộp, thiếu những tới lui, thăm hỏi
của thân nhân ruột thịt...thì khi chết chắc bà cũng không
nghĩ gì tới những lễ nghi, lắm khi hời hợt, theo lề theo thói.
Có nghĩa gì mấy lời thương tiếc của những người thân
đã quên mất bà từ lâu. Ý nghĩ nầy đưa đến
cho Armin một quyết định dứt khoát. Armin phải làm một cái gì
trước khi quá trễ. Thêm một Giáng Sinh sắp tới rồi. Giáng
Sinh năm ngoái, Armin không có một món quà nào cho bà Jean thân
thương của mình. Năm nay phải có. Armin tuy nghèo nàn, không
một đồng xu dính túi nhưng phải có một món quà Giáng
Sinh cho bà Jean. Bà Jean cũng nghèo nàn, nhưng bà đã cho Armin cây
thánh gíá, vật gần gũi của bà. Trong giây phút nhiệm
mầu của một đêm Thánh, Bà Jean nghèo tiền, nghèo bạc
nhưng giàu tình thương, qua món quà là vật thiết thân
của mình, đã cho Armin niềm tin và tình mẫu tử, cái
mà mười mấy năm làm người Armin còn thiếu. Nghĩ là làm. Armin đem chuyện an táng bà Jean bàn
với ông chủ của mình. Ông chủ cũng đồng ý với Armin
là có lẽ bà Jean cũng không mong có thân nhân đọc tin
báo rồi tìm đến nhận xác bà rồi đem chôn cất nơi
đàng hoàng tử tế. Giá mà có ai thương tình mà
tình nguyện làm việc đó thì chắc bà Jean cũng không hài
lòng. Sống thế nào thì thác thế ấy. Sống đơn giản,
chết đơn giản. -Nhưng
tui muốn được đưa tiễn bà Jean. -Đưa tiễn thì được, nhưng lãnh bà
về chôn cất thì chắc mình không làm nổi. Tốn kém lắm. -Nhờ ông chủ liên lạc
với nhà xác để cho tui biết ngày giờ họ đưa bà ra
nghĩa trang. -Việc ấy
thì không khó. Chiều nay thời
tiết trở nên lạnh hơn những ngày trước. Gió tháng chạp
lạnh như dao cắt. Trời rắc những hạt mưa nhỏ, vừa đủ
ướt áo. Ngày mai là Giáng Sinh rồi. Armin mặc phong phanh chiếc áo
gió nên run lập cập. Armin đã tới nghĩa trang từ trưa. Nghĩa
trang nằm cạnh cánh rừng, trong vuông đất trũng có thật nhiều
cây cao xung quanh, xa phố xá và nhà cửa. Đường đi trơn trợt,
nhiều đất hơn đá. Mộ là những phần đất nhỏ, bằng
mặt. Không có lấy một núm mồ. Mộ bia là những trụ xi
măng nhỏ, thấp, nhiều cái nghiêng ngã. Không một cây hoa kiểng.
Có nơi cỏ mọc cao che hết phần mộ.Lúc chập tối đoàn
đưa xác mới đến. Người ta để bốn cái quan tài
chung trong một chiếc xe mui đen. Không có xe mô-tô cảnh sát hộ
tống.Bốn cái lỗ huyệt đã được đào sẵn, nằm
gần nhau. Như vậy là những tử thi khác theo thông báo đã
có người nhận. Khi bốn quan tài đưa xuống từ chiếc xe thì
thủ tục an táng làm thật nhanh, cũng có vị mục sư đọc
kinh tập thể rất ngắn cho bốn quan tài. Ai cũng muốn làm xong cho nhanh
để về. Chỉ có mấy nhân viên nhà xác và Armin. Không
có một thân nhân nào của bốn người chết. Khi các quan
tài hạ xuống huyệt, Armin đọc thầm mấy lời kinh rồi ném
một bó hoa huệ trên mỗi nắp áo quan, tiễn đưa người
chết. Riêng phần huyệt của bà Jean thì Armin cúi đầu thật
lâu, miệng thì thầm mấy lời vĩnh biệt. Ngoài bó hoa huệ,
Armin bỏ xuống lòng huyệt vòng nguyệt quế với dãy lụa trắng
viết chữ đen : « Thành kính tặng Mẹ món quà
Giáng Sinh năm nay ». Đoàn
người và xe đã về từ lâu. Armin vẫn còn muốn ở lại
đây cho tới khuya để trông thấy một thiên thần bay lên vùng
trời cao rộng với vòng nguyệt quế còn ấm tay mình. Trần
Bang Thạch
|
|
|