Trần Cẩm
Quỳnh Như
Cựu PTG-ĐTĐ_______________________
Sài Gòn
ANH DUỆ TÔI VÀ NHỮNG NGƯỜI
BẠN
Ảnh trích từ Bài viết của anh Nguyễn
Tri Tông đăng trong ĐS PTGĐTĐ số 8 - ĐH VII, Seattle WA 2003
"Hồng trần như mộng, người tỉnh mộng
tan.
Nhân sinh như kịch, người
tan kịch tàn!"
(?)
Hôm anh Nguyễn Trung Quân về VN ghé thăm tôi, có nhắc
bài của anh Nguyễn Tri Tông viết về anh Ba tôi (Trần Tuấn Duệ),
tôi thử lên mạng tìm cầu may nhưng tìm mãi không ra. Chịu
thua một thời gian dài nhưng trong lòng khó chịu lắm, vì khát
khao muốn biết được tình cảm tốt đẹp của bạn bè
dành cho người anh đã mất, nên một hôm tôi đánh bạo
nhờ anh Trần Bang Thạch tìm giúp, thật bất ngờ, nhờ anh bữa
trước, bữa sau anh đã lập tức gởi bài! Tôi cảm động
và mang ơn anh vô cùng!
Vừa đọc vừa khóc, nhứt là câu
cuối anh Tông viết: "Bên kia thế giới, chắc Duệ đã gặp
mặt..."
Anh Ba tôi lớn hơn tôi
tới mười sáu tuổi, nên anh thường nói đùa: "Tao ráng
thêm hai năm là đẻ được bây!".
Trên cầu chợ Biên Hòa một chuyến ra đi không
thành, tôi như còn thấy rõ ràng trước mắt dáng anh cao
lớn trong bóng nắng sáng lòa đăm đăm đứng nhìn xuống
tôi lúc ấy đang trên con thuyền nhẹ trôi lướt qua. Sao tôi
cứ nhớ mãi hình ảnh đó, mới tinh như ngày hôm qua... Sau
này khi anh tôi mất rồi, tôi mới thấy sao anh giống đến vậy
hình ảnh Patrick Swayze đoạn cuối phim "Ghost" đứng giữa luồng
ánh sáng trắng nhìn người thân lần cuối cùng trước
khi rời thế gian...
Anh Nguyễn Tri Tông là đàn anh của anh Ba tôi
nên có lẽ không có nhiều kỷ niệm thời đi học với
nhau như anh Nguyễn Trung Quân, anh Triệu Canh Ngũ, anh Huỳnh Thiện Hân, không
có nhiều kỷ niệm thời dạy học với nhau như anh Võ Văn Trí,
thầy Võ Đăng Lành...
Già, chuyện mới thì quên đầu quên
đuôi mà sao chuyện xưa cứ nhớ hoài! Để từ từ tôi
kể bạn nghe...
Tôi thành thật
xin lỗi nếu có chi tiết nào không chính xác do thời gian hơn
năm mươi năm bào mòn ký ức bao giờ không hay.
Tôi còn
nhớ những ngày luân lạc nơi rẫy rừng, buổi tối nằm tòn
ten trên võng dưới ánh đèn dầu tù mù, anh tôi hay kể
ngày nhỏ cùng mấy người bạn từ thời để chỏm trốn
ngủ trưa xuống bến Ninh Kiều tắm sông hay đi đá banh bàn,
bị Má cầm roi đi tìm rượt chạy tán loạn. Anh vừa kể
vừa cười ha ha có vẻ thú vị lắm. Có lẽ đó là
giây phút hiếm hoi tôi thấy anh cười, kể từ sau khi anh bỏ dạy
đi làm nông dân.
Còn lần đầu tiên tôi thấy anh khóc?
Đó là lần anh Thọ tử trận. Anh tôi về nhà tả lại
cái chết thê thảm của bạn, giọng run, tay run, nước mắt chảy
ròng ròng. Sau này cứ mỗi lần nghe tin một quân nhân chết trận,
tôi luôn hình dung nỗi đau đớn dai dẳng anh Thọ chịu đựng
trước khi lìa đời, và gia đình tôi ai cũng xót thương
chị Thiên Kim, vành khăn tang trắng quàng lên mái tóc lúc
ấy hãy còn rất xanh.
Hồi gia đình chưa suy sụp, thỉnh thoảng
anh tôi hay kéo bạn về nhà đãi đằng. Trong lúc Má và
hai chị tôi bận túi bụi dưới bếp với mấy món nem nướng
cháo bồi thì tôi, lúc đó chỉ là con nhỏ chín mười
tuổi, hay len lén chạy lên nhà trên núp nghe mấy anh nói chuyện
rôm rả. Trong đám bạn anh Ba tôi, tếu nhứt và sôi nổi nhứt
là anh Nguyễn Trung Quân. Tôi vẫn còn nhớ rõ câu chuyện tiếu
lâm anh Quân có lần kể về anh tân binh đứng xớ rớ hoài
không biết xếp vào hàng tòm tem em vợ hay vào hàng tòm tem
chị vợ!
Kỷ niệm với anh Quân
khá nhiều, nhưng hai kỷ niệm nhớ đời là lần đi vượt
biên chung với anh chị và hai nhóc Trấn Quốc, Thư Trung lúc đó
còn nhỏ xíu, khi thất bại trở về lúc nửa đêm tấp
vô cồn cỏ sông Sài Gòn, cả thuyền bị muỗi độc cắn
vết nào vết nấy sưng bằng bánh cam, ở giữa có một tim
mủ vàng, ngứa ngáy không chịu nổi tới nửa tháng sau.
Kỷ niệm thứ hai là khoảng năm 73, 74 (?)
anh Quân ra tranh cử, anh Ba bắt tôi và thằng em út đi dài dài
ngoài đường phát tờ rơi vận động bỏ phiếu cho anh Quân,
hai chị em ôm chồng tờ rơi nặng chịch và xấp carte de visite từ
chợ Cần Thơ lội bộ đi phát từng nhà, vô tới qua khỏi
cầu Tham Tướng, khi về tới nhà hai chân mỏi rụng.
Tôi cũng
nhớ anh Cao Thanh Tùng sử dụng nhiều nhạc cụ rất hay, và anh Tòng
em trai anh Tùng (không biết tôi nhớ đúng không) tại nhà tôi
đã hát bài "Những chiều không có em" cao vút tuyệt
vời. Những chiều không có em, phố buồn nằm im bóng. Ai chờ
ai đây, mà bâng khuâng nhặt lấy chiếc lá úa, Tiếc thời
xuân xanh tựa chiếc lá vàng kia khi mùa thu gọi hồn... Giọng
anh Tòng khi hát tới "chiếc lá úa" bỗng vút lên hoang
hoải, thê thiết, và đôi mắt anh mơ màng ngập tràn nghệ
sĩ tính.
Hồi đó hễ tới
giờ phát chương trình "Đố vui để học" là cả
nhà đều đón xem anh Cao Thanh Tùng dẫn chương trình với
chất giọng trầm ấm rõ ràng, vừa sinh động, vừa tài hoa:
Hễ cần minh họa cho một đoạn thơ là anh rút ống sáo ra
thổi liền một hơi dài lâm ly làm ai cũng lác mắt!
Anh Triệu
Canh Ngũ rất ít nói, đôi mắt một mí và hàng ria đậm.
Tất cả những gì tôi nhớ nhứt về anh Ngũ là anh học rất
giỏi, thi Tú Tài ban A đậu hạng Bình rồi cao hứng thi luôn ban
B được hạng Bình Thứ, là tấm gương chuyên cần mà
anh Ba tôi cứ khen ngợi hoài để nhắc nhở mấy đứa em. Hồi
đó anh tôi cũng hay kể chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nghe nói
cô Diễm Xưa lên Đà Lạt chơi bèn lập tức chạy lên
tìm để rồi chứng kiến cảnh anh Ngũ đang dạy cho Diễm khiêu
vũ trên đồi Cù. Sau 75 trong nhà tôi quay qua quay lại lủ khủ
toàn là thuốc anh Ngũ bào chế: Dầu gió Phật Bà, thuốc
nhỏ mắt, thuốc cảm, thuốc ho, thuốc chống dị ứng, viêm mũi...
Chị Triệu Quới, em gái anh Ngũ, là bạn học với chị tôi.
Đứa con nít là tôi đã bao lần thầm ước ao được
mau lớn và được đẹp thanh thoát như chị!
Anh Huỳnh Thiện
Hân dáng nhỏ thó, nụ cười hiền lành, lúc rối ren nhứt
năm 75 đã từ miền Trung di tản về SG cùng một chuyến tàu
với tướng Ngô Quang Trưởng và nghe Ông buồn rầu tâm sự:
"Quân sự không theo kịp chính trị, anh à!".
Trong những người
bạn của anh tôi từ thời để chỏm, chơi thân nhau tới lớn
và cùng nhau thành đạt, có một người lúc nào cũng
hiền lành trầm lặng, ánh mắt lúc nào cũng buồn buồn,
đó là anh Hoài. Anh bị tật ở lưng nhưng bệnh tật không
làm anh thua sút bạn bè với tấm bằng dược sĩ đáng
ngưỡng mộ. Sau này khi gia đình tôi tan tác và suy sụp phải
lui về ẩn cư nơi rẫy rừng, thỉnh thoảng trong những chiều mưa
rỉ rả, chúng tôi hay ngồi xúm lại bếp lửa ấm áp vùi
mấy củ khoai mì khoai lang thơm phức và khi cùng nhau nhắc lại những
người Cần Thơ, thế nào chị Tư tôi cũng nhắc đến
anh Hoài, chị nói không biết anh Hoài có sống mạnh giỏi không,
có lẽ lúc bấy giờ anh đã có con có cháu, và chị
tôi luôn cầu mong anh một đời bình an.
Tôi không biết nhiều
về anh Nguyễn Công Đức,
con của bác Văn Nhiều. Kỷ niệm duy nhứt tôi còn nhớ là
anh Ba hay dẫn tôi ra tiệm sách Văn Nhiều để tìm mua sách mới,
mỗi lần dễ đến cả chồng! Có khi anh Ba gặp anh Đức, hai người
đứng nói chuyện rôm rả ngoài hiên, thì tôi, con bé mười
mấy tuổi ranh mãnh "lợi dụng thời cơ" mặc sức lang thang trong
tiệm sách, ngấu nghiến "coi cọp" mấy cuốn truyện ma! "Truyện
đường rừng" của Lan Khai, "Vàng và máu" của Thế
Lữ - mấy tựa sách này đều có sẵn ở nhà nhưng anh
Ba không cho tôi đọc, vì cái tội sợ ma không dám thức
khuya học bài!
Anh tôi có niềm
đam mê đọc sách lớn đến nỗi tiền dạy học bao nhiêu
đều đem đi mua sách, do vậy nhà tôi y như thư viện, từ
nhỏ đến lớn tôi chưa hề phải đi tìm mua hay mượn sách
từ nơi khác. Sau ngày 30, tất cả các sách đều phải đem
nộp cho Phường. Sách nhà nhiều quá, muốn nộp hết cho Phường
chắc phải cần tới xe tải! Mà chúng tôi cũng không cam tâm.
Vậy là mớ xé, mớ đốt, mớ bán ve chai. Xé tới sưng
tay, đốt tới sưng mặt (vì hơi nóng). Mấy chị em vừa xé,
vừa đốt, vừa khóc hu hu.
Thời Hiệu Trưởng Võ Văn Trí còn
"tại vị", học trò chúng tôi chẳng đứa nào không
biết câu: "Tóc em dài em cài hoa thiên lý, Tóc anh dài
ông Trí cạo đầu anh!". Ngôi trường Phan Thanh Giản mấy
năm đó như thay da đổi thịt, cây kiểng tươi tốt
trong sân trường và xanh um hai bên những lối đi, đến nỗi
anh Trí tự hào nói với anh tôi: "Tao sẽ làm cho trường
mình đẹp như lăng Khải Định!". Giờ gẫm lại thấy
cũng... ngộ, trường học, sao không ví với cái gì, lại ví
như lăng mộ? Phải chăng đó là điềm gỡ báo trước
ngôi trường sẽ mất tên, mất cả tượng cụ Phan sau đó
không lâu!
Anh Trí cũng cao lớn
và mang kiếng trắng như anh Ba tôi, nước da bánh ích, cười
lúm đồng tiền rất có duyên. Đặc biệt hai người đều
có giọng giảng bài oang oang như lệnh vỡ. Anh Trí giảng Cours De Langue
bên kia Phan Thanh Giản, anh tôi giảng Kiều bên này Đoàn Thị
Điểm, hai trường cách nhau một con đường nhỏ xíu nên
nghe tiếng nhau vang vọng, thế là hai ông thò đầu ra cửa sổ,
giơ nắm tay dứ dứ nhau, và toét miệng cười...
Tôi không
nhớ chính xác năm nào các giáo sư miền Nam buộc phải
đi học quân sự chín tuần ở Thất Sơn. Anh Trí và anh Ba
tôi cao lớn nên mặc đồ treillis nhìn thiệt bặm trợn và
oai hùng. Hai anh cùng cận thị, nhưng lại cùng đoạt bằng thiện
xạ!
Điều thú vị hơn nữa,
là thầy Võ Đăng Lành dạy Pháp văn Đoàn Thị Điểm,
người nhỏ thó nhưng học bắn súng trường không hề thua
kém ai. Anh tôi kể khi có cố vấn Mỹ đến thăm, người
sĩ quan đứng đầu (lúc đó tôi còn nhỏ quá không
để ý tướng, tá nào) không gọi anh Duệ, anh Trí,
mà gọi thầy Lành ra bắn biểu diễn cho gã Mỹ mắt tròn
mắt dẹt nhìn vị giáo sư nhỏ bé nhanh nhẹn bắn những phát
súng liên tiếp trúng đích!
Khoảng năm tám mươi, lúc đó
anh tôi còn yên ổn làm rẫy, thỉnh thoảng lại dong ruỗi về
Sài Gòn trên con "chiến mã" SS50, anh hay chạy tới trước
chợ Tân Định để gặp anh Lưu Thùy Sử, lúc đó đang
chạy xe ôm, nợ cơm áo khiến anh quá đỗi phong trần, ốm nhom
đen thùi, nhìn không ai biết anh từng xuất thân Cao học hành
chánh. Lần đầu tiên anh Ba dẫn tôi ra chỗ anh Sử, anh tròn mắt
nhìn tôi kêu trời: "Trời đất ơi, con QN đây sao? Sao nó
cao dữ ôn?".
Thời gian anh tôi bị
nạn, lần nào tình cờ gặp tôi trước chợ, anh Sử cũng
kêu đứng đó chờ anh chạy vô mua bịch mè, biểu đem về
rang gởi anh tôi ăn "để ráng cầm cự". Khi gia đình tôi
bỏ xứ ra đi, cũng là nhờ anh Sử cho tá túc qua đêm để
hôm sau lại lên đường về rẫy rừng. Rất lâu sau này
khi đã về Sài Gòn và yên bề gia thất, tôi có trở
lại chợ Tân Định tìm anh, nhưng mấy ông xe ôm ở đó
không ai còn ai biết anh Sử là ai. Qua bài viết này nếu tình
cờ anh Sử có đọc được những dòng này, xin hãy nhận
nơi em và gia đình em lòng biết ơn sâu sắc. Khi một con
người mới vừa thất thế, lúc đó lập tức biết ngay ai
là bạn, ai là bè! Anh Sử là người bạn trong cơn hoạn nạn,
chớ không phải bạn chỉ có mặt lúc trà dư tửu hậu,
để rồi vội vã trở mặt phủi tay khi đất trời nổi cơn
gió bụi.
Cứ nghe trong thơ nhạc và tiểu thuyết nói hoài
mấy chữ "thế thái nhân tình", nhiều khi còn thấy nó...
cải lương! Đến một ngày khi đã thấm đẫm tình đời,
mới thấy bốn chữ đó sao mà thấm thía!
Anh Ba tôi đau lắm, thấm lắm mỗi lần nhắc lại
chuyện bị người bạn thân xua ra khỏi nhà khi anh tôi ghé nhà
hỏi xem anh đó có tính toán gì không vào những ngày
đầu tháng Năm - người bạn mà anh tôi quý mến nhiều
đến nỗi trước đây cứ dặn đi dặn lại chị em tôi
là phải chọn em cún giống papillon đẹp nhứt trong bầy để
đem tặng. Vừa thấy anh tôi, anh bạn đó lộ vẻ sợ hãi,
rồi bất ngờ chợt khóc tu tu, và móc túi đưa cho anh tôi
một vốc tiền giấy đủ loại lẫn lộn trong hai bàn tay ngửa:
"Duệ à, mầy cầm tiền rồi đi đi !!!"
Anh tôi ngỡ ngàng đến chết sững vài giây,
rồi quay lưng không nói một lời, để lại anh bạn tần ngần
đứng đó với vốc tiền đầy, dáng cao to lừng lững trong
nắng chiều - cái người mà mới hôm qua còn thân thiết với
anh tôi như anh em cùng khúc ruột, và từng là mục tiêu mơ
ước của bao nhiêu cô gái đẹp Cần Thơ!
Có lẽ đó là vố đời đau đớn nhứt
của anh tôi, mở màn cho những vố khác sau đó, cho đến khi
anh tôi qua đời trong đói khát bệnh tật sau những chấn song.
Anh tôi trả
nghiệp sớm.
Mà không phải
chỉ mình anh, sau đó những người thân của tôi cũng lần
lượt trả nghiệp rồi ra đi...
Hiu
quạnh quá!
Vị thập ma, vị thập ma?
Thiên hữu giá dạng đích an bài?
Bởi vì
sao, bởi vì sao?
Ta lại chịu
cảnh thế này?
(Trích "Ngũ bách niên tang điền thương
hải")
May mắn thay, đến
một lúc nào đó tôi cũng kịp nhận ra: "Đời
sống ta như một dòng sông, vỗ vào bờ mình, chẳng phải
để cảm thấy bị giam hãm, mà để mỗi lúc nhận thức
rằng mình có một lối thoát vô tận về phía biển cả"
(Tagore).
Phải, anh tôi đã thoát rồi. Biết đâu anh giờ
này đang vui cười ở một thế giới không có ác đạo,
và nhìn xuống ngậm ngùi thương cho đứa em gái côi cút
còn lạc loài ở chốn nhân gian???
TCQN
28/05/2018
THƠ GỞI MỘT NGƯỜI BẠN
Bạn già quý mến,
Cám ơn
bạn đã mất công gởi nhiều tài liệu và hướng dẫn
tui trong chuyện tu tập.
Tui chịu ơn bạn nhiều, hồi đó là
giúp đỡ lúc tui khó khăn, bây giờ lại giúp đỡ phần
hồn!
Bạn à, từ lâu rồi tui
vốn "thấm" cái lẽ vô thường qua cảnh gia đình mình
bảy nổi ba chìm trong cơn chính biến. Hồi trẻ đọc Hồng Lâu
Mộng, khi thấy một gia đình giàu có đông đúc lúc
tàn cuộc thảm thê, kẻ chết âm thầm trong tù ngục, người
luân lạc chốn lầu xanh, kẻ bỏ đi tu dưới trời mưa tuyết,
là tui cứ ngậm ngùi mang mang trong lòng.
Ngoảnh lại cuộc đời mình chỉ là bức tranh vân
cẩu! Tuổi thanh xuân bao nhiêu mộng mơ về tình yêu, về công
danh, về sự thành đạt, thoắt cái đất trời nổi cơn gió
bụi, gia đình suy sụp rồi tiếp nối bao nhiêu người thân ra
đi trong oan nghiệt, tui còn ngu dốt suy nghĩ không thông, cứ oán trời
trách đất, không nghĩ mình và gia đình biết đâu đang
phải trả bao nhiêu tội, nghiệp, đã gây trong kiếp trước!
Càng sống, càng thấm thía ý nghĩa của sự thành, trụ,
hoại, không...
Nên tui luôn
có ý xa rời thế gian này, dĩ nhiên chỉ trong tâm tưởng,
vì bổn phận làm mẹ, làm vợ vẫn còn canh cánh, chỉ xa
rời bằng cách hạn chế đến mức tối đa chuyện đình
đám tụ họp (đám tang thì đi, đám tiệc thì trốn).
Xa rời bằng cách co mình lại để có nhiều thời giờ hơn
nghĩ suy cho cùng cái lẽ "Tái ông thất mã", "thương
hải tang điền", "thiện ác chi nghiệp diệc bất vong"...
Bắt đầu thấm thía cái nỗi "nước cạn bèo
chấm đất", "phù thịnh bất phù suy".
Bắt đầu
thấy rõ sự bấp bênh của cái gọi là sự sung túc thịnh
vượng của một dòng tộc.
Bắt đầu thấy rõ sự
mai mỉa của cái gọi là tình chị em, thật ra thứ tình đó
chỉ tồn tại khi những đứa trẻ hãy còn thơ dại, và
lập tức dẫy chết khi trong chị em bắt đầu manh nha ý thức về
"quyền tư hữu".
Cũng từ
từ thấy được sự vô nghĩa của cái gọi là tình
yêu, thật ra chỉ là một cuộc trao đổi những điều kiện
ắt có và đủ.
Bắt đầu thấy rõ mặt trái
của cái gọi là tình vợ chồng, thật ra chỉ là bèo nước
tương phùng.
Và bắt đầu
biết sợ luân hồi...
Bạn biết
không, ngày còn đôi mươi, những đêm "mai phục" ở
rẫy rừng chờ những chuyến đi, đêm nào tui cũng đọc kinh
Phật dưới ánh đèn dầu leo lét. Khi thì kinh Phổ Môn, kinh
Na Tiên Tỳ kheo của dịch giả Đoàn Trung Còn, lúc thì kinh Duy
Ma Cật, kinh Địa Tạng, kinh Kim Cang... Vừa đọc vừa so sánh nghĩa
tiếng Việt và tiếng Hán, nhưng khi tụng thì thích tụng tiếng
Hán, vì không hiểu sao lại thích nghe tiếng tụng kinh của mình
trầm buồn vang lên đơn độc trong đêm vắng... Không hiểu
hết ý nghĩa đâu, chỉ phần nào thôi, nhưng thấy thích
lắm, nhứt là những câu:
...Nhất
thiết hữu vi pháp
Như mộng
huyễn bào ảnh
Như lộ diệc
như điện
Ưng tác như
thị quán...
Lúc đó hoang
mang lắm, bơ vơ lắm, không biết tương lai đi về đâu, nên
tui cứ bám lấy Phật như một cái phao mong đời mình được
cứu rỗi. Được cứu rỗi - lúc đó - là được
độ trì cho ra đi suông sẻ, được sống bình an trong một
đất nước văn minh, có công lý, được đi học lại,
và cái tên của mình sẽ oanh liệt nằm trên bìa đỏ
cuốn luận án Tiến sĩ ở một đất nước cách đây
nửa vòng trái đất... Được cứu rỗi, là mong mình một
ngày được trở thành một phụ nữ rạng rỡ công danh...
Giờ thì, (không chối là vẫn còn
chút xíu tiếc nuối mỗi khi đọc tin một cô gái thành đạt
nơi xứ người), nhưng may thay, đã khác đi nhiều, không cứ
mãi ngậm ngùi với hai tiếng "phải chi".
Qua bao nhiêu năm, thú thật, vì không bỏ công
nghiên cứu nên kiến thức về Phật pháp không tăng thêm bao
nhiêu, nhưng cảm nhận về Phật pháp thì đầy đặn hơn,
biết bằng lòng với hiện tại vì hiểu cuộc đời bèo
bọt như bóng nắng một ngày. Tin Phật, cầu Phật, niệm Phật,
giờ không phải để ngóng tìm sự giúp đỡ cho những
điều kiện vật chất nhỏ nhoi và phù hoa, mà là cầu sự
độ trì để thân tâm luôn bình an, để tiêu tan tội,
nghiệp, và để thoát cảnh luân hồi, về bên chân Phật.
Ước muốn đó chắc không dễ
gì thành tựu nơi kiếp này, thôi thì cầu cho được
kiếp sau làm người bình an - bình an mà có trí huệ, để
lại được tin Phật, cầu Phật, niệm Phật, đến bao nhiêu
muôn kiếp nữa, đủ phước báu để thoát cảnh làm
người, đến nơi không có ác đạo, để được
"như như" mà nghe "chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng,
xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời
câu tác"!
Đôi dòng tâm
sự cùng bạn. Một lần nữa thật lòng cảm ơn bạn. Chúc
bạn mọi điều hanh thông, sức khỏe dồi dào để luôn tinh
tấn trên đường học Phật.
Bạn
cũ QN
TCQN
SG, 09/05/2018
Viết nhân ngày 30/4/2018
MANG MANG
Tâm bất tại diên,
thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn.
(Nếu không chú ý,
dù xem chẳng thấy, dù lắng chẳng nghe - Kinh Phật)
Sáng Chủ Nhật 29/4.
Đạp xe lóc cóc đi chợ. Chưa lễ
mà cờ đã bay lác đác phất phới suốt con đường.
Vắng vẻ cách lạ lùng. Cảnh kẹt xe chen chúc khói bụi ngập
ngụa còi xe inh ỏi thoắt cái biến mất như tan theo sương mù.
Thành phố chợt mộc mạc, dễ thương và hiền hòa như
"ngày xưa"...
Mấy cụ bà áo dài quạt giấy
đi lễ nhà thờ. Lác đác vài người đi chợ sớm.
Anh xe Grab khoanh tay ngủ gục dưới hiên nhà ai... Tiếng con chim chích chòe
hót vang khỏe khoắn, như thể nó đã quên khuấy cảnh tù
đày giam hãm nơi lồng son...
Gió
sớm mai mát rượi. Chân vẫn đạp những vòng vô cảm.
Lòng mang mang, trơ trơ...
Chợt nhớ hồi đi học có đọc
một truyện ngắn đã quên tên, có anh chàng "anh hùng lỡ
vận" phải đi làm kiếm sống trong một xưởng máy. A square
peg in a round hole. Sau buổi làm việc đầu tiên, hai tay anh đầy mùi
dầu nhớt nồng nặc, rửa bao nhiêu lần khi ăn cơm mùi dầu vẫn
bốc lên đến lợm giọng. Dầu như thấm vào áo, vào tóc,
vào người, và vào cả chén cơm đang cầm trên tay. Vậy
rồi nhiều ngày sau, anh chợt khám phá mình không còn nghe thấy
mùi dầu tởm lợm từ hai bàn tay và thân thể mình nữa.
Như thể anh với dầu đã hòa làm một. Và anh bỗng thấy
đau đớn, muốn òa khóc: Anh đã dần quên mình là ai,
nên quen dần với cái mùi trước đây vốn xa lạ gớm ghiếc,
như hình ảnh quãng đời tăm tối "lên rừng đốt than".
Có những lúc hồi ức quay về làm muộn phiền đến
độ tưởng như có thể chết được vì trái tim ứ
máu đến héo hắt. Mà lạ, mấy năm gần đây vào
thời điểm này tâm tư sao cứ bàng bạc mơ hồ, cõi lòng
thành trơ trơ...
Tôi bỗng cũng
muốn òa khóc như anh chàng lỡ vận. Thì ra nỗi đau cũng
có thể quen dần, đến một ngày ta và nó hòa nhau làm
một, ta không còn nhận ra chân tướng nỗi đau. Nó khiến cuộc
đời ta điêu linh hay ta làm cho đời ta điêu linh? Cùng hùa
với nỗi đau, ta đã làm chi đời ta?
Trần Cẩm Quỳnh Như
30/4/2018
8. Tình nghĩa giáo khoa thư
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng
dài.
Một tay thì cắp
hỏa mai,
Một tay cắp giáo,
quan sai xuống thuyền.
Thùng
thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa.
(Lính thú đời xưa - Quốc
văn giáo khoa thư)
Có lẽ thế hệ "sáu bó"
chúng ta hiếm có ai không đọc qua quyển "Quốc văn
giáo khoa thư" của nhóm tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn
Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận biên soạn,
một quyển sách hết sức dễ thương mang tính
giáo dục cao, dạy cho trẻ nhỏ trở thành những công dân tốt
và người tử tế mà giá trị của nó tới
nay vẫn không hề xưa cũ.
Trong câu chuyện "Tình nghĩa giáo
khoa thư" của nhà văn Sơn Nam đã diễn ra một cuộc
gặp mặt thật độc đáo giữa anh chàng phái
viên báo Chim Trời với anh Tư Có ở cái xóm Cà Bây
Ngọp khỉ ho cò gáy:
"Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp
quá xa vời ! Chiếc tam bản nhún xuống một cái "ồ" rồi
nhảy tới một cái "sạt" theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang
chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát
gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ
như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên.
Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa
khô trên mặt nước đầu sóng gió. Anh trạo chèo một
chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay
một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc
tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ
lọt bề ngang".
Nếu Bá Nha có Tử Kỳ, Tả Bá Đào
có Vương Giác Ai, thì tri kỷ tri âm với nhau có thể nói
là "đôi đũa lệch" anh phái viên với chàng bắt
lươn tay lấm chân bùn! Trong ánh đèn dầu cá leo lét,
bên chiếc bếp un dưới đất tỏa khói cuồn
cuộn, hai kẻ mê "Quốc văn giáo khoa thư" tranh nhau kể
rành rọt từng bài trong sách, đến nỗi anh chàng phái
viên cảm cái tình "Quốc văn giáo khoa thư" mà không
đành đòi nợ người độc giả đặc biệt,
đành ra về tay không sau khi hứa hẹn sẽ tiếp tục gởi
báo về tặng không!
Thú thật tôi cũng là một trong
những người yêu thích "Quốc văn giáo khoa thư".
Đó cũng là "quyển sách một đời" mà mỗi
người trong chúng ta nhớ mãi từng bài theo chiều dài
cuộc đời để luôn làm "người tử tế",
vì thời gian trôi qua bao nhiêu năm tháng nhưng có thể nói
chưa có quyển sách nào có tính văn học cao và đầy
hiệu quả giáo dục tâm hồn trẻ thơ như "Quốc
văn giáo khoa thư"!
Nó cũng gợi lại cho tôi thật nhiều
kỷ niệm... Có lẽ ai trong chúng ta cũng có lần nghêu ngao:
"Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm
chứ!" Thật là một cuộc sống đáng mơ
ước! Cứ như là kẻ ẩn sĩ quy điền không
màng danh lợi, thơ thẩn trên lưng trâu thưởng ngoạn
thú điền viên "thảnh thơi thơ túi rượu bầu".
"Ai bảo chăn trâu là khổ?
- Không, chăn trâu sướng lắm chứ!
Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như
roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót
trong chòm cây, mắt trông bươm bướm lượn trên đám
cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi
vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!"
Phải
chăng nhà thơ Giang Nam cũng từ bài học này mà ấp ủ
một tình "Quê Hương" ?
"Thuở
còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Ai bảo chăn trâu là khổ,
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao..."
Người
Anh hay nói: "Don't edit the sad parts", đừng lược bỏ mặt
tối của đời sống. Hình ảnh em bé ngồi lưng
trâu sẽ đẹp đẽ và thư thái biết bao nếu ta đừng
nhắc tới chuyện đời chăn trâu bữa đói bữa
no, chuyện bị chủ đánh tơi tả khi để trâu ăn lúa
nhà người, hay khi ham chơi dẫn trâu về bụng chưa căng
cỏ!
Tôi không bao giờ quên được những năm 70 hình
ảnh tương phản của thằng em tôi da trắng bóc từ thành
phố về quê lần đầu tiên cỡi lên lưng
con trâu đen trùi trũi của Nội, miệng hò rầm trời:
"Ai báo chăn châu la khổ...". Thiệt đúng là:
Mười
năm cắp sách theo thầy
Năm
thứ mười một vác cày theo trâu!
(?)
Nhưng thằng em tôi nó lại cười ha
hả, coi bộ chẳng buồn phiền gì khi bị nghỉ học
về quê làm ruộng. Ôi thằng em cực kỳ thông minh
và vô cùng khéo tay của tôi! Tính khí ương ngạnh và
kém chí tiến thủ với mấy mươi năm lưu lạc đã
biến đứa học trò hiền lành dễ thương thành
kẻ phong trần bất đắc chí... Số phần nghiệt
ngã đẩy đưa xô dạt những mảnh đời non trẻ,
buồn hơn là có khi chính mình đã vô tình tiếp
tay cho đời mình thêm bất hạnh long đong...
Và có ai còn
nhớ bài thơ tả mùa Hè trong Quốc văn giáo khoa thư, đề
là "Thơ cổ" nhưng thật ra là của Dương Bá Trạc,
một nhà thơ yêu nước:
Ai
xui con cuốc gọi vào hè.
Cái
nóng nung người, nóng nóng ghê!
Ngõ trước, vườn sau um những cỏ.
Vàng phai, thắm nhạt ngán cho huê.
Đầu cành kiếm bạn, oanh xao xác.
Trong tối đua bay, đóm lập lòe
May được nồm nam cơn gió thổi.
Đàn ta, ta gảy khúc Nam nghe.
Bối
cảnh là một mùa hè bức bối ngột ngạt, mọi
thứ tiêu điều (Ngõ trước, vườn sau um những cỏ), hoa
lá nhạt phai (Vàng phai, thắm nhạt ngán cho huê), lòng mong
chờ mãi một cơn gió nồm nam, để tới khi đó: Đàn
ta, ta gảy khúc Nam nghe. Sao mà nhẹ nhàng, sao mà dễ thương!
Hoàn toàn tự chủ, trọn vẹn thoải mái, vô cùng thanh thản,
tuyệt đối thư thái... Khi muốn nghe đàn, ta cứ gãy
khúc nhạc ta yêu thích mà không một ràng buộc nào,
không một áp lực nào, không một miễn cưỡng
nào. Ta tự do trôi người theo cảm xúc bình yên như như... Đàn
ta, ta gảy khúc Nam nghe...
Và đây, đố bạn tìm đâu
ra đoạn văn cực ngắn hơn trăm năm về trước
mà lột tả được sinh động cảnh trí một
dòng thác. Chỉ đôi ba dòng đã gây ấn tượng
mạnh mẽ vào đầu óc non nớt một đứa bé
Tiểu học, khiến cho nó nảy lòng yêu thiên nhiên đến
nỗi khi lớn lên có thể cảm động rưng rưng
khi đứng trước một quang cảnh kỳ vĩ:
"THÁC KHÔNE - Sông Cửu Long chảy đến
Khône thuộc về Hạ Lào, thì có nhiều thác cao tới mười
lăm, mười sáu thước và dài đến hàng nghìn thước.
Khúc sông ở phía trên thác thì hẹp lại rồi chảy tràn
một vùng có đá lởm chởm và rộng tới bốn năm
dặm. Phong cảnh chỗ ấy thật là hùng vĩ thanh tú. Dưới sông
nước chảy ầm ầm nghe như tiếng sấm; trên núi "cỏ cây
chen đá, lá chen hoa". Giữa thác, đàn cá vẫy vùng; xa
xa chim trời lênh bênh theo dòng nước chảy. Thác Khône thật là
một nơi tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan vậy".
Này
là tiểu sử cụ Phan Thanh Giản. Cái chết hào
hùng là vậy nhưng vẫn bị một số người
đời sau kết tội, tượng thờ bị đập
phá tan hoang.
"ÔNG PHAN THANH GIẢN - Ông Phan Thanh Giản
làm Kinh lược sứ ba tỉnh phía tây trong Nam Việt. Khi chánh phủ
Pháp đánh lấy ba tỉnh ấy, ông biết rằng chống với nước
Pháp không được nào, mới truyền đem thành trì ra nộp.
Nhưng ông muốn tỏ lòng trung với vua và tự trị tội mình
không giữ nổi tỉnh thành cho nước, ông bèn uống thuốc độc
tự tử. Chánh phủ Pháp thấy ông là một bậc vĩ
nhân mà chết như thế, lấy làm cảm phục lắm, mới làm
ma cho ông rất trọng thể, cho một chiếc tàu chiến đem linh cữu
ông về quê ông, lúc chôn có lính tây làm lễ chào".
Và
bạn ơi, nếu bạn là người Sài Gòn, thì hãy nhìn
lại Sài Gòn của những năm 1900, vốn đã trật tự,
hiện đại, văn minh, tiến bộ, để xem ngày nay có
còn lưu lại chút gì của ngày cũ, để bùi ngùi hồi
tưởng lại không khí lịch sự êm đềm xưa:
"SÀI GÒN - Trước khi người Pháp
sang bên ta, Sài Gòn là một nơi có nhiều ao đầm kênh rạch
bùn lầy ẩm thấp. Thế mà bây giờ thành ra một nơi đô
hội rất đẹp ở nước ta. Người ngoại quốc đã cho là
"một hạt trân châu ở Viễn Đông" này. Mà thật
thế, bây giờ ở Sài Gòn có nhiều lâu đài tráng
lệ, nhà cửa đẹp đẽ, phố xá rộng rãi, vườn tược
mát mẻ, nước máy trong sạch, đèn điện sáng choang, nhân
dân đông đúc, kể có hơn tám vạn người, buôn bán
phồn thịnh, tàu bè qua lại tấp nập cả năm. Đứng trên
cao trông xuống, thành phố Sài Gòn chẳng khác nào một khu
vườn rộng mông mênh, một màu xanh biếc, lô nhô nổi lên
trên ngọn cây những nhà cao lớn, tựa hồ như muốn ganh đua
với cỏ cây mà chiếm lấy một chỗ ở trên cao vậy.
Sài Gòn là hải cảng to nhất ở
xứ Đông Dương. Thành phố ấy ở trên bờ sông Sài
Gòn, có hai cái lạch chảy hai bên, có đường sắt, đường
bộ và nhất là đường thủy, tức các nhánh sông Cửu
Long (Mékong), sông Đồng Nai và nhiều những kênh, ngòi, làm
giao thông với các tỉnh khác và xứ Cao Mên nữa. Có rất
nhiều những tàu, sà lan và các thuyền chở thóc lúa ở
khắp xứ Nam Việt về Chợ Lớn, mang lên các nhà máy gạo
để xay, giã, rồi lại chở sang bến Sài Gòn để xuất
cảng. Ở ngoài bến thì có tàu biển chạy ra Bắc Việt,
sang Tàu, Nhật, Xiêm, Phi Luật Tân, Nam Dương quần đảo, sang Pháp
và các nước khác bên Âu Châu".
Và còn nữa,
như hiện ra sinh động trước mắt tôi hình ảnh
con ếch phình bụng tròn vo để được to bằng
con bò, chị ếch đỏm dáng mang giày quả ớt che dù lá
tía tô, con bé Mão ác độc bị mèo cào, thằng Canh
bị chó dại cắn, lũy Đồng Hới sừng sững
nổi bật trên nền trời, tướng Carnot cúi người
chào thầy cũ, hai đứa bé không biết đoàn kết
bị tẽn tò khi cầm hai mảnh vỏ bứa còn nhân bứa đã
bị người khác ăn mất rồi, người xin việc cẩn
thận cúi lượm cây kẹp ghim vào áo, và đây hình
ảnh đáng sợ và gây ấn tượng nhứt đối
với tôi: thằng bé ở dơ không chịu tắm lâu ngày
biến thành rừng cây biết đi ...
Lại thêm một
kỷ niệm không vui: Khi cánh đồng bạc hà bạt ngàn xanh
um vừa thu hoạch xong, anh Ba tôi bắt đầu nấu lá bạc
hà lấy tinh dầu. Những năm đầu 80 mọi vật
dụng còn rất thô sơ, cái nồi sắt khổng lồ
dùng tinh cất ngốn vào bao nhiêu cần xế lá bạc
hà như con quái vật đen ngòm ăn mãi không no. Khi lửa
nổi lên un khói mù mịt căn chòi lá, anh tôi nhễ nhại
mồ hôi, kiếng cận xệ tuốt gần chót mũi,
hai mắt đỏ ngầu trong khói cay như Hỏa nhãn kim tinh Tôn Ngộ
Không trong lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân, vậy
mà vẫn tếu táo ngâm nga:
...
Chém tre đẵn
gỗ trên ngàn
Hữu thân
hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước-giếng-trong-con-cá-nó-vẫy-vùng!
Tại
sao bỗng dưng đang trùng trùng dang nứa nơi rừng thẳm
lại có giếng nước trong, trong đó vẫy vùng một
con cá đơn độc? Tại sao không là trường giang, không
là trùng dương cho cá kia thỏa chí phiêu bồng, lại chỉ
là một giếng nước trong? Ý nghĩ này ám ảnh tôi
rất nhiều năm, cũng như trong "Lưu Nguyễn biệt thiên
thai" của nhà thơ Tản Đà, tôi tìm ra chữ "chơi"
đắc địa đầy ám ảnh trong câu cuối "Ngàn
năm thơ thẩn bóng trăng chơi", mà
không tầm thường như "Ngàn năm thơ thẩn bóng
trăng soi"!
Tôi nhớ một anh học trò (gọi
là "anh" vì lúc học với tôi, người đó lớn
tuổi hơn tôi nhiều), trong giờ thực hành Conditional sentences
(câu điều kiện), tôi hỏi "Bạn sẽ mua một chiếc
Mercedes chăng, nếu bạn có một món tiền lớn?".
Anh đó nói "Một xe gắn máy tốt là đủ. Khi
tôi đói, tôi chỉ cần một miếng gà, tôi đâu
cần tới thịt phượng hoàng!". Câu trả lời vô
cùng thú vị đó tôi nhớ mãi và muốn đem ra dùng
để lý giải cho trường hợp "Nước-giếng-trong-con-cá-nó-vẫy-vùng" này.
Phải, chỉ cần giếng thôi, có cần chi tới trời
xanh biển thẳm...
Và tại sao lại là "giếng trong"?
Tôi lại liên tưởng tới câu ca dao sâu sắc và cảm
động về bà mẹ cò: "Có xáo thì xáo nước
trong, đừng xáo nước đục đau lòng cò con". Phải,
anh tôi không cần trời cao bể rộng, anh chỉ cần
một giếng nước nhỏ, mà phải là nước
trong, để anh có thể thỏa sức bơi lội vẫy
vùng trong môi trường thực sự tự do và
trong sạch! Trong hoàn cảnh của anh em tôi lúc ấy, ai mà không
mơ được làm con cá nhỏ xíu vẫy vùng trong làn nước
giếng trong leo lẻo ấy, có phải?
Lúc đó hai anh em tôi bất giác nhìn nhau, mặt mày
lọ nghẹ và nước mắt ràn rụa trong đám khói mù.
Khói cay.
Và đời cũng cay...
Ngậm ngùi! Trở về tuổi
thơ với những bài học dạy cho con trẻ làm người tử
tế nghe như được trở về sống trong một
xã hội biết giữ gìn nhân cách, biết quý trọng
nhân nghĩa lễ trí tín... Khi mua chiếc vé trở về
tuổi thơ, niềm vui sao quá ngắn ngủi! Bức tranh hiện
thực quá ảm đạm
khi mọi giá trị đạo đức đều tuột dốc
không phanh.
Không thể một
mình chấn chỉnh cho mọi thứ trở về trật tự
cũ, cũng không thể thoát ra được mớ bòng bong hỗn
độn đầy rối rắm của một môi trường
sống đầy hiểm họa, há chẳng đáng buồn
cho những bậc thức giả trong một xã hội đại
loạn nhân tâm ???
-------------------------------------------
Thay lời kết:
Chẳng
ai sống đời đời kiếp kiếp, chẳng cái gì vĩnh viễn không
phai. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà
sống.
Đời ta đang sống đâu phải gánh nặng duy nhất
từ xưa để lại; đường ta đang đi đâu phải cuộc
hành trình đơn độc dài vô tận, vô cùng.
Một
thi nhân riêng mình chẳng phải viết bài ca trường cửu. Hoa nở
rồi tàn; nhưng ai đó đã cài hoa lên áo cũng chẳng
cần khóc thương hoa mãi mãi bao giờ. Này, người anh em, nhớ
kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Đối với
ta tri thức là quý báu, vì lẽ không bao giờ ta có đủ
thời gian nắm thâu tất cả. Mọi việc đã được hoàn
tất và an bài ở trên Trời vĩnh cửu. Nhưng chết chóc đã
giữ cho hoa ảo mộng của trần gian vĩnh viễn mát tươi. Này,
người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
(Rabindranath
Tagore - Tâm tình hiến dâng)
(Đỗ
Khánh Hoan dịch)
TCQN
SG, 9/11/2017
(HẾT)
7. MỘT CUỘC BIỂN DÂU
(Đây
là một trong tám bài ghi lại cảm nhận về tám truyện ngắn
trong quyển "Hương Rừng Cà Mau" của nhà văn Sơn Nam)
Muốn về
nhặt lá úa vàng
Làm nơi yên nghỉ
cho ngàn thu qua
Giữa khuya
hứng giọt sương sa
Soi đêm chợt thấy còn ta
rã rời
(Lục bát không đề - Trần
Đức Lập)
----------------
"Nắng
đổ xuống từng đóm lửa đỏ như mấy cục sắt trong
lò rèn mới rút ra, chóa lên rồi bay bổng xa dần, trở nên
phiêu diêu, mát rượi như bầy đom đóm vô hình bay trong
đêm... Bây giờ là ngày hay đêm? Ở đây là biển
trần khổ hay là ở trên bồng lai? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường
như có muôn ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt,
dịu hiền như ngọc nữ kim đồng, trong tiếng tiêu, tiếng sáo,
tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn".
Đó
là giây phút cận tử của ông già Bích trên chiếc
xuồng nhỏ giữa trời nước mênh mông. Theo nhà Phật,
thì không khí mát dịu, tiếng đàn, tiếng sáo... là
một dấu hiệu tốt báo trước rằng người
ra đi sẽ đầu thai vào một cảnh giới tốt đẹp
bình an.
Tôi từng nhiều lần tự hỏi, ở ranh giới
giữa sự sống và cái chết, khoảnh khắc cận
tử sẽ diễn ra ra sao và bao lâu? Mỗi lần đọc một
tài liệu về cận tử nghiệp, cảm giác lo âu
nặng nề lại đeo bám lấy tôi, vì tôi càng hiểu
rõ tầm quan trọng của
tâm trí người sắp chết ảnh hưởng sâu nặng
đến nghiệp lực của người đó như thế
nào.
"Trước khi chết, những tư tưởng đã đi sâu
vào cốt tuỷ của con người là tâm trạng chính, là yếu
tố chính quyết định sự tái sinh..." (Đạt-lai Lạt-ma).
Mà
những người thân đã mất trong gia đình tôi, tất
cả đều "bất thiện chung", họ đã chịu một
cái chết tức tối khổ đau trong thời gian khổ
nạn, sao tránh khỏi tâm trí oán hờn trước khi nhắm
mắt. Nếu sống một đời tử tế lương
thiện nhưng chết trong oan khuất, lòng dấy lên một
niệm uất ức lập tức bị đọa vào cõi
xấu, như vậy có bất công lắm không?
Nhà văn Sơn Nam
Trở lại với cái chết héo hắt
đáng thương của ông già Bích, thân xác lênh đênh
trên chiếc thuyền nhỏ giữa cánh đồng nước
mênh mông không thấy bờ trong "Một cuộc
biển dâu". Hình ảnh thằng Kim tội nghiệp
mếu máo bơ vơ trong cảnh u tịch gây ấn tượng mạnh
đến nỗi đọc Hương Rừng Cà Mau
đã lâu nhưng cái cảnh mủi lòng đó như hiển hiện
trước mắt tôi, sống động và bi thảm. Hãy tưởng
tượng giữa bao la trời nước sóng gợn bạt ngàn,
không một bóng người cũng chẳng có một mái
nhà xa xa, một chiếc xuồng chèo trong vô định trên
đó người cha sắp trút hơi còn gắng gượng thều thào: "Ba để lại cho con cái áo
này... Yếu quá... ba ngồi dậy cởi áo không được. Con.."
Tôi nhớ mấy năm về trước
Đài truyền hình thành phố có làm một bài phóng
sự về Cần Giờ, phỏng vấn một bà cụ
nghèo khó tới tuổi tám mươi vẫn còn phải kiếm
sống độ nhật. Phóng viên hỏi bà có mong ước
gì cho tương lai, bà nói chỉ mong sao có đủ cơm ăn no mỗi
ngày!
Té ra thời Pháp thuộc hay lúc thanh bình vẫn còn
đó đây những mảnh đời cực kỳ bất hạnh,
như ông Bích ngày đó tới chết chỉ có tấm
áo để lại cho con, như bà cụ Cần Giờ ngày nay chỉ
cơm thôi cũng chẳng no lòng!
Và, trong khi người Tây Tạng "điểu
táng" người thân trên chót vót cao những đỉnh núi
mây vờn với hạnh nguyện hy sinh trọn vẹn cho muôn loài,
thì dân ta thời ấy vào mùa nước nổi phải
đành lòng neo xác người thân nơi đáy nước, dằn
theo tảng đá lớn hoặc cối đá xanh, chờ nước
rút mới đem xương cốt đi chôn. Cả đời vai trĩu
oằn biết bao buồn thương và gánh nặng cơm áo,
tới khi chết đi vẫn còn bị neo đá như một
kẻ tử tù!
"Hai chiếc nóp gói kín xác kẻ bạc
mạng. Bà Hai vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống.
Sau rốt, hai ông bà lum khum khiêng xuống xuồng thớt trên của cái
cối xay lúa cũ... Ðôi mắt thằng Kim mở rộng, trừng trừng.
Cả mặt nước giờ đây hiển hiện như con ác thú khổng
lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác cha nó rồi ngậm miệng
lại, giận dữ vì chưa no..."
Chết là hết đối với
người ra đi. Nhưng hình ảnh mặt nước mênh mông
nuốt chửng lấy thân xác người thân duy nhứt
của mình, sao không khỏi đau lòng thổn thức?
Nhưng nếu
đem so với những cái chết vùi dập vô danh, thì
ông Bích vẫn còn hạnh phúc hơn nhiều! Sau khi nước
rút, con cháu còn biết người chết nằm đâu
để trở lại đó đem xương cốt về chôn
cất thờ phượng tử tế. Còn những cái chết
vô danh mà người thân nơi quê nhà năm này qua năm nọ
mỏi mòn trông ngóng người đi và cuối cùng đành
lấy ngày đi làm ngày giỗ...
Tôi muốn kể bạn
nghe cái chết bi thảm và cô quạnh của một người
vô danh. Đó là vào những năm "anh hùng lỡ vận
lên rừng đốt than", anh tôi bỏ dạy đi làm rẫy,
lúc nông nhàn anh đi mua củi bi (là thứ gỗ tạp còn nguyên
thân, chỉ cưa khúc dài chừng một mét) ở sâu trong
rừng Sác rồi chèo tay về tận vàm Phú Xuân (sông
Sài Gòn) để bán cho vựa. Khi anh chèo qua một con tắc
(rạch nhỏ) trong rừng, ghé lại lùm cây nghỉ ngơi và định
lấy gô cơm ra ăn thì chợt thấy một xác người
nằm vắt vẻo xa xa, có lẽ là người vượt biên
bị "tế thần". Muốn chôn giúp nhưng trong tay không
có cuốc xuổng, muốn xem gốc gác để báo
tin giùm cho thân nhân nhưng trên người nạn nhân không một
mảnh giấy tùy thân. Đành lầm thầm xin lỗi, lấy
cây rừng che chắn, niệm danh Phật A Di Đà rồi lẳng
lặng ra đi.
Anh tôi nói anh nhớ hoài gương mặt
hiền lành trí thức và cặp kiếng cận đã
gãy lìa, một càng kiếng gãy đâm sâu vào thái
dương có lẽ do cú ngã bất thần, nhớ vết thương
trí mạng đâm từ sau lưng, vết máu loang rộng đã
đen quánh, nhớ màu áo xanh bết bùn nhờ nhờ trong
ánh chiều chạng vạng... Là người đa cảm, thấy phận
người nhớ thân mình, nên anh nhớ mãi cảnh bi thương,
hai ngày chèo chống không nuốt nổi cơm chỉ uống
nước cầm hơi. Đã vậy khi xuống tới vựa
củi ở vàm Phú Xuân còn bị thương lái ép giá, anh
tôi giáo sư Việt văn hiền khô nào biết bán buôn
ngoa ngoắt... Lần đó anh trở về mặt mũi hốc
hác, mấy ngày trời gương mặt đăm đăm buồn.
Người thanh niên thành phố đáng thương ấy có
lẽ đâu bao giờ ngờ rằng đời mình có ngày
chấm dứt đau đớn oan nghiệt nơi rừng sâu lạnh
lẽo. Đâu đó có bà mẹ già, người vợ trẻ
cùng đứa con thơ mỏi mòn ngóng tin người ra đi...
Vài
năm sau anh tôi cũng ra đi, bất hạnh không kém. Anh tôi chết
vì bệnh không có thuốc uống. Và chết đói...
Nhiều đêm mất ngủ, nhớ tới anh tôi hay tự
hỏi: Không biết khi nhìn thấy xác người lạ đáng
thương đó, có bao giờ anh ngờ được rằng,
rồi có ngày anh cũng "bất thiện chung"? Anh tôi cao
lớn lắm, cười có duyên lắm, trong mấy anh em chỉ
mình anh thừa hưởng đôi mắt phượng của Má,
ánh lấp lánh cương nghị sau cặp kiếng trắng, anh
tôi giảng Kiều hay tuyệt khiến không ít nữ sinh thời
đó thầm thương trộm nhớ... Vậy mà...
Ruồng
nát mấy cuốn "Tướng mệnh khảo luận"
của Vũ Tài Lục, tôi tìm hoài không ra tướng mạo nào
khiến anh tôi yểu mạng.
Lâu
dần tôi nghiệm ra rằng, có khi lòng khẳng khái cũng
dẫn con người vào chốn oan khiên...
TCQN
SG, 04/11/2017
(Còn tiếp)
Viếng thăm
Thầy PHÓ LỄ HÙNG & Thầy VÕ ĐĂNG LÀNH
MÙA THU DAY DỨT
Lặng xuôi năm tháng êm trôi
Con
đò kể chuyện một thời rất xưa
Rằng
người chèo chống đón đưa
Mặc
cho bụi phấn giữa trưa rơi nhiều
Bay
lên tựa những cánh diều
Khách
ngày xưa đó ít nhiều lãng quên
Giờ
sông vắng lặng buồn tênh tiếng cười
Giọt
sương rơi mặn bên đời
Tóc
thầy bạc trắng giữa trời chiều đông
Mắt
thầy mòn mỏi xa trông
Cây
bơ vơ đứng giữa dòng thời gian
(Thầy
và Chuyến Đò Xưa - Nguyễn Quốc Đạt)
Sáng
thứ Bảy 30/9 bốn đứa tôi: Lệ
Hoa, Thu Liễu, Thu Hồng và Quỳnh Như
lên đường đi thăm Thầy Phó Lễ Hùng
(dạy Việt văn trường Đoàn Thị Điểm) ở
quận 7, và Thầy Võ Đăng Lành (dạy Pháp
văn trường ĐTĐ) ở Biên Hòa.
Trời nắng
đẹp cả ngày, không có mưa đá như ông xã tôi tiên
đoán (vì xưa nay tôi hiếm khi đi đâu), mà chắc Trời
cũng nghĩ thương chúng tôi bốn cụ bà gốc Quảng
Ninh (vì gặp nhau đứa nào cũng thi nhau THAN bịnh quá trời!).
I. ĐI THĂM THẦY PHÓ LỄ HÙNG
Thầy Phó Lễ Hùng (Ảnh bên:
Thầy Hùng ngồi trong cùng) vẫn nụ cười
hiền lành, vẫn giọng nói điềm đạm như ngày
nào, nhưng vì nhiều bệnh nên ốm nhiều. Căn phòng
thuê nhỏ xíu nhưng ngăn nắp, trong gian bếp bé tí như
bàn tay, tôi tưởng tượng Thầy tôi một mình
lụm cụm nấu chút cơm, hâm chút thức ăn, rồi tôi
nhớ câu nói của Thầy: "Đối với Thầy,
việc bếp núc nó nặng nhọc làm sao!", tưởng
tượng Thầy tôi loay hoay giặt giũ bằng một tay,
vì tay kia suy tĩnh mạch nặng phải quấn băng thun cả ngày,
tưởng tượng Thầy tôi những ngày mưa dầm
lướt thướt hay những đêm dài mùa đông giáp
Tết, nửa đêm Thầy lên cơn khó thở mặt
mũi tái xanh vì viêm phế quản mãn tính, những buổi
trưa mái tôn hầm hập mà Thầy lại trùm mền
lạnh run...
Chúng tôi đứa nào cũng xót xa cho Thầy tuổi
già cô độc, bịnh tật luôn cố xoay sở một
mình vì không muốn phiền con. Lệ Hoa, Thu Liễu muốn
đưa Thầy đi chơi đây đó cho khuây khỏa, rủ Thầy
đi thăm Thầy Lành, "dụ" đưa Thầy về CT thăm
trường cũ người xưa, nhưng Thầy chỉ lắc đầu
từ chối với nụ cười buồn. Chúng tôi nhắc
đến giọng hát Thầy ngày xưa thật trầm ấm
vào ngày liên hoan tất niên với "Tình xa" của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn: Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình
vẫn u mê... Từ một ngày tình ta như núi rừng cúi đầu.
Ôi tiếng buồn rơi đều, Nhìn lại mình đời đã xanh
rêu.... , nhắc cô Hoàng Yến dạy Nữ công mà
lũ học trò quỷ quái cứ viết tên hai Thầy Cô lên
bảng để gán ghép cho bằng được...
Riêng tôi
có một kỷ niệm đẹp ngày đi học với Thầy
Hùng: Năm đệ Thất (lớp Bảy), lớp P1 chúng tôi
học Việt văn với 1 vị Thầy. Thầy nầy luôn cho
rằng tôi không trung thực vì nhờ người lớn làm
giùm luận văn, nên chưa bao giờ điểm luận của
tôi vượt quá con số Sáu! Tôi mang hoài nỗi ấm
ức kéo dài cho đến khi được chuyển qua học
với Thầy Hùng. "Ước mơ bắt đầu chắp
cánh khi một người Thầy tin tưởng nơi bạn",
lần này khả năng tôi được Thầy công nhận
và rồi trở thành học trò cưng của Thầy. Sự
khích lệ tích cực này đã tác động rất
lớn đối với tâm lý trẻ con khiến tôi tiến
bộ nhanh hơn, yêu thích môn Văn nhiều hơn, vì vậy
tôi luôn mang ơn Thầy Hùng đã giúp tôi sớm cởi
bỏ mặc cảm xấu hổ và nỗi khổ tâm không
đáng có lúc tôi còn học với vị Thầy trước.
Với
tôi, Thầy Hùng còn là người Thầy "tri kỷ"
vì hai Thầy trò tính cách gần giống nhau, thích sống
yên tĩnh và độc lập, hay nghĩ cho người nhiều
hơn cho mình nên luôn cố tự xoay sở, luôn sợ làm
phiền và tính tự trọng rất cao. Những bài viết
của tôi được Thầy đọc và nhận xét rất
đặc biệt mà ngay cả người thân của tôi cũng
không thấy được những khía cạnh đó đằng
sau những ý nghĩ đơn giản và ít khi có tính tích cực
vui sống của tôi. Tôi luôn cho rằng dù muộn, tôi vẫn
may mắn liên lạc được với người Thầy dạy
Văn cũ, để tuổi già Thầy trò có thể cảm
thông nhau vì cả hai đều nhiều bịnh tật, đồng
cảm cái đẹp của văn thơ, cùng có mối quan tâm chung về
những vấn đề văn học, và nhứt là các tài
liệu chuyển tiếp Thầy gởi cho tôi qua mail thường
là những bài viết rất thú vị, hữu ích và
hiếm gặp.
Chia tay Thầy Hùng trong bịn rịn, chúng tôi lên
đường đi Biên Hòa với hình ảnh Thầy trong kiếng
chiếu hậu ốm yếu mảnh khảnh đứng tựa
cửa mãi nhìn theo...
II. ĐI
THĂM THẦY VÕ ĐĂNG LÀNH
Ngày cuối tuần, thiên hạ kìn
kìn ra khỏi thành phố đi chơi xa, đi nghỉ dưỡng, khiến
con đường ra khỏi thành phố đông ken nên gần hai
tiếng sau chúng tôi mới tới được Biên Hòa.
Thầy Lành và Lệ Hoa
Xe dừng trước một căn nhà
rộng trên con đường nhỏ khá yên tĩnh. Thầy Võ
Đăng Lành đang lần mò đi ra về phía cổng. Mắt
Thầy mờ lắm rồi, chỉ có thể thấy được
chúng tôi như những bóng mờ... Tuy nhiên Thầy trông rất
phương phi hồng hào, khí sắc rất tươi sáng, có
lẽ nhờ sau này vợ chồng người con út đã chuyển
về sống chung và chăm sóc Thầy, nên Thầy không
còn phải mò mẫm tự làm mọi thứ như trước.
Chúng tôi ai cũng mừng cho Thầy, vì thời gian trước
qua điện thoại nghe Thầy tả cảnh mò mẫm tìm viên
thuốc đánh rơi, hoặc khi làm bếp một mình mò
tìm mãi trái cà chua lăn dưới gầm bàn, ôi thật
xót lòng!
Với Thầy Lành, tôi có khá nhiều kỷ
niệm vì ngày còn dạy Đoàn Thị Điểm, Thầy
và anh Duệ tôi rất thân nhau. Tôi nhớ chiều chiều
Thầy Lành hay ghé chơi nhà tôi, cùng anh tôi mở rộng
cửa và ngồi trước nhà, vừa ngắm thiên hạ
qua lại vừa tán gẫu chuyện trường, chuyện đời.
Có lần pháo kích cách nhà tôi không xa, một miếng
miểng trắng đục như cục gang bằng chân cái ghim vào
cửa sắt nhà tôi, ngay đúng tầm đầu hai người
hay ngồi. May mắn chiều đó Thầy Lành không ghé
chơi, thật hú hồn!
Hè lớp đệ Lục (năm này
bắt đầu gọi là lớp Bảy) tôi vào nhà Thầy
Lành trong Khu Văn Hóa (kế sát nhà Thầy Nguyễn Cửu
Triệp dạy Vạn Vật) để học ké với mấy
chị lớp đệ Tam (lớp Mười) Pháp văn sinh ngữ
phụ. Giờ về, chờ Thầy quay lưng, tôi lén bỏ bao
thơ học phí kẹp vô sách Thầy rồi ù chạy mất.
Buổi học sau, cái bao thơ quay về chủ nó, kèm cái ký
đầu khá đau!
Lúc đó
Thầy Lành ở chung với Thầy Đạt (cũng dạy Pháp
văn). Thầy Đạt to lớn bậm trợn nhưng rất sợ...
gián!. Cứ hễ chúng tôi đang học với Thầy Lành
ở phòng ngoài mà nghe bên trong Thầy Đạt vừa giậm
chân đùng đùng vừa chạy vù ra mặt mày nhớn
nhát là biết ngay Thầy mới gặp gián!
Khoảng năm
tám mươi, tám mốt, tôi có tìm đến Thầy Lành
ở đường Trương Định, Sài Gòn, đối diện
cổng Tao Đàn để học riêng với Thầy một
thời gian. Hai Thầy trò bất đắc chí có dịp cùng
nhau bàn luận chuyện đời dâu bể... Thầy kể
tôi nghe chuyện Thầy phải đi làm kiếm sống vất
vả từ trẻ, nhắc lại những ngày vui khi còn dạy chung
Đoàn Thị Điểm với anh tôi, nhớ câu nói cửa
miệng của mấy chị học trò lớp lớn thời đó: "Ở
hiền gặp LÀNH, ở ác gặp DUỆ", kể
lại thời gian học quân sự chín tuần ở Thất
Sơn với kỷ niệm đẹp là Thầy, anh tôi và thầy
Hiệu trưởng Phan Thanh Giản Võ Văn Trí cùng đạt chứng
chỉ thiện xạ... Để mỗi ngày mưa lất phất
khi học Thầy về, lòng luôn ngậm ngùi khi tản bộ
từ nhà Thầy về đường Hiền Vương (giờ
là Võ Thị Sáu), Tân Định, ngắm bông sao như chong chóng
quay quay la đà sau mỗi cơn gió, xác buồn nâu chết ngập
cả con đường thăm thẳm...
Thời gian trôi nhanh không ngờ! Các
Thầy Cô ngày nào tuổi thanh xuân hừng hực bầu
nhiệt huyết giờ ai cũng tóc bạc phơ phơ, người
ra đi, người nằm bịnh, kẻ sống lặng thầm cô
đơn... Những con bé con ngày nào còn cột vạt áo dài
nhảy lò cò vô tư trong sân trường, giờ đã là
những bà già lục tuần, đuôi mắt đầy vết
chân chim...
Cầu xin cho các Thầy Cô chúng tôi - những
người giáo sư đúng nghĩa đã tận hiến đời
mình làm đò đưa lũ học trò chúng tôi đến được
vùng tri thức và phẩm hạnh - được tuổi già
thanh thản bình yên, xin cho các vị luôn được tương đối
khỏe mạnh, ít bị bệnh tật dày vò và nhất là
khi ươn yếu cầu xin được ân cần chăm nom trong
vòng tay thương mến của những người thân!
TCQN
SG, 02/10/17
----------------------------------
Sau đây BBT Trang Nhà xin phép đăng địa chỉ
2 Thầy để các đồng nghiệp hay học trò có thể liên
lạc, thăm hỏi và nếu có dịp thì ghé nhà vấn an. Được
vậy thì chắc hẳn 2 Thầy sẽ rất vui và được an ủi
trong tuổi già bóng xế, đau ốm, đi đứng khó khăn:
-
Thầy Hùng: Số 61, đường 43, Phường Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
ĐT: 0983 73 9476
Email: pholehung1944@yahoo.com
- Thầy
Lành: Số 29, đường Quang Trung, Phường Hòa Bình, Biên Hòa,
Đồng Nai.
ĐT: 012345 54 675. Thầy Lành không có địa
chỉ email
- Hình
1: Ăn sáng với Thầy Phó Lễ Hùng.
Bên trái từ ngoài vào: Thu Liễu, Lệ
Hoa, QN.
Bên phải từ ngoài vào:
Vợ chồng Thu Hồng, trong cùng là thầy Hùng.
-
Hình 2: Trước nhà con trai thầy Lành.
- Hình 3: Ăn trưa với thầy
Lành.
___________________________________________________________________________________________________
TRỜI XANH NGOÀI KHUNG CỬA
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa
Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp
(Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo
xanh.
(Phan Huy Vịnh
dịch)
1. Bịnh nhẹp, sốt lơ mơ. Nằm hoài lưng đau nghiến,
lết ngồi dậy kê gối dựa tường nhìn ra cửa sổ. Nắng
vàng tươi chảy tràn trên nhánh bông giấy đỏ hồng mơn
mởn. Lũ trầu bà xanh mướt ngã ngớn khi gió lay. Tiếng người
gọi nhau í ới. Tiếng trả giá ồn ào từ chợ chồm hổm
đầu hẻm. Ngoài và trong, hai thế giới quá khác biệt chỉ
cách nhau một ô cửa...
Dường như cuộc đời tôi, một cách hết sức vô
tình, luôn gắn liền với một ô cửa nào đó.
Từ nhỏ, tôi đã có
thói quen thích ngồi trầm ngâm sau khung cửa sổ, thường là nép
một bên để bí mật quan sát thế giới bên ngoài. Lặng
lẽ, không lộ diện. Sao vậy nhỉ? Sao phải giấu mình? Để một
ngày khi mình không còn nơi thế giới này, đời vẫn vậy
không trống vắng? Như mất đi một chiếc bóng âm thầm, như
chiếc lá la đà rụng xuống, nhẹ nhàng không âm vang...?
Nhà tâm lý phán :
Hay mãi ngóng nhìn về trời xanh ngoài ô cửa là người
có quá nhiều ước mơ, nhưng "mơ rất nhiều nhận chẳng
bao nhiêu". Đúng không nhỉ?
Thêm chuyện này, kỳ lạ, một năm đôi lần, tôi lại
mơ thấy mình bay chập choạng nặng nề trong một không gian đặc
quánh và tối đen, bên dưới sóng nước cũng đen kịt
và bóng loáng như nhựa đường chảy nhão, dập dờn đầy
vẻ đe dọa.
Sách giải mộng nói hay mơ bay là cảm thấy bất lực trong
cuộc sống. Chẳng biết đúng không?
Nếu kết hợp mơ bay và khung cửa, hóa ra
đời mình buồn vậy, bất lực vậy, và mơ chỉ là mơ?
Nhức đầu quá, nhưng
cái đầu bướng bỉnh không muốn nghỉ ngơi, cứ nghĩ hoài,
nhớ hoài theo từng mốc thời gian để xem mình đã từng ngắm
gì, nghĩ gì, thấy gì bên từng ô cửa...
2. Bật mí bạn nghe, lúc nhỏ, tôi có tên Bé
Nâu, vì tóc nâu, tròng mắt nâu, mày nâu, thậm chí những
sợi lông tay cũng anh ánh nâu. Lúc thôi nôi, tôi sổ sữa
lắm, tay chân có ngấn ú nu. Nhỏ xíu đã có "thành
tích" rồi nghen : Má ẵm đi "đấu xảo" bé khỏe,
tôi đoạt giải nhứt được sáu trăm đồng với mười
hộp sữa con chim!
Nghe
mấy anh chị nói lại, từ lúc mới sinh tôi đã rất ngoan,
hay nằm chơi một mình, tay nắm ngón chân, mắt mơ màng nhìn
ra cửa sổ, chân mày lúc nào cũng cau cau như triết gia, nên hay
bị mấy thím gọi trêu là "Bác Hai".
Làm dâu điền chủ không dễ,
Má tôi lại là dâu cả phải chăm sóc mọi việc từ kẻ
ăn người ở trong nhà cho tới việc trông coi suất ăn lúc tờ
mờ sáng của mấy chục tá điền, nên dù nhà Nội có
mấy người làm, Má vẫn bận bịu suốt ngày. Vậy là
Má trải chiếu gần cửa sổ, lấy thúng đồ chơi bỏ đó
cho tôi chơi một mình, không quên dặn con chó Mực nằm kế
bên "coi chừng em". Con Mực khôn lắm, hễ Má dặn rồi là
nó không bao giờ ham chơi bỏ đi. Nhưng cứ bò toài vật lộn
đùa giỡn với Mực một lát cũng chán, tôi bèn lẫm
chẫm đứng lên bám vào khung cửa sổ, ngây người nhìn
sững qua khe hở của những chiếc lộc bình bằng xi măng ngoài hiên,
lần đầu tiên tôi biết say mê ngắm ánh nắng vàng tươi,
mấy con bướm trắng chập chờn trên giàn mướp xanh mướt
ngập hoa vàng, con gà tre nhỏ xíu đang cục cục bươi đất
tìm trùng cho đám con lăng xăng... Má nói tôi cứ đứng
vậy rất lâu, nín thinh đến nỗi Má làm việc gần đó
giựt mình vì tưởng tôi bò đâu mất. Má phì cười
khi thấy tôi quàng cổ con Mực, hai đứa cùng ngó đăm đăm
ra ngoài trời, lặng yên mơ màng! Chẳng hiểu trong cái đầu
nhỏ xíu của tôi ngày ấy có ý nghĩ gì không khi nhìn
ra khung cửa đầu đời... Một tâm hồn đa cảm dễ thổn thức
và xao động với cỏ cây, hoa bướm.
Nhưng sau này, thời gian phải xa hoa bướm của
tôi lại quá dài cho một đời...
3. Tôi có hai bà chị. Hai chị tôi lớn hơn tôi rất nhiều
tuổi. Chị Hai tôi đẹp nhứt trong ba chị em, thông minh nhứt, học
giỏi nhứt, và cuộc đời cũng vô duyên nhứt. Khi tôi học
tới lớp Ba trường Nữ Tiểu học thì chị Hai lấy chồng. Tiệc
đàng gái không đãi ở Cần Thơ mà diễn ra ở biệt
thự Ba tôi tại Sóc Trăng. Khi người lớn đang lu bu tiệc tùng,
tôi lẳng lặng mở quả lấy mấy cái bánh plum-cake chị Tư
làm để đãi tiệc, rồi bỏ ra lan can lầu sau thơ thẩn một
mình. Mới tám tuổi tôi đã không ưa đám đông,
không ưa không khí đám cưới cười nói nhậu nhẹt
rần rần...
Tôi ngồi
thụp ở cửa sổ gần lan can, nhìn ra những ngọn cây xanh non trong nắng
sớm, và mê mẩn ngắm trời xanh thăm thẳm. Rất lâu sau, bất
ngờ nhìn xuống khu vườn, tôi chợt thấy anh Hai chị Hai đang ôm
hôn nhau say đắm. Tôi còn nhỏ lắm nhưng tôi cũng biết đó
là một cử chỉ yêu đương. Điều đó kịch liệt
kích thích óc tò tò của một đứa con nít, nhứt là
tôi đang ngồi ở một nơi an toàn và kín đáo. Nhưng
hai người ở khá xa. Tôi cố lắm cũng chỉ thấy bàn tay anh
Hai ôm chặt eo chị Hai, mái tóc quân nhân ngắn chơm chởm vùi
vào mái tóc chị Hai dài xõa bồng bềnh. Dáng chị Hai cao
ráo, thanh tú và sang trọng. Gió ùa qua những kẽ lá,
đẩy mấy vạt nắng vàng xô lệch trên mặt đất. Vạt
áo cưới chị Hai bay phơ phất, chiếc áo gấm hai mặt mua tận
Thượng Hải vàng rực những hoa cúc đại đóa, chiếc áo
mà mười mấy năm sau chị Hai vừa khóc nức nở vừa đốt
nó thành tro chỉ vì đêm trước anh Hai đi bay về bảo chị
Hai chấp nhận cô xẩm nào đó ở Bạc Liêu về sống chung
"làm chị làm em"...
Nhưng tại sao ngày ấy lúc ngắm nhìn hình ảnh tuyệt
đẹp ngập tràn hạnh phúc của anh chị Hai tôi khi hai người
ôm nhau trong khu vườn đầy nắng, tôi vẫn không hề ước
ao sau này được mặc áo cưới sang trọng như chị Hai, mà
chỉ cảm thấy đám cưới sao quá nhiều phiền toái! Thật
lạ, tôi con bé mới tám tuổi đầu không hề thấy đó
là hình ảnh bóng lộn rực rỡ đáng mơ ước, chỉ
thấy toàn những rắc rối và hệ lụy - dĩ nhiên trong đầu
tôi lúc đó chỉ có một cảm nhận mơ hồ, chớ không
diễn tả được bằng lời như tôi đang kể bây giờ.
Phải chăng đó là
cái điềm, hay một thứ khẩu khí khiến cho về sau quả thật
tôi chưa được một lần mặc áo cô dâu cho đúng nghĩa?
4. Khi tôi lớn lên một chút, vào đệ
Thất trường Nữ trung học Đoàn thị Điểm, bàn học của
tôi cũng đặt sát cửa sổ. Nhà Ngoại ở Cần Thơ vừa
lớn vừa dài hơn ba mươi thước, nên khi cất nhà, Ngoại
chừa một khoảng sân nhỏ ngăn cách nhà trên và nhà dưới,
nghe người lớn gọi là "sân ché", để căn nhà dù
dài hun hút vẫn sáng sủa phong quang. Nơi sân ché có hai dãy
lu bốn vú, Ngoại thường gọi là "cái mái", lúc nào
cũng đâỳ nước phông tên để Ngoại cho người ta đổi
nước.
Lúc đó tôi chưa biết
ham học lắm đâu. Trừ hai môn Việt văn và Sinh ngữ, còn mấy
môn Toán, Lý, Hóa tôi sợ lắm, nên tôi ngồi học mà
cứ mãi nhìn ra phía sân ché sáng trưng, ngó mấy dì
mấy chị quẫy gánh tới đổi nước, hóng hớt hàng trăm
câu chuyện "bà tám" thật đa dạng và phong phú! Má
thấy vậy hay đe nếu không siêng học thì sau này tôi sẽ
phải đi gánh nước mướn. Và để chứng minh đó là
một nghề vô cùng nặng nhọc, Má biểu tôi ra nhớm thử. Đôi
thùng thiếc chỉ đổ nước có phân nửa mà tôi ghé
vai ứ hự mấy lần muốn khọm lưng vẫn không đứng lên nổi!
Thời đó chỉ có tivi trắng đen. Tôi
với thằng em chết mê chết mệt chương trình ca nhạc Hoàng
Thi Thơ và chương trình tạp lục Tùng Lâm. Nhưng chị Tư
tôi dữ lắm, ăn cơm chiều xong tụi tôi chỉ được phép
coi tivi tới đúng tám giờ tối là phải ra nhà sau học bài.
Thằng Út rất láu cá, nó hay làm bộ đau bụng để
đi toa lét, vì từ toa lét nó có thể hí hí nhìn về
phía tivi ở nhà giữa, mà khổ, xa lơ xa lắc, chắc nó chỉ
thấy được gương mặt ca sĩ, diễn viên nhỏ bằng ngón
tay cái mà thôi!
Tôi thì khờ
hơn, và tôi cũng biết sợ cái viễn cảnh vô trường bị
kêu trả bài mà đứng đực mặt ra trước bàn dân
thiên hạ, nên tôi đành nuốt cục tiếc mà ráng nhai mớ
bài như nhai gạo sống!
Trở lại
chuyện cái sân ché. Ban đêm học bài nhìn ra sân ché
vắng lặng tăm tối thấy ghê. Nó cắt căn nhà ra làm đôi,
chạy băng qua lưng nhà lối xóm (vì nhà nở hậu) và ăn
thông với một hẻm nhỏ, mà thằng bạn kế nhà hay kể ở
đó lúc nửa đêm về sáng thường có một con ma mặt
mày trắng bệt tóc tai rũ rượi đứng núp đâu đó
để hù nhát mấy ông say rượu mò vô hẻm "trút
bầu tâm sự". Do vậy bao giờ ngồi học gần đó tôi cũng
gài cửa lớn cửa sổ thiệt kỹ, mặc cho thằng Út cằn nhằn
vì cánh cửa che khuất tivi. Nhiều khi đang học bài mà cứ hí
hí lén nhìn ra khe cửa coi có cái bóng trắng nào đang lướt
qua không. Nhưng thường tôi hay gặp con mèo già "anh hùng diệt
chuột" của bà Sáu hàng xóm đang chùn người rình
chuột bên dãy lu, mắt phóng quang trong bóng tối nhờ nhờ... Nó
cứ bất động như vậy lâu lắm, tới khi tôi hết kiên nhẫn
quan sát thì "chóe" một tiếng chuột kêu, nhanh như chớp,
con chuột cống vừa lò dò xuất hiện đã nằm gọn dưới
nanh mèo, cổ ục ục tràn máu, bốn chân quơ quào trong tuyệt
vọng. Con mèo thường đùa giỡn với con mồi đến chán
chê mới bắt đầu ăn, nhưng cũng có khi cu cậu đói bụng
nên xực liền tại chỗ, nó vừa nhai vừa ngoao ngoáo nho nhỏ trong
cổ họng, tiếng xương bể nghe rau ráu... Mấy con thằn lằn trước
phòng Ngoại gần đó nhìn xuống chắt lưỡi liên hồi...
Thế nào sáng mai chị Hai hay chị Tư mở cửa
thức dậy thấy cái đầu con chuột hai mắt trợn trừng và mớ
ruột máu me bầy nhầy một đống ngay giữa đường đi, mấy
bả sẽ la bài hãi mà kêu Như ơi Như à rùm lên cho
coi...
-----------------------------------------------------------------------------
THU PHỤC KHUYỂN TÂM
5. Khi lên tới lớp Chín tôi mới biết lo
học không cần người lớn nhắc nhở. Lúc này bàn học
của tôi không còn ở chỗ nhìn ra sân ché nữa, mà dời
hẳn vô phòng ngủ. Tôi có cái dở là đầu óc không
tập trung được chỗ ồn ào (trong khi con bạn tôi thì phải
vặn nhạc nó mới học được!). Ngay cả tới bây giờ già
rồi, mà hễ đang soạn bài chấm bài mà ông xã cầm
cây đàn gảy tứng từng tưng là tôi liền ôm sách
chạy lên lầu tị nạn, còn viết bài thì phải chờ nửa
khuya!
Bàn học của tôi lúc bấy
giờ sát cửa sổ nhìn ra sân nhà người lối xóm làm
nghề bán cá kiểng, có cây ổi ghé nhánh thơm thơm vào
tận song cửa, và mấy hàng lu lớn nhỏ đủ cỡ nuôi đủ
loại cá thượng vàng hạ cám, từ những con cá tàu đuôi
voan tha thướt óng ánh bạc sang trọng, tới bầy cá bảy màu
lúc nào cũng lăng xăng vui mắt lượn vòng vòng trong lu như
chơi cút bắt. Một khung trời nho nhỏ mở ra dễ thương và sinh
động với biết bao sinh vật nhỏ bé tung tăng dưới thế giới
nước diệu kỳ!
Nhưng con chó phóc
nhà đó thì khó chịu vô cùng! Nó rất khôn, bao nhiêu
con nít ra vô mua cá nhà nó, nó chỉ cười cười (đó
là do tôi thấy miệng nó hơi mở ra, ánh mắt như cười)
và vẫy đuôi nhè nhẹ chớ không bao giờ sủa. Nhưng cứ
hễ thấy tôi vén màn nhìn ra phía nhà nó để ngắm
ké bầy cá nhỏ bơi tung tăng dưới đám rong đuôi chồn,
là nó bắt đầu xuống tấn bốn chân ông ống sủa. Cái
mặt nó lúc đó thấy ghét lắm, hai mắt ốc nhồi trợn
ngược lên, răng nhe ra làm vẻ nguy hiểm dù thân thể nhỏ
xíu có một nắm, mặt vênh, mũi chỉa lên trời kiểu ta đây
sả thân bảo vệ lãnh thổ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư".
Thứ chó nhỏ, tiếng sủa không "ông ông" vang dội oai hùng
như chó berger, mà ăng ẳng nheo nhéo nhọn hoắc như xỉa vào
tai mình, nghe rất khó chịu. Được rồi, hãy đợi đấy
nhóc à...
Tôi bắt đầu một
chiến dịch thu phục nhân tâm, ủa quên khuyển tâm. Mỗi ngày khi vừa vén màn là
tôi quăng cho ẻm khi thì miếng chả lụa thơm phứt, lúc thì
miếng bánh xốp kẹp kem va ni thơm lừng. Ban đầu cu cậu nghi ngại
lắm. Chắc ẻm đã được giáo dục tới nơi tới chốn,
rằng tự nhiên được đối xử tử tế có thể tiềm
ẩn vài nguy cơ... Nhưng chả lụa là chả lụa chị Hai tôi mua
tận lò chả Vĩnh Long nổi tiếng, cắt ra hồng hồng ươn ướt
thơm sực nức mùi nước mắm ngon... Cu cậu đứng từ xa hít
hít ngửi ngửi mùi chả lụa tỏa hương trong gió, chắc là
nước miếng nước mồm túa đầy chân răng rồi đây...
Rồi kìa, đuôi ẻm bắt đầu vẫy nhè nhẹ, bốn chân
bồn chồn, nửa muốn bỏ đi, nửa thèm thuồng hết nhìn miếng
chả tới nhìn tôi, lúc này đang cầm một miếng chả bự
khác trên tay, gian ác cố tình nhai chóp chép thiệt lớn... Cuối
cùng, chịu hết xiết, thằng bé phóng tới táp phập, nuốt
không kịp nhai, cả người run lên vì sảng khoái.
Ha ha, cứ mỗi ngày đều đều
như vậy, khi thì thịt cá, khi thì bánh ngọt, chưa tới một
tuần cu cậu đã bị tôi "đốn" ngã chúi nhủi! Sau
này cứ hễ vừa thấy tôi vén màn là ẻm chạy ù tới
vẫy đuôi lia lịa, mắt đen láy nhìn tôi đắm đuối,
thậm chí còn đứng chồm lên tường cho tôi vuốt đầu
gãi tai! "Tình yêu" của một chú cún cũng đi qua đường
bao tử, hén!
-----------------------------------------
THIÊN TÌNH SỬ... NGOÀI
LUỒNG
6. Năm mười
tám tuổi rưỡi, chuỗi đời tôi bắt đầu lận đận
tiếp nối lao đao, rồi gia đình tôi phiêu bạt lên Long Khánh
mua rẫy. Tôi ban ngày nuôi gà chăn heo, nhổ cỏ mì, tối về
học ôn sinh ngữ dưới ánh đèn dầu leo lét. Bàn viết
của tôi bấy giờ được đóng sơ sài bằng mấy miếng
ván tạp xin của trại cưa cách đó hơn cây số. Và bàn
cũng được đặt kế cửa sổ, song cửa là mấy cây đước khòng
khoèo nhỏ bằng chân cái cắm sâu vào tường đất
bện rơm. Nơi đó tôi bắt đầu làm quen với các bộ
kinh Phật - phải chăng khi cảm thấy tương lai đầy bất ổn và
tăm tối, khi không còn biết bám víu vào đâu nữa, thì
người ta quay ra bám víu vào những đấng thiêng liêng? Tôi
bắt đầu thấy thích thú với sự phóng khoáng trong ý nghĩa
của kinh Duy Ma Cật và những cuộc đối thoại đầy thú vị
của vua Di Lan Đà với tỳ kheo Na Tiên trong "Na Tiên tỳ kheo kinh"...
Cũng bên những chấn song
cửa sổ đó, biết bao lần tôi đã ngồi lặng để mơ
màng nhìn ra khung trời cao rộng ngoài kia. Biết bao ước mơ, biết
bao khao khát, biết bao kỳ vọng đã trôi qua theo tháng lại ngày
qua... Tương lai thuở nào tưởng như rộng mở đã không
bao giờ mở rộng với tôi. Nó khép lại vĩnh viễn cùng với
cõi lòng tôi, đứa con gái nhỏ trước đây cứ tưởng
đời toàn kẹo hạnh nhân bọc đường... Đã đến
lúc phải tỉnh mộng! Ở cái nơi chó ăn đá gà ăn
muối này, mọi cuộc đời xán lạn sẽ bị mai một, tuổi
thanh xuân đẹp đẽ sớm bị chôn vùi, mọi ước mơ tươi
sáng sẽ bị thui chột...
Buổi tối, cũng ở khung cửa sổ đó, tôi lặng nhìn
chòm sao Hiệp sĩ với thanh kiếm hờ hững treo dưới thắt lưng
lấp lánh sừng sững trên bầu trời, ngắm bầy đom đóm
đang chấp chới họp chợ tình nhộn nhịp ngoài bụi tre, lòng
tự hỏi rồi đây ai sẽ là hiệp sĩ của đời mình,
và mối tình đầu đời của mình bao giờ sẽ đến?
Tôi cũng tưởng tượng ra một dáng người dong dỏng cao với
gương mặt cương nghị. Tôi đặt người đó trong khuôn
viên một trường Đại học ở tận nửa kia trái đất,
và chúng tôi sẽ cầm tay nhau đi trên những lối đi phủ ngập
lá vàng...
Ở đây,
nơi chòi rẫy, cái gì cũng thiếu, chỉ có khoai mì lớp
lớp và trời xanh miên man. Màu xanh biêng biếc, trong vắt, đau đáu,
thăm thẳm. Một màu xanh không nơi nào có được. Nó
làm tôi nhớ tới chiếc áo dài xanh hôtesse de l'air của nhỏ
bạn Thanh Mỹ. Lúc tôi học đệ nhị cấp, có phong trào đứa
con gái mới lớn nào cũng may một áo dài xanh. Dáng Thanh Mỹ thanh
mảnh, lần đầu tiên mặc chiếc áo dài xanh da trời phớt nhẹ,
trông nó xinh như cô tiên nhỏ. Tôi cũng muốn may một áo
dài xanh y vậy, nhưng chị Tư tôi nói dáng tôi lêu nghêu
như cây tre miễu nên mặc quần tây hoặc áo đầm, chớ
tôi mặc áo dài "tướng giống du côn"! Vậy là suốt
quãng đời thanh xuân của tôi, từ lúc mới lớn cho đến
khi gia đình tan tác, tôi chưa hề có được một áo dài
màu, chỉ toàn mấy áo dài trắng đồng phục!
Ở rẫy, tôi hay mặc áo vá - cách
điệu, ton sur ton, contraste... bằng những mũi kim may tay đều tăm tắp như
thêu máy. Tựa hồ quỹ thời gian quá lớn nên phải cố tìm
vui trong một công việc tưởng chừng nghèo khó mà đầy tính
mỹ thuật! Nhiều lúc tôi nghĩ, những chiếc áo vá của tôi,
nếu sau này có dịp được tôn vinh như hình ảnh của
một thời lưu lạc đến tận cùng "quê hương và lưu
đày", thì chúng sẽ là những tác phẩm nghệ thuật
chẳng bao giờ đụng hàng! Nhưng thôi, tôi sẽ kể chuyện này
ở một bài khác.
Trở
lại nơi khung cửa chốn đèo heo hút gió, buổi trưa vắng ngắt
tôi hay ngồi nhìn ra rẫy mì trùng trùng, cứ tội nghiệp những
đọt mì quắt queo lả người dưới cái nắng cháy da. Mây ở đây nhiều
lắm, dày lắm, và trắng ngần, trắng đến không thể trắng
hơn. Và nõn như bông. Đến nỗi tưởng tượng nếu chạm
được tay vào sẽ thấy xốp mềm và êm ái như khi mở
nhẹ trái gòn chín già, chạm vào mớ bông nõn nở bung
vừa mềm mại vừa mát rượi...
Nhưng vẫn có những ngày gió đuổi mây đi
mất để lại bầu trời một màu xanh sâu thẳm hiu quạnh. Tôi
ngẩn ngơ, tự nhiên thấy mình sao cô độc gì đâu... Cũng
có những buổi trưa bầu trời đầy mây cừu trắng, tôi
ngồi khóc nức nở chẳng vì cái gì. Khóc như Mạnh Khương
uất hận, như Nga Hoàng u ẩn, và cứ nghĩ rằng nước mắt
tôi có thể thấm ướt tất cả bông mây nõn trắng muốt
trên kia...
"Sáng nay mưa
về,
Có
một người khóc...
Ngỡ như đêm qua vẫn còn,
Một
giọt sương khuya héo hắt...
Nỗi buồn len lén tâm hồn
Có lúc như mây, mây trôi xa
xôi
Rồi như gió,
gió đem mưa về rã rời...
Và tôi đã nghẹn ngào nước
mắt,
Ngắm mưa
vẫn rơi bên song
Dù đã cố quên đi những ngày hồng..."
(Ô cửa sổ - Võ Thiện Thanh)
Cũng
vào những buổi trưa này, tôi đã có một kỷ niệm ngồ
ngộ, để tôi kể bạn nghe. Cứ một tuần đôi lần, có
một thanh niên đi bộ ngang qua ngõ vắng rẫy mì nhà tôi, thồ
trên xe đạp một xe đầy ngập tre rừng xanh ngắt dài vút.
Người đó nhỏ thó, đội chiếc nón lá rách tả
tơi, lúc nào cũng ở trần phơi ra tấm lưng đen trùi trũi
và chỉ mặc độc một chiếc quần dài lơ lững phía trên
mắc cá chân. Có khi trời mưa, người đó khoác ngoài
một áo tơi bện rơm, lầm lũi đi dưới màn mưa mờ đục
như Lưu Nguyễn thất vọng chốn trần gian xa lạ nên tìm đường
trở lại Thiên Thai...
Nghe
thằng Út nói người đó tên Bảy, nhỏ hơn tôi ba bốn
tuổi gì đó, nhỏ lớn làm ruộng rồi sau này chuyển qua
đi rừng đốn tre đem bán dưới thị trấn. Cứ đúng
lúc tôi dọn dẹp bếp núc bữa trưa xong xuôi, rảnh rỗi ngồi
vào bàn viết lách và chợt nhìn ra cửa sổ là thấy Bảy
dắt xe tre đi qua. Ánh mắt hai bên thường gặp nhau một thoáng.
Ái ngại chăng? Tôi thì tội nghiệp Bảy một đời lam lũ,
còn Bảy có lẽ cảm thương "con nhỏ mang kiếng" ở đâu
lưu lạc tới xứ này (mà cũng có lẽ do tôi giàu tưởng
tượng chăng?).
Một
bữa anh Ba cười khì khì hỏi tôi :"Nè bây, tao thấy cái
thằng Băm Bu đó đi ngang đây lần nào nó cũng ngó vô
muốn trẹo cổ, bây có để ý không?" Băm Bu? Tôi ngẩn
tò te một lúc rồi phì cười. Anh Ba muốn nói Bảy đó
(bamboo). Thằng Út cười ha ha nói hùa: "Băm Bu nhỏ con vậy mà
chấm chị Năm cao nhồng, chắc nó tính hy sinh đời bố,
củng cố đời con đó mà. Hí hí tưởng tượng
nó đứng gần chị Năm giống cục than đứng gần cục bột,
mắc cười quá". Tôi nạt Út: "Thôi kệ nó, đừng
nói gì nó tủi thân tội nghiệp".
Sau đó thấy Bảy cứ kiếm chuyện vô nhà
kiếm thằng Út "đi uống cà phe" hoài, ăn mặc đàng
hoàng hơn: quần jean ống loe bạc thếch lai cá rô rỉa với áo...
"ba la ma" (pyjama). Bảy hỏi tôi: "Út có có có có nhà
không không không chị Năm?" mà môi run lập bà lập bập,
hai tay lẩy bẩy vò riết vạt áo...
Nhiều năm sau, khi tôi đã đầu hàng số phận
và quyết định thôi không tìm tương lai trong những chuyến
đi mịt mờ, tôi trở về Sài Gòn đi học lại Đại
học nhưng vẫn thỉnh thoảng nhớ tới Băm Bu, nhớ tới gương
mặt phong trần luôn đầy vẻ bối rối, nhớ nụ cười hiền
lành có đôi chút ngờ nghệch, nhớ đôi mắt sáng luôn
nhìn xuống đầy vẻ tự ti... Chắc bây giờ Băm Bu đã có
cháu nội cháu ngoại, lâu lâu có nhớ đến "chị Năm
thằng Út" chắc cũng thoáng ngậm ngùi. L'amour est seulement beau
quand il est inachevé!
----------------------
TIẾC CHI ĐỜI PHÙ HOA
7. Bỏ rừng, về Sài Gòn
học lại Đại học, tôi ở trọ trong một căn phòng nhỏ
ở cuối một căn nhà bề ngang chưa tới ba thước và uốn
lượn ngoằn ngoèo như con rắn liu điu. Ngay trên phòng tôi là
phòng thờ Phật của bà chủ nhà. Cứ bốn giờ sáng là
bà thức dậy tụng kinh gõ mõ gióng chuông vang trời. Thuở đời,
mình có tiền mướn nhà ở trọ, mà luôn khổ vì bà
chủ nhà trọ bả sùng đạo quá mức, lúc nào bả cũng
muốn thiếu điều lôi mình xềnh xệch tới chùa, miệng thì
luôn mè nheo cằn nhằn "đạo Phật gì mà chẳng đi chùa,
chẳng quy y, chẳng có pháp danh, cũng chẳng gõ mõ tụng kinh...".
Tôi yêu thích đạo
Phật không đơn thuần chỉ là một tôn giáo, mà còn
là một triết lý, nhưng vốn tánh phóng khoáng không ưa
cuộc sống nhuốm màu tôn giáo, mà nể bà là chủ nhà,
tôi cũng ậm ừ cho qua truông:
- "Phật tại tâm" mà bác, Phật đâu chỉ
ngồi ở chùa. Con chưa quy y, nhưng con có pháp danh rồi đó nghe:
"Thích Tự Tại". Bác coi pháp danh con đẹp ác hôn?
Vậy là bả chủ nhà
bả giẫy nẫy lên như đĩa phải vôi, nói tôi tếu táo
báng bổ...
Bàn
học của tôi lần này nhìn ra mảnh sân nhỏ tí như cái
khăn mù soa, là sàn rửa chén của chủ nhà, được cái
nhìn thấy chút trời xanh, và ở góc sân cây mai chiếu thủy
nở hoa thơm ngát. Nơi đây bao lần tôi ép những cánh hoa
chiếu thủy trắng muốt để kỷ niệm tình yêu đầu đời,
mà bây giờ mấy mươi năm giở lại, xác hoa đã khô
vàng trong quyển nhật ký chép đầy một tình duyên trắc
trở nhưng cuối cùng cũng kết trái đơm hoa. Bạn bè nhiều
đứa hỏi tôi nghĩ sao mà thời này lại đi chọn cho mình
một cuộc sống túp lều tranh hai quả tim vàng. Con trai tôi sau này
cũng có lần cắc cớ hỏi: "Mẹ nghĩ sao mà không ưng cậu
Tâm ở Pháp, lại chọn Bố?". Tôi cười: "Nếu mẹ đi
Pháp, có lẽ mẹ sẽ thực hiện được giấc mộng công
danh, nhưng làm sao mẹ có được con, hả con trai?"
Mà cũng lạ, ông xã chẳng mảy
may giống "người trong mộng" tôi tưởng tượng trước
kia, sao vậy nhỉ...?
Có
lẽ do ấn tượng đầu tiên là chiếc áo đi mưa vai đúp
màu beige đậm anh mặc trong sân trường giống hệt áo anh Ba tôi
lúc đó hãy còn ở một nơi rất xa, bệnh tật đói
khát nhưng vẫn luôn đau đáu cho những người thân ở nhà.
Có lẽ suốt trong thời
gian dài mấy năm anh đeo đuổi tôi, tôi đã được anh
quá yêu chiều nên lâu dần xiêu lòng trước tấm chân
tình.
Mà cũng
có lẽ chỉ do một nguyên nhân hết sức đơn giản, là
duyên phận: Nguyệt lão đã dùng "xích thằng" cột hai
mảnh đời chúng tôi lại rồi, chạy đâu cho thoát?
8. Cuộc đời tôi đã lặng lẽ lướt
qua bao nhiêu ô cửa! Biết bao cảm xúc, biết bao buồn thương, biết
bao nụ cười, biết bao nước mắt...
Giờ đây mỗi khi ngồi bên bàn viết nhìn
qua ô cửa sổ, thấy trời xanh thăm thẳm và mây trắng mông
mênh, lòng tôi lại cuồn cuộn thổn thức bao nỗi niềm. Vừa
luôn khát khao được lãng du như mây, lại vừa thầm biết
ơn các Đấng Thiêng Liêng đã ban cho tôi một người chồng
tốt, một đứa con ngoan, và hơn nửa đời hai chữ bình an.
Mong cho con trai được bay
xa, để nó có thể chắp lại giùm tôi những ước mơ
tan nát. Còn tôi, xin cho đây là ô cửa cuối cùng. Để
tuổi già mỗi khi nhìn ra trời xanh, biết quên hết dĩ vãng buồn
thương u uất, biết vui với tia nắng vàng mới đáp, biết hòa
với tâm hồn con bướm nhỏ vừa ghé giàn hoa...
Để một ngày hồn tôi thoát
xác vẫn ở yên trong tư thế ngồi bên khung cửa, mắt đăm
đăm ngưỡng vọng trời xanh...
Bạch cốt tịch vô ngôn
Thanh tùng khởi tri xuân
Tiền hậu cánh thán
tức
Phù
vinh hà túc trân
(Nghĩ Cổ - Lý Bạch)
Xương trắng ngàn năm ngủ ,
Thông
xanh bốn mùa ca.
Trước sau là thế cả ,
Tiếc chi đời phù hoa.
(Thầy Phạm Khắc Trí
dịch)
TCQN
02/2014
GIÀ CŨNG YÊU
Bài ký sự "Về BT vào mùa phượng
nở" của đại tỷ có nhắc đến cái tình đằm
thắm của đôi uyên ương Hải - Phượng. Nhân đây mình
đăng bài "Già cũng yêu" viết mấy năm về trước,
mình kể chuyện mình, nhưng đề tặng tất cả các bạn,
những đôi vợ chồng từng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, và
đã đi bên nhau gần trọn đường đời với tất cả
lòng yêu thương và hi sinh thầm lặng...
Bạn nói già không còn tình yêu,
chỉ còn cái nghĩa? Đâu phải. Người già cũng yêu dữ
lắm chớ, chỉ có điều tình yêu của người già biểu
lộ đằm thắm và êm đềm chớ không bồng bột cuồng
vội như tụi trẻ.
Già. Bà
già chỉ cần đi ngang vuốt cánh tay nhăn nheo của ông già khi
ổng đang ở trần quần tà lỏn lọ mọ lau nhà, hay ông già
đi qua bếp ghé hun nhẹ một bên má bà già khi bả đang lui
cui nấu nướng nhễ nhại mồ hôi mồ kê, thì "đối
tượng" cũng hấp hem đôi mắt già mà cảm động lắm
rồi, đâu cần phải ôm ghì (ôm chặt quá sợ bà già
bả tắt thở) hay hun môi đắm đuối như trong phim mới gọi là
yêu ? (hun môi sợ rớt răng giả lọt vô bụng).
Già. Mấy mươi năm chung sống với nhau, biết rành
nhau từng tánh tốt thói xấu, thuộc lòng từng món ăn ưa
thích... Có khi người này nghe người kia nói điều gì chướng
tai chịu không được (già chớ còn hăng) bèn ngứa mỏ
khởi động một cuộc tranh luận rùm beng nảy lửa khiến thằng
con phải nhảy ra "cầm còi", rồi bao giờ nó cũng cười
hí hí kết luận bằng câu : "Trên mạng họ nói vợ chồng
già cãi nhau thông phổi, tốt cho sức phẻ lắm đó Ba Mẹ
!". Ông già thấy vậy bèn bắt chước phim Hàn quốc nói
"Anh sai rồi" để cho bà già khoái chí cười móm mém...
Già. Mấy mươi năm chia sẻ buồn vui
đồng cam cộng khổ, tưởng tượng có ngày một người
ra đi trước, mắt người kia bỗng rưng rưng. Đã là thói
quen bên nhau quá lâu... đủ lâu để cảm thấy quạnh hiu khi
lẻ bóng.
Mất ông, ai leo nóc nhà
sửa chỗ dột, ai chèo chống đắp vá phía sau khi mưa giông
tốc miếng nhựa, đồ đạc ướt ngoi ngóp. Ai sửa mấy cái
lắt nhắt trong nhà, robinet, điện đóm, máng xối, quạt bàn,
cái nào cũng thi nhau muốn dưỡng lão... Con cái cũng phụ vào
nhưng kém hiệu quả vì tuổi trẻ thường làm cái gì
cũng vụt chạc, và hay lạm dụng sức thanh niên chớ không cẩn
thận, cũng không biết dùng cái đầu tính thế dài lâu,
hở chút là chạy ra tiệm mua cái mới chớ không biết tận
dụng đồ cũ, không như ông già lọ mọ sửa đồ nhà
không tốn cắc nào, hoặc tốn rất ít, làm xong lau chùi sạch
trơn, máy chạy êm ru !
Mất bà,
ai chăm chút từng bữa ăn cho cả nhà (làm bếp không giỏi
nhưng chịu khó học lóm trên tivi, có khi hên, thành công hỉ
hả ; có khi xui, làm xong cha con ráng nuốt nhìn nhau nghẹn ngào...).
Ai ủi đồ thẳng tắp không sai một pli, ai dẽ xương sẵn mỗi
khi ăn món cá, ai gọt trái cây để sẵn trong tủ lạnh, ai
hớt tóc cho mấy cha con (tính gom lại tiền hớt tóc mấy chục
năm, "truy lãnh" chắc cũng mua được vài chỉ vàng), ai
chót chét cha con bây ăn cơm nhểu nhão nước mắm tùm lum
trên bàn, ai cằn nhằn nhức xương cái giường thằng con mền
gối lùm xùm y như chuồng heo...
Già.
Xương cốt chỗ nào cũng rơ, bù loong đinh ốc rã rời...
Thiên hạ có tiền đi massage toàn thân, vợ chồng nghèo đấm
bóp cho nhau... Bỏ ra vài trăm đi massage tiệm sang trọng, làm sao cảm
động bằng đôi tay ấm áp của người phối ngẫu! (trừ
mấy ông không thích mát xa chỉ thích mát gần!). Trái gió
trở trời, lấy ai cạo gió - nhớ hồi mới lấy nhau, xui xẻo gặp
bà vợ "đừng đụng tới Việt Nam" (vì bả yếu như
bún thiu, đụng một cái là bả chúi nhủi), ông già cạo
gió rào rạo như nạo dừa ; mấy chục năm sau, ổng trở
thành chuyên gia đấm bóp cạo gió đại tài. Một ngày
thức giấc buổi sáng, quay nhìn kế bên mền gối lạnh tanh, không
còn nghe giọng nói ân cần : "Nằm quay lại anh bóp chân cho".
Không còn phì cười khi nghe ông già cười ngỏn ngoẻn khoe
khoang : "Hồi đó ở Đại học Tổng Hợp, mấy ông thầy
với mấy thằng học chung suýt giết Ba vì Ba dám đeo đuổi
Mẹ"...
Quạnh hiu... Con cái có
cuộc đời riêng tươi đẹp đằng trước, có gia đình
riêng, có sự nghiệp, mọi thứ đều có vẻ tinh khôi và
thuận lợi. Chúng thỏa thuê bơi lội trong dòng đời như con
cá gặp nước lớn, sao có thể hiểu được những ngóc
ngách sâu thẳm trong thế giới thầm lặng của người già ?
Khi một trong hai người một ngày ra đi,
người còn lại sẽ bơ vơ, mất phương hướng, già, cũ,
lẩn thẩn, lạc hậu (với một chút, hay rất nhiều bảo thủ),
lẩm cẩm, quên đầu quên đuôi, trầm mặc trong hỗn mang thế
giới kỷ niệm, mở miệng ra là "Hồi đó...".
Bất giác chép miệng trách : "Sao đành
bỏ tui mà đi trước" ? Mắt lại rưng rưng...
Ai nói già không còn yêu ?
TCQN
03/12/2011
TẢN MẠN THÁNG TƯ
1. Happy ending
Thằng cha biên tập báo X gọi tới nói
chuyện lằng nhằng cả buổi, rốt cuộc gút lại chỉ có ba
chuyện : Thứ nhứt : Truyện của em buồn đứt ruột, sửa lại
đoạn kết nghe, cho nó "xây dựng" tí. Thứ hai : Em ráng đi
tìm quảng cáo cho báo, "anh em mình" cưa đôi. Thứ ba : Hôm
nào rảnh ghé anh chơi, bà xã anh về Trung rồi, nhà vắng vẻ
buồn muốn chết.
Tôi cố lắng nghe, dạ dạ cho qua. Lúc gác
máy, ráng hết sức vẫn phải thở dài. Không phải tôi tiếc
cái truyện bốn ngàn năm trăm chữ đi toong, mà tiếc một tờ
báo danh tiếng có con sâu bự quá cỡ. Lầm bầm một mình
: "Em gái" cũng gút lại ba chuyện :
Thứ nhứt : Truyện
của em "xây dựng tí" sẽ thành vô duyên "đỉnh trên
đỉnh" (tôi xin phép xài cái term đang rất "hot" sau vụ
lùm xùm "họa mi Talent hót sáu thứ tiếng"), nếu vậy ngòi
bút cong vòng, tôi chẳng còn là tôi.
Thứ hai : "Anh trai"
hết chuyện sao biểu cái con đệ nhứt cù lần đi tìm mối
quảng cáo để "anh em mình" chia chác.
Thứ ba : "Em
gái" tuy quá date, mặt mũi xếp plis hết rồi nhưng cũng không
quá mê mải chút hư danh đặng lò mò tới "nói chuyện
văn chương" cho anh trai đỡ buồn, để anh ban ơn mưa móc cho
đăng cái truyện nhuận bút chỉ hơn triệu. Chậc chậc, thôi
chờ đủ ba tháng cho hợp lệ rồi gởi đăng báo khác vậy.
Kể với con bạn thân, thế nào nó cũng la rùm :"Tao đã
nói, đọc truyện nào của mầy xong cũng muốn đi tự vận,
báo nào thèm đăng". Ừ ừ, tài hèn chí khí thấp,
mình có phải "văng xỉ" đâu, viết tùm lum tùm la cho
đỡ buồn thôi mà. Truyện buồn có cái hay của truyện buồn,
mắc gì phải sửa ? Chỉ tại mình viết chưa "tới" thôi,
chớ "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư, "Câu
hát tìm nhau" của Quế Hương, "Trăng nghẹn" của Hoài
Tường Phong, buồn thê thảm vậy vẫn nổi như cồn, biên tập
nào dám biểu sửa lại đoạn kết cho "xây dựng tí"
?
2. Nhà có cây trứng cá
Giữa trùng trùng chi chít những cái
hộp bằng xi măng lợp tôn hay bê tông đúc, tìm một căn
nhà có cảnh quê giữa thành phố Sài Gòn này không phải
là chuyện dễ. Một ngày tôi đi công chuyện bị kẹt một
lô cốt mới tinh nằm chễm chệ ngay ngã ba rẽ vào chợ. Xe cộ
ùn tắc nhả khói mịt trời, chân thì lạnh buốt vì lủm
chủm nước ngập sau cơn mưa sớm. Đành quay đầu xe đi tìm
"tiểu lộ". Con đường nhỏ xíu vô danh kìn kìn những
nạn nhân bị kẹt đường.
Bỗng thấy mát rượi
giữa chang chang nắng đổ, tôi tấp vào lề, ngạc nhiên đến
ngẩn ngơ : một căn nhà nhỏ xanh xám u buồn, cửa lá sách
gỗ cũ kỷ nằm nép dưới tàng cây trứng cá xum xuê,
cánh cửa sổ mục nát lắc lay, khoảng sân đất nhỏ xíu
như chiếc khăn tay, lơ thơ vài đám rêu xanh mướt, mớ me
đất tươi tốt bên bụi sả um tùm đang bị con gà mẹ
cày lật lên bằng đôi chân lực sĩ, chung quanh là mươi
cuộn tơ vàng lít chít lăng xăng...
Căn nhà lạc loài tội
nghiệp giữa lô xô dãy nhà phố như thu mình lại dưới
cây trứng cá lấm tấm hoa... Luồng xe vẫn chảy qua vùn vụt, vài
người ngoái lại nhìn tôi bằng cặp mắt lạ lùng, có
lẽ tự hỏi chẳng biết sao bà già bỗng dưng ngừng xe thờ
thẩn bên đường...
Cây trứng cá xum xuê gợi nhớ những
ngày thơ ấu, ngày hè về quê nội lang thang theo đám anh chị
em họ trong khu vườn mênh mông, hái trái cây đủ loại chất
đầy mấy nón lá rồi chèo xuồng dọc con rạch lớn trong khuôn
viên vườn, cả đám con nít vừa ăn uống vừa ca hát,
có khi hò hét khản cổ vui gì đâu ! Trong nón lá, chen trong
mấy trái xoài vàng ươm mơn mởn, những khúc mía Thơm
Dịu mềm mụp ngọt lịm, mấy trái vú sữa tím lịm bóng
ngời, là chi chít những trái trứng cá đo đỏ hồng hồng
căng mọng có cái chúm đen xiu xíu dễ thương. Tôi không
bỏ cả nắm trứng cá vào miệng ngồm ngoàm như tụi nó
đâu, mà bao giờ cũng cầm một trái tỉ mẩn rứt cái
cuống ra, bóp nhè nhẹ cho nước ngọt điểm lấm tấm những
hạt li ti trào ra từ chỗ cuống mới rứt, để thưởng thức
từ từ mùi ngọt nhẹ thanh thanh...
Kể từ ngày đó, hôm nào có
việc đi về hướng này, tôi cũng cố tình chạy luồn vào
con đường nhỏ vô danh để có dịp ngắm căn nhà cũ
đìu hiu, ngắm cây trứng cá dù cát bụi thành đô
dù khói xe mù mịt vẫn phởn phơ xanh mướt, đó đây
lấp ló những trái nhỏ xíu xanh xanh hồng hồng... Và tôi cứ
tự hỏi không biết căn nhà nhỏ cửa đóng im lìm ấy
của ai, những công nhân đi làm tăng ca mắt thâm quầng vì
thiếu ngủ, những người thợ bám công trường xa nhà tháng
này qua tháng nọ mòn mỏi chờ lương, hay là người kéo
xe chở hàng ở khu chợ gần đó, mảnh dây dù xe cút kít
cứa rách vai áo để lộ màu da xanh xao héo hắt vì thiếu
ăn ???
Bẳng đi một đỗi khá lâu không có dịp đi ngang,
một ngày tôi cố tình tìm lại chốn xưa, căn nhà nhỏ
không còn, cây trứng cá cũng biến mất. Thay vào đó là
một tiệm uốn tóc mới tinh, trước cửa tòn ten cái bảng
nhỏ bán cạc điện thoại...
Tôi đứng bên kia đường
nhìn qua, hụt hẩng, buồn thiu. Say say như bị tình phụ...
3. Nước cạn... thăm thẳm!
Thằng nhóc nhà tôi một hôm thắc
mắc : Sao mình không đặt một hòn non bộ nhỏ nhỏ trên cái
hộc đồng hồ nước cho đỡ trơ hả Mẹ ? Ờ ờ, ý
hay đa. Nhà nhỏ xíu, muốn bon chen chút tiểu cảnh để nhìn
cho đỡ "xì trét" nên phải trưng dụng tối đa diện
tích sử dụng. Vậy là một hôm đẹp trời, mẹ con khệ
nệ khiêng về một hòn non bộ hao hao hòn Phụ Tử nằm thoai thoải
trên cái chậu lớn vừa bằng... cái nón lá. Bỏ vài cọng
rong đuôi chồn, thả vài con cá bảy màu... Ái chà chà,
ra vẻ ra phết ! Chỉ có điều hành lang trước nhà rộng có
hơn mét, nên muốn ngắm non bộ phải ngồi thu lu bó gối, thiệt
là mất... nhã hứng ! Thôi đành "tri túc" vậy.
Ấy
vậy mà chiều chiều, lấy cái ghế cóc ngồi ngắm thế giới
nhỏ bé ấy cũng lắm điều thú vị. Đá trắng chập
chùng, cây cần thăng tí nị nằm nghiêng dáng thác đổ
soi bóng xuống mặt nước tĩnh lặng, mấy con cá nhỏ xíu lội
lăng xăng... Một sự thú vị đơn giản mà đầy đặn
dẫn tôi về với biết bao ký ức xa xưa...
Tôi chẳng biết
gì về phong thủy, nhưng rõ ràng là cái non bộ mini đã
thay đổi toàn bộ bộ mặt ỉu xìu của cái hành lang xưa
nay chỉ có mấy nhánh vạn niên thanh cỗi gốc lắc lay buồn bã,
cây nào cây nấy ốm đơ cao nhồng như bụi mía với túp
lá xanh mòn mỏi bên trên. Chợt nhớ anh bạn cùng lớp chuyên
tiểu cảnh và non bộ, trong một phim tài liệu đã luận về
thuyết âm dương ngũ hành, biến những viên đá vô tri
thành những vật sống đầy văn chương và triết lý. Dân
ban C có khác.
Ờ, hồi đó nhà Ngoại rộng mênh mông, sao
mấy người lớn không ai có ý làm một hòn non bộ giữa
sân ta ? Cứ để cái sân lót gạch tàu trơ vơ thấy thương,
cũng may là ngoài cổng còn cây dạ lý hương um tùm thơm
ngát về đêm và mấy bụi cần dầy lá xanh um. Góc sân
có một hồ nước bằng xi măng rất lớn xây kín chỉ chừa
một khoảng trống vuông nhỏ, nhưng nó luôn được đậy
kín tùm hụp giữ cho nước sạch, thỉnh thoảng cũng thấy bà
Ngoại cho người ta đổi nước...
Vui nhứt là lâu lâu
Ngoại sai anh tôi súc hồ, thôi thì đám con nít tụi tôi
"lợi dụng thời cơ", mặc tà lỏn chui xuống, tha hồ tóe
nước và vẫy vùng la hét để nghe tiếng vọng u u lạ
lùng sởn gai ốc.
Kỷ niệm tức cười nhứt là có
lần tụi tôi bàn nhau lén thả một mớ tép sống xuống hồ,
tính nuôi cho nó lớn lên thành tôm càng xanh (tụi tôi tưởng
vậy), nhưng sau đó vài ngày tụi nó chết sình cả lũ,
làm thúi hoắc cả hồ nước, báo hại cả đám tụi
tôi bị Ngoại bắt nằm sắp lớp trên bộ ván ngựa, mỗi
đứa được vài cái bánh tét nhưn mây la khóc rân
trời.
Bây giờ nhà đã về tay kẻ khác, căn nhà
xưa đầy kỷ niệm giờ thành một khách sạn bề thế, xa
lạ, dửng dưng giương mắt nhìn người chủ cũ thất thế
một ngày trở về nhìn lại chốn xưa trong ngập tràn ưu uất
và tiếc nuối...
Ký ức về một cuộc sống thanh bình chợt
sống dậy : dĩ vãng sao đầy đặn đến choáng ngộp, hiện
tại lại đơn giản đến ngậm ngùi... Tất cả những người
thân yêu của tôi đã dứt áo quay lưng với thế gian này
bỗng lần lượt hiện về buồn bã xanh xao... Lớp nước cạn
trong lòng non bộ tí teo bỗng bàng bạc và thăm thẳm như chất
chứa ngập ngụa nỗi buồn u ẩn không tên...
TCQN
04/2012
NGÀY TẾT, ĐÓNG CHẶT CỬA PHÒNG,
TÔI LẠI LÀ TÔI
Tết nữa rồi.
Người không an nên nhìn đâu cũng
động, lòng không vui nên nhìn đâu cũng phiền.
Gió sớm mai lành lạnh luồn qua
khe cửa, buồn.
Mây mùa
Đông lúc tinh mơ bàng bạc những đàn cừu ngơ ngác,
buồn.
Vọc tay vào thau nước
lạnh ngắt sương đêm, buồn.
Ngắm cội mai nhà ai tích nhựa cho nụ chi chít đầu
cành chờ ngày bung vỏ lụa, sao cũng buồn!
Đâu rồi những mùa Tết bình yên?
Gởi bạn một bài viết cũ,
tâm trạng giờ đây sao vẫn y như năm nào...
NGÀY TẾT, ĐÓNG CHẶT CỬA PHÒNG, TÔI LẠI LÀ TÔI
Tôi có chờ đâu, có
đợi đâu
Đem chi xuân
lại gợi thêm sầu?
Với
tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở
lại mùa thu trước
Nhặt
lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!
.....
(Xuân - Chế Lan Viên)
Bạn ơi, Tết nữa rồi! Hồi nhỏ mỏi mắt
mong Tết, sao cứ thấy một năm nó dài lê thê. Lúc trộng
tuổi rồi, Tết cứ vùn vụt tới rồi vùn vụt qua... Tôi để
ý cứ hễ đầu năm, ăn Tết xong kể như sắp hè tới
nơi, rồi quay qua quay lại là tháng chín tựu trường. Học trò
vô học được vài tháng là tới Tết Trung thu, rồi Giáng
sinh, Tết Tây ập tới, rùng rùng theo sau là Tết Ta với bao nỗi
lo toan cho người lớn và cả chục bài tập về nhà thầy cô
trong trường giao cho bọn nhỏ.
Bạn
đọc tới đây chắc cười tôi : Con người gì mà bi
quan dữ, chỉ thấy toàn gai trên cành hồng, chớ không thấy trên
thân gai là đóa hồng đẹp lung linh! Ờ, con người tôi kỳ
thiệt. Có lẽ mấy mươi lần Tết buồn trong quá khứ đã
bám chặt lấy tim tôi...
Thí dụ
như những đêm giáp Tết âm thầm chờ một chuyến đi nên
ở xa nhà thiệt xa. Nhớ nhà, nhớ Má... Cứ mỗi chạng vạng
tàu về là gia nhập đạo quân mấy chục người làm cá
khô ven biển, còm lưng cóp cổ, tay làm cá nhanh thoăn thoắt
dưới ánh đèn dầu leo lét nơi bãi cá miệt Gành Hào,
Hộ Phòng. Cá mối lớn bằng cườm tay, hình dáng như những
con cá sấu nhỏ màu nâu, vun đống ngút ngàn. Cá đuối
khổng lồ đường kính cả sải tay, cái đuôi dài như
con diều lã lướt, thất thế và thoi thóp nằm dài ngổn
ngang trên cát. Và kìa những đôi sam khăng khít từng cặp
và hầm hố như những chiếc xe tăng có đuôi, ánh thép
bóng ngời, nặng nề lịch kịch lẻn tìm đường về biển
cả và ngơ ngác đến tội nghiệp khi bị người ta chận
đường túm quăng nghiêng ngửa lên bờ cao... Thấp thoáng trải
dài theo bờ cát, dăm bảy nồi lớn như thùng phuy nấu tép
biển làm tôm khô, lửa đỏ rực bập bùng... Gió biển
lồng lộng, mùi cá biển tanh tưởi xộc vào tận óc, tâm
tình hoang mang lo lắng, tay thì cứ kéo mãi cái lai quần che kỹ
đôi cổ chân nhỏ xíu trắng trẻo học trò, mắt nhìn
xa không rõ vì cận nặng mà lại giấu kỹ cái kiếng cận
trong túi áo, nhưng vẫn cố nhìn ra biển xa ì ầm tối đen,
như muốn tìm kiếm một con đường trong thăm thẳm vô vọng...
Những ngày Tết bàn thờ lặng ngắt,
không có mai vàng, không có bánh trái, chỉ có làn khói
mỏng manh của mấy nén nhang Má tôi mới thắp, cầu xin ơn trên
phò hộ cho những đứa con khờ khạo hiền lành đang chênh vênh
trong cơn gió bụi, và tiếng thở dài của Má u uất muộn
phiền... Tiếng khóc của ai như tiếng tôi, tuyệt vọng se thắt như
con thú đến bước đường cùng khi đoán biết con đường
học vấn bị cắt đứt từ đây...
Những ngày gần Tết ngồi cả tiếng đồng hồ rang
cho thiệt khô chảo tàu hũ muối sả và làm gô mắm-ruốc-không-thịt
gởi cho anh Hai anh Ba...
Những ngày
Tết không có người lớn, mấy đứa con nít : tôi, thằng
em út, đứa cháu gái nhỏ, lon ton dắt díu kéo nhau ra ngồi
ngoài bờ ruộng, chia nhau mấy cục thèo lèo nhai lóc cóc, đứa
này hỏi đứa kia không biết giờ này Má mình chị mình
đang làm gì trong căn nhà mênh mông ở Cần Thơ, có giữ
được nhà hay mai mốt lại lôi thôi lếch thếch kéo nhau về
đây...
Những ngày Tết đi thăm
mấy anh tôi qua những cánh đồng lau mút mắt, rồi tới những
rẫy khoai mì xanh mướt bạt ngàn, thấp thoáng mảnh áo nâu
của đoàn người u buồn cắm cúi nhổ cỏ, kìa cánh rừng
nhỏ bị khai phá loang lổ nham nhở, ở đó một nhóm người
còm cỏi đang lầm lũi đào đất làm một hồ nhân
tạo khổng lồ cho công trình du lịch đầy hứa hẹn, trong khi những
người khác è ạch khuân đá xanh từng tảng lớn xây
thành hồ, đôi người nhìn về phía chúng tôi, những
đôi mắt buồn u ẩn bám chặt bước chân người đi...
Những ngày Tết lặng tanh trong rẫy sâu,
mấy anh em ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu tù mù, mỗi
đứa ăn một chén chè đậu xanh lỏng bỏng nấu với mấy
tán đường móng trâu mà tưởng như đang húp yến
sào vi cá ! Anh tôi nằm võng tòn ten, hắng giọng rồi ngâm
một chiều rừng mưa, ba người anh từ chiến trường Đông
Bắc, được tin em gái mất, trước tin em lấy chồng... Giọng
ngâm anh sao buồn thê thiết. Hồi anh tôi còn dạy Đoàn Thị
Điểm, ngày liên hoan tất niên mấy chị học trò hay yêu cầu
anh ngâm thơ rồi cả lớp xúm lại vỗ tay rần rần. Tôi chọc
anh, nói tại anh đào hoa nên mấy chị vỗ tay lấy lòng đó
thôi. Nhưng những đêm nơi rẫy vắng, giọng ngâm của anh tôi
nghe sao ngậm ngùi, sao mà thấm thía một nỗi bất lực, đau đáu
một mối cảm hoài...
Và còn
nhiều ngày Tết sau đó, cũng trong rẫy rừng, cũng dưới ánh
đèn dầu leo lét đỏ quạch, Má tôi và mấy chị em tôi
mỗi người ngồi một góc chẳng ai nói câu nào nhưng tôi
biết tim ai cũng đang rỉ máu khóc thương cho những người thân
yêu đi mãi không về. Khi ấy con chó Ki bỗng ngóng mõm lên
trời tru trăng thê thảm. Và con chim ục về khuya kêu lên ghê rợn
ngoài bụi tre gai... Tiếng pháo đì đùng rất xa vọng về
đâu từ thị trấn. Ở đó có ánh đèn, có Tết. Chúng
tôi thì chìm đắm mãi trong tăm tối hiu quạnh, nên lâu rồi
đâu biết Tết là gì...
Giờ
đây cuộc sống bớt khó khăn rồi, sao nỗi buồn vẫn cứ
còn nguyên hoài không thôi đeo đẳng? Đêm giao thừa, tôi
tha thẩn ra phố, nhìn những người bán hàng ngồi buồn thiu bên
hàng hoa còn đầy ắp mãn đình hồng, vạn thọ, cúc
vàng đại đóa; những đống quần áo, xắc tay, giày dép
sida bên đường chất chồng cao nghệu vắng người mua; đêm
trăn trở lắng tai nghe tiếng bành bạch của những chiếc xe gắn
máy thồ hàng qua lại vùn vụt ngoài ngã tư nửa đêm
về sáng; và nữa, những đứa bé lang thang, đôi mắt trong
vắt trên gương mặt xanh xao thiếu ăn, đôi bàn chân mốc
thếch, ngày Tết đêm về vẫn ngủ bụi ngủ bờ; những bà
cụ rụt rè đưa ra xấp vé số, đôi mắt đục ngầu
mỏi mệt, chiếc lưng còng không gánh nổi thời gian...
Lòng tôi vẫn tự hỏi còn bao nhiêu
người không bao giờ biết Tết? Tôi nhạy cảm quá chăng sao
cứ cho rằng Tết không phải dành cho tất cả mọi người? Sao
cứ nghĩ rằng những người khốn khó, những kẻ buồn đau
sẽ khốn khó hơn sẽ buồn đau hơn nhiều trong những ngày giáp
Tết?
Giờ phút giao thừa thiêng
liêng một năm mới có một lần, lòng tôi sao cứ trơ ra như
gỗ đá, không vui, không buồn, tâm trí ong ong như lọt vào
một khoảng không mênh mông, một lỗ đen tăm tối... Cứ quay,
cứ rơi, cứ chơi vơi, cứ bồng bềnh, cứ lênh đênh, vô
cảm... Cũng chưa bao giờ có ý nghĩ kéo nhau chen chúc đi coi pháo
bông đêm giao thừa. Tôi rất sợ đám đông, sợ không
khí lễ hội... Mười hai giờ đúng, tiếng pháo bông vang lên
ì ùm xa xa từ bến Bạch Đằng gợi cho tôi nhớ tới những
đóm mắt hỏa châu lập lòe trên bầu trời đêm một
thời lửa đạn... Bật tivi xem thiên hạ bu đen như kiến rừng
ven sông Sài Gòn, ai cũng ngước mắt nhìn lên, hết ô tới
a trầm trồ mỗi khi một hoa pháo nở đẹp trên nền trời. Năm
nay báo đăng Hà Nội hăm chín điểm bắn pháo bông, Sài
Gòn tám điểm, Cần Thơ sáu... Một cái pháo bông giá
bao nhiêu nhỉ? Có ai đó làm giùm tôi bài toán nhân...
Bao nhiêu năm nay, ngày Tết của tôi bao
giờ cũng y như ngày thường, có chăng không phải tất tả
thu xếp việc nhà, việc dạy, không phải gân cổ giảng bài,
không phải vui cười lúc giao tiếp, khi trong lòng không có niềm
vui...
Ngày Tết, đóng chặt cửa
phòng, tôi lại là tôi...
TCQN
02/2013
(Tết Quý Tỵ)
____________________________________________________________________________________
TRO LẠNH
Tiết tháng
bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương
khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm
bạc lá ngô rụng vàng...
( Văn tế thập loại chúng
sinh - Nguyễn Du)
Cette vie est un songe, et la mort un réveil.
(Cuộc
đời như cơn mộng, cái chết mới là sự tỉnh giấc)
(Calderon de la Barca)
Death is the door to a better
life : the oldest strongest and most insistent wish of mankind.
(Cái chết mở ra một cuộc đời khác tốt đẹp hơn, là
ước vọng xưa cũ, mạnh mẽ và kiên trì nhất của con người)
(Freud)
1. Không hiểu lúc trước bà chị
tôi nghĩ sao mà đem hũ cốt của ông bà Ngoại, Ba Má, anh
tôi và thằng cháu nhỏ gởi hết vô chùa "Hột Xoàn"
(biệt danh một ngôi chùa lớn ở SG). Lúc đó sau 75 nhiều năm
rồi, gia đình tôi suy sụp rồi, nhưng có lẽ luân lưu trong
huyết quản của từng đứa chúng tôi vẫn còn rần rật
dòng máu "công tử Bạc Liêu", nên chọn một chỗ yên
nghỉ cho người thân, bà chị tôi cũng đi chọn chùa "sang",
với một lý do rất ư là chánh đáng : nếu một ngày
đẹp trời các chùa bị "dẹp", thì đây gần như
"quốc tự", chắc được giữ lại, ông bà không đến
nỗi bị "vô gia cư" !
Khi nói
đến "chùa", ta hay liên tưởng đến chuyện "miễn phí".
Như coi phim chùa, ăn chùa, xài chùa... Nhưng một chỗ nhỏ vừa
đủ đặt một hũ cốt trên kệ của tháp cốt không hề
"chùa" ! Khu "chung cư cao cấp Phú Mỹ Hưng" này được
chia làm ba tầng, tầng dưới là tầng VIP, sáng sủa đẹp đẽ,
được ở kế sát tượng Phật Địa Tạng đen mun sáng
loáng. Tầng hai âm u hơn, chật chội hơn, là của "thường
dân". Tầng ba trên cao rất sáng sủa phong quang, dành riêng cho các
tăng ni đã viên tịch. Tầng trên tầng dưới, kệ cao kệ
thấp, hàng "mặt tiền", hàng bên trong, tất cả đều có
giá tiền khác nhau.
Tôi thường
đi viếng tro cốt người thân vào các ngày bất định
trong năm. Không phải Thanh Minh, không phải Vu Lan, không rằm tháng Bảy
cũng chẳng phải lễ Tết. Tôi không chịu nổi khói nhang và
cảnh chen chúc khó thở vào những ngày đặc biệt đó.
Tôi chọn một ngày rất bình thường để có thể hoàn
toàn thư thả cúi lạy chư Phật ở chánh điện mà không
sợ chúi nhủi vào người khác, để có thể ngồi yên
ắng trên mấy bậc của cái cầu thang xoắn ốc trên tháp cốt
và thì thầm nói chuyện với từng người thân. Những gương
mặt thân quen mà sao vời vợi xa, những ánh mắt sao trong vắt mà
u buồn đến vậy... Nói theo kiểu Trịnh Công Sơn khóc mẹ :
"Nhìn vào thấy buồn, ngậm ngùi, và sự vô nghĩa của
cái chết càng vô nghĩa hơn...". Nỗi đau quặn thắt khi ta mất
một người thân theo thời gian rồi có lúc cũng phai nhạt, chỉ
còn lại nỗi ngậm ngùi bàng bạc, một niềm thương cảm
cho những phận người sinh bất phùng thời trong phút chốc đất
trời nổi cơn gió bụi...
2. Nếu là người cuối cùng của
gia đình, chắc chắn tôi sẽ đem tất cả những hũ tro cốt
đang gởi ở chùa ra rải ngoài sông lớn. Người ta cho rằng
mỗi một linh hồn được nương nhờ cửa Phật sẽ sớm
siêu sinh nhờ nghe các sư đọc kinh sớm tối. Tôi lại cho rằng
cát bụi nên trở về cát bụi. Cả đời đã sống
chung chạ với con người, vất vả ngoi ngóp trong cái quần thể
phức tạp lẫn lộn giả chân ấy chưa đủ sao, đến khi bước
sang thế giới bên kia còn muốn chen chúc nằm ngồi trong những dãy
kệ u buồn ngột ngạt mù mịt khói nhang ở tháp cốt, mỗi
ngày tai nghe mắt thấy cảnh tính toán tủn mủn của người
giữ tháp (mập đến không thể nào mập hơn), luôn hăm
he cho cốt "vượt biên xuống sông" nếu thân nhân không
chăm chỉ lui tới cúng dường, và cười tít mắt miệng
buông hàng tràng "tình thương mến thương" khi nhận phong
bao - đó là tôi chỉ nói đến trường hợp ở nơi
gia đình tôi gởi cốt, chớ không dám quơ đũa cả nắm.
Chẳng phải lãng mạn lắm sao, khi linh hồn
ta bồng bềnh cao cao trên kia nhìn xuống thấy thân xác mình lấm
tấm trắng mặt sông rồi chan hòa theo dòng chảy? Gió nhẹ, chiều
buồn, mấy con chim nhỏ chao chác trên mặt nước lăn tăn... Ai "ham
vui" thì nương theo sóng mà lên chơi mặt nước cùng
với sóng tung tóe reo vui, ai muốn thật sự yên nghỉ thì cứ
nằm yên nơi đáy nước, ru hờ với rong rêu...
Khi còn trẻ tôi thường tưởng tượng
ngôi mộ của mình đìu hiu chênh chếch trên đồi vắng,
dưới bóng cây cổ thụ râm mát, có cỏ xanh bạt ngàn
và tiếng chim ca trong vắt gần xa...
Trời
cuối thu rồi em ở đâu?
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu.
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm
mộ sâu...
(Đinh Hùng)
Lớn lên, tôi thích nghĩa trang Tây phương,
bình đẳng, sáng sủa, an bình, thảm cỏ xanh mướt phẳng phiu,
bia mộ y nhau đều tăm tắp, không như nghĩa trang người Á đông,
ma quái u tịch:
Trèo lên bức tường
đổ mà trông về quãng đường xa : mồ con mã lớn chỗ
năm chỗ ba.
Trước kia cũng là người cả, bây giờ
đã hóa ma.
Nào vợ nào con, nào cửa nào nhà...
Nào câu đối đỏ, nào mành mành hoa.
Nào đâu,
đâu cả, chỉ thấy sương mờ, nắng dãi với mưa sa...
(Tản Đà)
Càng không ưa
kiểu quần thể lăng mộ lòe loẹt lãng phí quá mức để
khoe mẽ ở một số địa phương ngoài Trung, chết rồi vẫn
bị lôi kéo vào cái không khí đua chen vật chất, khiến
cho ngôi nhà của người chết trở thành bộ mặt hợm hĩnh
của người sống, nơi yên nghỉ ngàn thu biến thành chỗ khoe
giàu khoe sang...
Nghe nói giờ đây
khoa học tiến bộ, có những người vợ cho người ép tro cốt
của chồng thành kim cương hay hồng ngọc để làm nhẫn đeo.
Tôi lẩn thẩn tự hỏi làm sao biết người chết có thích
không khi ở mãi bên ta? Sợ rằng ngoài mặt thâm tình mà
trong lòng ngán nhau như cơm nếp nát? Đâu có ai trở về
ghi lại cảm nhận của mình khi đã được tự do giải phóng
rồi nhưng thân xác vẫn bị o ép câu thúc chẳng được
thoải mái trở về hư không ? Mà ai lại nỡ đem đun tro cốt
người thân trong lò nhiệt độ cực cao mấy ngàn độ suốt
ròng rã chục tiếng đồng hồ để ép thành kim cương
hay hồng ngọc làm nữ trang cho mình, dù vẫn biết rằng "chết
là hết"...
3. Tôi làm
đơn hiến xác cho Đại học Y Dược Sài Gòn từ khi còn
rất trẻ. Mỗi tháng chạp âm lịch hằng năm, bộ môn Giải
phẫu học Đại học Y Dược đều có thơ mời tham dự
lễ Macchabée tri ân những người hiến xác cho khoa học. Mấy năm
sau này nghi lễ đơn giản hơn, chỉ tổ chức gói gọn trong sinh
viên và các giáo sư bác sĩ. Chồng con tôi không ai đồng
ý chuyện hiến xác. Mấy cha con không thoải mái khi nghĩ đến
cảnh thân xác tôi bị mổ xẻ manh mún cho đến khi không còn
xài được nữa sẽ được đem thiêu, sau đó tro cốt
gởi trả về cho gia đình. Do vậy chuyện tro cốt của tôi thỉnh
thoảng lại là vấn đề gây tranh cãi. Tôi thì chỉ nghĩ
đơn giản rằng, chắc rất có ích khi bọn sinh viên trường
y mổ bung tôi ra để nghiên cứu một trường hợp khá là
đặc biệt : một cơ thể đầy bịnh tật mà bề ngoài
trông vẫn rất... hiên ngang !
Tôi
không thích tro cốt của mình lưu lại nơi tháp cốt nhà
chùa, ngột ngạt lắm những hũ cốt san sát, tối tăm... Rãi
tro ra biển, lãng mạn, trữ tình ! Thân xác tung hê theo gió lộng.
Mặt nước có lẽ cũng không nề hà chi nhúm tro tội nghiệp,
mà cuộc đời bất đắc chí chẳng mong kéo dài chi cho đa
thọ đa nhục.
O Mort !
Vieux capitaine,
il est temps, levons l'ancre !
Ce pays nous ennuie.
O Mort ! Appareillons !
(Hỡi
Tử thần !
Vị thuyền trưởng già ơi, đã đến
giờ rời bến !
Cõi đời này ta đã ngấy.
Tử thần ơi hãy sửa soạn đi thôi !)
(Beaudelaire)
Chẳng biết
sao cứ hễ nói chuyện tro cốt, là tôi lại nhớ tới một chuyện
đáng xấu hỗ cho một quân vương : Sau khi đánh thắng quân
Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cho tàn sát tất cả những người
có liên quan đến Tây Sơn, còn cho đào mộ dòng họ
vua Quang Trung lên, bỏ xương cốt vào sọt để quân binh tiểu
tiện vào, sau đó đem xương sọ của mấy anh em vua Quang Trung bỏ
vào lu ếm đối, xiềng xích.
Có
sách nói sở dĩ Nguyễn Ánh trả thù tàn độc như vậy
là do ngày trước vua Quang Trung đã cho đào xương cốt cha
mẹ Nguyễn Ánh quẳng xuống sông. Thực hư chẳng biết ra sao, nhưng
nếu chuyện này là thật (nếu Quang Trung Nguyễn Huệ có lỗi trước)
thì, cư xử y chang kẻ bất nhân, cũng hóa ra mình là kẻ
bất nhân, không xứng đáng làm vua một nước. Hơn nữa,
dù cố biện hộ thế nào, thì việc Nguyễn Ánh xử tử
mẹ con nữ tướng Bùi thị Xuân bằng cách cho voi giày, cũng
là một hành động trả thù tàn ác và hèn mọn.
Xưa nay kẻ chiến thắng chỉ được
mọi người tôn trọng và sử sách tôn vinh khi cư xử với
kẻ bại trận bằng tấm lòng cao thượng vị tha. Khổng Minh Gia Cát
Lượng thời Tam quốc bắt Man Vương Mạnh Hoạch dễ như trở
bàn tay, nhưng vì muốn thu phục nhân tâm nên bảy lần bắt
rồi lại thả, để cuối cùng Mạnh Hoạch "tâm phục khẩu
phục", suốt đời trung thành với Thục Hán. Khổng Minh trả
đất trả ngôi cho Mạnh Hoạch, không tham cưỡng chiếm, không
đặt quan cai trị. "Người Man biết ơn, tự lập sinh từ thờ
Khổng Minh bốn mùa, từ đó biên cương phía nam yên bình
không lo chinh chiến"... Vậy mới biết làm dân đen thì dễ,
làm người cầm cân nảy mực mới khó!
Xin lỗi bạn, tôi lạc đề xa quá.
Tôi trở lại đây. Giờ tôi sẽ kể bạn nghe một chuyện
kỳ lạ xảy ra với tôi nhiều năm về trước khi tôi đi viếng
hũ cốt người thân ở chùa. Như đã nói ở trên,
tầng hai tháp cốt khá chật chội và âm u - chật chội không
phải vì tháp không đủ lớn, mà vì tất cả các kệ
đều chập chùng đầy ngập hũ cốt, chỗ trống hầu như
không còn mấy. Một bàn thờ Phật nhỏ, thấp, được đặt
ở giữa tháp, nhang khói mù mịt. Có bảng thông cáo yêu
cầu không cắm nhang ở các hũ cốt, nhưng thấp thoáng đó
đây vẫn thấy nghi ngút khói trên các dãy kệ (có lẽ
do người Việt mình luôn "nổi tiếng" không ưa khuôn phép).
Mùi trầm hăng hắc của nhang, mùi thơm nồng từ các vòng
hoa lài trắng tinh chất vun dĩa trên bàn Phật và trên các hũ,
mùi tanh tanh lành lạnh của âm khí... đã tạo nên một
mùi rất đặc trưng nơi tháp cốt.
Các hũ cốt xếp san sát thành ba bốn hàng trước
sau trên các kệ vòng quanh tháp. Nếu hũ nằm ở kệ trên,
phải leo lên cầu thang xoắn mới thấy được người thân
(nếu hũ ở "mặt tiền"), nhưng không thể với tới. Do vậy,
khi muốn lau sạch bụi bậm cho các hũ, mình không thể tự làm,
mà phải nhờ thằng bé giúp việc trong tháp cốt, dĩ nhiên
là kèm thù lao. Nó sẽ leo lên một cái thang cao ngất, phất
lia miếng giẻ sơ sài qua loa. Thôi thì miễn bụi không phủ dầy
che mờ ảnh chụp gắn trên hũ là được rồi. Có những
chuyện mình không thể không chắt lưỡi cho qua, dù có bực
bội ít nhiều.
Hôm đó tháp
cốt khá vắng. Tôi ngồi trên bậc cầu thang xoắn, lầm thầm
"nói chuyện" với từng người thân trong cái không khí
nhờ nhờ lặng ngắt đó. Này là ông Ngoại tôi, giàu
có vàng phơi bằng nia mà gương mặt khắc khổ như một
lãng tử phong trần. Này là bà Ngoại tôi một phụ nữ cứng
cỏi bản lĩnh. Ba tôi lừng lẫy một thời công tử Bạc Liêu,
Má tôi đôi mắt buồn nửa đời u uất, anh tôi một đời
tài hoa khẳng khái, đôi mắt sáng xếch nhẹ và nụ cười
tươi, và cuối cùng, thằng cháu nhỏ của tôi đôi mày
đen nhánh hai mắt tròn ngây thơ, nó cười toe toét răng còn
chưa mọc đủ... Tất cả những cuộc đời khổ đau có,
hạnh phúc có, phong lưu có, bất hạnh có... giờ chỉ là
những nắm tro buồn tù túng ngột ngạt trong các bình sứ vô
tri...
Giữa không gian trầm mặc đó,
từ góc khuất xa nhứt của tháp cốt, một chuỗi cười thơ
trẻ vang lên, khanh khách, vang vọng xa mà gần, giòn tan trong vắt, ngân
như tiếng khánh. Tôi hoàn toàn không có ý niệm về sự
sợ hãi, cứ cho là có đứa bé nào theo người lớn
vào tháp rồi đùa giỡn cười vang. Ngồi nãy giờ cũng
đã lâu, tôi xá người thân rồi đứng dậy xuống
lầu ra về. Lúc đó chung quanh rất vắng lặng, xuống đến tầng
dưới, chỉ đôi ba cụ già quỳ lạy Phật Địa Tạng,
vị sư giữ tháp đang ngồi tại bàn lúi húi đếm tiền,
tuyệt nhiên không có đứa trẻ nào. Tôi đi vòng ra phía
sau tháp, chỉ là một khoảng đất rộng vắng người, cỏ
dại lô xô lởm chởm gạch đá, ở góc tường năm bảy
hình nhân xe ngựa chờ đốt, xa xa một đống rác lớn nghi ngút
khói... Ai đã buông tràng cười giòn giã pha lê? Linh hồn
trẻ thơ không vướng bận thiên hạ sự, bồng bềnh trong chốn
u minh, chơi vơi theo tiếng kinh kệ, lòng thanh khiết đọng thành chuỗi
cười vô tư?
4. Tôi
có nhỏ bạn thân từ hồi còn học đệ Thất. 75 giải phóng,
76 nó lấy chồng là thủ trưởng của nó, lớn hơn nó
gần hai mươi tuổi. Bạn bè từ hồi để chỏm, hơn ba mươi
năm sau tôi gặp lại nó nhân dịp một đứa trong bọn gả
con, lúc ấy nó đã cháu nội, cháu ngoại đầy đàn.
Bốn năm con bạn già nằm gác chân lên nhau, nói chuyện suốt
đêm, mấy bà già U.60 gọi nhau í ới bằng "hỗn danh"
Tre Miễu, Hột Mít, Chim Sâu... và nhát ma nhau la í ới y như hồi
còn đi học. Rồi nhỏ đó kể cho cả bọn nghe chuyện hồi
nẳm lúc chồng nó đi bộ đội bên Campuchia, tối đóng
quân ở một ngôi chùa, chồng nó không tin có ma, là người
"chẳng sợ trời cũng không sợ đất" (nguyên văn), ổng
mới cắc cớ tới chỗ bàn thờ cốt, nạy nắp hũ cốt của
người ta ra rồi đổ tro cốt của người này qua hũ của người
kia, giỡn với nhau rần rần, bảo "ông này qua hũ bà kia nằm
chung cho ấm cúng". Nó kể chuyện tỉnh bơ, vừa kể vừa cười
hí hí, không có vẻ gì là chê trách, còn lộ vẻ
tự hào lấy được ông chồng bạo dạn.
Tôi ngỡ ngàng. Con bạn tôi mới ngày nào còn
rất sùng đạo và duy tâm, giờ đây nó đem chuyện xúc
phạm người chết ra làm chuyện tếu, thì có lẽ bạn tôi
đã đổi thay quá nhiều???
5. Lúc cải táng Ngoại tôi ở Long Khánh đem về thiêu
ở lò thiêu Phú Thọ, Sài Gòn, việc thiêu xác còn thủ
công lắm, qua cửa sổ lò thiêu thấy tận mắt hòm cháy từ
từ, chờ tới khi thiêu xong, họ đổ ra một khay thiếc rất lớn
hình chữ nhựt, chờ bớt nóng mới dùng cái gắp than để
lượm cốt lẫn lộn trong tro than. Nghe họ nói tro cốt thì nhẹ
và trắng bông, còn tro than thì nặng và đen xám. Lúc đó
tôi sợ họ lựa sót nên cũng tới giúp một tay, mới biết
hơi nóng vẫn còn hừng hực bốc lên rát mặt, mới thấy
thương cho những kiếp người vất vả kiếm sống nơi lò thiêu.
Mấy năm sau này, khi Má tôi mất, thiêu
ở Bình Hưng Hòa, mọi thứ gọn nhẹ đơn giản hơn nhiều.
Người ta cho chúng tôi thắp nhang lạy Má lần cuối rồi hạ
quan tài xuống lò thiêu bằng thang máy, sau đó bảo mình ra
về nhường chỗ cho những đám sau, hẹn đầu giờ chiều trở
lại, họ đưa cho mình hũ cốt hoàn tất. Tôi cầm hũ tro
cốt Má trong tay, ngậm ngùi liên tưởng đến cả một cuộc
đời đủ đầy ngọt ngào cay đắng, cuối cùng còn
lại nhúm tro nhẹ tênh này đây, mà cũng không biết họ
có thật sự cho hết tro cốt của Má vào không, hay là vốc
đại một nắm nhỏ bỏ vào lấy lệ, phần còn lại thì
xiêu lạc phương nào? Thì thôi, đức Phật nói thân xác
con người chỉ là vật hư ảo, một sự luân chuyển tứ đại
mà thôi, nên sau khi nhắm mắt mọi thứ "hoàn không" cũng
là lẽ thường tình, chớ cứ nghĩ ngợi hoài làm chi những
chuyện thao túng trong tay thiên hạ, mà mình bất lực chẳng làm
được gì ?
Quê Nội tôi
ở Sóc Trăng, đất đai của Nội chạy dài tới tận Bạc
Liêu, nhưng không hiểu sao khu mộ gia đình lại ở miếng đất
lớn khoảng giữa đường đi Kế Sách. Mộ ông bà Nội
xây theo kiểu Tàu hình cánh dơi (ông nội tôi là người
Minh hương), dưới chân ông bà là con cái, cháu chắt nằm
lớp lớp yên bình. Chắc chắn ở đó sẽ thiếu một chi
họ là gia đình chúng tôi, những đứa cháu không may mắn,
đã và sẽ gởi nắm xương tàn khắp bốn phương trời
vì không có dịp quay về cố hương.
Riêng tôi, một ngày nào nằm yên nơi đáy nước,
có lẽ đó mới là lúc cảm thấy an bình thật sự.
Cởi bỏ hết những muộn phiền tiếc hận, tâm trí thong dong, lòng
thanh thản... Hạt tro là tôi bây giờ mới vô tư vươn mình
đùa chơi cùng con cá nhỏ...
Trần
gian bay biến vào hư ảo,
Ta sẽ mơ bằng tim đã tro...
(Pha Lê)
TCQN
08/2012
____________________________________________________________________
HÀN
THUYÊN TẠI LIỄU
Cô nhìn
vào đồng hồ khi vừa nằm vào bàn mổ : Hai giờ mười
lăm. Mũi kim đâm nhói lên ở gân bàn tay và giọng nói
vỗ về của vị giáo sư bác sĩ : "Yên tâm nhé, không
đau đớn gì đâu..."
Một cảm giác gì đó mường
tượng như là cái chết. Nhẹ nhàng vô cùng. Thư thả
vô cùng. Trong màu vàng ánh của chất dịch truyền trên kia,
cô mơ màng thấy mình muốn bay. Tại sao không nhỉ? Cô sắp
trở thành cô gái bay như một nhân vật nữ trong quyển truyện
Nga nào đó... Cô gái ấy, thất vọng trong đời sống thấp
thỏi này, đã dùng ý chí như một khả năng vô hình
huyền bí để đưa mình lên trên kia đi tìm một cái
gì đó không có ở mặt đất. Đã rất nhiều đêm
cô cũng nhìn lên bầu trời tím thẫm trên kia, cũng ngắm nhìn
những vì sao lấp lánh, và tự hỏi trên ấy có một đời
sống nào không, hay toàn những buồn nản bao giờ cũng ngự trị
nơi địa ngục lòng mình. Và cô ước mơ được
bay lên, được thoát khỏi thế giới này đầy phiền muộn
chán chường. Bay lên cho gió rì rào reo trong tóc xõa, người
đê mê cuộn êm trong mây, và cho ngàn sao lanh canh lướt qua kẻ
tay khi cô đắm mình trong dãi Ngân Hà màu sữa dịu... Vậy
là dòng sao cứ trôi. Bồng bềnh. Bồng bềnh. Trần nhà thành
mây xốp mềm, trắng xóa. Những đôi mắt cúi xuống sau các
khẩu trang...Trong chớp mắt, cô mê đi.
Năm giờ chiều. Phòng hậu
phẫu. Từ miệng cô, máu bầm, máu tươi và nhớt dãi
cứ mỗi giây lại trào ra lênh láng, chồng cô phải hứng
và chùi liền tay. Không như người ta nằm yên cho tới khi tỉnh
thuốc mê, cô cứ vật vã và co giật...Người ta đặt cô
nằm nghiêng vì sợ máu tràn vào họng, nhưng nghiêng trái
lại ép tim khiến cô không thở được. Đàm cứ trào
lên càng làm khó thở. Và họng đau buốt như lửa đốt.
Bất giác lòng cô bỗng dâng lên một nỗi buồn mênh mông.
Vậy
là cô đã trở về với thực tại, đã rớt lại xuống
mặt đất này hèn mọn và đang phải uống cạn chén đau
đớn này rất đỗi trần gian.
Phải. Cô không bao giờ
vượt thoát được cái barrière khốn khổ của loài người
đáng thương, nên cô cứ bám mãi mặt đất này như
con ve sầu run rẩy bám lấy chiếc lá liễu khi mùa đông sắp
tới. Cái thân phận "hàn thuyên tại liễu" đó cô
đã thấy trước, đã biết trước và tuy cố làm ra
vẻ bình tâm an nhiên, cô vẫn thấy lòng ngậm ngùi như cảm
giác hối tiếc Xuân xưa khi đẫm tay vào thau nước lạnh một
sáng lập đông.
Cô muốn thốt
nên một lời gì đó, dù là tiếng thở dài an phận
nhưng hai hàm cô như dính chặt vào nhau.
Cô muốn mở mắt ra xem mình đang ở đâu, nhưng bờ
mi tê dại chỉ vừa đủ hé cho thấy những vạt áo blouse trắng
qua lại vội vã. Cô muốn cử động, nhưng cô như bị trói
chặt bằng những dây gai vô hình và đè nặng bởi tảng
đá to.
Cô cảm thấy hai tay bị
ôm chặt, đầu bị giữ chặt cho nghiêng về một phía. Một
tiếp xúc rất quen thuộc. Một hơi ấm rất quen thuộc. Và một
tiếng nói cũng rất quen thuộc. Em ơi, có sao không? Tỉnh chưa em?
Bác sĩ ơi, nhà tôi có sao không?
Bàn tay ai vỗ vỗ vào
má cô, rồi tiếng người y tá cằn nhằn khi thấy cô vật
vã. Đầu cô lắc lư như người lên đồng, chốc chốc
lại khạc lên một tràng ròng rọc như tiếng người ta ngửa
cổ súc miệng. Cứ mỗi lần nhè ra nhớt và máu, cơ lưỡi
cử động làm họng cô đau buông buốt. Bỗng dưng thần thức
cô sáng láng lạ thường, nó tự nhủ phải nhớ lấy từng
cảm giác, từng ý nghĩ bây giờ để có dịp ghi lại sau
này. Và cô chợt buồn cười cho cái gàn dỡ của chính
mình ngay cả trong cơn đau choáng ngộp.
Cô nằm cùng phòng với
một ni sư và một cô gái làm massage. Ni sư bị viêm xoang nặng
đã giải phẫu được hơn tuần, còn cô gái thì trước
đó sửa mũi bị nhiễm trùng nặng giờ phải mổ để
lấy silicone ra mới mấy ngày nay. Trông cả hai đều khỏe mạnh tươi
tỉnh, không như cô, tái nhợt như một xác chết.
Cô nằm li bì, vòm họng lúc nào cũng
như lửa đốt. Những người cắt amygdale cùng ngày với cô
đã về nhà ngay hôm sau. Sao con người cô đụng vào việc
gì cũng gặp trở ngại, cũng thành khó khăn.
Thấy cô chỉ
tiểu phẩu mà lâu ngày chưa khỏe lại, ni sư khuyên cô niệm
Phật để giải nghiệp. Niệm Phật ư? Cô đã niệm Phật
từ mấy mươi năm nay, nhưng niệm Phật không cứu được
gia đình cô khỏi cảnh sa sút tan tác, không cứu được
Ba cô đột quỵ vì buồn rầu gia sản chớp mắt khánh kiệt,
không cứu được đứa cháu bé bỏng bị bỏ mặc đến
chết trong bệnh viện, không cứu được anh cô sống còn trở
về từ những cực nhục lao lý, không cứu được đứa
em khỏi kiếp lạnh lẽo dập dềnh nơi đáy nước, và cuối
cùng niệm Phật cũng đâu cứu vãn được một đời
cô đầy khổ đau dằn vặt...
Cô nhớ lại đã có một thời
đắm chìm trong giáo lý nhà Phật một cách mê cuồng. Cô
ngưỡng mộ Đức Phật như một triết gia vĩ đại hơn là
một giáo chủ đầy quyền năng. Cô không say mê đạo Phật
như một tín đồ say đạo mà là tìm tòi, nghiên cứu
và thần phục đạo Phật như một triết lý cao vời mà
gần gũi vô cùng. Cô sưu tập khá nhiều tạng kinh, và hai
bộ kinh cô ưa thích nhất là kinh Kim Cang và kinh Duy Ma Cật. Kinh Kim Cang
cao vời thoát tục, còn kinh Duy Ma Cật thì đầy những ứng đối
thông minh. Thật thú vị và hạnh phúc khi người ta còn có
một niềm tin làm nơi nương tựa tinh thần.
Nhưng rồi cái
tang tóc cuối cùng - anh cô - bỗng nhiên đẩy bật cô ra khỏi
niềm tin được giải nghiệp. Năm này qua năm khác, cô cứ
ray rứt mãi về cái chết vô lý của người anh thương
yêu. Tại sao anh không chết đi vào những thời điểm gay go nhất
của đời anh, anh lại đi chết oan nghiệt và vô nghĩa như con
chim giã từ trời cao lồng lộng len mình vào lồng hẹp để
rồi bị bóp chết bởi bàn tay đứa trẻ vô tâm. Không.
Mãi mãi cô sẽ không chấp nhận cái chết đó. Cái
chết của con thiêu thân ảo tưởng về một ngày tươi đẹp
trong ánh lửa cháy bỏng. (Hay chính sự vô nghĩa đó mới
làm nên ý nghĩa đời thiêu thân ?). Cô lập lại lời
nói của Roméo : "I challenge the stars !". Nghiệp dĩ còn bao nhiêu cô
sẵn sàng chấp nhận trả hết.
Cô thôi niệm Phật kể từ dạo ấy.
Có thể lúc ấy cô chưa hiểu thấu được Luật Nhân
Quả. Nhưng Nhân với Quả cách nhau quá xa vời mà cô là
phàm nhân nên chẳng bao giờ có thể kiên nhẫn đợi chờ,
cũng chẳng bao giờ kiên tâm chấp nhận. Và nữa, có ai định
nghĩa được thế nào là vị mặn mòi của muối, một
khi chưa nếm muối ra sao. Những dâu bể cô đã gặp trong đời
có mấy ai biết được mà hiểu tới những ngóc ngách
địa ngục lòng cô ?
Trong cơn đau vật vã, cô vẫn nghe tiếng
niệm kinh của ni sư lúc nửa đêm về sáng... Xá Lị Phất,
sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức thị không,
không tức thị sắc ; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như
thị... Cô nhìn ni sư ngồi kia, gương mặt an bình như mặt nước
hồ một chiều lặng gió, khác xa với một ni sư ban ngày cả
ăn lẫn nói giống y người thường, một người thường
yêu đời và biết hưởng thụ với gương mặt tròn trịa
hồng hào và đôi hàm răng chắc khỏe. Ni sư có thực
sự hiểu rõ từng lời Phật dạy, thực sự thấm nhuần cái
lẽ sắc không ? Tự nhiên cô có cảm tưởng ni sư đã
rất bằng lòng với đời sống này quá an nhàn và đầy
đủ với bao nhiêu đệ tử vây quanh cúc cung hầu hạ. Cô
hay tò mò lắng nghe ni sư và các đệ tử kháo với nhau
những chuyện cơm áo gạo tiền tầm thường phàm tục tưởng
chừng như không bao giờ có thể xảy ra trong đời sống tăng
lữ...
Cô chợt nhớ có lúc mình đã muốn rời xa thành
phố này để sống đời viễn ly ở một ngôi chùa nghèo
hẻo lánh, nhưng kịp nghĩ từng chuỗi chuông buồn thúc giục
hàng hàng nữ tu khoác y vàng tươi màu hoa sen nhái đang nhanh
chân cắm cúi trên những bực thang dẫn lên chánh điện có
phải thực sự là nơi trú ẩn vững chắc cho tâm hồn ? Phải
chăng Chân Hạnh Phúc chỉ có nơi Niết Bàn xa vợi ? Trên
gương mặt bình lặng của Đức Phật, có lẽ tương lai
không đáng lưu tâm, công danh là số không vô vị, và
tình yêu... Niết Bàn chỉ có tình thương chớ không có
tình yêu, vì thế không có khổ đau ray rứt.
Rồi cô lại
nghĩ - những ý nghĩ quá mâu thuẫn với những gì cô đang
chịu đựng - nhưng cuộc sống không có khổ đau, làm sao hiển
hiện được niềm vui vĩnh cửu ? Cô nhớ một câu thật hay
không biết của ai : "Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm
kép : hoặc nó xác nhận không có ánh sáng, hoặc nó
bao hàm sự hiện hữu của ánh sáng... Vậy suy ra ánh sáng cũng
tượng trưng cho một kinh nghiệm kép : hoặc nó xác nhận không
có bóng tối hoặc nó bao hàm sự hiện hữu của bóng tối,
như thủy chung làm nổi bật phản trắc, giàu sang làm nổi bật
khốn cùng, hạnh phúc làm nổi bật khổ đau".
Ôi, mình lại điên khùng nữa rồi.
Tại sao lúc nào cũng chỉ là những ý nghĩ ? Làm sao để
chúng đừng hiện diện cười cợt mãi trong đầu mình ?
Làm sao để mình có thể sống đời mộc mạc, an nhiên
mà không bị những ý nghĩ vẩn vơ quấy rối ? Tâm
viên ý mã. Đó chính là con người khốn khổ của cô.
Lại
suy nghĩ. Đối với những kẻ tuyệt vọng với cuộc đời như
cô, những thiên thần được mọi người ngưỡng vọng
thật ra chỉ là mặt nạ da người của từng ấy ác quỉ,
những thiên tài những vĩ nhân chỉ đáng "kính nhi viễn
chi", thiên đàng huyền diệu là là mỗi địa ngục trá
hình, và hạnh phúc dường như chỉ là âm thanh... Lời than
khóc của hạt sương nhỏ bé với ánh mặt trời lại trở
về trong cô : "Tôi mơ mộng Ngài, nhưng để được hầu
hạ Ngài, không bao giờ tôi dám hi vọng. Tôi quá nhỏ bé
để kéo Ngài về với tôi, hỡi Chúa Tối Cao và suốt
đời tôi đầm đìa giọt lệ" (Tagore). Hỡi ôi, Vầng
Thái Dương đã chiếu rọi khắp cả khung trời vô hạn,
nhưng lại không hạ cố đến một giọt sương nhỏ nhoi ! Chẳng
trách thiên hạ rộng lớn vô cùng nhưng một Tiêu Phong đáng
thương của Kim Dung đã không còn một chỗ dung thân !
Vậy
nên trách Định Mệnh hẹp hòi hay phải trách tại sao con người
ngu si đã chọn làm người, lại đi làm một con người
đa cảm và đầy mẫn tính ! Trang Tử xưa đã nói về
Hạnh Phúc một cách thật dễ dàng và khoan lượng : "Nếu
biết thuận theo tánh tự nhiên mà sống thì Hạnh Phúc có
ngay lúc đó, không phải cầu cạnh đâu khác ở ngoài".
Ôi, lý thuyết chỉ có giá trị
như một thuyết lý, mà thực tại lại quá nhẫn tâm !
Tiếng
chửi thề thô tục của cô gái giường bên bất mãn mấy
người y tá đem cô trở về thực tại... Cô trở mình,
cảm thấy quá mỏi mệt vì những suy nghĩ lung tung. Đầu cô
nặng nề quá. Đôi tai kêu u u. Cô xòe bàn tay nhỏ bé nhăn
nheo và xanh lướt của mình, rồi liếc nhìn đôi cánh tay
mập mạp tròn căng của cô gái, chợt thấy mình sao già
cỗi héo hon cả thể xác lẫn tâm hồn.
Lòng cô bỗng chùng xuống. Cô lại nhớ đến
Tất Đạt và Thiện Hữu với tiếng nói huyền nhiệm của
dòng sông. Nhưng cuộc sống đâu chỉ có chờ đợi và
nhịn đói. Nhịn đói đã khó, biết đợi chờ lại
càng khó hơn. Vì vậy mãi mãi cô ngồi một mình
bên dòng sông đời, lắng tai hoài không nghe thấy tiếng OM...
Trời đã sáng tỏ. Con chim nhỏ đen đủi huýt
lên những tiếng cao vút lạ lùng ngoài sân bệnh viện. Cô
ngồi tựa lưng vào tường, khép mắt lại và thiếp đi
trong giấc ngủ đầy mộng mị về một thời đã xa tít tắp...
TCQN
SG, 02/1995
TUI ĐI CHĂN BÒ
Đi chăn bò, cầm cây roi thật
to,
Bò không đi, ta lấy cây
roi ta chọt đít bò, bò đứng dậy đi ngay...
(Bài hát chế Cây Đàn Ta Lư)
Mấy
chục năm về trước, hình ảnh tui đi chăn bò rất ngộ,
bạn có tưởng tượng ra? Một cô nhỏ hai mươi tuổi, cao
mét sáu tám, kiếng cận, da trắng bóc, đội cái nón lá
te tua như cá rô rỉa, tay cầm nhánh cây khoai mì còn túp lá
phe phẩy như người xưa cờ lau tập trận, áo bà ba, quần mỹ
a đằm thắm (áo bà ba sửa từ áo dài rồi đem nhuộm
đen thùi lùi - than ôi thời oanh liệt quần patte một série mười
hai màu bấy giờ còn đâu!!!)...
Cần
nói thêm, tui chăn bò đây không phải là bò nhà tui, mà
là tui đi chăn bò... ké!
Chuyện là vầy, thuở đó nhà tui
từ thành phố dọn về là khu rẫy sâu trong rừng, rải rác
mấy căn nhà tranh, dân tứ xứ trôi về kiếm sống có, người
thành phố lưu lạc về cũng có. Nhà tui, nhà tranh vách đất
trăm phần trăm nghĩa đen, "tọa lạc" trên thế đất khá
cao nhìn xuống một triền cỏ chạy dài, bên trái là gia đình
ký giả H người Sài Gòn với một vợ ốm yếu quặt quẹo
và đàn con bảy đứa nheo nhóc, bên phải là khu đất
của bà Hai người Bắc năm tư và hai đứa con trai vốn là
lính không quân. Nói bên phải bên trái cho le, chớ thật ra
mỗi nhà cách xa nhau gần cả... tiếng hú. Xa hơn nữa, cách năm
sáu cây số là nhà họa sĩ Lê Trung, tác giả những hình
vẽ trên bìa tập tụi mình hồi đó, thường là những
cô gái có thân hình "đồng hồ cát", mặc áo
dài trắng tay vịn nón lá .
Nói
dông dài để bạn có thể hình dung sơ sơ "khu phố"
nhà tui.
Lâu lâu bà Hai cuốc
bộ tới rìa đất mà hú "Rư ơi, Rư, qua tao bảo!",
vậy là biết bữa đó bà ể mình cảm sốt, hai ông con
trai đã vô rừng làm rẫy, nên bà nhờ tui đi... chăn giùm
con bò.
TUI ĐI CHĂN BÒ 2
Loan Mắt Nhung
Lần đầu thiệt là căng thẳng. Nghe
người ta thường nói "đau như bò đá", nên mình
phải "thăm dò dư luận" cái đã: "Bà Hai ơi, nó
có cắn con hông? Đi gần nó có buồn buồn đá con hông?"
Bà bật cười, rê dài chữ "không"
đặc trưng giọng Bắc: 'Khô ô ông. Nó hiền chết rứ. Mày
cứ dắt nó đi từ từ, ra chỗ cỏ cao gần nhà mày ấy,
kiếm cái cây mà cột nó rồi đi nhổ cỏ mì hay làm
gì làm, để ý nếu nó ăn hết cỏ chỗ đó rồi
thì đem nó cột chỗ khác nhá!". Tui bắc cho bà nồi cháo
nhỏ, rồi e dè dắt con bò ra đồng cỏ. Vừa dắt nó đi
vừa nói chuyện với nó, vuốt vuốt chân nó, vỗ vỗ má
nó, mà coi bộ cu cậu cũng hảo ngọt, nó quay ra ngó ngó tui
rồi nín thinh ngoan ngoãn bước theo chẳng mè nheo gì (chắc nó
nghĩ tội nghiệp chị nhỏ mặt khờ me, ở đâu trôi giạt
dìa đây)...
Cứ vậy nhiều
lần, tui và con bò thành bạn với nhau. Ngoài trảng cỏ, tui hay nằm
gối đầu lên tay nhìn mây trắng bay trên nền trời xanh thẳm,
có khi ngồi núp dưới cái cây dại ngay dưới chân tổ
mối cao hai ba thước, kè kè cuốn L'Anglais Vivant vì sợ có ngày
chữ nghĩa nó bay ráo, học chán lại quay ra rì rầm nói chuyện
với con bò, không thì giỡn với con mèo mẹ và mấy nhóc
mèo con phá như giặc, hay rị mọ bắt bọ chét cho con chó Ki
già. Nếu bạn hỏi tui thời gian nào thư thái nhứt trong đời,
tui sẽ nói liền không do dự: Đó là thời gian tui đi chăn
bò!. Ở đó mỗi khi nhìn gió xoáy từ đầu dốc cuốn
theo bao nhiêu lá vàng, để rồi khi xuống tới dưới triền
thì tung lên trên không cơ man nào là xác bướm tơi tả,
thì hồn mình như cuốn bay theo với lá, bỏ lại sau lưng những
khổ đau chốn hồng trần, những "thiên địa vô nhân",
những cảnh đời thất thế...
...
Có một kẻ đi sau người chăn bò
mê mải
Túi áo gói đầy hương cỏ thơm
Trái
tim đựng đầy tiếng sáo và tiếng mõ
Đôi mắt đong
đầy giàn giụa suối trăng non...
(Đàn bò vàng
trên đồng cỏ hoàng hôn - Nguyễn Đức Mậu)
Bò nhà bà Hai là một em bò thanh niên
đẹp đẽ vô cùng, vai rộng, lưng thẳng vút, lông một
màu vàng sẫm bóng mượt, đùi nở nang, móng khít khao
cứng cáp, vóc đứng toát lên vẻ vạm vỡ khỏe mạnh.
Mà ngộ cái là đôi mắt nó sao lúc nào cũng ánh
lên nét u buồn, lại hay nhìn xa xa phía chân trời, tròng mắt
đen láy, bóng ngời, đôi lông mi dày thẳng tắp. Thế là
tui liền đặt nó tên "Loan Mắt Nhung", cái tên sặc mùi...du
đãng làm trong nhà ai nghe cũng phì cười. Những lúc nhìn
vào mắt nó, tui thường tự hỏi trong cái đầu to đùng
của nó, những ý nghĩ gì đang thoáng qua, tủi thân trâu
cày ngựa kéo, ráng nhịn nhục cho hết nợ đời, hay là nó
chẳng biết nghĩ gì, đầu óc tăm tối mông lung, chỉ thấy
cỏ là ăn, bị đánh đau là chạy???
Bò là giống ăn tạp. Không chỉ ăn cỏ, rơm,
nó còn ăn cùi bắp, vỏ mít, và hầu như tất cả mọi
cây cối trên đường đi... Thỉnh thoảng nó còn được
ăn chè "bồi dưỡng", thứ chè đậu xanh loãng nhách
nấu với mấy tán đường móng trâu, đổ vô cái xô
nhỏ, cu cậu ưa lắm, vục mõm ực như chớp. Nhưng ổng mà
lạc vô vườn cây mới ươm hay rẫy khoai mì thì đúng
là tai họa, cái giống nước miếng bò thiệt độc, nó
mà nhơi trúng ngọn cây nào thì y như rằng cái cây đó
èo uộc còi cọc cả đời chẳng ra làm sao, chủ vườn
đành bấm bụng nhổ bỏ cho rồi.
Ờ, để tui kể bạn nghe chuyện tui xém chết khi đi chăn bò.
Một bữa đang ngồi tựa lưng vào tổ mối, bỗng nghe tiếng cùm
cụp cùm cụp rất lạ nho nhỏ sau lưng. Tui rình tìm mãi, hồi
lâu mới thấy có con gì giống như con cua bò trong đám cỏ.
Ủa sao giữa đồng cỏ hanh khô mà lại có cua? Nhưng ngó bộ
nó ô dề vậy mà nhanh nhẹn lắm, mới thấy đó đã
lủi mất hút trong đám cỏ, kiếm hoài không ra. Bữa sau hí
hởn kể cho thằng nhỏ chăn bò "đồng nghiệp" nghe, nó
la làng: "Ối mẹ ơi, bò cạp núi, nó mà cháp một
cái là phẻ đời nghe chị Năm!". Hà hà số mình còn
kéo dài nhiều tập gay cấn, đâu có dễ chết lãng xẹt
chỉ vì con bò cạp tồ vô danh tiểu tốt!
---------------
TUI ĐI CHĂN
BÒ 3
Bà Tổng Giám Đốc tập đoàn PHABOVI
Lượm phân bò cũng là một chuyện thú
vị lắm nghe bạn (!). Trước bảy lăm, nếu có ông thầy bói
nào nói có ngày con QN sẽ đi dọc theo đường quốc lộ
lượm phân bò tỉnh bơ không biết gớm, thì tui sẽ ngã
lăn ra cười, vì đúng là chuyện như đùa!... Vậy mà
thời gian đó, mỗi lần tui với nhỏ cháu đi chợ xã, nó
thì xách giỏ nhựa đựng thức ăn, còn tui thủ cái giỏ
lác bự chảng, một tay bọc trong lớp nylon, bận đi lượm được
phân nửa, thêm bận về đầy ắp... phân bò khô. Đem về
ủ lâu lâu trong một hố nhỏ phủ rơm rạ, chờ nó "hoai"
để dành bón cây...
Bây giờ
ở Sài Gòn muốn bón cây tui phải mua một bịch phân bò
nhỏ xíu mười ngàn đồng! Thiệt đúng là gia đình
tui chẳng ai có máu kinh doanh, chớ nếu biết nhìn xa trông rộng,
thì giờ tui nghiễm nhiên đã là "vua phân bò", quên,
"nữ hoàng phân bò", hay nói cho le, bà Tổng Giám Đốc
tập đoàn "Phân Bò Việt", có chuỗi cửa hàng thu mua
và phân phối cả nước, biết đâu còn thò vòi bạch
tuộc xuất khẩu "hàng" qua tận... bên Tây, có đâu cứ
bám cái nghề bán chữ thanh bạch và bạc bẽo này...
Trở lại chuyện thằng bạn Loan Mắt Nhung
của tui. Tui muốn đính chính chuyện người ta hay mắng "ngu như
bò"! Con bò không hề ngu, có ngu chăng là sức vóc to lớn
vậy mà để cho con người đè đầu cưỡi cổ, hành
hạ đánh đập giết chóc... Ờ có lẽ chỉ vì trời
sanh nó quá hiền lành chăng? Chuyện đời, hiền lành thì
thua thiệt mà, người ta cũng vậy thôi!
Bò cũng có
tình cảm, cũng biết ai thương nó, ghét nó, và nó cũng
có cách cư xử riêng trong từng trường hợp. Có thể tui phiến
diện, vì tui đâu có sống với bò cả đời mà
vội rút ra kết luận này nọ. Ừ thì tui nói con Mắt Nhung thôi
vậy!
Mỗi ngày gặp bà Hai đi chăn bò ngoài rẫy, tui đều
chạy ra nói chuyện với hai bà cháu, cho em nó bó cỏ tươi
hay trái bắp, hoặc miếng vỏ mít vàng ươm.
Mỗi khi đi "chăn bò ké", khi hai đứa lang thang
trên đồng cỏ, thì những gì u uất chất chứa trong lòng,
những hoang mang về tương lai mờ mịt, những tiếc nuối về bao ngày
xưa cũ ấm êm, tôi đều kể hết cho Mắt Nhung nghe. Chẳng biết
nó có hiểu hay không, nhưng đôi mắt nó cũng ươn ướt
buồn rầu như đồng cảm với con nhỏ học trò nửa đường
đứt gánh... Mà cần gì nó hiểu, chẳng phải khi gặp được
người "chịu lắng nghe" mình, đã là hạnh phúc rồi
sao, cho dù "luôn luôn lắng nghe, lâu lâu mới hiểu"!
Với
tôi, nó ngoan ngoãn cực kỳ, dẫn đi đâu đi đó, không
như với chủ nó anh Bình con bà Hai, nó cứng đầu không
thể tả - lúc này nó lại bị chửi "lỳ như trâu"!
- cho nên phải ăn bao nhiêu cơn mưa roi, bị đâm bao nhiêu đót
vào mông đến nỗi mông nó lúc nào cũng lún phún
máu đặc (đót là cây gậy thúc bò, một đầu có
cù ngoéo làm cán và một đầu đóng đinh sắc nhọn
dài khoảng một phân để đâm vào mông bò thúc nó
đi nhanh).
----------------
TUI ĐI CHĂN BÒ 4
Phủi
sạch nợ trần
Khoảng nửa tháng một lần, bà Hai cho Mắt Nhung đi
kéo gỗ mướn tận trong rừng sâu. Công việc của nó là
kéo gỗ mới đốn gom lại một chỗ, gọi là "tập kết",
đến khi đủ số thì lòn lách đường mòn đi thâu
đêm để kịp về điểm thu mua của lái gỗ dưới bến
sông rừng Sác lúc mới hừng trời. Mỗi lần đi một chuyến
về, tội nghiệp, nó kiệt sức, ốm nhom, hai bên mông nát bét
dấu đót, tui thương quá, đem xức thuốc đỏ ai thấy cũng
cười. Bà Hai cho nó nghỉ ngơi ăn uống lại sức, để một
tuần mười ngày lại đi chuyến khác.
Chẳng hiểu có
phải cũng biết sợ những chuyến đi rừng "trần ai lai khổ"
hay không, mà có một lần, trước hôm tới chuyến, Mắt Nhung...
bỏ nhà đi bụi. Nửa đêm nửa hôm, tiếng bà Hai và hai
ông con trai kêu ơi ới ngoài rẫy nhờ mình chia ra tìm giúp.
Anh Ba với thằng Út mặc áo đi liền, không quên dặn tui với
nhỏ cháu ở nhà cửa nẻo cẩn thận. Đuốc đốt sáng
rẫy. Đèn pin lia tứ phía. Tiếng người í ới xa xa, tiếng
kêu "Bò... về..., bò... về..." như lúc dẫn bò về
chuồng lặp đi lặp lại văng vẳng xa dần.
Trời tự nhiên đổ mưa. Mưa rừng, bạn biết không,
có khi chẳng chuyển, chẳng gầm gừ báo trước, hễ ổng muốn
mưa là cứ trút ào xuống, ầm ầm như đạo binh giáp
trắng càn qua hung hãn. Sấm, chớp liên hồi. Cả đồng cỏ
thoắt chốc bao trùm thứ ánh sáng trắng xanh thê lương ma quái rồi
lại nhanh chóng chìm vào đêm đen...Tui nhìn ra màn đêm
mênh mông, nóng ruột trông đứng trông ngồi, sợ anh Ba với
thằng Út đi về bị cảm lạnh. Sợ con Mắt Nhung đi lạc
sâu trong rừng bị cọp vồ, mặc dù dân miệt này nhiều lần
xác nhận nhím, thỏ, nai, mễnh thì có, chớ cọp thì chưa
thấy bao giờ. Lại sợ nó bị trộm bắt rồi đem vào rừng
xẻ thịt... Ở đây trộm thường không dắt bò đi xa, mà
lựa chỗ rừng vắng đâm họng xẻ thịt tại chỗ, có khi
gấp quá chúng chỉ kịp cắt đi hai cái đùi, mấy bữa
sau chủ bò mới tìm ra thì xác bò đã bắt đầu có
mùi...
Cả tiếng sau, nghe tiếng anh Ba
với thằng Út nói chuyện lao xao ngoài sân, chợt ảnh "ủa"
một tiếng rồi la lên: "Nó đây nè Bác Hai ơi!". Thì
ra Mắt Nhung đã về trong sân nhà tui từ bao giờ, đứng nín
thinh dưới mưa... Tui chưa kịp mở cửa chạy ra thì anh Bình con
bà Hai đã tới kéo nó đi, chỉ kịp thấy nó đầu
cúi thấp dưới ánh chớp sáng trắng, đôi sừng nhọn
lắc lắc, và đột nhiên nó ngoái kêu lên một thôi
dài buồn bã trầm thống: "Bò ò ò ò ò"...
Mấy ngày sau anh Bình từ rừng về cho
hay mấy ngày mưa thúi đất thúi đai, đường rừng nhão
nhoét như một lòng chảo khổng lồ ngập bùn dẽo, Mắt Nhung
bị mắc lầy, và vì bị thợ rừng đót liên tiếp đau
không chịu nổi, nó rống lên một tiếng vang trời, ráng hết
sức vùng lên kéo xe gỗ nặng, bị đứt ruột mà chết!
Ôi Mắt Nhung tội nghiệp của tôi! Nó
đã đi rồi, quá sớm ở cái tuổi hừng hực trai tráng...
Lúc đó tui còn trẻ quá, cứ nhớ tới nó là nước
mắt tuôn tuôn, thẩn thờ bao nhiêu ngày trời khi quẩn quanh ngoài
trảng cỏ. Tôi không hiểu rằng nó đã tới lúc phủi
sạch nợ trần! Thôi vậy còn hơn cả đời bị bóc lột
và hành hạ, để rồi lúc cuối đời nước mắt ứa
ròng ròng khi thấy con người tàn ác đang lăm lăm bổ búa
vào đầu. Con người vốn bạc. Như họ hát về con trâu: "Con
trâu có một hàm răng, ăn cỏ đất bằng uống nước
bờ ao. Hồi nào mầy ở với tao, bây giờ mầy chết tao cầm
dao xẻ mầy..." !
Mắt Nhung đã
đến tìm tui vào cái đêm trước khi nó chết, phải chăng
nó biết sắp vĩnh viễn ra đi nên bỏ nhà tìm tới nói
lời từ giã? Đau lòng quá Mắt Nhung ơi...
Tui ân hận vì chưa kịp nói câu an ủi nào,
chưa kịp vuốt cái mõm ươn ướt hiền lành của nó,
chưa kịp vỗ nhẹ vào chiếc má hõm gân guốc của nó,
chưa kịp nhìn vào đôi mắt lúc nào cũng u buồn của
nó để chúc nó đi đầu thai làm người cuộc đời
bình an...
Ngoài rẫy xa, tiếng bà
Hai khóc lóc rền rĩ vì không còn Mắt Nhung đi rừng đổi
gạo, tiếng khóc như tiếng người đàn bà Bắc hờ con,
thê thảm, áo não, đắng cả ruột gan...
TCQN
04/2014
Cô ma buồn
Sau 75, mấy chị em tôi nghỉ học theo
gia đình về làm ruộng ở quê nội Sóc Trăng. Hai năm
sau, thất bại thảm hại chốn ruộng đồng, Má tôi rút mấy
chị em về lại Cần Thơ, góp cho mỗi đứa hai cây vàng vô
làm tổ viên tổ hợp mía đường.
Bạn nào còn nhớ tiệm
bán dụng cụ học sinh khá lớn hiệu "Thế Giới" ở cái
đường gì đi xuống Chợ Gà? (đối diện xéo xéo
tiệm thuốc tây Khương Bình Tịnh). Chính ông chủ tiệm Thế
Giới này đã đứng ra kêu gọi một số tư sản và
trí thức hùn lại xây dựng một lò đường ở sâu
trong đường Nhà thương dưỡng lão, lúc đó còn
là ngoại ô thành phố Cần Thơ.
Lò đường nằm trên mảnh đất khá
rộng, phía trước là sông cái bát ngát, cách một con
đường là lò đường với sân trước, văn phòng,
khu máy ép, kế tới khu lò nấu xây cao vút với sáu chảo
khổng lồ đường kính hơn sải tay, gian trái là nhà bếp,
gian phải kho trấu, cuối cùng là sân sau dùng phơi bã mía,
nói sân cho le, thật ra là phơi ké chỗ trống trong một nghĩa
trang nhỏ.
Tụi tôi,
mới ngày nào còn là mấy đứa học trò ngơ ngáo trói
gà không chặt, bỗng dưng đùng cái biến thành nông dân
(dù là nông dân dỏm), rồi sau đó không lâu nghiễm nhiên
trở thành tổ viên một lò đường lớn được chia lời
mỗi sáu tháng, vừa là công nhân, vác mía, ép mía
mỗi ngày theo ca sáng tối.
Có một chuyện ngược đời, là sống đời công
nhân vất vả trăm bề nhưng hầu hết tổ viên và công nhân
ở đây đều vui vẻ tếu táo, không khí rất dễ chịu
hòa đồng. Không hiểu sao lúc đó chúng tôi rất dễ
cười. Có lẽ vì người nào cũng lờ mờ hiểu đây
chỉ là một giai đoạn tạm bợ, rồi mỗi chúng tôi đều
có một con đường riêng để đi, như mây trên trời
tụ lại rồi tan, và thời gian gắn bó với nơi này sẽ trở
thành một kỷ niệm khó quên?
Lần đầu tiên vác mía, không biết lông tơ
trên cây mía gây ngứa nên không lót vải tời trên vai,
kết quả là cả bọn ngứa gãi như Tề Thiên, CƯỜI!
Láp bộ che (máy ép)
đang chạy ngon lành bỗng gãy rốp, CƯỜI! (vì máy hư thì
được nghỉ - công nhân kiểu gì mà nghỉ việc không lương
lại khoái chí gì đâu).
Vác trấu đổ vô lò bị bụi trấu làm
mẩn ngứa toàn thân, "đàn Ta Lư" cả buổi, CƯỜI!
Chờ "hỏa đầu quân"
(là một ông già người Tàu, tụi tôi gọi ông là "
lào pề", nghĩa là "ông bác") vừa ngủ mở miệng
ngáy o o, một đứa lén lén bỏ vô miệng ông dúm muối,
ông tóp tép cái miệng móm xọm rồi ngủ tiếp, CƯỜI!
Đứa trèo cây hái
trộm xoài lối xóm (mật hiệu : mission impossible), đứa đứng canh
mắt la mày lém, hái xong cả đám chạy u về, sẵn nước
mắm nhà bếp và đường mới nấu còn nóng hổi, làm
tô mắm đường hoành tráng, vàng sánh, long lanh, bỏ thêm
mấy lát ớt đỏ thắm, í chà, mỗi đứa một lát
xoài xanh, quệt mắm đường nhai rôm rốp, cay điếc lỗ tai, vừa
hít hà vừa nghe bà "chủ xoài" bả chửi sa sả ngoài
kia, CƯỜI!
Nhưng chuyện
thú vị nhứt, có lẽ là chuyện con ma áo trắng. Ngay lúc những
chảo nấu đường khổng lồ được đem về lắp ráp
vào bệ lò, tụi tôi đã nghe đồn râm ran về con ma ngoài
nghĩa địa cuối đất. Nghe nói đó là một cô gái
tự tử chết vì tình, hồn mãi không tan nên cứ hiện về
ngồi lặng yên bên mộ mình những đêm trăng sáng. Nhiều
năm trôi qua, con ma có lẽ góp đủ thời gian hấp thụ dương
khí hay sao mà cả gan dám hiện hình ban ngày, lúc đúng ngọ.
Mỗi khi nhắc tới chuyện này, mấy "bà tám" gần đó
trưng liền bằng chứng sống là anh thợ làm cà ràng ông
táo trong xóm, trẻ măng và vạm vỡ như lực sĩ Lý Đức,
một ngày bỗng hóa điên khi tình cờ giữa trưa nhìn thấy
ma nữ ngồi vắt vẻo bên mộ, hai mắt phóng quang và nụ cười
buồn hiu nhợt nhạt...
Trong
lò đường, cánh đàn bà con gái thôi khỏi nói, ra
tới sân sau là sợ xanh mặt, hất cần xế bã mía xuống một
cái là chạy cong đuôi vô không dám ngoái lại. Bã mía
rất mau khô, phơi một nắng đã chụm được rồi nên
cánh thanh niên được giao nhiệm vụ chiều chiều ra đó lấy
bừa cào gom vô kho để chụm dần (lò nấu bằng củi gộc
và vỏ trấu, nhưng cũng tận dụng bã mía cho khỏi phí).
Tưởng sao, thanh niên thân dài vai rộng cũng nhát hít, đứa
nào ra đó cũng lấm la lấm lét, chân trước chân sau sửa
soạn phóng cái rẹt phòng khi "có biến"!
Một ngày tôi làm ca sáng, vì
trời lành lạnh sau cơn mưa đêm nên chọn cái áo bà
ba hisofi trắng mặc cho ấm (đây là áo sửa từ áo dài để
dành đi đám ma của Má. Bạn còn nhớ thời đó áo
dài bị "thất sủng", toàn đem nhuộm đen nhuộm nâu rồi
sửa làm áo bà ba?). Thường ngày tôi đi làm đều
mặc toàn quần patte áo sơ mi (bạn sẽ thắc mắc, công nhân
gì ăn mặc kỳ vậy, không sợ bị phê bình kiểm điểm
sao? Đó là mớ quần áo trước 75 còn sót lại, và
vì đây là tổ hợp tư nhân, toàn tư sản và công
chức nên đầu óc cũng tương đối "thoáng"), tự
nhiên bữa đó tôi mặc áo bà ba, ai cũng xúm lại chọc
"dáng đứng Bến Tre".
Công việc của tôi hôm đó là xúc trấu liền
tay cho tụi con trai vác đổ vô lò. Giờ ăn trưa, trong khi một số
công nhân chia phiên ăn cơm nóng sốt bên nhà bếp, thì một
số tản ra tìm chỗ giở cơm nhà ra ăn. Tôi cũng vậy, ngồi
lại trong kho trấu, tôi mở gô cơm nguội lạnh ra ăn (gô = lon Guigoz,
chắc bạn còn nhớ thời đó lon Guigoz quý lắm vì đa dụng,
nhôm tốt và nắp kín, công nhân viên chức thì dùng làm
gà-men đựng cơm, mấy bà sĩ quan thì đựng đồ ăn
khô đi thăm chồng học tập cải tạo, thậm chí người ta
còn dùng làm đơn vị đo lường : một gô, hai gô...).
Tội nghiệp Má tôi, 5 giờ sáng đã phải lục đục nấu
cơm cho ba chị em đem theo ăn trưa, thường là cơm bời rời khô
bã với một miếng thịt chiên mỏng hay khứa cá chiên sả
ớt, vài lát cà chua, dưa leo, thời đó ăn vậy đã sang
lắm rồi.
Đang ăn
nhẩn nha, một tiếng thét hãi hùng vang lên rất gần làm tôi
hồn vía lên mây, bủn rủn chân tay, gô cơm rớt tung tóe.
Mọi người chạy ùa tới, thì ra anh thợ làm cà ràng ông
táo trong xóm, như mọi ngày nửa tỉnh nửa mê đi lang thang khắp
nơi, vô lò đường xin mía ăn, đi ngang qua kho trấu thấy tôi
áo bà ba trắng ngồi quay lưng, tưởng cô nàng ma cố nhân
ngoài mả, anh chàng hét lên một tiếng lanh lãnh chói tai, mắt
trợn ngược kinh hoàng, rồi quỳ sụp xuống đất lạy tôi
như tế sao.
Khi bà
má tội nghiệp của gã-điên-hiền-khô chạy tới vừa khóc
vừa kéo gã về nhà, ai nấy xúm lại cười chọc tôi
quá trời, nói tôi "ma" gì nhát hơn thỏ đế. Họ
nói không ngoa, lúc đó tôi sợ quá, mặt mày trắng bệch
xanh lét như ma thiệt.
Sau
đó tôi được biết thêm một sự thật động trời
: sát ngay sau bức tường của kho thóc là ngôi mộ của cô
gái ma ! Lúc đó tôi cứ nghĩ hoài về cô. Tôi cho rằng
cô cần gặp được một người cởi bỏ cho cô những mê
ngộ. Đường đường tuấn kiệt khẳng khái như Quan Vân
Trường thuở xưa mà chỉ sau khi gặp Phổ Tĩnh thiền sư ở
núi Ngọc Toàn, Ngài mới thôi lang thang đi tìm đầu của
mình, huống hồ một cô gái sầu tình nhỏ nhoi... Tôi hỏi
thăm mới biết nhiều thầy cúng đã được mời tới
để cúng kiến và đọc kinh cho cô siêu thoát, chuyện này
đã nhiều năm trôi qua, nhưng người ta vẫn thỉnh thoảng thấy
cô ngồi sụt sùi trong đêm vắng... Tôi đoán cô ma cần
gặp một bậc tu hành có tâm và đạo pháp uyên thâm
để nghe lý lẽ mà hết mê ngộ, chớ không phải chỉ là
những ông thầy cúng chỉ biết thắp nhang và tụng kinh ê a mà
thật sự chưa hiểu hết ý nghĩa câu Nam Mô.
Một ngày, đợi ai nấy nghỉ trưa
vắng vẻ, tôi vô kho trấu lầm thầm khấn cô (tôi sợ lắm
không dám ra ngoài mả cô). Tôi không cao đạo, cũng không
phải chân tu, tôi chỉ có một tấm lòng thương cảm. Tôi
nói : "Nhiều lần tôi thắc mắc, không biết cô còn luyến
tiếc gì ở trần gian này? Người xưa chăng? Giờ đâu còn
của mình ! Bạc tình ư? Vậy đâu đáng gì cho mình
nuối tiếc ! Còn tuổi thanh xuân? Cuộc sống đầy giả trá
và bạc ác này đâu có nhân nhượng những mảnh đời
tươi đẹp ! Tôi xin cô tan đi, đầu thai cho một kiếp sau tốt
đẹp hơn, hoặc nếu cô từ chối làm người, hãy tan thành
bọt nước hay trở thành hư không, luyến tiếc làm gì, quẩn
quanh làm gì cuộc sống này ô trọc !". Tôi khấn vậy đó.
Chắc bạn tức cười. Tuổi hai mươi mà, nghĩ sao làm vậy,
cô ma có nghe thấy hay không cũng đâu có sao...
Lò đường hoạt động được
vài năm thì giải thể, vì thua lỗ, và vì quá nhiều tổ
viên và công nhân lần lượt bỏ đi vượt biên. Dòng
đời đẩy đưa tôi cùng gia đình bỏ Cần Thơ phiêu
bạt lên tận một tỉnh xa miền Đông sống đời rẫy bái.
Môi trường mới khắc nghiệt, chúng tôi phải đối mặt
với quá nhiều vất vả lo toan. Thời tiết nơi đó thật lạ
lùng, nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa rừng thì dù
ầm ầm hay rỉ rả cũng kéo dài cả tuần lễ mười ngày
đem theo khí núi giăng mờ lạnh giá. Con người cũng lạ. Lối
xóm ban ngày chào nhau tay bắt mặt mừng, đêm về hàng rào
đất nhà mình như có chân, cứ cách vài đêm nó
"chạy" từ mí đất lấn vào phía trong dăm ba tấc, mình
thắc mắc thì họ dao búa kéo ra cả bầy. Còn mấy con chó
nhà tôi, tội nghiệp, lâu lâu con thì mất tích, con thì chạy
về hốt hoảng mắt lạc thần với một hai nhát chém trên lưng...
Đêm về, mấy chị
em ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu leo lét, cùng nhắc lại
những ngày cực khổ mà vui vẻ ở lò đường. Và nhắc
tới cô ma. Không biết bây giờ cô chịu tan chưa hay đêm đêm
vẫn còn quẩn quanh bên thềm mộ.
Biết đâu bao nhiêu thầy cúng không thuyết
phục được cô, nhưng cô lại nghe lời tôi, lúc đó
chỉ là một con bé mọt sách ngốc nghếch, đối với cô
chỉ có chút tình chớ đâu có lễ vật đèn nhang và
những lời giảng pháp cao siêu.
Biết đâu những lời trẻ con giản dị mà chân
thành đã làm cho linh hồn trĩu nặng buồn hận của cô nhẹ
vơi đi và cô đã nhẹ nhàng tan theo sương chiều...
Biết đâu cô đã
qua cầu Nại Hà và có ngày định mệnh đẩy đưa
cùng tôi làm bạn vong niên?
Biết đâu cô không thèm làm người mà
hóa thành cơn gió, thoảng ghé thăm tôi qua tiếng phong linh lanh canh
reo nhẹ bên hiên nhà?
Ờ, biết đâu...
TCQN
MA Ở
TRƯỜNG ĐOÀN THỊ ĐIỂM VÀ PHAN THANH GIẢN
Bạn thân mến, ở nước ngoài,
31 tháng 10 là ngày lễ Ma Quỷ (Halloween). Việt Nam mình mới du nhập
ngày này từ năm bảy năm nay, khi mấy trường Quốc tế (chương
trình Anh, giáo viên người nước ngoài) bày ra cho tụi học
trò (toàn con của các "đại gia") có sân chơi. Giới
sinh viên cũng bắt đầu mê không khí lễ hội ma quái này,
nhưng nói chung phong trào cũng chưa rộng khắp.
Ở
trung tâm Sài Gòn gần cuối tháng 10, mấy nhà hàng lớn trang
trí theo phong cách ghê rợn, các món ăn mô phỏng những bộ
phận của con người như tròng mắt hay những ngón tay bê bết
máu, với những tên gọi "cầu kỳ" : Ma Cà Rồng Transylvania
hay Vết cắn của Dracula...
Các quán nhỏ ngoại ô thì
câu khách bằng cả một quan tài nghi ngút khói hương đặt
ngay trước mặt tiền, và giữa quán nằm chình ình một xác
chết (tạc bằng mút xốp) đắp drap trắng xóa, có cả nãi
chuối và dĩa trứng vịt để dằn lên bụng !
Ăn theo ngày này là chuyện kinh doanh phụ kiện ma quỉ gồm mặt
nạ (nanh vuốt, máu me), áo choàng thần chết và lưỡi hái,
nón phù thủy và cây chổi, bộ đồ Bạch Cốt Tinh..., giá
dao động từ vài chục ngàn cho đến một vài triệu. Vào
thời điểm này vài con đường ở trung tâm Sài Gòn và
Chợ Lớn đang buôn bán mặt hàng này rất nhộn nhịp ...
Nhân ngày này, tui xin kể các bạn nghe về chuyện MA trường
mình.
1. Thời đi học, nhứt là bọn con gái, chắc
bạn nào cũng đã từng rất sợ... ma mỗi khi vào toilette của
trường hoặc đi ngang góc cầu thang vắng. Bây giờ già rồi,
tui nhớ lại phát phì cười vì trí óc tưởng tượng
phong phú thời trẻ dại.
Tui nói chuyện ma bên Đoàn Thị
Điểm trước nhe. Khi tui học đệ nhứt cấp trường ĐTĐ,
từ năm đệ Thất đã nghe tụi bạn rỉ tai nhau những chuyện
ma ly kỳ xảy ra trong trường. Thật sự chưa có đứa nào tận
mắt nhìn thấy con ma mặt mũi tròn dẹt ra sao, nhưng chuyện con ma nữ
hay hiện ra thấp thoáng ở cầu thang bên phải gần hội trường
lúc nhá nhem được nhắc tới nhiều nhứt, và trở nên
một nỗi ám ảnh đáng sợ khi đứa nào có việc phải
đi ngang đó vào giữa giờ, lúc đó học trò đã
vào lớp hết, hành lang và cầu thang vắng lặng ghê người,
chỉ còn tiếng đọc bài xa xa...
Khoảng năm 68, 69, 70, anh Ba tui lúc đó còn
dạy ở ĐTĐ, tui không nhớ chính xác thời điểm (chuyện
này có lẽ mấy Thầy mình nhớ rõ hơn), nhưng có thời
gian các giáo sư phải vô trường ngủ để gác đêm.
Một bữa sáng sớm anh Ba tui gác đêm từ trường về, tủm
tỉm kể cho cả nhà nghe chuyện này: Tối đó anh cùng gác
với Thầy Võ Đăng Lành (dạy Pháp văn) và một nhân
viên của trường là chú Tám Rộng, đầu hôm mấy ông
nói chuyện như pháo ran, tới khuya mới chia phiên nhau ngủ. Chưa được
bao lâu, anh thấy chú Tám mở mắt mà miệng ú ớ, tay chân
quơ loạn xạ. Ảnh tới lay chú dậy thì chú hoảng hốt mắt
lạc thần, người toát mồ hôi lạnh. Chú líu lưỡi nói
tiếng được tiếng mất, rằng có một bà già cụt đầu
quần áo te tua lết từ gầm cầu thang ra quờ quạng níu lấy chú.
Anh Ba tui phì cười : Ma cụt đầu mà sao ông biết "bà"
hay "ông"?? Chú Tám ngẩn người : "Ừa, tự nhiên tui biết
hè, thầy không tin thì thôi, mà tui còn thức chớ không phải
ngủ mớ đâu à nghen!".
Thiệt tình, lúc đó nghe
anh Ba kể, tui tin sái cổ, giờ nghĩ lại, chắc chắn đó là
do chú Tám "tám" chuyện ma đã đời hồi đầu hôm
nên mới bị ám ảnh lúc vừa chợp mắt.
2. Lên
lớp 10, khi tui chọn ban C phải qua Phan Thanh Giản học ké, ba năm trời tui
chưa hề biết cái toilette của trường ra sao, chỉ vì quá... sợ
ma! Anh chị tui kể hồi xưa trường mình bị Nhựt Bổn chiếm
đóng thời Đệ nhị thế chiến, vì vậy người ta đồn
trong trường nhiều ma lắm, có lẽ suy ra từ chuyện nhiều người
đã bị tra tấn đến chết ở đó, những linh hồn với
đầy lòng oán hận và sự đau đớn chưa tan, nên họ
vẫn còn quanh quất đâu đó trên đầu cây ngọn cỏ...
Em trai tui (học dưới tui một lớp) rắn mắc
lắm, nó nghe bạn bè xì xầm hoài chuyện ma cỏ trong trường,
ngày nọ tan học đi ngang một lớp trống, nó đứng bên ngoài
nắm tay lại dùng hết sức đấm vào khoảng không bên trong
cửa sổ và la lớn :"Ma nè!". Cú đấm quá mạnh làm
tay nó trật khớp đau điếng, nó xanh mặt chạy về nhà với
cườm tay sưng vù. Má tui phải dẫn nó đi cho người ta nắn
khớp, cả tuần mới bớt. Bà Ngoại tui vốn dị đoan, cứ cằn
nhằn riết, cho rằng tại nó liếng khỉ nên mới bị "ông
bà quở", rồi đi đốt bó nhang lầm rầm khấn vái tứ
phương!
Thời gian Thầy Võ Văn Trí làm hiệu trưởng,
anh Ba tui có dạy thêm lớp Bán công đêm PTG, có lần một
nam sinh xồng xộc thở không ra hơi chạy đến kể cho ảnh nghe một
chuyện như vầy: "Thầy ơi, em vừa ở toilette ra, thấy thấp thoáng
một người mặc áo treillis ở cái cột ngoài hành lang, nón
che tai kiểu lính Nhựt, mà sao hai con mắt ổng đen thùi lùi, khi
em lại gần thì chẳng thấy ai, ghê quá Thầy ơi!". Anh Ba tui liền
gạt ngang, bảo học sinh đó thần hồn nát thần tính - có
lẽ cũng do anh đó trong lớp vốn nổi tiếng rắn mắc nên lời
nói không có trọng lượng?
Còn tui, nếu bạn hỏi
chỗ nào trong trường PTG tui sợ nhứt, thì tui sẽ trả lời liền
không suy nghĩ, đó là chỗ cái cầu thang gỗ! Ở đó
không gian lờ mờ, bầu không khí đặc biệt ảm đạm. Có
lẽ đó là do cái đầu sợ-ma-có-hạng của tui nó tưởng
tượng ra thôi, nhưng nói thiệt, chỉ cần đi ngang đó thôi
là tui sởn da gà cúi đầu đi thẳng! Tui chưa hề dám ngước
nhìn lên, vì cứ sợ thứ ánh sáng nhờ nhờ đặc quánh
khói sương đó biết đâu sẽ từ từ đọng lại
thành một bóng ma u u lờ lững kéo lê những xiềng xích gông
cùm, tiếng loảng xoảng mơ hồ xa xăm...
Thuở đó tui
luôn nghĩ: sao không phải là một cái cầu thang ciment đúc, sẽ
sáng sủa hơn và chắc chắn hơn? Và nhứt là cho chúng ta
một cảm giác an toàn hơn là một cầu thang gỗ cũ kỹ nứt
nẻ u ám.
Thiệt là cạn nghĩ! Nếu trường PTG không có
cái cầu thang gỗ, thay vào đó là cái cầu thang ciment cứng
ngắc, thì còn gì đặc biệt để chúng ta nhớ về sau
mấy mươi năm xa trường xa lớp??
Và lạ lùng ghê,
ở cái chỗ mà xưa kia tui ớn nhứt, lại là nơi tui rưng rưng
nước mắt đầu tiên khi mấy năm trước cùng người bạn
cũ ở Canada về trở lại thăm trường, bước lên cầu thang
gỗ đó để vào thắp nhang phòng Sư Đạo Tôn! Có
cảm giác như gặp lại một người bạn vong niên từ thuở
xa xưa, tôi xúc động thì thầm:"Ủa, mi vẫn còn đây
ha?".
Ánh mắt một người trung niên giờ khác đi rồi
so với thời son trẻ: Cầu thang gỗ đâu còn vẻ dễ sợ u ám,
mà nó hiện ra hiền lành và chịu cam, sống thực đến nỗi
tưởng như nó có thể chồm dậy tay bắt mặt mừng: "A,
bạn đã về đó sao?"
Đã xem quá nhiều phim ma
ở Star Movies, HBO, Cinemax. Lại thêm thằng nhóc con biết goût mẹ
thích phim ma nên nó "train" tui cách tải phim về coi, rốt cuộc
trong "kho" máy tui ôi thôi vô số phim kinh dị. Xem riết rồi "trơ",
bớt sợ ma, lại rút ra được một điều thú vị: Ma quỷ
dù gớm ghiếc tới đâu cũng không đáng sợ bằng con người!
Bạn nghĩ coi có đúng không: Gương mặt ma tóc tai rũ rượi
máu me nanh vuốt thiệt dễ sợ nhưng nó trăm phần trăm không
biết diễn kịch, toan tính hay thủ đoạn. Nhát chơi hay nhát trả
thù, thậm chí giết chơi hay giết trả thù, thì nó cứ
đường đường mà nhát, đường đường mà giết
thôi. Nó không làm bộ tươi cười mà lận dao sau lưng,
không ti tiện mà vỗ ngực khoan dung, cũng không tàn độc mà
cứ trơ mặt xưng mình đạo đức...
Thôi chết, xó
ri các bạn, tui chuyên môn nói... lạc đề. Lại còn lý
sự nữa mới ghê! (Hồi đó học ĐH Tổng Hợp, Thầy Bửu
hay gọi (ngạo) tui là philosopher, riết rồi chết tên, hic). Thôi hẹn
bạn dịp khác nhé! Thân ái.
SG, 10/2011
TCQN
____________________________________________________
THẰNG BỤI ĐỜI
(Giống chó Papillon)
-----------------------------------------
Mấy hôm nay những người yêu cún đều xôn xao tin
bé cún bị băng mõm đến hoại tử trơ xương mũi ở
Bến Tre. Tôi chợt nhớ tới thằng Bụi Đời đáng thương
của tôi ngày nào. Nó được cứu, nhưng tội nghiệp, nó
không thích nghi được với cuộc sống ấm êm, như cậu bé
rừng xanh không quen với cuộc sống văn minh. Nên nó đã bỏ
tôi, bỏ cái thế giới độc ác này mà đi...
(Chú
thích: Hai bé cún Fidèle và Loyale tôi nhắc trong bài, khi nuôi
lớn tôi tặng Fidèle cho bạn của anh tôi, được cưng như
trứng mỏng, tiếc thay con bé không hưởng được hạnh phúc
dài lâu, sau 75 Fidèle bị cho vào bao chở đi thật xa đem bỏ,
không biết sống chết ra sao. Loyale may mắn hơn, được thương
yêu và ở hết đời với bạn tôi Trần Ngọc Thanh Mỹ con
thầy Tổng Giám thị Trần Ngọc Nhung).
-------------------------------------
THẰNG
BỤI ĐỜI
Cô đặt tên nó là thằng Bụi Đời
hẳn có lý do.
Lần đầu
tiên cô gặp nó là lúc nó đang lùi cái cơ thể bé
xíu tàn tật vào tận góc đống rác để chống cự
một cách vô vọng với ba con chó lớn hung hãn. Lúc đó
nó còn nhỏ, nhỏ lắm. Răng sữa, và nanh dù còn bé tí
trong vắt cũng nhe ra dữ dội, lông trên lưng dù thưa thớt và
dơ dáy bùn sình, cũng dựng đứng lên như những chú
chó anh hùng quyết tử. Nó xoạc ba chân - vì nó chỉ còn
có ba chân - mà gầm gừ, tuy run run nhưng đầy dũng khí, một
chân sau buông thõng lặc lìa với những túm lông se lọn thảm
thương.
Bà già bán thuốc
lá gần đó quăng mấy viên đá vào lũ chó lớn
làm chúng tháo chạy tán loạn, những âm thanh ăng ẳng inh tai
túa ra khắp bốn phía. Cô tưởng con chó nhỏ của bà, nhưng
không phải.
- Chó nhà ai bỏ đây
lâu rồi đó cô. Tội nghiệp quá, cứ bị chó lớn đánh
suốt.
Cô vẫn ngồi trên xe
đạp, lòng phân vân. Chiếc giỏ đi chợ của cô hãy còn
trống không, mà nửa tiếng nữa cô phải có mặt ở lớp
Anh văn thầy Sở - hôm ấy tới phiên cô thuyết trình. Một
dung rủi không hợp thời. Cô lại nhớ đến thân phận ở
nhờ của mình. Nhưng cô không nỡ bỏ đi. Không nỡ - đó
là nhược điểm cố hữu mà ông Trời rắn mắc đã
thân tặng cô như một vố chơi khăm.
Cô đến bên nó, gọi Kiki thân thiện. Con chó nhỏ
nhìn cô đầy cảnh giác. Nó cứng người lại giữ thế
thủ như để sẵn sàng chống trả. Nhìn gần, nó xấu xí
dễ sợ. Đó là một chú cún con đen thui, xơ xác và
ốm đói chưa từng thấy. Mõm nó nhọn hoắc như mõm chồn,
một bên tai rách toác đã thành thẹo, đôi mắt nhỏ
tí như hai hột đậu màu vàng nhạt ánh lên nét lạ
lùng hoang dã. Máu rướm trên hai bả vai và bê bết ở mạng
sườn, cái sinh vật nhỏ bé bằng cườm tay đó đang run
lên từng cơn dưới ngọn gió lạnh lùng của buổi sáng
lập đông.
- Cô ơi, đem nó
về nuôi đi, làm phước - Bà bán thuốc lá lại gọi.
Cô cười: "Cháu không có nhà,
nhưng đỡ hơn nó cái không bị ai cắn". Và nghĩ thầm:
Người ta cắn không chảy máu, dù vết cắn tàn ác hơn
nhiều...
Cô xòe tay gần hơn,
lại gọi Kiki. Lần này khả quan hơn, nó ngửi ngửi tay cô, đuôi
hơi cụp và lông lưng đã xếp. "Ngoan nhe, Kiki..."
Cô âu yếm vuốt đầu nó khi thấy cái
đuôi xác xơ và trụi lủi như đuôi con chuột cống bắt
đầu vẫy nhẹ. Nó làm thinh khi cô nhấc nó lên bỏ vào
giỏ. Thật tình mà nói, lúc ấy cô không thể không nhăn
mặt vì nó hôi hám đến phát khiếp.
Suốt đoạn đường về nhà, nó khá
biết điều, nằm yên trong giỏ. Thật may, nhỏ-bạn-chủ-nhà
của cô lúc ấy đi vắng. Chưa kịp mở cửa, con Lucky-ù của
bạn cô nghe hơi lạ sủa rinh. Nó biết địa vị chủ nhà
của nó và không chấp nhận có hai mặt trời.
Cô đi nhanh vào nhà trong, đóng cửa ngang để
chận con Lucky rồi nghiêng giỏ. Con cún bước ra, đàng hoàng và
từ tốn như một bang chủ, mặc kệ tiếng sủa ông ống của
con Lucky điên cuồng cà khịa bên kia cánh cửa. Nghĩ là nó
đói lắm, cô lục tủ kiếm thứ gì cho nó ăn tạm. Khoai
lang, chê. Khuấy một chút sữa trong chén, cũng ngoảnh. Cô bực
mình: "Hổm rày mầy ăn cháo bào ngư chắc?".
Sau đó cô nghĩ tội nghiệp có lẽ nó
bị đau nhiều vì những vết thương nên đi lấy thuốc đỏ
bôi cho. Nằm vùi trên chiếc khăn lông cũ cô xếp trong góc
nhà, nó nhìn theo cô lom lom. Dường như con vật bị đuổi
xua và vùi dập quá sớm trong thời thơ ấu hiểu rõ luật
đời nên không quen biểu lộ tình cảm dù với người ơn.
Trưa, bạn cô về, nó la rầm - chỉ
kém ồn hơn con Lucky-ù của nó một chút: "Trời ơi, mi lại
đem cái gì về nữa đây? Ghê quá!"
Cô cười hì hì: "Ta có nuôi ở đây
đâu. Cho nó ở nhờ qua đêm, mai ta đem về trại. Thôi đừng
nhăn hoài mau già, làm phước gặp chồng hiền!"
Bạn cô phì cười, nhưng mỗi khi ra nhà
sau, nó bịt mũi và nhổ nước miếng luôn miệng. Nó vái
dài khi thấy cô pha nước nóng tắm cho Bụi Đời... Thằng bé
vẫn lặng yên để cho cô muốn làm gì nó thì làm.
Tắm xong, nó sạch sẽ hơn nhưng vẫn xấu xí cách đáng
thương. Nó liếm láp chút sữa như một em mèo quý tộc
rồi vào chỗ mình ngủ vùi...
Thật
may là ngay hôm ấy chị cô ghé thăm nên hôm sau cô gởi nó
về trại theo chị. Thế nào khi thấy Bụi Đời, Má cô cũng
nói: "Cái con, hết mèo mù tới chó què. Thiệt tình!"
Cô biện hộ trong thơ, đại để:
"Nhà mình đất rộng lại quá ít người, con Chiêu Hà
mới bị người ta thuốc chết, con Cỏ May thì đã già, sau
này thằng Bụi Đời sẽ là tay giữ trại đắc lực vì
nó anh hùng như cảm tử quân..."
Chị cô về trại. Cô yên tâm về phận Bụi Đời,
mỉm cười nghĩ đến lúc về thăm thấy nó đã lớn
xộn và chạy ra mừng quấn quýt...
Rồi cô chợt nhớ đến những con chó xinh đẹp của một
thời vàng son. Hồi đó, lúc gia đình cô còn giàu có,
người ta biếu cho đôi chó tuyệt đẹp giống Papillon. Con đực
cô đặt tên Bích Ty, con cái Yên Thảo, lấy ý từ câu
thơ "Yên thảo như bích ty" (Xuân Tứ - Lý Bạch).
Yên Thảo lớn lên sinh lứa đầu được
hai gái một trai. Hai bé gái, Fidèle và Loyale, trắng muốt, xinh đẹp
như cha mẹ chúng. Còn thằng út, không biết giống ai mà đen
thủi đen thui với hai chấm vàng tròn xoe trên mắt, lông không
xù và bốn chân ngắn ngủn. Lọt lòng được vài ngày,
mắt cả ba đều bị mưng mủ. Bác sĩ bảo chúng bị trùng
huyết vì cha mẹ là anh em ruột. Cô chăm sóc cho chúng như con
mọn vì chúng vừa bệnh tật, mà mẹ chúng lại không có
một giọt sữa! Ở cái tuổi ham ăn ham ngủ, cô phải dậy mấy
lần trong đêm để nhỏ mắt và khuấy sữa rồi cho vào
chai nhỏ mắt, sau đó nhỏ sữa từng giọt vào miệng mỗi đứa.
Khi chúng đã mạnh lành, biết ăn
cơm và chạy giỡn lung tung khắp nhà thì ba cô, vì chịu không
nổi lũ nhỏ ngứa răng cứ xé vớ và gặm giày, bắt phải
đem cho hết. Cô đành cho hai bé gái, còn thằng út É
Lâm - tên thằng mọi nhỏ trong một quyển truyện tuổi thơ - thì
cô nhất quyết giữ lại, viện lẽ nó xấu xí sợ bị người
ta hất hủi.
Ngày cho Fidèle và
Loyale, cô khóc đến sưng mắt khiến cả nhà đều buồn
cười. Anh cô nói: "Cái con, lớn rồi mà như con nít".
Ba cô thì không vui. Ông cho rằng cái
tư chất Lâm Đại Ngọc báo trước những điều không
hay cho đời cô sau này.
Một năm
sau, tháng tư bảy lăm, cô được biết Fidèle bị chủ nó
quẳng ra đường không thương tiếc vì sợ mang tiếng xa hoa. Nhưng
đến lúc ấy thì cô đã không còn nước mắt để
khóc cho chúng nữa...
Ngày nay, thằng Bụi Đời là hình ảnh
trái ngược với những con chó "tiểu thơ" nhà cô. Cô
nghĩ, đã bắt đầu cuộc đời ở đống rác, nó
sẽ sống vững trước mọi biến cố, cho dù gia đình cô
một lần nữa có ly tan...
Cô lầm.
Tháng sau chị cô lên SG cho hay về nhà được một tuần thì
nó chết. Chị nói cơm cá nó không thèm ngửi, chỉ ra hiên
nhà bắt kiến ăn. Ăn kiến? Thật lạ lùng. Chị còn bảo
suốt tuần ấy nó không chịu làm quen với ai, ngay cả con Cỏ May
tuy đã già nhưng rất thân thiện với bọn cún con, thậm chí
sẵn lòng cho chúng bú thép. Em trai cô gọi Bụi Đời là
"Thành Cát Tư Hãn" để đọc trại tên "Thiết
Mộc Chân" thành "Thiếu Một Chân". Vậy mà nó mang máng
biết người ta giễu cợt, bèn thử một miếng nanh, may mà em cô
tránh kịp, từ đó hễ thấy bóng em cô từ xa là nó
gầm gừ dọa dẫm.
Rồi chị cô
kết luận: "Đó là một con chó vừa xấu xí vừa thù
dai, thật không dễ thương chút nào".
Bạn cô bồi thêm: "Không phải là chó, nó là
con chuột cống lại chồn hôi!"
Hơn mười năm rồi. Đã quá nhiều
thay đổi. Bạn cô lấy chồng, ly dị, rồi đi Pháp, sống khổ
sống sở vì trong nước đã quen phóng túng với vô số
nhân tình, bây giờ phải một mình lăn lộn kiếm sống với
số vốn sinh ngữ quá khiêm tốn, nay đã có ý muốn quay
lại quê nhà.
Thầy Sở cũng
đã đi Mỹ, không biết có khi nào chợt nhớ đến cô
học trò, tuy học khá nhưng
ba trợn, đã bỏ bài thuyết trình quan trọng để đem con chó
hoang tàn tật về nuôi như thầy đã cười nhạo cô ngày
nào.
Đời cô cũng trải
nhiều khúc quanh. Và thật kỳ, cô cứ nhớ tới bé cún ba
chân đáng thương của cô, mỗi lúc càng thấu hiểu tâm
trạng nó như chính tâm trạng mình: mặc cảm, nghi kỵ, hằn
học, lạnh lùng... Và mỗi ngày càng thấy thương nó như
chính thương thân...
Trần Cẩm Quỳnh Như
15/11/1994
CON KI GIÀ
Để
nhớ lại thời gian mấy anh em tui sống hẩm hút với nhau ở rẫy
rừng mù sương, tuy vất vả nơi hẻo lánh nhưng là thời
gian hạnh phúc an bình, dù là quá ngắn ngủi...
1. Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi
Bạn thân mến,
Bữa trước tui qua biếu quà Tết bà lối
xóm, mới thấy trong nhà bả có con chihuahua tí xíu đẹp tuyệt
vời luôn. Anh chàng thầm lặng quá nên mình ở kế bên mà
không hay biết sự có mặt của ảnh. Khi thấy tui mon men tới gần
tính làm quen, ảnh mới lùi lại, bốn chân xoạc ra oai hùng
và bắt đầu sủa, trời đất ơi tiếng sủa nghe cũng dễ
thương nữa, ấu ấu ấu ấu... Có anh này giữ nhà chắc
ăn trộm nó vô dọn hết nhà rồi nó bóp mũi ảnh bỏ
vô bị xách đi luôn quá ha ha !
Chục triệu đó, không bớt một cắc !", bà
lối xóm nói. Trời Phật ơi, nói theo kiểu phim Bắc, mua con cún
mất biết bao nhiêu cân thóc ! Ghê thiệt, nhưng phải nói là
cũng đáng đồng tiền bát gạo, "đắt xắt ra miếng":
dáng anh cún rõ ràng là rặt giống, từ đầu tới chân
màu vàng rơm, bộ điệu cực kỳ thanh tú và sang trọng như
một con nai đực thu nhỏ, bốn chân cao, ngực ưỡn vồng, xương
chân nhỏ bằng tay cái, mỏ nhọn mắt lồi đen lay láy, cái
mũi gãy cúp mà dễ thương lạ kỳ ! Thằng nhóc nhà
tui mà thấy chắc nó ngó em cún tới rớt con mắt luôn !
Thiệt đúng là chó
nhà giàu, thức ăn là mấy cái bánh nho nhỏ hình khúc
xương thơm phức, đựng trong cái chén tuyệt đẹp in chữ
puppy cách điệu, làm tui chợt nhớ mà thương đứt ruột
mấy con chó giữ rẫy nghèo khổ của tui những năm sau 75, chuyên
ăn độn cơm với khoai mì và hột mít luộc (vì trong sân
có trồng vài cây mít), chan chút nước khô cá đù
kho muối mà tụi nó táp phập phập vài miếng là hết tô,
còn thòm thèm lượm từng miếng khoai mì rơi vãi ngoài
đất lấm lem cát bụi.
Tui tội nghiệp nhứt là con Lucky, ở nhà hay gọi tắt là con
Ki, tên là vậy nhưng cuộc đời không lucky chút nào, đường
đường là berger lai nên khá bự con nhưng trước khi vượt
biên chủ nó nhờ anh Ba tui đem về rẫy nuôi (sau đó cái
villa của chủ nó ở đường Cây Điệp gần đường
Đinh Tiên Hoàng Sài Gòn bị niêm phong và tịch thu vì cả
nhà đi vượt biên hụt bị bắt, ngày ngày cả nhà chủ
nó phải xuống ruộng ngâm mình nhổ cỏ lác ở một trại
cải tạo dưới Năm Căn, Cà Mau, vì cái tội "bỏ đất
nước đi tìm.. bơ sữa", sau đó đứt liên lạc, chẳng
biết gia đình đó sau này ra sao). Con Ki dần quên nỗi buồn chia
ly, hằng ngày giải trí bằng cách ngóng mỏ ra đám lau sậy
ngoài rẫy sủa ông ổng đuổi mấy con chồn gian ác rình bắt
gà hay mấy tay thợ mộc say rượu hát ê a ngoài đường
mòn về khuya...
Đất
trại rộng lắm, đất của mình mà mình rào, lại bị
người ta ghét, thiệt là cái xứ gì kỳ cục... Vài người
lối xóm rất hung dữ, lại khoái ăn thịt chó thịt mèo nên
cuộc đời của mấy con chó giữ rẫy nhà tui cũng lắm gian nan.
Con Chiêu Hà bị bắt ban đêm, mờ sáng nghe đám con trai đất
bên lao xao ra giếng xách nước mài dao và mồi rơm. Con Ngọc Thố
đi chơi mãi không thấy về, mấy ngày sau có người kể
lại, nói nó bị một xe Jeep cán chết, họ đã bỏ chạy
một đỗi mà nghĩ lại còn tiếc, cho de xe lại xách con chó
quẳng lên xe lúc nó còn đang giẫy chết máu me đầy mình.
Còn con Ki một bữa tự
nhiên nằm buồn hiu bỏ ăn. Khi tui tới vuốt ve hỏi han mới thấy
nó bị chém một nhát dài rất sâu bên sườn, máu
đen dính bết lông, vết thương còn rịn máu. Ôi ôi đau
lòng ! Tui chảy nước mắt : "Sao mầy không cho tao hay, để chịu
đựng một mình ?" Nó rên ư ử khi được xức thuốc,
được ưu tiên ăn cháo trắng với miếng đường tán
(mấy năm đó, chó mà được ăn cháo trắng là sang
lắm rồi) mà mặt vẫn lạnh tanh hờ hững, chắc là nó đau
quá. Người ta nói "chó liền da, gà liền xương" thiệt
đúng, nếu người ta mà mất máu kiểu đó chắc nằm
bẹp dí cả tháng trời, còn con Ki chỉ vài ngày là chạy
lon ton đi cà khịa với con mèo mẹ rồi.
2. Cún cũng truân chuyên
Chuyện tình của con Ki cũng
như cuộc đời nó, không có một happy ending. Cách đó một
con đường và một triền dốc là nhà một ông chủ trại
cưa. Con chó Vện của ông này ngấp nghé nàng Ki nhà tui ghê
lắm, tụi tui hay cà rỡn dặn con Ki : "Giấy rách phải giữ lấy
lề nghe hôn Ki, cái thằng dữ dằn mất nết đó cứ rượt
cắn gà nhà mình hoài, mầy dầu gì cũng giống berger, không
được cặp kè với thằng đó nghe chưa !".
Nhưng ở cái xứ chó ăn đá
gà ăn muối đó có lẽ tìm đỏ mắt cũng không ra
một thằng nào xứng đáng hơn, nên con Ki nhà tui đành vuốt
bụng ngậm ngùi về nâng khăn sửa túi cái thằng xấu xí
vằn vện đó (đó là tui nói cho "văn chương", thật
ra nó đi hẹn hò với trai mà mặt mày tí ta tí tởn chớ
có ngậm ngùi chi đâu!). Kết quả của mối tình vụng trộm
này (cũng dóc nữa, con Ki này ghê lắm, nó chẳng sợ gì
ai mà lén lút, có khi còn dám dẫn thằng nọ về tận
nhà, hai đứa bày trò yêu đương nhăng nhít lăn lộn
ở bãi cỏ ngoài rẫy khoai mì ngay trước nhà !) là cái
"ba lô ngược", rồi nó hạ sanh hai đứa nhỏ, một con đực
khỏe mạnh tròn vo đen thùi, tui đặt tên là Tonneau (mẹ vàng
cha vện nhưng con lại hắc quẫy, chắc là giống chú bác dì
cậu chi đây !), và một con cái lem luốc vằn vện èo uột
sổ mũi liên miên từ lúc mới sinh cho tới khi chết, thấy nó
coi bộ hổng thọ, tui đặt tên Phù Du.
Khi con Ki vừa sanh xong chừng vài tiếng đồng
hồ, liếm láp hai đứa con sạch sẽ và cho bú xong xuôi, nó
liền chạy một mạch về phía nhà thằng Vện (thiệt tình
tui cũng thắc mắc quá, không biết nó chạy qua bển làm chi?)
rồi chút xíu chạy u về úm con. Anh Ba tui hỏi : "Sao, Ki, thằng Vện
nó chịu cấp dưỡng cho mẹ con mầy không ?". Cả nhà xúm
lại cười rân. Con Ki ngớ mặt ra, chắc nó không hiểu tại
sao cả nhà xúm lại cười nó, nhưng mặc, nó không quan tâm,
bây giờ trong mắt nó có lẽ chỉ quan trọng nhứt là "hai
cục vàng" nhỏ xíu đang chòi chòi nhủi nhủi vô lòng
nó bú tí.
Con Tonneau
thấy khỏe mạnh vậy lại chết trước, mà nó bị bịnh
gì kỳ lắm, cả người sưng lên, nhứt là chỗ bộ phận
sinh dục, rồi bỏ ăn mà chết, có lẽ do mẹ nó cả đời
ăn cơm độn khoai mì, mà khổ, thời đó con người còn
ăn độn tới da mặt bủng beo, huống gì chó mèo ! Em gái
nó cầm cự được tới mùa Tết năm sau, nó thoi thóp
mòn mỏi rồi một bữa tắt thở trên tay tui, trên mình vẫn
còn mặc chiếc áo vải do chính tay tui "thiết kế" đặc
biệt đúng size nó với hàng nút bóp đơm dài trên
lưng. Con Ki ngẩn ngơ mấy ngày liền, chắc nó thấy vắng mấy
đứa con lớn xộn rồi mà cứ lẽo đẽo đeo vú mẹ kéo
lết, hay nó nhớ cái dáng rầu rĩ của đứa con gái yếu
ớt, cứ mỗi lần nhảy mũi là đứng xuống tấn bốn chân
rồi hắt xì một cái run bắn mình mẩy, mũi dãi lòng thòng
phát ghê.
Con Ki trở
lại thời kỳ son rỗi ! Anh Ba hay gọi con Ki với chiếc xe Honda SS50 của ảnh
là "chiến hữu". Anh Ba khó tánh nhưng hiền, hay gần gũi
với thú vật chớ không hung dữ như thằng Út lúc bị vướng
chân là nó quạu quọ đá phóc một cái khiến con Ki kêu
hự một tiếng khi rớt xuống đất. Trước khi anh Ba gặp nạn mấy
ngày, tự nhiên con Ki cứ tru suốt. Má tui sợ lắm, vừa đe nẹt
con Ki vừa cầu Trời khấn Phật, nhưng cái gì tới là tới
làm sao tránh được. Anh Ba không có nhà, chiếc xe Honda của
ảnh cứ bị dòm ngó suốt nên chị Tư đem bán rẻ cho
một người quen. Khi ông đó tình cờ chạy ngang, nghe tiếng xe,
con Ki đang ngủ lơ mơ bỗng ngồi vụt dậy vẫy đuôi lia lịa,
miệng rít lên ư ử cuống quít. Khi chiếc xe vụt qua và con Ki
chợt nhận ra người ngồi trên xe không phải anh Ba, nó thất vọng
nằm dài xuống, đầu đặt lên hai chân trước, mắt buồn
bã xa xăm. Nhà bốn năm con chó giữ trại, sao chỉ mình con Ki
là để ý chờ anh Ba về ?
Nhưng anh Ba mãi mãi không về, con Ki lúc đó cũng già
yếu lắm rồi. Không biết có phải trùng hợp ngẫu nhiên,
nó chết đúng một tháng sau khi nhà tui hay tin anh Ba chết oan nghiệt
nơi xa. Tối đó thấy nó tệ quá - bỏ ăn nhiều ngày
ốm rạc, mũi khô xám, mắt dại - Má tui vừa nói vừa khóc
hu hu: "Chắc con Ki sắp đi theo anh Ba tụi bây rồi". Chị Tư nói:
"Thằng Út bỏ đi chơi hoài, không có nó ai chôn con Ki !
Mà biết chôn ở đâu bây giờ ?" Má chép miệng: "Thôi
chôn nó gần bụi tre đi". Bạn tin được không, sáng sớm
hôm sau không thấy con Ki trong nhà, ra kiếm khắp rẫy, mới thấy nó
nằm chết chèo queo ngoài bụi tre tự bao giờ, mắt mở trừng trừng,
bộ lông xơ xác ướt nhẹp hơi sương... Cả nhà đã
khóc anh Ba cả tháng rồi, giờ tới khóc con Ki... Nó chết mà
mắt mở trừng trừng, phải chăng vẫn nhớ về một thời vang bóng
với tiếng sủa ông ông oai hùng trong ngôi biệt thự mênh mông
ở Sài Gòn, hay nó vẫn mỏi mắt trông anh Ba tui về, người
hay vỗ đầu nó nói chuyện, cười khà khà và gọi nó
là "chiến hữu" ?
Mùa
mưa năm sau, bụi tre Mạnh Tông nơi chôn con Ki đột nhiên tươi
tốt dù thằng Út rất lười dọn gốc. Những mụt măng nhung
nâu mập mạp nhú lên chen chúc hết đợt này tới đợt
khác. Tui xắn măng đem về Sài Gòn biếu mấy Thầy trong Đại
học Tổng Hợp giáp vòng vẫn chưa hết măng. Con Ki cả đời
giữ rẫy đắc lực, tới chết cũng còn có ích, mà tội
nghiệp, nó lỡ sống vào cái thời cả nước đói khổ,
người còn không có cơm ăn, phận chó ra gì ! Có lẽ
kiếp trước nó nợ nhà tui chăng ?
3. Sứ giả thưởng thiện phạt ác
Ờ quên, để tui
kể bạn nghe chuyện con Ki từng làm trợ thủ nhiệt tình cho tui trong
việc "thực thi công bằng xã hội". Chuyện là vầy, ngày
nọ có anh bạn của anh Ba tui ghé chơi, đem theo con gà nòi lông
xám. Anh này vốn là kỹ sư công chánh, sau 75 đi... buôn gà,
rồi rẽ qua buôn gà đá. Nghe ảnh ca tụng con gà đang ẳm
trên tay có nhiều tướng quý mà phát ham, nào là con "Tướng
Quân" này là con "thần kê", có tướng "lắc mặt
né chuồng", nào là tướng "lục đinh" mỗi chân ba
cựa... Không biết thần kê ra sao, nhưng vừa vô sân là nó
lắc mặt lia lịa, mắt láo liêng thấy ghét, hai cánh khuỳnh khuỳnh
xệ xệ ra vẻ ta đây, lông thì có mấy cọng để lộ
ngực và hông đỏ au giống y một gã cao bồi vườn mặc
áo chim cò bỏ nút ngực.
Buổi tối nghe anh đó nói chuyện với anh Ba ca tụng giống gà
nòi anh hùng quá trời, tui nghe chướng tai nhưng không dám tranh cãi,
sợ bị rầy con nít nói leo. Hôm sau anh đó về Biên Hòa,
chẳng biết sao gởi lại con Tướng Quân cho anh Ba nuôi giùm vài
tháng. Trời đất ơi, gà chiến mà để lại đây ăn
chơi trác táng nhất dạ đế vương với vài chục em gà
mái hơ hớ kiểu này một thời gian chắc không liệt bại cũng
gối mỏi chân chồn!
Tui
chờ khách về, hậm hực nói với anh Ba :"Em có thấy gà
đá anh hùng chỗ nào đâu, khi một con gà lâm trận, đó
là nó đánh lại một địch thủ không quen biết không
thù hận, chỉ vài cái chớp mắt là cái cựa của nó
đâm trúng mắt hay xuyên cổ. Nó không có trí khôn bị
người ta xúi giục giết hại đồng loại, giết hại anh em, sao
gọi là anh hùng? Nếu "hiếp dâm ngôn từ" mà gọi là
"dũng" thì đó là chỉ cái dũng của kẻ thất phu!".
Anh Ba tui cười hì hì : "Con gái hay lý sự coi chừng sau này
bị ống chềđó nghe!". Kệ, ống chề thì ống chề,
trung ngôn nghịch nhĩ mà!
Con Tướng Quân mới về đã đi một vòng cà khịa
với con gà trống của tui trong sân, và vì nó là tay gà chiến
nên con gà trống của tui đá thua chạy có cờ. Từ đó
nó trở thành Tần Thỉ Hoàng làm chủ đám tam cung lục
viện, con gà trống của tui dám hó hé xáp lại gần con gà
mái nào là nó chạy đến đá cho trối chết. Tui ngứa
mắt lắm rồi, vì vốn ghét quân cướp có "pa tăng"
(môn bài), nhưng phải tới khi một chuyện quá bụng xảy ra lúc
anh Ba không có nhà, tui mới quyết định trừng trị nó đích
đáng. Số là con gà mái trắng Snow của tui đang ấp một
ổ trứng gần nửa tháng rồi, mà nó ham ấp quá đến
bỏ ăn, đem lúa tới tận miệng, nó chỉ mổ vài cái
lấy lệ rồi lăng xăng lấy mỏ trở trứng dưới bụng. Một
bà mẹ tuyệt vời!
Qua
tới tuần thứ ba, nó lỏng khỏng nhảy xuống sân chạy lại
máng tìm nước uống, dáng đi yếu ớt nghiêng ngã. Chợt
con Tướng Quân ở đâu xồng xộc nhào tới đạp mái.
Gà mái đang ấp đâu bao giờ chịu trống nên Snow xù lông
cự lại. Tui chưa kịp chạy ra can thiệp thì pặc! bằng đôi
chân gân guốc của một thằng lỗ mãng vai u thịt bắp, con Tướng
Quân quất một cú đá như trời giáng vào đầu khiến
con gà mái khốn khổ tội nghiệp ngã lăn ra đất giãy đành
đạch. Ôi ôi đau lòng! Phẫn nộ! Giọt nước tràn ly! Tức
nước vỡ bờ, tui hét lên một tiếng: "Ki !" (chắc lúc
đó nhìn mặt tui thấy ghê lắm, có lẽ là mắt trợn
trắng lông mày dựng ngược như Trương Phi thét quân Tào
Tháo ở cầu Trường Bản), và quăng cục đất về phía
thằng gian ác, lúc này đã biến thành nạn nhân khốn khổ
kêu trời không thấu, chỉ còn nước cục ta cục tác la làng
chạy vắt giò lên cổ.
Con Ki khỏe thiệt, nó rượt con gà chạy băng đồng, xa xa
thoáng thấy Tướng Quân la éc một tiếng, bay vụt lên, con Ki hăng
tiết phóng vọt lên theo, táp phập một cái, hụt, lông phao câu
Tướng Quân bay tứ tán, ôi ôi đã thiệt! Tui khoái chí
quá, lại thấy con mái trắng hồi tỉnh cục cục trở vô chuồng
ấp lại, nghĩ trừng phạt vậy đủ rồi nên ra lệnh thu quân:
"Ki, thôi!". Con Ki đang hứng chí phóng bạt gió, nghe tui kêu,
nó thắng lại cái két đứng ngơ ngác giữa cánh đồng
lau : một bên là bại tướng chạy thục mạng, một bên là
bổn phận phục tùng... Nó đắn đo vài giây rồi lon ton ngoan
ngoãn chạy về, nằm thở hồng hộc nơi thềm nhà. "Giỏi
đa Ki, để tao đi kiếm đồ ăn thưởng cho mầy". Còn thằng
tướng cướp hèn nhát chuyên hiếp đáp kẻ yếu đuối
thì sợ xanh máu mặt, cứ thơ thẩn mãi ngoài rẫy khoai mì,
tới chiều sẫm mới dám lỏn lẻn về chuồng.
Tui dặn thằng Út với con Chi con chị
Hai giấu anh Ba chuyện này, cho tới khi ảnh trả con gà về cho bạn
ảnh ở Biên hòa và bữa nọ cho hay: "Thằng T nó nói con
Tướng Quân tự nhiên bị "rót", không còn chiến như
trước nữa". Thằng Út buột miệng: "Chắc tại chị Năm
cho con Ki rượt nó chạy sút quần hôm trước đó". Anh
Ba đang nằm võng ngồi nhổm dậy liền: "Ủa sao vậy Như?"
Tui tỉnh bơ: "Tại nó hiếp người quá đáng. Có sứ
giả thưởng thiện phạt ác ở đây thì bọn gian ác
đâu có đất sống". Anh Ba tui lắc đầu phì cười:
"Thiệt hết biết cái con này !".
Chắc bạn cũng đang cười tui phải không? Ờ,
đã có một thời tui luôn ước ao được trở thành
một nhân vật huyền thoại nào đó, Batman, Spiderman hay Superman gì
đó, để đi trừ gian diệt bạo cứu giúp kẻ yếu. Nhưng
bi kịch là tui và gia đình lại trở thành những nạn nhân
khốn khổ thân cô thế cô. Do vậy tui đã chảy nước mắt
ròng ròng khi hay tin Christopher Reeve, người đóng vai siêu nhân mới
chết gần đây sau bao nhiêu năm ngồi xe lăn vì té ngựa chấn
thương cột sống. Tui khóc vì nghĩ tui có khác chi anh chàng
sống mũi thẳng vút và cặp mắt xanh biếc này đâu, là
một kẻ tàn phế từng đóng vai siêu nhân, dù chỉ là
lấy lại sự công bằng cho con gà mái tội nghiệp !!!
Trần
Cẩm Quỳnh Như
SG,
Tết Canh Dần (2010)
QUỲNH NHƯ
.
GIỌT LỆ
VÀ NỤ CƯỜI
"Buổi chiều đến bông hoa khép những cánh lại và yên
ngủ, ôm ấp nỗi hoài mong. Khi buổi sáng đến, nó hé môi
để đón nhận nụ hôn của mặt trời. Đời sống của
một bông hoa là mong mỏi và thành tựu.
Một giọt lệ và một nụ
cười".
(Kahlil Gibran)
Trước
khi kể chuyện Tư Ếch đi họp bạn, xin cho QN gởi lời xin lỗi đến
quý Thầy và tất cả các bạn vì sự chậm trễ của
mình. Vì trong ngày nhiều lần bị làm mệt nên con trai không
yên tâm khi để mẹ đón xe đi một mình, nó có buổi
họp bất thường trong công ty, nhắn về tới ba lần "con sắp
về" mới thấy nó xuất hiện. Trời ơi mình ở nhà nóng
như lửa đốt, phần sợ vô phép với mấy Thầy, phần sợ
Đại Tỷ mắng, phần sợ bạn bè phiền... QN rất xin lỗi.
Bước vào nhà hàng, đường vô chỗ các bạn
phải băng ngang qua một sân khấu nhạc sống, nhạc bùm bùm rầm
rầm làm bủn rủn chân tay, tôi quíu chân ôm ngực chạy qua
như Tào Tháo chạy trận Xích Bích, mắt cập bà lờ kịp
nhìn thấy bạn Thân bạn Lưu từ xa, ôi ôi mừng húm. Có
ai đó la lớn "Nó kìa!" (cũng may không nghe la thêm: Đứng
lại, không được chạy!). Đại tỷ chạy ra ôm cái tình
thương mến thương, rồi tôi chạy liền tới xin lỗi mấy Thầy,
ôi đã quá nhiều năm không gặp, nhìn mấy mái tóc
trắng như cước mà nao lòng, chợt nhớ mình đã ngót
nghét sáu bó rồi chớ nhỏ nhít chi!
Ảnh chụp tại Sài Gòn
22/4/2015
Đứng, từ trái: Ngô thiện Trung, Ngô thị
Trường Xuân (12C 72-73), Nguyễn văn Đức, Ngô thị Loan Anh, Vũ văn
Thân, Bùi thị Thanh Phước, Nguyễn minh Quang, Lê thị Lan Chi, Trần Cẩm
Quỳnh Như (Các năm đầu học ĐTĐ, năm cuối học
lớp 12C PTG, em của thầy Trần tuấn Duệ), Nguyễn sĩ Ân, Trương
hữu Điều và bạn Nguyễn văn Lưu. Tất cả là CHS 68-75, trừ CHS Trường Xuân.
Ngồi:
Quý Thầy: Võ Hiếu Nghĩa, Trịnh Tri Tấn, Phạm Khắc Trí
Chụp ảnh, chụp ảnh, ai cũng giơ điện
thoại lên "tác nghiệp" rần rần. Tôi la "Kata chụp cho mẹ
với!" Trời đất ơi nó không thèm đếm xỉa gì tới
mình, mà chạy tới bắt chuyện với Mark, bạn của Trung. Về nhà
tôi rầy, nó cười hè hè: "Mẹ ơi thôi mấy Cậu
mấy Dì chụp cũng dư xài, trong sở con tụi Ấn Độ, Nga, Ukraina,
Yougoslavia nó phát âm tiếng Anh trời ơi đất hỡi, tụi nó
tuôn pằng pằng như súng AK không cần mẹo luật, nên con rất
muốn nói chuyện với một người Mỹ... thứ thiệt coi sao!" (Cho
nên bài viết này không có hình minh họa, các bạn chịu
khó qua nhà của mấy bạn khác coi hình nha).
Một vòng chụp ảnh xong là tôi ngồi xuống run lẩy bẩy
lấy thuốc giọt trợ tim ra uống liền, trái tim yếu ớt không chịu
nổi sự xúc động và vui mừng quá lớn. Tư Ếch tôi cả
đời ở nhà cơm nước dạy học và sống yên vui với...
bịnh tật, như con lươn ngàn năm ngóc mỏ lên khỏi mặt
bùn, ôi không khí choáng ngộp tưởng không thở nổi...
Cám
ơn các Thầy đã tuổi già sức yếu nhưng vẫn có mặt
gần như đầy đủ để hội ngộ với các học trò
già. Cám ơn lắm Thanh Phước đã tạo cơ hội ngàn vàng
cho tôi gặp lại đầy đủ Thầy bạn mà không phải vượt
đường xa vạn dặm, cảm ơn tình cảm của Đại tỷ Trường
Xuân và tất cả các bạn có mặt chiều qua!
Về tới nhà, biết
tật, uống một viên Night Queen trước khi đi ngủ vì thừa hiểu
những tình cảm căng tràn trong tim và hình ảnh tràn ngập trong
đầu chắc chắn sẽ quấy quả mình cả đêm trắng. Mười
hai giờ khuya, mắt vẫn trao tráo như đèn pha. Nhớ nụ cười
tươi tắn của Thanh Phước, Lan Chi, Loan Anh, nhớ cái ôm ấm áp
của Đại Tỷ, những cái bắt tay nồng hậu, những lời thăm
hỏi ân cần của các bạn nam.
Nhớ thầy Trí nắm tay gọi mình
là "cô bạn thơ yêu quý của tôi" và bảo "Tôi
đi hôm nay là vì cô đấy"; nhớ thầy Nghĩa với nụ
cười phúc hậu, mái tóc trắng xóa trái ngược với
hình ảnh tay cầm điện thoại chụp hình nhoai nhoái; nhớ thầy
Tấn vẫn rất minh mẫn khi tôi tới chào: "Thầy ơi Thầy còn
nhớ em không, em Quỳnh Như em anh Duệ nè", Thầy cười khì:
"Sao tui có thể quên được, tui có ghé nhà em một lần
để đưa hình anh Duệ cho em nữa mà, giờ em còn ở chỗ
cũ không?". Ôi trời Thầy giỏi thiệt, Thầy vẫn nhớ đủ
dù một lần tai biến đã làm cho gương mặt Thầy thoáng
nét trầm ngâm mệt mỏi và Thầy nói chuyện có phần chậm
rãi hơn xưa. Ôi thời gian! Thầy Tấn ngày nào với nước
da bánh mật, sống mũi cao ngất, dáng đi nhanh nhẹn và nụ cười
tươi tắn có duyên pha chút châm biếm. Tôi còn nhớ hồi
đó có lần vừa bước vô lớp Thầy đã chỉ ngay choc
bạn Vương Thúy Phượng và hỏi :"Sông gì nước chảy
chia đôi?". Phượng còn đang ngơ ngác thì Thầy cười
nói: "Tui không hỏi ai khác, tui kiếm người trong ban Văn nghệ
mới hỏi, mà bộ cô không biết "Nhà Bè nước chảy
chia đôi hay sao?"...
Có bạn nào nói chụp hình, chụp hình, mai
mốt biết đâu chẳng còn đầy đủ được như vầy.
Tỷ la quá, không cho nói vậy, tỷ nói tao còn yêu đời
lắm nghen bây...
Hai giờ rưỡi, bò ra uống viên thuốc ngủ thứ hai, miệng
thì Om Ma Ni Pát Mê Hùm tía lia nhưng cái đầu tâm viên
ý mã chạy ào ào rần rần qua những cánh đồng ký
ức đầy cỏ hoa...
"Thầy đi dự nhiều cuộc họp mặt PTGDTD, nhưng
đây là lần Thầy vui nhất. Hôm nào Thầy sẽ tới thăm
vợ chồng em", nhớ lời thầy Trí nói.
Nhớ lúc ra về, bắt
tay bạn Trung, "Bạn về bình an nhen" mà lòng cũng thoáng buồn
dù mới gặp bạn ấy lần đầu...
Nhớ câu chuyện "gia đình
văn hóa" của bạn Sĩ Ân.
"QN tới được là quá tốt
rồi", Đức nói vậy.
"Your mum's presence is priceless", Mark nói với Kata.
"Chộp
được hình con QN để đưa lên phây là tao khoái gồi",
Loan Anh vừa nói vừa cười hí hí...
Một giọt nước mắt chảy
xuống gối, không phải vì trái tim tội nghiệp đang loạn nhịp,
không phải vì cái lưng đau nghiến, không phải vì bao tử
đang đau oằn, cũng không phải vì mấy cái tĩnh mạch căng
tức muốn bung hai chân, mà vì những tình cảm nồng ấm của
Thầy của bạn, thứ hạnh phúc tôi thoắt tìm được gần
mãi cuối đời.
Ba giờ sáng, tôi đã đi vào giấc ngủ nhẹ
nhàng, với nụ cười, và giọt lệ.
Trần Cẩm Quỳnh Như
23/4/2015