TƯỞNG NIỆM
THI SĨ KIÊN GIANG
1929-2014
Thi sĩ, ký giả
Kiên Giang, soạn giả tuồng cải lương Hà Huy Hà, tên thật
Trương Khương Trinh sanh 17-2-1929 tại Rạch Giá đã trút
hơi thở cuối cùng lúc 18 giờ ngày 31-10 tại Bệnh viện Nguyễn
Tri Phương, thọ 86 tuổi, được an táng tại Nghĩa trang Bình
Dương, xã Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
______________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
.
Anh Tú, Đông
An, Lê Trúc Khanh, Trần Bang Thạch, Huyền Vân Thanh, Nguyễn Văn Sâm :
Anh Về Với
Đất
-Kính viếng
hương hồn Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà
Tám chục năm hơn sức chán
chường
Giã-từ
bè bạn với văn-chương
Nơi tiên cảnh một mình cô quạnh
Cõi trần-gian vạn kẻ
nhớ thương
"Hoa
Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím"*
Tiếng thơm còn vướng với tơ vương
Vài dòng thô thiển
buồn đưa tiễn
Một đấng tài-hoa theo khói hương!
Anh Tú
November 1, 2014
*Thơ Kiên Giang
KIẾP
TẰM NHẢ TƠ
(Kính Dâng Lên Hương Hồn
Thi Sĩ KIÊN GIANG - HÀ HUY HÀ)
Trong phút chốc
người trở về cát bụi
Hạt mưa buồn
giăng kín khắp không gian
Mùi hương
cau bàng bạc cõi mông lung
Cánh hoa trăng
dịu dàng rơi tản mạn
Áo tím chập chờn kinh cầu khẻ nguyện
Cài lên đây cành hoa trắng mong manh
Góc giáo đường lầu chuông rưng rưng đổ
Gọi hồn ai, giục giả tiếng chuông ngân
Mối
tình thơ chở áo tím băng trinh
Con gió
đung đưa làn khói bềnh bồng
Hai bóng
nhạt nhòa lung linh mờ ảo
phía nhà thờ
xưa, trên nóc giáo đường
Làn khói trắng bay về nơi chốn xa
Ngậm ngùi thăm xóm Mẹ những ngày qua
Hàng cau trước ngõ gầy xao xác
Nhịp võng buồn hiu Mẹ hát ru hời
Cuộn
khói trắng hoàng hôn sầu rắc lá
Nghiêng
bóng mờ ôm sóng áo Mẹ hiền
Giọt
nắng chiều rơi rụng xuống lênh đênh
Mẹ
sàng gạo đơn côi miền quá khứ
Hương khói trắng mang mùi thơm ngây ngất
Hương nước mưa, hương tóc lẫn vào nhau
Mặc thói đời dời đổi khát khao
Theo chân ngoại lượm mù u thắp sáng
Chuyến
tàu cuối chuyến tàu đời chia biệt
Mà
tình đời là những chuyến tàu qua
Chiếc cầu tre nối đôi bờ không lạ
Đồng
tiền duyên- cầu gụt gãy giữa dòng
Lượn sóng tiền ngã nghêng cùng chiều gió
Khói lá bay xa vút tận trời cao
Tiền và lá một con đường hai lối rẽ
Nên nhịp cầu duyên tan vỡ gập ghềnh
Kiếp
tằm nặng nợ duyên thơ
Hoàng hôn lịm
tắt sương mờ thiên thu.
Saigon, ngày 6 tháng 11 năm 2014
Đ.A.
LÊ
TRÚC KHANH
_____________________________________________
CẦN THƠ VÀ MỘT MỐI TÌNH THƠ.
Có thể nói không quá lời, giới trẻ
các thành thị miền Nam trước năm 1975, hầu như ai cũng ít
nhất một lần nghe, thuộc , những câu thơ đầy xúc động
:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con giữa màu hoa trắng,
Cứu rỗi linh hồn con- Chúa ơi!
Đây là đoạn cuối trong bài thơ " Hoa trắng thôi
cài trên áo tím" của nhà thơ Kiên Giang-Hà huy Hà.Trái
tim thơ mộc mạc, chơn chất nhưng cũng hết sức trong sáng hồn
nhiên đó đã gửi lại cho đời chuyện tình buồn mà
đẹp với một người con gái đất Tây Đô.
Ngày 31/10/2014, trái tim ấy đã ngừng
đập vĩnh viễn - thêm một tài hoa Nam Bộ giã biệt cõi nhân
sinh.
Xin một lần trở về con đường
tình yêu thời học trò để cùng gặp lại Kiên
Giang-Hà Huy Hà với Cần Thơ - và một mối tình thơ.
Từ
những năm đầu thế kỷ XX, Cần Thơ - một phần đất
của Nam Kỳ lục tỉnh- chính quyền Pháp đã mở nhiều
trường Trung học để đào tạo một lớp học sinh có trình
độ cao hơn các bậc Tiểu học đã xây dựng từ trước
đó. Một trong những trường trung học đầu tiên ở vùng
sông Hậu là trường College de Can tho, được xây
dựng từ năm 1917.Đây là trường trung học duy nhất dành
cho toàn thể học sinh thuộc các tỉnh miền Tây. Điều đó, đã tạo cho Cần Thơ
trở thành nơi hội tụ của nhiều thế hệ học trò từ
Long Xuyên , Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu cho đến Rạch Giá
, Cà Mau.
Nhưng do điều kiện trường lớp thời bấy giờ, nên không
phải anh học trò nào cũng có may mắn được ngồi trong ngôi
trường công lập Cần Thơ. Chính vì thế , thêm một hệ
thống trường Trung học tư thục ra đời để đáp ứng
nhu cầu học tập của học sinh. Trường tư thục Nam Hưng hình
thành trong hoàn cảnh đó. Đây là một ngôi trường
nhỏ , nằm ở gần cuối
đường Phan Đình Phùng. Khoảng thập niên 60 thế kỷ trước,
trường mang tên khác là tư thục Tân Văn. Từ sau 1975,
cơ sở trường có lúc sử dụng đề làm trường
Bổ túc Văn hóa TP Cần Thơ và hiện nay, địa điểm nầy
là UBND Phường An Lạc, Quận Ninh Kiều -Thành phố Cần Thơ.
Năm 17 tuổi, anh học trò Trương Khương Trinh (tên thật của Kiên
Giang) rời vùng quê Rạch Giá lên Cần Thơ học lớp đệ
nhị ( tức là lớp 11 hiện nay ) ở Trường trung học tư thục
Nam Hưng. Vốn là người có hoa tay: vẽ vời và viết chữ rất
đẹp nên anh được nhà trường giao thực hiện một
tờ bích báo lấy tên là Ngày xanh. Lúc đó, hầu
như các tờ báo tường đều được viết bằng tay. Cô bạn học trò Nguyễn
thị Nhiều viết chữ rất đẹp trở thành người luôn
gắn bó cùng anh Trinh trong những buổi họp nhóm làm báo.
Hai người bạn trẻ quí nhau vì tài, mến nhau vì sắc,
nên qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói... đã gởi cho nhau
trọn cả tâm hồn . Thế nhưng, tình yêu ấy mãi mãi
là một mối tình câm, như hai đường thẳng song song
không bao giờ gặp. Anh học trò Trinh chỉ lẽo đẽo theo sau cô bạn
gái trong những lần cô đi lễ nhà thờ. Nhà cô Nhiều
ở xóm đạo Cần Thơ trong gia đình Công giáo.
E lệ em cầu kinh nhỏ nhỏ
Thẹn thùng anh đứng lại không đi.
.
Cứ như thế, hai con người- một mối tình lặng thầm bên nhau
cho đến Cách mạng tháng 8/1945. Anh Trinh về quê tham gia kháng Pháp,
ngậm ngùi chia tay Cần Thơ và cô bạn học mà không có
một lời hứa hẹn. Thế mà khi anh học trò nghèo ngồi ở
bến xe Cần Thơ đợi chuyến thì cô bạn học đã gửi
cho anh tiền xe mà chắc chắn trong đó, có cả trái tim mình.
Bãi
trường tết không tiền về xứ
Ngồi bến xe khuya ngóng bạn bè
Em lén trao anh tiền bỏ ống
- Nè anh lấy đỡ chút tiền xe..
Lửa khói chiến tranh đã ngăn cách cả hai từ những
năm dài biến động. Anh học trò xưa theo kháng chiến và
lập gia đình . Trong khi đó, anh không hề hay biết, suốt những
năm dài đen tối của quê hương, khi "Mùi diêm thuốc
súng hòa hương khói- Chuông vọng niềm đau khóc thái bình", thì cô Nhiều vẫn lặng lẽ chờ
ai...
Sau nầy, chính nhà thơ Kiên Giang tâm sự :
Bài thơ"Hoa trắng thôi cài trên áo tím"
là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái
có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm
bụi trần. Năm 1944, tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam
Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận, chuyên làm bài giùm cho bạn
cùng lớp, trong đó có NH - cô bạn dễ thương thường
mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi
tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm
nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về
quê, NH. biết ý gửi cho, rồi tôi đi kháng chiến, gặp người
quen trong đội quân nhạc nhắn : ‘"Con Tám NH. vẫn chờ mày".
Điều xót xa (sau này mới biết) là trong những tháng ngày loạn
lạc đó, Nhiều vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Năm 1955, nàng
quyết gặp mặt tôi một lần rồi mới lấy chồng. Tình cảm
cứ ám ảnh tôi khôn nguôi. Tôi đưa hình ảnh và tâm
sự của hai đứa vào bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo
tím, làm tại Bến Tre năm 1958. Sau tôi nghe tin NH. lấy chồng
có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi
và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý
do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống
tiễn mối tình học trò trinh trắng.
Từ lâu, những người thường xuyên
tiếp xúc với Kiên Giang - Hà Huy Hà biết có một
Thi sĩ Kiên Giang mừng Sinh Nhật 81 (với các nghệ sĩ
Hương Lan & Hồng Vân)
con người thật ngoài đời tạo nên chất xúc tác để
nhà thơ sáng tác nên bài thơ tình trên. Nhưng mãi đến
ngày mừng sinh nhật 81 tuổi, chính Kiên Giang - Hà Huy Hà mới công
bố trước nhiều người bức di ảnh của người yêu cũ.
Gọi là người yêu cũ nhưng tình yêu đó trong ông không
hề tàn phai bởi nó đã theo ông từ thời thanh niên đến
tuổi xế chiều. Và người nữ trong "Hoa trắng thôi cài
lên áo tím" mãi mãi là tình yêu trong sáng, đẹp
đẽ nhất đời ông. Đó là một cô gái Cần Thơ
tài hoa, ngoan đạo, nhưng cuộc đời cũng không kém long đong.
Con đường Phan Đình Phùng - một
trong những con đường xưa nhất nằm ở trung tâm thành phố
Cần Thơ. Thời gian đã in rõ dấu ấn đổi thay, xóa mờ đi những vết tích một
thời. Cuối đường, nằm bên tay phải là UBND Phường An
Lạc. Nơi đây , đã từng có một ngôi trường tư thục,
để từ đó anh học trò thi sĩ mang tới cho đời những
dòng thơ ngọt ngào mà đầy nuối tiếc. Đến ngã ba cầu
Xéo, thêm một đoạn đường ngắn là đến nhà
thờ Chánh Tòa uy nghi, trầm mặc. Qua nhiều lần trùng tu, ngôi giáo
đường cũng có nhiều đổi thay, nhưng gác chuông nhà
thờ- dù đã không còn ở vị trí cũ- vẫn gợi
trong lòng ta hình ảnh một thời. Ta liên tưởng anh học trò năm
40 thế kỷ trước đứng bâng khuâng khi chợt trông thấy dáng
cô bạn gái với chiếc áo bà ba trắng vừa qua khuất lầu
chuông:
Thuở ấy anh hiền và nhát quá.
Nép mình sau gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẻ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường.
Bên cạnh nhà thờ, là con hẻm nhỏ dẫn vào nhà cô học
trò xưa. Xóm đạo bình yên, nay đã rộn ràng hơn, cửa
nhà san sát. Nhưng mấy ai biết được nơi nầy đã khởi
đầu cho một mối tình thơ ?
Tôi lại trở về đây, khi Kiên Giang đã vào cõi trường
sinh- căn nhà nhỏ trong hẻm nhà thờ- nơi có một cô
gái Cần Thơ đã tạo nguồn rung cảm cho một bài thơ bất
tử. Hai đứa con của người trong cuộc giờ đã thành nhân,
ngôi nhà cũng đã sửa sang lại khang trang, đẹp đẻ hơn
nhiều, so với cái thời Kiên Giang " ghé ngang Cần Thơ, xin phép
má của NH. để tâm tình suốt đêm với NH. bên ánh đèn
dầu". Nhưng cũng chính nơi nầy, sau năm 1999, nhà thơ nhiều
lần trở lại để hoài niệm người xưa. Tôi không
quên được, những lần cùng anh tới viếng người đã
khuất. Anh thường ngồi yên lặng nhìn lên chân dung người
đã mất sau làn khói hương nghi ngút. Những người con
của chị là giáo viên- rất hiền hành, mực thước, rất
quí trọng nhà thơ và gọi anh là cậu. Một điều cũng
rất lạ là tên anh em trong gia đình đều bắt đầu bằng
vần Tr..( Ba của các em cũng có tên Trinh, giống như tên nhà
thơ Kiên Giang).Có phải chăng từ một góc sâu thẳm
trong trái tim người con gái xóm đạo vẫn là nỗi hoài
niệm khôn nguôi về một mối tình thời học trò thơ dại?
Kiên Giang còn kể lại, đầu năm 1999 Hãng phim truyền hình
TP.HCM (TFS) thực hiện một bộ phim tài liệu về ông mang tên "Chiếc
giỏ đời người", trong kịch bản có một cảnh quay
tại Cần Thơ. Khi ông và ê kíp làm phim đến nhà "người
xưa" mời bà Nhiều ra quay cảnh ở nhà thờ Chánh tòa thì
thấy ngôi nhà đóng kín cửa. Người hàng xóm cho
biết bà Nhiều đã qua đời năm 1998. Ông thật xót xa... Hôm
sau ông trở lại, cô con gái của bà Nhiều kể rằng lúc
bà mất, tang gia có gửi thiệp báo tin cho ông nhưng tiếc là
ông đã không nhận được để tiễn biệt cố nhân
lần sau cuối.
Và tất cả đã đi vào thiên cổ. Nhà thơ quê Rạch
Giá với mối tình thời thơ dại, thấm đẫm chất nhân
văn -đã làm rung động hằng triệu con tim khi nhắc về cô gái
Cần Thơ tài hoa, thùy mị, nết na qua một bài thơ để
lại cho đời.
Yêu Cần Thơ, ta
càng yêu biết bao nhiêu những con đường quen thuộc, con đường
qua ngang mái trường yêu dấu, con đường nhỏ dẫn về xóm
đạo, hay đó là con đường học trò hoa mộng mà mỗi
chúng ta chỉ có một lần qua không trở lại bao giờ...
Cần Thơ, 2/11/2014
LÊ TRÚC KHANH.
TÔI
GẶP THI SĨ KIÊN GIANG
(để thay lời tiễn biệt Người
đang cởi hạc về trời)
Khoảng cuối năm 1965 khi vừa chân ướt chân ráo
"du học" Sài Gòn tôi được làm phóng viên cho
nhựt báo Thời Đại qua thư giới thiệu của Cậu Hai tôi với
Chủ Nhiệm Nguyễn Kiên Giang (Lý Thanh Cần) vốn là bạn của
Cậu tôi (nhà sách báo Văn Nhiều). Tại đây tôi
hay gặp thi sĩ Kiên Giang. Đối với tôi, một 1 ngòi bút non
choẹt từ tỉnh lẻ, 1 phóng viên tay mơ thì Thi Sĩ Kiên Giang Trương
Khương Trinh là cây đại thụ, cho nên mỗi khi gặp Thi Sĩ
tại tòa soạn tôi chỉ có thể nhìn lén và nghe lén trong
lúc 2 ông "Kiên Giang Rạch Giá" vừa nhả khói Mélia vàng
vừa chuyện trò toa moa thân mật. Gặp nhau chỉ vài lần và vài
câu chào hỏi nên chắc Thi Sĩ không nhớ tôi là ai đâu.
Tưởng vậy mà không phải vậy. Một tối khoảng đầu
năm 1968, nhạc sĩ Anh Việt Thu (Huỳnh Hữu Kim Sang) ghé phòng trọ
của chúng tôi tại Đại Học Xá Minh Mạng ở ngả
Sáu Chợ Lớn với Thi Sĩ Kiên Giang! Hai người đèo nhau trên
chiếc Vélo Solex cọc cạch của Thu. Quả là rồng tới nhà
tôm! Anh Anh Việt Thu thì ghé chơi với chúng tôi thường (anh
phục vụ ở trạm phát tuyến Phú Thọ, rất gần) nhưng
sự có mặt Thi Sĩ Kiên Giang là bất thường. May là Thi Sĩ
nhận ra tôi ngay nên chuyện trò cũng dễ tuy không thân mật lắm.
Hai người chỉ tình cờ ghé chơi thôi, không có mục đích
gì hết. Có lẽ không mặn mà với câu chuyện của chúng
tôi -Anh Việt Thu, 2 anh cùng phòng và tôi - nên thi sĩ
Kiên Giang ơ hờ thấy xấp báo Chỗ Đứng tôi mới lấy
về từ nhà in, lấy 1 tờ đọc. Thi Sĩ hỏi tôi về tờ
báo, hỏi về ý nghĩa của cái logo hình chữ nhật nửa đen
nửa đỏ trên tựa báo. Tôi nói đây chỉ là
báo cò con của Ban Đại Diện SV/ĐHSP, in chui mỗi tháng có
500 tờ, phát hành trong các khuôn viên ĐH SG và CT. Luôn tiện
tôi mạnh dạn xin bài. Thi Sĩ nói để coi. Cho tới khi chúng
tôi rời trường 1970, Chỗ Đứng chết mà vẫn không có
bài nào của Thi Sĩ. Sau đó cũng không gặp lại Thi Sĩ.
Xin mượn những dòng tuy ngắn ngủi nhưng là
1 kỷ niệm rất đẹp của cá nhân nhỏ nhoi của tôi với
Thi Sĩ Kiên Giang để tiễn biệt NGƯỜI về nơi Vĩnh Cửu.
"Nghe tiếng cu kêu sực nhớ làng"
Câu thơ nầy của Thi Sĩ sẽ theo tôi suốt
những tháng ngày còn lại nơi quê người. Cảm ơn Thi Sĩ
Kiên Giang. Cảm ơn.
Trần Bang Thạch
THI SĨ
KIÊN GIANG
HÀ HUY HÀ
NGƯỜI LÀM THƠ CHO MẸ
và
TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
"Với Kiên Giang thơ
như một thứ vũ khí của kẻ yếu: Vũ khí cũng rất mộc
mạc, thô sơ nhưng thấm đẫm lòng người hơn, gợi nhiều
hình ảnh thân yêu hơn, lên tiếng bi phẫn hơn. Kiên Giang làm
thơ như vậy, một người mang cả tính chất dân Hậu Giang đầy
đủ nhất còn sót lại ngày nay..."
bài của
HUYỀN VÂN THANH
(Văn
Nghệ Về Nguồn - Tây Đô)
Hằng năm, cứ vào tháng Bảy âm lịch, theo truyền thống Phật
giáo và những ai trong gia đình có bàn thờ cúng ông bà
gia tiên, thì đây là mùa báo hiếu, là dịp để cho
những người con cháu hiếu hạnh bày tỏ lòng thành kính
biết ơn công lao sâu dày của các bậc sinh thành và nuôi
dưỡng mình nên vóc nên hình. Biểu hiện hành động
nầy là mỗi người con cháu đến các chùa để tham dự
các chương trình cầu nguyện đặc biệt, gởi sớ cầu siêu
cho người chết và cầu an cho người còn sống; để cho những
người con thảo cháu hiền hồi hướng phước báo cho cửu
huyền thất tổ, ông bà cha mẹ kẻ mất được siêu thăng,
người sống được khoẻ mạnh. Trong dân gian, chúng ta thường
nghe nói đến công lao cha mẹ, mà ngay từ thuở mới đặt chân
đến trường học vỡ lòng, ai mà không nghe dạy câu:
Công
Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ
Mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
(Ca dao)
Thờ Cha kính Mẹ không chỉ nói
suông bằng lời, mà đòi hỏi mỗi chúng ta còn phải biểu
hiện bằng hành động thực tế, bằng tấm lòng sáng trong:
Đêm
đêm con thắp đèn trời
Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.
Bởi vì:
Có Cha có Mẹ
thì hơn
Không cha không Mẹ như đờn đứt dây.
(Ca dao)
Đặc biệt, đối với Mẹ, là
người mang nặng đẻ đau, chín tháng cưu mang, ba năm bồng ẵm
con mình, thì tấm lòng của người con dành cho Mẹ càng sâu
đậm, càng tuyệt vời hơn mới xứng đáng:
Mẹ già
như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau.
(Ca dao)
Và, chính vì tấm lòng của
Mẹ ví như biển rộng bao la, nên trong sáng tác thơ ca, có một
người làm thơ mà tôi được biết, ngoài những bài
thơ tình yêu viết thuở học trò với màu mực tím mồng
tơi, với hình tượng quê hương đơn sơ mộc mạc, trữ
tình, bằng ngôn ngữ thơ ca gắn liền với hơi thở hiền hoà
của quê hương đất nước đồng bằng Nam Bộ Việt Nam.
Biểu hiện rõ nét qua tập thơ thứ hai của anh là QUÊ HƯƠNG
THƠ ẤU (1964) và một số bài trong tập thơ đầu HOA TRẮNG THÔI
CÀI TRÊN ÁO TÍM (Phù Sa SG - 1960)... Còn rất nhiều bài thơ
viết về Mẹ rất cảm động, mà theo tôi, nếu như tác
giả có điều kiện sẽ in trong tập thơ thứ ba mang tên XE TRÂU.
Đó là thi sĩ KIÊN GIANG HÀ HUY HÀ.
Đối
với người sống ở Miền Nam, có lẽ ai cũng một lần nghe nhắc
tới tên thi sĩ KIÊN GIANG - HÀ HUY HÀ, bởi suốt nhiều năm anh
làm báo ở Sài Gòn, phụ trách trang THƠ của các báo,
chẳng hạn TIA SÁNG, ĐIỆN TÍN, PHỤ NỮ DIỄN ĐÀN v.v... ở
mục LỀU THƠ, TIẾNG SÁO DIỀU, và phụ trách chương trình
Thi văn MÂY TẦN trên đài phát thanh SÀI GÒN với câu mở
đầu chương trình thường xuyên: "Người ta có thể
tách bước rời khỏi quê hương, nhưng không thể tách rời
con tim khỏi quê hương được". Anh tên thật TRƯƠNG KHUÔNG
TRINH, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1929 tại làng Đông Thái, huyện An
Biên, tỉnh Rạch Giá. Xuất thân trong một gia đình trung nông,
theo tây học tới năm thứ tư bậc trung học và biết làm thơ
cũng ngay từ hồi ở trường lớp ấy. Khi bước vào làng
thơ, anh từng đăng thơ trên các báo Đời Mới, Dân Mới,
Bông Lúa, Tiếng Chuông, Dân Báo, Lẽ Sống, Thế Giới, Phổ
Thông, Dân Ta, Dân Tiến, Kịch Ảnh ... Ngoài bút hiệu Kiên Giang,
anh còn ký các bút hiệu khác như Cửu Long Giang, Hà Huy Hà.
Thời còn theo bậc Trung học anh sang Cần Thơ ở trọ và học trường
Nam Cường. Chính thời điểm đi học nầy mới nảy sinh trong tâm
hồn anh mối tình hết sức thơ mộng - mối tình mà sau nầy
được anh viết thành bài thơ HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO
TÍM, được phổ thành nhạc từ mấy mươi năm qua. Người
con gái được nói đến trong bài thơ của anh, mà lúc
có dịp về qua Cần Thơ khoảng đầu thập niên 70, anh nói với
chúng tôi là "Cô ấy đã có gia đình và vẫn
còn sống hạnh phúc với chồng con ở hẻm phía sau nhà thờ
chánh toà Phong Dinh". Thời đi học tại Cần Thơ, anh có nhiều
bài thơ tình thật đẹp, chẳng hạn mấy câu trong bài Tình
Trắng:
Xóm Chài ửng nét
duyên thôn nữ
Gió thổi lồng bay áo túi hồng
Cô lái đò ngang
cười chúm chím
Thầm trêu "hàn sĩ" lúc sang sông.
(Kiên
Giang)
Và, chúng ta còn biết đến
anh qua soạn giả Cải lương với các kịch bản được nhiều
người yêu thích như NGƯỜI VỢ KHÔNG BAO GIỜ CƯỚI, ÁO
CƯỚI TRƯỚC CỔNG CHÙA, ĐẸP DUYÊN CHÙA THÁP, NGƯỜI
ĐẸP BÁN TƠ, HỒI TRỐNG HỌC ĐƯỜNG, GÁNH CHIẾU TÀ
NIÊN, HỘI CHÙA THÁNG GIÊNG v.v... Có lần anh nói với tôi,
hai soạn giả Hà Triều và Hoa Phượng so tuổi tác thì chênh
lệch chút ít với anh, nhưng soạn tuồng cải lương thì sau
anh. Kiên Giang cho biết, khi anh viết tuồng thì hai anh Hà Triều và Hoa
Phượng thay nhau chép lại giùm anh thành hai bản khác, bởi vì
hai anh ấy rất yêu thích sáng tác cải lương. Và, hai anh đã
hợp soạn chung vở cải lương hương sắc Phù tang KHI HOA ANH ĐÀO
NỞ mà đoàn ca kịch Thúy Nga trình diễn, Thành Được
thủ vai Tô Điền Sơn, đã đưa hai anh vào hàng tên tuổi
sau nầy. Kiên Giang nhận xét, "Hà Triều có óc sáng tạo
và kết cấu cốt chuyện tài ba, còn Hoa Phượng thì văn chương
trau chuốt, bay bướm như thơ ca, cả hai hợp tác trong viết tuồng
sẽ thành công, khó ai sánh kịp". Và, đã đúng
như vậy, vì như chúng ta nhớ lại ở Miền Nam trước năm
1975, có một lúc hai soạn giả nầy vì một bất đồng đã
tách rời nhau, mỗi người viết tuồng riêng thì... không tìm
đâu kịch bản ăn khách như trước nữa! Bởi vậy, nhắc
tới Hà Triều là phải có Hoa Phựợng và ngược lại.
Nhiều vở cải lương của hai soạn giả nầy nổi tiếng trong nhiều
năm ở thập niên 60-70 tại Việt Nam.
Tôi quen thi sĩ Kiên Giang từ năm 1964, khi chúng tôi lập Văn đoàn
VỀ NGUỒN tại Cần Thơ, sau đó thực hiện chương trình
phát thanh Thi văn VỀ NGUỒN trên đài phát thanh Cần Thơ (từ
1968 -1975), và gởi thơ về chương trình thi văn MÂY TẦN của
anh, được diễn ngâm liên tục trên đài phát thanh Sài
Gòn. Nhưng chính thức gặp được anh vào giữa năm 1965, lúc
đó anh và nhà văn Sơn Nam đang làm việc tại tòa soạn
nhật báo TIA SÁNG ở đường Phát Diệm. Hôm đó, tôi
và Lê Trúc Khanh có dịp đi Sài Gòn ghé tìm anh. Cả
hai biết chúng tôi từ Cần Thơ lên nên đã rời toà
soạn sớm. Anh Kiên Giang đi chiếc xe Lambretta cũ kỹ (thuộc loại cổ,
mà lúc đó tôi có ý nghĩ, có lẽ cả miền Nam chỉ
còn lại duy nhất một chiếc đó mà thôi!). Đề máy
không nổ, anh Sơn Nam đứng phía sau đẩy một đoạn để
lấy trớn, nó mới chịu phun khói và máy kêu bành bành.
Anh Sơn Nam phóng lên ngồi phía sau, ôm eo ếch Kiên Giang, nhắm hướng
Trần Hưng Đạo. Chúng tôi đi xích lô máy theo địa chỉ
của anh ghi, về nhà anh ở một căn trong hẻm nhỏ đường Trần
Hưng Đạo. Anh đã chờ sẵn tại đầu hẻm. Chúng tôi
theo sau anh, đến một căn nhà nhỏ, anh gõ cửa kêu Tài Ba Vá,
là đứa con trai nuôi của anh, năm đó nó chỉ trên dưới
mười tuổi, đầu hớt để ba vá và mặc bộ bà ba
màu nâu già giống chú tiểu trong chùa ra mở cửa. Vào trong,
đồ đạc anh để không gì ngăn nắp, báo chí, bản
thảo vất lung tung. Anh lục tìm cho chúng tôi mỗi đứa một tập
thơ QUÊ HƯƠNG THƠ ẤU. Riêng tập HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN
ÁO TÍM đã hết, anh hẹn có dịp sẽ gởi tặng chúng
tôi.
Năm 1966 tại rạp QUỐC THANH, chương
trình Đại nhạc hội LÒNG MẸ VIỆT NAM đã diễn ngâm
bài thơ dài của anh, mang tên XE TRÂU, được khán giả nhiệt
liệt khen ngợi, và muốn có bài thơ đó, theo anh giới thiệu
sẽ in trong tập thơ cùng tên sắp xuất bản. Ông Tô Yến Châu
đã cho đăng đầy đủ bài thơ nầy trên nhật báo
THỜI SỰ MIỀN NAM để tặng người yêu thơ... thì mãi đến
đầu thập niên 70, một tác giả ở Trà Vinh, ký bút hiệu
Từ Toàn đã lấy bài thơ nầy đổi tựa là GIÒNG
ĐỜI rồi ký tên mình gởi dự thi trên tuần báo HOA TÌNH
THƯƠNG do anh Phương Triều tuyển chọn. Tôi đã lên tiếng
việc đạo thơ nầy, và Toà soạn ngay sau đó đã có
lời xin lỗi thi sĩ Kiên Giang cùng bạn đọc (Báo do Bà Tố
Oanh làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút). Bài thơ XE TRÂU viết về
Mẹ rất hay, ngay mấy câu mở đầu đã gợi chúng ta sự
xúc cảm:
Xe trâu cót két
Cót
két xe trâu
Bánh xe nằng nặng
in sâu lối mòn
Tay cầm
vàm nhỏ
Tay nọ ẵm con
Nắng vàng Xẻo Đước
Con trâu khát nước
Thở dốc từng cơn
Bánh xe nghiền nát cốt mòn
Nát thân không nát nổi hồn mẹ quê...
Tôi có dịp hỏi anh KIÊN GIANG, vì sao anh thường viết thơ cho
Mẹ mà không thấy ca tụng hình ảnh người cha? Anh nói đại
ý, vì hình ảnh của người Mẹ đã in sâu vào tâm
tưởng anh từ thuở nhỏ, Mẹ đã cần cù sớm hôm, bán
buôn tần tảo để lo cho anh ăn học thành người - bà đã
thức khuya dậy sớm đi bán từng cân mắm để mua gạo, dành
tiền cho anh mua tập vở, bánh kẹo. Biết anh mồ côi cha từ rất
sớm nên tôi không gợi lại hình ảnh người cha khi tiếp chuyện
với anh; vả lại, anh còn mẹ già, cho nên anh dành trọn tình
cảm mình để nói về Mẹ là điều hợp lẽ phải và
đạo lý. Anh từng nói, trái tim người Mẹ đúng là
một kỳ quan tuyệt xảo, bao nhiêu lời lẽ ca tụng người Mẹ
cũng không bao giờ đủ đầy, cho nên còn sống là anh cứ
viết về Mẹ, viết để Mẹ anh và tất cả những bà Mẹ
Việt Nam đọc được, hiểu được tấm lòng của những
đứa con được sinh ra và lớn lên bằng chính bầu sữa
nồng ấm, căng đầy nhựa sống mà Mẹ đã ban phát cho
từ khi con mở mắt chào đời. Một trong số những bài thơ mà
thi sĩ KIÊN GIANG đã viết về Mẹ, hiện tôi còn giữ, là
bài thơ KHÓI TRẮNG, xin ghi lại đây tặng các bạn yêu thích
thơ:
KHÓI TRẮNG
* Kính dâng Mẹ
của tôi và của bạn
với tất cả niềm thương kính
Hương cau thơm phức ngôi sao Mẹ
Thơm ngát mái nhà,
thơm áo cơm
Con thở trong mùi thơm bát ngát
Thịt da mái tóc quyện
mùi thơm.
Nước
mắt chảy xuôi... tình mẫu tử
Chảy theo nước mắt cuộn
mồ hôi
Mẹ đem cái chết làm nên sống
Nước mắt một
dòng... vẫn chảy xuôi.
Ngày
xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên xiết Mẹ rầu
lo
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo, giấy
học trò.
Đêm nào
con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mỏi mòn: nhịp võng đưa
Thân lạnh nằm
khoanh lòng Mẹ ấm
Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru.
Nhớ ngày Mẹ ốm nằm trong xó
Chiều lạnh ủ không ấm
vóc gầy
Đau đớn... không hề rên xiết khẽ
Sợ con nghe tiếng
mà buồn lây.
Nói
làm sao hết Mẹ hiền ơi
Công đức, niềm đau lẫn tiếng cười
Mẹ lấy bụi
đời làm phấn sáp
Che dù trời nắng, đội trời mưa.
Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ
Mẹ quét lá vàng
ủ lấy phân
Khói trắng lên trời như tóc bạc
Con ngờ khói tóc
quyện Mây Tần.
Chiều
nay dừng gót trên bờ biển
Nhìn sóng bạc đầu, mây trắng trôi
Con ngỡ khói vườn
hay tóc bạc
Bay tìm con lạc bước đường đời.
Mai
mốt con về thăm xóm Mẹ
Thăm mùa cau trổ, bóng làng xưa
Để rình nghe lại
trong hiu quạnh
Tiếng hát ngày xưa, nhịp võng đưa.
Con sẽ kính dâng lên gối Mẹ
Gói trà tàu, gói
bánh tai heo
Hương
cau lại quyện hai màu tóc
Nước mắt đoàn viên ấm xóm nghèo.
Nguyện cầu Đức Phật và danh Chúa
Rũ đức từ
bi, xuống phước lành
"Mẹ sống muôn đời cùng vũ trụ
Ngôi sao MẸ ngự
giữa thiên đình".
Vũng Tàu, một giờ đêm
13-1-1961
KIÊN GIANG
Một bài thơ khác, bài
SÀNG GẠO cũng nói đến hình ảnh người Mẹ gắn liền
với nhịp thở cuộc đời mà chính anh đã tiếp nhận hình
ảnh hằn sâu đó trong tâm khảm mình :
SÀNG GẠO
Mẹ rắc hoàng hôn theo hạt tuyết
Cám bay phảng phất quyện hương cau
Nghiêng nghiêng bóng xế sau lưng mẹ
Gạo trắng như màu tóc trắng phau.
Thuở
bé về quê ăn gạo giã
Đắng
cay nước mắt trộn mồ hôi
Mùi
thơm gốc rạ thơm hương khói
Con lớn dần theo số tuổi đời.
Từ khi xa xứ lên
đô thị
Tiếng máy rồ
vang át tiếng chày
Cổng kín
tường cao đà khuất lấp
Bóng
người sàng gạo cuối chân mây.
Cái gì còn
lại tràng sàng gạo
Là
hạt kim cương: hạt ngọc trời
Phấn cám bụi đời bay lẫn lộn
Mẹ ơi! Cơm trắng bởi mồ hôi.
Suốt
đời cực khổ, đời làm dâu
Cay đắng chín muồi nỗi khổ đau
Lừa lọc ân tình theo hạt thóc
Trái bồ hòn lẫn hạt trân châu.
Lâu
quá con thèm ăn gạo giã
Thèm
mùi sữa ngọt sữa con so
Thèm
thêm trăng sáng chày khua cối
Làm
rụng Hằng nga xuống tứ thơ.
Chiều nào con đứng bên hàng trúc
Thấy tóc mẹ rơi giữa nắng tà
Tóc trắng mầm chôn trong gạo trắng
Mẹ ngồi nhặt thóc mới hay già.
Cái
thời thơ dại không còn nữa
Cát bụi mù bay khắp nẻo đời
Gạo chợ đã phai mùi gốc rạ
Men đời đắng lắm mẹ hiền ơi!
Lâu
quá: nhốt đời trong ngõ hẻm
Lầu cao che khuất áng mây trôi
Mẹ ơi! đâu hướng về quê mẹ
Nắng giữa hồn con đã tắt rồi.
KIÊN GIANG
Với thi sĩ KIÊN GIANG, tác giả
Trần Tuấn Kiệt trong THI CA VIẸT NAM HIỆN ĐẠI (1880 - 1965 - quyển II)
đã viết:
"Làm thơ, vốn chịu
nhiều thiệt thòi, hiện ông đang gà trống nuôi con, hằng đêm
viết kịch trường, làm thơ, viết kịch phẩm nhưng vẫn quanh
năm không đủ sống. Tâm hồn ông dường như có chứa
đựng nhiều mặc cảm sầu hận, tính thật thà. Có cảm
xúc thật nhanh, tâm hồn đó hướng về xã hội nghèo
khổ, vọng lên những tiếng chua xót của một con chim mang tên
bay khắp trời. Một lần Phạm Công Thiện nói với tôi tại
quán trước nhà KIÊN GIANG. "KIÊN GIANG hắn đúng là thi
sĩ, còn bọn mình làm thơ chứ không là thi sĩ được".
Cái dáng dấp nhiều suy tưởng về hành động của Phạm
Công Thiện, lúc khoái gì thì nói nấy. Lúc hắn viết:
"Hoàng Trúc Ly xứng đáng là bậc thầy của thi nhân ngày
nay". Lúc hắn lại viết về tập NAI của tôi (tức TTK) một
câu "Thơ Trần Tuấn Kiệt lớn hơn thơ Tagore" và bảo in
ngoài trang nhứt câu nói của hắn, hắn sẽ hoàn toàn chịu
trách nhiệm. Nhưng tôi biết khá về tính bốc đồng đó
lắm. Lúc nào hắn tỏ vẻ là nhà tư tưởng (hắn sống
thật với tư tưởng chứ không vẽ vời gì đâu) với
tôi, tức thời tôi tỏ tính bạt mạng ngang tàng ra ngay. Hắn cãi
và rốt lại xin huề. Chúng tôi như vậy, KIÊN GIANG thì lầm
lì, lờ đờ, như rắn hổ... lâu lâu mổ một cái, khó
chịu lắm. Nhưng mổ bọn người vong bản bán nước kìa!...
Có lúc tôi khoái thơ KIÊN GIANG và chép thơ ông, đã
nhiều lần Tam Ích (thầy tôi hồi xưa) bàn tới thơ ông, khen
ngợi cho là có dân tộc tính. Mà thật, bản sắc quê nhà,
nhất là tính tình chất phác, hay giận lẩy, hay lôi thôi, lại
hay mơ mộng, bền bỉ chịu đựng, hơi ruộng rẫy, hơi đất
phù sa đều có trong bản chất thơ ông cả. Với KIÊN GIANG
thơ như một thứ vũ khí của kẻ yếu: Vũ khí cũng rất
mộc mạc, thô sơ, nhưng thấm đậm lòng người hơn, gợi
nhiều hình ảnh thân yêu hơn, lên tiếng bi phẫn hơn. KIÊN
GIANG làm thơ như vậy, một người mang cả tính chất dân Hậu
Giang đầy đủ nhất còn sót lại ngày nay. Vì vậy tính
KIÊN GIANG hiền nhưng trung chánh, ai chê khen điều gì anh chỉ nói
lai rai rồi bỏ qua, giữ bình tĩnh, bền chặt với lòng tin tưởng
ở tiếng thơ chan chứa tình yêu thương về dân tộc, gia đình
của anh hơn hết". (SĐD tr. 775-776)
Nói về KIÊN
GIANG trong thời gian kháng chiến chống Pháp mà lúc đó còn
trai trẻ anh có tham gia, nhà văn Xuân Vũ trong bài "Sơn Nam, Huy Hà:
Cây Đàn Miền Bắc và Đẹp Hậu Giang" có đoạn:
"Riêng Huy Hà thì có vẻ gọn gàng hơn. Y phục thay đổi
luôn. Khi sơ mi túi có nắp và cầu vai, khi quần Tây cụt, khi
quần Tây dài. Đặc biệt anh mang một chiếc sắc cốt vải viền
da không biết lượm ở đâu hay lính nào cho. Trong sắc bao giờ
anh cũng có những bài thơ làm nửa chừng. Anh thích đề dưới
bài thơ những câu giang hồ lãng mạn như "một chiều bên
bờ lau tắt nắng. Một sáng mùa thu đầy sương"...v.v... Anh
có 2 câu thơ cực hay, không hiểu sao tôi mê dữ vậy:
"Soi
đèn ta thấy trong dòng nước
Có máu miền Tây máu Hậu Giang..."
(Đẹp Hậu Giang - 1949)
Anh có vợ có
con ở thành. Có cô vợ tên là cô Lành. Một hôm anh gọi
tôi ra chỗ vắng rồi bảo:
- Mày có muốn vợ không, tao gả em vợ cho!
Rồi anh lấy ảnh trong sắc
ra đưa cho tôi coi. Anh Tày cũng bảo tôi:
- Ê, Xuân Vũ, mày nên
lấy vợ đi. Kháng chiến còn lâu dài. Nhà mày xa. Rủi
bệnh hoạn ai nuôi. Mày về nhà vợ mày nó cho mày cái
trứng gà, trứng vịt...
Câu khuyên của anh Tày vô cùng thực tế. Tình cảm của
anh Huy Hà thật chân thành.(...). Anh Tày là người rất tự do
sáng tác. Ngoài những bài viết cho báo, anh và Huy Hà làm
thơ văn riêng không theo đơn đặt hàng. Ông chủ bút Rum
Bảo Việt thì thông cảm sự sáng tác, nhưng có vài ba
ông kẹ trong Phòng Chính Trị lại bắt bẻ các anh là "sáng
tác cá nhân" . Anh Tày và Huy Hà phản ứng kịch liệt.
Tuy không đối đáp chánh thức nhưng lời nói của các
anh cũng đến tai họ:
- ĐM chúng nó chớ sáng tác cá nhân! Sáng tác cá nhân
là nghĩa gì? Người làm thơ viết văn là phải có thơ
có văn cho dân cho lính đọc chớ! Không có thơ văn, báo
lấy gì in, lính và dân lấy gì đọc. Sao họ không sáng
tác luôn đi để bắt tụi này làm? Về quân sự thì
ông Giáp rành hơn tụi này, nhưng văn chương thì phải
để tụi này làm chớ!
Sự phản ứng cao nhất của hai anh là cáo bịnh và xin phép về
nhà dưỡng bịnh. (...).
Năm 1952, tình hình kháng chiến bết bát lắm. Cán bộ trẻ
về nhà gần hết. Toà soạn báo (đổi tên là Kháng
Địch, bỏ tiếng súng) không còn mấy người. Tôi được
về tỉnh đội Cần Thơ cùng với thi sĩ Huy Hà. Anh không vui,
cho là ở trên không cần mình nữa, nên một bữa nọ, ngủ
thức dậy, theo thói quen của cơ quan là tập thể dục rồi đi
hái rau bắt cá kiếm ăn, anh nói với tôi :
- Thôi mày ở lại
nhé. Tao đi.
- Đi đâu?
- Rồi mày sẽ biết tao đi đâu.
Thế là tôi vắng Anh Tày,
mất cả anh. Cả tuần lễ sau ở trên cho biết anh đã ra Rạch
Giá theo đường Xẻo Rô. (...).
Và, cuối bài, nhà văn Xuân
Vũ đã viết:
Lại có người mới về Sài Gòn gặp anh Huy Hà, khoe có
gặp tôi. Huy Hà bảo thằng Xuân Vũ là lính của tao. Nói
tao gởi lời thăm nó! Hai anh đã trên 70 cả. Mong gặp lại, biết
có gặp được không ?
(Xuân Vũ - tháng 8/95)
Sau khi nhà xuất bản
Phù Sa in tập thơ HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM năm 1960 tại
Sài Gòn, có những nhận xét như sau:
"Thi phẩm này của Kiên
Giang, một thi sĩ miền Nam có nhiều triển vọng, gần hai chục bài
thơ trường thiên, giọng thơ nhẹ nhàng, êm đẹp và gợi
cảm, diễn tqả hương vị miền nam nước Việt, nhất là những
bài: Dưới bóng dừa, Bến Tre, Đẹp Hậu Giang, Hương nươc
mư, Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Nhạc xe bò, Tình quê
tình nước, Gởi nàng xuân nữ...".
(Văn Hoá Nguyệt San số XI - 07-08-1962)
"Người
ta thường nói trong trái tim của mỗi người đều có riêng
một góc nhỏ bé để chứa đựng những kỷ niệm riêng
tây. Kiên Giang đã để tiếng nói chân thật của thi ca đem
ánh sáng lùa vào cái góc nhỏ bé đó. Nhiều người
đọc và gặp trong thơ Kiên Giang những điều mà trước
đây họ đã tưởng là nỗi bí ẩn của riêng mình.
"Trong các
lớp thi sĩ trước, chúng ta đã có hẳn một số thi phẩm
tạm gọi là thi ca điền viên. Nhiều tác giả như Đoàn
Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân... đã viết rất nhiều về
cảnh quê và thôn quê đất Bắc. Trong thơ cũng như trong văn
xuôi sáng tác tại miền Nam, chúng ta thấy rất hiếm loại thơ
điền viên này.
"Ngay những tác giả nổi tiếng từ thời tiền chiến, cũng
đợi mãi tới về sau, nghĩa là sau khi đất nước trải qua
nhiều cơn dao động trọng đại, mới để tâm diễn tả
cái sắc thái đặc biệt của quê hương. Trong số ngưòi
hiếm hoi, chúng ta thấy có một tác giả mới nổi: Kiên Giang".
(PHONG NHÃ, nhật báo Tự Do
số
1.585 ra ngày 01-07-1962)
"Nhiều kỷ niệm
của tuổi hoa niên, nhiều cảnh sống đau thương trong xã hội
được phác lại và diễn tả trong "HOA TRẮNG THÔI CÀI
TRÊN ÁO TÍM" bằng lời thơ nhẹ nhàng. Bình dị, làm
rung động người đọc như một bản nhạc tâm tình... Thơ
Kiên Giang mang những hình ảnh của quê hương, mang những màu sắc
của dân tộc nên dễ cảm thông với chúng ta. Tôi nghĩ rằng
ông đã chọn được con đường đi rinêg cho ông trong
việc sáng tác, và trên con đường đi đó, tôi tin ông
còn sẽ đem lại cho người yêu thơ sau đây nhiều hương
vị mới lạ...".
(Thượng Sĩ, trang phê bình Văn Nghệ)
Thi sĩ
KIÊN GIANG làm thơ rất dễ dàng, những câu thơ rời của anh
phổ biến truyền miệng đã trở thành ca dao từ lúc nào,
chẳng hạn hai câu:
"Ong bầu đậu đọt mù u
Có chồng càng sớm tiếng ru càng buồn"
được
người đời lưu truyền rồi cải biên cho đến đây giờ
đã trở thành ca dao mà khi nghe qua, anh cảm thấy tiếc, là vì
sự sửa đổi đó khi nghe qua thì mượt mà và đẹp,
nhưng nội dung và ý nghĩa thì chẳng ra sao cả:
"Bướm vàng đậu nhánh mù u
Có chồng càng sớm tiếng ru càng buồn".
Có lần tôi ngồi uống bia nói chuyện với thi sĩ KIÊN GIANG trước
trụ sở Hội Sân Khấu SG (chiều ngày 6 tháng 7 năm 1989), anh đã
kể chuyện nầy. Đại ý, anh nói rằng con ong bầu mới có
khả năng bay cao và đậu đọt mù u để hút mật chớ
con bướm vàng chỉ bay là sà dưới thấp, làm sao bay cao để
đậu nhánh mù u và đậu để làm gì? Câu lục mà
lại hình tượng con bướm thì có ăn nhằm gì đến
câu bát? Trong khi con ong bầu tiếng kêu của nó khi bay phát ra âm
thanh gợi cho ta cảm giác như tiếng ru buồn mới gắn liền với ý
của câu bát! Và dịp nầy, anh cũng kể tôi nghe một giai thoại
giữa anh với nhà thơ Nguyễn Bính khi từ Bắc vào Nam lưu lạc
đến đất Kiên Giang:
"Lúc còn
lưu lạc ở Rạch Giá, Nguyễn Bính trọ nhà một người,
cô vợ anh ta yêu thơ quá, tối ngày cứ ngâm nga thơ Nguyễn
Bính... đến nỗi anh chồng "ghen", Nguyễn Bính phải đi tìm
nơi khác ở. Lúc đó Kiên Giang còn đi học, rất yêu
thơ và tập làm thơ, đã "lén lấy gạo, mắm và
tiền bán mắm của má để mướn nhà nuôi Nguyễn Bính"
(lời KG), đã tìm mướn được căn nhà bỏ hoang, rêu
phong bám đầy bởi không ai lui tới, cùng đưa Nguyễn Bính
về ở. Hàng ngày anh đến hủ hỉ với nhà thơ. Hôm mới
dọn về, nhà thơ Nguyễn Bính thấy cảnh rêu phong ở trước
cửa nên bàn với Kiên Giang để nguyên như vậy, vào bằng
cửa hông.
Nguyễn Bính xấu trai, lưng
tôm, nhưng tính tình rất dễ mến. Nguyễn Bính cùng Kiên
Giang xuống mé sông ngồi nhìn dòng nước mặn trong xanh từ biển
đưa vào và xuất khẩu thành thơ, đọc tặng Kiên Giang
bài thơ đầu tiên 4 câu:
Có những dòng sông chảy rất mau
Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu
Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp
Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau.
Đây là bài thơ in vào tâm khảm Kiên Giang. Nhưng trong đời
có lẽ bài thơ TỪ ĐỘ VỀ ĐÂY của nhà thơ Nguyễn
Bính có kỷ niệm sâu sắc hơn đối với anh. Bởi chán
cảnh đời phiêu bạt đói nghèo, người đời hiểu lầm
đố kỵ, Nguyễn Bính đã viết 4 câu thơ đưa Kiên Giang
ra dán trước cửa nhà rêu phong như sau:
Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những phường phú quý xin đừng
đến
Hãy để thềm ta
xanh sắc rêu.
Đầu năm 1947, Nguyễn
Bính tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ trách đoàn
Văn hoá cứu quốc tỉnh Rạch Giá, có thời gian làm Phó
Chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá rồi chuyển sang công
tác ở ban Văn nghệ khu 8 ở Đồng Tháp Mười, sáng tác
thơ, viết tùy bút, truyện ký. Năm 1954 đi tập kết ra Bắc,
tiếp tục sáng tác. Năm 1956 chủ trương báo TRĂM HOA và có
liên quan đến Nhân Văn và Giai Phẩm nên cuộc đời nhà
thơ sống lận đận cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay tại
Nam Định (ngày 20-01-1966).
KIÊN GIANG cũng
có tham gia kháng chiến và cùng với nhà văn Sơn Nam (ở Viện
Văn hoá Nam bộ) viết cho tờ Tiếng Súng Kháng Địch mà ông
Quang Phong (bút hiệu Vô Ngã, tức Nguyễn Tử Quang sau nầy) đang ở
trong nhóm phụ trách báo đó. KIÊN GIANG ở lại miền Nam, lên
Sài Gòn mướn nhà ở khu xóm lao động. Nhà anh ọp ẹp
rêu phong, đối diện với nhà một anh cảnh sát từng làm
việc cho Pháp trước kia. Anh KIÊN GIANG đã mở cửa hông và
hàng ngày sử dụng xe mô-by-lết đen để di chuyển tới lui.
Một hôm, do xe quá cũ kỹ, khi đạp máy nổ inh ỏi, bị anh
cảnh sát ra la lối, "cấm từ nay mầy muốn đạp máy xe
hãy dẫn ra ngoài đầu đường !". Anh nhịn nhục xin lỗi
vì sợ mích lòng sinh ra làm khó dễ, lỡ bị truy ra tung tích
có tham gia phong trào Việt Minh chống Pháp của mình. KIÊN GIANG nhẫn
nhục chịu đựng bao điều phiền toái xung quanh, nhưng tâm hồn
thơ thì anh khó mà dứt bỏ đi. Anh chợt nhớ bài thơ của
Nguyễn Bính viết và dán trước cửa nhà trọ ở Rạch
Giá năm nào, khung cảnh cũng giống như nhà trọ của anh bây
giờ, nên Tết năm 1956, anh đã chép lại bài thơ đó,
có sửa mấy chữ ở câu 3. Ban đầu mấy chữ PHƯỜNG PHÚ
QUÝ anh đổi thành THẰNG THEO PHÁP, nhưng viết vậy quá lộ
liễu, nguy hiểm, nên anh đã chọn ba chữ khác là THẰNG BẤT
NGHĨA. Bài thơ gốc TỪ ĐỘ VỀ ĐÂY của Nguyễn Bính
được KIÊN GIANG sửa lại và treo trước cửa:
Từ độ
về đây sống rất nghèo
Bạn
bè chỉ có gió trăng theo
Những
thằng bất nghĩa xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu...
Bài thơ TỪ ĐỘ VỀ ĐÂY được phổ biến rộng rãi
ở các tỉnh phía Nam, và mãi đến sau nầy, ngay cả trong Tuyển
tập NGUYỄN BÍNH (NXB Văn Học + NXB Long An - 1986) cũng có in ở phần
bổ sung nội dung như bài có sửa 3 chữ của anh KIÊN GIANG.
Nghe thi sĩ KIÊN GIANG kể, tôi chợt hỏi anh: "Anh là người trong
cuộc có dính dấp tới bản gốc của bài thơ 4 câu trên,
sao anh không viết thư cho con gái của nhà thơ với người vợ
miền Nam là cô Nguyễn Bính Hồng Cầu, nghe nói đang làm việc
tại NXB Cửu Long nói rõ việc nầy, để lần tái bản sau điều
chỉnh lại cho đúng, hoặc ghi thêm chi tiết nầy? Dù sao đây
cũng là một giai thoại lý thú mà người yêu thích văn
học cần được biết. Bởi vì sự kiên liên quan được
chính người trong cuộc kể lại?". Anh KIÊN GIANG mỉm cười,
đưa ly bia Sài Gòn lên hớp một ngụm, gật gù bảo sẽ
viết thư cho cô Hồng Cầu! Dù biết anh hứa như thế, nhưng tôi
vẫn nghĩ rằng, trong cuộc sống nầy, đâu phải chỉ xảy ra duy
nhất có một câu chuyện như vậy, nên chưa chắc gì anh KIÊN
GIANG đã có thời gian viết thư cho Nguyễn Bính Hồng Cầu? Và
liệu khi có sự lên tiếng nầy, những người chủ trương
biên tập và in ấn Tuyển tập NGUYỄN BÍNH lại dễ dàng chấp
nhận đưa vào phần bổ sung cho tác phẩm thêm hoàn chỉnh?
Sở dĩ tôi đặt nghi vấn, là vì tôi có dịp chứng kiến
hai sự việc liên quan đến văn học mà nhân bài viết nầy
xin được nêu lên một cách vắn tắt, để bạn đọc
có thể hình dung được. Đó là trường hợp bài
thơ TIỀN VÀ LÁ của KIÊN GIANG và bài thơ THƠ NGÀY MƯA
của Hoàng Lộc.
Trước hết, xin nói
về bài thơ THƠ NGÀY MƯA của thi sĩ Hoàng Lộc. Thi sĩ Hoàng
Lộc sống ở Việt Nam Cộng Hoà và làm thơ có tiếng tăm,
đăng trên các tạp chí uy tín ở Sài Gòn. Bài thơ
THƠ NGÀY MƯA của anh đăng trên tạp chí BÁCH KHOA số 360 xuất
bản tháng giêng 1970 tại Sài Gòn, vậy mà năm 1990 (?) trên
tuần báo VĂN NGHỆ của Hội Nhà Văn Việt Nam (Hà Nội), sau
đó có một vài báo khác đăng lại, tiết lộ đó
là bài thơ hay của Định Nguyễn, một nhà thơ làm biên
tập cho nhà xuất bản Văn Học Hà Nội - bạn bè ông Định
Nguyễn đã chính thức công bố bài thơ trên khi ông vừa
mới đột ngột qua đời. Bài thơ đã trích từ trong sổ
tay của người bạn được chép tặng với bút tích và
chữ ký của Định Nguyễn hẳn hoi. Để trang trọng giới thiệu
xuất xứ bài thơ, tác giả chịu khó chụp hình bút tích
của Định Nguyễn với lời giải thích tại sao ông ta sáng
tác bài thơ THƠ MÙA MƯA (thay vì THƠ NGÀY MƯA). Định
Nguyễn cho rằng, sau việc ly tan của vợ chồng ông khoảng cuối năm
1979 đầu năm 1980 và khoảng hai năm sau ông viết bài thơ nầy
(?). Bài thơ của Hoàng Lộc nói về hình ảnh MẸ thì Định
Nguyễn đã đổi lại là CHA, tức là có sự sửa đổi
đôi chút chớ không giữ nguyên tác. Anh em văn nghệ Sài
Gòn ngày xưa còn sống ở quê nhà, đã phát hiện
trường hợp ăn cắp thơ khá kỳ khôi nầy, chịu khó lên
thư viện Sài Gòn truy lục, mới tìm được tạp chí BÁCH
KHOA số 360 nói trên, ngay phần mục lục vắn tắt ở trang bìa
cũng đã có in tựa bài thơ với tên Hoàng Lộc là tác
giả. Anh Đynh Trầm Ca đã photocopy nhiều bản để gởi kèm theo
bài phản đối đến các nơi, nhất là tuần báo VĂN
NGHỆ Hà Nội để yêu cầu lên tiếng đính chính, nhưng
tất cả đều im lặng. Tuần báo tỉnh An Giang đã cùng lúc
in hai bản song song, một bản đúng với trang báo BÁCH KHOA và một
bản đúng với trang báo VĂN NGHỆ để bạn đọc dễ
thấy so sánh và phát hiện việc làm không chân chính của
Định Nguyễn (dù ông ta đã chết, nhưng những người cố
tình bênh vực, bao che việc nầy còn đang có chức có quyền
trong hội Nhà Văn Việt Nam - Hà Nội). Sau đó tôi có dịp
tranh cãi với một người viết báo ngoài Hà Nội vào Cần
Thơ về trường hợp nầy. Anh ta lúc nào cũng khen Định Nguyễn,
và cho rằng: "Tại sao các anh không đặt vấn đề Hoàng
Lộc đạo thơ Định Nguyễn?". Tôi nói thẳng anh ta: "Câu
nầy đúng lý anh phải để tôi hỏi. Bởi vì nhà thơ
Hoàng Lộc ở miền Nam đã in bài thơ nầy từ đầu năm
1970, có nghĩa được sáng tác trước năm 70. Báo ở miền
Nam bán rộng rãi, có thể những người làm công tác văn
hoá văn nghệ các anh mua được và chuyển ra Bắc, Định
Nguyễn làm công tác biên tập có dịp đọc và nghiên
cứu; hoặc biết đâu trong đoàn quân vượt Trường Sơn
vào Nam có mặt Định Nguyễn và ông ta có dịp đọc
được bài thơ nầy rồi thấy thích chép vào sổ tay,
để sau đó, chuyện xảy ra lâu rồi tưởng không ai nhớ,
bèn mượn đỡ để tự nhận của mình, vì bài thơ
đúng với tâm trạng của ông ta? Còn nói Hoàng Lộc ăn
cắp thơ Định Nguyễn thì không thể có, vì bài thơ
của Định Nguyễn ở miền Bắc còn trong dạng bản thảo viết
tay (lại chép tặng một người bạn), chưa hề được đăng
báo, mà lại cho biết đã sáng tác khoảng năm 1982 (?), sau khi
bài thơ của Hoàng Lộc xuất hiện trên BÁCH KHOA tới một
con giáp 12 năm. Làm sao có chuyện ngược đời như vậy?"
Tôi nói với giọng gay gắt, anh bạn thơ Huỳnh Kim sợ chúng tôi
có những thái độ đối kháng quyết liệt không hay, nên
đề nghị bỏ qua chuyện thơ văn khá điên đầu nầy đi.
Anh bạn làm báo Hà Nội trước sau vẫn công nhận tài năng
của Định Nguyễn. Tôi thì ra mặt không bao giờ phục một con
người làm văn nghệ không chân chính như thế... Và, mãi
đến khi tôi rời nước Việt Nam thì vụ đạo thơ của
Định Nguyễn vẫn còn trong vòng im lặng đáng trách. Tôi
được biết, hình như nhà thơ Hoàng Lộc ngày xưa đang
ở Hoa Kỳ thì phải (?), và người giúp anh Đynh Trầm Ca (nhà
thơ, nhạc sĩ tác giả bản nhạc khá nổi tiếng trước đây
là RU CON TÌNH CŨ, mới sau nầy có bản SÔNG QUÊ cũng nổi
tiếng) công bố nội dung việc đạo thơ trên là người tên
Dũng, tự nhận là học trò của nhà thơ Hoàng Lộc! Vì
uy tín của Thầy mình nên chịu khó giúp anh Đynh Trầm Ca phanh
phui nội vụ cho ra lẽ vậy thôi!
Trường hợp
thứ hai cũng khá gây cấn. Đó là bài thơ TIỀN VÀ
LÁ của thi sĩ KIÊN GIANG. Thật tình, trong buổi nói chuyện với
anh KIÊN GIANG vào chiều ngày 6 tháng 7 năm 1989 tại quán cốc trước
Hội Sân Khấu Sài Gòn (số 5B Võ Văn Tần), kể về Nguyễn
Bính, KIÊN GIANG có đề cập tới bài thơ TIỀN VÀ LÁ
của anh được in trong tập HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
(Phù Sa SG - 1960) và anh đã khen Nguyễn Bính có sửa mấy chữ
thơ mà anh cho là rất đắt. Đó là:
(...) Tiền không
là lá em ơi
Tiền là giấy
bạc của đời phồn hoa
Người
ta giấy bạc đầy nhà
Cho
nên mới được gọi là chồng em...
(của KIÊN GIANG)
(...) Tiền không là lá em ơi
Tiền là giấy bạc của NGƯỜI
in ra...
(của Nguyễn Bính sửa)
Và, anh KIÊN GIANG rất phục cách dùng từ ám chỉ nhiều nghĩa
của Nguyễn Bính mà thực tình lúc đó anh chưa hề nghĩ
tới. Bài thơ phổ biến rộng rãi ở miền Nam trong nhiều năm
kể từ tập thơ HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM ra đời,
vậy mà một tác giả ở Hà Nội đã viết trên báo
NHÂN DÂN CHỦ NHẬT số 2, tiết lộ một cách vui mừng là:
"Mới phát hiện bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính chưa
bao giờ phổ biến: TIỀN VÀ LÁ (!)", và bài viết đã
in lại nguyên văn bài thơ mà tác giả cho là của Nguyễn
Bính. Nhà thơ Trần Ngọc Hưởng (dạy học tại Long An), vốn
có duyên văn thơ với anh KIÊN GIANG, đã viết một bài khá
gay gắt và đăng báo Long An, sau đó gởi phản đối trên
báo NHÂN DÂN nhưng vẫn không thấy họ lên tiếng trả lời.
Mặc nhiên điều gì những người làm công tác văn nghệ
văn hoá xuất thân từ Hà Nội gây ra đều cho là đúng,
đều được bảo vệ? Như trường hợp nhà thơ Định
Nguyễn kể trên? Hay như bài báo tiết lộ bài thơ hay chưa
bao giờ phổ biến của Nguyễn Bính (mà thực tế đã được
phổ biến ở miền Nam trên 30 năm rồi!).
Qua vài chi tiết kể trên và sau cuộc trao đổi với thi sĩ KIÊN
GIANG Hà Huy Hà, tôi chợt nghĩ: "Chỉ có người làm thơ
và yêu thơ chân chính mới dễ cảm thông và quý trọng
công trình sáng tạo tim óc của người khác. Dĩ nhiên rất
ghét sự đạo tác tác phẩm người khác... để lừa
dối cả chính bản thân mình! Làm văn nghệ như thế, tốt
hơn hết đừng làm. Bởi vì trong cuộc sống nầy, lời nói
có thể thoảng bay đi, nhưng đã in trên giấy trắng mực đen
thì khó mà xoá mờ dấu vết. Sự chân chính là bẩm
sinh lương thiện của mỗi con người. Tôi thường nghĩ như
vậy".
Đối với thi sĩ KIÊN
GIANG (HÀ HUY HÀ cũng là một bút hiệu của anh), suốt thời gian
được quen biết anh, tôi có rất nhiều kỷ niệm mà trong một
bài viết ngắn thế nầy không thể nào kể hết. Có điều,
duyên văn nghệ của anh dành cho tôi rất đậm đà, và
tình cảm đối xử ngoài đời cũng vô cùng đẹp đẽ.
Nhớ năm 1990 (?), khi anh đi Bạc Liêu tham dự hội thảo và kỷ niệm
lớn về cố nhạc sĩ Sáu Lầu (người khai sinh cho bản Vọng Cổ
miền Nam), về ngang Cần Thơ đã đi bộ từ bến xe xuống tới
đường Ngô Quyền, ghé ngay nhà của chị vợ tôi, hỏi
thăm tôi có còn ở đó không kể từ sau năm 1975? Gặp
vợ tôi ngồi bán báo là anh nhớ ngay, gọi đúng tên và
tự giới thiệu anh chính là KIÊN GIANG... Rồi anh đã hỏi thăm
tôi đủ điều, xé tờ giấy ghi cho tôi mấy câu, dặn có
dịp đi Sài Gòn nhớ ghé anh tại Hội Sân Khấu, số 5B Võ
Văn Tần. Nhà anh ở bên Khánh Hội, nhưng anh ít về đó
lắm... Các bạn tôi ở Sài Gòn nói là anh bị lận đận
về nhà cửa. Nghe nói vợ thứ của anh mở tiệm bán vàng,
vay tiền ngân hàng và thế chấp tài sản, thua lỗ phải bị
tịch thu nhà (?)! Anh phải đi ở đậu lang thang bên đường Hưng
Phú chỗ Nhà văn hóa quận 8. Biết tôi sắp xuất cảnh, anh
viết cho tôi một thư tay, dặn tôi chép gởi cho anh một số bài
thơ mà MÂY TẦN đã từng diễn ngâm thời trước để
anh có việc cần dùng. Thế nhưng, tôi có lỗi với anh là...
khi rời Việt Nam, tôi không thực hiện được lời nhắn của
anh, kể cả việc tìm thăm và chia biệt với anh, có lẽ anh
trách tôi nhiều lắm. Bây giờ sang tới Hoa Kỳ, tôi cứ bị
ray rứt về tình nghĩa văn chương đối với thi sĩ KIÊN GIANG
- mà tôi xem như người anh đáng kính, đã cho tôi ý
niệm được tâm tư, tình cảm đối với quê hương,
đất nước qua thơ ca, ở đó vượt lên tất cả tầm
nhìn của mỗi con người, là tình MẸ thiêng liêng. Bởi vì,
một nhà văn đã nói, "trong tất cả kỳ quan, chỉ có
trái tim người MẸ là kỳ quan tuyệt xảo nhất".
Mùa Vu Lan Báo Hiếu năm nay, tôi xin ghi mấy dòng nầy, nhắc nhớ
đôi nét về thi sĩ KIÊN GIANG còn sống ở quê nhà, kính
dâng MẸ tôi và tặng những ai diễm phúc còn MẸ trên cõi
đời, bởi ở trên tôi có trích dẫn câu ca dao :
Mẹ già như chuối ba
hương
Như xôi nếp một như đường mía lau...
HOUSTON, mùa Vu Lan
viết ngày 29-7-1995
NGUYỄN
VĂN SÂM
(California)
TẢN MẠN VỀ KIÊN
GIANG,
NHÀ
THƠ MINH HƯƠNG VIỆT HOÁ
(Bìa bản nhạc thơ Kiên Giang do Huỳnh
Anh phổ. Tài liệu từ Internet.)
Trong văn chương Việt Nam hiện đại có một sự kiện đặc
biệt là ba thơ-truyện của ba nhà thơ Bắc Trung Nam nổi tiếng lại
xuất hiện rất gần nhau, cuối thập niên 40 và đầu thập
niên 50. Cả ba đều đã được phổ nhạc, phổ rất đạt,
tiếng nhạc lời ca tuy có tăng gia thêm giá trị cho các bài
thơ, đem tác phẩm đến người thưởng thức nhiều hơn,
nhưng trên căn bản cả ba bài đều được công nhận
là tuyệt tác, đáng nễ. Mỗi bài có giá trị riêng
nhưng lớp người thưởng thức chung quy chỉ là một nhóm: dễ
ngậm ngùi vì sự bi thiết của một tình yêu có người
nữ bất hạnh, có chia ly mà không có tái hợp vốn nghịch
lại với sở thích truyền thống của người nghe/đọc Việt
Nam. Hữu Loan và Kiên Giang với người vợ/người yêu bất hạnh,
Vũ Anh Khanh với vùng quê tan tác vì bom đạn - mà ta có thể
coi là tượng trưng cho sự tan tác của một cành hoa, một người
nữ không may.
Tại sao họ sáng
tác ngược lại với sở thích chung lâu đài mà lại
được ưa thích? Phải chăng vì cảm quan con người gần đây
đã đổi thay? Cũng có thể người nghe đọc thơ-truyện
đó thì liên tưởng đến sự bi thương của mình hay
người thân, ít ra cũng là sư bi thương của một ai đó
sống trong thời đại nầy, cách câu chuyện thiệt của ba tác
giả không xa.
Người ta đọc thơ
của họ, thấy liền trước mắt hình ảnh từ sự thật, cho
nên dễ hóa mình là một phần tử của câu chuyện, hay đi
xa hơn một chút, sự kiện đó, bi kịch đó mình đã
thấy hoặc đã xảy ra cho mình. Tác giả đem chính đời
họ để nói giùm người thưởng thức, vì có sự
tương tác và đồng cảm nên tác phẩm được chào
đón nhiều.
Hữu Loan kể về
người vợ đầu tiên, người vợ ông coi như tình yêu
em gái, trong sáng với thương yêu che chỡ, Kiên Giang với cô
Nguyễn thị Nhiều bạn học, từng trao đổi bài vỡ, buông bắt
‘chuyện không đâu vô đâu' với những ánh mắt
tha thiết ‘không bao giờ nói và nhất là không hứa gì
nhưng là hứa trong tâm tư rất nhiều'. Vũ Anh Khanh là chuyến
về Trảng Bàng chơi nhà bạn văn đồng tư tưởng, ghé
họ đạo Tha La xúc động trước sự hoang tàng do chiến tranh
tác động lên đời sống của dân xóm đạo hiền lành
khiến cho hầu hết thanh niên trong xóm tức giận quyết phải lên
đường làm một cái gì cho xứ sở, không cần biết sau
đó là kết cuộc sẽ như thế nào....
Hữu Loan và Vũ Anh Khanh đã mất từ lâu, một
người chết già sau thời gian dài sống đời chua xót vì
bài thơ mang đến và vì thái độ phản kháng với chế
độ, một người chết trẻ khi quyết lội về vùng đất
tự do để được sống và viết phù hợp với "đóa
tài hoa' của mình.
Và mới
hai ngày trước đây, chiều 31/10/2014 Kiên Giang đã nằm xuống.
Cái chết của thi sĩ chuyên viết thơ-truyện nầy coi như Trời
cho một bonus khấm khá, 87 tuổi, sanh năm 1927, chết già, tuy rằng những
tháng cuối đời phải buồn bã vì bịnh tật và nghèo
khổ. Bịnh tật là do ba tháng trước ông bị xe đụng. Ôi
sao những người văn nghê già của đất nước ta bị tai nạn
xe cộ nhiều như vậy! Sơn Nam trước đây, Kiên Giang bây giờ,
và còn biết bao nhiêu người nữa mà ta không biết! Người
già được BS khuyên cố tránh đừng để té ngã gảy
xương, xương già khi gảy khó lành. Ta nói mà không sợ
quá lố hai cái chết nầy là kết quả trực tiếp từ những
tai nạn của hai ông mấy tháng trước ngày mất. Những sáng
tác ấp ủ cuối đời của họ không thực hiện được
vì những anh nầy ông nọ say xỉn chạy càng, phóng ẩu sau cơn
vui...
Thôi ! Cứ tạm an ủi nhau để
khỏi bi thiết quá độ và trách móc vô ích, ta coi như
số của Sơn Nam và Kiên Giang là như vậy. Hết số thì về
Trời. Tác phẩm để lại cho Đời bao nhiêu đó đã
đủ. Đời chỉ đáng nhận số lượng bấy nhiêu đó
từ những người -Trời nầy thôi.
***
Tôi giao tình thân mật với Sơn Nam từ trước
75, những năm 69-79 hai người thường nhậu rượu đế ở tệ
xá trên đường Chi Lăng, trước 75 thì có chút gì nhè
nhẹ rẽ tiền đưa cay, sau 76 thì nhậu khan phần lớn, nhưng chỉ
có dịp quen biết với Kiên Giang độ chừng mười năm nay thôi.
Mười năm nhưng gặp nhau độ 5, 7 lần, khi thì ở hội quán
Nghệ sĩ
(Địa chỉ ông cho tôi trước khi
về Long Xuyên năm 2010. Cả hai bây giờ đã trở thành hư ảo,
số đt thì càng hư ảo hơn!)
đường Cô Bắc, khi thì ở quán cóc đường Nguyễn
Cư Trinh, hai lần sau cùng nhân đám tang nhà văn Thẩm Thệ Hà.
Chúng tôi không còn trẻ nữa nên hai người chỉ nhăm nhi cà
phê, Kiên Giang ly đen nhỏ với một món ăn gì đó, người
ở xa về ly cà phê sữa thiệt ít cà phê. Chuyện lan man đủ
thứ không ra đầu đuôi ngô khoai gì, đụng đâu nói
đó. Thỉnh thoảng do thói quen cố hữu tôi - hay người đi theo-
ghi lại vài ba ý đặc biệt hoặc năm ba câu thơ của người
mình nói chuyện, nhờ đó giờ đây tôi có được
một vài câu thơ miệng của Kiên Giang. Tôi gọi là thơ
miệng vì ông đọc cho mình, và thiệt tình không
biết ông có đọc cho ai khác hay đã in ở đâu chưa.
Tôi xếp Kiên Giang vô lớp nhà thơ
của tình yêu: Tình yêu gái trai không trọn vẹn mà
ai cũng biết, tình yêu quê hương âm ỉ, giấu giếm trong
lòng, chỉ khi hứng chí tuông ra chút chút với bạn bè
có chút gì liên quan đến chữ nghĩa hay ý kiến về những
chuyện xảy ra chung quanh.
(Kiên Giang Hà Huy Hà năm 2008. Hình trên
mạng).
Kiên Giang có lối nói
chuyện thẳng thừng, gọn, không rào đón, tiếng nói mạnh,
thấy trong cách nói sự ngay thẳng của người Nam, ông thường
nhấn mạnh, tôi là người gốc Hoa, có thể gọi là Minh Hương,
nhưng Minh Hương gì nữa, tôi trở thành người Việt chánh
cống lâu rồi hồi nào không biết, có lẽ do chơi thân với
toàn là người Việt... rồi mất gốc luôn. Nơi đây là
quê hương tôi, quê hương con cháu tôi...
Tôi cảm giác sờ đụng được sự thành
thật trong lời nói của người thơ kiêm soạn giả cải lương
nầy. Việt Nam đã có nhiều người gốc Hoa bồi đắp cho
văn chương Việt bằng tác phẩm có giá trị như Trịnh
Hoài Đức, Mạc Thiên Tích, Hồ Dzếnh, có thể là cả
Phan Thanh Giản và nhiều nhà thơ sành chữ Hán khác của Miền
Nam nữa... Dòng máu cha sanh mẹ tạo hình thành con người sinh học
của ta, nhưng chính tâm hồn và cảm thức của ta mới quan
trọng, nó được cá nhân ta hoàn thiên từ từ theo thời
gian và nhận thức để tạo nên con người thật là ta với
bản ngã của ta. Tâm hồn Kiên Giang đáng quí ở chỗ chung
thủy với người yêu, cảm thấy mình có lỗi khi không hiểu
ý tình của người yêu cho nên ray rức trường kỳ, sự
ray rức đó tạo nên thơ-truyện buồn Hoa Tím Thôi Cài
Lên Mái Tóc. Ray rứt đó khiến ông thay đổi đoạn
kết câu chuyện dầu rằng thoại trước đã thành công.
Sự công bố câu chuyện tình yêu, công bố hình ảnh người
tình quá vãn là sự biểu hiện đágn quí cái tâm
hồn chung thủy của ông.
Tôi nhớ
lần nào đó mình đã hỏi:
‘Mối tình đó anh mang trong lòng hoài làm sao chịu nỗi,
làm sao sống?'
Và ông trả lời
gần như gằn từng tiếng:
‘Đâu
phải lúc nào cũng nhớ đâu! Nhưng mà tiếc vì mình
vô tình, vì mình lo công việc riêng làm mất hụt nhiều
thứ. Mình có lỗi nhiều với người ta. Nhắc nầy làm nọ
cũng là cách xin lỗi.'
Ông chuyển
đề tài hỏi tôi có đem theo quyển Lúa Sạ Miền Nam
có bút tích của ông mà tôi mua được ở chợ sách
cũ như đã hứa trước khi đến không. Tôi đưa ra mấy
trang copy bút tích của ông, của Sơn Nam ..., ông cám ơn sau khi đã
coi lại cẩn thận.
Tôi ngồi nhìn
người thơ lớn tuổi, điếu thuốc gắn trên môi, tàn dài
chưa rớt, tay lật lật những tờ giấy, ngừng lại hơi lâu ở
hình chụp chung hai người trẻ Kiên Giang và Sơn Nam, tôi ngẫm
nghĩ về sự cẩn thận và trân trọng của ông đối với
kỷ niệm trong khi đó cũng như bạn chí cốt của ông trước
đây, khi được tặng tiền đã hờ hững bỏ túi không
bao giờ đếm hay sành soạn coi ít hay nhiều.
Nói chuyện với ông mấy lần tôi biết được
lắm điều thú vị mà trước nay mình không biết. Chẳng
hạn nhà thơ Truy Phong sống suốt đời ở quê trên cù lao Dài,
quận Vũng Liêm, đã chết cách đây 4 năm. (lúc chúng
tôi nói chuyện 2010), chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tử Quang của
xứ Sóc Trăng cũng có làm thơ và ông ta ký là Vô
Ngã, chẳng hạn như tuồng cải lương Trương Chi Mỵ Nương
tuy để tên một mình Hà Huy Hà nhưng có sự góp sức
đáng kể của Hà Triều và Hoa Phượng mà vì lý do
tế nhị với đoàn hát không thể để cả ba tên.
Tôi ngạc nhiên nhiều khi ông kiên nhẫn
đọc đi đọc lại cho người chép chép bài thơ của
thi sĩ Nguyễn Văn Cổn, một bài thơ quê hương nhè nhẹ
kiểu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân:
Tù-và văng vẳng
nhớ quê xưa,
Nhớ bóng làng ta khuất lá dừa,
Nhớ ngọn lúa vàng
bông phất phới,
Nhớ bần bên rạch ngọn đong đưa... (thơ Nguyễn Văn
Cổn)
Phải yêu thắm thiết quê
hương nầy mới nhớ được bài thơ ít người biết
kia! Càng ngạc nhìên hơn nữa khi ông đọc vài bài thơ-miệng
của mình về thời thế với nội dung mà tiếng bên đó
bây giờ gọi là nhạy cãm, có vấn đề, nói chơi với
nhau thì được viết lên giấy trắng mực đen thiệt là
gay.
Tôi thích nhứt ba câu mà
Kiên Giang nhấn mạnh trước khi đọc: ‘Tôi làm ba câu thôi,
ai muốn hiểu sao thì hiểu, ai muốn làm thêm thì cứ làm, tôi
không chịu trách nhiệm':
Đỉ điếm cũng thay khung mặt nạ,
Đổi ngón nghề,
lang chạ gian manh.
Hòa Bình tưởng hết chiến tranh... (thơ-miệng Kiên Giang)
Tôi ứng khẩu thêm vô câu cuối theo
cái nhìn của người ở ngoài nước..., ông nghe xong chỉ cười
cười không nói gì.
Có lần
trước khi chia tay ông nhấn mạnh về tình người, tình bạn
và kết luận bằng cặp thơ:
Cho hay hết thảy đều tan biến,
Còn lại ngàn sau chút nghĩa tình. (thơ-miệng Kiên Giang)
Và, ông vừa nói vừa mỉm cười
:- ít thấy ở ông- có hai câu nầy cho Việt Kiều:
Dầu
xa cách mấy trùng dương,
Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. (thơ-miệng Kiên
Giang)
Anh Kiên Giang! Hơi khác với trường
hợp anh sanh ra và sống trọn đời ở VN nên tha thiết với quê
hương phong cảnh Việt, trở thành người Việt, không để
ý gì đến xứ sở máu thịt Trung Hoa, chúng tôi sanh ở Việt
Nam sống ở nước ngoài thời gian dài hơn sống ở nơi mình
sanh ra nên có cái quê hương của tuổi trẻ trong lòng, đồng
thời cũng có cái quê hương trung niên trong trí, cái quê
hương thứ hai đã bao bọc và che chở chúng tôi khi bị quyền
lực trên cái quê hương thứ nhứt làm khó dễ trăm bề...
Vâng, thưa anh Kiên Giang, dẫu xa quê hương
cách mấy trong lòng những người xa xứ chúng tôi cũng canh cánh
nhớ về cái quê hương đầu tiên nơi mình được
sanh thành. Nhưng cũng từ lòng yêu quê hương thâm sâu đó
chúng tôi đau đớn thấy nó bị bóc lột lợi dụng, ngóc
đầu lên không nổi, thua kém những đất nước chung quanh....
Nguyễn Văn Sâm
(California, ngày 03 tháng 11 năm 2014)
Thơ
KIÊN GIANG: