|
|
|
GÓC VIỆT CỔ THI ______________________________________________________________________________________
Gối Cỏ Đầu
Xuân Với Đôi Vần
Thơ Xuân Của Tiền Nhân Tác giả là một bậc anh quân đời
nhà Trần và là Sư Tổ sáng lập Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử. PKT 02/18/2019
SƠN PHÒNG MẠN HỨNG Trần Nhân Tông (1258 - 1308) Thùy phược cánh
tương cầu giải thoát Bất phàm
hà tất mịch thần tiên Viên
nhàn mã quyện nhân ưng lão Y
cựu vân trang nhất tháp thiền
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
Mạn
Hứng Ở Sơn Phòng PKT - Mây Tần
Có
ai trói buộc mình đâu mà phải cầu giải thoát / Bụi
trần đã không còn vướng mắc rồi thì hà tất đi
tìm thần tiên làm chi nữa / Bầy vượn nhởn nhơ, con
ngựa đã mỏi, người nay đã già / Am mây và chiếc giường
thiền ngày nào vẫn còn đó / / Nỗi thị phi phải quấy
đã được rũ bỏ theo từng cánh hoa rụng rơi ban sáng
/ Niềm hám danh hám lợi đã được cuốn theo từng
đợt mưa lạnh trong đêm / Hoa đã rụng hết, mưa đã
tạnh hẳn, núi non tịch mịch trước mắt / Một tiếng chim hót,
ừ nhỉ , cái lẽ tuần hoàn trời đất, xuân đến rồi
đi SƠN PHÒNG MẠN HỨNG PKT
- Mây Tần Ai trói buộc đâu mà cầu giải thoát,
Lòng đã thoát phàm hà tất tìm
Tiên. Vượn nhàn, ngựa mỏi,
thân lão, Chốn cũ, am mây, một
chiếc giường thiền.
Sáng ngắm hoa rơi, thị phi rũ bỏ,
Ðêm nghe mưa lạnh, danh lợi buông trôi.
Hoa tàn, mưa tạnh, núi vắng,
Một tiếng chim hót tiễn Xuân ngang trời.
Tri Khac Pham Phamid1934@gmail.com
Đỗ Chiêu Đức,
Mailoc, Phương Hà, Mùi Quý Bồng HAI BÀI THƠ XUÂN của ÔNG VUA Trần Nhân
Tông Trong dịp
xuân về, Kính gởi đến Quý Thầy Cô và Anh Chị Em Vườn
Thơ Thẩn 2 bài thơ "Xuân" của ông Vua Trần Nhân
Tông...
春曉 Xuân
hiểu 睡起啟窗扉, Thụy khởi khải song phi, 不知春已歸。 Bất tri xuân dĩ quy. 一雙白蝴蝶, Nhất song bạch hồ điệp, 拍拍趁花飛。 Phách phách sấn hoa phi. CHÚ THÍCH : * Thụy Khởi : là Ngủ dậy, chỉ Vừa
thức giấc. * Khải : là Mở ra,
giống như chữ KHAI ( thanh BẰNG, còn KHẢI là thanh TRẮC ). * Song Phi : Cánh cửa của Cửa sổ. * Phách Phách : là Vổ vổ(cánh), ở
đây có nghĩa là Vổ Phần phật. * Sấn : là Nhân(dịp), ở đây có nghĩa là Hướng
về... NGHĨA BÀI THƠ : Sáng
Sớm Mùa Xuân Vừa
mới ngủ dậy, ta mở toang hai cánh cửa sổ ra... Đâu biết rằng
mùa xuân đã về đến rồi !( Trông kìa,) một đôi
bướm trắng nỏn nà đang vổ vổ cánh bay về các khóm
hoa ( đang nở rộ !). DIỄN NÔM
: SÁNG XUÂN Thức giấc mở song ngay, Xuân đến nào có hay. Một đôi bươn bướm
trắng, Hướng hoa
vổ cánh bay ! Lục bát : Vừa thức giấc, mở cửa song, Nào hay xuân đã về trong
đất trời. Một
đôi bướm trắng xinh tươi, Khóm
hoa bay lượn thành đôi chập chờn.
Trần Nhân Tông 陳仁宗 (7
tháng 12 năm 1258 - 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308) là vị hoàng đế
thứ ba của vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị
vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng
hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được
nhiều sử gia đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều
đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt
cuối thế kỷ 13, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và
mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là
một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.
Xuân Vãn Trần Nhân Tông 春晚
Xuân Vãn
陳仁宗
Trần Nhân Tông 年少何曾了色空
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, 一 春心在百花中 Nhất
xuân tâm tại bách hoa trung. 如今勘破東皇面
Như kim khám phá đông hoàng diện, 禪板蒲團看墜紅 Thiền bản
bồ đoàn khán truỵ hồng. Dịch Nghĩa: Xuân
Muộn Câu 1 : 年少何曾了色空
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Từ HÀ TẰNG : HÀ là Như thế nào,
là Ra Làm Sao ?. TẰNG là Từng, là Đã Từng. Nên :
HÀ TẰNG : là một NGHI VẤN TỰ dùng theo cách PHẢN VẤN có
nghĩa : Làm sao mà nói được đã từng ?
LIỄU : là Kết thúc, là Hết.( kết liễu ). Nên...
HÀ TẰNG LIỄU có nghĩa : Làm sao nói được là đã
kết thúc...? Đưa đến nghĩa cả câu là :
" Tuổi còn trẻ thì làm sao mà có thể nói là đã
kết thúc với chuyện sắc không cho được ?!" Nghĩa bóng
là : " Thanh niên thì làm sao mà có thể
nói là không còn nghĩ đến chuyện sắc không nữa ?!".
Đưa đến nghĩa của...
CÂU 2 : 一 春心在百花中
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung. NHẤT XUÂN TÂM : có nghĩa là Một tấm lòng
xuân, là Một tấm lòng son trẻ. Nghĩa cả câu là...
" Một tấm lòng xuân đều ở trong trăm hoa " Nghĩa bóng
là : " Một tấm lòng xuân ( son trẻ ),( như cánh bướm cứ
xuyên suốt mê mẫm mãi ) trong trăm ( ngàn ) đóa hoa ( đẹp
). Câu 2 nầy còn có thể ngắt câu như
thế nầy : " NHẤT XUÂN, Tâm tại bách hoa trung
" ! Có nghĩa : "
Hễ đến mùa xuân là lòng cứ vướng bận mãi với
trăm hoa ". Nhưng dù ngắt câu như thế nào thì nghĩa của
nó vẫn ăn với Câu 1 cả !
CÂU 3, CÂU 4 thì nghĩa đã
rõ : 如今勘破東皇面
Như kim khám phá đông hoàng diện,
禪板蒲團看墜紅
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng. KHÁM PHÁ : là Nghiệm ra được,
là Thấu hiểu một cách rõ ràng. là Nhìn rõ bộ mặt
thật. ĐÔNG HOÀNG : là Ông Hoàng ở hướng
đông, ta gọi là Chúa Xuân. Ông Chúa của mùa Xuân ở
hướng đông. THIỀN BẢN, BỒ ĐOÀN... THIỀN BẢN : là Miếng Ván dùng để ngồi
Thiền. BỒ ĐOÀN : là Cái Vòng tròn
được kết bằng cỏ Bồ, dùng để ngồi đọc kinh hay
ngồi thiền. Cho nên...
THIỀN BẢN và BỒ ĐOÀN là 2 thứ đồ đều dùng để
ngồi thiền. Hai từ nầy hô ứng và nhấn mạnh cho nhau chỉ sự
tu tập. Nghĩa của câu 3, câu 4 là : Như hiện nay ( Bây giờ ), đã nhìn rõ
được bộ mặt thật của Chúa Xuân rồi ( Xuân đến
rồi cũng sẽ đi, hoa nở rồi cũng sẽ tàn ! ). Nên, dù ngồi
trên Thiền bản hay Bồ Đoàn gì cũng được ( đã tu
tập thiền rồi, đã hiểu rõ nghĩa luân hồi đào thải
rồi ) thì lòng rất thản nhiên mà nhìn những cánh hồng
rơi rụng ! ( Nhìn hoa tàn mà không còn thương hương tiếc
ngọc hay xót liễu vì hoa gì nữa cả, vì đã giác ngộ
được lẽ tuần hoàn của tạo hóa ! ).
Xin được góp bài DIỄN NÔM : VÃN : là
Tối, là muộn, là Cuối, nên...
XUÂN VÃN là Xuân Muộn, là
CUỐI XUÂN Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng, Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa. Nhưng nay đà
tỏ khi xuân tận, Hoa rụng lòng thiền chẳng xót xa! Lục bát : Tuổi
xuân nào dứt sắc không, Lòng
xuân chìm đắm mãi trong sắc màu. Như
nay đà tỏ âm hao, Tâm
thiền hoa rụng chẳng nao lòng trần !
Đỗ Chiêu Đức. GÓP THƠ DỊCH:
Mailoc, Phương
Hà, Múi Quý Bồng SÁNG XUÂN (1) Sớm mai thức
dậy mở song ngoài Xuân tới kia
rồi chẳng có hay. Bướm trắng
một đôi đang đập cánh Chập
chờn theo đuổi cánh hoa bay! (2)
Sáng dậy mở song ngoài Xuân về chẳng có hay Nhởn nhơ đôi bướm trắng Đập cánh theo hoa bay!
Mailoc CHIỀU XUÂN
(1)
Sắc không tuổi trẻ chẳng tinh tường
Xuân đến hoa cười dạ vấn vương.
Mặt thật chúa xuân nay khám phá
An nhiên tịnh toạ ngó rơi hường!
(2) Sắc
không niên thiếu lòng chẳng bận Rộn
rã xuân về vấn vương hoa. Chúa
xuân mặt thật hiểu ra Bồ đoàn
tịnh tọa mặc hoa tơi bời!
Mailoc I- Phỏng dịch bài Xuân Hiểu
(1) Sáng
Xuân Sáng ra thức giấc tựa song ngoài Xuân đến bao giờ đâu có hay Bướm trắng một đôi âu yếm lượn
Hướng về hoa thắm nhởn nhơ bay.
(2) Sáng
Xuân Sớm mai ra tựa song ngoài Mới hay rộn rã đất trời vào xuân Một đôi bướm trắng tưng bừng Nhởn nhơ đập cánh trên từng đóa
hoa. Phương
Hà phỏng dịch
II- Phỏng dịch bài Xuân Vãn (1) Cuối
Xuân Tuổi trẻ lòng sao khỏi sắc không Muôn hoa vương vấn mãi trong lòng Nhưng nay biết được khi xuân tận Hoa rã...tâm thiền đã lĩnh thông. (2) Cuối
Xuân Tráng niên nào khỏi sắc không Hoa xuân phơi phới trong lòng rộn say Lẽ đời khi đã tỏ hay Xuân tàn, hoa rụng...tâm này thản nhiên
Phương Hà phỏng dịch
XUÂN SỚM Mở cửa sáng vừa thức, Xuân đến mà không biết. Chập chờn đôi bướm bay Vào
vườn hoa diễm tuyệt.
Mùi Quý Bồng
01/24/2019 XUÂN MUỘN Tuổi trẻ mơ hoài chuyện sắc không.
Trăm hoa đua nở giữa lòng xuân.
Xuân đến, xuân đi, nay đã tỏ.
Rụng, rơi, hoa chẳng động lòng thiền.
Mùi
Quý Bồng 01/24/2019
TRẦN QUANG TRIỀU, MỘT THI NHÂN ĐỜI
TRẦN Kính chuyển đến bạn
vài bài thơ của Trần Quang Triều, một thi nhân đời nhà
Trần .Mời bạn đọc giải khuây, sắp cuối tuần nữa rồi!
Thân kính ML Trần
quang Triều ( 1286-1325 ) là con trai của Trần quốc
Tảng , cháu nội của Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn .Năm 14 tuổi được phong tước Văn huệ Vương.
Tài cả văn lãn võ , tuy nhiên ông không ham công danh phú quý
,khi vợ mất ông đã có ý muốn cáo quan về. Cuối cùng
được về ẩn cư nơi am Bích Động , gần chùa Quỳnh
Lâm , nay thuộc huyện Đông Triều , tỉnh Quảng Ninh ,Ông lập ra
thi xã Bích Động xướng họa cùng các bạn thơ như Nguyễn
Sưởng , nguyễn trung Ngạn ... Năm 1324 vua Trần minh Tông triệu ông ra
gánh vác việc nước , nhưng chẳng được bao lâu thì mất
. Tác phẩmcủa ông còn tập Cúc Đưong Di Cảo đã thất
lạc,hiện chỉ còn một ít bài thơ . QUY
CHU TỨC SỰ
( Trần Quang Triều )
Quy chu tức sự
Qủy ngộ niệm thù khinh, Quy tâm mộng tự vinh (oanh). Ðiểu đề yên thụ một, Phàm
đới tịch dương hành. Thu tước
sơn dung sấu, Triều khai thủy giám
minh. Túy ông hồn vị tỉnh,
Hồng diệp mãn giang thành. Dịch nghĩa Thuyền về
tức cảnh
Nghĩ đến những cuộc gặp gỡ giả
dối lòng càng coi nhẹ, Cho
nên giấc mộng về cứ vương vấn mãi. Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói,
Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà.
Hơi thu đẽo gầy dáng núi,
Triều lên, mặt nước như gương
sánh. Ông già say vẫn chưa
tỉnh, Lá đỏ rơi đầy
thành ven sông --Bản dịch của MaiLộc- Thuyền về
tức cảnh
Đời gian dối lòng nầy chẳng bận
, Mộng quay về vương vấn
khôn vơi . Chim kêu cây khuất
khói mờ , Cánh buồm ngang lướt
lơ mơ chiều tà . Thu gậm
nhấm núi xa mảnh khảnh , Nước
triều dâng sóng sánh gương trong . Lão say chưa tỉnh giấc nồng , Lá vàng tan tác trên sông rơi đầy .
Đề Gia Lâm tự Tâm hôi oa giác mộng, Bộ lý đáo thiền đường. Xuân vãn hoa dung bạc, Lâm u thiền vận trường. Vũ thu thiên nhất bích, Trì
tịnh nguyệt phân lương. Khách khứ tăng vô ngữ, Tùng
hoa mãn địa hương.
TQT Dịch nghĩa Lòng nguội lạnh với giấc mơ sừng con sên
Dạo bước đến cửa thiền Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh Rừng sâu, tiếng ve ngân dài Mưa tạnh, trời xanh biếc một
màu Ao trong, trăng mát dịu toả xuống Khách ra về, sư chẳng
nói Mặt đất thơm ngáy mùi hoa thông. Chùa Gia Lâm ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm,
ngoại thành Hà Nội Bản dịch của Mailoc
Đề Thơ Nơi Chùa Gia Lâm Vòng danh lợi lòng đà nguội ngắt Dạo cửa thiền thanh thoát bước chân .
Hoa đang mỏng mảnh tàn xuân
Tiếng ve rừng vắng như ngân khúc
sầu . Trời sau mưa một bầu
xanh ngát Mặt ao hồ trong vắt
ánh trăng . Khách đi sư
chẳng nói năng Hoa thông rụng
khắp hương dâng ngạt ngào .
Mailoc
Chu trung độc chước
Thu mãn sơn thành bội tịch liêu, Gia thư bất đáo hải thiên diêu. Nhân tình sơ mật
xao bồng vũ, Thế thái cao đê phách mạn triều. Tùng
cúc cố lưu ta dị lộ, Cầm thư tuế vãn hỷ đồng
điều. Kỷ đa lỗi khối hung trung sự, Thả hướng tôn
tiền thí nhất kiêu. Dịch nghĩa Thu
về đầy núi, càng khiến hiu quạnh bội phần, Thư nhà
không đến miền biển xa xăm này. Tình người thưa nhặt
như mưa gõ mui thuyền, Thói đời lên xuống như nước
triều vỗ bờ. Tùng cúc bạn cũ, than ôi, nay đã khác
nẻo, Tuổi già đèn sách, mừng rằng hợp điệu.
Biết bao nỗi niềm chồng chất trong lòng, Hãy thử giả khuây
trước chén rượu xem sao. Dịch
Thơ :
Uống Rượu Một Mình
Trong Thuyền Núi vào thu trông càng hiu hắt
Nơi biển xa vắng
bặt tin nhà. Tình
người thưa nhặt mưa sa
Thói đời lên
xuống sóng va mặt ghềnh
Bạn tùng cúc
buồn tênh rẽ hướng
Bên sách đèn vui hưởng
tuổi thu. Ngổn
ngang tâm sự mịt mù
Thử xém chén
rượu có vơi nỗi lòng.
Mailoc ĐỀ Phúc
Thành Từ Đường
Vân tự du du tuế nguyệt thâm, Từ
đường lưỡng bạn bách sâm sâm. Hoa ngưng túc vũ
thiên hàng lệ, Nguyệt ấn hàn đàm nhất phiến tâm. Ðài hạ thảo phân kim nhật lộ, Tùng trung hạc thức cựu
thời cầm. Dạ lai ký đắc đăng tiền mộng, Hải khoát
thiên cao hà xứ tầm.
Dịch nghĩa
Mây bay man mác năm tháng lâu rồi, Hai bên nhà thờ cây bách um tùm. Những hạt mưa đêm
đọng lại trên hoa như nghìn hàng lệ, Mặt trăng in xuống
đầm lạnh như một mảnh lòng. Dưới đài, cỏ rẽ
thành lối đi ngày nay, Trong cây thông, chim hạc nhớ cung đàn
thuở trước. Đêm đến ghi nhớ giấc mộng trước đèn, Nhưng trời cao biển rộng biết tìm đâu? Nguồn: Thơ văn
Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội,
1988 Dịch
Thơ: Đề
Nhà Từ
Đường Phúc
Thành Mây lững lờ tháng
năm man mác Bách
âm u bên vách từ đường.
Trên hoa mưa lệ
còn vương Mảnh
lòng như nguyệt đáy
gương lạnh đầm.
Cỏ dưới đài
rẽ phân lối nhỏ Trong bóng tùng hạc nhớ
đàn xưa Bên
đèn mộng cũ mới vừa
Trời cao biển rộng
biết đâu tìm về
Mailoc
Trường An hoài
cổ Hà nhạc chung
tồn cố quốc phi, Sổ hàng lăng bách bối tà huy. Cựu
thời vương khí mai thu thảo, Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp
phi. Dịch nghĩa Sông núi rốt cuộc vẫn còn mà nước cũ
đã đổi khác, Mấy hàng bách trồng trên gò đứng
phơi lưng dưới nắng chiều. Khí đế vương triều xưa
chôn vùi dưới cỏ mùa thu, Mưa chiều hiu hắt bướm nội
bay. Dịch
Thơ : Trường
An Hoài Cổ Sông núi đây, đâu rồi triều
cũ? Bách lăng sầu
đứng rũ tà dương.
Khí vương vùi
dưới cỏ đường
Mưa chiều hiu hắt
bướm đồng tủa bay
Mailoc Hoàng
Châu đạo lộ tác
Hành lộ thạch đầu hoạt, Loan vân
tạp chướng yên. Khách phàm thu vũ ngoại, Sơn tự tịch
dương biên. Lục ám tang ma địa, Hồng minh quất dữu thiên. Đăng xa không hữu ức, Quy tứ hựu thê nhiên. Dịch
nghĩa Đường đi đá
núi trơn, Mây ngàn lẫn với khói lam chướng. Cánh
buồn khách ngoài trời mưa thu, Ngôi chùa trên núi trong bóng
chiều tà. Mầu xanh che rợp đất dâu gai, Mầu hồng chiếu
sáng trời quýt bưởi. Lên xe luống những nhớ nhung, Ý
trở về lại thêm man mác. Dịch
Thơ : Làm Trên Đường
Đi Hoàng Châu Đường
đá núi trợt trơn sườn
dốc Khói mây ngàn
lam độc lờ mờ. Mưa thu buồm khách
phất phơ Hắt
hiu chùa núi đứng phơi
nắng tàn. Cỏ
gai dâu xanh rờn mặt đất,
Bưởi quit tươi
đỏ gấc trời hồng.
Lên xe se sắt chạnh
lòng, Tâm tư
trĩu nặng dường không
muốn về. Mailoc Giang thôn tức
sự Tây lân thôn
hạng cách đông lân, Kê khuyển tương văn cận yếu
tân. Hải yến nhật tà đê lộng ảnh, Giang hoa phong tế
viễn tuỳ nhân. Ðạo phùng mai vũ liên vân thục, Tàm đáo tang thiên trước diệp tân. Khước tiếu ngâm
ông tham thắng thưởng, Ngọc kinh quy trạo dĩ kiêm tuần.
Dịch
nghĩa Ngõ xóm Tây cách với
xóm Đông, Tiếng gà gáy chó sủa vọng sang nhau gần bến
sông chính. Dưới ánh trời tà, én biển là là bay
giỡn bóng. Trong làn gió nhẹ, hoa bên sông xa xa hướng theo
người. Lúa gặp mưa mai, chín liền đến chân mây, Tằm đến mùa dâu, theo lá mà đổi khác. Buồn cười
cho nhà thơ mãi ngắm cảnh đẹp, Đi thuyền về kinh sư
đã trọn tuần. Dịch Thơ :
Xóm Bên Sông Tức
Cảnh Xóm
Tây-Đông cách nhau một ngõ Trên bến sông gà
chó xác xao. Én
chiều lượn bóng đùa
nhau Hoa sông gió nhẹ
lao xao vẫy người. Lúa, mưa xuống rợp đồng
chín tới Tằm,
lá dâu ăn rỗi đầy
nong. Thi nhân cười
ngất cảnh trông, Về kinh phải chục hôm
ròng thuyền đi. Mailoc
MXT xin phép góp vui một
bài "Quy Chu Tức Sự" : Thuyền Về Tức Cảnh như
sau : Gặp gở mà chi dối trá thêm Tơ vương mộng mãi giấc êm đềm
Khói mờ lồng khuất cây chim
hót Bóng xế buồm dong sóng
gió êm Vách núi hơi thu về
nhựt nguyệt Thủy triều
mặt nước chiếu gương đêm Ông già chưa tỉnh còn say khướt Lá đỏ xây thành rụng rớt thêm Mai Xuân Thanh Ngày 20/09/2018
Đỗ Chiêu Đức tham
gia với các phần sau đây : 1. Bản chữ Hán của bài
thơ : 歸舟即事
QUY CHU TỨC SỰ 詭遇念殊輕, QUỶ
( NGỤY ) ngộ niệm thù khinh, 歸心夢自縈。
Quy tâm mộng tự vinh.( OANH ). 鳥啼煙樹沒,
Điểu đề yên thụ một, 帆帶夕陽行。 Phàm
đới tịch dương hành. 秋削山容瘦,
Thu tước sơn dung sấu, 潮開水鑑明。
Triều khai thủy giám minh. 醉翁渾未醒,
Túy ông hồn vị tỉnh, 紅葉滿江城。
Hồng diệp mãn giang thành.
陳光朝
Trần Quang Triều. 2. Chú Thích : Về nghĩa
của bài thơ thì Thầy đã giảng rõ rồi, em chỉ chú
thích thêm vài từ đặc biệt mà thôi : (1). QUỶ 詭 : là Gian xảo, Dối trá,
như QUỶ KẾ Đa Đoan. Từ nầy còn được đọc là
NGỤY, Ví dụ như NGỤY BIỆN chẳng hạn. Trong bài thơ được
phiên âm là QUỶ NGỘ, e là không được chính xác,
thiết nghĩ, nên phiên âm là NGỤY NGỘ thì đúng hơn.
NGỤY NGỘ có 2 nghĩa : a ). Sự gặp gỡ được
xếp đặt một cách giả dối. b ). Gặp phải toàn
những chuyện dối gian xảo trá.
(2). THÙ 殊 : là Khác nhau,
là Đặc Biệt. nên THÙ KHINH là : Đặc biệt xem nhẹ, có
nghĩa là Xem rất nhẹ. (3).
VINH( OANH ) 縈 : Từ nầy đúng ra phải đọc là OANH, nhưng
vì muốn cho ăn vận với từ KHINH ở trên nên mới đọc
là VINH ( Ví dụ như : Cổ Kim đọc trại thành Cổ Câm vậy
). OANH 縈 : có nghĩa là Quanh Quẩn, Lòng Vòng,
Lởn vởn, Vương Vấn... Trong bài thơ là : Mộng Tự Oanh là
Cứ lởn vởn mãi trong giấc mộng của mình hoài ! Hai câu thơ đầu
có nghĩa : Trong Ý niệm thì rất xem nhẹ những
cuộc gặp gỡ giả dối, không chân thật. Nhưng, trong lòng ( quy
TÂM ) thì khi về ( những cái giả dối đó ) cứ lởn
vởn mãi cả trong giấc ngủ ( Cứ bận lòng mãi về những
chuyện đó ). Cho nên... 2 câu Thực :
Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói,
Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà. Một câu
tả cảnh mơ hồ không rõ ràng, một câu là hình ảnh
hiển hiện trước mắt của cánh buồm trong buổi chiều tà... 2 Câu Luận cũng thế :
Hơi thu đẽo gầy dáng núi,
Triều lên, mặt nước như gương sáng. Cảnh
trí cũng như cuộc đời, cái giả dối gian trá mơ hồ hòa
lẫn trong cái rõ ràng chân thật của cuộc sống, nên chi...
2 câu Kết : 醉翁渾未醒,
Túy ông hồn vị tỉnh, 紅葉滿江城。
Hồng diệp mãn giang thành.
Ông già say hầu như ( hồn渾 là Hầu như ) chưa chịu tỉnh
dậy ( vì ngán ngẫm cho nhân tình thế thái ), để mặc cho
lá thu đỏ thắm rơi đầy cả trên sông chảy ra ngoại thành
! 3. DIỄN NÔM :
TỨC CẢNH SỰ ĐỜI KHI THUYỀN VỀ Xem thường
đời gian dối,
Sao lòng mãi vấn vương.
Chim kêu trong mây khói,
Thuyền đi dưới gió sương.
Thu về sơ xác lá,
Nước đầy lắp lánh gương.
Lão say chưa muốn tỉnh,
Mặc lá đổ muôn phương ! Lục
bát : Tình
đời giả dối xem khinh, Trở
về với mộng tự mình lân la. Khói vương
cây, tiếng chim ca, Nắng
chiều nghiêng đổ buồm xa đi về. Núi thu xơ
xác ủ ê, Nước
thu trong vắt tư bề lăn tăn. Say
mèm chẳng tỉnh riêng ông, Lá
thu rơi đỏ cả sông cả thành !
Đỗ Chiêu Đức. ___________________________________________________________________________________
Đỗ Chiêu Đức Chu Văn An
Chu Văn An 朱文安 (1292-1370)
hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là
Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công
nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người làng Văn
Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện Thanh Trì,
ngoại thành Hà Nội). Sau
khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở
nhà dạy học.Học trò theo học rất đông, trong số đó
có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát. Năm
Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám
tư nghiệp,dạy cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà
vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần
thì lộng quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ
xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức,
lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc
, huyện Chí Linh . Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời
Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt
tên thuỵ là Văn Trinh. Tác
phẩm: Chu Văn An từng có những tác phẩm như: Thất trảm sớ,
Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết
ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ
chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Sau đây là những bài thơ tiêu biểu của ông : 1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ
春旦
XUÂN ĐÁN 寂寞山家鎮日閒, Tịch
mịch sơn gia trấn nhựt nhàn, 竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà
ủng hộ khinh hàn. 碧迷草色天如醉, Bích
mê thảo sắc thiên như túy 紅濕花梢露未乾。 Hồngthấp
hoa tiêu lộ vị can. 身與孤雲長戀岫, Thân
dữ cô vân trừơng luyến tụ 心同古井不生瀾。 Tâm đồng
cổ tỉnh bất sanh lan. 柏薰半冷茶煙歇, Bá
huân bán lãnh trà yên yết, 溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu
nhất thanh xuân mộng tàn.
朱文安
Chu Văn An
* Dịch Nghĩa :
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở
rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc
giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng
bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã
cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm
chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn. *
DIỄN NÔM : Ngày Xuân Nhà tịch mịch núi
cao nghe vắng vẻ, Cửa
phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng ! Lục bát : Nhà cao vắng
vẻ an nhàn, Cửa tre xiêu
vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức.
2. Bài thơ Nguyệt Tịch
Bộ Tiên Du Sơn Tùng Kính :
月夕步仙
Nguyệt Tịch Bộ 遊山松徑
Tiên Du Sơn Tùng Kính
朱文安
Chu Văn An 緩緩步松堤,
Hoãn hoãn bộ tùng đê 孤村淡靄迷。
Cô thôn đạm ái mê 潮回江笛迥,
Triều hồi giang địch quýnh 天闊樹雲低。
Thiên khoát thụ vân đê 宿鳥翻清露,
Túc điểu phiên thanh lộ 寒魚躍碧溪。
Hàn ngư dược bích khê. 吹笙何處去,
Xuy sinh hà xứ khứ, 寂寞故山西。
Tịch mịch cố sơn tê (tây) * Dịch Nghĩa :
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du Lửng thửng dạo bước trên bờ đê dưới bóng tùng.
Mây khói mơ hồ như che khuất làng quê hẻo lánh. Nước
thủy triều lên trong tiếng sáo xa xa trên sông vắng. Trời cao rộng,
nên mây như là là thấp xuống gần ngọn ngọn cây hơn.Chim
về tổ bay trong làn sương mát nhẹ. Cá gặp lạnh nhảy dưới
khe nước trong biêng biếc. Đâu rồi tiếng tiêu sáo văng
vẳng trên sông. Để núi tây cũ thêm quạnh hiu, vắng lặng
! * Diễn Nôm : Ðêm trăng dạo bước dưới
rặng thông ở núi Tiên Du
Chầm chậm dưới bóng tùng,
Xóm nhỏ sương mông lung.
Nước về vang tiếng sáo,
Trời cao cây mây chùn.
Chim chiều bay về tổ,
Cá lạnh vượt khe rừng.
Tiêu thiều đà vắng ngắt,
Núi tây lại lạnh lùng. Lục Bát :
Thẩn thơ đi dưới bóng tùng,
Làng quê sương khói mông lung mơ màng. Nước
về tiếng sáo vẳng sang,
Trên cao mây thấp cây ngang lưng trời.
Chim bay về tổ sương rơi,
Lạnh căm khe nước quẩy đuôi cá về.
Tiêu thiều lặng ngắt tư bề,
Quạnh hiu làng cũ tái tê núi đồi !
Đỗ Chiêu
Đức 3. Bài thơ Linh Sơn Tạp Hứng : 靈山雜興
Linh Sơn Tạp Hứng 萬疊青山簇畫屏,
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình, 斜陽淡抹半溪明。
Tà dương đạm mạt bán khê minh 翠蘿徑裏無人到,
Thúy la kính lý vô nhân đáo, 山鵲啼煙時一聲。
Sơn thước đề yên thời nhất thinh.
朱文安
Chu Văn An
* Chú Thích : - Linh Sơn 靈山 : Tức núi
Chí Linh, là một ngọn núi thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa,
cao và hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu (nay thuộc xã
Giao An, giữa Lang Chánh và Thường Xuân). - Điệp 疊
: là Chất chồng lên nhau, nên Vạn Điệp là Chất chồng cả
muôn cả vạn lên với nhau. - Thốc 簇 : là Lượng
từ, chỉ(một) Cuộn, Bó, Bức, Tấm... - Đạm Mạt
淡抹 : là Thoa một lớp mỏng, trong bài thơ chỉ Ánh nắng
chiều chiếu nhàn nhạt. - Thúy La 翠蘿 : là những
dây leo màu xanh biếc. - Sơn Thước 山鵲 : là những
con qụa núi. - Thời 時 : là Thỉnh thoảng, là Chốc chốc. * Nghĩa bài thơ :
Chợt Hứng ở núi Chí Linh Cả muôn cả vạn
ngọn núi xanh chồng chất lên nhau, trông như một bức bình phong
tranh vẽ. Ánh nắng chiều nhàn nhạt chiếu làm cho dòng khe tranh
tối tranh sáng. Trên con đường cỏ phủ đầy dây leo xanh biếc
vì không người đi tới, thỉnh thoảng một vài tiếng qụa
núi kêu vang trong sương khói mơ hồ. Qủa là
một bức tranh núi non hùng vĩ thâm u, nơi đã từng là căn
cứ địa của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi trong
công cuộc kháng chiến chống quân Minh. * Diễn Nôm :
Núi non trùng điệp tựa như tranh,
Nắng chiếu chập chờn khe nước xanh.
Cỏ biếc dây leo đường núi vắng, Đâu
đây tiếng qụa khói mờ quanh. Lục bát : Điệp
trùng núi biếc tựa tranh, Nắng
chiều mờ tỏ khe xanh chập chờn.
Dây leo đường núi trống trơn, Một
vài tiếng qụa khói sương mơ hồ.
Đỗ Chiêu Đức 4. Bài thơ Thanh Lương Giang : 清涼江 Thanh
Lương Giang 山腰一抹夕陽橫, Sơn yêu
nhất mạt tịch dương hoành, 兩兩漁舟畔岸行。
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành. 獨立清涼江上望,
Độc lập Thanh Lương Giang thượng vọng, 寒風颯颯嫩潮生。
Hàn phong táp táp nộn triều sinh. 朱文安
Chu Văn An * Chú Thích : - Sơn Yêu 山腰 : là Cái
eo của núi, là Sườn núi. - Nhất Mạt Tịch Dương
一抹夕陽 : là Một vệt nắng chiều. - Bạn Ngạn
畔岸 : là vựa sát theo bờ sông. - Táp táp 颯颯
: là Phần phật, là Vi vút, là Vù vù... - Nộn Triều
Sinh 嫩潮生 : Nước Thủy triều bắt đầu lên. * Nghĩa
Bài Thơ : Dòng
Sông Thanh Lương Một vệt nắng chiều vắt
ngang qua sườn núi. Trên sông từng đôi từng hàng thuyền
câu đang dọc theo bờ sông mà về bến. Ta đứng một mình
trên dòng sông Thanh Lương mà nhìn ngắm. Gió lạnh thổi
vi vút từng cơn trong khi con nước thủy triều đang bắt đầu
dâng cao.
* Diễn Nôm : Một
vệt nắng chiều núi vắt ngang, Thuyền
câu về bến xếp song hàng. Một
mình đứng ngắm Thanh Lương chảy, Vi
vút gió về nước lại sang. Lục Bát : Nắng
chiều sườn núi vắt ngang, Song
đôi về bến hai hàng thuyền câu.
Thanh Lương đứng ngắm hồi lâu, Vụt
vù gió lạnh lên mau thủy triều !
Đỗ
Chiêu Đức
5. Bài thơ Thôn Nam Sơn Tiểu Khế : 村南山小憩 Thôn Nam Sơn Tiểu
Khế 閑身南北片雲輕, Nhàn
thân nam bắc phiến vân khinh, 半枕清風世外情。
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình. 佛界清幽塵界遠,
Phật giới thanh u trần giới viễn, 庭前噴血一鶯鳴。
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
朱文安
Chu Văn An
* Chú Thích : - Khế 憩: là nghỉ ngơi, Nghỉ
mệt. Tiểu Khế 小憩 : là nghỉ xả hơi một chút.
- Nhàn Thân : Tấm thân nhàn hạ. - Bán Chẩm : là Nửa
gối. - Phún huyết : là Phun máu, mửa máu. * Nghĩa Bài
Thơ :
Nghỉ Tạm Ở Một Thôn Của Nam Sơn Vì
bản thân nhàn rổi nên như đám mây nhẹ trôi từ nam
đến bắc. Làn gió mát thổi nhè nhẹ bên gối, tâm
tình lâng lâng như vượt khỏi cuộc đời nầy. Cỏi Phật
rất thanh tịnh u nhã như xa hẵn cỏi trần. Trước sân một con
chim oanh hót đến mửa máu ra ( vì phải mang cái nghiệp ca hót
của cỏi trần thế !). * Diễn Nôm :
Thân nhàn nam bắc dõi mây xa,
Nửa gối ngoài đời gió thoảng qua.
Cỏi Phật thanh u xa cỏi tục,
Ngoài sân mửa máu một oanh ca ! Lục bát :
Thân nhàn nhẹ tựa mây bay,
Thoát tình nhân thế gió lay gối đầu.
Lánh trần cỏi Phật thanh u, Trước
sân nặng nghiệp máu trào oanh ca !
Đỗ Chiêu Đức 6. Bài thơ Vọng Thái Lăng : 望泰陵
Vọng Thái Lăng 松秋深鎖日將夕, Tùng
thu thâm tỏa nhựt tương tịch, 煙草如苔迷亂石。
Yên thảo như đài mê loan thạch 黯淡千山風更愁, Ảm đạm thiên
sơn phong cánh sầu 消沉萬古雲無跡。 Tiêu
trầm vạn cổ vân vô tích. 溪花欲落雨絲絲,
Khê hoa dục lạc vũ ti ti, 野鳥不歸山寂寂。
Dã điểu bất quy sơn tịch tịch. 幾度躊躇行復行,
Kỷ độ trù trừ hành phục hành, 平蕪無盡春生碧。
Bình vu vô tận xuân sanh bích. 朱文安
Chu Văn An * Chú thích :
- Vọng : là Trông ngóng, là Nhìn về... - Tùng thu : Những
cây thông vào mùa thu. - Thâm Tỏa : là Khóa kín, ở
đây có nghĩa là Phủ trùm. - Yên Thảo : Cỏ xanh mờ
như khói. - Tiêu Trầm : là Chìm đắm. - Dã
Điểu : Những con chim ngoài đồng nội. - Bình Vu : là Cánh
đồng hoang vu, là Đồng trống. Trong bài thơ có
2 từ Hán Việt mà nghĩa rất thông dụng là : - Trù
Trừ 躊躇 : là Do dự không quyết. - Ảm Đạm 黯淡
: là Trời mờ mờ tối. Vì là trời của mùa thu, như cụ
Nguyễn Du đã tả trong Truyện Kiều :
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây. * Nghĩa bài
thơ : Trông
Ngóng về hướng Thái Lăng Những cây
thông vào mùa thu vẫn xanh om phủ kín khi ánh nắng đã về
chiều, cỏ xanh mờ ảo như rêu phủ mờ các tảng đá ngổn
ngang. Ngàn núi chìm trong ảm đạm nên gió thổi càng cảm
thấy buồn hơn, từ vạn cổ tiêu trầm tan biến nên mây không
còn để lại vết tích gì nữa cả. Hoa trong khe suối muốn
rụng cả trong cơn mưa phùn lất phất như tơ, những con chim ngoài
đồng nội không bay về nên núi rừng càng vắng lặng. Mấy
lần ta do dự trù trừ muốn đi rồi lại muốn đi, trong cảnh
hoang vu mênh mông vô tận trong sắc màu biêng biếc tựa mùa xuân. * Diễn Nôm : Rừng
thông phủ kín nắng chiều tắt,
Cỏ phủ rêu xanh đá chất ngất.
Ảm đạm ngàn non gió gợi sầu,
Tiêu trầm muôn thuở mây bay mất.
Chim không về tổ núi im lìm,
Hoa rụng theo dòng mưa lất phất.
Mấy lượt trù trừ đi lại đi,
Hoang vu vô tận xuân ngây ngất ! Lục bát :
Rừng thông phủ kín nắng tàn,
Cỏ mờ rêu nhạt ngổn ngang đá luồn.
Âm u ngàn núi gió buồn,
Tiêu tan mất hút mây tuôn muôn đời.
Bên khe hoa rụng mưa rơi, Chim
chiều đâu vắng núi đồi lặng yên.
Trù trừ cất bước chẳng nên, Mênh
mông xuân biếc gợi thêm nỗi niềm !
Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________________________________________________________
Bản dịch: Mailoc, Đỗ
Chiêu Đức, Kim Oanh, Songquang, Phương hà, Mai Xuân Thanh __________________________________________________________
Vài bài thơ
của thi nhân Chu Văn An gởi bạn
cuối tuần
ML XUÂN ÐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn Bích mê thảo sắc thiên
như tuý Hồng thấp hoa sao lộ vị can Thân dữ cô vân
trường luyến tụ Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan Bách
huân bán lảnh trà yên yết Khê điểu nhất thanh xuân
mộng tàn Chu Văn An * Dịch Nghĩa
: Sớm Xuân Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh
thơi, Cửa phên nghiêng chắn hơi
lạnh nhẹ . Màu biếc mây trời
làm đắm say Hoa hồng ngậm sương
chưa tan Thân như mây cô đơn
lưu luyến núi Lòng như giếng
cổ không gợn sóng Khói thông
tan, trà hết khói Một tiếng chim
bên suối làm tan giấc mộng xuân
SỚM MAI ĐẦU XUÂN Ngày
nhàn hạ trên non lều vắng , Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn .
Trời trong cỏ biếc ngút ngàn
, Hồng dầm sương
sớm chưa tan lệ tràn . Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến , Sóng lòng như cổ giếng lặng
căm . Hương phai trà
nguội khói tan , Chim kêu
trong suối mộng tàn giấc Xuân .
Mailoc phỏng dịch
Nguyệt
tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính 。
Chu Văn An Hoãn
hoãn bộ tùng đê, Cô thôn đạm ái mê. Triều hồi, giang địch quýnh, Thiên khoát, thụ vân đê. Túc điểu phiên thanh lộ, Hàn ngư dược bích khê. Xuy sinh hà xứ khứ, Tịch mịch cố sơn tê (tây). Dich Nghĩa:
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi
Tiên Du Lững thững dạo chơi trên đê tùng Làn mây nhạt che khuất làng hẻo lánh Triều xuống tiếng
địch trên sông nghe xa vắng Trời rộng, mây là là
ngọn cây Chim về tổ bay qua sương mát Cá gặp
lạnh nhảy dưới khe trong Người thổi sáo đi đâu
vắng? Để núi tây cũ thêm quạnh hiu.
ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI
TIÊN DU (1) Trên đê tùng , dạo chơi thong thả ,
Làn khói mờ che cả cô thôn
. Triều hồi , địch
vẳng bến sông , Trời
quang mây lượn ngàn thông la đà . Chim xao động sương ngà đêm mát ,
Nước lạnh tanh cá quạt khe trong
. Tiếng sênh im bặt
mênh mông , Núi xưa
hiu quạnh hư không một màu .
Mailoc phỏng dịch (2)
Lửng thửng trên bờ thông ,
Sương khói mờ cô thôn .
Triều lui tiếng sáo vẳng ,
Trời tạnh rừng mây lồng .
Sương rung chim lũ lượt ,
Cá lạnh quẫy khe trong .
Sênh ai vừa bặt tiếng ,
Non cũ quạnh trời không
Mailoc
Linh sơn tạp
hứng Vạn
điệp thanh sơn thốc họa bình, Tà dương đạm mạt
bán khê minh. Thuý la kính lý vô nhân đáo, Sơn
thước đề yên thời nhất thanh. Dịch
nghĩa Muôn
lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ, Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe. Trong lối cỏ biếc, không người đến, Thỉnh thoảng một
tiếng chim thước kêu trong khói mù. Dịch Thơ Vịnh
Cảnh Núi Chí Linh (1)
Núi chập
chùng tựa
tranh xanh ngát Nửa khe sâu
nắng nhạt
chiều tà.
Lối
mòn vắng
lặng người
qua, Kêu sương
tiếng thước
vọng xa từng
hồi. (2) Trùng
trùng núi biếc đẹp
như tranh, Nhàn nhạt nửa
lòng suối
nắng hanh. Cỏ biếc
đường quanh người
vắng ngắt,
Từng
hồi thước
quát xé
trời thanh.
Mailoc
Thanh Lương
giang Sơn yêu nhất mạt tịch
dương hoành, Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng, Hàn phong táp táp
nộn triều sinh. Dịch nghĩa Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi, Dọc
theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một. Đứng một
mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh, Gió lạnh vi vút,
nước triều dâng lên. Dịch
Thơ: Sông Thanh
Lương Nắng
chiều một
vệt vắt
lưng đồi,
Thuyền
cá xuôi
bờ cứ
cặp đôi
Lặng
ngắm Thanh Lương
hồn lảng
đảng, Lao xao gió lạnh
nước lên
rồi. Mailoc Thôn Nam sơn
tiểu khế Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh, Bán chẩm thanh phong
thế ngoại tình. Phật giới thanh u, trần giới viễn, Đình
tiền phún huyết nhất oanh minh.
Dịch nghĩa
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp
nam bắc, Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài
cuộc đời. Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời, Trước
sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu. Dịch Thơ : Núi
Thôn Nam Tạm Nghỉ
Thân như mây bềnh
bồng nam bắc
Nửa
gối trăng
gió mát
tâm an. Thanh u cõi Phật, lánh
trần, Oanh kêu, hoa rỏ máu
loan sân ngoài
Mailoc
Vọng Thái Lăng Tùng thu thâm toả nhật tương tịch, Yên thảo
như đài mê loạn thạch. Ảm đảm thiên sơn phong cánh
sầu, Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích. Khê hoa dục lạc
vũ ti ti, Dã điểu bất đề sơn tịch tịch. Kỷ độ
trù trừ hành phục hành, Bình vu vô tận xuân sinh bích.
Dịch nghĩa
Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp
về chiều, Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá
ngả nghiêng. Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn, Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết. Hoa bên
suối sắp rụng, mưa lất phất, Chim ngoài đồng nội im tiếng,
núi quạnh hiu. Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi, Cỏ
rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc. Dịch Thơ :
Trông Về Thái
Lăng Thông giăng kín ngày thu sắp
tắt, Đá rêu phong xanh ngát cỏ rờn,
Ngàn non ảm
đạm gió
vờn, Mây tan muôn thuở đâu
còn dấu
xưa. Hoa suối rụng
chiều mưa
lất phất,
Bặt
tiếng chim hiu hắt
núi ngàn.
Dùng dằng
cất bước
mấy lần,
Đồng
xanh bát ngát
sắc xuân
mơ màng.
Mailoc -- Chu
Văn An 朱文安 (1292-1370) hiệu là Tiều
Ẩn,tên chữ là Linh Triệt,
tên thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Sau khi thi đậu thái
học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học.Học
trò theo học rất đông, trong số đó có Phạm Sư
Mạnh, Lê Quát. Năm Khai Thái đời Trần Minh
Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám tư nghiệp,dạy
cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà vua mải
mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở
ẩn tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện
Chí Linh . Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần
Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên
thuỵ là Văn Trinh. Tác phẩm: Chu Văn An từng
có những tác phẩm như: Thất trảm sớ, Tiều ẩn thi
tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ chữ
Hán chép trong Toàn Việt thi lục. ĐỖ CHIÊU ĐỨC: Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần
sau đây : 1. Nguyên bản chữ
Hán của bài thơ :
春旦 XUÂN
ĐÁN
寂寞山家鎮日閒, Tịch
mịch sơn gia trấn nhựt nhàn, 竹扉斜擁護輕寒。 Trúc
phi tà ủng hộ khinh hàn. 碧迷草色天如醉, Bích
mê thảo sắc thiên như túy 紅濕花梢露未乾。 Hồngthấp
hoa tiêu lộ vị can. 身與孤雲長戀岫, Thân
dữ cô vân trừơng luyến tụ 心同古井不生瀾。 Tâm
đồng cổ tỉnh bất sanh lan. 柏薰半冷茶煙歇, Bá
huân bán lãnh trà yên yết, 溪鳥一聲春夢殘。 Khê
điểu nhất thanh xuân mộng tàn. 朱文安 Chu
Văn An 2. Dịch Nghĩa :
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở
rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc
giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng
bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã
cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm
chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn. 3.
DIỄN NÔM : Nhà tịch mịch núi
cao nghe vắng vẻ, Cửa
phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng ! Lục bát :
Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức KIM
OANH: Sớm Xuân
Núi cao nhà vắng thanh nhàn Phên thưa gió lạnh lan tràn giá đông
Trời pha sắc cỏ xanh đồng
Sớm mai long lánh hoa hồng điểm sương
Thân đây mây luyến núi vương
Lòng như giếng cạn sóng dường lắng
tan Trà vơi lửa tắt canh tàn
Chim kêu tỉnh mộng ngỡ ngàng giấc xuân
Kim Oanh SONGQUANG: SQ xin được phỏng dịch các bài thơ Cổ Việt
thi của CVA qua sự giải nghĩa và phỏng dịch của ML.SQ nghĩ rang những
bài phỏng dịch nầy chỉ cốt mua vui chứ khg thể nào diển tả
nổi ý nguyên thuỷ của tiền nhân CVA. Sáng Xuân Nhà bên núi
dìu hiu,lòng thanh thản Hơi lạnh
lan,phên cửa chắn len vào Màu
da trời biêng biếc,cỏ xanh xao Sương
mai sớm chưa tan,hồng ngậm giọt Thân
khách tựa mây đơn lưu luyến núi Cơn sóng lòng như giếng cổ nằm phơi Trà thuốc cạn,lửa thong khói tan rồi Bên suối vắng,tiếng chim tàn Xuân mộng
songquang
Đêm trăng dạo bước núi Tiên
Du Trên đê tùng,dạo chơi đi
lững thững Làn mây che khuất nẻo
cảnh cô thôn Triều nước xuống,tiếng
sáo vẳng bên sông Trăng trong sáng,mây
la đà ngọn bách Chim về tổ
bay qua làn sương mát Nước
khe sâu,cá lạnh nhảy lung tung Tiếng
sáo im,người thổi sếnh đã ngưng Phía tây núi,cảnh xưa càng hiu quạnh songquang Vịnh cảnh núi Chí Linh Núi xanh trùng điệp như tranh họa sỉ Nửa lòng khe mây hé buổi chiều tà
Lối cỏ mòn chẳng thấy bóng người
qua Tiếng chim thước vọng xa mù
sương khói songquang Sông Thanh Lương
Vệt nắng chiều vắt ngang trên sườn
núi Dọc dòng sông thuyền cá
cặp từng đôi Bờ Thanh Lương
ngắm cảnh một mình thôi Gió
vi vút,nước triều dâng thấy lạnh songquang Núi Thôn Nam nghĩ chân Thân
tựa mây bồng bềnh bay Nam Bắc Bên
gối trăng tâm xao nhảng sự đời Tìm cõi Phật,đường trần nên xa lánh Nghe tiếng chim,nhìn hoa nở thảnh thơi songquang Vọng Thái lăng Chiều sắp tắt rừng tùng thu chen kín Cỏ xanh rờn,rêu che đá ngã nghiêng Non ngàn ảm đạm,gió vờn buồn thêm
Mây muôn thuở tan không còn lưu dấu
Hoa bên suối rung,mưa chiều lất phất
Ngoài đồng hoang tiếng chim núi bặt
im Lựa lần do dự cất bước chân
lên Cỏ cây rập rạp,sắc
Xuân xanh rờn songquang
PHƯƠNG
HÀ: 1/ Phỏng dịch bài
XUÂN ĐÁN Sáng Đầu Xuân
Núi cao, nhà vắng, sống an nhàn
Phên nứa vẹo xiêu tránh lạnh sang
Ngây ngất trời say màu cỏ biếc
Long lanh hoa ửng giọt sương lan Thân như mây lẻ ôm non thẳm Lòng tựa giếng cằn cạn sóng loang
Lửa rụi, khói tan, trà nguội lạnh
Chim kêu thảng thốt mộng phai tàn.
Phương
Hà 2- Phỏng dịch bài NGUYỂT TỊCH BỘ TIÊN DU SƠN TÙNG
KÍNH Đêm Trăng Dạo Bước Dưới Rặng Tùng Ở Núi
Tiên Du Dưới tùng, lững thững dạo bờ đê Ẩn khuất thôn làng mây khói che Sông vắng, triều dâng, tiêu vẳng giọng
Trời cao, mây thấp, lá vươn khoe
Chim bay về tổ sau sương tỏa Cá nhảy trong khe trốn lạnh về Tiếng sáo lịm dần trên sóng nước
Non tây lặng lẽ cảnh sầu tê.
Phương Hà 3- Phỏng dịch bài LINH SƠN TẠP HỨNG
Ngẫu
Hứng Ở Núi Chí Linh
Núi xanh trùng điệp tựa bình phong
Ánh nắng chiều phai, nước sẫm dòng
Cỏ phủ tràn lan đường vắng lặng
Quạ kêu đứt quãng khuấy mù không.
Phương Hà 4- Phỏng dịch bài THANH LƯƠNG GIANG Sông Thanh
Lương Sườn núi chiều in vệt vắt ngang Thuyền câu từng cặp sóng đôi sang Một mình ngắm cảnh Thanh Lương ấy Gió lạnh vi vu sóng nước tràn Phương
Hà 5- Phỏng dịch bài THÔN NAM SƠN TIỂU KHẾ Tạm Nghỉ
Ở Thôn Nam Nhàn nhã như mây nhẹ nhõm trôi Hiu hiu gió mát dạ an thơi Thanh u cõi Phật xa trần thế Hoa đỏ nhuộm sân, nhạn cất lời.
Phương Hà 6-Phỏng dịch bài VỌNG THÁI LĂNG
Trông
Về Thái Lăng Tùng che rợp bóng kín trời chiều Phiến đá cỏ che tựa mọc rêu Gió thổi miên man, non ảm đạm Mây trôi biền biệt, cảnh tiêu điều Hoa rơi bên suối, mưa lay lắt Chim lặng ngoài nương, núi quạnh hiu Nửa ở nửa đi ngần ngại mãi Điệp trùng cỏ biếc ngọn liêu xiêu.
Phương Hà
Mai Xuân Thanh:
Xuân Sớm (Qua thơ diễn Nôm của thầy Mailoc) Vắng vẻ trên
non ở hưởng nhàn Phên tre
xiêu vẹo lạnh tràn lan Mênh mông
bãi cỏ xanh biêng biếc Bát
ngát sương hoa thắm chứa chan Đỉnh
núi mây ngàn cao quyến luyến Lòng ta giếng cạn thấp bình an Năm canh lửa tắt trả vơi thuốc Một tiếng chim xuân giấc mộng tàn
Mai
Xuân Thanh Ngày 13/08/2018
THƠ NGUYỄN ỨC Bản dịch: Mailoc, Phương
Hà, Đỗ Chiêu Đức Vài
bài thơ của Nguyễn Ức
, một thi nhân đời Trần, xin chuyển
đến bạn để có vài phút
nhẹ nhàng cho tâm
hồn cuối tuần. Thân ML Nguyễn Ức 阮億 hiệu
là Lan Trai. Chưa rõ quê quán ở đâu, sinh và mất năm nào.
Chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông, ông từng làm quan ở
viện hàn lâm. Nguyễn Ức còn là bạn thân của Văn Huệ
Vương Trần Quang Triều, có tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang
Triều sáng lập. Tác phẩm
của ông hiện còn 20 bài thơ chép trong "Toàn Việt thi lục".
Thu
dạ dữ cố nhân
Chu Hà thoại cựu
Thu lai ngẫu bạng
cúc hoa tùng, Nhất thất chi lan xú
vị đồng. Thế sự phiếm
luân đăng ảnh
ngoại, Giao tình
thâm ký tửu
bôi trung. Kỷ
hành bạch phát
thì tương vãn, Vạn lý thanh vân
tín vị thông. Ðộc đối
bất lai kim tịch mộng, Tây phong xuy vũ lạc
ngô đồng. Nguyễn
Ức Dịch nghĩa Mùa thu về, ngẫu nhiên ngồi bên khóm hoa cúc, Cùng một nhà chi lan, hương như nhau. Bên ánh đèn
bàn phiếm việc đời, Tình bầu bạn gửi hết vào
chén rượu. Vài sợi tóc bạc, báo tuổi đã sắp
già, Đường công danh vạn dặm, nay vẫn chưa tỏ lối. Riêng gặp mặt nhau, đêm nay khỏi phải nằm mộng, Gió
tây hắt mưa làm rụng lá ngô đồng. Dịch Thơ
: Đêm
Thu Cùng Bạn Chu Hà Ôn
Chuyện Cũ Bên cúc
vàng ngẫu nhiên cùng ngắm
Chung một nhà cùng
đẳm chi lan Bên
đèn thế sự phiếm bàn,
Tình thâm gửi trọn
chén tràn ly bôi. Vài sợi tóc như
vôi, già tới, Đường công danh vời
vợi ngàn xa. Gặp
nhau đêm trắng thiết tha, Gió tây mưa dập xót
xa ngô đồng . Mailoc phỏng
dịch Bạc chu Ứng
Phong đình ngẫu đề
Hệ lãm giang đình mịch thắng du, Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu, Oanh hoa bất thức
hưng vong sự, Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu. Nguyễn
Ức Dịch
nghĩa Buộc thuyền cạnh đình
bên sông tìm chơi thắng cảnh, Hành cung triều trước,
đã thành gò hoang. Mùa xuân chẳng biết việc hưng
phế, Làm rối nắng xuân mãi chưa thôi! Dịch Thơ : Bên
Đình Ứng Phong Ngẫu Hứng
(1) Buộc
con thuyền bên đình dạo
cảnh, Điện
xưa đâu để lạnh
gò hoang. Phế
hưng thế sự mơ màng,
Oanh-hoa nào biết hót
vang xuân về (2)
Bên đình thuyền buộc
ngắm quan san, Cung điện
triều xưa đã phế tàn.
Thế sự hưng
vong oanh chẳng đoái, Trong hoa xuân nắng líu lo vang.
Mailoc Chu quá Bắc Giang Tiên
Du tác Khách phàm lịch
lịch quá Tiên Du, Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu. Bán tháp tịch dương cô sát quýnh, Nhất giang minh nguyệt
tứ kiều thu. Sương dư hồng đạo liên vân thục, Vũ hậu đan phong cách ngạn vu. Quy tứ bất kham phùng
nghịch thuỷ, Chỉ trình hà nhật đáo Thần Châu.
Nguyẽn
Ức Dịch
nghĩa Buồm khách chặng
chặng qua Tiên Du, Thẹn thấy non xanh đối cùng đầu bạc. Bóng chiều rớt lại trên nửa ngọn tháp, xa tít một ngôi
chùa cô đơn, Một giòng sông trăng sáng, bốn nhịp
cầu thu. Sau khi sương sa, lúa chín vàng liền với chân
mây, Sau lúc mưa tạnh, chòm phong đỏ bên kia sông xa lắc. Chịu sao nổi, khi lòng muốn về, lại gặp giòng nước ngược. Đường đi tuy gang tấc, biết ngày nào tới Thần Châu.
Dịch Thơ
CảmTác
Thuyền Qua Núi Tiên
Du Buồm lớp
lớp qua Tiên Du chặng, Trước non xanh đầu trắng
thẹn thùa. Tà
dương hiu hắt tháp chùa,
Cầu thu trăng sáng
bóng đùa dòng sông.
Sương vừa tan lúa
đồng vàng ối, Bên sông thu lá đỏ sau mưa.
Muốn về nước
ngược khổ chưa? Thần Châu gang tấc
như rùa thuyền đi.
Mailoc
phỏng dịch
Biên tập Cúc
Đường di cảo cảm
tác Lăng bách âm âm
toả thuý vi, Sổ thanh đề điểu tống tàn huy.
Đỉnh hồ ba phiếm long du viễn, Hoa biểu vân thâm hạc
vị quy. Khách lộ kỷ niên ta lạo đảo, Quân thiên
ngọ dạ mộng y hi. Ỷ lan vô hạn thương tâm sự, Mục đoạn sơn thành lệ ám huy.
Nguyễn
Ức Dịch
nghĩa Những cây bách trên
lăng mộ âm u, một màu xanh biếc trùm kín, Vài tiếng
chim tiễn đưa bóng chiều tàn. Sóng rập rờn quanh đỉnh
bên hồ, rồng càng xa vắng, Mây hoa biểu mù mịt, hạc
vẫn chưa về. Ôi, lận đận bao năm trên con đường
đất khách, Mộng chập chờn giữa trời lúc nửa đêm. Tựa lan can, chuyện đau lòng không kể xiết, Vời trông rặng núi , những lệ gạt thầm
Dịch
Thơ : Cảm
Tác Khi Biên Tập
Di Cảo Của Cúc
Đường Lăng mộ
âm u, bách rậm rì,
Chim chiều mấy tiếng
tiễn tà huy. Đỉnh
hồ sóng cuộn rồng càng
vắng, Hoa biểu
mây mờ hạc mãi đi.
Đất khách tháng
ngày lận đận bước,
Bên trời hồn mộng
chập chờn mi. Chuyện
lòng man mác lan can tựa, Núi thẳm trông vời
gạt lệ bi.
Mailoc phỏng dịch Tống Nhân Bắc
Hành Ðô môn hồi
thủ thụ thương
thương, Lập mã
tần châm khuyến
khách trường. Nhất
đoạn ly tình
câm bất đắc, Tân đầu chiết liễu
hựu tà dương.
Dịch
nghĩa Ngoảnh lại cửa đô
thành cây cối xanh xanh, Dừng ngựa liên tiếp rót rượu mời
khách. Không sao ngăn nổi, một khúc tình ly biệt, Bên
bến sông bẻ cành liễu trong bóng chiều tà. Dịch Thơ
: Tiễn
Người Đi Phương
Bắc Cửa
kinh thành cây xanh ngoảnh lại,
Ngựa dừng cương
rót mãi mời anh. Nghẹn ngào tiễn biệt
khôn đành Bên
sông bẻ liễu chiều tàn
mênh mang
Mailoc PHƯƠNG
HÀ PHỎNG DỊCH: 1- Phỏng dịch
bài Thu dạ dữ cố nhân
Chu Hà thoại cựu
Hàn
Huyên Trong Đêm Thu Xưa Cùng Bạn Chu Hà Thu xưa, gặp bạn
bên chòm cúc Thơm ngát hương
lan tỏa khắp nhà Dưới ánh
đèn đêm, người phiếm luận Trong tình thân hữa, rượu dần pha Tóc nay điểm bạc, già đang tới Mây mãi mờ xanh, bạn vẫn xa Đêm vắng dẫu mơ nào gặp lại Ngô đồng lá rụng khắp hiên nhà. Phương Hà
phỏng dịch 2- Phỏng dịch bài Bạc chu Ứng
Phong đình ngẫu đề
Ngẫu
Hứng Làm Thơ Bên Đình Ứng Phong Bên đình, buộc
mái chèo, lên dạo Cung điện
ngày xưa nay bỏ hoang Vô thức, chim
hoa cùng rộn rã Xôn xao khuấy
động nắng xuân vàng.
Phương Hà phỏng dịch 3- Phỏng dịch Chu
quá Bắc Giang Tiên Du tác Cảm
Tác Khi Thuyền Qua Tiên Du
Tiên Du từng chặng, chiếc thuyền qua
Thấy cảnh non xanh thẹn tuổi già
Ánh nắng lụi tàn trên tháp quạnh
Sông trăng lấp lóa dưới cầu xa
Sương vừa tan giọt, đồng vàng trải
Mưa mới ngừng cơn, lá đỏ pha
Bất lực khôn về khi nước ngược
Thần Chầu sát cận vẫn mờ nhòa
Phương
Hà phỏng dịch 4- Phỏng dịch Biên tập
Cúc Đường di cảo cảm
tác Cảm Tác Khi Biên Tập Di Cảo Cúc ĐƯờng
Trên
lăng, tán bách xanh rì tỏa Khắc
khoải lời chim tiễn nắng tàn Sóng
vỗ miên man, rồng mãi vắng Mây
lan mờ mịt, hạc chưa sang Lạc loài
đất lạ, bao năm tủi Khắc khoải
canh sầu, một giấc hoang Đứng tựa
lan can lòng nặng trĩu Vời trông
núi thẳm lệ đôi hàng....
Phương hà phỏng dịch 5-Phỏng dịch Tống
Nhân Bắc Hành Tiễn Người Đi Phương
Bắc Ngoảnh lại cửa thành xanh bóng lá Ngựa dừng mỗi chặng, rượu say cùng Ngậm ngùi tấc dạ, sầu ly biệt Liễu vẫy tạ từ nơi bến sông. Phương Hà phỏng
dịch Bản dịch ĐỖ
CHIÊU ĐỨC: Đỗ
Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây (có chỉnh vài từ
không chính xác theo bản của Thi Viên, mong Thầy soi xét):
* Bản chữ Hán cổ của bài thơ
Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu : 秋夜與故人朱何話舊
Thu Dạ Dữ Cố Nhân Chu Hà Thoại Cựu 秋來偶伴菊花叢,
Thu lai ngẫu bạn cúc hoa tùng, 一室芝蘭嗅味同。
Nhất thất chi lan khứu vị đồng. 世事泛談燈影外,
Thế sự phiếm đàm đăng ngoại ảnh 交情深寄酒杯中。
Giao tình thâm ký tửu bôi trung 幾莖白髮時相晚,
Kỷ hành bạch phát thời tương vãn, 萬里青雲訊未通。
Vạn lý thanh vân tín vị thông. 獨對不來今夕夢,
Độc đối bất lai kim tịch mộng, 西風吹雨落梧桐。
Tây phong xuy vũ lạc ngô đồng. 阮億
Nguyễn Ức * CHÚ THÍCH : - Cố Nhân : là Người Xưa,
là Bạn Cũ. - Thoại Cựu : Nhắc chuyện xưa, chuyện cũ. - Ngẫu Bạn 偶伴 : Ngẫu nhiên được bầu bạn. Thi Viên
ghi chữ Bàng 徬 là Bàng Hoàng 徬徨. - Khứu 嗅
: là Ngửi, nên Khứu Vị là Ngửi mùi. Còn Thi Viên ghi chữ
XÚ 臭: là Mùi Hôi, thối. Nên Xú Vị Đồng 臭味同
là Mùi hôi thối giống như nhau. - Phiếm Đàm : là
Nói chuyện phiếm. Bản của Thi Viên là Phiếm Luận 泛論:
là Luận chuyện phiếm, không sát nghĩa bằng Phiếm Đàm,
hơn nữa Phiếm Luận chữ LUẬN lại sai Luật Bằng Trắc trong câu. - Kỷ Hành : là Mấy Cọng , mấy Sợi. - Tín 訊
: là Âm Tín 音訊 là Tin Tức. Thi Viên ghi là Tín 信
là Thư Tín, không sát nghĩa với từ Vị Thông 未通
ở phía sau. Tín Vị Thông 訊未通 Có nghĩa là Không
thông, không biết tin tức gì của nhau cả ! * DỊCH NGHĨA :
Đêm Thu Nhắc Chuyện Cũ Với Người Xưa Là Chu Hà
Nhớ thuở thu về, ngẫu nhiên được
bầu bạn cùng bạn bên khóm cúc, nên một nhà cùng sực
nức mùi của hoa chi lan. Bên ánh đèn đêm, ta cùng nhau bàn
phiếm về chuyện đời, và cái giao tình của ta càng sâu
đậm thêm qua chung rượu. Nay thì, lơ thơ mấy cọng tóc trắng
khi tuổi đã về chiều, lại cách trở vạn dặm mây xanh bặc
vô âm tín. Một mình ngồi dưới ánh đèn biết bạn
cũng không tới được trong giấc mộng đêm nay, ngoài kia, gió
tây đang thổi những giọt mưa thu làm rơi rụng lá ngô đồng.
Khóm cúc
tượng trưng cho sự thanh cao nhàn nhã như ẩn sĩ Đào Tiềm
đời Tấn " Thái cúc đông ly hạ (Hái cúc ở bờ
giậu phía đông), còn hoa chi lan tượng trưng cho tình bạn cao
nhã thắm thiết. Nhắc chuyện cũ với bạn xưa vì quan san cách
trở, lại bặc vô âm tín, lại tuổi già sức yếu, biết
là khó có thể gặp lại nhau, dù là trong mộng ! Tình cảm
quả là thắm thiết não nề trong đêm mưa thu rả rít gió
cuốn làm rơi rụng cây lá ngô đồng ! * DIỄN NÔM :
Nhớ thu gặp bạn cúc vừa hoa,
Hương ngát chi lan sực nức nhà.
Chuyện phiếm bên đèn bàn thế sự,
Tình sâu chung rượu gởi lòng ta.
Lơ thơ tóc bạc già đeo đẵng,
Vạn dặm mây xanh tin vắng xa.
Dẫu mộng khó mong còn gặp lại,
Ngô đồng rơi rụng gió mưa sa !
Đỗ Chiêu Đức 2. Bài thơ
Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề : 泊舟應豐亭偶題
Bạc Chu Ứng Phong Đình Ngẫu Đề 繫纜江亭覓勝遊, Hệ lãm
giang đình mịch thắng du 前朝行殿已荒丘。
Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu. 鶯花不識興亡事,
Oanh hoa bất thức hưng vong sự 撩亂春光未肯休。
Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu. 阮億
Nguyễn Ức * CHÚ THÍCH : - Bạc Chu :là Ghé thuyền,
đậu thuyền lại. - Ngẫu Đề : là Ngẫu nhiên đề
thơ, là bất chợt viết nên bài thơ. - Hệ Lãm : Hệ
là Buộc, Lãm là Quấn quanh bằng dây luộc( dây chão ), nên
Hệ Lãm là Từ Kép chỉ việc trói buộc, cột chặc.
- Thắng Du : Thắng cảnh để du ngoạn, chỉ Cảnh đẹp.
- Hành Điện : Cung điện xây tạm cho vua chúa ở khi đi ra
ngoài, thường gọi là Hành Cung 行宮, ở đây vì muốn
cho hợp Bằng Trắc nên mới đổi Hành Cung thành Hành Điện
行殿. - Oanh Hoa : Chim Oanh và Hoa là 2 biểu tượng của mùa
Xuân. - Liêu Loạn : là Rối loạn, là lộn xộn.
- Vị Khẳng : là Không chịu, nên Vị Khẳng Hưu 未肯休
là Không chịu ngừng nghỉ. * DỊCH
NGHĨA :
Ngẫu Nhiên Đề Thơ Ở Đình Ứng Phong Khi Đậu Thuyền Cột chặc thuyền ở cái đình ven sông
để lên bờ tìm thắng cảnh du ngoạn. Chỉ thấy hành cung của
triều trước nay đã là những gò đất hoang. Chim oanh và
hoa cỏ không biết đến việc hưng vong thạnh suy gì cả, cứ
nở tràn lan và hót liú lo làm rối loạn cả ánh nắng
xuân vẫn chưa chịu ngừng nghỉ.( vẫn dửng dưng trước cảnh
tang thương biến đổi của cuộc đời !) Đọc bài thơ nầy làm cho
ta nhớ đến bài " Sơn Phòng Xuân Sự 山房春事 "
của Sầm Tham với hai câu : 庭樹不知人去盡,
Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
春來還發舊時花。 Xuân lai hoàn phát
cựu thời hoa. Có nghĩa :
Cây cỏ biết đâu người đà vắng,
Xuân về vẫn trổ những hoa xưa !
* DIỄN NÔM :
Thuyền buộc giang đình tìm thắng cảnh,
Hành cung ngày trước đã hoang tàn.
Oanh hoa chẳng biết chi hưng phế,
Ríu rít chào xuân mãi chẳng màng ! Lục bát :
Buộc thuyền tìm
cảnh du xuân, Hành
cung triều trước đã thành gò hoang.
Oanh hoa chẳng biết thương tang,
Líu lo hoa nở rộn ràng nắng xuân ! Đỗ
Chiêu Đức 3. Bài thơ "Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác":
舟過北江仙遊作
Chu Quá Bắc Giang Tiên Du Tác 客帆歷歷過仙遊,
Khách phàm lịch lịch qúa Tiên Du, 羞見青山對白頭。
Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu 半塔夕陽孤剎迥,
Bán tháp tịch dương cô sát quýnh, 一江明月四橋秋。
Nhất giang minh nguyệt tứ kiều thu. 霜餘紅稻連雲熟,
Sương dư hồng đạo liên vân thục, 雨後丹楓隔岸迂。
Vũ hậu đan phong cách ngạn vu, 歸思不堪逢逆水,
Quy tứ bất kham phùng nghịch thủy, 咫程何日到神州
? Chỉ trình hà nhật đáo thần châu ?
阮億
Nguyễn Ức * CHÚ THÍCH : - Bắc Giang Tiên Du : là huyện
Tiên Du thuộc phủ Bắc Giang, nơi xuất hiện một nhân vật huyền
thoại đời nhà Trần qua truyện cổ " Tuyền Kỳ Mạn Lục
" của Nguyễn Dữ, đó chính là anh chàng Từ Thức gặp
tiên ở hang động Từ Thức còn lưu dấu đến hiện nay. - Khách Phàm : Không phải là Khách phàm tục, mà
là Thuyền buồm của khách. - Cô Sát : là Ngôi
chùa đơn độc. - Quýnh 迥 : là Xa xôi vắng vẻ,
nhưng ở đây dùng để tả Ngọn Tháp của chùa, nên
Quýnh có nghĩa là vượt lên cao chót vót theo như thành
ngữ "Tháp Thế Cô Quýnh 塔勢孤迥" có nghĩa :
Thế tháp đứng một mình cao lên chót vót. - Vu
迂 : là Xa xôi lòng vòng. - Quy Tứ : Ý muốn về
lại quê nhà. - Nghịch Thuỷ : là Nước ngược. - Chỉ Trình : là hành trình chỉ gần trong gang tấc. Hà
Nhật : là Ngày nào ? là Bao giờ ? - Thần Châu : Tên
ngọn núi tiên ở, tức non Thần. Đoạn trường tân thanh có
câu : Bâng
khuâng đỉnh Giáp non Thần.
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Thần Châu còn được
dùng để chỉ vùng đất kinh đô, đất của vua.
* DỊCH NGHĨA :
Cảm Tác Khi Thuyền Đi Qua Tiên Du Bắc Giang
Những cánh buồm của thuyền khách lần lượt đi qua núi
Tiên Du. Ta thẹn vì núi xanh vẫn còn đó mà đầu ta thì
đã bạc trắng cả rồi. Ngôi chùa đơn độc trong ánh
nắng chiều với nửa ngọn tháp vượt lên trên trời cao chót
vót, và một dòng sông đầy ánh trăng sáng với bốn
nhịp cầu thu. Sau tiết Sương Giáng đồng lúa chín đỏ
rực như liền tận chân mây, và sau cơn mưa lá phong đỏ
rực lên xa xa ở bên kia bờ sông uốn khúc. Ta có ý trở
về quê nhưng không được vì gặp phải con nước ngược,
hành trình từ đây đến Thần Châu rất ngắn, nhưng bao
giờ mới tới được Thần Châu đây ?
Rõ khéo ngớ ngẩn, ngang qua núi Tiên Du, nhớ chuyện Từ Thức
gặp Tiên, rồi thác cớ là muốn về quê nhưng gặp phải
nước ngược, nên muốn đến Thần Châu để gặp tiên
một chuyến, vì nơi tiên ở nếu nói xa thì ở ngoài ngàn
dặm, còn bảo gần thì chỉ trong gang tấc mà thôi ! * DIỄN NÔM :
Thuyền khách Tiên Du lũ lượt qua,
Núi xanh trông thẹn trắng đầu ta.
Nắng chiều nửa tháp chùa cao vút,
Trăng sáng một dòng cầu bắt qua.
Sương giáng liền mây đồng lúa chín,
Mưa thu đỏ lá bến bờ xa.
Muốn về chẳng được vì con nước,
Gang tất Thần Châu mấy thuở qua ? Lục bát :
Tiên Du
lớp lớp buồm qua, Thẹn
cùng núi biếc đầu đà trắng tinh.
Nắng chiều chùa tháp vươn mình,
Cầu thu sông nước nguyệt minh một dòng.
Sương pha lúa chín đầy đồng,
Sau mưa lá đỏ bên sông bàng hoàng.
Muốn về nước ngược khó sang,
Non Thần ngắn ngủi mơ màng đến chơi !
Đỗ Chiêu Đức
4.
Bài thơ " Tống Nhân Bắc Hành ": 送人北行 Tống
Nhân Bắc Hành t 都門回首樹蒼蒼,
Đô môn hồi thủ thọ thương thương, 立馬頻斟勸客觴。
Lập mã tần châm khuyến khách trường. 一段離情禁不得,
Nhất đoạn ly tình cấm bất đắc, 津頭折柳又斜陽。
Tân đầu chiết liễu hựu tà dương. 阮億
Nguyễn Ức *CHÚ THÍCH :
- Đô Môn : là Cửa của Kinh đô, kinh thành. - Lập
Mã : là Dừng ngựa lại. - Tần Châm : là Thỉnh
thoảng lại rót (rượu). - Trường 觴 : là Chén
uống rượu. - Cấm Bất Đắc : là Cấm không được,
có nghĩa là " Không ngăn được ". - Tân Đầu
: là Bến nước. * NGHĨA BÀI THƠ :
Đưa Người Đi Về Phương Bắc
Quay đầu nhìn lại cửa kinh đô chỉ thấy cây xanh một
màu. Dừng ngựa lại không ngừng rót rượu khuyên mời khách,
nhưng cũng không sao ngăn được cái đoạn ly tình nầy, nên
nơi bến nước ta vẫn phải bẻ cành liễu để tặng bạn
làm roi ngựa lên đường khi trời lại ngã về chiều.
Tống quân
thiên lý, chung tu nhất biệt 送君千里,終須一別。Có
nghĩa : Dù cho có đưa nhau một ngàn dặm đi nữa, rốt cuộc
rồi cũng phải chia tay mà thôi ! Tình cảm tiễn đưa quyến
luyến thật thắm thiết làm sao ! Đọc câu Đô môn hồi
thủ thọ thương thương 都門回首樹蒼蒼 lại làm
ta nhớ đến nàng chinh phụ tiễn chồng : Cùng
trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu !
* DIỄN NÔM :
Cửa kinh ngoảnh lại một màu xanh,
Dừng ngựa chén mời đưa tiễn anh.
Một khúc ly tình ai thấu hiểu,
Bên bờ bẻ liễu bóng chiều nhanh ! Lục bát :
Cửa kinh ngoảnh lại xanh xanh,
Chén đưa rót mãi tiễn anh lên đường.
Ly tình một khúc ai tường,
Bên bờ bẻ liễu sầu vương nắng chiều !
Đỗ Chiêu Đức
THƠ PHẠM ĐÌNH HỔ Bản dịch: Mailoc, Phương Hà, Songquang, Đỗ Chiêu Đức
Cuối tuần xin gởi đến
VTT cùng thi hữu vài bài thơ củaPhạm Đình Hổ, một
thi nhân nổi tiếng đời Lê Nguyễn. Thân ML
Quá Kim Liên tự
Bình ngạch phiêu phù khách cố kinh, Kim Liên tự lý kỷ hồi kinh. Tam thu thụ sắc liên thôn thuý, Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình. Ngoã tước sào
biên tham định tướng, Thạch lựu tùng bạn độ kinh thanh. Phù sinh tự thị đa lao lộc, Thời hướng không môn đắc
tĩnh danh. Phạm
Đình Hổ Dịch
nghĩa Cánh bèo trôi nổi,
làm khách kinh đô cũ Nơi chùa Kim Liên, đã mấy lần
qua Sứac lá ba thu, liền với xóm làng xanh biếc Vạn khoảnh
hồ sáng, phẳng lặng như một tấm gương Tổ sẻ ngói
ở bên, tham định tướng Khóm thạch lựu gần cạnh, đón
tiếng kinh Kiếp phù sinh tự gặp nhiều vất vả Thường
hướng cửa thiền để được yên than Dịch Thơ : Qua Chùa Kim Liên Khách bèo dạt nơi
kinh thành cổ Chùa
Kim Liên mấy độ thăm qua.
Ba thu, cây biếc, xóm
nhà, Hồ
trong phẳng lặng như là mặt
gương. Tổ
sẻ ngói như dương định
tướng Khóm thạch
hựu đang tưởng lời kinh,
Phù sinh thương xót
phận mình Cửa
thiền thanh tịnh tâm tình
lặng yên
Mailoc phỏng dịch Đông
Ngạc lữ trung Nhị thập
niên lai nhất lữ nhân, Đông phong hồi thủ lệ triêm
cân. Gia hương phao trịch nan vi hiếu, Cơ lữ bôn trì chỉ
vị bần. Khách lý hựu phùng mai vũ dạ,
Sầu trung do mộng cố viên xuân. Hà đương quy phỏng Lâm
Đường cảnh, Toạ thính tùng cầm đối bạch vân.
Dịch
nghĩa Hai mươi năm nay là
một lữ nhân Trong gió đông ngoái đầu nhìn lại nước
mắt đẫm khăn Vứt bỏ quê nhà khôn gọi là hiếu Ngược xuôi lữ thứ cũng chỉ vì nghèo Chốn đất
khách lại gặp đêm mai vũ Trong nỗi sầu còn mơ đến
mùa xuân ở vườn xưa Biết lấy gì để khi trở về
tìm hỏi cảnh Lâm Đường Ngồi nghe tiếng thông đàn
ngắm mây trắng trôi Dịch
Thơ :
CẢNH LỮ
THỨ Ở ĐÔNG NGẠC
Hai
mươi năm xa quê lòng chạnh,
Ngoảnh đầu
nhìn đông lạnh lệ sa.
Hiếu đâu? ruồng
bỏ quê nhà! Bởi nghèo , lữ thứ
bôn ba miệt mài. Đêm đất khách thương
mai tan tác, Mộng
vườn xưa man mác tình
quê. Lam Đường
cảnh cũ tái tê,
Thông reo sầu lắng,
lê thê mây ngàn.
Mailoc
phỏng dịch Giao hành
Tảo khởi độc hành hành, Quyện
ỷ lệ chi hạ. Cách ngạn điểu nhất thanh, Giang sơn quang như
hoạ. Dịch nghĩa Sớm
dậy một mình thủng thẳng đi Đi mệt ngồi tựa dưới
gốc vải Bên kia bờ sông một tiếng chim kêu Non sông sáng
rực như bức vẽ Dịch
Thơ : ĐI CHƠI
Sống
một mình dạo chơi thoải
mái, Đi mệt
rồi gốc vải tựa lưng
Bên sông một tiếng
chim hồng, Đẹp
như tranh vẽ núi sông rạng
ngời!
Mailoc phỏng dịch Hạ nhật giao hành Gia hương hà
xứ thị, Nhật tại thiên chi đông. Chú vọng bất khả
kiến, Ngã tâm không xung xung. Trường không đa bạch vân, Khoáng dã đa phiêu phong Trĩ
lập bội trù trướng, Vô kế ký chinh hồng. Phạm
Đình Hổ Dịch
nghĩa Quê nhà nơi đâu
nhỉ? Vầng dương đang ở bên trời đông Chăm chú
nhìn mà không thể thấy được Lòng ta luống buồn rầu Trên khoảng không mênh mông thật nhiều mây trắng Dưới
cánh đồng khoáng đãng đầy gió lang thang Đứng lặng
người, lòng thêm thổn thức Không có cách nào gửi
theo cánh chim hồng Dịch Thơ
: NGÀY HÈ ĐI CHƠI Quê nhà giờ đâu
nhỉ ? Mặt
trời đang tại đông
Chăm chú mà không thấy,
Cho ta phút chạnh lòng.
Trên không chùm mây trắng,
Gió vi vu trên đồng.
Lặng người trong
sầu lắng Làm
sao nhắn chim hồng ? Mailoc phỏng
dịch
Giang lâm mộ tuyết
Ngư
chu phản trạo chính hoàng hôn, Tán nhứ đôi diêm tố
ảnh phồn. Đảo trám vãn hà kim thế giới, Tầm mai
hữu khách tự tiền thôn. Phạm
Đình Hổ Dịch
nghĩa Thuyền chài trở mái
chèo đúng lúc chiều buông Tuyết rơi như bông gieo muối
chất ánh trắng lấp loáng Ráng chiều hắt ngược lại,
thế giới như bằng vàng Có người khách tìm mai, từ
thôn trước đến Nguồn:
Tuyển tập thơ văn Phạm Đình Hổ, NXB Khoa học xã hội, 1998
Dịch Thơ : TUYẾT
CHIỀU TRÊN SÔNG
Chiều đã buông,
thuyền chèo trở mái,
Trên mặt sông tuyết
giải trắng ngần. Ráng chiều phản chiếu
vàng sông, Trước
thôn có khách một lòng
tìm Mai
Mailoc phỏng dịch Xã
từ hữu hoài
Sùng từ môn ngoại thảo thiên thiên, Nhất độ đăng lâm nhất trướng nhiên. Hoang thụ cựu
truyền ca vũ địa, Tàn bi do thức Cảnh Hưng niên.
Đài phong thạch hiện trình tân lục, Sương nhiễm đan
phong táo mạc thiền. Lữ thứ quy lai hà sở kiến, Hàng
hàng kiều mộc chính lăng thiên.
PĐH Dịch nghĩa
Ngoài cửa ngôi đền cao, cỏ chen chúc Mỗi bước lên tới, mỗi buồn rầu Chỗ cây hoang mọc,
xưa truyền là nơi ca múa Trên tấm bia nát, còn thấy niên
hiệu Cảnh Hưng Rêu phong nền đá bày rõ màu xanh mới Sương nhuộm cây phong đỏ, tiếng ve chiều kêu Chốn lữ
thứ trở về có gì để thấy Dãy dãy cây cao đang
vươn lên bầu trời
Dịch Thơ : CẢM
HOÀI ĐỀN CŨ Ngoài
cửa đền cỏ gai chen chúc,
Mỗi bước lên
một chút vương buồn.
Bãi hoang xưa chốn
vũ trường, Bia
tàn niên hiệu Cảnh Hưng chưa
mờ. Nền
đá cũ xanh lơ rêu bám,
Rừng phong sương
buồn thảm tiếng ve. Lặng nhìn, lữ thứ
sắt se, Rậm
rì cổ thụ vươn che nền
trời
Mailoc phỏng dịch
Quy cố viên hương
Đoạn ngạnh phiêu bồng tuế lưỡng
chu, Thôi biều trùng tác cố hương du. Tùng kinh tu trúc
tương cao hạ, U thảo hoang khâu bán hữu vô. Chinh vụ ảnh
hòa triêu ải sắc, Cô thiền thanh nhập tịch dương thu. Bằng lan hồi tưởng đương niên sự, Nghĩ hướng thương
thương vấn cố ngô.
Phạm Đình Hổ Dịch
nghĩa Lìa cành phiêu bạt
hai năm tròn Bơ phờ lại làm kẻ về chơi quê cũ
Bụi gai khóm trúc lô nhô cao thấp Gò hoang cỏ tối nửa
thực nửa hư Bóng cò bay xa lẫn vào màu sương sớm Tiếng ve đơn độc chìm trong chiều thu Tựa lan can nhớ lại
việc buổi đương niên Muốn hướng lên trời biếc hỏi
việc cũ của ta Dịch
Thơ : VỀ
QUÊ CŨ Xa quê nhà, hai năm phiêu bạt,
Tấm thân tàn,
phờ phạc về thăm.
Trúc-gai cao thấp chen chân,
Gò hoang cỏ tối
nửa gần nửa xa. Bóng cò lượn mờ pha sương
sớm, Ve ngân sầu
lúc chớm thu sang. Nghĩ xưa, khi tựa lan can, Việc mình trời có
thấu cùng ta chăng ?
Mailoc phỏng dịch
Phạm Đình Hổ (chữ
Hán: 范廷琥, 1768-1839) tên chữ là Tùng Niên (松年), Bỉnh
Trực (秉直), hiệu: Đông Dã Tiều (東野樵),
tục gọi là Chiêu Hổ. Ông là nhà nghiên cứu văn
hóa, nhà văn và nhà thơ của Việt Nam ở
khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.
Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768),
người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng,
tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).
Sinh trong một gia đình khoa bảng, cha ông
là Phạm Đình Dư, đậu cử nhân, làm Hiến sát Nam
Định, thăng Tuần phủ Sơn Tây, rồi cáo quan về ở phường
Hà Khẩu (Hàng Buồm) năm Giáp Ngọ (1774). Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí
rằng: Làm người con trai phải lập
thân hành đạo...Lấy
văn thơ nổi tiếng ở
đời...[1]. Tuy học & đọc nhiều sách (năm
9 tuổi, ông đã học sách Hán thư), nhưng ông chỉ
đỗ đến sinh đồ (tức tú tài) vào khoảng cuối
đời Chiêu Thống. Gặp buổi
loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống cho người chạy sang cầu viện nhà
Thanh, rồi triều đình Lê Trịnh sụp đổ, nhà
Tây Sơn lên cầm quyền... Suốt quãng thời gian này, Phạm
Đình Hổ sống đời cơ hàn dạy học ở quê.
Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi
phục lại việc học hành thi cử; ông có đi thi Hương ba
lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy học
ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng
Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại
đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu
ông và Phan Huy Chú vào Huế đợi mệnh cất dùng, nhưng
vì ốm ông không vào được. Năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy, Phạm
Đình Hổ ở tuổi 53, được vời ông đến hỏi về
học vấn, thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc. Lại
khuyên hễ có những sách tiền triều, sách trước thuật...
nên đem tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách
do mình biên soạn, bèn được triệu vào Huế làm
Hành tẩu Viện Hàn lâm, được ít lâu, ông xin từ chức.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu
ông, cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm
Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm sau, xin nghỉ bệnh rồi từ chức.
Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học
sĩ. Năm Nhâm Thìn (1832), ông
xin về hưu luôn. Năm Kỷ Hợi (1839), Phạm Đình Hổ mất,
thọ 71 tuổi PHƯƠNG
HÀ phỏng dịch
Phương Hà xin cố gắng theo bước anh
Mai Lộc , gởi đến Thầy và VTT các bài phỏng dịch sau đây:
1- Phỏng dịch bài Quá Kim Liên Tự
của Phạm Đình Hổ
Qua chùa Kim Liên Thân tựa
cánh bèo dạt cố kinh Chùa xưa
ghé lại, nặng ân tình Trời
thu sắc nhuộm, cây ngời biếc Mặt
nước gương soi, cảnh lặng thinh Sẻ
ngói gật gù, tâm chánh niệm Lựu
vườn đứng lặng, trí an nhiên Phù
sinh một kiếp đầy lo lắng Tìm
đến cửa thiền dạ ổn yên
Phương Hà phỏng dịch
2- Phỏng
dịch bài Đông Ngạc Lữ Trung của Phạm Đình Hổ
Đời
Lữ Khách Ở Đông Ngạc Sống cảnh tha phương hai
chục năm Gió đông ngoái lại,
lệ đằm khăn Xa lìa quê mẹ,
rời câu hiếu Xuôi ngược xứ
người, lo miếng ăn Đất lạ
đêm mưa, mai trút cánh Vườn
xưa ngày mộng, dạ vời xuân Lấy
gì gợi cảnh Lâm Đường cũ Chỉ tiếng đàn thông, mây trắng lan Phương Hà phỏng
dịch 3- Phỏng dịch bài Giao Hành của Phạm Đình Hổ
Đi
Chơi Một mình lên đường chơi Mệt, tựa gốc vải ngồi Chim hót bên sông vẳng Nước
non đẹp rạng ngời
Phương Hà phỏng dịch
4- Phỏng dịch bài Hạ Nhật Giao Hành
của Phạm Đình Hổ
Ngày Hè Đi Chơi
Quê
nhà ở tại phương nào nhỉ ? Sáng
rực mặt trời đang hướng đông Chói lọi mắt nhìn không thấy ảnh Bùi ngùi dạ nghĩ chẳng an tâm Tầng không mây tụ đan trùng điệp Ruộng rẫy gió qua thổi lộng lồng Đứng lặng bên đường, tim thổn thức
Làm sao nhắn được cánh chim hồng
? Phương
Hà phỏng dịch
5- Phỏng dịch bài Giang Lâm Mộ Tuyết
của Phạm Đình Hổ
Tuyết Chiều Trên Sông
Thuyền
chài trở mái lúc chiều buông Tuyết
xuống mênh mông trắng ngập sông Vàng
óng ráng chiều soi phản chiếu Khách
tìm mai đến tự bên thôn.
Phương Hà phỏng dịch 6-Phỏng
dịch bài Xã Từ Hữu Hoài của Phạm Đình Hổ
Cảm
Hoài Tại Ngôi Đền Trong Xã Ngoài sân đền cổ,
cỏ đan dầy Bước đến gần
bên dạ nẫu ngây Sân khấu nơi
này đâu dấu cũ Cảnh Hưng
năm ấy vẫn bia đây Rêu loang
lổ mọc trên nền đá Ve nức
nở gào giữa đám cây Về
lại, bùi ngùi khi chỉ thấy Điệp
trùng cổ thụ vút trời mây.
Phương Hà phỏng dịch 7-Phỏng dịch
bài Quy Cố Viên Hương của Phạm Đình Hổ Về
Quê Cũ Hai năm phiêu bạt biệt quê hương Về lại, xác xơ, lặng lẽ buồn Trúc lão, bụi dầy, cành hỗn độn Gò hoang, lau úa, cảnh hoang đường
Lửng lơ bông cỏ, sương mai tỏa
Sầu não lời ve, bóng tối buông
Đứng tựa lan can mơ thuở trước
Chuyện ta, tròi thẳm có am tường ?
Phương
Hà phỏng dịch SONGQUANG:
Qua Chùa Kim Liên
Thân bèo trôi nổi cổ thành
Chùa Kim Liên đã bao lần ghé qua
Ba năm cách biệt quê nhà Hồ trong phẳng lặng như là gương soi
Tổ sư thiền định đang ngồi
Mõ chuông bên cạnh,vang lời kệ kinh
Xét than cũng kiếp phù sinh Thôi thì hồi hướng để mình được
yên. Đời lử khách ở Đông Ngạc
Hai mươi năm kiếp tha hương Giờ đây nghĩ lại khiến tuông lệ nhòa
Hiếu gì ?? Ruồng rẩy quê cha Bởi nghèo,bỏ nước bôn ba xứ người
Sống đất khách,lỡ một đời
Mà còn mơ đến xưa :thời còn
Xuân Lam Đường luống dạ bâng
khuâng Còn trông mây trắng,nghe
thong dạo đàn. Du hành Môt mình
sáng dậy dạo chơi Mệt rồi
,gốc vải làm nơi tạm dừng Bên
sông chim hót vang lung Nước non tươi
đẹp như lồng vào tranh
Ngày hè dạo chơi
Quê hương giờ ở phương nào nhỉ
? Ánh nắng mặt trời chiếu hướng
Đông Tìm hoài chẳng thấy
-- như không Khiến ta giây phút
chạnh lòng chẳng an Nhìn mây trắng bay đang vần vũ Gió vi vu như phủ ngập đồng Lặng người thổn thức trong lòng Làm sao nhắn được chim hồng cho quê ??
Tuyết
chìm trên sông
Thuyền chài gát mái chèo buông
Nhìn bông tuyết đỗ trên sông trắng
ngần Ráng vàng phản chiếu mặt
sông Trước thôn khách đến
dốc lòng tìm Mai Cảm hoài ngôi đền cổ trong Xã
Cửa đền nền cổ cỏ đan
Bước lên dạ thấy ngổn ngang nổi
buồn Khi xưa là chốn vũ trường
Cảnh Hưng bia hiệu hoang tàn còn đây
Rêu xanh bám đá loang đầy
Rừng phong sương nhuộm rạc rài tiếng
ve Chạnh lòng lữ khách buồn se
Điệp trùng cổ thụ ngăn che vòm
trời Vê thăm quê cũ Hai năm cách biêt quê hương Trở vê thăm lại sâu vương ngâp tràn Bụi gai khóm trúc đã tàn Gò hoang cỏ úa nửa gần nửa xa Bóng cò bay lượn la đà Ve sầu rả rít báo là thu sang Mơ xưa đứng tựa lan can Hỏi trời cao thẳm tường am chuyện mình ? Songquang
ĐỖ CHIÊU ĐỨC:
Kính Thầy, Mặc
dù "rất vất vả để theo dõi FiFa world-cup 2018", Đỗ Chiêu
Đức cũng rán tham gia với các phần sau đây : 1. Bản chữ Hán
cổ của bài thơ "Qúa Kim Liên Tự 過金蓮寺 " của
Phạm Đình Hổ 范廷琥 : 過金蓮寺 Qúa
Kim Liên Tự 萍梗漂浮客故京, Bình ngạnh phiêu phù khách cố kinh, 金蓮寺裡幾回經。 Kim Liên Tự lý kỷ hồi kinh. 三秋樹色連村翠, Tam thu thọ sắc liên thôn thúy, 萬頃湖光一鏡平。 Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình. 瓦雀巢邊參定相, Ngõa tước sào biên tham định tướng, 石榴叢畔渡經聲。 Thạch lưu tùng bạn độ kinh thinh. 浮生自是多勞漉, Phù sinh tự thị đa lao lộc, 時向空門得靜名。 Thời hướng không môn đắc tịnh danh. 范廷琥
Phạm Đình Hổ
2. CHÚ THÍCH : * Kim Liên Tự 金蓮寺 : Là ngôi chùa nổi
tiếng ở Thăng Long, nằm sát bên Hồ Tây, nay thuộc phường
Quảng Bá, quận Tây Hồ, Hà Nội. * Bình Ngạnh 萍梗 : Bình là Bèo, Ngạnh là
Cành Nhánh; nên Bình Ngạnh là Cánh bèo có rể mà
không nơi bám, thường dùng để ví với những người
sống rày đây mai đó, không có chỗ ổn định.
* Phiêu Phù 漂浮 : Phiêu
là Trôi, Phù là Nổi; nên Phiêu Phù có nghĩa là Trôi
Nổi Nôi Trôi. * Vạn
Khoảnh 萬頃 : Một trăm mẫu là một KHOẢNH, nên Vạn Khoảnh
là chỉ không gian hoặc mặt bằng rất to lớn. * Ngõa Tước 瓦雀 : Ngõa là
Ngói, Tước là Chim Se Sẻ; Ngoã Tước là tên riêng của
Chim Sẻ, vì loại chim này hay làm ổ và sống ở giữa rường
nhà và mái ngói mà có tên Ngõa Tước. Nên, Ngõa
Tước Sào chỉ có nghĩa là Tổ Chim Sẻ mà thôi.
* Tham Định 參定 : là Tham
thiền nhập định. * Thạch
Lựu 石榴 : là Cây Lựu, Trái Lựu; ở đây vì muốn
đọc cho đúng Luật Bằng Trắc nên mới đọc là Thạch
Lưu. Thạch Lựu Tùng là Cái Khóm hoặc Cái Chòm cây lựu.
* Độ Kinh 渡經 : là Hồi
kinh siêu độ. * Tự Thị
自是 : là " Tự nó đã là ..."; nên có nghĩa
là "Vốn Dĩ..."
3. DỊCH NGHĨA :
Ghé Ngang qua chùa Kim Liên
Như cánh bèo trôi nổi, nay ta lại làm khách của đất
kinh thành cổ xưa nầy, nơi chùa Kim Liên mà ta đã mấy
lần ghé qua. Đã ba mùa thu qua rồi, nhưng màu sắc của cỏ cây nơi đây
vẫn xanh biếc đến cuối thôn, và mặt Tây Hồ mênh mông
trước mắt vẫn như một tấm gương phẵng lặng loang loáng.
Các nhà sư vẫn đang tham thiền nhập định vô sắc
tướng bên các tổ chim sẻ ríu rít trên rường, và
tiếng tụng kinh siêu độ thế nhân vẫn văng vẳng bên
chòm thạch lựu trước hiên chùa. Kiếp phù sinh vốn dĩ đã
nhiều lao nhọc rồi, cho nên đôi lúc ta cũng nên hướng
về cửa không để tìm chút yên tĩnh nào đó
cho tâm hồn. Cảnh
chuà Kim Liên thật yến ắng thanh tịnh, làm cho tâm hồn của
người lãng tử phiêu bạt trôi nổi đó đây của Phạm
Đình Hổ khi đi ngang qua đây cũng tìm lại được chút
yên tĩnh của kiếp phù sinh vốn đã nhiều vất vả
nổi chìm ! 4. DIỄN NÔM :
Qua Chùa Kim Liên
Trôi nổi
lại làm khách cố kinh,
Kim Liên chùa cũ đến bao lần.
Ba thu cây cỏ liền thôn biếc,
Muôn khoảnh hồ gương phẳng nước xanh. Kinh độ thế nhân vang khóm
lựu,
Sư thiền nhập định ngẫm nhân sinh. Cuộc đời vốn dĩ nhiều lao
nhọc,
Tìm chút an nhàn chốn cửa không !
Đỗ Chiêu Đức
Đây là bài diễn Nôm tệ hại nhất, vì 5 vần, không
vần nào ăn vần nào cả !
....................................................
Dưới đây là tài liệu văn học tìm thấy trên THI
VIÊN ( thivien.net ). Nhận thấy có nhiều từ và câu
giải thích chưa đúng nghĩa ( chỉ theo ý của riêng tôi ). Nên
trích ra đây để THAM KHẢO, chớ không dám chê trách việc
làm của người đi trước.
ĐCĐ Quá Kim Liên tự
Bình ngạch phiêu phù
khách cố kinh, Kim Liên tự lý kỷ hồi kinh. Tam thu thụ sắc
liên thôn thuý, Vạn khoảnh hồ quang nhất kính bình. Ngoã
tước sào biên tham định tướng, Thạch lựu tùng bạn
độ kinh thanh. Phù sinh tự thị đa lao lộc, Thời hướng
không môn đắc tĩnh danh. Dịch
nghĩa Cánh bèo trôi nổi,
làm khách kinh đô cũ Nơi chùa Kim Liên, đã mấy lần
qua Sứac lá ba thu, liền với xóm làng xanh biếc Vạn khoảnh
hồ sáng, phẳng lặng như một tấm gương Tổ sẻ ngói
ở bên, tham định tướng Khóm thạch lựu gần cạnh, đón
tiếng kinh Kiếp phù sinh tự gặp nhiều vất vả Thường
hướng cửa thiền để được yên thân Chỉ
trích ra để tham khảo và trao đổi mà thôi !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức ________________________________________________________________________________________
NGUYỄN VĂN SIÊU: Thi Nhân đời Nhà Nguyễn Bản dịch Mailoc, Mai Xuân Thanh, Phương Hà
Cùng Bạn, Mấy
ngày nay gần đến 30 -4, xem TV, thấy lại hình ảnh những ngày
hấp hối của VNCH chúng ta , đau xót muốn bung cái đầu
bạn ơi! Để bớt stress, tôi đọc, phỏng dịch lại vài
bài thơ cũ của thi nhân chúng ta ngày trước mong thư thả
cái đầu một chút. Xin chuyển đến bạn thưởng thức và
chia sẻ vài bài thơ của Nguyễn Văn Siêu, một thi nhân nổi tiếng đời
nhà Nguyễn. Thân mến
Mailoc
Nguyễn Văn Siêu 阮文超 (1798-1872)
tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜班, hiệu Phương
Đình 方亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽昌居士,
thuỵ Chí Đạo志道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì,
tỉnh Hà Đông. Đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh.
Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi
tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là "thần
Siêu thánh Quát". Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức án
sát, có sang sứ Trung Hoa. Nguyễn Văn Siêu sáng tác rất
mạnh, các tác phẩm của ông khá đồ sộ. Về thơ ca,
cơ bản ông có các tập thơ: - Anh ngôn thi tập 英言詩集 (2
quyển, 141+162 bài) gồm các bài thơ sáng tác khi ông ở Thăng
Long - Lưu lãm tập 流覽集 (2 quyển, 177+128 bài) gồm
các bài thơ sáng tác khi ông ở Huế - Mạn hứng thi tập 漫興詩集 (187
bài) gồm các bài thơ sáng tác khi ông rời Huế về Thăng
Long - Vạn lý tập ... (
nguồn : Thiviennet ) Xuân nhật hiểu khởi
Túc hoả minh thư dũ, Hiểu chung văn
Phật đài. Chủ nhân thôi bị khởi, Tiểu tử báo
hoa khai. Dạ khí dung cô trúc, Tình quang lộng tiểu mai. Lưu
oanh chuyên bất dĩ, Ưng hữu cố nhân lai. Nguyễn
Văn Siêu Dịch nghĩa Ngọn đèn khuya loè song sách Tiếng chuông
sớm vang bên chùa. Chủ nhà tung chăn dậy Trẻ con mách
hoa nở Hơi đêm đã chui vào trong ngọn trúc đứng trơ
trọi kia Ánh mặt trời nô giỡn trên cành mai nho nhỏ xinh xinh. Chim hoàng oanh (sao mà) gióng giả kêu hoài? Chắc phải có
ông bạn xưa nào sắp tới chơi) Dịch Th ơ : Ngày
Xuân Dậy Sớm Thư
phòng đèn đêm hắt
Chuông sớm ngân
Phật đài Chủ
nhà tung chiếu dậy, Con trẻ báo hoa khai. Hơi đêm lồng
bụi trúc, Nắng
sáng giỡn cành mai Hoàng oanh líu lo mãi, Có
khách, chắc không sai ! Mailoc
Hiểu toạ Hiểu
toạ đối trà âu, Không tâm lãn ứng tiếp. Kê
điểu thanh phục thanh, Tình vân bố loạn điệp. Nguyễn
Văn Siêu Dịch nghĩa Buổi sáng ngồi uống trà, Lòng trống
trải không muốn tiếp khách. Gà và chim chóc kêu liên
tiếp, Lúc tạnh mưa, bướm bay ra cùng với đám mây.
Dịch Thơ : Buổi Sáng Ngồi Chén trà sớm mình ta ngồi
uống, Lòng trống
không chẳng muốn ai rầy.
Chim gà tíu tít gọi bầy
Tan mưa trời sáng
bướm bay loạn vườn.
Mailoc Tĩnh toạ Thư vĩnh ngọ kê
thần nhất khiếu, Liêm thuỳ đáo địa nhân quá thiểu. Vô phong bán thụ vi vi diêu, Diệp lý đả trùng xuyên
xuất điểu.
Nguyễn Văn Siêu Dịch nghĩa
Đọc sánh hồi lâu thì đến
lúc gà gáy trưa, Rèm buông sát đất, bên ngoài
ít người qua lại. Không có gió nên cây chỉ dao động
nhè nhẹ, Con chim bay ra mổ sâu trong lá cây. Dịch Thơ :
Ngồi Lặng Yên
Đọc sách mãi
tới trưa gà gáy
Buông sát rèm, qua lại người
thưa. Gió thầm
cây cối nhẹ đưa,
Bắt sâu trong lá
chim vừa vụt ra.
Mailoc Đình tiền bộ nguyệt
Trảo trửu phần hương toạ, Không
tâm đãi nguyệt sinh. Thanh ảnh di mai chí, Tây sương nhiễu
trúc hành.
Nguyễn Văn Siêu Dịch nghĩa
Quét đất, đốt hương rồi ta ngồi
xuống, Với cái tâm trống rỗng, ta chờ trăng lên. Trăng
lên làm cho hình bóng cây mai di chuyển đến chỗ ta ngồi, Và bên mái tây, ánh trăng bao xung quanh những hàng trúc.
Dịch Thơ : Trước Sân Tản Bộ
Dưới Trăng Quét xong, đốt
lò hương chiều tới,
Thanh thản lòng ngồi
đợi trăng lên. Bóng mai nhích lại kề
bên, Mái tây khóm
trúc bồng bềnh sương trăng.
Mailoc
Thu dạ thính
vũ Hải quốc tam thu bán, Sơn
thành nhất vũ sơ. Tiêu liêu quần động tức Quyên
trích dạ thanh Tuỳ diệp không đìnhtế Sao kim vạn ngoã
dư, Hoàn gia thử tịch mộng, Bất uý lộ tự như.
Nguyễn Văn Siêu Dịch nghĩa
Ở vùng biển gần ba thu, Thành trên
núi bắt đầu mưa. Mọi vật đều vắng lặng, Chỉ
nghe từng giọt mưa rơi trong đêm. Lá cây chạm vào mái
hiên, Tiếng mưa rơi trên vạn miếng ngói như tiếng gõ
vào kim loại. Đêm nay ta mộng trở về nhà, Không sợ
đường bùn lầy. Dịch Thơ
: Đêm Thu Nghe Mưa Hơn ba thu sống nơi
miền biển Mưa
đầu mùa
vang tiếng trên ngàn. Nơi nơi cảnh
vật lặng trang, Chỉ
nghe tiếng nước mênh mang rì
rào. Trên mái hiên
xạc xào cành lá,
Ngói nóc nhà ra rả thanh
la. Đêm nay mộng trở
về nhà, Đường
xa chẳng ngại bùn pha mưa
dầm.
Mailoc phỏng dịch Dã Khê độ Tế
vũ mai tiền lộ, Phi hoa đoạn dã kiều. Tiểu đồng thoa
lạp túc, Cô đỉnh cách khê chiêu. Nguyễn Văn Siêu
Dịch nghĩa : Mưa bụi lấp nơi đường trước Hoa bay chận cái
cầu giữa đồng Cậu bé (đưa đò) lăn tơi nón
nằm ngủ Có một cái đò cách sông phải kêu
Dịch Thơ : Bến Đò Dã Khê Mưa bụi giăng con đường
trước mắt, Trên
cầu quê hoa rắt lối mờ.
Nón tơi lăn ngũ
bé thơ, Bờ
kia ơi ới con đò trơ trơ.
Mailoc
4-29-18 MAI XUÂN THANH: 1) Dậy Sớm Ngày Xuân Song sách đèn
khuya sáng lập lòe Chuông chùa
cúng Phật vọng ngân nghe Chủ nhà
tỉnh giấc tung chăn dậy Thằng bé
xem hoa búp nở xòe Trơ trọi hơi
đêm vào ngọn trúc Nô đùa
ánh nắng rọi mai khoe Hoàng oanh giục
giả sao vang thế ? Bạn cũ nào đây
ghé lại hè ?
Mai Xuân Thanh 2) Ngồi Một
Mình Sáng sớm ngồi đây nhấp chén trà Lòng ta trống vắng chớ phiền hà Gọi bầy rối rít chim gà đói Mưa tạnh hừng đông bướm lại qua
Mai Xuân Thanh 3) Ngồi Im Đọc sách trưa lâu gà gáy xa Buông rèm vắng vẻ ít người qua Gió đâu nhẹ khẽ cành im lặng Trong lá chim sâu mổ xuống đà
Mai Xuân Thanh 4) Thả Bộ Dưới Trăng Ngồi xuống lò hương
đã đốt xong Tịnh tâm thanh thản
ánh trăng lồng Bóng mai di ảnh Hằng
Nga hiện Khóm trúc mái tây sương
trắng trong
Mai Xuân Thanh 5) Nghe Mưa Đêm
Thu Ba
thu ở biển sóng rì rào Mưa
gió đầu non lồng lộng cao Vắng
lặng đêm nghe từng giọt nước Êm
ru lá rụng mỗi bờ ao Dường như
lộp độp ngôi nhà ấy Lại
ngỡ gõ vô ống sắt nào Đêm
mộng về nhà ta cứ tưởng Đường
xa lầy lội nước bùn chao
Mai Xuân Thanh 6) Dã Khê
Lụy Đò Mưa bụi giăng mù trước bộ hành Cầu quê mờ mịt đống hoa tranh Đưa đò thằng bé nằm phơi ngủ Tới bến đò ngang réo gọi nhanh Mai Xuân Thanh Ngày 29 tháng 04 năm 2018 PHƯƠNG
HÀ: Phương Hà xin góp bài phỏng
dịch cùng anh Mai Lộc và VTT 1- Phỏng dịch bài Xuân Nhật Hiểu Khởi của
Nguyễn văn Siêu Ngày Xuân Dậy Sớm Ngọn đèn rọi xuống án thư Tiếng chuông chùa sớm vẳng đưa xa gần Chủ nhà tung vội mảnh chăn Trẻ con tíu tít báo rằng hoa khai Hơi đêm len bụi trúc ngoài Mặt trời giỡn ngọn cành mai nõn mầm Giọng oanh rộn rã hòa âm Hẳn là sắp có bạn thân ghé nhà.
Phương Hà 2- Phỏng dịch bài Hiểu Tọa của Nguyễn Văn Siêu Ngồi
Chơi Buổi Sáng
Một mình buổi sáng uống trà Lòng yên chẳng muốn rầy rà tiếp ai Chim muông tíu tít bên tai Tan mưa đàn bướm vui vầy giỡn mây.
Phương Hà 3-Phỏng dịch bài Tĩnh Tọa của Nguyễn văn
Siêu Ngồi Tĩnh Lặng Say sưa đọc sách đến trưa Rèm buông kín mít, người thưa cổng
ngoài Cành cây không ngọn gió
lay Có con chim nhỏ ra ngoài bắt sâu.
Phương Hà 4- Phỏng dịch bài Đình Tiền Bộ Nguyệt Tản Bộ
Ngắm Trăng Trước Sân Đình Quét sân, ngồi cạnh lò hương Tâm hồn thanh tịnh vô thường đợi trăng Bóng mai nhích lại thêm gần Hiên tây bụi trúc sáng ngần ánh trăng.
Phương Hà 5- Phỏng dịch bài Thu Dạ Thính Vũ của Nguyễn
văn Siêu Đêm Thu Nghe Mưa Ở nơi vùng biển ba thu Núi ngàn mưa chuyển âm u đầu mùa Xung quanh vắng lặng như tờ Trong đêm chỉ có tiếng mưa rì rào Mái hiên cành lá xạc xào Giọt mưa như thể chạm vào sắt ngân Mộng quay về lại cố hương Khó khăn không ngại đường trơn vũng lầy.
Phương Hà 6- Phỏng dịch bài Dã Khê Độ của nguyễn
văn Siêu Bến Đò Dã Khê Trước đường mưa bụi phủ đầy Giữa đồng, cầu đã giăng đầy hoa
bay Trẻ đò nằm ngủ lăn quay Đành kêu đò khác xa ngoài, cách
sông.
Phương Hà _______________________________________________________________________________________________________________________
Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức,
Quên Đi, Songquang, Mai Xuân Thanh: Thi nhân đời Nhà Nguyễn: TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM Cuối tuần,
mời bạn nếu rảnh đọc và thưởng thức vài bài
thơ của Tùng Thiện Vương, thi
nhân nổi tiếng đời nhà Nguyễn chúng ta ngày trước.
ML
Liễu
Miên
Thẩm Khứ tuế,
xuân tàn, hoàng điểu quy, Thu dung tiều tụy, nguyệt minh tri, Đông phong tạc dạ xuy hà xứ, Cánh nhạ tân sầu
thướng hiểu mi.
Dịch nghĩa
Năm ngoái, mùa xuân đã tàn, chim
hoàng oanh bay về Dung nhan tiều tụy chỉ có ánh trăng sáng
kia biết Đêm qua gió xuân thổi ở xứ nào Lại
rước lấy mối sầu mới dâng lên nét mày thanh. Dịch
Thơ : (1) Năm ngoái
oanh về xuân sắp phai Dung nhan tiều tụy ánh
trăng hay Gió xuân
đêm trước từ đâu thổi
Sầu sát lại
thêm đọng nét ngài.
(2) Năm
ngoái oanh về xuân phai Dung nhan tiều tụy, thở dài,
trăng hay. Gió xuân
đâu đến lay lay, Sầu
thêm cao ngất đong đầy
bờ mi!
Lục thuỷ
Miên Thẩm Lục thuỷ thanh sơn
thường tại, Cô vân dã hạc đồng phi. Đoản
đĩnh liễu biên khách điếu, Tiểu kiều nguyệt hạ
tăng quy.
Dịch Thơ : Nước Biếc
Nước
biếc non xanh mãi
vậy thôi
Mây đơn
hạc nội
vẫn song đôi.
Thuyền
con bờ liễu
ai câu cá?
Cầu
nhỏ sư
về bóng
nguyệt trôi
!
Mailoc Kim tỉnh
oán Mỹ nhân chiếu
kim tỉnh, Tỉnh để hoa nhan lãnh. Không phòng dạ bất
quy, Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh.
Dịch nghĩa : Người đẹp soi giếng vàng Đáy giếng
lộ ra dung nhan lạnh nhạt Phòng không đêm không (dám) về
(ngủ) Trăng chuyển bóng ngô đồng Dịch Thơ : Nỗi
Oán Nơi Giếng Vàng Giếng
vàng người đẹp mặt
gương soi, Đáy
nước dung nhan thấy kém rồi.
Trở lại phòng
không đêm chẳng dám
Ngô đồng bóng
chuyển ánh trăng lơi.
Mailoc Giếng vàng người
đẹp soi Dung nhan
kém tươi rồi, Phòng không về chẳng dám
Ngô đồng bóng
trăng lơi.
Mailoc Nam khê Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành, Thập nhị niên tiền trú mã tình. Lưu thuỷ tự tri
nhân sự dị, Sàn viên bất tác tích lai thanh.
Miên Thẩm Dịch
nghĩa Nơi chốn sâu núi
chập chùng, khe nước chảy ngang Mười hai năm trước đã
có tình dừng ngựa nghỉ tại đây Dòng nước chảy
như biết việc người đời đã đổi khác (Nên)
tiếng róc rách không giống như năm xưa nữa Dịch Thơ : (1) Sâu thẩm
suối xuyên núi điệp
trùng Hai mươi
năm trước vó câu dừng.
Việc người thay
đổi suối dường biết
Tiếng nước giờ
nghe khác lạ lùng ! (2) Suối
xuyên trùng điệp núi
rừng, Hai mưới
năm trước ngựa dừng nơi
đây. Việc
người thay đổi suối hay,
Nước xưa róc
rách ngày nay khác rồi!
Văn thiền
Tống quân tằng thử địa, Nhất biệt hốt kinh niên. Sầu sát trường đình liễu, Thu phong khởi mộ thiền. Dịch
Thơ : (1) Nghe Tiếng
Ve
Tiễn chàng từng
ở nơi đây, Biệt ly một thoáng
đã đầy một năm
Trường đình
liễu rũ buồn căm,
Thu phong vang dậy tiếng
ngân ve chiều.
Mailoc (2) Từng tiễn chàng nơi
đây, Ly biệt
một năm đầy Trường đình buồn
liễu rũ, Thu
phong dậy ve sầu. ML Dạ bạc
Nguyệt Biều Trúc âm lương xứ dạ đình
thuyền, Thuỷ nguyệt, giang phong, vị nhẫn miên, Cách ngạn
chung lâu Thiên Mụ tự, Thanh thanh sao phá viễn đinh yên.
Miên Thẩm Dịch
nghĩa Dưới bóng tre yên
lặng, ở nơi mát mẻ, chiếc thuyền đậu lúc ban đêm, Trăng dưới nước, gió trên sông, chưa đành ngủ, Bờ bên kia, có lầu chuông Thiên Mụ, Dội vang từng tiếng,
phá tan làn khói ngoài xa, trên mặt sông. Dịch Thơ :
Đêm Đậu Bến Nguyệt Biều Dưới
bóng tre, đêm
yên thuyền
đỗ, Trăng-nuớc-sông
khó dỗ
giấc nồng
Bên sông Thiên Mụ
hồi chuông
Ngân nga xua hết
khói sông
đêm trường
Mailoc Xin cám ơn anh Mai Lộc đã giới thiệu những
bài thơ rất hay của Thi Sĩ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, người
mà khi còn ngồi ở ghế nhà trường, PH đã nghe danh qua hai câu
thơ truyền tụng: " Văn như Siêu,
Quát vô tiền Hán Thi đáo
Tùng, Tuy thất thịnh Đường " Vô
cùng hâm mộ tài dich thuật của anh ML, PH xin bắt chước phỏng
dịch sau đây, xin gởi đến Thầy và các bạn:
LIỄU (!) Oanh về năm ngoái lúc
xuân phai Tiều tụy dung nhan, nguyệt cảm
hoài Nay gió xuân xa vừa chớm
thổi Đã nghe sầu nặng nét
mi ngài (2) Oanh quay lại khi xuân đà
úa Nét tàn phai lộ rõ dưới
trăng Đêm qua nghe gió xuân sang
Lòng vương tê tái sầu dâng nét
ngài (3) Cuối xuân năm ngoái,
oanh về Dung nhan tiều tụy, ủ ê
trăng sầu Nay xuân vừa chớm nơi
đâu Đã nghe lòng trĩu buồn
cau nét ngài.
Phương
Hà phỏng dịch NƯỚC BIẾC (1) Non xanh nước biếc mãi nơi
đây Mây lẻ hạc đồng đã
vút bay Thuyền khách buông câu
bên gốc liễu Trên cầu sư dạo
dưới trăng lay. (2) Non xanh nước biếc
nơi này Mây đơn hạc nội
cùng bay thuở nào Dưới thuyền,
bên liễu, khách câu Trên cầu
sư bước lẫn vào đêm trăng.
Phương Hà phỏng dịch KHÚC OÁN THAN NƠI GIẾNG
VÀNG (1) Người đẹp soi gương mặt giếng vàng Thấy mình tiều tụy mảnh dung nhan Đêm về phòng chiếc khôn yên giấc
Nhìn bóng ngô đồng trăng tỏa lan.
(2)
Mỹ nhân soi mặt giếng vàng Nhìn trong đáy nước dung nhan héo tàn
Phòng đơn đêm lạnh bẽ bàng
Ngô đồng soi bóng mơ màng dưới
trăng. Phương Hà phỏng
dịch KHE SUỐI PHÍA NAM
(1) Trùng
điệp núi non, khe suối len Năm nào
kỵ sĩ đã dừng chân Nước
như hiểu rõ người thay dạ Nên
tiếng rì rào đã đổi âm. (2) Núi non trùng điệp, suối len Nhớ chàng kỵ sĩ dừng chân năm nào Lòng người thay đổi ra sao Nước đà hiểu rõ, rì rào khác xưa.
(3)
Hẽm núi, khe suối len Xưa, kỵ sĩ dừng chân Nước biết người đổi dạ Nên lặng lẽ thay âm
Phương
Hà phỏng dịch NGHE TIẾNG VE
(1) Tiễn
chàng năm ấy tại nơi đây Thoắt
đã tròn năm nỗi nhớ đầy Rặng liễu âm thầm chau nét mặt Tiếng ve theo gió thoảng ngân dài. (2) Tiễn chàng chính tại nơi này Thoắt đà trọn một năm đầy xa nhau Âm thầm rặng liễu mày chau Gió thu vẳng tiếng ve sầu xót xa.
Phương Hà phỏng dịch ĐÊM ĐẬU
BẾN NGUYỆT BIỂU
(1) Dưới
tre, thuyền đậu giữa đêm thanh Trăng
nước, gió sông ngủ chẳng đành Thiên Mụ hồi chuông xa vọng lại Xua màn khói sóng tỏa vây quanh. (2) Đêm thanh thuyền đậu bóng tre Ngủ không đành giữa tứ bề gió trăng
Hồi chuông Thiên Mụ vẳng sang Xua tan khói sóng mơ màng trên sông.
Phương Hà phỏng dịch Đỗ Chiêu Đức mới tham gia với các
bài dịch thơ của Tùng Thiện Vương - Miên Thẩm sau đây
: 1. 柳
LIỄU 去歲春殘黃鳥歸,
Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy, 秋容憔悴月明知.
Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri. 東風昨夜吹何處,
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ? 更惹新愁上曉眉.
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my. Diễn Nôm :
LIỄU Năm ngoái xuân tàn oanh
vội bay, Dáng thu tiều tụy mảnh trăng
soi. Đêm qua gió cuốn về đâu
nhỉ ? Lại rước thêm sầu liễu
sáng nay ! Lục bát :
Xuân tàn oanh vội bay về, Nét thu tiều
tụy não nề trăng soi. Đêm qua gió
thổi nhà ai, Sáng nay sầu đượm
nét ngài ủ ê ! 2. 淥水
LỤC THỦY 淥水青山常在, Lục
thủy thanh sơn thường tại, 孤雲野鶴同飛。
Cô vân dã hạc đồng phi. 短艇柳邊客釣,
Đoản đĩnh liễu biên khách điếu, 小橋月下僧歸。
Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy. CHÚ THÍCH : * Lục Thủy
: là Dòng nước trong. Chữ LỤC 淥 có 3 chấm thủy 氵,
có nghĩa là Trong trẻo. Chữ LỤC 綠 có bộ Mịch 糸 là
sợi tơ mới có nghĩa là Màu Xanh. * Đoản Đĩnh
: là chiếc xuồng con. DIỄN NÔM
: Nước
biếc núi xanh còn đó,
Mây đơn hạc lẻ cùng bay.
Xuồng con thả câu bờ liễu,
Sư về cầu nhỏ trăng lay ! Lục Bát :
Núi xanh nước biếc còn đây,
Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.
Xuồng con bờ liễu câu hời,
Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn. 3. 金井怨 KIM
TỈNH OÁN 美人照金井,
Mỹ nhân chiếu kim tỉnh, 井底華顏冷。 Tỉnh
để hoa nhan lãnh. 空房夜不歸, Không phòng
dạ bất quy, 月轉梧桐影。 Nguyệt chuyển ngô
đồng ảnh. CHÚ THÍCH : * Kim Tỉnh : Giếng vàng, là giếng của các nhà quyền qúy,
trên mặt miệng giếng có dát vàng. Trong Kiều khi chuyển mùa
Nguyễn Du cũng đã viết :
Thú quê thuần hức bén mùi, Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô. * Hoa Nhan : là dung
nhan của tuổi hoa niên, chỉ nét mặt son trẻ. DIỄN NÔM :
Người đẹp soi giếng vàng,
Dưới giếng dung nhan lạnh.
Phòng không cũng chẳng màng,
Trăng soi ngô đồng ảnh. Lục Bát :
Săm soi người đẹp giếng vàng,
Lạnh lùng nhan cắc ngỡ ngàng tái tê.
Phòng không đêm chẳng buồn về,
Ánh trăng lay động đã xê ngô đồng !
4.
南溪
NAM KHÊ 亂山深處一溪橫,
Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành, 十二年前駐馬情。
Thập nhị niên tiền trú mã tình 流水自知人事異,
Lưu thủy tự tri nhân sự dị, 潺湲不作昔來聲。
Sàn viên bất tác tích lai thinh CHÚ THÍCH : * Khê : Ta nói
là Khe, là dòng nước từ trong núi chảy ra, là con sông nhỏ
được hình thành bởi các dòng suối, mà ta quen gọi là
SƠN KHÊ 山溪. * TRÚ : là Trú đóng, là dừng
lại để nghỉ ngơi, ăn uống, cắm trại... khác với Đình
Mã 停馬 là chỉ dừng chân một chút rồi đi.
* Sàn Viên : từ Tượng Thanh, chỉ
tiếng Róc ra róc rách của nước chảy. DIỄN NÔM :
Khe Suối Nam Ngổn
ngang ngàn núi dòng khe cũ,
Dừng ngựa mười năm tình ấp ủ.
Nước chảy như tình người đổi thay,
Róc ra róc rách không như cũ ! Lục Bát : Vắt
ngang trong suối dòng khe,
Mười hai năm trước ấp e hàm tình.
Nước trôi nhân sự điêu linh,
Chẳng còn róc rách hàm tình như xưa !
Đỗ Chiêu Đức
Quên Đi xin tham gia và bổ sung thêm bản
chữ Hán bài thơ Văn Thiền: Liễu Năm
ngoái xuân tàn oanh ghé qua Dáng
thu xơ xác dưới trăng ngà Gió đông đêm trước từ đâu thổi
Lại khiến mi buồn thêm xót xa.
Lục
Thủy
Còn đây nước biếc non xanh Hạc hoang mây lẻ đồng hành về đâu Thuyền neo cạnh liễu khách câu
Dưới trăng nhẹ bước qua cầu bóng
sư. Kim Tỉnh Oán
Giếng vàng người đẹp thay gương Nhìn nơi mặt nước má hường nhạt phai
Phòng không đêm
vắng thiếu ai Ngô đồng
bóng chiếc ngã dài theo trăng Nam Khê Trùng
điệp non cao suối chảy thầm Nơi
đây dừng ngựa quá mười năm Phải chăng nước biết đời thay đổi Nên tiếng bây giờ đã đổi âm.
聞蟬
Văn Thiền 送君曾此地, Tống
quân tằng thử địa, 一別欻經年。 Nhất
biệt hốt kinh niên. 愁殺長亭柳, Sầu
sát trường đình liễu, 秋風起暮蟬。 Thu
phong khởi mộ thiền. Dịch Thơ Nơi này hai kẻ xa rời Thế rồi cũng trọn năm trời chia tay
Bên đình
liễu úa xót thay Chiều thu
ảm đạm gió lay ve buồn.
Quên Đi Kính các bạn vtt SQ nối
tiếp các bạn ĐCĐ, PH, QĐ xin cùng vui với ML qua bài thoát dịch
và ý của bài thơ cổ Việt của Tùng Thiện Vương.Với
công phu sưu tầm của ML và chú thích them của Thầy đồ ĐCĐ,
mà SQ chỉ là kẻ ăn theo để thay nhịp cầu thăm hỏi và
cầu chúc đến vtt mọi sự bình an và sức khoẻ. LIỄU
Từ
năm trước, Xuân phai Oanh đến Dưới
trăng vàng xơ xác bóng Thu Đêm
qua gió thổi về đâu? Khiến
long tê tái, giọt sầu dâng mi.
LỤC THỦY
Vẫn còn đây non xanh nước biếc
Hạc lạc đàn, mây lẽ bay đâu?
Thuyền neo gốc liễu buông câu Dưới
trăng Sư bước qua cầu bóng lay
KIM TỈNH OÁN Nước giếng vàng làm
gương soi mặt Thấy má hường
phai nhạt dung nhan Phòng không đêm
vắng bẽ bàng Ngô đồng lay
động trăng loang bóng dài
NAM KHE SUỐI
Núi trùng điệp lách len khe suối
Mười hai năm trước, ngựa dừngchân
Dòng đời thay đổi bao lần
Róc rách nước chảy đổi âm
rì rào NGHE TIẾNG VE
Tại nơi đây, tiễn chàng một thuở Đã xa nhau tính nhẩm tròn năm Trường Đình, rặng liễu buồn căm Gió Thu
văng vẳng xa xăm ve sầu
ĐÊM BẾN NGUYỆT BIỀU Đêm yên tĩnh, răng tre thuyền đỗ
Ngủ đành sao, nước vỗ trăng lồng
Tiếng chuông Thiên Mụ bên sông Ngân
nga vang vọng xua toang khói mờ
songquang MAI
XUÂN THANH:
1) Liễu
Oanh bay năm trước bóng xuân tàn
Nguyệt tỏ gương thu thấy võ vàng
Gió ở đâu đêm đông thổi
lại Muộn sầu mắt lệ đẫm
tuôn tràn
MXT 2) Nước
trong veo Núi xanh nước biếc đó bao ngày Hạc chiếc mây đơn có bạn bay Bờ liễu xuồng con câu bắt cá Dưới trăng cầu nhỏ bóng sư thầy
MXT 3)
Giếng Vàng Giếng vàng đáy
nước bóng giai nhân Nét mặt
như hoa thấm lạnh dần Gối trống
phòng không lòng chẳng đoái Ngô
đồng di ảnh dưới trăng ngân
MXT 4) Suối Khe Nam Chập chùng
núi thẳm suối khe ngang Vó ngựa
mười năm đó ngỡ ngàng Khác
biệt chi người qua nước chảy Còn
đâu róc rách cũ tình lang !
Mai Xuân Thanh Ngày
03 tháng 04 năm 2018 Tiểu sử[ Tùng
Thiện vương là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (tức 11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏寶), người Bình Chương, Gia Định, con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu (阮克紹), rất giỏi chữ nghĩa. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Hiện (晛)[1][2]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (阮福绵审).
Ông nội ông là Gia Long rất vui mừng, thưởng liền 10 lạng vàng[3]. Khi còn nhỏ, tính hay khóc, Thục tần rất lo mà không biết
thế nào. Bỗng có đạo sĩ nói rằng: "Đây là
sao Thái Bạch Kim Tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi.". Sau làm lễ, quả
nhiên khỏi hẳn. Năm lên 7 tuổi,
Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường (養正堂), được thầy Thân Văn Quyền[4] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới
8 tuổi (1827), nhân theo hầu Minh Mạng dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao
thi, rất được tán thưởng. Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc công (從國公),
mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng,
rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn
mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ
mẹ cư tang ba năm. Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện công (從善公).
Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường.
Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình.
Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư
xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên
lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu
ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Tự
Đức không kết tội chỉ nói ông: "Chọn rể không
cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm". Suốt
những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ
Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con
phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái
ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã (文雅). Năm 1878, ông được Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận
vương (從善郡王). Năm 1936[5], Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện vương (從善王),
tước vị mà ngày nay người ta quen gọi. Tùng Thiện Vương là bạn thơ chí tình của
Cao Bá Quát ( Nguồn
gốc : Wikipedia VN )
THI NHÂN ĐỜI TRẦN:
LÊ CẢNH TUÂN Mailoc, Đỗ
Chiêu Đức, Phương Hà __________________________________________________________________ Cùng Bạn,
Đọc mấy vần thơ dưới đây của Lê Cảnh Tuân,
một thi nhân đời nhà Trần khiến tôi vô cùng xúc dộng
thương xót cho ai trong cảnh tù tội, bị giam cầm nơi đất
quân thù . Xuân năm ngoái lại về, ngày Tết, càng gợi
thêm niềm nhớ quê hương da diết mà ngày về chẳng biết
bao giờ. Nhớ nhà , nhớ cội mai già ( hình ảnh mẹ già đang
ngóng đợi ) chắc nó cũng cằn cỗi xác xơ vơí thời
gian rồi. Xin cùng bạn chia xẻ. Thân
Mailoc
Nguyên nhật
Lữ quán khách nhưng
tại, Khứ niên xuân phục lai. Quy kỳ hà nhật thị ? Lão tận
cố hương mai. Lê Cảnh Tuân
Dịch nghĩa
Vẫn làm khách ở nơi quán trọ, Mùa xuân năm ngoái lại trở về. Ngày về biết lúc
nào, Cây mai nơi vườn cũ
đã cỗi hết! Dịch Thơ : (1) Ngày
Đầu Năm Vò võ bên trời
nơi khách quán Xuân
năm rồi lảng đảng ngoài song. Ngày về ai biết mà mong, Mai già vườn cũ cõi lòng nát
tan. (2) Bên trời nơi khách quán, Xuân năm ngoái lại về Bao giờ được quay gót, Xót mai già chốn quê Mailoc
Mộng
Lý Dịch Ngẫu Thành Đoản trạo
các tình sa, Tiền thôn
nhật dĩ tà. Tự
vô hoàn tự hữu, Yên
tế lưỡng tam gia.
Dịch Nghĩa:
Mái chèo ngắn gác lên bãi cát
Nhìn về xóm trước,
mặt trời đã xế chiều.
Cảnh hư ảo
như không lại có, Trong lớp khói mờ có hai ba mái
nhà. Dịch Thơ:
Nơi Trạm
Mộng Lý (1) Mái chèo ngắn
vừa tựa trên cát, Thôn
trước mặt nắng gác non tây. Nửa hư nửa thực cảnh
nầy Vài ba mái lá
khói xây lam chiều. (2)
Chèo vừa gác trên bãi,
Thôn trước nắng về
tây. Cảnh mơ màng
thực ảo, Mái lá
khói chiều xây.
Mailoc Lê Cảnh
Tuân sinh năm 1350 (Canh Dần) người làng Mộ Trạch, huyện
Đường An, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tuy nhiên, nguyên quán của ông lại là ở hương Lão Lạt,
huyện Thống Bình, châu Ái, trấn Thanh Đô (nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), sau mới dời ra nơi ấy[2]. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết Lê Cảnh Tuân đỗ thi Hương (cử nhân) khoảng năm Xương Phù (niên hiệu của Trần Phế Đế, ở ngôi: 1377-1388)[3]. Đến năm 1381, thì ông đỗ Thái học sinh (được xem là tương đương
học vị Tiến sĩ sau này) [4]. Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Tức giận, ông bày mưu khuyên bạn thân là Bùi Bá Kỳ (một tỳ tướng của Trần Khát Chân) sang Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay) xin quân đánh Hồ[3]. Năm 1406, nhà Minh mượn cớ "phù Trần diệt Hồ" sang xâm lược nước Việt. Do Bá Kỳ làm tiên phong dẫn đường [3], ngày 12 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1407), Hồ Quý Ly và hai con (Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương) đều bị quân đối phương bắt sống tại Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), rồi bị áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Kể từ đó, nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh. Lập được công lớn, Bùi
Bá Kỳ được nhà Minh cho làm chức Hữu tham nghị. Thất vọng vì biết vua quan nhà Minh không có ý định tái lập nhà Trần, năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) đời vua Giản Định Đế, ông viết Vạn ngôn thư (Bức
thư một vạn chữ) khuyên Bùi Bá Kỳ yêu cầu nhà Minh giữ lời hứa (xem bức thư ở
bên dưới). Gặp khi
Bá Kỳ vì cớ khác phải tội [5], quân Minh đến khám nhà Bá Kỳ bắt được bức thư
của ông, nên truy lùng bắt tác giả. Lê Cảnh Tuân phải
đổi tên đi trốn một thời gian. Năm 1411, quân Minh lập Giao Châu học hiệu tại Thăng Long, ông muốn đến xem. Nghe con ông thiết tha ngăn cản, ông nói:
Nhà ta đời đời
ăn lộc (nhà Trần). Một bức thư "Vạn
ngôn" đã tiết lộ không thành. Nay ta hết
lòng thành báo nước, dù chết còn vinh,
tiếng trung nghĩa muôn đời còn ghi ở
sử xanh. Ta có sợ gì. Nói rồi ông giả làm người khách đến
chơi, nhận chức dạy học với ý định ngầm thu phục chí
sĩ để tính việc phục quốc. Việc bại lộ, ông và người
con là Lê Thái Điền đều bị quân Minh bắt giải về Yên
Kinh (Bắc Kinh). Minh Thành Tổ hỏi ông rằng: "Mày khuyên Bá Kỳ âm mưu làm phản.
Vì sao vậy?" Ông nói: "Người Nam thì mong nước Nam còn. Chó ông Trích thì cắn người không phải chủ nó. Hỏi làm
gì?"[6] Theo Lịch triều
hiến chương loại chí và Đại
Việt sử ký toàn thư, vua Minh tức giận,
giam cha con ông vào ngục Kim Lăng (Nam Kinh), được 5 năm (1416, tức năm Bính Thân) thì đều mắc bệnh
chết[7]. Tuy nhiên, Từ điển bách khoa Việt
Nam lại cho rằng cha con ông mất ở Yên Kinh (Bắc Kinh). Đỗ Chiêu Đức xin được tham gia với
các phần sau đây :
BAI 1.
1. Bản tiếng Hán cổ của bài thơ :
元日 NGUYÊN NHẬT 旅館客仍在, Lữ quán khách
nhưng tại, 去年春復來。 Khứ niên
xuân phục lai. 歸期何日是? Quy kỳ hà
nhật thị ? 老盡故園梅。 Lão tận
cố viên mai ! 黎景詢
Lê Cảnh Tuân 2. Chú thích
: * Nguyên Nhật : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày
ĐầuCủa Một Năm, như chữ Nguyên Đán. * Nhưng : là
Vẫn, Vẫn Cứ... * Phục : là Lại, là Trở lại.
* Quy Kỳ : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về. * Lão
Tận : là Già đến tận cùng, là Già khú,già chát,
già khằng ! 3. Nghĩa Bài Thơ :
Người khách tha hương vẫn còn ở
nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại
trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây ? Chắc
cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi ! Não nùng thay tâm
trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến
Tết về. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các
đấng sanh thành chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu
não mà càng héo tàn lụm cụm ! 4. Diễn Nôm :
Mùng Một Tết
Khách còn
nơi quán trọ, Xuân năm trước
lại sang. Biết ngày nao trở lại ? Cội mai đã cỗi tàn ! Lục bát :
Trọ nơi lữ quán khách còn Mùa
xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê ?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu !
Đỗ Chiêu Đức BÀI 2 : 濛裡驛偶成
MÔNG LÝ DỊCH NGẪU THÀNH 短棹擱晴沙, Đoản trạo các tình sa,
前村日已斜。 Tiền thôn nhựt dĩ tà. 似無還似有,
Tự vô hoàn tự hữu, 煙際兩三家。 Yên
tế lưỡng tam gia ! Chú Thích
: * Mông Lý Dịch : Dịch
quán tên là MÔNG LÝ. * Ngẫu Thành : Ngẫu nhiên mà
làm thành. * Trạo là Mái chèo; Các là Gác lên;Tình
là Nắng, là Khô ráo. * Yên Tế : là Khói mờ ở
chân trời. Dịch nghĩa
:
Ngẫu nhiên viết thành ở quán dịch Mông Lý Mái chèo ngắn
vừa gác lên bãi cát khô lúc thuyền vừa cặp bến, khi
ánh nắng chiều đà nghiêng chiếu xóm thôn trước mặt;
ta nhìn thấy xa xa trong sương khói mơ màng mấy nóc nhà ai ẩn
hiện như có như không ở phía chân trời. " Tự vô hoàn tự hữu
", như có lại như không; mơ hồ vô định " Sắc tức
thị không, không tức thị sắc ". Bài thơ mang một ý thiền
của " sắc sắc không không !" Diễn Nôm : Chèo
vừa gác lên cát,
Xóm trên ánh nắng tà.
Khói mờ không như có,
Xa xa mấy nóc gia ! Lục
bát : Chèo
vừa gác bến cát khô, Xóm
trên nắng ngã mơ hồ chiều rơi.
Có không sương khói chơi vơi,
Chập chờn mấy nóc bên trời nhà ai !
Đỗ Chiêu Đức
01-17-2018 PHƯƠNG
HÀ: I- Phỏng dịch bài NGUYÊN NHẬT 1- Ngày
đầu năm Khách vẫn còn nơi quán trọ này Mùa xuân năm ngoái lại về đây
Ngày hồi hương vẫn xa mù mịt
Thương gốc mai già cỗi lắm thay !
2- Ngày đầu
năm Khách còn trọ ở quán này Thêm mùa xuân nữa lạc loài xa quê Chắc rằng đến lúc trở về Cội mai vườn cũ thảm thế cỗi tàn
3- Ngày
đầu năm Khách còn nơi quán trọ Lại một mùa xuân qua Hẳn
ngày về quê cũ Mai vườn xưa
đã già ! Phương Hà phỏng
dịch II- Phỏng
dịch bài MÔNG LÝ DỊCH NGẪU THÀNH
1-
Ngẫu Hứng Đề Thơ ở trạm Mông
Lý Mái chèo gác bãi cát vàng Nhìn về thôn xóm bóng hoàng hôn buông
Mơ hồ thực thực không không
Vài ba mái lá sương lam phủ mờ
2- Ngẫu
Hứng Đề Thơ ở trạm Mông Lý Chèo gác trên bãi
cát Hoàng hôn buông bát ngát
Xóm thôn khuất sương mờ Ẩn hiện nhà rải rác.
Phương Hà phỏng dịch
_________________________________________________________________________________
NGUYỄN SƯỞNG: THÔN CƯ Bài dịch / phỏng dịch: Mailoc, Phương Hà, Cao Linh Tử, Đỗ Chiêu Đức,
Songquang, Song Mai Lý Lệ, Mai Xuân Thanh _____________________________________________________________________________________________________ Cuối năm đất khách, lòng chợt thấy
bùi ngùi, nhớ lại quê hương xa tít ở bên kia bờ đại
dương, mong ước được sống lại cảnh " Nước thanh bình
ba trăm năm cũ ! "... Ngồi đây, soạn lại " Góc Việt Thi
" của Vườn Thơ Thẩn, đọc lại bài " THÔN CƯ "
của Nguyễn Sưởng đời Trần, lại càng làm xúc động
tâm tư nhớ về quê hương cố thổ... Kính mời tất cả
cùng " đốt lại " lò hương cũ nầy để gây thêm
chút hơi ấm cho những ngày cuối đông lạnh lẽo !...
THÔN CƯ
Nguyễn Sưởng Cùng
Bạn Xin
chuyển đến Bạn một bài thơ của Nguyễn Sưởng . Cụ
đã vẽ lên bức tranh vừa mơ màng vừa dễ thương cuộc
sống an nhàn ngày xưa ở thôn quê : ngày tai lắng tiếng
chim ca , mơ màng theo giậu trúc phất phơ gió mát, đêm có
trăng với bóng hoa lồng, có những ván cờ tướng chậm rãi
hào hứng đang tính nước nát óc , khi bước về nhà
thì đã ngà ngà say chân nam đá chân xiêu chập chờn
nửa mơ nửa tỉnh, tai đã văng vẳng tiếng gà eo óc
nhà gần bên .Trời gần sáng. Ôi tuyệt vời cuộc sống thanh
bình thơ mộng của thôn quê ta ngày xưa ! Nguyễn
Sưởng 阮鬯hiệu là Thích Liêu sống cùng thời với
Trần Quang Triều (1286-1325), Nguyễn Trung Ngạn (1289-1368), có làm
quan dưới triều Trần , nhưng sớm chán công danh , lui về vui với
bầu bạn và thiên nhiên. Ông tham gia thi xã Bích Động
. Tác phẩm lưu lại chỉ mấy bài thơ .
Thân kính
Mailoc
THÔN CƯ
Nguyễn Sưởng Thông thông xuân
dĩ hạ , Thụ để điểu thanh
mang . Thiềm nguyệt hoa di ảnh ,
Song phong tá trúc lương . Vi kỳ nhàn đắc địa , Đối tửu túy vi hương . Hoán xuất Hoa tư quốc , Lân
kê cách đoản tường .
Dịch thơ : Thấm thoát xuân qua đã lại hè , Vòm cây ánh ỏi tiếng chim quê .
Giậu trúc phất phơ hơi mát thoảng
, Thềm trăng lẩn thẩn bóng
hoa xê . Cuôc cờ thủng thỉnh
thêm cao nước , Chén rượu
ngà ngà dẫn lối về . Chập
chờn sực tỉnh Hoa tư mộng , Một
tiếng gà bên xóm gáy te .
Vô danh Ở LÀNG Lật bật hè về xuân lại qua , Trong vườn ríu rít tiếng chim ca .
Thềm trăng chầm chậm bóng hoa chuyển
Bụi trúc dật dờ gió tối xoa
Thong thả cuộc cờ đang tính nước
, Lâng lâng chén rượu lúc
về nhà . Mơ màng chợt
tỉnh Hoa tư mộng , Eo óc tường
bên một tiếng gà .
Mailoc phỏng dịch Theo
gót anh Mai Lộc với bài dịch rất hay, PH xin góp bài phỏng dịch
sau đây gởi đến Thầy và các bạn: SỐNG Ở THÔN QUÊ
Thoáng chốc xuân tàn, hạ đã
sang Trong vòm, chim chóc hót ca
vang Ánh trăng in bóng chùm
hoa muộn Làn gió đung đưa
khóm trúc vàng Thanh thản
cuộc cờ, tâm sảng khoái Say
sưa chén rượu, dạ bình an Hồn mơ chợt tỉnh, rời cơn mộng Một tiếng gà sau bức giậu ngang.
Phương Hà phỏng dịch
Không biết chị Phương
Hà đang ở nước ngoài hay trong nước, đọc bài phỏng
dịch của chị mà thoáng buồn cho thực trạng thôn quê hôm
nay. Thời hội nhập mức sống nâng cao, người ta tất bật để
chạy theo cho kịp nên cảnh nhàn tảng như xưa chẳng còn nữa
đâu. Tôi xin họa với chị mà gởi nên mấy ý để
gọi là....là gì cũng được ! THÔN QUÊ HỘI NHẬP
Thu
đông xuân hạ mấy ai sang Chim
chóc đâu rồi hết hót vang Vận tải tàu xe thi nhả khói Bán mua đất ruộng đẻ ra vàng Cuộc cờ nhàn nhã người chơi hiếm
Bữa rượu mẹp mèm giấc
ngủ an Tra tấn âm thanh thời
hội nhập Hương linh tiền
bối thử về ngang...
Cao Linh Tử 2/8/2014
Đỗ Chiêu
Đức tham gia với các phần sau đây : 1. Nguyên bản chữ
Hán của bài thơ :
村居 THÔN
CƯ 匆匆春已夏, Thông
thông xuân dĩ hạ, 樹底鳥聲忙。 Thọ
để điểu thanh mang. 簷月移花影, Thiềm
nguyệt di hoa ảnh, 窗風借竹涼。 Song
phong tá trúc lương. 圍棋閒得地, Vi
kỳ nhàn đắc địa, 對酒醉為鄉。 Đối
tửu túy vi hương. 喚出華胥國, Hoán
xuất Hoa Tư Quốc, 鄰雞隔短牆。 Lân
kê cách đoản tường. 阮鬯 Nguyễn
Sưởng 2. Chú thích : * Thông thông : là
Vôi vả, tất bật, chỉ khoảng thời gian rất nhanh. 3. * Thiềm : là Mái hiên nhà.
* Vi Kỳ : là Cờ Vây. Một loại
cờ xưa phân biệt bang hai loại quân đen trắng. Trong Truyện Kiều
tả lúc Thúc Sinh mê mẩn Thúy Kiều, suốt ngày cứ :
Bàn
VÂY điểm nước, đường tơ họa đàn. * Hoa Tư Quốc : là nước của họ Hoa Tư.
Tương truyền là nơi ở rất thanh bình không có vua, mọi người
dân đều hạnh phúc. Điển cố theo sách "Liệt tử",
Hoàng Đế trưa nằm ngủ mơ thấy đến nước Hoa Tư. Sau
thường dùng tích này để chỉ cảnh thái bình, hoặc
chỉ cảnh mộng mị.
4. Dịch nghĩa :
Cuộc
Sống Ở Thôn Làng Trong
thoáng chốc thế mà đã xuân đi hạ về. Dưới các
chòm cây lá tiếng chim hót rộn ràng. Bên thềm nhà ánh
trăng chiếu làm lay động các bóng hoa. Gió vờn bên song cửa
như mượn nhờ hơi mát từ các khóm trúc sang. Rảnh rổi
nên cờ vây là môn giải trí đắc địa nhất. Chén
rượu ngà ngà say là thú vị của quê nhà. Cứ ngỡ
là mình lạc trong mơ đến được nước Hoa Tư. Nhưng
tiếng gà bên vách hàng xóm gáy vang đã làm cho tỉnh
mộng ! 4. Diễn Nôm :
Cuộc Sống Ở Xóm Làng
Thoáng
chốc xuân đà sang hạ, Trên
cành rộn tiếng chim ca. Dưới
thềm bóng hoa thấp thoáng, Bên
song cành trúc la đà. Thư thả bàn vây điểm nước, Ngà say chén rượu quê nhà. Cứ ngỡ lạc Hoa Tư Quốc, Cách tường xao xác tiếng gà !
Đỗ
Chiêu Đức Thôn thanh bình (Qua ý
thơ "Thôn cư" của tiền bối Nguyễn Sưởng) và qua sự diển nôm của Đỗ Chiêu Đức)
Thoáng
chốc Xuân qua hè đã đến Vòm
cây chim hót líu lo vang Thềm hoa nguyệt
chuyển bóng tàn Dật dờ giậu
trúc gió tràn đong đưa. Cuộc
cờ Tiên tìm chưa được nước Rượu lâng lâng chân bước về nhà Mơ màng ngỡ lạc "Quốc Hoa" Tường ngăn eo óc tiếng gà đưa sang
songquang
12/25/17 Sống
nơi thôn dã thuở an bình
Hè đến,Xuân qua đà mấy chốc
Trong vườn cây ,chim chóc líu lo
Thềm trăng di chuyển bóng mờ Gió lùa ngọn trúc vẩn vơ buông mành
Cờ Tiên đấu sao đành thất nước
? Men rượu say rảo bước về nhà
Chập chờn tưởng lạc Quốc Hoa
Tường ai sáng sớm tiếng gà gáy
vang Song MAI Lý Lệ Nông Thôn An Lạc
Thấm thoát hết xuân rồi đến hạ
Lùm cây chim hót khí dương hoà
Là đà khóm trúc phơi sương
gió Thơ thẩn thềm trăng phủ
cụm hoa Bí nước bàn cờ ngồi
tại chỗ Cạn chung vò rượu
dậy về nhà Hoa Tư đất thịnh
hồn thơ mộng Bừng tỉnh tường
bên vẵng tiếng gà
Mai Xuân Thanh Ngày
25 tháng 12 năm 2017 _____________________________________________________________________________________
NGUYỄN DU: ĐỘ
LONG VĨ GIANG Bản dịch: Mailoc, Mai
Xuân Thanh, Đỗ Chiêu Đức, Songquang, Quên Đi, Mai Thắng, Song Mai
Lý Lệ, Danh Hữu _____________________________________________________________________________________________________________________
_________________________________________________________ Độ Long Vĩ Giang *
Nguyễn Du Cố quốc
hồi đầu
lệ, Tây phong nhất lộ
trần. Tài qua Long Vĩ thủy,
Tiện
thị dị
hương nhân.
Bạch
phát sa trung kiến,
Ly hồng
hải thượng
văn. Thân bằng tân
khẩu vọng,
Vị
ngã nhất
triêm cân.
Mailoc:
Dịch nghĩa:
Ngoảnh nhìn quê
hương nước mắt rơi,
Gió tây thổi bụi
suốt dọc đường.
Vừa qua sông Long Vĩ,
Đã là người đất
khách. Đi giữa
bãi cát, càng trông càng
rõ mái tóc bạc,
Nghe chim hồng lìa đàn
ngoài biển kêu. Bạn bè thân thích
đứng trên bến nhìn
theo, Vì ta mà nước
mắt ướt khăn. *Long Vĩ giang: chỉ khúc
sông Lam ở gần quê hương
của cụ Nguyễn Du phía gần
biển Dịch
Thơ: Qua Sông Long-Vĩ Ngoảnh
nhìn lại quê nhà lệ
ngấn, Gió tây về
bụi vẩn đường mờ.
Vừa qua Long-vĩ bến
bờ, Đã nghe thân
khách bơ vơ vương sầu.
Giữa cát vàng
bạc đầu rõ nét,
Nhạn hồng lạc
thảm thiết biển khơi.
Thân quen dõi mãi bóng người,
Vì ta khăn ướt lệ
rơi khôn cầm.
Mailoc phỏng dịch Quê nhà mặt
ngoảnh lại, Gió
tây tung bụi đường. Vừa qua bến Long Vĩ
Thân khách đã sầu vương.
Cát vàng rõ đầu bạc,
Hông nhạn lạc kêu
sương. Người
thân còn đứng ngóng,
Vì ta lệ cảm thương
.
ML
8-16-17
Mai Xuân Thanh:
Qua Sông
Long Vĩ Nhìn lại cố hương đẫm lệ tràn Dặm đường bụi bốc gió tây sang Qua sông Long Vĩ còn chân ướt Dừng bước quê người cũng ngỡ ngàng
Đầu bạc nổi lên vàng bãi cát
Chim hồng lạc giữa biển kêu đàn
Bạn bè dõi mắt xa bờ khuất
Giọt lệ thấm khăn dạ xốn xang
Mai Xuân
Thanh Quê hương ngoãnh mặt lại Bụi
đường bay gió tây Qua sông
mới Long Vĩ Xa xứ lạ chân mây
Cát vàng bạc đầu tóc Hồng nhạn biển khơi bay Anh em nhìn khuất bóng Ướt
khăn đẫm lệ này
Mai Xuân Thanh Ngày
16 tháng 08 năm 2017 Đỗ Chiêu Đức:
Đỗ Chiêu Đức
tham gia với các phần sau đây : 1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :
渡龍尾江 Độ Long Vĩ Giang
故國回頭淚, Cố quốc hồi đầu lệ, 西風一路塵。 Tây phong nhất lộ trần. 纔過龍尾水, Tài qúa Long Vĩ Thủy, 便是異鄕人。 Tiện thị dị hương nhân. 白髮沙中見, Bạch phát sa trung kiến, 離鴻海上聞。 Li hồng hải thượng văn. 親朋津口望, Thân bằng tân khẩu vọng, 為我一沾巾。 Vị ngã nhất triêm cân. 阮攸 Nguyễn
Du 2.
Chú Thích : * CỐ QUỐC 故國 : là Nước Cũ, cũng có nghĩa là Quê Cũ. * LỆ 淚 : là Nước mắt. Động từ có nghĩa là : Rơi nước
mắt. * TRẦN 塵 : là Cát Bụi. Nhất Lộ Trần là Dọc đường gió
bụi. * TÀI 纔 : là Mới, là Mới vừa.
* TIỆN 便 : là Bèn. Tiện Thị : Bèn là ... * TÂN KHẨU 津口 : là Bến nước, Bến đò. * TRIÊM CÂN 沾巾 : là Ướt Khăn, ý nói lệ rơi thấm ướt
khăn. 3. Nghĩa Bài Thơ :
Qua Sông LONG VĨ LONG VĨ GIANG là
khúc sông Lam gần quê hương của Nguyễn Du, cạnh biển. Sông
Lam từ nguồn cho đến ngã ba Hưng Nguyên còn có tên gọi
là Thanh Long giang. Ngoảnh đầu
trông lại quê hương mà khôn ngăn hai hàng lệ nhỏ. Lại
thêm gió tây thổi suốt dọc đường gió bụi. Vừa
qua khỏi sông Long Vĩ thì thân ta đã là người tha hương
rồi. Làn tóc bạc in rõ trên bãi cát trắng và tiếng
chim hồng nhạn lìa đàn còn oang oác ở ven sông. Bạn bè
thân thích còn đứng ngóng trông ta bên bến nước, vì
ta mà lệ rơi ướt cả khăn là. Tình cảm luyến lưu ướt át
đến thế là cùng, thảo nào người ta thường bảo Nguyễn
Du thuộc "túp" nòi tình chính hiệu ! 4. Diễn Nôm :
Ngoảnh đầu quê cũ lệ rơi, Dọc đường
cát bụi tơi bời gió tây. Vừa
qua Long Vĩ mới đây,
Thoát đà đã hóa ra người tha hương ! Tóc mây cát
trắng còn vương, Lìa đàn
tiếng nhạn kêu thương não lòng. Thân bằng bến nước vời
trông,
Vì ta ướt cả khăn hồng lệ rơi !
Đỗ Chiêu Đức
Songquang:
Qua bờ sông Long
Vỹ (Phỏng dịch qua nguyên bản"Độ
Long Vỹ giang " của cụ Nguyễn Du)
và phần diển giảng của Mai Lộc
Ngó lại quê nhà,nước mắt tuông
Gió Tây thổi bụi mịt mờ đường
Qua sông Long Vỹ thành thân khách
Đất lạ ,xứ người dạ vấn vương
Giữa cát,bạc đầu càng hiện rõ
Chim hồng lạc bạn phải tha phương
Người thân dõi mắt nhìn theo mãi
Khăn lệ khôn nhoà dấu cố hương
songquang
Quên Đi:
Qua Sông Long Vỹ 1/ Lệ đổ nhìn
quê hương Gió Tây tốc
bụi đường Vừa qua Long Vỹ
bến Thành khách lạ tha phương Trên cát trơ đầu
bạc Tiếng chim ngoài đại
dương Người thân
còn đứng tiễn Buồn ướt
đẫm khăn hường. 2/
Ngoái nhìn quê cũ lệ sa Gió Tây theo bước đường xa bụi mờ
Qua
sông Long Vỹ thẩn thờ
Chỉ vừa mới đó mà giờ tha hương Trên bãi
cát rõ tóc sương Biển
khơi vẳng tiếng bi thương chim Hồng Người thân trên bến còn
trông Khăn đầm
nước mắt đau lòng tiễn ta.
Quên Đi Mai Thắng:
QUA SÔNG
LONG VĨ Ngoãnh mặt nhìn quê cũ Gió tây cuốn bụi đường Thanh Long vừa quá bến Lữ thứ đã ly hương Cát
trắng in màu tóc Chim hồng lạc
khúc thương Bến quê bè
bạn tiễn Khăn lệ dầm hơi sương
Mai Thắng Song Mai Lý Lệ:
Kính Thầy ML và các bạn
thơ vtt Song MAI Lý Lệ cũng xin góp
vui với bài phỏng dịch theo nghĩa của Thầy ML Qua dòng Long Vỹ
Quê
nhà ngoảnh lại lệ tuông Gió
Tây bốc thổi bụi đường mờ tung Vừa qua Long Vỹ bên sông Làm
thân lữ khách sầu dâng nảo nùng Bạc đầu tựa cát tuyết sương Chim hồng nhạn lạc sầu vương lẻ bầy Thân bằng đưa tiển còn đây
Khăn lau ngấn lệ ngắn dài vì ta
Song MAI
Lý Lệ Mai
Xuân Thanh:
Lục
bát góp vui của MXT Qua Sông Long Vĩ
Xa nhà ngó lại khóc ròng Dọc đường bụi bốc tây phong thổi về
Qua sông Long Vĩ tái tê Mới hay đất khách ủ ê quê người
Cát pha tóc bạc giữa trời Chim kêu lẻ bạn biển khơi lạc đàn
Bến quê thân thích ngóng sang
Vì ta đỗ lệ bàng hoàng thấm khăn
Mai Xuân
Thanh (Phỏng theo bản dịch của thầy
Mailoc) Ngày 17 tháng 08 năm 2017 Danh Hữu: Hôm nay cuối
tuần, đọc mấy bản dịch của quí bạn trong vườn thơ, dịch
một bài Tâm Thi của Nguyễn Du. Tôi thấy mình cũng nên đóng
góp một chút và nhất là để tặng các anh : Lộc Nguyên,
Trí Khắc Phạm, lý do là tôi đã dịch nhiều thơ của
Nguyễn Du, nhất là đã dịch trọn cả tập Bắc Hành Tạp
Lục của ông nên cũng phần nào hiểu thơ ông. Tất nhiên
thơ Nguyễn Du không dễ dịch, vì ông là một trong số 5 người
nổi tiếng nhất đương thời, mà thơ ông lại phần lớn
chỉ là thơ bày giải tâm sự, ông không làm thơ tả
cảnh, thơ tả cảnh chỉ có ở trong Kiều. Mời quí bạn thưởng thức : 渡 龍 尾 江
Độ Long Vĩ Giang 故 國 回 頭 淚
Cố quốc, hồi đầu lệ; 西 風 一 路 塵
Tây phong, nhất lộ trần. 纔 過 龍 尾 水
Tài quá Long Vĩ thủy, 便 是 異 鄉 人
Tiện thị dị hương nhân. 白 髮 沙 中 見
Bạch phát, sa trung kiến; 離 鴻 海 上 聞
Ly hồng, hải thượng văn. 親 朋 津 口 望
Thân bằng tân khẩu vọng; 為 我 一 沾 巾
Vị ngã, nhất triêm căn. 阮 攸
Nguyễn Du
Qua cuối khúc sông rồng Triều Lê, nhớ rơi lệ ! Tây sơn, khổ một thời : Mới qua khúc Long vĩ, Đã
thành khách quê người. Cát
lầm, tóc trắng xóa; Biển xa, hồng
chơi vơi. Ngó bà con trên bến;
Khiến ta, khăn đẫm rồi. Ghi chú :
Bài thơ này nằm ở phần cuối tập
Thanh Hiên tiền hậu tập, là tập thơ gồm hai tập, tập đầu,
thơ làm trong vòng 10 năm sống ở quê vợ, tập này còn 26
bài, và tập sau, là làm trong những ngày ông về sống ở
quê cha vùng Nghệ Tĩnh, tập này còn 33 bài và đây là
bài thứ 31. Theo nội dung, ta có thể thấy, bài thơ này làm
lúc ông đang sắp muốn rời Nghệ Tĩnh để đi Huế làm
quan. Thơ Nguyễn Du đa số là thơ
tâm sự, bài này cũng là bài giải bày tâm sự của
ông. Nó thể hiện nỗi lòng của ông đối với chuyện
quá khứ mà ông đã phải chịu đựng trước khi ông
rẻ bước qua một đời sống khác, phục vụ một thể chế
mới. Bài thơ này ông làm
khi sắp tách bến, vào đầu bài thơ, ông đã rơi lệ
khi nhớ về nhà Lê (cố quốc) và một thời (nhất lộ) sống
dưới phong trào Tây sơn (Tây phong), một triều đại mà cha,
anh của ông đã phục vụ, kể cả ông dù trong thời gian không
dài. Cuối bài thơ, ông cũng để lệ rơi. Một bài thơ
mà câu đầu, câu cuối đều nói đến sự mũi lòng,
là một bài thơ khá đặc biệt. Câu đầu, ông khóc
cho Triều đại nhà Lê mà ông đã phục vụ, câu cuối,
ông khóc, mừng cho bản thân đã sắp chấm dứt những ngày
khổ ải. Ngoài
ra, tựa bài thơ là Độ quá Long Vĩ Giang, do đó các sách
đều dựa theo Lời chú của các ông Lê Thước, Trương
Chính, bảo đó là tên chỉ khúc sông Lam từ ngã ba Hưng
Nguyên trở xuống vùng quê tác giả, còn khúc sông đi qua
làng Tiên Điền (làng của Nguyễn Du) thì có tên là Long
vĩ giang. Chúng ta không ở Nghệ Tĩnh, nên không biết lời chú
đó có đủ tin cậy không. Tại sao sông Lam lại có một
khúc mang tên là Long Giang, rồi khúc khác gần biển lại có
tên Long vĩ giang ? Nếu đã có Long vĩ tất phải có Long đầu
chứ ! Vậy Long đầu là ở khúc sông nào ? Tôi cho đây
chỉ là ông Lê Thước tưởng tượng ra thôi vì bài
thơ này ông đã dịch không thoát. Cụm từ "Long Giang"
ở đây, theo tôi là từ ám chỉ "non sông Việt" chứ
không có khúc sông nào tên là Long giang và Long giang vĩ cả.
Long có thể hàm ý Thăng Long, vĩ là cái đuôi, là cuối
đường. Độ quá Long vĩ giang = Đã đi qua hết thời của
Thăng Long (hàm ý nhà Lê). Nghĩa là dù có luyến tiếc
chế độ cũ (non sông nhà Lê), nhưng nó đã qua rồi, ta
nên đoạn tuyệt thôi. Bài thơ này, tóm lại, tôi nghĩ, là một
bài ông trình bày nỗi lòng của một trí thức đang có
ý định qua sông: từ một thể chế cũ, Triều Lê, bước
sang phục vụ một thể chế mới, Triều Nguyễn (Gia Long). Giữa 2 thể
chế đó là Triều đại Tây Sơn của 15 năm ông phải
chịu đựng mà ông tóm lược trong 2 cặp đối. Ở Triều
đại đó, ông chỉ là người khách lạ trên chính
quê hương của mình, ông đã sớm bạc đầu vì khổ
cực, ông phải sống im ắng như con chim hồng lìa bể khơi, không
còn đất vùng vẫy. Danh Hữu (Paris, 19 août 2017) _______________________________________________________________________________________
TRẦN NHÂN
TÔNG: SƠN PHÒNG MẠN HỨNG Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Trầm
Vân SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
Trần Nhân Tông (1258 - 1308)
Thùy phược cánh tương cầu giải
thoát
Bất phàm hà tất mịch
thần tiên
Viên nhàn mã
quyện nhân ưng lão
Y cựu
vân trang nhất tháp thiền
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
Mạn Hứng Ở Sơn Phòng
PKT - Mây Tần 2015
Có ai trói buộc mình đâu mà phải cầu giải
thoát / Bụi trần đã không còn vướng mắc rồi
thì hà tất đi tìm thần tiên làm chi nữa / Bày
vượn nhởn nhơ , con ngựa đã mỏi , người nay đã
già / Am mây và chiếc giường thiền ngày nào vẫn
còn đó / / Nỗi thị phi phải quấy đã rũ bỏ
theo từng cánh hoa rụng rơi ban sáng / Niềm hám danh hám lợi
đã gửi theo từng đợt mưa lạnh trong đêm / Hoa đã
rụng hết , mưa đã tạnh hẳn , núi non tịch mịch trước
mắt / Một tiếng chim hót , ừ nhỉ , cái vòng tuần hoàn
trời đất , xuân đến rồi đi SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
PKT - Mây Tần 2015
Ai trói buộc đâu mà cầu giải thoát
Lòng đã thoát phàm hà tất tìm Tiên
Vượn nhàn , ngựa mỏi , thân lão
Chốn cũ , am mây , một chiếc giường thiền
Sáng ngắm hoa rơi , thị phi rũ bỏ
Ðêm nghe mưa lạnh , danh lợi buông trôi
Hoa tàn , mưa tạnh , núi vắng
Một tiếng chim hót tiễn Xuân lưng trời
Lời Thêm : Ðây là
một bài thơ , mạn hứng của vua Trần nhân Tông , Sư Tổ dòng
Thiền Trúc Lâm Yên Tử , một vị Phật nước Việt Nam ta , người
đã đắc đạo , bất phàm , ngoài vòng thị phi danh lợi
và đã ngộ được lẽ tuần hoàn sinh diệt của Tạo
Hóa . Còn chúng ta ? Những ngày cuối năm , tôi xin được
mạo muội chia sẻ cùng với thân quen và tất cả các anh
chị em con cháu trong nhà một niềm mong ước . Là phàm tục đời
thường , sống trong vòng thị phi danh lợi , không mấy ai tránh
khỏi được chuyện khen chê tốt xấu . Nếu như chỉ nên biết
đến chuyện tốt của nhau thôi thì có lẽ chúng ta sẽ
có nhiều hy vọng được sống vui với mình và với người
trong thông cảm , tôn trọng, và thương yêu lẫn nhau hơn . Vâng,
năm mới , xuân mới , hy vọng mới , mong là sẽ được
như vậy . Cầu chúc an vui . PKT 01/18/2017 Tri Khac Pham Phamid1934@gmail.com Xin góp vần cùng anh Trí Thân kính ML
SƠN PHÒNG MẠN
HỨNG
Ai
trói đâu mà cầu giải thoát ?
Phàm
tục rời nào khác tiên gia
Vượn
nhàn ,ngựa mỏi, người già
Am
mây chốn cũ mình ta chõng thiền .
Thị
phi như hoa mai tan tác
Lợi
danh buông như hạt mưa đêm.
Hoa
tàn , mưa tạnh, non êm
Chim kêu
một tiếng buồn tênh xuân tàn .
Mailoc phỏng dịch Sơn Phòng Mạn Hứng Có ai trói buộc mình đâu Mà mong giải thoát qua cầu tìm Tiên Vượn nhàn ngựa mỏi chân rêm Am mây một chiếc giường thiền thảnh thơi
Sáng
ra ngồi ngắm hoa rơi Đêm nghe mưa
lạnh thả trôi muộn phiền Hoa tàn
mưa tạnh nắng lên Tiếng chim hót
tiễn Xuân bên lưng trời TrầmVân ( phỏng dịch ) ____________________________________________________________________________________
Bài Tứ Tuyệt của
Phật Hoàng Trần Nhân Tôn VŨ LÂM
THU VÃN Bản dịch:
Quên Đi, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Mai Xuân Thanh, Danh Hữu, Song Quang, Nguyễn Đắc
Thắng 武
林 秋 晚 Vũ
Lâm Thu Vãn 陳仁宗
Trần Nhân Tôn 畫 橋 倒 影 蘸 溪 橫 Hoạ
kiều đảo ảnh trám khê hoành 一 抹 斜 陽 水 外 明 Nhất mạt tà dương
thuỷ ngoại minh 寂 寂 千
山 紅 葉 落 Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
濕 雲 和 露 送 鐘 聲 Thấp
vân hoà lộ tống chung thanh. Dịch nghĩa: Chiều Thu Nơi Vũ Lâm Cây cầu
và cái bóng đảo ngược vắt ngang qua suối giống như vẽ
Một vạt nắng chiều chiếu sáng bên
ngoài dòng nước. Ngàn núi
lặng yên lá đỏ rụng rơi Mây
ướt lẫn sương giăng tiếng chuông vang xa. Dịch Thơ
Chiều Thu Vũ Lâm
Như tranh vẽ suối cầu soi bóng
Bìa nước chiều nghiêng vệt sáng
vàng Yên ắng ngàn non hồng
lá rụng Sương mờ mây
ẩm tiếng chuông vang
Quên Đi
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM Cầu soi xuống
suối như tranh vẽ Vệt nắng chiều
nghiêng mép nước tràn Lá
đỏ rụng trên ngàn núi lặng Mây
mù sương tỏa tiếng chuông ngân Phương Hà Xin được tham gia diễn nôm bằng Lục Bát
:
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM Cầu soi bóng nước trên sông, Nghiêng nghiêng vệt nắng chiếu hồng tà dương.
Lá bay tơi tả trời sương, Mây chùn xuống thấp tiếng chuông ngân
dài !
Đỗ Chiêu Đức THEO BẢN DỊCH "CHIỀU THU NƠI VŨ LÂM CỦA
ANH QUÊN ĐI ( QUA THƠ "
VŨ LÂM THU VÃN - TRẦN NHÂN TÔN ) BÀI 1 : VŨ LÂM MỘT CHIỀU THU Như tranh hình bóng
suối cầu ngang, Ánh nắng chiều
soi phản chiếu vàng. Lá đỏ
non ngàn rơi lát đát, Sương
mây ẩm thấp vọng chuông vang.
Mai Xuân Thanh BÀI 2 : CHIỀU THU TẠI VŨ LÂM Soi bóng cầu ngang suối tựa tranh, Nắng chiều phản chiếu nước trong xanh. Non ngàn lá đỏ rơi êm ả, Sương ướt mây mù chuông vọng thanh. Mai Xuân Thanh
(theo bản dịch của anh Quên Đi)
Ngày 28 tháng 09 năm 2016 BÀI 03 :
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM Như tranh ngang suối
cầu quay ngược, Nắng chiếu
tà dương nước ánh vàng. Chiều rơi lá đỏ non ngàn, Mây mù sương đẫm ngân vang chuông rền.
Mai
Xuân Thanh ( theo bản dịch của
nhà thơ Quên Đi qua bài Vũ Lâm Thu VÃn - vua Trần Nhân Tôn
) Ngày 28 tháng 09 năm 2016
武林秋晚 畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明 寂寂千山紅葉落 濕雲和露送鍾聲 陳仁宗
Vũ
Lâm thu vãn Họa kiều đảo
ảnh trám khê hoành, Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại
minh. Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc, Thấp vân
hoà lộ tống chung thanh.
Chiều thu ở làng Vũ
Lâm (*) Cầu soi bóng
ngược, ngang dòng khe, Mặt nước
lung linh, vệt nắng về. Lặng
lẻ non Thiên, hồng điệp rụng; Mây, sương cùng tiễn tiếng chuông quê.
Danh Hữu (*) Làng Vũ Lâm ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư,
tỉnh Ninh Bình ngày nay. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi
vua cho con và trở thành Thái thượng hoàng. Năm sau, ngài đến
thăm nơi đây và làm bài thơ này. Bài thơ mang ý hướng
định xuất gia. Ghi chú : Bài
thơ này, câu đầu nhiều người hiểu sai. Họa kiều đảo
ảnh là cây cầu soi ngược bóng mình xuống dòng nước;
Trám khê hoành là nằm vắt ngang dòng khe. CHIỀU THU Ở VŨ LÂM
(Phỏng theo bài thơ Vũ Lâm Thu vãn của Trần nhân Tôn)
qua phần dịch nghĩa của Quên Đi
Cầu soi bóng,cầu in đáy nước
Nắng chiều nghiêng như ngược tranh treo
Lá vàng rơi chẳng tiếng vèo
Mây giăng sương ẩm chuông chiều vẳng xa
SONGQUANG CHIỀU THU Ở VŨ LÂM
Cầu treo ảnh
ngược ngang dòng suối Mép nước chiều in vệt nắng tàn Lá đỏ non ngàn rơi tĩnh mịch
Mây hòa sương
ẩm tiếng chuông vang! Nguyễn
Đắc Thắng
THƠ NGUYỄN TỬ THÀNH Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
Phương Hà ________________________________________________________________________________________________________ Cuối tuần xin chuyển đến VTT vài vần
thơ của Nguyễn Tử Thành. Ông hiệu là Tùng Hiên, đời
Trần . Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông đều
chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục.
ML CỐ
VIÊN Nguyễn
Tử Thành
Tây phong nhiễm nhiễm
mấn biên hoa , Bạc
hoạn lưu nhân khổ ức
gia. Quy tứ chính sầu,
thu chính hảo Nhất
đoàn hàn lộ vị khai hoa . Dịch
Nghĩa : Gió tây lai động hoa bên mái tóc
chức quan bạc bẽo
giử người ta lại , khổ
nôĩ nhớ nhà. Ý
muốn về đang day dứt, mùa thu đang
đẹp Một
chòm móc lạnh trên nụ hoa chưa
nở Dịch Thơ : Vườn
Cũ Quê Nhà
Gió tây vờn mái đầu
hiu hắt, Bể
hoạn sầu se thắt hồn quê
. Trời thu khắc
khoải mong về , Nụ
hoa hàm tiếu dầm dề giá sương
.
Mailoc phỏng dịch Thu Nhật
Ngẫu Thành
Nguyễn Tử Thành Thiên thôn mộc
diệp tận hoàng lạc, Độc lập tây phong phất
mấn ti. Tuế
nguyệt đường đường lưu
bất đắc, Tạc
phi kim thị chỉ tâm tri . Dịch
Nghĩa: Lá cây ở ngàn thôn đều
vàng rụng hết, Đứng một mình, ngọn gió
tây thổi bay mái tóc. Năm thang lừng lững trôi đi không giữ
được Trước
sai , nay đúng chỉ lòng mình biết .
Dịch
Thơ : Ngẫu Hứng Ngày Thu
Lá
ngàn thôn vàng bay lả tả Gió tây về lõa xõa tóc mai.
Tháng năm lặng lẽ
nào hay , Trước sai
nay đúng lòng này biết thôi . Mailoc phỏng dịch
Sơ
Xuân Lạp mai khai tận, tuyết
phiêu linh, Lão đại
tình hoài tiết vật kinh. Bàng thủy nhân gia dương liễu
nộn, Hàn thiên khách
viện bán âm tình . Du
phong trích mật xuyên hoa khứ, Dã diệp thâu hương đới
phấn khinh. Kiểm
điểm danh viên cung thắng thưởng,
Xuân hoa nhất dạng
bách ban sinh.
Nguyễn
Tử Thành Dịch
nghĩa : Tháng chạp hoa mai đã nở
hết, tuyết bay lả tả,
Người già nghĩ tới
thời tiết cảnh vật mà
kinh Nhà ai mé nước,
dương liễu xanh non Phòng khách nửa râm nửa sáng
Ong đi lấy mật xuyên
qua cả chòm hoa Bướm
nội trộm hương, nhẹ nhàng
mang theo phấn Dạo
qua khu vườn danh tiếng để thưởng
ngoạn cảnh, Trăm
loài hoa xuân đua nở, loài nào cũng đẹp
Dịch
Thơ : Đầu
Xuân Mai tháng chạp , tuyết bay lả
tả, Nhìn tiết
trời, già cả lòng kinh . Nhà ai mé nước liễu xinh,
Khách phòng sáng-nhạt, nắng
in lạnh về . Ong
hút mật vo ve trong khóm, Bướm
trộm hương lốm đốm
phấn hoa . Khu vườn
nức tiếng dạo qua, Trăm loài trăm vẽ xuân hoa yêu kiều
. Mailoc
phỏng dịch CỐ VIÊN Nguyễn
Tử Thành
Tây phong nhiễm nhiễm
mấn biên hoa , Bạc
hoạn lưu nhân khổ ức
gia. Quy tứ chính sầu,
thu chính hảo Nhất
đoàn hàn lộ vị khai hoa . 故園 V 西風冉冉鬢邊華, 薄宦留人苦憶家。 歸思正愁秋正好, 一團寒露未開花。
阮子成
Thầy ơi, Dịch Nghĩa : HOA 華 ở đây là
HOA NIÊN, tóc mai của tuổi Hoa Niên đã bị Gió Tây ( Gió Thu ) thổi
cho bạc đi rồi. Gió
tây lai động hoa bên mái tóc chức quan bạc bẽo giử
người ta lại , khổ nôĩ nhớ
nhà. BẠC HOẠN : là Chức
quan Nhỏ Nhoi chứ không phải Bạc
Bẽo. Ý muốn
về đang day dứt, mùa thu đang đẹp
Một chòm móc lạnh
trên nụ hoa chưa nở D ịch
Th ơ : Vườn Cũ Quê Nhà
QUÊ NHÀ Gió tây vờn mái đầu
hiu hắt,
Gió thu thổi bạc tóc hoa niên, Bể hoạn sầu
se thắt hồn quê .
Chức nhỏ giữ chân nhớ
cố viên. Trời
thu khắc khoải mong về ,
Buồn muốn về nhà thu đang đẹp,
Nụ hoa hàm tiếu
dầm dề giá sương .
Hoa còn chưa nở bởi sương
đêm.
Mailoc phỏng dịch
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Thu
Nhật Ngẫu Thành
Nguyễn Tử Thành Thiên thôn mộc
diệp tận hoàng lạc, Độc lập tây phong phất
mấn ti. Tuế
nguyệt đường đường lưu
bất đắc, Tạc
phi kim thị chỉ tâm tri . 秋日偶成
V 千村木葉盡黃落, 獨立西風拂鬢絲。 歲月堂堂留不得, 昨非今是只心知。 Dịch Nghĩa:
Lá
cây ở ngàn thôn đều vàng rụng
hết, Đứng
một mình, ngọn gió tây thổi bay
mái tóc. Năm thang lừng
lững trôi đi không giữ được
Trước sai , nay đúng chỉ
lòng mình biết .
Dịch Thơ :
Ngẫu
Hứng Ngày Thu
NGÀY THU NGẪU HỨNG Lá ngàn
thôn vàng bay lả tả
Ngàn thôn cây lá cuốn vàng bay, Gió tây về lõa xõa tóc
mai.
Thơ thẩn một mình tóc gió lay.
Tháng năm lặng lẽ
nào hay ,
Năm tháng lạnh lùng khôn giữ được,
Trước sai nay đúng lòng
này biết thôi . Thi phi sai đúng
chỉ mình hay !
Mailoc phỏng dịch
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Sơ
Xuân Lạp mai khai tận, tuyết
phiêu linh, Lão đại
tình hoài tiết vật kinh. Bàng thủy nhân gia dương liễu
nộn, Hàn thiên khách
viện bán âm tình . Du
phong trích mật xuyên hoa khứ,
KHỨ : là ( bay ) Đi Dã
diệp thâu hương đới phấn
khinh. KINH : là ( bay ) Ngang qua. Kiểm điểm danh viên
cung thắng thưởng, Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh.
Nguyễn
Tử Thành
初春 V 臘梅開盡雪飄零, 老大情懷節勿驚。 KINH : Ngoài
nghĩa SỢ ra, còn có nghĩa là : Giật Mình, là Lấy làm
lạ. 傍水人家楊柳嫩, 寒天客院半陰晴。 HÀN
THIÊN : là Mùa Lạnh. 遊蜂摘蜜穿花去, 野蝶偷香帶粉經。 檢點名園供勝賞, 春花一樣百般生。
Dịch nghĩa : Tháng
chạp hoa mai đã nở hết, tuyết
bay lả tả, Người
già nghĩ tới thời tiết cảnh
vật mà kinh
Tâm tình của người già biết
tiết chê, nên không lấy làm lạ
Nhà ai mé nước, dương
liễu xanh non Phòng khách
nửa râm nửa sang
Phòng khách trong mùa lạnh nửa nắng
nửa râm. Ong đi lấy
mật xuyên qua cả chòm hoa Bướm nội trộm
hương, nhẹ nhàng mang theo phấn
Dạo qua khu vườn
danh tiếng để thưởng ngoạn
cảnh, Điểm qua hết các
vườn hoa nổi tiếng để
mà thưởng ngoạn, thì... Trăm loài hoa xuân đua nở, loài nào
cũng đẹp
Cũng chỉ là trăm vẻ hoa xuân cùng đẹp
như nhau mà thôi !
Dịch Thơ :
Đầu
Xuân
ĐẦU XUÂN
Mai tháng chạp , tuyết
bay lả tả,
Tuyết rơi mai nở báo xuân sang,
Nhìn tiết trời,
già cả lòng kinh .
Già cả nhìn quen chẳng ngỡ ngàng.
Nhà ai mé nước liễu
xinh,
Bến nước nhà ai xanh liễu mới,
Khách phòng sáng-nhạt, nắng
in lạnh về . Trời
đông phòng khách nắng râm vàng. Ong hút mật vo ve trong khóm, Ong
vui hái mật đùa bay lượn, Bướm trộm hương
lốm đốm phấn hoa .
Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang.
Khu vườn nức tiếng
dạo qua,
Điểm hết xưa nay bao thắng
cảnh, Trăm loài trăm
vẽ xuân hoa yêu kiều .
Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng.
Mailoc
phỏng dịch
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch:
I- Phỏng
dịch bài CỔ VIÊN VƯỜN CŨ QUÊ NHÀ Gió Tây nhuốm bạc
tóc trên đầu Chạnh nhớ quê
nhà dạ nhói đau Bận chức
tiểu quan chưa dứt được Nụ
hoa ướt đẫm giọt sương thu
Phương Hà
phỏng dịch II- Phỏng dịch bài THU NHẬT NGẪU THÀNH NGẪU HỨNG
NGÀY THU Cây lá ngàn thôn sắc úa vàng Tóc bay trước ngọn gió thu sang Tháng năm hờ hững trôi qua mãi Tâm sự nào ai biết, sẻ san
Phương Hà phỏng dịch
III- Phỏng dịch bài SƠ XUÂN CHỚM XUÂN
Tháng
chạp mai tàn, tuyết lạnh rơi Tâm
già bình tĩnh chẳng lo vời Nhà
ai liễu rũ xanh bờ nước Gian khách
đông sang sáng nửa vời Chộn
rộn, ong tìm hoa hút mật Xôn xao,
bướm trộm phấn rung vòi Ung dung
dạo bước trong vườn thắm Rực
rỡ ngàn hoa khoe sắc tươi.
Phương Hà phỏng
dịch
THANH HIÊN THI TẬP (NGUYỄN
DU) Tiếp theo: Tạp Nhâm kỳ 3 Bản dịch: Mailoc, Mai
Xuân Thanh, Quên Đi, Kim Phượng Tạp ngâm ( kỳ 3 )
Nguyễn Du Mạc
mạc thu quang bát nguyệt thâm, Mang mang thiên khí bán tình
âm. Thu phong cao trúc minh thiên lại, Linh vũ hoàng hoa bố
địa câm (kim). Viễn tụ hàn xâm du tử mộng, Trừng
đàm thanh cộng chủ nhân tâm. Xuất môn từ bộ khan thu
sắc, Bán tại giang đầu phong thụ lâm. Dịch nghĩa : Tháng
tám cảnh thu già lặng lẽ Khí
trời mênh mang , nửa râm nửa nắng Buji
trúc cao gió thu thổi, tiếng sáo trời nổi lên Hoa cúc sau trận mưa, rơi xuống rắc vàng trên mặt
đất Khí lạnh ở rặng núi
xa thấm vào mộng người du tử Nước
đầm trong vắt như lòng chủ nhân Ra cửa thong thả ngắm sắc thu Thấy
một nửa giải rừng phong mé đầu sông. Dịch thơ :
Nét
thu già im lìm tháng tám, Trời
nửa mờ nửa sáng mênh mang.
Gió thu trúc trổi sáo đàn
Sau mưa mặt đất
trải vàng cúc hoa. Hơi
núi lạnh đêm xoa khách mộng, Nước đầm trong lắng
đọng lòng ai. Thong
dong thu ngắm cửa ngoài, Rừng phong in nửa trải
dài đầu sông .
Mailoc phỏng dịch TRUNG THU Tháng tám Trung Thu bóng nguyệt rằm, Âm u khí hậu dưới trời râm. Gió lay cành trúc du dương sáo, Bông cúc sau mưa rớt rụng thầm. Cái lạnh núi xa len giấc mộng, Hồ thu trong vắt khách tri âm. Cử ngoài ngắm cảnh trời Thu sắc, Hiện nửa rừng phong sông nước thâm. Mai Xuân Thanh
(Phỏng theo bản dịch của thầy Mailoc qua Cổ
Thi Tạp Ngâm Kỳ 3- của Thi Hào Nguyễn Du) Quên Đi góp vui cùng Thầy và anh Mai Xuân Thanh:
雜吟其三
Tạp Ngâm Kỳ 3
阮攸
Nguyễn Du 漠漠秋光八月深 Mạc mạc thu quang bát nguyệt
thâm 茫茫天氣半晴陰
Mang mang thiên khí bán tình âm 秋風高竹鳴天籟 Thu phong cao trúc minh
thiên lại 零雨黃花布地金
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim) 遠岫寒侵遊子夢 Viễn tụ hàn
xâm du tử mộng 澄潭清共主人心
Trừng đàm thanh cộng chủ nhân tâm 出門徐步看秋色 Xuất môn
từ bộ khan thu sắc 半在江頭楓樹林。Bán
tại giang đầu phong thụ lâm.
Dịch Thơ : Tạp Ngâm Kỳ 3 Tháng
tám hơi thu đã phủ đầy Mênh mông cảnh sắc nắng cùng mây Gió tây trúc hát vang trời vắng Mưa tạnh đất vàng cánh cúc rây
Núi lạnh vào mơ người khách
lạ Đầm trong ví dạ chủ
nhân nầy Rời nhà thả bước
nhìn thu toả Phong ở đều
dòng chen chúc cây. Quên
Đi Tạp Ngâm 3 Tháng Tám
mùa thu trọn vẹn là Mênh
mông tỏ sáng nửa mờ ra Gió
lùa ngọn trúc trời vang tiếng Mưa tạnh cúc vàng đất ngợp hoa Núi lạnh thấm hồn người lữ khách
Đầm trong tợ dạ chủ nhân ta
Hiên ngoài rảo bước màu thu ngắm
Phong chiếm đầu sông nửa dãy
xa Kim Phượng ______________________________________________________________________
Thanh Hiên Thi Tập ( Nguyễn Du) Bản
dịch: Mailoc, Mai Xuân Thanh,
Phương Hà Cùng Bạn , Cuối tuần , trời Cali đang đắm chìm trong làn sương
mờ ảo dưới làn mưa xuân phơn phót cảnh vật nên
thơ không thể tả.Trong thơ phòng đọc lại vài bài thơ
của Cụ Nguyễn Du lúc người về ẩn dưới chân núi
Hồng ở quê nhà khiền lòng tôi cảm khái vô cùng
. Xin chia sẻ cùng VTT và các bạn thân để quên một phần
nào nỗi bùi ngùi tháng Tư Đen sầu thãm trong lòng từng
người chúng ta.. Nguyễn Du ( 1765-1820),
tác giả Truyện Kiều , đệ nhất thi phẩm trường thiên
của văn họv ViệtNam, ngoài ra còn có 3 tâp thơ chử Hán,
trong đó Thanh Hiên Thi Tập (78) bài chia ra ;àm 3 phần : A Mười Năm Gió bụi ( 1786-1795) ,thời gian
lẫn trón ở Qùynh Côi
B Dưới Chân Núi Hồng (1796-1802) về ẩn quê nhà . C Làm Quan Ở Bắc Hà 91802-1804) Thân kính Mailoc
Dưới
Chân Núi Hồng ( 1786-1802 ) Tạp ngâm kỳ 1 Thu
thanh nhất dạ độ Lam hà, Vô ảnh vô hình nhập
ngã gia. Vạn lý tây phong lai bạch phát, Nhất song thu
sắc tại hoàng hoa. Bách niên ai lạc hà thời liễu? Tứ bích đồ thư bất yếm đa. Đình thực cô
tùng cao bách xích, Bất tri Thanh đế nại nhân hà?
Dịch
nghĩa Tiếng thu bỗng một đêm
vượt qua sông Lam, Không bóng, không hình luồn vào nhà
ta. Gió tây muôn dặm làm cho mái tóc ta thêm bạc, Sắc thu trên khóm hoa vàng đầy cửa sổ. Cuộc vui buồn
trăm năm bao giờ mới hết? Sách vở đầy bốn vách,
bao nhiêu cũng vừa. Trước sân, ta trồng một cây tùng
cao trăm thước, Không biết chúa xuân sẽ làm gì được
người trồng cây? Dịch
Thơ : Tiếng thu vượt Nam
Hà một tối , Không bóng hình men tới nhà ta . Gió tây đầu bạc
thêm ra , Song thu vàng nhuộm
cúc hoa rực màu . Đời
khổ vui biết bao giờ sạch
, Sách vở đầy
bốn vách như không . Ngoài sân trăm thước cô tùng ,
Chúa xuân ghen với người
trồng hay sao ?
Mailoc Tạp ngâm kỳ 2 Long
Vĩ giang đầu ốc nhất gian, U
cư sầu cực hốt tri hoan. Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt, Xử sĩ môn tiền thanh giả san. Chẩm bạn thúc thư phù bệnh
cốt. Đăng tiền đấu tửu
khởi suy nhan. Táo đầu chung nhật
vô yên hoả, Song ngoại hoàng hoa tú
khả xan.
Dịch nghĩa
Đầu sông Long Vĩ có một
căn nhà, Người ẩn ở đó
đang buồn cực độ, bỗng
trong lòng thấy vui. Cõi lòng người
khoáng đạt, sáng tỏ như vầng
trăng, Trước cửa nàh xử
sĩ toàn là núi xanh. Cạnh gối,
có chồng sách đỡ tấm thân
bệnh tật, Trước đèn,
uống chén rượu cho sắc mặt
tiều tuỵ tươi tỉnh lên. Suốt ngày, bếp không đỏ lửa, Ngoài cửa sổ, đoá cúc vàng tươi
tốt có thể ăn được.
Dịch
Thơ : Đầu Long Vĩ một
gian nhà lá , Ẩn cư
buồn bỗng hóa vui sao . Cõi lòng thanh thoát nguyệt lào ,
Trước nhà xử
sĩ núi cao xanh màu . Gối
đầu sách , đỡ đau xương
cốt , Rượu
bên đèn mặt tốt tươi da .
Lạnh tanh bếp núc
ngày qua , No lòng đỡ
bữa hoàng hoa hiên ngoài Mailoc DƯỚI CHÂN NÚI HỒNG Tiếng thu đêm vắng
vọng Lam giang, Lặng lẽ vô hình
nhập cửa hàn. Muôn dặm gió
tây lồng tóc bạc, Ngàn hoa vàng
ánh rực song ngang. Trăm năm bất
tận vui buồn bực, Bốn vách thi
nhân sách vở tràn... Sân trước
cây tùng cao ngất ngưởng, Chúa
xuân bỡn cợt kẻ trồng chăng !
MAI XUÂN THANH XIN GÓP VUI VƯỜN THƠ THẨN
NGÀY 09 THÁNG 04 NĂM 2016 (QUA BẢN DỊCH CỦA THẦY MAILOC) ẨN CƯ ĐẦU SÔNG LONG VĨ Long Vĩ đầu sông một mái nhà,
Buồn hiu ẩn sĩ bỗng vui à ! Như trăng tỏ rạng lòng thanh thản, Tợ núi cao xanh trước cửa ta. Xương cốt ê chề nên gối sách, Rượu ngon đèn sáng mặt hồng da.
Bếp sao lạnh ngắt ngày không lửa,
Đại đóa vàng song đỡ dạ qua
! BÀI
GÓP VUI VÀO VƯỜN THƠ THẨN CỦA MAI XUÂN THANH (QUA BẢN DỊCH THƠ TRONG " THANH HIÊN THI TẬP " ( NGUYỄN
DU ) CỦA THẦY MAILOC) Phương Hà xin
góp bài phỏng dịch: DƯỚI
CHÂN NÚI HỒNG Bài 1
Tiếng
thu một tối vượt sông Lam Chẳng
dáng hình riêng, ghé đến thăm Phơ phất gió Tây lùa tóc bạc Dịu dàng song cửa phủ hoa vàng
Buồn vui cõi thế hoài đeo đẳng
Sách vở thư phòng mãi ngổn ngang
Sân trước cội tùng vươn bóng
cả Người trồng cười
cợt chúa Xuân chăng ?
Phương Hà phỏng dịch
Bài
2 Long
Vĩ đầu sông, một mái nhà Người đang buồn khổ bỗng vui ra Trong lòng rạng rỡ trăng bừng sáng Trước cửa xanh ngời núi trải xa Lưng mỏi, sách kê làm gối dựa
Sắc suy, rượu uống
để tươi da Suốt ngày
bếp lạnh không mồi lửa Khóm
cúc ngoài sân lót dạ qua.
Phương Hà phỏng dịch
__________________________________________________________________________________
HAI BÀI
THƠ
CỦA THIỀN SƯ KHÔNG LỘ ĐỜI
NHÀ LÝ
Ngôn hoài
Thiền
Sư Không Lộ (1016 - 1094)
Trạch đắc long xà địa khả
cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì
trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư
Phụ Chú :
1- Long xà địa = Vùng
đất rồng rắn hoang dã ,không người ở
2- Dã
tình = Tình quê chơn chất, buồn vui hồn nhiên
3- Thái
hư = Trời đất vô cùng
Dịch Xuôi : Đôi Lời Hoài
Cảm
PKT 03/16/2016
Chọn được chỗ đất rồng
rắn hoang vu để làm nơi ở
Tình quê chỉ
biết suốt ngày vui
Đôi lúc trèo thẳng lên
tận đỉnh núi đứng chơ vơ vắng lặng
Hú một
tiếng dài nghe lạnh cả càn khôn
Ngôn
Hoài
PKT 03/16/2016
Chọn đất hoang vu làm
chỗ ở,
Lòng quê vui đạo với thiên thu.
Đôi
khi lên thẳng đầu non đứng,
Cất tiếng hú dài
lạnh thái hư.
-----------------------------------------------------------------------
Ngư
Nhàn
Thiền Sư Không Lộ (1016 - 1094)
Vạn lý
thanh giang vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn
yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá
ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền
Dịch Xuôi: Quang Cảnh Thanh Nhàn
Ở Một Xóm Chài
PKT 03/16/2016
Trời
nước trong xanh muôn dặm một màu
Khói bếp tỏa
trắng trên xóm nhà trồng dâu đay ở ven sông
Lão
chài ngủ say không ai đánh thức
Quá trưa , tỉnh
dậy , tuyết một thuyền đầy
Ngư
Nhàn
PKT 03/16/2016
Trời
nước, một màu, xanh vạn dặm,
Xóm dâu ,khói
bếp, tỏa bình yên.
Lão chài, ngon giấc , không
ai gọi ,
Thức
dậy, quá trưa , tuyết ngập thuyền .
Phụ Chú : Thiền
Sư Không Lộ , đời nhà Lý , thuộc dòng Thiền Vô Ngôn
Thông , để lại cho hậu thế trong Thiền Uyển Tập Anh , 2 bài thơ
Ngôn Hoài và Ngư Nhàn. Có nghi vấn cho là bài Ngư Nhàn
này chính là bài Túy Trước của Hàn Ốc (844 - 923), bên
Tàu. Hai bài này chỉ khác nhau ở câu 3 , trong Túy Trước hai
chữ "túy trước" có nghĩa là "say mèm" đã
được đổi lại là "thụy trước" có nghĩa là
"ngủ say" trong Ngư Nhàn. Lời Thêm : Về thơ xưa, trường hợp cần phải xác
định: tác giả đích thực là ai, khi chuyển dịch có giữ
được ý của nguyên tác và, chữ dùng có đúng
nghĩa hay không, là nằm ngoài giới hạn hiểu biết của tôi.
Vả lại , tình thực mà nói, tôi cũng không có tham vọng
này. Chỉ là, đã cố gắng tới mức có thể, để
chia xẻ ở đây, với mọi người mà tôi quý mến, nỗi
rung động nhẹ nhàng, cảm nhận được, khi đọc được
một bài thơ hay.Thế thôi. Vâng, chỉ là thế thôi. PKT 03/16/2016
Tri Khac Pham Phamid1934@gmail.com
NGUYỄN DU: BẤT MỊ
Ai từng bị mất
ngủ mới thông cảm với
cụ Nguyễn Du của chúng ta '
Mailoc Bất mị
Nguyễn
Du Bất mị thính hàn canh, Hàn canh bất khẳng tận. Quan san dẫn mộng trường, Châm chử thôi hàn cận. Phế táo tụ hà ma, Thâm đường xuất khâu dận. Ám tụng "Thiên vấn" chương, Thiên cao
hà xứ vấn?
Dịch
nghĩa Không ngủ
nằm nghe tiếng trống canh trong đêm lạnh. Trong đêm lạnh,
trống canh điểm không thôi. Quan san làm giấc mộng dài
thêm, Tiếng chày nện vải càng giục hơi lạnh đến
gần. Cóc nhái tụ họp quanh bếp, Giun từ góc sâu
trong nhà bò ra. Thầm đọc bài ca hỏi trời, Trời
cao, biết đâu mà hỏi?
Dịch Thơ
Không Ngủ
Không ngủ được trống canh tê
tái , Trống lạnh lùng
điểm mãi buồn thay . Quan san
mãi miết mộng dài , Trời
khuya hơi giá tiêng chày giục mau . Bếp lạnh tanh đùa nhau cóc nhái , Giun xó nhà lải rải bò ra . Lâm râm miệng hỏi " Trời Già "
Trời cao trong cõi ta bà nơi đâu ?
Mailoc phỏng dịch
12-17-15
MẤT NGỦ
Đêm lạnh nằm nghe tiếng trống canh,
Suốt đêm trống điểm vọng âm
thanh. Mơ màng giấc điệp ngoài
quan ải, Văng vẳng chày khuya giục
mộng lành. Bếp ấm sao quanh đây
nhái cóc, Góc sâu giun cũng hiện
bò nhanh. Khấn thầm dám hỏi ông
trời đỏ, Thăm thẳm trên cao
chỉ xám xanh. Mai Xuân Thanh, phỏng theo bản dịch của
thầy Mailoc Ngày 17 tháng 12 năm 2015
Thức
Đêm Thao thức đếm canh tàn Đêm dài trống lạnh vang Miền xa dường lắm mộng Chày vẳng lạnh ùa sang Bếp
ễng ương tề tụ Nhà
côn trùng ngổn ngang Thì thầm
"Thiên Vấn" khúc Muốn
hỏi biết đâu đàng.
Quên Đi Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau
đây : 1. Bản chữ Hán Cổ của
bài thơ : 不寐
BẤT MỊ 不寐聽寒更,
Bất mị thính hàn canh, 寒更不肯盡。
Hàn canh bất khẳng tận. 關山引夢長, Quan
sơn dẫn mộng trường, 砧杵催寒近。
Châm Chữ thôi hàn cận. 廢灶聚蝦蟆, Phế
táo tụ hà ma, 深堂出蚯蚓。
Thâm đường xuất khưu dẫn. 暗誦天問章,
Ám tụng Thiên Vấn chương, 天高何處問?
Thiên cao hà xứ vấn ?
阮攸 Nguyễn
Du 2.
Chú Thích :
Mị : là Ngủ mê. Mộng Mị là chữ Mị nầy. Châm Chữ : Châm là
Tấm Thớt, Chữ là Cái Chày. Chày và Thớt ở đây
dùng để giặt quần áo bằng vải thô ngày xưa, nhất
là quần áo mặc lạnh rất dầy. Để quần áo ướt
lên trên thớt, rồi dùng chày để đập cho sạch, nên
tiếng đập vang rất xa. CHÂM CHỮ là Tiếng động do giặc
quần áo gây ra. Giặc đồ bằng chày chứng tỏ mùa lạnh
sắp tới rồi ( thôi hàn cận ).
Hà Ma : là Cóc Nhái ểnh ương. Khưu Dẫn hay Khâu Dận là con Trùng
đất. Ám
Tụng : là Đọc thầm.
Thiên Vấn : Tên bài thơ trường thiên của Khuất Nguyên nước
Sở đời Xuân Thu. Thiên Vấn là Hỏi Trời, hỏi đủ thứ
về thiên nhiên vạn vật, hỏi cả về lịch sử nhân sinh ...
DIỄN
NÔM :
MẤT NGỦ
Mất ngủ suốt canh thâu,
Canh thâu dài bất tận. Cách
trở núi non xa, Tiếng
chày sao vội vả.
Táo đổ ếch nhái kêu, Góc
phòng giun ra rả.
Nhẩm đọc thơ Vấn Thiên,
Trời cao hỏi chi hả ?!
Đỗ Chiêu Đức KHÔNG
NGỦ Thao thức đêm canh tận Trống
hồi vang mấy bận Quan san mờ lối xa Tiếng gió khơi sầu hận Cóc nhái tìm phù du Dế trùng bò hụt hẫng Trời
cao có rõ không? Sao chẳng hề vương vấn? Nguyễn Đắc
Thắng 20151218
DU SƠN
TỰ
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Đoản
trạo hệ tà dương Thông thông
yết thượng phương Vân quy thiền
tháp lãnh Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp Sơn không trúc ảnh trường Cá trung chân hữu ý Dục
ngữ hốt hoàn vong Dịch Xuôi : Lên Núi Thăm Chùa
PKT 12/12/2015
Buộc mái chèo ngắn ,neo thuyền trong ánh
nắng cuối ngày, Vội bước lên
chùa để bái yết phương trượng . (Người đâu không thấy ,chỉ thấy) mây bay phủ chiếc
giường thiền lạnh , Hoa rụng trôi
tỏa hương thơm bên khe suối chảy róc rách , Tiếng vượn kêu nghe cấp thiết vang động trời
chiều , Và, bóng trúc đổ
dài khắp sườn núi vắng . Trước
cảnh tình này ,ta đã ngộ được chân ý ,lẽ vô
thường của Tạo Hóa , Bao lời
muốn nói ra bỗng nhiên quên hết tất cả . Du Sơn Tự
PKT 12/12/2015
Neo thuyền vào nắng cuối , Hối hả lên chùa xưa . Mây lạnh giường thiền đón, Hoa thơm dòng suối đưa . Vượn kêu chiều núi vắng , Trúc đổ bóng rừng thưa . Đối cảnh, ngộ chân ý , Lời
nào nữa cũng thừa.
Lời Thêm : Khoảnh khắc đốn
ngộ "thấy" được chân ý là ở ngoài diễn
tả bằng ngôn ngữ trần tục. "Dục ngữ hốt hoàn vong - muốn
nói bỗng quên lời" hay "lời nào nữa cũng thừa "
cũng chỉ là một cách nói cho vui vậy thôi. Không thể nói
được nên lời . Thôi thì , năm nay sắp hết, một năm mới
sẽ tới , Giáng Sinh đã về đến đầu ngõ , trong giới
hạn 100 năm sinh tử trước vô cùng mênh mang của Đất Trời
, tôi xin được gửi đến mọi người thân quí, lời
Cầu Chúc: Một Giáng Sinh 2015 Ơn Phước, Một Năm Mới 2016 An Lành
, Một Tết Xuân Bính Thân 366 Ngày Tình Nghĩa và Hạnh
Phúc. PKT 12/12/2015
Tri Khac
Pham Phamid1934@gmail.com
CAO BÁ QUÁT: SA
HÀNH ĐOẢN CA Bản dịch:
Phạm Khắc Trí _____________________________________________________________________________________________
Chút tâm sự cuối đời
qua một bài thơ của người xưa. Đọc cho vui để thương
nhau hơn. Cầu chúc an lành. PKT 12/04/2015 SA HÀNH ĐOẢN CA
Cao Bá Quát (1808 - 1855) Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất
hồi khước. Nhật nhập hành
vị dĩ Khách tử lệ giao lạc
Quân
bất học tiên gia mỹ thụy ông Đăng
sơn thiệp thuỷ oán hà cùng Cổ
lai danh lợi nhân Bôn tẩu lộ đồ
trung. Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng
Trường sa, trường sa nại cừ hà
Thản lộ mang mang uý lộ đa Thính ngã
nhất xướng cùng đồ ca Bắc
Sơn chi bắc sơn vạn điệp Nam
Sơn chi nam ba vạn cấp Quân hồ
vi hồ sa thượng lập
NGƯƠI SAO CÒN ĐỨNG TRÊN ĐỒI
CÁT? PKT 12/04/2015 Đồi cát, lại
đồi cát, Mỗi bước, tới
như lui. Hết ngày, đi chưa đến,
Nước mắt nào rơi rơi. Không học
phép tiên, vừa đi vừa ngủ, Lội
suối trèo non, thật lao đao. Xưa
nạy, đường danh lợi, Ngược
xuôi, trời hành sao? Trước quán bên đường, gió thoảng
hơi rượu, Nào mấy người
tỉnh, mà ta không say. Đồi cát,
đồi cát, gối mòn, chân mỏi, Đường dài mịt mùng, hung hiểm nào hay. Xin nghe ta ca bài hát
đường cùng, Bắc Sơn, về
bắc, núi vạn dẫy, Nam Sơn,
đi nam, sóng muôn trùng, Hỏi
chi người còn đứng trên đồi cát? Chú Thích :
1 - Sa
hành đoản ca = Một khúc ca ngắn nói về người đi trên
sa mạc. 2 - Tiên gia mỹ thụy
ông = Một tiên ông có phép thuật vừa đi vừa ngủ , không
mệt. 3 - Cùng đồ ca = Một
khúc ca đường cùng, không còn đường nào để đi.
4 - Bắc Sơn, Nam Sơn, tên 2 ngọn núi
đâu đó ,một ở miền Bắc, một ở miền Nam, chỉ nơi
lánh đời của các bậc "trí giả sinh bất phùng thời"(!)
. Lời
Thêm : Đường Cùng. Bắc Sơn, ngược bắc, núi muôn
trùng. Nam Sơn, xuôi nam, biển sóng dữ. Con đường cát dài
trước mắt, đi hoài không tới. Ngược hay xuôi thảy đều
khó. Trách nhau chi tội quán rượu bên đường. "Lập công
bất thành / học bất tựu / thiếu tráng hữu cơ thần hề /
tọa thị bách niên thân thế khu âm dương / Phủ chướng
cuồng ca /vấn tư thế / mang mang thiên địa / an đắc tri nhất tri
kỷ hề / thí lai đối chước hữu dư thương ".( Nam Phương
Ca Khúc - Nguyễn Bá Trác (?) - 1881 - 1945 ). Chức nghiệp không tròn /
Học hành dang dở / Tuổi trẻ một thời / Ngồi nhìn trăm năm
thân thế tháng ngày trôi / Vỗ tay cuồng hát nghêu ngao / Hỏi
cõi đời này / Đất trời mang mang / Nào ai tri kỷ / Cùng ta chén
cạn chén đầy ? PKT 12/04/2015
Tri Khac
Pham Phamid1934@gmail.com
Bản
dịch: Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Kim Phượng _________________________________________________________________________ Trời sắp vào cuối thu , nằm đọc mấy bài mùa thu
của cụ Nguyễn Du mà cảm thấy nao nao lòng , phải chăng lớp già
chúng ta đang ngậm
ngùi khắc khoải cho tuổi già bóng xế , man mác nhớ về quê
hương ? Mời bạn chia sẻ . Hương
Giang nhất phiến nguyệt Kim cổ hứa đa sầu Vãng sự bi thanh trủng Tân thu đáo bạch đầu Hữu hình Hữu hình đồ dịch dịch Vô bệnh cố
Vô bệnh cố câu câu Hồi thủ Lam
Giang phố Nhàn tâm tạ *Bài thơ
nầy là một trong 39 bài trong Nam
Trung Tạp Ngâm thời
kỳ Ông làm quan ở Quảng
Bình và Huế (1804-1814 ) Năm 1804, Nguyễn Du cáo
bệnh, xin về hưu, từ quan, nhưng chỉ được có hơn một tháng
thì có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông các điện
học sĩ, nên đành phải đi. Bài "Phượng Hoàng lộ
thượng tảo hành" làm lúc lên đường trẩy kinh (tháng
giêng năm Ất Sửu, 1805). Sông Hương một mảnh nguyệt Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh Thu mới tới trên đầu tóc bạc Có hình nên phải chịu vất vả Không bệnh mà lưng vẫn khom khom Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng Dòng
sông Hương một vầng trăng sáng , Từ cổ kim lai láng tơ sầu . Mộ xanh chuyện cũ rầu rầu , Ngập ngừng thu tới mái
đầu hoa râm . Mang
hình hài xót thân vất vã , Chưa bệnh hoạn lưng đã khòm rồi , Bến Lam mặt ngoảnh trông vời , Hải âu từ tạ chơi vơi trong lòng . Tứ thì
hảo cảnh vô đa nhật, Phao trịch như thoa hoán bất hối. Thiên lý xích thân vi khách cửu, Nhất đình hoàng diệp tống thu lai. Liêm thuỳ tiểu các tây phong động, Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai. Trù trướng lưu quang thôi bạch phát, Nhất sinh u tứ vị tằng khai. *Bài thơ nầy nằm trong Thanh Hiên
Thi Tập trong phần Mười Năm Gió Bụi Thanh Hiên thi Tập g ồm 78 bài có thể chia làm
3 phần : A- Mười
Năm Gió Bụi (1786-1795) thời gian lẫn trốn ở Quỳnh Côi B- Dưới Chân Núi Hồng
(1796-1802) , về ẩn ở quê nhà . C- Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) Trong bốn mùa, không được
mấy ngày cảnh đẹp. Thời gian vun vút
trôi qua như thoi đưa, gọi
không trở lại. Trơ trọi một mình ngoài
ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày, Giờ đây một sân đầy lá vàng thu đưa
đến. Ngọn gió tây lay động bức mành trước gác nhỏ, Nơi thôn xóm,
sương xuống mịt mù, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng! Thời gian thấm thoắt làm cho mái
tóc chóng bạc. Nghĩ mà ngậm ngùi, suốt đời ta chưa hề gỡ được mối
u sầu. Cảnh bốn
mùa đẹp tươi
được mấy
, Thoi thời
gian gọi mãi không quay . Dặm ngàn
cô khách năm dài , Thu
về xào xạc
sân đầy vàng bay . Gió tây thổi
rèm lay gác nhỏ , Còi sớm
buồn tuyết
đổ đầy
thôn . Tóc sương
ngày tháng bồn chồn
, Cả
đời u uẩn
ngập hồn
không vơi . Vầng trăng soi bóng Hương Giang Ngàn năm khơi gợi miên man nỗi sầu Sương thu dần nhuộm mái đầu bạc phơ Xót thân dầu dãi sớm trưa Lưng khòm gối mỏi xác xơ hình hài Ngoái trông bến cũ u hoài Rưng rưng tạm biệt xa bầy hải âu. Bốn mùa đẹp được mấy ngày Thời gian vun vút trôi hoài biệt tăm Sân nhà đầy lá, thu sang ngậm ngùi Mành thưa ngọn gió dập vùi Tù và ngân vọng, sương rơi não nùng Phơ phơ đầu bạc tháng năm Nỗi sầu chất chứa trong tâm trọn đời. Đỗ Chiêu Đức
tham gia với các phần sau đây : 1. NGUYÊN BẢN
CHỮ HÁN CỦA BÀI THƠ : 香江一片月, Hương Giang nhất phiến nguyệt, 今古許多愁。 Kim cổ hứa đa sầu. 往事悲青塚, Vãng sự bi thanh trủng, 新秋到白頭。 Tân thu đáo bạch đầu. 有形徒役役, Hữu hình đồ dịch dịch, 無病故拘拘。 Vô bệnh cố câu câu. 回首藍江浦, Hồi thủ Lam Giang phố, 閒心謝白鷗。 Nhàn tâm tạ bạch âu !
Thư pháp
4 chữ HỒNG SƠN LIỆP HỘ HƯƠNG GIANG : Con sông chảy giữa kinh thành Huế,
một thắng cảnh của tỉnh Thừa Thiên. Năm Ất Sửu (1805), Nguyễn
Du được thăng hàm Đông Các Điện Học Sĩ, tước
Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh đô Huế. Nhưng lòng
vẫn đeo nặng mối sầu thiên cổ. HỨA ĐA : là Biết bao nhiêu, chỉ Rất nhiều. THANH TRỦNG : Trủng là gò đất cao.
Thanh Trủng là gò đất xanh vì cỏ mọc, thường dùng để
ví với các nấm mồ. DỊCH
DỊCH : Chỉ sự làm việc vất vả như ở trong quân lữ. CỐ : là Vì, là Cho Nên (
Chỉ lý do ). CÂU
CÂU : Chỉ lom khom như gù lưng. Làm quan luôn luôn phải giữ
vẻ khúm núm như là kẻ mắc bệnh gù lưng. Vẻ khúm
núm của giới quan trường.
PHỐ 浦 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, nên Phố là Bến nước. BẠCH ÂU : là Những con hải
âu màu trắng.
Một mảnh trăng trên dòng Hương Giang đã khơi dậy biết
bao là nỗi sầu kim cổ. Chuyện đã qua thì bi thảm như những
nấm mộ xanh rì, thu mới đến thì lại làm cho bạc trắng
cả mái đầu. Vì mang thân xác của con người nên
luôn luôn phải làm việc cật lực vất vả. Và vì không
có bệnh nên lại phải tiếp tục khúm núm trong quan trường.
( Nếu ngọa bệnh thì khỏi làm việc và khỏi phải khúm
núm trước quan trên ). Quay đầu nhìn lại bến Lam Giang, ta
muốn cám ơn những con chim hải âu trắng xóa đang bay
lượn trên bến sông đã giúp cho lòng ta cảm thấy
thanh nhàn hơn ! Hương
Giang trăng một mảnh, Lam
Giang trông bến nước,
Hương Giang một mảnh trăng treo,
Cổ kim khơi động lòng sầu bao thu. Chuyện
qua buồn tựa cổ khâu,
Bâng khuâng thu đến bạc đầu không hay.
Mang thân nên vất vả hoài, Quan
trường khúm núm vì ai ngỡ ngàng. Quay đầu
nhìn bến Lam Giang,
Cám ơn âu trắng gợi nhàn bên sông ! Đỗ
Chiêu Đức Bản
dịch Kim Phượng:
Thu Tới 1 Sông Hương
kìa mảnh trăng treo Sinh tình cám
cảnh nặng gieo mối sầu Mồ
xưa ngọn cỏ rầu rầu Sắc
thu vừa chuyển trên đầu điểm sương Mang thân vất vả trăm đường Lưng còng như thể đang dường ốm đau Bến Lam trông đến nghẹn ngào Hải âu từ biệt nao nao cõi lòng Kim Phượng ************ Thu Tới 2 Bốn mùa rực
rỡ bao ngày Thời gian trôi mãi
gọi hoài công thôi Dặm ngàn
thân lữ đơn côi Sân
ngoài vàng lá thu ôi phủ dầy Gác cao màng động gió tây Tù và não nuột xóm đầy sương mai Tóc kia sớm bạc chóng thay Sầu khôn gỡ mối đắng cay một đời
Kim Phượng
_____________________________________________________________________________
NGUYỄN DU: ĐỐI TỬU Bản dịch: Phạm Khắc
Trí, Mailoc, Song Quang, Quên Đi, Đỗ Chiêu Đức Đối Tửu Nguyễn Du (1765 - 1820) Phu tọa nhàn
song túy nhãn khai Lạc hoa vô
số há thương đài Sinh
tiền bất tận tôn trung tửu Tử
hậu thùy kiêu mộ thượng bôi Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ Niên quang ám trục bạch đầu lai Bách kỳ đản đắc chung triêu
túy Thế sự phù vân
chân khả ai Dịch Xuôi : Đôi Lời Tâm Sự
Với Rượu PKT 09/09/2015
Tỉnh say , ngồi nhàn bên cửa sổ, đưa mắt nhìn
quanh Hoa rụng rơi xuống vương
vãi đầy thềm rêu xanh Lúc sống , đã không uống cạn được một bầu
rượu Thì sau khi chết , chén
rượu ai người tưới trên mồ cho đây Sắc xuân dần dần thay đổi , con oanh vàng
đã bay đi mất Ngày
tháng âm thầm trôi qua , tóc trên đầu bạc đến nơi rồi
Cuộc sống trăm năm chỉ còn
ước mong được say như suốt buổi sáng này Chuyện đời mây nổi ngẫm thật đáng
buồn, còn ngồi than thở ích gì nữa đâu Chú
Thích : "Phu tọa " nghĩa là ngồi xếp bằng tròn
tĩnh tọa , kiểu ngồi thiền của các nhà tu ; "nhàn song"
nghĩa là nhàn nhã bên cửa sổ , "túy" nghĩa là say
rượu; "nhãn" nghĩa là con mắt ; "khai" nghĩa là mở
; cả câu có thể hiểu một cách giản dị là " ngồi
nhàn bên cửa sổ ,rượu say, đưa mắt nhìn cảnh vật bên
ngoài " ; nhưng "túy nhãn khai " là "mắt say nhìn"
hay còn có ngụ ý gì nữa đây? Ôi chữ với nghĩa của
người xưa ! Viết đến đây , xin được phép nói đến
Chị Thảo Nguyên , giáo sư Toán, một thời dạy ở trường
Nữ Trung Học Đoàn Thị Điểm , Cần Thơ ,trước 1975 ,tác
giả cuốn ĐỌC VÀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU . Đối
Tửu là 1 trong số 55 bài được chị lựa chọn từ hơn 200
bài thơ chữ Hán của tác giả Truyên Kiều . Đọc các
bài dịch kèm theo phần bình chú , lòng riêng khôn ngăn được
xúc động và cảm phục về tính nghiêm cẩn cúa chị
,trong việc tìm hiểu ý nghĩa đến từng con chữ một của nguyên
tác. Về phần chuyển dịch, giữ được nguyên ý , cùng
lúc với chất thơ , tìm được "nhãn tự" và từ
đó khai mở được "phần chìm" cúa bài thơ , để
cho người đọc hiểu được phần nào tâm sự u ẩn của
tác giả là một điều không dễ . Thiển nghĩ , cho đến
nay , về dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du , không mấy người
đạt được thành quả tốt đẹp như chị. Với tấm
lòng kính mến, xin được mạn phép chép ra đây bài
Trước Chén Rượu của Thảo Nguyên ,bản dịch bài Đối
Tửu , để mọi người thân quí trong nhà được biết
thêm về một người yêu chuộng chữ nghĩa . PKT 09/09/2015 Trước Chén Rượu Thảo Nguyên - Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn
Du Ngồi nhàn bên cửa mắt ngà say Hoa rụng thềm rêu phấp phới bay Khi sống chẳng nghiêng bầu cạn rượu
Chết đi ai tưới mộ ly đầy?
Sắc xuân dần chuyển oanh bay mất
Năm tháng ngầm đưa trắng tóc
lay Ước được trăm
năm say khướt mãi Buồn
ơi, thế sự khác gì mây! Đối
Tửu PKT 09/09/2015 Tỉnh
say , đưa mắt ngoài song cửa , Hoa rụng, thềm rêu , những cảm hoài. Sống đã chén vơi, ta với bóng , Chết rồi mộ tưới, rượu cho ai?
Sắc xuân dần đổi, oanh vàng
biệt , Ngày tháng lặng
trôi , tóc trắng bay. Nào
muốn trăm năm , say suốt sáng, Chuyện đời mây nổi , nỗi thương vay . Lời
Thêm : Theo Thảo Nguyên , trong Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán
Của Nguyễn Du , bài Đối Tửu được làm ra trong thời kỳ
ở Hồng Lĩnh (1796 -1802) , tác giả tuy sống ớ quê nhà ,nhưng "vẫn
rất nghèo khổ". Từ nguồn tin này ,tôi lại lẩn thẩn
nghĩ đến 2 chữ "túy nhãn" trong câu mở đầu . Rượu
uống thiếu , nhìn bầu rượu cạn , nhà nghèo quá, không
tiền mua thêm . Cho nên "túy nhãn" mắt say nhưng người uống
đã say đâu. Cho nên mới than lúc sống không đủ rượu
uống , mong gì chết rồi ai đổ rượu trên mồ cho. Cho nên mới
nghĩ đến tuổi xuân dần qua ,thời gian nghiệt ngã , tóc đã
bạc rồi ,chuyện đời mây nổi , không buồn sao được , trăm
năm đành thôi , chỉ còn ước được một sáng cùng
rượu say vùi. Ôi chao , có thể nào sự thật trần trụi thảm
thương đến độ như vậy sao? Cho nên đáng lẽ , 2 câu
cuối là : " Chỉ muốn trăm năm say suốt sáng / Nỗi đời
mây nổi ngẫm buồn thay " , thật tình không hiểu sao tôi lại
đổi thành : "Nào muốn trăm năm say suốt sáng / Chuyện đời
mây nổi, nỗi thương vay ". PKT 09/09/2015
Tri Khac Pham Phamid1934@gmail.com Trước Chén Rượu Ngồi bên song ngà say mắt thả , Thềm rêu xanh lả tả hoa rơi .
Chén quỳnh chưa cạn trên đời
, Chết rồi ai rưới
rượu mời mộ ta !
Oanh bay mất , phôi pha xuân sắc
, Tháng năm dần hiu hắt
bạc đầu . Trăm năm
say khướt mong cầu , Mây
trôi thế sự , dàu dàu lòng ai ! Mailoc phỏng dịch
Cali
9-9-15 TRƯỚC CHÉN RƯỢU
Đang tỉnh say,mắt nhìn quanh song cửa
Hoa rụng đầy ,vương tơi tả thềm rêu Lúc
sanh tiền cạn chén được bao nhiêu ?? Đến
khi chết mộ ta ai chuốc rượu ?! Tuổi
Xuân phai như chim oanh bay mất
Tóc bạc màu theo năm tháng trôi qua Ước được
sao say khướt mãi hồn ta
Mặc thế sự nổi chìm...buồn cũng thế !
SONG QUANG Trước Rượu Ngồi thiền bên cửa
mắt còn say Lả tả
thềm rêu hoa phủ dày Lúc
sống rượu bầu không thể cạn Chết rồi nấm mộ tế nào hay Thời xuân dần đổi chim vàng bỏ
Ngày tháng trôi qua tóc bạc
phai Cứ muốn trăm năm
say mỗi sáng Đời
như mây nổi thật buồn thay.
Quên Đi
Đỗ Chiêu Đức tham gia với
các phần sau đây :
1. Bản chữ Hán cổ của bài
thơ :
對酒 趺坐閒窗醉眼開, 落花無數下蒼苔。 生前不盡樽中酒, 死後誰澆墓上杯。 春色漸遷黃鳥去, 年光暗逐白頭來。 百期但得終朝醉, 世事浮雲真可哀。
阮攸
Đối tửu Phu toạ nhàn
song tuý nhãn khai, Lạc hoa vô số hạ thương đài. Sinh tiền bất tận tôn trung tửu, Tử hậu thuỳ kiêu mộ
thượng bôi ? Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ, Niên quang ám trục bạch đầu lai. Bách kỳ đãn đắc
chung triêu tuý, Thế sự phù vân chân khả ai.
NGUYỄN DU 2. CHÚ THÍCH : * PHU TỌA : Ngồi xếp bằng kiểu nhà Phật .
* NHÀN SONG : là Caí
Cửa Sổ không có trang trí gì cả, không có rèm sáo gì
hết. Chớ không phải caí cửa sổ nhàn nhã . * BẤT TẬN : là không hết. TÔN
TRUNG TỬU : là Rượu trong chai. Câu nầy ý nói Uống không
hết rượu trong chai, chớ không phải Trong chai đã hết, không
có rượu để uống ! * KIÊU : là Tưới . * TIỆM THIÊN : là Dần dần dời đổi . Đổi
thay dần . * ÁM TRỤC
: là Lặng lẽ đi mất. NIÊN QUANG : là Thời gian. * BÁCH KỲ : Trong cái kỳ hạn trăm
tuổi, ở đây chỉ cuộc đời cuả một đời người
. * TRIÊU : là Buổi
sáng. Ở đây chỉ có nghiã là BUỔI mà thôi. Như trong
câu : " Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại nhất triêu "
là " Nuôi quân ngàn ngày, nhưng chỉ dùng trong một BUỔI
". Trong bài thơ là CHUNG TRIÊU TUÝ, có nghĩa : Say suốt buổi,
ý nói là Buổi nào cũng được say, ngày nào cũng được
say ! 3. DỊCH NGHĨA :
ĐỐI TỬU là Đối diện với rượu, nên
có nghĩa là UỐNG RƯỢU Ngồi xếp bằng trước cửa sổ,
mở con mắt say ra mà nhìn, thấy vô số là hoa rụng xuống bãi
rêu xanh. ( Hoa rụng có nghĩa là xuân sắp qua đi, nên mới
cảm khái rằng... ) Ta còn sống đây mà còn uống không
hết rượu ở trong chai ( vì không có người tri kỷ cùng
uống ), không biết rồi khi chết đi còn có ai ( là người
tri kỷ ) tưới lên mộ ta ly rượu tri âm hay chăng ? ( Ý 2 câu
nầy giống như 2 câu : Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như ? vậy !). Xuân sắc đã dần dần
thay đổi, chim hoàng oanh hót vào mùa xuân cũng đã bay
đi mất rồi ! Thời gian cũng âm thầm lặng lẽ ra đi, đầu
cũng đã bạc đến nơi rồi. Trong cuộc sống trăm năm của
người đời ước gì mỗi ngày đều được say tuý
lúy, vì sự đời như phù vân trôi nổi, thật đáng
buồn thay ! 4. DIỄN NÔM :
UỐNG RƯỢU Ngồi
buồn trước cửa mắt say nhìn,
Hoa rụng tơi bời xuống thảm xanh. Còn
sống không người cùng cạn chén, Chết
rồi ai tưới rượu cho mình ?
Xuân qua lặng lẽ oanh bay mất, Tuế
nguyệt âm thầm tóc trắng tinh . Ước
được trăm năm say khướt mãi,
Chuyện đời mây nổi xót thay tình ! Lục bát : Trước
song ngồi nhướng mắt say,
Tơi bời hoa rụng nào ai đoái hoài.
Sống không có bạn cùng say, Chết
rồi biết có còn ai uống cùng ? Xuân
qua lặng lẽ âm thầm, Oanh
bay, tóc trắng xóa dần thời gian.
Trăm năm ước được say tràn, Chuyện
đời mây nổi làm tan nát lòng !
Đỗ Chiêu Đức _________________________________________________________________________________________________________________
1. VẠN
HẠNH THIỀN SƯ 萬 行禪師
Thiền sư VẠN HẠNH 萬行禪師 (?-1018) Nguyên họ Nguyễn,
người làng Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng
Thiền Nam Phương Tì Ni Đa Lưu Chi. Ông học thông tam giáo ( NHO
- THÍCH- ĐẠO ), đã từng hết sức giúp vua Lê Đại Hành
chống ngoại xâm, dựng xây đất nước, sau lại khuông phò
Lý Công Uẩn lên ngôi nên rất được kính trọng. Theo
sách Thiền Uyển Tập Anh (1337), Ông còn để lại một số bài
thơ, trong đó đặc biệt có bài THỊ ĐỆ TỬ (Bày
tỏ với đệ tử) - Nhan đề nầy là do người đời sau
đặt ra. Sách Thiền Uyển Tập Anh chép rằng : " Ngày 15 tháng
5 , năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không bệnh, gọi chúng tăng
đệ tử đến, rồi đọc bài kệ:
示 弟 子
身 如 電 影 有 還 無
萬 木 春 榮 秋 又 枯
任 運 盛 衰 無 怖 畏
盛 衰 如 露 草 頭 舖
THỊ ĐỆ TỬ
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô Nhậm
vận thịnh suy vô bố uý Thịnh suy
như lộ thảo đầu phô.
Sư lại bảo với các
đệ tử rằng : " Các ngươi muốn đi về đâu ? Ta không
lấy chỗ trụ để mà trụ, cũng chẳng dựa vào chỗ vô
trụ để mà trụ ". Ý muốn bảo ƯNG VÔ SỞ TRỤ ...
Một lát sau thì Sư qua đời. Vua cùng các quan làm lễ hỏa
táng cho Sư, xây tháp Xá Lợi để hương khói phụng thờ
.... CHÚ THÍCH BÀI KỆ TRÊN : THỊ ĐỆ TỬ : THỊ có
2 nghĩa : CHỈ THỊ là Chỉ điểm, Chỉ vẽ, Ra lệnh. BIỂU THỊ
là Bày tỏ, Tỏ Vẻ, Tượng Trưng. Nên THỊ ĐỆ TỬ
có thể hiểu là : CHỈ ĐIỂM cho đệ tử, cũng có thể
hiểu là BÀY TỎ lòng mình với đệ tử.
ĐIỆN ẢNH : ĐIỆN là Tia Chớp, ẢNH là Cái bóng. Cái
Bóng có được nhờ tia Chớp. nên rất mong manh, thoáng cái
thì đã mất. ĐIỆN ẢNH : Ngày nay
ta gọi là Chớp Bóng, là Chiếu Bóng, là nghệ thuật thứ
7 của hiện đại. NHẬM : Ở đây là
Phó Từ, có nghĩa : Mặc cho... là Phó mặc.
VẬN là Thời Vận, là Vận Hạn. BỐ
ÚY 怖 畏 : BỐ là chữ Hài Thanh, gồm bộ TÂM bên trái
chỉ Ý, chữ BỐ là Vải Vóc bên phải chỉ Âm, nên BỐ
là KHỦNG BỐ, là Sợ Hãi. ÚY là chữ Hội Ý, theo Giáp
Cốt Văn thì phần trên là Cái đầu của chữ QUỶ, phần
dưới là QUỶ cầm cây gậy để đánh người, nên
ÚY là ÚY KỴ, là Sợ Sệt, là E Ngại.
BỐ ÚY là từ kép chỉ sự Sợ Hãi, E Ngại. Nghĩa trong
câu thơ BỐ ÚY là LO LẮNG. LỘ 露
: Chữ Hài Thanh, phần trên bộ VŨ là Mưa chỉ Ý, phần dưới
là chữ LỘ chỉ ÂM, nên LỘ có nghĩa là HẠT MÓC, là
GIỌT SƯƠNG. PHÔ 舖 : Chữ Hài Thanh, phần
trái là chữ XÁ là Nhà chỉ Ý, phần phải là chữ
PHỐ chỉ Âm. PHÔ là Cái ngạch cửa nằm ngang bên dưới,
nghĩa rộng là TRÃI RA, là PHÔ TRƯƠNG, là Bày ra cho người
ta thấy. Trong câu thơ có nghĩa :... như giọt sương bày ra trên
đầu ngọn cỏ ( Sẽ biến mất ngay khi tia nắng đầu tiên chiếu
rọi ! ) NGHĨA BÀI KỆ : Cái xác thân của
ta hiện diện trên đời nầy giống như là cái bóng của
tia chớp, có cũng như không, thoắt hiện đó rồi liền mất
đó ! Muôn loài cây cỏ mùa xuân thì xanh um tươi tốt,
đến khi mùa thu thì héo úa vàng khô ! Mặc cho thời
vận của cuộc đời thịnh hay suy gì cũng đừng nên lo lắng
mà chi. Vì việc thịnh suy như là giọt sương phủ ở trên
đầu ngọn cỏ vậy. Chóng đến chóng tàn đổi thay liên
tục và rất nhanh ! DIỄN NÔM
: Thân có tựa không
như ánh chớp, Lá xanh
thu úa ấy lẽ thường.
Thịnh suy tùy vận không lo lắng,
Suy thịnh như đầu cỏ nhuốm sương !
Đỗ Chiêu Đức
2. MÃN GIÁC THIỀN SƯ 滿覺禪師 Mãn Giác Thiền Sư ( 1052-1096 ),
là một Thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng Thiền
Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền của sư Quảng Trí và
truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh. Với bài
kệ " CÁO TẬT THỊ CHÚNG 告疾示眾 ", ông được
nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu của dòng văn
thơ đời Lý-Trần. Năm 1096, cuối tháng 11, Sư
gọi chúng đệ tử đến, đọc bài kệ " Cáo tật
thị chúng " như sau: Kệ rằng:
春去百花落,
Xuân khứ bách hoa lạc, 春到百花開. Xuân
đáo bách hoa khai. 事逐眼前過,
Sự trục nhãn tiền quá, 老從頭上來.
Lão tòng đầu thượng lai ! 莫謂春殘花落尽, Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận, 庭前昨夜一枝梅
! Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. CHÚ THÍCH : CÁO
TẬT THỊ CHÚNG 告疾示眾 : Bố cáo cho mọi người biết
là mình bị bệnh. TRỤC 逐 : Chữ thuộc dạng
HỘi Ý, gồm chữ THỈ là Loài heo ở bên trong trên và bộ
Xước là Bước đi bên trái dưới. Ý là Đuổi
Theo. Chữ TRỤC có 2 nghĩa chính : a). Đuổi, là
Cưởng bức ai đó rời đi. Như Trục Xuất, Trục Khách. b). Lần lược theo thứ tự. Như Trục Bộ là
Bước từng bước một. Trục Niên là Hằng năm, hết năm
nầy đến năm khác. VỊ 謂 : Chữ thuộc dạng
Hài Thanh, gồm bên trái bộ Ngôn là lời nói chỉ Ý, bên
phải là chữ VỊ chỉ âm. Nên Vị có nghĩa là Nói Rằng,
Bảo Rằng. MẠC VỊ : Đừng bảo rằng, Chớ
nói rằng. NGHĨA BÀI KỆ : Mùa xuân
đã đi qua thì trăm hoa rơi rụng, Khi mùa
xuân đến thì trăm hoa lại đua nở.
Sự đời lần lược đi qua diễn ra trước mắt.
Tuổi già thì lại đến từ trên đầu già xuống. ( Ý
chỉ tuổi già trước tiên được thể hiện qua mái tóc
bạc đập vào mắt mọi người trước nhất ! Ta cũng thường
hay nói : Già từ trên đầu già xuống !).
Chớ bảo rằng xuân tàn thì trăm hoa rụng hết.
Đêm qua, trước sân, một cành mai đã nở rộ ( trong tiết
đông lạnh lẽo.). Ý muốn nói : Không phải chỉ có mùa
Xuân trăm hoa mới đua nở, trong mùa Đông giá lạnh cũng vẫn
có những loại hoa nở rộ như thường ! . DIỄN NÔM :
Xuân
tàn trăm hoa rụng, Xuân đến
trăm hoa tươi. Việc đời
qua trước mắt, Già đến
trên đầu người. Chớ bảo
xuân tàn hoa rụng hết, Ngoài
sân, đêm trước, nở cành mai !
Đỗ Chiêu Đức 3. HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ 香海禪師 Hương Hải Thiền Sư 香海禪師 (1628
- 1715), không rõ họ tên thật, tục gọi là Tổ Cầu, là
một thiền sư Việt Nam ở thời Hậu Lê. Sư và Thiền sư
Chân Nguyên là hai người đi đầu trong công cuộc phục hưng
phái thiền Trúc Lâm đã có từ thời nhà Trần .
"Vô tâm" là danh từ và phương châm rất đắc ý
của Hương Hải. Hình ảnh đẹp nhất về vô tâm là
hình ảnh mà ông đã trình bày cho vua Dụ Tông nghe, khi nhà
vua hỏi về thâm ý của đạo Phật:
Nhạn quá trường không, 鴈 過
長 空 Ảnh
trầm hàn thủy
影
沉 寒 水
Nhạn vô di tích chi ý
鴈 無 遺 跡 之 意
Thủy
vô lưu ảnh chi tâm
水
無 留 影 之 心 CHÚ
THÍCH : TRƯỜNG KHÔNG
長 空 : TRƯỜNG là Dài, KHÔNG là Không gian. TRƯỜNG KHÔNG
là Từ Ghép chỉ BẦU TRỜI, chớ không phải Trời dài Trời
ngắn gì cả !. DI TÍCH 遺 跡 : DI là Để
lại. TÍCH là Dấu Vết. DI TÍCH là Để lại Vết Tích. LƯU ẢNH 留 影 : LƯU là Giữ lại. ẢNH là
Hình Bóng. LƯU ẢNH là Giữ lại Hình bóng. NGHĨA BÀI KỆ : Con chim nhạn
bay ngang qua bầu trời, cái bóng của nó in xuống dưới dòng
nước lạnh. Con nhạn đó không có Ý để lại vết
tích của mình dưới nước, mà nước cũng không có
lòng giữ lại hình bóng của chim nhạn. Tất cả đều là
lẽ tự nhiên của VÔ TÂM, của TÂM VÔ SỞ TRỤ 心無所住
! DIỄN
NÔM :
Nhạn bay cao vút trên không,
Bóng chìm dưới nước lạnh căm vô tình.
Nhạn không có Ý để hình,
Nước không lòng giữ bóng hình nhạn đâu !
Đỗ Chiêu Đức
4. HUYỀN QUANG THIỀN SƯ 玄光禪師 . Huyền Quang Thiền Sư ( 1254-1344 ). Tên thật
là Lý Đạo Tái người châu Nam Sách. Từ nhỏ, ông có
khiếu văn chương, năm 21 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương ,
được bổ làm quan ở Hàn Lâm Viện và nhận mệnh vua
tiếp sứ Trung Quốc. Khi ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh
Nghiêm ở huyện Phượng Nhãn để nghe sư Pháp loa giảng kinh,
liền có ý muốn xuất gia. Sau đó mấy lần ông xin từ chức
để đi tu , được vua Trần Anh Tông chấp nhận và giao cho sư
Pháp Loa hướng dẫn. Ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng
thiền Trúc Lâm. Mời đọc một bài
thơ có Ý Thiền của ông sau đây : 泛舟
小艇乘風泛渺汒,
山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。
Phiếm Chu Tiểu đĩnh thừa phong
phiếm diểu mang, Sơn thanh thuỷ lục
hựu thu quang. Sổ thanh ngư địch lô
hoa ngoại, Nguyệt lạc ba tâm giang mãn
sương. CHÚ THÍCH :
PHIẾM CHU 泛舟 : PHIẾM có 3 chấm thủy một bên, nên có
nghĩa là TRÔI NỔI. CHU là Ghe Xuồng. PHIẾM CHU là Để mặc
cho chiếc Thuyền trôi nổi trên sông. Trong bài TIỀN XÍCH BÍCH
PHÚ mở đầu bằng câu : " Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt kí
vọng, Tô Tử dữ khách PHIẾM CHU..." là chữ PHIẾM CHU nầy
đó. CÂU 1 : Tiểu đĩnh thừa phong phiếm
diểu mang. TIỂU ĐĨNH : là Chiếc
Thuyền nhỏ. THỪA PHONG : là Cởi gió, là Đón gió. PHIẾM
là Trôi nổi. DIỂU MANG : là Mênh mông Vô tận. Câu 1 có
nghĩa : " Chiếc
thuyền con trôi nổi theo chiều gió trên dòng nước mênh mông
vô tận ". CÂU 2 : Sơn thanh thuỷ lục hựu
thu quang. SƠN THANH : là Núi Xanh. THỦY
LỤC : là Nước Xanh. HỰU là Lại. THU QUANG : là Quang cảnh Mùa
Thu. Câu 2 có nghĩa : "
Lại cũng quang cảnh của mùa thu với núi xanh nước biếc ".
CÂU 3 : Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại, SỔ THANH : SỔ là Một Vài. SỔ THANH là Một vài âm
thanh, là Một vài tiếng. NGƯ 漁 nầy có 3 chấm Thủy, có
nghĩa : Thuộc Về Cá, nên NGƯ ĐỊCH : là Tiếng Sáo của
những người đánh cá. LÔ HOA : là Hoa Lau Hoa Sậy. NGOẠI : là
bên ngoài, phía ngoài. Câu 3 có nghĩa : " Ngoài xa của đám hoa lau là tiếng sáo
vẳng đưa của các dân chài ". ( Tiếng sáo không thể
đếm được, nên không thể nói là MỘT VÀI tiếng
sáo. Vì tiếng sáo trên sông vẳng đưa theo gió nên nghe
khi được khi mất. Chớ không phải có NHIỀU NGƯỜI thổi
sáo ! Chữ SỔ được thoáng dịch là Văng Vẳng là vì
thế ! ). CÂU
4 : Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương. NGUYỆT LẠC : là Trăng lặn. BA TÂM : là Giữa lòng sóng.
GIANG MÃN SƯƠNG : là Sông đầy cả sương. Câu 4 có nghĩa
: " Khi trăng lặn xuống
giữa lòng sóng nhấp nhô ( ở tận chân trời ) thì sương
cũng xuống tràn ngập cả dòng sông. DIỄN NÔM : Thả
Thuyền Thuyền con trôi nổi gió
xuôi dòng, Nước biếc núi
xanh thu mênh mông. Tiếng sáo vẳng
đưa bờ lau sậy, Sóng dìm trăng
lặn móc đầy sông!
Ai bảo thơ thiền
Việt Nam không nên thơ và không có Ý Thiền chứ ?!
Đỗ Chiêu Đức ___________________________________________________________________________________________
XUÂN VÃN (Trần Nhân Tông) Dịch, phỏng dịch: Quên Đi, Mai Xuân Thanh, Mailoc, Nguyễn Đắc
Thắng, Kim Oanh, Đỗ Chiêu Đức ___________________________________________________________________________________________________________________________________
Trong dịp xuân về, Kính gởi đến
Quý Thầy và Anh Chị Em bài thơ "Xuân Vãn" của Vua Trần
Nhân Tông 春晚
Xuân Vãn 陳仁宗
Trần Nhân Tông
年少何曾了色空 Niên
thiếu hà tằng liễu sắc không, 一 春心在百花中 Nhất xuân tâm
tại bách hoa trung. 如今勘破東皇面
Như kim khám phá đông hoàng diện, 禪板蒲團看墜紅 Thiền bản
bồ đoàn khán truỵ hồng.
Dịch Nghĩa: Chiều Xuân Lúc nhỏ chưa
hề biết thế nào là Sắc với Không Nên mỗi khi xuân
về, khiến lòng xao động gởi vào trong trăm hoa . Ngày
nay đã hiểu rõ được bộ mặt của chúa xuân, Khi ngồi trên tấm thảm cỏ nơi thiền phòng, tâm vẫn lặng
khi thấy cánh hoa rụng.
Dịch Thơ: Chiều Xuân Lúc trẻ nào
tường sắc với không Xuân
về hoa nở ngất ngây lòng Nhưng
nay mặt chúa xuân đà rõ Tâm tịnh dù rơi mấy cánh hồng. Quên
Đi * * * CHIỀU XUÂN CẢM TÁC Ông
Vua trẻ nói sắc và không, Nào
thấu hoa Xuân ngắm thật lòng. Hòang
Thượng nhìn ra Xuân rõ mặt, An
nhiên, rả cánh đóa hoa hồng !
Mai Xuân Thanh xin cảm tác Ngày 10 tháng 01 năm 2015 * * * CHIỀU XUÂN
Sắc không lúc trẻ chẳng tinh tường
, Xuân đến hoa cười dạ
vấn vương . Mặt thật chúa
xuân nay khám phá , Thiền phòng
tịnh tọa ngó rơi hường .
Mailoc Sắc không niên thiếu chưa
rành lắm , Xuân đến rộn
rã cánh hoa lòng . Chúa xuân
mặt thật nay thông , An nhiên
tịnh tọa nhìn hồng rụng rơi !
Mailoc
Cali 01-10-15 * * * CHIỀU XUÂN Lúc
nhỏ hiểu gì sắc với không Trăm hoa xuân thắm gửi tâm lòng Chúa xuân hiện mặt cho đời hiểu Thảm tịnh nhìn xuân rụng cánh hồng.
Nguyễn
Đắc Thắng 20150111 * * *
Thơ dại hiểu gì sắc với không Hoa xuân hé nở xuyến xao lòng Chúa xuân ngự đến nay
tường tận Tâm lặng chẳng dao bởi sắc hồng Kim Oanh
CUỐI XUÂN
Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,
Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa. Nhưng
nay đà tỏ nàng xuân muộn, Hoa
rụng lòng thiền chẳng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức.
VÃN
CẢNH Mạc Đỉnh Chi Bản
dịch, phỏng dịch: Huệ
Chi, Mailoc, Phương Hà, Mai Xuân Thanh, Quên Đi, Song Quang, Danh Hữu, Đỗ
Chiêu Đức ___________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ Xin chuyển đến
Bạn Thơ một cảm tác cùng tiểu sử của Mạc Đỉnh
Chi . Thân kính Mailoc
Vãn Cảnh
Bản chữ Hán
晚景 空翠浮煙色, 春藍發水紋。 墻烏啼落照, 野雁送歸雲。 漁火前灣見, 樵歌隔岸聞。 旅顏悲冷落, 借酒作微醺。
| Phiên âm Hán Việt Vãn cảnh Mạc
Đỉnh Chi Không thuý phù yên sắc, Xuân lam
phát thuỷ văn. Tường ô đề lạc chiếu,
Dã nhạn tống quy vân. Ngư hoả tiền loan kiến, Tiều ca cách ngạn văn. Lữ nhan bi lãnh lạc,
Tá tửu tác vi huân. |
Dịch nghĩa
Cảnh chiều
Sắc khói nổi giữa màu biếc
của nền trời,
Sóng nước
gợn giữa màu xanh của mùa xuân.
Quạ đầu tường kêu trong nắng chiều,
Nhạn ngoài đồng tiễn đám mây về.
Nhìn thấy lửa thuyền câu trước vũng,
Nghe tiếng ca người hái củi bên kia bờ sông.
Vẻ mặt lữ khách buồn ủ ê,
Mượn chén rượu
để say chếnh choáng.
Các bản dịch thơ
Cảnh chiều
Khói bồng bềnh trời biếc,
Sóng gợn nước xuân xanh.
Quạ xế chiều kêu rộn,
Nhạn theo mây về nhanh.
Lửa chài, loe trước vũng,
Tiều hát, vẳng bên ghềnh.
Mặt khách buồn tê tái,
Mượn chén giải u tình.
Huệ
Chi
Cảnh Chiều
Trời xanh biếc bềnh
bồng khói quyện ,
Nước sông xuân sóng gợn
chiều xuân .
Bên tường qụa réo chiều
dần ,
Theo mây đồng quạnh bâng
khuâng nhạn về .
Lửa thuyền chài lập
lòe sông vắng ,
Tiều hát ca văng vẳng bên
ghềnh .
Dàu dàu mặt khách buồn
tênh ,
Rượu
nồng mượn chén để quên u tình
.
Mailoc
phỏng dịch
| Tiểu
sử MẠC ĐĨNH
CHI (1272-1346) Nhà văn Việt Nam, danh sĩ đời
Trần Anh Tông, tự là Tiết Phu. Vốn
người làng Lan Khê, huyện Bình Hà, châu
Nam Sách, lộ Lạng Giang; sau dời đến
làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc tỉnh
Hải Dương). Năm 1304, ông đỗ
Trạng nguyên. Vua thấy tướng mạo
xấu có ý chê, ông dâng bài phú "Ngọc
tỉnh liên" (sen giếng ngọc) khiến
Vua khâm phục, bổ chức Nội
thư gia. Ông làm quan trải ba triều
Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông; giữ các chức:
Nhập nội hành khiển, Tả
tư lang trung, thăng Thượng thư Tả
bộc xạ, kiêm Trung thư coi việc
quân dân, tước Ðại liêu ban. Tính ông
liêm khiết, được sĩ phu trọng
vọng. Ông từng đi sứ Trung quốc
2 lần, được các danh sĩ nước
ngòai khen ngợi, khâm phục. Sau khi về
trí sĩ, ông mở trường dạy học.
Nhân dân đời sau vẫn quen gọi là
"Trạng nguyên cổ đường". Ông mất năm Bính Dần- 1346. Ông là
cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc
Hiển Tích (khoa Bính Dần niên hiệu
Quảng Hựu thứ 2 (1086), đời
Lý Nhân Tông). Ðến đời Mạc
Ðăng Dung là cháu 7 đời của ông lên
cưới ngôi nhà Lê xưng đế,
truy phong ông là Huệ Cảm Linh Khánh vương,
có lập điện Sùng Ðức để
thờ ông tại phần mộ
ở làng Lũng Động. Tác phẩm
chính: "Ngọc tỉnh liên phú" (trong
"Quần hiền phú tập" )
Bốn bài thơ: "Quá Bành Trạch
phỏng Ðào Tiềm cựu cư";
"Tảo hành"; "Hỷ tình"; "Vãn
cảnh" (trong "Việt âm thi tập"
và "Tòan Việt thi lục") Trạng Khỉ Ngoài Phùng Khắc Khoan, Mạc
Đĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai nước
Nam và nước Tàu. Sách "Nam Hải Dị
Nhân" chép rằng Mạc Ðĩnh Chi tự
là Tiết Phu, người làng Lũng Ðổng
huyện Chí Linh (Hải Dương) nguyên
về giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển
Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích
đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn
nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng
thư) Tục truyền làng Lũng Ðộng
có một khu rừng rậm, cây cối
bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ)
ở. Mẹ ông ấy thường
khi vào rừng kiếm củi, phải
con hầu đực bắt hiếp.
Về nói với chồng, chồng
ăn mặc giả làm đàn bà, giắt
sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu
quen thói lại ra, bị ông kia chém chết
bỏ thây tại đấy. Sáng hôm
sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp
hết, thành gò mả. Bà kia từ
đấy thụ thai, đủ tháng sinh
ra Mạc Ðĩnh Chi, mặt mũi xấu xí,
người nhỏ loắt choắt
tựa như giống hầu. Mạc
Ðĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi,
tư chất thông minh hơn người.
Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc
Công mở trường dạy học
trò, Mạc Ðĩnh Chi vào học. Ðến
năm gần hai mươi tuổi là
năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần,
Mạc Ðĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ
đầu cả mọi người
nhưng vua trông thấy người hình dáng
xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên,
Ðĩnh Chi làm một bài phú "Ngọc tỉnh
liên" để ví vào mình, vua mới lại
cho đỗ Trạng Nguyên. Khi Mạc Ðĩnh
Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu,
có hẹn trước với người
Tàu ngày mở cửa ải. Bất
ngờ hôm ấy trời lại
mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới
đến thì người Tầu đóng
cửa không cho vào. Ðĩnh Chi nói tử tế
xin cho mở cửa. Người Tầu
ra một câu từ trên ải ném xuống
và bảo hễ đối được
thì mở cửa. Câu ra: "Quá quan trì,
quan quan bế; nguyện quá khách quá quan".
Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi
ải đóng cửa ải, mời
khách qua đường qua ải mà đi. Ðĩnh
Chi viết nagay một mảnh giấy,
đối lại đưa lên: "Xuất
đối dị, dối đối
non, thỉnh tiên sinh tiên đối". Nghĩa là:
Ra đối dễ, đối lại
khó, mời tiên sinh đối trước. Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới
mở cửa ải cho vào. Khi đến
cửa Yên Kim, người tàu thấy ông
xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một
hôm, viên tể tướng Tàu mời
vào phủ đường ngồi chơi,
Ðĩnh Chi trông thấy trên bức tường
có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành
trúc, tưởng là chim thực, đứng
dậy chạy lại bắt. Người
Tàu cười ầm cả lên. Ðĩnh
Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra.
Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm
sao thì thưa rằng: - Tôi có nghe người
ta thường vẽ chim sẻ đậu
cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể
tướng sao lại cho vẽ thế.
Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ
là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu
như thế là ra cho tiểu nhân ở
trên quân tử, tôi e rằng đạo
tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà
đạo quân tử mỗi ngày suy đi,
nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy
thôi. Chúng chịu là biện bác có lẽ. Ðến khi vào chầu, nhân có ngoại
quốc dâng một đôi quạt quý.
Vua Tàu xai Ðĩnh Chi và một người sứ
Cao Ly, mỗi người đề một
bài tán vào quạt. Sứ Cao Ly làm xong trước.
Lời
tâu rằng: "Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn
Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề". Nghĩa là: Ðang lúc nắng nực, thì như
ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng
với thời). Ðến khi mưa
tuyết lạnh ngắt thì như
Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp
xó một chỗ). Bấy giờ
Mạc Ðĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ
làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết
là lời lẽ như thế mới
suy ra mà đề một bài như sau này: "Lưu kim thước thạnh, thiên địa
vi lô, nhi ư tư thời hề
Y, Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết
tái đồ; nhi ư tư thời
hề Di, Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc
hành, xả chi tắc tàng, dụng ngã
nhữ hữu thị phù ?" Nghĩa là:
Nắng chảy vàng tan đá, trời đất
như lò lửa, người về
lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan to. Gió
bấc lạnh lẽo, mưa tuyết
lấp đường, người về
lúc ấy ví như Di Tề, hai người
chết đói. Than ôi! Khi dùng đến thì ra
khi không dùng đến thì cất đi, chỉ
ta với người đuợc thôi. Ðề
xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ
"Y" (Duyệt!), phê rằng "Lưỡng
quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng
nguyên hai nước. Thường khi Mạc
Ðĩnh Chi cưỡi lừa đi đường,
chạm phải ngựa Tàu. Người
kia đọc lên một câu rằng: "Xúc
ngã kỵ mã, Ðông di chi nhân dã? Tây di chi nhân dã?". Nghĩa là: Chạm vào ngựa của
ta cưỡi, ấy là người Ðông
di hay Tây di? Mạc Đĩnh Chi đáp liền: "Át dư thừa lư, Nam phương
chi cường dư? Bắc phương
chi cường dư?" Nghĩa là: Chắn
đường lừa ta đi, thử xem người
Nam phương mạnh hay ngoời Bắc
phương mạnh. Lại thường
đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng: "An nữ khứ, thỉ nhập
vi gia" (安女去豕入為家) Nghĩa
là chữ An, bỏ chữ Nữ,
chữ Thỉ (con heo) vào là chữ Gia
(nhà). (Rất xấc xược!) Ðối
rằng: "Tù, nhân xuất; vương
lai thành quốc" (囚人出王來成国) Nghĩa là: Chữ Tù bỏ chữ
Nhân, chũ Vương đến thì là chữ
Quốc. (Rất có chí khí!) Người
Tàu phê rằng: - Con cháu về sau tất
cả người làm đến đế
vương nhưng hiềm về chữ
quốc đơn thì hưởng nước
không được tràng cửu mấy nỗi. Lại ra: "Nhật hỏa vân yên;
bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ". nghĩa là: Lửa mặt trời khói
đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ
ngọc. Ðối: "Nguyệt cung
tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô". Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi
sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng. Người Tàu phê rằng: - Con cháu về
sau tất có người cướp nước.
(Mạc Ðặng Dung về sau giết
vua cướp nước). Một khi bà
hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu
sai ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc văn tế.
Ðến lúc quì xuống cầm bản
văn đọc thì chỉ thấy một
tờ giấy trắng, có bốn
chữ "nhất". Ðĩnh Chi không nghĩ ngợi
gì, đọc ngay rằng: "Thanh thiên nhất
đóa vân, hồng tô nhất điểm
tuyết, Thượng Uyển nhất
chi hoa, Dao Trì nhất phiến nguyệt.
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết". Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh,
một giọt tuyết trong lò đỏ,
một cành hoa vườn Thượng Uyển,
một vầng trăng ao Dao Trì. Than ôi, mây rã,
tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết. Bài văn này
còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai
cũng chịu tài ứng biến nhanh. Ðĩnh
Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tôn thường
sai người đem mười quan tiền, rình
lúc tối bỏ vào cửa nhà ông
ấy. Sớm mai, ông vào tâu ngay với
vua, xin bỏ tiền ấy vào kho. Vua bảo
rằng: - Tiền ấy không có ai nhận
thì nhà ngươi cứ việc lấy
mà tiêu. Bấy giờ Mạc Ðĩnh
Chi mới lấy. Ðến triều
vua Hiền Tôn, làm nên đến chức
Tả bộc xạ (Tể tướng).
Văn chương lưu truyền lại
về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn,
Trực, cùng làm đến Ngoại lang.
Cháu là Ðịch, Toại, Viên cùng có
quyền thế, làm quan lúc nhà Minh cai trị.
Ðời cháu chắt thiên (dời) sang ở
làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương thì
có Ðăng Dung là cháu 7 đời, làm vua nhà Mạc.
Giữa nền trời biếc,
khói lan ra...
Sông nước mùa xuân óng mượt
mà
Tiếng quạ tường rêu kêu nắng muộn
Bóng chim đồng rộng
tiễn mây qua
Lửa chài thuyền cá soi vàm hẹp
Giọng hát tiều phu
vọng khoảng xa
Lữ khách cô đơn buồn áo
não
Rượu nồng chuếnh choáng, mắt cay nhòa.
Bài góp vui của Mai Xuân
Thanh
Bồng bềnh khói quyện
trời trong vắt,
Lấp lánh lăn tăn sóng biếc xuân.
Rộn rã quạ kêu nghe
xế bóng,
Chập chờn bóng nhạn khuất mây
từng.
Ghe chài ánh lửa soi dòng nước,
Gánh củi tiều phu hát
trước ghềnh.
Tê tái buồn thiu người lữ khách,
U tình cạn chén bước
gian truân...
Mai Xuân Thanh kính bút
góp thơ cùng quý anh chị thân mến
Ngày 31 tháng 12 năm 2014
Trời xanh khói trắng nổi bồng bềnh
Sóng gợn chiều xuân bến vắng tênh
Lũ quạ đầu tường kêu rộn rả
Nhạn bầy đồng quạnh lướt bay nhanh
Lửa thuyền chài loé trên sông lạnh
Tiều hát nghiêu ngao vẳng cuối ghềnh Lữ
khách dào dào buồn nét mặt Để
quên,mượn rượu giãi sầu tình
SONG QUANG Phỏng
dịch Đầu
năm góp lời 晚 景 Vãn
cảnh Cảnh
chiều 空 翠 浮 烟 色 Không thúy
phù yên sắc Trời xanh, khói trợ sắc;
春 藍 發 水 紋 Xuân
lam phát thủy văn Dòng biếc, nước khơi làn.
墻 烏 啼 落 照 Tường
ô đề lạc chiếu Quạ tường
réo nắng nhạt; 野 鴈 送 歸 雲 Dã
nhạn tống quy vân Nhạn đồng tiễn
mây lan. 漁 火 前 灣 見 Ngư
hỏa tiền loan kiến Bên vũng, chài nhóm
lửa; 樵 歌 隔 岸 聞 Tiều
ca cách ngạn văn Cách sông, tiều ca hoan.
旅 顏 悲 冷 落 Lữ
nhan bi lãnh lạc Khách
buồn, đìu hiu lắm; 借 酒 作 微 醺 Tá
tửu tác vi huân Rượu
nhạt, chếnh choáng toan. 莫 挺 之 詩 Mạc
Đĩnh Chi thi Danh
Hữu dịch Cùng các bạn, Trên
đây là bài thơ của Mạc Đĩnh Chi (1280-1346) được chép
trong Hoàng Việt Thi Tuyển, có lẽ ông làm trên đường đi
sứ, vì cảnh tả thường thấy trên các dòng thơ của
thi gia Tầu và đó là cảnh bên Trung quốc hơn là bên ta.
Trong thi pháp của thơ Đường luật là 8 câu 5 vần, thì nếu
bài thơ chỉ có 4 vần, tức câu đầu là vận trắc,
thì cặp câu ở đầu đó phải là một cặp đối,
đồng nghĩa với bài thơ có 3 cặp đối. Bạn đừng quên
nhé ! Bài thơ này có một
đặc điểm là toàn bài đều là những cặp đối,
tức có 4 cặp đối. Bài thơ
đã được bạn Lộc giới thiệu đâu tuần trước
mà hôm nay, nhân đầu năm rảnh rang tôi mới có dịp đọc
và nhân tiện gỏ lại và dịch luôn, tặng các bạn thưởng
thức mấy ngày đầu năm Dương lịch. Dịch thơ là giới thiệu một nội dung ở một ngôn
ngữ khác đến với người đọc, do vậy, ta nên cố gắng
giữ sao cho đạt mức trung thành tối thiểu với nội dung mà tác
giả đã diễn tả, nếu không là ta đã phạm lỗi làm
sai lệch nội dung của nguyên tác và tuy không ai bắt bẻ chúng
ta, cũng là chuyện không nên. Đầu
năm, viết vài lời tâm sự của một người chuyên làm
công việc dịch thơ, chỉ với thiện ý, xin đừng nghĩ khác.
Cũng nhân tiện đầu năm, xin gởi đến
quý bạn Thi Hữu, lời chúc <gồm vạn lời chúc trên thế
gian> để cầu mong tất cả chúng ta đều đầy những hy vọng
và hân hoan. Danh Hữu (Đại Paris, ngày 03 Janvier 2015) CẢNH CHIỀU Khói quyện bầu trời xanh
biếc, Sóng xuân nước
dợn lăn tăn. Quạ kêu
chiều rơi tường vắng,
Nhạn trời đưa tiễn phù vân.
Lửa chài bên vàm thấp thoáng,
Tiều phu cất tiếng cách sông.
Lữ khách buồn thân cô quạnh,
Giải sầu mượn chén đêm thanh !
Đỗ Chiêu Đức
_____________________________________________________________________________________________________________
Thu Dạ
Tức Sự
______________ Pham Tông Ngộ Bản dịch: Mailoc, Quên Đi
Cuối tuần xin chuyển đến qúi Bạn Thơ mộtcảm
tác của Phạm Tông Ngô , một thi nhân Việt Nam đời nhà
Trần , bài thơ đã để lại trong tôi nỗi xúc cảm đặc
biệt . Ai là khách ly hương mới nếm , mới thắm thiá cái
cảnh tịch mịch đêm thu nơi xứ người Phá
ốc khan tinh dạ vị ương
Tiêu tiêu tứ bích nhiễu hàn tương . Thanh đăng đối ảnh song bồng mấn, Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương
. Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn, Nguyệt phân dạ khí nhập song lương. Ky hoài lãnh khước hồn vô sự . Thời thính đình ngô lạc hiểu sương
. Nhà
dột trông sao, đêm vấn vương Nỉ non dế lạnh khóc quanh tường. Ðèn xanh đối bóng hai màu tóc, Sách cũ nao lòng một nén hương . Gió quyện tiếng thu luồn khóm lá . Trăng chia hơi mát tỏa bên giường, Tha hương lạnh cả lòng chăn gối, Sân vắng cành ngô lác đác sương
. Đêm khuya vắng nhìn sao mái rách , Dế tỉ tê than trách
bên tường . Cùng
đèn đối bóng tóc sương , Bên chồng sách cũ nhan hương
nao lòng . Tiếng
thu vẳng reo trong rừng thẩm , Trăng mơ màng , hơi lẩn
vào song . Tha hương
buốt giá tâm hồn , Cành ngô sương điểm mênh
mông sân ngoài Phạm Ngộ 范悟 cũng
thường gọi là Phạm Tông
Ngộ 范宗悟 hiệu Liêu Khê, sinh và mất
năm nào chưa rõ. Người hương Kính Chủ huyện Giáp Sơn,
phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, là anh em ruột của Phạm
Mại. Ông nguyên họ Chúc tên Kiên sau vì vua Trần Nhân Tông
cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn nên đổi làm
họ Phạm. Còn Kiên thì lại trùng với tên của Phán thủ
Huệ Nghĩa nên đổi làm Ngộ. Pham Ngộ tính tình
ngay thẳng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Bắt đầu vào triều
với chức Thị nội học sinh, dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329)
ông giữ chức Tri thẩm hình viện sự, sau được thăng Tả
ty lang trung rồi lại thăng Tri chính sự, đồng tri thượng thư tả
ty sự. Về thơ văn, sáng tác của Phạm Ngộ hiện còn
rất ít, tuy vậy cũng có thể nhận ra ở ông một ngòi bút
tả cảnh và trữ tình tinh tế, một thi vị man mác của người
hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời. Thơ ông rất cô đọng,
nhiều ý ít lời. Tác phẩm: hiện còn 8 bài thơ, chép trong
các bộ hợp tuyển. Bản dịch Quên
Đi: 秋夜即事
Thu Dạ Tức Sự 范宗悟
Phạm Tông Ngộ 破屋看星夜未央, Phá ốc khan tinh dạ vị ương 簫簫四璧遶寒螿。 Tiêu tiêu tứ bích nhiễu
hàn tương. 青燈對影雙蓬鬢, Thanh đăng
đối ảnh song bồng mấn, 黃卷論心一炷香。
Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương 風送秋聲隨樹遠,
Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn 月分夜氣入窗涼。
Nguyệt phân dạ khí nhập song lương. 羈懷冷卻渾無事,
Ky hoài lãnh khước hồn vô sự 時聽庭梧落曉霜。
Thời thính đình ngô lạc hiểu sương. Dịch Nghĩa : Chuyện Đêm Thu Ở
trong ngôi nhà rách nát, nhìn sao chưa qua nửa đêm. Quanh bốn
tấm vách, vang tiếng côn trùng thở than Bên ngọn đèn xanh,
đối diện với bóng, hai mái tóc rối bù Châm chú
vào quyển sách cũ vàng bên một thẻ nhang Gió tiễn tiếng
thu theo đám cây từ xa Trăng hắt hơi đêm vào cửa sổ
nghe mát mẻ Nơi quê người với cõi lòng lạnh vắng,
chán nản, không còn tha thiết đến chuyện gì Thỉnh thoảng
nghe từ cây ngô đồng ngoài sân giọt sương ban sớm rơi. Dịch Thơ Chuyện Đêm Thu Mái lủng nhìn sao đêm mới nửa Quanh nhà
tiếng dế não nùng than Bên đèn đối bóng
hai đầu bạc Trước sách chuyên tâm một thẻ nhang Thu
đến rừng cây trong tiếng gió Đêm len song cửa
lạnh trăng tàn Quê người buồn bả lòng ngơ ngẩn
Sương sớm sân ngoài từng giọt tan
Quên Đi _______________________________________________________________________________________________
QUI
CÔN SƠN CHU TRUNG CẢM TÁC Nguyễn Trãi ____________________________________________________________________________________ Quy Côn Sơn chu trung tác
Nguyễn Trãi Thập niên phiêu chuyển thán
bồng bình Qui tứ dao dao nhật tự tinh Kỉ
thác mộng hồn tầm cố lí Không tương huyết
lệ tẩy tiên oanh Binh dư cân phủ ta nan cấm Khách lí giang sơn chỉ thử tình Uất
uất thốn hoài vô nại xứ Thuyền song thôi chẩm
đáo thiên minh - Dịch nghĩa - Trong
thuyền về Côn Sơn cảm tác Mười năm phiêu
giạt than thân bồng bèo Lòng muốn về ngày
ngày lay động như đuôi cờ Bao lần nhờ chiêm
bao đi tìm làng cũ Luống đem nước mắt lẫn
máu rửa mồ tổ tiên Sau cơn binh lửa, thương
ơi, nạn búa rìu khó ngăn Non sông đất
khách chỉ đeo đẳng mối tình này Tấc lòng
bùi ngùi chẳng biết làm sao Nằm ở cửa sổ
thuyền trăn trở gối đến sáng --Bản dịch của Mailoc-
Thân
bèo giạt mười năm tất bật , Lòng mong về lất phất đuôi cờ . Gởi hồn quê cũ trong mơ , Muốn đem máu lệ rửa mồ tổ tiên .
Sau binh lửa búa rìu khó tránh ,
Nơi đất người canh cánh tình
quê . Tấc lòng sao mãi ủ
ê , Song thuyền trăn trở suốt
đêm dật dờ .
TRÊN THUYỀN VỀ CÔN SƠN Mười
năm trôi nổi thân bèo giạt Đau
đáu lòng riêng muồn trở về Khắc
khoải đêm mơ làng xóm hẹn Thiết
tha lệ rửa mộ bia thề Búa rìu
khó cản sau binh lửa Sầu nhớ khôn
cầm lúc giã quê Tấc dạ
bùi ngùi ai thấu hiểu Khoang thuyền
trằn trọc suốt canh khuya.
Phương Hà phỏng dịch Về Côn Sơn Trên Thuyền Viết
Mười năm trôi nỗi phận bèo bồng
Trở lại quê nhà dạ vẫn trông
Theo mộng hồn về thăm đất tổ
Máu tràn lệ nhỏ nhớ cha ông
Qua binh lửa nảy lời đàm tiếu
Ở xứ người tình vẹn núi sông
Ray rức tấc sầu khôn ngủ được Gối lay chờ sáng thức
bên song.
Quên Đi
Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Nguyễn Trãi__________________________________
Chuyển đến bạn thơ một cảm tác của Nguyễn Trãi
nói lên tâm trạng của mình sau bao năm loạn lạc trở về
quê nhà .Đọc lên tôi nghe dường như cũng là tâm sự
chính mình khi trở về quê bao năm xa cách . Loạn
hậu đáo Côn Sơn cảm tác Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác Nhất biệt
gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên Lâm tuyền hữu ước na kham phụ Trần thổ đê đầu chỉ tự liên Hương lí tài qua như mộng đáo Can qua vị tức hạnh thân tuyền Hà thời kết ốc vân phong hạ Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên Sau loạn về Côn Sơn cảm tác Từ giã
quê hương vừa đúng mười năm Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân Bao giờ được làm nhà dưới núi
mây Múc nước suối
nấu trà, gối lên đá mà ngủ Xa quê hương mười năm ròng rã , Nay trở về tùng nửa tàn phai . Suối rừng ước hẹn chẳng sai , Cúi nhìn cát bụi xót thay nỗi mình . Vừa qua làng tưởng chừng như mộng , Chiến chinh dài còn sống là may . Ước nhà xây giữa ngàn mây
, Pha trà gối đá
lăn quay ngủ vùi . Đỗ
Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây : 1. BẢN CHỮ
HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC 亂後到崑山感作 Nhất
biệt gia sơn kháp thập niên, 一別家山恰十年 Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
歸來松菊半翛然 Lâm tuyền hữu ước na kham phụ, 林泉有約那堪負 Trần thổ đê đầu chỉ tự liên. 塵土低頭只自憐 Hương lý tài qua như mộng đáo,
鄉里纜過如夢到 Can qua vị tức hạnh thân tuyền. 干戈未息幸身全 Hà thời kết ốc vân phong hạ, 何時結屋雲峰下 Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên 汲澗烹茶枕石眠 1. GIA SƠN 家山 : Nhà ở trên núi, thay vì
nói GIA HƯƠNG là Quê Hương, thì ông nói là GIA SƠN
vì Quê hương của ông là Vùng Núi. 2. KHÁP 恰 : Phó Từ chỉ Vừa Vặn,
Đúng Lúc.
3. NA KHAM 那堪 : Đây là từ BẠCH THOẠI lẫn trong VĂN NGÔN,
tức là Văn nói lẫn trong Văn Viết. Tiếng Hán Hiện Đại
vẫn còn sử dụng từ nầy. Có nghĩa : Làm sao mà..., Làm
sao có thể...
NA KHAM PHỤ : Làm sao mà Phụ rãi cho đành. Làm sao mà có
thể quên được !
4. TÀI QUA 纔過 : Phó Từ, cũng là Bạch Thoại, Tiếng Hán
Hiện Đại còn rất thông dụng từ nầy trong Đàm Thoại. TÀI QUA : là Mới vừa qua. Đáng
lẽ phải đọc là TÀI QUÁ, như DƯƠNG QUÁ trong Thần Điêu
Hiệp Lữ của KIM DUNG vậy, có bản dịch là DƯƠNG QUA. Tất
cả đều do bằng trắc mà thôi ! 5. CAN QUA 干戈 : CAN là Cái Mộc để đở,
QUA là ngọn Giáo để đâm. Một đâm một đở, chỉ
sự đánh nhau, nên CAN QUA nghĩa rộng là CHIẾN TRANH.
CẢM TÁC ĐẾN CÔN SƠN SAU BUỔI LOẠN LY. Rời xa quê hương vùng núi
nầy thoắt cái mà đã mười năm rồi. Nay về thăm lại
thì hỡi ôi những cây tùng và các khóm hoa cúc ngày
xưa đều đã tiêu điều quá nửa. Nhưng vì có ước
hẹn trước với rừng xanh và dòng suối nơi đây cho nên
phải quay trở lại ( không nở phụ ước ), cúi đầu nhìn
xuống đất quê nơi cố thổ mà tự cảm thương thân
mình lưu lạc . Làng xóm năm xưa vừa thoáng qua như trong cơn
mộng, chiến tranh còn dai dẵng chưa yên, may mà thân mình vẫn
còn được bảo toàn. Không biết đến bao giờ thanh bình
để được kết một mái tranh dưới đĩnh núi phủ
đầy mây trắng nầy, lấy nước suối để pha trà và
gối đầu lên các tảng đá mà ngủ ( 1 giấc cho ngon lành
! ).
Quê nhà cách biệt thoát mười năm, Tùng cúc
tiêu điều trở gót thăm.
Hẹn ước lâm tuyền sao
phụ rãy,
Cúi đầu cố thổ những bâng khuâng. Xóm làng
như mộng vờn qua đó,
Chinh chiến chưa yên chẳng lụy thân. Ước dưới núi
mây ta kết cỏ,
Suối trà gối đá ẩn lều tranh ! Xa quê thoắt
đã mười năm,
Tiêu điều tùng cúc âm thầm xót xa. Lâm tuyền
ước hẹn cùng ta,
Cúi nhìn đất Tổ quê Cha chợt buồn. Xóm làng
như mộng vấn vương,
Chiến tranh dai dẳng xót thương thân mình. Khi nào dưới
núi kết tranh,
Suối trà gối đá rừng xanh ngủ vùi !
HỮU SỞ CẢM (Phạm Đình Hổ) Bản dịch: Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức,
Quên Đi, Kim Phượng _______________________________________________________________________________________________________ Cùng Bạn Xin
gởi đến Bạn một bài thơ nửa của Phạm Đình
Hổ , ý thơ thật duyên dáng dễ thương . Phạm đình Hổ sinh năm Mậu Tý
(1768) người huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương .Từ nhỏ 9 tuổi ông đã
học Hán thư , nhưng chỉ đổ đến sinh đồ ( Tú
Tài) vào cuối đời Lê chiêu Thống . Trong thời loạn lạc
, vua LcTchạy sang cầu viện nhà Thanh , rồi Lê-Trịnh sụp đổ,
Tây Sơn cầm quyền , PĐH sống cơ cực dạy học ở quê
nhà. Năm 1821 Vua Minh Mạng ra Bắc, ông được triệu vào
Huế làm Hành tẩu Viện Hàn Lâm, được ít lâu ông
xin từ chức .. Năm Minh Mạng thứ 7 ( 1826 )vua lại triệu ông cho làm
Thi giảng học sĩ .Năm 1832 ông về hưu luôn , mất năm 1839 , thọ
71 tuổi . Trong thơ ông , bên cạnh
những bài viết về cái nghèo khổ , cái bất đắc chí
của mình ,cái tình cảm bạn bè cùng cảm quan lịch sử
còn có một số bài viết về các thiếu nữ trẻ trung ngây
thơ thật độc đáo . Chúc
tất cả an vui cuối tuần . Thân kính
Mailoc Hữu Sở Cảm Nguyên tác: Phạm
Đình Hổ 有 所 感 長安小兒女, 纖手丱丫鬟。 深閨不知苦, 猶掃落花看。 長安小兒女, 眉黛月雙彎。 為愛梅花潔, 臨風不覺寒。 長安小兒女, 花前獨倚欄。 只怕檀郎聽, 橫琴笑不彈。 Hữu Sở Cảm Trường An tiểu nhi nữ; Tiêm thủ quán nha hoàn. Thâm khuê bất tri khổ;
Do tảo lạc hoa khan. Trường An tiểu nhi nữ; Mi đại
nguyệt song loan. Vị ái mai hoa khiết; Lâm phong bất giác
hàn. Trường An tiểu nhi nữ; Hoa tiền độc ỷ
lan. Chỉ phạ đàn lang thính; Hoành cầm tiếu bất
đàn. --Bản dịch của Mailoc- Cảm
Xúc (1) Nơi Trường An một
cô bé gái Tay thon thon hai mái
bện dài . Phòng
khuê nào biết u hoài , Nhìn hoa rơi rụng sân ngoài quét chơi
. Nơi Trường An một cô
bé gái , Đôi mày cong
nguyệt hãy còn non . Vì
yêu mai đẹp trắng trong , Ngắm hoa quên lạnh gió đông
rạc rào .
Nơi Trường An một
cô gái nhỏ , Tựa
lan can bên đóa mai vàng . Ngại
ngần động đến tai chàng ,
Nhoẻn cười không
gẩy ôm đàn lặng yên . (2)
Trường An một gái
nhỏ , Ngón thon tóc
bện dài . Phòng
khuê nào biết khổ , Lặng nhìn quét hoa bay . Trường
An một cô bé , Trăng
non mày cong cong . Vì yêu nụ
mai hé , Quên lạnh
giữa gió đông .
Trường An cô gái nhỏ
, Bên hoa tựa lan can .
Sợ chàng tai thính rõ ,
Không gẩy cười
ôm đàn . GIAO CẢM Cô gái Trường An nho
nhỏ Đôi tay nâng bím tóc xinh Khuê
phòng biết chi là khổ Nhặt
hoa rụng trước hiên thềm.
Cô gái Trường An nho nhỏ
Mày cong như cánh cung trăng
Bởi yêu cánh mai trong ngần
Ra gió trời đông, chẳng rét.
Cô
gái Trường An nho nhỏ Một
mình tựa cửa ngắm hoa Ôm
ngang đàn cầm, không gảy Sợ
người yêu chợt đi qua !...
Phương Hà phỏng dịch. ( 20/10/2014 ) CÓ
NIỀM CẢM XÚC
Trường An cô thiếu nữ,
Tay ngọc bới tóc cao.
Phòng khuê nào biết khổ,
Quét hoa dạ chẳng nao !
Trường An cô thiếu nữ,
Mày trăng mới cong sao !
Thương mai hoa tinh khiết,
Gió bấc chẳng lạnh nào !
Trường An cô thiếu nữ,
Ngắm hoa tựa lan can.
Vì sợ chàng nghe ngóng,
Cười e ấp không đàn !
Đỗ Chiêu Đức
Diễn nôm Xúc Cảm
Cô nhỏ xứ Trường An Tay vấn tóc đôi hàng Khuê phòng sao biết khổ Quét
hoa rụng ngẩn ngơ
Cô nhỏ xứ Trường An
Đôi mày cong vành trăng
Yêu hoa mai trong trắng
Gió về không thấy lạnh Cô
nhỏ xứ Trường An Trước hoa đứng
dựa giàn Sợ tình lang nghe thấy
Ôm đàn cười chẳng khảy.
Quên Đi Cảm Xúc Người con gái Trường
An Đôi hàng tóc búi cao
Phòng khuê khổ nào biết Thong thả quét hoa rơi Cô gái nơi Trường
An Mày ngài vòng nguyệt cong
Lòng yêu nụ mai trắng Chẳng lạnh khi gió về Cô gái quê Trường
An Tựa lan can cạnh hoa Sợ tình lang nghe tiếng Chẳng
khảy ôm đàn cười
Kim Phượng
VÃN HỨNG (Nguyễn Trãi)
Cùng
Bạn. Cuối tuần xin gởi đến
bạn một bài thơ của Nguyễn Trãi ,cảm hứng trong chiều ở
thôn quê nghèo . Thân, Mailoc
Vãn hứng
Nguyễn Trãi Cùng hạng u cư khổ tịch
liêu, Ô cân trúc trượng vãn tiêu dao. Hoang thôn
nhật lạc, hà thê thụ. Dã kính nhân hi, thủy một
kiều. Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu
hận diệp tiêu tiêu. Quy lai độc bẵng lan can tọa, Nhất
phiến băng thiềm quải bích tiêu. - Dịch nghĩa - Hứng buổi chiều Trong ngõ cùng, ở nơi
vắng vẻ, buồn nỗi quạnh hiu, Khăn đen, gậy trúc đi dạo
chơi buổi chiều. Nơi thôn vắng, mặt trời xế, ráng đậu
trên cây, Con đường ngoài nội ít ngườiqua lại,
nước ngập cầu. Xưa nay thời gian không cùng như sông
chảy xuôi mờ mịt, Anh hùng mang hận như tiếng gió thổi
cây lá nghe vu vu. Trở về một mình ngồi tựa lan can, Một mảnh trăng sáng lạnh như băng treo trên nền trời biếc.
--Bản dịch của MaiLộc- Cảm hứng trong chiều
Quạnh quẽ thôn nghèo ngõ vắng sâu
, Khăn đen gậy trúc dạo
hồi lâu . Bóng chiều xóm
vắng cây vương ráng , Đường
ruộng người thưa nước ngập cầu . Kim cổ triền miên sông lặng lẽ , Anh hùng lận đận lá dàu dàu.
Một mình quay lại lan can tựa ,
Trời biếc lạnh lùng mảnh nguyệt
treo. Mailoc phỏng
dịch
Cảm Hứng
Khi Chiều Xuống Ngõ cùng
vắng vẻ chạnh buồn thiu Gậy
trúc khăn đen dạo cảnh chiều Đêm xuống xóm hoang cây đội ráng Đường quê người vắng nước leo cầu
Thời gian vô tận sông mịt mịt
Ôm hận anh hùng lá hiu hiu
Một bóng quay về lan can dựa
Giữa trời xanh biếc mảnh trăng yêu.
Quên Đi CẢM HỨNG TRONG
BUỔI DẠO CHIỀU Hoàng hôn xóm vắng buồn thiu Khăn đen, gậy trúc liêu xiêu bóng dài
Ráng chiều nhuộm ửng vòm cây
Đường xa quạnh quẽ , nước lay mặt
cầu Thời gian: dòng chảy trôi mau
Anh hùng ôm hận rầu rầu gió mang
Trở về, đứng tựa lan can Mảnh trăng sáng lạnh in vàng trời xanh.
Phương
Hà phỏng dịch CHIỀU CẢM
Ngõ
cùng quy ẩn giữa hoang liêu Gậy
trúc lang thang bước mỗi chiều Đường
vắng ráng soi tia lấp lánh Cầu
trơ nước ngập dáng xiêu xiêu Thời
gian lặng lẽ trôi mờ mịt Tiếng
lá rì rào nhuốm quạnh hiu Ngồi
trước hiên thềm nghe gió tắp Vầng
trăng sáng lạnh mảnh băng treo Nguyễn Đắc Thắng - 20140928
Đỗ Chiêu Đức tham
gia với các phần sau đây : 1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ " VÃN
HỨNG " : 晚興
VÃN HỨNG
阮豸
Nguyễn Trãi 窮巷幽居苦寂寥 Cùng
hạng u cư khổ tịch liêu, 烏巾竹杖晚逍遙
Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu. 荒村日落霞棲樹
Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ, 野徑人稀水沒橋 Dã
kính nhân hi, thủy một kiều. 今古無窮江漠漠 Kim
cổ vô cùng giang mạc mạc, 英雄有恨葉蕭蕭 Anh
hùng hữu hận diệp tiêu tiêu. 歸來獨凭欄杆坐 Quy
lai độc bẵng lan can tọa, 一片冰蟾掛碧霄
Nhất phiến băng thiềm quải bích tiêu.
2. DỊCH NGHĨA :
NIỀM CẢM KHÁI HỨNG KHỞI LÚC BAN CHIỀU
Ở chỗ thanh u trong hang cùng ngõ hẹp nầy chỉ khổ một nỗi là
quá tiêu điều vắng lặng, nên mỗi chiều ta đều chống
gậy trúc, bịt khăn đen rất tiêu dao mà ngắm cảnh chiều tà.
Cảnh thôn trang hoang vắng khi mặt trời chen lặn với ráng chiều như
còn lưu luyến trên các ngọn cây, và trên đường mòn
vắng vẻ người qua lại nầy, dòng nước như cuộn chảy ngập
cả cầu. Chuyện cổ kim xưa nay không dứt như dòng sông lờ
lững chảy hoài, còn mối hận của kẻ anh hùng thì cũng
xạc xào mãi như lá trong gió chiều. Ta trở về một mình
ngồi tựa lan can mà cảm khái trong bầu trời xanh biếc với mảnh
trăng treo lạnh lẽo ở tầng không.
3. DIỄN NÔM : VÃN
HỨNG
Ngõ hẹp hang cùng sống quạnh hiu,
Khăn đen gậy trúc vẻ tiêu diêu.
Ráng chiều thôn vắng mây vương ngọn,
Cầu ngập người thưa nước cuốn nhiều.
Kim cổ vô cùng sông cuộn cuộn,
Anh hùng ôm hận lá liu xiu.
Trở về ngồi tựa lan can ngắm,
Một mảnh trăng treo lạnh cả chiều !
Đỗ Chiêu Đức.
THU DẠ ( Nguyễn Du) Cùng Bạn , Bây
giờ trời đang vào thu , mới chớm Thu mà tiểu bang South Dakota Hoa Kỳ
tuyết đã rơi . Tình
cờ đọc hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du , lòng tôi thấy nao
nao cho tâm trạng của ông trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư
lánh nạn giữa thời ly loạn . Hai bài thơ nầy được trích
trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài ) nằm trong phần " Mười năm gió
bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê
vợ thuộc Thái Bình. Hai bài thơ buồn thật ! Nhân đây
xin Bạn lướt sơ lại ở phần dưới tiểu sử của cụ
Tiên Điền để thấy cái bối cảnh lịch sử thời
Lê-Trịnh -Tây Sơn -Nguyễn thời bấy giờ mà có lẽ phần
lớn chúng ta đã quên mất . Xin cám ơn Thân kính Mailoc
THU DẠ
(1) Phồn
tinh lịch lịch
lộ như
ngân , Đông bích
hàn trùng bi cánh tân Vạn
lý thu thanh thôi lạc diêp ,
Nhất
thiên hàn sắc tảo
phù vân . Lão lai
bạch phát khả
liên nhữ , Trú cửu thanh sơn
dạ yếm
nhân . Tối
thi thiên nhai quyện du khách ,
Cùng niên ngọa
bệnh Tuế
giang tân .
Dịch
nghĩa : Sao đầy
rõ mồn một , sương trắng
như bạc Vách
phía đông ,dế lạnh kêu buồn
thảm Muôn dặm
tiếng thu giục lá rụng Bầu trời màu lạnh
ngắt không một vần mây ,
Gìa rôi. làn tóc bạc
này trông mà đáng thương Ở mãi nơi đây núi xanh chưa
chán người Nhất
là du khách bên trời đã mõi mệt
Suốt năm đau ốm
nằm ở bến Tuế giang
Dịch
Thơ : Đêm Thu (1) Sương bàng
bạc sao trời
lấp lánh , Quanh tường đông
dế lạnh
sầu than . Tiếng thu lá
đổ dặm
ngàn , Bầu
trời lạnh
ngắt trong ngần
mây tan . Thương
nỗi mình mái đầu
bạc trắng
. Núi xanh đây chưa
chán chê người , Khách du thắm
mệt bên trời
, Cả
năm nằm bệnh
bên bờ Tuế
giang .
Mailoc phỏng dịch
THU DẠ
(2) Bạch
lộ vi sương
thu khí thâm , Giang thành
thảo mộc
cộng tiêu sâm . Tiền đăng độc
chiếu sơ
trường dạ
, Ác phát kinh hoài
mạt nhật
tâm . Thiên lý giang
sơn tần
trướng vọng
. Tứ
thời yên cảnh
độc trầm
ngâm . Tảo
hàn dĩ giác vô y khổ ,
Hà xứ
không khuê thôi mộ châm
. Dịch nghĩa
: Móc trắng thành
sương , hơi thu đã già Cây cỏ quanh thành bên sông đều
có vẻ tiêu điều . Một mình khêu ngọn đèn
trong ,đêm bắt đầu dài . Vắt tóc vẫn lo cho cái
chí nguyện trong những ngày chót . Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn
Phong cảnh bốn mùa
riêng mình ngậm ngùi Mới
rét mà đã thấy khổ vì không áo
, Nơi đâu tiếng
đập vải của người
khuê phụ rộn rã trong bóng chiều
. Dịch Thơ
: ĐÊM
THU (2) Móc như
sương hơi
thu lạnh ngắt
, Quanh thành sông xơ
xác cỏ cây . Đèn khêu độc
chiếu đêm chầy
, Ngổn
ngang chí nguyện tháng ngày lo toan .
Núi sông xa dặm
ngàn buồn ngóng , , Khói bốn
mùa một bóng sầu
mang . Lạnh
về không áo dao hàn ,
Tiếng
chày khuê phụ chiều
tàn giục mau .
Mailoc phỏng dịch (tài liệu lấy từ Wikipedia ) Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh năm Ất Dậu 1765- mất năm Canh Thìn 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh
Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp
hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ
nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc".
Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công
nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân
dịp 200 năm năm sinh của ông [1][2]. Tiểu sử[|
Theo gia phả của dòng
họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn
Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi
Hiên, có biệt hiệu là Hồng
Ngự cư sĩ đậu Nhị
giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư
đồ (Tể tướng), tước
Thượng thư bộ Hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần [3] (24 tháng 8 năm 1740 - 27 tháng 8 năm 1778), con gái một
người làm chức câu kế. Quê
làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện
Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba củaNguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được
năm con, bốn trai và một gái).[4][5] Tổ tiên của
Nguyễn Du có nguồn gốc từ
làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi
danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ
viễn tổ đã từng đỗ
đạt làm quan. Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo,
hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân
Quận công nên Nguyễn Du thời đó
sống trong giàu sang phú quý. Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tả tướng,
cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ thời gian này Nguyễn Du chịu
nhiều mất mát: Năm 1775 (Ất Mùi) anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời. Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời. Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ
Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ
hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều
(sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ
Hưng Hóa. mới 13 tuổi, Nguyễn
Du mồ côi cả cha lẫn mẹ
nên ông phải ở với người
anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi) Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của
Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn
Tây bị khép tội mưu loạn
trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở
nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được
một người thân của Nguyễn
Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón
về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn
Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn
Điều làm Trấn thủ Sơn Tây. Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu
Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ
là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông
được tập ấm chức
Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng
hậu của cha nuôi họ Hà ở
Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của
Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn
Khản đầu năm thăng chức Thiếu
Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Năm Giáp Thìn Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn
Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của
Nguyễn Khản ở phường
Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải
trốn lên ở với em là Nguyễn
Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc
bệnh rồi chết ở Thăng Long. Năm Kỷ Hợi (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.
Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ
(Quỳnh Côi, Thái Bình). Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với
Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây
Sơn nên bị bắt và bị
giết, dinh cơ họ Nguyễn ở
Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn
phá hủy. Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền
và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú
Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái
sử ở viện cơ mật
và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng
Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn
giữ chức Hiệp tán nhung vụ.
Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh
dự lễ nhường ngôi của
vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức
Tả đồng nghị Trung thư
sảnh. Mùa đông
năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định
theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn
Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở
Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông
có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm
hứng trong tù) Mùa
thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ
Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnhHưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường
Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các đại
học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước
Du Đức hầu và vào nhậm chức
ở kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh Mão1807 được cử làm giám khảo
kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn1808 ông xin về quê nghỉ. Năm Kỷ Tỵ (1809) ông được bổ chức Cai bạ
(hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình Năm Quý Dậu (1813) ông được thăng Cần chánh điện
học sĩ và được cử làm
chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được
thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
Năm Bính Tý ((1816)), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến
vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam. Năm (Canh Thìn) 1820 Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được
cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị
bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm Canh Thìn (1820) lúc 54 tuổi. Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải
táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh[6]. ĐÊM THU ( I
) Sao
sáng đầy trời, sương trắng trong Dế kêu sầu lạnh vách tường đông Tơi bời lá úa, thu se sắt Hiu quạnh trời buồn, mây vẩn không Tuổi ấy, ngậm ngùi làn tóc bạc Nơi này, trùng điệp núi non lồng Đường xa du khách chồn chân bước
Sông Tuế nằm xoài suốt cả năm
Phương
Hà phỏng dịch ĐÊM THU ( II )
Thu đã phai tàn, móc chuyển sương
Quanh thành, cây cỏ nhuốm thê lương
Đêm dài bên ánh đèn hiu quạnh
Ngày muộn trong sầu tư vấn vương
Nghìn dặm non sông, tim thổn thức
Bốn mùa phong cảnh, dạ buồn thương
Rét về không áo càng thêm khổ
Văng vẳng chày khua nơi cuối thôn.
Phương
Hà phỏng dịch
THU NHẬT KÝ HỨNG-Nguyễn
Du Cùng Bạn , Thu dường như ngập ngừng trước ngỏ , lòng khách
tha hương nhớ quê nhà da diết , thương thân phận mình nơi xứ người , rồi
bỗng nhiên giựt mình thấy cái già xồng xộc qúa nhanh . Thu
lại về , lá vàng tan tác đầy sân ! Tâm sự của Nguyễn Du cũng là tâm sự chúng
mình , ngơ ngác nhìn thời gian vun vút . Xin gởi đến Bạn cảm tác của thi nhân nhìn mùa
thu đến . Chúc an vui Thân kính Mailoc
Tây phong tải đáo bất
qui nhân ,
Đốn giác hàn uy dĩ thập
phần .
Cố quốc hà sơn khan lạc
nhật ,
Tha hương thân thế thác
phù vân .
Hốt kinh lão cảnh kim triêu
thị ,
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
.
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập ,
Mãn
đình hoàng diệp lạc phân phân ,
Gió
tây mới đến người chưa về ,
Mà đã
thấy khí trời lạnh lắm .
Non sông nước
cũ trông vẻ chiều tà
Thân thế đất
người gửi đám mây nổi
Hôm nay chợt
sợ cảnh già ,
Đêm qua nghe tiếng thu ở đâu
nổi lên .
Cười mình đầu bạc vụng
thu xếp ,
Đầy sân lá vàng rụng tơi bời !
Gió tây
vừa đến , khách tha hương ,
Đã thấy
lạnh lùng với tuyết sương .
Quê cũ núi
sông chiều bóng xế ,
Xứ người thân
thế áng mây nương .
Hôm nay bỗng sợ
cái già tới ,
Đêm trước đâu về
tiếng nhạc vương .
Đầu bạc cười mình
còn vụng tính ,
Tơi bời sân trước
lá thu vàng .
Người
chưa về gió tây đang tới ,
Trời căm
căm lạnh với tuyết sương .
Cố hương
sông núi chiều vương ,
Quê người thân
phận mây nương la đà .
Hôm nay kinh cái
già mau quá !
Tiếng thu dường trong lá đêm
qua .
Bạc đầu chưa ổn cười ta ,
Vàng
bay lác đác , lá đà đầy sân !
Gió tây thổi
đến, bóng người xa
Trời chuyển lạnh dần,
sương tuyết pha
Non nước quê xưa chiều nắng nhạt
Tấm
thân đất khách bóng mây nhoà
Giật mình
nghĩ cảnh già đang tới
Ngơ ngẩn nghe mùa thu mới
qua
Đầu bạc vẫn còn luôn vụng tính
Tơi
bời lá rụng khắp sân nhà.
Ửng đỏ chân trời rạng
góc xa
Lơ thơ cành lá gió mưa pha
Sân
ngoài lững thững màn đêm nhạt
Cổng trước
lao xao vệt nước nhòa
Mấy đóa mùa ngâu mai
mới nở
Vài con chim khách bóng vừa qua
Trời
thu lạc lõng màu hoa tết
Điểm xuyết làm thêm
lạ cảnh nhà .
Thân gởi anh Mai Lộc và các bạn
trong Góc Việt Thi Bài
thơ mà anh Mai Lộc giới thiệu tuần này là bài của Nguyễn
Du, trích trong tập Nam Trung Tạp Ngâm. Thơ Nguyễn Du không dễ dịch,
vì thường là thơ ngụ ý, tức mượn cảnh mà bày
tỏ ý mình. Bài thơ làm tại đất thần kinh, tức ở
Huế, sau vụ xử Nguyễn Thành khiến ông này phải tự tử và
anh rể ông là Vũ Trinh bị vào tù. Ông không dám xin nghỉ
lúc ấy vì sợ bị khép tội đồng lõa, sau này ông
bị bệnh nhưng không chịu uống thuốc, và để con bệnh giết
ông.
西風纔到不歸人 Tây
phong tài đáo, bất quy nhân;
頓覺寒威已十分 Đốn
giác hàn uy dĩ thập phần.
故國河山看落日
Cố quốc hà sơn, khan lạc nhật;
他鄉身世托浮雲 Tha
hương thân thế thác phù vân.
忽驚老境今朝是 Hốt
kinh lão cảnh, kim triêu thị;
何處秋聲昨夜聞 Hà xứ
thu thanh, tạc dạ văn.
自哂白頭欠收拾
Tự thẩn bạc đầu, khiếm thu thập;
滿庭黃葉落分分
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.
Gởi chút hứng nhân ngày thu
Gió
tây vừa thổi, đã đâu về
Cái rét dầu
hay, rất tái tê !
Nước cũ sơn hà, nom bóng
tắt;
Tha hương thân thế, gởi mây quê.
Thoáng
e cảnh lão, sáng nay bổng ...
Nào xứ, tiếng thu,
đêm qua nghe ...
Tự diểu bạc đầu, thu nhập ít,
Ngập
sân, lác đác, lá tư bề.
Bài thơ này trích
trong tập Nam Trung Tạp Ngâm, là tập thơ tác giả làm trong những
ngày làm quan ở Huế. Bài thơ tuy không ký chú về trường
hợp sáng tác, nhưng xét ý thơ thì chắc chắn là ông
làm lúc anh rể ông, là Vũ Trinh, bị liên can và phải vào
ngục trong vụ Nguyễn Thuyên, Nguyễn Thành. Câu một : Gió tây (ở đây là chỉ Giặc rợ
Hồ đến từ hướng tây, theo thơ Đường), là ám chỉ
vụ bê bối chính trị, gió tây mới vừa thổi mà đã
đâu phải xin về (tức trốn chạy). Bất quy là không xin nghỉ
hưu. Câu hai : Gió tây (đối
với nước Tầu là rất lạnh). Tác giả muốn bảo là :
tuy cũng biết ở lại là phải chấp nhận rủi ro, vì cái lạnh
đó rất ác, có thể nguy đến tính mạng (dĩ thập phần)
Câu ba : Tác giả đã chứng kiến
cảnh nhà Lê bị tan tác (lạc nhật). Cố quốc hà sơn là
sơn hà của nước cũ tức nhà Lê. Khan lạc nhật là chứng
kiến cảnh vua bị truất phế. Câu
bốn : Tác giả phải trốn chạy đến nơi khác. Tha hương
là quê khác, chỗ khác, và tác giả lúc đó, chỉ
còn biết phó thác cho cuộc sống tạm bợ; phù vân là
cuộc sống trôi nổi. Câu năm
: Cảnh già đáng sợ, sáng nay mới chợt biết. Hàm ý là
nếu mình mà xin nghỉ hưu thì cảnh già đến, mình sống
ra làm sao (tức nói không lương bổng thì sống bằng gì).
Hàm ý là mình đã kinh qua cái thời trẻ, bỏ quan trốn
chạy, không lương hướng, sống thất thểu qua ngày. Câu sáu : là nhắc tích Trương Hàn,
khi nghe gió thu đến thì bỗng nhớ quê, nhớ món gõi cá
vược mà xin từ quan, vua gọi cũng không quay lại. Hà xứ là
nói một xứ khác, không phải xứ mình. Tạc dạ văn là
đêm qua đọc thơ mà biết được chuyện xưa Trương
Hàn. Câu bảy : Tự thẩn là
mỉm cười một mình : Cười mình bạc đầu mà chẳng
để dành được gì nhiều. Muốn nói là mình thu nhập
kém, nếu xin nghỉ hưu thì lấy gì sống. Câu kết : Lá vàng lác đác mà đã
rơi đầy sân. Ngụ ý cái việc ông không rút lui mà
lời bàn tán của thiên hạ đã như lá vàng ngập cả
sân. Hàm ý có nhiều chê trách. Bài thơ này tóm lại, là bài thơ
ông tự thanh minh việc ông không rút lui khi anh rể ông bị vua Gia
Long bắt bỏ tù vì tội bênh học trò. Vài
hàng góp ý gởi đến các bạn đọc chơi. Danh Xin được góp mặt , dù muộn
, để thay lời cám ơn anh Mai Lộc đã cho đọc một bài
thơ hay của Nguyễn Du và bác Danh Hữu về ý nghĩa chìm của
nguyên tác.
Chớm thu người vẫn chưa về được ,
Trời lạnh mùa sang thấu nỗi hàn.
Nước cũ núi sông nhìn nắng tắt ,
Tha hương thân thế gửi mây tan.
Sáng nay chợt ngại cảnh già lão,
Đêm trước thoảng nghe gió thở than.
Tóc trắng cười ta thu vén vụng ,
Đầy sân lả tả lá rơi vàng. Ngày Thu cảm Hứng
Gió
tây đến người chưa về Bầu
trời lạnh buốt tái tê cõi lòng Trông chiều nhớ nước núi sông Xứ người trôi nổi lòng vòng mây trôi Tấm thân gầy guộc già rồi Đêm qua nghe tiếng thu rơi não buồn
Bạc phơ mái tóc hoàng hôn
Đầy sân lá rụng thu buông gió
sầu Trầm Vân
_________________________________________________________________________________________
TIÊN DU TỰ ( Nguyễn Trãi,
Chu Văn An) Bản dịch: Mailoc, Phương Hà, Chân Diện Mục, Trầm Vân
Cùng Bạn , Xin chuyển đến bạn hai bài thơ của hai thi nhân
khét tiêng trong văn học nước nhà , đó là hai cụ Nguyễn
Trãi và Chu Văn An . Tuy trong cùng một bối cảnh núi Tiên Du nhưng
hai người tâm trạng mênh man khác nhau , một người vội vã
lên chùa để lễ Phật , một người ung dung thong thả dạo
núi trong đêm trăng đẹp lòng an nhiên tự tại . Cả
hai bài đều tuyệt vời , hồn thơ lai láng . Thân kính Mailoc
Tiên
Du tự
Nguyễn Trãi Đoản
trạo hệ tà dương, Thông thông yết thượng phương. Vân quy Thiền sáp lãnh, Hoa lạc giản lưu hương. Nhật mộ viên thanh cấp, Sơn không trúc ảnh trường. Cá trung chân hữu ý, Dục ngữ hốt hoàn vương (vong). -- Dịch nghĩa:-- Chùa Tiên Du (1) Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế Vội
vàng lên chùa lễ Phật Mây kéo về làm
lạnh giường Thiền Hoa rụng xuống khiến dòng
suối thơm. Chiều hôm tiếng vượn kêu rộn Núi trống và bóng trúc dài ra Trong cảnh
ấy thật có ý Ta muốn nói ra bỗng lại quên
lời. (1) Còn có tên là chùa Vạn Phúc,
chùa Phật Tích; nay thuộc tỉnh Bắc Ninh --Bản
dịch của nhóm Đào Duy Anh:(2)-- Bóng xế thuyền
con buộc, Vội lên lễ Phật đài. Mây về giường
sãi lạnh, Hoa rụng suối hương trôi. Chiều tối
vượn kêu rộn, Núi quang trúc bóng dài. Ở
trong dường có ý, Muốn nói bỗng quên rồi.
(2) Trong Nguyễn Trãi toàn tập, Ức Trai thi tập
--Bản dịch của MaiLộc- Buộc con thuyền
trời đà bóng xế , Bước
vội vàng lên lễ Phật đường . Giường sư lạnh lẽo mây vương , Hoa trôi trên suối đưa hương khắp vùng
. Chiều dần tối vượn rừng
lanh lảnh , Bóng trúc dài
quang tạnh núi trong . Dường
như cảnh cũng ý lòng , Lời
đâu quên mất nên không tỏ bày .
Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng
kính
Chu Văn An Hoãn hoãn
bộ tùng đê, Cô thôn đạm ái mê. Triều
hồi, giang địch quýnh, Thiên khoát, thụ vân đê. Túc điểu phiên thanh lộ, Hàn ngư dược bích khê. Xuy sinh hà xứ khứ, Tịch mịch cố sơn tê (tây). Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi
Tiên Du Lững thững dạo chơi trên đê tùng Làn mây nhạt che khuất làng hẻo lánh Triều
xuống tiếng địch trên sông nghe xa vắng Trời
rộng, mây là là ngọn cây Chim về tổ bay qua
sương mát Cá gặp lạnh nhảy dưới khe trong Người thổi sáo đi đâu vắng? Để
núi tây cũ thêm quạnh hiu. ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI TIÊN DU (1) Trên
đê tùng , dạo chơi thong thả , Làn khói mờ che cả cô thôn . Triều hồi , địch vẳng bến sông , Trời quang mây lượn ngàn thông la đà
. Chim xao động sương ngà
đêm mát , Nước lạnh
tanh cá quạt khe trong . Tiếng sênh
im bặt mênh mông , Núi xưa
hiu quạnh trời không một màu . Mailoc
phỏng dịch (2) Lửng thửng trên bờ thông , Sương khói mờ cô thôn . Triều lui tiếng sáo vẳng , Trời tạnh rừng mây lồng . Sương rung chim lũ lượt , Cá lạnh quẫy khe trong . Sênh ai vừa bặt tiếng , Non
cũ quạnh trời không
Mailoc -- Chu Văn An 朱文安 (1292-1370)
hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh Triệt, tên
thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là
huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan,
chỉ ở nhà dạy học.Học trò theo học rất
đông, trong số đó có Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát. Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông
mới nhận chức Quốc Tử Giám tư nghiệp,dạy
cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà
vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần
thì lộng quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn
dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua
không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại
núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện Chí Linh . Ông
mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần Nghệ
Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt
tên thuỵ là Văn Trinh. Tác phẩm: Chu Văn An
từng có những tác phẩm như: Thất trảm sớ,
Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết
ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được
12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục. PHƯƠNG HÀ phỏng dịch: Phương Hà xin được góp bài phỏng
dịch cùng anh Mai Lộc: I/ Phỏng dịch bài TIÊN DU TỰ của Nguyễn
Trãi CHÙA TIÊN DU Buộc mái chèo trong bóng xế tà
Lên chùa vội vã một mình ta
Giường Thiền mây phủ màn vương
lạnh Suối mát hoa rơi hương
thoảng xa Vượn hót rộn vang chiều
tối muộn Núi in dài trải bóng
tre già Cành tình ẩn chứa muôn
ngàn ý Muốn nói mà sao khó
thốt ra Phương
Hà phỏng dịch II/ Phỏng dịch bài NGUYỆT TỊCH BỘ TIÊN DU SƠN TÙNG
KÍNH của Chu Văn An DẠO BƯỚC ĐÊM TRĂNG TRÊN NÚI TIÊN
DU Trên
đê, dạo bước dưới hàng thông Mây nhạt che mờ xóm cuối thôn Tiếng địch xa đưa triều nước xuống Ngọn cây mờ phủ áng mây lồng
Chim bay về tổ sau sương lạnh Cá quậy bên khe dưới nước trong
Người thổi sáo đâu sao chắng thấy
Non tây hiu quạnh mãi hoài trông.
Phương Hà
phỏng dịch Bản dịch
C.D.M & Trầm Vân: ĐÊM
TRĂNG DẠO BƯỚC DƯỚI RẶNG THÔNG NÚI TIÊN DU Lững thững
dưới hàng thong Thôn ngủ dưới
mây hong Nước ròng tiêu réo
rắt Trời rộng cây mây long
Chim ngủ sương thánh thót Cá nhảy dưới khe trong Tiếng tiêu đà xa vắng Cô đơn núi lạnh lung
C.D.M.
Chùa Tiên Du Bóng chiều buộc chiếc
thuyền con Vội lên lễ Phật thả
buông muộn phiền Mây về kéo
lạnh giường thiền Suối trôi
hoa rụng hương mềm cánh trôi Vượn
kêu trời đã tối rồi Núi
xanh bóng trúc dài khơi nỗi niềm Cảnh dường muốn tỏ niềm riêng Lòng ta muốn nói lại quên mất lời Trầm Vân
Dạo Bước Tiên Du Trên đê dạo
dưới hàng thông Khói mờ che
cả cô thôn gió lồng Triều
hồi tiếng địch ru sông Là
đà cây biếc mây bồng bềnh trôi Chim bay về tổ, sương rơi Dưới
khe quá quẫy bồi hồi nước trong Đâu
người thổi sáo ru lòng Non tây
hiu quạnh ngóng trông u hoài Trầm
Vân ___________________________________________________
THUẬT HOÀI - Đặng Dung Bản dịch: Tản Đà,
Phan Kế Bính, Đào Hữu Dương, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
Chân Diện Mục, Trầm Vân
Cùng Bạn
Xin chuyển đến Bạn một bài thơ
của một Thi nhân Tráng sĩ đời nhà Trần đã làm
biết bao thi nhân đời sau rung động cảm khái , đó
là Tráng Sĩ Đặng Dung . Thân
kính Mailoc THUẬT
HOÀI
Đăng
Dung Thế sự du du nại lão
hà , Vô cùng thiên
địa nhập hàm ca . Thời lai đồ điếu thành công dị , Vận khứ anh hùng ẩm hận đa .
Trí chúa hữu hoài phù địa
trục , Tẩy binh vô
lộ vãn thiên hà . Quốc thù vị báo đầu tiên bạch , Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma .
Dịch nghĩa :
Cảm
Hoài Việc đời dằng
dặc mà mình đã già mất rồi (Vậy nên ) Đất Trời mênh mông thu lại la một
cuộc say hát mà thôi . Gặp
thời bọn giết heo , bọn câu cá cũng thành công dễ ,
Nhưng lỡ vận thì anh hùng cũng
đành nuốt hận nhiều Giúp
chúa có lòng đỡ trục đất Nhưng tiếc rằng rửa binh không có đường kéo sông
trời Nợ nước chưa báo
đầu đã sớm bạc Tiếc
thay đã bao phen mài gươm Long Tuyền dưới ánh trăng
--Bản dịch của Tản Đà- Việc đời man mác tuổi già thôi !
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
. Gặp gỡ thời cơ may những
kẻ Tan tành sự thế luống
cay ai . Phò vua bụng những mong
xoay đất , Gột giáp sông
kia khó vạch trời . | Đầu bạc giang san thù chưa trả , Long Tuyền mấy độ ánh trăng soi .
--Bản dịch của Phan kế Bính -
Việc đời bối rối tuổi già vay ,
Trời Đất vô cùng một cuộc say .
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay .
Vai khiêng trái đất mong phò chúa ,
Giáp gột sông trời khó vạch mây
. Thù trả chưa xong đầu đã
bạc , Gươm mài bóng nguyệt
biết bao rày . -- Bản dịch của Đào hữu Dương -
Tuổi
già lận đận nỗi tình đời , Vô tận vần xoay khoảng đất trời Ti tiện gặp thời lên chẳng khó , Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi .
Vác non phò chúa trên vai nặng ,
Gột giáp qua mây mặt nước trôi
Thù nước chưa xong đầu sớm bạc
, Dưới trăng mài kiếm mấy
thu rồi . --Bản dịch của Mailoc- Lê thê thế
sự , đã già mất ! Rượu
ngà ngà trời đất cùng say . Lên voi , đê tiện thời may , Anh hùng tàn vận đắng cay muôn phần . Vai phò chúa mong vần trục đât , Nước thanh bình rửa giáp sông Ngân .
Quốc thù chưa trả bạc đầu !
Dưới trăng loang loáng bao lần mài
gươm . Bài thơ đã mở đầu bằng một
câu bi phẫn của thi nhân tráng sĩ , ngao ngán cho việc đời còn
ngổn ngang , mà tuổi mình đã già mất rồi ! Bi phẫn rồi
lại ngậm ngùi , thôi thì chỉ còn chén rượu say say nghêu
ngao với đất trời .Gợi hình nhất ở hai câu cuối : hình
ảnh một tráng sĩ bạc đầu mài gươm loang loáng dưới
ánh trăng . Một bài thơ đã khiến bao nhiêu người cảm
khái ! ĐẶNG DUNG sinh và mất năm nào
không rõ chỉ biết ông người huyện Can Lộc , tỉnh Nghệ An
. Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần . Khi quân
Minh do Trương Phụ xăm chiếm nước ta , năm 1407 Đặng Tất cùng
đồng liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế
chống quân Minh . Nhưng GĐĐ nghe lời xiểm nịnh giết cả Đặng
Tất và Nguyễn Cảnh Chân . Đặng Dung và Nguyễn cảnh Dị,
con của Nguyễn cảnh Chân vì đại cuộc , quên thù nhà, đem
quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa , tôn Trần Qúy Khoách lên
làm vua , đó là Trùng Quang Đế , để tiếp tục sự nghiệp
chống Minh . Chiến công đáng ghi nhớ trong đời ông là một
lần đánh úp doanh trại quân Minh trong một đêm tháng 9 năm
1413 , ông và một tướng khác là Nguyễn Súy cầm đầu
một toán xung kích nhảy lên thuyền giặc định bắt sống tướng
Minh ,nhưng Trương Phụ nhờ đêm tối đã thoát hiểm .
Thời bấy giờ nghĩa sĩ tham gia kháng
chiến rất đông như kẻ sỉ cương cường Nguyễn Biểu
(*) tráng sĩ Nguyễn Súy v..v..nhưng nghiêp nhà Trần đến hồi
suy , các cuộc khởi nghĩa đều thất bại , Trùng quang Đế
và ông đã bị bắt . Trên đường giải về Yên Kinh
ông và nhà vua đã nhảy xuống sông tự vận .
(*) NGUYỄN BIỂU :
người huyện La Giang tỉnh Hà Tỉnh , thi đổ Thái Học Sinh ( Tiến
Sĩ) khoảng năm 1357 cuối đời nhà Trần , ông làm quan đến
chức Điện Tiền Đô Ngự Sử , cùng thời với Đặng
Dung và Nguyễn cảnh Dị . Trong
cuộc khánh Minh , nhiều lần thất bại , ông được cử làm
sứ giả gặp Trưong Phụ , để mong mua thời gian xây
dựng binh lực. Tướng Minh là Trương phụ tiếp sứ thần một
cách ngạo mạn , sai quân đem ra một cái đầu người luộc
chin , ép NB ăn , NB ung dung ngồi vào mâm và nói rằng :" Mấy
khi được ăn thịt người phương Bắc( người Tàu ), nói
đoạn lấy đủa khóet đôi mắt , chấm muối ăn một cách
ngon lành , vưà ăn vưà ngâm bài thơ Cổ đầu người
khiến Trương Phụ kính phục toan tha về .Hàng tướng là Phan
Liêu lại ton hót rằng Nguyễn Biễu đã nói " Năng sảm
nhân đầu , năng sảm Phụ "(ý nói nuốt được đầu
người , cũng có thể nuốt tươi Trương Phụ ) .TP giận
lắm , đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại . Đối được
thì cho về bằng không phải chém . NB ung dung đối lạirằng
" Hựu tồn ngô thiệt , hựu tồn Trần "( Còn ba tâc lưỡi
của ta , Nhà Trần vẫn còn ). TP đổi ý không tha nữa lại
sai cắt lưỡi ông : Thử để xem cắt lưỡi nó đi , nhà
Trần có còn được nữa không ? Đoạn trói ông vào
chân cầu cho thủy triều lên dìm chết Thật là một tấm
gương anh hùng để ngàn thu , một cái chết đau thương
để chúng ta thấy sự bào tàn dã man của Tàu
Hỡi những ai còn mê muội , hỡi những
kẻ ương hèn hãy nhìn rõ , chỉ có gươm khua máu đỗ
mới bảo vệ được giang sơn gấm vóc mà tổ tiên ta đã
bao đời xây dựng. Mong
lắm thay ! ĐỖ CHIÊU
ĐỨC: Xin được trình bày lại bài thơ " Thuật Hoài "
của Đặng Dung như sau :
述 懷
THUẬT HOÀI 世事悠悠奈老何
Thế sự du du nại lão hà ! 無窮天地入酣歌
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. 時來屠釣成功易
Thời lai đồ điếu thành công dị, 運去英雄飲恨多
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. 致主有懷扶地軸
Trí chúa hữu hoài phù địa trục, 洗兵無路挽天河
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà. 國讎未報頭先白
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, 幾度龍泉戴月磨
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !
Xin được dịch nghĩa từng câu như sau : 1. Việc
đời còn dằng dặc mà ta đã già mất rồi, biết sao
đây ! 2.Trời đất
mênh mông như đắm chìm trong cuộc rượu hát ca. 3.Khi gặp thời, người làm
nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ dàng thành công,
4.Lúc lỡ vận, nhiều bậc
anh hùng cũng đành phải nuốt hận mà thôi !
5. Hết lòng giúp chúa, những
mong đỡ lại trục trái đất . ( xoay lại thời cuộc ).
6.Rửa vũ khí vì đã
hết đường, nhưng làm sao kéo sông Ngân xuống được
( để rửa ! ).
7.Thù nước còn chưa trả mà mái tóc đã sớm
bạc phơ, 8.Biết
bao phen mang gươm Long Tuyền ra mài dưới bóng trăng rồi !
Thưa Thầy,
Câu 6 có xuất xứ ( lớn lắm ! ) như sau :
Điển tích lấy từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa
khí giới) của Đỗ Phủ:
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà;
安得壯士挽天河,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. 淨洗甲兵長不用.
Dịch
nghĩa:
Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước
sông Ngân xuống (dịch chữ thiên hà); Rửa sạch khí giới
và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa. ( Ý
chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân
chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế
thì đâu có được người như thế ! ) DIỄN NÔM :
THUẬT
là Kể lại, là Bày tỏ.
HOÀI là Vòng tay, là Lòng dạ.
THUẬT HOÀI là
BÀY TỎ NỖI LÒNG
Thế sự còn vương đã lão rồi,
Đất trời say khước hát ca chơi.
Có thời câu cá thành công dễ,
Hết vận anh hùng nuốt hận thôi.
Giúp chúa những mong xoay lại cuộc,
Bãi binh còn muốn kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,
Mài mãi Long Tuyền dạ chẳng nguôi !
Đỗ Chiêu Đức
diễn nôm.
Bản dịch
Chân Diện Mục NỖI LÒNG
Rối
nùi việc nước đã già sao Tay
kiếm tay ly níu hỏi trời Thời may
kẻ dở thành công dễ Vận hết
ta đây luống ngậm ngùi Phò
chúa lòng mong xoay thế cục Khôn
hay rửa giáo giữa sông trời Nửa
đường đầu bạc , ôi đầu bạc Mài kiếm trông trăng mấy độ rồi
C.D.M. Bản dịch Trầm Vân
Bày Tỏ Nỗi Lòng Việc đời chưa
dứt đã già rồi Nâng chén
tiêu sầu rượu đỏ môi Nghèo
khó gặp thời lên mộng dễ Anh
hùng lỡ vận nuốt hờn thôi Giữ
lòng giúp Chúa mong xoay cuộc Nung
dạ vung đao muốn kéo trời Chưa
báo quốc thù đầu đã bạc Long Tuyền mài mãi ánh trăng trôi Trầm Vân
THÔN CƯ Nguyễn Sưởng Bản dịch/phỏng dịch: Vôdanh,
Mailoc, Phương Hà Cùng
Bạn Xin chuyển đến Bạn một
bài thơ của Nguyễn Sưởng . Cụ đã vẽ lên bức tranh vừa
mơ màng vừa dễ thương cuộc sống an nhàn ngày xưa ở
thôn quê : ngày tai lắng tiếng chim ca , mơ màng theo giậu thúc
phất phơ gió mát, đêm có trăng với bóng hoa lồng, có
những ván cờ tướng chậm rãi hào hứng đang tính nước
nát óc , khi bước về nhà thì đã ngà ngà say chân đá
chân xiêu chập chờn nửa mơ nửa tỉnh, tai đã văng vẳng
tiếng gà eo óc nhà gần bên .Trời gần sáng. Ôi tuyệt
vời cuộc sống thanh bình thơ mộng của thôn quê ta ngày
xưa ! Nguyễn Sưởng hiệu là Thích Liên sống cùng thời
với Trần Quang Triều , Nguyễn Trung Ngạn, có làm quan dưới triều
Trần , nhưng sớm chán công danh , lui về vui với bầu bạn và thiên
nhiên. Ông tham gia thi xã Bích Động . Tác phẩm lưu lại
chỉ mấy bài thơ . Thân kính
Mailoc
THÔN
CƯ
Nguyễn Sưởng Thông thông xuân
dĩ hạ , Thụ để điểu
thanh mang . Thiềm nguyệt hoa di ảnh
, Song phong tá trúc lương .
Vi kỳ nhàn đắc địa ,
Đối
tửu túy vi hương . Hoán
xuất Hoa tư quốc , Lân kê
cách đoản tường .
Dịch thơ : Thấm thoát xuân qua đã lại hè , Vòm cây ánh ỏi tiếng chim quê . Giậu trúc phất phơ hơi mát thoảng , Thềm trăng lẩn thẩn bóng hoa xê . Cuôc cờ thủng thỉnh thêm cao nước ,
Chén rượu ngà ngà dẫn lối về
. Chập chờn sực tỉnh Hoa tư mộng
, Một tiếng gà bên xóm gáy
te .
Vô danh Ở LÀNG
Lật bật hè về xuân lại qua ,
Trong vườn ríu rít tiếng chim ca .
Thềm trăng chầm chậm bóng hoa chuyển
Bụi trúc dật dờ gió tối
xoa Thong thả cuộc cờ đang tính
nước , Lâng lâng chén rượu
lúc về nhà . Mơ màng
chợt tỉnh Hoa tư mộng , Eo óc
tường bên một tiếng gà .
Mailoc phỏng dịch SỐNG Ở THÔN
QUÊ Thoáng chốc
xuân tàn, hạ đã sang Trong vòm,
chim chóc hót ca vang Ánh trăng in bóng
chùm hoa muộn Làn gió đung đưa
khóm trúc vàng Thanh thản cuộc
cờ, tâm sảng khoái Say sưa chén
rượu, dạ bình an Hồn mơ chợt
tỉnh, rời cơn mộng Một tiếng
gà sau bức giậu ngang.
Phương Hà phỏng dịch ____________________________________________________________________________________________
CỔ LOA HỮU CẢM Chu Mạnh Trinh________________________ Cùng Bạn Cuốituần xin
chuyển đến Bạn một bài thơ của Chu Mạnh Trinh , tôi thấy
hay hay và ý nghĩa nênlấy từ internet xuống mời các Bạn đọc
chơi giải khuây cuối tuần . Thân
mến Mailoc 古螺有感
| Cổ Loa hữu cảm
Chu Mạnh Trinh | 郎君情重父恩深, 不白奇冤直到今。 機爪無靈龜亦去, 明珠有淚蚌猶沉。 黃碑古樹千年國, 碧海遙天一片心。 寂寞前朝宮外廟, 杜鵑啼斷月陰陰。 |
Lang quân tình trọng, phụ ân thâm Bất bạch kỳ oan trực đáo câm. Cơ trảo vô
linh quy diệc khứ, Minh châu hữu lệ bạng do trầm.
Hoàng bi cổ thụ thiên niên quốc, Bích hải dao thiên
nhất phiên tâm. Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu, Ðỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm... |
CỔ LOA HỮU
CẢM Ơn cha sâu , tình
chàng một khối , Biết bao giờ
giải mối oan khiên . Rùa đâu
cung nỏ hết thiêng , Minh châu
lệ ngấn trai chìm đáy sâu . Bia hoang tàn nghìn thu cây cỗi , Biển trời xanh một nỗi thương đau . Triều xưa cung lạnh miếu sầu , Tiếng quyên khắc khoải , trăng thâu lờ mờ .
Mailoc phỏng dịch Chu Mạnh Trinh (朱孟楨, 1862-1905), tự Cán
Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn,
tác giả bài phú Hàm Tử quan hoài cổ. Thân thế sự nghiệp Ông sinh năm 1862, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở,
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha ông là Chu Duy Tĩnh, từng
làm quan đến chức Ngự sử. Từ
nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, có tài văn phú. Khi 19 tuổi,
ông đỗ Tú tài. Sau đó ông sang thụ giáo Phó bảng Phạm Hi Lượngvà được thầy gả con gái
cho. Đến 25 tuổi, ông đỗ Giải
nguyên trường Hương
khoa thi Bính Tuất (1885). Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông
đậu Tiến sĩ. Sau khi thi đỗ
Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (đời Thành Thái thứ tư), ông được bổ làm
Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công
minh chính trực. Có lần ông đã phạt đánh roi một tu sĩ
người Pháp có hành động cậy thế lộng hành.
Làm Tri phủ ít lâu thì cha mất, Chu
Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Sau đó, ông được giao chức
Án sát tỉnh Hà Nam,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Ông
mất năm 1905, khi mới 43 tuổi. Cổ
Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới
thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ
3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế
kỷ 10 sau Công nguyên. Hiện nay,
di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà
Nội. Bối cảnh địa
lý[ Vào thời Âu
Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh
của tam giác châu thổ sông
Hồng và là nơi
giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ
đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng
lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo
nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ
bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch
nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan
trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông
Thái Bình. Như vậy,
về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị
trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí
nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng
với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng
lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường
thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng
bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc,
sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp.
Việc dời đô từ Phong
Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển
của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm
quyền lực từ vùng Trung Du bán
sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến
lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi
con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường
thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ
thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc
hơn. Trung tâm quyền lực của các
cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự
phát triển về chiều rộng của Văn
Hóa Đông Sơn.
Xây dựng
thành[] Thành
Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa
có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa
6,5 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km².
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến
đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu,
lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng,
mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì
dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m. Chân lũy rộng
20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. cổ về sự tồn tại của hàng
chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở
đây. Xem thêm truyền thuyết Cổ Loa. Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng
tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ
nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố,
với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn
cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình
và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài
hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng,
thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động
trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến. Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu
cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về
sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan
không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được
bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống
bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và
xa hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua
Hùng. Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ
nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản
văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ
kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá
kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ
lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình
hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ
thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào
ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để
tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây
thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương. Hiện
nay Cổ Loa là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam và vào ngày 6/1/2013 âm lịch cổ loa
đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia đặc
biệt. Trọng Thủy và chuyện
tình với công chúa Mỵ Châu Theo Đại viêt sử ký toàn thư, sau nhiều lần giao
tranh với An Dương Vương không thắng được, Triệu Đà
sai Trọng Thủy sang nước Âu Lạc, hầu trong cung An Dương Vương
làm túc vệ, rồi cầu hôn công chúa Mỵ Châu. An
Dương Vương bằng lòng, cho Trọng Thủy lấy con gái mình.
Trong thời gian ở Âu Lạc gửi rể,
Trọng Thủy đánh cắp các bí mật quân sự của Âu. Truyền
thuyết kê rằng, Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ
thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào. Sau
khi phá được bí mật quân sự của Âu Lạc, Trọng Thủy
xin An Dương Vương về thăm cha mẹ. An Dương Vương bằng lòng.
Trọng Thủy báo lại cho Triệu Đà mọi việc. Triệu Đà lại phát binh đánh Âu Lạc,
sai Trọng Thủy cầm quân. An Dương Vương chủ quan vì có vũ
khí "nỏ thần", khi ra trận mới biết vũ khí không còn
hiệu nghiệm, thua trận mang Mỵ Châu chạy về phía nam. Trọng Thủy theo lời dặn của Mỵ Châu trước
khi chia tay, cứ theo dấu lông ngỗng mà Mỵ Châu rắc ra đường
làm dấu mà đuổi theo. An Dương Vương nhận ra chính con gái
tiếp tay cho họ Triệu, liền giết chết Mỵ Châu rồi tự vẫn.
Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đã chết,
thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành. Vì thương
tiếc nhớ tiếc Mỵ Châu, Trọng Thủy trở lại chỗ Mỵ Châu
tắm gội trang điểm khi trước, cuối cùng nhảy xuống giếng
mà chết.. LẠM BÀN
Qua câu chuyện Trọng Thủy -Mị Châu
, ngừời Việt mình có kẻ lên án sự phản bội tổ
quốc , phản bội cha , làm mất nước của Mị Châu; cũng
có người nhỏ lệ bênh vực tha thứ cho nàng vì sự
nhẹ dạ , chìều chồng , đem bí mật quốc gia thộ lộ
cho người , Chu mạnh Trinh cũng thương xót nàng , ôm mối oan khiên
.Riêng tôi , tôi cũng tha thứ sự dại khờ , ngu xuẩn của người
con gái trong phút giây đê mê nào đó bên chồng ,
đã quên tự hỏi chồng mình là ai ? sao lại hỏi chuyện cơ
mật quốc gia ? nhưng không thể tha thứ cho nàng khi quân thù đã
rượt đuổi hai cha con cận kề mà nàng vẫn còn ngu dại
rắc lông ngỗng cho thằng chồng bất nhân chạy theo giết cha mình
.Thử hỏi một nàng con gái không đầu óc như vậy để
sống bằng thừa . Vì thế người ta đã dựng một ngôi
miếu tưởng nhớ nàng , trong miếu có tượng đá cụt
mất đầu to lớn gắp mây lần người thường trông
thật ấn tượng .Không đầu tượng trưng cho sự vô đầu óc
. Câu chuyện Trọng Thủy
-Mị Châu cũng cho ta thấy sự ngây ngô tin người của An Dương
Vương Thục Phán . ông đã qúa tin nơi mười sáu chử
vàng và bốn tôt của tình thông gia và sự giúp đỡ
của thần KiM QUY nên đưa đến mất nước ê chề , tội
của ông còn đáng trách hơn tội của đứa còn gái
ngây thơ , dại dột. Đây chỉ là câu chuyện truyền
thuyết nhưng vô cùng ý nghĩa là bài học muôn đời
của dân Việt mà chúng ta còn chưa thuộc . Đau lòng thay
! ! Xin gởi đên bạn một
cảm tác của Thanh Mai dưới đây : VỊNH CỔ LOA Nước tan
tành một trời uất hận , Giận
con khờ , càng giận chính ta . Chiều
chồng , con trẻ thật thà , Còn
ta " bốn tốt " thông gia tin người . Giang sơn nầy bao đời xây dựng , Liệt oanh còn sừng sửng Trời Nam .
Giặc kia muôn thuở tham tàng ,
Đỉnh cao trí tuê mơ màng tỉnh
chưa ?
Thanh Mai ___________________________________________________________________________
Nguyễn Thượng
Hiền Hỏi Hoa Nguyễn Thượng Hiền
qua Tầu , tìm gặp Phan Bội Châu ... hoạt động ... Sau Phan Bội
Châu sang Nhật ... thất bại ... Có lẽ Nguyễn Thượng Hiền
chán ngán trước cảnh : có những kẻ báo cho mật thám
bắt đồng chí mình ! Ông vào tu ở một ngôi chùa
ở Hàng Châu . Chơi rất thân với nhà sư Viên Giác . Người
Tầu tôn ông là một vị Cao Tăng .
HỎI HOA Hỏi hoa xin mượn mùi hương Hỏi trăng
xin mượn gương vàng thử soi Hỏi non xin mượn đá ngồi Hỏi sông mượn nước tắm chơi sạch mình
N.T. Hiền Hỏi
trăng trăng chẳng trả lời Hỏi hoa hoa chỉ mỉm cười làm
ngơ Hỏi sông sông lặng như tờ Hỏi non non đứng trơ
trơ một mình Viên
Giác Thiền Sư tôi xin phép hai cụ ăn theo mấy câu
: Hỏi sông sông chỉ lững lờ Hỏi non ngạo nghễ trơ
trơ một mình Hỏi trăng nghiêng ngả đầu ghềnh Hỏi
hoa xin chút hương trinh hoa cười
C.D.M. VỌNG PHU
Hỏi người người cứ hững hờ
, Hỏi mây sao lại lững lờ
ngàn thu . Hỏi thông sao mãi
vi vu , Hòi non non nói chinh phu
chưa về !
Mailoc
Quên Đi xin hưởng ứng Hỏi hoa khoe sắc
vì ai Hỏi em tình cũ đã
thay lâu rồi Hỏi mây mây
hững hờ trôi Hỏi lòng
lòng mãi bồi hồi nhớ thương.
Quên Đi HỎI- ĐÁP Hỏi trăng
xin mượn cây đa Hỏi sông xin
mượn thuyền xa chửa về Hỏi
mây mượn ráng chiều hè Hỏi
em mượn nụ hôn e ấp tình
Rằng đa cuội đã mượn rồi
Thuyền đà tách bến chở người
sang sông Ráng chiều không nhuộm
trời đông Nụ hôn em tặng cho
chồng đã lâu ! Phương
Hà ___________________________________________________________________
NGUYỄN LỘ TRẠCH & NGUYỄN THƯỢNG HIÊN 1. NGUYỄN LỘ TRẠCH Nguyễn Lộ Trạch con quan tổng đốc Nguyễn Oai , nhưng ông
không thích đi thi làm quan . Ông thích đọc Tân Văn ( Lương
Khải Siêu ... ) , thích bàn chuyện thời sự ! Kết giao với những
chí sĩ , những nhà ái quốc . Ông được mệnh danh là
Cậu Ấm Tàng Tàng . Ông và Nguyễn Thượng Hiền ... bị các
quan đại thần gọi là tụi thiếu niên hiếu sự !
THU HOÀI
( bài 1 ) Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm Thiên Sơn tĩnh lập ảnh sâm sâm Tiều lâu đoạn giác
minh sương lãnh Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm Thảo
muội kinh dinh tiên thế nghiệp Giang hồ ưu ái hủ nho tâm
Vạn gia chinh phạt hàn y tận Sầu sát thu khuê xứ xứ châm Nguyễn Lộ Trạch THU HOÀI Ngút mắt
tiêu điều lá đỏ rơi Núi sông u ám dạ tơi bời Tháp canh đứt nối trong sương lạnh Chiến lũy ma hờn quỷ
khóc thôi Đời trước kinh doanh bao vất vả Hủ nho ôm
hận biết cùng ai Nhà nhà đói rét trong tao loạn Khuê
phụ phòng không sầu chết người
C.D.M. Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA
BÀI THƠ :
THU HOÀI
秋懷 Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm
極目蕭條紅葉林, Thiên Sơn tĩnh lập ảnh
sâm sâm
千山靜立影森森。 Tiểu lâu đoạn giác minh
sương lãnh 小樓斷角鳴霜冷, Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm 戰壘沉淪哭日陰。 Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp
草昧經營先世業, Giang hồ ưu ái hủ nho tâm
江湖優愛腐儒心。 Vạn gia chinh phạt hàn y tận 萬家征伐寒衣盡, Sầu sát thu khuê xứ xứ châm
愁殺秋閨處處砧。
Nguyễn Lộ Trạch
阮露澤 2. CHÚ THÍCH : CỰC MỤC : là nhìn mút
con mắt. TIÊU SƠ : là Thưa thớt, Lèo
tèo. ẢNH SÂM SÂM : là Cái bóng Âm
U, Mờ Mịt. TIỂU LÂU : là Lầu Nhỏ, Ở
đây là Vọng Gác. ĐOẠN GIÁC : là
Dứt tiếng Tù Và( thổi khi gác ). MINH 鳴
: là Thổi, là Kêu, là Hót, là Gỏ.
TRẦM LUÂN : là Chìm Đắm. Ở đây Nghĩa là Bị Che Phủ,
Mờ Mịt. THẢO MUỘI : là Buổi Ban Sơ, HỦ NHO : là Nhà Nho Hủ Lậu, đây chỉ
là lời nói khiêm nhường. CHÂM : là
Tấm Thớt. Ngày xưa dùng lót ở dưới để đập chỉ,
tơ hoặc quần áo... cho sạch. Đây là cách giặt giũ ngày
xưa, vì vải vóc ngày xưa rất thô kệt, đọc thơ Đường
ta hay thấy từ nầy, tiếng ĐẬP( GIẶT ) quần áo hay làm cho người
ta buồn hoặc nhớ nhà....
3. NGHĨA BÀI THƠ :
THU HOÀI CẢM Nhìn mút
con mắt cũng chỉ thấy rừng lá đỏ tiêu điều lèo tèo
thưa thớt. Ngàn núi đứng yên trong cảnh thâm u mờ mịt của
mùa thu. Trên vọng gác đã dứt tiếng tù và thổi lên
trong sương lạnh, và chiến lũy thì mờ mịt như đang khóc
trong trời thu ảm đạm. Sự nghiệp kinh doanh của đời trước mờ
mịt như thuở ban sơ. Sông hồ thì như còn ưu ái với
lòng của kẻ hủ nho nầy. Muôn nhà vì chinh chiến mà hàn
Y đã cạn kiệt, nên kẻ trong phòng khuê buồn muốn thúi
ruột khi nghe tiếng chày giặt áo quần vải vóc vang lên khắp
nơi ( để gấp rút may thêm áo lạnh gởi ra chiến trường
).
4. DIỄN NÔM :
Mút mắt tiêu điều rừng lá đỏ,
Đứng yên ngàn núi bóng thâm u.
Gác canh vắng ngắt trong sương sớm,
Chiến lũy mịt mờ lúc sáng thu.
Sự nghiệp cha ông con cháu giữ,
Tấc lòng nho hủ nước sông lưu.
Muôn nhà chinh chiến hàn Y hết,
Tiếng giặt chày vang buồn chiến khu ! Đỗ
Chiêu Đức 2.NGUYỄN THƯỢNG HIỀN Nguyễn thượng Hiền , tự Mai Sơn .
Đậu Hoàng Giáp . Cha làm quan đại thần , ông có hai bà
vợ cũng làm quan đại thần . Tưởng đường hoạn lộ
sẽ cực kỳ hanh thông ! Nhưng không ! Ông đọc tân văn , và
chỉ thích chơi với những cậu ấm tàng tàng , nhà chí
sĩ , kẻ đông du , người ở ẩn !
KHẤP NGUYỄN KỲ AM Nhất đổng thiên môn tịch chiếu trầm Nho y phiêu bạt đáo như câm Giang sơn phóng dật tài nhân
bút Phong vũ bi ca liệt sĩ tâm Tứ tọa do văn đàm Bắc
Hải Cửu thu tằng cộng phỏng Đông Lâm Ma sa hạp kiếm
tri thùy tặng Hồi thủ Nam minh tích vụ thâm
Nguyễn thượng Hiền phóng
dịch KHÓC KỲ AM Chiều
âm u ai khóc bên trời Bạc áo nhà nho đến thế thôi Lưu lạc nhân tài bên trời thẳm Gió mưa chí sĩ hát
cuồng lơi Đàm luận nhiều phen không lối thoát Cao ngâm
cửa Phật lại buông lời Mài hoài kiếm sắc trao ai đó Ngoảnh lại trời Nam tối mịt rồi
C.D.M. ________________________________________________________________
PHẠM ĐÌNH
HỔ Cuối tuần xin gởi đến
bạn một bài thơ thật dễ thương của cụ Phạm Đình
Hổ, một thi nhân Việt Nam, đọc giải khuây và cũng để
thân tặng bạn Phạm Đình Lân thân mến của tôi, Thân Mailoc Hoài cổ Nguyên tác: Phạm Đình Hổ 懷 古 去歲桃花發, 鄰女初學笄。 今歲桃花發, 已嫁鄰家西。 去歲桃花發, 春風何凄凄。 鄰女對花泣, 愁深眉轉低。
今歲桃花發, 春草何萋萋。 鄰女對花笑, 吟成手自題。
Hoài cổ Khứ tuế đào hoa phát; Lân nữ
sơ học kê. Kim tuế đào hoa phát; Dĩ giá lân
gia tê. Khứ tuế đào hoa phát; Xuân
phong hà thê thê. Lân nữ đối hoa khấp; Sầu thâm
mi chuyển đê. Kim tuế đào hoa phát; Xuân
thảo hà thê thê. Lân nữ đối hoa tiếu; Ngâm
thành thủ tự đề. Dịch Nghiã : Cảm nhớ chuyện cũ Năm
ngoái hoa đào nở Cô láng giềng mới học cài
trâm Năm nay hoa đào nở, Cô đã
lấy chồng nhà láng giềng ở phiá tây
Năm ngoái hoa đào nở, Gió xuân sao lành lạnh Đứng trước hoa cô láng giềng khóc
Buồn quá đôi lông mày sa xuống . Năm nay hoa đào nở , Cỏ xuânsao mà xanh tươi Đứng trước hoa cô láng giềng tươi cười Thơ
làm xong tự tay cô viết . --Bản dịch của MaiLộc-- (1) Năm ngoái hoa đào nở , Em láng giềng bỡ ngỡ
cài trâm Năm nay hoa đào nở , Em lấy chồng nhà ở
xóm trên .
Năm ngoái hoa đào
nở , Gió xuân ơi ! sao chở men sầu . Ngồi nhìn hoa rầu
rầu lệ nhỏ, Em chau mày biết tỏ cùng ai! Năm
nay đào lại nở , Cỏ xuân xanh rực rỡ, lay lay. Trước
hoa rộn rã lòng ai , Mấy vần thơ ngẫm qua tay em đề.
(2) Năm ngoái hoa đào nở , Em mới học cài
trâm . Năm nay đào lại nở , Bước theo chồng bâng
khuâng. Năm ngoái hoa đào nở , Gió xuân sầu
lê thê , Ngồi nhìn hoa , lệ nhỏ, Em chau mày ủ ê
. Năm nay đào lại nở , Rực rỡ cỏ xuân tươi. Hoa cười , em hớn hở , Qua tay mấy vần thơ . Mailoc
phỏng dịch Phạm Đình Hổ (chữ Hán: 范廷琥, 1768-1839) tên
chữ là TùngNiên (松年), BỉnhTrực (秉直), hiệu: Đông
DãTiều (東野樵), tục gọi là Chiêu Hổ. Ông
là nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn và nhà
thơ của Việt Nam ở khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế
kỷ 19. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), người
làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải
Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Sinh trong một gia đình khoa bảng, cha ông là Phạm Đình
Dư, đậu cử nhân, làm Hiến sát Nam Định, thăng Tuần
phủ Sơn Tây, rồi cáo quan về ở phường Hà Khẩu
(Hàng Buồm) năm Giáp Ngọ (1774). Ngay từ nhỏ,
Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: Làm người
con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng
ở đời...[1]. Tuy học & đọc nhiều sách (năm 9 tuổi,
ông đã họcsách Hán thư), nhưng ông chỉ đỗ đến sinh
đồ (tức tú tài) vào khoảng cuối đời Chiêu
Thống. Gặp buổi loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống cho người
chạy sang cầu viện nhà Thanh, rồi triều đình Lê Trịnh sụp
đổ, nhà Tây Sơn lên cầm quyền... Suốt quãng
thời gian này, Phạm Đình Hổ sống đời cơ hàn dạy
học ở quê. Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi
phục lại việc học hành thi cử; ông có đi thi Hương ba
lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy
học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng
Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách.
Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân
Hương. Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu ông
và Phan Huy Chú vào Huế đợi mệnh cất dùng, nhưng
vì ốm ông không vào được. Năm Tân
Tỵ (1821), vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy, Phạm Đình
Hổ ở tuổi 53, được vời ông đến hỏi học vấn,
thi cử và tình hình nhân tài đất Bắc. Lại khuyên hễ
có những sách tiền triều, sách trước thuật... nên đem
tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách do mình biên soạn, bèn được
triệu vào Huế làm Hành tẩu Viện Hàn lâm, được
ít lâu, ông xin từ chức.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu ông, cho làm Thừa
chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm Tế tửu Quốc
Tử Giám. Năm sau, xin nghỉ bệnh
rồi từ chức. Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị
giảng học sĩ. Năm Nhâm Thìn (1832), ông xin
về hưu luôn. Năm Kỷ Hợi (1839), Phạm Đình Hổ mất,
thọ 71 tuổi. NHỚ CHUYỆN XƯA Năm trước, hoa đào chớm nở Em vừa bẽn lẽn cài trâm Năm nay hoa đào rực rỡ Thì
em cất bước theo chồng Năm
trước hoa đàochớm nở
Gió
xuân lành lạnh vừasang Nhìn hoa,
mi sầu lệ ứa Cong cong mày trĩu hai hàng. Năm nay hoa đào lại nở
Cỏxuân mơn mởn xanh tươi Nhìn hoa, tủm tỉm em cười Trải nỗi niềm vui, nắn bút.
Phương Hà phỏng dịch Đỗ
Chiêu Đức cũng xin được tham gia... NHỚ XƯA Năm ngoái hoa đào nở, Cô hàng xóm cài trâm. Năm nay hoa đào nở, Cô em đã lấy chồng !
Năm
trước hoa đào nở, Gió xuân vờn hây hây. Cô
bé sầu hoa khóc, Ủ dột khép đôi mày ! Năm nay hoa đào nở, Mơn mởn cỏ xanh
tươi, Thơ ngâm thành tay chép, Cô em nhoẻn miệng cười
! Đỗ Chiêu Đức diễn nôm. Nhớ Xưa Năm trước đào vừa nở
Em đến tuổi trâm cài Năm nay hoa đào rộ Nàng lấy chồng thôn tây Năm qua đào
mới nở Xuân về lạnh tái
tê Nhìn hoa nàng đổ lệ
Sầu trĩu nặng đôi mày
Năm
nay đào khoe sắc Cỏ mượt
đón xuân tươi Cùng
hoa em mỉm cười Khe khẻ đề
đôi câu.
Quên Đi
NHỚ XƯA
Năm
ngoái hoa đào nở ,
Em
mới học cài đầu .
Năm
nay hoa đào nở ,
Nhà
người em làm dâu .
Năm
ngoái hoa đào nở ,
Man
mác gió xuân sầu .
Nhìn
hoa em nức nở ,
Tê
tái , đôi mày chau .
Năm
nay đào lại nở ,
Xanh
tươi cỏ rực màu .
Em
cười xuân đang độ ,
Tay
dệt mấy vần mau .
Thanh Mai
Cali 7-1-14
Nhớ
Xưa
Năm rồi đào nở đầy
sân
Em vừa độ tuổi phân
vân trâm cài
Năm nay đào
nở hồng vai
Em ra riêng lấy chồng
ngoài thôn tây
Năm rồi đào
nở sầu rây
Gió xuân lành
lạnh chau mày cô em
Trước
hoa rơi giọt lệ mềm
Cô đơn
em thả buồn lên mái lầu
Năm nay
đào nở thắm màu
Nụ cười
em nở trên đầu cỏ xuân
Hồn say
thơ thả mấy vần
Niềm vui
mở cửa lâng lâng gió lùa
Trầm Vân
NHỚ
LẠI NGÀY CŨ
Mùa trước,cành đào hoa nở rộ
Nhà bên,cô
gái học cài tram
Năm nay,đào nở thêm lần nữa
Em đã theo chồng
ở xóm trên.
Cành đào năm trước đầy hoa nở Ngọn
gió Xuân sang thổi lạnh lung
Cô gái láng giềng lau ngấn lệ
Đôi mày ủ
rủ mắt rưng rưng
Năm nay,cành đào hoa lại nở Ngọn
cỏ xuân về trổ sắc tươi
Cô láng giềng xưa đang hớn
hở
Vần thơ cô viết đón xuân đời
SONG QUANG
CHÍ SĨ TRƯƠNG GIA MÔ
Bản
dịch: Chân Diện Mục, Mailoc, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Kim Oanh, Quên Đi
Trương
gia Mô con quan đại thần Trương gia Hội . Ông chịu ảnh hưởng
của phong trào Tân Văn ( Lương Khải Siêu ... ) và ảnh hưởng
Nga Nhật chiến tranh - Nhật thắng Nga . Ông bỏ gia đình ở Phan Thiết
vào Nam hô hào Đông Du ( lúc đó phong trào Đông Du ở
Miền Nam mạnh hơn ở Trung Bắc ) . Phong trào tàn dần , ông uống
rượu giải buồn nhưng lời thơ luôn đượm thẫn tình
nhớ nước thương dân . Cuối cùng ông buồn chết ở miền
Tây Nam Việt !
ĐĂNG CHIÊM THÀNH CỔ THÁP Lâm Ấp Khu Liên thác quốc cơ Thế lực lăng lê
cái hải thùy Chỉ nhân bất thiện sự thời biến Cánh
sử Tam Phan cận kiết di Di tích như kim duy cổ tháp Thảo
thụ tiêu điều . thu táp táp Giang san y cựu khách đăng lâm Độc điếu tàn dương hoàn ẩm khấp
Trương gia Mô phóng
dịch CỔ THÁP CHIÊM THÀNH Từ
xưa dựng nước nơi đây Hùng tâm bám biển đêm
ngày lo toan Ấy ai hèn yếu chóng quên Để cho sông núi
lặng chìm vào mơ Đền thiêng còn đó trơ trơ Ruộng nương rừng thẳm bây giờ tiêu tan Lên cao nghẹn tủi
khóc than Anh hùng đâu hết , chiều tàn hỏi ai
C.D.M.
GỬI NGƯỜI TÌNH Văng
vẳng canh khuya mấy tiếng gà Trong chiêm bao luống nhớ nhau mà Đá vàng một mực bền sau trước Non nước ngàn trùng
thiệt thẳm xa Tháng đợi năm chờ thương nỗi đó Ngày lo đêm tính ngán cho ta Trời đâu có phụ người
ngay thảo Nam Bắc rồi đây cũng một nhà
Trương gia Mô xin kính họa
ĐỢI Lòng trống không ngồi đợi tiếng gà
Hơi đêm quấy nhiễu mãi nhau mà Giang san diễu cợt người
đi trước Non nước như đùa con cháu xa Điên đảo
người ngây tin theo bợm Thẹn thùng vô kế tủi thân ta Bốn phương tao nhiễu nhiều mây bụi Một xó trời Nam nhớ
nỗi nhà
C.D.M. THU TRỰC
CẤM CUNG Ảm vân thảm đạm tỏa trường không Nguyệt
sắc vô quang thu sắc lung Khổng tước điện đầu đề
tế vũ Ngô đồng tri giác lạc sơ phong Viễn biên vũ
hịch lai hà cấp Đại nội sanh ca lạc vị chung Hàn thấu
trùng liêm miên bất đắc Tịch liêu độc đối nhất
đăng hồng
Trương gia Mô dịch nghĩa : Mây mù buồn
thảm phủ khắp không gian Trăng tối mù , sắc thu lồng Chim
công ở đầu điện kêu dưới mưa nhỏ Lá ngô đồng
rơi trước gió chớm thu Ngoài biên hịch về việc binh bay
về tới tấp Trong cung ca múa vui vầy chưa dứt Lạnh thấu
qua nhiều lớp rèm , ngủ không được Một mình cô đơn
đối diện ngọn đèn hồng dịch thơ
MÙA THU VÀO CUNG Mây mù thảm
đạm không trung Trăng treo èo uột thu lồng bóng ma Đầu
cung chim nghẹn mưa sa Lá rơi lác đác như là tiễn ai Ngoài biên tới tấp sớ bay Trong cung hoan lạc đêm dài lại
đêm Trước rèm lạnh thấu vào tim Mình ta bạn với
ngọn đèn âm u
C.D.M. MÙA THU VÀO CUNG
Trời u ám mây giăng bàng bạc
, Đêm thu lồng , mờ
nhạt trăng thâu . Đầu
cung tước khóc mưa ngâu . Ngô đồng lả tả gió sầu chớm
thu . Sớ khẩn từ
biên khu tới tấp , Trong
hoàng cung tất bật lạc hoan , Xuyên rèm gió buốt tâm can ,
Một mình đối bóng đèn
vàng suốt đêm .
Mailoc phỏng dịch
Cali 6-14-14 MÙA THU VÀO CUNG
Trời u ám mây giăng bàng bạc
, Đêm thu lồng , mờ
nhạt trăng thâu . Đầu
cung tước khóc mưa ngâu . Ngô đồng lả tả gió sầu chớm
thu . Sớ khẩn từ
biên khu tới tấp , Trong
hoàng cung tất bật lạc hoan , Xuyên rèm gió buốt tâm can ,
Một mình đối bóng đèn
vàng suốt đêm .
Mailoc phỏng dịch
Cali 6-14-14 MÙA THU NƠI CUNG CẤM
Mây mù ảm đạm khắp không gian
Thu nhuộm trời mây, bóng nguyệt tàn
Mưa bụi giăng mờ, chim cất tiếng
Ngô đồng rơi ngập, gió ngân đàn
Biên cương, hịch đến bao dồn dập
Cung điện, tiệc bày vẫn rộn vang
Lạnh thấm qua rèm không ngủ được
Cô đơn đối diện ngọn đèn
vàng.
Phương Hà phỏng dịch Mùa Thu Nơi Cung Cấm Mây xám buồn
phủ không gian Sắc thu lồng lộng trăng man man sầu Mưa sa chim khóc
điện đầu Ngô đồng lá đỗ úa nhầu bi ai Tới
tấp biên ải tin bay Trong cung hoan lạc hết ngày lại đêm
Chập chờn gió buốt xuyên rèm Cô đơn đối bóng
ngọn đèn hồng soi Kim Oanh Thu Nơi Cấm Cung Không gian giăng kín xám mậy sầu Dáng thu thơ mộng bóng trăng đâu Mưa nhẹ đầu cung chim công gáy Ngô đồng nhánh ngọn gió đùa bay Tin giặc ngoài biên về vội vã Trong cung vọng mãi tiếng đàn ca Gió lạnh xuyên rèm ngăn giấc mộng
Một mình thao thức với đèn hồng.
Quên Đi
Giang thiên không độc lập Sửa
áo vào kinh kiếm chút chi
Lò dò ngần ngại đến nha ty Ai ngờ lương mỏng như
tờ giấy Mặt mũi soi gương nào thấy tệ Mà sao nhắm mắt chỉ
sầu bi Ngẩng
đầu , chỉ núi , quê ta đó Về quách đi thôi luyến tiếc gì
C.D.M. Đỗ
Chiêu Đức xin hưởng ứng với các phần sau đây :
(1). TIỂU SỬ TÁC GIẢ : Trương Gia Mô (1866-1929) hiệu Cúc Nông,
tên tự lúc đầu là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản,
biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế, còn được
gọi là Nghè Mô; là sĩ phu yêu nước, quan triều Nguyễn,
và là nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ 20.
(2).
Bản chữ Hán Cổ của bài thơ : 秋值禁宮
THU TRỰC CẤM CUNG 黯雲慘淡鎖長空,
Ảm ân thảm đạm tỏa trường không, 月色無光秋色籠。
NguYệt sắc ô quang thu sắc lung. 孔雀殿頭啼細雨,
Khổng Tước điện đầu đề tế ũ, 梧桐枝角落初風。
Ngô đồng chi giác lạc sơ phong. 遠邊武檄來何急,
Viễn biên ũ hịch lai hà cấp, 大內笙歌樂未終。
Đại nội sanh ca lạc ị chung. 寒透重簾眠不得,
Hàn thấu trùng liêm miên bất đắc. 寂寥獨對一燈紅。
Tịch liêu độc đối nhất đăng hồng. 張家模 Trương
Gia Mô (3). NGHĨA BÀI THƠ :
VÀO CUNG NHẰM LÚC MÙA THU Mây xám
buồn bã giăng giăng che kín cả không gian, ánh trăng mờ nhạt
làm cho sắc thu thêm mờ ảo mông lung. Ở đầu cung điện, chim
khổng tước đang cất tiếng gáy ( Chim Công khi bị lạnh chân
thì sẽ cất tiếng gáy , tôi sẽ kể một giai thoại văn chương
về việc nầy sau. ) Trên đầu cành cây ngô đồng lá đã
rụng vì gió thu bắt đầu thổi. Nơi biên tái xa xôi, hịch
của võ quan đã bay về rất gấp. Nhưng cuộc vui đờn ca hát
xướng trong nội cung còn chưa kết thúc. Hơi thu lạnh đã thấu
qua mấy lớp rèm châu khiến cho không thể nào ngủ được,
cô tịch lẻ loi một mình với ngọn đèn khi mờ khi tỏ.
CHÚ
THÍCH : * TỎA : là Khóa. Mây xám KHÓA cả không
gian, có nghĩa là PHỦ KÍN cả không gian đó. * TRI
GIÁC bản của Thầy. Em nghĩ nó phải là CHI GIÁC 枝角:
là CÀNH GỐC, có nghĩa là Đầu Cành đó. để đối
với ĐIỆN ĐẦU là Ở đầu cung điện. * HỒNG
ĐĂNG : là Đèn Đỏ, có nghĩa là đèn không còn
sáng nữa. Màu đỏ là chỉ đèn khi mờ khi tỏ.
DIỄN
NÔM :
LỤC BÁT Mây mù sầu
khóa không gian, Trăng mờ lơ
lửng thu càng mông lung. Chim công
gáy, mưa lạnh lùng, Ngô
đồng rơi rụng mịt mùng gió thu.
Hịch ngoài cấp bách biên khu,
Sanh ca đại nội vui thu chưa tàn.
Lạnh vào rèm, ngủ sao đang ?
Đèn tàn chiếc bóng bàng hoàng năm canh. Đỗ
Chiêu Đức.
VÀI BÀI THƠ
CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG Cùng Bạn
, Xin chuyển đến các bạn
vài bài thơ của Trần nhân Tông đọc giải khuây, và
cũng để giảm bớt stress về tình hình đất nước
. Không nói bạn cũng đã
biết lịch sử oai hùng của Đại Việt đã ba lần chống giặc ngoại xâm phương
bắc, bảo vệ toàn vẹn giang sơn đất nước. Ngài không
những là vị vua anh minh thao lược, mà còn là một thiền sư
Tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử nữa. Bài thơ nào của
Ngài cũng nhuốm mùi thiền thật thâm thúy . Chúc các bạn cuối tuần an vui Thân mến Mailoc
Đăng Bảo Đài sơn
| Ðịa tịch đài
du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.
|
Trần Khâm ( Trần nhân Tông )
Nơi
tịch mịch đài trông thêm cổ
Theo
tiết trời xuân độ chưa
lâu .
Núi mây lồng lộng
xa gần ,
Đường
hoa nửa rợp nửa vàng nắng
xuyên .
Muôn việc đời
triền miên nước chảy ,
Cuộc
trăm năm lòng mãi nhủ lòng .
Lan
can sáo ngọc tay nâng ,
Ánh
vàng đầy ngực một vầng
trăng trong .
Lạng
Châu vãn cảnh
( Trần Nhân Tông )
|
Cổ
tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.
|
Chùa cổ lạnh , trời thu
sương khói ,
Quạnh thuyền câu chuông tối
xa ngân .
Nước trong núi lặng chim âu
Gió im lá đỏ lâng lâng
mây trời .
Bán song đăng ảnh
mãn sàng thư ,
Lộ trích thu đình
dạ khí hư .
Thụy khởi
châm thanh vô mịch xứ ,
Mộc tê hoa thượng
nguyệt lai sơ .
Trần Nhân Tông ( Trần
Khâm 1258-1308)
Nửa cửa sổ bóng
đèn soi giá đầy sách ,
Khí trời đêm loãng dán
những giọt sương trong sân .
Ngủ dậy nghe tiếng
chày không biết từ đâu ,
Trên cây hoa quế trăng mới
mọc .
Đèn chiếu qua song giá
sách đầy ,
Sương thu ,sân trước
dưới trời mây .
Thoảng nghe một
tiếng chày khua động ,
Ánh sáng trăng non chiếu
ngọn cây .
Qua song giá sách ánh đèn soi ,
Đêm mát ngoài hiên móc trắng
ngời .
Tỉnh giấc chày ai đâu
vẳng lại ,
Trên chùm hoa quế nguyệt
vừa khơi .
Mailoc ___________________________________________________________________________________________
Giang thôn
thu vọng Nguyên tác: Bùi tông Quán Bản dịch: Mailoc, Quên Đi, Đỗ Chiêu Đức,
Phương Hà,
Song Quang ___________________________________________________________________________________________________________________
Cùng Bạn, Gần cuối tuần , xin hân hạnh chuyển đến bạn
một bài thơ của Bùi Tông Quán . Bức tranh mùa thu nơi
một xóm nhỏ ven sông mà thi nhân diển tả đẹp vô cùng
, khiến người đọc cảm thấy như chính ta đang bâng khuâng
ngắm cảnh : một mình khoác áo đứng lặng nhìn sắc
thu vàng mênh mông trước mắt , với nhạn bay từng đàn
, với những cánh buồm xa thấp thoáng , với mái chùa bên khe
vắng ẩn mình trong đám lá đỏ , với mái nhà
bên hàng trúc có làn khói vương , cùng cánh đồng
xanh lúa gợn xanh rì . tất cả khiến tác gỉa mải mê , mà
ta cũng mơ màng ngẩn ngơ trước cảnh thu trong tưởng tượng
. Bức tranh thu của thi nhân phác họa đẹp thật ! Bùi tông Quán hiệu là Thủy Hiên,
làm quan dưới thời vua Trần anh Tông . Tác phẩm hiện còn
chỉ mấy bài thơ . Xin chúc tất
cả an vui Mailoc Giang thôn thu vọng
Bùi tông Quán |
Phi y độc
tự lập giang thiên, Thu sắc
thuỳ tương đáo nhãn biên. Lữ
nhạn hàng hàng qua biệt phố, Khách phàm điểm điểm lạc
tình thiên. Khê đầu Phật
tự y hồng diệp, Trúc
ngoại nhân gia cách đạm yên.
Nhật mộ thuỳ tri ngưng trữ
xứ, Lục vân ám dã khán
phong niên. Bản
dịch của Mailoc
Ven sông một bóng áo bay
bay , Ai rắc thu
vàng trước mắt ai . Nhạn lướt hàng hàng
trên bến vắng , Buồm dong lớp lớp
giữa trời say . Đầu khe chùa ẩn cây hồng
nhuộm , Sau trúc
nhà chìm khói xám xây . Chiều
xuống có người còn đứng ngắm
, Đồng xanh lúa
gợn gió cùng mây .
Mailoc
Cali 6-6-14 |
Bản dịch:
Quên Đi 裴宗灌
- Bùi Tông Quán (Việt Nam) 江村秋望 Giang
Thôn Thu Vọng 拂衣獨自立江阡 Phất
y độc tự lập giang thiên 秋色誰將到眼邊
Thu sắc thuỳ tương đáo nhãn biên 旅雁行行過別浦 Lữ nhạn hàng
hàng quá biệt phố 客帆点点絡晴天
Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên 溪頭佛寺依紅葉 Khê đầu phật
tự y hồng diệp 竹外人家隔淡煙
Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên 日暮誰知凝佇處 Nhật mộ thùy
tri ngưng trữ xứ 菉雲暗野看豐年
Lục vân ám dã khán phong niên.
Dịch Nghĩa: Ngắm
Thu Nơi Xóm Ven Sông Áo phất phơ một mình
đứng ở ven sông Ai đem vẻ đẹp của mùa thu đến trước
mắt Chim nhạn từng hàng bay đi qua bến sông Cánh buồm khách
từng chấm giữa trời quang đãng Nơi đầu khe ngôi chùa
phật tựa vào đám lá hồng Ngoài bụi tre nhà dân
chúng bị che bởi khói mờ Trời đã về chiều ai biết
được ta đứng lặng rất lâu nơi đây Đám mây
xanh tuy che tối nhưng vẫn thấy cánh đồng rộng được mùa Dịch Thơ: Ngắm
Thu Nơi Xóm Ven Sông Một mình khoát
áo đứng ven sông Trước mắt màu thu đẹp cả
lòng Nhạn xếp từng hàng ngang bến cũ Buồm gương bao
cánh giữa trời trong Đầu khe chùa phật nương cây rậm Cạnh trúc nhà dân ẩn khói lồng Lặng ngắm cả ngày
ai có biết Xanh trời ruộng trúng chẳng hoài công Quên Đi
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
(1). Đôi hàng về Tác
giả : Bùi
Tông Quán (chữ Hán: 裴宗瓘), có sách chép là Bùi
Tông Hoan (裴宗驩), hiệu: Thủy Hiên (có sách chép là
Thúy Hiên), không rõ năm sinh và năm mất; là nhà thơ Việt
Nam thời nhà Trần. Ông chỉ lưu lại 4 bài thơ bằng chữ Hán.
Giang Thôn Thu Vọng - 江村秋望 là một trong 4 bài còn lại
đó. (2). Bản chữ
Hán cổ của bài thơ :
江村秋望 GIANG THÔN THU VỌNG
披衣獨自立江阡,
Phi Y độc tự lập giang thiên, 秋色誰將到眼邊。
Thu sắc thùy tương đáo nhãn biên. 旅雁行行過別浦,
Lữ nhạn hàng hàng qua biệt phố, 客帆點點落晴天。
Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên. 溪頭佛寺依紅葉,
Khê đầu phật tự Y hồng diệp, 竹外人家隔淡煙。
Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên. 日暮誰知凝佇處,
Nhật mộ thùy tri ngưng trữ xứ , 綠雲暗野看豐年。
Lục vân ám dã khán phong niên. (3). CHÚ THÍCH : 1. PHI Y hay PHẤT
Y gì cũng đều có nghĩa là KHOÁT ÁO LÊN MÌNH hoặc
LÊN VAI, tức là mặc áo mà không có gài nút đó
! Ở đây chắc Tác Giả khoát ÁO TƠI của ngày xưa là
ÁO VỐN KHÔNG CÓ NÚT. 2. ĐỘC TỰ : là Một
mình " ên ". 3. THÙY TƯƠNG : là AI ĐEM ( Thu sắc
: là Hương sắc, là cái VẺ của mùa thu ). 4. LỮ
NHẠN : Lữ là Lữ Hành. Lữ Nhạn là chỉ Đàn Nhạn bay
đến nơi xa. 5. BIỆT PHỐ : là bến khác, Bến nước
xa hơn. 6. KHÁCH PHÀM : là Thuyền buồm của khách ( ai
đó ) đi. 7. TÌNH THIÊN : là Trời Quang Mây Tạnh,
Nắng ráo. 8. KHÊ ĐẦU : là ở Đầu Khe, túc là
Đầu SÔNG đó. 9. Y : là Nương tựa, nhưng Y HI 依稀
là THẤP THOÁNG, là Thoang Thoảng, là Mơ Hồ. 10.
NHẬT MỘ : là Trời Chiều. 11. NGƯNG TRỮ : là Đứng
lặng rất lâu, Đứng Lặng Thinh. 12. XỨ : là Nơi, Chốn
, Chỗ. 13. LỤC VÂN : là Mây có màu xanh lục. 14. ÁM DÃ : DÃ là DÃ NGOẠI là Ngoài Đồng
Trống. ÁM DÃ là Cánh đồng đã tối lại trong trời
chiều. 15. PHONG NIÊN : là Năm Được Mùa, Trúng Mùa.
(4).
NGHĨA BÀI THƠ :
NGẮM THU Ở XÓM VEN SÔNG
Khoác áo lên vai đứng một mình bên bờ sông, bạn sẽ
thấy như là ai mang cái hương sắc của mùa thu đến trước
mắt của mình vậy. Hãy nhìn kia, từng hàng từng hàng chim
nhạn đang bay về bến nước khác, và xa xa những cánh buồn
khách từng chấm từng chấm thấp thoáng dưới nắng chiều.
Trên đầu khe một kiểng chùa Phật đang lẫn khuất trong rừng
lá đỏ, và sau lũy tre làng mấy nóc nhà dân ẩn hiện
trong làn khói nhạt mờ. Giữa trời chiều bãng lãng ngẩn
ngơ không biết là mình đang đứng ở đâu đây , Mây
đã ngã màu xanh, cánh đồng cũng đã mờ tối, nhưng
vẫn thấy được sự được mùa trong năm. (5). DIỄN NÔM
:
Khoát áo bờ sông cảm xúc nhiều,
Ai đem thu sắc trải đìu hiu.
Nhạn bay lớp lớp sang bờ khác,
Buồm chạy xa xa dưới nắng xiêu.
Thấp thoáng cửa chùa trong lá đỏ,
Chơi vơi làn khói quyện lam chiều.
Trời hôm đứng lặng nhìn mây xám,
Đồng tối được mùa bớt tịch liêu. Đỗ Chiêu Đức.
THU VỀ TRÊN XÓM VEN SÔNG Khoác hờ chiếc áo, bước
ra sông Ngắm cảnh trời thu nhuộm
khoảng không Đàn nhạn hàng
hàng qua xứ lạ Cánh buồm thấp
thoáng giữa mênh mông Đầu
khe, chùa lẫn rừng phong đỏ Sau
trúc, nhà vương bụi khói hồng Ngơ ngẩn trong chiều buông bãng lãng Vụ mùa hứa hẹn trĩu trên đồng. Phương
Hà phỏng dịch
VÀO
THU NƠI BẾN SÔNG
Một mình khoát áo đứng ven sông
Hương sắc vào thu khiến chạnh lòng
Chim nhạn từng đàn bay chốn khác
Cánh buồm ẩn hiện giữa chiều loang
Đầu khe Phật tự chen rừng lá
Dưới xóm nhà dân khói tỏa lồng
Đứng lặng ngẩn ngơ ai biết nhỉ ??
Được mùa lúa trổ hạt xanh đồng
SONG QUANG ____________________________________________________
VỌNG
PHU THẠCH Nguyên tác: Nguyễn
Du - Cao Bá Quát Dịch / Phỏng
dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức,
Quên Đi, Phương Hà
____________________________________________________________________________________________ Cùng Bạn . Lên internet , nhân đọc được
bài thơ Vọng Phu Thạch của đại thi hào Nguyễn Du và Cao bá
Quát sáng tác , tôi thích quá , cứ đọc đi đọc
lại trầm ngâm nghĩ ngợi . Cùng đứng trước cảnh núi
non hùng vĩ ,trước một tảng đá có hình thù một
thiếu phụ ôm con , cả hai đều xúc động bồi hồi , nhưng
mỗi người có một cái nhìn riêng biệt .Với Cao bá
Quát , với bản chất đa tình lãng mạn , ông thương xót
cho người phụ nữ phải phấn nhạt môi phai , thương cho lệ máu
chan hòa, thương cho ngàn ngàn năm hiu quạnh tóc tai rũ rượi
rong rêu làm bạn cùng trờimây trăng gió . Còn cụ Tiên
Điền cũng xót thương cho một người đằn bà xa chồng,
quên hết ái ân , ngàn năm trơ trọi giữa rêu phong mưa dầm
. Đặc biệt Nguyễn Du ca ngợi tuyết trinh cuả người phụ nữ
như một áng văn còn đậm nét trên rong rêu , ông ca ngợi
cương thường đạo lý của người đàn bà Á Đông
được thắm nhuần gia phong nho giáo .. Còn Cao bá Quát ông
ca ngợi cái chung tình của người vợ , nó sắt son , nó
chung thủy đời đời như Trời và Đất ; trời có già
, đất có cỗi em vẫn một lòng cùng chàng . Tôi
xin chuyển dến các bạn một bài ngắn trên internet xem chơi . Tôi
xin Thầy Đồ nhà ta , Đỗ Chiêu Đức nhín chút thì
giờ qúi báu dịch nghiã giùm hai bài thi trên , tôi cũng
xin các thi hữu góp vần thêm như thường lệ để cho góc
Việt Thi chúng ta thêm phong phú . Xin đa tạ . Thân Mailoc
VỌNG
PHU THẠCH Độc lập sơn đầu đệ nhất phong Chu điêu phấn tạ vị thùy dung Âm thư cữu đoạn nhân hà xứ Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng Huyết lệ yên hòa
minh nguyệt thấp, Hương hoàn vân tích lục đài
phong. Thiên hoang địa
lão tình do tạc, Dạ dạ xao tàn bích đổng chung.
CAO BÁ QUÁT HÒN
VỌNG PHU Sừng
sửng đứng, đầu non hóa đá
Cũng vì ai nhạt má phai son !
Người đi , tin vắng, mõi mòn ,
Biển trời thăm thẳm nước
non nghìn trùng .
Hòa lệ máu, khói lung linh nguyệt ,
Tóc tai dầm rêu biếc mây giăng .
Trời già đất cỗi , tình chung ,
Đêm đêm động vắng
hồi chuông vang rền .
Mailoc phỏng dịch VỌNG
PHU THẠCH Thạch da? Nhân da ? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu
thiên bách xuân. Vạn kiếp điếu vô vân vũ(*) mộng,
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ, Đài triện trường
minh nhất đoạn văn. Tứ
vọng liên sơn diêu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện nhi luân. NGUYỄN
DU Vọng
Phu Thạch : Bài
nầy không thấy chép trong Bắc hành
Tạp Lục Mà chỉ chép
trong Thanh Hiên thi Tập . Như vậy
là Nguyễn Du tả núi
Vọng Phu ở Lạng
Sơn khi đi nghênh tiếp
sứ thần
nhà Thanh sang sắc phong cho Gia Long , mùa đông
năm Qúi Hợi (1804)
NÚI
TRÔNG CHỒNG Đá
hay người là ai chẳng biết ,
Đứng một mình mải miết
rêu phong .
Mây
mưa (*) một thoáng xa xăm ,
Tiết trinh một thuở tấm
thân trắng ngần .
Lệ không ngớt , mưa dầm
thu rét ,
Rêu
phong còn hằn nét áng thơ .
Bốn phương núi biếc vô bờ ,
Cương thường nhi nữ đạo
thờ riêng mang .
Mailoc phỏng dịch
(*)Vân vũ : thần nữ ở núi
Vu Sơn ,làm mây buổi sáng , làm mưa
buổi chiều .
Về sau người ta
dùng điển nầy để chỉ chuyện
tình ái Tại Đông phương,
hình ảnh người vợ trông chồng hóa đá, được các
dân tộc cụ thể hóa qua hình ảnh Núi Vọng Phu như ở Trung
Quốc, Nam Dương, Việt Nam... Ở Nam dương,
tại đảo Bornéo, có núi Mont Kinabalu (4.095m) là Hòn Vọng Phu nổi
tiếng tại vùng Đông Á (Mã Lai-Nam Dương-Brunei) Ở Việt
Nam, có hai địa danh được gọi là Hòn Vọng Phu : - Một ở tỉnh Lạng Sơn - Nàng Tô Thị -Một ở
tỉnh Bình Định - Núi Bà Từ hình ảnh đau thương và cảm động
của người chinh phụ chờ chồng hóa đá này, các văn,
thi sĩ thể hiện qua nhiều hình thái: Nhạc, Thơ, Tuồng... làm
phong phú và đa dạng các bộ môn văn học nghệ thuật nước
nhà 1.- Về âm nhạc, nhạc sĩ LÊ THƯƠNG (1914-1996-Hình phải),
vốn từ miền Bắc vào ở trong miền Nam rất sớm,năm1941. Ông
là một trong các nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhac Việt
Nam, từ thập kỷ 30 của thế kỷ trước. Theo tài liệu viết
của bác sĩ Phạm Anh Dũng thì khoảng năm 1943, tại tỉnh Bến
Tre, ông viết bản nhạc HÒN VỌNG PHU 1, bằng âm điệu gần
gũi âm giai Ngũ cung của dân ca Việt Nam với ảnh hưởng từ Chinh
Phụ Ngâm, thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn mà Đoàn
Thị Điểm, đã dịch ra chữ Nôm. Sau đó, ông viết tiếp
HÒN VỌNG PHU 2 (Ai xuôi vạn lý 1946), HÒN VỌNG PHU 3 (Người chinh
phu về 1947). Đây là những bản nhạc hay nhất của nền âm
nhạc Việt Nam. 2.- Về cải lương, có vỡ tuồng tâm
lý xã hội Hòn Vọng Phu, do TRUNG TÂM LÀNG VĂN, sản xuất tháng
6 năm 2006. Đây là một việc làm rất đáng ca ngợi, nhất
là nhằm phục vụ giới thưởng ngoạn của thế hệ thứ 2
của cộng đồng người Việt hải ngoại. Mong rằng, Trung Tâm Làng
Văn tiếp tục, các vở tương tự, kế tiếp. 3.- Về thơ
chữ Hán, có bài hai bài VỌNG PHU THẠCH của CAO BÁ QUÁT
và NGUYỄN DU Từ sự tích chuyện
Trầu Cau, Thiếu Phụ Nam Xương... đến Hòn Vọng Phu, quả thật
người Việt ta, rất đáng tự hào về sự thủy chung của
các truyện truyền kỳ lịch sử của chính mình vậy. THÊM BẢN DỊCH của ĐỖ CHIÊU ĐỨC
& QUÊN ĐI: ĐỖ CHIÊU ĐỨC
:
... Đá Vọng Phu nhớ thương thổn
thức, Tay bồng con non nước vời trông.
Xa xa mặt biển mênh mông, Đầu non tượng đá
tỏ lòng tiết trinh !... Đó
là một vế Song thất Lục bát trích trong bài " NƯỚC TÔI
" của một Thi sĩ Tiền Chiến : NGUYỄN VĂN CỔN, mà tôi được
học thuộc lòng từ nhỏ. Bây giờ đọc lại vẫn còn xúc
động, gởi đến QUÝ VỊ đọc khai vị trước khi tìm
hiểu nghĩa của 2 bài VỌNG PHU THẠCH mà Thầy Lộc đã diễn
nôm... BÀI 1 : Của CAO BÁ QUÁT. 望夫石
Vọng Phu thạch 獨立山頭第一峰, Độc lập sơn
đầu đệ nhất phong, 朱凋粉謝為誰容。
Chu điêu phấn tạ vị thuỳ dung ? 音書久斷人何處,
Âm thư cửu đoạn nhân hà xứ ? 天海無涯路幾重。
Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng ? 血淚煙和明月濕,
Huyết lệ yên hoà, minh nguyệt thấp, 香鬟雲跡綠苔封。
Hương hoàn ân tích lục đài phong. 天荒地老情猶昨,
Thiên hoang địa lão tình do tạc, 夜夜敲殘壁古鐘。
Dạ dạ xao tàn bích cổ chung.
Cao Bá Quát. NGHĨA BÀI
THƠ : Đứng lẻ loi trên đầu núi, xứng danh
là ngọn núi hạng nhất ở đây. Son đã tàn phấn cũng
đã phai rồi còn điểm trang cho ai nữa đây ?. Âm hao thư
tín đã bặt tin lâu rồi, giờ thì chàng ở nơi nao ?. Trời
biển ngút ngàn mênh mông không bờ không bến, Máu lệ
hòa theo khói sóng làm nhòa ướt cả vầng trăng. Tóc mây
giờ cũng dã dượi vì bị phủ kín bởi rêu xanh. Mãi
cho đến lúc trời già đất cỗi tình nầy vẫn tha thiết
như ngày hôm qua, Đêm đêm cứ âm ỉ vổ vào vách
đá như tiếng chuông tàn trong cổ tự. DIỄN NÔM :
ĐÁ VỌNG PHU Chơ vơ đầu
núi dáng ai đang, Phấn nhạt
son phai chẳng điểm trang. Vắng bặt
tin thơ người mấy kiếp, Mênh
mông trời nước lộ bao đàng. Lệ hòa khói sóng nhòa trăng
ướt, Tóc rối rêu xanh phủ
mặt nàng. Đất cỗi trời
già tình vẫn thắm, Đêm
đêm âm ỉ tiếng chuông vang !
BÀI 2 : Của NGUYỄN DU. 望夫石
VỌNG PHU THẠCH 石耶人耶彼何人? Thạch da nhân
da bỉ hà nhân ? 獨立山頭千百春。 Độc
lập sơn đầu thiên bách xuân. 萬劫杳無雲雨夢,
Vạn kiếp yêu vô vân vũ mộng, 一貞留得古今身。
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. 淚痕不絕三秋雨,
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ , 苔篆長銘一段文。
Đài triện trường minh nhất đoạn văn. 四望連山渺無際,
Tứ vọng liên sơn diễu vô tế, 獨教兒女擅彝倫。
Độc giao nhi nữ thiện di luân.
NGUYỄN DU. NGHĨA BÀI THƠ : Người ư,
đá ư, nàng là ai đây ?. Đứng chơ vơ một mình trên
đầu núi đã hàng trăm hàng ngàn mùa xuân rồi ! Muôn
kiếp vẫn không còn mơ gì đến chuyện mây mưa nữa, Một
thân trinh trắng vẫn còn giữ được mãi từ xưa đến
nay. Ngấn lệ không vơi như mưa thu dai dẵng suốt ba thu, Vết rêu
phủ vòng vèo như bản văn trạm trổ trên đá. Quay nhìn
bốn phía núi liền núi biển mênh mông không thấy chân
trời, Luân thường lễ giáo sao lại chỉ riêng giới nữ
lưu phải gìn giữ mà thôi ?!. DIỄN NÔM : HÒN VỌNG PHU
Nàng là ai, là người hay đá
? Chiếc bóng đầu non ngàn
năm trường. Muôn kiếp chẳng
mơ niềm ân ái, Một thân còn giữ trắng như gương. Lệ hằn chẳng dứt thu mưa gió, Rêu phủ không thôi
nét đoạn trường. Bát ngát bốn bề non núi thẳm, Sao riêng nhi nữ chịu luân thường
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm. QUÊN ĐI: Quên Đi xin phỏng
dịch cùng Thầy và Anh Chị hai bài "Vọng Phu Thạch" của
Cao Bá Quát và Nguyễn Du : 望夫石
Vọng Phu thạch 獨立山頭第一峰,Độc lập sơn
đầu đệ nhất phong, 朱凋粉謝為誰容。Chu
điêu phấn tạ vị thuỳ dung ? 音書久斷人何處,Âm
thư cửu đoạn nhân hà xứ ? 天海無涯路幾重。Thiên
hải vô nhai lộ kỷ trùng ? 血淚煙和明月濕,Huyết
lệ yên hoà, minh nguyệt thấp, 香鬟雲跡綠苔封。Hương
hoàn vân tích lục đài phong. 天荒地老情猶昨,Thiên
hoang địa lão tình do tạc 夜夜敲殘壁古鐘。Dạ
dạ xao tàn bích cổ chung. 高伯适
Cao Bá Quát
Dịch Thơ: Đá Vọng
Phu Chơ vơ một bóng đỉnh non cao Son phấn
tàn phai bởi lẽ nào Sông núi người đâu
thư chẳng thấy Biển trời không bến biết phương
nao Khói nhoà máu lệ vầng trăng khóc Hương
tóc đường mây rêu phủ bao Đất cỗi trời
hoang bày thuở trước Chuông đêm tắt lịm thấy nao
nao
Quên Đi
******* 望夫石
Vọng Phu thạch 石耶人耶彼何人? Thạch da? Nhân da?
Bỉ hà nhân? 獨立山頭千百春。 Độc
lập sơn đầu thiên bách xuân 萬劫杳無雲雨夢,
Vạn kiếp liểu vô vân vũ mộng, 一貞留得古今身。
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. 淚痕不絕三秋雨,
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ 苔篆長銘一段文。
Đài triện trường minh nhất đoạn văn. 四望連山渺無際,
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế, 獨教兒女擅彝倫。
Độc giao nhi nữ thiện di luân 阮攸
Nguyễn Du Dịch Thơ:
Đá Vọng
Phu
Là
đá hay người đích thực ai Đầu non một bóng
đứng trông hoài Kiếp phần mờ mịt vu sơn chẳng Giữ phận sáng ngời trinh tiết thay Mưa đổ
ba thu còn lệ ngấn Văn xưng một đoạn dấu
rêu dày Mịt mùng bốn phía non liền núi Gương sáng truyền lưu đến tận nay
Quên Đi
PHƯƠNG
HÀ: I-
Phỏng dịch bài của Cao Bá Quát: HÒN VỌNG PHU Một mình
chót núi đợi ai đây Phấn
nhạt son phai với tháng ngày Biền
biệt bóng chàng, tin nhạn vắng Mênh
mông trời biển, gió mưa bay Nhạt
nhòa máu lệ, vầng trăng đẫm Bạc
phếch màu rêu, mái tóc phai Chung
thủy chờ chồng ngàn vạn kiếp Thương
nàng, chuông đổ tiếng ngân dài.... Phương Hà phỏng dịch II- Phỏng
dịch bài của Nguyễn Du
HÒN VỌNG PHU Là người, là đá,
bóng ai đây ? Mà đứng trơ
vơ đỉnh núi này ? Ân ái
không màng từ vạn kiếp Lòng
trinh vẫn giữ tận xưa nay Sầu hoen
ngấn lệ, mưa mờ phủ Muộn khắc
bờ rêu, nắng nhạt phai Biển núi
mênh mông , trời đất rộng Luân
thường riêng nữ nhận chua cay ?!
Phương Hà phỏng dịch
TRẦN
QUANG KHẢI (1241-1294) Cùng Bạn ,
Cuối tuần , Mailoc xin chuyển đến bạn
hai bài thơ của Trần quang Khải . Qua hai bài , chúng ta vừa thưởng
thức cái nét đẹp trong thi văn Đại Việt , vừa thấy
cái hùng khí ngùn ngũt ngất trời của thi nhân chúng ta ngày
xưa ,và sau cùng là tóm luợc tiểu sử của vị đại
Anh Hùng Trần Quang Khải triều đại nhà Trần một thời
liệt oanh đã 3 lần đại thắng quân Nguyên ( tài liệu
từ Bách khoa toàn thư Wikipedia ).Cám ơn Thân M L
XUÂN NHẬT HỮU CẢM Trần
quang Khải
Xuân nhật hữu cảm (bài 1)
Vũ bạch phì mai tế nhược ty ,
Bế môn ngột ngột tọa thư si
. Nhị phần xuân sắc
nhàn sai quá , Ngũ
thập suy ông dĩ tự tri . Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện ,
Ân ba hải khoát túng lân trì
. Sinh bình đởm
khí luân huân tại , Giải đáo đông phong phú nhất thi .
Dịch nghĩa : Mưa muốm làm tươi
tốt cây mai nên gội ướt cành tơ Đóng cưả ngồi sừng sửng một con người nghiện
sách Nửa phần sắc xuân
đã hờ hửng trôi đi Năm
mươi tuổi tự biết mình suy yếu Tấm lòng cố hương mỏi mệt theo cánh chim bay
Ơn vua như biển rộng , nên còn chần
chờ như con cá giương vây Riêng
chí dũng cảm lúc bình sinh vẫn còn nguyên đó
Say ngả nghiêng trước gió đông
, ngâm một bài thơ .
Cảm Xúc Ngày
Xuân ( I ) Mai tắm dưới
mưa phùn mờ ảo Khép phòng
thư đau đáu lặng ngồi Nửa
đời xuân sắc trôi trôi , Năm
mươi tuổi đã lần hồi yếu ra . Cố hương xa chim đà mỏi cánh , Ân biển trời khiến cá giương vây .
Bình sinh hào khí còn đây ,
Ngâm thơ trong gió say say xuân về .
Mailoc
phỏng dịch
Cali 5-23-14 Cảm Xúc
Ngày Xuân ( bài 2)
Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan ,
Đông phong đặc địa
khởi xuân hàn .. Phiên
không liễu nhứ niêm cao các , Giác mộng Tương quân bốc họa lan .
Bị vật nhuận tòng thiên ngoại
vũ , Kinh tâm hồng
thoái tích thì nhan . Khử
sầu lại hữu tam bôi tửu , Phủ kiếm du du ức cố san .
T Q K Dịch Nghiã
: Bóng trăng mờ mờ , đêm
đã gần tàn Gió đông
đột ngột khơi dậy cái rét mùa xuân Bay múa trên không , tơ liễu dính vào gác cao
Tỉnh mộng , cành trúc đập vào
lan can chạm vẽ Cảnh vật thêm
tươi nhờ trận mưa ngoài trời Lòng kinh sợ sắc mặt hồng hào thời xưa đã phai
Tiêu sầu nhờ có vài chén
rượu Vỗ kiếm , vời vợi
nhớ non xưa . Dịch Thơ :
Cảm Xúc
Ngày Xuân ( 2) Đêm
hồ tàn , trăng mờ hiu hắt , Gió
đông về lạnh ngắt hơi Xuân . Lầu cao liễu múa rộn ràng , Cành tre khuấy mộng lan man ngoài thềm . Mưa gội sạch cảnh thêm tươi mát ,
Bỗng giật mình đâu nét thời
xuân ? Tiêu sầu vài chén
lâng lâng , Vỗ gươm , núi
cũ bâng khuâng nhớ về .
Mailoc phỏng dịch
Cali 5-23-14 Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 1241-1294) là một quý tộc, đại thần nhà Trần, làm đến chức Tể tướng đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước
Nam, ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng
vào bậc nhất.[1] Ông sinh vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Ứng Chính
Bình thứ 10 (1241) đời Trần Thái Tông[2]. Về danh nghĩa, ông là con thứ ba của Trần Thái Tông, với Thuận Thiên hoàng hậu Lý Ngọc Oanh. Trên thực tế, ông là em ruột với Thái tử Trần Hoảng. Người anh đầu Trần Quốc Khang của ông, dù cùng mẹ sinh, nhưng lại là con của An Sinh Vương Trần Liễu.ông còn được phong làm Nam Thiện vương Sử chép:
"
| "Quang Khải lúc mới
sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo
ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này".
Đến khi sống lại, Thái Tông nói:
"Gươm báu truyền quốc, không
thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".
| "
| -Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] | Đại thần trụ cột
Từ nhỏ, ông đã được vua cha
phong tước Chiêu Minh Vương (昭明王) và cho thụ giáo
với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu[4]. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói
của các bộ tộc ít người.[3] Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được vua cha gả Công chúa Phụng Dương (cũng là em gái nuôi của Trần Quang Khải), ban cho thái ấp Độc
Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh)[4]. Sau khi Trần Thánh Tông lên ngôi, ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương[5]. Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), ông được phong làm Thái úy, chính thức tham gia công việc
triều chính khi vừa 20 tuổi. Sử chép: "Bấy giờ, anh vua là Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang
Khải làm tướng"[6]. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), ông được phong làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông[6]. Đầu năm Thiệu Long năm thứ
14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần
đầu triều nắm giữ việc nước[6], đứng trên cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Quan hệ với Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn[ Trần Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Trần Quang Khải là con Trần Cảnh. Hai người với Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu[7]. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông
còn có cả mối bất hòa cá nhân. Cuối năm 1257, Trần Quốc Tuấn được cử làm chỉ
huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới[2], lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước
Đại vương và thăng làm Thái úy. Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số
ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép: " |
Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh
giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc
có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương
Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng
tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ
để tiếp sứ phương Bắc". Quốc Tuấn trả lời: "Việc
tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần
làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan
gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự
ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa
ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá
trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn". Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy
lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
| "
| -Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] | Đầu năm 1281,
sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long với thái độ rất ngạo mạn: "
| Vua sai Quang Khải đến
sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn
trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc
Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc
ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ
quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào
mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt
tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc.
Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu
của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu
đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề
thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông. | " |
-Đại Việt
Sử ký Toàn thư[8] | Nhờ cách ứng
xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái
độ. Khi Sài Thung về lại Đại Nguyên, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có
câu: Vị thẩm hà thời trùng
đỗ diện Ân cần ác
thủ tự huyên lương. Tạm
dịch: Chưa biết ngày nào cùng
tái ngộ Để ân cần
tay nắm chuyện hàn huyên Cuối
năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), Trần Quang Khải được thăng làm Thượng tướng Thái sư
nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính[8]. Tuy vậy, trước tình hình áp lực quân Nguyên Mông gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc[8]. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở
thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương. Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa
cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc,
có khả năng làm đổ vỡ công cuộc kháng Nguyên. Nhận ra điều này, Hưng Đạo Vương chủ động tìm
cách giải hòa:
" |
Một hôm, Quốc Tuấn từ
Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở
về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích
tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: "Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi
áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
"Hôm nay được tắm cho Thượng
tướng". Quang Khải cũng nói:
"Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người
càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng
võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
| "
| -Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] | Đây cũng là
một trong những lý do quân Nguyên Mông phải thêm 2 lần thất bại
ở Đại Việt. Trận Nghệ
An[ Đầu năm 1285, quân Nguyên
tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh.
Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông
đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là công chúa Phụng
Dương đánh thức, thoát được.[9] Tuy nhiên, dưới sự điều động
tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã
thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị
động. Năm Ất Dậu (1285),Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Hưng Đạo Vương tâu vua xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng
mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương. Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân
ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu [10]. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương,
bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc.
Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Vua cho Chiêu
Văn VươngTrần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.[11] Trận Chương Dương Độ,
khôi phục Thăng Long[sửa Lúc bấy giờ đại binh của
Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được
lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương
tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không
nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân
lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng
ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành. Thoát Hoan đem
quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại
bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay)[12]. Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho
quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần
tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà
Trần trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp
và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.[13] Vinh danh[ Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công
ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong
tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công
thần hạng nhất. Sử chép:
" | "Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc
làm tướng văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với
Quốc Tuấn." | " | -Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục[14] | Ông tiếp tục
phụng sự triều đình cho đến khi mất ngày 3 tháng Bảy âm
lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời vua Trần Anh Tông[3]. Vợ ông là công chúa Phụng Dương đã mất trước
đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của
mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.[4] Con ông là Văn Túc Vương Trần
Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng
hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc
mất sớm.[3] Trần Quang Khải được người
dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình
làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông"
được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi
Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân
Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[15][16] Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với
các vị vua nhà Trần. Tác phẩm[ Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời
Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ.
Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt
kê dưới đây: Tòng giá hoàn kinh Phúc hưng viên Lưu gia độ Dã thự Xuân nhật hữu cảm
|
|
|