XUÂN NHẬT HỮU CẢM
TRẦN QUANG KHẢI (1241-1294)
Cùng Bạn ,
Cuối tuần , Mailoc xin chuyển đến bạn hai bài thơ của Trần
quang Khải . Qua hai bài , chúng ta vừa thưởng thức cái nét đẹp
trong thi văn Đại Việt , vừa thấy cái hùng khí ngùn ngũt
ngất trời của thi nhân chúng ta ngày xưa ,và sau cùng là tóm
luợc tiểu sử của vị đại Anh Hùng Trần Quang Khải triều đại
nhà Trần một thời liệt oanh đã 3 lần đại thắng
quân Nguyên ( tài liệu từ Bách khoa toàn thư Wikipedia ).Cám ơn
Thân
M L
XUÂN NHẬT HỮU CẢM
Trần
quang Khải
Xuân nhật hữu cảm (bài 1)
Vũ bạch phì mai tế nhược ty ,
Bế môn ngột ngột tọa thư si
.
Nhị phần xuân sắc
nhàn sai quá ,
Ngũ
thập suy ông dĩ tự tri .
Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện ,
Ân ba hải khoát túng lân trì
.
Sinh bình đởm
khí luân huân tại ,
Giải đáo đông phong phú nhất thi .
Dịch nghĩa :
Mưa muốm làm tươi
tốt cây mai nên gội ướt cành tơ
Đóng cưả ngồi sừng sửng một con người nghiện
sách
Nửa phần sắc xuân
đã hờ hửng trôi đi
Năm
mươi tuổi tự biết mình suy yếu
Tấm lòng cố hương mỏi mệt theo cánh chim bay
Ơn vua như biển rộng , nên còn chần
chờ như con cá giương vây
Riêng
chí dũng cảm lúc bình sinh vẫn còn nguyên đó
Say ngả nghiêng trước gió đông
, ngâm một bài thơ .
Cảm Xúc Ngày
Xuân ( I )
Mai tắm dưới
mưa phùn mờ ảo
Khép phòng
thư đau đáu lặng ngồi
Nửa
đời xuân sắc trôi trôi ,
Năm
mươi tuổi đã lần hồi yếu ra .
Cố hương xa chim đà mỏi cánh ,
Ân biển trời khiến cá giương vây .
Bình sinh hào khí còn đây ,
Ngâm thơ trong gió say say xuân về .
Mailoc
phỏng dịch
Cali 5-23-14
Cảm Xúc
Ngày Xuân ( bài 2)
Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan ,
Đông phong đặc địa
khởi xuân hàn ..
Phiên
không liễu nhứ niêm cao các ,
Giác mộng Tương quân bốc họa lan .
Bị vật nhuận tòng thiên ngoại
vũ ,
Kinh tâm hồng
thoái tích thì nhan .
Khử
sầu lại hữu tam bôi tửu ,
Phủ kiếm du du ức cố san .
T Q K
Dịch Nghiã
:
Bóng trăng mờ mờ , đêm
đã gần tàn
Gió đông
đột ngột khơi dậy cái rét mùa xuân
Bay múa trên không , tơ liễu dính vào gác cao
Tỉnh mộng , cành trúc đập vào
lan can chạm vẽ
Cảnh vật thêm
tươi nhờ trận mưa ngoài trời
Lòng kinh sợ sắc mặt hồng hào thời xưa đã phai
Tiêu sầu nhờ có vài chén
rượu
Vỗ kiếm , vời vợi
nhớ non xưa .
Dịch Thơ :
Cảm Xúc
Ngày Xuân ( 2)
Đêm
hồ tàn , trăng mờ hiu hắt ,
Gió
đông về lạnh ngắt hơi Xuân .
Lầu cao liễu múa rộn ràng ,
Cành tre khuấy mộng lan man ngoài thềm .
Mưa gội sạch cảnh thêm tươi mát ,
Bỗng giật mình đâu nét thời
xuân ?
Tiêu sầu vài chén
lâng lâng ,
Vỗ gươm , núi
cũ bâng khuâng nhớ về .
Mailoc phỏng dịch
Cali 5-23-14
Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 1241-1294) là một quý tộc, đại thần nhà Trần, làm đến chức Tể tướng đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước
Nam, ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng
vào bậc nhất.[1]
Ông sinh vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Ứng Chính
Bình thứ 10 (1241) đời Trần Thái Tông[2]. Về danh nghĩa, ông là con thứ ba của Trần Thái Tông, với Thuận Thiên hoàng hậu Lý Ngọc Oanh. Trên thực tế, ông là em ruột với Thái tử Trần Hoảng. Người anh đầu Trần Quốc Khang của ông, dù cùng mẹ sinh, nhưng lại là con của An Sinh Vương Trần Liễu.ông còn được phong làm Nam Thiện vương
Sử chép:
"
| "Quang Khải lúc mới
sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo
ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này".
Đến khi sống lại, Thái Tông nói:
"Gươm báu truyền quốc, không
thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".
| "
|
-Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] |
Đại thần trụ cột
Từ nhỏ, ông đã được vua cha
phong tước Chiêu Minh Vương (昭明王) và cho thụ giáo
với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu[4]. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói
của các bộ tộc ít người.[3]
Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được vua cha gả Công chúa Phụng Dương (cũng là em gái nuôi của Trần Quang Khải), ban cho thái ấp Độc
Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh)[4]. Sau khi Trần Thánh Tông lên ngôi, ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương[5].
Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), ông được phong làm Thái úy, chính thức tham gia công việc
triều chính khi vừa 20 tuổi. Sử chép: "Bấy giờ, anh vua là Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang
Khải làm tướng"[6]. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), ông được phong làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông[6].
Đầu năm Thiệu Long năm thứ
14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần
đầu triều nắm giữ việc nước[6], đứng trên cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Quan hệ với Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn[
Trần Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Trần Quang Khải là con Trần Cảnh. Hai người với Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu[7]. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông
còn có cả mối bất hòa cá nhân.
Cuối năm 1257, Trần Quốc Tuấn được cử làm chỉ
huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới[2], lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước
Đại vương và thăng làm Thái úy.
Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số
ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép:
" |
Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh
giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc
có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương
Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng
tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ
để tiếp sứ phương Bắc". Quốc Tuấn trả lời: "Việc
tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần
làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan
gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự
ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa
ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá
trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn". Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy
lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
| "
|
-Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] |
Đầu năm 1281,
sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long với thái độ rất ngạo mạn:
"
| Vua sai Quang Khải đến
sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn
trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc
Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc
ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ
quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào
mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt
tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc.
Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu
của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu
đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề
thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông. | " |
-Đại Việt
Sử ký Toàn thư[8] |
Nhờ cách ứng
xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái
độ. Khi Sài Thung về lại Đại Nguyên, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có
câu:
Vị thẩm hà thời trùng
đỗ diện
Ân cần ác
thủ tự huyên lương.
Tạm
dịch:
Chưa biết ngày nào cùng
tái ngộ
Để ân cần
tay nắm chuyện hàn huyên
Cuối
năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), Trần Quang Khải được thăng làm Thượng tướng Thái sư
nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính[8]. Tuy vậy, trước tình hình áp lực quân Nguyên Mông gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc[8]. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở
thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.
Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa
cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc,
có khả năng làm đổ vỡ công cuộc kháng Nguyên. Nhận ra điều này, Hưng Đạo Vương chủ động tìm
cách giải hòa:
" |
Một hôm, Quốc Tuấn từ
Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở
về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích
tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: "Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi
áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
"Hôm nay được tắm cho Thượng
tướng". Quang Khải cũng nói:
"Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người
càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng
võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
| "
|
-Đại Việt
Sử ký Toàn thư[3] |
Đây cũng là
một trong những lý do quân Nguyên Mông phải thêm 2 lần thất bại
ở Đại Việt.
Trận Nghệ
An[
Đầu năm 1285, quân Nguyên
tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh.
Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông
đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là công chúa Phụng
Dương đánh thức, thoát được.[9]
Tuy nhiên, dưới sự điều động
tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã
thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị
động. Năm Ất Dậu (1285),Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Hưng Đạo Vương tâu vua xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng
mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương. Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân
ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu [10]. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương,
bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc.
Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Vua cho Chiêu
Văn VươngTrần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.[11]
Trận Chương Dương Độ,
khôi phục Thăng Long[sửa
Lúc bấy giờ đại binh của
Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được
lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương
tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không
nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân
lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng
ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành. Thoát Hoan đem
quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại
bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay)[12]. Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho
quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần
tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà
Trần trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp
và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.[13]
Vinh danh[
Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công
ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong
tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công
thần hạng nhất.
Sử chép:
" | "Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc
làm tướng văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với
Quốc Tuấn." | " |
-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục[14] |
Ông tiếp tục
phụng sự triều đình cho đến khi mất ngày 3 tháng Bảy âm
lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời vua Trần Anh Tông[3]. Vợ ông là công chúa Phụng Dương đã mất trước
đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của
mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.[4]
Con ông là Văn Túc Vương Trần
Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng
hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc
mất sớm.[3]
Trần Quang Khải được người
dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình
làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông"
được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi
Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân
Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[15][16] Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với
các vị vua nhà Trần.
Tác phẩm[
Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời
Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ.
Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt
kê dưới đây:
Tòng giá hoàn kinh
Phúc hưng viên
Lưu gia độ
Dã thự
Xuân nhật hữu cảm