TÂM BÚT
Huỳnh Minh Bích Nga
Sài Gòn__________________________________________
Huỳnh Minh Bích Nga là tác giả
mới đến với Trang Nhà từ tháng 3/2014. Cô là ái nữ của
Niên Trưởng Đồng Môn HUỲNH MINH BẢO. Niên Trưởng Bảo
học PTG khoảng thời gian từ 1949 đến 1955 (cùng lớp với Niên Trưởng Trần Bá
Xử, Cố GS-HT Trương Quang Minh…). Niên Trưởng Bảo tốt nghiệp
kỹ sư Lâm Nghiệp khóa 1 Trường Nông Lâm Mục. Sau đó
phục vụ trong QLVNCH. Niên Trưởng Bảo tạ thế tại Sài Gòn
ngày 12/3/2014, hưởng thọ 79 tuổi. Nhân chuyến về VN, Niên Trưởng
Trần Bá Xử chỉ kịp dự đám tang người bạn cùng
lớp của mình. Cũng qua Niên Trưởng Xử, cháu Bích Nga liên
lạc với Trang Nhà. Đọc các bài viết của Bích Nga chúng
tôi nhận thấy đây là những tác phẩm văn chương đáng
được chia sẻ với bạn đọc.
Những trang viết của Huỳnh Minh Bích
Nga xin được gọi là Những Dòng Tâm Bút. Tác giả đã
tâm tình qua những đoản văn viết về cha mình và
những sinh hoạt rất đẹp của Văn Hóa thôn quê Miền Nam. Trong
1 email gởi cho Người Phụ Trách, cháu Bích Nga đã viết: “Cháu đã viết rất nhiều về cha của cháu trong
hai năm qua. Khi ba cháu bắt đầu thực sự suy yếu. Cháu xem lại
và khóc, đó như là những gì ghi chép chân thật nhất
về cha của mình. Ông sống là chan hòa, yêu thương. Cháu
gởi cho chú đọc, như một chia sẻ về ba cháu, một thiên thần
thánh thiện đã về trời.”
Xin ân cần giới thiệu với đọc giả những dòng tâm
bút này.
TBT
Tháng 4 qua
Tháng 4 đã trôi qua như
một cái chớp mắt. Cha của tôi là người nằm trong số triệu
người buồn. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông hối tiếc vì
sự ở lại của mình. Vì ở lại, dù chịu trăm ngàn
đắng cay, ông đã gặp được người chị của mình.
Người chị với tấm lòng yêu nước đã từ bỏ gia
đình gia nhập kháng chiến, đã ra Bắc và mất biệt tin tức.
Cũng như được sống cạnh người cha già mà ông rất
mực yêu thương, được chăm lo cho cha và chị đến giờ
phút cuối của cuộc đời, trong cái mốc mà ai cũng phải đến:
Sinh lão bệnh tử.
Chỉ có những điều ông tiếc. Cái
ngày ông ra trình diện cải tạo. Một cờ mờ ba mươi đập
bàn quát ông: Anh là thành phần chạy hỏng kịp, chứ ở
lại cái gì.
Học tập xong, ông
đi về tìm cái bạn cờ mờ ba mươi đó: Thì ra gã
đã cùng gia đình vượt biên mất tiêu....
Ông tiếc là mấy lần về Sài Gòn làm việt
kìu yêu nước mắm, cái gã thúi khăn khẳn đó
đều né tránh gặp ông.
Gã
sợ, nỗi sợ cùa một con chuột đen nhuộm lông để giả
làm con chuột xám. Và rất sợ một gáo nước cũng làm
trôi bộ lông nhuộm dối đó..
Một
nhân vật khác, trước ngày ba mươi rất nhiệt tình leo lên
xe jeep Mỹ, xé cờ Mỹ, đả đảo Mỹ.. vậy mà trước
ngày ba mươi lai leo tàu Mỹ di tản mất tăm..
Sang Mỹ, chả biết buồn tình thế nào, lại lập
ra nhóm tố cộng những người ở lại..
Rồi sau nầy, nhân vật ấy lại về Sài Gòn, mời
bạn bè xưa từng bị tố ra ăn uống như để chuộc lỗi.
"Ai cũng có thời vụng dại mà. Em chỉ làm thế chỉ vì
không hiểu, vì nông nổi".
Ba
tôi từ chối không ra. Chỉ gởi lời cám ơn.
Người đó tìm đến nhà, trách ba nhỏ
nhen. Nhưng ba tôi chỉ nói: "Tôi không ra vì muốn giữ mãi
hình ảnh tốt đẹp về bạn".
Ba tôi là người ở
lại.
Ông chỉ muốn sống ở quê
hương mình, trong một đất nước hòa bình, vì ông chán
ghét chiến tranh. Vì không còn muốn thấy con người bắn nhau,
giết nhau..
Ông không đi theo con đường
binh nghiệp, đó là vì sao ông dừng lại ở mức lon đại
úy.
Sau khi đi học tập về, ông
không buồn vì thời hạn của mình chỉ có hai năm. Không
đủ để đi HO...ông chỉ buồn, vì sau khi ông về, nhiều
bạn bè ông đã bị chuyển đi khắp nơi...Chết nhiều hơn
sống.
Ông cũng không buồn vì
bị mang tiếng bảo thủ, đã không như nhiều gia đình khác:
Đưa những đứa con của mình xuống tàu ra biển. Vì trẻ
con khi ra đến đảo sẽ đánh động lòng trắc ẩn của
người nước ngoài, sẽ mau chóng được đi định cư...Ông
đã giữ những đứa con trong vòng tay của mình, no đói có
nhau. Nhưng không mất đứa con nào hết.
Con của ông, đứa đỏ, đứa xanh, đứa vàng.. Có
đứa trách móc ông lý lịch làm cho chúng không đỏ,
đứa xanh thì cho rằng vì ông mà nó bị sọc dưa. Nhưng
cái đứa vàng, nó hiểu ông, đó là niềm an ủi của
ông khi nhắm mắt.
Ông đã sống
một cuộc sống như nhân cách sống của ông, trải qua bể dâu
học tập, đổi tiền, đánh tư sản,.. Sống khoan hòa ung dung
, dù có thể ăn khoai với muối, nhường cơm cho vợ cho con. Và
cả cho những cơn điên cuồng tiếc nuối quá khứ của bà
mẹ vợ luôn tâm thần hoang tưởng.
Ông có một lần nói:
Đời ba hạnh phúc khi thấy các con ba trưởng thành. Mà trong
đó không có đứa nào tham gia đánh tư sản, đấu
tố cha mẹ. hay sau nầy quay sang trách cha sao không học tập cho đủ
năm để cả nhà đi HO.
Cũng
không bị đi kinh tế mới, đi thanh niên xung phong.
Trừ 1 đứa đi lính thời bình. Mà chính vì
‘đứa" đi lính nầy, ông từ chối làm hồ sơ HO lần
2, vì sợ đi sẽ bỏ con lại..
Chỉ có một lần, ông giận dữ. Đó
là khi bà cách mạng nhà bên kiên quyết dành cái tường
chung làm tường riêng của bà. Không cho ông đặt chậu xương
rồng lên góc tường ( để trộm không trèo vào). Ông
chỉ mặt bà và nói: "Cả miền Nam chúng tôi đã
không dành. Tôi thèm dành cái cột rào nầy sao".
Hôm qua, sinh
nhật thứ 90 của ba. Con gái viết bài nầy như một lần thắp
nến mừng sinh nhật của ba.
Huỳnh
Minh Bích Nga
Mùa củ Lùn
Tháng chạp âm, đang vào mùa
củ Lùn , loại củ mà phụ nữ phương Namn thích nhất trong
tất cả các giống cây có củ. Xưa, người Cần Thơ phân
biệt: Củ lùn trồng ở cồn, nhiều cát, củ sẽ to hơn, da đẹp
nhưng không ngọt, không bột bằng củ lùn trồng đất, dù
trồng ở đất củ sẽ nhỏ, da không mượt mà cho lắm.
Ngay cả bây giờ cũng vậy, người miền
Tây vẫn không ưa ăn các loại củ củ to đẹp, vì
củ sẽ không ngọt ngon bằng loại củ nhỏ. Vì thường đoan
chắc là loại củ to đẹp ấy là giống ngoại và với
thời buổi phân thuốc bây giờ, không biết có đúng là
trồng ở cồn hay không.
Lang thang ngoại
thành, hướng Bình Chánh. Thấy một xe củ Lùn đang bốc khói.
Cái loại củ be bé vỏ vàng nhạt, lấm chấm sợi gai mềm.
Ghé vào mua ăn và hỏi thăm: Đặc sản Cần Thơ sao lại
lưu lạc ở đây. Cô bé bán hàng cười giòn: Giờ
trồng tùm lum hết rồi. Dễ trồng lắm, giống Thái. Nên có
tên nghe kêu kêu là khoai lùn Thái. Nhà con có đất, giặm
nhánh như khoai lang, vô phân, làm cỏ, chờ cây kết củ thì
thu hoạch. Hỏng có sâu bệnh gì hết. Ăn củ nầy giòn giòn
mát mát.
Tôi quê xứ Cần
Thơ, ngày xưa hay về bên ngoại vì có đất vườn rộng
minh mông. Ngoài đám dong ngãi, nghệ, gừng. Bà ngoại tôi còn
dành chổ cho đám năn tàu, loại cây bụi cho củ, mà nghe
người xưa kể rằng: Xưa người Minh di dân, họ xuống tàu
mang đủ thứ theo. Rồi đến xứ Cần Thơ thì dừng lại ngụ
cư, xây nhà dăm trồng cây củ. Một trong các loại đó
là cây năn tàu. Gọi là năn vì luộc lên có mùi
như củ năn, ăn cũng giòn sực như củ năn. Mà của người
Hoa mang tới thì cứ gọi năn tàu để phân biệt với năn
xứ mình.
Cần Thơ gạo trắng
nước trong. Cây gì mọc cũng tốt. Năn tàu bén rể xanh tốt,
sinh sôi rồi thành cây mọc hoang khắp nơi. Mà thường để
nhổ luộc ăn chơi cho mát, hay nấu chè.. Không xếp vào lại
cây củ quý.
Mùa củ lùn
ngon nhất, theo lời ngoại tôi là mùa cuối năm, giáp tết. Tôi
cũng không hiểu lý do vì sao, vì người xưa biết nhiều đều
khuất bóng. Chỉ biết là khi trường học cho nghỉ tết là
tôi leo xe đò về Cần Thơ. Rồi trong khi tôi ngồi trên bộ
ván uống nước trà đường, thì ngoại cùng các dì,
mợ xách rổ, dao ra vườn sau đào củ lùn. Rồi chừng lát
sau, từng chùm củ vàng lúc lỉu, như chùm dâu da vàng
be bé đã nằm chờ rửa rồi bỏ vào nồi luộc ở ngoài
sàn nước.
Tới bây giờ, người
miền Tây vẫn truyền cho nhau "bí kíp" để có một nồi
củ Lùn luộc ngon ngọt. Đó là sau khi cắt rể rồi rửa sạch,
để ráo. Củ lùn được cho vào nồi cùng với lá
dứa xanh và một ít muối bọt. Như thế khi ăn sẽ có vị
đậm đà.
Với củ lùn xưa,
do mọc hoang nên phần thịt xốp và cứng, không có nhiều tinh
bột như củ lùn trồng sau nầy, nên ngoại tôi hay đổ nhiều
nước và để lửa to. Rồi khi nước sôi lâu và đều,
ngọai dùng cây trâm giắt tóc xâm thử xem củ đã chín
chưa, nếu đã chín thì đổ ra rổ. Lúc đó, mùi
củ Lùn hòa lẫn trong hương lá dứa bay thơm bát ngát. Chờ
nguội một chút là tha hồ thưởng thức một món ăn chơi
vừa mát vừa giòn.
Rồi nếu
như còn nhiều nữa, các dì tôi sẽ gọt vỏ ngoài, lấy
phần lõi củ trắng tinh bên trong, mang đi nấu với đậu xanh, đường
cát. Rồi sau bữa trưa hay tối, tôi lại có thể ăn thêm món
chè củ lùn. Cho đến bây giờ, cái cảm giác cầm một
chén chè nóng ấm trên tay, dùng muỗng hớt từng miếng củ
lùn xắt hột lựu trộn lẫn đậu xanh mềm, rồi cho vào miệng
nhai thật chậm, để nghe răng lưỡi tận hưởng vị ngọt của
đường, vị bùi của đậu xanh, và vị giòn sừn sựt
của củ Lùn..
Củ lùn ăn mát,
đẹp da. Tôi còn nhớ ngoại tôi nói như vậy. Mà quả
thật, vào thời đó, từ ngoại tôi, đến các dì trong
nhà, các chị lối xóm chung quanh. Da người nào cũng mịn màng
tươi mát. Còn tính tình thì vui vẽ, mau mắn..Có thể
do ăn hoài một thứ trị nóng nhiệt trong người là củ lùn
chăng?.
Củ lùn hiện tại:
Cần Thơ vẫn còn là xứ chính của
củ Lùn. Đi xe máy về miền Tây qua cung đường Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Cần Thơ.. Hai bên đường( nhất là nơi có các
khu du lịch sinh thái) sẽ bắt gặp những xe đẩy hay sạp nhỏ bán
củ Lùn. Cũng có khi bán chung với củ ấu, củ năng..Luộc
sẵn hay để sống đều có. Càng gần về đến Cần Thơ
thì bày bán càng nhiều. Củ lùn Cần Thơ là giống xưa.
Ăn giòn và ít bột hơn củ Lùn giống mới( khoai lùn Thái)
của vùng Tịnh Biên, An Giang.
Còn
câu hỏi vì sao tháng chạp là mùa rộ của củ Lùn. Tôi
chon câu giải thích của mợ tám- một người lớn tuổi nhất
trong họ, còn sống ở quê, thì: Đó là mùa lúa màu
gì cũng xong hết. Mọi người quay sang dọn nhà dọn vườn đón
Tết. Mà dọn thì phải tém dẹp cây cỏ. Nên mấy bụi
củ Lùn cũng bị nhổ dọn. Một công hai việc, vừa sạch vườn.
Vừa có nồi củ ăn chơi, nấu chè. Mùa mưa củ Lùn tốt
lá, mùa nắng củ lùn teo lại nhiều xơ. Nên cái mùa củ
Lùn ngon nhất chính là mùa mưa vừa hết, đất vừa khô
ráo. Củ lùn ngậm chất bổ từ thiên thời, địa lợi nên
chùm củ cứ mập ú lại ngọt nước..
Củ lùn dễ trồng lắm. Cô bé sinh viên vùng
Phong Điền khoe lên mạng những bụi củ Lùn mà cô vừa thu
hoạch trong .. chậu. Như nghệ, gừng và những loài rau củ tươi
sạch khác. Chỉ cần nước vừa đủ và đất tơi xốp.
Cô cũng hy vọng những người trồng hoa kiểng sẽ tính tới việc
đưa cây củ Lùn với bộ rể độc đáo và...ăn
được nầy vào các loại cây cảnh chưng Tết..
Ở thành phố, muốn ăn củ Lùn mùa
nầy chắc không khó. Vì giao thương bây giờ nhanh và phong phú.
Tôi vẫn thấy ngay đầu chợ đường Nguyễn Sơn quận Tân
Phú có một chổ bày bán nồi củ lùn luộc.Bên cạnh
củ năng, đậu phọng nấu, khoai lang, khoai mì hấp nước dừa..
Tra trên mạng: Củ lùn (còn có tên
gọi là năn tàu), tên khoa học là Calathea allovia. Cây mọc thành bụi cao khoảng 1 mét,
lá màu xanh (giống như lá nghệ) dài khoảng 20 - 30 cm, cuống lá
đứng thành bẹ bao phủ thân.
Củ lùn hình tròn, cuống dài kết
thành từng chùm, vỏ mỏng màu vàng nhạt, tua tủa những rễ
phụ. Ruột củ lùn màu trắng trong, phần nhân màu trắng
đục chứa nhiều tinh bột. Củ lùn cũng có thể mài thành
bột, nhưng giá trị kinh tế không cao, làm lại mắc công nên
ít ai muốn làm, chỉ dành luộc ăn chơi là chính.
Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh:
Duy Trân
___________________________________________________________________
MIỀN TÂY, MÙA CÁ
RA SÔNG
Tháng
10 âm lịch, nước đã rút. Những
cánh đồng mênh mông đã ló dạng, nền ruộng dần dần đổi
thành màu đất phù sa vàng đỏ.
Đi kèm với nước rút là gió, người miền
Tây gọi là gió bấc (hay gió Bắc) thổi mạnh, nhìn thấy
rõ qua cách nó thổi mạnh những con nước chạy ra sông đầu
nguồn. Từng đàn cá linh (giờ không còn nhiều như xưa nữa),
lúc nầy đã cứng mình, to hơn đầu ngón tay, bơi theo những
dòng nước từ các cánh đồng chảy trôi ra kênh rạch
rồi tiến ra sông lớn.
Trên những con sông từ nhỏ đến lớn,
người dân lại hối hả giăng lưới. Lo vợt bắt cú chót.
Cá linh mùa cuối lũ, cùng các loại cá khác - đều đã
lớn. Thích hợp cho việc làm mắm và khô.
Lúc này có thể coi như là mùa đánh bắt
cá sôi động nhất trong mùa nước nổi, vì số lượng
cá ra sông lúc này rất nhiều. Những con cá đã lớn, không
phải chỉ có cá linh, mà còn rất nhiều loại cá khác
như chốt, heo, mè vinh, rô lăng, thiểu...
Thậm chí có cả
cá lóc đồng.
Năm ngoái, lũ
về miền Tây sau bao năm vắng bóng. Tuy nước lũ là do mưa,
nhưng cũng đủ để từng đàn cá linh non từ từ bơi
theo con nước và lớn lên theo con nước từ thượng nguồn đổ
về.
Cũng là năm ngoái, người
miền Tây e dè bắt cá linh non, vì có cái "lịnh" là
cấm đánh bắt cá linh bột, để chúng kịp lớn và sinh
sản..
Cũng có thể nhờ vậy. Rồi năm nay bị lở đập
(người miền Tây nói mà chép miệng xót xa) trên thượng
nguồn. Lũ năm nay nước về cuồn cuộn, có thêm phù sa, và
có những giống cá - mà tưởng như mất hết, là tụi
cá heo sông...
Họ đi bắt cá
mà cứ thở dài: Mình dưới nầy đặng vui, được mùa
cá, phù sa cho cây cối tốt tươi. Trên kia họ người chết,
nhà cửa tài sản bị vùi. Tang thương quá.
Rồi lại lắc đầu: Tại ba cái đập thủy
điện. Bức bách thiên nhiên quá thì tự nhiên chống trả.
Con người lại phải gánh chịu.
Như
ngày xưa: Cá linh là một trong những loài cá theo dòng Mê
Kông trôi về các sông đầu nguồn Cửu Long vào mùa con nước
nổi. Cá linh từng là của Trời cho, do mẹ thiên nhiên ban tặng.
Con cá linh con cứ từ thượng nguồn, kết đàn đi theo sông
và kinh rạch, tràn vào các cánh đồng mênh mông ngập
nước. Cứ nước càng cao thì cá Linh càng về nhiều. Để
tới mùa là người dân giăng lưới đánh bắt cá,
có khi cả ngày lẫn đêm ...
Ngày
xưa, những năm nước lớn, chuyện đánh bắt được vài
chục giạ cá mỗi ngày là điều bình thường. Nhưng trong
những năm gần đây, mỗi ngày đánh bắt được vài
trăm ký - thì đã được xem như là trúng.
Mùa lũ miền Tây thường kéo dài
trong ba tháng, tháng cuối là những ngày nước rút, cá ra.
Cũng là mùa những người đánh bắt thả những tay lưới
cuối cùng trước khi dọn dẹp, cất ghe lên bộ. Để kịp
về dọn ruộng chuẩn bị trồng tỉa cho mùa "Tết nhứt tới
nơi".
Mùa "cá ra". Chợ bày
bàn đủ loại cá, cá linh thì đã lớn, xương cứng
- nên người đi chợ không còn săn đón như cá linh non.
Đa số chủ yếu cá mùa nầy được "móc hầu"
- tức là cắt đầu, làm sạch để làm mắm, chế biến
nước mắm.
Rồi khi mùa nước đã đi qua, gió
lạnh đưa hơi mùa xuân sắp đến, thì các cánh đồng
lại xôn xao một mùa vụ mới, những ngư dân lại trở về mảnh
ruộng, miến vườn với những suy tính về trồng bông, trồng
rau, trồng dưa , trồng lúa...
Để
tiếp tục những giọt mồ hôi rơi trên mặt đất.
Để
hy vọng một mùa nước năm sau, nước mang phù sa về cùng cá
tôm và niềm vui mưa thuận gió hòa, ai cũng an vui.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Ảnh:
DUY TRẦN
Một nét văn hóa phương Nam:
Mùa
đua bò qua những góc nhìn khác
Bài và ảnh: Trần Duy Trân
"Tháng 9 về Tri
Tôn coi đua bò nhé".
Cứ gần
đến tháng 9 là bạn ảnh trên facebook nhắn nhau. Có đến
hai lễ hội đua bò khác nhau. Một là dành cho giới nhiếp ảnh,
gọi là đua bò Chùa Rô. Do các Sãi cả chùa Rô
và những nhiếp ảnh gia chung tay tổ chức. Nhằm phục dựng một
lễ hội đúng với tính chất là một lễ hội văn hóa
truyền thống, mang đậm bản sắc của đồng bào dân tộc
Khmer. Vì thế sẽ không có băng rôn quảng cáo, không có
nón áo của các nhà tài trợ.
Nhưng sẽ có những nồi chè thốt nốt do nhà chùa tài
trợ. Có tất cả thiện nguyện sau cuộc thi sẽ tỏa đi lượm
sạch rác. Có buổi chiều đi theo xem phụ nữ cấy lúa trên
ruộng cho chùa, còn buổi tối chơi trung thu cùng các em thiếu nhi...
Nên lễ hội đua bò chùa Rô, mới
sang năm thứ 2 đã là điểm tập trung của hàng trăm tay máy
yêu cái đẹp. Hứa hẹn là điểm son văn hóa của mùa
lễ Sene Dolta của đồng bào Khmer Nam Bộ (*)
(*) Gọi nôm na là Lễ cúng ông bà, thường diễn
ra từ ngày 29-8 đến mùng 1-9 âm lịch (nếu tháng thiếu
thì từ 29-8 đến mùng 2-9 âm lịch).
Còn
lễ hội thứ hai, quy mô hơn. Do Ủy ban nhân dân thành phố Châu
Đốc phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
An Giang đồng tổ chức. Nhưng dù do tỉnh hay chùa, đều mang
những nét đậm sắc văn hóa, là một phần trong những
lễ hội truyền thống của vùng bảy Núi -Ang Giang, vốn đã
có rất nhiều huyền thoại.
"Tháng 9, vào mùa đua bò, về
coi đi. Vui lắm. Vui từ xóm làng đến các bãi quần bò,
đến các cuộc thi vòng loại..."
Những người quê An Giang í ới bảo nhau. Ngoài tết của
người Khmer phương Nam, còn là tết trung thu của trẻ con. Về coi
đua bò, xách theo ít kẹo bánh, lồng đèn xếp. Chơi với
con nít vùng quê, xem phụ nữ ra đồng cấy lúa. Xem gia đình
người nông thôn xếp lễ lên chùa. Xem hàng cây thốt nốt
vươn cao trong bình minh...
Xem nhiều thứ
lắm.
Nhưng xem ra, vui nhất chính là
những người dân địa phương. Lòng ai cũng như mở hội.
Đi bộ vòng quanh vài sân nhà, thấy
những người đàn ông đang chăm sóc bò. Những con bò
mình trắng, chân cao. Đặc trưng của giống bò Bảy Núi. Đi
thêm qua vài mảnh ruộng xâm xấp nước, nơi là bãi thi thử
của vài đôi bò. Để thấy người lớn, trẻ con hớn
hở. Người có bò thì tập, người có kinh nghiệm thì
bảo ban. Lâu lâu có thêm nhà dắt bò ra, cứ mỗi lần như
thế lại thấy thêm con nít đi theo, reo hò cổ vũ.
Quanh đó, vài người bán dạo nào kem,
bánh, nước, trái cây. .. cũng hớn ha hớn hở.
Những người năm nào cũng đi coi đua
bò hay khuyên: Nếu đi chơi thì nên đi vào vòng loại vì
người xem ít đông. Còn ham đi vào đúng dịp chung kết
thì coi như đen nghẹt từ vòng gởi xe, còn giới săn ảnh-
đa chà .... Chèn ui, y như hành quân với binh đoàn trùng trùng
lớp lớp. Súng ống tua tủa, chưa kể thang xếp, gậy sào,
flycam thì bay vèo vèo
như trực thăng...
Người viết không phải là dân nòng
to súng dài, cũng không phải là tín đồ săn ảnh đua
bò về đích tung tóe nước. Dù cũng rất "quan ngại"
cảnh các bạn nhiếp ảnh gia lấm lem sình đất, chỉ để
có một bức ảnh "chất ngất " nhất.
Người viết chỉ thích làm một kẻ đi len lỏi
quanh vòng rìa sân khấu. Nơi có những người dân địa
phương đang tận hưởng không khí lễ hội đông vui.
Như lần nào, khi vừa bước vào khu vực sân đua bò
chùa Tà Miệt (xã Lương Phi, huyện Tri Tôn), đã thấy một
không khí rất vui. Vui trên gương mặt sạm nắng của người
dân đi xem, các gia đình trong xã đi cổ vũ cho người thân,
lối xóm....Du khách, giới săn ảnh, báo chí.. Và của
đám con nít lớn bé da đen nhẻm đang leo trèo, vắt vẻo trên
các nhánh cây.
Của cái nắng
hắt lên từ nước ruộng bên khu vực chờ thi. Của những con
bò kiên nhẫn, của cái hồi hộp trông ngóng của các chủ
bò, các tài bò- thôi cứ tạm gọi là như thế. Trước
khi "lái" bò ra sàn đấu. Trong cái vui của ngày hội
hừng hực khí thế.
Nhưng theo cảm
nhận riêng của mình, người viết thấy những người vui nhất
chính là những người buôn bán nhỏ quanh khu vực sân đua.
Tại đây, có khói thơm lừng từ những vĩ nướng bò
lá lốt, lạp xưởng, thịt ướp, ếch, và muôn thức nướng
hấp chiên xào khác. Rồi bánh mì thịt, bánh mì tương,
trứng cút, đu đủ,
củ sắn ướp lạnh, cóc ổi xoài ngâm, cam, chanh đá, trà
đá... Người thì dựng xe rao bán, người thì bê thau thúng
rổ len lỏi trong đám đông, ai cũng vui vẽ hỉ hả.
Trong đội ngũ buôn bán đậm sắc vùng
miền ấy, có bánh bò thốt nốt, bánh tét, bánh ít,
bánh ú miền Tây, rau củ quả sấy Tây Nguyên. Thậm chí
có luôn khoai lắc, phô mai que, xúc xích nướng kiểu thành phố.
Tóm lại là cái gì cũng có.
Nhưng có những cái dễ thương nhất
là những khúc bánh mì không xịt tương giá 500 đồng,
cái bịch đá bào xịt chút xirô màu giá một ngàn
đồng.. Vừa bán vừa cười, coi như "bù qua sớt lại"
cho đám nhỏ, bởi ( theo người bán): Toàn con nhà nghèo. Mình
coi năm ba ngàn đã lớn, tụi nó năm trăm, một ngàn đã
"không mơ thấy nổi". Hẹp một chút mà ai cũng vui.
Chợt nhớ một người lớn đi chơi
hội mà người viết vừa quen, bác đã nói: Đây là một
lễ hội đúng nghĩa, vì người dân được thỏa sức
vui chơi trong cái lễ hội
nầy, vui từ con nít tới người lớn. Ở khu chờ đợi để
đưa bò ra đua thì thanh niên, tráng niên háo hức hồi hộp,
khu đường đua thì người già, con nít, phụ nữ... Túm
lại là nam phụ lão ấu, thi nhau bàn luận xộn xao: Bò nhà
ông A ở ấp B, bò nhà ông C ở xã D...Tụi bò nó ăn
gì uống gì, được huấn luyện ra sao... Trên cây tòn teng
người trẻ và dân săn ảnh, dưới đất quanh khu về đích
thì tiếng màng trập như cả đàn cào cào châu chấu
nhảy tanh tách. Mà toàn là những người quen, đi đâu cũng
nhìn thấy nhau, cũng cười rất tươi...
Cũng là nơi bạn ảnh không hẹn mà
gặp nhau, dù trước giờ vẫn tám chuyện qua facebook...
Riêng với
người địa phương, lễ hội còn mang đến cho những người cực nghèo
một nguồn thu nhập kha khá. Đó là những người đi lượm
ve chai, những ngày nầy, vỏ chai nước không, lon nước không nhiều
vô kể. Họ cần mẫn đi lụm dưới ánh nắng gắt, và
cũng như những người buôn gánh bán bưng, họ chắc rất
mong cái lễ hội nầy kéo dài thêm vài bữa nữa. Để
có thêm thu nhập chút chút.
Còn
lại thì, thi thì sẽ có thắng thua. Có bé bò nào đua
không khéo dễ bị gãy chân. Thương bé bò nầy lẫn
chủ của bé lắm, vì nếu vết thương nặng, em có thể
từ giã đường đua còn chủ em thì buồn hiu hắt.
Cũng như chuyện các bạn ảnh, dù
hình ảnh đầy ắp trong thẻ cũng còn tiếc những cú chụp
bị sót, chưa thể vừa ý.
Rồi
sau khi tàn cuộc đua, những cặp bò chiến đã tranh giải
thắng hạng nhất nhì ba. Là người dân, các bạn nhiếp ảnh
và khách du lịch mãn nhãn ra về trong trưa nắng, bỏ lại
sao lưng cái sàn đấu, cũng là sân đua bò lênh láng
nước và sình nhão.
Để
chiều đến, sân sẽ được cày lấp lại để trở
về công năng nguyên thủy là mảnh đất ruộng. Để bàn
tay người nông dân cấy tiếp những cây mạ non xanh.
Để người viết nhớ mãi những gương
mặt đen nhẻm của các chàng "nài" bò, của những đứa
trẻ tóc xoăn màu nắng, và các cô gái có ánh mắt
đen, tóc dài rậm và hàng mi thật cong.
Nhớ để hò hẹn đi tiếp và lại đến hẹn
lại lên trong những mùa sau.
Trần
Duy Trân
_________________________________________________________________________________
Mênh mang tiếng Vịt kêu đồng.
Bài: Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh: Duy Trần
Mùa nầy, miền Tây vô " vụ"
mưa dầm.
Đi ngang cái chòi vịt,
thấy anh nông dân miền tây da đen sạm. Cạnh anh là cái sào
tre nhỏ dài, ở đầu treo túm ni long phất phơ.Treo trên cao là
một cái radio chạy pin.
Một hình
ảnh rất quen. Như chú út tôi ngày xa xưa.
Một ông chú có hàm răng xếu xáo,
tóc đốm bạc thưa. Gia tài mùa chăn có cái áo mưa
cũ rách, cái quần cụt, cái radio cũ nằm bên gói thuốc
rê. Còn quanh ông là bầy vịt sàn sàn đang kêu kíu kíu
càm cạp.
Tôi hồi đó đang
tuổi ham chơi chán học. Cứ mong hè để tha hồ dìa quê rong
ruổi trên những cánh đồng. Lúc đó tình thiệt là
chưa biết con chữ sau nầy quan trọng ra sao, chỉ mê cái nghề của ông chú là
làm vua của tụi vịt, tha hồ ăn trứng luộc, trứng đánh.
Tôi đâu có biết, chú út từng
có nhà có đất. Nhưng rồi thím út ở không bài bạc,
dạy hư con cái rồi đất bán lần. Tôi chỉ nghe cha tôi than:
Hai vợ chồng đó, nghèo mà đẻ dữ. 11 đứa con mới thôi.
Cái "thôi" đó, sau nầy lớn
lên tôi mới biết. Do vợ con quậy quá, chú đành bỏ xứ,
chọn cái nghề hạ nhất là đi chăn vịt đồng xa, rồi bán
từng cái trứng chắt mót gởi về trả nợ cho thím út.
Chú chọn cảnh cô quạnh ở đồng xa, miệt mài năm dầm mưa
dãi nắng. Lâu lắm ông mới về nhà một lần, ngủ lại
một đêm rồi sáng lại đi, sau khi móc trong cái túi quần
cũ xì ra một mớ tiền cho cả nhà. Cái mớ tiền mà lần
nào tôi gặp chú, lại nghe như có mùi gió đồng, mùi
lông vịt, mùi của lúa và phù sa.
Và mùi mặn của mồ hôi trộn trong nước mắt...
Có lần, gặp chú trên đường.
Chú bỗng dưng nói như mọi gan ruột với thằng cháu họ xa:
Ai muốn làm kiếp người tha phương cầu thực. Sống đời
cực khổ, cô quạnh. Nhưng mà chú đã lỡ gá nghĩa với
thím bây. Ra nguyên một bầy con. Cái lỗi của chú là sinh ra mà không bảo dưỡng
nổi gia đình, để nó lỡ tầy quầy.
Tôi nhớ chú khóc, những giọt nước mắt pha trộn
mồ hôi rơi ra từ mắt, rồi quằn quện nhiểu xuống đất,
đất thì muốn bốc khói vì nắng. Hình ảnh đó gia
đình không ai thấy.
Chỉ có
tôi, nắng gió trời mây. Cùng bầy vịt vừa lùa về quay
trong líp, đang kíu kíu cạp cạp.
Sau đó, về nhà. Hỏi thăm mới biết, thím út bán
nốt cái nhà. Ra cất chòi bên mé sông. Bầy con thì tha phương
tứ tán. Mà năm đó, tính tuổi chú út cũng bảy mấy.
Tôi- năm đó đang làm nghề buôn
bán. Cứ đồ nhựa chất lên xe máy, chạy bán miệt vùng
xa. Mưa thì tìm chỗ đụt.
Mà nhiều khi chạy giữa một cánh đồng
mênh mang, trắng xóa màn nước thì chỉ có cái chòi vịt
là chỗ né mưa
tốt nhất.
Mấy chỗ cái chòi nầy, hay có một ông chăn
vịt già ngồi bó cẳng trong chiếc áo mưa, hay che che cái bếp
nấu miếng cơm hay trà, uống cho ấm. Rồi khách chủ cùng nhìn
xa xăm qua màn mưa, hay nói câu bâng quơ về hồi xưa, mưa vầy
đi bắt ếch nhái, đi chụp cá rô nhảy, hay nhớ mấy đứa
con nít len lén rút mớ giấy lịch, xếp xếp thuyền giấy rồi
thả xuống nước.
Rồi thở dài, nhung nhớ mái gia đình:
Mưa vầy cả nhà quây quanh mâm cơm, lớp khua chén đũa, lớp
dầm trái ớt vô tô canh nóng chan ăn hít hà bụng ấm..
Nhưng lại rồi, sau mấy khúc phim ảnh
đẹp đó, là nỗi lo, "Mưa lớn miết vầy, hổng biết
ở nhà có dột chỗ nào hông? Cái máng xối tre có đứa
nào nhớ buột xóc. Rồi mương bờ lói lở, rồi sình
lầy, má tụi nó với xấp nhỏ đi chợ đi học chắc
cực dữ...
Rồi đếm ngày đếm
tháng coi mùng nào đó. Vịt bán, tiền nhét túi, thơi
thới đi về.
Từ cái kiếp tha
phương coi chòi trại là nhà. Tôi bắt đầu vừa đi bán
vừa đi tìm chú út. Cũng chỉ là cho chú đôi gói
mì, chút bún miến khô. Hay cục bin cho cái radio cũ của chú.
Không gặp thì tôi gởi, rồi nghe bạn chăn nói như than: Mưa,
hột vịt dơ. Rồi vịt giờ cũng hay bịnh. Có gì rớt giá
là tụi tui lỗ công chăn dắt. Lại nghĩ đến bao bạn sinh viên đi học xa, tiền
nhà mướn trọ, tiền học, tiền muôn đủ thứ... Cứ theo
tiếng radio, tiếng bật lò nhen bếp, tiếng đốt hơi thuốc, tiếng
lua miếng cơm cho bụng ấm, đếm sao chờ rạng sáng để chút
nữa ra lượm hột vịt.
Cái hột
vịt trứng vỏ trắng lòng đỏ ao. Như thấm hạt mưa sa dông
ngoài đồng, hạt mưa ngọt mà mặn theo mồ hôi chảy miết thành dòng. Thành những
tờ tiền chắt chiu, để mai kia về lo cho con, cho cháu.
Rồi, vì nghe tôi xúi, chú út già nua của tôi
quyết tâm sắm một cái điện thoại cùi bắp. Dù ông
bảo: Đồng không mông quạnh điện lưới đâu mà sạt, mà có ai để ò
í e.
Nhưng mà, ông có tôi,
có mấy bạn chăn. Ai cũng có một cái ò í e, để lâu
lâu alô nhau cho vui, để ngoài tiếng người trong radio thì còn
có bà bán ngoài chợ: Hột vịt nay giá kêu sao rồi? Có
nhỏ bán tạp hóa hay đẩy xe, có thằng tư thằng tám chăn
cũng đồng xa. Để coi lượm hột vịt xong thì cùng lùa
vịt ra đồng, để cắm lưới xong thì hú nhau "tối nay nhậu
hen".
Rồi mùa cuối năm gió
tết, tôi gọi điện chúc tết sớm chú út. Chỉ có vậy
mà ông khóc bệu bạo: Nhà bao la người, vậy mà tết tới
.. Rồi tôi nghe tiếng gió u u u.
Rồi
cũng một mùa gió đông. Chú út ghé qua nhà tôi, nói
thôi chăn vịt rồi. Quá già rồi.
Lúc đó, cha tôi cũng mất rồi. Má
tôi cũng quá già để cưu mang người em họ bên chồng
xa. Tôi thì cũng đang dở thầy dở thợ.
Chú út ở lại, ngủ một đêm rồi đi. Nói
sẽ về quê.
Rồi cũng như cha
tôi, chú buông tay xuôi về với đất, nghe nói là ở vùng
quê xa xăm nào đó..
Tôi vẫn chạy xe máy về miền
Tây mùa nước cao. Ngủ quanh các quán trọ gần mênh mông
đồng nước. Đêm nghe tiếng vạc sành, nhóc nhen, ếch nhái
kêu xa...Ra chợ tám với mấy người buôn vịt, bán trứng.
Nghe họ nói giờ chăn vịt đỡ hơn
nhiều rồi. Người sống đông, đồng nào cũng có người,
có đèn, có điện. Có quán cà phê kiêm bán rượu
để cánh đàn ông lai rai chút đỉnh. Nhưng mà ai biết
tối về chòi trại, cu ki vẫn một mình. Có nghe tiếng rôm rả
của các gia đình ở mấy xóm nhà xung quanh, thì có tủi
thân tủi hổ không.
Tha phương mưu cầu sinh kế, chứ ai hỏng
muốn chăn êm nệm ấm.
Tôi đi
miền tây, hay ngó cái chân cái tay của những người nông
dân. Họ có những bàn tay bàn chân to bè, chai cứng. Những
đôi tay cuốc đất, tỉ mỉ vun từng hạt mầm, khéo léo
nhổ từng búi cỏ. Những
đôi chân có khi đi không quá rẻo vườn hay bến chợ.
Nhưng mà đó là những bước chân kiên trì đưa con
cái đi xa. Để nhắn nhe: Ráng học, để đời con không phải
cực khổ như má như cha.
Còn
chú út của tôi, vì gia cảnh đã khiến chú phải đi
theo bầy vịt trên rất nhiều cánh đồng. Nhưng chú chưa bao
giờ than oán. Là tại thím, hay tại chú đã gia giáo không
tốt.
Để trên những cánh
đồng miền tây, tôi hay dừng xe lại, chỉ để nhìn ngắm
hàng ngàn con vịt theo đàng đang lội bì bà bì bõm,
hay hồn nhiên vỗ cánh, kêu ríu rít giữa cánh đồng mênh mông nắng gió. Rồi
bâng quơ cái câu: Chim vịt kêu chiều..
Mùa vịt thả đồng luôn là mùa lúa mới gặt
xong. Ruộng còn trơ gốc rạ xâm xấp. Bạn chăn sẽ lùa vịt
vào ruộng đó cho chúng mò lúa sót.
Mùa vịt chạy đồng cũng là mùa dọn ruộng.
sẽ có khói đốt đồng chiều lẫn sương mù pha hơi
nước mưa ẩm ẩm. Của những cơn mưa miền tây chạy đuổi
nhau, nhiểu hột trên những cánh đồng mênh mông, xăm xắp bóng nước.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
DUY
TRẦN
_________________________________________________________________________
MÙA RƠM
Bạn đi Đông Bắc về, thông
báo: Lúa gần như đã gặt xong. Thời tiết bây giờ không
mưa thuận gió hòa, nên chuyện thu hoạch phải nhanh và luôn trong
gấp gáp, vội vã.
Miền Tây
cũng đã đón một mùa lũ đẹp. Dù đầu mùa
lũ, những cánh đồng ngoài đê bao không gặt kịp với
con nước lên. Những bông lúa và rơm ướt sũng chới với
trong dòng nước chảy..
Xe chúng
tôi chay qua con đường lớn kéo dài bên cánh đồng tha la
mênh mông nước. Vô tình giữa trưa nắng gặp những cây
rơm kiểu xưa chất cao. Chủ căn nhà gần đó nói: Giờ
đa số thu hoạch bằng máy liên hợp gặt đập. Lùa vô
ngay vào bao, còn rơm đánh luôn thành cuộn xếp từng bó
trên đồng. Chỉ có mấy mảnh ruộng nhỏ gặt tay hay máy nhỏ
mới còn đánh cây rơm.
Rồi cùng ôn lại ngày xưa: Ngày mùa lúa về,
sân nhà ai cũng có cây rơm thiệt to. Cái cây rơm to đó,
khi chất lên là một nghệ thuật sắp đặt. Vì khi cần lấy
rơm ra, cây chỉ thấp dần đi cho đến cuối mùa thu hoạch mới,
không bao giờ đổ ngã.
Cuối cái mùa đó, trong cái chân
rơm thế nào cũng lú nhú những tai nấm rơm mập lù.
Còn rơm mới về, đàn gà chen nhau vào bươi, tìm lúa
sót.
Chúng tôi từng có thời
gian đi qua những mùa rơm, mùa của những ngày đứng trên
cầu canh những ghe thuyền xuôi ngược chở đầy rơm vàng. Những
ghe rơm khổng lồ khéo léo di chuyển trên những con sông, con kinh,
con rạch... Những ghe ngập sợi rơm vàng ấy có thể điều khiển bằng cây sào và
bơi chèo, hay máy đẩy lạch tạch. Rơm đến ruộng nấm,
ruộng hành, phủ làm phân xốp bề mặt ruộng dưa, ruộng kiệu,
ruộng rau. Vì sau mùa rơm nầy sẽ là mùa của tết.
Mấy năm gần đây, rơm sau mùa gặt
đa số là rơm cuộn nên dễ chuyên chở bằng đường
bộ. Còn ghe thuyền, dù trong mùa nước lên, cũng ít dần
do giá xăng dầu cao. Những người chuyên nghề buôn bán rơm
đều nói: Sông giờ có cầu, đường giờ trăm ngàn
mối nối. Rồi xe máy len vô mấy chỗ sâu chỗ xa. Ghe thuyền nào chở rơm cũng chỉ
còn đi mấy chỗ cánh đồng sâu, lầy trũng. Lợi
cái đường thì sẽ mất cái kinh mương. Mất thì chưa
mất. Nhưng tương lai, mấy cái ghe đại chở rơm tải chắc
hỏng còn nhiều nữa. Vì xe phóng thẳng thét, mưa thì che bạt.
Còn tàu ghe chở rơm cồng kềnh với lặc lè, tính ra chậm
mà nhiều khi nguy hiểm nữa.
Miền
Tây, tháng 10 với những cánh đồng lênh láng nước. Lúa
chín vàng cũng đã
gặt gần như xong hết. Loanh quanh mấy chỗ đồng cao, rơm cuộn phơi
được che phủ kỷ tránh mưa.
Lại nhớ về một chiều xưa, trong
cái nắng vàng óng giữa ruộng rơm vừa gặt. Bầy em bé vừa
chơi vừa phụ người lớn vun rơm. Từng tràng cười hồn nhiên
với những gương mặt, bàn tay bàn chân bé xíu.
Để
cái chị người lớn nhìn đám nhỏ lăng xăng rồi thét
lát: Vào tắm đi, chơi rơm lát rồi ngứa gãi thấy tía
tụi bây.
Những cọng rơm tươi
vẫn tỏa mùi thơm bát ngát. Mùi của nội đồng, của
phù sa nuôi cây mạ thành lúa. Rồi thành rơm, rồi thành
khói đốt đồng, của màu tro gốc rạ...
...Của miền Tây nắng gió trời đất mênh mông
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Ảnh:
DUY TRẦN
________________________________________________________________________
Chuyện
thịt chuột miền Tây
Bài viết: Huỳnh Minh Bích Nga - Ảnh: Duy Trần
Đó
là một năm rất xưa, chiều mưa rả rích.
Tôi ngồi bên bà nội, ăn mộng dừa...( cái
nầy kể vào dịp khác nha) thì ngoài mương có tiếng lao
xao, tiếng con nít la, chó sủa. Không quá căng thẳng, mà nghe í
a í ới.
Ông nội tôi bước
ra, khum tay che, hỏi với: Coi chừng sụp mương đa. Mà nhiều hông
vậy?
Đáp lại là tiếng dạ
thưa lễ phép: dạ, hỏng nhiều, lắt nhắc không à.
Ba tôi cũng bước ra: À, mưa vầy họ đi
săn chuột.
Rồi thấy cháu tò
mò ngóng ngóng, ông nội biết ý, nói vọng tiếp: Xong ghé
vô cho cháu ông coi chút hen.
Lại
tiếng dạ râng, rồi lát sau, có hai đứa con nít trạc tuổi
tôi, người ướt sũng bước vô. Hai đứa cầm theo cái
bị cói nhỏ, khoanh tay chào: Thưa bà cả ông cả. Rồi trút
cái bao ra, có mấy con chuột lông vàng, nhỏ có lớn có- đa
số đều đã chết.
Sau khi cho
tôi coi xong, chúng lại trút vào bao, lại khoanh tay chào: thưa ông
cả bà cả, tụi con về.
Bà
nội tôi dúi theo trái dừa khô, nói với: Để khìa cho ngon.
Lại cám ơn, lại chào: Thưa, tụi
con xin phép về.
Lúc đó, tôi
sợ lắm, sợ ăn thịt chuột sẽ kêu chít chít. Sẽ...đủ
thứ. Nhưng ông nội và ba tôi nói: Đó là chuột đồng,
mưa nầy tụi nó ăn toàn đọt non. Sợ nó phá cây, phá
lúa. Nên mưa ngập là người ta sục chó đi bắt. Mưa ướt
chuột lạnh nên dễ bắt. Chuột thành phố mới sợ, vì sống
trong cống, ăn rác bẩn..Chứ chuột quê ăn cỏ, rau củ, trái
cây. Y như nhen sóc...
Rồi sau nầy, lớn lên. Nghe đọc nhiều,
về miền tây mùa thu hoạch lúa, cũng là mùa săn chuột.
Cũng háo hức mong có dịp về đúng mùa gặt, để coi
hun khói hang chuột, coi chó bắt chuột...
Rồi mùa lũ, lại nghe đọc về chuyện chuột bị nước
vây, trèo lên cây. Người và chó cứ đến, rung cây
bắt chuột.
Rồi chợ chuột, rồi
đặc sản thịt chuột.
Rồi nghe
có những mùa, chuột từ bên Cam Bốt dàn đàn chạy
qua biên giới, cắn phá lúa.
Rồi
có lần về Tây Ninh, lần đầu ăn .. thịt chuột.
Lúc đó, cũng đang vô mùa mưa. Cô
cháu gái điện thoại xuống nhà người quen: Dạ, kỳ nầy
có cống nhum không. Dạ, chuột bên Cam đưa qua hả. dạ, thôi,
chuột cơm cũng được..
Xe đến cái bến gần sông
Vàm Cỏ, thấy chiếc ghe neo đậu. Đuôi ghe là cái lồng
nhốt chuột. Con nào con nấy mập ù, lông vàng ươm. Cô cháu
ghé chợ, mua nào ngũ vị hương, dừa trái, than củi, dầu ăn,
nước mắm...
Rồi cả nhà lên
ghe.
Rồi trong khi quan khách lo đi ngắm
trời mây sông nước...
Ông chủ
nhà đi mài cái kéo đặng mần chuột.
Ông cứ túm đầu từng đứa trong chuồng, cắt
đầu lột da, cắt chân, cắt đuôi. Mổ bụng, dọn sạch ruột
với mấy cái hạch...
Bà chủ
nhà quạt than, bày vỹ nướng. Cô cháu lo ướp thịt. Lúc
nầy nhìn con chuột làm xong, trắng phao như trái chuối sứ.
Rồi mùi thơm bay bát ngát, mỡ vàng
nhiểu kêu xèo xèo. Mấy đứa con nít đi chung bắt đầu
gào: Đói, con đói...
Thiệt
tình là, chuột nướng không kịp với đám nhóc (tụi
nhỏ nầy đã quen với thịt chuột), nên con nào bỏ ra là
bị chớp con đó. Gặm như gặm đùi gà rô ti. Có
đứa còn cà nanh: Con mới ăn một con, nó ăn hai con...Làm má
nó phải la: Từ từ, còn phần người lớn nữa.
Mấy con chuột lớn nhất đã xong phần nướng
ướp ngũ vị. Tụi nhỏ cũng lung lửng bụng. Nên mấy con chuột
nhỏ hơn dành cho món khìa nước dừa.
Đó là lần đầu, tôi ăn thịt chuột. Công
nhân, lạ miệng và ngon như thịt gà.
Rồi vài năm nay, nghe tin có nước lũ về là chúng
tôi phóng xe đi miền Tây.
Mà cũng không cần đi đâu
xa, vòng quanh Long An, Bến Tre là thấy các xe, quầy, sạp bán chuột.
Dài dài theo lộ lớn lộ nhỏ...bên
những cánh đồng lúa xanh mướt, lênh láng nước dâng.
Những người bán nói: Ngoài đặt
bẫy quanh ruộng nhà, thì còn đi mua thêm. Phụ nữ lo làm chuột,
mua bán chuột. Đàn ông đi săn.
Đi về miệt biên giới, khúc Tịnh
Biên thì cứ mấy cái chợ to chợ nhỏ, cứ là tấp nập.
Khay chuột làm sẵn bày cạnh khay cá, ếch, ốc, cua ...Rồi cánh
đàn ông tấp nập chạy xe ra vô, sau lưng là những cái lồng
đầy ắp chuột sống.
Cũng dễ
biết, vì ngoài lồng chuột thì có thêm mấy cái que dài,
cắm cờ đuôi nheo. Gọi là cái kỳ. Mấy anh sẵn chuột
giảng giải: Giờ đi đông, đồng thì rộng, cắm kỳ để
biết mình đặt bẫy ở đâu.
Mà có khi nào - chúng tôi cắt cớ hỏi: Có khi nào
lấy lộn bẫy nhau không.
Câu trả
lời luôn là không. Thợ sau đến, thấy kỳ ai cắm trước
thì đi tìm chỗ khác. Có trách thì tự mình chậm
chân. Đều là quen biết nhau, cùng nghề sanh kế như nhau. Nhìn
kỳ biết chủ bẫy liền. Ai tham lam sanh tật xấu là bị coi khinh dữ
lắm.
Người miền Tây vốn trọng
nghĩa khinh tài.
Tham chi chút lợi nhỏ,
mà mất đi danh dự lớn.
Còn
về chuột... Giờ săn quanh năm, mùa mưa mùa nắng. Chờ đến
mùa gặt nó ăn hết lúa..
Mà
cái giống chuột nầy, săn bắt vậy mà cứ còn hoài. Lúa
trồng nhiều thì cũng có chuột nhiều. Chuột mùa mưa sạch
hơn mùa nắng. Ăn toàn đọt mầm xanh non nên béo múp.
Ăn thịt chuột đồng là giúp cho
nhà nông. Nên đừng có ghê.
Còn lên món hen, chèn ơi. Giờ thì áp chảo, xào sả
ớt, chiên nước mắm, quay lu, khìa nước dừa, rang muối... Rồi
băm nhuyễn làm nhưn bánh xèo, hay chặt miếng nấu cà ri...Chứ
không nướng xé chấm muối ớt đơn sơ nữa..
Biên sơ sịa như vầy. Ai dân miền Tây
chính chủ thì vào biên tiếp hén!
Huỳnh
Minh Bích Nga
Duy Trần
________________________________________________________________________________
Phương Nam và
dông bão...
Bài: Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh: Trần Duy
Mấy cơn áp thấp liên tục làm trời
phương Nam xám xịt. Lại thêm trên các phương tiện truyền
thông có tin về những việc như : có bão đổ bộ, phải
di dời dân..
Rồi tin bờ kè sạt lở, sông
bị ngoạm bờ, sụp móng, trôi nhà... Rồi người dân râm
rang bảo nhau: Xưa nay có đâu, cái rũi bão vô, kinh nghiệm đâu
mà chèo chống...
Bên
hàng hiên mưa rả rít. Những người đi cắt cỏ, chăm sóc
rau màu, bán buôn dọc đường, với gương mặt khắc khổ,
đều nói: Mong mưa thuận gió hòa, mưa nhiều thì người
trồng cây ăn trái lo. Mưa ít thì lại sợ rửa mặn hỏng
sạch..
Những người
dân khi nghe hỏi thăm đều lắc đầu: Giờ hỏng dám mong mưa
nhiều để nước nổi mang sản vật về nhiều...Đã cũng
lâu rồi, không còn mùa lũ về với thật nhiều sản vật
như xưa nữa.
Thời của
cha ông họ thì còn biết về những con nước đỏ quạch
phù sa từ phía thượng nguồn đổ về tràn bờ. Chỉ nhìn
con nước, màu nước là biết, năm nay lũ ra sao, có đủ
cho tôm cá cây cỏ sinh sôi, của những gì trù phú nhất
đến từ dòng sông Cửu Long tuông chảy cuồn cuộn.
Giờ thì, mưa sẽ đưa
những dề lục bình chập chờn đọt non và nở hoa tím ngát.
Nhưng mà lục bình nhiều ghe xuồng bơi vướng, rồi rối nùi
với rác thải nhựa. Rác từ sông trào vào kênh mương,
cứ mưa là phải bơi xuồng hay lội ra hốt dọn...Rồi, trời mưa đưa nước đi tới
đâu, rác thải trôi đi theo tới đó. Nước lên rồi
rút theo thủy triều, để lại những bãi sình đầy rác
khó phân hủy. Đã có những người nông dân lên tiếng
về việc bảo vệ nguồn nước sinh hoạt, kêu gọi đừng quăng
rác bừa bãi, hạn chế chai nhựa nguy hại, mà nhiều nhất là
chai thuốc trừ sâu...Rồi ly nhựa, bao ni lông. Rồi họ tự đốt,
tự chôn lấp...
Nhưng
họ cũng nói: cái khó là dân tứ xứ đổ về nhiều
quá, nhất là quanh các khu công nghiệp, họ ăn họ xả. Họ
đâu có ăn dầm nằm dề lâu mà lo bảo vệ môi trường
chung; nhắc thì lại nói mình rảnh lo toàn chuyện bao đồng...
Nhưng cũng những người nông dân đó, họ cũng
nói tiếp: Có kiến nghị đó. Như xây lò xử lý rác,
như phạt, ngăn chất thải đổ ra sông. Dựng tháp bơm nước
làm sạch...Nhưng kêu là kêu vậy, bên chính quyền chỉ ghi
nhận. Hứa rồi bảo sẽ báo cáo, sẽ có kinh phí...
Bên bờ hè, mưa vẫn cứ rơi.
Những người thôn dân phương
Nam, tay vuốt nước mưa trên gương mặt đen sạm, vẫn vừa
nói vừa cười: Trước mắt, thì cứ phải sống thôi. Dù
có bão dông, thì cũng phải gồng lên chèo chống.
Huỳnh Minh Bích Nga
_____________________________________________________________________________________
Đón mưa miền Tây
và
bồi hồi nhớ một mùa con nước đỏ
Bài: Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh: Trần Duy
Chúng tôi gặp những người nông
- ngư dân neo xuồng tại những bến sông nhỏ. Họ nói rằng
hai ba năm nay mưa nhiều, nhưng mưa chỉ mang con nước vàng đất
chứ không mang theo màu đỏ gạch phù sa.
Xưa, mùa nước lũ cũng là mùa con nước đỏ
chảy thật nhanh, có khi cuộn sôi cả mặt song. Những con nước đỏ
ối ấy sẽ mang về bao sản vật, cũng như mang lại sự màu mỡ
cho cánh đồng lúa mùa sau đó. Non chục năm trước ít
ra còn con nước đỏ lờ lững đầu mùa. Giờ thì cá
non loại nào cũng hiếm dần, cả bông điên điển, bông
súng hoang giờ vô trúng mùa cũng ít. Nên dân lo đón con
nước để nuôi trồng là chính.
Rồi họ kể: Xưa, mùa đón
nước nước đỏ cũng là mùa bận rộn, như trét lại
ghe xuồng, mua thêm lưới, đan thêm lọp...Cơi thêm thềm nhà,
đắp thêm bờ, nhất là lo đi gởi con nít nhỏ vô vùng
cao ráo...
Giờ thì cũng đắp bờ, nhưng là
giữ nước cho hồ nuôi cá, ruộng bông súng. Con nước đỏ,
nếu có cũng chỉ còn lấp ló chừng dăm bảy ngày hay nửa
tháng. Còn người già thì chép miệng: Cái mùa con nước
đỏ, mùa nước nổi giờ sắp thành hoài niệm, Để
mấy đứa nhỏ lớn lên mà không biết phù sa màu mỡ
là gì. Nhưng cuộc sống mà, đâu cứ phải phụ thuộc
vào thiên nhiên, nên nước lũ không về cũng phải lo cách
mà sinh sống thôi.
Rồi cũng chính
những người nông dân ấy, họ lại động viên ngược
chúng tôi: "Ai cũng mong mưa thuận gió
hòa. Có một mùa nước tràn đồng hơn là
một mùa nắng khắc nghiệt, để vạn vận tươi tốt sinh sôi.
Dưới đây gió đồng mát còn đỡ. Nghe nói thị thành
máy lạnh, máy điều hòa. Mát chỗ nầy thì cục nóng
tỏa nhiệt chỗ kia. Có mưa xuống cây ra lá non xanh mướt, mới
dễ chịu hén".
Còn chúng tôi thì hơi băn khoăn: năm
nay lũ về sớm, ngoài mưa thượng nguồn còn có phù sa đỏ
chạch do phía bên Lào vỡ đập. Cái màu đất đó
không nguyên tuyền chất phù sa đỏ gạch son, mà mang màu bùn
đỏ sẫm...Cái màu bùn đó, sao nghe bạc bạc, xon xót..
Mẹ thiên nhiên không còn ôn hòa nữa, vì những đứa
con hư đang tàn phá người...
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Ảnh: DUY TRẦN
___________________________________________________________________________________
Những câu chuyện mùa vu lan
NHỮNG MÓN QUÀ TUYỆT VỜI
DÀNH TẶNG CHO
NHỮNG AI
ĐANG LÀM CHA MẸ
Mùa Vu Lan đã về, bạn đã sắm sửa một
cái lễ để đi chùa cầu an cho cha mẹ, bạn thích thú
cài lên ngực hai bông hồng đỏ.
Bạn sẽ mua nước hoa, áo dài, khăn choàng, kẹp tóc,
cà vạt, vớ.. để mang về tặng làm quà cho ba mẹ.
Nhưng
luôn có những món quà không hề đắt tiền hay hào nhoáng,
cũng chẳng tốn kém quá nhiều, quan trọng là bạn biết để
dành tặng cho ba mẹ.
Đó có thể là:
A.Một giấc ngủ: Đối với một bà
mẹ đang phụ con trai con gái của mình đang có con còn nhỏ -
thì một giấc ngủ ngon sẽ vô cùng đáng quý. Sẽ không
có bà mẹ nào đang chăm cháu lại tuyên bố: "Mẹ đã
ngủ đủ rồi, mẹ không cần ngủ nữa đâu." Trong khi thực
tế, bà cũng cần ngủ cho lại sức sau những ngày đêm miệt
mài trông cháu.
Hãy tặng món
quà là để cho những người đã và đang làm mẹ
được ngủ.Tất nhiên là chẳng dễ dàng gì nếu trong
nhà có một sinh linh bé nhỏ cứ ọ ẹ la khóc măm ị không
phân biệt ngày lẫn đêm. Nhưng ít nhất, hãy chia sẻ công
việc ra, để cho người mẹ và người bà ấy được
ngủ cho đến khi nào họ muốn.
Ba và mẹ của bạn chắc
sẽ cảm ơn về món quà của bạn nhiều lắm. Hãy ít
nhất có một đêm để ông có thể ngủ yên cạnh bà.
Còn bạn và ông xã thì luân phiên chăm sóc con, đảm
bảo bé con của bạn không làm phiền quá nhiều đến sức
khỏe của cha mẹ - đấng sinh thành ra bạn.
B.Một ngày nghỉ
ngơi trọn vẹn. Không cần chờ đến lễ vu lan, ngày của cha,
mẹ, gia đình, hay một ngày trọng đại nào đó. Bạn
hãy tạo điều kiện để những người đang làm cha mẹ
được làm những gì họ mong muốn nhất - thì đó
là một món quà hết sức lớn.
Đó có thể là
chở họ đến thăm một người bạn thân từ rất xa xưa.
Về một vùng quê cũ đầy kỷ niệm, hay một chuyến đi nghỉ
mát dành cho những người già.
Để họ không phải lo
lắng chuyện quần áo phơi ngoài sân đã kịp rút chưa
khi trời vần vũ mưa. Chậu cây kiểng đã được tưới
nước. Con cháu trong nhà sẽ ăn gì chiều nay...
Để đi
tập thể dục trong công viên, chứ không phải đẩy xe đút
cháo cho mấy cục cưng kén ăn. Đi vòng trong nhà luôn tay dọn
dẹp với một cục hít mè nheo cứ bám cứng chân tay mình.
C.Không phải nấu nướng: Không phải
là một bữa ăn ở nhà hàng sang trọng, một tiệc mừng thọ
vỹ đại, mà là câu: Bố mẹ ngồi nghỉ đi, tụi con sẽ
nấu một bữa cơm gia đình cho nhà mình.
Chắc chắn sẽ
có những người đang làm cha mẹ sẽ hạnh phúc và xúc
động lắm lắm.
Vì những người con đã biết rằng:
Một trong những căng thẳng phổ biến nhất của những bà mẹ
"bếp núc" là phải suy nghĩ xem hôm nay cho cả nhà ăn món
gì. Ăn món nào mà cả nhà không ngán, không chê. Cũng
không quá vuột xa chi tiêu cho bếp gia đình..
Còn với cha mẹ,
không có gì tuyệt vời hơn là được bước vào bàn
ăn với một bàn cơm có đủ thành viên, ngập tràn tình
yêu thương đang chờ đợi.
D.Không phải làm chủ nhân
tiếp đãi khách. Đôi khi một lễ mừng thọ linh đình,
với ngập tràn hoa và vàng tiền chúc tụng, máy quay phim rình
rang cũng làm cho đấng sinh thành mệt hơn. Vì thực tâm họ
chỉ muốn có một ngày sum họp bình thường. Và ngày nào
con cháu cũng yêu thương quây quần có khi còn thích hơn
phải gồng lên cứng ngắc cho một cái lễ hình thức nào
đó.
Một cái lễ mà ngay cả
việc lên danh sách mời cũng là một công việc nhức đầu,
và chẳng thoải mái khi thấy những đứa con rạch ròi phân
chia chuyện đóng góp tài chánh. Để thấy tốn kém vô
bổ, tị hiềm nặng nhẹ. Rồi sau lể là dọn dẹp, bực bội,
xa cách, tình cảm mất gấp đôi ba lần bình thường.
E.Được chiều chuộng theo cách rất riêng. Đó là nhờ
"quân sư" ba hỏi thầm là mẹ đang muốn điều gì.
Đó là nhờ "thám tử" mẹ dò xem ba thích điều
gì nhất. Rồi từ đó các con đồng "âm mưu" thiết
kế ra một ngày thật yêu thích.
Để đó có thể
là một buổi đi cà phê, cùng ăn một ly kem sô-cô-la hay
một cái bánh nhân phô-mai, hoặc có thể là cả nhà đi
xem một bộ phim yêu thích. - Một món quà với cái tình yêu
thương - đặc biệt chỉ dành cho những ai đã và đang làm
cha mẹ.
Để cha mẹ thấy rằng: Con cái đã trưởng thành,
đã biết sống yêu thương.
Đã biết đền đáp
công cha nghĩa mẹ.
HMBN
Câu
chuyện của những nụ hôn
Những người bạn sẽ tặng cho nhau nụ
hôn trên má.
Những người yêu nhau sẽ dành cho nhau nụ hôn
trên môi.
Có những nụ hôn cho đi, là mang theo đó
những cảm xúc theo đó để đến nơi được nhận.
Và câu chuyện của những nụ hôn luôn là câu chuyện của
những tình yêu thương chưa bao giờ được dứt...
Ngày
còn bé, Bánh Su đã được ba mẹ dạy về "nụ hôn":
Đó là cách bày tỏ tình cảm với những người mà
Bánh Su yêu thương bằng cách vòng tay qua cổ và đặt lên
má họ một nụ hôn.
Bánh Su không thích được hôn
lắm, vì nhà có nhiều người lớn. Người lớn hay đè
Bánh Su ra, hôn đến Bánh Su phát ngộp.
Và cứ thế, Bánh
Su thừa thãi những nụ hôn.
Nhưng Bánh Su yêu mẹ nhất, nên
ngày nào đi học mẫu giáo về là Bánh Su sẽ sà vào
lòng mẹ rồi hôn vào má mẹ. Còn hôm nào đi học
thì ba cũng hôn Bánh Su trước khi nói câu: Học vui nha con.
Bánh
Su lớn dần lên, hơi phát chát vì hay bị người lớn trong
nhà nhắc : "Hôm nay con đã hôn ba mẹ chưa?"..
Bánh
Su đã lớn, và Bánh Su biết: Khi trẻ con hồn nhiên hôn một
ai đó, người đó sẽ rất vui vì được yêu thương.
Mẹ Bánh Su vui, ba Bánh Su vui, ai cũng sẽ vui vì được nụ hôn
yêu thương...và Bánh Su cũng rất vui.
Chỉ có một cái
là, càng lớn dần, Bánh Su không thích bị người lớn dí
hôn liên tục, cũng như bị ôm siết để hun và hít hà
cho đã nữa, dù Bánh Su hết thơm mùi sữa rồi.
Bánh Su hay về nhà ông bà nội. Bánh
Su hay chạy lại hôn vào má bà nội. bà Nội hay xài nước
hoa, rất thơm.
Bánh Su ít khi hôn ông nội, có lần trưa
nắng, Bánh Su chun mũi nhăn mặt : "ông nội có mùi gì kỳ
lắm! "...Ba mẹ bất ngờ nhìn Bánh Su nghiêm khắc, ông nội
thì cười buồn như đã quen.
Gia đình ở Biên Hòa 1969
Ngay bữa trưa hôm ấy, sau khi về nhà Bánh
Su bị mẹ làm việc, mẹ doạ đét Bánh Su mấy roi vào mông
vì "tội hỗn". Bánh Su khóc òa như mọi bé con nít
bị mẹ hăm đánh đòn, nhưng mà thật sự Bánh Su chẳng
rõ lý do vì sao lại là "hỗn", vì Bánh Su cứ nghĩ:
Bánh Su chỉ nói sự thật thôi mà...
Rồi ba Bánh Su nói: Con còn nhỏ lắm để biết, cái
"mùi kỳ kỳ" của ông nội, đó là cái mùi đặc
trưng của người già, cái mùi được tích tụ từ
những năm tháng cần lao nuôi các con nên người, mùi của
tình yêu thương gia đình, cái mùi chưa bao giờ thốt thành
lời, chất chứa đầy trong tim ông nội qua bao ngày ...
Gia đình
với người bạn Pháp
Bánh
Su đã tốt nghiệp tiểu học, và cái thói quen đặt nụ
hôn lên má người Bánh Su yêu thương như ba mẹ đã
ít dần, dù những nụ hôn vẫn tồn tại trong ý thức. Ba
Bánh Su nói: Con trai đã lớn, và theo thói quen tự vệ của
một đứa trẻ đang lớn, Con biết ngại khi thể hiện tình yêu
thương qua nụ hôn như những ngày còn nhỏ.
Có thể lỗi ở cả
nhà, vì cứ hay ôm và hôn Bánh Su quá nhiều.
Nhưng mà cũng không phải đâu, hơi lâu,
khi không ai hôn Bánh Su, Bánh Su lại nhắc: Sao không ai hôn con vậy.
Dĩ nhiên, hôn bây giờ là phớt trên má, chứ không ôm
hôn "ngấu nghiến" như xưa nữa.
Như ba Bánh Su khi lớn
lên, cũng ít hôn ông nội.
Nhưng mà, ba vẫn cất giữ
những nụ hôn đó.
Như tình yêu nối tiếp mãi không
phai.
Ông nội, ba và Bánh Su
Huỳnh Minh Bích
Nga
Nhớ chén cơm gạo
huyết rồng
Lại mở đầu bằng một câu cũ
rích...Hồi đó, những năm khó khăn...
Nhưng mà sự thật thì mình viết thôi.
Nhà mình cán bộ công nhân viên,
xếp hàng mua gạo tổ. Thứ gạo trộn lẫn bông cỏ và nhiều
thứ khác.
Mà ba mình hồi đó
hay đi công tác lắm. Cứ mỗi lần đi, ông lại kiếm cách
mang về một vài thứ cho gia đình.
Mà gia đình mình hồi đó đông người, bà ngoại,
cháu, anh chị em bên vợ...
Lần
đó, ba đi Đồng Tháp.
Đồng
Tháp ngày đó hoang sơ lắm. Lúa ma còn mọc rất nhiều.
Người dân có lúa trong tay, xay thành gạo mà không biết làm
gì. Ba mình trên thành phố có tiêu chuẩn nhu yếu phẩm, ông
ráng gop góp thuốc lá, khăn mặt, vải mùng, dây cao su...( mình
nhỏ quá không nhớ lắm), mỗi khi đi công tác là len lén
đổi chác.
Ba về, trong hành trang là một túi giấy
báo chừng hai ba ký, đổ ra loại gạo hạt đỏ tươi, dài
tròn lẫn lộn.
Bà ngoại mình
hứ háy: Ba cái lúa cứng còng đó, ăn cái gì!
Ba mình vẫn tươi cười: Gạo huyết
rồng đó má, ăn ngọt cơm. Ăn với gì cũng ngon. Có điều
khó nấu một chút.
Bà ngoại
lại nguýt: Tao hỏng nấu cái thứ tạp phẩm đó đâu.
Vậy là ba xuống bếp, ( ba chưa bao giờ
giỏi nấu cơm), tự tay nhóm bếp, tự tay lấy nồi, vo gạo, đổ
nước, nấu cơm..ba nói, khi đổi có hỏi tỉ mẫn người
quê về cách nấu, để về nấu cho cơm ngon.
Bữa cơm gạo đỏ, ăn ngọt ngào trong miệng, vị
thơm thơm. Dù thức ăn chỉ có chuối kho, rau dền luộc chấm
xì dầu, mà vẫn ngon.
Đám
con ăn quá trời là ngon, vị cơm khác xa cái vị gạo tổ.
Bà ngoại cũng ăn, rồi bà te te đi
ra cửa sau, kêu tên cái thằng nhóc sau nhà: Công ơi Công. Thằng
nhóc, chả biết có thuốc gì mà bà ngoại cứ mê tít,
xoắn xít lấy nó. Ló cái mặt kênh kênh ra. Bà ngoại
thì ngọt như ăn chè: Mang tô qua Công ơi. Cơm gạo mới ngon
lắm.
Trong nầy, đám cháu trợn
mắt, cố giữ lại nồi cơm. Nhưng bà ngoại vẫn xúc cho thằng
người dưng kia một tô, còn nó thì bịu môi: Cơm gạo
đỏ hả, tui đâu có là heo.
Bà
lại tiếp tục dỗ: Cơm gạo huyết rồng đó..
Rồi bữa sau, bà năm khùng- một bà "người
ở" nhà gần đó, bạn buôn chuyện của ngoại đi cửa
sau qua cười hề hề, túm một bọc gạo mang về.
Rồi tụi thằng Thành, Thuận, Thắng, ...( toàn là
một lũ trai nhóc mới lớn- như thằng nhóc Công kia) rào rào
qua. Đứa nào cũng cười nhăn nhở, chìa tô.
Ngoại thì cứ mạnh tay bới, còn kèm theo nụ cười
điệu, rồi khi tụi nhóc nó nịnh( vừa nói vừa cười
rất.. khả ố). Ngoại là nhứt, trời ơi, ngoại trẻ ngoại đẹp...
Còn bà ngoại, cứ tay vuốt cái tóc
cho mướt, vuốt cái áo cho eo. Rồi ỏn à ỏn ẻn: Ngoại trẻ
thật hả con?
Lại cái kiểu nịnh
bợ: Ngoại như gái mười tám...
Ba thương mẹ, mẹ chiều ngoại. Nên cái túi gạo cắt
ca cắt củm đó, mấy đứa con trong nhà chỉ ăn được
bữa duy nhất. Hôm sau thì ngoại lạnh lùng nói: Hết rồi.
Rồi lại đi cửa sau, ngó tìm đám
nhóc con. Rồi ra điều răn bảo: Người ăn thì còn, con ăn
thì hết.
Giờ ngồi gõ lại
mấy dòng nầy, chợt tủm tỉm cười, vì nhớ hồi đó
học văn, cô giáo có bài giảng vui: bà già tuổi sáu
mươi tư, ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng..
Năm đó, ngoại cũng tuổi đó.
Ông ngoại thì mất hơn ba năm trước..
Tụi nhóc thì cỡ 15,18..
Rồi sau nầy, ba về hưu. Con thì lấy chồng,
ở riêng.
Chồng thấy trên mạng
có công ty du lịch mở tour đi Đồng Tháp-Gáo Giồng...bèn
đăng ký đưa ba đi chơi. Như thăm lại những vùng xưa
ba từng qua.
Ba đi, nhìn cảnh cũ,
cười vui, mừng vì Đồng Tháp không còn hoang sơ. Mừng
vì xe chạy bon bon qua những cánh đồng lúa xanh.
Bữa trưa ở khu du lịch, cơm gạo huyết rồng. Chỉ
có hơi buồn là gạo nhập từ Cam. Bên mình giờ hỏng còn
lúa ma mọc hoang vì đất dành cho canh tác. Ba ăn ngon miệng, hết
cả thố. Rể vui quá mua thêm một thố khác cho ba ăn.
Mình thì muốn khóc khi ba ngại
ngần: Có thể mua thêm một phần mang về cho me được không
con? Me con thích ăn cơm hấp lá sen.
Ba
bao giờ cũng vậy, có miếng ngon nhất là nghĩ đến việc
để dành cho vợ, cho các con.
Hôm qua, đi ngang chỗ bán gạo, thấy quảng cáo có gạo huyết rồng. Những
hạt gạo màu đỏ au.
Hôm nay,
một bạn- luôn tâm huyết với thực phẩm sạch, đưab lên
FB bức ảnh chụp chém cơm nấu bằng gạo huyết rồng.
Lại nhớ ba, một trái tim thắm màu
son sắc...
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Từ những câu chuyện ngụ ngôn của ba
Ảnh xưa gia đình: Ông Bà Cố và
các ông bà
Bạn
để lại gì cho cuộc sống.
Ba
tôi kể rằng, giảng sư dạy môn Sử của ông nhìn rất
bình thường. Ông hay mặc chiếc áo khoác len dày, nhưng vải
đã sờn- mà ông tự hào là của bà ông may tặng.
Luôn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, làm xệ xuống tận
chóp mũi, che gần hết khuôn mặt vốn khá là phúc hậu của
ông.
Nhưng ba tôi nói: Nhưng những
cái xề xòa ấy không hề làm chìm đi vẽ thông thái
của thầy.
Lý do, giờ học
của thầy rất vui. Vì thỉnh thoảng - thầy hay khai mào các cuộc
thảo luận về các đề tài chẳng hề dính dấp tới việc
học cho thuộc những trang sử dài dằng dặt, đại khái như
"tại sao lại gây ra chiến tranh", rồi "ý nghĩa cuộc sống
là gì?". Phần lớn những cuộc thảo luận đó, cả lớp
đều không đi đến các kết luận rõ ràng.
Nhưng với các học trò đa cảm, như ba
tôi thì chúng lại gây tác động manh. Chẳng hạn như một
câu chuyện mà ba tôi vẫn nhớ và hay kể.
Có một lần, thầy của ba vào lớp. Rồi ông
tạo ra cuộc thảo luận: Nào, ai có thể kể về cha mẹ mình?
Dĩ nhiên cả lớp đều giơ tay.
Sau khi mời một vài học sinh chia sẽ những
câu chuyện sâu sắc về cha và mẹ. Ông lại hỏi tiếp: Hay quá, vậy ai có thể
kể về ông bà mình?
Những
cánh tay giơ lên, nhưng là ít hơn, chừng ba phần tư lớp.
Sau khi đếm những người có thể kể,
ông lại hỏi: Vậy em nào có thể kể về ông bà cố
của mình?
Không khí trầm lắng,
rồi chỉ có vài cánh tay rụt rè giơ lên.
Thầy giáo vẫn vui vẽ: Ngay cả thầy cũng có rất
ít ký ức về ông bà cố.
Rồi
ông lại đột ngột: Nào, giờ thì các em cùng suy nghĩ kỹ
với thầy nhé. Chỉ mới cách có hai thế hệ mà ngay cả
thầy cũng có rất ít ghi nhớ về các cụ cố. Huống hồ
là các em. Nhưng có một lời khuyên là hãy về nhà tìm
thử xem. Có thể là một bức chân dung cũ treo trong căn phòng
nào đó, hay bức hình chụp được cất hay gói kỹ trong
hộp sắt hay giấy. Hãy xem lại trong một bữa ăn nào đó,
một người trong gia đình đã nghe hay kể về một câu chuyện,
mà câu chuyện ấy là một gợi nhớ về những người trong
gia tộc mình, và biết đâu từ câu chuyện nầy, nhờ
có người trong tổ tiên của mình đã cố học thế nào,
chăm chỉ làm việc ra sao, để có chúng ta ngày hôm nay.
Thầy không muốn các em về nhà đặt
ngay câu hỏi. Nhưng sẽ rất tự hào nếu như xưa kia cụ cố
của ai đó từng giỏi đến thế nào. Tên tuổi rạng rỡ
ra sao. Họ phải giỏi lắm mới có một thế hệ con cháu hôm
nay ngồi học ở đây, một ngôi trường lớn. Chứ không phải
đang lao khổ chật vật ngoài kia.
Rồi
từ đó, các em sẽ thật sự biết tổ tiên mình là ai,
các cụ xưa làm gì, nghĩ gì, các cụ khiến chúng ta hãnh
diện, tạo ra niềm mơ ước điều gì. Các em cứ thử nghĩ
xem. Nếu không biết về quá khứ thì chỉ trong vòng hai, ba thế
hệ thôi mà các bậc tiền nhân đáng kính của chúng
ta đều đã bị lãng quên.
Vậy,
liệu điều đó có xảy đến với các em với con cháu
sau này không?
Cả lớp im lặng đầy
tư lự.
Còn thầy giáo vẫn
ôn tồn: Tôi vừa dọn nhà, phải bỏ đi bao nhiêu đồ vật
cũ. Trong đó có những thứ mà không ai biết là của
ai, chỉ biết là của người xưa. Rồi tôi thử tưởng tượng
ra các thế hệ sau kế mình. Lúc ấy, tôi chắc đã ra người
thiên cổ, còn các em đã thành ra những người già. Chỗ
các em ngồi bây giờ trong lớp sẽ là chỗ của các cháu
chắt, nếu như cái trường nầy vẫn còn. Có một câu
hỏi dành cho thầy và các em. Liệu thế hệ sau có biết gì
về các em không? Hay là các em cũng như tôi, sẽ chìm sâu
trong dĩ vãng của quá khứ?
Có
một cách, để các em muốn cuộc sống của mình hiện thời
sẽ là vết gợi nhớ tầm thường, hay là tấm gương soi
cho các thế hệ sau? Thế thì các em phải để lại di sản
nào cho tương lai. Sự lựa chọn nầy hoàn toàn tùy thuộc
vào quyết định của học hay không học của các em.
Thầy của ba tôi, giờ đã ra người
thiên cổ từ lâu lắm. Như cha tôi đã là bóng mát
xa vời.
Nhưng di sản là tình yêu
thương của ông để lại luôn khiến tôi lưu nhớ không
nguôi.
Ông cố
Ông Nội
Ba và con trai út
Viết khi nhớ có lần ba về quê, tìm
được tấm hình ông cố và các ông, trên tay ông cố
đang bồng ẳm ông nội. Rồi trong cái hộp sắt là hình của
ông nội thời trẻ..
Huỳnh Minh Bích
Nga
Miền Tây- tháng Chạp..
Có người nói, miền Tây mùa
nầy chưa có không khí, phải chờ đến 23 tháng chạp cà..
Nhưng mà, chúng tôi vẫn quyết định
đi. Vì một miền Tây phương Nam đang vào mùa giáp Tết.
Điều đầu tiên là- lá đỏ.
Ai tôi gặp cũng nói: Thời tiết mần sao mà năm nay lá bàng
cứ đỏ rực. Mà cây bàng là giống cây ngoài Bắc.
Theo người đi dân vô. Nên thấy lá bàng đỏ là lại
nhớ câu hát: Hà Nội mùa Đông, cây bàng lá đỏ..
Là mùa cuối đông..
Ngoài cây bàng lá đỏ là cây
hoa phát tài trổ bông. Mùa tháng chạp lành lạnh là cây
hoa phát tài trổ bông. Bông tính ra không đẹp, nhưng ít
trổ nên hiếm. Phải thời tiết dưỡng thế nào cây mới
ra bông. Nhưng ngó cây quanh năm xanh lá, giờ ra bông trắng cũng
vui vui.. Những người dân đang dọn vườn nói với chúng tôi.
Mùa nầy cũng là mùa cánh đàn ông cực hung. Làm cỏ
nè, dọn vườn nè, mé cành nè.. Phải làm đất sạch
sẽ đặng thả xuống mớ gốc vạn thọ, mồng gà.. Để
Tết kịp có bông vừa bán vừa trang trí trong nhà. Vừa gom cành
quơ củi cho mấy bà có nấu bánh tét..Nhiều việc lắm.
Nhiều ông còn phân bua: Làm hỏng xuể
là bị mấy bả rầy..
Còn
mấy bà, mấy chị: Người đang lặt lá mai, người đang phụ
dọn cỏ..Thì che miệng, dấu mặt trong cái nón lá, e thẹn cười.
"Cưng gần chết chớ đố có dám rầy".
Năm nay mưa gió thất thường quá. Mai chắc nở
sớm. Những người lặt lá mai chổ vườn kiểng nói với
chúng tôi. Lải rải trên đường đi, chúng tôi đã
gặp những cây mai "hàng rào", tức là mai mọc hoang-không
chăm sóc, nở bông vàng rực. Một loài mai khác cũng nở
rực không kém là mai Hoa Đăng. Chúng nở khắp nơi, từ vườn
cảnh đến hiên nhà, ngoài rào. Một chủ vườn tại Sa
Đéc thở dài: Đang búp dưỡng bán cho mùa Tết. Giờ
nở bung hết, nên cứ bày ra bán hay chậu nào nhờ chậu đấy.
Không thì dọn vô cắt lại dưỡng cho mùa sau..
Chen lấn với Mai Hoa Đăng, Chuông vàng rải dài
theo từng lối đi khắp miền Tây là những luống vạn thọ
còn xanh nụ, ai cũng bảo vạn thọ năm nay kịp Tết. Nhưng một
số cúc mâm xôi, cúc vàng lại nở sớm.. Sắc vàng của
cúc mâm xôi cúc vàng, mồng gà đỏ, vàng cứ chen nhau.
Nối dài từ con đường từ Bến Tre qua Vĩnh Long.
Chỉ có tiếc một điều: Năm nay, do mưa muộn
nên đa số vườn che lưới bạt. Rồi ngại khách vô chụp
hình làm phiền nên dựng lưới rào cao.
Quen thì vẫn vô chào, thoải mái trò
chuyện, chụp hình. Nhưng lạ thì khó, vì bông trồng là
để bán. Cứ đón khách vô tốp nầy tốp khác chỉ
chụp hình thì.. cũng phiền toái. Nên thôi thà mất lòng
để còn lo chuyện buôn bán, sinh sống.
Một năm có một mùa Tết, bông trồng
cực lắm, chứ hỏng phải làm khó.. Lại nghe tiếng phân bua hiền
queo..
Lang thang một hồi, chạy qua Láng
Biển-Đồng Tháp, để thấy sen và lúa bạt ngàn. Những
cánh đồng lúa đã gặt xong, vịt thả đồng hai bên bờ
vừa kêu vừa chạy, hớn ha hớn hở kíu kíu cạp cạp.. Rồi
cánh đồng lúa chín vàng tươi, thơm lừng mùi hương
gạo mới. Rồi mùi rơm, mùi lúa xanh đang ửng tới.. Rồi xa
xa là máy gặt chạy hối hả.. Mùa lúa Tết...
Rồi Phong Hòa với vườn nhãn, ruộng bông
huệ. Rau màu.. Chưa kịp về Lai Vung đã nghe thơm lừng mùi quýt
chín và cam xoàn. Vườn nhà ai cũng trồng..Vì bởi-Tết
mà.
Như cây cầu mà chúng
tôi đi ngang qua Mỹ Tho. Vựa kiệu tết đang hối hả lựa lặt,
vận chuyển. Hỏi thì cho biết: Trồng sâu trong Tràm Chim, mùa nầy
trong đó đang nhổ, bỏ lên ghe chở ra.. Cái gì cũng phải nhanh vì Tết sắp tới sát nách.. Lại
cười hịch hạc..
Đi lang thang miền Tây tháng Chạp, nghe toàn
chuyện Tết. Những vườn bưởi Vĩnh Long trĩu trái chờ bẻ,
những vườn dưa Long An chờ thu hoạch. Những cây đu đủ vàng
Lai Vung- giống mới: chưng đẹp và ăn được. Những bụi cây
tho( khóm phụng) Cao Lãnh đã cột túm đầu lá để giữ
màu đẹp cho trái.. Vàng ươm trong nắng. Mà chủ vườn
cười thật tươi: Bán hết rồi, lái họ đang xuống cắt
chở về lần lần..
Miền Tây-tháng
chạp. Nắng đang trổ về màu vàng ruộm. Cho lạp xưởng khô
căng, cho dừa rám nạy ra làm mứt. Cho mưa ngưng, cho đậu xanh khô
vỏ, cho lá chuối hột xanh biếc, và cho những hạt nếp trắng tinh
..
Những người dân miền Tây
sau một ngày lặt lá mai, dọn vườn, xuống bông kiểng.. lại
ngồi tính chuyện đặt lò, gói bánh. Lại chân tình nhắn
nhe: 23 âm xuống nhe, nấu chè cúng ông Táo. Rồi gói bánh,
xuống chơi ăn cái Tết quê. Coi cái gì cũng mới tinh..
Dọc theo những con đường về miền
Tây. Những ngôi chợ nhỏ ven lộ lại đầy sắc màu của
quần áo, giày dép, nồi niêu soong chảo.. Của một mùa chào
đón Tết, năm mới cận kề..
Trân Duy.
MÙA KIỆU TẾT
(để tặng những người yêu
thương của chúng tôi)
Tháng 1 Dương lịch, những
ngày thành phố ngập nắng hanh vàng. Buổi xế trưa đi về
qua nhiều con phố, đã thấy nhiều nhà mang kiệu ra phơi cho héo.
Vài năm nay, để đối phó với mê
hồn trận hóa chất bên ngoài. Đang có rất nhiều gia đình
chọn cách quay trở lại với thực phẩm tươi, ngon, sạch làm
tại nhà. Trong đó có món kiệu chua ngọt ngâm dấm đường,
kiệu muối-ngâm nước mắm.
Đi
ngang qua nhà hàng xóm. Thấy cụ ông ngồi trong sân lặt kiệu.
Anh cháu nhỏ kế bên phụ việc. Cụ ông mỉm cười:"Dưa
Kiệu là món ăn kèm không thể thiếu trong bữa cơm ngày
Tết. Rảnh rổi làm một ít cho gia đình, con cháu. Vừa an tâm
vừa vui miệng trong những ngày xuân về Tết đến".
Đi về nhà, điện thoại reo. Chế(*) Diễm
gọi từ miền quê gạo trắng nước trong, giọng vẫn đầy
hào khí Nam Bộ: "Tuần sau ra bến đón hàng nghen. Có mấy
hủ kiệu Chế muối. Mần kỹ lắm, cưng cứ bỏ vô tủ lạnh
ăn cả năm cũng không hư. Xài nước tro đa nghen. Tro sạch, than
củi dừa nên ăn cứ mạnh cái bụng".
Bến là bến xe thành phố nơi tôi ở. Từ con rạch
trong sâu, những người phụ nữ vùng quê chơn chất của tôi
bơi xuồng ra chợ. Ngoài buôn bán các món, các thức đồng
nội, còn là mấy hủ kiệu lót lá chuối khô, quấn ngoài
giấy báo. Rồi tại bến của chợ, mấy hũ củ kiệu lại
vô thùng giấy, lên xe bon bon về thành phố.
Quà quê thật nhẹ nhàn, mà lại trĩu nặng
tấm chơn tình của những người dì, người chị hương
đồng cỏ nội.
Cũng chưa xa lắm,
năm năm về trước thôi đó. Hai ba tuần trước Tết là
nhà tôi rộn ràng. Ba tôi lôi trong gầm tủ chạn ra cái cà
ràng( một loại bếp đất nung của vùng quê Nam Bộ). Dăm bào,
vỏ dừa khô, củi vụn( ba tôi dặn bạn quen ở một trại cưa)
đốt lên nghe thiệt thơm. Ba tôi đốt lấy tro cho mẹ hòa nước
ngâm kiệu.
Bởi vì mẹ tôi vốn
tánh tỉ mỉ. Không ưng ngâm muối.
Cũng như dấm chua. Phải là dấm chuối tự tay mẹ làm mới
ưng ý.
Tro đã có, mẹ tôi đi chợ mua kiệu
tươi. Sau khi cắt bỏ bớt rễ, rửa sạch củ, thân lá đều
được giữ lại để chế biến. Ba tôi giải thích: "Kiệu
ăn nên thuốc nên không bỏ gì cả".
Cũng ba cùng chúng tôi ngồi lặt kiệu. Vì ba nói
mẹ còn bận rộn rất nhiều việc gia chánh khác nên các
con muốn ăn thì phải biết phụ mẹ.
Còn mẹ thì:" Giờ
người ta chuộng kiệu Huế. Loại thân nở thắt eo, loại nầy
ngâm lâu nhưng ăn thơm giòn. Xưa có kiệu lá với kiệu
trâu. Thực ra kiệu nào cũng ngon, nếu biết cách ướp đường
và chế nước dấm đường nữa".
Có thể như thế,
mà ngay từ nhỏ, chúng tôi đã rành rẽ chuyện làm kiệu,
từ chuyện cắt chân kiệu đến ngâm phơi. Rồi xếp củ kiệu
đã trắng sạch vào hủ, chờ mẹ chế nước ...
Những lúc ấy, bếp nhà rộn ra lắm. Bữa
cơm thế nào cũng có món thịt chiên ướp lá kiệu. Canh
thịt lá kiệu.. Rồi dưa món thân kiệu ăn lai rai với thịt
ba rọi kho...
Còn hủ củ kiệu, được
trang trí với cà rốt đỏ tỉa hoa xắt thật mỏng thì phải
chờ đến sáng mùng một Tết. Chúng sẽ được bài
ra dĩa, ăn với bánh tét, chả lụa, nem... Cũng như với món
thịt tai heo-mũi heo ngâm nước mắm ăn vào mùng hai..
Rồi mùng ba, chúng lại được tướt
nhỏ ra, trộn với bắp cải xắt và thịt gà luộc xé phai...
Lúc nầy thì hủ củ kiệu cũng vừa hết.
Những
mùa Tết qua, chúng tôi lớn dần lên, ba mẹ tôi yếu dần
đi. Chúng tôi hay cản không cho cha mẹ làm việc nhiều quá. Vì
sao cứ bận rộn nấu nướng, bày biện cho một mùa ‘ăn
Tết", để thay vì nghỉ ngơi thì cứ mệt nhoài.
Thôi,
thì cứ đi mua cho khỏe.
Nhưng có
những thứ chúng tôi đi mua thì sẽ bị rầy. Như các dì
các chị dưới quê:" Úy, kiệu mua biết họ có ngâm chất
bảo quản hôn đó. Thôi, một công hai ba chuyện. Dưới nầy
thì kiệu ê hề. Làm cũng chút xíu à. Quàng thêm mớ
hủ cho đầu trên xóm dưới. Chỉ hơi mắc công chút đi
gởi ra lấy. Coi như quà tết đi hén".
Rồi như thành lệ. mẹ tôi hay đi gom
lọ hũ không, kiếm cái thùng giấy nhỏ lót báo gởi xuống.
Gần Tết thì kiệu hủ gởi lên.
Tôi
mà không cản, các Chế còn gởi nào dưa hành, dưa món,
dưa cải..
Như một món quà thơm
thảo bà con xa gần biếu nhau mỗi khi xuân về Tết đến.
(*). Chế có nghĩa là chị. Một tiếng
gọi thân mật Nam Bộ, tôi không biết xuất phát từ đâu.
Nhưng gần đây giới trẻ miền Tây hay gọi để biểu hiện
tình thương mến, pha lẫn kính trọng.
HUỲNH
MINH BÍCH NGA
Ảnh: DUY TRẦN __________________________________________
BUỔI SÁNG GIÁNG SINH
Có những câu chuyện được cắt ra từ trang giấy
ố vàng của ba. Để ba cất dành cho con gái lớn sẽ đọc.
Cái sự dạy con của ba thật kỳ lạ, cứ nhẹ và dịu êm.
Như những cơn mưa dầm, thấm rất sâu trong đất. Viết dành
tặng ba, tặng em Sơn và bé Sơn Khôi.
Buổi sáng Giáng sinh (Christmas Day in the Morning), một
câu chuyện của nữ văn sỹ Pearl S. Buck.
Ai yêu văn học xưa chắc còn nhớ những
câu chuyện dịch của Trại Trân Châu. Tên tiếng Hoa là Sai Zhenzhu.
Bà là một nhà văn người Mỹ gốc Á với Mỹ danh Pearl
Sydenstricker Buck (sinh ngày 26 tháng 6 -1892, mất ngày 6 tháng 3 - 1973). Lớn lên
trong nền giao thoa Đông Tây, bà đã cầm bút và ghi lại
rất nhiều câu truyện trong cuộc đời của mẹ và bà mình.
Rồi trở thành nhà văn của làn sóng " Gió Đông Gió
Tây" ( tên một tác phẩm của bà) nổi tiếng.
Pearl S.Buck là bút danh của bà, với
những thiên truyện dài, mô tả một cách thật nhẹ ở sự
cảm thông, giao động giữa các nền văn hoá, đặc biệt
là giữa hai nền văn hoá Đông Phương và Tây Phương
của những năm đầu thế kỷ 20.
Riêng với mình, câu chuyện Buổi sáng Giáng
sinh do Pearl Buck viết năm 1955, là một câu chuyện ấm cúng, đầy
tính chất Á Đông nhất, kể về một món quà của một
người con trai tặng cho cha mình trong khung cảnh miền quê nước Mỹ
mùa Đông.
Và mình viết lại, xin để tặng mọi người
cha và con trong mùa Đông Sài Gòn trở lạnh vài bữa nay.
Tôi
đột nhiên thức giấc vì hơi lạnh, và thấy mình tỉnh
ngủ ngay lập tức.
Bên kia, kim đồng hồ chỉ mới báo có
4 giờ sáng thôi. Cũng là giờ mà cha của tôi vẫn thường
kiên nhẫn gọi tôi dậy để giúp ông việc vắt sữa bò.
Chính từ những cuộc gọi nầy đã tạo ra thói quen dậy sớm
cho tôi, thậm chí vẫn cứ bám theo tôi mãi.
Ôi, 50 năm rồi còn gì, và cha của
tôi cũng đã đi xa gần ba mươi năm qua. Thế mà, tôi vẫn
như kim đồng hồ chỉ đúng vào lúc 4 giờ sáng.
Nếu
là một buổi sáng thông thường thì tôi chắc sẽ xoay mình
rồi chìm vào giấc ngủ trở lại. Nhưng trong đầu tôi đang
rung lên những hồi chuông, như báo - hôm nay là buổi sáng Giáng
Sinh. Chỉ nghĩ đến đó tôi không muốn ngủ nữa.
Tại sao vậy, tự dưng tôi cảm thấy mình
lại tỉnh táo như thế?
Dĩ
vãng như ùa trở về với tôi, việc nhớ về các hoài
niệm luôn là việc dễ dàng với những người đang chớm
già. Tôi nhớ năm đó tôi chừng có 15 tuổi và còn
sống trong trang trại với cha.
Như mọi đứa trẻ khác, tôi
luôn yêu cha của mình. Nhưng đó là điều mà có thể
cha ông không biết, cũng có thể ông quá bận làm việc để
biết..
Rồi một ngày kia, một vài
ngày trước lễ Giáng Sinh, trên căn gác xếp. Tôi tình cờ
nghe cha nói với mẹ.
"Mẹ nó à. Tôi thật tình không
muốn gọi thằng Rob dậy sớm như thế này đâu. Con nó đang
ở tuổi lớn và cần phải ngủ nhiều. Em thử nhìn nó mà
xem, chân tay đang dài sọc ra, nên cứ để nó ngủ. Công việc
thì anh sẽ cố làm một mình."
"Ôi, không được
đâu, ba nó ơi." Giọng nói của mẹ tôi có vẻ dứt
khoát, vì bà vốn tham công tiếc việc. "Con nó không còn
là một đứa bé nữa. Lớn rồi, phải có tinh thần phụ
cha trong công việc, rồi mai còn gánh phiên lo cho gia đình."
"Ừ,". Giọng cha tôi nghe thật chậm rãi. "Nhưng anh chẳng muốn
đánh thức nó dậy tí nào. Nhìn nó ngủ mới ngon làm
sao".
Khi nghe như vậy, một cái gì
đó trong tâm nói cho tôi biết: Cha tôi yêu các con lắm. Yêu
giản dị đến mức chưa hề nghĩ ra để nói những lời
hoa mỹ. Vì thế hệ của ông thường cho rằng tình phụ tử
là chuyện thường tình. Và trong cái gia đình nông dân
truyền đời nầy, cả cha và mẹ tôi, cũng chẳng bao giờ nói
lên cái gọi là khoe khoang sự yêu thương dành cho con cái của
họ. Lý do cực đơn giản- Có thời giờ đâu mà nói.
Mà ở nhà, quanh nông trại thì luôn luôn
có rất nhiều việc phải làm. Làm đầu tắt mặt tối.
Từ buổi hôm đó, khi tôi biết là
cha tôi rất yêu thương các con, thì tôi không còn ngập
ngừng mỗi buổi sáng, không càu nhàu, quạo quọ, hay phải để
gọi dậy lần thứ hai. Tôi đã tập bật dậy ngay vào tinh mơ,
dù lắm khi ngã lên ngã xuống trong cơn ngái ngủ. Rồi lơ
mơ khi mặc quần áo vào. Rồi loạng choạng với đôi mắt
vẫn nhắm nghiền, nhưng quan trọng là tôi đã thức.
Mùa đông năm đó, tuyết rơi dầy,
việc dọn dẹp nhiều hơn.
Cha tôi
thường làm việc rất khuya. Khi về ông có vẽ rã rời với
những khớp xương như đang kêu rôm rốp.
Đó là một đêm trước lễ Giáng sinh. Tôi
tỉnh thức khi nghe tiếng động mõi mệt lúc cha tôi chuẩn bị
đi ngủ. Rồi tôi nằm, vẫn vơ suy nghĩ ít phút về việc
lễ của ngày Giáng Sinh. Nhà tôi, các nhà quanh vùng đều
nghèo, hầu như mọi sự vui nhộn của ngày lễ đều chỉ
quanh quẩn ở cái việc ăn thịt con gà tây mà họ đã
nuôi, thêm vào cái bánh nướng nhân hoa quả mà các bà
mẹ hay làm cho dịp quan trọng. Các cô em gái của tôi sẽ tặng
cho cả nhà vài món quà do họ tự đan hay làm lấy. Còn
mẹ của tôi chỉ muốn mua một cái gì đó mà cả nhà
thật sự cần, đó có thể là một chiếc áo ấm hay đôi
giày. Còn cha tôi, năm nào làm ăn khá ông lại mua cho các
con một món mà mẹ tôi kêu là vô ích, nhưng chúng tôi
rất yêu thích- ví dụ như một cuốn sách chẳng hạn. Còn
lại thì năm nào ông thì cũng ráng mua cho cả nhà, mỗi
người một món gì đó be bé.
Như một thôi thúc, tôi đã ước ao rằng, phải chi
tôi có thể trao tặng một món quà tốt hơn cho cha mình. Nhưng
tôi chỉ là một đứa bé tuổi mười lăm.
Giáng sinh, với các năm trước, thì tôi sẽ
đi đến các cửa hàng tạp hoá bán những món đồ
10 xu, và tìm mua một món gì đó cho cha. Nhưng năm nay xem ra vẫn
chưa thể đủ.
Cứ như thế,
tôi nằm suy nghĩ. Tôi nhìn ra cửa sổ hẹp của căn gác nhỏ
mà cha tôi đóng để dành riêng cho con trai, có những ngôi
sao chiếu sáng thật là sáng.
Rồi trong giấc mơ, tôi nhớ lại lúc
nắm tay cha đi nhà thờ, xem hang đá. Tôi đã hỏi cha: "Cha
ơi, máng cỏ là gì vậy?"
Bé Sơn Khôi, cháu nội ba Huỳnh Minh Bảo
Còn cha tôi thì cười: "Chỉ là
một cái chuồng, nhưng ấm áp. Giống như ở nhà mình vậy."
Chúa Giêsu hài đồng đã sinh ra trong một
cái chuồng, và đám mục đồng đã đến quanh đó...
Tư tưởng về cái chuồng chợt xuyên qua trái tim của tôi,
giống như một bông tuyết sáng bằng bạc. Tại sao tôi lại
không thể tặng cho cha mình một món quà đặc biệt, ngay tại
cái chuồng của gia đình? Tôi có thể dậy sớm, sớm hơn
bốn giờ sáng, và tôi có thể lén vào cái chuồng và
vắt hết sữa bò. Tôi sẽ làm điều đó một mình,
từ việc vắt sữa đến lau dọn sân. Để sau đó, khi cha
tôi thức dậy thì mọi việc đã tinh tươm.
Dĩ nhiên,
cha tôi sẽ biết đó là ai đã làm việc đó. Tôi-
đứa trẻ mười lăm tuổi cười đắc ý một mình,
rồi thiếp đi trong ánh sáng của những vì sao.
Rồi cũng
quyết định như thế, tôi lại lo bản thân sẽ ngủ quên.
Nên tôi đã thấp thỏm, đã thức dậy tới mươi
lần, mỗi lần lại ra cửa sổ dụi mắt cố nhìn đồng hồ.
12h, rồi 01:30, rồi 02:30.
Cho đến 3 giờ 30. Tôi kiên quyết đứng
dậy và mặc quần áo. Tôi rón rén xuống cầu thang, cẩn
thận không đạp vào miếng gỗ thường kêu cót két, rồi
len lén ra khỏi nhà trong mùi ấm nóng sực của hơi người
còn say ngủ.
Tại chuồng, những con bò ngái ngủ nhìn
tôi, miệng nhỏm nhẻm nhai lại. Hình như muốn hỏi: Còn quá
sớm mà.
Thú thật, tôi chưa hề vắt sữa một mình bao
giờ, nhưng lần này sao mà dễ dàng quá. Thật nhanh chóng. Rồi
tôi đi dọn sân. Vừa làm tôi vừa suy nghĩ về việc cha tôi
sẽ ngạc nhiên như thế nào. Này nhé, ông sẽ tới chân
cầu thang trên gát để gọi tôi dậy, nói rằng cha sẽ đi
chuẩn bị trước trong lúc con mặc quần áo...Rồi ông sẽ đi
ra chuồng bò, mở cửa, dọn tuyết. Và sau đó, đi tìm hai
chiếc thùng rỗng.
Kinh ngạc là ở đây. Tuyết như mỏng
hơn, còn những chiếc thùng không còn ở đấy và cũng
không còn rỗng, chúng đã được đặt ở nhà bếp
và chứa đầy sữa.
"Chúa lòng lành"..Tôi mường
tượng ra ông sẽ kêu lên như thế.
Cứ nghỉ lan mang, tôi
tủm tỉm cười và làm tiếp những công việc khác. Những
công việc kế đó xem ra chỉ là những việc vụn vặt. Công
việc sáng nay với tôi, nó còn là một cái gì khác,
một món quà cho người cha, người con biết ông yêu con, yêu
gia đình.
Mọi việc kết thúc. Tôi đóng cửa chuồng
bò và căn nhà cẩn thận, xem xét kỹ lưỡng cái chốt
cửa rào.
Khi về đến phòng thì tôi chỉ còn có ít
phút để cởi quần áo và nhảy vào giường. Rất nhanh,
mắt tôi chìm trong bóng tối của một giấc ngủ mê. Rồi trong
lơ mơ, tôi nghe tiếng chân cha tôi đi lên. Nhưng ông không gọi
tên tôi mà kéo chăn phủ lên đầu tôi rồi đi xuống.
Tôi nghe tiếng chốt cửa mở.
Những giây phút trôi qua hầu như dài vô tận - không biết
là bao nhiêu - rồi tôi nghe tiếng chân của mẹ. Cửa mở và
hơi lạnh như tràn vào. Tôi nằm nghe tiếng mẹ nhóm lò.
Rồi tiếng mẹ nghiêm khắc:"Rob!". "Vâng", tôi đáp
lại một cách ngái ngủ. Vẫn là giọng mẹ: "Thức dậy
thôi con, dù là Giáng Sinh."
Có nghe tiếng chân của cha tôi
một lần nữa. Cửa mở và tôi vẫn nằm im.
Rồi một giọng
phấn khích vang lên "Rob!".Tiếng cha tôi cười, một tiếng cười
thổn thức kỳ lạ.
Tôi đã nhỏm dậy: "Dạ, dậy ngay
thưa bố già". Rồi tôi cảm thấy cha tôi đang ôm chặt
lấy tôi một cách tha riết. Tôi cảm nhận rõ cánh tay thô
ráp của cha vòng quanh thân tôi. Qua ánh lửa bập bùng dưới
bếp, mắt chúng tôi đang nhìn thấy nhau. Tiếng cha tôi thì thầm:
"Con à, cảm ơn con. Không có ai làm một việc đẹp như
vậy".
Tôi nhào ra khỏi giường, tìm cách kéo tấm
chăn ra để cùng quấn lấy cha của mình. "Quà Giáng sinh
mà cha". Những lời nói cứ bật ra tự nhiên. Cha và tôi
đều không biết nói gì. Trái tim của hai người đàn
ông to và nhỏ đều tràn trề thương yêu.
Buổi sáng hôm đó, tôi đứng dậy và
mặc quần áo một lần nữa. Rồi chúng tôi cùng đi xuống
chỗ để cây Giáng Sinh. Thật là một Giáng Sinh an lành,
và tim của tôi lại gần như đập nhanh một lần nữa vì
e thẹn. Khi cha tôi tự hào kể lại cho mẹ và các em nghe rằng:
"Hôm nay con trai của cả nhà, Rob, đã tự dậy và làm hết
việc một mình".
Có một hồi
chuông đang rung, ngân vang vang. Như một điệu nhạc: "Đây mãi
là món quà Giáng Sinh đẹp nhất của gia đình, cha sẽ nhớ
mãi, con à, nhớ hằng năm vào sáng Giáng sinh, suốt đời".
Cha tôi đã giữ lời hứa, bây giờ
thì ông đã về bên nước Chúa an bình. Để lại
cho tôi nỗi nhớ ấy một mình. Cái nhớ long lanh của bình minh
đầy ân sủng trong buổi sớm ngày Giáng Sinh. Tình yêu thương
của cha và tôi đã tạo ra món quà đầu tiên của một
thứ tình yêu đích thực.
Rồi
quay lại với hiện tại. Tôi quyết định viết một tấm thiệp
treo lên cây thông, dành tặng cho vợ tôi. Và nói với nàng
là tôi yêu em nhiều lắm. Kể ra thì hơi khó vì tính tôi
vốn không ưa sến xúa, và lâu lắm rồi tôi chưa nói
với vợ theo kiểu như vậy.
Nhưng
có một điều không chối cãi là tôi vẫn yêu vợ tôi
tha thiết, có khi còn nhiều hơn cả lúc còn trẻ. Tôi đã
như cha tôi, có cái may mắn là có người vợ yêu thương
ông. Yêu một cách chân thành mộc mạc, như niềm vui đích
thực của cuộc sống.
Tôi cũng không cần phải đi khai phá
để nhận ra rằng: Tình yêu của chúng tôi sống được
dài lâu, có thể vì nó đã sinh ra trong cái ngày khi tôi
biết rằng cha tôi yêu tôi và gia đình. Rồi cứ thế tuông
chảy theo dòng - chỉ có tình yêu mới có thể tiếp nối
được tình yêu.
Các
bạn yêu quý, cho dù ở cái tuổi nầy, chúng ta vẫn có
thể tặng nhau món quà tình yêu trong buổi sáng Giáng Sinh. Nên
đừng chần chừ trong một câu nói, một lời chúc treo trên
cây thông trong lòng một tấm thiệp. Trước tiên là cho những
người mà mình yêu quý. Như tôi đang đeo kính và
nắn nót viết.
Sẽ có những
cánh thiệp, lá thư. Sẽ được người nhận trân trọng
đọc và giữ mãi mãi. Sẽ có những mở đầu bằng
câu: gởi người yêu quí của tôi.. .Giáng Sinh hạnh phúc.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
_________________________________________________________________________________________________________________
BÔNG ĐIỆP CÚNG
Nhớ hồi đi miền Tây vào đầu
mùa nước dâng. Quanh những cái nhà sàn chân cao vùng An Giang
nước đang về lóng lánh. Rồi xanh mướt trong sân, trong rào
là những chùm xanh chen bông đỏ, bông cam bông vàng. Những bông
hoa mọc thành chùm, tua cái nhị dài, rung rinh trong nắng gió..
Đó là bông điệp cúng.
Tôi có hỏi người dân chung quanh. Sao
lại ưng trồng bông điệp cúng. Họ nói, do dễ trồng, nên
nhà nào cũng trồng làm hàng rào, để tựa bên bàn
thiên. Cao lên thì lấy bóng mát.
Rồi xa xôi hơn nữa, có người giải thích: Đất ở
đây có hai mùa. Mùa khô và mùa mưa. Cây điệp cúng
chấp nhận cái đất khô, hạn mặn, trụi lá chờ cho qua mùa
nắng. sau đó nở bông, xanh tươi trong mùa mưa lũ.. Có cái
cây bông đẹp, dễ trồng, vừa làm mát vừa giữ đất,
sao lại không ưng. Mà cũng chẳng phải trồng chi, hột bông rụng
xuống đất ẩm, theo con nước trôi rồi nẩy mầm, mọc lên.
Nhiều nhà có cậy lão, cứ cao lên thì mé nhánh bên
dưới, tàng trên cao xòa kết như cái dù. Tha hồ mát mẻ.
Tha hồ thảnh thơi cho con người, con vật, núp bóng bên dưới.
Còn có bẻ làm bông cúng không.
Ai cũng nghiêm trang: Bông cúng phải là vạn thọ, hay bông trang, bông
cúc. Chứ bông nầy, y như bông phượng vậy. Rời cành chút
xíu là héo rũ. Hết đẹp.
Còn
xuất xứ từ đâu. Những người già hỏi nhau, rồi bảo lại
với tôi: Bông nầy chắc người Pháp mang vào Việt Nam. Vì
nó có gốc của
giống loài thực vật của vùng nhiệt
đới châu Mỹ, có thể là Mêhicô hay Trung Mỹ, sau đó
theo chân người đi khai phá, được trồng và đượccoi
làm cây cảnh hàng rào ở nhiều miền nhiệt đới. bây
giờ thì gặp ở khắp nơi. Vùng Đông Á: Xri Lanca, Ấn Độ,
Nêpan, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, bán
đảo và quần đảo Mã Lai.
Còn
ở nước ta, người dân thấy bông đẹp thì trồng ngắm
chơi. Nó là loài cây dễ trồng, sống dai. Mà khi cần mé
nhánh, dọn cảnh cũng dễ do nhánh giòn, dễ cắt.
Cũng chính vì dễ trồng, dễ mọc. Nên
không được xếp vào loại bông quý.
Nhưng còn ý nghĩa. Người phương Nam theo truyền
thống ham học, thích lễ nghĩa. Nên cây điệp cúng nầy hay
trồng, cũng có nghĩa là mong cho con cái học hành giỏi giang, đỗ
đạt. Như chim phụng, chim hoàng. Vì cái bông nó mang sắc rực
rỡ đỏ vàng, màu của may mắn..
Rồi ngoài cái
tên điệp cúng, còn có các tên rất kêu như Điệp
Phượng, Kim phượng, Tên
khoa học: Caesalpini pulcherrima.
Còn xa xưa, ông bà mình, để phân biệt với cây
Điệp Tây( điệp ngủ, còng..), phượng vỹ, phượng báo
hè. Thì giản dị gọi đó là cây điệp ta. Điệp
cúng là sau nầy thôi..
Ngồi ra các trang sách thơ truyện, trang nhạc.
Thấy có bông mắc cỡ, bông lục bình, cỏ may.. Nhưng dò
hoài chưa thấy có cổ tích về bông điệp cúng.
Vẫn là người phương Nam chơn chất
nói: Ối, nó là cái bông hàng rào mà. Chỉ có là
xấp nhỏ đi học xa. Qua công viên mùa mưa. Thấy điệp cúng
trồng làm tiểu cảnh xoè bông khoe nhị hực hỡ. lại điện
thoại về nhà, than nhớ mùa nước dâng, nhớ ba nhớ má, nhớ
ông bà. Lên tới mùa là bông điệp nầy nở ngập trên
fây bút..
Tháng mười âm sắp về, sẽ
có con nước cao cuối cùng. Con cá linh giờ cũng lớn trong trọng,
Gió thổi bông điệp cúng xòe nhị phấn vàng bay..
HUỲNH MINH BÍCH NGA
_______________________________________________________________________________________________________________________________
Lăng ông trong mắt con và ba.
Trong ký ức xưa lắc, lăng ông với
bà ngoại ( mẹ của me) là một cái gì đó linh thiêng.
Đến cầu tài lộc, xin xăm, keo, quẻ..Và cả chuyện nầy nữa:
Ai nói sai, đôi chối. Cứ ra lăng ông mà thề. Hai người cầm
hai con gà trước mộ ông mà văn tréo. Kẻ sai quấy chưa kịp
bẻ cổ thì ông đã vật chết tươi, trẹo cổ, hộc
máu..
Còn với ba, người từng
cho con bức ảnh cắt từ cuốn sổ Agenda trên bàn làm việc của
ba, bức ảnh chụp cổng tam quan nổi tiếng của lăng thì cười
xòa: Người Hoa vốn tin vào thần thoại và cúng bái. Lăng
Ông là cái nơi chôn một vị võ tướng nổi danh thời
Nguyễn là ông Lê Văn Duyệt. Người được in hình trên
tờ tiền Việt Nam. Còn chuyện kéo nhau ra mộ ông thề, vặn cổ
gà vịt thì ba chỉ nghe đồn, chứ thực tế thì chưa thấy.
Rồi một lần, nghe bà ngoại chưởi
um vì chuyện "đôi chối' với mấy bà nhiều chuyện trong xóm.
Lại tung tung chuyện kéo nhau ra lăng ông thề để ông về vật
hộc máu.. Ba lại "thì thầm" với con: Theo khoa học, những người có
tật giật mình sẽ hay hồi hộp. Bị dồn phải kéo nhau ra nơi
vốn mang danh tiếng linh thiêng thì sự hồi hộp càng cao hơn, giữa
nơi trống trải, nắng gió. Nhịp tim đập nhanh, máu không kịp
tuần hoàn, dễ dẫn tới đứt mạch mão não.( mà nay hay gọi
là đột quỵ). Người xưa không biết cứ gọi là bà
bắn, ông về vật.. Rồi ba lại ra vẽ bí mật: Nhưng mà với
người ít học, hung hãn. Kế đó xem ra lại hay, vì có huyền
bí như vậy mới ra chuyện răn sợ, để họ vì tín ngưỡng
mà không dám làm điều ác.
Quả thật như vậy, sau nầy con nghiệm:
Với những người hay "tuyên truyền" chuyện linh thiêng theo kiểu
mê tín. Thì với họ lăng ông là nơi thờ ông thần linh
lắm, nhưng đó là ông gì thì .. không biết. Còn chuyện
đến mục sở thị.. thì càng hiếm hoi.( như ngoại của con chưa
đến Lăng Ông chiêm bái bao giờ..)
Sau nầy con lớn, ngày đầu quen bạn
trai( rể của ba bây giờ). Ngày tết, chàng khăn khăn quyết định
là phải ra Lăng Ông viếng, vì đó là tục lệ. Con hơi
ngang bướng, không muốn ra vì cảm thấy đó là nơi coi bói
xin xăm- cái mà con không bao giờ tin.. Nhưng rồi cũng đi, và dĩ
nhiên không vui vì bị vây giữa ngập tràn nhang khói và những
lời xin xăm xóc thẻ..
Sau nầy, con cùng chàng rể ra Lăng
Ông nhiều, lý do chỉ vì mua sắm. Kế bênh Lăng là chợ Bà
Chiểu, nơi có một gian hàng bán đồ linh tinh quần áo, đồ
chơi, vật dụng..và Lăng Ông chỉ là nơi tụi con ghé qua gởi
xe.
Rồi cũng từ một nghiên cứu
của ba về cây lan đầu lân.(Sa La Long Thọ, hay còn gọi tắt là
Sa la. Tại Việt Nam, nó còn được gọi tên là Song Long Thủ,
Đầu lân, Hàm rồng vì khi hoa nở trông giống như đầu
rồng. Giới chơi cây cảnhthì gọi là Ngọc kỳ lân). Tụi
con đã đi vào khu sân vườn của Lăng để chụp trái
của cây hoa nầy, nhằm minh chứng cho cái tên Cannonball tree. Từ đó
tìm hiểu thêm về Lăng Ông, về hai ngôi mộ song táng của
Đức Tả Quân và phu nhân. Về một nhân vật từ công thần
thành tội thần sau khi mất. Rồi lại được xóa án.. Một
vị tướng tài, và là một tổng trấn có công lớn trong
việc giúp ổn định và phát triển khu vực Nam Bộ miền
Nam Việt Nam, giúp cho vùng đất Gia Định từ một khu vực
chịu ảnh hưởng nặng nề của giao tranh - thành một khu vực
bình yên, từ đó ổn định và trù phú.
Và cũng để có một cái nhìn
tôn nghiêm về Lăng Ông. Nơi đã trở thành một địa
danh văn hóa tôn nghiêm. Không còn cảnh mê tín lộn xộn
và bát nháo..
Bây
giờ, Lăng Ông là nơi con hay lui tới chụp ảnh, tìm hiểu lịch
sử... Và cũng vì ngày xưa, đức Tả Quân Lê Văn Duyệt
là một người sành thưởng thức hát bội và thường
tự tay cầm chầu. nên vào ngày giổ hằng năm của ông, tụi
con lại được đến và xem một môn nghệ thuật thuần Việt.
Cùng vào hậu trường xem, ngắm, trò chuyện với những nghệ
nhân Hát Bội. Để thấy ngọn lửa nghề của những người
gìn giữ văn hóa thuần khiết luôn rực cháy thuần khiết..
HMBN ________________________
Tháng 7, tháng của mưa
Ngâu.
(phóng tác
từ một câu truyện đọc đâu đó trên mạng)
Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh: Duy Trần
Tranh: Duy Trần
Bây giờ,
biến đổi khí hậu khiến thời tiết như đảo lộn, đi
kèm những cơn sốt nông thôn bị ép chạy theo những giấc
mơ thành thị hóa càng khiến con người ta phài sống vội
hơn. Để ít ai còn kịp nhớ tháng 7 âm lịch đang về
trong những đợt mưa nhỏ rải rác. Những cơn mưa có hạt
li ti như bụi, chợt đến và chợt đi thật nhẹ. Để những
người yêu nhau vừa kịp choàng áo mưa, vừa vuốt tóc ướt
cho nhau và gọi đó là mùa của mưa Ngâu.
Ông cậu đến từ vùng quê xa tít, ngồi co
chân ngó rèm mưa như bụi rồi thẩn thờ: " Thường tháng
nầy, mạ đã cấy xong. Đồng lúa xanh um đóm mưa Ngâu
đến. Mấy đứa nhỏ đi học, theo cha đi đồng về.Đi trên
bờ ruộng trống là nghe thấy tiếng mưa chạy từ xa, nhìn lên
mấy ngọn cây phía xa là thấy mưa rơi trắng lóa. Thế là
ù té chạy về nhà.."
Rồi
ông như nói cho mình:"Mưa Ngâu đến và đi nhanh lắm,
mưa không dai nhưng hạt rất to, đủ cho những kẻ áo mỏng mắc
mưa ướt sũng. Thường sau mưa thì mặt trời cũng hiện ra
rất nhanh. Nên mấy bà mẹ cứ lo ngai ngái, mắc mưa rồi nắng
kiểu nầy con nít cứ bịnh dài dài".
Câu chuyện của ông làm tôi lại nhớ đến
một bà dì họ. Về hay nghe bà kể về một thời ấm áp
xưa xưa. Đó là những ngày mưa, mà mẹ bà cho rằng
là lúc thảnh thơi nhất do không phải ra dọn vườn hay mần
việc. Và bà chọn cái việc nhẹ nhàng nhất là lôi trong
cái tủ gỗ ra những quần áo cũ để dành của cả nhà
ra khâu khâu vá vá.
"Chọn
chỗ ngồi sáng nhất trên bộ ván, nơi từ cửa sổ có
thể nhìn ra mưa rơi ngoài hiên. Mẹ vừa xé những phần vải
còn chắc của những cái quần cái áo rách tã nhất, vừa
nói về chuyện mấy đứa nhỏ không biết tiết kiệm gì
hết, đồ còn tốt mà cứ để cho rách, cho dính mủ chuối,
cho gai móc.. Xong phần xé vải là lấy kim lấy chỉ, vuốt cục
sáp cho sợi chỉ trơn, rồi mẹ miệt mài ngồi đắp vải,
miết mép vải và vá may.."
Những
lúc ấy, "mấy đứa nhỏ" cũng leo lên bộ ván, đứa
nhỏ nhất sẽ có đặc quyền ngã đầu vào đùi mẹ,
còn mấy đứa lớn, nhất là con gái-như bà dì họ của
tôi thì lăng xăng phụ như để chuộc lổi. Đứa thì
phụ miết vải, đứa canh hết chỉ để xỏ kim. Đứa lo tướt
vải để mẹ dễ xé.
Trong cái cảnh trang tối trang sáng ấy, vì
những trận mưa cứ đến rồi đi. Dì thường hay nhìn ra
hàng hiên mưa, nhìn luống rau thơm, cây ớt ướt nhèm bên
cái lu hứng nước, nhìn mấy bụi chuối lòa xòa lá rách
do mưa và thong thả chờ mẹ dì kể chuyện cổ tích.
"Mưa cứ rả rích dài hơn, kèm
theo vài tiếng sấm ì ầm. Rồi mẹ dì nói nhẹ nhàng: "Ông
trời sôi bụng rồi đó". Lập tức, trong bầy con nít có
tiếng giục giã:" Má, má kể chuyện cổ tích đi".
"ừa, thì kể". Mẹ dì tiếp
lời. Rồi nhìn ra ngoài mưa, bà ôn nhu nói:" Mưa Ngâu chính
là nước mắt cùa chàng Ngưu Lang và nàng Chức Nữ. Ngưu
Lang chăn trâu trên những cánh đồng của Ngọc Hoàng, Chức
Nữ lo việc dệt vải. Vì mãi ngắm Chức Nữ dệt vải mà
Ngưu Lang để trâu bị đói, còn Chức Nữ do biết có kẻ
ngắm mình mà dệt vải cứ bị lổi bị sai..Khi thiên đình
hay được chuyện họ yêu nhau mà tâu lên. Ngọc Hoàng giận
lắm bắt họ phải chia ra làm hai đầu, một đầu ở ngọn
sông Ngân Hà, một đầu ở cuối sông, Cả năm mới được
gặp nhau một lần.. Đó là mùng bảy tháng bảy..
Lệnh thiên ban ra rồi, gần đến tháng
bảy thì Ngọc Hoàng mới phát hiện ra là trên sông Ngân
không có cây cầu nào cả. Ngài mới cho vời những người
thợ mộc giỏi nhất nhân gian lên Thiên Đình xây cầu.
Nhưng mà những người thợ ấy, ai
cũng cho là mình tài giỏi nhất, nên không ai chịu nhịn ai cả.
Cầu thì xây mãi không xong, ngày định hẹn thì đã
gần kề. Ngọc Hoàng lại giận nữa, hóa phép các thợ mộc
biến thành quạ, để mùng bảy tháng bảy âm là kết
cánh thành cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau..
Còn Ngưu Lang và Chức Nữ, ngay từ đầu tháng,
nôn nao cho ngày gặp nhau, họ đã khóc, những giọt nước
mắt của họ cứ rơi xuống, chứa bao nhiềm nhung nhớ, trong suốt tháng
bảy.. Để nhân gian gọi đó là mưa Ngâu".
Giọng bà dì chùn lại: "Má dì hồi
đó kiêng kỵ tên húy, nên đâu dám gọi thẳng tên
Ngưu Lang Chức Nữ ra, cứ gọi là ông bà Ngâu. Còn bầy quạ,
thì bà cứ gọi thẳng ra là Ô Kiều, sau nầy có nghe thêm
tên cầu Ô Thước. Cũng như giải thích thêm: Vì phải
xếp cánh làm cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ bước qua, nên tháng
bảy con quạ nào cũng lông cánh xát xơ. Mà nhân gian ai cũng
ghét bầy quạ làm phách đó thấy là xua đuổi, Rồi
má dì lại quay ngang ra kể tội mấy con quạ đã vu khống
cho ông Dã Tràng, khiến ông phải mang tội hại người".
Mẹ của dì, cũng như dì, và cũng
như rất nhiều người phụ nữ trong họ tôi đã từng gặp
qua. Đều có một tuổi thơ êm trôi rất ngắn, để kế
đó là một thời xuân sắc gói trọn bên vườn ruộng,
gia đình, chồng con.. Để lâu lâu có một chút thảnh thơi-như
mùa mưa ngâu. Để nhìn mưa rắc rây và thương cảm
cho chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ, để chép miệng than dài:"
Không biết trên trần gian nầy, còn bao nhiêu người yêu nhau mà
phải chia tay ở đôi bờ cách xa".
Những người phụ nữ ấy, tôi ít khi nghe họ khóc,
có chăng là tiếng khóc ấy luôn sâu thẳm trong lòng. Mà
từ bao đời họ đã hóa thành quen khi phải cất tiếng khóc
vào trong?
Huỳnh Minh Bích Nga
___________________________________________________________________________________________________________
BUỔI SÁNG
Ở PHÒNG KHÁM...
Và ôn
lại kỷ niệm xưa- những ngày đưa ba đi tái khám...Giờ là đưa mẹ đi khám...với
muôn thuở- bệnh của người già.
Thứ hai đầu tuần nhưng phòng khám vắng
nhiều. Trời mấy hôm nay mưa bão lạnh, người già quanh quẩn
trong nhà. Hơn nữa sắp tới tiết trung thu rồi.
Đi riết thành quen, con trở thành một thành viên
trẻ con trong cái phòng khám BHYT nầy. Quanh quanh con toàn là người
già. Những đấng sinh thành tóc bạc da mồi không muốn phiền
con cháu, tự mình đi khám, tự mình đi lãnh thuốc, án
chừng con cháu hẹn giờ đến đón...
Họ cũng xài điện thoại, cái điện thoại tối
giản chức năng, đa phần chỉ để nghe và gọi.
Đi để thấy, người già rất thích trò
chuyện, khi thấy con có cái mặt chắc cũng thiệt thà, họ luôn
cởi mở. Từ chuyện nhờ đọc số trên màn hình bé tí
(mà con cũng phải đeo kính vào mới thấy), rồi vui miệng kể
chuyện gia đình, sức khỏe, con cháu... Rồi phân bua: "Hỏng phải
con cháu hỏng lo, nhưng mà tụi nó kẹt đi làm. Mình tự
đi, vừa vận động vừa biết về bệnh của mình..."
Thương nhất nhiều người già, đa
số lớn tuổi nên thường ít nhớ hay do không biết bảo hiểm
sắp hết hạn, nên chuyện xảy ra là ... chỉ lãnh được
2,3 ngày thuốc. Nhìn họ buồn hiu mà không biết chia sẽ ra sao. Mỗi
lần đi mỗi lần khó, ai cũng muốn lảnh một hai tuần thuốc,
cho đỡ mất công vậy mà.
Cứ
mỗi lần như vậy lại len lén nhìn lại thẻ bảo hiểm của
ba mẹ mình, tự nhắc phải làm mới trước khi hết hạn một
tháng.
Hôm đó, người phụ
nữ khám trước ba mình có mái tóc đen và dầy, mái
tóc bới rất khéo. Cô được chuẩn đoán có sạn
trong túi mật, không chỉ một viên mà nhiều viên, có viên
khá to...Vị bác sĩ khuyên cô nên đi mổ sớm. Vì bệnh
nhân đông nên bà nói chung chung và cho biết là phòng khám
không thể phẩu thuật. Còn đi mổ, bệnh viện nào cũng được,
gia đình cứ sắp xếp.
Người
phụ nữ ấy bước ra với tâm trạng rối bời, lo lắng và
ngổn ngang. Con cũng từng trải qua điều ấy khi nghe bác sĩ nói
về cái bứu to trong bụng của ba.
Khi
ra lấy thuốc, con thấy cô ấy vẫn ngồi thừ. Vâng, ai mà không
lo chứ. Phẩu thuật mà.
Ma xui quỷ
khiến, con ngồi xuống bên cô: Chị đừng lo, phẩu thuật bây
giờ tiên tiến lắm. Chị có BHYT mà. Không tốn kém lắm
đâu. Bây giờ chị về bàn với gia đình, rồi đến
khám tại một bệnh viện tuyến trên. Họ sẽ bàn với chị
về phát đồ chuẩn đoán, hướng để mổ. Nếu mổ
nội soi thì chừng một hai ngày là phục hồi. Biết đâu không
cần mổ, chỉ tán sỏi thôi. Em từng đưa xã nhà em, ba em
đi tán sỏi rồi. Không có sao đâu chị. (eo ơi, nói một
hồi mình giống cò BV quá).
Cô
ấy nghe mình nói, rồi bình tĩnh dần dần. Cô nói sẽ về
bàn với gia đình. Sẽ đi đến bệnh viện tuyến trên. Sẽ,
sẽ, sẽ...Con nắm tay cô ấy, tay cô ấy lạnh ngắt, có thể
không vì lạnh, mà vì sợ.
Bệnh
viện xứ Việt luôn quá tải, và ít khi nào bác sĩ có
thể trò chuyện tâm tình với bệnh nhân, giúp họ ít hoang
mang. Trừ khi bạn bước vào phòng mạch tư, chấp nhận chi phí
cao.
Còn tại phòng khám nầy,
đa phần bệnh nhân BHYT là người già, họ không nghèo nhưng
chắc chắc là không hề giàu.
Chia
tay, con chỉ hy vọng gia đình cô ấy sẽ lắng nghe người mẹ,
dì hay cô(?) của mình. Cùng cô đi khám tại bệnh viện
tuyến trên, cùng khuyến khích và động viên, cùng người
phụ nữ lớn tuổi ấy đi qua cơn phẩu thuật...
Như con đã cùng đi qua với ba, để cha con mình
có một thời gian rất êm ả bên nhau.
Dù ngày mai kia có là ngày cuối của năm, sau đêm
giao thừa sẽ là năm mới - trong vòng quay 12 tháng mới. Và con chỉ
mong mãi là một năm tốt đẹp đến cho mọi người. Bình
an và sức khỏe cho mọi người đang sống quanh mình.
Trong
ngập tràn thương yêu.
HMBN
_____________________________________________________________________________________
MÙA
HOA
RAU MUỐNG
Cơn
mưa trái mùa, đúng hơn là mưa xuân nghịch chạy đuổi
theo tôi từ con đường qua Mỹ Tho cho tới giáp Bến Tre. Cứ mưa
từng chập, chạy rồi ghé đụt...
Tại một ngôi nhà có hiên, ông cụ có hàm răng
món mén bước ra cười: "Mưa vầy, vô uống miếng trà
cho ấm bụng rồi hãy đi. Thời tiết năm nay nghịch dữ à".
Từ chối không đặng, vì lời mời
tha thiết quá. Tôi khẽ
khàn bước vô. Qua cái cửa sau trống hoát, nguyên một mảnh
sân dập dền màu hoa trắng hơi tím tím, lấp lánh trong mưa
trắng xóa. Chủ nhà như thấy, lại hấp háy mắt rồi cười:
"Hoa rau muống ruộng đó. Loại hoa nầy xưa thường mỗi năm
chỉ nở một lần vào giáp tết như hoa mai vậy. Cái hoa giản
dị mà đẹp. Mọc hoang mà".
Trên những cung đường miền Tây tôi hay đi, thỉnh thoảng lại
gặp những vạt rau muống ruộng lốm đốm tím
trắng. Rau muống đó thường là loài
rau dại mọc hoang chen đua trong cỏ. Mùa nắng cứ "đẹt ngắt",
rồi mùa mưa tới thì lại xanh tốt, rồi hể nắng gắt xen mưa
là mọc trổ rất nhiều nụ bông tim tím từng dề. Người
miền Tây ít ăn rau muống ruộng, thường thích rau muống sông vì to cọng, thân xốp mập
và ăn dòn, ngon hơn cái loài rau muống ruộng ốm mình, hay bị
xơ dai nhách..
Với tại, rau muống sông ngoài chẻ ăn
sống, làm dưa còn xào, nấu canh... Còn rau muống ruộng - phải
chờ mưa xuống ngắt cái đọt non mới ăn đặng ngon.
Bù lại, tụi rau nầy - chúng sinh tồn rất mạnh, âm thầm lan tỏa.
Rồi canh mưa mà nở hoa, kết hạt.. Nên có những bãi hoang, mùa
nắng khô queo - mà chỉ cần một hai cây mưa, cả bãi xanh um màu
lá rau, rồi hoa bung nở như thảm..
Đang lang mang nghĩ thì ông cụ chủ nhà đã rót
trà. Ly trà phương Nam bự chảng, rồi nói như phân bua: "Nhà
hỏng còn ai, bả đi nuôi cháu ngoại rồi. Con gái lấy chồng
xa. Con trai cũng đi làm ăn xa. Thằng út vô khu công nghiệp, nên
đất nhà một rẻo bỏ cho rau muống mọc. Kệ nó, có hoa coi
cũng đẹp, còn thỉnh thoảng ngắt lá nấu canh. Thường mùa
nầy mọi năm là dọn vườn nhổ bỏ hết rồi chớ. Nhưng
sức già làm một mình hỏng nổi, bỏ thí luôn.."
Ngoài lộ vẫn còn mưa, châm thêm ly trà,
ông cụ hỏi thăm thêm là tôi người miệt nào, đi chơi
hay đi "dìa" thăm quê. Khi biết tôi chỉ là đi chơi lang
thang, ngắm cảnh và chụp hình. Ông lại cười: " Mùa nầy
miền Tây đẹp lắm. Nắng tuy chưa vàng rụm, nhưng đêm xuống
có sương sa, se se lạnh, ban mai có bữa sương bay là đà...Nhà
nào có sân cũng dọn quang cây cỏ, đào hố thả xuống
mấy chục gốc vạn thọ, mồng gà, sống đời. Bông đó
ngoài làm đẹp còn nhổ bán được. 23 đưa ông táo
xong là trước sân nhà nào cũng bông là bông... Còn nhà
nào sân trước đầy bông rau muống là biết, nhà đó
ít người, do con cái đi mần xa, Tết không về.:."
Ông chủ bỏ lửng câu nói, mắt như
buồn nhìn vạt bông sau nhà đang run rẩy trong mưa sa..
Tạnh
mưa, chủ khách chào nhau. Tôi hẹn lúc về, thuận đường
sẽ ghé thăm ông. Dài dài trên con đường tôi đi, đã
lấp ló những vạt đất đầy sắc màu hoa vạn thọ...và
những bãi rau muống đang nở rộ hoa. Có chỗ, hoa rau muống nở trắng trước sân nhà..
Mùa Đông sắp tàn, mùa xuân đang tới.
Mùa sau Tết cũng là mùa khô, những bông hoa sẽ tàn rụi,
và cũng là hết luôn mùa hoa rau muống ruộng.
Còn bây
giờ, với trận mưa muộn cuối mùa. Hoa rau muống lại tiếp tục
nở trắng ruộng, loài hoa giản dị, không có mùi thơm, xòe
bung cánh trắng và cái bụng chứa đầy nhụy phấn tím tím trắng trắng. Như hẹn
một mùa sau..
Chiều chiều mưa
tưới bụi bông
Ngó qua ngó
lại mùa đông đã kề.
Hỡi
người xa xứ có về...
Mây
ngàn gió núi bộn bề miệt xưa..
Bên bờ mấy ngọn rau thưa...
Lấn chen trong cỏ thềm xưa vắng người.
Huỳnh Minh Bích Nga
MÙA GIÓ GÒN BAY...
Vừa ngồi xuống bộ ván gõ mát
rượi. ông già miền Tây xa quê tay run run túm một đám sơi
bông đang bay trong gió: "Bông gòn bay phải hôn bây". Còn
cô cháu dâu vội lật đật quơ chổi: "Dạ, nhà còn
cây gòn cao chót vót. Lái họ không chịu leo nên trái nở
bay tùm lum".
Rồi cô trải chiếu, bày gối. cái
gối màu hơi cũ nhưng mình vẫn xốp xộp. Ông già nằm
tựa đầu vào, tay quơ cái quạt mo. "Gối gòn ha, xứ mình
thứ gì cũng cây nhà lá vườn mà êm, bền, chắc. Mấy
cái gối nầy xài cả đời gòn cũng hong vón cụt. Mà
khỏi lo trặc cổ ê đầu.."
Cô
cháu dạ thưa: "Dạ, con với má con canh mùa thiệt nắng, cắt
mớ gòn vừa xé vỏ rồi mang vô hè. Ngồi dăng cái mùng
cũ mới mang gòn chui vô, con xé lựa vỏ bỏ hột còn má
con nhồi. Nhồi thiệt mịn tay, đảo đều rồi mang ra may lại. Xong
mang cái mùng xuống sông xả, thế là sạch bách."
Ngoài hè, cô con dâu ông cụ đi
về khoanh tay chào: "Ba mới dìa. Đi xe mệt hôn ba. Anh xã con mấy
nay mắc vô xẻo trong phụ người ta mần đường. Lộ đó
ít ai đi nhưng mùa nước năm rồi bị lở. Mình ra kêu
công phụ đắp một chút, chứ đêm khuya rủi ai sơ sẩy,
đi té tội lắm."
Rồi cô
giở cái nón ra, nhẹ nhàn phe phẩy..
Ông già ngồi nhỏm dậy:" Anh chị trong xẻo vẫn mần mạnh
chứ con. Bà chị còn hốt lá gòn để trong nhà chùa mần
nhang hôn."
Lại dạ thưa: "Dạ,
tạ ơn trời phật, ba má con vẫn mạnh. Vườn ruộng giao lại
cho em út con nên giờ thảnh thơi lắm. Còn chùa, họ có máy
làm nhang với bột nhang ở đâu chở về cả bao. Nên hỏng còn
xài lá gòn". (Giọng cô buồn thiu- cái buồn không
phải về vườn ruộng giao cho thằng út, mà buồn cho mấy cái
bao gòn, má cô chắt chiu gom hốt, phơi khô. Mà giờ chắc chỉ
để.. nhóm bếp).
Ông già cũng
thở dài, mắt nhấm nhem buồn xa vắng:' "Ờ, ba cái bột nhang nguyên
liệu trung quốc, ra khói bay độc lắm. Mần thì tiện đó,
nhưng mà đốt lên, ai không biết cứ hít miết, rồi tật
bệnh.. Xứ mình riết rồi ung thư nhiều nhất thế giới.."
Trong nắng, mấy sợi tơ gòn bay bay. Ngoài
cái hàng rào bằng hàng gòn tơ thẳng tắp. ông già nghe
con dâu nói trong cơn lơ mơ buồn ngủ, cái ngủ gật gù của
người già:" Bây giờ, cây gòn hết thời rồi. Làm cầu
qua mương người ta cũng mần bằng xi măng, cọc tiêu, thanh long gì
cũng bằng xi măng. Gỗ cũng chê gỗ gòn. Còn trên thị thành,
gối ôm gối nằm bán vĩa hè nhồi cái gì cứng còng,
nhưng bán giá mềm. Nên đâu còn ai đi bán gối gòn.
Đạp xe mòn mỏi mà lời lóm hỏng đặng đừng, bỏ
nghề hết rồi.."
Con gà nhà ai trong vườn nhà bỗng gái
te te. Có cái xe đạp con nít chạy qua ngõ kêu xọc xạch. Ông
già nằm xuống, tựa cái gối gòn mà nhớ, như hồi xưa
lắm, ba má ông chạy loạn lên thị thành. Má ông ngồi may
gối gòn, ba ông đạp xe đi bán. Bán gòn, bán gối. Vậy
mà nhúc nhắc nuôi nguyên đàn con bao lớn..
Rồi chiến tranh đuổi nữa, ông ra đi theo dòng người
bấn loạn lên tàu những ngày cuối tháng 4...
Bỏ lại hết, cái gối gòn, gia đình. Và
những trái gòn bung nở bay, một trời mây trắng bay...
Gió ngoài kia vẫn thổi bông gòn bay
lắc lay...
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Cha, con - nghề báo
Cha- thoạt đầu không ưa nghề ký giả
chí lắm..
Thời của ba hồi đó,
ký giả chỉ là những tay có chút tài khéo "tán hưu
tán vượn" trên giấy nhựt trình. Ưa lăng xê mấy cô
đào anh kép( ba ghét chuyện phong lưu tình cảm), ưa đưa tin
bài giựt gân- mà thiếu kiến thức khoa học..
Tóm lại, ba ghét mấy người ở dơ, làm biếng.
Có tiền thì ra nhà hàng Thanh Thế, hết tiền ra quán cơm bà
Cả..Hút thuốc, cờ bạc, nói tục...
Ba
thời trung học ở Cần Thơ
Ba mua báo trắng đen để nhân viên xem qua tin tức, mua báo
phụ nữ( tựa gì thì con không nhớ) cho mẹ và bà ngoại.
Còn ba, ba đọc sách và các tạp chí khoa học. tự điển
lâm học..Thằng bờm, thiếu nhi cho tụi con.
Có lần con nói với ba, con muốn lớn lên thành nhà
báo( do ảnh hưởng báo thiếu nhi và truyện hoa đỏ). Ba thở
dài, kể một câu chuyện về tiếp xúc với "nhà báo"
của ba.
‘ Đó là thời gian
ở BMT, ba vừa làm dân sự vừa quân sự. Nhiều người thích
ba, cũng có nhiều người ghanh tị- vì ba trẻ mà làm được
nhiều việc quá. Một bữa, ba nghe nói có mấy anh ký giả từ
SaiGon lên tới. BMT nhỏ xíu, vừa ra chợ đã thấy có mấy
anh chổ nầy chổ nọ, ăn và uống lade.. Sau đó thì một anh
tay xách máy ảnh tới tìm ba, miệng mồm tép nhảy: Nghe nói
ông ty tài giỏi, tuổi trẻ tài cao .. Ba cười cười, móc
ra một phong bì dúi vào túi ảnh: Tôi mà tài cán gì.
Thôi mới lên thì nghỉ ngơi cho đỡ mệt- cầm cái nầy
đi ăn cơm nhe.
Ba Mẹ và các con,
1980
Anh xách máy chỉ cần
có thế, ba cũng nhẹ nhõm. Vì ba không ham tiếp xúc báo chí,
chỉ mong yên thân làm việc. rảnh thòi chở vợ con đi chơi
Sau nầy, con gái xem báo. Có cái
nầy cái kia hỏi ba, ba bao giờ cũng trả lời ngon ơ. Mới biết vì
sao ba không thích và không cần nhà báo. Vì không có họ,
ba cũng có đủ kiến thức trang bị cho mình..
Khi con gái mài mò theo ba hỏi về chụp ảnh, bày
chuyện viết báo. Ba đã thở dài, ba lo, lo vì liệu con gái
có đủ kiến thức để làm cái việc hướng dẫn người
khác hay không. Ba lôi ra nào là sách khoa học, tạp chí xưa
cho con gái tham khảo. Rồi cùng con gái "đánh vật" với
tự điển..
Ba và các bạn trước
sân trường Pétrus Ký
Ba
luôn nhắc con gái:' Báo chí chẳng qua cũng chỉ là một nghề.
Cái nghề nầy đặc biệt là thông tin cho người đọc, hướng
dẫn cho người biết ít thành biết nhiều. Như hồi con đi học
vậy, thầy cô truyền kiến thức cho con. Thầy cô dạy dễ hiểu,
thương yêu gần gũi học trò thì học trò vâng kính.
Thầy cô mà lạm dụng quyền lực, hay nói nặng nhẹ, đánh
mắng, thì dĩ nhiên tụi con không thích. Làm báo cũng vậy,
con lợi dụng quyền có lợi thế hơn người, hiếp đáp,
đe dọa người ta. Thì dù người ta có sợ thì trong bụng
vẫn coi khinh. Ỷ quyền cậy thế, hiếp đáp người khác thông
qua quyền lực vay mượn thì sẽ càng tệ hại hơn nữa. Nên
càng làm nghề gì phổ biến thì càng phải có tâm có
đức."
Con gái không làm báo
chuyên nghiệp, mà chỉ vui chơi tùy hứng. Có báo có bài
thì xách về tặng ba, ba xem và rất vui. Còn nói" Không phải
con viết thì ba khen hay. Nhưng con có khiếu viết văn hơn ba.".
Rồi từ con gái, ba hiểu hơn về nghề
báo, nghiệp báo, phóng viên.. hơn chỉ là mấy ông "ký
giả" ngày xưa.. Rồi ba cũng lai rai viết báo- chỉ toàn viết
về khoa học.
Ba mất, hành trang để
lại cho con gái là hai thùng báo KHPT. 1 thùng KTNN. Vô số tài
liệu lâm học, tự điển..và sách thuốc.
Tự điển con gái đã quyên tặng cho các HS,SV
nghèo cần tham khảo. Sách thuốc, và cả sách lâm học-có
số tuổi gần bằng thế kỷ. Của những người thầy ngoại
quốc năm xưa- trước khi rời VN đã để lại cho ba,( học
trò cưng của trường) con gái cũng đã cố nhờ bè bạn
mang ra thư viện nước ngoài. Để những cuốn sách có thể
làm tròn vòng quay của nó, mà không bị mục rách, bị
cân ký..( tệ hơn là bị đốt)
Chỉ còn lại những bài học của ba- về cái tâm của
một con người, trước khi làm một việc gì đó. Chứ không
đơn thuần là chỉ làm báo.
Huỳnh Minh Bích Nga
NGÀY CỦA PHỤ THÂN, CON GÁI TÂM TÌNH
VỚI BA
Cũng hơi lâu lâu con gái
không viết về ba. Con gái không quên, ngày nào cũng như ngày
nào cũng nhắc ba, nhớ ba, và trò chuyện với ba. Nhưng âm thầm
thôi. Vì đó là chuyện riêng mà..
Ba tại Thư Viện Trường Nông
Lâm Súc 1961
Hôm nay, con gái lại mở lại quyển
tập quá khứ, tâm tình chút xíu với ba. Vì là ngày
của phụ thân mà.
Con lớn lên không biết nhiều về
những cái ngày xưa. Con chỉ biết qua sách báo.
Ba hay nói:
Hãy nhìn từ hai phía để có cái nhìn nhận trung thực
nhất. Quan trọng là đừng nóng vội. Bên nầy sai, bên kia cũng
chưa chắc đúng. Lịch sử và dã sử có cái giống cái
khác nhau.
Con hay đi
Đà Lạt. Có nói về biệt điện Trần Lệ Xuân. Nhớ
lần khi ba đi cùng bạn bè, khi cô HDV dùng từ "mụ Nhu".
Ba đã nhẹ nhàng: Cô ơi, khi làm nghề hướng dẫn văn
hóa cho khách du lịch, cô nên dùng từ lịch sự một chút,
đó là cách tự tôn trọng mình và mọi người. Người
ta cũng đã mất rồi, ít nhất thì mình cũng nên trân
trọng người đã khuất.
Như ba đã miệt mài đi cãi
chính vụ " rừng Giá Tỵ mụ Nhu trồng làm báng súng",
không phải thanh minh cho một người phụ nữ mang danh đệ nhất phu
nhân mà ba chỉ nhìn thấy từ xa trong một thoáng đời binh nghiệp
của ba. Mà cho giá trị của một sự thật.
Ba trước cổng trường Nông Lâm
Súc 1960
Rừng Giá Tỵ tại Định Quán được bộ
Canh Nông cho trồng bằng quỹ phụ đảm trồng rừng. ba là một
trong những người đi trồng và làm báo cáo về việc phát
triển..
Đi Đà
Lạt, ba luôn có một hoài niệm: Mùa xuân năm 1963, Phía Nhật-thông
qua lãnh sự quán Nhật có tặng cho ông Diệm một cây anh đào.
Biết ba là kỹ sư thủy lâm, cây anh đào nầy được
giao cho ba. Ba và một số nhân viên đã mang cây anh đào nầy
về nơi khi hậu thích hợp nhất là Đà Lạt. Ba đã giao
quyền chăn sóc lại cây anh đào nầy cho một viên hạ sỹ
lớn tuổi, vốn xuất thân là người trồng hoa bản địa.
Khi giao ba đã cười cười: Ráng đừng để cây chết
nhe ông
Đều
đặn, ba nhận được thư của viên hạ sỹ nầy, báo cáo
về cây anh đào của tổng thống kèm theo hình chụp. Và
ba báo cáo lại lên trên.
Đảo chính xảy ra, ông Diệm ông Nhu bị giết. Cây
anh đào cũng bị bỏ chết luôn..
Không ai còn nhớ cây
anh đào đó. Nhưng ba thì nhớ.
Ba vẫn giữ liên lạc
với viên hạ sỹ già ấy, cho đến ngày ông nầy mất.
Chuyện cây anh đào ấy, năm 2010, ba mới kể với con.
Ba nói:
Nếu còn, đó sẽ là cây anh đào Nhật đầu tiên
du nhập Việt Nam. Có thể từ cây anh đào nầy, hoa anh đào
Nhật sẽ nở khắp Đà Lạt..
Cây hoa không có tội, con
người công hay tội hãy để lịch sử soi xét.
Cũng như
khi đi ngang những bức tượng Phù Đổng Thiên Vương, An Dương
Vương, Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo. Ba cũng
hay nói: Ừ, mấy bức tượng nầy xấu thật, xuống cấp. Lính
xây mà. Mà thời đó chỉ biết xây bằng xi măng,cốt
sắt, đá vôi.. Quan trọng là tính lịch sử. Để có
cái mà các con thấy, biết đó là ông gì, chức gì,
làm gì trong quá khứ xưa, để hôm nay được xây tượng
cho hậu thế nhìn ngắm.
Ba cũng kể: Xưa còn tượng Hai Bà
Trưng. Rồi người ta đồn là mặt hai bà giống bà Nhu và
con gái lớn. Rồi tượng bị giật sập. Bây giờ không có
tượng nữ anh hùng nào.
Ba cũng hay nói: Khi qua một trào lưu
nào đó, người ta hay chê trách quá khứ một cách nôn
nóng. Có khi sự nôn nóng đó sẽ tạo ra nông nổi, mà
sau nầy hối tiếc thì quá muộn.
Nếu nói về lịch sử,
ba là một chứng nhân kiệm lời.
Con
chỉ học được tí xíu, so với kho tàng kiến thức của
ba.
Ngày xưa, ba được dạy bằng Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
Ba và 3 con gái
Rồi ba dạy các con bằng các tập sách Tâm Hồn
Cao Thượng( bản dịch Hà Mai Anh). Bằng những tập truyện tranh thiếu
nhi ở nhà sách Khai Trí.
Bằng những câu chuyện ngụ ngôn xưa, bằng chính
cách sống của ba.
Bằng
cách luôn trả lời mọi thắc mắc của con cái.
Giúp các
con định hình đúng sai, thiện ác..
Ba hay nói: Làm ác mà không biết đó là
điều ác thì nguy hại hơn gấp bội. Nên các con phải sống
cho thật lành.
Và ba đã sống theo cái sự lành ấy cho
đến hết đời.
Dù có thua thiệt.
Dù có mệt
mỏi.
Ba đã sống thật đẹp.
Ba của con ơi..
Father's Day 2017
HUỲNH
MINH BÍCH NGA
___________________________________________________________________
NHÌN QUA BÊN KIA SÔNG....
Bài: Huỳnh Minh Bích Nga
Ảnh:
Duy Trần
Quán cà phê ở ngay
Bến Chợ. Mùa nầy nước trung nên lửng lơ trôi. Chiều, đôi
ba người trong xóm vác tay lưới ra ngay chân quán vãi chài.
Hy vọng bắt lên những con cá xíu xiu.
Chị chủ quán ngồi chặt trái dừa, thở dài: Cá trắng
ngoài sông cái, giác nước cao buổi chiều chạng vạng hay vô
sát mí bờ kiếm ăn. Mà cũng năm ăn năm thua lắm.
Quán quê không tên không tuổi, khách
toàn quanh xóm quen. Sáng sớm là mấy ông cà phê đọc
báo sớm, thỉnh thoảng có mấy chị ngồi trong, tranh thủ uống
cà phê sữa và cho đám trẻ con ăn sáng. Ly cà phê nhỏ
xíu, cái giá cũng nhẹ hều..
Chừng
nắng nóng 9 giờ là
quán bắt đầu vắng, ai cũng đi chợ xong xả.. Rồi vắng luôn
đến chiều tối thì lác đác khách. Khách đi làm về,
đa số là nam nhân, ngồi nói chuyện thời sự, buôn bán,
vườn tược...cao lắm thì 8 giờ tối là ai cũng đi về.
Chị chủ nói, có thời chợ đông vui
lắm. Đó là cái thời lái về thu mua trái cây, xứ đất
ngọt cây lành nên hoa trái sum xuê: Sữa tím trái nhỏ mà
ngọt dịu, mận hai màu giòn rụm, rồi sambochê, chuối, cam sành,
bưởi ruột đỏ, ruột trắng...
Thời
đó, quán đơn sơ hơn bây giờ nhiều, ngó ra mé sông
hứng gió mát rượi. Bên kia sông thì ngút một màu xanh.
Dưới bến thì tấp nập xuồng ghe mua bán. Nhiều ghe lớn thu mua
cả chục cần xé, vận chuyển kĩu kịt..sau đó chạy thẳng
ra Phong Điền, Cái Răng, Phụng Hiệp..
Mà đó cũng là cái thời chục 12,14.. cái buồng chuối
chín ai đó không biết, tự dưng đi làm về thấy ai đã
chặt đốn dùm sạch sẽ, để ngay trên thềm nhà. Con gà,
con chó cứ đi nhong từ vườn nầy sang vườn khác.. Đi
chán rồi về, còn đồ đạc cứ bỏ ngay ngoài hè, ai
mượn cứ ới một tiếng, mần xong rửa sạch mang qua trả.. Tình
làng nghĩa xóm thân thiết, vì dòm đi ngó lại cũng bà
con hết mà...
Ống khói nhà máy
càng cao..... Người dân cành lo bấn
Giờ thì, chị chủ quán nhìn qua bên
kia sông, oai oán nhìn cái nhà máy: cái ống khói nó vươn
càng cao, thì dân bên nây sông càng ngán ngẩm. Thợ thuyền
tứ xứ không ai biết rõ gốc tích, đến mang theo tiếng chưởi
thề, tệ nhậu..Ban đầu chỉ quánh lộn trộm vặt trong khu có
xây nhà trọ, sau đó thì tiếng xấu càng xa. Rồi bụi, ồn,
nước thải.. cây trái cứ còi cọc, sâu bịnh..Không phun thuốc
thì trái sữa có dòi, cam bưởi u nần còi cọc..Thương
lái dần vắng bóng.
Sống bên sông mà sông không còn cá!
Bên kia cầu là nhà máy
nhiệt điện
Rồi chị u uẩn:
Trời, có thời trong quán đông ken. Thương lái, hàng họ,
người trong xóm.. Buôn bán có lời nên ai cũng chi tiêu mạnh
tay. Mấy bà vàng đeo hực hỡ. Con nít áo quần xúng xính.Đứa
nào học giỏi là trong họ tài trợ cho lên thành lên tỉnh
để mai kia thành bác sỹ, kỹ sư.. Giờ thì ( mặt chị yểu
xìu) cái nhà máy chấn ngang như vậy, người sống thì ngoắc
ngoải, cây cối thì tiêu điều. Mấy bà đi chợ chi tiêu
dè sẽn, cứ than lo con nít bịnh đau. Mấy ông thì ngồi bó
gối, lo đủ thứ...Từ áo cơm gạo tiền đến tương lai
đi đâu về đâu..
Rồi chị
thầm thì: Buôn bán cầm chừng như vầy, chứ hôm nay lo hôm
nay, mai lo ngày mai..Tuổi thì lớn xộ rồi. ra khu công nghiệp biết
mần gì. Mà nghe nói mùa nước mặn năm ngoái, dân các
miệt cũng bỏ xứ đi nhiều lắm. Bình Dương khu công nghiệp
nhiều, dân trẻ về đó hà rầm. kèm theo quán xá chợ
búa nhộn nhịp.. Con từ nhỏ sống ở quê, cái quán nầy có
từ thời ông bà con.. Chưa đi nên chưa biết Bình Dương
bao lớn mà chứa hết dân tứ xứ.. mà, chị lẩm bẩm: Hỏng
lẽ xứ mình thành khu công nghiệp hóa, dân đi làm nhà
máy, lãnh lương, mua trái cây rau củ ngoại nhập về ăn, hỏng
ai nuôi trồng gì nữa sao. Bao nhiêu con giống, cây giống, bao
nhiêu lưu truyền khai phá chọn lọc lai ghép của ông cha mình
để lại cho con cháu, giờ bỏ hết sao..
Thằng con chị chân sáo, nhảy vào, quơ điện thọai
múa tưng tưng( bến chợ- mình quán chị có wifi - để
khách lên mạng coi tin tức). má ơi, trên pây họ chế nhạc
bên kia song mình nè. Trong cái điện thoại tiếng rè rè văng
vẳng: Ngồi nhìn bên kia sông im nghe tức nghẹn về đâu. Người
ngồi bên đây sông nhìn khói bụi nhà máy ngập đầu.
Trời ơi sao không thương nhau mà cứ
nỡ nào hại nhau
Chèo xuồng qua
bên kia sông gió đưa mùi chất thải tanh nồng..
Huỳnh Minh Bích Nga
THÁNG 9 NĂM NGOÁI,
VỀ
CÁI DẦM MÙA NƯỚC DÂNG
Sông Mái Dầm
Anh Tám chủ nhà cùng các thợ bạn đang cuốn
lưới. Ngỡ ngàng ngơ ngác hỏi, anh Tám thở một hơi dài: Cuốn lưới
lên cất, hết mùa nầy không nuôi cá nữa.
Ảnh 1. Anh Tám và những bạn thợ cuốn
lưới lên bờ để cất
Ảnh
2. Lục bình trôi nổi quanh chiếc bè bỏ không
Ngoài sông, nước dập dình quanh mấy cái
bè cá. Cá trong bè xáo xác..
Năm trước nữa, nhà máy giấy bên kia sông bước vào
giai đoạn xây dựng. Bụi bay trắng trời đất, phủ lên mái
nhà, vườn cây. Cư dân quanh vùng ngồi trong nhà đóng cửa,
đeo khẩu trang..
Hoa lợi thì coi như
mất trắng, bụi phủ dầy như vậy, cây trái nào chịu nổi.
Rồi cái nầy chưa an thì cái kia tới.
Bên nhà máy sau nhiều lần dân qua làm việc đã hơi giảm
bụi, thì năm trước lại rầm rập tiếng ồn. Tiếng ồn inh
tai nhức óc kéo dài từ sáng sớm đến chiều tối..
Lại phải sang làm việc. Mà phía
nhà máy thiệt lạ. Công trình to vật vã mà hể cần thì
chả có bóng chủ quản, chỉ thấy toàn dân tứ xứ đến
làm hồ. Mà cứ hể người dân qua thì thợ quạo, nói
quậy hoài làm cản đường mưu sinh của họ.
Rồi xóm mất cắp liên miên, ngay cả cái buồng
chuối, trái đu đủ trồng ngoài lộ cũng bị mất. Nhà
ai trong xóm lúc nào cũng phải cất cử người nam to khỏe ngó
chừng. Chó phải cột, gà phải nhốt, có cây kiểng càng
phải lo rào cửa. Đêm khuya nghe động là phải bật đèn,
chụp gậy ra quơ hù dọa..
Rồi
phải cậy chính quyền, đoàn thể, cơ quan chấp pháp, môi
trường, ngư trường.. Đấu cứ tuần nầy sang tuần khác..
Phía nhà máy cứ trưng hết giấy nầy giấy nọ ra. Rồi phán
dọc phán ngang: Mang công nghệ tiên tiến về phát triển thôn
quê, mang công ăn việc làm cho làng xã. Mang ngân sách về
cho tỉnh, mang lợi ích kinh tế về cho đất nước. Phải biết
hy sanh cái riêng cho cái chung, phải nhìn về tương lai..
Người dân tức quá: Nói hay như sách,
vậy hỏi chớ cái nhà máy đó sẽ nhận bao nhiêu công
nhân ở làng xã. Hay là rước thầy thợ bên xứ ngoại
qua. Rồi tàn hại môi trường, gây ô nhiễm, hiểm họa môi
sinh...
Vườn cây không còn trái,
sông không còn cá. Dân thì đi lánh nạn tan tác..
Con chó cạnh bè cũng buồn hiu Những chiếc
bè cá bỏ không
Tháng 3 năm nay vừa
về. Không gian ngập mùi thúi như chuột chết. Thúi từ chợ
ra xóm ngoài, xóm trong.. Anh Tám vừa đi qua nhà máy về, nói
một cách mệt mỏi: Thúi hai tuần nay rồi. Đi kiếm miết. Giờ
thì biết là mùi thúi ở chỗ đổ xỉ cặn gì của nhà máy bên đó.
In là đổ lén ngoài sông cái, không ngờ nó trôi vào
trong đây. Phải chỉ tận mặt, bắt tận tay thì bên đó
mới không đôi chối.
Rồi anh
thừ người: Bên nhà máy nói họ sẽ dùng hóa chẩt
rải khử mùi, nhưng mà phải từ từ mới hết hôi. Chờ
hết chắc dân bỏ xứ đi, ở lại không chết vì bụi tiếng
ồn cũng chết vì thúi.
Ngoài
sông, mấy cái bè cá dập dình, trống không.
Hỏi thăm, thì
ra sau khi bán mẻ cá cuối cùng năm ngoái anh Tám không nuôi nữa.
Khi đó, thấy đất vườn khó sinh huê lợi,
anh Tám chuyển sang nuôi cá bè. Cùng với anh là nhóm thợ
bạn. Có kiến thức, ham tìm hiểu. Đợt nước mặn mùa
qua, không chỉ cây trồng được anh cấp cứu kịp, mà mấy
cái bè của anh cá vẫn mạnh, vẫn khỏe...Anh còn gọi bên
kiểm tra xuống, coi cá của anh có dính chất độc thải ra từ
nước không..
Câu trả lời chắc
nụi: Sau khi xét nghiệm, cá anh nuôi hoàn toàn ở mức an toàn
vệ sinh thực phẩm..
Nhưng mà sau
đợt bán cuối mùa nước dâng năm ngoái. Anh Tám kiên
quyết không nuôi nữa. Anh nói thẳng: Nuôi tiếp, biết bên kia
nhà máy họ thải chất gì ra. Nuôi thất không nói gì,
mà rủi cá nó ngậm chất độc tiềm ẩn trong thịt. Mình
bán cho dân mình, hóa ra mình đầu độc người dân xứ
mình sao. Ai lại làm chuyện thất đức ác nhơn như vậy
chớ..
Bè cá của anh, ban đầu
là 8, thu dần còn 5, rồi 3,2,1. Thợ bạn từ bốn, ba. Rồi một,
sau còn mình anh Tám. Chia tay nhóm thợ, anh cũng lo lắm. Tụi nhỏ
vốn gia cảnh nghèo. Sống với anh, cùng chăm bè cá, có cực
nhưng ít ra cũng không bán xác thí mạng như nghề phụ hồ.
Không còn bè cá, lại quay về với cái nghề thợ đụng,
rồi vợ con nheo nhóc, cha mẹ già cần phụng dưỡng..Rồi thế
nào cũng đa đà khổ quá làm càng làm quấy. Rồi nghèo
càng nghèo mạt thêm.
Nhưng mà
anh có lo hung, cũng không lo nổi đâu.
Ngay bản thân anh với chị. Nhờ chắt chiu vườn ruộng, lo cho
hai đứa con học hành thành đạt. Giờ làm việc tại Cần
Thơ. Coi như an tâm.
Anh tính nhà
vườn còn hai vợ chồng anh. Nói biết lo thì no, biết co thì
ấm. Cứ còn sức còn làm, trồng cây bán trái nhín nhín
mà sống.
Nhưng với tình
cảnh tiến thoái lưỡng nan như hiện nay. Huệ lợi đang thành
số không, không gian sống thì sống trong ngắc ngoải với dưới
sông ô nhiễm, trên đất bụi thúi bay mù, rồi ầm ầm
tiếng ồn..
Mà đâu chỉ có
nhà anh Tám, rất nhiều những người dân quê, từng sống an
lành ven sông Mái Dầm nầy từ thời khai hoang mở đất, giờ
không biết sẽ đi đâu về đâu...
Khi miệt ven sông Hậu- sông lớn của nhánh
sông Mái Dầm nầy, ngoài hai cái nhà máy giấy, còn cả
đống nhà máy nhiệt điện đang xây..
HUỲNH MINH BÍCH NGA
TRUYỆN MÙA
TRUNG THU:
1.Viết cho cha.
Sau những tháng ngày bệnh nặng, cha
tôi đã vượt qua, cũng hơi khó khăn vì cha tôi đã
78 tuổi. Tôi hiện rất vui vì thấy cha đã yêu đời và
lạc quan hơn. Nhưng có khi cũng cảm thấy chạnh lòng vì lo sợ,
vì những tháng năm đẹp nhất, khỏe nhất, vui nhất đang lùi
dần lại sau lưng cha tôi.
Thói quen hàng tuần của tôi là
ghé ngang qua nhà, đúng vào giờ nhà vắng nhất để trò
chuyện cùng cha, khuyến khích ông vận động. Cũng có chút
xót xa nào đó, khi thấy ngày xưa cha tôi vốn là một người
yêu thể thao, khỏe mạnh và cường tráng. Còn bây giờ, tóc
ông xám bạc, lưng hơi còng và tay bắt đầu run.
Hôm nay, đi ngoài đường thấy
ai cũng tấp nập viếng chùa, màn ảnh nhỏ, radio đều nói
về lể vu lan. Về nhà thấy vắng lặng vì cả gia đình tôi
đều đã đến chùa, chỉ còn lại ba tôi đang chậm
rãi quét sân..
Khi tôi
chào cha, ông đã để ý ngay là tôi không được
vui như mọi ngày thường. Ông hỏi ngay tôi có chuyện gì.
Tôi ngập ngừng đáp: Co sợ ba buồn vì gần như cả nhà
đều quên ba, quên hết những năm tháng đẹp nhất ma ba dành
trọn cho gia đình. Cả đời cha toàn cho mà chưa hề được
nhận, con muốn hỏi những người trong nhà khi bị rơi vào sự
lãng quên như ba sẽ cảm thấy thế nào. ..
Cha tôi chỉ vỗ vào
tay tôi: "Cha sinh ra là con út, thực ra cha còn hai người em, nhưng
đều chết bệnh. Nên bà nội và các anh chị, họ hàng
đều quan tâm đến ông, mọi thứ tốt đẹp đều dành
cho cha. Ông bà nội đã nuôi dưỡng chăm sóc cha từng ngày.
Đó là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời cha.
Khi cha đi học, dù nghèo
nhưng ông bà nội đều ráng lo cho cha sách bút đầy đủ,
cha học hỏi được nhiều điều thú vị. Cha mang kiến thức
về cho gia đình, họ hàng.Lối xóm khen ông bà nội, đó
là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời cha.
Khi tốt nghiệp đại học, cha tìm
được việc làm đầu tiên, cha nhận việc có trách nhiệm,
làm việc tốt và được trả lương cho những cố gắng
của mình. Cha có thể gởi tiền về cho ông bà nội, đó
là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời cha.
Ba, Mẹ & con gái Bích Nga
Khi cha gặp mẹ - đó chính là mẹ con bây giờ,
cha kết hôn và cha rất yêu thương mẹ. Đó là thời điểm
đẹp nhất trong cuộc đời của ông.
Mẹ con sinh cho cha năm người con, gái trai có đủ.
Cha mẹ sống qua chiến tranh mà không mất một đứa con nào. Nhìn
các con lớn lên từng ngày, đó thời điểm đẹp
nhất trong cuộc đời của cha.
Vật đổi sao dời, trong khi nhiều
gia đình nhồi da xáo thịt vì ma túy, tiền của, vật chất.
Các con vẫn sống an bình trong ngôi nhà của cha mẹ, đó là
thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời của cha.
Rồi khi con
kết hôn, em trai con sinh cho cha bé cháu nội..Cha vẫn còn minh mẫn để
nhìn ngắm con cháu mình lớn lên. Đó là thời điểm
đẹp nhất trong cuộc đời của cha.
Còn bây giờ, con ạ,
khi cha ngoài 70 tuổi mà vẫn còn sức khỏe, vẫn cảm thấy yêu
đời vì có con chăm sóc cha, vẫn yêu mẹ con như khi cha gặp
bà lần đầu, dù mẹ con có chê trách ta. Thì đây
vẫn là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời cha.
Cha đã sống đẹp đến
như vậy, nên có gì con cũng đừng quá lo cho cha..
Cha yêu của con. Cha đã không vượt
qua cái tuổi 79, để tháng tám, nầy con không về nhà cũ,
trước thăm cha, sau cùng cha ăn cái bánh trung thu đoàn viên..
2. Trống ếch mùa trăng
Trân Duy (Phu quân Huỳnh Minh Bích Nga)
Con nhớ ba hay kể về tết trung thu xưa. Cái tuổi
thơ của ba với nhà tường mái ngói, với hàng cây so đũa
ven sông mà tối cứ ánh lên những quầng sáng trắng li ti đom
đóm. Với tiếng rắn lục huýt sáo du dương trên tàng
cao của cây ô môi cổ thụ có từ thời ông cố. Với những
bờ ruộng sáng trăng nhà nầy cách xa nhà kia một tầm tiếng
ới..
Mùa rằm trung thu với tuổi
thơ ba là những rộn ràng khó tả. Vì để có ngày
tết này thì cả cái xóm bên sông của ba, của bà nội
rộn ràng tiếng í ới hẹn nhau chuẩn bị ... Phụ nữ thì
chuẩn bị làm bánh dẻo, bánh in.. Nam giới thì chuốc tre làm
lồng đèn, quấy hồ dán lại cái đầu ông lân ông
địa.
Lồng đèn thì ba có
từ năm ngoái, do ông nội lên tận Cần Thơ mua, ba chơi kỹ nên
năm nay chỉ cần mang ra hè phơi nắng và trét lại những chỗ
giấy bóng bị hở. Ba chỉ nôn nóng làm cái trống ếch.
Ngày xa xưa đó, ếch đồng nhiều
lắm. Cứ mưa xuống là tiếng ếch kêu vang vang. Vào mùa trung
thu nầy thì các ông đi soi ếch bận rộn lắm, vì các con
ếch to đều phải được lựa ra, để dành làm trống
cho đám con nít. Ba thì đi câu, ếch to sẽ tự lột da làm
trống, ếch nhỏ thì ba thả lại ruộng cho nó tiếp tục lớn
để ba chơi mùa sau.
Ếch làm
trống với ba thì to cỡ bàn tay xòe là vừa, mang về chặt mỏ
lột da, rửa sạch rồi căng ra,trải phơi trên miếng ván phẳng.
Cái khéo ở đây là không để miếng da không quá căng
hay quá chùng. Phải phơi ở nơi nắng dịu vì nắng gắt sẽ
làm da giòn, lúc gõ trống sẽ dễ bị thủng. Mà khi phơi
cũng thấp thỏm lắm, vì sợ chó mèo, chuột lén tha đi mất.
Lúc rày, tiếng trống ếch đã kêu
tum tum vang khắp xóm.
Miếng da phơi xong,
ba đi lấy cái lon đựng trà cũ của ông nội. Ngày đó
lon sữa bò dưới quê còn là hàng hiếm, ba rất may cái
gì cũng có do tính hay giữ đồ xài trong nhà của bà nội.
Bịt miếng da ếch lên rồi dùng dây thun buộc lại. Dây thun đây
không phải dây thun cột đồ - hồi đó hiếm lắm. Mà là
dây thun ruột xe đạp, loại mà không làm dàn ná được.
Xe đạp cũng là của ông nội. Bộ ruột cũ được bà
nội cất trong thúng. Rồi cắt ra một khúc cho ba.
Cột xong thì dùng giấy nhựt trình, quấy hồ dán
vào lon, có giấy in nhiều màu thì càng đẹp... Thế là
đã có một chiếc trống ếch để khua vang cùng đám bạn.
Còn lồng đèn, thường thì con gái
sẽ chơi lồng đèn hoa sen, đèn bươm bướm, đèn hình
hộp, đèn hình ống ... Mấy quán tạp hóa ngoài bến trước
đó đã nghẹt con nít tới tìm xin lon bia, lon sữa... Mang về
cà bỏ nắp, dùng dao nhọn rạch dọc thân hay dùng đinh chọt
lổ, rồi bỏ bùi nhùi, dầu mù u vào đốt lên là có
đèn đi chơi trăng. Có nhà khéo tay, con trai lớn sẽ làm
cho mình, chị em lồng đèn xe đẩy bằng 2 lon sữa bò, đèn
ống tre bó đuốc.... Những ngày xa xưa đó, ba cùng đám
trẻ trong xóm cứ sáng tạo ra biết bao nhiêu đồ chơi, để
chơi thật vui có khi chỉ trong một ngày đêm ngắn ngủi.
Khu
vườn phía sau nhà bà nội trồng bạt ngàn bưởi, ba và
các cô từ nhiều tháng trước cũng đã gom hột bưởi
mang phơi khô, xỏ xâu vào que tre, chuẩn bị cho một màn đốt
pháo bông tối trung thu.
Chiều
ấy, ông nội từ Sài Gòn về, trên tay là những gói giấy
hồng có bóng kiếng. Trong đó là chục trái hồng trứng,
bánh con heo và hộp bánh trung thu. Ông nội là một người dám
xài và dám chơi. Nên cũng dám mua một hộp bánh trung thu lớn,
trên hộp in hình tích Đường Minh Hoàng du nguyệt điện, có
tiên nữ Hằng Nga vũ khúc nghê thường...tại tiệm Tàu khu
Chợ Lớn.
Cái hộp bánh ấy rất mắc tiền.
Nhưng bà nội chỉ xót trong bụng mà không dám nói. Bà
chỉ nhỏ nhẹ bảo ông nội vào tắm rửa, bày hộp bánh
lên bàn thờ gia tiên.
Chiều xuống,
ba - cũng như cả đám con nít trong xóm, tắm rửa cho thật sạch,
quần áo chỉnh tề, đầu rẽ ngôi thẳng tắp và chờ đợi
lệnh của người lớn. Trăng vừa nhô đã í ới gọi
nhau, kéo nhau đi trong ánh đèn, tiếng trống ếch tung tung. Đứa
nào cũng xách đèn và hát vang..
Ngoài bãi sân, có nguyên một đám múa lân, tụi
nhỏ như ba vừa sợ vừa mê ông địa. Dưới ánh trăng
và ánh đèn nho nhỏ đó, trong tiếng lẹt xẹt của những
dây bưởi khô...
Ba đã có
vô số những mùa trăng thật vui.
Đến
khi đi đã chán, hát đã mệt, thì những đứa trẻ
mới giải tán. Ai về nhà nấy để còn ăn bánh...
Ba chạy tung tung về nhà, mâm cúng giữa
sân nhang đã tàn. Trái dừa xiêm cúng nước ngọt mát
bà nội luôn để dành cho ba. Ông nội đã pha một ấm
trà, chờ trai út đi chơi về để cắt bánh trung thu. Ba nhỏ
nhẹ ăn từng miếng bánh, còn bà nội thì nhắc đến
bác tư cô năm, những anh chị yêu thương của ba đang ở
học nơi xa.
Có bánh trung thu
nên mấy cái cái bánh dẻo, bánh in, bánh quy của nhà làm
coi như bị ế. Bà nội cười hiền lành, bảo với ba: "Thôi
để má cất, con mau mang sang cho chúng bạn, nhiều nhà không có
mà ăn đó".
Khi đó, ba
nhớ mình đã ngồi chễm chệ trên cái tràng kỷ xưa,
cắn miếng bánh nhưn đậu xanh béo ngọt lịm và nhấp ngụm
nước trà, tận hưởng một đêm trăng tròn vành vạnh
như cái tuổi thơ ấm áp của ba.
Rồi bà nội nhắc ba
rửa tay chân để đi vào ngủ, trong khi bà nội chưa kịp tém
mùng thì ba đã ngủ khì, mắt còn mơ về những chiếc
lồng đèn cháy sáng, tiếng trống ếch kêu tum tum, và cả
mùi thơm của hạt bưởi đốt lên cháy xèo xèo bụp
bụp.
Cái mùi thơm ấy, đã
theo tuổi thơ của ba sống mãi bên con. Dù ông bà nội và
ba đều đã mất.
Để con
dù ở thị thành, vẫn biết về tiếng trống múa lân, mặt
nạ ông địa, trái hồng và những xâu que hạt bưởi..
Để nhớ những ngày con còn thơ,
ba vừa ngồi làm lồng đèn vừa kể chuyện xưa ba hồi nhỏ
cho con nghe.
Trân Duy
3. CÁI TRỐNG ẾCH CỦA EM TƯ
Em là út gái, giống mẹ nhất. Vì em nhỏ nhất nên
dĩ nhiên được ba trong nhà cưng nhất. Dù ba cưng đều cả
bốn mẹ con.
Trung thu ở Ban Mê Thuộc 1971, ở thành phố
buồn nầy cái gì cũng không có. Lại nghe ba kể về cái
trống ếch xa xưa, bằng da ếch phơi căng gõ tung tung. Em Tư khóc
nhè đòi ba làm cho cái trống ếch.
Xứ cao nguyên làm gì có ếch. Ba thì luôn chiều con
cái. Cứ ngày nghỉ, ba đi đến các xưởng cưa, tìm cho
ra cái gỗ làm khung, rồi ba đi chuốc hạt gỗ, làm cái dùi
trống bé tí, đánh vẹt ni cẩn thận.
Riêng phần da trống, ba suy nghỉ lắm. Đầu tiên ba đi
tìm những cái bong bóng màu, thổi lên ( ba thổi bằng hơi của
chính ba). Rồi lúi húi căng lên làm mặt trống, tiếng trống
thanh làm ba hài lòng.
Nhưng ba lại
đi tìm thêm, ba đi tìm cái ruột xe hơi cũ ngồi cắt rồi
căng ra. Tiếng trống hơi đùng đục, ba ngồi dùng giấy nhám
cạo đi cho mỏng hơn.
Con không biết
ba đã tìm bao nhiêu thứ, nhưng sát ngày trung thu, ba mang về cho
em tư một cái trống nhỏ xinh, thân trống bằng gỗ vân, mặt
trống bằng da bong bóng màu. Thêm cái dùi cũng xinh không kém.
Em tư đã chơi cái trống ấy không chán.
Sài gòn, sau 1975. Trong mớ đồ chơi bỏ trong thùng,
con vẫn còn thấy cái trống ấy. Em tư đã chán, dù bao
lần ba đã thay mặt trống. Trong cái tủ ngăn bàn làm việc
của ba luôn có một bịch bóng màu, để ba thay mặt trống
cho con gái cưng.
Con cũng
không biết vì sao cả nhà-từ khi ba già, kể cả em tư đều
ngày càng xa rời tình thương với ba. Để quên hết đi
những gì ba đã làm cho cả gia đình. Trong đó có việc
để chạy xe vespa suốt đếm từ Biên Hòa lên Chợ Lớn,
chỉ để mua cho em tư một hộp bánh Lu. Vì em chỉ ăn mỗi loại
bánh ấy, và ba sợ em đói.
Cái
tình thương của ba, đã bị phủ phàng bằng việc em tư
là người lạnh lùng quyết định ngay khi ba từ bệnh viện về:"ổng
mà cứ ăn rồi nằm ngủ, không chịu vận động thì tôi
sẽ kêu taxi, cho tài xế ít tiền để mang bỏ ổng lên nhà
nuôi người già. Để trên đó người ta sang lôi ổng
ra khỏi giường, bắt ổng tập thể dục, tạt nước để
ồng khỏi ngủ".
Cái nhà dưỡng
lão ấy, gái lớn của ba đi theo đoàn từ thiện, vể khoe cả
đống hình nàng chia cơm, chải tóc, vịn vai, ôm ấp người
già. Và đề ra hướng đẩy cha ruột lên đó, vì
sự đồng thuận:" Thay vì để tiền nuôi bịnh ổng, thà
đóng ít hơn, cho chồ nhà đó để họ nuôi ổng".
Cái dự án ấy bị phá sản, vì
gái lớn tưởng chỉ cần đẩy cha lên xe, bỏ theo ít đồ
cá nhân, dúi cho taxi vài trăm ngàn để tài xế khai " nghi
là người lang thang" là xong.
Thì theo quy định: Cả nhà, gồm cả mẹ và các con, phải
lên tận nhà dưỡng lão giải trình vì sao không thể nuôi
chồng nuôi cha, phải đóng tiền hàng tháng, khi người thân
bệnh phải lên chăm nom...
Hai tháng ba nằm trong bệnh viện, trước
đó, sau đó. Đã có ai đã chịu ngó và nhìn
ba đến một lần. Dù trước khi mổ, ba đã sợ lắm. Rồi
khi vừa về đến nhà. Ba đã khóc òa: Ba sống rồi, về
nhà rồi. Ba thấy lại được mẹ, được thấy các con.
Một năm sau, ba chính thức mất đi. Con
đi trong mùa trăng, nghe những tiếng trống múa lân tùng cắc vang
khắp phố. Lại nhớ cái trống ếch xưa cũ mà ba tỉ mẫn
làm cho em tư.
Vui lan, gái lớn cứ
lên chùa làm lể thật linh đình.
Còn con, con chỉ muốn viết những dòng nay thay cho ánh nến lung
linh trong những ngọn đèn sao, thắp lên cho ba của riêng con..
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Đà
Lạt, mùa phượng tím đang về...
Tuần cuối tháng 3, đi ngang con đường
Hồng Bàng Q5 chợt thấy những cành phượng nở sớm đỏ
rực. Một người bạn mới đi Đà Lạt về cũng vừa báo: " Phượng
tím năm nay nở sớm, chưa gì đã tím khắp trời..."
Bác Sử, một người
bạn già của cha tôi, hiện đang lưu lạc trời Tây hôm trước
mới gởi mail về hỏi: "Cây phượng tím già ở chợ Đà
Lạt đã trổ bông chưa. Bác chỉ quan tâm tới cái cây
đó, còn mấy cây khác. Bác hỏng muốn biết".
Cây phượng tím già ở
chợ Đà Lạt. Cái cây phượng hơn năm mươi năm tuổi,
bông có khi lưa thưa, có khi tím thẫm từng chùm. Gần như
ít ai thèm dòm vì Đà Lạt những năm sau nầy phượng được trồng rộng
khắp. Và nó - cái cây phượng già đó - cũng đang bị"xâm
lấn" bởi những quầy hàng buôn bán chen kín bao quanh, nên nhìn
rất già cỗi và xác xơ...
Để ít ai còn nhớ: Đó là cây phượng tím
được trồng đầu tiên tại Đà Lạt của kỹ sư
Lương Văn Sáu. Một trong những kỹ sư canh nông thế hệ đầu
tiên của Việt Nam được đào tạo chính quy chuyên về
hoa, tốt nghiệp Trường nông nghiệp Versailles (Pháp). Một người
con dân đất Việt tự đặt ra bổn phận là sau khi học, ngoài
kiến thức mang về, còn là những hạt giống hoa và cây con -
những giống cây hoa sang quý từ trời Âu, để trồng
cho đất Việt.
Từ mảnh đất cao nguyên phố
núi Đà Lạt, ông đã ươm trồng rất nhiều loại cây
hoa, cũng như có công lập ra cái vườn hoa ở một góc đầu
hồ Xuân Hương - ngày xưa còn có tên là vườn Bích
Câu, hay vườn hoa lớn. Mà hôm nay, ngoài cây phượng tím
ở đầu chợ Đà Lạt, còn có cây Vông Mồng Gà
nằm nghiêng bên hàng rào sân sau khách sạn Palace. Cây hoa chuông
vàng ở chùa Chén kiểu (Linh Phước)...và còn bao nhiêu cây
hoa khác...biết đâu vẫn còn xanh lá tươi hoa trong một số
vườn hoa, trên đường phố, trong khuôn viên các nhà khách,
dinh thự, nhà thờ và chùa...
Phượng
tím bên bờ Hồ Xuân Hương
Ba tôi và bác Sử là thế hệ đàn em của
kỹ sư Lương Văn Sáu. Mỗi năm đến Tết là viết thiệp
chúc sức khỏe lẫn nhau. Trong ký ức của ba tôi, kỹ sư Sáu
cao đến Tây còn phải nể ( khoảng trên 1m80, còn kiến thức
về trồng trọt thì vô cùng uyên thâm). Sau khi biết "đàn
anh" bệnh tật, không còn nói được, Ba tôi hay cố viết
bài cộng tác cho một tờ báo chuyên ngành, rồi lại đóng
gói gởi báo, gởi thêm chút tiền nhuận bút, như để
phụ "ông anh" chút tiền thuốc men chữa trị..
Khi biết tin kỹ sư Sáu mất, ba tôi ngồi
thừ ra. Dáng buồn hắt hiu.
Rồi
cũng phải lâu lắm, tôi mới có thể khao ba tôi một chuyến
du lịch Đà Lạt. Xe dừng nghỉ ăn trưa ở thác Dambri. Bên hông
nơi nhà hàng ăn là một cây phượng tím đang trổ bông
rực rỡ. Anh hướng dẫn viên khi đó có nhắc về cố kỹ
sư Lương Văn Sáu. Về việc hoa phượng tím sau khi nở rất
khó đậu hạt, nơi cố hương của nó hoa chỉ thụ phấn
là nhờ một loài chim hút mật. Nhưng với tài năng của mình,
cố kỹ sư vẫn có thể chiếc cành, ươm trồng ra những
cây phượng tím con. Để sau đó, đến mùa cuối xuân
đầu hè, phượng tím lại phủ tím sắc trời xanh Đà
Lạt..
Tôi thấy ba tôi
mỉm cười trông rất vui vẽ..
Rồi đến Đà Lạt, trong khi mọi người nghỉ ngơi
chờ ăn tối. Thì ba tôi ngỏ ý muốn đi xem cây phượng
tím ở chợ Đà Lạt.. Ông đi quanh cây, ngắm nghía. Như
gặp một người thân quen..
Rồi
bao mùa lễ hội hoa Đà Lạt qua đi. Đà Lạt trở về ngôi
vị thành phố ngàn hoa rực rỡ. Dân du lịch nườm nượp
kéo về Đà Lạt theo những mùa hoa: Mùa Dã Quỳ hoang dại
vàng rực, mùa mimôsa kiêu sang. Mùa Đỗ Mai hồng, trắng. Mùa
Mai Anh Đào thắm hồng, và mùa phượng tím..
Cây phượng tím sau nầy không
còn lấy giống từ cây phượng tím mẹ của cố kỹ sư
Lương Văn Sáu. Chúng là giống mới đến từ Nam Bán Cầu
- Australia. Hoa chùm dầy, từ đậm đến nhạt. Vì là cây tơ,
lại được vun trồng, chăm bón tốt nên cứ đến mùa
là "tím toàn tập". Nhưng trong mắt ba tôi và những người
bạn già Đà Lạt ưa hoài niệm, thì cái màu tím
ấy không thể nào bằng cái cây phượng tím già bông
lưa thưa kia. Như cái dáng cao gầy của người trồng nó, đến
mùa hoa nở lại chống gậy đi từ đường trên dốc xuống.
Im lặng ngắm màu tím rưng rưng..
Rồi Đà Lạt có thêm phượng trắng. Vừa
nghe tin, chúng tôi đã đón xe đi một lèo trong đêm lên
Đà Lạt. Chạy đến căn nhà có cây hoa để từ ngoài
rào thò ống kính ‘cùi bắp" chụp vào, để mang ảnh
về tặng cho ba tôi. Lúc nầy căn bệnh khớp đã khiến ông
không thể đi lại nhiều..
Như
mọi người lúc đó, ông cũng chia sẽ niềm vui: Một ngày
nào đó, trên khắp vùng miền Việt Nam, ngoài phượng vỹ
hoa đỏ mùa hè, còn có phượng vàng, phượng son, phượng
tím và phượng trắng. Để quê nhà xứ Việt ngoài vang
danh cây trái ngọt lành, còn là xứ của những mùa hoa phủ
xanh...
Đà Lạt đang vào
mùa phượng tím, kề sau mùa Mai Anh Đào nở muộn. Những
người trẻ khăn áo xúng sính rủ nhau đi Đà Lạt chụp
hình cùng hoa phượng tím. Những bông hoa phượng tím giống
Australia, và chắc những người trẻ cũng không có khái niệm
gì về cái cây phượng tím "già và xấu xí"
ở gần chợ Đà Lạt. Mà muốn chụp hình với nó cũng
khó - vì quá vướng, vướng người buôn bán, dây điện,
mái che, bạt.. mà hoa của nó cũng cao quá. Không lòa xòa,
không chùm thật to, thật rực như những cây trẻ trung trên
các đường phố khác.
Cũng
như biết về một người Đà Lạt, một kỹ sư "hoa học"
tên Lương Văn Sáu. Một ông già cuối đời bệnh tật,
mất trong lặng lẽ, chỉ để lại gia tài vô giá là những
cây hoa.
Để những người như cha tôi,
bác Sử ( một kỹ sư canh nông), những người Đà Lạt lớn
tuổi khác, cứ mùa hoa phượng tím về là lại thăm
hỏi, trò chuyện về " cây phượng tím đằng chợ".
Và tâm ý coi chờ "nó" ra bông, chứ không phải những
Phượng tím trên vùng trời Đà Lạt
hàng cây, những con đường, những
vị trí trồng cây hoa phượng tím mới. Rồi cứ nhìn những
cây phượng tím trổ bông, nhìn những bức ảnh chụp hoa tím
ngắt cả Facebook, rồi lại í ới hỏi về "cây phượng tím
chỗ chợ" năm nay bông nhiều ít. Nở chưa? Dầy hay thưa..
Như một đại diện cho mùa
hoa Đà Lạt, hay như nói văn vẽ: Đó là cái cây hoa
di sản, chuyên chở ký ức Đà Lạt. Như cuộc đời lặng
lẽ của người ươm mầm và trồng nó.
Đà Lạt không có con đường nào
mang tên kỹ sư Lương Văn Sáu, cũng không có nhiều hình
ảnh lưu giữ về ông. Nhưng rất nhiều hướng dẫn viên, khi
đưa du khách đến đúng vào mùa phượng tím Đà
Lạt, lại trân trọng kể về ông. Về những cây hoa ông đã
trồng. Về một kỹ sư hành trang mang về từ Pháp chỉ toàn
là sách và hạt giống..
Và có thể, chừng nào cây phượng tím ở chợ
còn nở hoa, linh hồn của người trồng hoa Lương Văn Sáu sẽ
còn sống mãi.
Huỳnh Minh Bích Nga
_____________________________________________________________________________________
Hoa Bụp Tra
Xuất xứ
miền Tây, ưa mọc ven sông. Để sáng nở chiều tàn rồi
nước chảy hoa trôi theo con nước. Cây lớn, mọc thành bụi-
nên không đẹp như loài tra hoa vàng.
Một chiều muộn, bắt
gặp những bông hoa bụp tra nầy rụng đầy sân một quán cà
phê ở khu du lịch VT. Lại nhớ nhánh sông nhỏ quê xưa của
ba tại Cần Thơ. Nơi có mấy bụi bụp tra ba trồng ngoài bờ
để giữ đất, hoa cứ chiều rụng cam trên dòng nước nâu
vàng phù sa...
Lại nhớ ba từng giải thích: Do hoa giống hoa bụp,
lá thì hơi khác, dân gian mình cứ thấy mặt đặt tên,
nên mới có cái tên dân dã: Hoa Bụp Tra.
HUỲNH
MINH BÍCH NGA
_________________________________________________________________________
MỘT CHUYỆN MÙA ĐÔNG
Một câu
chuyện mà mình rất thích. Phóng tác theo truyện Un Collier de perles bleues của tác giả Fulton
Oursler.Và mình muốn gởi
câu chuyện nầy cho những người mình yêu thương.
Mùa
đông năm nay khá lạnh, và đã khiến những chậu mai mùa
xuân nở sớm khiến cho thành phố ngày không nắng có thêm
chút đốm vàng rực rỡ.
Nhưng
tại một con đường kia, nơi luôn có hoa bìm tím nở quanh
căn nhà cũ, phía trước là gian bán đồ lưu niệm cũ
của một người đàn ông, mà hàng xóm gọi "ông
cô độc" trong khu phố. Tại nơi đây, hoa bìm tím tự do
leo qua tường, đong đưa bên cửa sổ, thậm chí tràn xuống
lối đi ngắn lót gạch cũ. Gian hàng, thực ra là một căn phòng
trần cao, với những vệt vôi cũ, những cánh cửa tủ kiểu xưa
dẫn đến cảm nhận cho khách như đang bước vào một cái
viện bảo tàng nho nhỏ.
Còn ông
chủ, ông thường đứng lặng lẽ sau quầy, đó là một
cái tủ kính nhỏ chưng đầy những vật xinh xinh lạ mắt:
Những chiếc vòng đeo tay, chuỗi hạt bằng đá có vân nhỏ,
những chiếc bình sứ bé bé, những chiếc nhẫn bạc chạm,
vòng xuyến điêu khắc, phù điêu ngọc thạch, những đồ
chạm trổ, những bức tượng nhỏ mang tính huyền bí...
Buổi chiều ngày trước giáng sinh, có
cơn mưa trái mùa ban trưa đã phủ một lớp sương mù
mỏng như bụi phấn trên lớp cửa kính ở mặt trước gian
hàng, thậm chí trên lối đi rêu phong và cả đám lá
hoa hoa bìm. Cơn mưa đã dẫn theo một bước chân nhỏ xíu,
mang vớ và giày trắng hồng của một cô bé tóc cột nơ
đang hăm hở tiến vào cửa hàng.
Với vẽ mặt chậm rãi hân hoan, cô bé tóc cột nơ
đi thẳng vào bên trong, mắt to mở tò mò nhìn ngắm say sưa
từng thứ một trong cái tủ kính, và nói với người đàn
ông lặng lẽ đứng sau quầy hàng: " Chú có nguyên một
kho tàng cổ tích, và cháu hy vọng sẽ kiếm ra một vật
thật quý báo".
Người đàn ông vẫn đứng sau quầy
hàng. Trông ông có vẽ buồn bã. Dưới ánh sáng ban ngày,
trông ông mới chỉ hơn ba mươi tuổi dù tóc mai đã lớm
chớm bạc. Ông cũng không mỉm cười khi nhìn thấy cô bé.
Còn cô bé, cô vẫn hồn nhiên:"
Chú ơi, Chú có bán cái xâu chuỗi ngọc bích nằm trong
hóc tủ kính này không ạ?.
Có
lẽ nên quay lại chuyện cũ một chút.
Trước ngày cô bé tóc cột nơ Jean Grace bước vào
cửa hiệu, Peter Richards vẫn còn là người bán hàng lãm đạm
nhất luôn đứng lặng lẽ sau quầy. Anh có mái tóc xám và
gương mặt mệt mỏi.
Anh đã
đứng dửng dưng như thế, và cửa hàng anh đang quản lý
là của thừa hưởng từ đời ông để lại. Trong cái
tủ kính bé nhỏ, dù trong mùa đồ giáng sinh anh vẫn để
đầy ắp những mặt hàng xưa cũ; Có những mặt hàng có
từ thời ông anh, cha anh.. Và anh cứ để chúng như thế.
Thế rồi buổi chiều đông hôm ấy,
có một bé gái cứ như vô tình đi đến. Peter không
biết rằng, trước đó, khi khám phá ra cửa hàng, cô bé
đã đứng nhón chân nhìn ra vào không gian bên trong, với
vành trán rộng tì sát vào kính. Rồi cô bé giương
đôi mắt to vẻ nghiêm trọng, chân thành ngắm nghía từng
vật một như thể đang bước vào một cái hang kho báu, và
sẽ tìm ra một thứ gì thật đặc biệt trong hang đồ kho báu
quý giá kia.
Sau khi ngắm nghía đầy
cân nhắc, cô bé quyết tâm bước vào cửa hàng.
Phía bên trong gian hàng, ánh sáng
bắt đầu mờ yếu và trông các quầy tủ đầy ắp bề
bộn hơn phần tủ kính phía trước. Bỏ qua các kệ chen chúc
những hộp nhỏ đựng đồ nữ trang, những vật cũ xưa như
đồng hồ quả lắc, chân đèn, cùng những thứ khó mà
nhận biết chính xác. Cô bé tóc cột nơ đặt hai bàn
tay trần xinh xắn lên quầy hàng.
Giờ
thì cô bé đang lập lại :
_"Thưa
chú, chú có thể vui lòng cho cháu xem cái xâu chuỗi màu
xanh trong tủ kính kia kia được không ạ?".
Peter kéo tấm cửa ngăn, anh nhấc cái khây có
xâu chuỗi đeo cổ màu xanh kia ra. Có những ánh sáng óng ánh
màu lam trên vòng chuỗi khi anh đẩy khay về phía cô bé.
_ "Đẹp quá đi". Cô bé xuýt
xoa, và tiếp tục hồn nhiên: " Chú ơi, xin chú vui lòng
gói lại thật đẹp giùm cháu. Đây là quà sẽ được
dành để tặng cho chị của cháu. Đây là giáng sinh đầu
tiên của chị em cháu từ khi cha mẹ mất, chị ấy đã chăm
sóc cháu. Nên cháu quyết tâm phải tìm cho được một
món quà thật đẹp cho chị ấy".
" Vậy thì cháu bé có bao nhiêu?". Peter ân cần
hỏi.
Cô bé tóc cột nơ nhẹ
nhàn thò tay vào túi, cô móc ra một cái ví búp bê
và thận trọng cầm ra một xấp tiền được xếp theo thứ
tự ngay ngắn. Cô nói một cách tự hào: " Đây là toàn
bộ tiền cháu để dành". Cô bé giải thích đến
là mộc mạc.
Peter nhìn cô bé
với vẻ suy nghỉ, rồi anh nhẹ nhàng kéo khay xâu chuỗi lại. Trong
trái tim của anh đang có cái gì đó như ấm lên. Có
một mảnh giấy ghi giá cột theo chuỗi vòng, nhưng xem ra cô bé
không biết. Phía bên kia quầy, cô bé vẫn đứng chờ, mắt
tròn mở to đầy hy vọng. Cô bé có đôi mắt nâu to,
màu mắt của bé làm tim anh như nhói đau, nỗi đau của một
vết thương xưa tưởng như ngủ yên.
_"Bé chờ chú nhé". Ông chủ nói nhẹ nhàn
và cầm khay chuỗi quay vào phía trong gian hàng. Rồi anh hỏi vọng
ra mà không quay lưng lại:
"Cháu
gái ơi, cháu tên gì vậy?".
Cô bé vẫn hồn nhiên:" Con tên Jean Grace".
Khi Peter quay ra chỗ Jean Grace đang đứng đợi, trên
tay anh là một gói nhỏ bọc giấy kính đỏ tươi có dây
thắt nơ xanh. Màu xanh của giáng sinh."Bé cầm lấy, nhớ
đừng làm mất dọc đường món quà nầy đấy nhé!".
Khi cô bé Jean cám ơn rõ to và
chạy tót ra khỏi cửa, Peter Richards bỗng thấy ngoài kia trời thật
rạng rỡ. Qua khung cửa kính, anh nhìn tóc cô bé óng ả như
màu lúa chín và đôi mắt nâu như vỏ ốc trong lành.
Đôi mắt nâu to của cô bé đã làm thức dậy trong Peter
Richards những gì anh đã mất.
Ở tuổi hai mươi, chàng trai Peter đã yêu một thiếu nữ
có màu tóc vàng rơm và đôi mắt cũng với màu nâu
mênh mông. Giáng sinh năm đó, anh đã mua một chuỗi ngọc
xanh để dành cho cô. Thế nhưng, vào đêm trước giáng
sinh, một chiếc xe tải đã bị trật bánh trên con đường
trơn trợt và giết chết tình yêu đầu đời của anh. Thế
là từ đó, Peter Richards lui về thị trấn nhỏ, sống cuộc đời
phần lớn trong sự cô đơn lãm đạm. Vì cửa hàng là
nguồn sống nên anh vẫn giao tiếp với khách hàng rất lịch sự,
thậm chí rất ân cần, nhưng luôn giữ một khoảng cách sáo
rỗng.
Càng đến giáng sinh, Peter
lại chìm đắm chìm trong sự cô độc, như có bức màn
xám ngắt dày đặc bao trùm.
Nhưng
đôi mắt nâu to của Jean Grace hôm nay đã dấy lên trong ông
chủ già trước tuổi về một ký ức đau xót, về một
hình bóng ông đã đánh mất.
Nhưng rồi anh chủ tiệm vẫn phải gạt qua nỗi đau đó
để buôn bán. Có nhiều khách hàng quen luôn tìm đến
cái cửa hàng đầy những món đồ cũ độc đáo
để mua sắm hàng lạ trong dịp lễ.
Và khi Peter Richards nhẹn nhàn tiễn người khách cuối cùng
ra khỏi cửa hàng cũng là lúc chuông đồng hồ báo đã
mười giờ rưỡi đêm. Giáng sinh đã kề bên.
Trong khi Peter bước ra định đóng cửa,
thì cánh cửa kính lại bật mở và một thiếu nữ vội
vã bước vào. Thoạt đầu, Peter nhìn và cảm thấy cô
như thật thân quen, dù chưa thể nhớ ra là đã gặp cô
lúc nào và ở đâu. Cô gái có mái tóc vàng óng
của lúa chín, đôi mắt nâu to. Với khuôn mặt xanh tái vì
giá lạnh, cô gái rút trong áo khoác ra một hộp quà được
bọc giấy kính đỏ và dây nơ xanh đã mở.
Gần như ngay lập tức, chuỗi ngọc xanh
lam lại nằm trên bàn tủ kính, trước ánh mắt ngạc nhiên
của ông chủ. Cô gái rụt rè:
" Thưa, có phải chuỗi ngọc này là được mua từ
cửa hàng của ông?".
Peter nhẹn
nhàn trả lời, ánh mắt hướng nhìn cô gái." Thưa phải".
Cô gái rụt rè hỏi tiếp:"
" Thưa, đây là ngọc thật ạ?"
Peter vẫn lịch lãm:" Thưa, đúng vậy. Tuy không phải
loại hảo hạng nhưng là ngọc thật. Tôi đã bán xâu
chuỗi ngọc này cho một cô bé tóc cột nơ . Cô bé giới
thiệu tên mình là Jean. Tôi đã bán xâu chuỗi cho bé
Jean để làm quà mừng giáng sinh cho chị".
Lại có cái gì đó đang cháy trong tim của
Peter Richards. Cô gái với những đường nét dong dỏng thanh tú,
như bóng dáng của quá khứ tràn đầy thân yêu. Cô
gái là bản sao lớn hơn cô khách bé xinh tóc cột nơ ban
chiều, như một cô tiên mùa xuân rực rỡ.
Và cô đang tiếp tục hỏi:" Thưa, chuỗi ngọc
trị giá bao nhiêu ạ?"
Bỗng
dưng Peter mỉm cười: "Giá cả à, đó luôn luôn là
chuyện riêng tư thuộc về bí mật mà tôi đã thoả thuận
với bé Jean".
Cô gái nói
bằng giọng khẩn cầu:" Nhưng mà, em Jean chỉ có rất ít tiền,
làm sao có thể mua được chuỗi ngọc quý giá này?"
Peter chuyên nghiệp gấp tờ giấy
bọc vào nếp như cũ, gói ghém lại hộp quà trở thành
gọn gàng xinh xắn như trước: " Thưa quý cô, bé Jean là
người khách hàng tuyệt vời nhất. Bé đã trả bằng
tất cả những gì bé có".
Một
sự im lặng bao trùm ở gian hàng nhỏ. Người đàn ông nhìn
cô thiếu nữ bằng đôi mắt vừa thiết tha vừa nghiêm nghị.
Cô gái tóc vàng mắt nâu không trả lời. Cô đón nhận
cái nhìn dịu dàng ấy của ông chủ cửa hàng một lúc
rồi cúi xuống nói thật nhỏ:" Tại sao ông lại làm thế?".
Có tiếng chuông nhà thờ bắt
đầu ngân lên. Nhịp chuông giáo đường âm vang vang. Gói
quà vẫn nằm yên trên quầy. Ánh mắt nâu của cô thiếu
nữ và một cảm giác lạ lùng vô cớ cứ dồn dập đập
trong trái tim ở trong lòng của một người đàn ông. Trước
đó, họ còn là những kẻ xa lạ, và tất cả khởi nguồn
từ mái tóc cột nơ của một cô bé.
" Tôi không thể nhận món quà, nó quá đáng
giá". Cô thiếu nữ lập lại, giọng bắt đầu cương
quyết hơn.
Peter Richards vờ thở dài,
rồi cầm hộp quà lên: "Bây giờ đã là cận kề
giáng sinh. Đây cũng là nỗi cô đơn của tôi vì tôi
không có ai để trao quà. Thưa quý cô, cô có thể cho phép
tôi được đưa cô về nhà, để có dịp chúc cô
và bé Jean một giáng sinh vui vẻ được không ạ?
Thế rồi, Peter đóng cửa hàng, anh và cô
gái mà bản thân chưa kịp biết tên bước ra ngoài giữa
muôn tiếng chuông lễ, giữa một đám đông nô nức. Họ
hoà vào dòng người đang tưng bừng hạnh phúc trong cái
ngày trọng đại thiêng liêng, mang theo hy vọng tràn trề " giáng
sinh an lành cho tất cả mọi người chúng ta trên thế gian này.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
Một
chỗ trống
Lúc sinh thời, cha tôi thường nói với
tôi rằng: "Sau khi cha qua đời con nhớ giữ cho cha một chỗ ở bàn
thờ nhé".
Cha tôi nói thế,
vì trong nhà, mẹ và các anh chị tôi đều nhăm nhe muốn
bán nhà, còn cha thì sợ, nỗi sợ như mọi người già
khác, không có chỗ để cái bàn thờ ông bà.
Và tôi trả lời: "Cha sẽ sống đến
một trăm tuổi, và không chỉ chỗ trên bàn thờ, con còn
giữ một chỗ bên bàn ăn cạnh con".
Một ngày kia, cha tôi mất. Sau lễ tang sơ sài, mẹ và
các anh chị tôi lập tức bán nhà vì ai cũng muốn có tiền
tiêu ngay. Còn tôi, sau khi ôm bình tro của cha vào chùa, thì lao
vào việc mưu sinh.
Sau rất nhiều
năm, tôi đã giữ lời hứa với cha. Ngoài di ảnh trên bàn
thờ, tôi còn giữ một ghế trống nơi bàn ăn, chỗ ngồi
cạnh mẹ tôi - nay đã già lẫn, bệnh tật. Sau khi kịp tiêu
nhanh chóng món tiền bán nhà vào những chi phí xa hoa, chỉ có
một điều, anh chị tôi luôn nói với họ hàng xa gần: "Nó
thờ cha, mà chẳng bao giờ làm giỗ để con cái trong nhà có
dịp tưởng nhớ ông cụ".
Những
người bà con đã nghe như vậy. Và họ đến tìm tôi
để nói những lời trách móc. Còn tôi thì phớt lờ
sự rỗi hơi của họ. Vâng, giỗ chạp là ngày để tưởng
nhớ, nhưng với tôi cha tôi không cần cỗ bàn tưởng nhớ.
Ông vẫn mỗi ngày ngồi vào bạn cạnh mẹ tôi khi chúng tôi
dùng cơm.
Cha tôi luôn có một
chỗ trong cuộc sống và trong trái tim của riêng tôi, nơi tôi
để dành cho những kỷ niệm và yêu thương. Ông đã
có một chỗ để hạ cánh và vĩnh viễn ngự trị..
Huỳnh Minh Bích Nga
BÀI HỌC ĐỂ QUÊN LẠI
Câu
chuyện tôi đọc trên mạng có tựa "Bài học để quên
lại", mà tác giả cố ý gợi lên niềm hy vọng cho những người
làm cha và là bài học cho những người con.
Còn câu chuyện nầy, một hướng dẫn viên du
lịch đã kể với tôi bằng một giọng thủ thỉ: Cũng mấy
năm rồi, nhưng từ chủ nhà hàng, nhân viên tiếp tân khách
sạn.. Tất cả đều không ai muốn quên,.
Cặp đôi ấy đến, họ đặt một tour đến
thành phố nọ. Nhìn họ không giàu, nhưng có vẽ tươm
tất: Yêu cầu của họ, một phòng tầng trệt, sát phòng tiếp
tân. Một bàn ăn riêng..
Ngày
khởi hành: Ngoài cặp đôi hơi cứng tuổi nọ, còn có
một lão ông chống gậy, một gia đình trẻ bốn người.
Hướng dẫn viên nghe bốn người lớn gọi lão ông là cha
và ông nội, còn hai người bé gọi lão ông là cố.
Họ ngồi cuối xe, để riêng một ghế
cho lão ông, sau khi đã chèn cho ông bằng chăn và gối. Ông
lão gần như ngủ suốt chuyến đi.
Mỗi khi ông lão thức, thì một trong bốn người lớn đều
thay phiên nhau hỏi ông có uống nước, có cần đi vệ sinh,
có ăn gì không..
Đến trạm
nghỉ, gần như cả nhà vây quanh ông, đưa ông vào nhà
vệ sinh, đưa ông đi dạo quanh khắp nơi, hai người bé bi bô:
Ông đi cho thể dục cho chân khỏe..
Bây
giờ hướng dẫn viên mới hiểu vì sao gia đình nọ cần
bàn ăn riêng. Ông cụ nhai yếu, chậm và rất dễ mắc nghẹn.
Đó là chưa kể khi ăn ông
làm
rơi vãi đồ ăn lên quần áo. Nhưng cả gia đình cứ
thản nhiên, chỉ kín đáo lau miệng cho ông, và rón rén
lau quần áo cho ông..
Ngày đầu
đi chơi, bốn người lớn xoay tua vây quanh lão ông, họ không
đi kèm mà cứ chực chờ đâu đó, để ông thoải
mái chống gậy thăm thú. Còn ông lão, ông cứ khoát tay
bảo con cháu là đi chơi đi, để ông tự lo..
Sau một hồi tham quan, lão ông tự mình chống
gậy ra xe. Ông có vẽ tự hào là mình định hướng đúng,
ra đúng xe và tìm đúng chổ ngồi.. Ông không biết có
đến bốn người lớn len lén dõi theo ông, và trước đó
đã đi tìm tài xế nhờ mở cửa xe, mở máy điều
hòa chờ ông lên.
Ngày thứ
2, lão ông chỉ đi được nữa ngày rồi than mệt, giờ ăn
trưa ông thiu thiu ngủ. Người đàn ông cứng tuổi để ông
dựa vào mình, họ vẫn dùng bữa trong sự thinh lặng khe khẽ.
Khi nhóm bắt đầu chuyến tham quan
buổi chiều. Người phụ nữ cứng tuổi dặn dò nhân viên
tiếp tân khách sạn: Cô để hé cửa, con có đi ngang qua thì
dòm qua ông hộ cô..
Cô bé
tiếp tân, cậu bé phục vụ của khách sạn đều vâng dạ.
Mới có một ngày mà họ đều mến cái gia đình yêu
thương nhau nầy. Quả nhiên, cửa để mở hé, ông lão nằm
ngủ và ngáy vang bên trong..
Bên
ngoài, người đàn ông cứng tuổi không theo đoàn tham quan,
ông ta hết đi lang thang quanh khách sạn thì uống cà phê đâu
gần đó. Trước đó, ông đưa số cho tiếp tân: Cụ
có gọi gì thì điện thoại cho chú nhe.
Khoảng chừng 3h, ông lão thức dậy. Cũng là lúc
người đàn ông cứng tuổi bước vào khách sạn, tay cầm
một hộp cháo. Ông đỡ ông lão dậy, đưa ông đi vệ
sinh, rồi kéo bàn, trãi khăn cho ông cụ ăn xế..
Sau khi ông cụ ăn xong, ông lại rủ rê ông
lão đi dạo quanh khách sạn..
Ngày
thứ 3, ông lão đi mới dở buổi sáng thì nói mệt. Thế
là cặp đôi cứng tuổi xin phép rời đoàn, ngoắc tacxi đưa
ông về khách sạn.
Một người
khách trong đoàn buột miệng:" Già cả, yếu quá mà đưa
đi chơi làm chi vậy trời. Uổng tiền.."
Bỗng dưng, cả nhóm tour quay lại nhìn cái người
nói, sắc mặt ai cũng không vui..
Ngày
cuối, bữa tiệc liên hoan cuối cùng. Không hẹn, nhưng tất cả
khách đều muốn ông lão và gia đình ngồi chung với đoàn.
Nhà hàng cũng vui vẽ kê lại thành một dãy bàn dài,
ông lão được mời ngồi ngay đầu bàn.
Trong bữa tiệc, ông lão thật vui, ông cũng
nâng ly chúc mừng cùng mọi người.
Có một sự cố nhỏ, chính vì vui quá ông bị nghẹn..
Gần như ngay lập lức, cả nhà ông
lớn bé xúm lại, cô con gái rót nước dỗ ông uống,
cậu con trai tán nhuyễn cơm cho ông nuốt. hai người cháu kẻ thì
lấy chuối ra nghiền, kẻ thì vỗ lưng.
Sau đó thì ông lão đòi vào phòng vệ sinh,
sau khi ra dấu xin lổi.
Cả gia đình
lập tức đưa ông vào phòng vệ sinh, hai cháu bé còn dỗ
dành: Khó chịu ông cứ ói ra, như thế sẽ khỏe hơn.
Ông cụ đi ra, tươi tỉnh hơn, khách
ở bàn ăn chung quanh ai cũng mỉm cười với ông đầy vẽ
thông cảm. Ông đã được thay chiếc áo mới, thậm chí
còn được chải lại mái tóc. Xịt cả nước hoa thơm
lừng..
Chỉ có phần ăn của
ông được hai người con trai soi kỹ hơn, họ chú ý hơn
về từng mảnh xương..
Trong khi ông
cụ ngồi ăn, hai người phụ nữ trong gia đình thì thầm xin
nhân viên nhà hàng cho họ mượn dụng cụ vệ sinh để
họ làm sạch trong nhà vệ sinh. Cũng như không ngừng xin lổi người
quản lý về những bất tiện mà họ đã gây ra.
Đáp lại, đó là cái nắm
tay thông thông cảm và những nụ cười.
Từ đó, cho đến khi cả đoàn chia tay ra về.
Và gần như cả đoàn đều cảm
thấy quyến luyến ông, như người cha và ông họ đang có,
hay từng có ở nhà..
"Tôi không gặp cái gia đình đó
nữa, dù rất muốn". Người hướng dẫn viên kể tiếp.
Rồi chừng hơn mấy năm sau, tôi gặp lại cặp đôi cứng tuổi
nọ. Họ lên thành phố nầy một mình, lên vì công việc.
Buổi tối, chúng tôi không hẹn lại
gặp nhau tại quán cà phê-vì thành phố du lịch vốn nhỏ.
Như một cảm xúc dâng lên miệng, tôi hỏi thăm về sức
khỏe ông lão, và đúng như tôi đoán, lão ông đã
mất.
Thì ra, do sớm biết về sức
khỏe của ông, cả nhà quyết định làm một chuyến tour cùng
nhau. Để ông lão vui và cảm thấy tự tin hơn về sự hồi
phục của mình.
Như một liệu
pháp trị liệu.
Nhưng tiếc thay,
không phải liệu pháp nào cũng trị liệu thành công.
Lúc ấy, trước mặt tôi là một
người đàn ông lớn tuổi đang khóc như một đứa trẻ,
anh dấu gương mặt đẫm nước mắt trong hai bàn tay đen sạm.
Còn tôi, như một sự dẫn dắt, tôi đã quàng vai ông
ta:" Chú ơi, chú có nghĩ là ông và gia đình
đã để lại một cái gì đó ở tại chuyến đi
năm đó không vậy ?"
Người
đàn ông có vẽ bình tĩnh lại, ông cười gượng gạo:Không,
tôi không nghĩ rằng chúng tôi đã để lại cái gì"
Hít một hơi, tôi nói một câu mà
sau chuyến đi ấy, người quản lý nhà hàng, nhân viên tiếp
tân khách sạn, và cả những người khách trong đoàn đều
nói bằng ngôn ngữ trái tim: "Có, gia đình đã để
lại, để sau một chuyến đi là một bài học cho tất cả
những ai làm cháu làm con, và để khơi lại niềm hy vọng
cho tất cả những ai làm cha, để tất cả cùng cảm thấy hạnh
phúc khi được làm điều tốt là chăm sóc lẫn nhau trong
đời".
Giáng sinh, với phương
Tây là mùa đoàn viên, cùng về ăn bữa ăn gia đình.
Đó là một truyền thống đẹp.
Còn chúng ta, đừng quên một bữa cơm gia đình, cùng
ông bà và mẹ cha vào những ngày Đông cuối năm..
HUỲNH MINH BÍCH NGA
_______________________________________________________________________________________________________________________
Những
cơn mưa và ba..
Những người quanh con
đang nói: Khép lại đi, đừng viết những điều xưa cũ
nữa. Người thì cũng đã mất rồi, hãy để chút
gì lung linh cho những người đang sống.
Con cũng đang cố, cố lao vào công việc. Cố cười, cố
vui. Cố tránh mọi suy nghĩ. Cột những kỷ vật của ba lại, bỏ
vào thùng và phủ kín bằng mọi thứ vật linh tinh. Và để
chúng ra thật xa tầm tay của con.
Nhưng mà, những cơn mưa tháng 7 đang
kéo đến, như nhắc nhở con vẫn phải nhớ về ba.
Về việc ở cái ngôi nhà ấy, ba từng
lặng lẽ leo lên cái cầu thang tối thui, qua một dãy hành lang dài,
để cập cập mở cái cửa ra sân thượng. Rút vào lần
lượt những trang phục của gia đình, mà trong đó không bao
giờ có trang phục của ba.
Về việc
ba từng lập cập kéo những cái thau ra ngay máng xối, rồi lôi
nào giày dép, nùi giẻ, bàn chải.. tóm lại là những
thứ rất dơ trong gia đình. Ba cặm cụi giặt chúng..
Ba,
Mẹ & con gái đầu lòng: Bích Nga
Chính vì biết ba sẽ
như thế, hể mưa là con tìm cách ghé qua. Để có thể
đưa ba trở vào nhà, để lau những giọt nước mưa lạnh
ngắt cho ba. Để xoa dầu, chà xát cho đôi chân ba teo cóng, trắng
bợt.. Để con tim ba thấy ấm vì ít ra, trong bàn tay năm ngón
của ba, vẫn còn một ngón luôn muốn ngoéo với ba thật cứng.
Để bắt ba hứa, nếu không muốn con
đội mưa về nữa, thì ba phải ở yên trong nhà, ngủ yên
trong giường, đắp chăn ấm và mặc kệ người ta.
Để con có thể yên tâm đi lang thang, để nửa
tiếng là điện thoại gọi cho nhau. Để ba hỏi nơi con đang ở,
có mắc mưa không. Còn con thì chỉ cần một câu: Ba không
có sao, ba khỏe..
Để cho đến
bây giờ, cho dù nửa khuya hay sáng trưa. Hể nghe mưa là con như
có một hành động theo cảm tính. Con chụp cái áo mưa và
cầm chìa khóa nhà đi ra sân, để đi ra rồi lại quay vào,
cầm cái điện thoại lên rồi bỏ xuống..
Vì con biết, ba không còn chờ con trong ngôi nhà đó
nữa. Ba đang ở một ngôi chùa, hay ở trên trời.. Nhưng cứ
theo những cơn mưa, con lại như thấy ba đang trở về với con.
Những cơn mưa cứ nhắc con về những
kỷ niệm thật vui với ba, về một trời tình thương khắng khít.
Về cái ghế ba ngồi, cái khăn ba đắp, cái tay ba ấm, mái
tóc thưa xám của ba dợn quăn... và cả tiếng ba như đang thì
thào với con:"Có thương ba thì ghé về nhà thăm mẹ
con nhe..".
Mẹ nói con là"con riêng"
của ba, không phải vì con giống ba (ngoại hình con giống mẹ nhiều
hơn) mà con có cách suy nghĩ như ba, viết chữ giống ba, và
yêu thương ba, cái yêu thương vô điều kiện. Mà ba thì
yêu vô điều kiện mẹ và gia đình..
Bên con những tháng cuối của đời, ba đã
minh mẫn cho đến giờ phút cuối, ba nhìn rõ từng người và
gọi đúng từng tên. Vậy mà chỉ tích tắc sau, thần tử
đã đưa nhẹ ba đi, để tay con vẫn còn ôm ba, để hỏi
ba cả chục câu vô nghĩa, để xoa tay cho ba vẫn ấm, để vuốt
lưng cho ba ngủ yên. Để gục đầu vào ngực ba thèm nghe ba
ho khan một tiếng. Để thấy mình thật sự thất bại trong việc
giữ ba lại ở cuộc đời.
Những
người thật sự thương ba, đều nói ba sống như vậy cũng
đủ rồi. Đừng để ba phải bị hành hạ thân xác nữa..Nhưng
mà, ba đâu có muốn chết. Ngay tới phút giây cuối, ba vẫn
nói sẽ cố, sẽ ráng. Còn con thì vẫn vững niềm tin: Rồi
ba sẽ lướt qua, như những lần cùng con đi lướt qua..
Mùa mưa đã nửa mùa trôi qua. Con
cũng đã chấp nhận việc ba ra đi nhẹ nhàng như những cơn
mưa đang trở về với đất. Như hơi nước mưa ẩm mát
đang theo nhau ùa vào, mơn man bên con. Như bảo bây giờ trần gian
ba đã thật sự xa vắng..
Con đã
cố tập vui, cái vui phủ ngoài cho cái bên trong nát vỡ. Vì
thật lòng là con chỉ muốn được nằm xuống, nằm cạnh
bên ba, nắm tay ba. Cha con ta mãi ở bên nhau, nhắm mắt ngủ yên, không
còn lo toan gì hết. Rồi con cũng cố đi, lang bạt về những vùng
đất và bầu trời mà xưa kia, ba đã từng đi qua. Đi đến
đâu, con lại thấy ba và con từng dìu nhau qua đó, trong thực
tế, ước mơ và giờ đang chiếm trọn ký ức.
Để có cớ cho con cấu xé tim mình, gay gắt
hỏi tại sao con không thể giữ ba gần hơn con thêm một vài năm
nữa. Để con có thể nắm được bàn tay của lâu hơn,
ấm hơn. Để con ngày một chìm sâu hơn cho đến lúc con
phải tự ngăn mình lại, tự đứng lên.
Vì con hiểu, ba ở nơi xa cao sẽ rất buồn nếu con
cứ mãi như thế.
Cho đến bây giờ, con vẫn đang
cố vịn những bức tường quá khứ để đứng lên, lấy
những ngày vui bên ba làm lạc quan nhấc bước.
HUỲNH
MINH BÍCH NGA
Tháng 4 qua
Tháng 4 đã
trôi qua như một cái chớp mắt. Cha của tôi là người nằm
trong số triệu người buồn. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông hối
tiếc vì sự ở lại của mình. Vì ở lại, dù chịu trăm
ngàn đắng cay, ông đã gặp được người chị của
mình. Người chị với tấm lòng yêu nước đã từ
bỏ gia đình gia nhập kháng chiến, đã ra Bắc và mất biệt
tin tức. Cũng như được sống cạnh người cha già mà ông
rất mực yêu thương, được chăm lo cho cha và chị đến
giờ phút cuối của cuộc đời, trong cái mốc mà ai cũng phải
đến: Sinh lão bệnh tử.
Chỉ
có những điều ông tiếc. Cái ngày ông ra trình diện cải
tạo. Một cờ mờ ba mươi đập bàn quát ông: Anh là thành
phần chạy hỏng kịp, chứ ở lại cái gì.
Học tập xong, ông đi về tìm cái bạn cờ mờ
ba mươi đó: Thì ra gã đã cùng gia đình vượt
biên mất tiêu....
Ông tiếc là
mấy lần về Sài Gòn làm việt kìu yêu nước mắm, cái
gã thúi khăn khẳn đó đều né tránh gặp ông.
Gã sợ, nỗi sợ
cùa một con chuột đen nhuộm lông để giả làm con chuột xám.
Và rất sợ một gáo nước cũng làm trôi bộ lông nhuộm
dối đó..
Một nhân vật khác,
trước ngày ba mươi rất nhiệt tình leo lên xe jeep Mỹ, xé
cờ Mỹ, đả đảo Mỹ.. vậy mà trước ngày ba mươi
lai leo tàu Mỹ di tản mất tăm..
Sang
Mỹ, chả biết buồn tình thế nào, lại lập ra nhóm tố cộng
những người ở lại..
Rồi sau
nầy, nhân vật ấy lại về Sài Gòn, mời bạn bè xưa
từng bị tố ra ăn uống như để chuộc lỗi.
"Ai cũng có thời vụng dại mà. Em chỉ làm thế chỉ vì
không hiểu, vì nông nổi".
Ba
tôi từ chối không ra. Chỉ gởi lời cám ơn.
Người đó tìm đến nhà, trách ba nhỏ
nhen. Nhưng ba tôi chỉ nói: "Tôi không ra vì muốn giữ mãi
hình ảnh tốt đẹp về bạn".
Ba tôi là người ở
lại.
Ông chỉ muốn sống ở quê
hương mình, trong một đất nước hòa bình, vì ông chán
ghét chiến tranh. Vì không còn muốn thấy con người bắn nhau,
giết nhau..
Ông không đi theo con đường
binh nghiệp, đó là vì sao ông dừng lại ở mức lon đại
úy.
Sau khi đi học tập về, ông
không buồn vì thời hạn của mình chỉ có hai năm. Không
đủ để đi HO...ông chỉ buồn, vì sau khi ông về, nhiều
bạn bè ông đã bị chuyển đi khắp nơi...Chết nhiều hơn
sống.
Ông cũng không buồn vì
bị mang tiếng bảo thủ, đã không như nhiều gia đình khác:
Đưa những đứa con của mình xuống tàu ra biển. Vì trẻ
con khi ra đến đảo sẽ đánh động lòng trắc ẩn của
người nước ngoài, sẽ mau chóng được đi định cư...Ông
đã giữ những đứa con trong vòng tay của mình, no đói có
nhau. Nhưng không mất đứa con nào hết.
Con của ông, đứa đỏ, đứa xanh, đứa vàng.. Có
đứa trách móc ông lý lịch làm cho chúng không đỏ,
đứa xanh thì cho rằng vì ông mà nó bị sọc dưa. Nhưng
cái đứa vàng, nó hiểu ông, đó là niềm an ủi của
ông khi nhắm mắt.
Ông đã sống
một cuộc sống như nhân cách sống của ông, trải qua bể dâu
học tập, đổi tiền, đánh tư sản,.. Sống khoan hòa ung dung
, dù có thể ăn khoai với muối, nhường cơm cho vợ cho con. Và
cả cho những cơn điên cuồng tiếc nuối quá khứ của bà
mẹ vợ luôn tâm thần hoang tưởng.
Ông có một lần nói:
Đời ba hạnh phúc khi thấy các con ba trưởng thành. Mà trong
đó không có đứa nào tham gia đánh tư sản, đấu
tố cha mẹ. hay sau nầy quay sang trách cha sao không học tập cho đủ
năm để cả nhà đi HO.
Cũng
không bị đi kinh tế mới, đi thanh niên xung phong.
Trừ 1 đứa đi lính thời bình. Mà chính vì
‘đứa" đi lính nầy, ông từ chối làm hồ sơ HO lần
2, vì sợ đi sẽ bỏ con lại..
Chỉ có một lần, ông giận dữ. Đó
là khi bà cách mạng nhà bên kiên quyết dành cái tường
chung làm tường riêng của bà. Không cho ông đặt chậu xương
rồng lên góc tường ( để trộm không trèo vào). Ông
chỉ mặt bà và nói: "Cả miền Nam chúng tôi đã
không dành. Tôi thèm dành cái cột rào nầy sao".
Hôm qua, sinh nhật thứ 90 của ba. Con gái viết bài
nầy như một lần thắp nến mừng sinh nhật của ba.
Huỳnh Minh Bích Nga
Vòng tròn lớn hình trái tim.
Trên mạng có thư nhắn gởi
từ một người bạn của ba: Triển lãm ảnh của Anh Tăng A Pẩu.
Lâm nghiệp khóa 15. Lại chợt nhớ về lúc sinh thời, đi họp
mặt về ba hay nói: Mọi người kể, có một anh khóa 15 chụp
hình thiên nhiên đẹp lắm. Có dịp ba sẽ đi xem.
Giờ thì hai con đi thay cho ba. Cuối năm bận
rộn nên ngày triển lãm chót mới hối hả chạy đến.
Đến để thấy rằng toàn là những người quen. Anh Tăng
A Pẩu chính là anh Gật Gù hai con vẫn xem hình trên mạng, xem từ
xa trong sự trầm trồ.
Vì với hai con, kỹ thuật
chụp động vật hoang dã trong thiên nhiên là một đẳng cấp
lớn, mà tụi con rất thèm nhưng khó thể thực hiện nổi.
Chiều 28 tháng 1 nắng vàng rộm. Dừng
lại ở bức ảnh có lẽ dán nhiều dấu son nhất. Bé cú
non mắt mở to tròn xoe, mình phủ sáng óng lông tơ. Lại nhớ
lời của ba: Với phương Tây, con cú là con vật mang lại điềm
may mắn. Không hiểu sao người Việt mình gét cú, cứ cho rằng
loài chim ấy đến đậu gần nhà kêu là trong nhà có
người mất. Rồi ba nói vui: Phải chi người mình đừng nuôi
bồ câu, mà nuôi cú đi. Cam đoan là thành phố sẽ sạch
chuột.
Khi đó, hai con đã cười với ba. Đúng là thành
phố ban đêm đi là thấy chuột. Chúng chạy ngờ ngờ.. Một
thành phố chuột nhiều vì đêm đến, những người nuôi
chó mèo đều nhốt chặt chó mèo trong nhà vì sợ bị
kẻ gian bắt. Còn những nhà có sân thì đa phần khá giả,
họ nuôi chó mèo cảnh. Mà những con vật cảnh ấy thì nhõng
nhẻo lắm, chúng không biết bắt chuột.
Bé Bin, cháu nội
của ba không hề biết con cú trong thiên nhiên. Bé chỉ biết trong
bộ phim Harry Potter, nhưng bé biết đó là loại chim có ích,
vì chúng bắt chuột. Loài gặm nhấm phá hại và lan truyền
bệnh dịch hạch.
Từ ngày ba mất, facebook đã giúp con nối
một vòng tròn thật lớn để gần như mỗi ngày, con đều
gặp những người bạn của ba trên mạng. Để những người
ba quý mến gần với con hơn.
Và cũng để gần tròn một
năm, cái ngày con hối hả chạy về. Ngồi cạnh giường của
ba, để mơ hồ nghe trong giấc ngủ chập chờn tiếng gà gáy
sáng. Để nhìn ba qua một đêm lại yếu thêm.
Rồi
đến lúc dù không có tiếng cú nào kêu, nhưng ba vẫn
cứ bỏ con ra đi,
Huỳnh Minh Bích Nga
Lời đầu năm con viết cho ba.
Hoa Bất tử - Ảnh Duy Trân (SG)
Hay là cha con mình đang viết cho nhau. Thưa
ba.
Giáng
sinh, con đi ngang qua tiệm bánh, đèn thật sáng và như vô thức,
con lại muốn bước vào, hỏi về loại bánh không đường
để mua về cho ba.
Lại nhớ những ngày trong bệnh viện, những ngày chăm sóc
ba trong buồn vui lẫn lộn, để ba hạnh phúc chờ con rể đến
vào buổi chiều, mang cho ba một món gì ngon. Để khi về nhà,
ba đi đâu cũng khoe: Đó là những ngày ba ăn ngon nhất.
Ba
Ba & con
gái
Trước
tết Tây, trời trở lạnh. Có những buổi chiều đi về, con muốn
cầm cái điện thoại, gọi hỏi ba có lạnh không, có đủ
mền ấm không. Rồi đi vào phòng đễ thấy cái mền ba
vẫn đắp nằm ngay ngắn xếp trên giường, trong đó còn
một cái áo yêu thích của ba.
Từ tháng ba vừa qua, không ai gọi
điện cho con, nhắc con khi trời lạnh nhớ giữ ấm. Kể cho con nghe bên
nhà ra sao, ba thế nào.
Đêm qua, con có một cơn ho. Phải ngồi dậy
đi tìm thuốc và nước ấm. lại nhớ tháng cuối cùng
bên ba. Những cơn ho suốt đêm của ba, những ly nước ấm có
pha thuốc con đỡ ba ngồi dậy và uống. Để ba nhìn con và
nói con ngủ đi, và vài giây sau lại gọi hỏi con đâu rồi.
Tết nầy,
con sẽ không về. Vì không còn ai để con lo lắng nữa. Những
ngày tết con luôn sợ ba bị ngộp nhang khói. Bị bỏ đói
vì những cây nhang to và dài, mà quy định là tàn nhang mới
được ăn. Con đã ngang nhiên dọn cho ba ăn, mặc kệ những
ánh mắt giận dữ, những lời xỉa xói. Con vẫn nhớ khi con mời
ba, ba lộ vẽ mừng vui: Được ăn rồi hả con.
Trong nhà, chỉ có con
và em Sơn vui vì ba ăn rất được, rất khỏe và rất
dễ nữa.
Em Sơn hay mua gà tiềm về cho ba. Ba ăn được đôi lần.
Mủng
ba tết, con về. Ba nói hơi mệt và không muốn ăn, mùng năm,
mới nghe nói ba bị té. Chưa kịp điện thoại về nhà xin gia
đình hãy chú ý về sức khỏe của ba thì đêm đó,
có điện thoại nói ba trở mình không nổi.
Con cùng em Sơn về
nhà. Rồi con ở lại với ba.
Để sống những ngày bên ba. Để
nhìn ba mỗi ngày một yếu đi mà không biết làm sao. Để
buổi trưa đó, ba cứ nắm tay con, em Sơn và Trân rất chặc..
Để tối đó, ba ra hiệu con đỡ ba ngổi dậy lần cuối. Trong
tay con và em Sơn. Ba đi 8h tối ngày 12.3.2014. và 12.3.2015 nầy sẽ
là tròn một năm ngày ba bỏ con đi.
Cho con chỉ thấy ba được
trong mơ, và trong những hồi ức ba và con ta dành cho nhau.
Cho những ngày
cuối Đông đẩu Xuân, con thèm nắm bàn tay to của ba, nó
luôn mền và ấm.
HUỲNH MINH BÍCH
NGA _____________________________________
Có
một ông già Noel trong nhà tôi.
Đó là những năm khó khăn, cha tôi đạp chiếc
xe đạp cọc cạch vào trung tâm thành phố. Ông vừa xin được
tờ giấy giới thiệu để có thể đến nhà sách lớn,
nơi vừa xuất bản một cuốn tự điển về cây cỏ. Tôi
được giao nhiệm vụ đi theo để giữ xe, còn ông sẽ xếp
hàng vào mua.
Còn vài ngày
nữa là lễ giáng sinh, tôi từng rất thích ngày nầy vì
vào xa xưa, ba tôi sẽ chở mẹ tôi đến cửa hàng Brodard trên
đường Tự Do để mua một cái bánh kem to. Rồi cả nhà
vào tiệm Hào Huê ở Chợ Lớn ăn mừng lễ trước khi tối
đó về ca hát dưới cây thông và mở quà, cầm dĩa
chờ mẹ chia bánh kem.
Ảnh Duy Trân. Cô
bé hàng xóm (2014)
Còn
bây giờ, những ngày vui vẻ đó đã lùi rất xa. Cô
giáo ở trường, những đứa bạn trong lớp đều chung nhau bàn
tán về một quan điểm: Không có ông già Noel, không có
lễ giáng sinh. Còn tôi thì ngồi trên chiếc xe đạp có
hai vòng khóa, nhìn ba tôi tay giơ cao tờ giấy giới thiệu rồi
mất hút trong không gian đầy hơi người của nhà sách.
Ba tôi đi ra, người mướt mồ hôi
nhưng đầy vẻ hài lòng. Ông đã bán lại được
cuốn tự điển cho một bà béo phe sách. Tiền chênh lệch
từ giá bìa sang giá thị trường dư mua một ký thịt đùi
cho cả nhà tôi kho, nấu canh, thắng mỡ chiên xào trong cả tuần.
Cha con tôi sau đó đi uống nước
mía. Thực ra chỉ có tôi uống, còn ông thì không. Trong khi
nhẩn nha hút từng chút nước mía ép thơm ngọt, tôi cảm
thấy có một vấn đề quan trọng cần phải hỏi ông, một
vấn đề cứ lởn vởn trong đầu tôi cả tuần qua. Tôi bắt
đầu lên tiếng, dù có hơi ngập ngừng:
- Ba à...
Ba tôi dịu dàng quay sang:
- Con có chuyện gì ?
- Mấy
đứa bạn trong trường con đã bàn tán về một điều
mà con biết là không đúng. Nhưng mà cô giáo cũng nói
y như tụi nó..
Tôi là một con bé mau nước mắt, vì
thế tôi đã gần như khóc khi phải nói bật ra: Tụi nó
nói là không có ông già Noel. Còn cô giáo nói là
lừa đảo, phỉnh dụ con trẻ. Ru ngủ trẻ con tin vào cái điều
bá láp bá xàm.
Cha tôi thở ra nhẹ nhàng, còn tôi
tiếp tục ấm ức: Tụi nó nói, rồi cô giáo cũng nói:
Có ngu ngốc mới tin là có ông già Noel... Hết chuyện đi tin
vào mấy người cõi trên. Làm gì có xe nai, có đi phát
quà. Chỉ có ở phường tập họp con nít lại phát bánh
với đèn vào mùa trung thu thôi.
Mặc cho những giọt nước mắt rơi đầy trên má,
tôi nhìn vào ly nước mía đang nhòe đi, tan ra: Nhưng mà
con tin những gì ba đã kể với con. Ba đã từng đọc trong
sách và nói: Ông già Noel là có thật. Phải vậy không
ba?
Ba tôi cười và xoa đầu tôi: Con gái, tụi bạn ở
trường con sai rồi. Cô giáo cũng vậy: Ông già Noel là có
thật. Ông có hình và luôn trao quà cho những đứa trẻ
ngoan.
Tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm: Con biết là ba sẽ nói
như vậy mà.
Chờ tôi uống
sạch ly nước mía, ba tôi tằng hắng: Ba sẽ kể cho con nghe về ông
già Noel. Ba nghĩ con chẳng nên dây dưa với đám bạn kém
hiểu biết và cộ giáo của con làm gì. Con sẽ giữ niềm
tin của con trong lòng.
Tôi nhìn vào
ba tôi, thấy ánh mắt của ông sáng ấm áp. Tôi biết ông
không bao giờ nói dối, và tôi sẵn sàng hoàn toàn tin tưởng
nơi ông.
Ba tôi lại hắng giọng.
- Ở phương Tây vào mùa đông, có một ông tiên thường
đi khắp nơi. Đi tới đâu ông cũng tặng quà cho những đứa
trẻ ngoan mà ông cảm thấy chúng xứng đáng được thưởng.
Sau nầy, con đọc trong sách sẽ tìm thấy ông tiên ấy có
ở nhiều vùng đất khác nhau, có nhiều tên gọi khác nhau.
Nhưng điểm chung của ông tiên Noel nầy là tinh thần của yêu
thương vô điều kiện, là sự có mặt của ông chỉ
là mong muốn mọi người hãy chia sẻ yêu thương bằng cách
tặng cho nhau những món quà xuất phát từ tấm lòng. Còn khi
con người có một sự háo thắng nào đó, họ muốn nổi
bật, và họ sẽ nói là không có ông già Noel thật sự,
cũng không có ai là tiên sẽ đến nhà mình vào đêm
Giáng Sinh. Nhưng mà cũng chẳng có sao, vì nếu con tin rằng có
thì cuộc đời thật và linh hồn thật của vị tiên này
sống mãi trong lòng trẻ con, thậm chí trong lòng ba, mẹ, các anh
chị. Cũng như trong tâm trí của tất cả con người sống và
tin vào niềm vui, vào những món quà tốt đẹp mà chúng
ta sẽ cho tặng đi đến một người khác. Theo ba thì thật sự
có ông già Noel, ông ở trong điều con tin, chứ không phải ở
trong sự giáo điều của những người không muốn ông ấy
tồn tại. Một khi con hiểu và chấp nhận điều này, con sẽ
thấy những người không tin có ông già Noel thật tội nghiệp,
vì cuộc sống của họ không có những điều lý thú
và kỳ diệu".
Khi đó, tôi
còn khá nhỏ. Tôi chưa hiểu nhiều về những lời dông dài
của ba tôi. Nhưng tôi đoan chắc với ba tôi thì ông già Noel
là có thật. Đó luôn là một ông già tây Phương,
cao lớn và mập mạp, ông mặc bộ đồ đỏ, đi xe nai, và
đến từng nhà, đặt quà vào cây thông giáng sinh treo đèn
lấp lánh.
Bây giờ thì ba tôi
đang bước vào giai đoạn suy yếu của tuổi già. Mỗi khi tôi
ít về, ông sẽ gọi điện để nhắc. Khi tôi chăm sóc
ông, ông vui vẻ và rạng rỡ, và khi tôi về, ông sẽ cố
nín khóc.
Ba tôi bây giờ dễ
khóc lắm. Và trong đôi mắt ông, tôi luôn thấy có đôi
mắt bao dung hiền từ của ông già Noel. Ông chính là ông già
Noel thiên thần của tôi. Là người sau một ngày đi làm mệt
nhoài về vẫn ráng ngồi trang trí cây thông giáng sinh cho các
con, là người cùng mẹ tôi đi lựa từng món quà đặc
biệt mà các con ước ao được có trong ngày lễ Giáng
Sinh. Là người sẵn sàng bớt ăn nhịn mặc để chúng tôi
có thể no đủ trong nhiều năm bao cấp khó khăn. Là người
thợ, dù không có kỹ năng. Vẫn chắt chiu ráp cho từng người
trong nhà cái xe đạp, vá lại đôi dép cũ, giỏ đi chợ,
rổ nhựa, và nhiều thứ linh tinh khác cho cả nhà trong suốt cuộc
đời mình.
Bạn ơi, bây giờ
thì Giáng sinh đã trở thành một lễ tiệc chung cho tất cả
mọi người. Còn ông già Noel dịch vụ thì chạy
nhộn nhịp đầy đường.
Thậm chí còn có cả cô tiên Noel váy ngắn chân dài nữa
cơ. Nhưng mà sẽ ra sao, nếu như có
một ngày xưa đó, Giáng sinh chỉ thuộc
về một nhóm người đặc biệt. và ông già Noel chỉ
là một nhân vật cổ tích trong thế giới tưởng tượng.
Vì thế, mỗi ngày tôi còn sống
với ba tôi, tôi sẽ luôn chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với mọi người.
Vì luôn có một ông già Noel đang sống trong tâm hồn tôi
như từng sống trong tâm hồn của ba tôi. Trách nhiệm của cha con
tôi là sẽ muốn thấy ông già Noel sống mãi.
Để thực hiện được điều đó, tôi
luôn để tình yêu dành cho ông già Noel ở trong tim, vì không
cần đi đâu xa, cha tôi chính là ông già Noel tuyệt vời
nhất trong đời mà tôi có.
Viết khi cha bắt đầu có dấu hiệu bệnh trở lại.
Giáng sinh 2013
Huỳnh Minh Bích Nga
Dã quỳ, chiến tranh và thời bình
Ảnh: Duy Trân
Để tặng cho ba của con.
Con
nhớ, đó là năm 1969, trường cho nghỉ lễ Giáng
Sinh. Ba lại chở mẹ và các con về Bảo Lộc, nơi có ông
bà ngoại, gia đình cậu ba, cậu tư, dì út.
Mẹ đi chơi cùng cậu bảy, về kể: Trại lính
đằng kia, có bụi hoa vàng ngộ lắm, vừa giống cúc vừa giống
hướng dương.
Bà ngoại nghe thế
bèn bảo nhổ mang về vườn nhà mình trồng. Tính bà ngoại
muốn là được. Vì bà ngoại, ông ngoại đã làm
một mảnh vườn trước sân để ngoại trồng hoa, gần như
rất nhiều loại hoa như cúc giấy, thược dược, hồng đều
đâm chồi kết nụ nơi đây, mà giống là nhờ con rể thứ năm, tức ba của con đi các nơi mua, xin, cứ
có dịp chở vợ con về Bảo Lộc là mang về cho má vợ.
Nhưng bụi hoa ấy, đang được dăm trồng
trong giao thông hào một trại lính quân đội. Không phải muốn
vào nhổ là nhổ.
Cậu ba khi ấy
đang làm công tác quân sự, nhưng thực chất là dân sự
ghi chép cho lực lượng dân quân tự vệ của khu vực. Từng
khoe có quen biết và được kính nể nhiều. Nhưng cậu ba không
quan tâm đến cái sự muốn của bà ngoại.
Mẹ bứt rứt, cậu ảy cũng không biết làm sao.
Ba thấy vậy đi một vòng, mà ba lúc nào cũng mặc đồ
dân sự thôi, sau đó ba xách về một bụi hoa có nguyên rễ nằm trong bao cát. Mẹ vui lắm.
Rồi ba, mẹ, cậu bảy đào hố, trồng cái cây
hoa ấy bên rào. Ba cũng tâm tư vì không biết cây hoa ấy
hoa gì.
Ba và mẹ cùng cậu bảy, các con đi về. Cây
hoa vàng ấy nghe nói không sống, vì bà ngoại không thích
cái mùi hăng hắc của hoa. Bà ngoại chê hôi.
Sau đó, ba gặp lại cây hoa ấy ở Đà
Lạt. Hình như là loài hoa mọc hoang.
Sau đó rất lâu, lâu lắm. Hình như là năm 1978 ba mới
có dịp quay lại Đà Lạt, để thấy vườn hoa bị cuốc
lên trồng rau, còn loài hoa ấy mọc hoang khắp nơi.
Rồi ba quay lại Bảo Lộc, thấy người dân trồng
loài hoa ấy thành hàng rào quanh nhà thay cho hàng rào hoa bụp.
Vừa đẹp vừa lợi, vì tiện làm thức ăn cho bò, làm
phân xanh.. ba về nghiên cứu tìm hiểu.
Sau đó, có dịp đến Bảo Lộc, ba lại tìm cách
thu hoạch hạt hoa, nhánh cây già. Ba tìm mọi cách để cây
hoa dại xứ lạnh nầy có thể phát triển những nơi có khí
hậu nóng...Thậm chí đã viết một báo cáo khoa học về
sự hữu ích của nó trong việc phủ xanh đất, phụ trợ chăn
nuôi... Nhưng vào thời ấy, người ta thích viết về rau muống
có giá trị dinh dưỡng như thịt bò, hạt mít còn dồi
dào chất bột hơn khoai tây.. .Ba còn băn khoăn: Cây hoa ấy có
họ hoa Quỳ, nhưng đến xứ Việt từ khi nào, ai mang về. Nó
có tên hay không..
Con nhớ, ba đã
cười rất vui khi năm 1989, con đi Đà Lạt, chụp những đồi
hoa ngập tràn hoa vàng, chỉ để về trao hình cho ba, thêm một
dòng thông tin: Người địa phương gọi nó là Dã Quỳ
ba à. Tức là hoa quỳ dại..
Rồi
ba càng vui hơn khi đi tới đâu trong phương Nam, cũng thấy loài
hoa dại xứ lạnh ấy mọc tốt, nở hoa, bén rễ, sinh sôi.
Như đầu năm con
đưa ba về bến sông xưa, để thấy trong vườn cũ của
ông nội có một bụi Dã Quỳ vàng rực. Cái bụi cây
mà ba đã ươm cành từ chậu đất trong nhà, rồi lo mọ
gói gém để đưa về trồng thử trong vườn nhà nội.
Hình như ba có duyên với hoa màu vàng:
Dã Quỳ, Muồng Hoàng Yến, Phượng vàng..
Và bao nhiêu loài cây hoa nữa, ba đã âm thầm
ươm suốt cuộc đời mình trước khi xuôi tay trở về với
đất.
Cho đất phủ mầm xanh.
Cho con nhìn hoa rồi lại nhớ ba.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
_______________________________________________________________________________________________
Câu chuyện nhỏ về tờ rơi.
Thường thường,
khi về nhà dọn đẹp, giặt giũ cho ba mình, mình hay móc trong
túi áo, túi quần, túi xách của cụ những tờ rơi. Những
tờ rơi nhỏ được gấp đôi, tờ lớn gấp tư. Chung quanh
cái ghế ngồi đọc báo, ba mình luôn để những tờ rơi
quảng cáo theo xếp, rất ngay ngắn.
Không
chỉ ở ngã tư, mà ở trước các cổng trường, những
tờ rơi tràn ngập.
Rồi mỗi
ngày. Trước các cửa nhà cũng hay thấy dắt tờ rơi, quảng
cáo gaz, gạo, điện tử và muôn ngàn thứ ba nhăn bà nhằn
khác.
Mình có một người
bạn, bạn ấy luôn dừng xe lại nhận tờ rơi, hay mua những tờ
vé số cuối cùng cho người già, hay những tờ báo, lồng
đèn... cho các bạn sinh viên bán để gây quỹ..
Người bạn ấy không giàu, nhưng cứ vài
tuần, anh lại đi gom những cuốn sách, âm thầm chở đến vùng
xa. Hình như anh và những người bạn đang xây dựng những tủ
sách nông thôn, nơi có nhiều người dân khát khao văn hóa
đọc.
Trong những cuốn sách anh mang
đi đó, đa phần là những câu chuyện cổ tích, truyện
học làm người, làm nghề...
Còn
về những tờ rơi, anh thiệt thà: Lấy cho em nó, tụi nhỏ phát
mau hết và về sớm.
Còn mình,
có những sáng thứ bảy hay chủ nhật, có hai anh em nhà siêu
quậy vẫn chạy đến. Chúng đến chỉ để bỏ vào sân
nhà mình những tờ giấy quảng cáo được thu gom trên con
đường đi chơi của hai anh em. Vì thay vì để những tờ
giấy ấy theo gió bay lăn lóc, hay chèn nhẹt ướt mưa, khô
quắt trong nắng...Chúng gom lại và sau đó bà xã mình sẽ
gom lại một lần nữa, bỏ vào một thùng giấy bé xíu..
Cái thùng giấy đó sẽ theo chai lọ,
các thứ bỏ đi có thể tái chế vào sọt của chị ve
chai. Tiền thu lại dành mua kẹo phát cho hai anh em nhà siêu và các
siêu quậy khác. Hai anh em nhà siêu xem ra tự hào lắm. Chúng còn
khoe là khi ra đường đi cùng ba mẹ, luôn nhao nhao đón lấy
những tờ rơi bỏ vào túi vào cặp. Còn xin các anh chị
phát tờ rơi xanh đỏ tím vàng trước cổng trường để
mang về nhà. Sau đó hớn hở chờ ngày nghỉ mang đến bỏ
vào sân nhà ông bà.
Hà
hà, có khi sáng thức dậy, thấy sân trong nhà mình tràn ngập
giấy quảng cáo..
Ừa, thì cứ
đơn giản nghỉ rằng:
Nếu chúng
ta sau khi nhận tờ rơi ngoài đường chúng ta không thờ ơ vò
nát và ném xuống đường. Chúng ta mang về nhà, hay mang đến
một thùng rác tái chế và bỏ vào trong đó. Chúng ta
sẽ ít nhất là giúp được hai người: Người một
là cái bạn đi phát tờ rơi, bạn ấy sẽ không phải len
giữa dòng xe, hít bụi khói nắng nực để phát để mời,
mà sẽ được về sớm..
Người
hai là những công nhân vệ sinh, họ không phải mệt mỏi đi
quét, nhất là quét những mảnh rác giấy nát vụn, dính
đầy đường lộ của hàng ngàn vệt xe chạy qua.
Còn cái nầy có thể là niềm vui,
có thể rất nhỏ nhoi: bạn bỏ vào sọt hay bị của người
lượm ve chai một xấp tờ rơi sạch. Còn hơn
là để những mảnh rác giấy ấy lẫn lộn, vụn nát trong
khói bụi, nước thải trên hè phố. Để cái vòng quay
của những tờ giấy ấy có thể sống đời tái chế thêm
một lần.
Cho mỗi ngày chúng ta thêm một nụ cười
vui.
Cho những đứa con đang còn cha mẹ..
Nếu một ngày, cha mẹ bạn có ăn uống rơi vãi, nếu
có khó khăn khi nhai nuốt, thì cứ hãy kiên nhẫn. Hãy nhớ
lại quảng thời gian cha mẹ bạn đã kiên trì pha từng bình
sữa trong đêm, bón từng muỗng bột cho bạn mỗi ngày mỗi
bữa....
Nếu như cha mẹ bạn cứ
kể đi kể lại một câu chuyện không đầu không đuôi
hàng chục lần, đừng chán nản ngắt lời họ. Hãy tập
kiên trì lắng nghe. Vì bạn có nhớ không, khi bạn còn nhỏ,
bạn từng nói không ngừng, hỏi không ngừng, hiếu động từ
sáng đến tối..
Nếu như cha
mẹ bạn không còn năng động tắm rửa, đừng bịt mủi
chê hôi thúi, mà hãy dịu dàng khuyến khích, thậm chí
dụ khị để tắm cho họ. Vì không dưng mà có người
xưa có câu: Chổ ướt mẹ nằm, chổ ráo con lăn.
Nếu thấy cha mẹ bạn cứ mù mờ về
những kỹ thuật mới, như điện thoại di động, internet, xin đừng
vội cười chê họ là lạc hậu, mà hãy cùng họ cùng
chơi cùng vọc, giúp họ có thêm thời gian để tìm hiểu
được chút ít. Quay về ngày xưa đi, nếu không có cha
mẹ cầm tay chỉ dẫn, giúp ta biết thêm bao điều về cách
sống, cách làm người hay, và cả cách đương đầu
với những khó khăn hay vấp ngã trong cuộc sống.
Nếu càng
ngày cha mẹ bạn càng hay quên, thậm chí không thể theo kịp
các cuộc trò chuyện gia đình, hãy cùng họ ngồi ôn lại,
cho họ đủ thời gian, không gian cần thiết, để hồi nhớ ....
Còn nếu như đầu óc người già vẫn không thể nhớ
nổi, xin đừng lên giọng hay sẵn giọng với họ, bởi vì điều
quan trọng nhất đối với những đứa con có hiếu chính là
còn được ở bên cha mẹ có thể cùng mẹ cha trò chuyện.
Khi đôi chân, đôi tay của cha mẹ bạn
trở nên yếu ớt, không cho phép họ di chuyển hay cầm nắm vững
như trước nữa... Hãy quanh quẩn bên họ, nhớ lại ngày xưa
chính cha mẹ đã từng nắm chặt tay bạn và dìu bạn đi
những bước chập chững đầu tiên.
Sẽ đến một
ngày, bạn thức dậy và thấy rằng mẹ cha không còn sống
bên ta nữa, xin đừng buồn khổ. Vì bạn đã hiểu: Ở một
độ tuổi nào đó, người già không thực sự sống
nữa, quan trọng họ đã cùng sống với chúng ta trong suốt cuộc
đời chỉ có gắn kết và yêu thương.
Còn bây giờ, bạn không cần phải thấy buồn
rầu, than tiếc hay bất lực trước tuổi già của cha mẹ, thậm
chí về bịnh trạng của họ. Thực tế, người già chỉ
cần các con hãy ở bên cạnh, không cần con cái phải hiểu
rằng họ đã sống và làm việc, để cho con của họ có
được những điều hưởng tốt nhất từ khi đón con chào
đời..
Hãy dìu họ bước đi như họ đã dìu
ta, hãy đỡ đần họ cho đến phút cuối bằng tình yêu
và sự kiên nhẫn. Có lẽ không đấng sinh thành nào lại
cấm thấy ấm lòng bằng mỗi ngày mắt ra là lại thấy nụ
cười và tình yêu của con.
Cha mẹ luôn ở bên con, và luôn mong các con khỏe mạnh sống
mãi với mình...
Viết cho ba và
cho con. Con nhớ ba.
Huỳnh Minh Bích Nga
______________________________________________________________________________________________
Cái điện
thoại của con không còn rung nữa
Từ ngày ba mất
Nó lặng câm
Danh bạ không còn
hiện lên hàng chữ
Ba+gia đình
Con đã và đang
cố tập quen trong cuộc sống của mình
Không có bàn tay ba to
và ấm,
Bàn chân to vững chãi.
Và dáng ba ngồi khoan
dung chậm rãi
Với một niềm vui
Chờ con gái về để
tỉ mỉ cắt móng chân tay.
Trong 79 năm của ba.
Chỉ có
một lần.
Ba cho phép con được tắm và kỳ lưng
Đó
là khi ba bệnh
Còn lại thì ba luôn cố làm một mình
Dù ba bị viêm khớp
Tháng cuối cùng.
Ngày nào
con cũng pha nước ấm
Đỡ ba dậy lau mình
Ba tuần đầu
còn lim dim khoan khoái
Nhưng tuần sau cùng thì chỉ bảo khẽ
Nhẹ thôi con,
Da ba mỏng lắm rồi.
Con đã miết những
ngón tay trên làn da của ba
Những đốt xương hằn lên
thật rõ
Đâu là ba của con
Người đàn ông từng
ham mê thể thao.
Danh thủ bóng chuyền
Mà bạn bè gọi
vui là anh Bảo Đại
Sống vô tư và chưa biết hại ai bao
giờ.
Mẹ nói ba ngu ngơ
Chị và em con nói ba là ông
già gàn dở
Sống chỉ chật đất
Còn con thì tin vào
những điều rất thật.
Ba là ba của con
Là người tốt
nhất của cuộc đời
Con đã tiễn ba đi đến ga cuối
cuộc đời
Trong cuộc hành trình buồn nhiều hơn vui
Ba chưa
bao giờ nghỉ mình sẽ chết
Cũng như con hay nói: Rồi ba sẽ
khỏe lại thôi
Trong căn nhà cũ xưa
Con không muốn quay
về nữa
Không còn bóng dáng ba rồi.
Dù con có đi
tìm hụt hơi
Ba ơi.
Huỳnh Minh Bích
Nga
Ba và cá hú kho tộ.
Quen con gái ba nhiều năm, mới phát
hiện ra nhà vợ không thích ăn cá, trừ cá chim biển, cá
thu, cá lóc, cá chạch.. nhưng mà cũng giới hạn lắm. cá
thu kho khóm, cá chim biển chiên lạc dầm nước mắm, cá lóc
nấu canh chua, cá chạch chiên dòn..Vậy thôi, làm món khác
không ăn. Riêng con gái ba ăn được các món cá khác,
nhưng không mạnh miệng lắm. Chỉ ăn xã giao vậy thôi.
Sau nầy, mấy lần đưa ba đi ăn cơm,
mới biết ba rất thích ăn cá, những món cá đồng cá
quê theo phong vị miền Tây. Nhưng mẹ không thích làm, không thích
ăn, các con ( trừ bà xã con) ai cũng ăn cá sợ mắc xương,
sợ tanh... Nên ba chìu theo ý gia đình.
Đi ăn với ba, cứ canh chua cá hú, cá hú kho tộ. Các
loại cái như rô, phi, chép ba cũng thích, nhưng ba sợ mắc xương.
Còn rể của ba thì kết thêm cá he chiên lạc, cá điêu
hồng nấu mẳng.
Ba đã cười
rất vui khi nghe con gái ba khoe: Rể ba vào bếp làm các món cá
được lắm.
Rồi thỉnh thoảng,
hai đứa ghé ngang nhà, mua cái gì đó cho ba ăn cơm ngon miệng
hơn. Rồi thủ thì thủ thỉ: Ba thèm gì không, tụi con nấu.
Bao nhiêu lần, ba nói: Thèm cá hú
kho, vì cá đó mềm ít xương. Kho rục nhưng thịt cá
không nát, hơi mặn mặn ba ăn được cơm.
Ba thèm mà không dám đòi mẹ nấu. Vì cả
nhà không ai thích ăn cá.
Rể
của ba nghe ba nói thèm là đi chợ ngay. Mua con cá hú về, rửa
sạch cắt khoanh. Rồi hành tím lột vỏ, bằm nhuyễn.
Ướp cá với một muỗng nhỏ hành tím
băm, chút nước mắm ngon, tiêu xay, rồi một muỗng nhỏ đường,
để cá thấm gia vị khoảng 15 phút.
Vì có vợ ăn nữa nên có thêm thịt ba rọi thái
mỏng, cũng ướp chút tiêu, rồi hạt nêm.
Bắc cái tộ
lên bếp, đề lửa riu, cho dầu vào phi thơm hành tím, cho thêm
một muỗng nhỏ đường, một chút dầu ăn, đợi đường
tan, nước trong tộ chuyển màu vàng thì cho thịt ba rọi vô, dùng
đũa đảo đều.
Thịt hơi
chín thì cho cá vô, dùng đũa lật trở mặt cho cá săn
lại, chế một chút nước sôi vào, tiếp tục để lửa
liu riu kho đến khi thịt và cá thấm gia vị, nước sệt hơi
kẹo lại là được.
Tắt
bếp, rắc thêm ớt và tiêu.
Lấy
riêng đầu và đuôi ra, phần nầy của rể, thêm thịt ba
rọi cho vợ, còn phần thân để nguyên trong tộ. Hai đứa lấy
giấy báo gói kín, rồi chở nhau mang sang qua cho ba, để ba ăn trưa
cho nóng.
Cho đến giờ, hai đứa
vẫn nhớ cái cảnh ba hớn hở ngồi vào bàn ăn, dùng đũa
gắp miếng cá ăn với cơm. Rồi khen cá mềm, rồi nói: Răng
ba giờ yếu quá.
Nhớ con gái ngồi
canh ba, cẩn thận gỡ từng miếng xương.
Rồi ba nói ba thích ăn cái đuôi, da nhiều. Thực ra,
ba sợ các con tốn kém, vì ba biết cá bán khúc mình mắc
hơn..
Cũng lâu lắm, rể của ba
không vào bếp. Thèm thì ra tiệm, mua hai hộp cơm hai đứa trệu
trạo cho xong. Dĩ nhiên, cá ở tiệm cũng có chổ dở chổ ngon,
nhưng mà ăn cho qua ngày qua tháng.
Có
đi mua cá hú về kho hay nấu canh, bật bếp lên lại nhớ ba. Nhớ
quay quắt như ai bóp nghẹn trong ngực..
Cái
tộ nhiều tháng nay nằm im, bụi bám mờ trong tủ chạn.
DUY TRÂN
__________________________________________________________________________________
BA VÀ CHUYẾN ĐI SAU CÙNG
Con xin gọi là chuyến đi sau cùng.
Vì chuyến cuối, ba đã đi vào tháng ba năm nay.
Em Sơn về nói: Ba tính đi Đồng Tháp
thăm thầy Ký. Có xe, có các bạn của ba.
Ba vấn an Thầy giáo cũ
Con lo lắm, lúc rày ba đang bị chứng tiểu không kiểm soát,
đi lại thì yếu. .. Ba thường nằm nghỉ trên ghế hơn là
đi lại làm công việc lắt nhắt cho cả nhà.
Nhưng con không dám cản ba. Được ra khỏi nhà,
được gặp bạn bè, được gặp những người thương
yêu và trân trọng ba là ba vui.
Con
về nhà, ba đang soạn tờ báo, trong đó có bài viết để
mang xuống tặng thầy Ký. Ba nói con yên tâm, các bạn ba sẽ
lo cho ba. Có chú gì đó lái xe đến rước ba. Rồi ba soạn
thêm cái móc khóa. Ba nói sẽ tặng riêng cho chú ấy. Nhìn
ba đang vui, con không dám nói gì, chỉ lo ba đi đường xa mệt,
ai sẽ đỡ ba lên xuống xe, ai lo ba đi vệ sinh..
Nhưng lo là lo vậy thôi, vì ba nhìn
con và cười: Ba lo cho ba được mà, con yên tâm đi.
Thật lòng, con chỉ muốn đi với ba, để
kềm sát ba. Nhưng mà xe chật, các chú thương ba, lo xe để
ba đi.
Các chú trên xe ai cũng già,
bạn già với nhau, thương nhau, con nghỉ vậy và an tâm.
Ba ( thứ tư, từ trái)và các bạn
Tối
đó con về, sau khi biết ba sẽ mặc cái áo nào, con nhắn em Sơn
bỏ cái danh thiếp con và Trân vào túi áo ba. Bỏ lén thôi,
vì ba biết sẽ buồn, ba sẽ nói: Ba còn khỏe mà, lo cho ba quá
vậy. Ba đâu phải con nít.
Hôm trước, em Lâm mắng ba là đồ con nít. Tụi
con giận và không muốn về nhà..
Con
cũng muốn thưa với mấy chú: Xin mấy chú lo cho ba của con.
Nhưng mà con không dám, con sợ phiền
các chú.
Sáng, em Sơn qua tiễn
ba đi. Ba rất vui và hân hoan.
Sau đó,
em Sơn phát hiện hai cái danh thiếp ba con nhét lại dưới gối.
Thì ra sáng mặc áo, ba rà lại túi và thấy, ba bỏ ra vì
nghỉ đơn giản: Cái nầy ba không cần, vì trong điện thoại
em Sơn đưa cho ba, đã có đủ số điện thoại của các
con.
Một ngày ba đi, có ba đứa
con thấp thỏm. Trân trong tình trạng báo động đỏ, hể nghe
có gì là phóng lên xe xuống ĐT liền. Dù ba có nói:
Ba mang theo đủ thuốc: Huyết áp, tiểu đường, khớp, cả
thuốc bổ nữa ..
Chiều, em Sơn về
báo: Ba về rồi ạ. Ba khỏe và ba vui.
Tối, con điện thoại cho ba, ba nói ba khỏe, mấy bạn ba lo
cho ba rất ân cần, Thầy Ký khỏe, vui lắm và vẫn nhận ra ba và
các bạn khác..
Con có hứa, sẽ
vào dịp nào đó. Con Trân và ba sẽ đi Đồng Tháp,
đi Cần Thơ, đi cả Ban Mê Thuột, chỉ cần ba uống thuốc đều,
và ba khỏe.
Ba hứa: Ba sẽ ráng
sống thật khỏe để đi chơi với tụi con. Đi Lào, đi Cam
Pu Chia. Thăm lại những nơi xưa..
Rồi
ba đột ngột đi xa, xa mãi trong vòng tay con và em Sơn.
Hôm nọ, nhìn lại bức hình chụp của
chú Ta Trung, để thấy tóc ba xám thưa, lưng ba cong cong. Cái lưng
cong cong ấy, con phải kê gối cao để ba nằm cho thật dễ chịu. Đề
xoa xoa khi ba mỏi, và cái mái tóc xám thưa bồng bềnh ấy,
ba đã nói với Trân: hay là cạo trọc cho ba, để khỏi phải
cắt. ba bệnh sợ khó gội đầu, sợ sẽ ngứa.
Trân đã an ủi: Tóc ba quăn dợn sóng
đẹp lắm, cắt chi uổng ba..
Trân
là một người không tin vào phật, trời. Nhưng lo cho ba, Trân cạo
đầu, nguyện mong ba sẽ mãi mạnh khỏe.
Trân cạo đầu lần thứ ba thì ba mất.
Buổi trưa đó, hai cha con còn nắm tay nhau, như tin tưởng
truyền hơi sức cho nhau , để ai cũng sẽ khỏe hơn. Để ngày
đẹp trời cha con lại chở nhau đi chơi. Ba hay nói: Trân chạy kỹ,
nhưng hay bấm còi quá, nghe ồn quá.. Nhưng mà ba thương Trân
lắm.
Con kính cám ơn chú Ta Trung
đã gởi những bức ảnh nầy cho con. Nhưng bức ảnh thân thương
cuối cùng về ba của con.
Về người
cha mà con luôn yêu kính.
Một
cây đại thụ đã nghiêng bóng về trời.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
_____________________________________________________________________________
CÂY NÁ
CỦA BA
Trong cái tủ chứa đầy đồ mà nhà
cho là "bỏ đi" của ba. Cái tủ bị chuột chui vào làm
ổ vì nằm khuất trong hóc do bên ngoài chất ngập đồ siêu
thị của mẹ và gái lớn. Cái tủ mà trong khi ba chập chờn
nữa tỉnh nữa mê, con đã xin mẹ và các chị em cho Trân
đưa về nhà để dọn dẹp.
Trong
cái tủ ấy, ngoài những mẩu gổ. Thú vui sưu tập yêu thích
của ba, chiếc máy ảnh con tặng ba. Thư và thiệp của ba và những
người bạn già, một số hình ảnh.. Thì con thấy có chiếc
ná.
Chiếc ná thun nâu bóng, phần
dây thun đã mục và bị chuột cắn nham nhở. Cái ná của
ba mà con thấy từ hồi nhà ta ở Biên Hòa. Những ngày nghỉ,
ba ngồi ở hàng lang nhà rộng, với những viên sỏi nhỏ, ba bắn
những cú chính xác hạ từng con chuột, những con chuột cả gan
dám đến cắn và ăn những quả trứng gà trong chuồng gà
của mẹ, đào hang quanh những gốc cây ba trồng quanh sân..
Chiếc
ná ấy, theo hành trang của ba đi từ Biên Hòa lên Thủ Đức,
rồi Ban Mê Thuột, về lại Sài Gòn. Bao lần ba đã thay dây
cho nó, và bắn nó một cách khéo léo.
Bao giờ chiếc
ná ấy cũng ở một chổ dễ thấy nhất trong nhà. Để ba
có thể cầm ngay lên để bảo vệ gia đình mình. Những
năm hỗn quân hỗn quan, trộm cắp như rươi, những vụ cướp
vào nhà giết người ban ngày... Ba đêm nằm ngủ cạnh chiếc
ná, bên cạnh là những viên bi sắt, loại bi lớn hơn bi trong ổ
trục xe đạp, thường có trong xe hơi và những lon sơn xịt hiếm
hoi. Ba ngủ trong tư thế sẵn sàng nhả đạn chính xác. Vì
nhà mình bị cắt rào không chỉ một lần, bị rình mò
không biết mấy lần.. Mà những kẻ rình mò trộm cắp ấy,
thường là những thằng trai vô công rổi nghề mới lớn, cứ
tối ngày lân la đến xin tiền xin ăn bằng cái giọng nịnh
hót bà ngoại con, tức má vợ của ba.
Ngoài bắn chuột, và ba cũng không dấu chuyện ba sẽ
bắn vào chân, vai, tay.. của những kẻ cứ ngày đến bằng
cửa sau, phỉnh phờ bà ngoại của các con ba. Thì đêm đến
để rình bắt gà, tính dắt xe, khều chôm quần áo.. Ba nói
ba sẽ bắn rất chính xác, và đó không hề là lời
cảnh báo. Vì ba phải hành động tự vệ nhằm bảo vệ
cho gia đình. Và mặc kệ cho bà ngoại có giận, có chưởi,
vì sáng ra là phải đi lấy rượu thuốc để bóp cho một
"thằng con cháu" chân đi khập khễnh, mà nó than van là
tối qua bị xe đạp tông..
Cái
ná và những viên bi, viên sỏi của ba. Như chính ba, quyết liệt
bảo vệ gia đình..Nên con không ngạc nhiên vì giữa cái
thời loạn thế ấy, nhà mình không hề bị mất cắp. Chỉ
bị mất lặt vặt liên tu khi một gã trai đến gọi bà ngoại
con bằng cô, và mỗi ngày ghé qua "ăn cơm với cô" để
tiện vơ vào túi dăm bảy món.
Chính ba đã trưa đi về, gặp gã trai ấy và bảo:"
Tôi biết ai lấy cắp những món đồ trong nhà, đừng để
tôi phải dương ná bắn anh.."
Rồi ba bảo với mẹ và
bà ngoại:"Những vụ cướp gần đây toàn là người
thân. Chính những người thân xưng là cháu quen, đến những
nhà ít người, mà đa số là người già và trẻ
con, chúng đã không ngại siết cổ, đập đầu những người
thân luôn mở rộng cửa cưu mang.."
Mẹ và ngoại sợ, vì ba nói quá đúng. Hơn nữa
những vật mất cắp có cả đồ của mẹ và ngoại..
Gã trai đó không được phép đến nữa, nhưng sau đó
ngoại bỗng dưng lấy dao băm nát những sợi dây thun, đúng
ra là những sợ dây roan lót trong niền xe đạp, mà ba thường
treo để dành, dùng thay dây cho cái ná của ba.
Có một
lần xa xưa, ba có kể với con. Ngày ba còn nhỏ, đâu có
đồ chơi như bây giờ. Ông Nội dọn vườn bao giờ cũng
chú ý đánh đấu những nhánh cây. Rồi một bữa, ông
nội vào và chìa cho ba một cái nhánh hai chặt từ cây ổi
già. Ba có đồ chơi là chiếc ná.
Chiếc ná ấy, ba tập bắn vào buổi trưa vắng người,
bắn trái cây từ trên cao. Bắn trái ô môi, bắn trái mít
cho bà nội: Bịch là chin, cốc là già. Để bà nội nhờ
người leo hái..
Nhưng ba thích nhất là bắn chuột, những
con chuột trên đọt dừa ven sông. Cứ thấy chúng là ba bắn.
Bà nội thích lắm, vì bà trồng dừa để giữ đất.
Trái dừa khô thì rụng và bà xách vô nhà, tàu dừa
làm củi.. Những con chuột quậy phá khiến dừa non bị khoét và
rụng sớm, nhờ có ba mà lũ chuột bớt hung hăng. Còn những
con chó thì no nê thịt chuột nướng..
Chiếc ná tuổi thơ đó của ba, những
năm tám mươi con vẫn thấy còn, nằm đâu đó trong tủ
trên lầu của ba mẹ, gỗ màu vàng và rất bóng. Cái ná
ấy tay cầm khá dài, rất cứng. Em Sơn từng thử dương và
nhăn mặt: Cứng quá..
Còn cây
ná nầy do ba làm sau nầy, nhỏ hơn. Do ba tự tìm gỗ, tự tìm
dây để sự dụng cho vừa tay hơn, và gọn hơn. Cây ná
lợi hại của ba, ngoài bắn lũ chuột cho mẹ, bảo vệ gia đình.
Thì trong những chuyến đi vào rừng, ba dùng để bắn lá,
bắn hoa, bắn trái .. những loại cây rừng tán cao, hoặc mọc chênh
vênh, để xem, quan sát, ép và lưu trữ như một vật mẫu.
Con cầm cái ná ấy lên, có
một hàng chữ ba ghi: 1959.
Đó là năm sinh của cái ná
ấy..
Bích Nga
_______________________________________________________________________________
VIẾT CHO BIN CỦA CÔ BA
Đêm qua, SuBin ôm cô ba và hỏi: vậy là 49
ngày của ông nội. vậy là ông nội đã mọc ra hai cái
cánh và hóa thành thiên thần rồi phải không cô ba. Vậy
là ông nội đã ở trên trời và sẽ luôn phù hộ
con, nhìn ngắm con và nghe mọi lời nguyện cầu của con..
Viết
cho Bin của cô ba,
Ông nội mất khi con học lớp 3, con đã
đủ lớn để nghe+nhìn+nhớ về ông nội. Bữa chiều tối
hôm ấy, con đã chứng kiến cảnh ông nội mất, rồi trưa
hôm sau, con lại chứng kiến cảnh người ta đua ông nội vào
quan tài. Con đã không sợ, con rất bình tĩnh.
Con cũng còn
quá nhỏ để hiểu về chia cắt, biệt ly.
Khi con sinh ra, ông nội
đã rất vui, ông nói lớn đi uống cà phê với ông, đi
thảo cầm viên với ông. Khi ông đi xin cho con vào trường mẫu
giáo, nơi ba con từng theo học. Ông cũng đã nói: Chiều ông
sẽ đi đón cháu của ông về.
Nhưng con chưa thể đi
cà phê với ông, chỉ một lần đi Thảo Cầm Viên, mà
khi đó con còn nhỏ quá để cảm nhận hết. Còn khi con qua
nhà thường xuyên hơn thì ông cũng yếu nhiều. Sức khỏe
ông không cho phép để ông chơi với con, giữ con, trò chuyện
nhiều với con. Chân ông cũng yếu nên không thể đưa đón
con đi học..
Với con, ông nội là một người đàn ông
hiền từ, hay ngồi trên cái ghế bố trong vùng ánh sáng tối,
ông lúc nào cũng lim dim ngủ.
Như thế lại hay, vì con sẽ
không quá nhiều quyến luyến với ông, để khi ông mất rồi,
con sẽ không buồn và sầu thảm như ba mẹ con và cô ba.
Thứ
sáu vừa qua, qua nhà cô ba chơi. Khi bộ phim hoạt hình con yêu thích
bị lổi, tuy Không ai dạy, nhưng con tự nói con biết cách rồi.
Rồi con ngồi chắp tay, cầu nguyện với ông nội: Ông nội ơi,
ông về phù hộ cho con. Cho bộ phim nầy không bị hư.
Con đã nói một cách thực lòng, hồn
nhiên ngây thơ.
Như con tin tưởng vào quyền năng của ông
tiên, như cô ba luôn hy vọng ông nội sẽ sống trong những ký
ức đẹp trong veo của con.
Không như mọi sự trí trá, thủ
đoạn, giả tạo của vài người lớn trong nhà khác.
Cô
ba còn hy vọng, con sẽ lớn lên, kế thừa sự thông minh, tài hoa
của ba con, sắc đẹp và khéo léo của mẹ con, và lòng
bao dung nhân từ của ông nội.
Để làm một người tốt.
Cô ba chỉ cần con như vậy thôi.
Ông chủ tiệm bán đồ
chơi tương lai của cô ba.
Còn
ký ức về ông, con vừa kể: Con nhớ rồi. ông nội có nói
với con. Khi con lớn, con sẽ đi vào rừng với ông, để ông
kể cho con nghe về câu chuyện của những loài cây. Nhưng mà ông
còn nói với con. Khi đó, con phải đi chậm thôi. Vì ông
chắc đã già lắm rồi. Ông phải chống gậy và đi chậm.
Nhớ khi mẹ Mai sinh con ra, cô ba gọi điện
báo tin, ông nội rất vui. Ông đã đến ngay bệnh viện để
thăm cháu của ông. Khi ông vừa vào đến cửa, các y tá+
bác sỹ đều nói" nhìn là biết ngay" và chỉ ông
lên phòng.
Trong nhà, ba con giống ông
nội nhất, còn con thì giống hệt ba con.
Huỳnh Minh Bích Nga
Sài Gòn
_____________________________________________________________________________
NHÀ VẮNG...
Có một ngôi nhà mà gia đình tôi
không định gắn bó. Đó là căn nhà nhỏ mà ba mẹ
tôi mua vào năm 74, chỉ là tạm định cư khi từ BMT về Sài
Gòn.
Nhưng chiến cuộc, rồi nhiều
ngẫu nhiên của cuộc sống đã khiến gia đình tôi sống
trọn trong ngôi nhà ấy cho đến ngày cha tôi mất đi.
Tôi đã sống một phần tuổi thơ,
rồi những thăng trầm thời sự, hạnh phúc của ba mẹ tôi, của
chúng tôi trong căn nhà nầy.
Để
cả nhà có thể sống an bình trong căn nhà nầy, ba tôi đã
lặng thinh nhìn con gái lớn ôm tủ sách, mà trong đó toàn
là sách truyện khoa học, giáo dục, văn học của gia đình
đi ra phường. Để ngồi dịch từng dòng thư, làm những
tờ đơn khác nhau..., Cho thỏa ý mẹ vợ muốn ôm mộng ra nước
ngoài. Để nơi trời xa ấy, bà có thể tha hồ được
quý ông hôn tay và ngã nón gọi bà là Madam.. Để vợ
kiên quyết gom đến đồng tiền cuối cùng giao cho một gã ất
ơ, với hy vọng gã sẽ đóng tàu đưa cả nhà sang đất
hứa một cách trang trọng nhất. Để được cái có thể
ấy, ông đã chấp nhận mất riêng rất nhiều thứ..
Hơn mười năm trước, ông đã
nhanh chóng chuyển tên chủ quyền nhà sang cho con trai lớn, để trở
thành kẻ ở trọ trong gia đình..
Trong
căn nhà ông từng ở, tôi biết có một cánh cửa mà
ông luôn mở tên là trái tim. Còn với vài chủ sở hữu
trong căn nhà đó, có những ngăn vách được đóng
kín mà họ không muốn ai bên ngoài nhìn thấy.
Cái đó được tôi gọi thẳng tên
là Lương Tâm.
Vì với họ:
Lương tâm không có răng, nên nó không biết cắn.
Sống rất gần với căn nhà có cánh
cửa mở của ba tôi, Nên ngôi nhà từng có cha nầy cứ luôn
đi theo tôi. Hiện hữu quá rõ, nên có lúc vài kẻ bên
ngoài xấu miệng đã dè bỉu: Ai cũng có mẹ có cha, nó
làm như mình nó có..
Nhưng
mà, cũng có rất nhiều bạn bè thân hữu của tôi đều
nói: Từ trong sâu thẳm tâm hồn mỗi con người chúng ta đều
có một ngôi nhà bình an và hạnh phúc. Không ai trong chúng
ta sẽ quên những gì chúng đã từng được có được
trong ngôi nhà ấy.
Hôm nay, bước
ra ngoài chúng ta làm được một việc có ý nghĩa. Cảm
nhận được chút niềm vui thầm lặng, và chúng ta cảm thấy
an tâm, hạnh phúc. Vui chân sáo bay về nhà..Chúng ta sẽ trở
về và sống trong ngôi nhà có trả tim mở cửa với niềm
hạnh phúc thuần khiết không gì sánh được.
Từ
sau khi kết hôn, tôi vẫn luôn tìm mọi cách quay về căn nhà
có ba tôi, căn nhà gắn với tôi bằng máu thịt. Tôi cũng
đã ký, nhẹ như không khi từ chối mọi quyền sở hữu
của mình với tài vật trong nhà.
Còn với cha tôi, tôi đã ký một hiệp ước bằng
cái ngoéo tay. Vì tôi thấy: Ba tôi là ngôi nhà cổ tích
với muôn ngàn câu chuyện ông sẽ kể với tôi. Tỉ như
cái chuyện tôi không biết để mở cửa cho ngôi nhà luôn
ngập tràn tình yêu, ông đã xây bằng chất liệu gì
nhưng quá bền vững và không chút rêu phong đổi theo thời
gian. Rồi cho dù muốn hay không, ông chỉ muốn tôi vẫn sẽ sống
vui trong ngôi nhà gia đình- dù tôi đã có ngôi nhà riêng
cho mình.
Rồi những khi những người
trong nhà chung mắc lỗi, làm những việc sai quấy, tôi muốn rời
bỏ đi ngôi nhà của gia đình, nhưng rồi cũng lại vì
cha mà tôi quay trở lại. dù biết là không thể. Vì cha, vì
cánh cửa trái tim vị tha, từ trong tâm khảm, tôi luôn cố điều
chỉnh thái độ sống của mình. Để có thề đi rong mà
còn nhớ về nhà..
Nhưng mà,
bây giờ thì, xin cảm ơn ngôi nhà có trái tim mở cửa tâm
của ba. Nhờ có ngôi nhà lạc quan ấy mà con luôn biết tự
nhìn nhận và tìm lại thấy được những suy nghĩ sống
tích cực, làm những điều mang lại hạnh phúc cho mình và
người khác. Trái tim ấy đã khép. Chỉ còn lại những
ngăn vách ố mốc rêu phong. Con nhẹ lòng khép lại phía sau dĩ
vãng về những người sống trong căn nhà ấy. Để sống
trong căn nhà của mình với những câu chuyện nhẹ như sương
khói của ba..
CÁI ĐIỆN THOẠI
KHÔNG CÒN RUNG NỮA...
Lần đi
chơi nầy, như lần đi chơi trước. Điện thoại của con gái
không rung.
Trong danh bạ của con gái
có chữ A+ba. Đó là số đầu tiên. Khi con gái bấm số
đó, bên kia sẽ là tiếng đáp của ba.
Nếu con gái đi chơi, việc đầu tiên là qua
chào ba, nói rõ lộ trình, ngày đi và về. Nhắc ba giữ
sức khỏe, ăn uống( thuốc) đầy đủ. Từ ngày đó,
điện thoại của con gái sẽ rung, ba sẽ gọi - thăm hỏi, nhắc
nhở. Và trong ngày cuối cùng, trừ khi con gái báo tin là đã
về tới nhà thì ba sẽ gọi và thăm hỏi miệt mài. Bao giờ
cũng mở đầu là: Ba khỏe, con đi tới đâu rồi.
Ba & 1 bạn già ở quán cà phêỞ Đà Lạt bốn ngày, hai ngày đầu
mưa lớn. Nghe nói là Sài Gòn cũng mưa rất to. Nếu như ba
còn, điện thoại con gái sẽ rung, vì ba sẽ lo lắng, ba sợ con
gái mắc mưa rồi cảm. Sợ đường lầy, mưa lụt, xe chết
máy, sợ sét đánh, đường trơn trợt, sợ đủ thứ...
Những người bạn già ở quán cà
phê quen, nơi ba hôm nào khỏe sẽ ra, sẽ thân thiết càm ràm:
Anh tính lo cho tụi nhỏ suốt đời sao. Còn ba thì cười buồn:
Biết làm sao được, con cái là núm ruột của tôi mà..
Ba thương em Sơn Huỳnh đi làm cực
khổ, thương con dâu bé Mai vì đã sinh ra cho ba cháu nội là
Su Bin. Thương em Lâm tình cảm long đong, thương con gái Bích, con
rể Trân. Thương Băng, thương Tố. Cái tình cảm ân cần,
không mong hồi đáp ..
Cũng
có khi ba tủi thân lắm. Ở nhà, cứ tối khuya là ba ra đếm
xe, xem các con về đủ chưa. Rồi ba lên lầu, xem các con có thiệt
là về đủ, sau đó đi ra kéo cửa, khóa cửa..Con gái
lớn, con gái út hay đi chơi khuya cuối tuần. Về rất trễ
làm ba trong ngóng. Nhưng khi các cô về, ba vừa ra mở cửa vừa
nói: Thấy các con về ba mừng quá. Ba cứ sợ cướp.. thì
con gái lớn gằn giọng quát nạt: ông muốn trù tôi hả.
Muốn tôi chết hả. Rồi bù lu bù loa..
Thưa ba, nhiều khi con gái tự hỏi: Đã bao lần ba đã
phải câm nín khi nghe hai con gái Băng và Tố tạt những gáo
nước lạnh vào sự ân cần lo toan của ba. Những câu chưởi
hổn của con trai lớn Lâm .. Rồi ba chỉ còn chút an ủi bằng cách
gọi điện thoại cho con gái giữa. Để nghe được chút đáp
lại ngọt ngào từ nơi xa nào đó.
Nhiều lần con gái nghe ba nói: Có ai bán chút dịu dàng.
Ba chỉ cần một lời ân cần. Một chữ dạ thưa. Và để
bám víu vào cái sợi dây tình cảm ấy. Ba chỉ còn biết
nhờ vào cái điện thoại, vì cái đứa con gái mà
quan tâm ba nhất lại hay đi lang thang lắm. Nó luôn thích đi xa, mà
bao giờ trong tâm nó cũng muốn tha ba đi theo. Mà ba thì già, ba không
thể lang bạt kỳ hồ như nó.
Bao giở ba gọi cho nó: Câu đầu tiên
luôn trấn an là ba khỏe, con khỏe không, đang làm gì...Có khi
chỉ gọi để nghe nó nói, vì đã một tuần nó không
ghé qua chơi với ba. Có khi chỉ là nhờ nó về cắt móng
tay móng chân cho ba. Nhờ con rể mua dùm dao cạo râu. Nhờ tụi con
về tìm giùm món đồ bị lạc, bỏ cái thư, cái bài
viết cho ba ..
Vì khi nó về, nó
sẽ ân cần lo lắng cho ba. Nó lo theo kiểu con gái, không bộc trực
như em Sơn. Dù có khi nó làm ba rối vì thích lo cho ba theo cách
của nó..
Ngày hôm sau, ngày hôm
sau nữa sau khi ba mất. Con gái cứ bấm điện thoại theo một quáng
tính. Bên kia không còn là giọng của ba.
Những lần đi xa sau đó, con gái cứ nhìn điện
thoại, cầm điện thoại, mân mê điện thoại và mong điện
thoại sẽ rung, trên màn hình là chữ A+ba.. Nhưng điện thoại
cứ lặng câm..
Mãi mãi cái
số điện thoại con gái muốn sẽ không còn rung nữa. mãi
mãi con gái sẽ không nghe được cái giọng ân cần đầy
thương yêu, chở che của ba.
Cũng
như không thể về nhà, để thấy dáng ba chậm rãi đi
ra. Hay chạy xộc vào nắm tay ba đang ngồi ngủ thiu thiu trên ghế. Háo
hức nói: Con về rồi nè ba..
Hai
cô con gái kia, những lần đi chơi đêm về muộn, chắc hẳn
sẽ khoan khoái vì không còn bị một ông cha già vô dụng
làm phiền, làm bực vì những câu hỏi không đâu: Sao về
khuya quá vậy con. Mai mốt đi thì đi taxi cho an toàn. Ba không còn
tiền nhiều, nhưng các con cứ cầm tiền của ba đi taxi cho ba an tâm..
Hai cô con gái
ấy không còn dịp để cong cớn: Ông có tiền thì đưa
ngay đây, già rồi còn sống hoài chi cho chật đất..
Chỉ còn con, Trân, em Sơn, Mai là nhớ
tới ba. Nhớ bàn tay ba to và ấm, cái giọng nói nhỏ và nhẹ
nhàn. Cái dáng người to đã còng đi theo năm tháng.
Và trong cuốn sổ tay ba để trong túi là những trang ghi: cách sử
dụng điện thoại đi động, số của Bích Nga, số của Trân,
số của Sơn..
Để gọi cho con
gái Bích khi đi xa chừng hai giờ một lần, chỉ để nghe tiếng
con gái, chỉ để được quan tâm và chăm sóc.
Chỉ để được thể hiện tình yêu
thương dành cho các con.
Huỳnh Minh Bích
Nga
_________________________________________________________________
NHỮNG CÁI CHẠM
Ngày đó, chúng tôi thường trở về từ căn nhà
xưa, nơi cha vợ tôi đang ở. Cha vợ tôi đang bắt đầu có
triệu chứng Alzheimer's - một dạng của bệnh đãng trí. Ông hay
nói đi nói lại về những câu chuyện xưa. Nhưng cứ mỗi
lần đến thăm ông, chúng tôi luôn cảm thấy được
có nhiều ánh màu đẹp trong những câu chuyện của ông, thay
vì cái màu rêu phong cũ kỹ..
Thường khi qua, chúng tôi hay gặp ông ngồi trên chiếc ghế
xếp xem báo, nhưng sau nầy, ông giành hầu hết thời gian của mình
để nhắm mắt nhớ lại ngày xưa, những ngày tươi đẹp
nhất của ông. Buổi tối, ông sẽ chậm rãi tiến về giường,
nằm chắp tay lên bụng và đọc lẩm nhầm những bài học
ngày thơ trong sách Quốc văn giáo khoa thư:
Chúng tôi vẫn như còn nghe văng vẵng giọng đọc
của ông:
Xuân đi học coi
người hớn hở,
gặp cậu
Thu đi ở giữa đàng,
hỏi
rằng sao đã vội vàng,
trống
chưa nghe đánh đến tràng làm chi?
Trong nhà, không ai quan tâm đến ông. Và coi những
câu chuyện của ông là tầm phào lải nhải..
Chỉ có chúng tôi, mà gia đình cho là
tại chúng tôi ở xa, không phải ngày nào cũng ở chung để
chịu đựng ông.
Có một
điều mà tôi vẫn nhớ cho đến giờ, là khi chúng tôi
đi ra cửa, chuẩn bị về thì vợ tôi hay lại gần tôi. Như
mọi lần, với thái độ hơi nhỏng nhẽo, cô ấy thì thầm
bảo tôi: Anh vào hôn ba đi. Rồi cô ấy đứng đối mặt
tôi, với cái nhìn đầy hớn hở như của một đứa
trẻ được nuông chìu khi đang chờ đợi một yêu cầu.
Tôi thì, vốn không phải là kẻ giỏi
dang diễn tả tình cảm. Tôi chỉ nắm tay ba vợ, thì thầm vào
tai ông: Ba ráng giữ sức khỏe, tụi con về ba nghen.. Vợ tôi có
ép lắm, thì tôi cũng chỉ hôn phớt nhẹ lên mái tóc
xám thưa của ông. Vuốt vai và vỗ vào tay ông..
Những ngày ba vợ tôi yếu hơn, chúng tôi
về thường xuyên hơn. Khi vào đến nhà. Vợ tôi hớn hở
như trẻ con, cô ấy nắm tay cha, vuốt tóc, lăng xa lăng xăng. Còn
cha vợ thì chỉ mở mắt ra, dịu dàng tận hưởng mọi sự
chăm lo của con gái.
Chúng tôi
cưới nhau từ năm 1991, từ đó đến nay. Cho dù ở trong nhà
hay ngoài đường, tại công sở.. Chúng tôi vẫn luôn đưa
mắt tìm nhau, chu mỏ ám hiệu với nhau, và phải tìm mọi cách
để đi ngang và chạm nhau. Dù chỉ là một cái phủi vai,
một cái nắm tay..
Còn bây
giờ, vợ tôi đang đòi tôi phải san sẽ một thứ mà nhiều
chàng rể khó thể dành cho ba vợ.
Cô ấy luôn nói: "Anh có thể ôm, hôn ba em được
không?".
Tôi đã cảm
thấy ngại ngùng về chuyện bày tỏ tình cảm này.
Buổi trưa cuối cùng, vợ tôi gọi tôi
sang nhà. Để cầm về vài món đồ giặt cho cha vợ. Tôi
đi đến giường nơi ông nằm, thì thầm chúc ông mau khỏe
thì ông đã quơ tay nắm chặt tay tôi.
Có thể khi đó, ông đã muốn nắm tay rất
chặt để truyền hết tình cảm yêu thương mà ông luôn
dành cho tôi, cũng như con gái ông.
Nếu như biết rằng đó là cái nắm tay cuối cùng
thì có lẽ tôi đã ở lại, đã cùng vợ tôi sống
với ông đến phút giây cuối cùng.
Cha vợ tôi đã sống, một cuộc
sống nồng nàn chan chứa, ông sống bằng tất cả tình cảm
dành cho những người xung quanh ông. Vậy mà, tôi đã từng
ngại ngần khi muốn hôn ông, dù đó có thể là một
nụ hôn phớt lên má. Một nụ hôn ấm áp hạnh phúc
vì đã cho cha vợ tôi cái thứ mà ông rất cần.
Vì sau khi chúng tôi về, trong căn nhà đó,
cha vợ tôi lại cô đơn một mình trong cái thế giới bóng
chiều của ông.
Có khi nào bạn nghĩ, người thân của bạn sẽ rất
xúc động về những gì bạn trao cho họ: Một cái ôm siết
ấm áp, một nụ hôn dịu dàng, một cảm giác khi da thịt
chạm vào nhau.
Cái chạm ấy
sẽ làm mọi con tim reo vui.
Trong
sách vở, chúng ta đều được nghe về sự quan trọng của
những cái chạm đối với sức khỏe, về cuộc sống.
Về những đứa trẻ bị bỏ rơi, bị
ngược đãi, vì không thường được quan tâm - cũng
như bồng ẵm. Về những không phát triển tốt về thể chất,
tinh thần, cảm xúc, và dẫn tới sự bạc ác sau nầy.
Cũng như thay vì để động vật thay con
cái xóa đi cảm giác cô đơn của những người già.
Chúng ta hãy làm cho người già bớt cô đơn bằng những
hành động âu yếm, chạm mình của chúng ta, thay vì chó
mèo và các con vật nuôi khác...
Hãy luôn nghĩ rằng: Những cái chạm rất quan trọng
đối với thể chất, tinh thần, cảm xúc của những người
trong nhà với nhau. Tôi, vợ tôi, ba vợ tôi -chúng tôi đã
chạm vào tâm hồn nhau, nhưng bằng cách nào thì tôi không
thể diễn tả được.
Nếu
bạn muốn con người yêu thương nhau, chúng ta đừng để cái
điện thoại hay màn hình vi tính làm thay nghĩa vụ đó.
Hãy có những buổi gặp mặt và tạo ra những cái chạm đơn
giản. Đó là một cái vỗ vai, cái khoác vai, bắt tay. .. Và
hãy tìm mọi cách tạo ra những cái chạm vô tình, để
làm cho đối phương cảm thấy thân thiết với bạn.
Một cái chạm như lời nói, ánh mắt.
Một cái chạm có sức mạnh diệu kỳ, mang con người lại gần
nhau hơn. Đó là cảm giác chạm cho bạn và tôi cảm thấy
an toàn, ấm áp, làm mở cửa mọi trái tim, để cùng cho
và nhận.
Tôi đã chần
chừ cho một nụ hôn, đã bỏ qua cho một cái ôm.
Bây giờ thì không còn cách nào để
ôm hôn ba vợ tôi nữa. Như ôm những người thân đã
xa khuất của tôi..
DUY TRÂN
(Rể PTG
Huỳnh Minh Bảo)
_______________________________________________________________
Cha con và
những chuyến đi
Ở nhà
nói con đeo ba nhất. Ừ thì cũng được.
Con giống ba ở chỗ khéo tay, biết vẽ vời chút
đỉnh, sống tình cảm và ham chụp ảnh.
Công việc khiến ba đi nhiều, đi lang thang khắp nơi.
Ở những nơi xa, gặp một cảnh đẹp. Một con suối, một món
ăn ngon...Ba lại mong: Phải chi, có các con ở đây cùng vui.
Con biết nhận thức điều nầy từ khi gia đình
ta ở Biên Hòa, con bắt đầu vào mẫu giáo.
Trong cái ga-ra xe của nhà ta, ba dành dụm mua lại
từ một ông cha xứ chiếc xe con cóc nhỏ xíu. Ngày đó,
xe hơi là hàng hiếm, máy ảnh cũng là hàng hiếm.
Nhờ có cô năm làm hãng phim, cô Hai
xin được những đoạn phim dư, rồi cuộn vào lõi cho ba. Ba cứ
thế lắp cuộn phim ấy vào, dù không biết sẽ bấm được
bao nhiêu tấm. Cứ thứ bảy, chủ nhật, ba đưa vợ con ( một vợ
và ba con gái) lên xe và đi. Ba chở vợ con đi khắp nơi, chụp
ảnh cho gia đình..
Sau đó, vì
thấy cái xe con cóc ấy bé quá, bất tiện. Ba đã dám
đặt mua chiếc xe La Đà Lạt, loại xe thể thao nhập về Sài
Gòn đầu tiên lô đầu tiên, cái xe ấy có khung sắt,
mái bạt xếp phía sau, khi cần thì gắn lên, giữ lại bằng
chốt ..
Nhà mình dọn về Thủ Đức. Thứ 7, Chủ nhật đi Sài Gòn
gần hơn. Một lần đi chơi về, gặp cơn mưa, dù che bạt kín
nhưng mưa vẫn tạt, cả nhà ướt mem, lạnh run. Ba chuyến ấy
về xót xa lắm. Thế là ba mang cái xe đi may bạt, đóng mui..
Con nhớ, khi mang cái xe về, ba cười rất vui:
Phen nầy, mưa đừng hòng làm ướt các con của ba nữa.
Ba
đã lái cái xe ấy trong suốt thời kỳ hạnh phúc của gia
đình mình. Biên Hòa, Thủ Đức, Vũng Tàu. Và BanmêThuột..
Trước khi lên BanmêThuột, ba đã đều
đều lái xe chở mẹ và ba con gái về Bảo Lộc, để mẹ
vui trong việc về thăm ông bà ngoại. Con đường Thủ Đức+
Bảo Lộc là con đường quen của ba, dù ngày đó đường
còn nhỏ và xấu. Ngoài xe đò và xe hàng thì gần như
không có loại xe nào khác. Trên xe, phía sau là bình nước
đá, phía trước là gối, xôi, cơm. Ba cứ ngồi và miệt
mài lái xe. Xe chỉ dừng ở Định Quán để các con chạy
nhảy tung tăng, còn ba thì nghỉ ngơi đôi chút.
Rồi vì công việc, ba phải lên vùng đất mà ai cũng ngán
với biệt danh Buồn Muôn Thuở, Bụi Mù Trời... Ba đi vì ba muốn
bình an. Sài Gòn bon chen, ghanh đua. Ba không hợp với cách sống
ấy. Ba chọn cuộc sống mà thiên hạ cho là bị lưu đày.
Nhưng xa danh lợi, xa hại nhau để cầu vinh. Và ba cũng muốn thử
thách. Ba lên nhiều tháng, sau những đắn đo, ba quyết định
đưa mẹ và các con lên để sum họp..
Con nhớ, trong những lá thư ba viết gởi về, lời
thư chứa chan sự mong nhớ. Nhớ mẹ và nhớ tha thiết các cô
con gái của ba.
Chần chừ, nhưng
rồi mẹ cũng phải đưa các con lên theo ba.
Tại cái nơi xứ rừng xứ thượng ấy ( lời
của mẹ), ba đứa con gái của ba không quen phong thổ nên bệnh lăn
lóc. Những ngày đầu tiên trong căn nhà chưa kịp sửa sang,
mưa gió quật tứ bề. Con thấy ba buồn lắm, dằn vặt lắm.
Rồi nhanh chóng, nhà được sửa, được
xây lại. Ba lao vào công việc, ngày nào cũng theo xe lặn lội
trong rừng. Ba chỉ về nhà khi chiều tối, từ đầu đến chân
phủ kín bụi đỏ. Nhưng ba vui vì có đủ vật chất cho
gia đình.
Có những ngày
chủ nhật, ba luôn muốn bù đắp cho gia đình. Ba lái xe đưa
gia đình đi chơi khắp nơi. Chụp ảnh cho cả nhà.
Hình như con đã nghiện những chuyến đi
từ đó, con thích được theo ba lên xe, đi rong ruổi khắp nơi
đây đó. Dù nhiệm vụ của con luôn là ở trên xe để
giữ xe, cho mẹ+ bà ngoại, các chị em lớn bé đi xuống lễ
chùa, xã giao, viếng cảnh..
Chính
vì thế, ba con mình mới có dịp ngồi trên xe chỉ chỏ phong cảnh
với nhau. Ba giải thích cho con về những địa danh. Con gái thu thập
kiến thức từ ba ngay từ còn nhỏ xíu..
Có thể ba không biết, con đã mê được
đi như ba chính từ những ngày xa xưa đó..
Năm 1974, ba chính thức đưa được gia đình về SG, sống
trong căn nhà riêng của mình. Đó là ý nguyện của mẹ,
mẹ không muốn cứ rày đây mai đó nữa. Nhà mình lúc
đó đông người, ngoài ba mẹ, 5 đứa tụi con. Còn bà
ngoại và cậu bảy..
Ba còn
chở gia đình đi nhiều nữa. bây giờ là Sài Gòn+Cần
Thơ. Vì mẹ thích về để mang gạo, thịt, rau lên thành phố.
Nếu Sài Gòn+Bảo Lộc là đường đèo nắng gió,
thì Sài Gòn + Cần Thơ là nắng nóng, là phà, là cầu,
là bắc... Nhưng mẹ muốn là ba sắp xếp để lái xe đi..
Cho tới ngày, tụi con ngậm ngùi nhìn người
ta đến mua chiếc xe La Đà Lạt đó. Không còn xăng cho xe chạy
nữa, lốp xe cũng mòn. Và có lệnh là tư nhân không được
sở hữu xe hơi. Chiếc xe ấy, cả nhà thương nó lắm. Nó
gần như là chiếc xe thồ của gia đình. Các con gái của
ba dán đầy băng keo màu lên khắp xe để trang trí. Mẹ gọi
nó là chiếc xe híp pi..
Ba vẫn
chở các con đi, bằng chiếc xe đạp. Thành phố mọi người
đi xe đạp, ba lại gò lưng đạp xe, yên sau là các con của
ba..
Cho tới giờ, con vẫn nhớ cái dáng
lưng của ba. Cái dáng chăm chú của ba khi lái xe. Ba lái xe rất
cẩn thận. Không chỉ lái, ba còn trò chuyện, giảng giải mọi
thắc mắc của các con. Ba còn ra những câu đố, kể những
câu chuyện để các con quên mệt đường xa.
Cũng vì mẹ, ba đã lái xe đưa
cả nhà từ BanmêThuột ra Nha Trang, trên con đường chưa ai dám
đi, trừ xe quân đội. Gia đình đã theo ba đi một chuyến
xe dài nhất, dài từ sáng đến chiều. Phía sau vẫn là
cái bình đá, phía trước là bánh mì, xôi. Cảnh
quan bên đường là cát, đá núi cây. Con ngủ rồi dậy,
ba vẫn miệt mài lái xe, mắt nhìn thẳng về phía trước.
Bây giờ, có ai trong nhà còn nhớ và
biết hỏi: Động lực nào để ba lái xe miệt mài, gần
như không biết mệt để đưa gia đình nhỏ của ba đi
khắp nơi. Để con có thể trả lời: Đó là tình thương
yêu, ba không nói bằng lời, ba chỉ làm tất cả cho mẹ và
các con có được niềm vui.
MỘT
CÁCH SỐNG CỦA BA
Sống đẹp, là những câu nói mà bạn
bè của ba khi trân trọng nói về ba.
Còn với con, ba là một
tấm gương muôn đời con yêu kính.
Trước khi ba yếu một
tuần, chú Trần Bá Xử, một bạn đồng học thời niên
thiếu của ba đã ghé thăm. Ba và chú đã ôn lại một
kỷ niệm xưa. Cái kỷ niệm ấy ba đã từng kể với con,
một câu chuyện về tình bạn, mà phía sau là một bài
học về nhân cách sống.
Ba kể, sau khi tốt nghiệp đại học.
Theo luật ba phải ra trình diện để khoác áo nhà binh.
Mà thời ấy,
không phải ai cũng mong đi lính.
Có sự đồng thuận của
trường, ba âm thầm nhận giấy bổ nhiệm công việc tại một
vùng xa, một nơi trong tỉnh Đồng Nai bây giờ. Tại nhiệm sở,
ba âm thầm làm việc với hy vọng mình sẽ ổn định, để
về làm đám cưới với mẹ. Để đưa mẹ về với
ba.
Nơi nhiệm sở mới cũng không muốn mất ba. Họ vờ như
không nhận được thư báo về chuyện ba phải gia nhập quân
ngũ. Bưu điện ngày đó còn đơn sơ, Cần Thơ+ Sài
Gòn+Bảo Lộc+ Đồng Nai.. Quá nhiều trạm để công điện
thư đi tin lại. Nhưng khi ba đi đăng ký kết hôn thì bị
phát hiện. Thế là, ba phải ra Thủ Đức.
Là một quân
nhân chỉnh chu, ba vẫn báo cáo chuyện ba sẽ đám cưới vào
ngày mấy tháng mấy. Cấp trên đơn vị chuẩn y. Nhưng gần
sát ngày cưới, thiệp đã phát mà chủ rể vẫn chưa
thể rời doanh trại. Ba lo lắm..
Còn ba ngày nữa là đám cưới,
ruột ba nóng như thiêu đốt. Vẫn chưa có công lệnh cho ba
ra, mà lại có lệnh cấm trại toàn thể.
Buổi trưa xế
đó, ba buồn hiu đi vòng quanh cổng. Thì có tiếng máy xe vespa
rù rù. Ba thấy một bạn xưa, bạn thời trung học Cần Thơ-
Trung úy Trần Bá Xử.
Chú Xử thấy ba liền hỏi: Sao còn ở đây
bồ. Ba phân trần việc chưa có công lệnh. Chú Xử cười
và nói: Để mình vô hỏi thăm.
Cũng như ba, chú Xử
là một sỹ quan học thức, phong cách làm việc nhu nhã, nên
rất được giới sỹ quan quý trọng. Chú Xử vào một lát
rồi ra, nói với ba: Xong. Ngay sau đó, ba có ngay công lệnh.
Khi ba lên đến
Bảo Lộc bằng chuyến xe chiều. Mọi người đều mừng rỡ.
Và sáng hôm sau, chú rể tóc nhà binh sánh vai cùng cô dâu..
Ba luôn nói, nếu
không có chú Xử, sẽ có một đám cưới không có
chủ rể. Một người bạn đồng học vô tình xuất hiện,
và đã làm một việc tưởng như rất nhỏ, nhưng làm
ba ghi nhớ suốt đời.
Và ba đã mang theo cái bài học đầy tình
người ấy để làm phương châm sống: Sống là phải
có đức có tâm. Nếu có quyền thì hãy mang cái quyền
ấy ra giúp người. Và phải vô vụ lợi.
Một trong những
bài học ấy, con đã chứng kiến.
Hơn hai năm sau biến cố
1975, một người Hoa đến gặp ba. Ba hơi ngỡ ngàng, còn người
Hoa nầy một hai gọi ba là ông ty, và nhắc lại một cái ơn
xưa.
Đó là năm 1967. Ba được bổ nhiệm làm trưởng
ty Biên Hòa. Ngày nhận nhiệm sở, người phó ty vào – hý
hửng báo cáo: Tôi vừa bắt được một xe gỗ lậu. Chủ
hàng là một tay người Hoa, coi như quà mừng cho ông ty.
Ba không ngạc nhiên,
người Hoa lúc ấy thường không rành pháp luật, lại hay bị
xem là một đối tượng giàu có nên rất dễ bị bắt
chẹt. Ôn hòa đi ra, ba thấy một xì thẩu mặt xanh như tàu
lá, đang đứng ngồi không yên bên xe gỗ. Ba nói mời ông
vào văn phòng ngồi và vui lòng cho ba xem giấy tờ.
Sau khi xem, ba kín
đáo mời ông phó ty vào phòng trao đổi. Cái lý ba đưa
rất nhẹ nhàng: Theo luật, xe gỗ nầy là hợp pháp. Không nên
làm khó người ta. Ông phó ty ngạc nhiên vì theo luật cũng
đúng, nhưng lách luật cũng chả sai. Mà tại sao, ông trưởng
ty mới nhận nhiệm sở nầy lại không ra oai.
Sau khi nghe ba giải
thích cặn kẽ, người phó ty vẫn còn ngơ ngác, nhưng cũng
nói: Thôi, tùy ông ty xử lý.
Ba đi ra, ông xì thẩu vẫn
đang run. Ba chỉ nói: Bây giờ tối rồi, về Sài Gòn đường
không mấy an ninh. Ông đi tìm nhà trọ nghỉ qua đêm, sáng
mai nhận giấy phép để đi nhé.
Ông xì thẩu gần như
quỳ mọp xuống, ba chỉ vỗ vai ông cười: Xe gỗ ông hợp pháp
mà. Tại cấp dưới của tôi sơ xuất.
Ba ở Biên Hòa
ba năm, người phó ty sau đó cũng hiểu về cách làm việc
của ba. Cả ty thuận hòa, vì làm người tốt bao giờ sống
cũng cảm thấy vui vẽ.
Còn ông xì thẩu người Hoa kia, dù ba không
nhớ, nhưng ông ấy vẫn nhớ đến ba. Nhưng ba từ Biên Hòa
thuyên chuyển sang Thủ Đức. Rồi BuônMêThuật, Quảng Nam, Quảng
Trị …cho đến khi ba về Sài Gòn.
Quá nhiều biến cố,
nhưng người Hoa kia vẫn tìm được ba, chỉ để nói câu
cám ơn. Vì ngày đó, chiến tranh, xôi đậu.. Ông rất
dễ bị rơi vào vòng xoáy bên nầy bên kia. Và có thể
bị thủ tiêu mất xác..
Còn ba, ba luôn nhớ vào buổi trưa
chiều ở doanh trại xa xưa đó, một người bạn đồng niên,
trung úy Trần Bá Xử đã vô tình xuất hiện. Và nghĩa
cử hào hiệp của người bạn đó đã luôn là ánh
lửa ấm trong trái tim của ba. Để ba sống tốt đẹp hơn.
Con viết bài nầy, để tặng chú Trần Bá Xử.
Từ Mỹ, chú
về Sài Gòn thăm ba, định rủ ba đi Cần Thơ thăm trường
cũ bạn xưa. Chú còn lạc quan là sau khi quay lại sẽ thấy ba khỏe
lại ba và chú
sẽ đi uống cà phê.
Ảnh: Chú Trần Bá Xử
Ngày chú quay lại, con cùng chú tiễn ba con đi
đến ga cuối.
Cám ơn chú, một đốm lửa cháy mãi trong
tim ba của con.
Huỳnh Minh
Bích Nga
SG
28-4-2014
_______________________________________________________
ĐƯA BA VỀ DÒNG SÔNG TUỔI THƠ
Như con đã từng viết,
những năm cuối đời. Ba của con luôn sống trong hoài niệm. Những
hồi ức của ba luôn hướng về những điều tốt đẹp
nhất trong tâm khảm..
Mà có lẽ, khoảng thời gian đẹp nhất
của ba là sinh ra và lớn lên trong căn nhà tổ của ông bà
nội. Trong sự chiều chuộng bảo ban của ông bà, và trong sự thỏa
sức vẫy vùng của con sông trước nhà..
Con sông ấy, theo lời
ba kể, ngày xưa có thể chọi đất từ bờ bên nầy sang
bên kia. Có thể thách đám bạn bơi đua, có thể ngụp
lặn đặt ống tre để dụ tôm càng xanh. Có thể.. rất
nhiều thứ..
Con sông yên bình ngày thơ ấy giờ đất lở nhiều, do
ghe máy cứ chạy ầm ầm suốt ngày đêm. Ông bà nội
thì an nghỉ từ lâu. Còn ba khi về quê như trở thành anh nông
dân thực thụ. Ba be bờ đắp đất, trồng dừa nước tránh
xói lở. Chặt tre già làm máng xối hứng nước mưa, rồi
cắm cành rau quế, tía tô, gieo hạt ớt…
Con theo ba về, nhớ cái
bến cầu trước nhà. Mà mùa nước dâng xuồng có thể
cặp vào tận hiên thềm nhà tổ. Ba đi tìm cây cau già,
cây dừa lão. Ngồi hị hụi cưa đóng lại cái thang gỗ
ngay bến ghe cho mẹ và các con đi lên đi xuống khỏi bập bênh.
Rồi ba ra tắm sông, bơi trong dòng nước nâu ngập sắc phù
sa. Lau mình bằng cái khăn rằn thân thuộc..
Bây giờ, vẫn chuyến
xe ấy, con đường ấy. Con gái ôm tro cha trong lòng đưa về
rải tại bến sông xưa. Nơi năm ngoái ba còn đứng ngắm
bờ bên kia, lo lắng chuyện người ta xây nhà máy giấy, lo lắng
nước thải sẽ làm ô nhiễm, lo lắng cho những vườn cây
ăn quả bao đời sẽ bị đốn đi. Lo hóa chất lọc giấy
sẽ lắng xuống đất, sẽ làm hỏng phần đất thịt từng
sản sinh ra bao nhiêu huê lợi mát lành..Rồi lo bên nầy đất
lở, thềm nhà sân trước ngày càng ngắn đi. Lo là
thế, nhưng sức ba kham không nổi rồi, vì ba đã yếu nhiều…
Buổi
trưa con đến, nước đang ròng. Gió sông lồng lộng mát
rượi. Con gái từng ước: Ba sẽ khỏe lại, con gái sẽ cùng
ba về thăm quê. Vì bây giờ đường lộ đã thẳng
tắp, không phải lịch kịch đò bến, thang nối chông chênh.
Con gái sẽ nắm tay ba lên xe xuống xe…
Nhưng mà, trưa hôm
nay. Con gái đến để rải tro, phần thịt xương còn lại
của ba nơi bến sông trước nhà. Để ba hòa quyện cùng
đất và nước, để ba tắm mãi trong dòng sông tuổi thơ.
Rồi lát nữa thôi, con nước lớn sẽ lên, và sẽ đưa
ba trôi đi, đi mãi..
Cho đến giờ, cái cảm giác nắm
chặt bàn tay to ấm của ba. Vòng tay ba ôm con những ngày cuối
vẫn còn đầy kín. Những giờ khắc con cùng cha vượt
qua sự truy đuổi của thần chết để cận kề thêm một ngày.
Con nhớ mãi ánh mắt ba nhìn con ngập tràn yêu thương. Và
cái ánh mắt tươi lên, vui hơn khi thấy các con buổi về đủ,
ngồi tề tựu quanh bàn ăn. Trong những ngày tháng cuối cùng,
ba vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ chết, và cho tới lúc
chết, ba vẫn tha thiết yêu gia đình.
Nếu có
một điều ước, con vẫn sẽ ước, ba mãi sống bên con, bằng
hình hài thật sự...chứ không là những vốc tro..
HỒI ỨC
ĐẸP NHẤT CỦA BA
Ngoài dòng sông tuổi thơ. Những năm cuối đời ba hay nằm và
đọc những bài học vỡ lòng trong sách Quốc văn giáo khoa
thư.
Quốc văn sơ học toàn thơ, ông nội đi lên thành
mua mang về cho các con. Bà nội không biết chữ, nhưng mỗi khi nghe
ba đọc những bài học giáo huấn trong đó, bà nội lại
mỉm cười tin tưởng.
Ảnh:
Cậu học sinh PTG Huỳnh Minh Bảo
Ba hay kể: Bà nội không
biết chữ, nhưng nhớ vanh vách. Đất vườn đất ruộng quanh
nhà do một tay bà coi sóc. Mượn công, trả công, thuê đất,
cấy gặt...luôn sòng phẳng. Những chuyện tá điền địa
chủ như trong vở cải lương Tiếng Hò Sông Hậu, hay kịch Lá Sầu Riêng là không có đâu. Tá
điền, tá thổ quanh vùng luôn kính trọng gọi bà nội là
bà Cả, không phải là bà Hương Cả uy quyền, mà là
sự nể phục.
Ảnh: Cô Ba, bác Tư,
cô Năm & Ba
Bà nội, theo trí nhớ của ba, luôn
đi chân đất. Không ăn trầu, quần áo một bộ màu nâu
đen xam xám mùi đất bùn khô cứng. Như mọi bà mẹ quê
chơn chất, bà chưa bao giờ lớn tiếng. Dù các con có ham chơi,
có nghịch phá. Chỉ có lần, bà nội gọi ba lại và răn:
Con thời may, được cho ăn học no đủ. Con không được lên
mặt, ra điều ra bộ hơn thua với con nít nhà lối xóm chung quanh.
Mà phải mang điều hay lẽ phải được học ra san sẽ với
chúng.
Nhà có
bà nội vén khéo, nên trong nhà không giàu cũng không nghèo.
Tết các con đều có manh áo mới, ba là út nên còn có
tiền bà nội cho mua pháo chuột đốt. Ba nhớ mãi những ngày
xưa thơ ấu vô tư đó.
Sau nầy chiến tranh, bà nội quyết tâm đưa
các con lên thành. Từng người con một: Cô ba, bác tư, cô
năm, rồi ba.. Cứ hai ba tháng, bà nội gom tiền bán lúa, bán
cây trái. Theo ghe lớn lên thành, ghé ngang nhà các con trọ học
để đóng tiền học. Cho ba ít bạc cắc mua xi rô đá nhận.
Ba nói miên mang: Thực ra sau ba còn hai người em nữa, nhưng vắn
số mất sớm. Bà nội sợ lắm, nên dồn tình thương vào
ba. Cậu con trai út trắng trẻo, mảnh khảnh, dễ thương.
Thương ông bà nội ở quê, ba và các cô, bác đều
cố học giỏi, xứng danh con ông bà cả.
Khi bác Tư sang Mỹ học phi công, rồi cô ba cô năm cũng lên
Sài Thành làm việc. Ba thì sau y khoa, văn khoa, ba quyết tâm lên
Blao- một vùng đất tây nguyên xa xôi học về lâm nghiệp.
Cả nhà quyết định: Chụp một tấm hình cho bà nội.
Bà Nội (ảnh thờ)
Cả cuộc đời của bà nội chỉ có hai lần chụp hình:
Một lần là vào ngày cưới, cô dâu chú rể vào tiệm
chụp hình. Lần nữa: Bà ngồi trên ghế trước sân nhà.
Tấm hình ấy, hiện là tấm hình thờ. Vì vài tháng
sau, bà nội mất. Bà mất vì lao lực. Đi ruộng về, ngồi
toan tính công thợ đâu vào đó, mượn ai trả ai..rồi
bà nội nói mệt, vô nằm.
Bà nội đi trong lặng lẽ giữa
giấc ngủ.
Sau nầy, ba đi học, kết hôn. Cuộc sống gia đình
cuốn ba đi. Hơn 40 năm sau, ba mới có dịp quay về thăm lại quê
xưa, nhà cũ. Mộ bà nội vẫn là một nấm mộ xi măng sơ
sài.
Như chính cuộc sống đơn giản của bà nội.
Huỳnh Minh Bích Nga
Tháng 3/2014
Viết cho cha của con
Trong hai năm cuối đời của cha, Cha thường
nói mệt và nằm im trong giường, hai tay để lên bụng. Niềm
vui nho nhỏ của cha là con gái đến, ngồi bên cha và líu ríu
kể chuyện. Con gái kể lan mang, nào là mới quen các bạn trẻ
trên Facebook, bạn nầy ngộ lắm, bạn kia tốt lắm... Rồi chuyện
chụp ảnh, thời sự, bạn bè… Sau đó, cha thường ngồi
dậy, xem những hình ảnh của con gái qua máy tính.
Chuyện
vui thì cha cười, chuyện buồn thì cha khóc. Sau nầy, con gái hoảng,
chỉ dám kể chuyện vui cho cha nghe thôi..
Sau khi con nói thì cha nói,
cha nói rủ rỉ, như nói với mình. Vì năm năm sau nầy, cha
hoàn toàn sống trong hồi ức của quá khứ, với những điều
tốt đẹp nhất mà cha đã từng sống:
Từ
cha, con gái đã học được rằng: Có những điều dù
cha chỉ làm trong khoảnh khắc nhưng lại cho cha ấm lòng cả đời.
Con đã học được rằng: Đã là bạn bè, dù không
làm được gì cho nhau cả, cha vẫn có thể cùng họ có
những phút giây tuyệt vời khi chơi với nhau. Vì tình bạn chân
thành sẽ mãi gắn bó với nhau cho dù địa lý có thể
khiến họ cách xa ngàn dặm.Và tình bạn đích thực là
như vậy.
Chính vì sống như vậy, ngay cả khi cha
trắng tay, cha vẫn có thể thấy mình thật giàu có để giúp
đỡ mỗi khi bạn bè cần đến. Cái sự giàu của cha là
san sẽ kiến thức.
Con cũng học được rằng: Chỉ
vì ai đó không yêu cha theo cái cách mà con gái mong muốn,
điều đó không có nghĩa là cha không yêu họ hết lòng.
Đối với một người bạn đời không tốt, với cha sẽ
chẳng có vấn đề gì - dù họ cứ hôm nay rồi mai liên
tục làm tổn thương cha, vì cha sống là luôn tha thứ cho họ
vì điều sai quấy đó.
Cha luôn nói với con
gái: Sẽ không là đủ nếu cha chỉ biết tha thứ cho người
khác. Đôi khi cha cũng cần phải học cách tha thứ cho chính bản
thân. Vì cha biết mình có toàn vẹn đâu.
Con
nhớ cha hay khuyên: Dù hai người cùng nhìn vào một vật nhưng
họ lại có thể thấy những điểm khác biệt rất lớn.
Vì thế, con đừng vội to tiếng với chồng con…
Trong cuộc
sống, Cuộc đời của cha đã từng bị đổi thay tại một
khoảnh khắc nào đó bởi một người thậm chí cha không
quen biết. Nhưng mà người ấy hiện là mẹ của con. Hãy yêu
thương chồng con như ba đã luôn yêu mẹ con.
Cha
muốn con sống như cha: Khi không vui, ta được quyền giận dỗi, thậm
chí to tiếng tranh cãi, nhưng không bao giờ được phép dùng
lời lẽ tàn bạo, cử chỉ hung ác.
Con gái
ơi, cha muốn nói với con rằng: Trên đời này, không phải
ai cũng tốt và tử tế với con, cho dù con không động chạm
đến họ. Cách tốt nhất theo cha là con đừng nên để ý
đến những kẻ muốn chứng kiến người ta gục ngã . Con hãy
sống vì những người yêu quý con.
Cha từng học được
có thể nói rằng: Để thành nhân, tức là thành người,
cha phải mất thời gian rất dài. Mà trong đó cha luôn chịu trách
nhiệm về những gì cha đã làm, dù điều đó có
làm lòng cha nát tan.
Với em trai con: Nếu em con không
làm chủ được hành vi của mình, nó sẽ điều khiển
lại tâm trí của em ấy. Nên cha bỏ qua hết.
Với chị
của con: Người trưởng thành có nhiều điều phải suy nghĩ
về nhân cách sống của bản thân, và có được những
bài học rút ra từ nhân cách sống đó, nhưng chị con chỉ
quan tâm đến việc mình đã tổ chức bao nhiêu lần sinh nhật.
Cha cũng tha thứ cho chị ấy.
Thưa cha.
Những
ngày cuối cùng con ở bên cha. Con đã học được bài
học cay nghiệt nhất: Đó là mỗi khi xa rời người mà con
thương yêu nhất, con phải luôn nói lời thương yêu chân
thành nhất, bởi có thể đó là lần cuối con gặp họ.
Vì người mà con rất quan tâm, thậm chí muốn dành cả cuộc
đời cho họ thì lại có thể rời xa con rất sớm.
Hôm
nay, con học được rằng: Bất kể con tim con có tan vỡ đến đâu,
cuộc sống ngoài kia cũng sẽ chẳng dừng lại, và vẫn vô tình
như không biết đến những níu giữ của con.
Hơn
40 năm con được sinh ra và lớn lên, được nhìn thấy gương
mặt dáng hình cha mỗi ngày, được sống những ngày gia đình
hạnh phúc, rồi chứng kiến những hỉ nộ trái ngang. Con biết cuộc
sống có rất nhiều sắc màu. Những sắc màu đó phụ
thuộc rất lớn đến tính cách, đến cách sống, đến
sự tư lợi ích kỷ trong của từng người.
Bàn tay năm
ngón, ngón ngắn ngón dài, không phải cùng cha sinh mẹ đẻ
ai cũng giống ai. Không phải ai cũng có thể nhìn thấy câu ca ru
từng nghe thuở nằm nôi: Công cha cao như núi Thái…
Huỳnh Minh Bích Nga
______________________________________________________
NHỮNG HỒI ỨC CỦA BA MÌNH
Cựu HS PTG Huỳnh Minh Bảo (1936-2014)
Khi
còn khỏe, ba mình hay kể chuyện xưa. Mình là đứa chịu
khó ngồi nghe. Hôm nay ngồi chăm ba, bèn ghi lại. Như một chút
chia sẻ.
Ba
kể: Ba sinh ra ở một vùng quê sâu, mương nước sông ngòi
chằng chịt.
Ông nội biết một chút
chữ nho, chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Nên ông ra làng làm
việc, trong làng gọi ông nội là ông hương cả.
Không như trong sách nói, làm hương chức hội
tề là ác, bóc lột tá điền. Ông nội chỉ biết ra
sức bằng vốn học ít ỏi của mình, giúp những nông dân
trong xóm trong làng xa gần bớt phần u mê, đỡ phần khốn khó.
Còn bà nội, bà lo phần ruộng vườn. Chăm
lo nhà cửa, con cái.
Khác với nhiều phụ
nữ nông thôn khác, bà nội không thích trói con cái vào
đồng ruộng. bao nhiêu tiền làm ra, bà chắt mót đưa con cái
ra thị tứ ăn học.
Cô hai học nữ hộ
sanh, cô ba học sư phạm, bác tư học phi công. Còn ba, ba yêu thiên
nhiên. Khi nghe nói trên Blao có trường đại học Nông Lâm
Mục. Ba liền thi vào, đậu ngay khoa lâm khóa 1.
SV Bảo trước cổng trường Nông Lâm Mục
"Niềm vui của ba con là Lâm Học"
Ngày đó, đang chiến tranh lộn xộn, thanh niên đến
tuổi 18 là phải đi đăng ký. Bác tư cao 1m72 nên đăng
ký vào khóa không quân, thực tế là mong rớt để còn
thi vào trường y. Nhưng bác đậu và bị “bốc” ra nước
ngoài để học lớp đào tạo phi công VNCH đầu tiên. Ba
1m7, cũng đi đăng ký và đậu hải quân, dù mục tiên
của ba là mong rớt. Sau đó, vì xét thấy có bác tư đi
trước nên ba được tạm hoãn.
Ngày tốt nghiệp Khóa 1 Kỹ Sư Lâm Nghiệp
.
Nhưng
sau khi ba tốt nghiệp đại học, thì không thể hoãn quân dịch
được nữa. Dù ba mới làm đám cưới với mẹ con.
Ba đã làm mọi cách để trì hoãn
chứ không trốn tránh, mục đích để cố lo cho gia đình.
Nhưng hơn một năm sau thì giấy dí tới tận công sở và
nhà. Thế là ba phải đi.
Sau khi theo học
lớp huấn luyện trường sỹ quan Thủ Đức, Ba bước vào chiến
trường.
Nói như thế nào, nếu như
con ở trong chiến cuộc. Con sẽ thà rằng mình không hề có trong
đó. Nên ba cố quên đi mọi hồi ức nặng nề.
Nhưng có những trận đánh ba không thể quên,
vì nó khốc liệt với ba quá.
Đó
là một trận. Ba cùng binh đoàn nhảy dù xuống một khu vực
sình lầy, đó là vùng Đầm Sen bây giờ. Trong ánh lửa
đạn mù mịt, cả đội rơi ọp xuống một bãi sình
ngập đến thắt lưng. Ba gọi đồng đội đậu lưng vào
nhau thành vòng tròn, để súng cao lên quá đầu và bắn
thành quầng lửa.
Qua ống nhòm, ba phát
hiện bên kia có hai khẩu đại liên. Ba liền lui lại, bảo truyền
tin báo tọa độ và yêu cầu chi viện pháo binh.
Đoàn
quân của ba ọp ẹp trong bùn, nhích dần vào một địa hình
khô ráo hơn. Rồi pháo bắn..
Con ạ.
Tuổi thơ của con chỉ biết tiếng đại bác qua thơ nhạc. ( đại
bác đêm đêm dội về thành phố). Còn tiếng đại
bác của chiến trường. Đó là những chùm lửa chói
lòa, nóng rực. Là không gian chung quanh rung rinh, là ép dội thắt
ngực. là đất đá khói ngạt bay tứ tung…
Sau
pháo là bom, từng chùm bom rải xuống. Kinh khủng hơn cả pháo..
Cả nhóm của ba chịu trận tới sáng, vừa
tang tảng sáng là vội tỏa ra..Chung quanh tan hoang. Hai cây đại liên
gãy gục trong bùn. Nếu sắt thép đã vậy thì con người
làm sao toàn vẹn.
Ba nhớ mãi cái không
khí ngập tràn mùi khét. Nó không như mùi khói đốt
đồng, mùi khói bếp quê nhà. Mà là mùi thịt xương
cháy khét trộn trong đất bột..Một cái mùi kinh khủng…
Trận đánh ấy, ba được khen, được
tặng anh dũng bội tinh. Nhưng mà ba không tự hào chút nào hết.
Ba chỉ biết làm hết sức, áp dụng những gì đã học
ở trường quân sự để bảo vệ lính của mình. Để
không ai chết cả...
Chiến tranh, là bên
nầy thắng thì bên kia thua. Bên ba đi đông về đủ. Còn
đối thủ, ba không biết là có bao nhiên nhân mạng đã
tan trong pháo trong bom..
Một trận khác. Khi đó
ba đã là chỉ huy mang danh không nướng lính.
Đội
của ba đi trên ba thiết giáp, phòng bị khá kỹ vì nghe nói
phát hiện bên kia đang hành quân lớn, có vết cỏ rạp, có
dấu chính quy.. sau nữa ngày hành quân an bình, đang trên đường
rút về thì phát hiện công sự. Vừa lúc ấy, có một
khẩu súng chống tăng bật từ lòng đất lên..
Chiếc thiết giáp đầu quay gấp, chúi xuống ruộng,
đạn chống tăng rớt ngay bánh xích. Khói lửa điếc tai. Ba
nghe tiếng đồng sự bên cạnh gào lên: Vọt lên- cán nó..
Chiếc xe ba đang ngồi rú lên, lao tới.. ba nghe rõ mồn một tiếng
sắt và xương vỡ vụn dưới xích xe.
Sau
đó thì ba không biết gì nữa, tiếng đại liên trên
ba xe thiết giáp khạc vô hồi kỳ trận. Tiếng lựu đạn nổ
liên tục.
Cả nhóm lính tràn lên
theo hai chiếc xe thiết giáp. Tiếng đạn, tiếng lưỡi lê đâm..
Bỏ lại chiếc xe đứt xích, ba và đồng đội rút nhanh
về đồn. Nhường trận địa lại cho pháo và bom chùm chà
đi quét lại.
Ba còn tham gia nhiều trận
khác, nhưng không ở vị trí tiền tiêu nữa. Mà ở bộ
phận thông tin, và nhiều bộ phận khác. Ba không thích chiến
tranh, vì ba chỉ mong làm một người đàn ông bình thường.
Đi làm, nuôi gia đình. Có một căn nhà nho nhỏ, và mùa
hè dắt các con đi sưu tập hoa lá cỏ cây..
Chiến
tranh với ba, có thể nói là chỉ chạm qua. Nhưng ba không mong tất
cả mọi người đang sống chạm qua cái cửa tử khốc liệt
ấy.
Một hồi ức khác.
Khi mẹ có bầu lần thứ hai. Ba lo lắm. Sau ngày cưới,
ba đã phải để lại mẹ ở nhà ông bà ngoại vì
phải gia nhập quân đội theo lệnh triệu hồi bắt buộc. bây
giờ, mẹ một mình ở với cậu-em của mẹ trong căn nhà ở
khu gia binh Hòa Hưng. Còn ba ở một nơi tiền đồn heo hút.
Chắc con khó có thể hình dung ra. Một khu đất
nơi đồi trống, chung quanh là công sự, tháp canh và hầm hố.
Tường là những bao cát gối vào xi măng, xen kẽ là lổ châu
mai.. Đồn của ba nằm giữa tầm pháo của hai bên. Đêm là
rung lên ầm ỳ.
Ngày của ba là gạo
sấy và đồ hộp, hành quân. Đêm là mặc áo giáp,
đội nón sắt và rút xuống hầm. Những bạn lính cười
ba là sỹ quan thỏ đế. Thậy kệ, ba chỉ muốn an bình và
nguyên vẹn về với mẹ và các con.
Tháng
5 năm đó, ba nhận được lệnh thiên chuyển. Cầm giấy mà
ba mừng muốn khóc. Ba chỉ muốn về ngay vì mẹ đã cận kề
ngày sanh. Nhưng ít nhất năm ngày nữa xe chuyển quân mới đến.
Còn ngay mai, sẽ có một chuyến trực thăng
Mỹ đi tuần qua.
Ba quyết tâm sẽ lên
chuyến trực thăng đó.
Buổi sáng, ba
chọn trang phục gọn nhẹ, đội mũ sắt và mặc hai áo giáp.
Khi trực thăng tới, bay quần đảo bên trên, ba ra sân và ra tín
hiệu.
Chiếc trực thăng xà xuống, nhưng
không đáp. Viên phi công đang lưỡng lự, còn ba thì tiếp
tục lập lại tín hiệu: Hãy xuống thấp và đón tôi.
Trong tiếng cánh quạt quay tít, khói bụi mù
mịt. Chiếc trực thăng chờn vờn thấp xuống, ba chạy khum ra, tay lính
mỹ da đen ngồi cạnh khẩu đại liên quờ tay, túm vai áo giáp
và lôi ba lên.
Chiếc trực thăng quay trở
lên, lao vút đi. Bây giờ ba mới lo. Tay Mỹ đen ngồi cạnh khẩu
đại liên còn có mũ và kính che mặt, ba thì không. Hắn
có khung sắt che bắn tỉa từ đất lên, còn ba ngồi trơ ra.
Về đến sân bay Biên Hòa, mặt ba rát như
bị phỏng, chân tay tê bại. Nhưng không quan trọng, ba đã về
được rất gần với vợ con.
Sau khi tạm
xong mọi thủ tục, trong đêm đó. Ba tìm cách theo xe quân đội
về Sài Gòn. Và vài ngày sau, vẫn trong trang phục nhà binh, ba
đưa mẹ đi sanh.
Sau nầy, bạn bè nói
với ba: Số ông lớn lắm. Rủi có một viên đạn súng
trường bắn lên, là ông tiêu..
Ba
là người rất yêu gia đình.
Ba nói,
không ai lựa cửa sinh cho mình. Ba lỡ sinh ra trong thời buổi loạn lạc.
Nên ba chỉ mong các con của ba sống trong an bình.
Chiến
tranh, đó là kinh khủng. ba luôn nói như thế.
Viết vào khoảng
1 tháng trước khi ba mất.
HUỲNH MINH BÍCH NGA
(Trong hồi ức đang viết: " Những hồi ức về Ba của
tôi: ÔNG HUỲNH MINH BẢO")