TL_Xmas_glitering.gif
Truyện - Thơ
Giáng Sinh
      2019
 
           Trầm Vân, đoàn xuân thu 
      2015
         Nguyên Nhung, Trần Bang Thạch           
 
________________________________________________________________________________________________________ 

  2019: _________________

 1. THƠ TRẦM VÂN

 

TV_KQ_DongdinhThanhgia.jpg

 

2. TẠP BÚT đoàn xuân thu:

 

Mùa Giáng Sinh vui!

 

Hồi xưa, quê mình tựu trường vào tháng Chín, học riết tới tháng Sáu mới bãi trường, nghỉ ‘hè' (tức ra hè mà nghỉ).  Còn Úc tựu trường vào cuối tháng Giêng; bãi trường vào cuối tháng Chạp, cũng là nghỉ ‘hè', ra biển chọc cá mập cho nó ‘phập'.

Niên học chia ra làm 4 học kỳ; cứ học 9, 10 hoặc 11 tuần là nghỉ xả hơi hai tuần, ở nhà ‘quậy'. Cuối học kỳ 4, nghỉ lâu nhứt tới 5 tuần cả thảy, để học trò ăn lễ Giáng Sinh, Merry Chrisstmas và mừng Năm mới, Happy New Year!

Mùa lễ hội của Mỹ bắt đầu từ lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) tới giao thừa Tây. Còn ở Úc là từ Melbourne Cup (Đua ngựa), thứ Ba đầu tiên, tháng Mười Một tới giao thừa Tây.

So lại, Úc ăn rồi chơi nhiều hơn Mỹ. Hổng có gì lạ đâu, thưa bà con, vì Úc nổi tiếng làm biếng nhứt thế giới mà.

Riêng người Việt tỵ nạn mình ở Úc, hổng cần đợi tới cuối năm mới nhậu, cứ cuối tuần là có ‘độ', tuần nào y như tuần nấy.

Mùa lễ hội, Mít mình thì khoái ăn thịt gà ta; còn Úc khoái ăn thịt gà tây. Nên đám gà ta cà nanh với đám gà tây "Tụi bây chỉ bị ‘xử đẹp' vào ngày lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh thôi hả? Thiệt là may mắn! Bọn tớ, Chúa nhựt nào cũng đi chầu ông bà ông vải hết trơn hè!"

(Có anh mình hơi bị tự ti mặc cảm nên cảm thán rằng tây bao giờ cũng hơn ta. Ngay gà ta cũng thua gà tây nữa! Nghĩ vậy không hoàn toàn đúng! Đâu phải ta lúc nào cũng thua. Tùy lúc chớ! Như tui nè hồi mới chân ướt chân ráo, bị Úc nó chơi gác, ăn hiếp dài dài từ trong sở ra tới ngoài đời. Nhưng ở đây lâu, mình mọc nanh, đâu có ngán đứa nào. Biết điều, nhậu nhẹt bù khú với nhau; cầm bằng ra vẻ ta đây là ‘Úc rặt', ngon hơn; thì xin lỗi... nhà ai nấy ở, rượu ai nấy uống; vợ ai nấy ‘cự' vậy thôi. Làm gì nhau hè?)

***

Nhớ mùa Giáng Sinh năm ngoái, dắt em yêu đi mua sắm ở ‘High Point Shopping Centre' trong tiếng nhạc rộn ràng Jingle Bells của mùa Giáng Sinh.

Trong siêu thị, có Santa Claus ngồi để bà con mình chụp hình kỷ niệm (có trả tiền, dĩ nhiên).

Santa Claus gọi tui bằng ‘bro' tức ‘brother' (anh); trong lúc gọi em yêu của tui bằng ‘cháu'. Em yêu khoái qua trời vì nghĩ mình vẫn còn thuở thanh xuân; chẳng qua em mới vừa nhuộm tóc. Còn tui, giận xanh râu luôn! "Ê! Santa kỳ thị tuổi tác phải không? ‘Boss' của chú mầy là ai, kêu nó ra đây để tao chính thức ‘còm len' (than phiền) một chút coi!"

Santa nghe tui hăm như vậy, mặt xanh chành như đít nhái, vì sợ mất ‘job' nên giả lả là: "Take it easy mate!" (Thôi! Bỏ qua đi Tám!)

Tối về, khi em yêu của tui đã ngáy ‘ò ó o', tui vẫn còn ấm ức, tức, nên sau vài ly rượu đỏ; lên Facebook, tui gọi cho thằng bạn học cũ bên Little Saigon để trút bầu tâm sự. Ai dè nó cũng va vào hoàn cảnh đau đớn hịt như tui.  

"Để ăn mừng lễ Giáng Sinh, kiểu Mỹ, bắt chước thần tượng Sở Khanh, mày râu nhẵn nhụi; áo quần bảnh bao, tao bèn đi hớt tóc đầu đinh, xong còn nhuộm đen kịt, không quên xức nước hoa ‘Xà neo' ba số 5.

Mặc cái quần jean mới nè, có xé te tua ở đầu gối, hết 150 đô, cái áo chim cò mới có chữ ‘Free hugs' (ôm miễn phí) nè hết 100 đô; đôi giày thể thao Adidas gần 200 đô.  Xong dung dăng dung dẻ, dắt trẻ đi chơi, đưa em xuống phố trưa nay đang còn nhức mỏi hai vai.

Sở dĩ đóng bộ đàng hoàng như vậy vì tao muốn ‘xứng' với em yêu, mái tóc người vợ trẻ, từ Hốc Bà Tó Việt Nam tao khều ra, rồi lãnh qua đây.

Hai đứa ‘tính tình tang' lang thang vô siêu thị. Em đòi chụp hình Giáng Sinh ở Mỹ để gởi về Tía Má em bên ấy an tâm là em đang sống trong một cuộc đời nhung lụa ở cái xứ tư bản giãy chết nầy.

Ôi muốn là chiều! Dù chụp chỉ mấy tấm hình mà bay hết một ông ‘Benjamin Franklin'. Trong lúc móc chi tới 100 đô, đau quá; thì em yêu lại khoái quá chừng vì được Santa gọi là cháu; còn hỏi em có muốn ngồi lên đùi nó để chụp hình kỷ niệm hay không?

Tao trừng mắt nhìn, em cụp xuống, hổng dám ho he gì ráo; xong tao chuyển đôi mắt hình viên đạn qua Santa thì bất ngờ thay, ‘giả' phân bua bằng tiếng Việt: "Con giỡn chút chơi mà ghen tuông gì ông Ngoại?"

Tao ngạc nhiên đến ‘đứng hình' luôn. Người Việt mình ốm yếu nhỏ con, thì làm sao kiếm được cái ‘job' mập, làm Santa Claus, cho được chớ?

Santa Claus dê xồm nầy sợ tao ghen, nóng mặt lên là nó mũi ăn trầu cái đầu xỉa thuốc; bèn tìm cách làm tao bớt giận bằng câu chuyện làm quà là: "Từ hôm Lễ Tạ Ơn là con Mỹ đen, vợ cháu đã tẩm bổ bằng gà lôi đút lò rồi. Ngày nào cũng gà lôi và gà lôi, bụng lồi lên nhưng trái khinh khí cầu. Mà nó cứ dụ: "Honey! Honey! Rán ăn đi, cho mập cho có da, có thịt hai đứa mình giống hịt...mới được! Chớ đứng gần nhau cứ số 1 và số 0 hoài, kỳ quá. Hai nhờ cái thể hình ‘ú nu' như vậy mới kiếm được ‘job' mập, làm Santa Claus, thêm chút đỉnh tiền để bánh mì bơ cho bầy con lủ khủ, ăn như xáng xúc! Vợ chồng dẫu cày sâu cuôc bẩm suốt năm chỉ đủ cái bỏ vào mồm. Phép thường niên 4 tuần, năm, honey cứ tụ bè tụ đảng ăn nhậu hoài thì trước sau gì nhà nầy cũng thành ‘homeless'!"

Nhưng công bằng mà nói: tay Santa Claus gốc Mít nầy nhận xét cũng hổng có trật! Hai đứa mình giờ cũng già rồi. (Giống như cây thông Giáng Sinh, chủ yếu để trưng bày, trang trí coi chơi; chớ đâu còn làm ăn gì được nữa?)

***

Mít dê Mít là chuyện thường tình! Úc cũng hay dê sảng con gái Việt Nam mình lắm. Vì mấy em, mình hạc xương mai, dáng đi uyển chuyển như ‘Thanh Tuyền' và giọng nói ngọt ngào như ‘Đan Nguyên' vậy. Còn con vợ Úc của nó, chụp hình Giáng Sinh hồi năm ngoái về nhà in ra để lộng kiếng (liệng cống) mà giờ vẫn chưa xong.

Mới đây nè bên Mỹ, có một em nặng tới 300 pounds vô ý đè chết ông chồng đó. Tay bạn nhậu người Úc nghe tui kể chuyện khó tin nhưng có thiệt nầy xanh mặt mày hết ráo, run run hỏi: "Hổng biết chừng nào sẽ tới phiên tui?"

Thằng bạn Úc nầy nó tên là ‘Ó zì' (Ozzie), tui chọc quê gọi nó là "Ó đâm' (‘đâm' phiên âm chữ ‘dump' nghĩa là ngu).

Qua nước người ta, nhiều phong tục tập quán sở tại, không biết hỏi ai; chi bằng mình hỏi dân thổ địa. Dẫu vậy có nhiều câu tui hỏi nó cũng bí lù hè. (Thiệt là ngu thấy ớn).

"Xứ tao chuông nhà thờ luôn óng ả; còn xứ nầy sao ít nghe tiếng chuông ngân?" Thì ‘Ó zì' cắt nghĩa: "Ít thiệt! Nhưng lai rai cũng có! Úc, đất nước tự do, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo: Anh giáo, Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, Tin lành rồi đạo Phật, đạo Hindu, đạo Hồi... và còn nhiều đạo khác

Chuông nhà thờ, giáo đường, đền chùa cũng có luật có lệ. Nước Úc tự do không phải muốn làm gì là làm. Điều căn bản nhứt của quyền tự do là trước hết phải tôn trọng quyền tự do của người khác.

Như Anh giáo tấu nhạc thánh ca trong giáo đường; Phật giáo tụng kinh trong chùa; Hồi giáo trong ‘mosque; chớ không có bắt ‘ô bẹt lưa' vọng ra ngoài đường như mấy cái xứ Trung Đông."

Biết vậy, nhưng mỗi mùa Giáng Sinh, tui lại nhớ hoài, nhớ tha thiết tiếng chuông nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, tui cùng em yêu (40 năm tình cũ) tay trong tay tan lễ nửa đêm ngày ấy.

***

Thằng bạn Úc ‘Ó zì' của tui cũng tin vào Thượng Đế nhưng không ngoan đạo lắm; ít khi đi nhà thờ trừ những ngày lễ lớn.

Năm rồi, Thánh lễ nửa đêm vừa xong, linh mục chánh xứ làm chủ lễ đứng trước cửa, bắt tay giáo dân chúc: "Merry Christmas!" Một mùa Giáng sinh vui!

‘Ó zì' bước tới; vị linh mục bắt tay nó, rồi kéo sang một bên nói: "Con phải gia nhập Đạo quân Chúa Cứu Thế nhe!""Thưa Cha! Con đã gia nhập rồi đó ạ!" "Ủa! Sao cha ít gặp con quá! Năm chỉ hai lần, một vào lễ Giáng Sinh; hai là vào lễ Phục Sinh?" "Thưa Cha chẳng qua trong Đạo quân Chúa Cứu Thế con làm việc cho Sở Mật vụ!"

‘Ó zì' có một đứa con trai tên là "Oi' năm nay lên 8 tuổi. Sở dĩ đặt tên con là ‘Oi' vì năm nào tranh giải quần vợt quốc tế mở rộng, vào đầu tháng Hai tại Melbourne nè, Úc thắng được chỉ một cú đánh là cố động viên một đứa xướng lên "Ozzie! Ozzie! Ozzie" Cả khán đài phụ họa hò reo ‘Oi! Oi! Oi" Vui hết biết!  (Nếu dịch ra tiếng Việt mình là "Úc! Úc! Úc! Ơi! Ơi! Ơi!" vậy mà).

Một vài ngày trước Lễ Giáng Sinh, vợ vẫn còn đi làm nên ‘Ó zì' phải lui cui dưới bếp. Thằng ‘Oi' đang chơi xe lửa chạy bằng pin, (quà Giáng Sinh) trong phòng khách.

Chiếc xe lửa ngừng lại và giọng của ‘Oi' vang lên: "Tất cả những thằng ‘quỷ hó' và những đứa con gái ‘cà chớn lửa' xuống xe ngay. Đây là trạm cuối cùng. Hành khách nào còn lại thì dán chặt cái ‘mông' vào ghế ngồi; vì chiếc xe lửa sẽ xuống dốc để quay đầu trở lại. Nghe rõ không mấy con bò tót ?!"

‘Ó zì' nghe vậy, giận quá: "Nè không được dùng cái ngôn ngữ đường phố, đá cá lăn dưa chợ Victoria trong nhà nầy. Chú mầy là con nhà gia giáo! Giờ đứng vô góc phòng, hai tiếng đồng hồ để ăn năn tội lỗi của mình. Hết giờ phạt, chú mầy sẽ được tiếp tục chạy xe lửa; nhưng hãy nhớ dùng ngôn ngữ thiệt lịch sư nghe không?"

Hai tiếng sau, hết giờ phạt, ‘Oi' lại chơi với chiếc xe lửa. Lần nầy thì: "Hành khách lưu ý! Lưu ý! Quý vị nào xuống xe lửa xin vui lòng nhớ mang theo tất cả các hành lý của mình. Xin cám ơn quý vị đã đáp chuyến xe nầy, Hy vọng đây là một hành trình thú vị. Mong quý khách sẽ tiếp tục đi xe lửa nầy lần tới. Xin đa tạ!

Còn quý vị nào còn ngồi trên xe, xin cảm phiền để hành lý dưới chỗ ngồi của mình và xin nhớ không được hút thuốc trong xe. Mong quý vị đã có một chuyến đi thoải mái và vui vẻ với chúng tôi hôm nay. Xin cám ơn."

Khi nghe con mình nói vậy, ‘Ó zì' rất lấy làm hài lòng, bỗng nghe nó nói tiếp: "Còn quý khách nào đã bị trễ hai tiếng đồng hồ; nếu bực bội thì xin than phiền với ‘ông già cà chớn' đang nấu cơm trong bếp!"

Merry Christmas!

 

đoàn xuân thu.

melbourne 

___________________________________________________________________________________ 

 

Ngọn Nến Lung Linh

* Nguyên Nhung

TL_lightingCandle2.gif TL_Dec20_XmasTreewith7figures.jpg

 

Tôi không nhớ được mùa Giáng Sinh năm ấy tôi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chỉ độ lên mười. Có lẽ đó là một mùa Giáng Sinh khá buồn và ảm đạm vì các anh chị tôi đi làm, đi học xa chưa về kịp, ở nhà quạnh quẽ chỉ còn hai mẹ con. Thời thơ ấu, tôi thèm lắm những bóng đèn xanh đỏ chớp nháy trên cây Giáng Sinh, một hang đá bằng giấy quết mực đen với những tượng Thánh xinh xinh bằng đất nung. Nhưng mộng ước ấy xa vời lắm đối với một đứa trẻ mười tuổi quá bé bỏng, trong lúc mẹ tôi xoay sở lo cho các con cơm ăn áo mặc là một gánh nặng nhọc nhằn, trên đôi vai bé nhỏ của người đàn bà góa bụa.

 

Là một đứa trẻ con, nhưng dường như ông Trời đã cho tôi một tâm hồn khá nhạy cảm để âm thầm tìm niềm vui cho mình từ những nhỏ nhoi nhất. Bởi vậy, đêm Giáng Sinh năm ấy dù không có đèn sao nhấp nháy, những trái châu xanh đỏ, nhưng tôi đã biết dùng những chiếc kẹo đủ màu để treo lên nhánh cây dương xỉ nhặt được trong khu nhà thờ, khi người ta đến đó trang hoàng hang đá cho mùa Giáng Sinh. Duy nhất một ngọn nến trắng bập bùng, ánh sáng lung linh hắt lên tường bóng một cành cây và một bóng người. Ngọn nến trắng đêm ấy đã làm cho cành cây và cái bóng của đứa trẻ thơ như lớn hơn, in lên tường chập chờn một giấc mơ tuyệt vời ấm áp. Tôi không nhớ được hết cảm giác đó vì thời gian qua đi khá lâu, nhưng cảm nhận về ngọn nến trắng thời thơ ấu đã giúp tôi vượt qua nhiều nỗi buồn, mỗi khi lẻ loi, thất vọng, tôi vẫn cứ nhớ hoài ngọn nến trắng mùa Giáng Sinh năm tôi mười tuổi. Tôi còn nhận được một món quà đặc biệt của bà hàng xóm, bạn của mẹ tôi, cho đến bây giờ dù thời gian qua đi mấy chục năm, tôi vẫn hình dung ra được hình dáng và mùi vị của nó: một củ khoai lang nướng.

 

Món quà Giáng Sinh nghèo nàn của bà hàng xóm quê mùa thật vừa bụng tôi lắm, dù rằng mẹ tôi có làm vài món ăn đặc biệt cho ngày Lễ. Tôi mơ màng nhìn ngọn nến lung linh soi lên cây Giáng Sinh của tôi, cứ gọi như vậy vì nó là niềm vui có thể làm được của một đứa trẻ con mười tuổi, củ khoai nướng gói trong mảnh lá chuối còn nóng hổi, mùi mật ngọt của khoai bốc lên thơm lừng, mùi rơm rạ hình như còn ủ trong lớp vỏ khoai cháy xém. Nụ cười trìu mến trên khuôn mặt hiền lành của bà hàng xóm, khi đưa cho tôi món quà Giáng Sinh nghèo nàn ấy. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ khuôn mặt quê mùa, chân thật của bà, củ khoai lang nướng đêm Giáng Sinh ngày thơ ấu đã theo tôi vào đời. Khi trưởng thành, những lúc bụng đói mắt cay, đời gặp lúc gian nan, buồn tủi, tôi cũng nhớ củ khoai nướng, nhớ mùi khoai lang nướng. Khi sung sướng hạnh phúc ở quê người, đời no đủ những cao lương mỹ vị, tôi cũng nhớ mùi khoai nướng. Phải chăng trong tôi vẫn vấn vương thứ TÌNH NGƯỜI nhỏ nhoi ấy, không thể mua được bằng tiền. . .

 

2-

 

Tôi yêu đóm lửa ngọn nến trắng từ hồi còn thơ ấu, chắc là ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm xưa cũng đi theo tôi đến những chặng đường còn lại của đời người. Có một câu chuyện tôi sắp kể ra đây, đó là câu chuyện của ông cụ Rôbéctô tôi có dịp gặp ở ngôi nhà nguyện. Mỗi ngày, sau Thánh Lễ buổi sáng, mọi người đã lục tục ra về, ngôi nhà nguyện đóng kín cửa như chìm trong yên lặng và bóng tối, chỉ còn lại duy nhất một ngọn nến trắng trên bàn thờ. Ánh nến hắt lên tường những chấm sáng lung linh, soi lên bức tượng Đức Mẹ bồng con bằng thạch cao trắng toát. Nến trắng và tượng trắng, tất cả chỉ là một màu trắng nhưng nghe trong thinh lặng chút bình an tràn ngập tâm hồn.

 

Tôi ngồi lại một lúc giữa những hàng ghế chỏng trơ không còn ai, nhìn chăm chăm lên ngọn nến. Tôi ở lại một mình chỉ vì thích đóm lửa nhỏ nhoi của ngọn nến, say sưa nhìn đóm lửa  lay lắt tỏa ánh sáng hắt hiu xuống chiếc khăn trải bàn cũng màu trắng, trong cái tĩnh lặng của tâm hồn. Tôi không cầu nguyện gì đâu, nhưng cảm giác bình yên khi nhìn ánh sáng của cây nến trắng đã rất đủ. Chắc hẳn trong mỗi đời người ai cũng có lúc thèm sự yên tĩnh của tâm hồn. À không, ở dãy ghế bên kia còn một ông già Mễ Tây Cơ, ông vẫn quỳ im lặng nhìn lên ngọn nến như tôi vậy, nhưng khác hơn là miệng ông mấp máy cầu nguyện. Mặt ông héo quắt với chòm râu bạc, đôi mắt đăm đăm nhìn lên ngon nến, nét mặt thành khẩn như đang cố bám lấy một niềm hy vọng nơi bức tượng Thánh trên bàn thờ.

 

Buổi sáng nay đi ngang công viên để đến nhà nguyện, tôi đã nhìn thấy mùa Đông trở về, một rừng lá vàng khô xôn xao đuổi nhau lăn xuống cuối dốc, trơ lại những nhánh cây khô, treo trên đó là những thân tầm gửi đang đong đưa theo gió sớm. Buổi sáng đầu mùa Đông mang theo chút giá buốt, khu công viên chỉ lác đác dăm người đi bộ, và những cây hoa dại có một sức chịu đựng dẻo dai, nở những bông hoa li ti trên bờ cỏ ven đường.

 

Khi ngọn nến tàn là lúc ấy tôi với ông già Mễ cùng ra khỏi ra nguyện. Ánh sáng leo lét của ngọn nến cháy bập bùng rồi gần như lả xuống trong lòng chiếc bình thủy tinh trong suốt, y như cái ngoẹo đầu cuối cùng của một người khi từ giã cõi đời. Ông già Mễ mỉm cười chào tôi trước sân nhà nguyện, ở đấy có một vườn hoa nhỏ và hai băng ghế dài đặt song song đối diện nhau. Có khi tôi cũng ngồi lại một chút để nhìn vẩn vơ lũ chim sẻ đang nhảy nhót trên sân tìm mồi, bỗng đồng loạt bay ào lên khi thấy có bóng người bước tới. Đôi khi tôi và ông Rôbéctô hay trao đổi vài câu chuyện nhỏ, cái miệng móm mém của ông phều phào kể cho tôi nghe những nỗi buồn nho nhỏ trong gia đình, ông hay đi nhà thờ để cầu nguyện cho đứa cháu đang đi lính ở phương xa.

 

Khi biết tôi ở lại một mình cũng chỉ vì thích ánh sáng lung linh của ngọn nến trắng, và câu chuyện mùa Giáng Sinh thời thơ ấu, ông RôBécTô cảm động lắm. Đôi mắt ông hấp háy, nhòa ướt qua giọng nói khàn khàn ẩm đục. Mùa Giáng Sinh đến, trời bắt đầu lạnh hơn, tôi có ý nghĩ chuẩn bị một món quà cho ông bạn già vong niên trước ngày Lễ Giáng Sinh. Có gì đâu, tôi lại nhớ đến củ khoai lang nướng bà hàng xóm tặng tôi đêm Giáng Sinh, bây giờ nghe ông Rôbéctô thích vài món ăn Việt Nam, tôi nghĩ đến chuyện tặng ông một hộp cơm rang và chục cái chả giò tôm thịt. Chẳng có gì hơn bằng một món quà đáp ứng đúng sự ưa thích của người nhận, ông Rôbéctô cảm động lắm khi nhận món quà của tôi buổi sáng trước Lễ Giáng Sinh vài hôm, tôi thấy đôi mắt ông nhòa lệ khi nắm lấy tay tôi nói phều phào những lời cảm ơn.

 

Tôi không nghĩ đến việc cho đi để nhận lại một món quà thật dễ thương của ông Rôbéctô vài hôm sau đó. Khi tan buổi lễ, ông gặp tôi trước sân nhà nguyện, với một gói giấy hoa thật đẹp, thì ra ông già đã nhờ cô con gái mua hộ cho tôi một món quà thật xinh: đó là chiếc áo len màu hồng nhạt. Vẫn cái giọng Mễ Tây Cơ lùng bùng những thanh âm nằng nặng, ông nói rằng món quà này thật là thích hợp cho tôi, người phụ nữ Á Đông có dáng dấp nhỏ nhắn và nước da trắng trẻo. Quả thật chiếc áo len màu hồng khi mặc vào đã làm tôi như trẻ lại hằng chục tuổi. Món quà của ông Rôbéctô đã thắp lại trong tôi ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm nào, với củ khoai lang nướng khi tôi là cô bé lên mười thuở ấy. . .

 

Ông Rôbéctô đã qua đời vài năm nay, ông chết vì bịnh ung thư phổi. Những năm cuối của cuộc đời, ông không đến được nhà nguyện mỗi ngày, nhưng trước khi chết ông vẫn mong được gặp lần cuối khuôn mặt yêu thương của những người Việt ông quen biết. Rất tiếc là tôi không thường gặp ông sau này, nhưng tôi biết ông ra đi rất êm ả. Người ta kể rằng trong những giây phút cuối cùng của đời người, ông chỉ xin đốt lên cho mình một ngọn nến. . .

 

3-

 

Những ngày cuối năm với những cơn mưa mùa Đông làm ẩm ướt không gian, đất trời như nặng trĩu một nỗi sầu da diết. Trong căn nhà vắng lặng, bóng chiều hình như đến vội với những giọt mưa rả rích ngoài hiên. Trời rét lắm, gió và rét khiến những chú chim sẻ nhiều chuyện không ríu rít như mọi ngày, chúng rủ nhau vào trốn gió sau bụi mía, lả mình vào hàng rào đang rung rung những chiếc lá úa. Những con chim sẻ mùa Đông trông thật dễ thương, xù lông ra tròn quay như một cụm len màu nâu xám biết nhảy nhót.

 

Góc vườn nơi cửa sổ nhà bếp rất khuất gió, bụi mía sắp tàn như một mái nhà tranh trống trước hở sau, che tạm cho một gia đình nghèo khổ. Sau cơn mưa, trời chuyển qua những đợt gió lạnh buốt xương, tôi đứng từ trong nhà nhìn ra khung cửa kính nhà bếp, tò mò nhìn mấy chú chim sẻ núp dưới vòm lá mía. Cũng đỡ buồn lắm khi ngắm nhìn bầy chim sẻ mùa Đông, y như những đứa trẻ bụi đời trên vỉa hè thành phố một đêm mưa nào đó, rúc vào nhau trong tấm chiếu trải bên lề đường, cuộn tròn lại với nhau đưới tấm chăn bẩn . Mấy con chim sẻ cũng khôn ngoan rủ nhau tụ vào một chỗ, có con đang co ro ngủ gật, có con mắt láo liên, thỉnh thoảng lại lách chách bay lên tàu lá như vừa tìm được một con mồi đỡ lòng cho ngày Đông buốt giá. Nhu cầu ăn để sống vẫn bắt nó phải tìm mồi dù đôi cánh lảo đảo trong gió rét như muốn rơi xuống thảm cỏ, trông thật tội nghiệp.

 

Đứng trong nhà nhìn qua lớp cửa kính trong suốt, ở góc phòng chớp tắt những chiếc đèn nhấp nháy trên cây Giáng Sinh, tôi thấy con chim bé bỏng đang vỗ vỗ đôi cánh nhỏ, rồi gõ cái mỏ nhỏ xíu lên mặt kính, cũng tò mò nhìn tôi, làm như nó cũng thèm thuồng được vào trú ẩn trong căn nhà có ánh đèn ấm áp. Tôi chia xẻ được gì đây? Người và chim là hai thế giới khác hẳn nhau, và có lẽ dù được cho ăn no, chú chim sẻ vẫn không thích thú gì khi bị con người giam chú vào cái lồng chim chật hẹp. Những chú chim sẻ mùa Đông như những búp len xậm màu, xếp hàng xúm xít vào nhau để trốn gió sau rặng mía ven bờ rào, lại dẫn đưa tôi đến một khía cạnh khác của con người, mà ở câu chuyện này tôi vẫn thấy cái đẹp nhỏ nhoi của Tình Người ấm áp biết bao nhiêu. Đó là câu chuyện của hai người vô gia cư, hay là chuyện "lá rách đùm lá nát" đã làm thức dậy chút bâng khuâng trong tâm hồn những quả tim chai đá.

 

4-

 

Một buổi tối mùa Đông trước ngày Lễ Giáng Sinh, trời mưa phùn, rét như cắt ruột. Đường phố vắng xe qua lại, phía xa là những ánh đèn màu rực rỡ chớp tắt quấn trên những thân cây ven đường. Suốt một tuần sắp lễ Giáng Sinh, thời tiết bỗng dưng âm ỉ rét, những đợt gió lạnh từ hướng Bắc thổi về, người có việc ra đường co ro trong những chiếc áo ấm dày cộm và khăn phu la quấn quanh cổ. Hình như người ta ngại đi ra đường vào một tối trời mưa như vậy, chỉ còn một vài cửa hàng bán "fast food" và cà phê là còn mở cửa, có dăm người khách ngồi im lặng trầm ngâm trước khay thức ăn ăn uống uể oải. Khách đến tiệm vào giờ này có lẽ là những kẻ xa nhà, thiếu một bếp lửa hồng để sưởi ấm cõi lòng cô quạnh, ngày giáp Lễ thường sau giờ làm việc, ai nấy hối hả về nhà chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh.

 

Người phụ nữ bán hàng đang dọn dẹp mấy thứ lặt vặt, mong đến giờ đóng cửa để đi về, vì chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là đến nửa đêm. Bà nghĩ đến hai đứa con đi học xa vừa về nhà với mẹ mấy hôm nay, đã lâu lắm người mẹ chỉ mong được gặp các con trong những dịp Lễ Tạ Ơn hay mùa Giáng Sinh, và bà đã chuẩn bị những món ăn truyền thống mùa Giáng Sinh cho các con từ mấy ngày hôm trước. Gia cảnh đơn chiếc vì năm ngoái người chồng đã qua đời sau một tai nạn, bà vẫn ở một mình trong căn chung cư cũ kỹ, những ngày gió mưa căn nhà nhỏ như càng ẩm ướt, lạnh lẽo.

 

Ngay khi ấy, cánh cửa tiệm bật mở đem theo một làn gió buốt lạnh vào trong tiệm ăn, hai người đàn ông chùm đụp trong những tấm chăn bẩn bước vào tiệm. Người phụ nữ nghĩ đó là hai người khách cuối cùng, vì bà cũng nhớ ra đó là hai người đàn ông nghèo khổ, không có một mái nhà, chỗ trú của họ là cái gầm cầu ngoài xa lộ đi về hướng Galveston. Thỉnh thoảng họ có dắt nhau đến đây, trông họ có vẻ là hai anh em, người đàn ông lớn tuổi trông vẻ mặt rất ngây ngô như một đứa trẻ chậm phát triển.

 

Trong hai người đàn ông ấy, ông già gương mặt đờ đẫn, ngờ nghệch nhìn thế giới xung quanh ông như nhìn một thế giới khác, thời gian đã cày lên khuôn mặt ông những nếp nhăn chằng chịt, bộ râu hung hung nay đã xám ngoét, bết vào nhau như một cụm rơm bẩn. Người đàn ông kia trẻ hơn, có đôi mắt màu xanh lơ trông hiền lành như màu biển, co ro trong chiếc áo rét bằng dạ xám bẩn và cũ. Họ rét lắm, chằng đụp lên người những quần áo và chăn bẩn, bốc lên một mùi hôi. Ngoài trời, cơn mưa phùn mùa Đông như những chiếc kim khâu luồn từng giọt căm căm vào xương tủy, gió nhiều hơn mưa, mưa và gió lại là hai vị Thần nguy hiểm của những người bần cùng, nghèo khổ.

 

Hai người đứng xếp hàng chờ đợi. Người đàn ông trung niên vét mãi hết túi này đến túi kia được một nắm hào lẻ, chưa đầy một đồng bạc nhưng cũng đủ mua một ly cà phê nóng. Theo quy định của cửa hàng, khách vào tiệm phải mua một món gì mới được phép ngồi lại. Trời rét ngọt ở bên ngoài, nhưng trong tiệm thật ấm vì có máy sưởi, quần áo của hai người đàn ông nghèo khổ toát ra một mùi hôi khiến những người trong tiệm phải nhăn mặt. Mua xong ly cà phê, họ vội vã dẫn nhau vào cái bàn xa nhất, như sợ rằng mùi hôi trên quần áo, cái nheo nhóc, bẩn thỉu của thân phận người nghèo cũng sẽ làm những người xung quanh khó chịu.

 

Người phụ nữ bán hàng để ý nhìn hai người "homeless" mà chỉ mua có một ly cà phê. Khi nhận ly cà phê trên tay bà, người đàn ông trẻ hơn vội vã đưa cánh tay dìu người đàn ông già đi về chiếc bàn trong góc tối. Hình ảnh đó khiến bà xúc động, một người "không có gì" cũng đang cố sức giúp một người" không có gì" gượng đứng trên cõi đời đầy đau khổ, khi họ nhường cho nhau ủ đôi bàn tay lạnh cóng vào ly cà phê nóng còn bốc khói. Người đàn ông trẻ hơn đẩy ly cà phê vào đôi tay ông bạn già đang run rẩy, rồi một chốc người kia lại đẩy ly cà phê sang phía người đối diện, họ cứ chuyền tay nhau ly cà phê nóng còn bốc khói mà không uống ngụm nào. Họ cần một chút ấm trong đêm nay, mà cơn gió tháng chạp lạnh lẽo đã luồn vào gầm cầu trống trải khiến họ rét run bần bật . Thời tiết và thời gian là đôi bạn đồng hành ác độc đè lên đôi vai họ một cách nghiệt ngã, để họ không còn sức chịu đựng mà chống chỏi cơn giá rét mùa Đông như những năm trước.

 

Người phụ nữ đứng trong quầy hàng, như bứt rứt  trước cái khổ của đồng loại. Dù sao bà cũng có một mái nhà để chui ra chui vào, dù sao bà cũng có hai đứa con, và lát nữa đây khi tiệm đóng cửa, con bà sẽ đến đón mẹ về nhà để đón mừng ngày Lễ Giáng Sinh. So sánh giữa hai cái khổ, bà vẫn thấy mình hạnh phúc hơn hai người đàn ông "homeless" kia. Không biết nghĩ sao, bà móc túi tìm vài đồng bạc lẻ, và thật sung sướng khi đóng vai một người khách, bà có đủ tiền mua tặng cho hai người đàn ông nghèo khổ một khay thức ăn nóng hổi. Bà bưng khay thức ăn đến cái bàn của hai người đàn ông, với một nụ cười dịu dàng và câu chúc "Giáng Sinh Vui Tươi", bên chiếc khay còn thêm một ngọn nến trắng cắm trong cái ly nhỏ bằng thủy tinh trong suốt, bà vừa mua nó hồi trưa nay tại một tiệm chín mươi chín xu để buổi tối đặt trên bàn ăn, đốt lên ngọn lửa giáng sinh ấm áp mừng ngày xum họp trong gia đình.

 

Hai người "homeless" ngỡ ngàng nhìn người phụ nữ. Người đàn ông mắt màu xanh lơ có chòm râu bạc nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của người phụ nữ tốt bụng, nói lời cảm ơn nghẹn ngào với đôi mắt rưng rưng. Ông đẩy khay thức ăn qua cho người bạn già ngớ ngẩn của mình, bằng ánh mắt thương yêu trìu mến. Ngọn nến mà người đàn bà tốt bụng vừa đốt lên để mừng Giáng Sinh, cho họ một cảm giác tuyệt vời hạnh phúc, vì họ đang tận hưởng được sự trân trọng như những con người bình thường trong xã hội.

 

Sau khi ăn xong khay thức ăn, người đàn ông trẻ tuổi dọn dẹp rồi lại dìu người bạn già ra khỏi tiệm ăn. Đi qua chỗ người phụ nữ, ông ta ngước đôi mắt xanh và mấp máy một lời chúc tốt lành nhất mùa Giáng Sinh đến người phụ nữ, họ mỉm cười với nhau. Đã tới giờ đóng cửa, hai kẻ cùng khổ không nhà ấy dẫn nhau trở về cái dạ cầu, nơi trú ẩn của họ hằng bao nhiêu năm nay, họ xin người đàn bà cho họ mang theo ngọn nến trắng. Bụng đã no, lòng đã ấm vì tình người như một món quà Giáng Sinh quá bất ngờ, vừa rơi xuống từ Trời để họ biết là vẫn còn những tấm lòng tử tế trên cõi đời này. Người phụ nữ cũng sửa soạn ra về, mang theo trong lòng một niềm vui nhỏ nhoi mà thật là ấm áp. Đôi mắt xanh hiền hậu của người "homeless" nhìn bà lúc nãy trông quen quá, dường như bà đã nhìn thấy ở đâu? Sau một phút nghĩ ngợi, bà chợt "à"ø lên một tiếng nhỏ. Phải rồi, đó là đôi mắt tượng Chúa treo trên vách nhà nguyện, ngồi giữa một bầy trẻ thơ đang ríu rít đứng xung quanh.

 

5-

 

Người ta kể cho tôi nghe một câu chuyện khác, lần này thì tôi nhớ ra ông Tom, người đưa thư da đen quen thuộc vùng ngoại ô SouthEast. Ông Tom gốc gác người Phi Châu, da đen bóng, tổ tiên ông bao đời đã từng sống nơi vùng đầm lầy Lousiana, người du lịch đó đây có thể thấy bên ven đường đi Baton Rouge, đài kỷ niệm những bước chân đầu tiên của người nô lệ da đen trên xứ Mỹ.

 

Ông Tom làm nghề phát thư cho khu vực này khá lâu, từ khi hàng cây sồi ven đường còn bé tý, những căn nhà khang trang thuở ấy nay đã cũ kỹ, và chủ nhân những căn nhà ấy bây giờ có thể là một bà cụ già đi không vững, đám trẻ đã đi đâu mất, chỉ còn những tiếng chim ríu rít trên rặng sồi là còn y nguyên. Ông Tom biết hết những căn nhà trên con đường River, biết cả những căn nhà lần lượt đổi chủ, và những phụ nữ xinh đẹp dễ thương năm nào, nay bước vào tuổi già còn lại một mình trong khu nhà êm ả đầy bóng cây râm mát.

 

Ông Tom thân với cụ Mary nhất, cũng từ cái hôm ông bị một con chó trong khu vực ra được cổng rào, rượt ông chạy trối chết rồi vấp chân vào bậc xi măng bên vệ đường, ngã lăn ra trước cổng nhà cụ Mary, đúng vào lúc bà cụ ra mở thùng thư để lấy thư như thường lệ. Bà cụ nhìn người đưa thư da đen ái ngại, rồi bà mời ông vào ngồi nghỉ trên chiếc ghế đá ở sân trước, trong khi ông Tom chưa hoàn hồn vì cái ngã đau làm đầu gối ông bị trầy trụa, rướm máu.

 

Bà cụ Mary vào nhà, lúc trở ra bà bưng cho ông một ly nước cam, với một túi vải đựng dăm thứ thuốc sát trùng và băng cá nhân. Bà dịu dàng bảo ông Tom vén ống quần lên cho bà xem vết thương, nhẹ nhàng lau vết thương cho ông rồi băng lại cẩn thận. Ông Tom cảm thấy dễ chịu quá, trước kia ông vẫn ngấm ngầm cho rằng đâu đó là sự chia cách của màu da, của con người giữa những tầng lớp xã hội, và những đau buồn của dĩ vãng từ đời tổ tiên khiến ông có ít nhiều mặc cảm với người da trắng. Hai người mỉm cười với nhau, chỉ có thế mà ông Tom nhớ mãi vì hôm ấy là một ngày đẹp nhất của mùa thu . . .

 

Từ đó họ thành đôi bạn vong niên của nhau. Ông Tom cũng biết thêm bà cụ Mary sống cu ky có một mình, con cháu bà ở một thành phố khác, từ khi cụ ông qua đời thì bà Mary cô quạnh thêm vì vắng người hủ hỉ. Mỗi ngày đem thư đến khu vực này, ông Tom luôn mong thấy khuôn mặt và nụ cười hiền lành của bà bạn vong niên ra lấy thư, hôm nào vắng bà cụ là ông Tom lại cảm thấy không yên bụng.

 

Năm nay mùa Giáng Sinh lại đến. Mùa Đông rét hơn mọi năm, hay là ông Tom nay đã yếu để thấy rằng cơn gió mùa Đông Bắc bỗng dưng lại khắc nghiệt hơn những năm trước. Sau mùa Giáng Sinh ông Tom sẽ có những ngày nghỉ phép, ông về thăm lại anh em của mình ở vùng đầm lầy Lousiana, ông sẽ trở về khu nhà tồi tàn, cũ kỹ nhưng ấm áp tình thương gia đình. Trước khi đi, ông Tom sẽ nói cho bà Mary biết những ngày ông đi vắng, và ông cũng mong rằng con cháu bà sẽ về xum họp với bà trong những ngày nghỉ lễ cuối năm. Những ngày cuối năm bận rộn, ông Tom lái xe đem đầy nhóc những cánh thiệp Giáng Sinh, thùng thư nào cũng có những cánh thiệp mang đầy lời chúc tốt đẹp, nhưng hai ngày qua mà thùng thư của bà Mary vẫn còn nguyên, không thấy bà lấy thư như mọi khi.

 

Ông Tom lái xe đi rồi lại băn khoăn nghĩ ngợi mãi, không yên lòng chút nào cả. Bà bạn già của ông không biết đi đâu, ra sao? Lúc trước mỗi lần đi vắng đôi ngày, bà có nói cho ông Tom biết, nhưng lần này ông chỉ nghe bà khoe người con trai sẽ về thăm, lũ cháu đi nghỉ Đông với bạn bè ở miền Bắc. Chắc chắn là bà Mary ở trong nhà, nhưng lý do nào mà thùng thư của bà hai hôm rồi vẫn chưa lấy? Đáng lẽ ông Tom lái xe về Bưu Điện khi đã bỏ hết thư trong ngày, nhưng nghĩ sao ông lại quành xe về nhà bà cụ Mary, và ông rón rén mở cánh cổng rào thấp, hồi hộp gõ cửa chờ đợi. Ông gõ năm, bảy lần, ông bần thần trong dạ, linh tính cho ông biết bà bạn già không đi đâu, nhưng chẳng biết vì sao bà không mở cửa.

 

Tuổi già sống một mình như bà cụ Mary là chấp nhận tất cả nỗi cô đơn, buồn rầu, hiu quạnh, chưa kể những cơn bịnh đến bất ngờ không chống đỡ được. Ông Tom định bỏ đi nhưng lòng không an ổn, ông nhớ lại buổi chiều thu hôm nào bà Mary đã lật đật lấy cho ông một ly nước cam, đã lau chùi băng lại vết thương trầy trụa trên đầu gối ông, đã cho ông một nụ cười hiền dịu nhất của tình nhân loại. Không nghĩ gì nữa, ông Tom quyết định gọi "emergency" để báo cáo về sự vắng mặt của bà bạn già dễ mến của mình. Khi người ta phá cửa vào nhà, bà Mary chỉ còn thoi thóp thở, nằm bất động trên giường với khuôn mặt xanh lướt. . . .

 

Câu chuyện của người đưa thư da đen cứu sống một người đàn bà già nua cô độc trong căn nhà ở đường River, người ta có đưa lên chương trình truyền hình địa phương buổi tối áp lễ Giáng Sinh. Chẳng biết có ai nghĩ gì về những nỗi buồn đầy ắp trong cuộc sống thường ngày, hay chỉ có ông Tom đang cầu nguyện cho bà bạn già mau bình phục.

 

Mùa Giáng Sinh

NGUYÊN NHUNG

 

Trần Bang Thạch .Truyện

MÓN QUÀ GIÁNG SINH

arbre7.gif

Không thể như thế được. Anh Armin nói thầm với mình nhiều lần như vậy. Không thể có chuyện nầy. Nhưng cuối cùng Armin phải nhận đó là sự thật. Chữ nghĩa lõm bõm, nhưng Armin có thể đọc và hiểu được. Trước mắt anh là bản tin nhỏ nằm khiêm nhường dưới góc mặt của trang báo Tin Địa Phương : Tin về cái chết của bà Jean DeLong. Đúng hai tuần lễ sau khi đưa bà Jean lên xe cứu thương, Armin mới biết được tin tức của bà. Một tin rất buồn đối với anh. Tên của bà Jean nằm giữa 12 tên khác. Đây là tên của những người mới chết, tử thi đã được giảo nghiệm nhưng vẫn còn để trong nhà xác của quận hạt Harris vì không có thân nhân nhận xác. Bài báo cũng có nói là chuyện này xảy ra rất thường. Tháng nào cũng có vài trường hợp như vậy. Sau một thời gian thông báo, tử thi nào vẫn không có người nhận thì văn phòng chung sự quận hạt sẽ lo việc chôn cất, dĩ nhiên là tại một nghĩa trang công cộng nghèo nàn và thiếu hẳn những nghi thức an táng trọng thể trước khi hạ huyệt. Sẽ không có một thân nhân nào khóc thương hay nói lời giả biệt cuối cùng với người chết. Sẽ không có một cành hoa từ bàn tay thân nhân thả rơi xuống nắp quan tài. Nghĩ đến điều nầy Armin thấy đau lòng thêm. Con mèo, con chó khi chết còn có người chủ mình khóc lóc tiễn đưa và trang trọng chôn cất nơi nghĩa trang đặc biệt dành cho những con vật thương yêu. Có con chó chết đi còn để lại món tiền kếch sù do cái “ will” của người chủ đã chết. Có con mèo chết đi khiến người chủ khóc lóc suốt tuần, mất ăn, biếng ngủ. Armin không phải là thân nhân bà Jean, cũng không có khả năng tài chánh để làm người hảo tâm tình nguyện đứng ra lo việc chi tiêu mai táng người đàn bà mà nhiều năm nay Armin đã coi như người thân nhứt của mình. Armin nghèo quá, lại một thân một mình nơi xứ lạ này.

Armin không quên được giờ phút cuối cùng anh thấy bà Jean. Hôm đó, hai tuần lễ trước, bà Jean quị ngã sau cánh cửa bà vừa mở để Armin bước vào nhà. Armin buông vội túi giấy đựng thực phẩm và mấy món gia dụng trên tay để kịp thời đỡ bà Jean không va đầu xuống nền nhà. Ngồi dựa vào anh, bà Jean ngoẽo đầu sang một bên, hơi thở nặng nề, đứt quãng. Bà cố nói, tiếng được tiếng không, Armin không hiểu gì nên càng lúng túng, nhưng anh cũng biết điều cần thiết phải làm ngay. Armin bồng bà Jean để nằm trên sofa rồi bấm số 911.

Khi nhân viên xe cứu thương đến làm vài động tác cấp cứu, bà Jean trông tĩnh hơn một chút, bà arbre6.gifcầm tay Armin thì thào hai tiếng “cám ơn”. Armin cũng muốn nói tiếng “cám ơn” với bà nhưng mọi chuyện bây giờ khẩn cấp quá. Armin phải đứng dang xa để nhân viên cấp cứu làm phận sự. Armin nắm vội mấy ngón tay xương xẫu của bà Jean trước khi người ta đưa bà lên xe. Armin khóa cửa nhà rồi trao chìa khóa cho nhân viên cứu cấp. Armin biết từ đây sẽ không có ai vào ra căn nhà nhỏ nầy ngoại trừ bà Jean khi bà mạnh khỏe trở về. Từ đó Armin mỗi ngày trông ngóng bà Jean trở về. Điện thoại nhà bà không có người trả lời. Cửa nhà vẫn khóa, bên trong không một ánh đèn.Vốn tiếng Anh tiếng Mỹ nghèo nàn, lại mang thân phận người di dân thiếu giấy tờ hợp pháp, Armin không biết đi tới bịnh viện nào để thăm viếng bà Jean. Cũng không có ai là thân nhân của bà Jean để hỏi. Ngày ngày trôi qua. Trong lòng Armin như có lửa đốt. Bản tin ngắn gọn hôm nay đã làm thành ngọn lửa đốt cháy niềm mong đợi của Armin.

Như vậy là vĩnh viễn người đàn bà già nua, nghèo khó, cô đơn ấy sẽ không trở lại căn nhà nầy nữa rồi. Armin cũng không còn mỗi tuần một lần mang đến cho bà Jean túi thực phẩm đủ để bà dùng suốt tuần lễ. Công việc nầy Armin đã làm từ gần hai năm nay. Lúc đó Armin vừa chân ướt chân ráo đến thành phố nhỏ Waller này từ một làng nhỏ thuộc tỉnh Lerado nằm bên kia biên giới Mỹ và Mễ Tây Cơ. Armin may mắn được nhận chân bán hàng tại một tiệm bách hóa nằm ngoài rìa thành phố với đồng lương thật thấp, chỉ vừa đủ trả phòng trọ và hai bữa ăn. Nhà bà Jean cũng ở gần tiệm, cách chừng hai dặm đường. Mỗi tuần một lần bà Jean đi bộ đến tiệm mua thức ăn và vài món cần dùng cho nhà cửa. Khi biết được sức khỏe bà Jean không tốt và bà đi đứng rất khó khăn với cái tuổi trên bảy mươi, Armin tình nguyện làm người mang thực phẩm cho bà hàng tuần. Vốn là đứa bé thiếu mẹ từ lúc mới chào đời, mười tám năm nay Armin lúc nào cũng thấy mình bất hạnh, không có mẹ để được thương yêu. Chỉ cần vài lần tới lui với bà Jean, dù hai người rất khó khăn khi nói chuyện với nhau vì vấn đề ngôn ngữ, nhưng tình người hình như lúc nào cũng đi trước nên bà Jean và Armin càng ngày càng thấy gần gũi. Armin như tìm được điều mình đã mất là tình mẫu tử. Armin cũng thấy bà Jean đối với mình như người mẹ. Giáng Sinh năm arbre1.gifngoái là lần đầu tiên Armin biết thế nào là bữa Tiệc Nửa Đêm. Bữa ăn rất đơn sơ với mấy miếng thịt gà chiên và chai rượu chát đỏ nhưng thật đậm đà tình nghĩa. Hai người nghèo khó chung một niềm vui Giáng Sinh trong căn nhà nhỏ. Đêm đó trong ánh nến lung linh huyền ảo của Đêm Thánh Vô Cùng,  lần đầu tiên Armin đã khóc trên cánh tay của người đàn bà mà Armin thấy trước mặt là dáng hình Đức Mẹ Maria nhân ái. Đêm đó, không nói một lời, bà Jean đã tháo sợi dây chuyền trên cổ, bà thân ái đeo vào cổ Armin. Đó cũng là quà Giáng Sinh đầu tiên của đứa con côi cút trong suốt gần hai mươi năm có mặt trên đời. Sợi dây chuyền bằng bạc đơn sơ với tượng thánh giá nhỏ bằng ngón tay út. Có lẽ đó là món đồ quý giá nhất của bà Jean. Bà Jean nghèo lắm, nhiều lần bà Jean nhờ chủ tiệm cho bà mua thiếu. Chủ tiệm cũng là người tốt bụng. Ông nói ông biết bà Jean từ vài năm nay. Đó là người đàn bà hoàn toàn cô đơn, sống một thân một mình trong căn nhà biệt lập với các nhà hàng xóm. Nói là nhà chớ thật sự nơi bà cư ngụ là túp lều nhỏ nằm phía sau một nền nhà còn dấu vết của một cơn hỏa hoạn nhiều năm trước; cây cỏ xung quanh mọc tự do. Con lộ lót sỏi dẫn vào nhà, cách xa đường xe cộ lưu thông, thiếu bước chân đi lại nên cỏ mọc lan ra tới gần giữa đường. Khi có những cơn mưa lớn, con lộ ngập đầy nước. Căn nhà của bà cũng ngập nước. Thỉnh thoảng vào những ngày nghỉ việc, Armin chỉ đủ sức dọn dẹp cỏ rác quanh nhà cho phong quang một chút. Hai năm qua tới lui với bà, Armin chưa một lần nghe bà Jean nói tới một thân nhân nào; dễ chừng bà Jean đã sống cô đơn như thế nầy từ nhiều năm rồi.

Như vậy những năm tháng cô đơn trên thế gian của bà Jean đã hết. Nhưng sự cô đơn cố bám theo cái tử thi tàn lạnh của bà thì đau đớn quá, bi thảm quá. Một tử thi vô thừa nhận nằm mười mấy ngày trong nhà xác để từ mấy hôm nay người ta phải rêu rao trên báo tìm thân nhân. Hàng trăm, hàng ngàn bàng dân thiên hạ biết rằng trên thế gian nầy có những người vô cùng bất hạnh. Đánh mất một món đồ người ta còn tìm kiếm. Còn bà Jean, cho tới chết vẫn biệt tăm thân nhân để lo bề an táng. Hay thân nhân có biết nhưng vẫn làm ngơ? Chồng con bà đâu? Cháu chắt bà đâu? Rồi đây người đàn bà xấu số của mấy mươi năm trên đời sẽ từ giả cõi đời trong lặng lẽ, âm thầm, không tang lễ. Thân xác bà sẽ vùi chôn trong một nghĩa trang công cộng, không người viếng thăm.

Không được. Không thể nào như vậy được. Người đàn bà đã có lần là hiện thân của Đức Mẹ trước mặt Armin trong đêm Giáng Sinh năm ngoái không thể ra đi cô đơn như vậy được. Món quà Giáng Sinh của bà Jean, Armin đang đeo trên cổ, phải chăng đêm ấy bà Jean muốn nói với Armin rằng “con là người thân nhất của ta bây giờ”? Trong trí nhớ của Armin là một bà Jean  ít nói, sống khép kín với lối xóm chung quanh, nhưng không buồn bã. Mỗi lần gặp bà Jean là Armin thấy nụ cười trên gương mặt già nua nhăn nheo của bà, mười lần như một. Armin nghĩ bà Jean vừa lòng với số phận và hoàn cảnh của mình, không một tiếng oán than, không trách mình cũng không trách người. Nhiều khi Armin có cảm tưởng bà Jean chỉ thích nói chuyện với  mình, nhứt là mỗi khi hai người dọn dẹp cỏ rác, cây cối quanh nhà. Giữa thiên nhiên trông bà Jean thật vui và thật năng động. Bà vừa vun bón mấy chậu hoa, vừa hát khẽ một bài hát có âm điệu vui mà Armin đã nghe nhiều lần. Gặp con sâu, con dế hay cả con rắn nhỏ bà Jean chỉ xua chúng đi chỗ khác. Có khi bà nói về dãy mây lang thang trên nền trời, mây bay vô định, không cửa không nhà, vô thân tứ cố, nhưng mây có cuộc sống vô tư, có ai nói là mây có tâm sự buồn đâu. Con sóc, con chim trên cây sau nhà cứ chạy nhảy, ca hót, nào có nghĩ tới nhà cao cửa rộng, mồ yên mã đẹp gì đâu. Phải rồi. Lúc sống bà Jean  sống an bần, lạc đạo trong căn nhà nhỏ bằng cái hộp, thiếu những tới lui, thăm hỏi của thân nhân ruột thịt…thì khi chết chắc bà cũng không nghĩ gì tới những lễ nghi, lắm khi hời hợt, theo lề theo thói. Có nghĩa gì mấy lời thương tiếc của những người thân đã quên mất bà từ lâu. Ý nghĩ nầy đưa đến cho Armin một quyết định dứt khoát. Armin phải làm một cái gì trước khi quá trễ. Thêm một Giáng Sinh sắp tới rồi. Giáng Sinh năm ngoái, Armin không có một món quà nào cho bà Jean thân thương của mình. Năm nay phải có. Armin tuy nghèo nàn, không một đồng xu dính túi nhưng phải có một món quà Giáng Sinh cho bà Jean. Bà Jean cũng nghèo nàn, nhưng bà đã cho Armin cây thánh gíá, vật gần gũi của bà. Trong giây phút nhiệm mầu của một đêm Thánh, Bà Jean nghèo tiền, nghèo bạc nhưng giàu tình thương, qua món quà là vật thiết thân của mình,  đã cho Armin niềm tin và tình mẫu tử, cái mà mười mấy năm làm người Armin còn thiếu.

Nghĩ là làm. Armin đem chuyện an táng bà Jean bàn với ông chủ của mình. Ông chủ cũng đồng ý với Armin là có lẽ bà Jean cũng không mong có thân nhân đọc tin báo rồi tìm đến nhận xác bà rồi đem chôn cất nơi đàng hoàng tử tế. Giá mà có ai thương tình mà tình nguyện làm việc đó thì chắc bà Jean cũng không hài lòng. Sống thế nào thì thác thế ấy. Sống đơn giản, chết đơn giản.

-Nhưng tui muốn được đưa tiễn bà Jean.

-Đưa tiễn thì được, nhưng lãnh bà về chôn cất thì chắc mình không làm nổi. Tốn kém lắm.

-Nhờ ông chủ liên lạc với nhà xác để cho tui biết ngày giờ họ đưa bà ra nghĩa trang.

-Việc ấy thì không khó.

Chiều nay thời tiết trở nên lạnh hơn những ngày trước. Gió tháng chạp lạnh như dao cắt. Trời rắc những hạt mưa nhỏ, vừa đủ ướt áo. Ngày mai là Giáng Sinh rồi. Armin mặc phong phanh chiếc áo gió nên run lập cập. Armin đã tới nghĩa trang từ trưa. Nghĩa trang nằm cạnh cánh rừng, trong vuông đất trũng có thật nhiều cây cao xung quanh, xa phố xá và nhà cửa. Đường đi trơn trợt, nhiều đất hơn đá. Mộ là những phần đất nhỏ, bằng mặt. Không có lấy một núm mồ. Mộ bia là những trụ xi măng nhỏ, thấp, nhiều cái nghiêng ngã. Không một cây hoa kiểng. Có nơi cỏ mọc cao che hết phần mộ.Lúc chập tối đoàn đưa xác mới đến. Người ta để bốn cái quan tài chung trong một chiếc xe mui đen. Không có xe mô-tô cảnh sát hộ tống.Bốn cái lỗ huyệt đã được đào sẵn, nằm gần nhau. Như vậy là những tử thi khác theo thông báo đã có người nhận. Khi bốn quan tài đưa xuống từ chiếc xe thì thủ tục an táng làm thật nhanh, cũng có vị mục sư đọc kinh tập thể rất ngắn cho bốn quan tài. Ai cũng muốn làm xong cho nhanh để về. Chỉ có mấy nhân viên nhà xác và Armin. Không có một thân nhân nào của bốn người chết. Khi các quan tài hạ xuống huyệt, Armin đọc thầm mấy lời kinh rồi ném một bó hoa huệ trên mỗi nắp áo quan, tiễn đưa người chết. Riêng phần huyệt của bà Jean thì Armin cúi đầu thật lâu, miệng thì thầm mấy lời vĩnh wreath9.gifbiệt. Ngoài bó hoa huệ, Armin bỏ xuống lòng huyệt vòng nguyệt quế với dãy lụa trắng viết chữ đen :  « Thành kính tặng Mẹ món quà Giáng Sinh năm nay ».

Đoàn người và xe đã về từ lâu. Armin vẫn còn muốn ở lại đây cho tới khuya để trông thấy một thiên thần bay lên vùng trời cao rộng  với vòng nguyệt quế còn ấm tay mình.


 

Xmas 2007 .  Trần Bang Thạch

cadeau8.gif

 

Enter supporting content here