VĂN                      

ThuCa_GSNVT_Portrait.jpgNguyễn Văn Trường

Cựu học sinh Phan Thanh Giản

Giảng dạy tại ĐHSP Huế & Sài Gòn

Tùng sự tại Bộ Giáo Dục VNCH

_________________________________________________

  

Dưới đây là 1 bài viết khác của GS Nguyễn Văn Trường, cùng đề tài với bài “ Qui Y Tam Bảo” mà Trang Nhà đã rất hân hạnh đăng trước đây. Cả tháng nay,Trang Nhà dành cho những bài chủ đề Xuân và Tết nên mãi đến hôm nay Trang Nhà mới giới thiệu “QUY Y TAM BẢO HAY QUY Y TAM THÂN” cùng bạn đọc. BBT xin cáo lỗi với những bạn đọc đã mong đợi bài viết và đặc biệt cáo lỗi với tác giả.

October 24, 2013

Quy Y Tam Bảo hay Quy Y Tam Thân?                

  tl_Feb7_LineOfLotuses.jpg

 

Nguyễn văn Trường


Trong Phật Học Phổ Thông, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa có viết: “Tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt (gọi là đồng thể Phật bảo) đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng (gọi là đồng thể Pháp bảo),  đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp (gọi là  đồng thể Tăng bảo).” 
Quý sư sải cũng thường giảng cho chúng tôi rằng mỗi chúng sinh đều có Phật tính, và nhờ đó mà ai ai đều có thể thành Phật.  Thậm chí có vị còn xác quyết:  ‘chúng ta là Phật đang thành’ hay ‘Tu để làm gì? Là để thành Phật’.
Chúng tôi lấy lời ghi trên của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa làm  tín lý.  Và nghĩ rằng Quy-Y Tam Bảo chính yếu ở trong  Lý- Quy-Y:   Lý- Quy-Y tam bảo là trở về thể tánh, pháp tánh, và tăng tánh mà hiện hữu  ngay trong mỗi người chúng ta..


Vì vậy mà trong một bài trước, viết về Quy Y Tam Bảo[1], chúng tôi có đi đến kết luận là:
Quy y tam bảo là trở về với chính mình.
Cái chính mình ấy là gì ? Nhà Phật bảo : ‘Cái thể của nó là Không.  Tướng của nó là Vọng.’  Nghĩ cho cùng,  đó là Tam-Thân-Phật : Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Tam thân phật—nói gọn hơn Tam-thân.
Trở về với chính mình—với một số người học Phật— là trở về với Tam-thân trong chính bản thân mình. Tam-thân là nội dung của bài nầy.

Tam thân—Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân—tùy trường phái, tùy cái nhìn, có đnh nghĩa khác nhau. Thật phức tạp.



Phần I: Nhìn sơ khởi theo kinh sách.

TL_feb7_tayPhat.jpg

1.      Theo Wikipedia,

Tam thân (trikāya) là một thuật ngữ được dùng trong Phật giáo Đại thừa (mahāyāna) chỉ ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân vật đã xuất hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh—chính là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó.”

Pháp thân (dharmakāya), là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là
Pháp (dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên Trái Đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (buddha-dharma) như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (śūnyatā), A-lại-da thức (ālayavijñāna), hay xem nó là Phật, Phật tính (buddhatā), là Như Lai tạng (tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân.”

Báo thân (sa
bhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân, “thân của sự thụ hưởng công đức”: chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (dvātriśadvara-lakaa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa (daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ.”

Ứng thân (nirmā
akāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thân có thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt.”

“Cốt tủy của thuyết tam thân là: Phật được xác định hoặc biểu hiện trong ba thân, hay cách, hay chiều  giác ngộ, và cả ba là nền tảng tối hậu của sự hiện hữu.   Đó là Pháp thân—dharmakaya—thân của chân như, sự thật tuyệt đối, chân thật rốt ráo.  Báo thân—sambhogakaya—là thân của sự hứng thú và siêu việt của Phật; và Hóa thân hay Ứng thân –nirmanakya—là  là thân tứ đại của Phật.”

“Hóa thân là thân của vô thường, vì nó hiên hữu trong thời gian và không gian.
Hóa thân Phật là Đức Phật lịch sử.”

“Nói chung, tam thân Phật là: Phật lịch sử--nirmanakya,  Báo thân—sambhogakaya—là thân của cuộc sống tâm linh. Và Pháp Thân—dharmakya là thân của vũ trụ quan.”


  1. Trong cái nhìn thế tục, về tam thân có người đã viết:

    ‘Nirmanakaya—ứng-hóa-thân— là con người ‘lịch sử’ của chúng ta trong bối cảnh lịch sử cụ thể của môi trường, từ khi sinh đến khi chết. Nói cách khác, “nirmanakaya là kinh nghiệm của chúng ta về sự liên tục, nói riêng là nền tảng của cá tính, cái căn cước riêng của chúng ta.
    Sambhogakaya—báo-thân— là thân của cuộc sống tâm linh của chúng ta.
    Nói rộng hơn là “sambhogakaya là kinh nghiệm của chúng ta vê vô thường, sự luôn đổi thay, và cũng hiểu là cơ sở cho luân hồi.”
    Dharmakya—pháp-thân— là thân của vũ trụ quan.  Có thể nghĩ: dharmakaya là kinh nghiệm của chúng ta về sự mở rộng vô hạn, tính không hay  cơ cở mà không là cơ sở của mọi sự việc.”  Cũng có thể nghĩ đó là chân như, sự thật, Phật tri kiến.

“Tam thân không là gì khác hơn ba cơ sở của sự giác ngộ biểu hiện trong kinh nghiệm của chúng ta.”Đó là ba cơ sở kinh nghiệm thực tế mà ta gọi là tam thân-Phật, hoàn toàn hiện hữu trong mỗi con người. Ba kayas một sự thống nhất đã có trong mỗi con người và tạo nên Phật-tính—buddhanature— của chúng ta: trạng thái hoàn hảo của sự giác ngộ, Đức Phật hoàn toàn thể hiện nhưng cái tôi của chúng ta có xu hướng bóp méo. Vì xu hướng của chúng ta là che khuất Phật-tính, chúng ta hiếm khi thừa nhận sự viên mãn của gấp ba lần kinh nghiệm của chúng ta qua tam thân. Thay vào đó, chúng ta có xu hướng chỉ tập trung vào một khía cạnh kinh nghiệm của con người - hầu hết tập trung trên sự liên tục, một số người tập trung trên vô thường, trong khi những người tu hành có xu hướng tập trung vào tính không. Nhưng tập trung vào chỉ một hoặc hai trong số những kinh nghiệm làm chúng ta không hoàn toàn giácngộ. Điều này là do nơi: ba kayas bất khả phân, và vì vậy một cách để giác ngộ để nắm lấy tất cả ba: ‘Khi chúng ta ở lại trong tự nhiên vốn có của chúng ta, trong sự thuần khiết của nó (buddhanature của chúng ta), chúng ta sẽ phát hiện ra rằng kinh nghiệm của chúng ta là hiện thân của sự trống rỗng của Pháp thân, vô thường của Báo thân, tính thực tiễn của các Hóa thân, tất cả cùng một lúc.’”

 

“Ở cấp độ này của cuộc sống, mỗi kaya ngụ ý hai kayas kia: không kaya nào có thể tồn tại mà không có hai kayas kia.”[2]

Chúng tôi chọn hai cái nhìn trên đây, nghĩ rằng: rõ ràng nhất, thiết thực nhất, và gần chúng tôi nhất.


Phần II:  Tu hành là trọn vẹn với
chính mình?
 
tl_nov6_buddistSymbol.jpg

Thiết nghĩ:  

1. Đạo Phật không là lý luận, không chỉ là triết thuyết—bao nhiêu tạng Kinh Điển của Phật-gia là một kho tàng, quí báu vô cùng của loài người—nhưng vẫn là không, nếu không hành tu. 

 

Cho nên, đi vào cửa Phật : không nương tựa, cũng không phục tùng hay vâng lời một Phật, một pháp, một tăng, hay bất cứ một thần thánh nào ở bên ngoài, càng không phài là phục tùng hay vâng lời một tổ chức tôn giáo thế gian, mà là trở về với tam thân trong chính mình.  

Trong một giới hạn nào đó là tìm chính mình trong tam thân, hay tìm tam thân trong chính mình, qua những kinh nghiệm sống..

 

Cuộc sống tu hành là hành trình tìm lại bản thân, qua một chuổi dài trải nghiệm để nhận thức cái bản chất chân thật của mình. Cái bản chất đó, theo kinh sách, là Phật tính,  tam-thân-phật.
Nhưng tam-thân-Phật không chỉ là chữ nghĩa, lý luận. Chữ nghĩa, lý luận, logic dẫn đến quan niệm, chủ thuyết và những thứ ấy chỉ là kết quả của những trò chơi trừu tượng của trí tuệ. Trong một giới hạn nào đó, tam-thân-phật nêu ở phần I trên đây, có thể là ‘ngón tay của Phật chỉ mặt trăng’—chớ không là mặt trăng. ‘Nhìn theo ngón tay Phật thì thấy mặt trăng, ngón tay Phật không là mặt trăng.’ Tam-thân-phật nên hiểu là con đường  hành tu, là cuộc hành trình thực tiển kinh nghiệm, thật sống, trực nghiệm trong giòng đời

Ngón tay của Phật không là mặt trăng.  Kinh sách, lời dạy của các tổ, của Phật vẫn là kiến thức sách vở, có thể là một trò chơi trí tuệ, có thể cần thiết và hữu ích, trong mức độ mà nó không trở thành ngục tù—ngục tù xây trên những nguyên tắc, đạo lý, giáo điều, phương cách, mà ta khẳng định là tất yếu, phải như vậy, không thể khác, tối thượng thừa, ‘chân thật bất hư’,…— để tự giam mình vào đó, với lòng tự mãn rằng đã tìm được minh sư, giáo chủ, chỉ dạy cho con đường đạo an bình và chắc chắn, hay chi chi khác.
An bình trong am cốc của các tín lý, có thể là rất tốt cho một sự vị kỷ ẩn tàng trong vô thức.

Nhưng đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát.  Tín lý là xác quyết khả năng giác ngộ và giải thoát của con người. Tín lý không là sự giác ngộ.  Tín lý gợi ý một con đường—con đường giác ngộ, con đường giải thoát, nhưng cuộc hành trình của người tu Phật không là theo một con đường mòn—‘đường xưa lối cũ’ hay ‘con đường cổ xưa’ nào đó.  Con đường ấy, ta phải tự tìm lấy. ‘Hãy tự đốt đuốc lên mà đi.’ Đó là lời Phật dạy. Không có bữa ăn min phí. Cái gì cũng có cái giá của nó mà ta phải trả.
Hành tu không có nghĩa là lười biếng—dành cho các sư sải cái nhiệm vụ đọc và tìm hiểu kinh sách—rồi để sư sải ‘ban’ cho mình một pháp tu. Nói theo người bình dân, là sư sải cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy—món ăn tinh thần.

R. Tagore có viết:

‘Tên tôi là một nhà tù. Tôi tự nhốt mình trong đó , và tôi đang khóc
Ngày qua ngày, tôi
đã dày công tô đắp bức tường chung quanh ; trong bóng tối của nó tôi không thấy tôi đâu nữa.’[3]

Ông ngộ ra rằng Ông đã tự giam mình trong tên Ông. 
Đọc lên, tôi cảm nhận một nhu cầu giải thoát : thoát ra nhà giam của cái tên, hay cái tôi,  mà suốt đời ta xây đắp. Không khéo tín lý của Phật gia là một nhà tù khác cho con người.

Hành tu cũng không có nghĩa là tụng niệm kinh kệ, mà không hiểu nghĩa, và khi hiểu, lại không đưa vào thử thách trong thực tế. 

 

TL_feb7_lotusLantern.jpgHành tu là một quá trình kinh nghiệm thực tế, nói gọn hơn, hành tu là một quá trình thực nghiệm.
Nói:
nirmanakaya là nói kinh nghiệm của chúng ta về sự liên tục, nói riêng là nền tảng của cá tính, cái căn cước riêng của chúng ta.
Nói: “sambhogakaya là nói kinh nghiệm của chúng ta về vô thường, sự luôn đổi thay, và cũng hiểu là cơ sở cho luân hồi.”

Nói:
dharmakaya là kinh nghiệm của chúng ta về sự mở rộng vô hạn, tính không hay  cơ sở mà không là cơ sở của mọi sự việc.”

Và xin lặp lại:
“Tam thân không là gì khác hơn ba cơ sở của sự giác ngộ biểu hiện trong quá trình thực nghệm. Trong quá trình nầy ba thân mà là một, bất khả phân.

 

***

 

            Thay lời kết:

 

Tuần qua, bạn tôi, anh Mai Lộc có gởi cho chúng tôi một điện thơ, nội dung :

TL_Oct11_fallingAutumnLeaves.jpgCùng Bạn ,

Cali trời đang giữa thu , hôm nay cây cối mới bắt đầu úa vàng , không như các tiểu bang miền đông , mùa thu lá vàng đến sớm  hơn. Công viên nơi đây hôm nay lá vàng đã rơi đầy . Tôi cố giữ tâm tư mình thật yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi . Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta . Xin gởi bạn một cảm tác mùa thu, 

Thân mến 

Mailoc

 

L Á THU .

 

Lâng lâng chiều nhẹ mắt say say ,

Tan tác rơi rơi lá thở dài .

Hiu hắt gió đâu từ vạn dặm ,

Nỗi sầu vạn cổ nắng thu phai .

 

Sương xuống mơ hồ ướt mắt mi ,

Bên đường lạnh lẽo đóa tường vi .

Bóng người mờ ảo xa xa khuất ,

Trong bước phong sương nghĩ ngợi gì ?

 

Nắng chiều nhàn nhạt gió lơi lơi ,

Lạnh cả không gian thấm cuộc đời .

Đường vắng bâng khuâng nghe lá khóc ,

Trong mây trong khói mắt xa vời  .

 

Quây quây trong gió lá thu rơi ,

Xao xuyến hồn ta đến cuối trời .

Xanh tươi mới đó, đùa chim chóc ,

Nắng hạ vẫy chào, xác tả tơi .

 

Bên nhau đất khách những năm trường ,

Mỗi độ thu về mỗi vấn vương .

Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,

Mái đầu hai đứa trắng như sương ,

Mailoc

11-16-13

 

Thiền sinh cố giữ tâm tư yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi. Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta.”

Đọc lên, nghe âm vận, thì đó là thơ, thơ  trong văn xuôi, gieo hạt giống thiền.

Thế mà  có người nói: “Thơ-thiền không là thơ. Văn-thiền không là văn. Nàng-thơ,

mặc áo tràng, đầu lại trọc, không thơ thẩn, không văn vẻ với trăng gió tình trường, thì còn đâu là chất thơ, chất văn  của nàng. Thơ-thiền hay văn-thiền cũng không là thiền, vì ngoại hình là ngôn từ và âm vận thuộc ta bà thế tục, mà tâm tư thì vướng bận bởi sắc, thanh, hương, vị của trần gian. Tương tự,  thiền hành không là thiền, cũng không là đi đứng bình thường, như người bình thường, ‘hằng ngày’ với ‘tâm vô quái ngại.’ Thiền hành là đi theo qui ước của nhà thiền.  Đời người sớm bị cột trong những qui định của xã hội.  Tỉnh ngộ, con người muốn giải thoát ra những ràng buộc của lễ nghi trần tục hay của tham, sân, si, mạn, nghi,…hay của vọng ngã, thì lại vội vã tròng thêm vào mình những phương cách thoát vọng, tịnh tâm…của nhà Thiền.

Thiết nghĩ—trong bối cảnh ‘thu’ của anh bạn tôi:

 

‘Lá thu’ là ‘tiếng chuông tỉnh thức’.  Tâm đang muốn tự nhốt mình trong yên lặng, với mộng ước—ngầm sâu trong tiềm thức, ẩn tàng trong vô thức—một tâm-thức tìm cầu yên lặng. Nhưng rồi ‘những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân’ đã làm thiền sinh thức ngộ, trở về thực tại:  Thu về, thu đẹp, thu buồn. Buồn man mác. Thiền ở đâu? Mà Nàng Thơ ở đâu?  Phải chăng ở thời điểm ấy, mình đã trở về với chính mình, trọn vẹn với mình.


Nhờ vậy, tôi  hưởng được ‘Lá Thu’ của Anh.

 

***

 

‘Trở về với chính mình’ là câu tôi thường nói, thường hay viết.


Mới đây tôi dại dột, thêm một lần nữa, viết lên giấy trắng mục đen.  Một ông bạn già của chúng tôi, anh Phạm Khắc Trí, hỏi lại: Cái mình của anh là ai?

Tôi lúng túng, làm thinh.

Hôm nay, thiền sinh cho tôi một ý:

Trong cuộc sống vô thường, ồn ào, năng động, đầy dẫ ô nhiểm—ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tâm-linh— thiền sinh tìm sự thanh tịnh, tĩnh lặng trong lòng. Có thể đó là thái độ bỏ vọng tìm chân.  Muốn tìm về với cái chân thật nhất của mình, mà mình bị che lấp, mà mình nghĩ rằng vốn là thanh tịnh.  Hằng ngày, người thiền hành, ung dung tự tại.  Nhưng chiếc lá thu, một chiếc thôi,
ở ngay thời lúc ấy, vô tình đưa người trở về thực tại, thực cảnh, thực tâm; nghe lòng buồn man mác, cái buồn sang thu, buồn cũng vì tuổi đã sang thu, buồn vì thân phận. Rổi thả hồn mình với thơ văn, với âm vận. Rồi chia xớt chút gió thu, lá thu, tình thu với bè bạn.

Cái quá trình ngắn ngủi nầy là biểu hiện cái ‘mình’ của thiền sinh.
Ở mỗi thời điểm, c
ái ‘mình’ ấy hiện hữu, rất thật.Với thiền sinh, ‘Nó’ thật có, ‘Nó’ không  là hư giả.  Chỉ vì ‘Nó’  chỉ hiện hữu—ở một thời điểm—mà thời điểm thì không có chiều thời gian (một sát na đã là nhỏ, thời điểm thì vô-cùng-nhỏ, nhỏ hơn một sát na),  chỉ vì vậy, vì không nắm bắt được, hay giữ lại  bất cứ cái gì xảy ra trong thời điểm,  mà có người nghĩ ‘Nó’ không thật;  và ‘xúi quẩy’ người khác đi tìm chân.  Còn tìm,  ắt chưa gặp, càng tìm thì càng thấy xa vời.  Cho nên, cái chân như mà thiền sinh tìm trong thiền hành, thật ra là vọng tưởng.

Có thể nghĩ: ‘Nó’ do tâm, do thất tình lục dục—một phần của tâm— mà ta ý thức được.  ‘Nó’ là hiện tượng biểu hiện ‘Tâm’. Tâm—Pháp thân, Phật tính— là Chân-như, Vĩnh-hằng, Bất- biến, Bất-sinh-diệt, như các thầy, sư sải thường giảng? 

Nhìn ‘Nó’ suy ra chân như. Suy ra là logic. Logic thuộc lý luận. Cái mà suy ra từ lý luận là concepts, quan niệm. Quan niệm là một cấu trúc của tư duy :  không thật có , không hiện hữu.. Trong cái nhìn đó, chân-như-suy-ra-từ-logic là vọng mà hiện tượng là thực. hiện tượng hiện hữu ở mỗi thời lúc.  Nhưng hiện tượng như bọt biển, không nắm bắt được, có đó rồi mất đó, nên xem là vọng, phát xuất từ một cái gì hằng tồn bất biến, vô tử, vô sanh. Cái vòng lẫn quẫn, đúng sai, thị phi, chân vọng.

Vậy, không nên cột mình vào vọng hay chân.  Cũng  đừng xung đột nhau vì phải trái đúng sai, hay dỡ.  Đừng cố chấp, đừng chấp. Bất chấp, không có nghĩa là không biết phải trái, đúng sai, mà là ý thức—hay tỉnh thức—rằng đúng sai, hay dỡ, phải trái là theo tiêu chuẩn nào của người đời, ý thức những tham số của sự đánh giá, ý  thức rằng sự đánh giá phải được qui về một khoảng thời gian  và bối cảnh nhất định. Thời gian qua, bối cảnh không còn, thì nên buông bỏ, xả bỏ. Ôm vào lòng làm chi để lòng thêm nặng.

Vậy, cái ‘mình của anh, của tôi’ có thể  là những hiện tượng có thật ở một thời điểm.  Một thời điểm, ngắn lắm, không chuyển được thành lời.  Nên phải làm thinh.

Đó là nói với nhau, trong vòng thân mật, giữa chúng mình là điều dễ cho phép, vì còn có một thời mình được  học các khái niệm về điểm, đường thẳng, …, vận tốc của một điểm di động ở một thời điểm nhất định
[4].  

Câu hỏi của Anh đã đưa tôi trở lại những trăn trở tuổi trung niên, khi làm quen với nghề dạy học. Tôi là ai? Rồi dạy học là gì? Là giáo dục. Mà giáo dục phải chăng là vạch sẵn một con đường mòn—con đường ‘thành nhơn chi mỹ’.  Rồi lùa tuổi trẻ vào đó.  Xưa, đã có người, và rất nhiều, đã ‘khóc cho một hôn quân vô đạo’, vì theo con đường thánh hiền vạch sẵn là trung với vua, thì nay cũng có cái đạo ‘yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa,’…. Và mỗi lần, câu hỏi trở lại với tôi, tôi lại nhớ bài thơ của Tô Đông Pha :

 

Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều

Vị đáo sinh bình hận bất tiêu

Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự

Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều

 

Thiền sinh muốn trờ về lại chính mình.  Mình là ai?  Nhưng mãi đến tuổi nầy, quá bát thập, đã cận ngày về với ông bà, cận lắm rồi, thế mà vẫn chưa biết mình là ai?

Cuộc sống là có khổ, có lạc. Khổ lạc là do thị phi hai ngã: đúng sai, chân vọng, giỏi dỡ, giàu nghèo, sang hèn, mạnh yếu,…Nhưng  Sư dạy: ‘Đời là khổ, tu là con đường  thoát khổ’. Sư bỏ chữ lạc, và nhấn mạnh lên cái khổ: Sư dọa thế nhân. Nhưng sư cũng thuyết phục: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, nhìn qua thì thật là logic. Một cái logic trừu tượng—dầu có nhiều thí dụ minh họa—lấy trong kinh sách.  Làm như thế để mình đi vào một tổ chức tôn giáo: một trật tự xã hội, với những đẳng cấp, lễ nghi, qui ước—nhiều qui ước còn khắc khe gấp mấy ngoài đời của người dân giả—gọi đó là con đường thoát khổ. Mượn kinh sách, Sư dạy rằng bước đầu tiên để thành người Phật tử là quy y tam bảo, nương tựa, vâng lời và phục tùng tam bảo, mà trong tam bảo, có cái bóng của Sư.

 

Đạo Phật là đạo của sự giải thoát.  Không những giải thoát con người ra khỏi những qui định của thế gian, mà còn giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, đưa con người đến cõi vô sinh vô tử.  Nhưng nghe lời sư, nguyện quy y tam bảo, là tròng thêm vào cổ những qui định mới— thở sao cho đúng, tọa thiền hay thiền hành sao cho phải, ..; nào là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, đã nói là quan sát, thì để cho chủ thể cái tự do nhận xét, thế mà lại buộc người ta phải thấy là ‘thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã.’ Nói cách khác là đã rào đón, cột con người trong một cái nhìn; điều nầy trái với tinh thần Vô-trước của Đạo Phật, cũng trái với mục tiêu giải thoát ban đầu của Phật gia.
Sống đạo—Đạo Phật—là vô trụ ‘Không trụ ở chánh, không trụ ở tà, không giam mình trong những triết thuyết, giáo lý, tín lý—dù chúng có siêu việt, có vô-đẳng, vô thượng đến đâu.  Cũng không trụ ở chỗ vô trụ,’ để trí tuệ không bị giam nhốt trong thành kiến, trong định kiến.


Tôi là ai? Vọng Chân? Tam Bảo? Tam-Thân? Những câu hỏi ấy ở trong di sản người xưa để lại.  Kẻ hậu học theo đó mà tìm. Có tìm ắt có gặp. Nhưng rồi như người bắt bóng. Gặp đó rồi mất đó.  Càng tìm, càng mở rộng tầm nhìn. Càng tìm nó càng biến dạng, càng xa. Đó là ‘vị đáo sanh bình’; nhưng không để hận, mà để thấy rằng mình may mắn.  ‘Đáo đắc’ rồi thì còn gì để mà nói, phải bàn. Phải biết vui vì chưa đến, chưa đạt, vì lúc nào mình cũng là Phật đang thành.
Đó là một hồng ân.

 

Houston, 01/15/2014



[1] ptgdtdusa.com

[2] Phỏng theo The Trinity & World Religions: The Buddhist Trikaya (pt.2). Nguồn: Internet.

 

[3] Nguyên Nguyên Huỳnh Hồng Cẩm. Nguồn Thiền. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin. Trang 34.

[4] vitesse d’un mobile à un instant donné. Tôi không có dạy cơ học, muốn rõ thuật ngữ VN phải hỏi anh Trí.

 

TL_Oct11_fallingAutumnLeaves.jpgV

LÁ THU

_____________________________

November 23, 2013

Anh Mai Lộc ơi,

Tôi có được email của Anh. Nội dung:

Cùng Bạn ,

Cali trời đang giữa thu , hôm nay cây cối mới bắt đầu úa vàng , không như các tiểu bang miền đông , mùa thu lá vàng đến sớm  hơn. Công viên nơi đây hôm nay lá vàng đã rơi đầy . Tôi cố giử tâm tư mình thật yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi . Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta . Xin gởi bạn một cảm tác mùa thu, 

Thân mến 

Mailoc

L Á THU .

Lâng lâng chiều nhẹ mắt say say ,

Tan tác rơi rơi lá thở dài .

Hiu hắt gió đâu từ vạn dặm ,

Nỗi sầu vạn cổ nắng thu phai .

Sương xuống mơ hồ ướt mắt mi ,

Bên đường lạnh lẽo đóa tường vi .

Bóng người mờ ảo xa xa khuất ,

Trong bước phong sương nghĩ ngợi gì ?

Nắng chiều nhàn nhạt gió lơi lơi ,

Lạnh cả không gian thấm cuộc đời .

Đường vắng bâng khuâng nghe lá khóc ,

Trong mây trong khói mắt xa vời  .

Quây quây trong gió lá thu rơi ,

Xao xuyến hồn ta đến cuối trời .

Xanh tươi mới đó, đùa chim chóc ,

Nắng hạ vẫy chào, xác tả tơi .

Bên nhau đất khách những năm trường ,

Mỗi độ thu về mỗi vấn vương .

Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,

Mái đầu hai đứa trắng như sương ,

                                     Mailoc

                                     11-16-13

Cám ơn Anh đã cho một bài thơ rất dễ thương. Âm vận nghe như tiếng nhạc.
Lâng lâng, say say, rơi rơi, xa xa, lơi lơi, quây quây,  như nhảy múa nhè nhẹ trong gió thu, đùa cợt với lá thu, nắng thu. Lại thêm một thoảng buồn. Buồn vì thu? vì tuổi đời đã sang thu? ... hay chỉ vì thói quen,  buồn mỗi độ thu vế?

Nhưng dễ thương nhất là bốn câu kết:

Bên nhau đất khách những năm trường ,

Mỗi độ thu về mỗi vấn vương .

Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,

Mái đầu hai đứa trắng như sương ,

***

Thiền sinh “cố giữ tâm tư yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi. Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta.”

Thơ trong văn xuôi, gieo hạt giống thiền.

Thế mà  có người nói: “Thơ-thiền không là thơ. Văn-thiền không là văn. Nàng-thơ, nàng-văn, mặc áo tràng và bỏ đi mái tóc diễm lệ, không thơ thẩn, không văn vẻ với trăng gió tình trường, thì đã mất cả cái chất thơ, chất văn của  của nàng. Thơ-thiền hay văn-thiền cũng không là thiền, vì ngoại hình là ngôn từ và âm vận là của ta bà thế tục, mà tâm tư thì còn vướng bận bởi sắc, thanh, hương, vị của trần gian. Tương tự,  thiền hành không là thiền, cũng không là đi bình thường, như người bình thường, ‘hằng ngày’ với tâm vô quái ngại.’

Thiết nghĩ:

‘Lá thu’ là ‘tiếng chuông tỉnh thức’.  Tâm đang muốn tự nhốt mình trong yên lặng, với mộng ước—ngầm sâu trong tiềm thức, ẩn tàng trong vô thức—một tâm-thức tìm cầu yên lặng. Nhưng rồi ‘những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân’ đã làm thiền sinh thức ngộ trở về thực tại:  Thu về, thu đẹp, thu buồn. Buồn man mác. Thiền ở đâu? Mà Nàng Thơ ở đâu?  Phải chăng ở thời điểm ấy, mình đã trở vể với chính mình, trọn vẹn với mình.

Nhờ vậy, tôi  hưởng được ‘Lá Thu’ của Anh.

 ***

  ‘Trở về với chính mình’ là câu tôi thường nói hay viết.

 Mới đây tôi dại dột, thêm một lần nữa,  viết lên giấy trắng mực đen.  Một ông bạn già của tụi mình, anh Phan Khắc Trí, hỏi lại: Cái mình của anh là ai?

Tôi lúng túng, làm thinh.

Hôm nay, thiền sinh cho tôi một ý:
 
TL_autumnRoad.jpgTrong cuộc sống vô thường, ồn ào, năng động, đầy dẩy ô nhiểm, thiền sinh tìm sự thanh tịnh, tĩnh lặng trong lòng. Có thể đó là thái độ bỏ vọng tìm chân.  Muốn tìm về với cái chân thật nhất của mình, mà mình bị che lấp, mà mình nghĩ rằng vốn là thanh tình.  Hằng ngày, người thiền hành, ung dung tự tại.  Nhưng chiếc lá thu, một chiếc thôi, ở ngay thời lúc ấy, vô tình đưa người trở vế thực tại, thực cảnh, thực tâm, nghe lòng buồn man mác, cái buồn sang thu, buồn vì tuổi đã sang thu, buồn vì thân phận. Rổi thả hồn mình với thơ văn, với âm vận. Rồi chia xớt chút gió thu, lá thu,  tình thu với bè bạn.

Cái quá trình ngắn ngủi nầy là biểu hiện cái ‘mình’ của thiền sinh. Ở mỗi thời điểm, cái ‘mình’ ấy hiện hữu, rất thật, Với thiền sinh, nó thật có, ‘Nó’ không  là hư giả.  Chỉ vì ‘Nó’  chỉ hiện hữu--ở một thời điểm—mà thời điểm thì không có chiều thời gian (một sát na đã là nhỏ, thời điểm thì vô-cùng-nhỏ hơn một sát na),  chỉ vì vậy, vì không nắm bắt được, hay nhốt bất cứ cái gì xảy ra trong thời điểm,  mà có người nghĩ ‘Nó’ không thật;  và xúi quẩy người khác đi tìm chân.  Còn tìm,  ắt chưa gặp. càng tìm thì càng thấy xa vời.  Cho nên, cái chân như mà thiền sinh tìm trong thiền hành,  thật ra là vọng tưởng.

Có thể nghĩ: ‘Nó’ do tâm, do thất tình lục dục—một phần của tâm— mà ta ý thức được.  ‘Nó’ là hiện tượng biểu hiện ‘Tâm’. Tâm—Pháp thân, Phật tính— là chân như, vĩnh hằng, bất biến, bất sinh diệt, như các thầy, sư sải thường giảng.  

Nhìn ‘Nó’ suy ra chân như. Suy ra là logic. Logic thuộc lý luận. Cái mà suy ra từ lý luậc là concepts, quan niệm. Quan niệm là một cấu trúc của tư duy :  không thật có , không hiện hữu.. Trong cái nhìn đó, chân-như-suy-ra-từ-logic là vọng mà hiện tượng là thực, hiện tượng hiện hữu ở mỗi thời lúc.  Nhưng hiện tượng như bọt biển, không nắm bắt được, có đó rồi mất đó, nên có thể xem là vọng, phát xuất từ một cái gì hằng tồn bất biến vô tử vô sanh. Cái vòng lẫn quẫn, đúng sai, thị phi, chân vọng.

Vậy, không nên cột mình vào vọng hay chân.  Cũng  đửng xung đột nhau vì phải trái đúng sai, hay dỡ.  Đừng cố chấp, đừng chấp. Bất chấp, không có nghĩa là không biết phải trái, đúng sai, mà là ý thức—hay tỉnh thức—rằng đúng sai, hay dỡ, phải trái là theo tiêu chuẩn nào của người đời, ý thức những tham số của sự đánh giá, ý thừc rằng sự đánh giá phải được qui vế một khoảng thời gian  và bối cảnh nhất định. Thời gian qua, bối cảnh không còn, thì nên buông bỏ, xả bỏ. Ôm vào lòng làm chi để lòng thêm nặng.

Vậy, cái ‘mình của anh, của tôi’ có thể là những hiện tượng có thật ở một thời điểm.  Một thời điểm, ngắn lắm, không chuyển được thành lời.  Nên phải làm thinh.

Đó là nói với nhau, trong vòng thân mật, giữa chúng mình là điều dễ cho phép, vì còn có một thời mình được học các khái niệm về điểm, đường thẳng, …, vận tốc của một điểm di động ở một thời điểm nhất định
[1].   

Câu mở đầu email của Anh, đã đưa tôi trở lại những trăn trở tuổi trung niên, khi làm quen với nghề dạy học. Tôi là ai? Rồi dạy học là gì? Là giáo dục. Mà giáo dục phải chăng là vạch sẵn một con đường mòn—con đường thành nhơn chi mỹ.  Rồi lùa tuổi trẻ vào đó.  Xưa, đã có người, và rất nhiều, đã ‘khóc cho một hôn quân vô đạo’, vì trunng với vua, thì nay cũng có ‘yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa,’…. Và mỗi lần, câu hỏi trở lại với tôi, tôi lại nhớ bài thơ của Tô Đông Pha;

 Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều

Vị đáo sinh bình hận bất tiêu

Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự

Lô Sơn yên toả Triết Giang triều

 Thiền sinh muốn trờ về lại chính mình.  Mình là ai?  Nhưng mãi đến tuổi nầy, quá bát thập, đã cận ngày về với ông bà, thế mà vẫn chưa về đến. Kể là một cái may lớn mà thân phận dành cho mình.

 Lần nữa cám ơn Anh. ‘Lá Thu’ đã làm tôi xao động, Câu mở đầu đã dẫn tôi đi lung tung. 

Thân chúc Anh Chị một thu đời thật đẹp.

Thân,

Trường

 

P.S.: Đồng kính gởi quí anh: Pham Khắc Trí, Trần Bang Thạch và Đổ Chiêu Đức.

___________________________________________________________________________

 

QUY Y TAM BẢO

Thoạt nhìn thấy tựa bài, chắc không ít người nghĩ đề tài về quy y tam bảo mình đã đọc hay đã được nghe giảng hơn 1 lần rồi. Và đã hiểu theo kinh điển cũng như đã sống nhiều năm nay : quy y tam bảo là sự-quy-y mà thôi : đi chùa, lạy tượng, nghe pháp, kính tăng, theo những nghi lễ được dạy.

Nhưng khi lần lượt nghe tác giả, qua nghiên cứu và qua nhận định rất cá biệt của mình- nếu không muốn nói là đi ngược với cái lý thông thường (controversial) -, người đọc không khỏi ngỡ ngàng như được bước ra từ một áng mây mù để thấy : Quy y tam bảo là trở về với chính mình, tỉnh thức trước hiện tình, và tự tri, tự giác. Như tác giả nhận định : Phật , Pháp, Tăng đã sẵn có trong mình, nhưng vì vọng tưởng che lấp, tâm mình bị giao động. Quy y tam bảo không là đánh mất mình trong sự-quy-y ; và không lúc nào là ‘kính vâng hay phục tòng’ bất cứ ai.

Trân trọng cảm ơn tác giả - một Niên Trưởng Đồng Môn - đã cho phép Trang Nhà đăng bài này trước tiên. Xin ân cần gởi đến Bạn Đọc Trang Nhà.

BBT Trang Nhà                                    
 

 

 

 
tl_nov6_buddistSymbol.jpgQuy Y Tam Bảo

 

Nguyễn Văn Trường

 

 

 

 

 

Tôi chân thành cám ơn Ông Đồ Đổ Chiêu Đức, nhà văn Trần Bang Thạch của chúng tôi. Hai ông  đã giúp tôi rất nhiều trong việc hình thành bài viết nầy

____________________________________________________________
 

tl_nov5_lotus4.jpg
Học, thường thì phải có thầy.  Quy y Tam Bảo lễ bái sư và cũng là bài học đầu tiên của người Phật tử.

Bài này gồm hai phần[1]:  I, II,

Phần I:

Chủ yếu là tóm lược những điều mà chúng tôi học được—về quy y tam bảo— từ quý thầy, thiện tri thức—sư sải, cư sĩ, quý anh chị Phật tử:  nghe thuyết pháp ở chùa, pháp đàm trên You Tube, đọc sách hay internet, ….  Tuy nhiên, đối với những người sơ cơ như chúng tôi, thiết nghĩ không gì bằng Bài Thứ 4: Quy Y Tam Bảo, Khóa I, trong Phật Học Phổ Thông, của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa.  Cho nên, phần I dành tóm lược Bài thứ 4 nầy.  Trong phần I nầy, những đoạn trích dẫn được để trong ngoặc đơn . Thí dụ: ‘Quy-y là trở về nương tựa’.
Đối với đông đảo bạn bè tôi, và riêng với chính tôi, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa là một bậc chân tu.  Bộ Phật Học Phổ Thông là là bộ sách đầu giường của chúng tôi, khi chưa có Internet. Với tôi, đó là một cuốn bách khoa toàn thư về Phật Học—kiến thức phổ thông, rõ, súc tích và chính xác.

Phần II.

tl_Nov5_lotus3.jpg Là những suy nghĩ của riêng chúng tôi. Nếu chúng tôi theo quý thầy trong Lý-Quy-Y—Quy Y là trở về với chính mình—, thì có một sự dị biệt rõ ràng về Sự-Quy-Y. Dị biệt không có nghĩa là bài bác.  Dị biệt nói lên một cái nhìn khác, với  thành tâm kính trọng bậc tu hành.
Người viết là một ông thầy giáo dạy toán.  Vốn liếng về kiến thức triết học gần như là không. Cho nên những gì chúng tôi nêu lên không là triết thuyết.  Cốt tủy là những suy nghĩ của chúng tôi, về những gì học hỏi được với nhiều thầy—sư sãi, thiện tri thức—
đối chiếu với cuộc sống tu học của đông đảo Phật tử trong đó có chúng tôi.

Nghi thức quy y là nội dung của một bài khác.

Giờ thì xin mời đọc giả vào đề.

 

 

 

                                                               Phần I                                                                                      

Tóm lược Bài 4. Khóa I. Quy Y Tam Bảo.

Phật Học PhổThông.

 

1. ‘Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa. 

1.1- ‘Quy là trở về. Y là nương tựa, Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng đãng lìa bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tòng.’ 

1.2- ‘Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.’ 

tl_nov5_Budda.jpg‘a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đã giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.’ 

‘b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.’ 

‘c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thâu nhận được, từ vật chất đến tinh thần.’

1.3- ‘Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.’ 

‘Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn’

‘Pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.’ 

‘ Tăng là người đã hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.’”[2] 

 2. Sự-quy-y Tam Bảo 

 tl_Nov5_lotus2.jpg2.1‘Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.’ 

2.2‘Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằng bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.’ 

2.3- ‘Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.’
‘Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phật pháp, kính trọng Tăng già
chân chính, đó chính là sự-quy-y tam-bảo.’  

3. Lý-quy-y Tam Bảo 

TL_Nov5_lotus.jpg‘Lý là bên trong. Lý-quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự-quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý-quy-y, hay Tam Tự-Quy-Y:’

3.1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng.’

3.2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình- đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp.’ 

3.3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!’ 

Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.’

         Phần II

Thiết nghĩ :

1. Về Sự-quy-y :

TL_Nov6_PinkLotus.jpg1.1. Quy Y Phật ?
Phật là một nhân vật lịch sử. Thái Tử Tất Đạt Đa Cổ Đàm tu và thành Phật. Người  cũng là truyền thuyết của một gương sáng vĩ đại về sự giác ngộ. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. 

Người tu hành noi gương Đức Phật mà hành trì tu tập, thiết nghĩ là một việc tốt, nên làm.  Thiếu đức tin, khó mà kiên trì, tu tập, giữ được lời nguyện. Đức tin là cấn thiết.

Tuy nhiên,
Cũng đừng vì đó mà luyện thiên lý nhản, hay thuận phong nhĩ, hay,..để được thần thông như Tề Thiên Đại Thánh.  Thời bây giờ, trong mỗi việc, gần như đều có những phương tiện thích ứng.  Không cần biết đằng vân, con người vẫn có thể đi nửa vòng trái đất không quá một ngày-đêm.
Cũng không để thành Phật.  Chưa xuất thế, thì còn là người trần tục.  Càng đạo cao đức trọng, càng thấy mình còn xa Phật quả. Còn là người thì còn lăn trong giòng chảy vô thường. Đời người là một quá trình biến đổi không ngừng— uninterrupted process of transformations, mà mọi việc đều tương đối. Tốt xấu, đúng sai, thiện ác,  giàu nghèo, sang hèn,...thị phi đôi ngả : cái nầy khác hẳn cái kia nhưng xác định cái kia. Nói cách khác là không có cái nầy thì cũng không có cái kia. Cho nên, có tự giác, giác tha, thì trong giới hạn khả năng của người đời,
hạnh giác ấy không bao giờ viên mãnLà người không là Phật, cũng không thể là những xuất thế gian tăng bảo.
Luôn ý thức về điều nầy,  thì có thêm nghị lực  hành trì tu học, thì có khả năng mở rộng sự thấy, biết, hiểu của mình, mở rộng và đào sâu tính giác của mình, và nhờ đó mà cảm nhận rằng sự giác ngộ của mình có giới hạn. Mình có khả năng luôn nới rộng giới hạn nầy, nhưng bên kia lằn ranh giới hạn là phần mù của mình. Nói cách khác là hành tu là làm cho cuộc sống của mình và của môi trường chung quanh mỗi ngày một tốt hơn cho mình, cho tha nhân và vạn vật. Ngày nào mà mình thấy mình đạt đạo, đắc quả, ngày ấy phải tự xét lại mình, coi chừng mình ‘chết’ vì thành đạt, nếu không là ‘chết’ vì sự cao ngạo.
Cuộc sống không có điểm đến :  Vừa đạt được một thành quả, thì trực nhận ngay rằng nó không hoàn hảo, hoặc có những cái khác mà mỉnh phải học hỏi và tìm hiểu thêm. Hoàn thành một giai đoạn thì ngay thời lúc đó,  là khởi điểm của một giai đoạn mới.

1.2. Quy Y Pháp ?

TL_Nov6_PinkLotus3.jpgPháp là văn chương, ngôn từ.  Hầu hết là truyền khẩu từ đời Đức Phật Thích Ca cho đến kiết tập lần thứ nhất, rồi lần thứ nhì,....  Rồi sang các tổ.  Rồi chuyển từ tiếng Phạn sang chữ Hán, rồi chữ Hán sang Việt Nam. Tam sao thất bổn, không ít.  Ngay di sản của các tồ cũng vậy, ít nhiều không là chân truyền. 
Hơn nữa, ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, và từ ngữ cũng thay đổi nghĩa theo bối cảnh, và câu văn
.  Cùng là quy y tam bảo, nhưng có người hiểu là sự-quy-y mà thôi : đi chùa, lạy tượng, nghe pháp, kính tăng, theo những nghi lễ được dạy.

Có người thì hiểu quy y là trở về với Phật tánh, với Pháp tánh, với cái tâm thanh tịnh, vốn biết sống trong lục hòa; tất cả--Phật, Pháp,Tăng—đều sẵn có trong mình.  Cho nên,  trở về với tam bảo là trở về với chính mình
[3]. Nói cách khác là quí vị nầy thiên hẳn về lý-quy-y.   Và theo Hòa Thượng Thiện Hoa, và đông đảo Phật tử thì quy y tam bảo có cả sự-quy-y và lý-qui-y.

Xưa có câu :

Y Kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan,
Ly Kinh nhất tự, tất đồng ma thuyết.

Y, không được ! mà ly cũng không được !

TL_Nov6_PinkLotus2.jpgKiến thức trong sách vở--nói riêng trong ba tạng kinh điển, là kiến thức trơ, vô hồn—inert, có khi đã thuộc một ngôn ngữ chết.  Người học phải làm chúng sống lại, căn cứ vào thực nghiệm tu tập, làm cho chúng có nghĩa lý, và đổi trao với thầy, với bạn theo đó mà trải nghiệm, để ‘liễu tri, liễu nghĩa’. Liễu là  tỉnh thức. Đừng mê ngủ mà nghĩ mình đã giác ngộ rốt ráo, cũng đừng tự ti. Tỉnh thức để thấy thật biết thật.  Cái thật ấy có thể là ý thức những giới hạn của mình, phần sáng và phần mù của mình, và mạnh bước vào một giai đoạn mới. Tri và hành thường có khoảng cách ; sống đạo—trong một giới hạn nào đó—là thực sống, ý thức và hành trì thu hẹp khoảng cách đó.
"Ðạo Bổn Vô Ngôn Thuyết" .Thường thường, con người chụp cái nhìn riêng của mình —sở đắc, thói quen, cái tôi vọng tưởng—trên sự việc, và hiểu pháp theo cái nhìn chủ quan đó. Ai ai cũng như vậy mà thôi.   Cho nên, đừng chụp cái tôi vọng tưởng trên Pháp, rồi ‘ngộ’ đó là chân Pháp. Và nếu có thật ngộ, cũng không ỷ lại nơi Pháp.  Và chắc chắn là : Pháp không là những công thức.

3.2. Quy y tăng ?

Cái hiểu biết của con người—của sư, của thiện tri thức, của chính mình— là chủ quan và giới hạn ; theo đó, cái ánh sáng của con người thật giới hạn, dầu rất hữu ích. Hữu ích vì cuộc sống thật, trong một giới hạn nào đó, rõ ràng là giao lưu, đối thoại, đổi trao, nói riêng những  hiểu biết và kinh nghiệm. Cuộc sống vốn là mở, mở rộng trên môi trường. Cho nên tu không là đóng cửa rút cầu, thu mình trong một tháp ngà, đời  đục ta trong. Nói như vậy, không phài là xúi quẩy rằng đời đục thì ta quậy nó cho đục thêm.

Thời của chúng ta là thời kinh tế thị trường. Trong các thị trường kinh tế có thị trường tu hành : sách báo, truyền thanh, truyền hình, đại hội văn nghệ sĩ giúp vui gây quỹ xây chùa, nhà thờ, tu viện, nhà nguyện, thiền đường, dịch vụ ma chay, cúng sao, cầu siêu, cầu hồn, xin xăm,..... và còn nhiều thứ khác nữa. Đồng tiền do đó mà quay, một số người nhờ đó mà sống.  Người bằng lòng mua, kẻ vui vẻ bán, góp phần vào sự  phồn thịnh chung của cộng đồng.
Không có cái gì đáng trách.
Có chăng là đông đảo sư sải—hay nói chung các nhà tu hành— trở thành lái buôn. Mục đích của người buôn bán kinh doanh là : lợi nhuận.  Vui lòng khách đến, vừa lòng  khách đi, là câu châm ngôn của người khéo buôn, khéo bán.
Cho nên cũng không có gì đáng trách.  
Nhưng quy y người lái buôn hoặc nhà kinh doanh thì thật không nên, nhất là quy y trong cái nghĩa ‘nương tựa, kính vâng hay phục tùng’Cũng không nên quơ đũa cả nắm, nói rằng thời nay là thời mạt pháp, quỷ ma đầy dẫy trong các nơi dành cho công quả tu hành.
  Thời nào cũng có bậc chân tu, tâm hướng về Phật, về Chúa.
 

TL_Nov6_LotusPond4.jpgCũng nên ghi : Tăng ni ngày nay, ít nhất là trong giới hạn của cuộc sống thực tiễn của các sư sải trong các chùa, không có ‘hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng’.  Thông thường, như họ giảng, tu là để  thoát khổ.  Đi tu Phật, trước tiên là tìm đường thoát khổ cho chính bản thân mình. Tìm con đường thoát khổ cho chính bản thân mình, đặt tham vọng—rất chính đáng—trong cứu cánh là siêu thoát—thoát khỏi sinh tử luân hồi—nhằm ‘đạt Niết bàn tuyệt đối’, mà nói rằng mình hy sinh, thì có thể đó là hy sinh cái kim sợi chỉ đỗi lấy đền vàng điện ngọc.

Tóm lại, sự-quy-y là hướng ngoại : Phật, Pháp, Tăng ở ngoài ta. Có nhìn hướng ngoại, thì phải dè dặt.  Đừng thấy ma mà tưởng là Phật, gặp lái buôn—dầu có chứng chỉ xác nhận là tăng hay ni của giới thẩm quyền -- mà nhận là bậc chân tu.  Đừng nghe Pháp mà tâm đầy vọng tưởng. Trong sự-quy-y, tin phải có nghi. Tin rắng cái biết của mình giới hạn, và cũng tin rằng mình có khả năng mở rộng giới hạn nầy. Nghi vì có lắm việc mà mình mù không thấy biết.

 

2.  Về Lý-Quy-Y :

Lý quy y là trở vế với chính mình.

Tự quy-y Phật là mình ‘tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình’

‘Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là ‘vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng’

Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là ‘vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình.’

Phật , Pháp, Tăng đã sẵn có trong mình, nhưng vì vọng tưởng che lấp, tâm mình bị giao động.  Tài, sắc danh, lợi, những sở đắc và giá trị mà mình thu lượm và thiết tha bảo quản suốt giòng đời là cái màn che lấp đó.  Do đó,  mình không thấy được chân tâm ; mình điên đảo, mê muội. 

TL_Nov6_LotusPond3.jpgRồi duyên đưa đẩy, mình sực tỉnh, biết mình đang mê. Thế nên, tìm thầy, tìm ‘dược sư’, tìm một bài thuốc an tâm.  Khởi đầu học Phật có thể là bỏ vọng tìm chân : vọng che lấp không cho ta thấy cái chân tâm ; vọng rơi, chân tâm hiện rõ.  Đó là quá trình tu tập logic để ‘khai, thị, ngộ, nhập, tri kiến Phật.’
Lý luận nghe dễ ợt. Nhưng logic, lý lẻ chỉ là một phần của cuộc sống tâm linh. Nó thuộc cái lớp trên mỏng dính của tâm linh mà các nhà tâm lý gọi là ý thức. Ý thức ví như cái phần mỏng nhỏ nổi trên mặt nước của tảng băng trôi. Cái phần chìm sâu trong tâm thức con người, tìềm thức—the unconscious, không khác cái phần khuất dưới nước của tảng băng trôi.  Nó chiếm gần hết tâm thức, nó là người chỉ đạo vô hình, vô tướng, nó là ông thầy tuồng trong bóng tối, chỉ huy và sai bảo, và ta thì theo đó mà làm trò, múa nhảy.
Ý thức và tiềm thức là tảng băng ngã vọng của con người, là nguyên nhân che lấp cái thật, cái chân thật của sự vật, nói riêng che lấp chân tâm.

Vọng ngã, vọng tâm là cánh cửa ngục tù, giam nhốt con người trong vô minh, nhưng đó là một ‘vô môn quan’-- ải quan mà không có cửa—vì thực chất nó là lớp sương mù dày đặc, che lấp không cho ta thấy cửa quan.  Cho nên, không qua được quan ải, không về được với chân tâm.

Cho nên quy y tam bảo là một sự thức tỉnh.  Tỉnh ngộ :  biết mình đang trong mê, điên đảo vì các sở đắc, tạp niệm, và nguyện khởi xướng một hành trình mới trở về với  tự tánh ngay trong  chính mình. Đó là :‘Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thanh tịnh’  để sống theo lục hòa, để tu và hành, ‘tự đốt đuốc lên mà đi’ để tiến về bến giác.

Kết luận :

TL_Nov6_LotusPond2.jpg1.  Tu không có nghĩa là hy sinh. Còn thấy mình hy sinh, mất mát một cái gì đó, là còn lắm vấn đề--nhất là thuộc lãnh vực tâm linh, mà có khi còn tệ hại hơn cả người bình thường thế tục.  Đó có thể là dấu hiệu của một sự vị kỷ ẩn tàng, và sâu đậm.  Đó cũng có thể là ảo tưởng bắt gặp chân lý, và được cái thiên chức là dẫn dắt chúng sanh trên đường Ðạo.

2. Tăng ni ngày nay đông đảo theo kinh tế thị trường, và là những nhà kinh doanh.  Nghi lễ kinh doanh của nhà chùa thường thường là: Sư phải được thỉnh, sư giáng lâm, sư ban pháp, đại nhạc hội của sư không gọi là kết thúc mà gọi là hoàn mãn, mọi việc của sư đều tròn--viên mãn, viên giác, viên thông ...và gần như tất cả những nghi lễ kinh doanh ấy, để cho tròn, cho trọn, phải có cái giá của chúng, giá trị thị trường. Có khi cũng đắc (giá vé cao) lắm. Sư không chết, sư viên tịch, nói khác là chết tròn. Thí chủ là con chiên, được dạy cúng dưởng, tu phước. Chùa chiền lắm khi là nơi tổ chức đại nhạc hội, ‘múa đôi’, xin xăm, cầu hồn… Công việc của sư là cầu siêu, cầu an, tổ chức những ngày ‘lễ lớn’—Phật Đản Sinh, Phật Thành Đạo, Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu,…. và những đại nhạc hội gây quỹ,...  Thỉnh thoảng sư có nhập thất, công bố cho mọi người biết, để không ai khuấy rầy sư. Sát suất về những điều nêu trên đây rất cao.
Nếu sư có sa ngã, lỗi là tại Phật tử làm hư sư.  Không phải tại sư. Cũng không phải do những biến cố thị trường.
Chắc chắn người tìm đạo, không làm lễ bái sư với quí vị sư-kinh-doanh nầy.

TL_Nov6_LotusPond.jpgTuy nhiên, nói đi rồi cũng phải nói lại. Trong giới kinh doanh có đủ hạng người. Đừng khư khư khẳng định như người xưa rằng ‘thương nhân đa trá’. Có những thương nhân đa trá, nhưng cũng có những người chân chất. Có những người cúng sao, ‘mở cửa địa ngục’, chiêu hồn về từ cõi âm, cũng có những người giỏi kinh giỏi kệ, và giảng kinh kệ có phẩm chất. Không nên in trí rằng những điều họ nói điều là rao hàng. Có trách chăng là một số đông ăn trên ngồi trước, sống một cuộc sống chăn ấm nệm êm, luôn có thị giả ở bên,... mà lòng trơ đi, gọi như vậy là chay tịnh trong lòng. Có trách chăng là một số tín hữu, nhẹ dạ hay vì thói quen trong thị trường danh lợi, nên muốn đầu tư cho kiếp sau : phước huệ song tu, cả hai đều có lợi.
Vậy, nên lắng nghe cho biết giả lẫn thiệt, để đối chiếu cái học và cuộc sống—nói riêng cuộc sống tu hành.  Gọi như vậy là học về cuộc đời, cuộc đời thật sống.  Nghĩ cho cùng, tu Phật là sống thật, thật với mình, thật với tha nhân.

Tóm lại,

TL_Nov6_FallHouse.jpg Quy y tam bảo không là đánh mất mình trong sự-quy-y ; và không lúc nào là ‘kính vâng hay phục tòng’ bất cứ ai.
Quy y tam bảo là trở về với chính mình, tỉnh thức trước hiện tình, và tự tri, tự giác. 
T
ri là biết, giác –bộ kiến, trong Hán Việt, kiến là thấy—hàm ý một khám phá.  Xưa nay mê lầm, không thấy, nhờ tâm hư được tĩnh lặng, nên mới thấy, mới khám phá, tỉnh thức, ra khỏi cơn mê, bắt gặp cái thật : cái chơn như, cái chính thật là mình.
Cái chính mình ấy là gì ? Nhà Phật bảo : Cái thể của nó là Không.  Tướng của nó là Vọng. Nghĩ cho cùng,  đó là Tam-Thân-Phật : Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Ba mà là một ; một mà  là ba.   Nhưng đó lại là nội dung của 1 bài khác.

NGUYỄN VĂN TRƯỜNG

 Tháng 10-2013

_________________________________

 

Sơ lược sách tham khảo :

-Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Phật Học Phổ Thông, Khóa I Bài 4  Quy Y Tam Bảo
-Vương Thúy Nga.  Chúng tôi học kinh
-Hòa Thượng Thích Viên Minh, Quy Y Tam Bảo. Pháp Đàm..

-Thượng Tọa Thích Minh Thành, Quy Y Tam Bảo. Pháp Đàm. You Tube.
-Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ.  Tiền làm Động Tâm. Tiền sinh Bất Tịnh.  Internet

Việt Nam, Chúa chiền và tiền bạc. BBC

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/04/130415_vn_religious_profits.shtml



[1] Chúng tôi theo trình tự của Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa.

[2] Trích Phật Học Phổ Thông. Quy Y Tam Bảo.

[3] Hòa Thượng Viên Minh: Quy Y tam bảo là trờ về với sự sánh suốt, bình tĩnh, trong lành sẳn có trong chính mình. Thượng Tọa Thích Minh Thành: Quy Y tam Bảo là trờ vế với ngọn đuốc tình thương, với từ bi và bình đẳng, với tính thanh tịnh của chính mình. Nguồn: Internet. Pháp Thọai

______________________________________________________________________________________________________________

 

Bạch Mã Phi Mã

Đằng Giao Tiểu Muội

Cựu học sinh trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ
và Le Myre De Vilers, Mỹ Tho

BBT: Bút hiệu mới nhưng người viết chính là bậc trưởng thượng của Trường Nhà, cũng là ngòi bút từng xuất hiện trên Trang Nhà. Bài viết mở ra 1 cái nhìn thật độc đáo và sâu sắc về hiện trạng đất nước mình. Người đọc hình như không thấy đầu óc nặng nề với cái ý chánh trị của toàn bài vì tác giả đã khéo léo hòa quyện nó trong ý văn bi hài. Vừa đọc vừa suy nghĩ. Vừa suy nghĩ vừa buồn cười. Cười châm biếm với những “người-thánh” đầy dẫy khắp nơi, đặc biệt là ở quê nhà!

tuổi tam thập, tôi tiếp cận với câu ‘Con ngựa trắng không phải là con ngựa.’ Hán Việt nói gọn hơn: ‘Bạch mã phi mã.’ Đó là câu nói của Công Tôn Long, khi ông qua một cửa ải, bị quân lính chận bảo ông phải xuống ngựa. Ông bảo: ‘Bạch mã phi mã.’ Con ngựa của Ông là con ngựa trắng. Vì ngựa trắng thì không là ngựa, nên ông không xuống ngựa.

.
Câu chuyện chỉ là vậy. Thế mà, Công Tôn Long, một nhân vật của Danh gia—sắp vào hàng thứ tư trong Bách Gia Chư Tử--nổi tiếng là ngụy biện.
Từ ấy, nhiều triết gia văn học bàn về ‘ngựa trắng không phải là ngựa.’ Cụ Giản Chi, trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc cũng có nói qua, và trên net có nhiều học giả bàn tới. Nhưng thú thật, càng đọc tôi càng mù mờ. Ôi triết học sao mà cao siêu quá lắm vậy!

Thế nhưng gần đây, nhớ lại thời trung niên—gần hai thập niên sống với những người quân tử thời hiện đại: ‘ăn chỉ gần no, mặc chỉ gần đủ ấm’, tôi mới ngộ ra cái nghĩa của ‘con ngựa trắng không phải là ngựa.’

Số là:

Họ là những con người ‘thánh thiện’.
Họ nói cái gì cũng đúng. Người người, nhà nhà đều hồ hởi, phấn khởi, vỗ tay, đồng loạt khen rằng họ đúng. Mọi người đều ghi tâm khắc cốt rằng: ‘sông có cạn, núi có mòn, nhưng chân lý ấy của họ thì luôn không bao giờ thay đổi’. Họ là ‘lương tri của thời đại, đỉnh cao trí tuệ của loài người’. Họ là những nhà tiên tri—prophets— thời nay. Mà là tiên tri tức thuộc bậc thánh.

.
Trong thực tế, họ là
thánh. Họ là những tông đồ khai đạo. Đạo Xã Nghĩa của Hội Xích Thánh, dịch nôm là Hội Thánh Đỏ. Tổ chức Hội Thánh Đỏ và cách hành xử gần như thời kỳ các tòa án dị giáo—Inquisition— ở Tây Ban Nha, thế kỷ thứ 16, xử thiêu các người dị giáo. Trong thực tế, ít nhất là trong giới hạn những kinh nghiệm mà tôi trải qua, thì trong thế giới do các thánh quản lý, ai mà nghĩ khác, làm khác lời các thánh dạy, đểu là dị giáo— heretic— đáng lên giàn hỏa. Kẻ dị giáo không có chỗ đứng dưới sự cai quản của các thánh
.

Thánh không là người. Chính danhh chi thuyết, thì nếu là người làm sao gọi là thánh được.

Vì thế nên: là thánh thì khó mà biết tình người, không hiểu tình người. Thánh chỉ biết Giáo Hội, giữ gìn đề cương của Giáo Hội.
Thế giới các
thánh không có cái ác. Chỉ có thiện. Mà thiện ác tương sinh: không có ác thì làm gì có thiện. Vậy, thế giới các thánh cũng không có thiện. Không ác, không thiện. Nói đúng ra, thế giới các thánh là thế giới phi thiện phi ác. Cho nên khi đọc Beyond the good and evil—tựa của một quyển sách của Nietzsche, tôi giựt mình, và lo sợ. May mà tôi chưa có cái tò mò đi vào nội dung. Nói riêng, vào trong thế giới phi thiện phi ác của các thánh tôi sợ mình lạc đạo. Mà lạc đạo là dị giáo.

Sống với các thánh, một trong những phản ứng của tôi là thèm muốn, ước mong, thiết tha trở về cái thế giới loài người: Thế giới của thiện ác, của sự bất toàn, của sự đổi thay, thế giới phù du, nhưng cũng là thế giới của sự góp phần, của hy vọng, của lòng tin ở sự tiến bộ của loài người. Không chắc vô thường là tiến bộ, vô thường không là điều kiện đủ cho tiến bộ. Vô thường là điều kiện cần và tối quan trọng cho tiến bộ. Còn cái thế giới vĩnh hằng, miên viễn, nước của chư Phật, của Thiên Chúa, cũng là một thế giới toàn thiện, tuyệt đối tốt, tuyệt đối chân thật—không có ác, không có cái xấu, không có giả dối— cũng là một thế giới phi thiện phi ác. Và ở đó, có gặp các thánh thì cũng vui thôi. Mọi chúng sinh đều bình đẳng trước Phật, và trước Chúa!

Trong xã hội lãnh đạo do các thánh—mà các thánh muốn là phi thiện phi ác—thì mọi người đều trở thành người-thánh. Người-thánh không khác người thường. Người-thánh in hệt người thường về thể chất. Nhưng về trí tuệ tâm linh thì là thánh. Người-thánh, tương tự như trẻ con VN sinh trưởng ở Châu Âu, lớn lên ở Châu Âu, nói tiếng địa phương, nghĩ như người địa phương, thất tình lục dục như người địa phương. Chúng giống như trái chuối—ngoài vàng, trong trắng như Mỹ trắng. Bên ngoài, chúng là da vàng mũi tẹt, VN rặt, nhưng bên trong tâm lý, nghĩ suy,…, tất tất đều là như người địa phương da trắng, trắng tinh. Người-thánh cũng tương tự như vậy; xác người mà hồn thánh. Một cách nói khác –và thực tế hơn—thì đó là những con người như người thường, nhưng đã cầm bán linh hồn cho các thánh, nên nghĩ như thánh, lý luận như thánh, hành sự như thánh.

Thế nào là hành sự như thánh?
Một thí dụ: Với các thánh này, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh: một thế giới đại đồng, không có người bóc lột người, không giai cấp; làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu; người người, nhà nhà sống hài hòa trong hòa bình an lạc. Cái cảnh thanh bình lạc thiện, mà từ xửa từ xưa đến nay, các đạo giáo— Khổng, Lão, Phật, Thiên Chúa, Hồi Giáo, Ấn Độ Giáo,…— đều bất lực, không đem lại cho nhân loại được, thì các
thánh có một con đường khoa học—con đường xã nghĩa— tất yếu đưa nhân loại đến Niết Bàn trần thế. Nói theo các thánh, nàng tiên xã nghĩa rộng mở cho mọi người, nhưng hoa đẹp nào cững có gai, nhưng đó là ‘hướng đi tất yếu của lịch sử loài người.’ Đường nào rồi cũng đến đó, nhưng con đường xã nghĩa là con đường ngắn nhất. Mọi phương tiện—cả gian giảo, lừa lọc, bạo lực, khủng bố, giết người, giết lầm hơn là tha lầm— đều tốt, buộc mọi người phải ôm lấy nàng tiên xã nghĩa nầy.

Vì vậy, mọi người phải là người-thánh, bằng không thì là dị giáo. Hồi xưa, chưa văn minh, còn đem thiêu sống. Giờ, thời đại khoa học, bị nghi là dị giáo thì bị tù khổ sai mọt gông, gọi như vậy là rộng lượng, bao dung, cải tạo để tri-kiến-ngộ-nhập xã nghĩa, và nhập thành người-thánh.

Thế nhưng phải làm thế nào để thành người-thánh.
Muốn trở thành
người-thánh
phải biết ‘tiên ưu hậu lạc’—‘lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ.’[1]. Nói rõ hơn là biết quên mình vì đại nghĩa, mà đại nghĩa là ở các thánh. Vậy, phải có ý thức cao độ về việc ‘bảo vệ các thánh’; ‘bảo vệ thánh thể’ là từ mới trong kinh xã nghĩa. Ngoài ra, phải được công nhận là: ‘có cái tự do là tự ý từ bỏ quyền làm người của mình và ủy nhiệm cho một thánh, đại diện cho mình—gọi là đại biểu.’ Sau đó, mình phải bằng lòng và vui vẻ hồ hởi, nạp tất cả sản phẩm mình tạo ra cho Hội Thánh, rồi Hội Thánh sẽ phát trở lại ‘công bằng’ cho mỗi người. Mọi người nhờ đó mà được ấm no.

Còn con cái?
Hồn mình đã giao cho thánh, thì con cái mình đương nhiên là đồng nhi của Hội Thánh. Hội thánh nuôi dạy, giáo dục, và đương nhiên là theo Kinh…Thánh, và cuối cùng là nhằm cho chúng thành...
thánh, bằng không cũng thành người-thánh
.
Người-thánh không cần phải suy nghĩ, không lo âu, khỏe ru, vì đã có các thánh nghĩ cho mình. Trong giáo dục, các thánh chú trọng đặc biệt về tính chất nầy. Trong thực tế, Hội Thánh dạy ‘dám nghĩ, dám làm’. Nhưng phải dạy sao cho trẻ con giác ngộ rằng nghĩ suy làm mệt trí, mà có khi còn nguy hiểm. Dành quyền tư duy cho các thánh—các nhà tiên tri đã thấu rõ ‘con đường tất yếu của lịch sử..’—và hành xử y theo các thánh dạy thì an toàn trên xa lộ đời người. Cho nên thường người ta huấn luyện để trẻ con biết ‘hồ hởi’, ‘vổ tay’ (khi thánh vổ tay), và nhất trí với những điều thánh phán. Dưới chế độ các thánh, con người hoàn toàn có an ninh và cơm no ấm áo! Vì không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn người bóc lột người.

Cách đây hơn hai tuần, tôi có đi học đạo, Thầy G.Đ. thuyết về Thơ Thiền, Thơ Đạo,… Tôi nghĩ đến con ngựa trắng, đến những người-thánh—xác người-hồn thánh, và theo đó tôi ngộ ra:

Người-thánh không là người. Vì linh hồn đã cầm bán cho thánh

Thơ thiền không là thơ. Nàng Thơ xuất gia, rời cõi tục, luyện tập tâm không, Nàng trở thành sư nữ hay một vị thiền sư.

Thơ đạo không là thơ. Nàng Thơ quên mình cho Đạo cả.

Thơ thánh cũng không là thơ. Nàng Thơ phải trọn vẹn với các đề cương thánh.

Vậy thì rõ mồn một rằng bạch mã phi mã.


Dầu vậy, dầu có nghĩ thơ thiền, thơ đạo không là thơ. Dầu có hiểu biết người-thánh không là người, tôi vẫn còn vấn hỏi tại sao con ngựa trắng không là con ngựa? Vì rằng ngựa là thú không là người, không thể so người với ngựa? Dù có những văn nhân nói đến người ngựa—người kéo xe.
Đã sống trong một xã hội có nhiều
thánh (cũng may mà không mấy khi được gặp thánh), mà được về với xã hội loài người mà Ma-Phật lẫn lộn, tôi cảm nhận như được một ân sủng lớn của Trời Phật. Cho nên, tôi ân cần dặn các cháu:
‘Trong xã hội văn minh ngày nay, thánh đông lắm, đâu đâu cũng có, ở thánh đường, ở các chùa, ở chính trường, ở doanh nghiệp, …, khắp năm châu.’
‘Lịch sử loài người phong phú về ‘gương’ các
thánh vĩ đại
:
Thánh chiến-Crusades—thời Trung Cổ ở Trung Đông, và ngày nay vẫn còn đông đảo thánh tử đạo. Trong lịch dử cận đại có những tên tuổi vĩ đại: Adolf Hitler, Benito Mussolini, Francisco Franco, Nicolae Ceausescu, Joseph Stalin, Mao Trạch Đông, họ Kim ba đời cha truyền con nối, Hồ Chí Minh, .. và gần đây, có những tên tuổi nhỏ hơn như Sun Myung Moon (Unification Church), Jim Jones (Jonestown) David Koresh (The Branch Davidians).… và gần đây nữa có sư Wirathu –mà có người gọi là Burma Bin Laden, lãnh đạo nhánh Phật giáo xu hướng triệt để-- kích động cuồng tín và bạo lực
[2]. Danh sách nầy còn dài cho thấy các
thánh hiện diện ở mọi lãnh vực sinh hoạt của xã hội ngày nay: tôn giáo, chính trị, doanh nghiệp,…., từ lớn đến bé.’
Thánh và người lẫn lộn, khó phân biệt. Đừng nhẹ dạ tin vào kinh vào pháp, do các ‘giáo chủ’—mà hầu hết là thánh
—tiên tri và giảng giải. Là người thì: nếu tin thì phải có nghi. Qui y pháp không có nghĩa mất mình vì pháp, nói rộng ra cho một lý tưởng, qui y tăng không có nghĩa giao mạng mình cho tăng. Mặc áo chùa hay các giòng tu, chưa hẳn đã là tu.
Chánh yếu phải biết thân phận mình là người mà lánh xa các
thánh. Người với người, dễ sống hơn. Gần thánh
, dễ bị cám dỗ, hoặc biến thành người-thánh hoặc trở thành dị giáo. Cả hai con đường đều như César qua sông Rubicon.[3]

Kết Luận: ‘Cô vọng ngôn chi vọng thính chi.’

Tôi có thói quen, sau khi viết xong, hay gần xong một bài thì hay hỏi ý bạn bè, lấy lời phê phán, để trao chuốt, gọt lại cho hoàn hảo hơn. Một ông bạn tôi đáp bằng một câu của người xưa:

‘Cô vọng ngôn chi vọng thính chi.’

Tôi mù, không hiểu mô tê gì cả? Ông có giảng. Nhưng muốn hiểu sâu hơn, tôi lên net. Cũng không được sáng thêm một tí nào. Thôi thì phải hỏi ông Đồ của tôi, Thầy Đồ họ Đỗ. Ông ban cho một cẩm nang. Sau đây là trích một đoạn:

‘Đây là (câu đầu) bài Thất ngôn Tứ Tuyệt của Hình Bộ Thượng Thơ lúc bấy giờ ( đời Thanh ) là Vương Sĩ Trinh, 4 câu thơ kết thúc cho bài Bình về quyển Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh mà Vương rất thích, chỉ vỏn vẹn 4 câu thôi mà nêu hết được cái ý chính và chủ đích của tác giả về tác phẩm bất hủ " Liêu Trai Chí Dị ". Toàn bài thơ như sau :

Cô vọng ngôn chi cô thính chi.
Đậu bằng qua giá vũ như ti.
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ,
Ái thính thu phần quỷ xướng thi !

Bản Diễn Nôm của Cụ Đào Trinh Nhất :

“Nói láo” mà chơi, nghe láo chơi

Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi

Chuyện đời đã chán không buồn nhắc

Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời.’

Tôi cảm nhận như Ông dạy:

‘Nói quấy mà chơi, nghe quấy chơi’[4]
Trong cảnh tha hương, tuổi xế chiều
Chuyện đời chưa chán, còn vương vấn.
Nhắn gời ai ơi chuyện thánh thần..

Người xưa nói chuyện ma, hậu sinh nói chuyện thánh, phải chăng cũng là chuyện con ngựa trắng không là ngựa?
Riêng tôi, thật thà mà thưa: ‘Khi cảm thấy mình là thánh, thì phải xét lại xem mình có là một tai họa cho gia đình mình và rộng hơn là cho môi trường chung quanh? Và nếu phải tiếp cận với bậc thánh, thì dứt khoát: kính nhi viễn chi.’
.

Lời cuối:
Quá nhiều nạn nhân (do ý thánh), thây chất thành núi, máu và nước mắt chảy thành sông, sao có thể đơn giản một câu‘Cô vọng ngôn chi, vọng thính chi’ mà nghe được?

Houston, Texas July 1st, 2013


[1] Nguồn: Internet

[2] TimeVOL 182, N0. 1, 2013, July 1st. Page 4 and 42. The face of Buddhist Terror by Hannach Beech.

[3] Một ra đi là không trở lại.

[4] Đồ chiêu Đức. Nguyên văn: ‘Nói quấy nói quá, nghe quấy nghe quá chơi mà thôi.’

Enter supporting content here