TRƯỜNG XƯA DÁNG CŨ IV

Phan Thành Khâm

BBT: Nhiều năm trước đây đồng môn PTG Phan Thành  Khâm đã viết và đã đăng trên các ĐS PTGĐTĐ các phần I, II và III của loạt hồi ký TRƯỜNG XƯA DÁNG CŨ. Hôm nay Trang Nhà rất hân hoan nhận được TXDC IV. Cảm ơn Tác giả và trân trọng giới thiệu cùng quý đọc giả Trang Nhà.

CongtruongPTG.jpg

Ai ai cũng đều có một thưở thiếu thời để thương, để nhớ, dù vui hay buồn. Tôi ở trọ bên  Xóm Chài, tại một ngôi chùa ngay đầu voi, trong niên khóa đầu tiên khi vào Phan Thanh Giản.

Một hôm tôi đến thăm Bà Hai (thân mẫu của anh Kiếm, một cựu học sinh PTG, giáo sư trường trung học Nguyễn Thông, Vĩnh Long, và sau nầy là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa). Bà hỏi tôi: “ Con học lớp mấy?” Tôi trả lời: “Dạ con học lớp đệ thất”. Bà cho biết nhà Bà có người học trò từ Sóc Trăng lên ở trọ, để bà gọi ra xem có quen không. Khi thấy tôi, Thìn nói ngay: “Anh nầy học cùng lớp với con”. Bà nói thêm; “Được vậy tốt lắm, mỗi chiều đi học về, sau khi qua đò, nhờ con đưa giùm Thìn về nhà, vì mắt Thìn bị “quán gà” không thấy đường khi trời nhá nhem tối. Bác phải ra bến đò đón Thìn, nếu không Thìn bị té lủi nhủi theo các mương lạn hai bên đường, thật tội nghiệp!” Tôi quen thân với Trần Canh Thìn từ đó.

Thìn tâm sự với tôi: “Nhà tao nghèo lắm, tao chỉ mong học xong đệ tứ (tức lớp 9) có trung học đệ nhất cấp, tao sẽ thi vào sư phạm cấp tốc, đi dạy học để đền ơn lại cho ba tao, không ao ước gì hơn!” Thìn học rất giỏi, thi sẽ đậu, nhưng “cái nghiệp” oái oăm vẫn cố bám theo người. Khi thi môn Lý Hóa cuối cùng, Thìn có lòng tốt giúp ngưới bạn ngồi cạnh, bị giám thị bắt gặp, lập biên bản cấm 3 khóa thi, tức khóa thi hiện tại, khóa thứ nhì năm đó và khóa thứ nhứt năm sau, tức năm lớp 10. Sau hè năm lớp 10, khi Thìn đậu bằng trung học đệ nhất cấp thì đã qua kỳ thi vào sư phạm. Không còn cách chọn lựa, Thìn phải theo học lớp 11 và sau khi thi đậu Tú Tài I, Thìn mới vào sư phạm rồi đi dạy ở Hòa Tú, Sóc Trăng. Nhưng trong “cái rũi lại có cái may”, nhờ có đà mà hai năm sau Thìn thi đậu luôn Tú Tài 2 và ghi danh học luật ở viện đại học Cần Thơ vài năm sau đó. Bây giờ nhắc lại chuyện cũ, Thìn đã nói: “Thật ra tao nên cám ơn Thầy Lượng, đã đuổi 3 khóa thi, nên tao phải học tiếp, thi đậu tú tài 1 và sau nầy tú tài 2”. Đó là cái nhìn rộng lượng của một Phật Tử, khi nghiệp đến chấp nhận trả nghiệp, không oán trách và rồi len lỏi chịu đựng cho nghiệp qua đi để đón nhận những cơ may khác trong cuộc đời. Gia đình Thìn sinh hoạt trong ngành giáo dục, hiền hậu, nên khi về già được hưởng phúc lộc: Năm người con đều thành đạt, nhà cửa thênh thang. Gia đình chỉ có hai người, hồi năm 63, năm mươi năm sau, mùng một Tết năm nay (2013), đã qui tụ một đại gia đình 24 người: con, rễ, cháu, chắc.. Thìn không để những thói quen như thuốc lá, bia, rượu làm bận rộn mình cho nên cuộc sống bây giờ rất thảnh thơi, không có nhu cầu gì hơn. Tuy có chút thương tật, nhưng nhờ thâm nhiễm triết lý đạo Phật nên sống ung dung tự tại. Thật là một đại phúc: gieo nhân lành, gặt quả tốt!

Trần văn Quang xuất thân từ một gia đình công chức khá giã, cuộc sống thiếu thời rất an nhàn, bảo bộc cho tôi những bửa ăn sáng, những lần dạo chơi đó đây và những chầu ciné. Thường tôi hay từ chối vì nghĩ gia đình mình nghèo không đủ điều kiện thù tạc, nhưng Quang cứ khăn khăn rủ đi và nói: “Tao bao mầy chớ đâu bắt mầy phải trả lại mà mầy ngại.” Quang học giỏi nên sau lớp 7, rời trường PTG, theo gia đình trở về Sài Gòn học trường tư, bỏ lớp 8, học lớp 9. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, bỏ lớp 10, học lớp 11 và xong trung học năm 1960. Năm 63 tốt nghiệp đại học sư phạm, làm giám học rồi hiệu trưởng trường trung học Cà Mau và sau nầy là chánh sự vụ sở giáo dục Sóc Trăng. Sau ngày đổi đời, dùm đíu vợ 8 con vào vùng kinh tế mới Phụng Hiệp và ở luôn nơi đó cho đến nay. Quang bắt đầu hút thuốc, uống bia khi vào sư phạm, khi đi dạy lại càng lậm nặng. Thói quen nầy kéo dài đến bây giờ, có lúc bị xúc huyết bao tử phải vào bệnh viện Chợ Rẩy điều trị, nhưng vẫn không bỏ được! Các con Quang không được may mắn như con Thìn, gần như không có người nào học qua được lớp 9! Âu đấy cũng là duyên nghiệp của mỗi con người.

Trong một lá thơ tâm tình gởi Quang về hoàn cảnh hiện tại, tôi đã viết: “Có lần tao nói chuyện với vài người quen ở đây: “Tôi nghĩ rằng một số những mối tình Việt kiều, không nhiều thì ít, đều mang những mặc cả, toan tính. Người dùng ít tiền để thõa mãn những đam mê và hưởng thụ, người khác lợi dụng chút nhan sắc để “mượn đường ra đi, cầu may đổi đời”, dù tuổi tác có chênh lệch! Kẻ tám lạng người nửa cân, không có kẻ được người mất, không ai hơn kém ai”. Ai ai cũng đều biết Việt Cộng giàu hơn Việt kiều nhiều, nhưng vớ vào Việt kiều có nhiều cơ may đổi đời, kiếm sống. Còn vớ vào VC chỉ có “làm bé” hay “gái bao”. Nếu may mắn được làm lớn thì cũng lắm phen ghen tương, u-uẩn! Thôi thì “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” (Kiều-Nguyễn Du). Nhờ ý thức trước như vậy nên tao rất an nhiên chấp nhn nếu có điều gì xảy ra.”

“Những năm tháng cuối đời của ba đứa cùng tuổi “Canh Thìn”, tao thấy Thìn sung sướng hơn mầy và tao nhiều. Tuy có chút thương tật nhưng nhờ thâm nhiễm triết lý đạo Phật nên Thìn sống ung dung tự tai. Con cháu đầy đàn, đều thành đạt khá giã. Kinh tế gia đình ổn định. Còn đòi hỏi gì hơn nữa trong những tháng ngày còn lại! Thìn đã gọi điện thoại cho tao hai lần, liên tiếp trong hai tuần lễ, hỏi thăm tao “có khỏe không”. Có lẽ nó nghĩ đến “số tuổi 73” của tao. Lần nào tao cũng đều nghe nó nói:“Nghe giọng nói sang sảng của mầy, tao biết mầy còn khỏe lắm, nhứt là bây giờ có đứa con nhỏ cần phải săn sóc”. Tao cũng không quên hỏi nó “có thường xuyên liên lạc với mầy không”. Nó cho biết: “thỉnh thỏang có gọi mầy nhưng dạo nầy giọng nói mầy khàng khàng, khó nghe lắm!” Không phải nói để an ủi mầy mà đây là lời nói chân tình tận đáy lòng: mầy hơn tao xa lắt. Con cháu đầy đàn, gái trai đều có đủ. Tuy không giàu sang vinh hiển nhưng cũng không đến nổi làm mầy ưu tư lo lắng cho tương lai hay sự thành đạt của họ. Nay nơi nầy, mai nơi khác, rong chơi với người thân hay chén chú, chén anh với bạn bè cũ, học trò xưa. Cứ ngây ngất trong cơn say, mặc cho thế sự đổi thay, vì đó là những sự việc xảy ra ngoài tầm tay vói của mình!

“Phần tao không được may mắn như mầy: Đứa con nhỏ chưa tới tuổi biết tự ăn, tự làm vệ sinh trong khi chính mình không thể tự chủ có thức dy đưc sáng mai sau giấc ngủ đêm nay! Tao không quan tâm nhiều về trai hay gái như đa số người Việt thâm nhiễm tư tưởng Khổng Tử “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng khi nghĩ lại câu nói “khi lập gia đình sẽ có con trai đầu lòng” mà người thầy bói nào đó đã nói với vợ tao khi trước là điều sai lạc mà có lẽ chủ yếu là nhắm vào tâm lý để tao dễ chấp nhận cuộc tình với bà ấy hơn! Thôi thì con nào cũng là con và như trên tao đã nói: tao rất an nhiên chấp nhn nếu có điều gì xảy ra”.

“Bạch cư Dị, một nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Hoa, đến hỏi Ô-Sào Thiền Sư về tinh ý của đạo Phật. Ô-Sào đọc một bài kệ: “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật Giáo” (Không làm điều ác, Chỉ làm việc thiện, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy). Bạch cư Dị nói: “Nếu chỉ đơn giản như vậy, thì đứa con nít 8 tuổi cũng biết”. Ô-Sào trả lời: “Đúng, đứa con nít 8 tuổi cũng biết, nhưng ông già tám mươi tuổi vẫn không làm được”. Quang ơi, tuổi đời chúng mình đã “về chiều”, vậy mà vẫn còn khập khễnh bước đi được như ngày nay cũng do phước báu, nên nghĩ về tâm linh để đời sau khá hơn. Tao vẫn thường vô mạng nghe pháp thoại của vài vị sư bên VN như “Bến Yêu Thương” của Đại Đức Thích Trí Chơn. Đặc biệt Đại Đức Thích Thiện Thuận đã nỗi tiếng với bài“Bóng Mây” thuyết giảng trong khóa tu mùa hè cho giới trẻ tại chùa Hoằng Pháp năm 2007. Tuy nhiên, không cần cảnh tĩnh, mầy cũng hiểu “Bóng Ma” của Thích Thiện “Nghịch” đã bao trùm khắp chốn.”

Khi về thăm nhà năm 2004, tôi có thì giờ đến thăm vài gia đình quen biết trước năm 75, trong đó có gia đình BT. (ba BT. làm việc chung với tôi ở tòa án Sài Gòn). Sau đó, tôi thường liên lạc với BT. qua mạng hay điện thoại, BT. ngỏ lời muốn ra đi. Tuy tuổi tác có chênh lệch, nhưng là chỗ quen biết cũ, hơn nữa, lúc đó BT. đang làm kế toán ở quận Bình Thạnh, nhưng bị “Bóng Ma” kiếm chuyện “đì”, phải mất chức. Tôi vì không ưa Thích Thiện “Nghịch” nên đưa tay kéo BT. lên, khuyên BT. nghỉ làm, coi như chóng lại “Bóng Ma”. Tôi cũng đã nhờ BT. giúp vài việc nhà như đưa giùm các em gái tôi đi xét nghiệm, khám mắt .v.v.. Những thứ ấy tôi coi như là một trách nhiệm và một ân nghĩa phải đền trả (từ đó mà đã tạo nghiệp), nên khi về thăm nhà lần sau, tôi có đến gặp thân mẫu BT. và tôi còn nhớ trong một bửa ăn tối, bà đã nói với tôi: “Hãy mang giùm BT. ra đi để đi làm kiếm sống”. Nghiệp quả đã vương mang từ đó! Cũng có thể nghiệp quả nầy đã có từ nhiều đời kiếp trước nhưng đến thời điểm đó nghiệp lực mới trỗi dậy nẩy mầm và bộc lộ! Mọi thủ tục giấy tờ được hoàn tất ở bên nầy trước khi tôi về thăm nhà lần sau và BT. cũng đã cùng tôi ra đi. Khi cháu bé ra đời, tôi cảm nhận những nghiệp quả nầy rõ rệt hơn. Tôi thường chủ trương không can thiệp vào việc tình cảm của người khác, vì theo quan điểm chủ quan của mình, rất khó phù hợp với quan điểm của người trong cuộc. Sống ở ngoại quốc lâu ngày, tôi đồng tình với người địa phương về tư tưởng nầy: họ rất trọng ý kiến cá nhân và tâm tình rất rộng lượng. Các em tôi có thói quen ở Việt Nam, hay can thiệp vào chuyện riêng ngưới khác, rồi từ đó “cái khó nó bó cái khôn” để tôi có quyết định như ngày nay! Nhưng chung cuộc tôi vẫn nghĩ đây là nghiệp quả!

Dù sao, con đường thênh thang hay nhỏ hẹp mà mình đã chọn lựa thì vẫn phải bước đi. 

PTK.   (6/15/2013).

Enter supporting content here