NN_NN_Tre.jpg

TRUYỆN

& THƠ



 
 
Nguyên Nhung

_______________________________________________________________________________________________

_

Để nhớ ngày chia đôi đất nước 20 tháng 7 năm 1954 
           
                       NN_dicuvaoNam.jpg
 
NNH_HoGuom.jpg
 

 

 

Cuộn Phim Buồn

 

NN_vachi.jpg

 
Quê người một sớm heo may đến
Có ai gửi lại cuộn phim buồn
Nửa thế kỷ rồi sao vẫn nhớ
Nhớ ngày tất tả chạy vào Nam

Ba đứa con khờ còn ăn bám
Mẹ gánh oằn vai một núi sầu
Cha tôi vừa mất vài hôm trước
Mộ còn chưa ráo những thương đau

Lén lút mẹ con dắt díu nhau
Bỏ nhà bỏ cửa chạy đi đâu?
Ngoái trông chốn cũ sau màn lệ
Vội vã theo nhau bước xuống tàu

Nước mắt ngắn dài ai hiểu thấu
Trong lòng mẹ khổ biết bao nhiêu
Đứa lớn tuổi đời còn niên thiếu
Đứa còn bé xíu biết  gì đâu

Dù vậy trong đầu cô bé thơ
Bóng dáng mẹ tôi vẫn chẳng mờ
Vai gầy nặng trĩu đôi quang gánh
Tiếng gà eo óc lúc tinh mơ

Hôm nay ai gửi cho xem lại
Những hình bóng cũ tự ngày xưa
Nước mắt rưng rưng tôi nhớ mẹ
Nỗi buồn năm cũ vẫn còn đây

Tôi cố tìm tôi mà chẳng thấy
Những ngày thơ bé, lúc vô Nam
Ai thấy xin vui lòng chỉ hộ
Trên đầu cô bé chít khăn tang...

Nguyên Nhung
Cảm tác khi xem xong cuộn phim ngày đất nước chia đôi 1954


 

BUÔNG...


Thật sự cho đến bây giờ, tôi vẫn không biết văn chương đến với tôi là Nghiệp hay

Nợ. Nhà văn Doãn Quốc Sĩ trong một lần ngồi tâm tình với cô bạn văn,

Thầy vẫn xem chúng tôi, những người viết văn hay làm thơ là những người

bạn nhỏ của Thầy, đã nói một câu mà cho tới giờ này tôi không quên:

" Viết chỉ là Nghiệp khổ, cứ vui vẻ mà trả cái Nợ văn chương của mình.

Không viết không được, cũng khổ vì luẩn quẩn hoài những câu chuyện

và nhân vật trong đời sống của mình không chịu buông. Thôi thì cứ viết,

cứ in sách mặc dù biết tác phẩm không nuôi sống được mình, nhưng dù

sao mình cũng trả xong cái Nợ viết"

NN_withDQSi.jpg

Tôi vẫn gọi ông là Thầy, mặc dù chẳng được học

với Thầy một giờ, nhưng từng trải với cuộc đời để

viết  thì thầy có vô số kinh nghiệm. Nhân ngày lễ

Quan Âm tổ chức ở chùa Việt Nam, tôi lại gặp Thầy

khi cả hai được mời đến gian hàng thả thơ để nói

chuyện văn chương sách vở, dĩ nhiên với đám đông

Thầy luôn là một vì sao sáng. Trong khi chờ đợi

hai thầy trò ngồi dưới bóng mát của một cây cao,

tấp nập người qua kẻ lại, câu chuyện không hiểu

vì sao lại đưa qua chữ BUÔNG khi thấy Thầy

băn khoăn chờ buổi nói chuyện do ban tổ chức mời, trên tay cầm một tập giấy.

 

Băn khoăn mãi thầy hỏi tôi:
" Không hiểu tôi sẽ nói chuyện ở đâu và giờ nào?"

 

Nhìn nỗi băn khoăn trong đôi mắt Thầy, tôi nói đùa:

" Thầy ạ! Đừng nghĩ mình sẽ nói gì và ở đâu, chỉ biết giờ này hai thầy trò

ngồi đây ngắm ông đi qua bà đi lại cũng vui rồi. Trong đám đông ấy chẳng

mấy ai biết mình là ai, hội chợ phù hoa cả thôi thầy ạ."

 

Bất ngờ thầy hỏi lại tôi:
" Như vậy có nghĩa là Buông phải không?"

 

Tôi gật đầu hóm hỉnh:

" Vâng, đạo Phật thường dạy người ta tập buông bỏ thì bây giờ mình

tập buông không biết mình là ai, quan trọng như thế nào, cái tôi gò

bó sẽ không cho mình thoải mái khi đến một nơi nào, làm một việc

gì mà không hiểu có được như lòng mong đợi."

Câu chuyện tới đó là hết khi thầy được mời nói chuyện thơ văn

giữa ban trưa, ở một nơi đông người qua lại mà hình như chẳng

có mấy người tha thiết đến chuyện văn chương thơ phú. Bây giờ

nghe nói thầy đang dưỡng già bên Cali cùng con cháu, trí nhớ mù

mờ đã quên nhiều và quên cả tên những người thầy quen biết. Phải

chăng thầy đã buông đời trong một nghĩa nào đó, hay chính cuộc đời

chỉ là một sự đào thải không ngừng theo giòng thời gian.

Nhớ lại lúc ban đầu tôi tới với nghiệp cầm bút ở hải ngoại, chỉ vì muốn

được tặng 1 năm báo của tạp chí Hương Quê do nhà nhiếp ảnh Văn Vũ

làm chủ nhiệm, nhà văn Anh Vân làm chủ bút ( nay anh cũng đã tiêu diêu

miền cực lạc). Cái thuở ban đầu mà đi đâu tôi cũng có thể mang về nhà một

tuần báo, hay tạp chí biếu không, chứ mua thì chắc là tôi chưa nghĩ tới

chuyện mua ủng hộ các tờ báo đâu (vì chưa làm gì ra tiền). Chủ đề của

tạp chí Hương Quê là dành cho những gia đình HO (diện tù CS) sau năm

1975, viết về những năm tháng lao tù và cả những nỗi nhọc nhằn sau năm

1975 mà chúng tôi trải qua.

Chủ đề như đánh trúng sự đau khổ của lớp người đã từng sống dưới chế

độ CS sau năm 1975. Không có máy đánh chữ và cũng chưa có computer

để sử dụng như bây giờ, tôi vừa giữ trẻ vừa hì hục viết rồi cũng xong

truyện "Bên Bờ Vực Thẳm", kể toàn những sự thật cay đắng trong thời

gian đó, gửi bản thảo viết tay cho ông chủ nhiệm báo Hương Quê. Ai ngờ, 

tháng sau khi báo phát hành, bài của tôi được chọn đăng và còn nhận được

tờ báo biếu với lá thư cảm ơn viết rất trân trọng, sau đó là một cú điện thoại

do chình chủ nhiệm gọi tới tận nhà mời tôi cộng tác thường xuyên với tờ báo.

Thực ra viết không khó, hình như người Việt Nam nào cũng là một nhà thơ,

nhà văn nếu chịu khó quan sát cuộc sống xung quanh mình, từ con người

cho tới cây cỏ, nếm trải thêm nhiều cay đắng chát chua của đời rồi cứ thế

viết lại một cách trung thực, hình như dễ đi vào lòng người.

Viết khổ thật như lời thầy Doãn quốc Sĩ nói sau này, nhất là đối với người

thiếu thốn mọi phương tiện như tôi, nghĩa là chỉ có xấp giấy trắng và cây

bút nguyên tử (cầm bút mà ly!). Sau đó muốn gửi cho báo nào, thì lại phải

đi photocopy rồi đem ra Bưu Điện, và kết quả là cái ông chủ bút, chủ nhiệm

hay thư ký toà soạn, cũng lây cái khổ từ nghiệp văn chương như tôi, nghĩa

là ngồi cong lưng đánh máy lại. Sau này khi được ông anh họ tống khứ cái

máy computer cũ tôi mới học đánh máy bỏ dấu chữ Việt, việc viết lách nhờ

vậy đỡ khổ hơn cái thời ngồi bôi bôi xoá xoá, viết đi viết lại mỏi cả tay.

Nhà ở gần một cái chợ nhỏ của người Việt Nam, mỗi tuần đi chợ lại nhặt

đem về vài tờ báo nữa, quảng cáo thì nhiều, bài vở thì ít nhưng dù sao cũng

là món ăn tinh thần của người Việt tha hương mới sang định cư như gia đình

tôi. Dù vậy ngoài mục bình luận về thời thế, tin địa phương, chuyện gia đình

thì họ cũng ráng nhét thêm một, hai bài thơ, hay một truyện ngắn không dài

lắm. Lần này thì cái Nghiệp Khổ của tôi nó thừa thắng xông lên, nhớ đến lời

khích lệ của thầy Phạm Huy Viên, giáo sư dạy môn Văn trường Đoàn thị Điểm

Cần Thơ năm xưa, khi tôi mạo muội đưa cho thầy đọc vài truyện ngắn viết

về nỗi trăn trở của tuổi trẻ thời chiến tranh. Đọc xong thầy thở dài vì biết

học trò mình đã trưởng thành và đánh mất quá sớm tuổi học trò khi phải

chứng kiến hằng ngày sự bi thảm của chiến tranh. Dù sao thầy cũng thân

mật nói với tôi một câu:

" Thầy dạy em thật nhưng chưa chắc viết được như em. Cố lên, hy vọng

sau này em sẽ trở thành một văn sĩ."

Tôi bắt đầu viết cho tuần báo "Saigon Journal" do chị Vũ Thanh Thuỷ,

phóng viên chiến trường ở VN trước năm 75 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.

Cứ mỗi tuần, cô thư ký lại gọi phôn nhắc tôi gửi bài, và hầu như bài được

đăng dài dài trên tuần báo này. Đâu ngờ nơi đây cũng chính là bàn đạp để

tôi sáng tác, nhiều đề tài khác nhau để có truyện đọc dai dẳng hơn 10 năm, 

mỗi tháng một truyện, ôi biết bao nhiêu chuyện từ những cay chua để có

thể tồn tại được với trăm bề thiếu thốn ở VN sau chiến tranh, cho tới cuộc

sống xung quanh của người tỵ nạn mới chân ướt chân ráo tới Hoa Kỳ. Sau

đó thì cái nghiệp lại có vẻ nặng nề hơn, tôi được mời phụ trách chương trình

đọc truyện trên Radio do chính tôi viết và đọc, ban đầu thì rất khớp vì đây

không phải là viết cho độc giả đọc, mà còn cho thính gỉa nghe khiến tôi ...

run như phải đứng trước hằng nghìn người để nói một bài gì đó mà lại không

thuộc bài. Mãi sau cũng quen, tôi đã làm được chương trình này hơn 10 năm,

chưa kể chương trình Giới Thiệu Sách cho các nhà văn, nhà thơ khắp nơi

gửi tới nhờ giới thiệu.

Tôi được nhiều tạp chí mời cộng tác, trong đó có tạp chí "Văn Hóa Việt Nam"

do anh Phạm quang Tân làm chủ nhiệm, nhà văn Lê Cần Thơ làm chủ bút.

Tạp chí này ba tháng một lần, quy tụ được rất nhiều cây bút tầm cỡ khắp nơi,

nhất là về văn học. Sau đó thì cái Nợ đưa đẩy, trở về với những anh em trong

gia đình HO, hoàn cảnh chung là những người Lính bị đi tù sau năm 75,

và được chính phủ Hoa Kỳ cho định cư ở Mỹ, đền bù lại những lúc ăn bo

bo và đi kinh tế mới. Trong các tạp chí tôi thương nhất tờ báo này, vì toàn

chỗ anh em đồng cảnh ngộ, tạp chí HO cũng nghèo tơi tả sống nhờ quảng

cáo và đôi khi từ tiền túi của ông chủ nhiệm Phạm Hi, (anh cũng đã ra đi

về với Chúa 10 năm rồi), và cũng là người làm được nhiều chương trình

thiết thực cho gia đình HO lúc bấy giờ.

Ảnh dưới đây: GS Nguyễn Văn Trường bồng đứa cháu gọi bằng ông, chụp 2

ngày trước khi GS Trường từ giã thế gian ngày 3 tháng 1 năm 2018 tại Houston, Texas.

NN_ThayNVTruong.jpg

Tôi tiếp tục câu chuyện dở dang này khi một truyện

ngắn của tôi đăng trên Đặc San PTGĐTĐ ở San Jose

năm 1999. Câu chuyện tình khá lâm ly bi đát, nhưng

lại đưa ra hoàn cảnh bi luỵ của một mối tình học trò,

giữa hai giai cấp giàu nghèo của "chàng và nàng", khi

cô nữ sinh ngày ấy lại là con một người lính trận, sống

trong một khu lao động nghèo, để rồi khi người cha tử

trận, bỏ lại một gia đình nheo nhóc trong cảnh lầm than.

Mối tình ấy chắc chắn phải vỡ tan vì cái nghèo càng

ngày càng đưa đẩy gia đình người tử sĩ vào bế tắc,

và cuối cùng thì đến năm 1975, chế độ miền Nam hoàn toàn sụp đổ, cô gái

may mắn theo đoàn người di tản qua xứ người, còn chàng trai nhà giàu kia

sau cũng là một sĩ quan VNCH, nên cũng bị tù nhiều năm trong trại tù CS.

Chuyện còn nhiều tình tiết theo tưởng tượng của người viết, tha hồ cho nhân

vật mình đi vào ngõ ngách của cuộc đời, cũng không gọi là một câu chuyện

đặc biệt lắm nhưng lại được giáo sư Nguyễn văn Trường chú ý đến tác giả,

và nhân một dịp họp mặt nho nhỏ, Thầy đã giới thiệu tôi đến với tạp chí

Đi Tới ở Montréal, với lời gởi gấm và hy vọng đem trồng một cây hoa dại,

giữa khu vườn toàn những cây bút gạo cội như Bác Sĩ Ngô thế Vinh "Cửu

Long cạn giòng, biển Đông dây sóng", tiến sĩ Mai thanh Truyết viết về chất

độc màu da cam, giáo sư Nguyễn văn Trường viết nhiều bài về giáo dục,

nhà văn Phan Nhật Nam, Vũ ngự Chiêu viết về chiến tranh,  nhà văn

Trần bang Thạch viết về cuộc sống quanh chúng ta, và còn rất, rất nhiều

những cây bút khác mà tôi không nhớ rõ.

Hôm nay một ngày mùa đông 2018, thầy Nguyễn văn Trường đã ngủ yên

trong lòng đất, và nếu như thế giới bên kia hồn được bay bổng, tôi mong

rằng thầy cũng đang trên đường thênh thang về thăm lại Vũng Liêm, tỉnh

Vĩnh Long, nơi chôn nhau cắt rốn của Thầy. Và sẵn dịp lan man vài giai

thoại vui vui về Thầy, khi giới thiệu tôi với tạp chí Đi Tới, đa số là những

những nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà chính trị có tên tuổi trước kia, tôi đã

đáp ứng ngay bằng bài viết "Lá Thư Gửi Thầy Giáo Cũ", để không ngờ bài

viết đã làm rơi lệ bao thầy cô giáo một thời lao đao với XHCN.

Giữa thầy và tôi hình như đã không có một khoảng cách xa tăm tắp như

người trên trời, kẻ dưới đất, lắm khi thầy viết email cho tôi chỉ để hỏi về

một chữ phải viết sao cho đúng, vì thầy tin tưởng cái chất Bắc Kỳ của tôi

có khả năng viết ít khi trật chính tả. Thầy tâm sự, đời học trò thời Pháp thuộc

học toàn chữ Tây, lại dân Nam Kỳ nên " nói sao viết vậy", bài viết có giá trị

mà đôi khi hơi bị ... sai lỗi chính tả, nên thấy cũng không ổn lắm.

Nhưng đặc biệt nhất vào một mùa thu, thầy được mời thuyết trình cho Hội

Giáo Chức, và thêm một buổi nói về Thu tại Trung Tâm Cao Niên khu Northwest.

Thầy Trường đã mượn bài thơ " Chiếc Lá" của tôi để dẫn nhập vào bài thuyết

trình hôm ấy, vì nỗi trăn trở khi muốn biết thân phận cuả chiếc lá hay con

người rồi sẽ đi về đâu:

"Có đôi khi tôi hỏi mình là ai

Từ đâu tới, và còn đi đâu nữa..."

Trong vài lần tiếp xúc này, tôi đã nhận ra tính cách khiêm nhượng của thầy,

một nhà giáo đúng nghĩa trong đời thường cũng như trong nghề nghiệp. Thầy

thắc mắc khi đọc tiếp vài câu thơ trong bài thơ Chiếc Lá, và hỏi tôi lý do tại

 

sao lại viết như vậy:
" Một nửa đời đã đong đầy nỗi nhớ
Một nửa đời còn lại để lãng quên
Rồi một ngày sẽ không nhớ nổi tên
Của những người quen mà mình đã biết"

 

Tôi đã hồn nhiên trả lời sự thắc mắc này, như ngày xưa tuổi học trò tôi vẫn hồn

nhiên nói chuyện với các thầy cô của tôi:

"Thưa thầy, theo em thì ... mỗi người thời tuổi trẻ, đã chất chồng bao nhiêu kỷ

niệm huy hoàng, đau thương vào trí nhớ của mình, cái đó gọi là quá khứ. Nhưng

rồi đã đến nửa đời sau người ta từ từ muốn quên đi, và em coi đó là Buông, buông

đi cho nó nhẹ để an hưởng tuổi già. Cuối cùng Quên chưa đủ, đến lúc không nhớ

nổi tên người mình quen nữa thì gọi là Lãng. Đó là lúc Chiếc Lá nó sắp rơi đó

thầy...hì hì hì"

Cứ tếu tếu vui vui vậy, hai thầy trò trao đổi với nhau trong điện thoại, ngày

xưa tôi học dốt nhưng may mắn ông trời ban cho chút năng khiếu bù trừ, nên

mới có cái may nhờ văn chương mà gần gũi với độc giả khắp nơi. Mùa đông

năm nay, mới bước vào năm mới thì Thầy đã vĩnh viễn ra đi, thoảng như chiếc

lá rơi nhẹ đến nỗi đất trời tưởng như cũng không ngờ chiếc lá vàng ấy đã lặng

lẽ lìa xa trần thế, về nơi vĩnh hằng mà khi còn sống thấy vẫn gọi đó là hội Nát

 

Bàn. Ý nghĩ ấy khiến tôi lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ viết đã lâu:
" Lá ơi, khi lá mới vừa trổ
Là biết khi nào lá sẽ rơi!"

 

Chuẩn bị tinh thần thì sẽ thấy lằn ranh sống chết chỉ đi bằng một bước chân,

tìm cách sống an nhiên tự tại để hưởng hạnh phúc từng ngày là đạt Đạo.

Cuối năm, ở tuổi "ôn cố tri tân" nên không khỏi nghĩ ngợi chuyện cũ, chuyện

mới, có khôn hơn một tý thì cũng là lúc bước gần hơn một tý điểm tới của đời

người. Chẳng có chi mà buồn!

Trở về câu chuyện văn chương, tôi cũng chẳng thấy là Nghiệp hay Nợ, vì nếu

như mình buông không nắm giữ thì coi như nhẹ gánh cho đôi tay đỡ mỏi khi gõ

chữ trên máy, và cái đầu cũng không lộn xộn nghĩ tới nghĩ lui mấy nhân vật

(thường là tưởng tượng) ẩn hiện trong bữa cơm, giấc ngủ của mình.

Nguyên Nhung

Mùa hè 2018.

___________________________________________________________ 

 

 

 

THƠ XUÂN NGUYÊN NHUNG
 
NN_MeToiHoaTimGiuaMuaXuan.jpg 
Click hàng chữ tím trên đây để xem PPS Mẹ Tôi Hoa Tím Giữa Mùa Xuân 

    ANTELOPE CANYON
 
 
 
 
STRATOSPHERE TOWER, Las Vegas/Nevada.
 
NN_Dec9_StaTower.jpgTừ 2 năm nay, cứ đúng mùa Tạ Ơn là chúng tôi có mặt tại miền Nam Cali để thăm cháu. Cali mùa này chỉ đủ lạnh để khoác một chiếc măng tô đi lang thang trên phố, ngắm ông đi qua bà đi lại. Nhớ lại mùa Tạ Ơn năm trước, chúng tôi đón lễ Tạ Ơn tại Los Angeles. Tuy gọi là thành phố thiên thần nhưng lại rất nhiều "homeless" sống vạ vật và xin tiền khách du lịch. Họ không ồn ào van xin, chỉ im lặng chià tay và khi nhận được chút chia sẻ của người qua đường thì vẫn là nụ cười và câu  "Cảm Ơn".
 
Ngoài vẻ hào nhoáng của kinh dô thế giới điện ảnh, một buổi tối con tôi lái xe đưa chúng tôi vào khu vực xa phố hơn, trên những con đường vắng của Los Angeles, đây là nơi cư ngụ của những người "vô gia cư", bao nhiêu là lều bạt được trang bị như người ta cắm trại trên bãi biển san sát với nhau, dựa theo bờ tường những con đường nhỏ. Nơi nào cũng có cảnh khác biệt giữa giàu và nghèo, điều này khiến tôi chạnh nghĩ đến một thời ở Việt Nam, và cho tới bây giờ vẫn còn rất nhiều người nghèo, chui rúc dưới gầm cầu, trong nghĩa địa, hay tìm một chỗ nằm qua đêm bên hiên phố vắng.
 
Thế rồi đúng vào ngày lễ Tạ Ơn, từ miền Nam Cali chúng tôi làm một cuộc hành trình 3 ngày lên phía Đông Bắc của tiểu bang Cali. Trong khi phía Nam khí hậu chỉ đủ lạnh như Đà Lạt thì sau 5 tiếng đồng hồ lái xe, càng lên cao không khí càng tụt xuống ở nhiệt độ đông đá. Xế trưa hôm đó chúng tôi đã có mặt tại thành phố Mammoth Lakes, mới tháng 11 mà tuyết như một chiếc chăn bông màu trắng phủ khắp nơi, nhìn lên cao giải núi bao quanh cũng óng ánh màu tuyết bạc trắng dưới ánh nắng mặt trời.
 
Đó là lần đầu tiên tôi được đến xứ tuyết, được lội trong tuyết và đi xem người ta trượt tuyết từ trên đỉnh núi xuống thung lũng rất ngoạn mục. Tuy vậy mà lại không thấy lạnh vì trời không có gió, với vài lớp áo dầy cộp lại thấy có chút gì êm ả và ấm áp trong tâm hồn, khi nghe đâu đó vang lên khúc nhạc dìu dặt mở đầu cho mùa Giáng Sinh sắp tới.
 
Năm nay chúng tôi chọn cuộc hành trình từ Los đi về hướng Tây, tức nhiên phải nghỉ 2 đêm ở Las Vegas, thành phố lắm TỘI mà có sức quyến rũ những con thiêu thân lao vào ánh đèn của thế giới Casino. Thế nhưng cứ ngày đi đêm nghỉ, không đủ sức để cầm chân khách du lịch  miệt mài với sự mời gọi của những chiếc máy cờ bạc kia đâu, vì sáng hôm sau phải ra đi khi trời còn mờ tối.
 
Tối đầu tiên ở Las Vegas, từ tầng cao nhất của tháp Stratophere tha hồ chiêm ngưỡng phố phường đèn hoa rực rỡ,  tôi lại rùng mình nhớ đến cuộc xả sung vô tội vạ của một tên điên khùng, đã lấy đi gần 60 mạng người và trên 500 người bị thương. Tháp STRATOSPHERE, với chiều cao 1.149 feet, được khánh thành vào năm 1996 và là một công trình xây dựng cao nhất thành phố Las Vegas. Đây cũng là ngọn tháp đón du khách lên ngoạn cảnh 360 độ chung quanh thành phố với vòm kính hình tròn đường kính 160 feet, thuộc loại cao nhất của nước Mỹ. Với 4 thang máy chạy với vận tốc 1800 feet/phút (tương đương 20,5 dặm một giờ) sẽ đưa du khách lên đỉnh tháp rất nhanh chóng và tiện lợi. Sẽ là một thách thức lớn cho những ai muốn leo 1.644 bậc thang từ mặt đất lên đến đỉnh.
 
Trong tháp có 107 gian hàng, quán rượu, nhà hàng... và hai nhà nguyện ở tầng 103 để tổ chức đám cưới...trên cao...Đặc biệt trên đỉnh tháp là những trò chơi được đặt ngoài không gian mở mà những ai yếu tim không nên thử!
 
Sớm hôm sau, du khách lục tục vác hành lý xuống "lobby" của khách sạn để chuẩn bị lên đường. Xe rời Las Vegas và bắt đầu đi vào vùng sa mạc, đồi núi trơ trọi đồng khô cỏ cháy chỉ có loại xương rồng là gồng mình chịu được. Hai bên đường hiếm khi gặp làng mạc, nơi tiếp giáp của 3 tiểu bang Nevada, Utah và Arizona, vùng đại vực khô cằn này không thấy sinh hoạt phố xá sầm uất, thỉnh thoảng là một ngôi làng nhỏ lèo tèo ít nhà cửa, có nóc nhà thờ Mormon vươn lên và lá cờ nước Mỹ bay phần phật trong nắng. Tôi chợt nhớ ra bộ phim chiếu lại cuộc hành trình của những người đạo Mormon, cũng nằm trong cuộc lịch sử khởi đầu khai phá miền Tây nước Mỹ, bằng những cỗ xe ngựa như một cái nhà nhỏ có bánh xe bằng gỗ, lăn bánh trên những đồng cỏ gập ghềnh, chống chỏi với khí hậu khắc nghiệt ngày nóng đêm lạnh của sa mạc, đói khát vì không đủ lương thực, và họ đã chết rất nhiều trước khi tìm được miền đất hứa.
 
 
 
 
ANTELOPE CANYON, Page/Arizona
 
Địa điểm du lịch chính của chúng tôi lần này là Lower Antelope Canyon. Được hình thành hàng nhiều triệu năm trước, do nước từ vùng cao đổ xuống xâm thực vào lòng đất, tạo thành một khe nứt tách hòn núi ra làm đôi, nhưng rất ít người để ý đến. Vùng đất này có tên là Navajo Land, tiếng thổ dân có nghĩa là "Nơi nước chảy xuyên qua đá" do người gốc da đỏ quản lý nên các tour guides địa phương đều là người gốc da đỏ.
 
Cho mãi đến năm 1997, một số nhiếp ảnh gia đã đến đây và thực hiện những bộ ảnh rất đẹp được phổ biến rộng rãi trên hệ thống truyền thông và nhất là trên internet. Mọi người đều bị lôi cuốn bởi những bức ảnh màu sắc tuyệt vời này và lũ lượt kéo đến thăm ngày càng đông. Vì vậy các đoàn du lịch đều phải lấy hẹn trước và phải mất khoảng ba tiếng đồng hồ xếp hàng mới đến được cửa động.
 NN_Dec9_hangnui_1.jpg NN_Dec9_hangnui_9.jpg
                                           Hang núi 
Từ đó du khách phải leo nhiều bực thang có chỗ dốc đến 30 độ để xuống đến con đường dẫn vào trong. Đây là một hang động mở hay nói đúng hơn là nước đã phá một đường chảy len lỏi, lắt léo xuyên qua một ngọn núi với vách đá thẳng đứng một màu đất nung. Với góc độ nhận ánh sáng mặt trời chiếu vào từ trên cao khác nhau, chúng ta sẽ ghi nhận được những hình ảnh đa sắc màu chuyển đổi từ vàng sang cam rồi đỏ, tím đến xám rất lạ mắt..
 
Du khách sẽ mất khoảng một tiếng để đi chuyển qua những hành lang hẹp, nhiều chỗ chỉ vừa đặt lọt bàn chân. Sau đó sẽ lại phải leo lên những bậc thang kim loại để trở lên mặt đất. Đây là vùng thung lũng sâu nên rất dễ bị lụt một cách bất thường dầu cho nơi này không mưa hay chỉ có mưa nhỏ mà thôi.
 
Vào ngày 12 tháng 8 năm 1997, mười hai du khách gồm 7 người Pháp, 1 Anh, 1 Thụy Điển và 2 người Mỹ đã tử nạn tại đây đó nước dâng cao bất ngờ mặc dù hôm đó trời mưa rất nhỏ. Lý do là ngày hôm trước một lượng lớn nước mưa đã đổ xuống vùng cao thượng nguồn cách đó khoảng 7 dặm và đã ập về mà không có dấu hiệu báo trước! Ngoài ra hệ thống thang để leo ra vào động lúc đó chỉ mới làm sơ sài bằng gỗ nên đã bị nước lũ cuốn trôi! Người sống sót duy nhất trong đoàn là Francisco "Puncho" Quinnata, hướng dẫn viên du lịch người da đỏ, vì đã được huấn luyện cách thoát hiểm trên giòng lũ.
 
Ngày nay hệ thống thang lên xuống động đã được thay thế bằng kim loại và được khóa cố định vào vách đá. Hai thang lưới thoát hiểm cùng hệ thống theo dõi, thông báo thời tiết với còi báo động đã được trang bị tại hai đầu vào và ra.
 
Để bảo đảm an toàn, du khách cũng được chia ra thành mỗi toán nhỏ 15 người do một tour guide địa phương hướng dẫn trong suốt chặng đường di chuyển. Rồi từ sâu hun hút và ngõ ngách của núi, chúng tôi cũng thở phào khi bước ra khỏi hang và nhìn thấy ánh nắng mặt trời. Xe lại tiếp tục cuộc hành trình dở dang, đi không lâu đã tới một địa điểm khác đó là
COLORADO  HORSESHOE BEND.
 
NN_Dec9_loneRock.jpgNằm phía dưới của đập Glen Canyon, cách thành phố Page của Coconino county, tiểu bang Arizona khoảng 4 miles về hướng Tây-Nam. Đây là chỗ giòng chảy của sông Colorado gặp một núi đá lớn chắn ngang nên nó đã phải di chuyển vòng quanh trái núi này gần như một vòng tròn, tạo thành hình móng ngựa trước khi suôi về hạ nguồn.
Để ngắm được cảnh kỳ vĩ này du khách phải lội bộ một đoạn đường băng ngang sa mạc, cát lún dưới chân dài 1.5 mile tức khoảng 2.5km hai lần đi và về đến chỗ đậu xe cạnh xa lộ 89. Vì vậy không ít người tuy đã đến đây nhưng đành ngồi lại trên xe hoặc bỏ cuộc nửa đường!
 
NN_Dec9_lonerock_2.jpgKhi lên đến nơi với độ cao 4,200 feet trên mực nước biển, nhìn xuống vực sâu 1,000 feet (khoảng trên 300m) nơi con sông uốn lượn phía dưới, vách đá lởm chởm thẳng đứng, du khách cảm thấy chóng mặt và không khỏi rờn rợn khi nhớ lại lời căn dặn của hướng dẫn viên du lịch là phải hết sức cẩn thận vì nơi đây hàng năm đều có đúng 4 người mất mạng vì xẩy chân rơi xuống vực sâu! Và cho đến hôm nay, vào cuối tháng 11 năm 2017 đã có 3 người thiệt mạng rồi, còn một người nữa không biết sẽ là ai?!!! Cầu mong cho mọi người an toàn, trở về đầy đủ!!!


 Trời đã về chiều, xe lại quay trở lại Las Vegas để nghỉ đêm. Sau một ngày lặn lội với sa mạc, ai nấy mệt nhoài và chỉ lặng yên khi xe chở khách ngang qua những con đường Las Vegas về đêm. Người ta vẫn đông như chảy hội, đèn nhấp nháy trên các bảng hiệu và các sòng bài, ôi thôi thật là hấp dẫn và quyến rũ làm sao! Xe chạy thẳng về khách sạn cho khách nghỉ ngơi, để sáng hôm sau đi thăm nhà máy sản xuất kẹo chololate và vườn xương rồng đủ loại.
 
ETHEL.M CHOCOLATES FACTORY và VƯỜN XƯƠNG RỒNG
 
Trước khi dời Las Vegas để quay trở về Los Angeles, chúng tôi được đưa đến thăm nhà máy sản xuất kẹo chocolate của hãng Ethel.M. Đây là một điểm du lịch nằm ở ngoại ô Las Vegas. Tường của nhà máy ngăn cách với phòng trưng bày và bán các sản phẩm được làm bằng kính để du khách có thể xem cách vận hành các máy móc dùng để sản xuất các loại chocolate.
  
Đặc biệt, trước cửa hãng là một công viên khá lớn trồng toàn các loại cây của sa mạc Nevada và còn nổi tiếng vì trang hoàng đèn rất đẹp vào ban đêm trong mùa giáng sinh. Bà cháu tôi chạy chơi vòng vòng quanh những con đường lên xuống trong vườn cây, tiếc là không phải ban đêm nên không thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của đèn hoa nhấp nháy, và sau đó lại lên xe mất đến 5 tiếng nữa mới trở lại Norwalk, một thành phố nhỏ trong biết bao nhiêu thành phố khác của vùng Los Angeles.
NN_Dec9_temple_1.jpgTrong vài ngày còn lại ở Nam Cali, chúng tôi có dịp đi thăm những thành phố núi đồi của Los Angeles. Thật bất ngờ khi khám phá ra một ngôi chùa của người Đài Loan, có thể đánh giá là một ngôi chùa mang tính cách của người Trung Hoa, lớn nhất ở vùng này. Ngôi chùa nằm trên đỉnh một ngọn đồi, phía Bắc của khu Puente Hills thuộc thành phố Hacienda Heights cuả quận hạt Los Angeles, tiểu bang California, xây dựng xong từ năm 1988.

Chuà Hsi Lai có nghĩa là đi về Hướng Tây, là một chi nhánh của Fo Guang Shan, một tổ chức Phật Giáo của Đài Loan. Tôi nhận ra nét quen thuộc của chùa Chung Mye ở Houston gần nhà, ở những hình tượng các chú tiểu xinh xinh đứng ngồi rất hồn nhiên trong vườn cây kiểng xung quanh chùa. Điểm đặc biệt thu hút du khách là bông giấy đủ 
NN_Dec9_NNandbudda.jpgmàu rất đẹp, mọc thành từng bụi lớn ven rào, đã làm ngây ngất tâm hồn khách nhàn du đi vãn cảnh chùa, trước khi vào xem khu chánh điện.
 
MÙA THU CALI ...
 
Muà thu Cali, thật tình thì không rực rỡ muôn màu như mùa thu New Hampshire, hay như những mùa thu ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Thời gian còn lại ở Cali không nhiều, chúng tôi lang thang đi thăm thêm những thành phố nhỏ nằm nối tiếp nhau thuộc quận hạt Los Angeles, mỗi một thành phố hay "county" chúng tôi ghé qua đều có công viên, trong đó công viên La Mirada của thành phố La Mirada được đánh giá là có nhiều hình ảnh đa dạng nhất, vì công viên này tọa lạc trên một vùng đồi thoai thoải cạnh xa lộ Adelfa.
 
Đây là một khu đất rộng 76 mẫu do quận hạt Los Angeles mua để làm công viên, mục đích cho dân địa phương có chỗ thư giãn và vui chơi, nhưng cũng là điểm hấp dẫn du khách phương xa khi tới thăm Cali.
NN_Dec9_Thanhbinh.jpg
                             Thanh Bình 
Trong công viên, vì là ngày thường nên cũng thưa thớt người vào thăm, nhưng chính sự yên lặng ấy khiến cho công viên mang lại cho khách phương xa cảm thấy đất trời của riêng ta, giữa trời cao đất rộng. Đặc biệt là đàn vịt khác nhau bơi lội trên mặt hồ, có thể được mua về và nuôi dưỡng nên khá quen với người đến thăm có mang theo thức ăn cho vịt. Có thể đất lành chim đậu, ít lâu sau lại có bao nhiêu giống chim lội nước bay về đây hợp đoàn cùng sống trong công viên an bình này. Chúng sống chung hòa bình, có vẻ không thích chiến tranh, sự bình yên ấy lan toả đến tâm hồn những ai yêu thích sự êm ả, tĩnh lặng.
 
Lác đác ven hồ có vài người đang thả câu chờ cá đớp mồi, thỉnh thoảng chiếc cần câu lay động tạo thành những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Cũng khó tìm ở đâu có cảnh bầy vịt sau khi no nên, lặn hụp kiếm ăn, bơi theo những mảng lá vàng, lá khô nổi lềnh bềnh trên mặt hồ, lại kéo nhau lên đồi cỏ để ngủ giấc ban trưa, dưới những bóng cây cao. Những cái đầu xinh xinh dấu trong cánh để làm một giấc ngủ ngắn trong ngày, khiến tôi nghĩ đến sự nghỉ ngơi rất cần thiết cho con người. Đó chính là làm sao có được cách sống "an nhiên tự tại" với những gì giản dị, có lẽ quý hơn là tất bật, bon chen giữa dòng đời nơi "phồn hoa đô hội".
NN_Dec9_tuyet.jpg
Tuyết Houston 8 Dec 2017 
Thế rồi chúng tôi cũng bay về Houston, giữ lại trong tim bao hình ảnh đặc biệt của tiểu bang Cali. Những nơi chúng tôi đi qua, đang bị thần Hỏa thổi ngọn lửa hung tàn thiêu rụi nhà cửa, rừng núi. Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, dù nơi chúng tôi ở mùa thu rất ngắn, đã bước vào mùa Đông với cơn mưa tuyết đầu muà rất tuyệt, nhưng mùa thu Cali vẫn nằm trong tâm tưởng, qua bài thơ sau đây:
 
Mùa Thu Cali...
 
Mùa thu Cali
Không buồn nhưng lạ
Lá vàng, lá khô
Rơi trên mặt hồ
Trời hiu hiu gió
Xào xạc lá khô
Âm vang thu trước
Còn tới bây giờ
Trời thu xanh lơ
Nắng thu dìu dịu
Đi trên đồi cỏ
Thấy lòng bình yên
Mùa thu công viên
Chừng như lắng đọng
Có bầy vịt trời
Ngủ yên giấc trưa
Mùa thu êm ả
Đất trời thênh thang
Ta đi trong nắng
Nghe muà thu sang ...
 
Cùng viết Nguyễn văn Đông và Nguyên Nhung, mùa Thu 2017.
_________________________________________________________________________________________________ 
 

 

 

TỪ DENVER tới YELLOW STONE

 

                                                                      Bút Ký của Nguyễn văn Đông & Nguyên Nhung

 

 

Sau chuyến đi 3 ngày từ Los Angeles tới San Francisco của một hãng du lịch khá thông dụng, giá cả phải chăng nếu không nói là rất hợp với túi tiền của những người cao niên đã về hưu, chúng tôi được ghé thăm nhiều thắng cảnh kể cả lượt đi lẫn lượt về. Thế là lần này chỉ sau 2 tháng, chúng tôi quyết định thêm một chuyến nữa, sau khi hỏi kỹ người dẫn đường về hành trình từ Denver đến Yellowstone.

NN_denver_2.jpg

Tôi vẫn thường khuyến khích "chàng" của tôi bằng một câu mà xem ra khá hợp lý, nghĩa là "đừng tước đoạt tuổi thọ của mình, khi đã đến lúc nghỉ ngơi", nên quyết định đừng ham lao động nữa, tiền kiếm được chỉ tổ đóng thuế nhiều mà thôi. Trung bình một ngày có 24 giờ, chia làm 3 thì thời gian nghỉ ngơi rất cần thiết cho sức khoẻ, không cân nhắc là tự mình muốn lên bàn thờ ngồi ngắm gà khoả thân như thiên hạ thường nói.


May mắn sao chàng nghe lời tôi, nhưng để chuyển tiếp từ việc quen đi làm như một cái máy, sang giai đoạn ngồi nhà "buồn tay buồn chân" cũng khó lắm, rồi lại ở không ngồi ôm người tình mặt vuông, sinh ra " nhàn cư vi bất thiện". Nhân ngay lúc đó có một số anh chị đồng môn trường tôi rủ nhau  làm một chuyến dài ngày thăm Úc châu nhân dịp Đại Hội Trường, chúng tôi quyết định đi ngay, vì vậy mà " anh xã"  không bị cảm giác buồn chán như  bị đứng lại khi  nhịp thở xã hội cuồn cuộn chảy.

Trở lại với chuyến đi lần này, chúng tôi chọn chuyến bay sớm nhất để tới Denver cho kịp chuyến tour bắt đầu từ 12 giờ trưa. Hướng dẫn viên du lịch hẹn đến đón ngay trong phi trường, và hình như tất cả du khách đều bay từ các nơi đến, rồi tập trung lại khoảng 55 người trong một chuyến bus-tour. Phi trường Denver là phi trường rộng nhất nước Mỹ, còn bận rộn thì đứng hàng thứ 6 trong số các sân bay quốc tế của Hoa Kỳ. Trong phi trường rộng lớn này, muốn ra tới chỗ hẹn, chúng tôi phải lội bộ tướt khói luôn, nhân tiện để nhắc bạn nào muốn đi du ngoạn vòng vòng, cần phải có đôi chân khá vững vàng quen lội bộ đường xa nữa nhé!

NN_Denver_3.jpg

Điểm đầu tiên là Công viên Red Rocks thuộc Jefferson county, Colorado. Nằm cách thủ phủ Denver khoảng 10 miles về hướng tây. Năm 1906 , một sân khấu lộ thiên Red Rocks Amphitheatre rất bề thế được xây dựng giữa một phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, với 9,525 chỗ ngồi, đã là nơi biểu diễn của các ban nhạc danh tiếng trên thế giới. Sau đó chúng tôi đi thăm một vòng thủ phủ Denver, Federal building là một công trình rất đẹp với mái vòm lợp bằng vàng ròng nói lên sự thịnh vượng của tiểu bang. Denver có một phố đi bộ (16th Street) với những bồn hoa rất đẹp dọc theo hai bên đường, khách bộ hành cứ thong thả dạo phố, hưởng vẻ đẹp của hàng cây lá nhỏ, chưa sang thu mà lá đã nhuộm vàng, dẫn tới một ngôi giáo đường cổ kính. Tiếng chuông nhà thờ lan lan trong không gian  buổi chiều khi mặt trời sắp đi ngủ, khiến tâm hồn thật êm dịu.

Sáng hôm sau, từ Denver, Colorado xe lăn bánh đưa chúng tôi về hướng bắc qua Wyoming, đây là tiểu bang có dân số thấp nhất nước Mỹ , với chưa đến sáu trăm ngàn người, nhưng Wyoming có những đồng cỏ bạt ngàn nuôi trên hai triệu rưỡi con bò! có nghĩa là số bỏ nhiều gấp năm lần dân số của tiểu bang! Để thăm một số thẳng cánh của tiểu bang South Dakota, lần lượt xe rẽ vào những nơi được coi là thắng cảnh của tiểu bang nằm dọc theo đường đi, đồi núi chập chùng, hai bên đường từng đàn bò thong thả gặm cỏ trên những cánh đồng cỏ xanh đã hơi uá vàng.

 

WIND CAVE: Nằm gần Rapid city, phía tây của S. Dakota Đây là hang động dài hàng thứ sáu trên thế giới (140.47 miles). Vùng đất này khô ráo, không có nước ngầm nên hang động không có thạch nhũ như nơi khác mà đá Calcite trong động bị oxy hoá, phân hủy tạo thành hình dạng như tổ ong (boxwork) rất lạ. Được đặt tên là "Động gió" vì tại lối vào thiên nhiên, nơi người ta đầu tiên khám phá ra động, luôn luôn có một luồng gío để điều hoà áp xuất trong lòng động và không gian bên ngoài.

 

Thật ra Động Gió ở South Dakota không đẹp bằng động thạch nhũ ở San Antonio, thành phố du lịch nổi tiếng của Texas đâu nha, vì động khô lại thiếu đèn nên thiếu vẻ sinh động, trong khi đó động thạch nhũ ở TX có những giọt nước chảy long tong từ các khối đá óng ánh, tạo thành nhiều hình tượng đặc biệt mà nếu tưởng tượng thêm, bạn có thể hình dung ra một thế giới thần tiên, hằng triệu năm có các vị tiên ông ngồi đánh cờ với nhau dưới lòng đất.

NN_Crazyhorse.jpg   NN_Denver_4.jpg


Đi xuống hang thì dễ nhưng lên thì không dễ đâu, vì có tới vài trăm bậc, khiến nhiều người cao niên đã thấy mỏi nhừ đôi chân. May quá chúng tôi đi lên bằng thang máy, và cả đoàn lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình vì đường còn xa, thẳng tới CRAZY HORSE MEMORIAL.

Đây là tượng đài kỷ niệm một chiến binh anh hùng của người da đỏ Lakota (Sioux) có biệt danh là "Ngựa điên". Người đã cầm đầu các cuộc chiến đấu dũng cảm chống lại người da trắng xâm lấn vùng đất tổ của họ. Tượng được tạc trên ngọn núi Thunderhead gần Black Hill, Custer county, South Dakota. Khởi công từ năm 1948, nhưng họ không chịu nhận sự trợ giúp của chính phủ liên bang cũng như tiểu bang, nên sau 70 năm mới chỉ hoàn thành được khuôn mặt của Crazy Horse với chiều cao 87 feet (so với 60 feet là chiều cao của khuôn mặt 4 vị tổng thống tại Mount Rushmore) và không biết đến bao giờ mới hoàn tất được công trình này!

Chắc các bạn đã nghe nhiều về rặng núi MOUNT RUSHMORE NATIONAL MEMORIAL: Chỉ cách Crazy Horse Memorial 17 miles. Được khởi công từ năm 1927 và hoàn tất vào năm 1941 với khuôn mặt của 4 vị tổng thống của Mỹ: George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln được tạc vào núi đá Rushmore/Black Hill, Keystone, South Dakota.

NN_Denver_5.jpg

Đã nghe nói từ lâu, lần này mới thực hiện được niềm mơ ước tới nơi thâm sơn cùng cốc này để chiêm ngưỡng hình ảnh 4 vị tổng thồng nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ. Đẹp nhất vẫn là khi xe đang chạy luồn trên con đường núi bao quanh, từ xa lẫn trong rừng núi đã thấy chân dung các vị tổng thống nổi bật lên nền trời, mặc dù lúc đó là buổi chiều với trần mây đục. Chúng tôi cố gắng ghi lại được nhiều tấm ảnh đẹp để đem về làm kỷ niệm.

Đi tour như vậy cũng có cái tiện là giá cả rất " mềm", khỏi phải lái xe nhất là những con đường núi ngoằn nghoèo cần phải có tài xế đầy kinh nghiệm. Ngoài ra cũng phải lội bộ giỏi, phải đúng giờ giấc quy định vì không để cho mọi người đi chung phải chờ đợi, làm chậm trễ chương trình của một ngày. Cũng không phải lúc nào xe cũng dừng lại để ăn uống cho đúng giờ như khi chúng ta ở nhà, có những ngày  xe phải đi liên lỉ mấy tiếng đường dài, thường người tour-guide đã phải cho biết trước từ chiều hôm trước, họ ghé vào siêu thị hay nhà hàng để cho hành khách chuẩn bị bữa sáng, hay trưa cho mình, khi nhiều đoạn đường trơ trụi núi non, cỏ không mọc nổi, không một cánh chim trời như vùng Badlands thì còn có thức ăn và nước uống mang theo để đỡ dạ.

Thế là lại lên đường, hai bên chỉ  là những rặng núi đá trơ trụi không một ngọn cỏ mọc. Bề mặt của núi đôi khi giống như cái mặt bàn khổng lồ, đã được  bàn tay của hoá công san phẳng, lạnh lùng với gió sương.Chúng tôi đến BADLANDS National Park/South DAKOTA.

NN_Denver_6.jpg  NN_Denver_7.jpg 

Đây là công viên quốc gia rộng gần một trăm ngàn hecta nằm ở phía tây nam của tiểu bang South Dakota. Vùng đất này được đặt tên là "Bad Lands" vì khu vực này không có nguồn nước nên dân cư không thể sinh sống mà chỉ là nơi săn bắn của các thổ dân da đỏ sống dọc theo con sông Missouri, từ mười một ngàn năm trước, mà hiện nay con cháu của họ đang sống ở North Dakota.

 

Vì là vùng khô ráo nên những núi đã ở đây được tạo thành từ hàng triệu năm qua do sự xâm thực của gió và hủy hoại của thời tiết thay đổi đột ngột giữa ngày và đêm, tạo nên những giải núi trải dài trông giống như những đền dài trong cảnh thần tiên với nhiều màu sắc ngoạn mục.

Các loại rắn rung chuông cực độc sinh sản mạnh tại đây nên du khách được cảnh báo không được bước vào những vùng đất cỏ mọc.

 

Rời vùng đất chết, chúng tôi tới một nơi cò đời sống của các loại động vật hoang dã, đó là BEAR COUNTRY U.S.A. Ở đây là một cánh rừng thật rộng, nuôi, thả thú thiên nhiên cho phép du khách lái xe vào xem tại Black Hill, nằm cách 28 miles về phía tây nam thành phố du lịch Rapid của tiểu bang South Dakota.

NN_Denver_8.jpg  NN_Denver_9.jpg 

Trong đó các loại thú rừng mà nhiều nhất là các loại gấu được thả trong các khu riêng biệt có hàng rào ngăn cách với nhau. Điều đặc biệt là các khu vực này đều có các cổng ra vào để xe của du khách có thể vào xem tận nơi. Không hiểu họ đã thiết kế, trang bị những gì mà các loại thú lớn chỉ lẩn quẩn qua lại trước cổng mà không con nào dám..."trốn trại" qua khu vực của loài khác.

Tại đây cũng có một nơi các trẻ em rất thích đó là khu vực nuôi các loại thú nhỏ và các chú gấu mới sinh đã được tách biệt khỏi mẹ của chúng, đang leo cây, đùa giỡn với nhau rất sinh động. Người xem có thể đứng nép sau bờ rào, nhìn thật gần những chú Gấu xinh xinh đang leo lên cây thông và vặt trụi cành nhánh để đùa giỡn với nhau, con vật sống với thiên nhiên xem ra cũng được hít thở không khí tự do "cơm no áo ấm".

NN_Denver_10.jpg

Thế rồi xe lại quay ngược lại tiểu bang Wyoming, đưa chúng tối đến một địa điểm du lịch mang tên DEVILS TOWER National Memorial được Tổng thống Theodore Roosevelt cho thành lập vào ngày 24 tháng 9 năm 1906.

Được hình thành trên hai trăm triệu năm trước bên giòng sông Belle Fourch. Đây là một đỉnh núi cao hình dạng rất giống một cái oản trên mặt đỉnh bằng phẳng và với những cột đá thẳng đứng dọc theo chung quanh sườn núi, trông xa giống như những vết cào thẳng từ trên đỉnh xuống đến chân núi. Với vách núi thẳng đứng, đây là một nơi thử thách khó khăn cho các tay leo núi chuyên nghiệp.

 

Nằm trong một khu đất rộng 1,347 acres (545 hecta) tai Crook County thuộc vùng đông bắc của tiểu

NN_Denver_11.jpg

 bang Wyoming với chiều cao 5,112 feet so với mực nước biển. Devils Tower nổi bật trên nền trời và được nhìn thấy từ rất xa, dưới chân tháp lổn nhổn những tảng đá lớn chồng chất lên nhau, giống như từ trên đỉnh tháp mới xảy ra một trận hỗn chiến dữ dội của thế giới quỷ ma. Người da đỏ xem đây là đất Thánh của họ và không hài lòng với tên Devils Tower mà người ta đã đặt tên cho ngọn núi lạ lùng này.

 

Theo truyền thuyết của người da đỏ Kiowa và Lakota thì từ thuở xa xưa có một nhóm thiếu nữ rủ nhau đi chơi trong rừng thì có một bầy gấu khổng lồ đuổi theo họ. Họ bèn leo lên một hòn đá to và quỳ xuống cầu xin thần linh che chở. Nghe lời cầu xin, thần linh đã nâng hòn đá lên cao vút tận trời! Bày gấu đuổi tới nơi liền tìm cách leo lên hòn đá để bắt họ nhưng chúng leo đến đâu thì hòn đá lại mọc cao hơn nữa và sau cùng thì chúng đuối sức tuột xuống vực sâu nên móng vuốt của chúng đã cào vào vách đá tạo nên những vết sước thẳng từ trên đỉnh xuống chân núi như hiện nay!

 

YELLOWSTONE National Park

NN_Yellow_1.jpg

Đây là điểm đến chính trong chuyến du lịch của chúng tôi. Được tạo dựng từ trên hai triệu năm trước, Yellostone trải rộng trên lãnh thổ của 3 tiểu bang Wyoming, Montana va Idaho. Với diện tích lên đến trên hai triệu mẫu Anh (gần mười ngàn km2) nằm trên một núi lửa khổng lồ lớn nhất trên lục địa (rộng 3825km2, sâu 8km) và đã phun trào dữ dội nhiều lần từ khai thiên, lập địa đến nay chưa kể hàng ngàn vụ động đất hàng năm, phần lớn là quá nhẹ nên con người không thể nhận biết được! Đây là vùng đất người da đỏ đã sinh sống và săn bắn từ trên11 ngàn năm trước vì có rất nhiều loại thú hoang dã sinh sống, trong đó có đàn bò tót (bison) hiện nay tập trung đông nhất nước Mỹ.

Vì công viên quá lớn với những quang cảnh lạ mắt khác nhau nên nếu du khách muốn thăm tất cả mọi nơi phải cần đến từ 3 đến 4 ngày để thấy hết những suối...nước sôi lên đến 160 độ F (Đã có du khách gặp tai nạn ngã xuống và bị .. luộc chín ngay!!!) những hồ hay hố nhỏ đầy bùn sôi sùng sục! và một miệng hang được đặt tên là "miệng rồng" vị cứ vài phút nó lại phun ra một đám khói, hơi nước với mùi diêm sinh hôi nồng nặc với tiếng "khè" giống như rồng đang phun lửa! Những giếng phun ở đây cũng rất mạnh vì nước được đun sôi trước khi phun lên. Đặc biệt là giếng phun Old Faithful thì cứ đúng 91 phút là nó lại phun lên một lần với cột nước cao hàng trăm mét (Vì biết trước được giờ giấc hoạt động của nó nên du khách được thông báo để tập trung quan sát cảnh tượng này rất đông).

NN_yellow_2.jpg

Có hai con sông lớn bắt nguồn từ đây những chạy về hai hướng khác nhau: Snake River chạy ra Thái Bình Dương và sông Yellowstone chạy ra Đại Tây Dương (qua vịnh Mexico). Công viên có trên 290 thác lớn nhỏ mà lớn nhất là thác Lower falls rất hùng vỹ cao 308 feet với nước chảy cuồn cuộn tại đình thác tạo thành cầu vồng dưới chân tháp rất đẹp. Từ chân tháp, dòng suối chảy qua một thung lũng với vách đá dựng đứng hai bên tạo nên Grand Canyon of Yellowstone với những khối đá màu vàng óng ánh như dát bằng vàng nên tên đá vàng (yellow stone) đã được dùng để đặt tên cho công viên này.

 

 

NN_yellow_3.jpg

Yellowstone Lake là hồ rộng 136 dặm vuông (350km2) rất lớn là một trong những hồ nằm trên độ cao nhất của nước Mỹ (7,732 feet so với mặt biển) và sâu trung bình 139feet (chỗ sâu nhất có thể lên đến trên 300 feet!) Vào mùa đông hồ đóng băng dày khoảng 3feet ngoại trừ những nơi nước cạn, gần những suối nước...sôi!!!

Chúng tôi dời Yellowstone với những đàn bò tót thanh thản trên đồi cỏ bạt

NN_yellow_4.jpg

 ngàn và hồ Yellowstone mây nước mênh mông đề về Great Salt Lake bằng đường xuyên bang US 91 ngang qua tiểu bang Idaho.

 

NN_yellow_6.jpg

IDAHO là tiểu bang phía Tây-Bắc Hoa Kỳ có biên giới cực bắc với Bristish Columbia của Canada. Với diện tích lớn thứ 14 (83.569 dặm vuông = 216.440 km2) nhưng lại đứng hàng thứ 7 về tiểu bang ít dân số. Thủ phủ là Boise và một thành phố du lịch nổi tiếng là Idaho Falls. Sản phẩm chính là nông nghiệp mà nổi tiếng là khoai tây với sản lượng chiếm 1/3 của cả nước.



Dọc đường là con sông "Rắn" (Snakes River) chạy dọc theo rặng Rocky mountain trải dài suốt chiều dọc của nước Mỹ, với những đỉnh cao phủ tuyết quanh năm tạo nên những cảnh đẹp thiên nhiên rất hùng vĩ.

Trước khi vào Salt Lake City, chúng tôi ghé thăm GREAT SALT LAKE, hồ nước mặn lớn nhất nước Mỹ với điện tích trung bình 1.700 dặm vuông (4.400km2 nhưng khi nước lớn diện tích họ có thể tăng lên gấp đôi).

Nước hồ do 3 con sông Jordan, Weber va Bear đổ vào cùng với khoảng 1.1 triệu tấn khoáng chất hàng năm. Vì không có đường thoát ngoài bốc hơi nên nước ở đây còn mặn hơn cả nước biển nên có biệt danh là "Biển Chết của Mỹ"  (người có thể nổi mà không cần biết bơi). Với nồng độ 25% muối, không có loại sinh vật nào có thể sống trong hồ trừ một loại giáp xác duy nhất có tên là Brine Shrimp.

Tuy vậy, các nhà khoa học tiên đoán là diện tích hồ đang bị thu hẹp dần và sẽ khô cạn trong tương lai làm mất đi nguồn lợi chiết xuất được trong nước hồ (muối và các loại hoá chất) và trứng của loài Brine Shrimp (làm thực phẩm cho cá) trị giá khoảng 1,1tỷ dollars hàng năm!

SALT LAKE CITY, đây là thành phố cuối cùng trong chuyến du ngoạn sáu ngày đi qua năm tiểu bang: Colorado,Wyoming, South Dakota, Idaho va Utah của chúng tôi.

 

NN_Denver_1.jpg

Trước tiên, chúng tôi được đưa đến thăm Utah Capitol Building là nơi làm việc của chính phủ tiểu bang. Được xây dựng từ năm 1912 đến năm 1916 và sau đó được tân trang vào năm 2004 để có thể chịu đựng được những trận động đất lên đến 7.3 độ Richter.

 

Nổi bật trên đỉnh Capitol Hill, tòa nhà được xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch màu trắng láng bóng từ ngoài vào trong nên vô cùng tốn kém và đã được Hoa Kỳ liệt vào danh sách những di tích lịch sử của quốc gia vào năm 1978. Một điều đáng nói ở đây là tòa nhà mở rộng cửa đón tiếp du khách vào thăm mà không phải qua một thủ tục khám xét an ninh nào cả.

 

Cuối cùng chúng tôi đến thăm nhà thờ Mornon trong Temple Square, một mảnh đất rộng 10 hecta bao chung quanh bởi bốn con đường lớn của trung tâm thành phố Salt Lake. Trong khuôn viên, ngoài ngôi thánh đường thật lớn, mà chỉ có các tín đồ Mormon mới được vào, còn có nhiều công trình phụ và nổi bật là một building cao 28 tầng, nơi làm việc của các văn phòng truyền giáo của Mormon trên toàn thế giới. Với những hồ, tháp phun nước lớn và những vườn hoa thật đẹp, dù đã cuối hè nhưng vẫn rực rỡ khoe sắc thắm, do được các thiện nguyện viên thường xuyên chăm sóc chu đáo. Vì vậy nơi đây là một điểm du lịch nổi tiếng, thu hút 3 đến 5 triệu du khách đến thăm mỗi năm.

 

Description: https://ssl.gstatic.com/ui/v1/icons/mail/images/cleardot.gif

Tiểu bang Utah là chặng cuối của cuộc hành trình từ Denver tới Yellowstone. Cơn bão Harvey đổ bộ vào tiểu bang Texas với những cơn mưa lớn gây lụt lội cho nhiều thành phố khiến chúng tôi kẹt lại 

NN_yellow_5.jpg

Utah hết 5 ngày vì không có chuyến bay về. May mà gia đình và nhà cửa được bình an, tổn thất không đáng kể, nên đành phải đi lang thang để tìm tòi thêm về tiểu bang Utah, được đánh giá là 1 trong 10 tiểu bang có phong cảnh và đời sống an lành nhất nước Mỹ.

 

 

 

Thân mến chào tạm biệt!

Nguyên Nhung.

 

Chuyến du ngoạn Yellowstone National Park

 https://youtu.be/Ribt_nrhkwQ

 
NN_yellowstone.jpg 


NGUYÊN NHUNG:
YOUTUBE: ĐẠI HỘI PTGĐTĐ XXI-HOUSTON TEXAS 2017:
 
1. ĐÊM TIỀN HỘI 5/5/2017: 
 
NN_TienDH.jpg 
 
Click hàng chữ dưới đây: 
 
 
 
2. ĐÊM ĐẠI HỘI 6/5/2017:
 
HauDH_ruoclong.jpg 
 
Click hàng chữ dưới đây: 
 

 

NN_coiMuSuong.jpg

 

 

 

An online flipbook from donguyen66.

CÕI MÙ SƯƠNG của NGUYÊN NHUNG 

 

( Xin Click vào tên truyện Cõi Mù Sương dưới 

đây, nó sẽ mở ra, đọc xong thì click nhẹ vào

góc cuối trang phiá bên tay mặt, sách sẽ mở ra )    

 

CÕI MÙ SƯƠNG | FlipHTML5

 

 fliphtml5.com

 


  

QUÊN . . .

 

Tôi mở tim ra tìm nỗi nhớ
Ôi lạ lùng sao ! Chẳng nhớ gì
Bao nhiêu kỷ niệm, người năm cũ
Lặng lẽ tan vào trong giấc mơ

 

Tôi lật hình ra tìm bóng cũ
Lạ lẫm nhìn nhau chẳng thấy quen
Ngày tháng đong đưa tình đã cạn
Đời chỉ dài thêm những lãng quên.

 

 Tôi thấy trùng trùng cơn sóng vỗ
Biển vẫn trầm trầm khóc tỉ tê
Thuyền ngút ngàn xa, bờ bãi vắng
Bầy chim xoải cánh rủ nhau về

 

 Tôi gọi tôi về với gió thơm
Về với niềm vui, với nỗi buồn 
Gió thổi luồn qua hồn trống rỗng
Kỷ niệm khoanh tròn con số không

 

 Tôi hỏi bóng mình in đáy nước
Hồn ma bóng quế lạc đâu về?
Gợn sóng phù du tan biến cả
Cuộc đời ảo ảnh tựa cơn mê

 

Nguyên Nhung

 

Bài họa : NHỚ

 

Anh cố quên nhưng luôn phải nhớ

Người ta quên sao phải nhớ gì ?

Kỷ niệm trôi hoài ngày tháng cũ

Bây giờ đọng lại mãi trong mơ.

 

Hai đứa chụp hình ghi ngày tháng

Bây giờ nhìn lại thấy quen quen

Em e ấp mãi bên sông cạn

Thử hỏi làm sao anh lãng quên ?!

 

Hai đứa nhìn trời chim cánh vỗ

Từ trên cao gió lộng tái tê

Anh dìu em trên con đường vắng

Chân run khập khễnh lối đi về.

 

Anh vuốt nhẹ nhàng suối tóc thơm

Chia tay sau đó lặng câm buồn

Em qua ngõ vắng tim tôi rỗng

Anh mãi nhìn theo em biết không ?

 

Tôi hỏi em chim trời cá nước

Em đi lâu quá chắc không về

Con sóng trào dâng tan tất cả

Nhưng tình hoài niệm mãi đam mê !!!

 

Dương hồng Thủy

17/02/2017

  

 

NGƯỜI ĐƯA THƯ

    tl_mailman.jpg  

 Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta. Đó là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa Claus mỗi mùa Giáng sinh. Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ Việt Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà.

Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó. Mỗi buổi chiều, khi chiếc xe của Bưu Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú. Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.

Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt Nam gửi sang, đề trúng tên người gửi và địa chỉ "zip-code", nhưng thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại cho Bưu Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi.

Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt:

" Xin lỗi, có phải tên cô không?"

Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên mình, rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:

"Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá."

Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu thành ngữ tiếng Anh:

"It's raining. . . cats and dogs..."

Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:

"Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt Nam."

Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:

"Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?"

Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:

"Từ Việt Nam. Tôi đã từng ở Việt Nam, cách đây ba mươi năm. Việt Nam luôn ở trong trái tim tôi."

Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối. Một lần nữa, tôi mời ông vào nhà , không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:

"Người Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy không?"

Ngạc nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông. Như hai người đồng hương đã lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:

"Tôi nhớ Việt Nam nhiều lắm, nhớ "người" Việt Nam lắm..."

"Người Việt Nam" ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp. Ông thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:

"Đấy có phải là hoa mai?"

Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của mình:

"Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu tượng cho mùa Xuân ở quê hương tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân."

Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:

"Tôi biết, vì cô ấy tên M.

Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi.

Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt Nam, cả cái không khí lãng đãng một chút ngậm ngùi theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm ướt. Trong khi chờ mưa ngớt hạt, người đưa thư bồi hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba mươi năm trước.. ..

* * *

David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên nhiên.

Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện. Do đấy, chàng có một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi.

Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi.

Trước khi sang Việt Nam, chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc đến Việt Nam chàng đã bập bẹ nói được những câu xã giao thông thường với người bản xứ. Năm David tới Việt Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành phố tương đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh. David chỉ ở Sài Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng.

David đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4. Những cánh đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những chuyến phà qua sông Hậu Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau.

Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối diện với chiến tranh như những người lính Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, và cũng không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh. Cho nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô bé Việt Nam, Mai là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này.

Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á Đông rất ưa nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á Đông khiến con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì nhớ thương. Như câu ca dao Việt Nam,"Yêu ai yêu cả đường đi lối về", David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông Cửu Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi và đầy thiện cảm. Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường. Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành phố.

Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa. Sau nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn.

Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận, dù David là một chàng trai học thức. David không hiểu tại sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy. David thắc mắc thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt Nam bảo thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc.

Sống ở Việt Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt Nam, học được cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt nhưng vẫn bị từ chối. Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai, nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt. Cuối cùng, bị khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác. David được hồi hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng :

" Nếu không được kết hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa."

* * *

Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi:

"Tại sao dân tộc cô lại có cái nhìn khe khắt như thế? Một tình yêu khác chủng tộc có phải là điều tội lỗi?"

Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận. 

David lại nói tiếp:

"Ba mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm tòi văn hóa Việt, và tôi hiểu tại sao dân tộc Việt Nam không tiến lên được. Trong một vấn đề giản dị đó, họ đã không có cái nhìn rộng rãi, thì những vấn đề lớn hơn, họ cũng khó mà thay đổi."

Tôi thở dài nói với David:

"Tôi nghĩ không chỉ người Việt Nam chúng tôi mới có quan niệm thiển cận như thế, ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người không cùng sắc tộc với mình. Hơn nữa người Việt Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi chống đối lại cha mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định mệnh đã đặt để, ông thông cảm cho. Nhưng thưa ông, đấy chỉ là những suy nghĩ của thời gian đó, bây giờ mọi điều đã thay đổi..."

Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:

"Cô có biết tôi đã đau khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai, tôi đâm ác cảm với tất cả người Việt vì lối suy nghĩ của họ. Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực hiện được. Khi đất nước cô bị rơi vào tay Cộng Sản, tôi vẫn hy vọng là sẽ gặp Mai trong đám người Việt di tản sang Hoa Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở này không ai cấm cản Mai kết hôn với tôi cả".

Tôi ngắt lời David:

"Ông có gặp lại cô ta không?"

David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra một tia nhìn ấm áp:

"Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì Mai đã là một nữ tu đang săn sóc cho đám trẻ mồ côi đem từ Việt Nam sang. Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao quý đó. Mai đã hy sinh tình yêu, tuổi xuân để phục vụ cho một nghĩa vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân loại. Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm của riêng, khi nhìn thấy bản chất cao đẹp trong tâm hồn nàng."

Giọng ông ta chợt bùi ngùi:

"Đồng thời tôi cũng hiểu được ý nghĩa lời nói của Mai, khi đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau. Nàng là người con gái Việt Nam thuần túy có những suy nghĩ theo tính cách của dân tộc nàng, nhưng trong tình yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích hợp với đời sống và việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại cha mẹ. Để rồi cuối cùng cô đã chọn con đường ấy, con đường phục vụ cho tha nhân."

Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh có những bông mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông nói tiếp:

"Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ nhoi. Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư. Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề nghiệp hiện tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là trong những muà Lễ, Tết. Tôi cũng hiểu rằng từ miền đất xa xăm nghèo khổ kia, họ đã phải tiết kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một lá thư cho người phương xa."

Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ. Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được tấm lòng như người đưa thư này. Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng Sinh. Tôi nói với ông rất thành thật:

"Tôi cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê hương tôi, dân tộc tôi, dù trước kia ông đã bị đau khổ vì sự suy nghĩ của họ."

Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông ở xứ người. Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống với cái đẹp của tình yêu.

Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô. Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người.

 
Giá tất cả thế nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất.

Nguyên Nhung

__________________________________________________________________________________________________________________ 

  

Một Thoáng Thu Về...

 

Buổi sáng ra vườn sau
Thấy cúc vàng đã nở
Thế là một mùa thu
Lại về khu vườn nhỏ

 

Như người bạn tri âm
Lâu rồi mình không gặp

Mà nào có xa xăm

Mới bốn mùa thay đổi

 

Bao điều mình định nói

Nhưng lúc nhớ lúc quên

Mùa thu không thay đổi
Chĩ có mình đổi thay

 

Không nắm được bàn tay
Vẫn chạm vào quá khứ
Không nắm được tương lai
Ngày lúc nào vẫn vậy

 

Một ngày như mọi ngày
Đều là ngày chủ nhật

Nên buồn hay nên vui

Vì đời êm ả quá

 

Sáng nay hoa cúc nở
Thêm một chút heo may
Nên tự nhiên mới nhớ
Có muà thu qua đây...

Nguyên Nhung

 

 

NN_youngNN.jpg

NGƯỢC GIÒNG...

Giá như quay ngược thời gian lại

Cho tôi về tìm lại tuổi thơ

Bánh xà phòng với cọng rơm khô

Tôi thổi bóng bay lên trời, rất ngộ!

 

Quả bóng nước lung linh mà dễ vỡ

Đẹp làm sao trong ấy có bầu trời

Và hình như còn có cả nụ cười

Của cô bé mới chừng ba, bốn tuổi...

 

Trò chơi trẻ con như trang giấy mới

Vài tấm hình nguyệch ngoạc vẽ đơn sơ

Những trưa hè tiếng chó sủa vu vơ

Có bụi trúc lả mình chơi với nắng

 

Là áo mẹ phơi, sân đầy hoa nắng

Đã in hình trong quả bóng tròn quay

In vào hồn cô bé rất thơ ngây

Những nét đẹp hồn nhiên ngày thơ dại

 

Để bây giờ giật mình ngồi nghĩ lại

Đời khác chi  thuở thổi bóng lên trời

Theo thời gian, phù vân tan biến cả

Ảo ảnh cuộc đời cũng chỉ thế thôi!

 

Nguyên Nhung, 2016

  

 

VIDEO: Giới thiệu Tập truyện

BÃI BỂ NƯƠNG DÂU

của 2 tác giả: TUYÊN ÚY NGUYỄN & NGUYÊN NHUNG

(Click 2 hàng chữ hay vào ảnh dưới đây) 

https://vimeo.com/164857951 

 

 
 

 

NN_Motthoangquenha.jpg

Bút ký Nguyên Nhung

 

Đã hơn 20 năm tôi chưa một lần trở lại quê nhà, dù bao lần hẹn với người thân trong gia đình ít nhất cũng  phải có một lần gặp lại. Nếu không có Đại Hội trường xưa của tôi tổ chức tại Melbourne bên Úc châu, tháp tùng nhiều anh chị đồng môn tham dự thì chắc chuyện về thăm gia đình cũng chỉ là một giấc mơ.

 

Khi ngồi trong phi cơ chờ hạ cánh xuống phi trường TSN, tôi cảm thấy hơi hồi hộp dù đã nhủ lòng không có gì phải lo lắng. Nỗi vui mừng khi sắp gặp lại gia đình, chuẩn bị sẵn những gì phải "đối phó" sau nhiều năm dài xa quê hương. Suốt đoạn đường bay khá dài, trò chuyện cùng một cặp vợ chồng trẻ cũng từ Hoà Lan về thăm nhà. Tuy mới quen,  khi biết đây là lần đầu tôi trở lại quê hương anh ta tò mò hỏi

 

- Chị có thể cho biết cảm tưởng của chị khi về lại quê nhà?

 

Cảm tưởng ư? Nhiều lắm chứ, cả nỗi suy nghĩ vẩn vơ nếu như có điều gì không vui xảy tới. Suy nghĩ một chút tôi trả lời anh ta:

 

- Ngày tôi đi trời còn mờ sương, nay trở về trời đã hoàng hôn. Như một giấc mộng dài. Tôi đang nghĩ đến gia đình, đến niềm vui xum họp sau hơn hai mươi năm mà may mắn là các anh, chị tôi còn sống cả.

 

Đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, tôi như chạm mặt với một bức tường băng giá, xa lạ và lòng lại tràn ngập nỗi lo sợ vẩn vơ. Mãi tới khi qua khỏi những thủ tục phiền phức, có người muốn tôi đưa một chút gì đó mà họ gọi là "chút quà cho quê hương", ra ngoài gặp lại bao người thân trong gia đình tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tuy nhiên, những ngày về thăm nhà tôi không ghi lại gì ngoài những khúc phim và hình ảnh, nhưng trong tâm tôi mỗi một nơi tôi đến đã ghi đậm bao nhiêu cảm xúc buồn, vui ...

 

Sài Gòn

 

Hơn hai mươi năm trở lại, Sài Gòn về đêm trời vẫn oi bức. Vây xung quanh là người thân ra đón, tôi ngỡ ngàng nhìn mấy đứa cháu nay cũng già đi với thời gian, trách nào tôi cũng già đi khi mấy đứa cháu ngày tôi ra đi mới ngoài hai mươi tuổi, nay tôi về đã ngoài bốn mươi, đã lập gia đình và với một thế hệ tiếp nối chào đời có vài đứa cháu đã tốt nghiệp Đại Học. Tình cảm của tôi đối với các anh, chị trong nhà, với lũ cháu thân yêu ngày nào không thấy có chút đổi thay  trong mắt nhìn của tôi, lại cảm thương hơn khi hiểu những đưá cháu một thời sinh ra đã chịu bao thiệt thòi trong nỗi nhọc nhằn, đắng cay với cha mẹ sau ngày chiến tranh chấm dứt, hiện tại vẫn vất vả để mưu sinh.

 

Đêm Sài Gòn đèn màu chấp chới, những con đường mới mở sau này thuộc vùng phi trường TSN ngày xưa, khi tôi ra đi chỉ thưa thớt nhà cửa và đồng ruộng, nay thành phố xá nhà cửa san sát. Người ta đi đâu mà đông vậy? Lòng đường chật chội hay trước hàng hiên của mỗi căn nhà, hình như vẫn bán buôn một thứ gì đó. Sau này tôi mới nhận ra vẻ phồn thịnh này tiêu biểu cho một nền kinh tế èo uột, người dân bán mua, mua bán lẫn nhau để tìm cách sống, giữa một thành phố vật giá leo thang, khó tìm nổi công ăn việc làm vững chắc.

 

Chiếc taxi đưa tôi trở về căn nhà của người anh cả trong một ngõ hẻm chật không thể nào rộng hơn được nữa. Tuy là hẻm nhỏ nhưng ven bờ rào vẫn phảng phất mùi nguyệt quế, trời nhấp nháy sao đêm, dịu bớt đi chút nóng bức và khói bụi của thành phố đông người. Anh chị tôi vẫn còn thức chờ tôi về, tôi cứ nhớ mãi một ngày nửa đêm về sáng cách đây hơn 22 năm, khi tiễn tôi và gia đình ra đi anh đã bật lên khóc hù hụ . Nay trở về, anh tôi già quá, miệng  móm mém vì mất đi những chiếc răng, lần này thì anh không khóc mà chỉ lặng nhìn cô em út sau hơn hai mươi năm biền biệt cách xa . . .

 

Đêm đầu tiên về thăm nhà, Sài Gòn ban đêm vẫn hầm hập nóng dù máy lạnh chạy rì rì và quạt quay đều đều. Nhà chật nên tôi rủ bà chị ruột ngủ chung cho vui, chị em rù rì chuyện trò mãi mà chưa ngủ được, bao nhiêu buồn vui hơn hai mươi năm xa cách. Chị già đi nhiều, thanh âm của "cô giáo gìa" trầm đi như nốt nhạc buồn.  Tuy vậy tôi vẫn nhìn ra sự thương yêu, trìu mến săn sóc của chị dành cho tôi như ngày còn thơ dại, và nhớ cả thời gian chị em tôi phải vật lộn để mưu sinh giữa chợ đời đen bạc. Chị là nhân vật cô giáo bán chợ Trời trong câu chuyện "Lá Thư Gửi Thầy Giáo Cũ" tôi viết đã lâu, bóng dáng một cô giáo gầy gò, ngồi bệt trên mảnh ny lông trải bên hiên phố chợ vẫn còn đó. Với anh, chị trong nhà, mỗi người đều được tôi ghi lại thành một câu chuyện, mà sao chuyện nào cũng buồn đến  rơi lệ ...

 

Mấy lần thức giấc trong đêm, sớm tinh sương tôi mới chập chờn đi vào giấc ngủ. Ấy là nhờ tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh từ nhà hàng xóm vọng sang, hình như trong các ngõ hẻm ở Sài Gòn luôn luôn có tiếng động, không trẻ con chạy chơi thì cũng là tiếng rao hàng của mấy gánh hàng rong. Nhớ tiếng rao hàng của Sài Gòn năm nao, tôi lại chợt nhớ đến một người bạn cũ, cái thời "cạn ao thì bèo xuống đất" ở nhiều thập niên trước, chúng tôi gặp nhau bên lề đường gió bụi để ... mưu sinh. Chị kể lúc kinh tế gia đình xuống đã phải bưng thúng xôi rao bán khắp hang cùng ngõ hẻm. Ngặt từ bé đến lớn chị là "em là gái trong song cửa", nên đâu biết rao hàng làm sao. Bưng thúng xôi đi vào con ngõ tối om, nhìn trước nhìn sau không thấy ai chị mới dám cất tiếng rao "Ai ăn xôi không?" thì tự nhiên nghẹn lời, nước mắt rơi lả chả. Chao ơi là tội, trở về Sài Gòn hôm nay, nhớ tiếng rao hàng của những người mua gánh bán bưng,  tôi lại nhớ đến chị ấy, không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu?

 

Bình minh Sài Gòn trời oi bức, mới rạng đông mà người rít chịt mồ hôi báo hiệu một ngày nắng gắt. Chị tôi rủ đi ra đầu ngõ ăn phở, tôi muốn thưởng thức lại hương vị Phở Sài Gòn năm xưa xem thế nào. Cũng tạm được, chỉ buồn cười là phở Sài Gòn bây giờ lại ăn với rau ngò om, loại rau chỉ dùng để nấu canh chua. Cố nuốt cho xong tô phở nhỏ tôi hiểu đất Sài Gòn vật giá đắt đỏ, muốn bán một tô phở cho người bình dân dĩ nhiên là chủ tiệm phải tính toán kỹ chi ly từng miếng thịt. Tôi không quan tâm về miếng ăn và rất cảm thông khi hoàn cảnh sống chỉ cho phép ... có thế thôi!

 

Quay về nhà bần thần trước mấy va ly đồ đạc ngổn ngang, tôi lại phải chuẩn bị hành lý cho chuyến bay tối qua Úc. Úc đang vào thu, Sài Gòn lại nóng chảy mỡ, trong va ly chèn đầy nhóc quần áo ấm ,  tới đây tôi thấy toát mồ hôi, mệt rã rời ... khi nghĩ tới lúc phải bước chân vào phi trường, với những thủ tục hải quan rắc rối . . .

 

Hai tuần lễ ở Úc, hội ngộ Trường Xưa với các anh, chị đồng môn, được hưởng những ngày vui thật trọn vẹn với các anh, chị dù rất nhiều người tôi chưa gặp bao giờ. Nửa tháng trời ở bên Úc, là đúng nửa tháng tôi được thăm nửa vòng nước Úc. Đó là người ta bảo vậy, vì các tiểu bang của Úc đều nằm lòng vòng theo bờ biển, ở giữa là sa mạc nắng cháy nên nước Úc rộng thênh thang mà không có người ở.

 

Thế rồi sau chuyến Úc Du, sau đại hội được lang thang trên các nẻo đường, từ Melbourne một ngày bốn mùa nóng lạnh nắng mưa, đến Sydney khí hậu ấm áp mặc dù bấy giờ là mùa thu nước Úc, chúng tôi còn được đến Brisbane biển xanh trời xanh tuyệt đẹp.Hai tuần rong chơi để tận mắt nhìn thấy sự hiền hoà, thân ái của người bản xứ, được gặp lại hai người bạn cũ cùng xóm từ những ngày còn nhỏ, quay về Sài Gòn đến phi trường TSN, trong lòng lại luấn quấn  một điều gì mù mờ không rõ rệt Ai ngờ lần trở về này lại là lần cuối cùng anh em tôi được sống gần nhau để nói nốt những câu chuyện dở dang ...

 

Ngoài những chuyến du lịch ngắn ngày, tôi thích về nhà với anh tôi, tuy căn nhà chật chội những cảm thấy được che chở ấm áp. Chị gái tôi từ Long Xuyên lên. Buổi chiều khi cơm nước xong, một lũ cháu lớn, nhỏ ngồi vây quanh nghe các ông, bà nói chuyện. Riêng tôi kể chuyện về nước Mỹ xa xôi, chuyện của đời thường với sự thật 100%  về cái xứ sở mà mọi người cứ tưởng chỉ toàn "mật và sữa". Nước Mỹ đâu phải thiên đàng nhưng nó cũng không phải hoả ngục, cũng "tay làm hàm nhai" nhưng cơ hội thường mở cửa cho người chịu khó và kiên nhẫn sống một cách lương thiện, được bảo vệ và hít thở bầu không khí tự do tuyệt vời.

 

Thời gian đó sức khoẻ anh tôi đã xuống dốc, với những đêm khó ngủ vì chứng tim mạch hành hạ. Nhờ có tôi về thăm, nên anh có vẻ khoẻ lên nên cả nhà ai cũng mừng, những bữa cơm đơn sơ trong gia đình ngon hơn nhà hàng dù thật là giản dị. Lại nhớ đến những bữa cơm dưa cà của mẹ tôi thời thơ ấu, cái vui không phải vì "cao lương mỷ vị" mà vì cái tình đầm ấm của một gia đình đoàn tụ.

 

Sau bữa cơm tối cả nhà quây quần bên nhau nói chuyện cũ.Trong mỗi hồi tưởng, anh nhắc nhiều về căn nhà cũ nơi chôn nhau cắt rốn ở phố Cửa Tiền, Sơn Tây, những lần hành quân giày "sault" bê bết bùn sình, và cả những khuôn mặt đồng nghiệp báo chí, hay đồng đội cùng làm việc chung ngày xưa trong đời lính, anh tôi chẳng quên ai. Mấy đứa cháu nội, ngoại của anh lại há hốc mồm ra nghe các ông bà nói chuyện. Đối với chúng cũng giống như chuyện đời xưa, mà nào có xa xôi gì, chỉ mấy chục năm trước thôi sao lại giống như chuyện cổ tích. Việt Nam bây giờ không còn khói lửa chiến tranh, mà chỉ còn là khói bụi ngập đường, đâu tìm ra được cái êm đềm của "đường xưa lối cũ" với những tà áo dài tung bay trên hè phố.

 

Chuyện hai chị em tôi cũng buồn. Chị kể cảnh một cô giáo nghèo, lắm khi trên mâm cơm chỉ duy nhất có một cái hột vịt giầm nước mắm để chấm rau. Mỗi năm tiêu chuẩn phân phối mỗi người 2 mét vải, may được cái quần thì không có cái áo. Mấy đưá cháu lại hít hà, miệng há ra vì ngạc nhiên quá đỗi. Một đưá cháu ngoại của anh quay qua hỏi mẹ nó:

- Thật không mẹ?

Mẹ nó là đưá cháu gái gọi tôi bằng cô, gật đầu trả lời con giọng cũng bùi ngùi:

- Thật đó, tại bây giờ con no đủ rồi nên không thấy được cảnh đó đâu. Hồi đó bằng tuổi con mẹ đã phải nghỉ học ở nhà vì trường huyện xa quá, phải học thêu may đan lát tiếp ông bà ngoại kiếm cơm". Rồi nó đánh trống lảng: "Thôi con đừng hỏi nữa ..."

Giọng cháu nghẹn ngào vì nỗi khổ ngày xưa hiện về như một cuộn phim buồn. Tôi nhìn cháu mà đứt ruột, nghèo là cái tội đổ lên đầu người dân một thời tưởng như chuyện cổ tích. Những đưá cháu ngoan ngoãn của các anh, chị tôi, trưởng thành từ cái khổ, như cái ách của con trâu cầy buộc lên cổ người trên  thửa ruộng cằn khô.

 

Thời gian thấm thoát qua đi, một năm rưỡi trôi qua là lúc anh tôi cũng "rũ bụi trần" về với ông bà, cha mẹ bên kia thế giới. Buồn vì mất đi người anh thân yêu, ngày tôi còn nhỏ anh phụ mẹ nuôi em, một người anh đúng nghĩa "Quyền Huynh Thế Phụ", mỗi lần nghĩ về anh tôi lại chảy nước mắt. Nhận lá thư chia buồn của một người bạn, đọc mấy câu "Sống Gửi Thác Về" tôi chợt giựt mình "ngộ" ra chữ VỀ nghĩ ngợi mãi và vơi bớt nỗi buồn, thì ra anh tôi chỉ Về với mẹ, với cha, với cội nguồn, "Lá Rụng Về Cội" là thế!

 

Nghe gia đình kể lại trong những ngày cuối đời, lúc tỉnh lúc mê anh đã nhiều lần nhìn về di ảnh của mẹ tôi trên bàn thờ mà gọi "mẹ, mẹ" biết bao nhiêu lần. Chẳng biết người ta thế nào, nhưng với anh thì tôi cho rằng từ thuở còn trẻ dại cho tới khi trưởng thành, anh luôn gần gũi mẹ nên lúc nào cũng con đâu mẹ đó. Dân nhà binh, mỗi lần thuyên chuyển đi đơn vị mới anh tôi luôn mang mẹ và em theo, bởi vậy đời tôi cũng trôi nổi theo bước chân người anh là Lính, biết nhiều nơi chốn hay nếp sống của người dân miền sông nước.

 

Ngoài ra trong những ngày cuối đời ấy anh cũng hay gọi tên các em, trong khi đã có một bầy con, cháu bộn bề. Phải chăng đến giây phút ấy trong tâm hồn mỗi người, vẫn có những lúc quay về quá khứ, nhớ về mái ấm gia đình trong đó có hình bóng những người thân yêu của mình. Chết chưa phải là hết, triết lý theo tôn giáo nào thì chết chỉ có nghĩa là tiếp nối về một nơi nào đó Bình An, rất mù mờ như khói sương. Tôi vẫn nghĩ như vậy và hy vọng anh tôi gặp lại những người thân, những đồng đội của anh đã yên nghỉ từ lâu.

 

Nhắc chuyện cũ về mẹ tôi, năm mẹ mất cũng là những năm gạo châu củi quế, hôm nào mấy đứa cháu đi "ruộng" đem về được rổ ốc béo là bà biến chế ngay thành món ốc nấu khế  cho cả nhà được một bữa ngon cơm. Khi mẹ mất, chị em tôi tìm và giữ được hai chiếc áo cũ của mẹ, lẳng lặng chia nhau kỷ vật thân thương nhất của người mẹ hiền tảo tần chắt chiu nuôi con ăn học. Chị tôi giữ cái áo cánh nâu còn hằn những nếp nhăn bạc màu hai bên nách áo, tôi giữ chiếc áo dài màu cánh dán mẹ tôi vẫn mặc đi nhà thờ, những đường chỉ cũng bạc màu với thời gian.

 

Ngày anh tôi mất, chị nghĩ đến chuyện giao lại tấm áo kỷ niệm của mẹ cho đưá cháu đích tôn của mẹ tôi, đứa con trai đầu lòng của anh tôi mà bà nội đã nâng như trứng, hứng như hoa khi cháu mới chào đời, nay cũng là một nhà giáo. Tấm áo ấy được phủ lên quan tài của anh tôi, như muốn nói với anh rằng: "Cuối cùng thì mẹ cũng đón anh về, anh cũng được ôm trong vòng tay yêu thương của mẹ."

 

Nguyên Nhung

( muà đông-2015)

 

 

 

Một Thời Chinh Chiến Điêu Linh

                                                                                                                                     Nguyên Nhung

Dưới đây là truyện viết về 1 phóng viên chiến trường thuộc vùng IV chiến thuật: Phóng viên MAI HÒA. Đây là 1 nhà báo quân đội chuyên nghiệp, xuất thân từ Việt Nam Thông Tấn Xã. Khoảng thời gian của thập niên 60, ngòi bút và những hình ảnh, những thước phim tại chỗ của Mai Hòa ngự trị trên báo chí hầu như hàng ngày. Qua đó đọc giả như thấy cuộc chiến diễn ra sống động ngay trước mắt mình.

Ký giả Mai Hòa hay Giuse Nguyễn Văn Hòa chính là người anh cả của nhà văn Nguyên Nhung. Giuse đã thanh thản về với Chúa hôm 16/11/2015 tại Sài Gòn. Trang Nhà xin thành kính chia buồn cùng Đông - Nhung và Tang quyến. Nguyện cầu Hồng Ân Thiên Chúa sớm đưa linh hồn Giuse về Nước Thiên Đàng.

Trang Nhà ptgdtdusa.com____________________________

 

Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh còn phải đeo lủng lẳng cái máy quay phim và caméra trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ "Báo Chí", hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tuả vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đã ghi lại biết bao nhiêu hình ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường  đất nước.Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ : "Không biết sống chết lúc nào". Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Ðoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước , đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng sâm sấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập rình chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào lòng người chiến sĩ.
Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần mò ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chuà nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo mấy bụi cây thấp trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết.Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh giống như mùi máu.Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra bình thường dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chuà, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận." Không phải lúc nào ta cũng thắng ", anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua thì bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất còn lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm rầm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hãi, khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.
Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Ðốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín mùi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.Gia đình anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.

 

 

Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào hình ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau vì tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngã xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy loà nhoà hình ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đã nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi . Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nhìn thấy sự hy sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến.Những hình ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, tim anh vẫn thắt lại khi bất chợt hôm nào nhìn thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai
Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chuà chiền cổ kính, lại vội vã bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nhìn hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương mình sao khốn khổ đến thế.
Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ.
Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đã phải ngắm nhìn chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay dấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền ruả sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là hình ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự an bình cho những đứa con.
Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn lại khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn đạn vô tình.Tình cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài.Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối phương.Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đã bao phen đối mặt với tử thần. Anh còn bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp Mười. May là Thượng đế đã che chở anh, đã cho anh trở về với một xác thân lành lặn.Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, lòng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.
Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã bị quên lãng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm  cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ , sợ hãi cả tiếng bước chân của chính mình.
Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại thì thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đã khuất.
Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời
Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo giõi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đưá trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.
Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái mình cá vẩy óng ánh màu xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí.
Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ "hotel" và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm lòng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng mình như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương
Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào đầu khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh còn là một người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, lòng vòng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đã nát mình dưới những vòng xe lăn.
Phố đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm nói với mình, " Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình không nhỉ ? "

 

Viết cho anh tôi, 1 phóng viên chiến trường.

NN

 

CĂN  GÁC  ÐÌU  HIU

 

web_NN_CanGac.jpg

       Truyện ngắn của Nguyên Nhung

 

Hình như  dĩ vãng không hề tách rời khỏi tâm hồn Ðoàn, mỗi lần nghĩ về những khoảnh đời cũ, Ðoàn lại nhớ như in căn gác lửng  mái tôn có cái trần thấp lè tè , một  thế giới đầy kỷ niệm của những ngày trẻ tuổi. Mỗi lần bước lên gác, chàng lại phải khom mình xuống, để tránh đụng đầu vào cây kèo trên căn gác chật hẹp  ấy.

 

Thế nhưng, căn gác thấp tuy nhỏ bé lại là cả một giang sơn của một cậu học sinh thời Trung học, có một chiếc bàn nhỏ làm bàn học, vứt  đầy những bản nhạc mua được bằng những đồng tiền dành dụm quà sáng.

 

Chiếc kệ bằng gỗ tạp xếp nghiêng nghiêng những cuốn sách học, những tập vở, lẫn lộn vào đó là vài cuốn tiểu thuyết, hay một vài bài thơ viết dở dang. Rồi khi thêm được cây đàn , ngoài những lúc đi vắng, căn gác nhỏ là cả một thế giới âm thanh của tuổi trẻ và tình yêu. Những ngày với bạn bè lang thang ngồi quán cà phê ngắm những tà áo màu tung bay trên hè phố, khuôn viên trường Ðại học, hay khi chỉ một mình  trong căn gác thấp và tối, âm nhạc quả là thế giới kỳ diệu để tuổi trẻ tạm quên  đi nỗi buồn chiến tranh.

 

 

Ði xa nhiều năm, trở về căn gác nhỏ của mình, Ðoàn vẫn thấy xúc động khi  có dịp sống lại với những kỷ niệm cũ, và trong đời chàng, có lẽ khoảng thời gian ấy, là thời gian đẹp nhất trong cuộc đời, khi bỏ lại  đời sinh viên, xa khung trời Ðại Học, chọn binh nghiệp làm hướng đi của người trai thế hệ. Thế hệ của chiến tranh, của những đêm nhìn ánh hỏa châu lơ lửng trên vùng đêm đen ở phía xa thành phố, của những ngày đi học nhìn bạn bè chuẩn bị lên đường nhập ngũ, Ðoàn đã có lúc nghĩ, thế nào rồi cũng tới lượt mình. Không có chọn lựa nào khác thì đành là phải chọn lựa thôi, nếu như bảo rằng vì say mê binh nghiệp, giã từ nếp áo sinh viên để lăn mình vào chỗ chết, chưa chắc lúc ấy Ðoàn đã có ý nghĩ đó. Nhưng khi bước chân vào đời quân ngũ, tự nhiên hoàn cảnh đưa đẩy, khiến chàng phải xác định lại chỗ đứng của mình, nhất là khi có những người bạn nằm xuống lúc tuổi còn đang độ thanh xuân.

 

 

 

Bấy giờ thì căn gác của Ðoàn  thật sự buồn hiu vì sự vắng mặt của chàng, để mỗi lần về phép trong đời lính, khi nhìn lại những đồ vật quen thuộc trên căn gác xép, lòng chàng vẫn vu vơ nỗi nhớ đằm thắm của một thời hoa mộng. Chàng hay lẩn thẩn nhìn mặt bàn, chiếc ghế, bâng khuâng nhớ đến dáng ngồi khép nép và mái tóc dài của người bạn gái cùng lớp, chiếc cặp tóc bỏ quên trên mặt bàn khi ra về, Ðoàn vẫn giữ gìn nâng niu  như một kỷ niệm khó phai. Ít ra cũng có một chút gì để nhớ. Sau này khi ra đơn vị, đóng quân ở Pleiku, thành phố có những con đường quanh co gió núi với mây mù, đi loanh quanh một buổi chiều đã hết mấy con đường của thị xã. Ly cà phê đậm đắng, ngồi lơ mơ với điếu thuốc rồi  thả hồn theo những tiếng hát, Ðoàn lại thú vị vì biết đời vẫn rất cần có những nỗi nhớ dịu dàng như vậy.

 

Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, chạy thục mạng theo đoàn quân đổ về phươngNam. Suốt một đời làm  lính Ðoàn chưa bao giờ khóc, ngay cả phút chia tay với bạn bè sau  bốn năm ở quân trường, thế mà những ngày cuối tháng Tư năm ấy, nó cứ in vào lòng chàng một nỗi buồn  ray rứt khôn nguôi. Làm sao quên được chặng đường thương khó đầy máu và nước mắt, Ðoàn bắt gặp hình ảnh người vợ lính, một mình tay bồng tay dắt mấy đứa con nhỏ để chạy theo đoàn quân lui về phương Nam. Ðể rồi trên một chặng nghỉ chân, người vợ lính ấy gào khóc thảm thiết đến tuyệt vọng khi đứa con bốn tuổi đã lạc mất trong dòng người hỗn độn . . . Lúc đó, tự nhiên nước mắt Ðoàn cứ tuôn như mưa trên đôi gò má xạm đi vì nắng bụi, sự đổ vỡ tan tác cuả gia đình người lính trong thời loạn, đã trở thành nỗi buồn khó phai trong lòng chàng mãi mãi về sau. . . . .

 

Tưởng như một phép lạ khi Ðoàn lại trở về với căn gác nhỏ, sau những ngày dài đói khát vượt rừng bằng đôi chân không đau buốt, đem theo  cái buồn u uất lẫn với nỗi phẫn hận khiến chàng mệt mỏi, nằm vùi trên chiếc giường nhỏ. Vật vờ vì cơn sốt chợt đến chợt đi, bao nhiêu nhiệt huyết của tuổi trẻ dường như cũng theo đó mà xụp đổ. Nhìn qua khung cửa sổ bé tý trên căn gác tối, một nửa vầng trăng và những ánh sao đêm ấy sao lạnh lẽo quá chừng, chưa bao giờ chàng cảm thấy cô đơn  bằng lúc ấy. Cơ thể mệt mỏi rã rời, tâm hồn trống rỗng hụt hẫng, tất cả thực tại hình như trong thoáng chốc đã biến mất, như có như không, những bạn bè năm cũ, những gương mặt đồng đội bỗng dưng lại có thể nhanh chóng biến thành những bóng ma dật dờ sau cơn đồng thiếp chiến tranh. . . .

 

Ðể rồi sau cuộc đổi đời đó, người lính biến thành người tù còn nhận thêm những cay đắng của thân "cá chậu chim lồng". Cái hào khí ngất lửa năm xưa tạm nằm im để chịu đựng thêm những nhục nhằn , cơ cực. Cuối cùng, Ðoàn đã trở về căn gác cũ của mình sau ba năm xa vắng, nó vẫn cho chàng đầy ắp cảm giác được trở về căn nhà xưa, như người bạn tình chung không hề thay lòng đổi dạ.

                                  

                                                    *       *       *

 

Ðời đã bước qua một bước ngoặt, thế nào đi nữa Ðoàn vẫn phải có một việc làm để mưu sinh. Không phải lúc để chọn lựa, vì trước mắt chàng tương lai hoàn toàn không có. Có chăng là phải thoát ra khỏi cuộc đời đầy bóng tối vây bủa những tù ngục vô hình, lúc nào cũng lởn vởn trong chàng ý muốn được đi xa. Có những đêm khuya Ðoàn cố nằm im  đợi giấc ngủ, bỗng chàng chợt ngồi bật dậy, một luồng hơi tức nghẹn trong lồng ngực khiến mắt chànng  cay cay, rồi cứ vậy chập chờn suốt đêm khuya. . .

 

Không còn làm gì được nữa, thôi thì đành chấp nhận hoàn cảnh rồi đời muốn ra sao thì ra. Ngày hôm sau Ðoàn đạp xe lang thang đi tìm những người bạn cũ đồng cảnh, may mắn sao chàng lại tìm được một việc làm tương đối thích hợp. Ðó là vẽ mặt cho những con búp bê biết cười bằng gỗ, một thứ đồ chơi tiểu công nghệ rẻ tiền cho trẻ con, dựa vào những câu chuyện cổ tích thần thoại Liên Xô đang được hâm mộ lúc bấy giờ.

 

Lúc nhận việc, Ðoàn vẫn hóm hỉnh nghĩ đến cái tương phản của công việc với tâm hồn mình lúc ấy, vẽ mặt người cười trong khi mặt chàng lúc nào cũng muốn méo xệch đi vì thất vọng. Người ta đang ru ngủ những đứa trẻ thơ , để tin rằng vẫn có những mơ ước trong cái cõi đời đầy bịp bợm, riêng với Ðoàn, chắc khó tìm lại được niềm tin khi vừa trải qua nhiều tháng ngày vật lộn với tù tội, đói khát. Nhưng cũng thời gian ấy, trong nỗi buồn miên man ,  Ðoàn  mơ hồ  rằng giữa lúc cuộc đời đến tận cùng bằng số, chàng vẫn có một mối tình để nhớ.

 

Công việc quả không cực nhọc gì, bề bộn quanh mình là những con búp bê bằng gỗ đang chờ được chàng vẽ phác một nụ cười. Nhân vật là thằng bé có cái mũi dài, cô bé Lọ Lem, công chúa với hoàng tử, mụ phù thủy và những vị "Thần Tháng" râu tóc bạc phơ. Mỗi lần ngồi tô điểm nụ cười cho những nhân vật không có thật ấy, Ðoàn cảm tưởng mình cũng quên được phần nào nỗi buồn của thực tại.

 

Ðược phân công làm việc chung với một cô bé, có lẽ thua chàng đến gần  chục tuổi, vì thế mà cô ta gọi Ðoàn bằng chú. Thật tình lúc ban đầu, chàng cũng thích lối xưng hô ấy, khi Tâm cho Ðoàn biết bố cô cũng là một sĩ quan Ðà Lạt lớp đàn anh, đang bị tập trung cải tạo. Và bây giờ  vì hoàn cảnh sống, Tâm phải bỏ học đi làm để tiếp mẹ nuôi lũ em còn bé dại. Sau thấy Ðoàn  còn trẻ, lại độc thân, Tâm tự nhiên thay đổi lối xưng hô. Như một người anh lớn, Ðoàn thường chỉ vẽ thêm cho Tâm cách tô điểm sao cho những con búp bê, mỗi con một vẻ đầy tính cách nghệ thuật. Tự nhiên Ðoàn có cảm tưởng hai người rất gần nhau, vì họ có chung một cảnh đời bất hạnh như nhau.

 

Tâm cũng khéo tay, từ từ đã vẽ được  đôi mắt và chiếc mũi xinh xinh cho những con búp bê gỗ, rồi đẩy qua Ðoàn để chàng vẽ vào đó một cái miệng cười. Có lần Toàn vừa vẽ, vừa nhìn đôi môi chúm chím cười trên khuôn mặt còn đầy nét thơ ngây của Tâm, chàng bỗng liên tưởng đến nụ cười xinh xinh của cô bé Lọ Lem trong cổ tích. Tự nhiên Ðoàn hy vọng, một ngày nào đó cô bé Lọ Lem đang ngồi trước mặt chàng, sẽ có thể biến thành một công chuá.

 

Ðể rồi từ đấy với một tâm hồn nghệ sĩ, mỗi khi vẽ nụ cười cho búp bê, chàng lại có cảm tưởng mình đang vẽ nụ cười của Tâm, nhờ thế mà khuôn mặt của những con búp bê sinh động hẳn lên, đến nỗi ai nhìn qua cũng đều tấm tắc khen đôi tay tài hoa của chàng. Anh bạn cũ cũng là chủ nhân của cơ sở sản xuất búp bê thật tinh mắt, anh đã nhìn ra được tâm hồn bạn mình gửi  gấm qua những nụ cười búp bê, đôi khi anh ta hay nhìn Ðoàn rồi nheo mắt cười thông cảm.

 

Chuyện vẫn chỉ là thế nếu không có lần hai người cùng làm việc chung, Ðoàn bất chợt nghe Tâm hát. Nàng hát nhỏ thôi nhưng vì lúc ấy trời mưa, mưa nhỏ thôi nhưng không gian chừng như giăng giăng những cụm buồn trên nền trời đầy mây xám, chỉ có tiếng mưa vẫn  rích rắc nhỏ giọt xuống hàng hiên ẩm ướt bên ngoài khung cửa. Tự nhiên Ðoàn xúc động, lâu lắm rồi chàng bỗng nghe lại một tiếng hát, hay là một bài hát mà chàng thích, trong những buổi chiều ẩm ướt ngồi uống cà phê nơi thành phố gió núi và bụi đỏ ngày xưa. Giọng hát Tâm còn non nớt,  không điêu luyện lắm, nhưng bản nhạc vô tình lại khiến Ðoàn xúc động:

" Phố núi cao, phố núi đầy sương. Phố núi cây xanh, trời thấp thật buồn. Anh khách lạ đi lên đi xuống, may mà có em, đời còn dễ thương. Em Pleiku, má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều, quanh năm mùa Ðông, nên mắt em ướt, và tóc em ướt, nên em mềm như mây chiều trôi. . .."

 

Chàng buông cây cọ trên tay, thẫn thờ nhìn ra khung cửa sổ, những sợi mưa mỏng đan nghiêng nghiêng làm không gian càng ẩm ướt một nỗi buồn. Giá như có cây "guitare" để đệm theo tiếng hát buồn  buồn  của Tâm trong buổi chiều hôm đó, có lẽ hạnh phúc đối với Ðoàn chỉ có vậy. Không biết Tâm  có cảm được bản nhạc cô vừa hát đã khiến Ðoàn xúc động đến thế không, nhưng khi thấy Ðoàn im lặng lắng nghe, cô bé đang hát bỗng bẽn lẽn ngồi im, khiến chàng phải lên tiếng:

 

" Tâm hát hay lắm. Bản nhạc này khiến tôi nhớ nhiều đến một thành phố cũ..."

 

Vốn ít nói, Ðoàn cũng chỉ nói tới đó rồi thôi, những nỗi buồn chàng vẫn thường hay giữ lấy một mình, như những lá thư tình tuổi học trò chàng gửi vào đấy bao nỗi nhớ nhung, để rồi nó vẫn không bao giờ được gửi đi cho người nhận. Tâm vẫn vừa chăm chỉ tô những đường nét trên khuôn mặt búp bê, sơn phết lại áo quần cho nhân vật trong phim " Mười hai vị Thần Tháng", vừa hát nho nhỏ " ... may mà có em, đời còn dễ thương...", khiến Ðoàn tủm tỉm cười, thầm ao ước rằng câu hát ấy được Tâm dành riêng cho chàng trong buổi chiều nay. Chàng bỗng dưng chợt nhớ đến mấy vần thơ thật dễ thương cuả một cô bé chàng quen thời đi học, mỗi chiều tan trường đi ngang nhà, vẫn lắng nghe tiếng đàn "guitare" cuả chàng vọng xuống từ mái hiên căn gác nhỏ. Rồi khi chàng nhập ngũ, Ðoàn có nhận được mấy vần thơ trước lúc lên đường, như một lời tỏ tình rất dễ thương:

       

        " Chắc anh người trai trẻ,

         Ðã lên đường tòng quân,

         Ðường đi ra chiến trận,

         Có mang đàn theo không?"

 

Bây giờ ngồi làm việc chung với Tâm, càng gần gũi với những nhân vật trong huyền thoại cổ tích, cô bé cũng như Ðoàn, đã có lúc đắm hồn vào những mơ ước của mộng ảo, để quên đi nỗi buồn thực tại. Có lần Ðoàn đã thân mật nói với Tâm, bằng sự chân  thành nhất của lòng mình:

 

" Lắm khi nghĩ lại thấy công việc của tụi mình rất buồn cười. Ðời thì buồn nẫu ruột ra vì không có tương lai, thế mà ngày nào cũng sống trong thế giới mơ ước của công lý, kẻ ác phải đền tội, người hiền sẽ được hạnh phúc. Thế mà đời vẫn không là vậy. . ."

 

Ngày nào cũng như ngày nấy, công việc chỉ có vậy, mà cũng không phải dễ để có việc làm đều đặn hoài như thế. Những con búp bê bằng gỗ xinh đẹp biết cười sắp hết thời, đám trẻ nhỏ chắc cũng không tin tưởng lắm vào đôi đũa thần của sự mơ ước. Như  Ðoàn và Tâm  lúc ấy, cũng phập phồng nghĩ tới một hôm nào đó, sẽ không còn việc làm để nuôi thân và giúp đỡ gia đình. . .

 

Tất cả đều trở thành thói quen, dù sự đau khổ hay nỗi cô đơn, nó cũng sẽ chỉ là thói quen khi con người đã quen chịu đựng nó, huống gì mỗi ngày được làm việc chung  với một cô bé dễ thương như Tâm,  đã cuốn hút Ðoàn vào nỗi  đam mê vốn có sẵn không rời ra được. Nhìn Tâm, Ðoàn bỗng nhớ da diết khung trời Ðà Lạt mà những mối tình ở lại, cũng mong manh như những sợi tơ trời lãng đãng trên nền trời xanh biếc. Chàng mơ hồ mình đã yêu, rồi lại dối lòng bảo rằng không khi chạnh nghĩ tới thực tại. chàng có gì để dám ngỏ thật với Tâm là thực sự chàng đang muốn chia xẻ với cô bé, những khó khăn trong cuộc sống hiện tại. Chắc chỉ trong đêm khuya nằm trằn trọc chờ giấc ngủ trong căn gác nhỏ, Ðoàn vẫn thấy hình ảnh Tâm lúc nào cũng lưởng vưởng trong tâm trí. Trong chàng như có hai con người lẫn lộn, giữa tình cảm và lý trí. Một đứa như bảo chàng, làm sao khi yêu còn kiểm soát nổi nhịp đập của trái tim, thế nhưng tiếng nói của đứa kia mạnh mẽ hơn, thực tế hơn khi lôi chàng trở về với hiện tại, bảo chàng phải đi đâu đó, phải tìm một cái gì đó. Cuối cùng chàng cũng mơ hồ hiểu rằng đó là niềm khao khát được thở một chút không khí tự do mà chàng đã mất. . .

 

Với những mâu thuẫn nội tâm, có lẽ cả đời Ðoàn vẫn chưa nói hết được điều hay ho, dù con  tim chàng nó xúi bẩy chàng nói đi, sống thật đi kẻo hết một đời cũng vậy thôi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi, Ðoàn chưa nói được gì thì chính Tâm lại là người nói trước. Ðoàn vẫn không bao giờ quên chiều hôm ấy, lúc hai người cùng cắm cúi làm việc chung với nhau thì Tâm  bỗng thở dài rồi nói khẽ:

" Anh em mình sắp xa nhau rồi."

Ðoàn thảng thốt nhìn Tâm, nhưng vẫn im lặng. Ðôi mắt Tâm thật buồn, chẳng bao giờ chàng quên nổi đôi mắt u uẩn như còn đọng đầy một hồ lệ. Tâm nói tiếp, rất nhỏ như một cơn gió thoảng:

" Tâm sắp đi rồi..."

Chữ " Ði " lúc này có nghĩa là ly biệt, và khó có ngày gặp lại.  Ði là đi tìm tương lai ở một vùng trời xa lạ, nhưng chữ " Ði " vẫn có nghĩa là sắp bước vào một đoạn đời chông chênh đầy bão tố, một sống một chết, một mất một còn, hay tệ hơn là trước khi tìm thấy tương lai, đã phải đánh đổi bằng nhiều mất mát. Lúc ấy, không hiểu sao khi nghe Tâm nói, Ðoàn lại chỉ nói:

" Nếu đi được thì cũng nên đi, nhưng phải cẩn thận. . . "

Tâm lắc đầu, mái tóc nàng thoảng mùi hương  bồ kết. Giọng Tâm trầm xuống gần như muốn khóc:

" Nếu chỉ đi thôi thì đã không có gì để nói, nhưng..."

Ðoàn ngắt lời Tâm với nỗi lo sợ lẫn xót xa:

" Nhưng làm sao hở Tâm?"

Rồi chàng chờ đợi,  như chàng sợ sắp sửa phải nghe Tâm nói điều gì đó mà chàng mong đợi, mà lại hoàn toàn không biết sẽ trả lời ra sao. Nhưng Tâm chỉ buồn buồn bảo Ðoàn:

" Tâm sắp đi, nhưng trước khi đi thì phải lấy chồng đã. Người ta muốn vậy, đời luôn luôn là sự đổi chác."

Gần như choáng váng vì câu nói của Tâm, nó lạnh lẽo như nước đá dù cô bé  đang đề cập đến  chuyện quan trọng trong đời mình. Ðoàn hỏi lại:

" Sao lại như  thế?"

Tâm mím chặt đôi môi như để giữ lại nỗi xúc động, mà lại có vẻ liều lĩnh khi chấp nhận một sự thật ê chề:

" Bố đang bị tù, mẹ không biết làm gì để nuôi được các em, chỉ còn cách là phải đi thì mới đem lại niềm hy vọng cho gia đình. Nhưng khả năng lại không có, chỉ còn cách này thôi. Họ có phương tiện, còn mình thì không, nhưng không chấp nhận thì không còn con đường nào nữa."

 

Ðoàn hiểu, lòng quặn lên  nỗi thương cảm. Cô con gái của một người sĩ quan chế độ cũ, đã có một quyết định quyết liệt dù rằng cô hiểu niềm hy vọng đó có thể làm tan nát trái tim cô. Người cha giờ này đang mịt mù nơi rừng sâu núi thẳm, trong một trại tù nào đó tuốt ngoài miền Bắc, chắc hẳn những lá thư gửi về đã xa gần nhắn gửi đến vợ con điều mong mỏi của ông...

 

Chiều hôm đó, lần đầu tiên hai người đạp xe đi bên nhau đến một quán cà phê vắng, nói nốt câu chuyện dở dang mà có lẽ sau này không bao giờ có dịp nói nữa. Ðoàn vẫn nhớ giọng nói dịu dàng của Tâm, khi cô se se những sợi tóc vương trên chiếc áo trắng:

 

" Anh Ðoàn nhỉ? Có những điều người ta không cần nói ra, mà vẫn hiểu là đã nhận, đã nghe. Tâm rất mến anh, nhất là hôm vô tình anh lắng nghe Tâm  hát. Ðúng là đời dù có tàn tạ tới đâu, vẫn cần giữ cho mình một chỗ riêng để nhớ. Mai mốt dù đi đâu, ở đâu, Tâm vẫn không bao giờ quên anh. . ."

 

Lúc ấy Ðoàn cũng chỉ muốn nói: " Anh cũng thế, anh cũng sẽ không bao giờ quên em, cô em bé bỏng dễ thương của anh". Nghĩ thế nhưng Ðoàn vẫn không nói được, nhưng chàng hiểu chỉ nhìn vào mắt chàng, Tâm  có thể nhận hết những gì chàng đang nghĩ trong lòng.

 

Buổi chiều trong quán cà phê vắng, tự nhiên Ðoàn thèm nghe tiếng hát của Tâm, với bản nhạc vô tình nhắc nhở Ðoàn những ngày cuối cùng của một người lính tâm hồn nhiều mộng mơ, quán cà phê và con đường Hai Bà Trưng ở Pleiku,  những buổi chiều mùa Ðông lẩn khuất trong hàng cây ven đường.

 

Chiều bỗng dưng đổ mưa, Ðoàn  trầm ngâm nhìn khói thuốc bay trong không gian mờ tối, trong khi Tâm  âu yếm bỏ đường vào ly cà phê cho Ðoàn, rồi nhấp môi nếm thử . Có lẽ những giờ cuối còn ngồi bên nhau, không biết ngày mai đời sẽ như thế nào, Tâm muốn dành riêng cho Ðoàn chút êm dịu của một mối tình không ngỏ được. Không biết nghĩ sao, Ðoàn nhìn vào đôi mắt Tâm , cầm ly cà phê đặt môi mình vào chỗ đôi môi của Tâm vừa nhấp, tưởng như chàng vừa đặt một nụ hôn lên đôi môi xinh xinh của nàng. Ðôi mắt họ bối rối nhìn nhau, cho đến suốt cả đời, chàng vẫn không bao giờ quên được đôi mắt Tâm chiều hôm ấy. . .

                                      

*       *       *

 

Những ngày sau đó, Tâm không còn đến Tổ Hợp Búp Bê để làm việc, Ðoàn một mình làm hết những công việc cho khuôn mặt búp bê, nhưng lòng hoàn toàn trống rỗng để không làm sao vẽ trọn vẹn một nụ cười. Những nụ cười vui tươi, xinh xinh trước kia được chàng say sưa, nắn nót để tô điểm, nay cứ méo xệch đi như sắp khóc. Cứ mỗi lần vẽ nụ cười cho con búp bê gỗ, tùy theo khuôn mặt của nó, chàng lại thấy mắt mình cay cay, nhòe đi như không nhìn rõ được gì nữa. . .

 

Chắc chắn rằng Ðoàn không còn hứng thú gì để tiếp tục công việc này, dù nó cũng giúp cho chàng ngày hai bữa cơm, thêm thắt vào đời sống gia đình cho cha mẹ. Sự ra đi của Tâm đã mang theo tất cả niềm hy vọng màu xanh vừa hồi sinh trong trái tim chàng, khiến Ðoàn buồn rã rượi. Làm sao đời lại chỉ là những bất hạnh này tiếp nối những bất hạnh khác, nhất là điều ấy lại xảy ra với một cô gái vừa ngơ ngác bước vào đời như  Tâm, đã phải chua chát chấp nhận hoàn cảnh đau xót ấy. Những bế tắc cuả đời sống hiện tại,  khiến người ta chỉ  nghĩ đến chuyện thoát ra, mà không biết những bất hạnh đang rình rập ở phía trước.

 

Ðoàn vẫn cầu nguyện cho Tâm gặp nhiều may mắn trên con đường vượt biển đầy hiểm nguy và bão tố. Không lẽ ông Trời lại nghiệt ngã không ban cho nàng niềm hy vọng cuối cùng,  ước muốn là con chim đầu đàn trong gia đình, bay đến một phương trời xa và mang niềm hy vọng cho người thân trong nhà.

 

Cuối cùng, Ðoàn cũng từ giã những người cùng làm chung trong Tổ Hợp Búp Bê, vì đã tìm được một việc khác , tuy nặng nhọc hơn nhưng đỡ phải suy nghĩ. Chàng hy vọng thời gian sẽ làm chàng nguôi đi nỗi nhớ, chút tình yêu dịu dàng khởi đầu bằng một tiếng hát, để nhìn về tương lai với một niềm hy vọng, cho chàng và cho Tâm. . .

 

Những buổi chiều  một  mình trong căn gác đìu hiu, nhìn những mảng mây tím lãng đãng trên bầu trời lúc hoàng hôn, Ðoàn  vẫn nghĩ về Tâm, nghĩ tới nụ cười xinh như  con búp bê trong cổ tích, nhớ hoài đôi mắt buồn còn ngấn những giọt lệ. Nhất là những buổi chiều mưa, Ðoàn đứng mãi bên khung cửa sổ, để những giọt mưa hắt vào  ướt đẫm trên mặt mình, không biết đó là những giọt nước mưa hay những giọt nước mắt. Ðoàn bâng khuâng dạo lại bản đàn cũ, nghe như trong không gian im vắng của buổi chiều, có tiếng hát êm êm của Tâm còn bỏ lại.

                                      ( Viết thay tâm sự cuả một người)

                                             Nguyên Nhung

 

         

 

 
 
ĐỪNG HỎI VÌ SAO
             Tháng Tư buồn               
 
web_NN_thangtubuon.jpg
 

Năm vừa qua, chuyến xe đưa chúng tôi từ Đà Nẵng về Qui Nhơn, tôi mới có dịp đi qua đoạn đường "máu đổ thây phơi" của 40 năm trước. Đi qua những địa danh quen thuộc miền Trung, từ Đức Phổ, Mộ Đức, những quận lỵ xơ xác đói nghèo vì chiến tranh đã được hồi sinh. Có lẽ 40 năm  sóng biển Sa Huỳnh vẫn vỗ vào bờ một nỗi buồn xa vắng. Hai bên ruộng lúa vẫn xanh rờn, xa xa dải núi mờ sương lại khiến tôi thương cảm không cầm được giọt lệ. Tôi biết anh đã yên nghỉ, nhưng nắm xương tàn nằm ở đâu thì cho đến bây giờ vẫn chưa tìm lại được.


Tháng Tư. Đốt nén hương lòng tưởng nhớ anh, một người anh hiền hoà, luôn thương yêu các em. Sau 40 năm anh đã yên nghỉ , gửi nắm xương tàn nơi rừng sâu núi thẳm, nhưng nỗi thương nhớ vẫn còn ở lại với người thân trong gia đình.

 Bốn mươi năm mới viết nổi bài thơ,  "Đừng Hỏi Vì Sao Tháng Tư Buồn", hay 40 năm nhìn lại với một nỗi buồn khó nguôi.

Nguyên Nhung

_________________________________________________________________________________________________________________ 

                 
 
 

         NGƯỜI LÍNH GÌA TRÊN CHUYẾN TÀU ĐÊM

 

 

Con tàu chuyển mình ra khỏi ga Hoà Hưng vào lúc hoàng hôn, đuổi theo là những mảng mây tím trên nền trời. Sài Gòn nằm lại đằng sau với phố phường rực rỡ ánh đèn, xe cộ chen nhau trên đường phố, nóng và bụi khiến con người tưởng như đang chìm lỉm trong bầu không khí đặc quánh đầy ô nhiễm.

 

Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức, không khí ngột ngạt. Ông Bảo lặng lẽ nối đuôi sau đám hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải quan, mồ hôi vã ra đầy người. Người về lặng lẽ chờ, cảm giác có nôn nao nhưng không láo nháo bằng đám người nhà đang đứng ở phiá ngoài chờ đợi thân nhân. Khi ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường, ông Bảo mới ngỡ ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố tìm lại vài nơi chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi len lỏi trong dòng xe đầy nghẹt trên đường phố.

 

Thay đổi nhiều, nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân, đang chen chúc nhau  gần như không có không khí để thở. Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà con vùng ngoại ô thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó có bà mẹ già của ông đang thoi thóp những ngày cuối đời chờ đứa con xa trở về.

 

Đã quen với những xa lộ thênh thang cuả nước Mỹ, những khu nhà ở cách xa nhau nằm ẩn mình sau những bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ hành trên đường phố. Ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng, cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình để ngoi lên với những đô thị lớn trên thế giới.

 

Hồi xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông sự thay đổi ấy không làm ông choáng ngợp bao nhiêu. Mười hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc ông hỗn độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước, nhưng quả đáng tội, hồi niên thiếu ông sống ở miền Trung, dải đất nghèo nhất trong ba miền Trung Nam Bắc, đã để lại nhiều nỗi nhớ sâu đậm trong lòng ông, dù ông được sinh ra ở miền Bắc.

                                      

                                      *       *       *

 

Trời dần tối, những vị sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời tối thẫm như nhung. Bỏ lại Sài  Gòn hòn ngọc Viễn Đông , thành phố ánh sáng của những người giàu và cũng nơi trú ẩn cho những người nghèo trong những hẻm hóc tối tăm không bình yên. Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt gặp được những hình ảnh tương phản cuả sự nghèo giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở Việt Nam. Chẳng cần nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như  ông từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm cảm giác cuả chuyến tàu đêm , hoặc những người thành phần khá giả ở trong nước thường vẫn kiếm một chỗ khá đầy đủ tiện nghi trên xe lửa. Còn ở những toa tàu ngồi, giữa khoảng trống cuả hai hàng ghế, lổn nhổn những chân cẳng và hành lý ngổn ngang, người đi tàu đang thu dọn để tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn  đường dài ra Trung, Bắc. Toa ông ở có bốn người, hai anh  Tây ba lô đi du lịch Việt Nam, một người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về thăm nhà ngoài Trung. Khi vào phòng, loại giường hai tầng khá bất tiện khi ban đêm có người lục đục trèo xuống để ra ngoài. Mọi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi tìm chỗ của mình. Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn để ngồi uống trà, vài cuốn quảng cáo về du lịch để trên mặt bàn, ông bỗng nghe  tiếng nhạc dặt dìu vang lên , có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông không để ý.

 

Quái lạ! Bản nhạc "Tàu Đêm Năm Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm buồn vẫn lồng lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến ông bàng hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên sân ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến tranh còn đang sôi sục.

 

"Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn, tàu cũ năm xưa mang về trả cho tôi người xưa..."

 

Thốt nhiên, ông nghe mắt mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu đêm năm cũ hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại, như là ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người lính năm xưa, bùi ngùi nắm tay người yêu trước giờ chia biệt. Và tiếng còi tàu,  ôi tiếng còi tàu sao lúc ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu. Ông vội nhắm mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại. Không, ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng nhất, tóc đã bạc, đôi mắt xụp mí khi về già, nhìn mải miết vào bóng đêm mịt mùng để tìm lại những hình bóng cũ.

 

Con tàu tăng tốc độ, hé mở cửa sổ phiá bên ngoài ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù tiếng gió đêm thổi bạt hai bên tai. Có lẽ sau hai tiếng đồng hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu đi vào khu thành phố rực ánh đèn. Khung cưả lưới của toa tàu khá rộng, hai người Tây ba lô đang nhai mỗi anh một ổ bánh mì thịt, vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam cùng phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống ở sân ga. Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:

" Đây là đâu nhỉ?"

Ông ta cũng trả lời trống không, giọng miền Bắc:

" Tới Long Khánh rồi". Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp:

" Hơn chín giờ. Ông về đâu?"

" Tôi ra Quảng Ngãi."

Ông trả lời vắn tắt. Người khách tò mò hỏi thêm:

" Ông từ nước ngoài về?"

 

Ông lắc đầu, nói "Không, không". Có gì chứng minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ quần áo tầm thường khiến ông trông giống một người lính già đã giải ngũ hơn là một ông Việt Kiều. Mà ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là cái lằn Nam, Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn chỉ là một người lính già không hơn không kém.

 

Bốn chữ "Nhà Ga Long Khánh"  lộng lẫy đóng khung trong những bóng đèn xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt buồn rầu khi nhớ rằng có một thời vợ ông đã vất vả đi lên đi xuống  cái sân ga này. Từ đây đi thêm một cuốc xe " Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây số. Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền Bắc, đi khoảng 2 cây số là đã thấy nhà thờ.  Chỗ đấy có một trại tù , ngày xưa vợ ông đã đi  tìm chồng hú họa ở  cái địa chỉ mang những con số đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của ông.

 

Gần ba mươi năm trước, vợ ông giả dạng thành một người bán rong gánh trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng. Long Giao là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại, khu quân sự rộng lớn bao xung quanh là những con đường đất đỏ bụi mù. Sau vùng này  trồng chuối bạt ngàn xen lẫn với những vườn tiêu của dân địa phương, len lỏi vào khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.

 

Năm đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm chồng với cái hy vọng mong manh là  tìm được chồng trong đám đàn ông ngày ngày vác cuốc đi lao động xung quanh trại. Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh, dưới thúng đựng dăm thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc mẹt ngụy trang vài thứ trái cây. Từ một khoảng xa đến hai lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận ngừng tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp thon thả đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào. Kẻ nhóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên khó nhận ra nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn vào gần hàng rào kẽm gai để được gần gũi hơn đám tù đang cuốc đất,  lại bị đuổi ra xa như một bầy gà nhao nhác. "Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm gai với lại những câv súng kè kè như vậy". Họ í ới gọi nhau hỏi chuyện, lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi vai nhỏ bé là đôi đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết gồng gánh  là gì. "Cạn ao thì bèo xuống đất", ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công nhận sự khéo léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương ấy.

 

Chỉ lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên đường ra Bắc. Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để đi xa, ông có nghe tiếng còi tàu. Tiếng còi rúc lên lạnh lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi nghĩ đến vợ con. Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào bà cũng tìm một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu, cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là chuyến tàu đêm năm cũ trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và lũ con. . . .

 

Mới  đó mà gần ba mươi năm. Mười ba năm trong tù ông không quên. Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi đầu cuả một cuộc hành  trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm gia đình. Hú viá! Ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng vẫn còn đây, ông sờ vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng mình vẫn còn đây, người tù mười ba năm vẫn còn đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngưá ngáy một cách dị kỳ khi nhớ lại. . .

 

Sau thời gian dừng lại để khách lên khách xuống, con tàu lại rùng rùng chuyển bánh, ông để ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một hồi còi rất dài,nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn  thắt ruột. Nhạc lại vang vang trong những cái loa gắn trên thân tàu, toàn những bản đã cũ:

 

"....Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm xứ mẹ cho em về cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu...".

 

Tiếng hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời viết cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm . Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm quá khứ , dường như những người lính sống hay chết đã đồng loạt tử trận từ tháng Tư năm ấy. Ông rút một điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè như  lóe sáng dậy một thời trẻ tuổi. Con tàu trong đêm tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong gió. Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh vật mập mờ, nhưng ông đánh hơi được nơi chốn bằng khứu giác.

 

Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống, những người bán hàng rong và người đi tàu đang kỳ kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước mắm. Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn bè,  con khô nướng vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới gầm bàn, ngả nghiêng đi về với một vầng trăng khuya. Vậy mà không ngã,  vẫn ngất  ngưởng đi về đến nơi đến chốn. Thời ấy hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là những nơi ghé vào ngắn hạn, nhưng ông  nhớ hoài mùi biển mặn. Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân cuối cùng từ bãi  biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn độn, chen lấn, quan không ra quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông mất sạch sành sanh, khi về đến Vũng Tàu mỗi người chỉ còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần áo, đúng là " trên răng, dưới ...dế". Ông nhớ ngày hôm ấy, chiếc xà lan  quá tải ngả nghiêng trên mặt biển, người ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số. Ôi lại biển, kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ônng lại nghĩ đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ lùng.

 

Nha Trang biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã nghe được tiếng sóng , ngửi được mùi biển mặn. Chỉ tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng cách lại đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng khứu giác, bằng đôi mắt lập lờ nhìn không rõ cuả tuổi già. Ông đi vào giường nằm nhưng vẫn không ngủ được. Trằn trọc, thao thức,  chiếc giường êm ái làm ông lại nhớ tới chuyến  tàu về Nam cách đây trên hai mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình "huynh đệ" nhờ chiếc còng gắn vào  cổ tay hai người. Đêm tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra khỏi còng, vì thế mà ông được giải thoát một chặng đường dài. Kỷ niệm ấy ông nhớ mãi. . . Bây giờ anh ta trôi dạt đâu nhỉ?

 

"Một đêm muà hè, tôi đến sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu cũ đêm nay có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây. . ."

 

Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non trên chiếc loa suốt đoạn đường dài, hình như tàu mỗi lúc một đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng đồng quê, đã thấp thoáng những rừng dừa  bạt ngàn  để bước vào ranh giới tỉnh Bình Định. Bây giờ thì dường như  trong ký ức cuả người lính già, kỷ niệm lần lượt trở về rõ mồn một, khổ nỗi lại chỉ toàn kỷ niệm thời chinh chiến. Năm 72, nơi ấy những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra ở đây, trở ra những vùng khốc liệt như  Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức. Đơn vị thám sát cuả ông toàn là những người lính tiên phong cảm tử đi vào miền đất chết, trước khi quân bạn  được dàn trận đi đằng sau.

 

Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy mình gần gũi với kỷ niệm thời quân ngũ. Những địa danh gợi nhớ đến  quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi, từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người. Màu xanh cuả rừng dưà  Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp yên bình để người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi chết trong đó. Bồng Sơn, Quế Sơn, tên đẹp chi lạ mà đầy oan khiên cuả máu và nước mắt. Tàu ra khỏi Qui Nhơn, khoảng hai  giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ này đã tối đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt lại như mực, giá ban ngày ông đã có thể thấy những đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ lau trắng xoá tiếp giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi. Ngày xưa, ông đã mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom đạn và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như người goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.

 

Vẫn nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy. Những ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh hình như nền trời bỗng sáng hơn. Ông dùng thêm ly cà phê đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè vì thiếu ngủ nhiều đêm , nhưng vẫn không làm sao ngủ được. Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về những vùng đất thân yêu đã gắn liền với ông suốt thời trai trẻ. Trong khung cưả sổ của toa tàu chỉ mình ông đứng đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say, còn người đàn ông kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông nghe tiếng ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu.

 

Con tàu cứ lầm lũi băng mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc. Nhất là ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào núi rừng miền Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả đời lính thám sát nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi năm trước. Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì  ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những cành cây lay động dưới ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà cứ ngỡ là những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa, đang vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ. Thế giới vô hình làm sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân hay bè bạn.

 

Sa Huỳnh ơi! Nhớ quá đi thôi mặt trận đêm ấy. Những người lính thám sát lầm lũi đi trong bóng tối, những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những vạch đạn cưá vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể người lính đang di động trong đêm, tiếng rên la của người lính bị thương đòi uống nước.

 

" Nước, cho xin hớp nước..."

 

Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn cuả người đàn em bị trúng đạn đòi xin hớp nước giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông. Ông nhớ có những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên im tiếng súng rút vào cố thủ, khi dừng quân ông được một người lính tiếp vụ đưa cho ly cà phê  đựng trong chiếc ca sắt nóng hổi. Chưa bao giờ có một thứ cà phê nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh táo và lòng ngập tràn  tình thương yêu đồng đội, gắn bó với nhau trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người. Ôi những ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã ra đi mà vẫn thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, khônng biết ở cõi bên kia linh hồn họ có tìm lại được mùi cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này không?

 

Ở đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị ông hay đơn vị bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu đỏ, những bàn tay, cái chân cho cuộc chiến ấy, chưa kể có những người đã ra đi vào miền đất lạnh. Thiếu uý Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người  đàn em dễ thương  mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám rừng đen đặc kia. Ông nhớ lúc ấy đã vét tuí tìm gói thuốc " Quân tiếp Vụ", chỉ còn duy nhất một điếu cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi người đàn em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không bao giờ trở về. Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà quý dành cho người sắp chết, ông thèm lắm mà không dám hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng đơn vị, mắt cũng cay xè. . .

 

Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen thẫm như tiếng reo cuả linh hồn những ngươì đàn anh, đàn em năm cũ vọng u u trong đầu ông, ông thấy nước mắt mình trào ra ướt đẫm trên má. Ông thò tay vào túi, gói thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi nâng lên trước mặt thì thầm nói một mình:

 

" Hút, hút đi các bạn, hút cho thoả trước khi để linh hồn tan  vào cõi hư vô.

 

Ông ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng cây ven đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập phồng hai lá phổi héo, nhưng trong đầu ông lồng lộng :

 

"Hết chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi! Thuốc đây, hút đi, hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng ở lại đây nưã. . ."

 

Những điếu  thuốc bay lả tả theo đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra ướt đầm trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố ý, đêm nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo sơ mi và chiếc quần màu ô liu, y như một người lính kỳ nghỉ phép về thăm nhà. Trong cái loa tiếng nhạc lại vang vang :

 

"Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào. Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây, viết lại câu chuyện này. . ."

 

Ông bịt hai lỗ tai để đừng nghe âm thanh  rên rỉ buồn buồn cuả bài hát  lập đi lập lại trên chuyến tàu đêm. Tạm biệt các bạn thân quý của tôi, ba mươi năm gặp lại nhau như thế đủ rồi, khi ra đi đầu các bạn còn xanh, nay trở về đầu tôi đã bạc. Khác nhiều lắm rồi, những mỏm đất, những đồi cỏ, những rừng dầy, rừng thưa, đã phủ kín một màu xanh, cho quê hương thôi máu lửa. . .

 

Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã hy sinh còn để lại những gì cho Tổ Quốc . Ngoài những vết sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh nghĩ đến những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên vỉa hè thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một gánh nặng buồn tủi. Thế còn những đứa con của người tử sĩ thì sao? Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt, khi chết trận bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ, trung sĩ  Nghĩa có một đứa con không biết là trai hay gái trong bụng vợ. Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt cho những cuộc hành quân dài ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã kéo theo sau lưng mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung  số phận. . .

 

 

                                         *      *      *

 

Bình minh đã lên, ở miền nhiệt đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm, chuyến tàu đi qua những quận lỵ cũ để vào thị xã. Lúc tàu đi ngang Đức Phổ, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những chiếc xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy lính  ra mặt trận. Tàu ghé vào ga, những người bán dạo trên bến ga mời chào í ới. Nhìn đĩa xôi gà trên tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra đời sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá. Nhìn cậu bé 12 tuổi sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán dạo, cái đùi gà vàng lườm được rô ti thật hấp dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên đầu dân tộc ông, mắt ông bỗng nằng nặng như đêm qua ông về ngang chốn cũ. Ông ăn mà không biết ngon, chỉ  ăn  cho đỡ đói, để tìm hương vị cũ, niềm đau cũ. Chú bé bán xôi được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi gà, cứ đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép lạ đang xảy ra trên sân ga.

 

" Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa xôi gà trên tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo lớn nhất mà ông Trời bắt con người phải chịu". Lúc này  đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông sắp về tới gia đình, về với bà mẹ già vừa lòa vưà điếc, chưa chắc gì đã nhận ra con.

 

Người ta lại tấp nập lên tàu, xuống tàu. Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người xuống, bỗng liên tưởng  cuộc  đời y hệt một chuyến tàu, mà những người lính già như ông còn ngồi lại với nỗi buồn chiến tranh  đọng lại trong mỗi hồi tưởng. Đêm qua khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã xuống tàu ba mươi năm trước. Ba mươi năm sau trên chuyến tàu đời, những lớp người đi sau như thằng bé bán xôi, cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống là lớp người sau lên tàu muộn . Bây giờ nếu ông kể chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ tròn mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích rất buồn, chỉ còn mỗi người lính già như ông ngồi lại trên chuyến tàu đêm, khắc khoải. Tiếng nhạc vẫn lồng lộng trên sân ga, không phải bài " Tàu Đêm Năm Cũ", mà nghe rất lạ, như bài  cầu kinh sắp tới hồi kết thúc:

 

" Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm

Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương

Tìm lại xót xa, tìm lại vui buồn

Đi vào nhân gian, với lòng yêu thương.

Đi đi, đi thấu kiếp người. . .

Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui

Đi đi, đi thấu kiếp người

Đi đi, để biết khóc cười hỡi ...ơi!"

 

Hơn mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông sốc cái ba lô trên lưng, chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu lại tu tu lên khóc. Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa trong một ngõ nhỏ. Con ngõ này hồi xưa thế nào nay vẫn vậy, nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng lại khiến thoạt nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác.

 

Ông về với mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy tay mẹ, tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là một rúm da bọc xương khẳng khiu. Mẹ ông nằm đó, chả biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng ánh sáng mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt.

 

Bên cạnh bà mẹ già vưà loà, vừa điếc, vẫn không biết là có một đứa con đi xa vừa trở về. Không còn cách nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc cuả mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt đầm trên những ngón tay. Không biết trong cõi mịt mù của đời người sắp tàn ấy, bà có sờ ra được  khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp.

 

NGUYÊN  NHUNG

( Tháng Tư , 2004)

 

Đôi Mắt

Thuở vào đời mình đã có nhau
Cùng thấu hiểu "mình tuy hai mà một"
Trên đường đời sẽ cùng nhau song bước
Biết buồn vui qua cửa sổ tâm hồn

 

Đôi mắt đầu đời nhận diện mẹ cha
Nụ cười hồn nhiên đong đầy hạnh phúc
Rất dễ thương trong veo đôi mắt ngọc
Khi khóc khi cười chẳng hiểu gì đâu

 

Đôi mắt long lanh nhìn rõ sắc màu
Hàng phượng đỏ lung linh trời ngập nắng
Tuổi học trò phất phơ tà áo trắng
Ngày thần tiên, đôi mắt biết mộng mơ

 

Đã nhiều lần khép mắt gửi vào thơ
Để đợi chờ hay nhớ thầm, ai biết ...
Có nhiều khi ánh mắt buồn da diết
Giọt lệ nhoà đứng trước cảnh phân ly

 

Đời mấy lần từng tiễn biệt người đi
Mà chẳng biết đến khi nào gặp lại ...
Đôi mắt ướt rưng rưng chiều tê tái
Người xa rồi mà mắt vẫn trông theo

 

Mắt ưu tư khi lâm cảnh ngặt nghèo
Mà tuyệt vọng không làm sao thoát được
Ôi cuộc đời như thuyền bơi nước ngược
Bao bến bờ ghềnh thác lắm cheo leo

 

Dù thế nào đôi mắt vẫn bên nhau
Rất chông chênh như đôi chân khập khễnh

Nhìn thế sự ôi đục trong lẫn lộn
Vẫn mỉm cười ngạo nghễ với thương đau

 

Nói sao hết, cuộc hành trình của mắt
Khi sinh ra cho tới lúc lìa đời
Từ mầm xanh cho tới lúc lá rơi
Bao ấm lạnh bởi tình đời bạc bẽo

 

Đôi mắt tuổi gìa ngu ngơ lá héo
Đôi mắt bao dung, đôi mắt vị tha
Bởi thời gian vụt một thoáng trôi qua
Trong chớp mắt đã trở thành quá khứ
Nguyên Nhung

 

 Đằng Sau Những Cánh Rừng

Nguyên Nhung

 

Hôm ấy là một chiều mùa hè, nhưng thời tiết ở xứ lạnh không bình thường như ở vùng nhiệt đới. Chỉ cần một cơn mưa thôi là mùa thu đã chập chờn đến sớm, ra đường người ta vẫn phải khoác chiếc áo ấm hay choàng một tấm khăn san mỏng.

Khi Huyền đưa tôi về nhà, đẩy cánh cổng gỗ bước vào mảnh sân nhỏ, từ trong khung cửa sổ mờ mờ tối đã thấy hai chấm màu xanh như lân tinh nhìn ra chờ đợi. Thì ra đó là đôi mắt của một con mèo, có cái tên dễ thương là Mina, Huyền nói hôm nào cũng vậy, hễ đi làm về là Mina đã chực sẵn bên cửa sổ chờ đợi.Chắc thấy nhà có khách, Mina chỉ "meo meo" câu chào hỏi như mỗi ngày rồi  thay vì quấn quýt bên cô chủ, Mina lại khủng khỉnh đứng dậy, cái dáng mềm mại uyển chuyển ấy đã nhảy tót lên cầu thang dẫn lên phòng ngủ, ngồi đấy nhìn  khách lạ như muốn hỏi:

"Ai thế? Hôm nay làm gì lại tới đây?"

Mina  ra dáng một cô con gái nhu mì, hiền ngoan ra phết, chiếc áo lông tự nhiên màu vàng xẫm óng mượt khiến Miêu Tiểu Thơ thật quý phái. Dù sao thì cũng có người thứ ba bước chân vào căn nhà tĩnh mịch này, khuấy động không khí êm đềm thân quen của người chủ cô đơn và con mèo cũng cô đơn nốt. Hai kẻ ấy cần nhau để sưởi ấm những buổi chiều cô quạnh, những ngày đông dài lê thê, dù không thể nói với nhau điều gì, nhưng bằng thứ ngôn ngữ riêng, họ hiểu là không thể thiếu nhau.

Huyền là em họ của tôi, từ khi chia tay với người chồng có tính gió trăng, cô ở có một mình, hai đứa con đi học xa ra trường rồi cũng tìm được việc làm tốt, ít khi về nhà với mẹ ngoài những ngày lễ nghỉ. Huyền sống lặng lẽ như thế nhiều năm , vui với kinh kệ mỗi tối trước khi đi ngủ, đêm lại ngủ ít nên sáng dậy sớm tụng thêm một hồi công phu trước khi đi làm. Mãi rồi cũng thành thói quen, chỉ có con mèo quẩn quanh làm bạn, tối nào đến giờ đi ngủ, Mina  đã nhẹ nhàng leo lên chỗ nằm của nó dưới chân người, hình như nó cũng tự biết vẫn phải giữ một khoảng cách cần thiết để không xâm phạm nhau.

Dưới nhà phía bên trái là căn bếp rất ngăn nắp sạch sẽ, bên phải là phòng khách, tấm màn mỏng giăng ngang  khung cửa sổ rộng, như một bức tranh thật lớn để nhìn ra bên ngoài. Huyền nói:

" Chị ngồi đây, từ chỗ này nhìn ra ngoài thì cái khung cửa đã là một bức tranh rồi, không cần treo một tấm màn nào nữa."

 

Thật vậy, qua khung cửa mở rộng có mặt kính trong suốt, tấm màn mỏng thật mỏng gần như phủ một lớp sương mù là cảnh rừng cây mùa hè dậy sức sống, cây cỏ ở miền này rũ chết trong mùa Đông, nhưng hễ trời sang Xuân là ngóc mình lên rất nhanh.

Khi kéo tấm màn ra là có liền một bức tranh đập vào mắt, vì khoảng sân sau trống trải là rừng cây thưa , dây leo đã quấn hết hàng rào ngăn cánh rừng với khu công viên, nhìn ra vẫn thấy khách bộ hành đang thong thả cuốc bộ trên con  đường nhỏ. Căn nhà nhỏ nằm trên ngọn đồi nhỏ san sát với những căn nhà khác, vì thế không đến nỗi hiu quạnh.

 

"Tuyệt! Quả là một bức tranh của bốn mùa, Huyền khéo chọn cái nhà này đấy, nó tạo cảm giác cho người ở trong nhà luôn gần gũi với thiên nhiên, và không cảm thấy cô đơn".

Huyền lục đục làm bữa cơm chiều, vừa làm cơm vừa nói chuyện :

« Em thích căn nhà này, dù chỉ có một mình nhưng nó vẫn ấm áp, bốn muà theo nhau thay đổi trong tầm mắt. Mùa Đông nhìn ra bên ngoài vạn vật như được phủ tấm chăn màu trắng, em có để một cây đèn bão trên thành cửa sổ, mùa Đông buồn đốt một ngọn nến trắng, ánh sáng lung linh tự nhiên làm ấm lại. Khu này ít có người  đi lại nên tuyết rơi xuống vẫn giữ nguyên được vẻ đẹp rất tinh khiết, trong khi đó con đường phía trước thì nhầy nhụa bánh xe và bước chân, trông bẩn thỉu như một cô gái giang hồ phấn son tơi tả».

Nghe Huyền ví von  tôi suýt bật cười, trong cô là cả một cánh rừng âm u mà tôi đang muốn vạch những tàng cây tìm những chú sóc nâu nhảy nhót, tìm một con thỏ màu vàng rơm gặm cỏ, và biết đâu lại không có một con nai đạp trên lá vàng khô. Tội nghiệp người phụ nữ cô đơn và chịu đựng, dấu nỗi buồn trong kinh kệ với con mèo nhỏ để làm bạn suốt bốn mùa hiu quạnh.

  *   *    *

Đêm đó, tôi khó ngủ vì lạ nhà, chập chờn mãi mới thiếp đi thì gần sáng bỗng giựt mình vi văng vẳng có tiếng chuông, mõ hoà vào nhau, có lẽ Huyền đã dậy và đang tụng kinh.

Hôm nay có tôi đến chơi, Huyền xin nghỉ ở nhà vài hôm để đưa tôi đi chơi, cứ tiếc mãi là tôi không đến chơi vào mùa thu. Mùa Thu ở Canada thật đẹp, tuy ngắn ngủi nhưng những cánh rừng đã kịp chuyển màu cho tới khi lá rụng hết, đẹp nhất là những rừng phong đầy lá đỏ sáng rỡ lên như vẻ đẹp của người đàn bà sầu muộn.

Khi hai chị em ngồi uống cà phê ăn sáng, Mina cũng  nhẹ nhàng nằm dưới chân bà chủ, giụi tấm thân mượt mà êm êm ấy vào đôi chân của Huyền, như muốn cho biết sự hiện diện của nó trong căn nhà này. Huyền cúi xuống nựng nịu con mèo nhỏ, vuốt ve mảng lông mượt mà vàng óng của nó, cô nói :

« Chị biết không ? Sáng nào Mina cũng đánh thức em dậy để tụng kinh, hôm nào quên không để đồng hồ báo thức cũng không sao, vì cứ đến giờ đó là Mina quào vào chân hay ống quần để gọi em dậy. Khi  em đánh răng rửa mặt vào thì nó đã  nhảy xuống yên vị trên cái gối kề bàn thờ chờ đợi, nó cũng mê nghe kinh như em mê niệm Phật vậy ».

Huyền kể một cách bình thản, riêng  tôi lại ngạc nhiên không ít. Tiếng chuông tiếng mõ có gì nhiệm mầu đến nỗi hấp dẫn một con mèo để trở thành thói quen tốt, quán tính tự nhiên của loài vật hay chính con mèo là hiện thân của một con người, mà ông trời vì thương cho cảnh người phụ nữ hiền hậu cô đơn, đã gửi nó đến để làm bạn ?!!

Hèn chi tôi nhìn thấy ở Mina có một vẻ gì rất lạ lùng, trong đôi mắt xanh hiền từ và trong sáng như một đứa trẻ con tâm hồn còn ngây thơ trong trắng. Chiều qua khi Huyền đưa tôi về nhà, nó đã biết ra cửa sổ chờ đợi như đứa con chờ mẹ về chợ, tối qua khi tôi và Huyền ngồi ăn cơm, Mina nằm thiu thỉu ngủ trên chiếc sofa,  lim rim đôi mắt nghe hai người chuyện vãn. Và khi đến giờ đi ngủ, nó lại lặng lẽ theo bước chân người rồi nhảy tót lên chỗ ngủ cuối chân giường, không hề làm phiền đến ai.

Tôi cũng đã biết người ta huấn luyện những con vật nuôi trong nhà thật kỷ luật, và con vật ấy thường tuân theo chỉ vì được hưởng những phần thưởng như chiếc bánh, vài hột đậu mà nó thích. Mina không hề giống những con vật trung thành với chủ mà tôi biết, vì trong đôi mắt và cung cách của nó, toát ra một vẻ gì rất người, mà nếu là người thì cũng phải là loại người có nhân cách tử tế. Con mèo nghe kinh hay ghiền nghe tiếng chuông tiếng mõ, hay nơi chốn ấy rất cần thiết để hai bên nương tựa vào nhau tìm sự an ủi, theo tôi là một điều kỳ diệu và bí ẩn trong cánh rừng âm u, cây này ngả vào cây kia để trốn gió hay để che chắn bớt những cơn gió khắc nghiệt và thịnh nộ thổi vào cuộc đời nhiều cảnh huống khác nhau.

Ngày hôm sau Mina đã tỏ ra thân thiện hơn với khách, nó nhẹ nhàng đến ngồi vào giữa khi  tôi và Huyền đang nói chuyện với nhau, mắt mơ màng lim rim, thỉnh thoảng duỗi chân ra như muốn nói cho biết : « Cứ tự nhiên đi nhen , bữa nay nhà thêm người tui cũng vui ». Đó là tôi tưởng tượng vậy, cánh cửa khu rừng đã mở ra cho tôi nhìn thấy sự bằng lòng dễ chịu của Huyền với hoàn cảnh, chính một phần nhờ tấm lòng của Mina, trong nó tiềm ẩn một tình bạn thật chân thành mà nhiều khi người ta không thể tìm được ở con người.

Hai hôm sau, chuyến xe bus rời Montreal vào lúc 10 giờ tối, hành khách chuyện vãn ồn ào một chút, rồi tất cả đều im lặng chìm vào giấc ngủ chập chờn. Tôi vẫn mang theo hình ảnh cô em họ hiền lành, con mèo Mina biết lắng nghe tiếng chuông mõ kinh kệ những buổi sáng mù sương trong tâm khảm. Chỉ có một vầng trăng đầy đi theo tiễn tôi suốt chặng đường nửa khuya, hai bên đường là rừng cây và ánh trăng lấp loáng khi xe chạy qua những dòng sông, khoảng hơn 6 giờ  xe cặp bến, trời Boston còn mờ tối ẩm ướt hơi sương.

Chiều hôm đó chúng tôi đến thành phố Lowell thăm chị bạn cũ sau mấy năm chưa gặp. Chị là người bạn mà theo tôi do duyên lành đưa đẩy để quen nhau, cái duyên quen biết kéo dài hơn hai mươi năm,  nối dài cho mãi đến hôm nay thật là kỳ diệu, chúng tôi gặp nhau để rồi thân chỉ bắt đầu bằng hai tấm ny lông trên lề đường bụi bặm.

 Lần trước khi tôi đến thăm, anh còn sống, lần này đến thì anh đã không còn nữa. Anh đi thật bất ngờ, xum vầy và phân ly cũng kề bên nhau không đoán trước được, chị đang sửa soạn vali để hôm sau hai vợ chồng đi Cali thăm bạn bè , hai người còn đang chuyện trò thì tự nhiên anh im bặt, khi chị nhìn lại thì anh đã đổ gục ra đằng trước. Tin sao được là chỉ tích tắc thôi đã thấy không còn nữa, mới nói cười đây sao lại im lặng mau thế !

Sự ra đi của anh để lại cho chị một nỗi buồn nặng trĩu khó nguôi trong căn nhà trống trải, vừa ổn định được sau một thời gian dài định cư ở xứ người. Hình như  đâu đó  vẫn phảng phất hình bóng anh trong căn nhà nhỏ , nằm chênh chếch với một ngọn đồi rợp bóng thông xanh, giống y như Đà Lạt vì trời lúc nào cũng hơi lành lạnh.

Chị dẫn tôi vào phòng khách, căn nhà trang trí theo lối cũ ở quê nhà, bàn thờ tổ tiên trân trọng đặt giữa phòng có nhang đèn chu đáo, bên cạnh là bàn thờ nhỏ để tấm ảnh của anh. Tôi đốt nén nhang cặm trên bàn thờ, thay cho một lời chào thăm hỏi ngày anh còn sống. Trên chiếc kệ nhỏ ngoài phòng khách, tôi lại nhìn thấy một con mèo.

Hình như tôi có duyên với mèo nên đến nhà ai tôi cũng gặp. Con mèo này cũng to như Mina ở nhà Huyền, nhưng nó có vẻ im lặng, thấy tôi nhìn chị giải thích :

« Mèo giả đấy, chỉ khi nào mình sờ đầu nó hay vuốt mạnh vào đuôi nó mới «meo meo» thôi. Mình mua con mèo này dù không thích mèo lắm đâu, hôm đi chơi với cháu thấy họ bày bán nhiều con thú, tự nhiên mình lại lưu luyến với nó, chắc tại anh ấy tuổi mèo. »

Chị thật là tình nghĩa, với mọi người chị quen chứ không phải chỉ với chồng con trong nhà, tôi vẫn quý cái tính này từ ngày quen biết chị. Hoàn cảnh đẩy chúng tôi ra lề đường, mỗi đứa một  tấm ny lông  tìm kế sinh nhai, được đồng nào hay đồng đó. Chị mua bán bạc cắc xưa, đồng tiền xưa, vài hòn đá hay miếng đồng đen gì đó, người không hiểu biết thì chả biết chị ngồi bán và mua cái gì với những thứ mang đầy dầu ấn thời gian như vậy. Tôi thực tế hơn, những gì mọi người cần dùng hằng ngày như bộ tách cũ , cái ấm trà, manh quần tấm áo cũ cho thời buổi cái gì cũng cần, cái gì cũng thiếu.

Lê la trên vỉa hè gió bụi, chúng tôi có niềm vui là nhiều thì giờ để nói chuyện, chị là giáo sư toán tốt nghiệp sư phạm đàng hoàng, tôi cũng có một gói văn chương mang theo để tán chuyện ngày xưa, bỗng vì thế mà hợp nhau rồi xem nhau như chị em.

 Buổi chiều chị đãi vợ chồng tôi một bữa cơm thật ngon, cá Salmon nướng cuộn bánh tráng, tuy là một thành phố nhỏ ít người Việt nhưng rau cỏ chẳng thiếu gì. Khi vừa bước lên phòng ăn giáp với phòng khách nhỏ nhà chị, tôi bỗng thấy con mèo «giả» bật lên tiếng chào «meo meo», nên  tôi cũng vui vẻ chào lại chú ta bằng hai tiếng «meo meo» mà quên khuấy lời chị nói với tôi lúc ban trưa, con mèo chỉ kêu được khi có ai vuốt mạnh vào đầu hoặc nắm cái đuôi của nó.

Liên tiếp khi ấy con mèo giả lại xoay cái đầu và đưa đôi mắt xanh biếc về hướng bàn ăn, lại «meo meo» lần nữa và lần nữa, tôi vẫn vô tình ghẹo lại :

« Biết rồi, khổ lắm, nói mãi ! Hôm nay mèo cũng biết có khách đến ăn chực nên chào hoài đấy nhỉ ? »

Vừa nói tôi vừa cười, mùi thơm của thức ăn trên bàn cơm làm cồn cào cái bao tử. Nhưng tôi thấy chị ngồi im, lặng người như cố nén xúc cảm đang dâng trong lòng chị. Thấy tôi nhìn, chị hỏi :

« N. có thấy gì lạ không ? »

Tôi lắc đầu, chị nói tiếp :
  « Với mình thì lạ lắm, vì con mèo ... tự nhiên nó lại kêu  mà không cần ai đụng tới. Mình nghĩ là anh ấy mượn con mèo để cảm ơn bạn dù xa xôi vẫn đến đây thăm, và còn nhớ đến anh ấy nữa. »

Tôi nói nhỏ :

«Vậy mà em cứ tưởng chị lên dây  «cót»  nên con mèo mới kêu hoài như vậy.»

Bây giờ thì tôi nhớ ra rồi, cảm thấy lạnh sống lưng nhìn về phía con mèo giả, giờ này đã hết kêu «meo meo» và quay mặt ra phiá cửa sổ một cách bình thản. Không khí bàn ăn thật im lặng, như mỗi người lại chìm đắm với một dấu hỏi trong đầu, một xáo trộn kỹ thuật xảy đến với con mèo hay là  «ai» đã nhập vào nó, để mượn con mèo gửi lời chào đến mọi người trong niềm vui hội ngộ.

Tuy là mùa hè nhưng ở miền Đông Bắc vẫn phảng phất chút mùa thu, buổi tối vẫn phải khoác chiếc áo ấm.

Tôi nhìn ra khung cửa sổ, vẫn một vầng trăng đầy vằng vặc chiếu qua song cửa, soi rõ dáng nằm ẩn nhẫn cuả con mèo bên thành cửa sổ. Con mèo giống như một bóng người, im lặng ngắm ánh trăng treo ngoài cửa sổ. Cứ cho là câu chuyện con mèo kêu liên tiếp những tiếng « meo meo » chỉ là một trùng hợp nào đó, tôi vẫn cảm thấy có một điều gì lạ lùng đang xảy ra đằng sau những cánh rừng. Ở đó hình như có một thung lũng ngập lá vàng khô mùa gió nổi,có những chiếc lá chờ nhau đang xào xạc kể chuyện.

 

NGUYÊN NHUNG / tháng 10 năm 2009

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thất Thời, Thất Nghiệp

Truyện Nguyên Nhung

 

Ông bị thất nghiệp rồi, điều linh cảm mơ hồ đã thành sự thật khi buổi sáng mới lò mò vào hãng . Còn sớm chán, ông vào Internet đọc Email mỗi ngày như thói quen, đang ngấu nghiến đọc vội để chuẩn bị đến giờ làm thì một đồng nghiệp đi ngang vỗ mạnh lên vai:

" Thôi cha nội, hôm nay tha hồ về nhà lướt Net. Hay gì chưa? Có tên ông trong danh sách được về nhà "ngồi chơi xơi nước" đấy."

Chẳng biết hắn nói chơi hay thiệt, tin này làm ông giật bắn cả người. Thế mà là chuyện thật, năm ngoái người ta đã xôn xao bàn tán, nhưng tính chủ quan là chuyện ấy chỉ xảy ra cho người khác, nên ông vẫn "bình chân như vại" vì nghĩ mình làm việc lâu năm, tay nghề giỏi bậc thầy, hãng chỉ cho nghỉ việc những "cụ" vượt qua tuổi hưu mà chưa chịu nghĩ là mình mất sức lao động, hay bọn tay mơ mới chập chững vào nghề.

Thế là thất nghiệp thật, ở nhà chơi không cứ buồn rũ cả chân tay. Ông có định thất nghiệp đâu, nhưng việc ấy tự nhiên nó tới thì cứ tới. Y như cái ngày khốn nạn năm bảy mươi lăm, ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện bị giải ngũ ngang xương, thế mà bước qua tháng Năm năm ấy thì đương nhiên cũng bị giải ngũ.

Thằng bạn ông tinh thần chiến đấu kém, chỉ mong hòa bình để ở nhà "đuổi gà" cho vợ. Năm ấy thấy tình hình căng thẳng, nó đi tìm lão thầy bói để đoán hộ đường công danh sự nghiệp. Lão thầy bói ấy tài lắm, không mù nhưng vẫn đeo đôi kính đen. Lão bảo bạn ông xòe bàn tay, rồi lấy một tờ giấy ghi mấy con số, xem đi xem lại, thầy phán một câu xanh rờn:

" Chỉ nội năm nay, cậu đương nhiên giải ngũ."

Ông bạn vàng hí hởn về rỉ tai mọi người, thế là lũ lượt một bọn rủ nhau đi cúng tiền cho thầy bói ăn, anh nào anh nấy ra về cũng vui như Tết. Hòa bình là cái chắc, quân đội chỉ cần cho nhu cầu chiến tranh, một mai hòa bình, giã từ vũ khí về quê lập vườn, ngồi vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.

Lão thầy bói nói thánh thật, hay là cả bọn bạn bè ông đều ngây thơ tin rằng đã tới lúc "bất chiến tự nhiên thành". Đúng là một lũ ngây thơ, thầy bói là một tay phản chiến hạng nặng làm nản lòng chiến sĩ, sau này khi đi tù, ông đã nghiệm ra điều ấy đúng mười năm ăn bo bo và khoai lang, khoai mì mòn cả răng.

Đấy là chuyện ngày xưa, còn chuyện thất nghiệp của ông bây giờ là do tụi khủng bố gây ra, rồi chiến tranh chống khủng bố lan rộng, tiền tỉ đóng thuế của dân chúng đổ theo bom, đạn.  Đổ một lúc hai cái nhà to nổi tiếng thế giới, sau đó thì kéo theo hằng loạt những công ty và hãng xưởng đua nhau giảm bớt công nhân, ông ở tuổi tròm trèm sáu mươi kéo lết theo đà kinh tế để đến hôm nay mới đến lượt về nhà nằm khểnh xem TiVi. Giưã nơi đông người hay với bọn đàn em một thuở, ông luôn cho mình thuộc hàng tiền bối  kinh nghiệm đầy mình, xứng đáng lên hàng "Cụ", khi mất việc rồi tự nhiên  ông lại nghĩ " sáu mươi đâu đã gọi là già, vẫn còn làm việc được, dù tóc có thưa thớt và răng cái còn cái mất, so với các lão tướng bên nhà ông vẫn còn phong độ". Thằng con lớn an ủi bố:

"Từ ngày qua đây đến giờ, bố cày miết. Thôi được dịp nghỉ ngơi, ở nhà trông hộ con mấy đứa cháu., Với lại những người có tuổi cũng nên nghỉ sớm để nhường chỗ cho đám trẻ, học mờ mắt  mà khi ra trường tìm mãi không ra việc. Như tuổi con chẳng hạn, mất việc lúc này là kẹt thiệt, trông mong vô mấy đứa nhỏ chưa biết tương lai thế nào, chỉ thấy bây giờ lo tướt khói."

Vợ ông nghe cha con nói chuyện cũng ngưá miệng góp vô:

" Thôi thì "liệu cơm gắp mắm" chứ có gì mà lo, có nỗi khổ nào bằng năm 75 cha ở tù, con một lũ lau nhau , trong túi không có đồng xu mà rồi ai cũng sống nhăn đến bây giờ, sóng đánh đến đâu thì thuyền neo đến đó con ạ."

Nó nói cũng phải, hai mươi năm ông đi cày đóng thuế hộc xì dầu cho mấy người ăn trợ cấp hưởng, như thế là bất hợp lý. Nhưng có ở nhà chơi với cháu mấy hôm liên tiếp ông mới thấy còn mệt bằng năm lần đi làm, vì chúng nó một lũ lâu nhâu bằng nhau, chưa đứa nào khôn hẳn, hét rát cả họng vẫn không ăn thua. Ông phục bà lắm, thế mới biết cái chịu đựng của đàn bà Việt Nam. Ông bảo bà:

" Thôi, mai tôi phải đi tìm việc , chứ mang tiếng ở nhà mà chả nghỉ ngơi được bao nhiêu. Chán lắm!"

Bà băn khoăn hỏi ông đầy vẻ giễu cợt:

" Ai mướn ông bây giờ? Xem ở Bưu Điện có cần người dán tem thư thì ra đấy mà xin việc."

Ông nhếch mép cười nhạt:

" Bưu điện bây giờ cũng chỉ thở thoi thóp, cả bà cũng khinh thường thằng già này. Để rồi bà xem, việc nhiều tiền thì hiếm chứ mấy cái lặt vặt thiếu gì."

Bà khuyên ông:

" Ngồi chơi mát ăn bát vàng không muốn, lại cứ thích cực thân. Hay là làm hãng lau nước đá vậy?"

Biết bà hay trêu ghẹo ông chồng già, vì từ xưa tới nay hai vợ chồng vốn khắc khẩu. Tự họ trêu ghẹo nhau để sinh tội, chứ có ai bắt họ cãi nhau đâu. Mà thế thật, số ông hình như phải đi ra khỏi nhà mới khá. Thời chinh chiến, nếu ông cứ ở nhà " ăn quẩn cối xay" thì làm gì quân đội có những người hùng. Ông đánh giặc cừ thật, bị giải ngũ ngang xương là tại cái "vận nước" nó tới hồi mạt vận, chứ cứ thử hai thằng đánh ngang sức nhau, ông đâu có chịu thua.

Ngày xưa lúc còn trong quân ngũ, ông đi biền biệt để vợ ở nhà với lũ con. Cứ mỗi chuyến về phép là vợ ông lại mang bầu, rồi tự động đẻ đái lo liệu một mình, ông đâu có biết thế nào là cảnh "vượt cạn " của phụ nữ. Sau ngày đương nhiên giải ngũ ấy, ông cũng đương nhiên đi ở tù, bạn bè ông có một số thoát được ra nước ngoài năm bảy mươi lăm, chắc là đương nhiên có số xuất ngoại. Lần đi tù này ông xa nhà đúng mười niên, khi về thằng con út " mót " được kỳ phép cuối cùng trong đời lính đã lên mười tuổi, đứa con gái lớn đã biết ra chợ giúp mẹ buôn chui bán nhủi . "Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế", ông cố nghĩ vậy để đừng bỏ nhà lên rừng ở với khỉ.

Không chỉ vì sợ lũ cháu nghịch như giặc mà ông quyết đi tìm việc, ngay cả chuyện ở nhà với vợ một ngày trọn vẹn cũng làm ông nản chí anh hùng. Bà nói lắm lắm, miệng quang quác suốt ngày như một mụ gà mái lắm điều. Ông nghĩ vậy chứ không dám nói ra miệng, cũng chỉ vì một lần "trà dư tửu hậu" của lũ đàn ông, điều ví von ấy đã khiến ông bị bà sỉ vả là một lão gà trống vô tích sự. Khiếp quá cho cái miệng đàn bà, nhưng cũng chả sai tý nào, ông cũng thấy lão gà trống quả vô tâm lắm, cứ " xong việc" là lão ta nhảy tót lên nóc chuồng để te te gáy, mặc kệ lũ gà mái với mấy con gà con. " Nói có sách, mách có chứng", chưa bao giờ ông thấy gà trống dẫn gà con đi kiếm ăn, nhưng lão cũng rất hào hoa khi tìm được một con giun, con dế, sẽ không ngại gì gọi lũ mái tơ đến để "share" với nhau chút của ngon.

 

* * *

Thế là ông long lên đi tìm việc, dù mới chỉ ăn tiền thất nghiệp được ba tháng. Ba tháng ở nhà đi ra đi vào ông thở dài sườn sượt, nhớ lạ lùng tiếng chạy rì rì khi đứng máy, thèm ngửi mùi dầu nhớt và tiếng cười nói xôn xao của những người bạn đồng nghiệp. Cả một bọn lớn tuổi được cho nghỉ trước, sau đến mấy tay trẻ hơn. Lúc đầu ai cũng có vẻ lạc quan, công việc xuống chỉ độ ít lâu, chừng giải quyết xong thì kinh tế lại phục hồi, lúc ấy tha hồ mà làm "over-time".

Nhưng mãi cũng chả thấy khả quan hơn, kinh tế cứ tiếp tục xuống, y như chiếc quan tài được hạ xuống lòng đất là nằm đấy chứ làm gì người chết có khả năng ngồi dậy được. Bây giờ ông không hy vọng gì kiếm được chỗ nào khá hơn chỗ cũ, dù những việc vớ vẩn có đấy nhưng nặng nhọc quá không hợp khả năng, bây giờ ông lại thương cho người chủ hãng với lối làm việc dễ dãi đối với công nhân, thế mà nhiều người vẫn dài họng ra chê bai, bây giờ mất việc mới thấy tiếc hùi hụi. Hôm đầu tiên, ông vui vẻ mặc quần áo đi từ sáng sớm, mãi đến trưa mới về ăn cơm. Thấy ông mặt mũi bơ phờ, bà hỏi:

" Sao, có chỗ nào nó nhận chưa?"

Ông chán nản lắc đầu:

" Có một chỗ, mới vào "apply" là nó gọi phỏng vấn ngay, nhưng nó bảo sẽ gọi tới báo sau."

Bà nhếch mép cười mai mỉa:

" Mỹ mà, chết đến đít nó vẫn lịch sự, chúng tôi sẽ thông báo tới ông có nghĩa là thôi ông về mà ngủ đi cho được việc."

Ông tiếp tục câu chuyện:

"Còn một chỗ nữa lương bổng khá, không nặng nhọc nhưng trèo cao quá không kham nổi."

Bà lại cười trêu ông:

"Việc gì thế? Chắc lại lau cửa kính cho mấy cái cao ốc phải không?"

Ông tủm tỉm cười:

"Bà này nói như Thánh. Hồi ấy nhằm nhòi gì ba cái lẻ tẻ ấy, thế mà bây giờ già, cứ trèo cao là run, lại còn chóng mặt nữa . . . " .

Bà quay đi nói nhỏ nhỏ một mình:
"Đã bảo hết thời rồi mà. . .
 "

Rồi bà nói to lên cho ông nghe:

"Ừ, biết lượng sức mình thế là tốt, không như nhiều người leo hết thang rồi mà cứ muốn leo nữa, thế là lộn đầu xuống đất."

Ngày hôm sau ông lại dậy từ sáng sớm, uống xong ly cà phê nóng ông mặc quần áo tề chỉnh đi kiếm việc làm. Bà nhìn ông ra xe mà lắc đầu ngao ngán, đúng là ông lão chân hay đi phải ở nhà sinh cuồng cẳng. Đến trưa thì ông về ăn cơm, mặt buồn thiu buồn thỉu. Bà hỏi:

"Sao? Có gì lạ không?"

Ông cười, nhưng cái miệng như mếu xệch đi, trông khổ thân lắm. Mặt ông lại nhăn nhăn khiến bà hốt hoảng:

"Sao thế?"

"Cái chân."

"Cái chân làm sao?"

Ông cúi xuống bóp bóp cái chân đau:

"Cái chân nó đau. Hôm nay thì họ cần một chân "clean-up", nhưng mà cái chân nó lại đau, chán thật."

Bà dọn cơm cho ông ăn, lấy thuốc cho ông uống, nói nho nhỏ một mình:

"Đã bảo hết thời rồi mà."

Đang ăn cơm, ông lại há miệng ra nhăn nhó. Bà lại hỏi:

"Sao thế?

Ông ngừng nhai, uống một ngụm nước nóng:

"Cái răng."

"Cái răng làm sao?"
"Cái răng tự nhiên nó muốn tuột ra, bởi vậy hễ ăn gì cứng nó lại cộm lên, đau muốn chết."

Bà nhìn ông tội nghiệp:

"Vậy mà cứ long lên sòng sọc để tìm việc làm, ở nhà dẫn cháu đi công viên không thích hơn à?"

Ông gắt:

"Khốn nỗi, chân cẳng thế này không chạy theo chúng nó được."

Bà cười:

"Thế mà họ cứ bảo đàn bà chúng tôi vô tích sự. Chỉ chạy theo mấy đứa nhỏ quanh quanh trong nhà, cũng bằng mấy lần "ếch xơ sai" ngoài đường."

Biết bà lại sắp kể công và gây sự, vì đó là cái "khắc khẩu" thường xảy ra khi vợ chồng ngồi nói chuyện với nhau, chỉ câu trước câu sau là thế nào cũng có chuyện. Ăn xong, ông bỏ ra ngoài sân, xem mấy chậu kim quất quả đã hườm hườm chin. Mùa đông năm nay lạnh hơn những năm trước, nên hoa đào hoa mai chẳng thấy trổ hoa, hay là cây cỏ cũng có linh tính mà không chịu toét miệng cười như mỗi năm trời sang Xuân, vì thế mà tuy nhà nào cũng ăn Tết, nhưng không khí dường như vẫn buồn buồn thế nào ấy.Con ông nói đúng, năm nay ông đã ngoài sáu bó, cũng nên nhường chỗ cho đám trẻ còn đang lao đao tìm việc mãi không ra. Sáu mươi với mấy ông "ăn trên ngồi trước" thì chưa già, còn về được Việt Nam kiếm bồ nhí, nhưng ông mất mẹ nó mười niên trong tù, sức khỏe suy kiệt cho nên trông vẫn già hơn tuổi. Dạo này cái chân lại trở chứng, lắm hôm đau không nhấc lên đưọc, ông ngẫm nghĩ bản thân mình cũng suy thoái, trách chi thế giới càng đông người, quả đất càng lúc càng già cũng sinh lắm chuyện, chỗ này động đất, chỗ kia lụt lội, nơi nào cũng lãnh đủ.

Buổi trưa, ông khập khiễng đi ra đường chờ xe "school-bus" , đón hai đứa cháu học Mẫu giáo có nửa ngày sắp về, thay cho bà đang dọn dẹp trong bếp. Một chốc, ba ông cháu đã kéo nhau về, hai đứa nhỏ vừa đi vừa chạy, vừa nắm tay ông mà kéo, mặc cho ông vừa đi vừa nhăn. Bà đã làm xong việc nhà bếp, chạy ra mắng cháu:

"Khéo ngã ông nội bây giờ."

Dắt cháu vào nhà, bà không quên ngoái ra nói với ông:

"Trên hội già họ đang cần một chân xoa mạt chưọc đấy, ông có muốn thì lên đấy mà xin việc."

Nguyên Nhung

 

 

MẸ QUẤT

 

*  Truyện Nguyên Nhung

NN_MeQuat.jpg

 

 

         Người ta đưa Quất về nhà vào khoảng giữa tháng chạp âm lịch, lúc ấy trời sắp sang Xuân, chỉ thỉnh thoảng còn vài đợt gió lạnh từ miền Bắc thổi về. Y như một cô dâu mới về nhà chồng, khăn áo lượt là, Quất khoác một chiếc áo vàng màu hoàng hậu,  khiến căn phòng khách sáng rực hẳn lên.

          Bóng dáng xinh đẹp của Quất dường như đem cả mùa Xuân vào căn phòng ấm, ông chủ nhà là một tay xính văn chương, đã âu yếm tặng  cho Quất cái mỹ danh là cô "Kim Quất ", như người ta vẫn gọi những người con gái đẹp là Kim Cương, Kim Hồng, Kim Hạnh v. v... Kim Quất vốn quê mùa, từ ngày sinh ra cho tới lúc lớn lên, trời cho có chút nhan sắc xinh đẹp tự nhiên, lại dễ sống cho nên mùa Xuân đến thì cô mượt mà lắm, nay lại được đem vào chỗ cao sang, nhà cao cửa rộng, Kim Quất bỗng thấy đời tưng bừng hẳn lên, dù chưa biết cái khổ của cảnh "cá chậu chim lồng".

           Chỉ vài hôm thôi, Kim Quất nghe đã nhàm tai những câu khen tặng, ông đi qua bà đi lại không ngớt tâng tiu cô Kim Quất trẻ tuổi. Người ta khen cây rồi lại khen người, khen ông chủ nhà khéo chọn được cây Kim Quất xum xuê, tươi tốt, đầy những quả vàng óng, báo hiệu một năm gia chủ sẽ thịnh vượng, xung mãn, làm gì được nấy.

           Quất chẳng hiểu gì về sự liên quan giữa mình và con người kia, vì chuyện Quất sinh hoa kết quả là chuyện tự nhiên của Trời, đất nuôi Quất và trời ban mưa nắng cho Quất thì Quất lớn, chứ tại sao một người mang Quất về nhà vì thế có thể bỗng chốc  thành công mọi mặt. Hóa ra người vẫn hay tin nhảm, cho nên mới  sinh chuyện con yêu con ghét trong nhà, hễ đứa con nào ra đời mà cha mẹ làm ăn khấm khá thì ai cũng gọi là "quý tử", còn đứa nào lúc sinh ra cha mẹ gặp vận rủi, lại được đổ thừa là cái nợ phải trả...

            Ở trong nhà vài hôm, Quất mới thấy được sự gò bó của những thứ kềm kẹp như hơi thở, đồ đạc, tay chân con người không để Quất yên. Ðầu tiên là cái máy sưởi, vì trời còn lạnh nên người ta phải dùng thứ máy sưởi để cho căn nhà ấm áp, vì thế mà Quất đâm nghẹt thở. Mới đầu Quất cứ thấy khô khô, lá tự nhiên không tươi tắn như ở ngoài trời, người Quất như khát nước kinh niên, trạng thái này Quất chưa bao giờ thấy.

 

Bây giờ thì Quất ghét cay đắng phòng khách chật hẹp này, nó bóng lộn những thứ đồ đạc đắt tiền, nhưng chúng nó đâu biết thở như Quất . Họ có cho Quất uống nước đó chứ, nhưng khí trời thì họ không cho được, bởi vậy Quất đâm khó chịu như người quê mùa đến nhà kẻ giàu sang, ăn được bữa cơm cứ rón rén như xin của bố thí. Nếu là người thì thà Quất cứ ở cái chỗ quê mùa, nghèo hèn , nhà tranh vách đất để mà được tự do thở, tự do ăn, chứ ở đâu mà cứ nem nép khó chịu, dẫu có "cơm vàng canh bạc" Quất cũng chả ham.

             Quất còn phải ở trong nhà cho đến hết tháng giêng, ngột ngạt vì cái máy sưởi và tiếng cười nói râm ran của khách tới thăm chúc Tết gia chủ. Nhờ thế Quất mới có dịp thấy rõ sự mệt mỏi của con người, khi bị đóng một màn kịch quá lâu đến nhàm chán. Cũng bấy nhiêu câu chúc được nói đi nói lại, nhất là trong ngày đầu Xuân thì họ cứ như một cái máy hát cũ, ca hoài một bản nhạc có bấy nhiêu lời đã đầy hai lỗ tai. Trước tiên thì những thứ rượu , mứt, thịt thà đã làm người ta thấy đầy cả bụng, còn nói nhiều quá cũng làm người ta rát cả họng, thành thử xem vậy trong xôn xao đã có mùi nhàm chán. Ông bà chủ vừa ngả lưng thiu thiu, đã có một hồi chuông giựt ngược dậy. Cái mặt đang cau có vì mệt mỏi và mất ngủ, ông chủ nhà đã phải vội vàng khoác lấy bộ quần áo tề chỉnh ra đón khách, bà chủ nhà cũng mau mau lấy lại nụ cười cho "mặt hoa da phấn" đỡ ủ ê, rồi lại một điệp khúc cũ mèm được tái diễn, Quất thấy chẳng có gì là thi vị cả. Bây giờ thì ông  chủ không còn ngồi ngắm nghía cô Kim Quất của ông như hôm mới đem về, ông buồn buồn đưa tay bứt một quả để nhấm nháp, và ông tỉnh hẳn người khi thấy  nàng quất  xinh đẹp  vậy mà cũng chua ngoa đáo để.

                         

                                                      *        *         *

 

           Sang tiết tháng Hai trời mát mẻ dần lên, Quất cũng sắp sửa được ông chủ cho "hạ thổ" khi nhìn thấy nét ủ ê của nó. Lũ trẻ con tới nhà đã ngứa tay bứt những quả quất chín để chơi, vài chiếc lá đã héo nằm cong xuống khiến Quất đâu còn mượt mà như hôm nọ. Ðàn bà con gái lấy chồng chỉ đẹp nhất hôm cưới, bây giờ thì Quất cũng quen mắt mọi người, không thấy ai nhìn Quất để trầm trồ nữa. Bà chủ đã hái những quả quất để chế biến thành thứ thuốc trị ho, cho nên cành lá lại càng thêm xơ xác.

           Khi biết ông chủ quyết định đem Quất ra vườn, Quất mừng lắm, y như người quanh năm làm ăn nơi phồn hoa đô hội, bỗng được trở về quê cha đất tổ với gió đồng cỏ nội, khiến Quất xôn xao và tỉnh hẳn người khi được trở về với Ðất. Ðất chính là quê hương cuả Quất, là Mẹ, là Cha, là mạch máu khi rễ lớn rễ nhỏ được chạy nhảy luồn lách vào đất, như đứa trẻ được nhảy nhót trên con đường làng ngoằn nghoèo mát rượi. Thứ đất trong chiếc chậu chật hẹp kia chỉ là đất tạm, dù rằng người ta đã đem Quất đứng vào cái chậu sứ thật đẹp, bên ngoài vẽ phụng vẽ rồng. Bao nhiêu năm tháng Quất co mình lại trong chiếc chậu chật hẹp đó, với một dúm đất cỏn con. Quất hiểu lắm thứ tự do khoảng khoát của đất, khi đất bị nhốt vào chậu, đất cũng  buồn bã như cây, đất và cây gậm nhấm nỗi buồn trong chiếc chậu hẹp, vì thế mà đất cằn cỗi, vì thế mà cây xác xơ.

             Quất thấy ông chủ ngắm nghía tìm cho Quất một chỗ đứng trong khu vườn rộng mà lòng lại nôn nao. Góc vườn kia đã có một chị bưởi, một anh cam, và thêm một cây hoa đào nữa. Những người hàng xóm này chắc ngày xưa lúc mới về cũng ngơ ngác như Quất, nay thấy họ đã có một chỗ đứng vững chãi lắm. Cuối cùng sau khi ngắm nghía mãi, Quất được ông chủ đặt gần kề cây hoa đào, vì vào mùa Xuân, từ góc vườn này gia chủ có thể nhìn thấy những cánh hoa đào, hồng hồng xinh xinh như môi thiếu nữ, và cũng có thể nhìn thấy Quất mặc áo vàng để khoe sắc với chúa Xuân.

             Bây giờ là lúc Quất phải hội nhập vào thế giới của cây cỏ, phải làm quen với Ðất vì đất vốn hiền lành không nói năng, nhưng muốn được nó chấp nhận cũng đâu phải một ngày là nên chuyện. Ra đến ngoài vườn, Quất thở phào, vốn quê mùa giản dị, Quất bám ngay vào đất, như kẻ tha hương ngộ cố tri. Còn nỗi mừng nào đang lúc khát lại được bát nước uống, hay đang cần tâm sự bỗng vớ được người tri kỷ. Quất cần đất như con người cần hơi thở, nhất là giữa tiết Xuân mát mẻ, tâm hồn Quất phơi phới để chẳng mấy chốc lại nẩy lộc đơm hoa.

             Bắt đầu từ đây Quất thực sự hưởng không khí tự do sau bao nhiêu ngày tù túng ở trong nhà. Khoảng vườn rộng được chia ranh giới hẳn hoi, bọn hoa cảnh được chủ nhân trồng ở trước sân, từ trong nhà bước ra đã thấy bao nhiêu là hoa hồng, cẩm chướng, cúc tím, cúc vàng. Lũ cây ăn trái như Quất được chủ nhân chia riêng một khoảng đất trống ven bờ rào, tuy thế, cảnh quê mùa này vẫn thích hợp với tâm hồn Quất, vốn vẫn không bao giờ muốn chen vai thích cánh với bọn hoa hoét lòe loẹt ở khoảng sân tù túng kia. Thỉnh thoảng gia chủ lại mời khách khứa tới chơi nhà, lũ hoa cảnh được chăm chút cẩn thận để trang trí và để khách ngắm nghía thưởng ngoạn, được vài hôm đã rã rượi, rơi rụng cả xuống sân, chẳng còn ai ngó ngàng gì nữa. Thương thay cho những bóng sắc hào nhoáng bên ngoài, đầu hôm sớm mai đã ủ ê, tàn tạ. Quất và lũ bạn bè nhà quê cứ ăn chắc mặc bền, lộc non đâm ra rồi cũng thành lá, hoa nở rồi thành quả, cứ thế mà lớn lên xôi xổi như con nhà nghèo, cơm dưa cà quanh năm mà vẫn khỏe mạnh.

          Thích nhất là những đêm trăng, vì đấy là ngày hội của đám cỏ cây trong vườn. Nhìn trăng khuyết Quất cứ mơ trăng tròn, vì dưới ánh trăng mập mờ huyền ảo, Quất thấy tất cả những lá hoa, cây cỏ đã trở nên huyển mộng, những chiếc bóng lá rung rinh dưới ánh trăng bàng bạc, chỗ nào cũng xinh đẹp tình tứ, cây nào trông cũng đáng yêu. Trăng đã sáng  mà trời lại gió, gió đẩy đưa cho lá đong đưa, lúc ấy cả khu vườn cùng khiêu vũ dưới ánh trăng, chắc gì trần gian đã có những buổi dạ vũ đêm trăng tuyệt vời như vậy. Quất ngẫm nghĩ  đến bọn người hay nhảy nhót, xập xình  với nhau trong những căn phòng mờ mờ tối, ngột ngạt mùi nước hoa và khói thuốc, người này thở ra người kia hít vào, Quất lại càng thương hại. Trong những chỗ chật chội ấy, những thân  người quay cuồng, quấn quýt lấy nhau, sao bằng được nơi gió mát trăng thanh này, cành lá cứ xôn xao thì thào to nhỏ, trong đêm khuya hoa cỏ toát mùi hương thanh khiết, ngọt ngào. Không có gì hơn là hãy để tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên, và không có gì hơn những mùi hương giản dị của cây cỏ phảng phất trong không gian.

                                       

                                                *         *         *

 

         Thời gian này là thời gian để Quất làm quen với mưa nắng cuộc đời, và cũng vì sự hòa hợp âm dương của Trời Ðất, Quất cứ lớn lên như thổi. Quất có già dặn hơn, cành lá đã um tùm hơn vì Quất đã thích nghi được với khí hậu bất thường của Trời Ðất. Ðấy là một kinh nghiệm sống quý giá mà Quất rất hãnh diện, biết khả năng của mình tới đâu và biết sức sống của cây cỏ cũng như con người đến mức nào.

          Ðúng là "trời sinh voi, sinh cỏ", Quất dư sức chịu được cái nóng của mùa hè, cái lạnh của mùa Ðông, và điều mà Quất thích nhất là thỉnh thoảng lại được tắm gội dưới trời mưa. Lúc ấy mẹ con Quất tha hồ mà ngả nghiêng, đừa giỡn dưới gió và mưa, hai lão ấy đã có từ đời Trời sinh ra Ðất, già lão mà còn chơi lắm trò mạnh bạo, có khi cứ vùi giập lũ cây cỏ dưới những đợt gió và nước ào ạt. Quất nhìn các chị em xung quanh, thì tâm trạng ai cũng thích trời mưa, như trẻ con thích tắm mưa, thích đuổi nhau trong những con hẻm ngập nước để nước văng lên tung tóe. Quất vui tính, hồn nhiên  như con trẻ, có lẽ nhờ sống giữa thiên nhiên, Quất thấy tâm hồn mình khoảng khoát, bao dung. Nếu sống trong căn nhà đóng kín cửa kia, có lẽ Quất cũng sẽ nảy sinh tính ích kỷ, đóng kín đời mình trong bốn bức tường không bạn bè với ai, có ngày cũng chết trong sầu muộn.

          Thấm thoát mà Quất đã sống trong khu vườn này được mấy năm, cứ sinh hoa kết quả, lũ con này ra đời rồi đi, lũ con khác lại được sinh ra và nuôi dưỡng. Quất không nề hà gì việc sinh nở, vì Trời sinh Quất thế. Nó có thể ra hoa quanh năm, trái đang đầy cành mà hoa đã trắng xóa. Bây giờ thì những người hàng xóm đã gọi Quất là Mẹ Quất, dù vậy Quất chỉ hơi già thôi, chứ nét xuân sắc của Kim Quất năm xưa vẫn còn phảng phất trong chùm hoa trắng, vẫn nồng nàn trong buổi sáng còn ướt sương, khiến có người đi qua vẫn phải có lúc tưởng nhớ một mùi hương. . .

           Chị Bưởi, anh Cam, chị Quýt trong khu này ai cũng bảo Mẹ Quất sung sức, nhà cửa lúc nào cũng ríu rít trẻ con. Cứ ngắm nhìn sức cưu mang của Mẹ Quất mới thấy ông Trời cũng khá hào sảng  khi cho Mẹ Quất một sức khỏe bền bỉ, dẻo dai. Nếu ví mỗi đứa con là một tác phẩm của một nhà văn, thì ôi thôi mẹ Quất đã sáng tác lu bù trận. Có đứa cũng lớn lên thành người, có đứa cũng chết non chết yểu khi mới đơm hoa kết trái, có đứa nửa chừng đã từ giã mẹ đi vào lòng đất lạnh. Bỏ đi những đứa con non yểu, thiếu tháng, đa số con của mẹ Quất đều nên người, chẳng gì cũng được chế biến với mật ong, thành món thuốc để con người thấm giọng khi ho hen, cảm mạo. Nó cũng là món trái cây để giải khát những ngày hè nóng nực, vị Quất thơm, uống tới đâu thấm tới đó, chứ nó không chua lè như chanh, mà cũng không đắng như bưởi, lại không nóng như Quýt. Nghĩa là ở Quất người ta vẫn thích thú chút chua chua dôn dốt của từng múi Quất, mà cũng có thể  nhấm nhẳn chút vỏ hơi the the, ngòn ngọt, Quất bé nhỏ hiền lành nhưng hương vị lại đậm đà khó quên là thế.

          Qua những tháng năm dày dạn nắng mưa, gió bụi, thời tiết đối với Quất như là những đắng, cay, ngọt, bùi trong cái "nhân tình thế thái " của con người, hay những vinh nhục, thăng trầm mà hầu như con người nào cũng có lúc trải qua. Nếu không trải qua sự thử thách đau khổ đó, Quất nghi ngờ rằng những con người đó không đào đâu ra được chiều sâu của tâm hồn. Chuyện sinh ra, lớn lên rồi chết, đã là điều tự nhiên mà bất cứ một vật gì hiện hữu trên cõi đời này đều phải trải qua, nhưng nếu không có những thử thách và đau khổ để tôi luyện, đời xem ra cũng vô nghĩa. Quất nghiệm ra rằng cứ mỗi một đổi thay xảy ra trong đời Quất, đều là một bài học để Quất ghi nhận.

           Cô Quất ngày xưa nay đã già, không còn mượt mà mãi với thời gian, cành nhánh đã xù xì những mảng da cóc khô queo, nhưng sức chịu đựng và việc sinh sản thì dễ ai bằng mẹ Quất. Có lắm lúc kiệt sức, mẹ Quất không đủ sữa nuôi con, vì thế mà những chiếc lá cứ nhỏ dần đi, và có những nụ hoa ra trái mùa, có kết quả cũng chỉ bé tẻo teo, rồi lần lượt rụng cả. Ðó là những mùa Ðông rét ghê gớm, cây nào cũng được gia chủ phủ trên mình những chiếc khăn lông cũ, hay những tấm ni lông để làm chăn đắp đỡ qua những tối trời Ðông. Nhắc tới đây mẹ Quất không khỏi rùng mình, khi nhớ lại một đêm trăng mùa Ðông, sao cũng là trăng mà trăng mùa Ðông lại lạnh lẽo, nghiệt ngã như một mụ phù thủy. Cả khu vườn và những thứ cây lá cóng lại, gió thổi phần phật những tấm ni lông như những mảnh khăn tang phấp phới trên những mái đầu, mẹ con Quất co lại với nhau nghe tiếng gió rền rĩ ngoài không gian , chịu đựng suốt những đêm trường băng giá.

          Cũng may là sáng hôm sau trời lặng gió, mặt trời lại hí hửng trải xuống trần gian những tia nắng ấm áp. Khi được chui ra khỏi tấm chăn bẩn, Quất đã nhìn thấy nỗi đau khổ và ủ ê của những chị em, bạn hữu quanh mình, rồi Quất lại hồn nhiên an ủi mình : "Sau cơn mưa trời lại sáng", chứ đâu dám trách Trời sao có lúc cũng nóng lạnh, vui buồn để làm khổ con người và cây cỏ.

          Mẹ Quất được trời sinh bản tính dễ vui dễ buồn, đã quen với sự khắc nghiệt của Trời Ðất, nên vì thế mà chịu đựng được tất cả những đổi thay, ít khi nào gậm nhấm một nỗi buồn giận ai lâu trong bụng. Vì thế mà "sau cơn mưa trời lại sáng thật". Ðó là món quà quý Trời phú cho mẹ Quất , để mẹ Quất cùng lũ con yêu đời trở lại, để vẫn làm hết nhiệm vụ của một kiếp cây mà ông Trời đã giao cho từ khi có mặt trên trái đất.

           Hiểu được điều đó mẹ Quất không cảm thấy mình thừa thãi và buồn bã, khi so sánh mình với những bạn bè may mắn, xinh đẹp, ngon ngọt hơn. Con đường dẫn tới "sinh, lão, bệnh, tử" chẳng chừa một ai, từ công hầu cho đến giai nhân ai cũng phải chết, tài giỏi, giàu có tới đâu cũng có lúc bỏ lại tất cả, xuôi hai tay mà đi. Lắm khi nghĩ tới phận mình một lúc nào không còn hiện hữu trong cuộc đời, chẳng còn ai nhớ đến mình nữa, lòng mẹ Quất cũng se se buồn, nhưng cứ nhìn quanh thì đâu có gì tồn tại. Những mảng cỏ xanh hôm nào nay đã vàng úa xác xơ, những bông hoa hồng, hoa cẩm chướng xinh đẹp là thế mà chỉ vài hôm đã tàn tạ, héo úa. Lá chưa vàng đã rụng, hoa chưa thắm đã tàn, bao nhiêu điều bày trải trước mắt mẹ Quất há chưa phải là một bài học để ghi nhận sao?

            Bởi thế khi mùa Xuân trở lại thì mẹ Quất vẫn hớn hở cười với gió Xuân, vẫn khoe những chiếc lá non dưới nắng Xuân dịu dàng, vẫn cố đơm những chiếc hoa xinh để khu vườn vẫn thơm ngát mùi cây cỏ. Mẹ Quất tuổi cao nhưng không già, già hay trẻ là ở mình, dẫu có trăm tuổi mà tâm hồn vẫn hồn nhiên, vui vẻ thì đời vẫn trẻ.

              Chỉ có bụi chuối ở góc vườn là chết hẳn, vì nó không sống lại khi mùa Xuân tới. Những tàu lá chuối khô phơ phất bay trong gió, như những  cánh tay dài ngoẵng đang vẫy vẫy giã từ đám bạn bè cây cỏ còn lại trong vườn. Cái vẫy tay như một nhắn gửi, cuộc đời vốn đã vô thường thì sống hay chết cát bụi vẫn chỉ là cát bụi.

                                                                        Nguyên Nhung.

          

          

 

Hoa Nở Chiều Đông
NN_Dec31_14_HoaDao.jpg
 
Chiều Đông trời đất buồn chi lạ
Mưa phùn, gió bấc rét căm căm
Lạc lõng chiều đông hoa hé nở
Rưng rức buồn rơi chiều cuối năm
 
Bao nhiêu nỗi nhớ từ xa xăm
Ùa đến tìm ta như sóng vỗ
Bao chuyện ngày xưa như thác đổ
 Bạc màu ghềnh đá với thời gian
 
 
Ngày ấy qua rồi cơn tao loạn
Cửa nhà, hình ảnh cũng tan hoang
Muốn về tìm lại nơi chốn cũ
Mà tiếc là như ... giấc mộng tàn
 
Cuối năm hoa nở chiều đông lạnh
Vẫn nhoẻn nụ hồng với gió sương
Ước sao được giống cành hoa nhỏ
Lặng lẽ đời trôi giấc mộng thường
 
Nguyên Nhung
 

 


tl_Dec15_snowflowers.jpg

 NGUYÊN NHUNG                                                                

Những Bông Hoa Cuối Mùa

 

Xếp lá thư của Chuyên vào túi áo, Ngọc mỉm cười xa vắng. Lá thư từ miền hỏa tuyến gửi về thành phố đến tay Ngọc vào những ngày đầu tháng mười hai, báo tin Chuyên sắp về  phép trong mùa Giáng Sinh khiến Ngọc nôn nao chờ đợi. Nhớ lại Noel năm ngoái Chuyên không về được vì phải ở lại đơn vị, chỉ có mình Ngọc đi lễ nửa đêm với cô em gái, nghe hồi chuông ngân lan lan trên nóc nhà thờ giăng giăng những ánh đèn chớp tắt, Ngọc lại nhớ Chuyên da diết . . . 
         
Đứng dưới giàn mướp ở góc sân sau, những bóng nắng in xuống nhảy múa đậu trên chiếc áo trắng của Ngọc, tưởng như cũng biết cười với nỗi vui thầm kín của người con gái. Những bông hoa cuối mùa, dù đợt gió cuối năm hơi lành lạnh đã làm những chiếc lá trên giàn ngả  màu vàng úa, đang xào xạc theo từng cơn gió mùa thổi tới.
         
Bầu trời cao và trong, xanh biếc, nắng vẫn óng ả trên những cây cỏ trong vườn. Chuyên về. Ngọc nghe những tiếng reo vui ấy cứ ấm áp ngân mãi trong lòng, như tiếng chuông  đêm giáng sinh năm nào. Rồi Ngọc chợt buồn cười nhớ lại những kỷ niệm vui vui  lần đầu gặp Chuyên mùa Giáng Sinh hai năm về trước, để từ đấy hai đứa đi vào đời nhau như một giấc mơ huyền nhiệm.

  

Chuyên nhập ngũ khi tròn hai mươi tuổi, tâm hồn người thanh niên thời ly loạn đã sớm nhìn ra chiến tranh đang giăng bủa trên quê hương, với những trăn trở mơ ước đất nước được an bình, bạn bè chàng lớp lớp lên đường tòng quân nhập ngũ. Mới đó mà chín tháng quân trường trôi nhanh, đời chinh chiến đưa đẩy Chuyên làm người lính xa nhà, dù chưa có một mối tình nồng đậm ở hậu phương, nhưng vài khuôn mặt dễ thương tuổi học trò vẫn ẩn hiện trong tim người lính

 

Ra đơn vị một thời gian, nhiều lần hành quân thử lửa nơi chiến trường lửa khói, viên đạn địch ghim vào chân bên phải và phá vỡ xương đùi, chàng phải nằm bệnh viện dưỡng thương một thời gian. Vết thương sau khi lành lặn đã để lại cho người lính một kỷ niệm khó quên, thời gian ấy lại rơi đúng vào mùa Giáng Sinh nên Chuyên có được những ngày nghỉ hiếm hoi trong đời lính với mái ấm gia đình. Bây giờ chàng sĩ quan  mặt búng ra sữa ấy trông đã có vẻ lì lợm, chững chạc hơn so với ngày mới bước chân vào lính,  không biết sao lại ngoan ngoãn theo bố mẹ đến nhà Ngọc dự bữa tiệc đêm Giáng Sinh năm ấy. Ngọc và lũ em không làm sao nín  cười được, khi Chuyên mặt đỏ bừng vì ngượng ,  vâng lời cha mẹ khoe chiến thương cho mọi người xem. Mấy đứa  con gái  kéo nhau vào phòng trong rúc rích cười,  con em út đã nghịch ngợm bảo Ngọc:
" May quá chị Ngọc nhỉ? Nếu anh Chuyên bị thương ở trên bụng thì em không biết . . . "
         
Ngọc vội vàng bịt miệng em kịp lúc, rồi mấy chị em lại rúc rích cười với nhau, tha hồ bàn tán về anh chàng sĩ quan trẻ ngượng nghịu ngoài phòng khách. Sau này, khi hai đứa yêu nhau, Ngọc có kể lại chuyện này cho Chuyên nghe, hai đứa cứ rũ ra cười, khi đang yêu họ ríu rít như đôi chim non, mỗi lần về phép là những ngày vui dài bất tận. Đó cũng là những kỷ niệm đẹp ghi đậm trong tâm khảm hai người, và mùa Giáng Sinh năm ấy bỗng  lại là mùa Giáng Sinh đẹp nhất trong đời Ngọc. Để rồi sau  mỗi lần về phép, Chuyên trở ra đơn vị, Ngọc lại hồi hộp chờ đợi và mong mỏi chàng trở về với một xác thân lành lặn.

 

Ngọc tuy không đẹp  nhưng rất có duyên, còn Chuyên thì khỏe mạnh, đầy nam tính. Chàng có cái lì lợm toát ra từ vẻ mặt, từ đôi mắt, bởi vậy lần đầu tiên gặp Chuyên, Ngọc đã nhìn thấy đôi mắt ấy hình như có lửa, đã đốt cháy trái tim Ngọc ngay khoảnh khắc đầu tiên. Người ta gọi đó là "tiếng sét ái tình", dù hai bên gia đình hình như đã có sự sắp xếp để hai đứa gặp nhau. Riêng Ngọc, nàng lại cho là có sự sắp xếp của định mệnh, để  hai người vĩnh viễn bước vào đời nhau đúng vào đêm Chúa sinh ra đời.

                                                   *      *        * 

 

Ngọc đang sửa soạn những món ăn cho đêm Noel thì Chuyên về. Suốt ngày hôm đó Ngọc nôn nao mong đợi, nào ai biết được những gì xảy ra cho người lính. Mãi tới khi thấy Chuyên đứng bên ngưỡng cửa, bộ đồ nhà binh còn bám bụi đường xa, nụ cười rạng rỡ của chàng  khi cô em út đã nhảy ra mừng trước chị, Ngọc mới yên chí là chàng về thật. Một kỳ nghỉ phép vào mùa Giáng Sinh thật hiếm hoi cho đời lính, những cuộc đụng độ bất ngờ trong giờ hưu chiến vẫn có thể giữ Chuyên ở lại đơn vị là chuyện thường. Đánh đổi những ngày phép hiếm hoi này không phải dễ cho một người lính ở đơn vị tác chiến như Chuyên, ròng rã nhiều tháng ngày Ngọc  làm  tượng đá chờ đợi, nàng mới cảm thông được nỗi buồn của những người vợ lính. . .

 

Việc đầu tiên trong kỳ nghỉ phép rất hiếm hoi này, Chuyên chạy vội đến một cửa hàng bách hóa để mua quà Giáng Sinh cho Ngọc. Đứng trước bao nhiêu món quà trưng bày trong tủ kính, cuối cùng chàng đã tìm được món quà cho người yêu, con búp bê thật xinh với dáng đứng và khuôn mặt của cô bé tuổi mười lăm, duyên dáng và ngây thơ như Ngọc. Ngoài ra Chuyên còn mua thêm vài món quà nữa, những món quà này Chuyên dấu kín trong một túi giấy, với một bí ẩn mà chắc rằng chỉ có chàng mới hiểu được ý nghĩa cao đẹp của nó.

  

Sau khi tiếp mẹ nấu nướng những món ăn cho bữa tiệc đêm Giáng Sinh, Ngọc vội vã vào phòng riêng trang điểm chờ Chuyên tới đưa nàng đi chơi đêm Noel. Thành phố vẫn tưng bừng trong không khí rộn rã của đêm Noel, trong khi ấy chắc hẳn có những người lính ở miền xa đang căng mắt chờ đợi những bất an xảy đến cho họ. Đã có một " party " thật vui nhộn do cô bạn thân mời, Ngọc có thể xin phép mẹ để được đi chơi với Chuyên mà không bị nhắc nhở, dặn dò, lo lắng như những lần được bạn bè mời đi ăn sinh nhật trước kia. Hay là bây giờ Ngọc đã lớn, bố mẹ đã hoàn toàn tin tưởng nàng chọn lựa đúng người để gửi gấm yêu thương. Bố vẫn nói đùa với mọi người, có lũ con gái ở trong nhà như bom nổ chậm, lòng ngay ngáy không yên. Mỗi lần thấy con gái đi theo để thưa với bố điều gì, ông lại hồi hộp không biết có phải  tin  báo giờ bom sắp nổ. Bố vui tính hay đùa, chứ ba đứa con gái của ông là ba bông hoa tươi thắm, đã khiến ngôi nhà vang lên những tiếng cười trong trẻo, óng ánh như tia nắng đầu ngày trải trên giàn mướp hương hoa vàng ở mảnh vườn sau.

 

Khi Chuyên trở lại để xin phép mẹ đưa Ngọc đi chơi, chàng thật bảnh bao trong bộ quần  áo "civil" thẳng nếp, tóc tai chải gọn gàng, mày  râu nhẵn nhụi,  khác hẳn khuôn mặt phong trần, xạm nắng trong bộ quân phục chàng mặc lúc ban chiều. Trên tay chàng là gói quà nhỏ tặng Ngọc, ngoài ra còn  một gói to hơn, bọc kín mít trong một túi giấy, bỏ vào chiếc túi ny lông, hơi cồm cộm, Ngọc đoán là giầy dép, hay quần áo.  Món quà ấy Chuyên nhờ Ngọc cầm hộ, khi hai người chở nhau trên chiếc xe Honda, Ngọc chỉ mơ hồ đoán đó là món quà Chuyên dành cho ai đó nhưng không tiện hỏi.
           
Cả tuần nay, Ngọc  băn khoăn chọn chiếc áo dài có màu sắc thích hợp cho đêm Giáng Sinh. Dưới ánh đèn mờ thì màu đỏ huyết dụ sẽ làm khuôn mặt Ngọc nổi lên những đường nét quyến rũ, dù rằng Ngọc rất thích chiếc áo màu thiên thanh, đi trong nắng sẽ làm vẻ tươi thắm của khuôn mặt trở nên dịu dàng hơn, nhưng  dưới ánh đèn qua sự phản chiếu ánh sáng, nó sẽ bị lợt lạt  đi. Băn khoăn mãi, không biết sao Ngọc lại chọn màu áo trắng học trò, có thêu những chiếc hoa xinh màu xanh nhạt dưới hai tà áo. Ngọc thấy sự giản dị của màu áo lại khiến mình có nét ngây thơ của một cô em gái hậu phương, có lẽ vì Chuyên là một người lính? Ý nghĩ ấy khiến Ngọc mỉm cười hoài một mình, chỉ màu áo mà cũng làm những kẻ đang yêu nghĩ  ngợi mãi, có phải vì Ngọc vẫn nghĩ tới Chuyên với một tâm tình trong sáng của tuổi trẻ còn nguyên vẹn.

 

Trên đường phố đã nhộn nhịp người qua lại, xe cộ dập dìu như mắc cửi, nhưng sao  trong đôi mắt Chuyên, Ngọc thấy niềm vui như vẫn phảng phất một nỗi buồn. Ngọc không dám hỏi Chuyên về những điều thầm kín đó, và khi thấy Chuyên chở mình đi về hướng ngoại ô của thành phố, qua những con đường đầy ổ gà chỉ có ánh đèn đường vàng vọt, chen chúc những căn nhà ván lợp lá nghèo nàn khuất  dưới tàng cây tối thẫm, Ngọc lại bâng quơ nghĩ tới những chuyện không vui, mà vẫn không đủ can đảm hỏi Chuyên tại sao lại tới đó. Trong lòng Ngọc nhen nhúm chút buồn bã, vì Ngọc tưởng một đêm Noel trọn vẹn của hai đứa, phải là những tiếng cười rộn rã với bạn bè, màu rượu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh, phải là những bước chân quấn quýt dìu nhau trong thế giới cuả âm nhạc, những bài ca Giáng Sinh vang vang trên đường phố. Và cuối cùng, trong không khí ấm áp của ngôi giáo đường rền rền tiếng chuông ngân, hai đứa sẽ thì thầm với nhau những lời ước nguyện đẹp đẽ.
            
Đêm Noel là đêm an bình mà ở một góc trời xa vẫn bừng lên ánh hỏa châu trên vùng trời đen thẫm, có điều gì khắc khoải trong tâm hồn Ngọc khi nghĩ  sau những ngày nghỉ phép thần tiên, Chuyên lại trở ra đơn vị. Lại những chiến trường xa gian khổ, lại những bất trắc rình rập quanh đời sống của chàng, Ngọc cố xua đuổi những nỗi buồn vô cớ để hưởng trọn tình yêu đêm giáng sinh với người yêu. Mãi tới khi chiếc xe Honda quẹo vào một con ngõ tráng xi măng ngoằn nghoèo, con hẻm sâu và tối, thỉnh thoảng có một nhà treo đèn ngôi sao trước cửa, như dấu hiệu của một mùa Giáng Sinh buồn bã nơi những gia đình nghèo khổ và cô đơn

 

Nỗi thất vọng và buồn bã lại nhen nhúm trong lòng cô gái trẻ, Ngọc cứ bâng khuâng tự hỏi,  Chuyên định làm gì mà hoang phí những giờ phút quý hiếm của lần về phép, với đêm Giáng Sinh tuyệt vời như  vậy? Ý tưởng ấy cứ miên man trong lòng Ngọc, cho đến khi Chuyên ngừng xe trước thềm một căn nhà đơn sơ, cửa vẫn mở để Ngọc nhìn thấy tất cả sự nghèo nàn của nó.

 

Duy nhất một ngọn đèn trần vàng úa tỏa xuống những đồ đạc rẻ tiền . Trên chiếc giường con kê ở góc nhà, hai đứa trẻ con đang nằm chơi với nhau, bi bô nói chuyện. Và ở chiếc võng phía bên kia, theo tiếng võng kẽo kẹt đưa có tiếng người mẹ ru con buồn não nuột. Chắc người mẹ còn trẻ, vì Ngọc nghe tiếng ru tuy rất buồn nhưng âm thanh còn trong trẻo, không khí phảng phất chút hiu quạnh với  bức ảnh của người đàn ông mặc quân phục còn khá trẻ, đặt trên bàn thờ  ở giữa nhà dưới ngọn đèn dầu leo lét.

 

Mãi tới khi Chuyên cất tiếng gọi, thiếu phụ ngồi nhỏm dậy quấn vội mái tóc mây, đứa bé bồng trên tay mở to đôi mắt trong veo nhìn hai người xa lạ chực khóc, và hai đứa bé đang chơi trên chiếc giường nhỏ chạy ùa tới nhìn khách chăm chăm. Ngọc đã gần  đoán hiểu ra được sự thăm viếng đột ngột của Chuyên dành cho gia đình một người lính cùng đơn vị, khi anh ta đã nằm xuống mấy tháng trước đây trong một cuộc đụng độ giữa hai bên.

 

Người phụ nữ còn trẻ, chắc dưới tuổi ba mươi, ngạc nhiên vì sự thăm viếng khá bất ngờ của người sĩ quan chỉ huy cùng đơn vị với  chồng mình và cô bạn trẻ, trong chiếc áo dài trắng đơn sơ. Có lẽ hình ảnh ấy khiến chị nhớ đến hình ảnh một thời của mình, và cái chết quá mới mẻ của chồng khiến chị vừa cảm động, vừa tủi thân. Trong tiếng nói cuả chị, Ngọc nghe như có chút nghẹn ngào khiến nàng cảm động:

 "Chào Trung  Uý, chào cô . . . "
           
Rồi chị nín bặt như sợ nói thêm sẽ có thể bật lên khóc. Để tránh sự xúc động, Chuyên nắm tay hai đứa bé lôi vào lòng xoa đầu chúng một cách trìu mến, rồi chàng giơ tay bồng đứa bé độ bảy, tám tháng trên tay chị. Mấy đứa nhỏ quấn ngay lấy chàng, như đã lâu lắm rồi chúng chưa được nắm lấy bàn tay yêu thương của một người nào giống như cha chúng. Chuyên vội giới thiệu với Ngọc:

 

"Đây là chị Luân, trước kia anh Luân cùng đơn vị với anh. Còn đây là Ngọc, em gái hậu phương của tôi đấy."

 

Chàng cố pha trò cho không khí bớt phần buồn bã, vì nhìn những đứa bé còn nhỏ như vậy, Ngọc hiểu anh Luân chỉ ra đi ít lâu nay, và cái buồn hình như còn y nguyên trong lòng người vợ. Chị Luân định chạy đi tìm nước mời khách, nhưng Chuyên đã ngăn lại, rồi hướng về mấy đứa bé, đang nhìn chàng bằng những đôi mắt đen lay láy. Chuyên nói:

 

"Chú có quà cho các cháu đây. Nguyên năm tuổi, học mẫu giáo rồi phải không, chú cho con hộp viết chì màu để tô hình nhé. Bé Tiên thì lại làm cô tiên, cái áo đầm này đẹp chưa? Nào em bé ra đây, bé thế này thì chỉ có sờ tí mẹ thôi, chú cho bé con thỏ biết nhảy để ba anh em chơi chung với nhau nè!"
          
Hai đứa lớn mừng rỡ xà vào lòng Chuyên, bây giờ mới ríu rít kể chuyện. Những chuyện của trẻ con thật dễ thương, điều thương cảm hơn cả là chúng chưa hiểu gì về sự vắng mặt của người cha. Ngọc đã phải bậm môi để đừng chảy nước mắt khi nghe thằng Nguyên nhắc về cha nó, với nỗi mong đợi của đứa bé ao ước được gặp bố, sau nhiều tháng chưa thấy bố về phép như mọi khi. Nó thỏ thẻ hỏi Chuyên: 
 
"Chừng nào bố con về hở chú?"
          
Chuyên vội quay đi để tránh cái nhìn tha thiết trong đôi mắt trẻ thơ của thằng bé:

 

"Bố  còn bận lắm chưa về được, nhưng bố nhắn chú về mua quà cho con và mấy em rồi. Con phải ngoan, nhớ trông em cho mẹ, kỳ tới chú về bố con sẽ gửi quà nhiều hơn."

 

Những câu nói dối để xoa dịu nỗi mong đợi nơi thằng bé năm tuổi, khiến người lớn nghe thắt cả lòng. Đằng sau những vinh quang của vòng hoa tươi thắm quàng lên cổ áo người lính trở về từ mặt trận, những khuôn mặt rắn rỏi và kiêu hùng  trong tiếng nhạc rộn ràng kia, có bao giờ lại thiếu những hồi kèn truy điệu thiết tha, ngân lên rồi đọng lại trong lòng người ở lại sự vắng mặt của người đã nằm xuống, không bao giờ trở về. 
          
Chuyên trở lại câu chuyện với chị Luân, người góa phụ còn xuân sắc với ba đứa con thơ trên tay, Ngọc không hiểu chị có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua cái chênh vênh của cuộc sống chật vật và cô đơn ấy được bao lâu. Cho dù thời gian qua đi, một mai đất nước có thanh bình, nhưng chiến tranh đã để lại những dấu tích bi thảm trên thân phận người vợ lính, những đứa bé không cha dẫy đầy trên mảnh đất quê hương. Nghĩ  tới đây, rồi nhìn thấy đôi mắt ướt của người góa phụ còn trẻ, Ngọc bỗng rùng mình , và mắt nàng cũng  rưng rưng một màn lệ mỏng . . . 
          
Tuy nhiên, mùa Giáng Sinh năm ấy lại là mùa Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Ngọc, nó đã trở thành một kỷ niệm đẹp của hai người, để Ngọc có dịp đánh giá tâm  hồn Chuyên sâu sắc hơn. "Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè", có phải đấy là giá trị duy nhất mà một người Lính sau bao nhiêu lần thử thách với cái chết còn giữ được, ngay cả mạng sống của họ. Bây giờ Ngọc mới thực sự nhìn ra tâm hồn cuả người yêu, rồi nhận ra những cảnh đời cô đơn, cùng khổ đang nhan nhản xảy ra xung quanh nàng, tự nhiên Ngọc không còn thiết tha gì với những cảnh xa hoa, hào nhoáng  ở ngoài kia, nó như  những mảnh vải màu sắc rực rỡ, vá lên một chiếc áo rách tả tơi. . . .

 

*    *    *

 

Năm nay, mùa Giáng Sinh lại tới, Chuyên và Ngọc đã về với nhau được hơn ba mươi năm, đôi bạn tình đã trải qua nhiều đau khổ với cảnh tan nát của nước non. Chuyên may mắn thoát chết trong những ngày chinh chiến gian khổ, nhưng sau đó chàng nếm thêm nhiều năm tù tội khi đất nước hòa bình. Hoàn cảnh lại xô đẩy Ngọc giống như chị Luân, vợ một người lính đã nằm xuống, nhưng có điều là nàng vẫn còn niềm hy vọng, vì cuối cùng Chuyên cũng trở về với Ngọc và các con. Chẳng hiểu sao định mệnh cứ  đưa đẩy đất nước vào những nghịch lý triền miên như vậy, và điều ấy khiến con người càng ngày càng xa cách nhau hơn.
            
Rồi dài theo những bước chân và sự xoay vần của lịch sử, hai vợ chồng và mấy đứa con lại trôi nổi nơi xứ lạ quê người. Trong mảnh sân vuông vức, Ngọc vẫn trồng một giàn mướp đằng sau vườn để nhớ tới mảnh vườn ở quê nhà năm xưa. Nhìn tia nắng ban mai chiếu ánh sáng qua giàn lá xanh như ngọc , Ngọc lại không quên được những kỷ niệm êm đềm của những mùa Giáng Sinh xưa. Những đợt gió cuối mùa ở quê người, là cái dữ dội của con dao cắt vào ruột kẻ tha hương, chứ không phải cái hiu hắt dịu êm của chút gió cuối năm ở quê nhà những mùa Noel  cũ.

 

Trời khi nóng khi lạnh, khiến giàn mướp đã xơ xác vẫn còn những chiếc lá thưa thớt xào xạc thoảng qua tai Ngọc, như  tiếng ngân của một cung đàn đềm êm trong quá khứ. Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng mỗi khi mùa Giáng Sinh trở lại.
           
Ở góc vườn bên kia, bóng Chuyên lom khom xới đất để sửa soạn trồng những cây hoa pensée mùa Đông. Một thời tuổi trẻ đã qua rồi, nhưng sao lòng Ngọc vẫn ấm áp khi nhớ lại đêm Giáng Sinh năm ấy, chính vì thế trong mắt nàng Chuyên vẫn là Chuyên của những năm tháng cũ. Nắng đã lên rực rỡ, chỉ còn Ngọc đứng dưới giàn mướp đã thưa thớt lá. Nhìn bóng nắng  nhảy múa trên  vai áo mình,  Ngọc tự nhiên nhớ lại mùa Giáng Sinh năm xưa, và mỉm cười vu vơ như thuở nàng còn là người yêu của lính.
     
 NGUYÊN NHUNG
 Mùa Giáng Sinh

 

NN_N0v17_14_CuonSach.jpg

"Mời thưởng thức bài thơ PPS Về Cần Thơ, thơ Nguyên Nhung, PPS với những hình ảnh mới nhất của Cần Thơ năm 2014

- NN"

 
 
 

 

Ve Can Tho tho
Nguyen Nhung.pps
 

View File

 

Về Cần Thơ
 
Từ xa tôi về thăm lại Cần Thơ
Vào  tháng Năm đúng mùa hoa phượng trổ
Ngôi trường cũ bây giờ sao lạ quá
Cần Thơ bây giờ không giống ngày xưa
 
Từ bến Ninh Kiều theo chuyến đò đưa
Con nuớc lớn về Cái Răng chợ nổi
Sông nước bao la gió lồng lộng thổi
Qua những  địa danh quen thuộc một thời
 
Bao chiếc ghe buôn cây trái gọi mời
Xoài, ổi, mãng cầu, sầu riêng, vú sữa
Cồn Ấu, Cái Răng, Phong Điền, Bang Thạch
Rải rác ven bờ ruộng lúa vườn cây
 
Hôm nay không ngờ tôi cũng về đây
Con sông rộng chia thành bao nhánh nhỏ
Cứ thong thả ngồi trên xuồng ba lá
Mình đi về những làng mạc xa xa
 
Cây trái ruộng vườn màu mỡ phù sa
Hai bên bờ sông bóng dừa lơi lả
Vẫn không thiếu những căn nhà mái lá
Thật  tội tình nằm nép cạnh bờ mương
 
Quê của ai mà tôi cứ luyến thương
Con ốc con cua cũng thành đặc sản
Dân quê nhịn thèm một đời vất vả
Sống cách nào khi vật giá leo thang?
 
Tôi đã về thăm chợ Nổi Cái Răng
Ngồi gần bên anh, ngồi gần bên chị
Chị mù loà đưa bàn tay sờ soạng
Nắm tay tôi khen mũm mĩm tròn vo
 
Nhớ lại ngày xưa lứa tuổi học trò
Có người  bảo tôi xinh mà ...sổ sữa
Ôi kỷ niệm nay đã không còn nữa
Cần Thơ bây giờ ... không phải ngày xưa
 
 Giã biệt Cần Thơ, giã biệt Cần Thơ!
 
Nguyên Nhung 2014

 

Chiếc Lá ...

Thơ Nguyên Nhung

 

Có đôi khi tôi hỏi mình là ai

Từ đâu tới và còn đi đâu nữa?

Đêm hôm qua chắc ngoài trời nổi gió

Vì sáng nay nhiều chiếc lá vàng rơi

 

Nhìn lá rơi tôi lại thấy ngậm ngùi

Như đâu đó, vài người thân đã khuất

Đặt bàn tay lên trái tim thổn thức

Những gì qua không lấy lại bao giờ

 

Như trở về mình vẫn thấy dòng sông

Nơi bến cũ thuyền xưa không còn nữa

Tôi nhìn mãi từng đường cong lá úa

Nghĩ về Cha, về Mẹ, về Anh Em

 

Đường tôi đi sao chỉ thấy dài thêm

Những khắc khoải của một đời đã sống

Một nửa đời còn đong đầy nỗi nhớ

Một nửa đời còn lại để lãng quên

 

Một ngày nào sẽ không nhớ nổi tên

Của những người quen mà mình đã biết

Và như thế ...

Lá cũng có một ngày để chết

Cho cành khô lại hé những lộc non

Để cuộc đời sẽ mãi mãi xanh hơn

Thì lá rớt đâu phải điều đáng tiếc

 

Có một điều, chỉ một điều tôi  biết

Khi  ngước  nhìn theo một áng mây trôi

Một cánh chim đang xoãi cánh chơi vơi

Bay mải miết dường như không biết mỏi

Tôi đã tự trả lời một câu hỏi

Đời vẫn còn đẹp tựa một bài thơ

Có gì đâu, sao ta phải hững hờ ?!!

Nguyên Nhung 

 

Dương Hồng Thủy cảm tác: 

Chiếc Lá

(từ Chiếc Lá của Nguyên Nhung)

 

Chồi xanh mơn mởn lông tơ

Cho con ong nhỏ ôm bờ lá cong

Sương bay ươm nhẹ nắng hồng

Sắc khoe màu biếc thong dong dịu dàng.

 

Bng nhiên hoang vắng điêu tàn

Phất phơ từng đợt lá vàng nhẹ bay

Duyên thừa số phận lắt lay

Thu sang mưa đổ xác đầy bơ vơ.

 

Sang mùa như mối tình hờ

Lặng im lá ngủ bên bờ quạnh hiu

Lá bay khi gió đổi chiều

Vàng lên lá rụng dập dìu lối quen.

 

Thương cho chiếc lá lỡ làng

Tử sinh sớm tối nhọc nhằn riêng mang

Bên đường rộn tiếng chuông ngân

Tin đưa về với mộ phần cỏ hoa.

 

Lá xanh cuộc sống chan hòa

Chiều nào mõi cánh cứ tà tà rơi

Lá còn quyến luyến cuộc đời

Hãy bay về phía chân trời nắng lên.

 

Dương hồng Thủy

( 25/10/2014) 

 

 

 

"Thơ & Hình Ảnh: Tiếng Sóng Biển
Tiếng hát Don Hồ



 

Tieng Song Bien _ NN.pps

Tiếng Sóng Biển

NN_Jun23_tiengsongbien.jpg 

Ta về thăm lại biển quê hương

Đắng lòng nghe biển khóc bi thương

Thăm thẳm hồn thiêng sông núi gọi

Sóng vỗ từng cơn khúc đoạn trường

 

Thương quá bóng tàu thật lẻ loi

Lầm lũi chiều sương tím cả trời

Nghìn xa biển khóc đau từng đoạn

Biển của quê mình sẽ mất thôi!

 

Ta có về nhưng chẳng mấy vui

Chỉ thấy lòng ta rất ngậm ngùi

Bãi vắng sóng xô buồn vô tận

Vài con tàu nhỏ vẫn ra khơi

 

Đêm nằm thao thức nghe biển khóc

Ta hiểu rằng lòng biển rất đau

Bao người lòng cũng đau như biển

Đất nuớc quay cuồng cuộc bể dâu

 

Ta về gom gió mười phương lại

Đánh tan thành quách lũ yêu ma

Cho biển quê hương yên bình lại

Biển của Ta, biển mãi của Ta.

 

Kỷ niệm mùa hè thăm Đà Nẵng.

Tháng 5/2014

Viếng mộ cụ PTG & trở về mái trường xưa

NN_Jun9_PTGpassage.jpg
   

Nguyên Nhung has shared a video with you on YouTube


 (YouTube do Nguyên Nhung thực hiện nhân chuyến về quê May 2014)

 

 

 

 Xin nhấn chuột vào hàng chữ tím dưới đây để xem:


  


 

Viếng mộ cụ PTG & trở về mái trường xưa

 

________________________________________________________________________________

 

Xin giới thiệu chương trình Nhạc & Thơ Nguyên Nhung:

https://soundcloud.com/nguyen-nhung-1/tho-nhac

  NN_jan22_2014_hoadao.JPG

Dáng Xuân

 

Hôm nay mới thấy dáng Xuân về

Sau những ngày Đông lạnh tái tê

Hoa đào dăm nụ vừa nở hé

Cây lá trong vườn bớt ủ ê

 

Đón Xuân viễn xứ sao vẫn nhớ

Mừng Tết quê nhà chẳng thể quên

Đì đùng tiếng pháo vang khắp ngõ

Nụ cười, ánh mắt lũ trẻ thơ

 

Quê người Xuân đến đào đơm nụ

Lại nhớ cội mai trước cửa nhà

Dáng Xuân lặng lẽ ngoài song cửa

Đào cũng vì Xuân mà nở hoa 

 

Thêm một mùa Xuân nơi xứ xa

Nghe  vẫn nao nao nỗi nhớ nhà

Đốt nén nhang trầm lòng tưởng nhớ

Trong khói hương bay bóng mẹ gìa

 

Nguyên Nhung

Truyện Tết Nguyên Nhung: GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN 

 

                                    View file: GIACMONGDEMXUAN- nn.pps

                                                                  NN_Jan24_GIACMONGDEMXUAN.jpg

THƠ XUÂN

NN_jan21_14_NgayXuan_NguyenNhung.jpg

NN_Jan21_14_HoaDao.jpg

 

Ngược Giòng

 

Nguyên Nhung

 

 

              Hai người đàn bà đứng trước quầy tính tiền của một tiệm thực phẩm Á Châu, họ đang trao đổi với nhau về cách làm món bún chả. Nếu cứ nhìn những thực phẩm khô và rau tươi trên quày hàng, người ta liền liên tưởng đến những món ăn Việt Nam quen thuộc trên mâm cơm hằng ngày của người Việt

 

                Nhưng lạ lắm, một người Mỹ, một người Việt,  hai người này rõ ràng là một đôi bạn, vì họ đang trò chuyện cười nói ríu rít. Người đàn bà Mỹ khoảng hơn bốn mươi, đôi mắt xanh hiền hậu với mái tóc vàng óng, nước da trắng lốm đốm những điểm tàn nhang trên đôi má phơn phớt hồng. Còn người phụ nữ Á Ðông là một người Việt Nam, dáng người nhỏ nhắn, vẻ mặt xinh tươi, ăn mặc thật giản dị. Hai người lại trao đổi tiếp tục câu chuyện dở dang, người đàn bà Mỹ lắng nghe với tất cả sự chăm chú, hình như bà ta dự định sẽ làm thêm món bún chả vào ngày lễ Tạ Ơn năm nay,bởi vì món gà Tây đút lò và món bánh bí đỏ tuy thích hợp cho đám trẻ con và gia đình bên ngoại đến chơi, lại vẫn không hợp khẩu vị với bà mẹ chồng  và hai cô em gái.   

        

                    Cứ nghe hai người nói chuyện thì người ta cũng đoán ra bản tính của hai dân tộc đã có tý chút khác nhau khi làm một việc gì. Người Mỹ có thói quen làm theo sách vở, còn người Việt lại chỉ làm theo cảm tính hay bằng sự hiểu biết quen thuộc hằng ngày. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ cũng đồng ý với nhau rằng cái lưỡi của loài người là dụng cụ đo lường chính xác nhất, để biết rằng món ăn ấy ngon hay dở, có thể làm hài lòng khẩu vị hết thảy mọi người. Người phụ nữ Việt còn hóm hỉnh bảo bạn, cũng không nên tin hoàn toàn vào cái lưỡi của mình, vì còn tùy theo lúc ấy cái bụng no hay đói, hay khi người không được khỏe, sự nêm nếm cũng vì thế sẽ không chính xác như mình tưởng.

 

              Hóa ra, hai người này là hai người bạn cùng xóm,hay đi chung nhà thờ mỗi sáng chủ nhật. Họ kết thân với nhau cũng chỉ vì có cùng hoàn cảnh khá ngộ nghĩnh, một người phụ nữ Mỹ có chồng Việt Nam và một người đàn bà Việt Nam lấy chồng Mỹ. Ðó là lý do khiến họ tìm đến với nhau để trao đổi một vài khía cạnh khác biệt giữa con người , đối với cuộc hôn nhân dị chủng thì dẫu có hòa hợp bao nhiêu, vẫn xảy ra những điều không hiểu nổi về tâm hồn cũng như văn hóa của hai dân tộc.

 

                                   *         *          *

 

            " Chị biết không? Tôi gặp nhà tôi khi chúng tôi học cùng một phân khoa ở trường Ðại Học Clear Lake,nơi ấy có một cái hồ rất đẹp và cũng là thành phố mà gia đình tôi đang cư ngụ. Tôi cũng không hiểu tại sao chúng tôi lại trở thành đôi bạn thân, rồi yêu nhau lúc nào không biết nữa.

           

            Anh ấy sang đây có một mình, tôi nghe anh  kể về chuyến vượt biển cam go của anh, và những thảm cảnh xảy ra với những người vượt biển tìm tự do, tôi đã không ngăn được xúc động. Hồi ấy, tôi đã ngạc nhiên mỗi lần thấy anh chăm chú theo dõi tin tức, khi nghe có những thuyền nhân được vào định cư ở Hoa Kỳ, tôi đã hỏi anh rằng tại sao anh và những người đồng xứ lại có thể bỏ quê hương mà đi. Khi  nghe anh cắt nghĩa tới hai chữ Tự Do thì tôi hiểu ngay, thông cảm với anh ấy liền vì từ lúc còn nhỏ, mới bắt đầu đi học, chúng tôi đã được biết thế nào là quyền  tự do của một con người.

 

             Hóa ra, ở quê hương anh con người bị tước đoạt nhiều thứ tự do  mà tôi tưởng nó phải được tôn trọng bất cứ ở đâu,  nơi nào có con người là phải được hưởng đồng đều như nhau. Ngoài giờ học, hai đứa tôi cùng làm thêm ở thư viện, có điều kiện gần gũi nhau  nên chúng tôi trở thành một đôi bạn thân. Nhìn lối làm việc chăm chỉ của anh, cần mẫn, ngăn nắp, tôi thật sự bị rung cảm với con người đầy vẻ chịu đựng đó. Bản tính anh hiền hòa, dường như trong đôi mắt đen kia còn chất chứa một nỗi buồn sâu kín nào đó mà tôi không hiểu nổi, khi anh ngồi hằng giờ nhìn ra mặt hồ sóng lăn tăn, im lặng như có một cõi riêng mà tôi rất muốn chia xẻ.

 

          Người Mỹ chúng tôi là thế. Chúng tôi không chủ trương xâm phạm vào đời sống riêng tư của nhau, nhưng nhìn nét u uẩn trong đôi mắt anh với dáng ngồi lặng lẽ hằng giờ, tôi đoán anh đau khổ mà nếu anh cho phép, tôi rất muốn chia xẻ. Anh càng buồn tôi càng băn khoăn, và từ nỗi băn khoăn đó tôi đã yêu anh ấy, khi ra trường thì hai đứa quyết định lấy nhau.

 

           Vào mùa hè, tôi thường rủ anh đi biển với gia đình tôi. Lúc ngồi bên ghềnh đá, nhìn từng cơn sóng vỗ vào bờ, tôi thường bắt gặp anh chìm đắm trong một nỗi niềm xa xăm, dường như mỗi lần tới biển, anh thường bị ám ảnh vì một điều gì không xóa được trong tâm khảm. Tôi chưa hề xa đất nước này bao giờ, chỉ có những chuyến du lịch ngắn đầy vui tươi với gia đình, cho nên hồi ấy tôi chưa thể thông cảm hết được nỗi nhớ nhà của một kẻ xa quê, mà anh ấy gọi là tình hoài hương.

 

            Thật ra, khi yêu anh, tôi cũng bị ảnh hưởng phần nào lối suy nghĩ của một tâm hồn Á Ðông, thì ra nó có nhiều điều phức tạp mà nếu không có tình yêu, người ta không dễ gì hòa hợp được với nhau để trở thành một. Cuối cùng khi hai đứa lấy nhau, tôi mới thực sự thấy được sự ngược nguồn của những giòng sông. Anh qua đây có một mình, gia đình còn ở lại Việt Nam, cho nên khi chấp nhận lấy anh, là tôi cũng phải chấp nhận luôn việc chia xẻ gánh nặng vật chất với gia đình ở bên kia.

 

           Tuy nhiên, tôi có nhận thấy điều này, khi cho rằng  chia xẻ chỉ là tự nguyện và tùy theo khả năng, chứ còn lúc biến nó thành bổn phận thì nặng nề quá. Tôi thẳng thắn bày tỏ với anh điều này, nhưng không ngờ tôi thực sự bị "xốc" khi anh phản kháng lại tôi ngay lập tức, mà nếu không khéo thì cuộc hôn nhân có mòi bị tan vỡ. Biết làm thế nào bây giờ, vì người Mỹ chúng tôi nghĩ khác. Tôi không ích kỷ để bỏ mặc anh với những điều trăn trở với gia đình ở bên kia, nhưng tôi cũng không thể bằng lòng khi anh phải lo lắng quá  nhiều như vậy.

 

            Hình như người Việt của chị có quan niệm hướng về gia đình , và những người thân yêu của họ. Cũng vì thế mà đi hơi xa mức giới hạn của họ trong đời sống gia đình của người khác. Cái này chị cho tôi nói hết nghe, vì theo tôi nó có hợp lý và cũng bất hợp lý theo cách nhìn của một người Mỹ. Nó có cái hay vì nó biểu hiện được sự chia xẻ và tình thương yêu của một gia đình thuần nhất, nhưng mà ... biết nói thế nào nhỉ, ăn nhiều quá cũng mất ngon, mà nói nhiều quá cũng có thể lỡ lời ( câu này tôi học được từ chồng tôi đấy nhen chị). Tuy vậy,  theo tôi mình phải tìm ra một giải pháp để quân bình giữa hai cái với nhau, để không vì được cái này mà lại mất cái kia đó mà.

 

            Từ ngày lấy anh ấy đến nay, tôi thấy mình đổi khác nhiều lắm. Một cuộc hôn nhân dị chủng, nhưng giờ đây ngôn ngữ không là vấn đề nữa vì chúng tôi đã có thể hiểu nhau sau khi cùng nhau ngồi xuống nói chuyện, thành thật bày tỏ cho nhau hiểu nỗi khó khăn vì khác biệt tư tưởng , và cách hành xử sao cho dung hòa với nhau để gia đình hạnh phúc. Cuối cùng thì anh ấy cũng làm đầy đủ giấy tờ để mang gia đình sang bên này, sau khi nói với tôi rằng nếu không làm được điều đó, anh cảm thấy như mình có lỗi, khi việc ra đi tìm Tự Do của anh, là do sự hy sinh của tất cả người thân trong gia đình. Chúng tôi đã hoàn toàn hiểu nhau, và tôi cũng hiểu khi chấp nhận làm vợ anh, là tôi cũng phải hy sinh phần nào chút riêng tư để cùng anh ấy làm tròn bổn phận.

 

            Ba anh ấy đã qua đời, nhưng mẹ anh ấy lại thật hiền. Chúng tôi đã một lần về thăm nhà ở Việt Nam, nhìn bà cụ già ôm mấy cháu nội hai giòng máu vào lòng, nụ cười móm mém, đôi mắt bà đầy những thương yêu, tôi nghĩ mình không thể ích kỷ để chỉ lo cho hạnh phúc của riêng mình, mà phải cùng anh ấy giúp đỡ mẹ anh và các em  của anh. Bây giờ mẹ anh và hai cô em gái đã sang đây, mới đầu tôi cũng hơi lúng túng khi không biết giải quyết thế nào để cuộc sống đừng bị xáo trộn. Nhưng chị à, nhà tôi anh ấy cũng thật tế nhị, cho nên vì thế mà chưa có gì đáng tiếc xảy ra. Hai cô em đã đi làm, họ sống chung với mẹ trong một căn chung cư hai phòng ngủ, và bây giờ khi tôi muốn đi đâu xa mà không dẫn con theo, có thể gửi bé út cho bà nội và hai cô trông giùm.

 

             Hồi gia đình anh ấy chưa sang, tôi chỉ hay làm thức ăn theo lối Mỹ để cả nhà cùng ăn. Sau này, anh ấy dẫn tôi và các con đi ăn nhà hàng Việt Nam, tôi lại thấy  thích những món ăn Việt. Thế là tôi đề nghị anh ấy chỉ dẫn, và cho tới khi gặp chị, tôi mới hoàn toàn thực hiện được cho thật hoàn chỉnh. Ðàn ông mà chị, anh ấy nói hồi còn ở nhà, anh ấy có bao giờ phải lo gì đến việc bếp núc, đã có mẹ, chị hay em gái làm tất cả. Người Việt của chị hình như quý con trai hơn con gái, cho nên cách đối xử cũng hơi bất công đấy nha! Tôi không hoàn toàn đồng ý chuyện này đâu, vì con trai hay con gái cũng là người mà thôi, có lẽ vì vậy mà người ta khó có thể tìm được cái họ gọi là dân chủ ở nước chị, vì trong phạm vi nhỏ bé gia đình đã không thực hiện được dân chủ rồi, huống gì cho một quốc gia  thì chuyện ấy lại càng khó.

 

               Tuần trước, chị chỉ cho tôi làm món chả cá Thăng Long  theo kiểu Hà Nội. Chị biết không? Hôm ấy nhà tôi ngạc nhiên lắm, vì anh không thể ngờ tôi lại có thể làm được một món ăn cầu kỳ như vậy. Cá ướp nghệ, riềng, mẻ, mắm tôm, thêm ít gia vị mà nướng trên lửa than thơm phức, sau đó lại rắc thìa là sắt nhỏ lên mặt trước khi ăn, cùng những thứ rau phải có để ăn kèm với bánh tráng cuộn lại, chấm nước mắm chua ngọt hay mắm tôm chanh ớt. Tuyệt lắm chị à, nhưng lúc phải pha chế món mắm để ăn với nó, thú thật với chị tôi ớn quá. Sao lại có thứ mắm gì nặng mùi quá sức như vậy, tôi không đủ can đảm để làm món đó ở trong nhà, vì nó sẽ bám vào thảm và đồ đạc, cho nên tôi phải nhờ chị giúp là vậy.

             

                  Người ta bảo " tình yêu đi qua bao tử ". Mới nghe thì có vẻ nặng mùi vật chất, nhưng công nhận từ hồi tôi biết nấu nướng, thỉnh thoảng hay làm những món ăn mà chồng tôi thích, tôi thấy hình như anh ấy thương tôi nhiều hơn, hạnh phúc nhiều hơn. Thứ nhất là được ăn ngon, thứ hai là anh ấy cũng nhận thấy được tình yêu của tôi dành cho anh ấy và gia đình, đã phải bỏ nhiều thì giờ hiếm hoi trong cuộc sống vật lộn với vật chất của xứ này, khi thực hiện những bữa ăn tốn kém khá nhiều thì giờ như vậy. Lũ con tôi mê món cơm chiên với chả giò nhất hạng, người Tàu cũng có món này nhưng chúng không thích vì nó trộn nhiều bắp cải và món cơm chiên thì nhiều dầu quá.

 

         Lễ Tạ Ơn năm nay có gia đình bên ngoại cuả mấy nhỏ đến chơi, nghe tôi kể về món bún chả ai cũng tò mò muốn được thưởng thức. Riêng mẹ chồng tôi  chắc hẳn bà cụ sẽ ngạc nhiên lắm, nếu cần hai cô em chồng sẽ phụ tôi một tay để làm món này, cách pha nước mắm chị chỉ hôm nọ, ngon đến nỗi ăn xong rồi húp luôn nữa đó.  Mẹ chồng tôi chắc sẽ không thể ngờ rằng con dâu Mỹ cũng biết chiều mẹ chồng như phụ nữ Việt Nam vậy.”

 

*        *         *

         

 " Ðúng ra tôi không thích lấy chồng ngoại quốc đâu, nhất là lúc còn ở quê nhà, người xứ sở tôi hay nhìn những người phụ nữ lấy chồng nước ngoài với cái nhìn không đẹp. Ðừng trách họ nghe chị, vì thời đó họ còn bảo thủ lắm, tư tưởng phong kiến vẫn ít nhiều còn tồn tại trong những gia đình Việt Nam. Với lại, hồi đó là thời kỳ chiến tranh, đa số những người đàn ông đến nước tôi chỉ đi tìm đàn bà để giải quyết sinh lý, ít có những cuộc tình trọn nghĩa yêu thương. Cho đến bây giờ, trên xứ sở này, vẫn có nhiều gia đình phản đối con cái khi kết hôn với người nước ngoài.

 

           Ðiều ấy cũng dễ hiểu thôi, vì nói cho cùng thì sự khác biệt về phong tục cũng như văn hóa dễ đưa đến sự đổ vỡ. Tôi công nhận điều này không phải là họ hoàn toàn sai, vì chính tôi lắm lúc cũng vẫn ngược nguồn với nhà tôi để trở về với những gì của dân tộc, nhất là về mặt tư tưởng thì thật sự có khác nhau đó, khi tôi đã được ảnh hưởng nó từ hồi còn thơ bé.

 

            Ðôi khi người ta vẫn có cái nhìn thiển cận khi đánh giá một sự việc hời hợt bên ngoài, chứ thật ra tôi rất cảm phục những người phụ nữ Mỹ như chị. Chị có thể thay anh làm được tất cả những việc đòi hỏi sức khỏe của người đàn ông, sửa chữa nhà cửa, xốc vác nhiều việc nặng nhọc mà người đàn bà xứ tôi không làm được, vì quan niệm đàn bà "chân yếu tay mềm". Thế nhưng những việc nấu nướng, thêu thùa, vá

may tỉ mỉ thì công nhận người đàn bà Á Ðông có năng khiếu hơn, và họ thường tự hào về điều đó.

 

             Bây giờ tôi kể lại chị nghe chuyện tại sao tôi lại kết hôn với nhà tôi nghe, cái ông David "gà tồ" lúc nào cũng hay cười nói huyên thuyên vui vẻ đó. Người nhà tôi  trách tôi tại sao lại ly dị với người chồng Việt Nam, để kết hôn với một người Mỹ, nhưng câu chuyện này nó dài lắm, tôi chỉ tóm gọn để chị hiểu tại sao tôi thương yêu ông David nhà tôi nghe chị.

 

             Chị còn nhớ những thập niên trước, lúc làn sóng những người đi tìm Tự Do ào ạt bỏ quê hương ra đi, chắc chị đã nghe anh kể chuyện và cũng thông cảm với anh lý do tại sao lại có những người phải bỏ quê hương, xứ sở ra đi. Tôi là một trong những người ấy đó chị. Bây giờ chuyện đã cũ, nhưng nhắc lại tôi vẫn bàng hoàng và tưởng như cả đời mình chẳng bao giờ quên nổi những ô nhục, đớn đau mà mình phải chịu.

 

            Tôi là người phụ nữ không được may mắn vì chuyến vượt biển của tôi đã gặp tụi hải tặc Thái Lan, và cũng như bao phụ nữ trong chuyến tàu hôm ấy, tôi đã bị chúng nó làm nhục. Chị là người phụ nữ, có lẽ chị thông cảm cho một người đàn bà khi bị tước đoạt những gì cao đẹp nhất, do sự đòi hỏi thô bỉ của đàn ông, không do sự dâng hiến của tình yêu. Bởi vậy khi được cứu thoát, và cho đến lúc được định cư ở xứ này, tôi vẫn bị ám ảnh vì những bất hạnh đau đớn đó. Thú thật với chị là trước khi gặp David, tôi cũng có yêu thương một người cùng quê, anh ấy là người bảo trợ cho tôi từ đảo sang, dù rằng tôi có nói với anh những điều nhục nhã mà tôi cũng như những người phụ nữ gặp phải trong chuyến đi ngày đó.

 

            Anh ấy nói với tôi là hoàn toàn thông cảm và cho đấy là nỗi bất hạnh của người con gái Việt Nam, nỗi đau chung của cả một dân tộc chứ không phải cho riêng ai. Thế nhưng nói một đằng mà đến khi sống với nhau lại không phải vậy, chỉ vì những lời đàm tiếu thiếu tế nhị của những người cùng hoàn cảnh với chúng tôi. Mỗi khi nhắc nhau về những chuyện cũ, họ vẫn hay nói ra những điều đau đớn riêng tư của người khác , không biết với ý đồ gì, nhưng cũng chỉ vì quá khứ cứ quấn quýt họ hoài, mà không nghĩ là lại lôi kéo chúng tôi trở lại niềm đau cũ. Họ hoài niệm dĩ vãng của họ, nhưng cũng hay nhớ đến dĩ vãng của người khác, như lại làm vết thương mưng mủ khi nó đã thành sẹo. Ðiều đó thật là kỳ cục phải không chị?

 

           Thật mệt mỏi cho một số người hẹp hòi hay đàm tiếu  trên nỗi bất hạnh của người khác. Chính vì thế mà làm cho cuộc hôn nhân của tôi tan vỡ, vì tôi cũng không chịu nổi vẻ mặt buồn rầu, đóng kín trong sự im lặng riêng tư của người chồng cũ. Anh ta thương tôi chứ không phải không, nhưng chính vì không bỏ qua được cái đau khổ của dĩ vãng, nó chỉ là chuyện chẳng ai mong đợi, để mỗi khi nghe ai nói đến vấn đề này, anh lại có mặc cảm như tôi làm điều gì xấu xa vậy.

 

             Tôi có một quan niệm. Ðời bình thường chưa chắc gì tránh khỏi lầm lỡ, huống gì đây chỉ là một tai nạn cho những người phụ nữ Việt Nam, mà hoàn cảnh đất nước đưa đẩy đã phải tội tình gánh chịu. Cuộc sống đâu phải một mặt nước phẳng lặng, cho nên khi có xung đột trong gia đình, tôi vẫn phải cúi đầu chịu đựng nỗi cay đắng một mình. Cho nên giải pháp cuối cùng là chia tay. Ðồng ý là khi tan vỡ, tôi cũng đau khổ vậy, nhưng nhờ thế tôi mới có cơ hội biết rằng đời vẫn có những người đàn ông tốt, không quẩn quanh mặc cảm, đầy thành kiến với thứ dĩ vãng buồn khổ, mà đúng ra cần phải gột bỏ để vươn lên những điều tốt đẹp.

 

           Tôi gặp David khi đến cơ quan xã hội để nhờ giúp đỡ tìm việc làm. Không hiểu sao tôi kể cho ông ấy nghe hết những gì xảy ra trong đời tôi, và chị biết điều gì xảy ra không? Ông ấy đã khóc khi nghe tôi kể hết những bất hạnh tôi phải chịu. Ông ấy nói rằng chính đất nước ông cũng phải chịu trách nhiệm trước những bất hạnh này, vì đã không hết lòng giúp đỡ người anh em bé nhỏ của mình, để gây ra bao thảm cảnh cho người dân Việt Nam. David đưa tôi đi nhà thờ, sinh hoạt với người bản xứ, giúp tôi quên đi quá khứ tủi hờn để hòa nhập vào một xã hội hoàn toàn hướng tới tương lai. Những gì xảy ra hôm qua là dĩ vãng, những gì hôm nay là hạnh phúc và sự hiến tặng của Thượng Ðế trong mỗi ngày cho con người, và những gì sắp tới sẽ là những khám phá kỳ thú hơn.

.

             Từ ngày lấy David, không bao giờ tôi nghe ông ấy nhắc nhở những riêng tư của tôi trong quá khứ, và vẫn rất hãnh diện khi giới thiệu tôi với gia đình, bè bạn. Họ chấp nhận và yêu thương tôi, khiến tôi tự tin và tự nhiên tâm hồn cũng theo chiều hướng đó mà thích yêu thương, chia xẻ với mọi người.Tôi đã đưa David về thăm quê hương, bởi vì anh ấy muốn nhìn rõ sự vươn lên của một đất nước sau chiến tranh ra sao. David cùng công nhận với tôi một điều, tất cả những mặt  nổi của bên ngoài không giúp gì cho người dân bao nhiêu, đất nước vẫn còn quá nhiều người nghèo,một xã hội loè loẹt màu sắc và băng hoại vì chạy theo đồng tiền khiến tôi cũng cảm thấy đau lòng cho quê hương của mình .             

 

              Chuyến trở về quê hương của chúng tôi vừa qua thực sự làm tôi xúc động lắm chị à. Tôi với David đi thăm những người thương phế binh bị bỏ rơi sau cuộc chiến, hiện tại họ vẫn là những cái bóng lẻ loi, đơn độc trong một xã hội lắm thành kiến chính trị. Chúng tôi cũng vào thăm chỗ nuôi trẻ mồ côi hay khuyết tật, thật ái ngại cho đời sống của chúng nó, mong sao sự giúp đỡ cuả những tấm lòng nhân ái, có thể  những con người vô tội ấy được sống một cuộc sống tối thiểu no ấm để làm người. Mỗi người đều có một quê hương như ai cũng có một mẹ vậy, tôi vẫn giữ trong lòng những cái đẹp của dĩ vãng, nhưng đồng thời tôi cũng phải mang ơn xứ sở tôi đang sống, đã giúp tôi có cơ hội để nhìn lại quê hương của mình, bản thân mình mà biết cái gì phải quên và cái gì phải nhớ.

 

             À quên. Chị hỏi tôi về món bún chả để ăn vào ngày Lễ Tạ Ơn năm nay  phải không chị? Có lý lắm khi chị đã nghĩ tới bà mẹ chồng Việt Nam, chắc hẳn không quen với món gà tây và món bí đỏ tuyệt cú mèo cuả người Mỹ. Nhưng chị muốn làm theo kiểu nào, vì quê tôi có tới ba miền Trung, Nam, Bắc, mỗi nơi cũng dùng thịt heo để nướng nhưng lối dùng gia vị thì có khác nhau tý chút. Người Nam hay cuộn tròn miếng thịt bên ngoài một miếng mỡ heo xắt mỏng, họ ướp đường nhiều hơn nên khi ăn có vị ngọt ngọt. Còn người Bắc lại dùng thịt pha mỡ, họ chỉ ướp củ hành và chút nước mắm ngon với tiêu thôi. Riêng người miền Trung thì không thể thiếu ít hột mè cho miếng thịt thơm và bùi hơn đó chị. Nhưng với tôi, kiểu nào cũng ngon hết, miễn là mình gửi vào đó cái tình của mình đến với những người mình yêu thương và muốn phục vụ, phải không chị?"

        

                                                              NGUYÊN NHUNG.

NN_Nov26_Family.jpg

 

Mùa Tạ Ơn Đầu Tiên Trên Xứ Mỹ.

Tôi đến Mỹ vào một ngày mùa Đông năm 1992. Đối với tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống vắng khi nhìn thấy những rừng cây trơ trụi  hai bên xa lộ nằm thiếp ngủ , thành phố về đêm nhấp nháy những ánh đèn xanh đỏ dưới cơn mưa phùn muà  đông rét mướt.

Buồn, cảm giác buồn thay cho bao háo hức thường ẩn hiện trong những giấc mơ khi còn ở Việt Nam, hiện tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn rầu khi chiếc xe chạy qua những đoạn đường ướt át. Lúc ấy đã gần nửa đêm, người bảo trợ đưa cả nhà về căn chung cư một phòng ngủ, ngổn ngang vài món cần thiết xin được cuả hội từ thiện. Nhà hàng xóm người Kampuchia đêm khuya vẫn còn thức, nghe có tiếng xê dịch ngoài hành lang vội mở cửa nhìn ra, rồi biết có người mới qua cũng tíu tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng mì gói và hộp sữa.

Đối với chúng tôi lúc ấy tình người quý biết bao, nỗi nhớ quê còn đầy nhưng sự chia xẻ ấy khiến lòng tôi ấm lại. Phải đến năm sau, một năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc Mỹ, tôi mới hưởng được không khí ấm áp cuả muà lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.

Đẩy lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó khăn ở quê nhà, cơ hội đã mở toang cánh cửa đón gia đình tôi hoà nhập vào đất nước tự do. Hình như quanh tôi có một điều khó diễn tả được khi cảm nhận được  hai chữ tự do, những ngày đầu tôi vẫn tưởng mình đang nằm mơ, nhưng giấc mơ ấy đã thành sự thật, bước ban đầu còn lạc lõng, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ cuả nước Mỹ, mặc dù chưa đóng góp được gì cho xứ sở này.

Mỗi ngày, điều thích thú nhất với tôi là được đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà còn cắp sách đến trường, tung tăng như một nữ sinh trung học làm tôi sống lại cảm giác thời thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu. Dù đấy chỉ là lớp học dạy ESL, dành cho những người chân ướt chân ráo mới được định cư tại Hoa Kỳ, nhưng không khí cuả một lớp học thì dường như ở đâu cũng vậy. Một, hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc gia học chung một lớp. Chúng tôi đã thật sự đến gần với nhau qua những tâm sự bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ sở cuả mình và lý do đến được xứ sở này, cảm thông với nhau về hoàn cảnh hiện tại, và niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai

Khi chuẩn bị muà lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đã dạy cho chúng tôi học bài học muà Tạ Ơn, để hiểu tại sao xứ sở này người ta duy trì ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Bài học “The First Thanksgiving” ngày hôm ấy  là một đề tài hấp dẫn cho cả lớp, và tôi đã cố học thuộc lòng như cháo vài câu cảm ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ Ơn năm đó.

“Theo câu chuyện kể lại. Một ngày, những người Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ là những người bị bắt buộc theo giáo phái cuả nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi.

Những người Pilgrims này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ có tên là Holland, họ đã hoà nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả người địa phương, sự tư do cuả tôn giáo chỉ đúng nghĩa nhất khi mỗi người được thực sự cầu nguyện theo con đường mà họ thích. Người Holland được gọi là người Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Thế là một lần nữa, những người Pilgrims lại lên đường tìm về  miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi.

Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được  nói tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Pilgrims, những người đầu tiên đi tìm đất mới rời Holland và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển.

MayFlowers là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Pilgrims kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng muà đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người da đỏ được gọi là người Indians.

Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ cuả họ, bắt đầu xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.

Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một  buổi tiệc Tạ Ơn để người Pilgrims có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ , cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm.”

Bài học về ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm dứt, tiếp theo đó mỗi người trong lớp đã bày tỏ lòng biết ơn cuả mình với những người xung quanh, mở đầu cho một party mang nhiều màu sắc dân tộc. Trước mấy ngày, giờ ra chơi những học sinh đã hỏi nhau về những món ăn mà mọi người mang đến  lớp học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với những món ăn truyền thống cuả từng dân tộc.

Martha người Mễ Tây Cơ còn trẻ và rất vui tính, trên tay cô là một khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ Tây Cơ, bánh bột bắp cuộn món bò hầm với rau đậu ăn lạ miệng và khá ngon. Cô đến lớp  đỏm dáng với  chiếc váy hoa sặc sỡ, đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc. Martha là người đã dạy tôi hát bản “ Besame Mucho” bằng tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều thể hiện dân tộc tính cuả mình qua các món ăn hay cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ thích âm nhạc, thích hưởng thụ khác với tính chuyên cần, chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn tính trung thực, Martha giản dị chỉ cho những người mắt kém đi chọn một cái kính đeo mắt tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô hóm hỉnh nói:

“ Mình chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt và mua một cái kính đắt tiền, đến đó (ý cô nói là cửa hàng Walgreen) có vô khối các loại kính đeo mắt cho mình chọn lựa. Tạm thời thôi, mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm tốt, các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính hoàn hảo.”

À thì ra trong câu chuyện nhỏ, Martha đã đem đến cho mọi người  ý nghiã cuả sự tương đối, trong khi tôi biết một vài người  quen diện tỵ nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê hương,sang đây vẫn hay ta thán bất mãn cho rằng cuộc sống cuả họ  vẫn chưa được những điều vừa ý. Đó là sự đòi hỏi một cách quá đáng,khi chính bản thân họ vẫn đang sống nhờ vào cộng đồng xã hội. Đáng lẽ thế này, đáng lẽ thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn nàn mà không nghĩ mình đang chịu ơn những người chả hề mắc nợ mình, họ cũng phải một nắng hai sương đi làm đóng thuế, và nhờ sự đóng góp cuả họ mà mình được san xẻ.

Trong bữa tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất cuả lớp học, đã làm nguyên một ổ bánh kem thật lớn, với hàng chữ Tạ Ơn viết thật nắn nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già VN mà còn hiếu học, tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến người khác đã được thể hiện dài dài trong đời bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở  lớp dạy làm bánh tại nhà,  không hề nhận một đồng thù lao để dạy cho các người Việt trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp họp mặt trong gia đình, hoặc cho những người  cần học một nghề để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc tuổi già vác ngà voi cuả bác, nhưng bác nói:

“ Tôi già rồi, không đóng góp được gì với đời. Bao nhiêu năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà sang đây tỵ nạn, gia đình tôi đã làm lại từ đầu nhờ xứ sở này rộng rãi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay con cháu đã thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở này và cuả cuộc đời cũng nhiều, không biết cách gì để trả ơn, thôi thì đây cũng là một cách giúp chị em phụ nữ như tôi biết thêm nghề gì hay nghề nấy. Đó cũng là lý do làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc.”

Bác thật hạnh phúc, tôi luôn nhớ đến những gì bác làm cho mọi người và từ đó tôi nghiệm ra hai chữ tri ơn cuộc đời cuả bác. Tháng Chín năm trước, bác đã thênh thang đi về bên kia thế giới, hành trang mang theo là những gì bác đã làm cho mọi người khi còn sống. Ngày tang lễ cuả bác thật đông người đến đưa tiễn,  trong tấm ảnh,  khuôn mặt hiền từ, đôn hậu của một cụ già suốt đời chỉ thích làm việc thiện vẫn nở nụ cười nhân từ với những bông huệ trắng muốt.

Những người Mỹ tôi quen còn dạy cho tôi một bài học về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống cuả họ. Khi về già , họ không ngồi ta thán sự hẩm hiu cuả mình trong bốn bức tường, không bi quan sầu luỵ quá về bệnh tật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến bà Naomi, một phụ nữ da trắng khuôn mặt tròn, da nhăn nheo xếp lớp với thời gian, tuổi già đã làm cho bà nhỏ bé lại nhưng toàn khuôn mặt toát lên thần sắc yêu đời tha thiết.Thế mà bà đang bị ung thư thời kỳ cuối cùng đấy, nhưng tôi không thể nào biết được người đàn bà cao niên ấy đang phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha này như thế nào.

Bữa ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi cùng đi với  nhóm bạn già cuả bà NaoMi đến thăm một nhà dưỡng lão. Viện Dưỡng Lão vào một ngày muà đông buồn ảm đạm, một cụ gìa ú ớ gọi tên hết người này đến người khác, bà đang lẫn lộn dĩ vãng với hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe lăn cho bà vợ tóc xoã rũ rượi, ông nói:

“ Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng tôi thì nhớ bà là vợ mình.”

Một câu nói thật hay mà đâu cần phải tìm trong những lời hay ý đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới. Vật lộn với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc quan yêu đời để lướt qua những cơn đau là tính lạc quan cuả bà NaoMi. Một ngày thứ bảy cùng năm đó, tôi lại đến dự tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh đường êm ả, nhìn tấm ảnh nụ cười bà thật rạng rỡ.

Những người bạn cao niên này còn dạy cho tôi tinh thần  tự nguyện làm công tác xã hội, không rụt rè vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Bà Linda gầy gò ngày ngày lái xe đến trường tiểu học để sắp xếp những cuốn sách cuả các em học sinh bừa bãi trên bàn vào các kệ sách cuả thư viện, dạy cho các em học tính ngăn nắp và biết cách giữ gìn những cuốn sách. Một hôm đang lơn tơn tìm gặp cô giáo của con tôi thì bất ngờ bị chận lại bởi một giọng trẻ con thật dễ thương:

“ Bà có cần tôi giúp gì không?”

Ôi chao! Chắc chỉ có xứ sở này trường học mới dạy cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy tình người, được thốt ra từ đôi môi hồng cuả một cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường tiểu học, khiến tôi phải suy nghĩ và cảm động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới biết hỏi ai đó câu này mà giúp đỡ họ.

Đâu cần phải tìm ở đâu xa mới thấy được tình yêu thương. Trên mảnh vườn nho nhỏ của tôi, đàn chim bồ câu ở đâu bay tới vẫn cần cù nhặt hột cỏ, xen lẫn là vài chú chim sẻ nhỏ nhít nhảy xung quanh, chúng sống chung một cách hòa bình và tương trợ lẫn nhau, một con sẻ nhỏ đã giúp cho con sáo non lạc bầy mẩu bánh vụn một sớm mai sau cơn bão. Ở một trạm xe bus giờ đông người, ông già da màu đã luống tuổi đi trên đường đã ngồi thụp xuống đất cột sợi dây giày cho một anh chàng tàn tật người da trắng ngồi xe lăn, họ có quen nhau đâu. Một người khác không nề hà khi dắt một người mù lên xe rồi vội vã trở lại con đường đi bộ của ông ta. Tôi không nghe được lời “Cảm Ơn” nho nhỏ họ dành cho nhau, nhưng chắc chắn đã hiểu được sự cảm động trong đáy lòng người được giúp đỡ.

Mỗi năm khi đến mùa Tạ Ơn, tôi lại để lòng mình chìm đắm trong tưởng nhớ để nghĩ về những khuôn mặt thân quen mà tôi gặp gỡ trong dòng đời. Như một cuộn phim tình cảm ấm áp đang quay lại để tôi nhớ đến họ, loại trừ đi những đoạn phim buồn, tôi có nguyên một cuốn phim đầy tình người, mang theo biết bao nhiêu  kỷ niệm.

Mùa Tạ Ơn năm nay mưa nhiều, đã hơn hai mươi năm tôi đón mùa Tạ Ơn trên đất nước Hoa Kỳ, cùng hoà nhập vào cuộc sống nơi xứ sở mà ngày xưa đối với tôi nghe như chuyện huyền thoại. Bước chân nào đã đưa gia đình tôi tới đây, cùng chia xẻ với biết bao thăng trầm của một đất nước, nơi tôi đã sống và xem như quê hương thứ hai của mình.

Nhìn tấm ảnh gia đình chụp mùa Giáng Sinh năm ngoái, từ con số vỏn vẹn 5 người khi đặt chân tới Mỹ, nay đã nhân lên thành một đại gia đình đầm ấm,có thêm những đứa cháu ngoan đem tiếng khóc tiếng cười cho không khí mùa Tạ Ơn được ấm áp hơn. Mưa vẫn rơi đều trên mảnh sân ướt át, đàn chim sẻ và bồ câu mỗi ngày về đây nhặt hạt cỏ nuôi thân, hôm nay cũng vắng bóng. Có lẽ lũ chim cũng đang ủ ấm cho nhau trên một mái hiên nào đó. Cảm ơn Trời đã cho tôi một đời sống bình lặng và êm ả qua hình ảnh tổ chim chiu chít gọi đàn. Ngoài kia, trời vẫn đang mưa và đang trở lạnh , có lẽ sau vài cơn mưa lút đầu ngọn cỏ, những cây ngò non sẽ cùng nhau vươn lên mang màu xanh hy vọng trong mảnh vườn mùa đông tàn tạ.

Nguyên Nhung

( Muà Tạ Ơn )

  NN_Nov21_ThanksGivingCard.jpg

Chuyện Một Nhà Văn

Nguyễn là một nhà văn. Cứ tạm gọi như thế, khi ngoài giờ đi làm việc kiếm sống như mọi người, chàng còn có thú viết. Nguyễn có một số bài đăng rải rác trên các báo địa phương, có một số độc giả ái mộ, nên nghiễm nhiên được truy tặng là nhà văn, mặc dù chàng biết muốn đạt được danh hiệu ấy, chàng còn phải viết tướt khói ra, mới được ngồi vào  cái chiếu văn chương đầy chữ nghĩa.

Thôi mặc kệ, gọi như thế cho vui, mặc nhiên chàng cũng miễn cưỡng nhận là mình đứng vào hàng văn nghệ sĩ, dù chưa in được cuốn sách nào. Bạn bè có nhiều người khuyến khích chàng ra mắt sách cho có một cái gì để nhớ, nhưng do tình cờ Nguyễn cũng được biết thêm nhiều cái bạc bẽo của người cầm bút. Giai đoạn phôi thai cho đứa con tinh thần đã lắm nhọc nhằn, khi in xong cuốn sách lắm tác giả tự nhiên như bừng tỉnh một cơn mơ, nhìn những thùng sách cao nghều nghệu như núi chất lên nhau, nỗi hứng khởi ban đầu đã pha trộn cảm giác chán chường. Chưa kể nỗi đoạn trường khi bị những con buôn sách thiếu lương tâm bóc lột, khiến người viết văn còn dọ dẫm trên hành trình văn hoá lắm lúc muốn bật ngửa ra dở khóc dở cười vì sách.  Tuy vậy chàng cũng nôn nao hình dung một ngày nào đó, khi đứa con tinh thần của mình chào đời, với niềm vui của lòng chàng và sự chia xẻ nồng nhiệt của bạn bè, cũng như độc giả bốn phương.

Ngày xưa, lúc còn là sinh viên, Nguyễn cũng sáng tác khá nhiều truyện ngắn, ông thầy học cũng từng khuyến khích chàng bằng câu: "Dù chỉ có một người đọc và hiểu mình, thế cũng đủ khi ta có một người tri âm, tri kỷ”. Điều ấy đúng, nhưng không đúng với hoàn cảnh của chàng hiện tại, đồng lương thì eo hẹp, chỉ đủ lo cho gia đình mà nghĩ đến chuyện in sách, với vợ chàng đúng là chuyện "ruồi bu". Chàng cũng có nghĩ ngợi, bỏ mấy ngàn đồng bạc in một tuyển tập truyện ngắn , bạn bè khua chiêng đánh trống lên, may ra trong buổi ra mắt sách chàng tiêu thụ được một mớ, còn bao nhiêu vác về nhà nhìn nét mặt cau có của vợ, chàng lại chịu không nổi.

Thế là Nguyễn  co vòi trước cái mộng làm nhà văn, để có chút tên tuổi với thiên hạ. Đối với chàng, viết lách là thú tiêu khiển tao nhã, giải tỏa những uẩn ức của lòng, chia xẻ cảm nhận về cuộc sống với những người xung quanh. Con người dù có thành công bao nhiêu,  thế nhưng đến một tuổi nào đó cũng cảm thấy cần có một góc riêng sống thật với mình, không gì hay hơn là làm bạn với âm nhạc, văn chương, sách vở, có dăm người bạn đồng điệu để mà trao đổi, hạnh phúc nhất cho cái tuổi không còn trẻ trung và sức lực để tranh đua với đời nữa.

Sang Mỹ, trôi giạt vào khu chung cư đa số là người Việt Nam, Nguyễn cảm thấy dễ chịu như chàng đang sống trên mảnh đất quê hương. Khu chung cư nằm trên ngọn đồi thấp, một con dốc thoai thoải xuống giòng suối um tùm cây lá, ven bờ là con đường mòn có dấu chân người, Nguyễn biết đám trẻ con vẫn hay la cà đi hái những trái dâu dại.Thỉnh thoảng, trong những buổi sáng rảnh rỗi, Nguyễn thơ thẩn một mình dọc theo bờ suối. Mặt nước phẳng lặng nổi lềnh bềnh những chiếc lá khô, Nguyễn tưởng đấy là những chiếc thuyền con, đã chở hồn chàng ngược về dĩ vãng, nơi có dòng sông êm đềm chốn quê nhà.

Đúng là văn sĩ có khác, vợ chàng lắm lúc rất bực mình vì cái tật đãng trí và vớ vẩn của chồng. Chỉ cần đi dọc theo con suối ấy, Nguyễn cũng có vô khối cái nhìn về sự sống đang hiện diện quanh chàng. Lũ chim chóc chuyền cành hót véo von trên cành dâu chín màu tím thẫm, vài con bướm lượn lờ trên những bông hoa dại, một con cá nhảy lên đớp mồi trên mặt nước lao xao, tất cả như cùng chàng tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên. Chàng thấy dễ chịu quá, cần gì phải đi đâu xa, cần gì phải tụ họp những chốn đông người, người ta cứ phải ao ước đi đến nơi này chốn nọ mới hưởng hết sinh thú của cuộc đời. Ở đây, ngay tại chốn này, khi lòng chàng thanh thản thì chàng đã được hưởng hết cái mỹ miều của trời đất, nó đâu hẹp hòi gì và nào của riêng ai, cứ để hồn thênh thang với tám phương, bốn hướng.

Khu chung cư chàng ở thuộc loại cũ kỹ lâu đời, người chủ Mỹ đã mừng rỡ khi đẩy được vào tay những người di dân Việt Nam, lại được một số tiền rất khá. Khi lọt vào tay những người chủ Việt Nam, bộ mặt của khu chung cư đổi sắc, từ vẻ hoang tàn của khu nhà dột nát,  bỗng dậy lên sức sống dưới bàn tay khéo léo của những người Việt cần cù, chịu thương chịu khó.

Đằng trước và đằng sau mỗi nhà là một khoảng đất trống sát đường đi rộng chỉ độ một mét, vậy mà những bà cụ già, những người phụ nữ lớn tuổi không đi làm, đã chịu khó vun vén để trồng những khóm hành ngò, rau thơm, những giàn bầu bí, khổ qua, đậu ván.  Nguyễn hay lang thang đi dạo quanh xóm, nhìn mảnh vườn rau quê hương xa vời vợi trong tâm tư chàng, đang được những bàn tay của bà con lối xóm gây dựng lại trên mảnh đất xứ người. Nó thể hiện nụ cười của cả một dân tộc hiền hòa, khi vợ chàng thiếu một nắm húng quế cho tô phở, thiếu quả ớt cho bát nước chấm, lúc chàng khoan khoái thưởng thức món thịt bò quấn lá lốt, phết mỡ hành và đậu phọng giã nhỏ, bà hàng xóm đã cho vợ chàng những thứ rau cần thiết.

Sự thật, thỉnh thoảng họ cũng có cãi nhau, chén bát còn có lúc xô huống gì con người có tiếng nói. Họ hay phàn nàn nhau về chỗ đậu xe, khi lũ trẻ có bạn bè từ nơi khác tới cứ đậu bừa bãi lên "parking" của người khác. Họ rầy rà nhau một lúc, cũng lời qua tiếng lại một hồi, nhưng lắng xuống lại lý luận "ba xu" một chút rằng cái chỗ ấy có phải của ông của cha gì mà giữ, lại mất đi tình hàng xóm bấy lâu nay.

Đa số đàn ông trong xóm đi làm, còn phụ nữ ở nhà giữ trẻ, nấu cơm . Nguyễn thích nghe bà già người hàng xóm miền Trung nói lối, nó ngộ nghĩnh và đậm đà màu sắc thi ca dân tộc, một bà cụ miền Nam chỉ thích tuồng cải lương, xem những phim có hậu như Bao Công xử án Quách Hòe, Phạm Công Cúc Hoa , Đời cô Lựu v.v... Đại loại các bộ phim phải có chung, có thủy, có tình người. Họ cũng đọc sách báo, nhưng có nhiều nhà văn viết theo lối mới, khó hiểu, từ ngữ cầu kỳ kiểu cách,  Nguyễn cũng chưa hiểu nổi họ nói gì thì đám dân mộc mạc ở đây cần gì biết cho mất công. Ngay như là vợ Nguyễn, nàng cũng chỉ thích đọc những bài đơn giản, trắng ra trắng, đen ra đen, không nhuôm nhuôm mờ mờ ảo ảo,bởi vậy mà lối viết của chàng cũng ào ào, chằn chặt như tiếng dao băm trên thớt, như tiếng bát đũa khua lanh canh, xủng xoảng của trẻ con háu đói trước mâm cơm.

Đám trẻ ở đây có mòi nhiễm lối sống Âu Mỹ, thích sự yên tĩnh của những căn nhà riêng biệt đóng kín cửa, họ cố làm ăn và lôi cả nhà ra khỏi cái khu chung cư nghèo nàn, nhếch nhác. Chỉ tội nghiệp những người lớn tuổi, cũng phải chạy theo đám con cháu để hòa nhập vào xã hội phương Tây, họ trở thành những cái bóng mờ bên lề cuộc sống. Suốt ngày, lũ nhỏ đi học, đi làm, các cụ luẩn quẩn, loanh quanh trong căn nhà đóng kín cửa, tội nghiệp biết bao. Từ ngày có mấy Đài Phát Thanh Việt ngữ, các cụ cao niên và người Việt trung niên như bắt được bạn vàng lâu ngày không gặp, nghe như trong quãng đời hiu quạnh trên xứ người, thoang thoảng chút tình quê trong tiếng nói của người đồng hương. Thỉnh thoảng, Nguyễn gặp lại những người hàng xóm cũ, họ trở về khu chung cư cũ kỹ, nụ cười móm mém nở trên khuôn mặt hân hoan vì cảm động, họ thú thật với chàng rằng, chỉ ở nơi này họ mới thấy tình quê hương, mới cảm thấy ấm lòng để sống nốt những ngày còn lại.

Ngay như Nguyễn cũng thế, một lần chàng đi thăm bạn bè ở các tiểu bang xa, dù chỉ có hai tuần lễ mà lúc về nhà, gặp lại những khuôn mặt hàng xóm quen thuộc, nhìn giàn mướp xanh trĩu quả, ngắm cây cải lên ngồng với con bướm lượn, nghe tiếng người xướng ngôn viên đọc bản tin chiều, tự nhiên chàng xúc động quá. Chàng có cảm tưởng như xa quê hương đã lâu, nay trở về mái nhà xưa, chàng vô tình có được cái cảm xúc dạt dào của đứa con xa nhà, nay trở về với mẹ.

Chàng đi làm một tuần năm ngày, hai ngày nghỉ ở nhà viết lách. Chàng không có mặc cảm khi nghĩ mình chỉ là mầm cây non nớt giữa một rừng văn học ngát hương, bởi vì chàng chỉ dùng văn chương để trang trải nỗi lòng, kể lể chuyện đời buồn vui, không một mục đích nào khác.

Thằng con lớn nhân ngày Father’s Day,  mua tặng bố cái máy computer để sáng tác cho tiện, vì mỗi khi nhìn bố gò lưng ra viết lách một cách khổ sở, xoá xoá viết viết thấy khổ thân gì đâu. Chiếc máy để trong căn phòng nhỏ đóng kín cửa, cố tạo sự yên tĩnh để chàng sáng tác, vậy mà chàng không viết được. Chàng công nhận mình quê mùa quá, không quen xử dụng máy móc hiện đại. Trong căn phòng đóng kín, tiếng máy lạnh chạy êm ru, chiếc màn hình trắng xóa, óc chàng cũng trắng xóa, chàng cố gắng viết nhưng chữ nghĩa hình như vô hồn, thế là chàng chịu thua.

Bây giờ thì Nguyễn hiểu rồi, người ta phải tạo cho tâm hồn một tư thế thảnh thơi thoải mái thì mới viết cho ra hồn được. Chàng chỉ cần, một tập giấy, một cây bút, một khung cửa bên ngoài là khoảng trời xanh, có những con chim đậu trên sợi giây điện như những nốt nhạc trong buổi hoàng hôn , có tiếng lá khô lạo sạo đuổi nhau trên mặt đường, tất cả những thứ ấy mới là linh hồn của bài viết, chàng chỉ có công tô điểm lên thôi.

 

* * *

 

Nguyễn chưa phải nhà văn chuyên nghiệp,vậy mà không biết tại sao Nguyễn thích viết, "tiền oan nghiệp chướng" tự kiếp nào, Nguyễn hiếm khi thấy một nhà văn hoàn toàn sung sướng, không đói rách thì cũng lận đận, cái kiếp con tằm nhả tơ, hay “vắt từ tim và từng đêm mải miết, viết cho đời xương máu mới nên câu". Việc ấy, mấy người đã biết, một tác phẩm nâng niu, gọt giũa chỉ đọc vèo một cái là xong, có người đọc để giải trí, có người cũng nghĩ ngợi đôi chút rồi quên.

Sự nghiệp viết lách của chàng bắt đầu từ những lá thư, rồi điện thọai đấu hót với bạn bè, nhưng nói mãi Nguyễn có cảm tưởng mình chưa nói gì cả, chàng nghe được cả tiếng ngáp, cái hững hờ của người nghe, ở đây tình cảm càng ngày càng hiếm hoi, người ta phải chạy theo cơm áo, thời gian bỗng trở thành ngắn ngủi.

Nguyễn viết, những lá thư dài năm , bảy trang giấy, chẳng biết người ta có đọc không nhưng ít khi nào chàng nhận được hồi âm, không chừng người ta còn bảo chàng lẩm cẩm. Sau đấy, có người thương hại bảo chàng viết văn đăng báo, rồi có những tờ báo đăng bài của chàng, từ đấy, Nguyễn có cái vui của người cầm bút, rồi biết thêm rằng ngoài nhu cầu cơm ăn, nhà ở, công danh, sự nghiệp, người ta vẫn cần có một món ăn bồi bổ cho tinh thần.

Lúc bắt đầu, chữ nghĩa còn thập thò e lệ, sau quen dần, như cô con gái lần đầu hẹn hò với tình nhân còn thẹn thùng,luống cuống thừa tay thừa chân, nay đã biết tận hưởng cảm giác đậm đà màu sắc yêu đương.

Đề tài quanh quẩn chuyện trong nhà, cha mẹ, anh em, bạn bè lần lượt đi vào tác phẩm của chàng, Nguyễn có cái thiết tha chân thật khi chàng dùng ngòi bút để hồi tưởng những bóng dáng thân yêu trong đời chàng, để chàng thực lòng đã chảy nước mắt khi nhớ đến những kỷ niệm rất đơn sơ, nồng ấm của thời thơ ấu. Chuyện của chàng không có những pha mê ly, hấp dẫn, thế nên khi có người đề nghị chàng viết truyện tình thì Nguyễn bối rối lắm. Nhìn quanh xã hội này, Nguyễn không tìm ra chất liệu để viết, thời buổi bây giờ mọi người đều có dư thừa tự do và điều kiện để yêu, Nguyễn đọc nhiều truyện tình yêu của xứ này, chàng biết tình yêu đơn giản như người ta ăn một cái kẹo, một cuộc hẹn hò trên bãi biển, đùa giỡn với sóng nước và nắng ấm, sau đó đưa nhau vào khách sạn, vài giờ sau chia tay, không ngậm ngùi, không khóc lóc.

Cuối cùng thì chàng nghĩ ra được một điều thật giản dị, văn chương không cần màu mè hoa lá cành, không cần tình tiết éo le, chẳng có mở mà chẳng có thắt. Nó chỉ là chuyện đời thường viết cho người khác đọc, như mình đang rủ rỉ kể những chuyện bình thường nhất , nó là của mình mà cũng có thể là chuyện của người, để đọc xong thì ai đó cũng có thể thở phào nhẹ nhõm, bâng khuâng hay mơ mộng đến những ảo ảnh mù xa trong dĩ vãng.

Thế rồi Nguyễn cũng cố thuyết phục vợ để được chấp thuận trong vui vẻ, cho chàng ra đời một tác phẩm đầu tay. Ngày hai vợ chồng có đứa con đầu lòng, chàng cảm động như thế nào thì nay nhìn đứa con tinh thần của mình Nguyễn lại có được cái cảm giác y hệt như vậy. Đối với chàng, những đứa con được sinh ra bằng sự kết hợp máu thịt của cha mẹ, dẫu đẹp hay xấu chàng đều thương yêu như nhau, riêng tác phẩm của mình, Nguyễn cũng vẫn say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi bài viết đã chuyên chở ít nhiều tư tưởng và những kỷ niệm của chàng cho từng nhân vật của truyện.

Dĩ nhiên đâu phải Nguyễn đã có được những phút giây sống hoàn toàn với đứa con tinh thần chàng yêu thích. Vợ chàng có thể đặt nhiều dấu hỏi về một nhân vật tưởng tượng của chàng, mà nàng cho là nhất định đấy phải là một hình bóng của dĩ vãng. Chàng đã phải trả lời nhiều câu hỏi nghe thật ngớ ngẩn mà đầy những cạm bẫy, để rồi có khi nhiều lúc chàng bần thần đến phát cuồng khi thấy mình bị tước đoạt gần hết điều mà người ta hay gọi là tự do tư tưởng. Đấy chỉ là những vui buồn lẻ tẻ trong nghiệp cầm bút, trong một phạm vi nhỏ hẹp là gia đình, còn với thế giới bên ngoài chàng cũng cảm thấy sự dè dặt của mình khi không dám viết thật những gì mình nghĩ. Ôi! Đời mắc chi cái nghiệp khổ như vậy, vậy mà vẫn say mê không dứt được.

Nếu mai kia khi về già, cuộc đời sẽ trống rỗng khi nhìn mấy bức tường trắng toát, hay loanh quanh trồng tỉa mấy chậu hoa chậu kiểng, ngó mông lung một chiếc lá rơi trên khoảng sân cỏ úa, điều ấy khiến Nguyễn vẫn thú vị với cái " khổ" của nghiệp cầm bút mà Trời đã oái oăm gửi cho chàng.

Nguyễn vẫn say sưa với cái cõi của mình, chập chờn những hình bóng của từng nhân vật trong khi ăn, lúc đi ngủ. Họ là những con người không có thật mà lại có sức mang đến cho chàng những rung động lạ kỳ. Nguyễn có thể đi theo họ đến những dòng sông xa xôi nào đó, ngồi với họ bên một bờ sông mà lắng nghe tiếng sóng vỗ óc ách vào bờ. Đi theo họ xuống  thung lũng mù sương của Đà Lạt năm xưa, nghe họ tỉ tê thương nhớ một thời đã mất, và kỳ lạ rằng chàng cũng đã rưng rưng đến phát khóc khi cho nhân vật đau khổ vì một mối tình tan vỡ. Còn nhiều, nhiều nữa, những mối tình thời chinh chiến, những mất mát thua thiệt đớn đau của cuộc đời, những nhớ nhung mảnh vườn đầy bóng nắng lúc sang Xuân ở quê nhà. Đó phải chăng là món quà của Thượng Đế đã ban cho chàng, không cần tiền bạc mà chàng vẫn có thể để hồn lang thang đến nhiều nơi chốn đầy kỳ thú trên trái đất.

Nguyễn vẫn sống đạm bạc , bằng lòng với cái nghèo của vật chất mà lòng vẫn không hề cảm thấy thiếu thốn, không mơ tưởng đến một thế giới xô bồ của bạc tiền, danh vọng. Sống như vậy nhưng lúc nào chàng cũng cảm thấy đời dư thừa niềm vui, vì ngòi bút đã giúp chàng đi chu du đến nhiều vùng trời đầy những đềm êm và kỳ thú của văn chương, một thế giới không thể mua được bằng tiền vậy.

Nguyên Nhung.

 

 

 

 Bức Tranh Thêu Bản Đồ Nước Mỹ                                                

  nn_nov10_Alaska_p1.jpg

 

NN_nov10_self.jpgALASKA,

TRỜI MÂY VIỄN PHƯƠNG

__________________________________________________________________________

 

Chuyến bay từ Houston đến vùng sa mạc Arizona, chuyển tiếp đến Seattle, bỏ lại những giọt mồ hôi cho hai  miền đất nóng tình sôi và khô cằn sỏi đá. Tôi đã nhìn thấy cao nguyên tình xanh trong một ngày nắng đẹp. Hiện dần trước mắt tôi những con dốc ngoằn nghoèo , những ngọn thông xứ lạnh chưa bao giờ  đẹp hơn thế chen lẫn với những cây phong, hình như đã sắp đổi màu khi mùa thu đến.

Cao nguyên tình xanh đây rồi, phải đặt chân xuống đất và đi trong cái se se lạnh như đất trời Đà Lạt mới cảm thấy hết cái kỳ thú của cao nguyên tình xanh. Một chút lạnh vừa đủ vào buổi sáng, một chút nắng lung linh vào buổi trưa, một chút gió se se của buổi chiều len vào căn nhà của anh chị Thanh bao quanh là một khu vườn đẹp. Xứ này nhiều mưa, vì thế khi mùa Đông rét lạnh vừa qua, những cơn mưa núi đổ xuống khiến rừng cây bừng bừng sức sống, du khách không khỏi bỡ ngỡ khi thấy bạt ngàn hai bên xa lộ, những rừng cây lại mau xanh đến thế, và nó vẫn xanh tươi mãi cho hết một mùa hè nhờ những cơn mưa.

Hôm ấy là ngày hội ngộ của gia đình Cát Trắng Nha Trang. Gọi là gia đình cũng đúng vì đây chỉ là một buổi hội ngộ hằng năm, của một số cựu nữ sinh cùng lớp cùng thời với nhau. Theo như chuyện các chị kể  thì  ngôi trường nằm gần bờ biển có hàng phi lao vi vút, sân trường là bãi cát trắng phau phau, nơi các nữ sinh thường gặp nhau mỗi buổi sáng trong giờ tập thể dục. Nhớ ngôi trường là nhớ những tà áo trắng học trò, nảy nở thêm bao mối tình đẹp vì Nha Trang cũng là thành phố của quân trường, nhiều mối tình anh tiền tuyến em hậu phương cũng từ đây mà trôi nổi theo dòng đời đi bốn hướng. Họ đa số là vợ lính, chia xẻ cảnh đơn chiếc khi xa chồng trong thời chinh chiến, chịu nhọc nhằn đau khổ cùng chồng sau cuộc chiến tàn, và cũng từ miền đất biển này, Nha Trang cũng là đất cơ hội để họ theo con tàu vượt sóng  đi tìm tự do.

Sáng sớm hôm đó, sau bữa điểm tâm thật ngon miệng với ly cà phê sữa nóng, một ngày tuyệt đẹp nữa lại đến, hình như ông trời đãi ngộ cho khách phương xa những ngày đẹp trời thay vì những cơn mưa sụt sùi đổ xuống cao nguyên tình xanh. Mọi người đi thăm một vài nơi đặc biệt của Seattle, qua cây cầu nối dài giữa hai bờ của con kênh đào nối liền hai hồ Washington và Union có mực nước chênh nhau khá cao.

Anh Hoàng Thanh, cư dân của cao nguyên tình xanh là người am tường hiểu rất rõ về con kênh này, vì thế ai cũng tò mò  vây quanh để nghe anh giải thích câu chuyện về con kênh và loài cá hồi bơi ngược nguồn nước. Nhưng phải vài ngày sau khi chuyến Cruise của hãng Princess ghé bến Alaska, chúng tôi mới thực sự thấy được hình ảnh của những đàn cá hồi, bơi ngược nguồn nước tìm về nơi ra đời của chúng.

Ngày hôm sau, từ nhà anh chị Thanh ra bến cảng Seattle khá xa, số người đi khoảng 30 người nên từ đêm hôm trước, mọi người đã phải chuẩn bị hành trang để sáng hôm sau lên đường. Có lẽ đây là một trong những chuyến Cruise cuối cùng trong năm vì cứ hết tháng Chín, những chuyến Cruise đi Alaska tạm ngưng cho đến đầu mùa hè sang năm, lý do dễ hiểu là miền Bắc Cực mùa đông đến rất sớm, chỉ cần tuyết rơi vài trận là đường xá đóng băng, những con đường đi lên núi sẽ không vận chuyển được.

nn_Nov10_Alaska_trail.jpgMột chuyến xe bus mới đủ chỗ đưa mấy chục người ra bến cảng, đây là lần đầu tiên tôi được thấy du thuyền Princess đồ sộ như một  cao ốc khổng lồ đang nằm chờ khách trên bến tàu. Mãi xế chiều tàu bắt đầu chuyển mình ra khơi, biển rẽ sóng đưa tàu đi vào vùng Bắc Thái Bình Dương, gió thổi mạnh và sóng lớn nên tàu lao chao lắc lư khiến nhiều người bị say sóng. Sóng cứ tiếp tục lắc mạnh, nhiều người lảo đảo đi không vững, càng ra xa các đợt sóng càng cao hơn và đánh mạnh vào thân tàu. Cuối cùng khi tàu tiến ra biển Bắc Thái Bình Dương, sóng cũng dịu đi và mọi người toả ra đứng dựa vào lan can tàu nhìn ra mông mênh đại dương.

Alaska là tiểu bang thứ 49 của Hoa Kỳ, rộng 591.004 dặm vuông với dân số khoảng bảy trăm ngàn dân, đó là ước tính của nhiều năm trước, sau này có nhiều người đã rời Alaska để lập nghiệp ở các tiểu bang miền nắng ấm. Cũng vì khí hậu khắc nghiệt như vậy nên chính phủ Hoa Kỳ đã có nhiều ưu đãi cho những cư dân ở đây. Đường xa hằng vạn hải lý, con  tàu cứ thế phăng phăng lướt sóng, như một thành phố nổi có đầy đủ tiện nghi và các thú giải trí như shopping, nơi đọc sách, tỉa hoa bằng trái cây, casino , hồ bơi và nhà hát.

Sau 1 ngày 2 đêm tàu cập bến thành phố Juneau thủ phủ cuả tiểu bang Alaska, biển xanh thẳm như mây trời xanh thẳm, Alaska trùng trùng núi non và cây rừng. Khi mùa Đông qua xuân đến, khí hậu ấm dần lên tuyết tan từ đỉnh núi, bao nhiêu nước chảy thành những dòng thác nhỏ rồi tụ vào nhau thành nhiều con suối  rộng, ghềnh đá lởm chởm chất lên nhau nước tung bọt trắng xoá.

Thủ phủ của Alaska là Juneau, có khoảng gần 40.000 dân và kinh tế của tiểu bang là du lịch và hải sản. Như một hòn đảo lớn nằm ở phía Bắc Thái Bình Dương, hằng năm du khách đổ về đây thăm viếng khá đông, và phương tiện giao thông đều bằng đường thuỷ.

Rất tiếc khi đến đây đã cuối hè, chúng tôi không được đi xe chó kéo trên băng, nhìn ra phiá xa tuyết vẫn phủ trắng trên những ngọn núi cao, băng vẫn đông cứng màu trắng lạnh lùng và xanh lơ của nước biển.  Lang thang  một ngày trên phố, Alaska bừng bừng lên sức sống vì phố núi xanh bóng cây như hớn hở vẫy tay chào du khách, lên cao nhìn xuống biển phong cảnh thật hữu tình. Tàu lại rời bến, và GLACIER là điểm đặc biệt nhất của ALASKA mà ai cũng muốn biết, đó là những tảng băng trôi trên biển lạnh.

nn_nov10_laska_SongNui.jpgBuổi sáng hôm đó khi mặt trời lên đã thấy du khách lên trên boong để ngắm băng sơn trôi trên biển. Nơi này cách Juneau khoảng 90 dặm về hướng Bắc. Tàu chạy chậm lại, mọi người đổ xô ra hành lang tầng trên của con tàu để ngắm băng bập bềnh trôi từng tảng lớn, nhỏ trên mặt nước, ai cũng phải suýt soa vì vẻ đẹp của thiên nhiên.Núi đá trơ trụi mờ mờ trong sương in bóng xuống mặt nước biển màu xanh lơ, Alaska có vẻ đẹp lạnh lùng hiếm có vì sơn thuỷ giao hoà, sự tĩnh lặng câm nín của Núi khiến lòng người trở nên tĩnh mịch. Không biết ai ra sao chứ riêng tôi thì chuyến đi thăm ALASKA là chuyến du lịch thú vị nhất, thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng băng giá này nhiều cảnh đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, vừa xanh tươi lại vừa băng giá, hấp dẫn như một thiếu phụ chín muồi tuổi tình yêu, cũng như sự từng trải của dòng đời. Núi non chập chùng phản chiếu dưới làn nước biển, đỉnh núi lại óng ánh màn tuyết trắng và ẩn mờ trong sương, bồng lai tiên cảnh nào hơn!

Tàu trôi trên biển lừ đừ cho mãi tới sáng hôm sau lại đến một thành phố khác mang tên là SKAGWAY, cách Juneau 90 dặm về phía Đông Bắc. có nhiều núi băng và dân cư thật là thưa thớt. Một cái lạ dù nơi nào lạnh lẽo cách mấy cũng có dấu chân loài người tìm đến, có thể họ là những thổ dân lâu đời đã quen sống ở xứ tuyết nên không muốn đi đâu. Tuy vậy vào mùa hè, nhờ số du khách đổ tới, có ngày tới ba con tàu cặp bờ mà số người lên đến hằng chục nghìn. Cư dân ở đây sinh sống bằng nghề săn bắt nai, gấu, chim ưng và ó biển, dưới nước thì có cá hồi, cá voi. Đặc biệt trên bầu trời xanh thẳm của núi rừng SKAGWAY, những cánh chim ưng bay lượn để tìm mồi, cá hồi ngược nguồn chết trên sông suối là món ngon của loài chim và gấu. Chỉ mấy tháng thôi khi vào đông trời rét lạnh, những bóng chim cũng biền biệt bay về miền nắng ấm….

Đây cũng là nơi cách đây hằng trăm năm có những người tìm đến  khai thác mỏ vàng, vẫn còn dấu vết qua hình ảnh bức tượng hai người đi tìm vàng thuở ấy. Nay mỏ vàng không còn nữa, lớp sóng người tiên phong đi về miền băng giá đã chôn vùi trong quá khứ, nhưng cư dân vẫn sống bằng nghề chài lưới, săn bắt thú rừng, hải cẩu và cá salmon thì nổi tiếng trên thế giới.

Chúng tôi lên kịp chuyến xe lửa ì ạch chạy từ biển lên núi, điểm cuối cùng gặp nhau là biên giới giữa Canada và Hoa Kỳ, có những lá cờ bay phất phới. Nhìn cảnh này mới thấy sự tôn trọng chủ quyền biên giới của các nước khác xa với quê mình khi lãnh đảo, lãnh hải đang bị nước lân bang xâm lấn.Mặc dù chuyến “tour” xe lửa không rẻ lắm nhưng nghìn năm một thuở mới tới đây, đặc biệt hơn nữa là khi tàu lên cao dần theo triền núi thoai thoải, du khách tha hồ nhìn ra phía xa hay nhìn xuống dòng sông, thác đổ trong rừng cây hay những ngọn núi nửa chìm trong mây, nửa phô mình thả xuống những dòng thác bạc. Chuyến về con tàu chầm chậm đi xuống, lại có dịp nhìn về phía trong vách núi, mới thấy cơ man nào là những cây thông nhỏ xíu mọc cheo leo trên triền núi, nhỏ xíu như những cây “bonsai” mà lại chi chít vào nhau như một cánh rừng. Ấy là vì vào mùa hè khi tuyết tan thành suối, thác đổ trắng xóa hay nước ẩm ướt mà cây đâm chồi nảy lộc từ khe núi, lâu năm còi cọc cũng chỉ có thế thôi, nhưng vẫn kiên gan cùng tuế nguyệt.

Thiên nhiên ưu đãi cho Alaska một mùa hè  thật tươi tắn, y như cô gái sau mùa đông trút bỏ lớp áo ngự hàn, để phô bày nhan sắc mượt mà hấp dẫn. Bây giờ là lúc đi xem cá hồi thiên nhiên bơi lội trong các dòng suối cạn. Từng đàn cá hồi không biết ở đâu chen nhau bơi ngược trên dòng nước, hoặc trên lòng suối nhỏ nằm ngay trong thành phố, xung quanh nhà cư dân cũng có những dòng nước chảy, những con cá hồi vất vả quăng mình lên những tảng đá nhỏ để ngược nguồn, rổi lại bị nước đẩy ngược xuống, nhiều con chưa kịp làm tổ đẻ trứng thì đã tiêu diêu miền cực lạc, thoi thóp thở và lịm dần trong lòng suối.

nn_nov10_Alaska_NN.jpgNhìn cá mà lòng rưng rưng sầu, tự nhiên mọi người liên tưởng đến những con tàu vượt biển năm xưa nhỏ bé như chiếc lá tre lênh đênh giữa biển cả, bao nhiêu nguy hiểm chờ đón y như  đàn cá hồi đang lao đao trên dòng nuớc ngược. Có tiếng than trong đám người vây quanh bờ suối:

“Trời ơi, sinh chi mà khổ thế này?”
 
Có ngưòi không hiểu cám cảnh sao đó, nghĩ cá ra người nên kêu lên như tiếp hơi cho con cá đã cố mấy phen mà không sao qua được triền sóng:

 “ Cố lên, lạy trời cố lên, tội nghiệp!”

Nghe như tiếng kêu cầu của người dân Việt bỏ xứ ra đi tìm tự do năm nào đang lao đao trên biển cả.Ai nấy đều cảm động và tự dưng nhớ lại những năm tháng đã qua trong dòng đời, Nhìn con cá hồi chết trong dòng nước, người đa cảm chắc không khỏi rưng rưng nước mắt, trong nỗi đau sót đầy cảm thông, như kiếp Nhân Sinh lắm nỗi đoạn trường. Có người nghĩ sao cá không ở biển mà sinh sản , quay về làm chi để chết thảm chết sầu? Tại trời sinh con cá phải quay ngược nguồn để bảo tồn  nòi giống  của cá, như con người dù đi đâu ở đâu lòng vẫn hướng về quê cha đất tổ.

Những ngày vui qua mau, mọi người lại theo con tàu trở về cao nguyên tình xanh, rồi lại bay về tổ ấm. Bỏ lại Alaska hình ảnh những con cá hồi chết trong lòng suối và nỗi ngậm ngùi còn nguyên trong lòng. Thôi thì viết lại tâm sự qua bài thơ Chuyện Con Cá Hồi Vượt Sóng, gửi vào giữa mênh mông để ai muốn nghĩ sao cũng được:
 
Chuyện Con Cá Hồi Vượt Sóng

nn_Nov10_Alaska_salmon.jpg

Tôi ngẩn ngơ ngồi bên bờ suối

Alaska chiều mây viễn phương

Dưới khe, đàn cá hồi vượt sóng

Ngược dòng, tất tả về quê hương

        Nước chảy, từ trên nguồn đổ xuống

       Cá quẫy ven bờ ngược nước lên

       Vài thân cá chết vương ghềnh đá

 Gửi nắm xương tàn trong lãng quên

 Chuyện kể rằng, con cá hồi nước ngọt

Một ngày kia, bỏ xứ ra biển Đông

Biển phong ba nhưng vẫn là biển rộng

Suối thân quen  nhưng suối rất  hẹp long

  . . . . . . . . . . . . . .

         Bến cũ xưa, nay nhuộm màu hoang phế

        Cá ra khơi rồi đến lúc quay về

        Đời vẫn thế xoay vần cơn dâu bể

        Cá nhớ nguồn, trở lại để sinh sôi

Rồi một ngày, nhớ lại thuở nằm nôi

Chiếc võng đu đưa

Lời mẹ ru buồn não nuột

Dẫu một đời cá vẫy vùng bốn  bể

Vẫn nao nao một chốn để quay về

Giữa biển xa u uẩn một dòng sông

Sóng vỗ sóng, bạc đầu vì thương nhớ

               Rồi một ngày, cá chạnh nhớ quê xưa
               Bơi ngược sóng, tìm về nơi cố xứ

              Trong lau lách, chim kêu lời báo tử

              Đá ngậm ngùi bật khóc giữa hoang vu

Khóc con cá hồi chết trên dòng nước

Ngược sóng tìm đường quy cố hương

Hoá ra cá đã quen mùi biển

Trời nước mênh mông lòng đại dương

              Tôi nhìn cá chết trong lòng suối

              Dẫu về, nhưng có sống được đâu

             Thoáng thấy bóng mình in đáy nước

             Mới đó mà nay đã bạc đầu ...

              Nguyên Nhung, tháng 9 năm 2009.

( Bút Ký này sẽ in trong tác phẩm “Bức Tranh Thêu Bản Đồ Nước Mỹ,2014)

 

 

         NHỊP THỞ THỜI GIAN      

Thơ & PPS: NGUYÊN NHUNG

"Mời bạn vào xem những tấm hình, thêm những vần thơ nho nhỏ.

Mỗi một tấm ảnh đối với tôi gói gém một không gian và thời gian khi bất chợt cảm nhận được trong đời sống"

To access this shared file, visit this link:
https://app.box.com/s/euqx1gs34l687w78r34m

NN_nov8_13_NhipThoThoiGian.jpg

 

 

 

 

 

 

  

NN_Nov5_DoiBong2.jpg

NN_Nov4_CoNhan.jpgCỐ NHÂN                

Thơ : Nguyên Nhung 

 Nhạc : Nguyễn Tuấn

Tiếng hát : Mai Hậu

 

 

http://www.youtube.com/watch?v=1MAm7hlIsR8

 

NN_Nov4_ConhanPoem.jpg

 

                  " XÓM  NHÀ  LÁ"

                                          Nguyên Nhung

NN_Jan24_schoolgate.jpg

" Xóm Nhà Lá" trong cái lớp học của tôi ngày xưa, không có nghĩa để phân biệt sự giàu nghèo như  thế giới của người lớn, mà chỉ là mấy dãy bàn trên và dưới trong lớp học ở lứa tuổi học trò hồn nhiên vô tư lự. Xóm Nhà Lá chỉ là biểu tượng cho một lũ học trò khoảng tuổi mười lăm, mười sáu,  ngồi chung với nhau nhiều lắm là hai dãy bàn sát nhau, bàn trước và bàn sau, đếm được khoảng 7,8 đứa.

NN_Jan24_PTGGate.jpgXóm Nhà Lá cũng không hẳn là những cô học trò ngồi ở dãy bàn cuối lớp, chỗ ấy mấy đứa cẳng dài luôn bị dồn xuống đó, để mấy đứa nhỏ con, lùn tì không phải mỏi cổ khi nhìn lên bảng đen. Thường ai cũng nghĩ  khi ngồi xa tít mù khơi như vậy, bọn học trò dễ quay phim và ăn vụng, học hành lem nhem nên tránh đối diện với bàn thầy cô. Nhất là những đứa học giỏi bao giờ cũng chen chân vào hai dãy bàn ở trên cùng, phía tay trái ngay bàn thầy nhìn xuống, hoặc ở giữa lớp, còn ở cửa lớp bước vào, tuy là bàn đầu nhưng cũng có thể thuộc vào thành phần Xóm Nhà Lá vì dễ "dzọt " ra cửa.

Số tôi tuổi Trâu,  bà con với con bò, nên vì thế khi vừa oe oe cất tiếng khóc chào đời, lão thầy bói đã đoán tuổi này có số đi cầy, "ngu như bò" nên cả đời ngon lắm cũng chỉ có cỏ nhai. Nhưng để an ủi số phận tuổi con trâu cày bừa vất vả, thầy còn tán thêm với mẹ tôi rằng tuy con trâu, nhưng cũng có người ẩn con trâu "dzàng", hễ may nhờ phước đức ông bà, ẩn được tuổi trâu "dzàng" là mát mẻ tấm thân, tuy ăn cỏ nhưng quanh năm nhàn nhã. Hổng tin xin mời quý vị cứ quan sát cách "nhơi" cỏ của trâu nằm chuồng là thấy ngay được vẻ "an nhiên tự tại" đó: mắt lim rim, miệng trâu đưa lên đưa xuống nhai nhóp nhép như ăn trầu, vẻ mặt bất cần đời của trâu cũng y hệt mặt tôi mỗi khi trên dòng đời gặp cảnh không may . . .

Đến nay qua tuổi tri thiên mệnh, tôi mới ngẫm nghĩ lại rằng lão thầy bói nói đúng khi an ủi tôi là tuổi "con trâu dzàng" nằm nhơi cỏ.  Sự thật hồi còn nhỏ tôi nghe nói vậy nên cũng cố gắng vươn lên, bằng cách năm nào đầu niên học, cũng chạy đến lớp thật sớm, leo lên bàn đầu ngồi chình ình một đống. Bụng cứ nghĩ  đơn giản theo sự dành giựt ở cõi đời nhiều bon chen, hễ ai xếp hàng trước thì ưu tiên trước. Lớp học tôi không có kiểu bon chen như vậy, nên số tôi không khá, xung quanh tôi toàn là mấy đứa nhỏ con, loại ưu tiên một, sau đến mấy đứa học giỏi thích ngồi gần Thầy Cô để được đèn Giời soi sáng, tôi len vào đó có khác gì chim sẻ đòi vào bầy với chim công, chim phượng.

Đang ngồi hiu hiu tự đắc rằng phen này nhất quyết đời đi lên, dù sao ngồi ở bàn đầu, thầy cô chiếu tướng suốt nhiều giờ học, mới mong cải được số  "ngu như bò" của mình. Thiện chí như vậy mà cũng không được, đúng là giày dép có số thì con người cũng có số,  như bây giờ tôi dốt nát không làm nên "ông to bà nhớn"  thì lỗi ấy cũng tại ông Trời đó nghe. Tôi nín thở ngồi bàn đầu, không dám cục cựa nhúc nhích sợ mình thở mạnh là nó to ra như con bò, chưa gì  đã nghe tiếng dõng dạc của Thầy ban xuống:

" Em kia, bự con sao lại ngồi bàn đầu. Ôm tập vở xuống bàn dưới."

Theo ngón tay thầy chỉ thì hỡi ơi, cái bàn ấy áp chót, có mấy đứa cao lêu nghêu ngồi ở đó. Lũ nhóc ngồi xung quanh cười ầm lên khoái chí, loại trừ một tên dốt như bò đi xuống đúng nơi đúng chỗ, mấy đứa học giỏi "Xóm Nhà Lầu" háy nhìn tôi ra điều không biết thân biết phận. Tôi buồn bã ôm cặp vở len ra khỏi dãy bàn đầu sát bàn thầy cô, vừa mắc cỡ vừa buồn bã. Âu là số mệnh. Tôi tin con người có số ngay từ lúc đó,  từ hồi đi học thì đã có số học giỏi, học dốt rồi, dù có chăm cách mấy mà lời thầy dạy chỉ đi vào đến vùng ven của cái đầu rồi ngừng ở đó, thầy nói thầy nghe, tôi có nghe nhưng không hiểu chi hết.

Lũ bạn ở bàn dưới miễn cưỡng tiếp nhận tôi vào Xóm Nhà Lá, tôi lại bị hiểu "nhầm" thêm một lần nữa, cảm nhận được cái nhìn không mấy thiện cảm, ý nói tôi dám leo trèo qua xóm nhà lầu mà không biết lượng sức. Thực ra đó chỉ là ý nghĩ nông nổi của tuổi học trò mà thôi, chứ đối với các Thầy Cô thì lúc đến giờ "quay" bài đầu giờ học, theo thói quen thường để ý đến những cư dân xóm nhà lá, chứng tỏ các Thầy cũng đâu hẹp hòi mà bỏ rơi tụi tôi, hay chỉ thương mấy đứa nhà lầu học giỏi.

Chỉ mấy hôm là đâu vào đấy. Xóm nhà lá toàn dân cao giò, to con, ngồi một bàn cũng như người ta mà sao chật ních, nhất là lại gặp mấy đứa "sổ sữa" như tôi mà ngồi chung bàn, thì ôi thôi quay ngang quay dọc thế nào cũng đụng nhau. Lũ học trò làm quen với nhau thật nhanh, chỉ vài hôm nhờ nụ cười thân thiện đã khiến chúng tôi nhích lại gần nhau như chị em một nhà. Xóm Nhà Lá coi vậy tinh thần đoàn kết cao, đến giờ kiểm tra bài tập, hay có món gì ăn vụng được để dưới hộc bàn, chúng tôi chia cho nhau, bài cùng chép, ăn cùng chia, tinh thần tương trợ này không xóm nào trong lớp có được như Xóm Nhà Lá.

Đừng tưởng Xóm Nhà Lá chỉ là những dãy bàn hẻo hút, thân phận hẩm hiu ngồi ở dãy bàn chót mới gọi là Nhà Lá. Nó có thể nằm ở giữa lớp học, hoặc ngay hai dãy bàn đầu từ cửa lớp bước vô, nhưng bao giờ cũng không bị Thầy cô chiếu tướng trong sự thương yêu như tụi nhà lầu ở dãy trên cùng phía trong. Cư dân Xóm Nhà Lá chưa hẳn đã học dốt, thông minh nữa là khác, nhưng ham chơi hơn ham học mà thành dốt,  phải cùng một tần số "Quậy", phải biết luật giang hồ là không ích kỷ, không bỏ rơi bạn bè mỗi khi làm bài kiểm tra, bạn nào đi học quên không đem theo học cụ thì phải tương thân tương trợ ngay tức khắc. Hồi xưa lũ con gái đi học đến tuổi "kéo cờ đỏ" mỗi  tháng, nếu chẳng may có đứa nào gặp nạn thì cả lũ sẽ làm Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, khi tan học hộ tống đằng trước đằng sau đưa bạn về đến tận nhà, sợ tà áo trắng của bạn phất phơ theo gió mà "phe kia" nhìn thấy bông hoa hồng đỏ thắm phía sau tà áo.

Năm đó, sau một tháng đầu năm học thì có một nhỏ lạ hoắc ở đâu chuyển về lớp hơi trễ nên dù nhỏ học giỏi con nhà Quan thì khu nhà lầu cũng không còn chỗ . Chỉ còn một chỗ trong khu nhà lá, con nhỏ được thầy chỉ thị vào ngồi bàn của tôi. Lịch sự như Tây, tụi tôi nhích vào trong để nhường chỗ cho nhỏ bạn mới đến, chứ đúng ra thì nó phải chui vào ngồi trong cái hốc sát vách. Thế nhưng con nhỏ này không có vẻ gì biết ơn và biết điều với tụi tôi cả, mặt nó vênh vênh, lạnh lùng ôm cặp ngồi ngay đầu bàn, không nhếch miệng cười làm quen hay cầu thân, cũng không cảm ơn những người bạn mới đã tiếp đón mình một cách ân cần như vậy.

Sau buổi học, theo dõi thì mới biết nhỏ "kiêu kỳ" này làm phách vì nó thuộc loại "con ông cháu cha", đi học có xe đưa xe rước, tài xế lúc nào cũng chực sẵn ở cổng trường đợi tiểu thư tan học. Những đứa con cưng nhà giàu thường mang theo tinh thần kiêu kỳ ấy vào đời, đó là chuyện tự nhiên như cái số mệnh con người mà tôi đã đề cập ở trên. Sau này tụi tôi hiểu thì ngoài cái "mác" con  Quan, nhỏ còn học giỏi nữa, nên khi đến chậm phải chung đụng với bọn nhà lá chúng tôi thì tự nhiên bất mãn ra mặt. Bắt đầu từ đấy khi có sự hiện diện "bất đắc dĩ" của nhỏ, không khí Xóm Nhà Lá tự nhiên không còn vui hồn nhiên như dạo trước, chỉ xì xào nói lén con nhỏ kênh kiệu ở đâu nhảy vào phá mất cái vui của xóm nhà lá .

Tụi tôi liền quyết định đặt tên cho nhỏ là "Tiểu Thơ", dựa theo truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu,con nhỏ mang hỗn danh "Tiểu Thơ" cũng biết thế nhưng không làm gì được đám ma cũ Xóm Nhà Lá. Tiểu Thơ mặt mũi lạnh lùng, chỉ nói khi cần, quần áo lúc nào cũng phẳng phiu, trước khi ngồi xuống ghế bao giờ Tiểu Thơ cũng nhẹ nhàng thả vạt áo dài ra đằng sau. Tinh thần đoàn kết của xóm nhà lá như tôi đã kể vẫn muôn năm, chúng tôi học được tính không ích kỷ, biết chia xẻ với bạn bè lúc hữu sự, khi lớn lên vào đời cư dân Xóm Nhà Lá vẫn thể hiện được tình yêu thương đối với nhau, dù kẻ chân trời người góc bể.

Tính ích kỷ của Tiểu Thơ hiện rõ nhất trong những giờ làm bài kiểm tra, bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy lớp học năm xưa cũng là một xã hội thu nhỏ, ông Trời sinh ra con người cũng đã sắp sẵn cho mỗi người một bản chất xấu, tốt khác nhau. Tôi có thể kết luận như "đinh đóng cột" rằng, sau mấy chục năm ra đời, đàn chim non tản mát khắp nơi, bây giờ thành những con chim già mỏi cánh, trụi cả lông lá mà bản chất con người ra sao thì vẫn y chang vậy. Tiểu Thơ là một trường hợp điển hình, nhưng cũng may là hiếm có trong thế giới học trò, nên bây giờ còn lại được một ít bạn cũ, không bao giờ chúng tôi được gặp lại bóng dáng Tiểu Thơ.

Tôi còn nhớ mồn một buổi kiểm tra bài sử địa của thầy Đức. Ông là một ông thầy mà tôi nhớ nhất trong các vị giáo sư, ở những bài thơ, câu chuyện liên quan đến lịch sử, hay chỉ là chuyện đời mà trong lúc giảng bài, thầy hay kể hoặc đọc cho chúng tôi nghe:

" Công hầu bạch cốt, hồng phấn khô lâu"

Hay một câu đối đáp lịch sử đáng ghi như sau:

" Ai công hầu, ai khanh tướng, đường trần ai ai dễ biết ai.

Thế chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thì phải thế."

Những câu này đi vào tâm hồn non nớt của lũ học trò, sau này với chiều sâu của đời sống chúng tôi càng nhận ra được ý nghĩa vô cùng thâm sâu của nó. Bây giờ quay trở lại giờ kiểm tra hôm đó của thầy Đức, đó là một buổi chiều trời mưa rất âm u, ngọn đèn điện mờ mờ ảo ảo không đủ sáng cho lớp học, nếu không nhờ ánh sáng tự nhiên hắt vào lớp học từ những khung mắt cáo. Những giờ kiểm tra như vậy đối với đám học trò học "lơ tơ mơ"  Xóm Nhà Lá quả rất gay go, nhưng đối với Tiểu Thơ thì hình như là lúc để nhỏ phô bày sự thông minh, chăm học của nhỏ. Lúc bấy giờ tự nhiên cái bàn tôi ngồi bỗng rộng rinh, ba đứa ngồi trong xích vào gần nhau hơn, mắt chớp lia, miệng lào xào thì thào như trời thu lá rụng.

 

Tiểu Thơ xích ra đầu bàn, càng cách xa tụi tôi nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Phía tay trái của Tiểu Thơ là đầu bàn, lại là đường đi nên không còn xích xa hơn được nữa, nhưng phía bên tay phải của nhỏ thì được phòng thủ như công sự chiến đấu, bao nhiêu cuốn tập, cuốn sách lớn nhỏ được chất lên chiếc bàn chật, che kín trang vở học trò vừa được lấy ra từ tập vở để làm bài kiểm. Chưa hết, Tiểu Thơ còn muốn dùng luôn cánh tay để thủ một khoảng rộng cho đám bạn Xóm Nhà Lá không liếc được mắt vào, dĩ nhiên cư dân xóm nhà lá đầy tinh thần tự trọng, không ai cầu cứu đến Tiểu Thơ dù làm bài khó cách mấy. Hôm đó Tiểu Thơ là người đem nộp bài cho Thầy sớm nhứt, khi trở lại chỗ ngồi trên môi không quên nở một nụ cười tự mãn.

Công sự  "ấp chiến lược" của Tiểu Thơ được thu gọn lại trống trải, lúc đó Tiểu Thơ mới đưa mắt nhìn quanh để quan sát các bạn đang vật lộn với bài kiểm. Và trong cái không gian im phăng phắc của lớp học, Tiểu Thơ bắt đầu "méc" thầy khi phát hiện được sự quay, cóp rải rác của các bạn ở bàn khác, khiến thầy Đức thay vì khen Tiểu Thơ "báo cáo" giỏi lại đâm bực mình vì cô học trò tính  ích kỷ. Thầy lại chỗ ngồi của Tiểu Thơ rồi khỏ nhẹ lên đâu nhỏ: "Nhiều chuyện quá!". Tiểu Thơ chỉ học có năm đó rồi không biết sao sang niên học mới cũng biến dạng, chắc ba của Tiểu Thơ lại đổi đi nơi khác. Đó là một loại cá biệt trong thế giới học trò, làm méo mó đi trong con tim not nớt của lũ học trò tụi tôi chút kỷ niệm thời đi học.

Những ngày gần Tết là những ngày vui nhất của cư dân Xóm Nhà Lá, thiệp Xuân tự làm theo lối thủ công được trao nhau như bươm bướm, buổi liên hoan tất niên bao giờ Xóm Nhà Lá cũng đóng góp tài năng sung mãn nhất. Tuy không thuộc thành phần học giỏi của lớp, nhưng nói về những bộ môn khác Xóm Nhà Lá chẳng thua ai. Văn chương, thơ thẩn, báo tường được bàn tay năm ngón của Xóm Nhà Lá góp sức, đơn ca hợp ca được diễn lùng tùng xèng trong sự thán phục của các Xóm khác trong lớp học. Nhất là sau buổi học cuối cùng, cả bọn kéo nhau ra bến Ninh Kiều làm dăm tấm hình kỷ niệm, nhờ vậy sau này khi về già, trên bước đường đời cũng còn đôi đứa giữ lại được hình ảnh cũ.

TL_Aug16_nusinhgroup.jpgThời gian thấm thoát qua đi, mới đầu niên học chưa gì đã đến cuối năm, khi bước qua Đệ nhị cấp thì Xóm Nhà Lá ngậm ngùi chia tay nhau theo các ban A, B, C tùy theo khả năng của mỗi bạn. Cư dân Xóm Nhà Lá thường thích học Ban C, tưởng là được Chơi nhiều hơn học, văn chương vốn sẵn tính trời không học cũng biết nhiều, không có môn Toán nhức đầu mà đứa nào cũng sợ. Bước qua tuổi "mười bảy bẻ gãy sừng trâu", đám con gái nhóc nhách ăn quà,  hay chạy nhảy năm xưa bây giờ trông điệu đà hẳn ra, cô nào cũng mình hạc xương mai, đi đứng chậm rãi từng bước chân âm thầm trên những nẻo đường tới trường, làm lác mắt mấy bạn trai học trường kế bên. Lớp nào cũng có Xóm Nhà Lá và Xóm Nhà Lầu, đến bây giờ thì lớp học lại thêm một xóm nữa được đặt tên là Xóm Giai Nhân.

Xóm này qui tụ toàn người đẹp của lớp, khi tan trường lúc nào cũng sẵn một dàn xe Honda, xe Jeep đậu ngoài cổng Trường để đưa người đẹp về dinh, hay lang thang đi uống sinh tố, mì thập cẩm. Xóm Giai Nhân vì vậy mà học hành rất ...yểu điệu, trong cặp ngoài sách vở thế nào cũng có vài bức thư tình dấu trong tập vở. Xóm Nhà Lá chỉ giương mắt lên mà chiêm ngưỡng và thán phục, khá khen thay cho các thầy giáo trẻ nào lòng "khô như ngói", không hề rung rinh một ly ông cụ trước một rừng hoa đầy hương sắc. Xóm  Giai Nhân vì bận rộn chuyện tình yêu, lắm người đưa kẻ đón nên có khi đang học đã bỏ ngang để lại một chỗ ngồi trống trải trong lớp học, lên xe hoa về "nâng khăn sửa ví" cho một anh hùng súng ngắn, súng dài nào đó. Thực ra chẳng có tuổi nào hồn nhiên và trong trẻo như tuổi học trò, nên sau một vài năm làm phu nhân, các giai nhân  tuổi học trò sắc đẹp có đẹp hơn chăng nữa, cũng khó tìm lại được nét ngây thơ trong sáng của tuổi học trò năm xưa.

Xóm Nhà Lá chơi cùng chơi, học cùng học nên vì thế tuy không sao bì được với các bạn ở Xóm Nhà Lầu, không đẹp như Xóm Giai Nhân nhưng chắc hẳn cái vui tuổi học trò trọn vẹn nhất. Mùa nào chơi theo mùa nấy, Giáng Sinh, đường phố đông như chảy hội cũng có Xóm Nhà Lá rủ nhau đi vòng vòng nhà thờ dù đa số là con chiên ngoại đạo. Gần Tết khi mùa mận , mùa xoài, một lũ đạp xe vô vườn cột áo dài, leo cây vặt trụi mấy cây mận trong vườn một bạn đồng lớp, chẳng hiểu khi lũ quỷ ma học trò đi về, nhỏ bạn có bị cha mẹ rầy rà vì tội phá phách vườn tược như khỉ không? Chỉ biết là những kỷ niệm ấy nằm mãi trong tâm tư, mỗi khi hồi tưởng về quãng đời học sinh, bao nhiêu hình ảnh bạn bè năm cũ hiện về làm sống lại trong lòng niềm vui của tuổi xanh.

Trong khi đó, các bạn Xóm Nhà Lầu như "cá chép vượt vũ môn" leo lên Đại học, lần lượt ra trường để nắm được những chỗ đứng ngon lành trong xã hội, Xóm Nhà Lá cũng có những bạn chịu khó ngoi dần lên với đời. Người công chức, đứa tần tảo bán buôn, đứa thư ký đánh máy, đứa thợ may thợ thêu, đứa nội trợ, đứa  nào  cũng sống được qua ngày nhờ tính biết an phận thủ thường, đa số không đến nỗi nào chỉ trừ những bạn hồng nhan bạc phận, sau năm 75, lại tái ngộ nhau ngoài chợ đời để kiếm miếng cơm manh áo trong thời buổi khó khăn.

Ở bất cứ môi trường nào, Xóm Nhà Lá vẫn giữ được tinh thần "tương thân tương trợ " hiếm thấy, cho dù khi tuổi còn thơ ngây trong lớp học, khi ra đời bươn chải tìm sống giữa thời buổi "gạo châu củi quế", tình nghĩa con người trắng đen thay đổi khó lường. Nhưng Xóm Nhà Lá không ích kỷ vơ hết nồi cơm cho nhà mình, vẫn chia xẻ với bạn tận tình như ngày còn thơ chia cho nhau miếng ổi, trái chùm ruột dấu trong cái hộc bàn con con trong lớp học.

Có dịp thấy đôi bạn thuở học trò ở giai đoạn nghèo khướt ngồi bên nhau trên mảnh ni lông trải dưới nền đất ẩm, kiếm gạo nuôi chồng con mới thấy được cái tình cảm trân quý bắt nguồn từ thời đi học. Những bông hoa phượng vẫn tả tơi rơi xuống thảm cỏ ven bờ sông, mới héo hắt mà nhớ hoài tuổi học sinh vô tư lự. Cô bạn cùng lớp năm xưa tuy không thuộc Xóm Giai Nhân, nhưng cũng một thời hương sắc lên xe xuống ngựa, vậy mà sau những năm vất vả đói kém ấy, mặc tấm áo vá ngồi bán buôn giữa chợ đời, không thương sao được. Nhà hết vốn, chồng tù tội, chẳng còn cách xoay xỏa bạn lột bán mái tôn nhà bếp để có chút vốn nuôi con. Đến nhà bạn, trời mưa lâm râm mà căn bếp khói xông mù lên cay ướt mắt, bạn đội nón lá đứng nấu cơm chiều, cơm không thấy đâu chỉ thấy ba đứa trẻ ghẻ lở ngồi quây quanh rổ khoai lang để dưới thềm xi măng ở nhà trên. Chắc chỉ có bạn bè Xóm nhà Lá mới có thể hiểu nhau, chia xẻ với nhau đến giọt nước mắt tận cùng của cái nghèo như vậy. . .

Tôi không ca tụng Xóm Nhà Lá của tôi đâu, hỡi những người bạn đồng trang lứa năm xưa trong ngôi trường dấu yêu thuở ấy, nhưng tôi luôn luôn ghi nhớ trong lòng cái tình thương yêu của chúng mình tuổi học trò. Đến bây giờ những bạn bè Xóm Nhà Lá năm xưa đã tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả, nhưng nếu tin vào số mệnh thì dường như ông Trời không đến nỗi bất công để cư dân Xóm Nhà Lá năm xưa cả một đời lận đận. Dù rằng giờ đây ở tuổi này, bạn H. chịu căn bệnh ngặt nghèo nằm một chỗ trên giường bệnh, cuối cùng phải nhờ những viên thuốc giải thoát thân phận làm người, dù bạn S. giờ này vẫn một thân một mình đơn lẻ chiến đấu với sự nghèo túng để sống qua ngày, MV chắc tóc đã bạc phơ, trời còn mờ đất đã thức dậy nhen lửa để nấu quà sáng bán cho người nghèo trong xóm.

nn_nov13_ptgdtd.jpgVâng, các bạn Xóm Nhà Lá của tôi dăm đứa may mắn sang được xứ sở tự do, giờ này ai cũng gia đình đầm ấm no đủ. Đứa New York, đứa Houston, đứa San Jose, đứa  Wisconsin, chúng tôi vẫn không bao giờ bỏ rơi đám bạn Xóm Nhà Lá của mình ở quê nhà. Của ít lòng nhiều năm nào cũng có món quà gửi về gọi là an ủi, xẻ chia với các bạn, như ngày xưa chia cho nhau trái mận đỏ, miếng ổi, miếng bánh bò trong hộc bàn lớp học cũ. Tôi hoàn toàn hãnh diện mình được là cư dân "Xóm Nhà Lá" của lớp học năm xưa, dù trong thời cắp sách, đã có lúc ao ước được  lạc bước vào "Xóm Nhà Lầu"  hay là ngưởi đẹp của  "Xóm Giai Nhân."

Xin gửi riêng đến các bạn Xóm Nhà Lá năm xưa trong lớp học cũ của tôi mấy vần thơ sau đây:

 " Dẫu có đi, về nơi cõi khác

 Vòng quay sinh tử , vẫn vô tư

 Mốt mai có gặp nhau lần nữa

 Thì vẫn ân tình như thuở xưa."

Nguyên Nhung

__________________________________________

 

 

 

Niềm Vui Của Mỗi Ngày

NN_Jun21_niemvuicuamoingay.jpg

Bình Minh

Mỗi buổi sáng như một cái đồng hồ đúng giờ, tôi lóc dậy lúc 7 giờ. Việc đầu tiên là ra vườn tưới cây. Mùa hè trời nóng lắm, hôm nào cũng khoảng ngoài 90 độ F, nhưng cái nóng của ngoài trời lúc ban trưa cho người ta cảm tưởng nhiệt độ lên tới cảtrăm độ.

Chịbạn thân cũng thích trồng hoa kiểng, hôm đầu Xuân tặng cho tôi một cây đào, giốngđào này hiếm vì là đào Nhật Tân Hà Nội, có màu hoa đỏ thắm chứ không phải đào hồng như ở đây. Nhìn hoa nở thắm trong vườn nhà chị hôm đầu Xuân, tôi cũng mơ ước ởsân sau nhà, mình sẽ trồng được một cây đào xum xuê, mùa hè che bóng mát cho mảnh sân nhỏ và sau những ngày Đông buốt gía, sẽ tìm được mùa Xuân rực rỡ trong mảnh vườn nhỏ của mình.

Nhưng da tôi lại hay bị dị ứng với ánh nắng mặt trời, nên khi ra vườn tưới cây vẫn phảiđội mũ và đứng dưới bóng một cây cao để tránh nắng. Buổi sáng nắng chưa gay gắt, gió thổi hiu hiu nên mát rượi, nhìn cây đào lớn lên phơi phới tôi ngửa mặt lên trời, bầu trời xanh điểm xuyết những bóng mây trắng. Tôi thầm nghĩ đến chuyện phải cảm ơn trời đã cho tôi hưởng không khí trong lành của một bình minh êm ả, đã cho tôi chút gió mát để tâm hồn yêu đời phơi phới, và phải cảm ơn cô bạn nữa vìđã tặng cho tôi cây hoa quý, như đã cho tôi một mùa Xuân giữa những ngày đầu hạ.

Nhổ Cỏ

Mỗi buổi sáng đẹp trời như thế, nhổ cỏ cũng là một cách tay chân hoạt động và đổ mồ hôi thải bớt những chất độc trong người.

Cỏ đối với tôi không phải là kẻ thù nếu như nó được mọc thành bãi, một bãi cỏ xanh trong một ngày đẹp trời, để mình nằm thả dài trên sân cỏ mà nhìn trời xanh, chẳng thú lắm sao!

Nhưng cỏ mọc lẫn lộn trong hoa, sự phát triển của nó nhanh cấp kỳ vì được tuới tắm mỗi ngày. Tôi cũng đâu ích kỷ với Cỏ, nhưng muốn cho hoa tăng trưởng được thì phải nhổ cỏ. Thôi đừng lười biếng nữa, nhổ những cây cỏ non sống nhờ dưới thân hoa, là một việc dễ dàng hơn là cứ để nó tự do lớn mạnh, khi ấy rễ của Cỏ đã bám sâu vào đất, tôi sẽ mất công lắm!

Vừa nhổ cỏ tôi vừa nghĩ. Ừ nhỉ, chất chồng trong tâm tôi cũng bao nhiêu cỏ dại, hãy dùng một chút thời gian để nhổ bớt đi những cây cỏ mọc không đúng chỗ trong tâm hồn mình, đời sẽ đẹp như mảnh đất trồng hoa đã quang đãng hơn vì không còn cỏ dại, hay chỉ còn rất ít.

Vẫn Còn Xuân Chán!

Tôi có một vài người bạn vong niên, tuy gọi bằng “Chị” nhưng hơn tôi đến hai mươi mấy tuổi. Quen rồi, hồi mới sang Mỹ chúng tôi ở chung một xóm, cùng học chung một lớp ESL dành cho những người mới tới. Chị là vợ một nhà văn, ông viết cho một số tạp chí ở hải ngoại, hình như người đàn ông ấy có những đam mê khác bà vợ, sống yên lặng trong nhà ít giao du với hàng xóm. Chị hay cười và suốt ngày lúi húi với những cây hoa hồng lúc nào cũng đơm hoa.

Quanh năm, người phụ nữ gầy gò, mảnh dẻ ấy chỉ lúi húi ở nhà bếp và mảnh vườn sau, không thấy chị xen vào việc sáng tác của chồng. Từ trên lầu của khu chung cư ngó xuống, lúc nào tôi cũng thấy chị bưng , xách từng chậu hay sô nước để tưới hoa. Nước ấy là nước vo gạo, nước rửa rau, nước lau nhà, khuôn mặt chị dấu kín dưới vành nón rộng, nhưng tôi biết chị rất thích và đam mê với hoa lá của mình.

Những bông hồng cứ nở hoa, dọc theo đường đi, ai khen hay thích xin chị cũng sẵn lòng cho một cây nhỏ ương sẵn về trồng, hai mắt chị cười tít lại, hạnh phúc như tỏa ra trên khuôn mặt đã nhiều vết chân chim.

Bẵngđi nhiều năm từ khi tôi rời xa chốn cũ, hình như tôi vẫn nhớ nơi này nhiều nhất vì nó đã chuyên chở giùm tôi biết bao kỷ niệm. Căn nhà có khung cửa kính mở rộng nhìn xuyên suốt ra ngoài, ven đường có hàng sồi lặng lẽ xanh biếc với thời gian. Đi quá vào trong là một con suối có nhiều cây dâu dại, những chiếc lá khô rơi xuống và thả mình trên mặt nước như những chiếc thuyền con.

Tình cờ tôi gặp lại chị trong chợ, vẫn nụ cười tít mắt trên khuôn mặt đã nhăn nheo với thời gian. Chị mừng nắm tay tôi rồi bảo:

“Vẫn Còn Xuân Chán!”

Tôi bật cười:

“Hơn 10 năm rồi mới gặp lại. Chị khoẻ không?”

Chịcười, giọng nói vẫn sảng khoái và vui tươi như ngày tôi dọn nhà đi, chị ân cần bứng luôn một bụi hồng lớn màu hồng nhạt để tặng tôi, thêm cây dạ lý hương cũngđang nở hoa:

“Vẫn Còn Xuân Chán! Mỗi ngày tôi uống một vốc thuốc cho đủ thứ bệnh già, nhưng hễcòn đi lại được thì tôi “vẫn còn xuân chán”.

Ha ha, từ đấy tôi và chị hay liên lạc lại với nhau, chị khoe khi dọn về nhà mới chịcũng có một mảnh vườn trồng đầy hoa hồng, nhưng bây giờ tuổi đời chồng chất đã 87 cái xuân gìa, con chị không cho chị bưng nước tưới hoa nữa, chị dùng vòi nước tưới cây trong vườn, hoa cỏ lên phơi phới.

Mỗi lần nói chuyện với chị qua đường dây điện thoại, tôi hình dung ra người phụ nữcao tuổi ấy là một bóng cây cao tỏa bóng mát cho khu vườn của chị, và cả tâm hồn người khác nữa khi tôi nhớ tiếng cười ha ha của chị:

“Vẫn Còn Xuân Chán!”

Nghỉ ngơi

Anh”Còm” của tôi cũng thuộc hạng lão làng như tôi vậy, nhưng tôi quý anh lắm, bởi đã quen nhau như người bạn thân thiết lâu năm, tri âm tri kỷ tri bỉ là thế! Tính không thích thay đổi khiến tôi hụt hẫng hay khó chịu khi phải sử dụng một cái máy mới, có lẽ tôi không đuổi kịp sự văn minh của khoa học, như một người già khó thích nghi với cách sống tân tiến của đám trẻ bây giờ.

Những khi ở nhà, tôi miệt mài bỏ nhiều giờ với “người tình mặt vuông”. Khi thì viết, lúc làm thơ, lúc làm PPS, khi lại loay hoay với mấy tấm hình, thú làm PPS khiến tôi cũng say sưa chụp ảnh nghệ thuật và sưu tầm, ráp nối nhiều tấm ảnh đẹp. Gọi là thú vui tao nhã của tuổi già cũng được, vì tôi không phải cô đơn trống trải một ngày dài, lại không tốn tiền ảnh hưởng kinh tế gia đình.

Thếnhưng anh “còm” của tôi đã cũ nên anh cũng hay đau yếu vặt vãnh, và khi nào phải làm việc nhiều quá với cái đam mê của tôi thì người anh nóng ran, muốn xì khói. Những lúc ấy tôi cũng linh cảm nỗi mệt mỏi của anh, và của tôi nữa. Sờ vào anh đã thấy hâm hấp như lên cơn sốt, anh như muốn bảo tôi:

“Thôi đứng lên đi, tôi mệt rồi, bạn không biết mệt hả? Coi chừng cái lưng của bạnđấy!”

Thấy tôi vẫn còn nấn ná, anh nóng tiết lên ( nóng thật tình vì có mùi khen khét):

“Đứng lên đi, tôi mà cháy máy thì bạn cũng hết đường tương chao. Làm gì thì cũng phải nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi chứ!”

Lần này thì tôi đứng lên thật, dù muốn hay không tôi vẫn phải nghĩ đến sự Nghỉ Ngơi cho anh, và cả cho tôi nữa.

Thân chào bạn nhé, vì bây giờ “ người tình mặt vuông” của tôi đã mệt , và tôi cũng mệt rồi, phải nghỉ ngơi để còn tận hưởng niềm vui của mỗi ngày đang có.

Nguyên Nhung

( mùa hè 2013)

Nếu rảnh, mời xem PPS " Niềm Vui Của Mỗi Ngày" với những hình ảnh cây nhà lá vườn của NN.

PPS Tuỳ Bút" Niềm Vui Của Mỗi Ngày" là những câu chuyện nhỏ quanh cuộc sống chúng ta, ghi lại cảm nghĩ về thiên nhiên, con người và thi vị hoá những sinh hoạt đời thường, qua một số hình ảnh cây cỏ ở mảnh vườn nho nhỏ.Mời bạn ghé vào thăm....
Nguyên Nhung


https://www.box.com/s/cqhiumryzxh6du1yeq9h

Enter supporting content here