|
|
|
TRUYỆN& THƠ
Nguyên Nhung _______________________________________________________________________________________________ _
Để
nhớ ngày chia đôi đất nước 20 tháng 7 năm 1954
Cuộn Phim Buồn
Quê người
một sớm heo may đến Có ai gửi lại cuộn phim buồn Nửa
thế kỷ rồi sao vẫn nhớ Nhớ ngày tất tả chạy vào
Nam Ba đứa con khờ còn ăn bám Mẹ gánh oằn vai một
núi sầu Cha tôi vừa mất vài hôm trước Mộ còn
chưa ráo những thương đau Lén lút mẹ con dắt díu
nhau Bỏ nhà bỏ cửa chạy đi đâu? Ngoái trông chốn
cũ sau màn lệ Vội vã theo nhau bước xuống tàu Nước
mắt ngắn dài ai hiểu thấu Trong lòng mẹ khổ biết bao nhiêu Đứa lớn tuổi đời còn niên thiếu Đứa còn bé
xíu biết gì đâu Dù vậy trong đầu cô bé
thơ Bóng dáng mẹ tôi vẫn chẳng mờ Vai gầy nặng trĩu
đôi quang gánh Tiếng gà eo óc lúc tinh mơ Hôm nay
ai gửi cho xem lại Những hình bóng cũ tự ngày xưa Nước
mắt rưng rưng tôi nhớ mẹ Nỗi buồn năm cũ vẫn còn
đây Tôi cố tìm tôi mà chẳng thấy Những ngày
thơ bé, lúc vô Nam Ai thấy xin vui lòng chỉ hộ Trên đầu
cô bé chít khăn tang... Nguyên Nhung Cảm tác
khi xem xong cuộn phim ngày đất nước chia đôi 1954
BUÔNG...
Thật sự cho đến bây giờ, tôi vẫn không biết văn
chương đến với tôi là Nghiệp hay Nợ. Nhà văn Doãn Quốc Sĩ trong một lần
ngồi tâm tình với cô bạn văn, Thầy vẫn xem chúng tôi, những người viết văn
hay làm thơ là những người bạn nhỏ của Thầy, đã nói một câu mà
cho tới giờ này tôi không quên: " Viết chỉ là Nghiệp khổ, cứ vui vẻ mà
trả cái Nợ văn chương của mình. Không viết không được, cũng khổ vì
luẩn quẩn hoài những câu chuyện và nhân vật trong đời sống của mình
không chịu buông. Thôi thì cứ viết, cứ in sách mặc dù biết tác phẩm không
nuôi sống được mình, nhưng dù sao mình cũng trả xong cái Nợ viết"
Tôi vẫn gọi ông là
Thầy, mặc dù chẳng được học với Thầy một giờ, nhưng từng trải với
cuộc đời để viết
thì thầy có vô số kinh nghiệm. Nhân ngày lễ Quan Âm tổ chức ở chùa Việt Nam,
tôi lại gặp Thầy khi
cả hai được mời đến gian hàng thả thơ để nói chuyện văn chương sách
vở, dĩ nhiên với đám đông Thầy luôn là một vì sao sáng. Trong khi chờ đợi hai thầy trò ngồi dưới
bóng mát của một cây cao, tấp nập người qua kẻ lại, câu chuyện không hiểu vì sao lại đưa qua chữ
BUÔNG khi thấy Thầy băn
khoăn chờ buổi nói chuyện do ban tổ chức mời, trên tay cầm một
tập giấy. Băn khoăn mãi thầy hỏi tôi: " Không hiểu tôi sẽ nói chuyện
ở đâu và giờ nào?" Nhìn nỗi băn khoăn trong đôi mắt Thầy,
tôi nói đùa: "
Thầy ạ! Đừng nghĩ mình sẽ nói gì và ở đâu,
chỉ biết giờ này hai thầy trò ngồi đây ngắm ông đi qua bà đi lại cũng
vui rồi. Trong đám đông ấy chẳng mấy ai biết mình là ai, hội chợ phù hoa cả thôi
thầy ạ." Bất ngờ thầy hỏi lại tôi: " Như vậy có nghĩa là Buông
phải không?" Tôi gật đầu hóm hỉnh: " Vâng, đạo Phật thường dạy người ta tập
buông bỏ thì bây giờ mình tập buông không biết mình là ai, quan trọng như
thế nào, cái tôi gò bó sẽ không cho mình thoải mái khi đến một nơi
nào, làm một việc gì
mà không hiểu có được như lòng mong đợi."
Câu chuyện tới đó
là hết khi thầy được mời nói chuyện thơ văn giữa ban trưa, ở một nơi đông
người qua lại mà hình như chẳng có mấy người tha thiết đến chuyện văn chương
thơ phú. Bây giờ nghe
nói thầy đang dưỡng già bên Cali cùng con cháu, trí nhớ
mù mờ đã quên
nhiều và quên cả tên những người thầy quen biết. Phải chăng thầy đã buông
đời trong một nghĩa nào đó, hay chính cuộc đời chỉ là một sự đào
thải không ngừng theo giòng thời gian. Nhớ lại lúc ban đầu tôi tới với nghiệp cầm
bút ở hải ngoại, chỉ vì muốn được tặng 1 năm báo của tạp chí Hương
Quê do nhà nhiếp ảnh Văn Vũ làm chủ nhiệm, nhà văn Anh Vân làm chủ bút
( nay anh cũng đã tiêu diêu miền cực lạc). Cái thuở ban đầu mà đi đâu
tôi cũng có thể mang về nhà một tuần báo, hay tạp chí biếu không, chứ mua
thì chắc là tôi chưa nghĩ tới chuyện mua ủng hộ các tờ báo đâu (vì chưa
làm gì ra tiền). Chủ đề của tạp chí Hương Quê là dành cho những gia đình
HO (diện tù CS) sau năm 1975,
viết về những năm tháng lao tù và cả những nỗi nhọc nhằn
sau năm 1975 mà chúng
tôi trải qua. Chủ
đề như đánh trúng sự đau khổ của lớp người đã
từng sống dưới chế độ CS sau năm 1975. Không có máy đánh chữ và cũng
chưa có computer để
sử dụng như bây giờ, tôi vừa giữ trẻ vừa hì hục viết
rồi cũng xong truyện
"Bên Bờ Vực Thẳm", kể toàn những sự thật cay đắng
trong thời gian đó,
gửi bản thảo viết tay cho ông chủ nhiệm báo Hương Quê. Ai
ngờ, tháng sau khi
báo phát hành, bài của tôi được chọn đăng và
còn nhận được tờ
báo biếu với lá thư cảm ơn viết rất trân trọng, sau đó
là một cú điện thoại do chình chủ nhiệm gọi tới tận nhà mời tôi cộng
tác thường xuyên với tờ báo. Thực ra viết không khó, hình như người Việt
Nam nào cũng là một nhà thơ, nhà văn nếu chịu khó quan sát cuộc sống xung
quanh mình, từ con người cho tới cây cỏ, nếm trải thêm nhiều cay đắng chát chua
của đời rồi cứ thế viết lại một cách trung thực, hình như dễ đi vào
lòng người. Viết
khổ thật như lời thầy Doãn quốc Sĩ nói sau này, nhất là
đối với người thiếu
thốn mọi phương tiện như tôi, nghĩa là chỉ có xấp giấy
trắng và cây bút
nguyên tử (cầm bút mà ly!). Sau đó muốn gửi cho báo nào,
thì lại phải đi
photocopy rồi đem ra Bưu Điện, và kết quả là cái ông chủ
bút, chủ nhiệm hay
thư ký toà soạn, cũng lây cái khổ từ nghiệp văn chương
như tôi, nghĩa là
ngồi cong lưng đánh máy lại. Sau này khi được ông anh họ
tống khứ cái máy
computer cũ tôi mới học đánh máy bỏ dấu chữ Việt, việc
viết lách nhờ vậy
đỡ khổ hơn cái thời ngồi bôi bôi xoá xoá, viết đi
viết lại mỏi cả tay. Nhà ở gần một cái chợ nhỏ của người Việt Nam,
mỗi tuần đi chợ lại nhặt đem về vài tờ báo nữa, quảng cáo thì nhiều,
bài vở thì ít nhưng dù sao cũng là món ăn tinh thần của người Việt
tha hương mới sang định cư như gia đình tôi. Dù vậy ngoài mục bình luận về
thời thế, tin địa phương, chuyện gia đình thì họ cũng ráng nhét thêm một,
hai bài thơ, hay một truyện ngắn không dài lắm. Lần này thì cái Nghiệp Khổ của
tôi nó thừa thắng xông lên, nhớ đến lời khích lệ của thầy Phạm Huy Viên,
giáo sư dạy môn Văn trường Đoàn thị Điểm Cần Thơ năm xưa, khi tôi
mạo muội đưa cho thầy đọc vài truyện ngắn viết về nỗi trăn trở của
tuổi trẻ thời chiến tranh. Đọc xong thầy thở dài vì biết học trò mình đã trưởng
thành và đánh mất quá sớm tuổi học trò khi phải chứng kiến hằng ngày sự
bi thảm của chiến tranh. Dù sao thầy cũng thân mật nói với tôi một câu: " Thầy dạy em thật nhưng chưa chắc
viết được như em. Cố lên, hy vọng sau này em sẽ trở thành một văn sĩ."
Tôi bắt đầu viết
cho tuần báo "Saigon Journal" do chị Vũ Thanh Thuỷ, phóng viên chiến trường ở VN trước
năm 75 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Cứ mỗi tuần, cô thư ký lại gọi phôn
nhắc tôi gửi bài, và hầu như bài được đăng dài dài trên tuần báo
này. Đâu ngờ nơi đây cũng chính là bàn đạp để tôi sáng tác, nhiều đề
tài khác nhau để có truyện đọc dai dẳng hơn 10 năm, mỗi tháng một truyện, ôi
biết bao nhiêu chuyện từ những cay chua để có thể tồn tại được với trăm
bề thiếu thốn ở VN sau chiến tranh, cho tới cuộc sống xung quanh của người tỵ nạn
mới chân ướt chân ráo tới Hoa Kỳ. Sau đó thì cái nghiệp lại có vẻ nặng
nề hơn, tôi được mời phụ trách chương trình đọc truyện trên Radio do chính
tôi viết và đọc, ban đầu thì rất khớp vì đây không phải là viết cho độc
giả đọc, mà còn cho thính gỉa nghe khiến tôi ... run như phải đứng trước hằng
nghìn người để nói một bài gì đó mà lại không thuộc bài. Mãi sau cũng
quen, tôi đã làm được chương trình này hơn 10 năm, chưa kể chương trình
Giới Thiệu Sách cho các nhà văn, nhà thơ khắp nơi gửi tới nhờ giới thiệu.
Tôi được nhiều tạp
chí mời cộng tác, trong đó có tạp chí "Văn Hóa
Việt Nam" do anh Phạm
quang Tân làm chủ nhiệm, nhà văn Lê Cần Thơ làm chủ bút. Tạp chí này ba tháng một
lần, quy tụ được rất nhiều cây bút tầm cỡ khắp nơi, nhất là về văn học.
Sau đó thì cái Nợ đưa đẩy, trở về với những anh
em trong gia đình HO, hoàn
cảnh chung là những người Lính bị đi tù sau năm 75, và được chính phủ
Hoa Kỳ cho định cư ở Mỹ, đền bù lại những lúc ăn
bo bo và đi kinh tế
mới. Trong các tạp chí tôi thương nhất tờ báo này, vì
toàn chỗ anh em đồng
cảnh ngộ, tạp chí HO cũng nghèo tơi tả sống nhờ quảng cáo và đôi khi từ
tiền túi của ông chủ nhiệm Phạm Hi, (anh cũng đã ra đi về với Chúa 10 năm rồi),
và cũng là người làm được nhiều chương trình thiết thực
cho gia đình HO lúc bấy giờ. Ảnh dưới đây:
GS Nguyễn Văn Trường bồng đứa cháu gọi bằng ông,
chụp 2 ngày trước khi GS Trường từ giã thế gian ngày 3 tháng
1 năm 2018 tại Houston, Texas.
Tôi tiếp tục câu chuyện
dở dang này khi một truyện ngắn của tôi đăng trên Đặc San PTGĐTĐ ở San Jose năm 1999. Câu chuyện tình
khá lâm ly bi đát, nhưng lại đưa ra hoàn cảnh bi luỵ của một mối tình học
trò, giữa hai giai cấp
giàu nghèo của "chàng và nàng", khi cô nữ sinh ngày ấy lại là con một người
lính trận, sống trong
một khu lao động nghèo, để rồi khi người cha tử trận, bỏ lại một gia đình nheo nhóc
trong cảnh lầm than. Mối
tình ấy chắc chắn phải vỡ tan vì cái nghèo càng ngày càng đưa đẩy
gia đình người tử sĩ vào bế tắc, và cuối cùng thì đến năm 1975, chế
độ miền Nam hoàn toàn sụp đổ, cô gái may mắn theo đoàn người di tản qua
xứ người, còn chàng trai nhà giàu kia sau cũng là một sĩ quan VNCH, nên cũng bị tù
nhiều năm trong trại tù CS. Chuyện còn nhiều tình tiết theo tưởng tượng của
người viết, tha hồ cho nhân vật mình đi vào ngõ ngách của cuộc đời, cũng
không gọi là một câu chuyện đặc biệt lắm nhưng lại được giáo sư
Nguyễn văn Trường chú ý đến tác giả, và nhân một dịp họp mặt nho nhỏ,
Thầy đã giới thiệu tôi đến với tạp chí Đi Tới ở Montréal, với lời gởi
gấm và hy vọng đem trồng một cây hoa dại, giữa khu vườn toàn những cây bút
gạo cội như Bác Sĩ Ngô thế Vinh "Cửu Long cạn giòng, biển Đông dây sóng",
tiến sĩ Mai thanh Truyết viết về chất độc màu da cam, giáo sư Nguyễn văn Trường viết
nhiều bài về giáo dục, nhà văn Phan Nhật Nam, Vũ ngự Chiêu viết về chiến tranh,
nhà văn Trần
bang Thạch viết về cuộc sống quanh chúng ta, và còn rất, rất
nhiều những cây bút
khác mà tôi không nhớ rõ. Hôm nay một ngày mùa đông 2018, thầy Nguyễn văn
Trường đã ngủ yên trong lòng đất, và nếu như thế giới bên kia hồn
được bay bổng, tôi mong rằng thầy cũng đang trên đường thênh thang về thăm
lại Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long, nơi chôn nhau cắt rốn của Thầy. Và sẵn dịp lan man vài
giai thoại vui vui về Thầy,
khi giới thiệu tôi với tạp chí Đi Tới, đa số là những những nhà khoa bảng, nhà
giáo, nhà chính trị có tên tuổi trước kia, tôi đã đáp ứng ngay bằng bài
viết "Lá Thư Gửi Thầy Giáo Cũ", để không ngờ bài viết đã làm rơi lệ
bao thầy cô giáo một thời lao đao với XHCN. Giữa thầy và tôi hình như đã không
có một khoảng cách xa tăm tắp như người trên trời, kẻ dưới đất, lắm
khi thầy viết email cho tôi chỉ để hỏi về một chữ phải viết sao cho đúng, vì thầy
tin tưởng cái chất Bắc Kỳ của tôi có khả năng viết ít khi trật chính tả.
Thầy tâm sự, đời học trò thời Pháp thuộc học toàn chữ Tây, lại dân Nam Kỳ
nên " nói sao viết vậy", bài viết có giá trị mà đôi khi hơi bị ...
sai lỗi chính tả, nên thấy cũng không ổn lắm. Nhưng đặc biệt nhất vào một
mùa thu, thầy được mời thuyết trình cho Hội Giáo Chức, và thêm một buổi nói
về Thu tại Trung Tâm Cao Niên khu Northwest. Thầy Trường đã mượn bài thơ " Chiếc
Lá" của tôi để dẫn nhập vào bài thuyết trình hôm ấy, vì nỗi trăn trở
khi muốn biết thân phận cuả chiếc lá hay con người rồi sẽ đi về đâu: "Có đôi khi tôi hỏi mình
là ai Từ đâu
tới, và còn đi đâu nữa..." Trong vài lần tiếp xúc này, tôi đã
nhận ra tính cách khiêm nhượng của thầy, một nhà giáo đúng nghĩa trong đời
thường cũng như trong nghề nghiệp. Thầy thắc mắc khi đọc tiếp vài câu thơ trong
bài thơ Chiếc Lá, và hỏi tôi lý do tại sao lại viết
như vậy: " Một
nửa đời đã đong đầy nỗi nhớ Một nửa đời còn lại để lãng quên Rồi một ngày sẽ không nhớ nổi tên Của những người quen mà mình đã biết"
Tôi đã hồn nhiên
trả lời sự thắc mắc này, như ngày xưa tuổi học trò
tôi vẫn hồn nhiên
nói chuyện với các thầy cô của tôi: "Thưa thầy, theo em thì ... mỗi người thời
tuổi trẻ, đã chất chồng bao nhiêu kỷ niệm huy hoàng, đau thương vào trí nhớ
của mình, cái đó gọi là quá khứ. Nhưng rồi đã đến nửa đời sau
người ta từ từ muốn quên đi, và em coi đó là Buông,
buông đi cho nó nhẹ
để an hưởng tuổi già. Cuối cùng Quên chưa đủ, đến
lúc không nhớ nổi
tên người mình quen nữa thì gọi là Lãng. Đó là
lúc Chiếc Lá nó sắp rơi đó thầy...hì hì hì" Cứ tếu tếu vui vui vậy, hai thầy trò
trao đổi với nhau trong điện thoại, ngày xưa tôi học dốt nhưng may mắn ông trời
ban cho chút năng khiếu bù trừ, nên mới có cái may nhờ văn chương mà gần gũi
với độc giả khắp nơi. Mùa đông năm nay, mới bước vào năm mới thì Thầy
đã vĩnh viễn ra đi, thoảng như chiếc lá rơi nhẹ đến nỗi đất trời tưởng
như cũng không ngờ chiếc lá vàng ấy đã lặng lẽ lìa xa trần thế, về
nơi vĩnh hằng mà khi còn sống thấy vẫn gọi đó là
hội Nát Bàn. Ý nghĩ ấy khiến tôi lại nhớ đến
hai câu thơ trong bài thơ viết đã lâu: " Lá ơi, khi lá mới vừa trổ Là biết khi nào lá sẽ rơi!"
Chuẩn bị tinh thần thì
sẽ thấy lằn ranh sống chết chỉ đi bằng một bước chân, tìm cách sống an nhiên
tự tại để hưởng hạnh phúc từng ngày là đạt Đạo.
Cuối năm, ở tuổi "ôn
cố tri tân" nên không khỏi nghĩ ngợi chuyện cũ, chuyện mới, có khôn hơn một
tý thì cũng là lúc bước gần hơn một tý điểm
tới của đời người.
Chẳng có chi mà buồn! Trở về câu chuyện văn chương, tôi cũng chẳng thấy là
Nghiệp hay Nợ, vì nếu như mình buông không nắm giữ thì coi như nhẹ gánh cho
đôi tay đỡ mỏi khi gõ chữ trên máy, và cái đầu cũng không lộn xộn
nghĩ tới nghĩ lui mấy nhân vật (thường là tưởng tượng) ẩn hiện trong bữa
cơm, giấc ngủ của mình. Nguyên Nhung Mùa hè 2018. ___________________________________________________________
THƠ XUÂN
NGUYÊN NHUNG Click hàng chữ tím trên đây để
xem PPS Mẹ Tôi Hoa Tím Giữa Mùa Xuân
ANTELOPE CANYON STRATOSPHERE TOWER, Las Vegas/Nevada. Từ 2 năm nay, cứ đúng
mùa Tạ Ơn là chúng tôi có mặt tại miền Nam Cali để
thăm cháu. Cali mùa này chỉ đủ lạnh để khoác một
chiếc măng tô đi lang thang trên phố, ngắm ông đi qua bà đi
lại. Nhớ lại mùa Tạ Ơn năm trước, chúng tôi đón
lễ Tạ Ơn tại Los Angeles. Tuy gọi là thành phố thiên thần nhưng
lại rất nhiều "homeless" sống vạ vật và xin tiền khách du
lịch. Họ không ồn ào van xin, chỉ im lặng chià tay và khi nhận
được chút chia sẻ của người qua đường thì vẫn là
nụ cười và câu "Cảm Ơn". Ngoài
vẻ hào nhoáng của kinh dô thế giới điện ảnh, một buổi
tối con tôi lái xe đưa chúng tôi vào khu vực xa phố hơn,
trên những con đường vắng của Los Angeles, đây là nơi cư
ngụ của những người "vô gia cư", bao nhiêu là lều bạt
được trang bị như người ta cắm trại trên bãi biển san
sát với nhau, dựa theo bờ tường những con đường nhỏ. Nơi
nào cũng có cảnh khác biệt giữa giàu và nghèo, điều
này khiến tôi chạnh nghĩ đến một thời ở Việt Nam, và
cho tới bây giờ vẫn còn rất nhiều người nghèo, chui rúc
dưới gầm cầu, trong nghĩa địa, hay tìm một chỗ nằm qua đêm
bên hiên phố vắng. Thế rồi đúng vào
ngày lễ Tạ Ơn, từ miền Nam Cali chúng tôi làm một cuộc
hành trình 3 ngày lên phía Đông Bắc của tiểu bang Cali. Trong
khi phía Nam khí hậu chỉ đủ lạnh như Đà Lạt thì sau
5 tiếng đồng hồ lái xe, càng lên cao không khí càng tụt
xuống ở nhiệt độ đông đá. Xế trưa hôm đó
chúng tôi đã có mặt tại thành phố Mammoth Lakes, mới tháng
11 mà tuyết như một chiếc chăn bông màu trắng phủ khắp nơi,
nhìn lên cao giải núi bao quanh cũng óng ánh màu tuyết bạc
trắng dưới ánh nắng mặt trời. Đó
là lần đầu tiên tôi được đến xứ tuyết, được
lội trong tuyết và đi xem người ta trượt tuyết từ trên đỉnh
núi xuống thung lũng rất ngoạn mục. Tuy vậy mà lại không thấy
lạnh vì trời không có gió, với vài lớp áo dầy cộp
lại thấy có chút gì êm ả và ấm áp trong tâm hồn,
khi nghe đâu đó vang lên khúc nhạc dìu dặt mở đầu
cho mùa Giáng Sinh sắp tới. Năm nay chúng
tôi chọn cuộc hành trình từ Los đi về hướng Tây, tức
nhiên phải nghỉ 2 đêm ở Las Vegas, thành phố lắm TỘI mà
có sức quyến rũ những con thiêu thân lao vào ánh đèn của
thế giới Casino. Thế nhưng cứ ngày đi đêm nghỉ, không đủ
sức để cầm chân khách du lịch miệt mài với sự mời
gọi của những chiếc máy cờ bạc kia đâu, vì sáng hôm
sau phải ra đi khi trời còn mờ tối. Tối
đầu tiên ở Las Vegas, từ tầng cao nhất của tháp Stratophere tha hồ
chiêm ngưỡng phố phường đèn hoa rực rỡ, tôi lại
rùng mình nhớ đến cuộc xả sung vô tội vạ của một
tên điên khùng, đã lấy đi gần 60 mạng người và
trên 500 người bị thương. Tháp STRATOSPHERE, với chiều cao 1.149 feet,
được khánh thành vào năm 1996 và là một công trình
xây dựng cao nhất thành phố Las Vegas. Đây cũng là ngọn tháp
đón du khách lên ngoạn cảnh 360 độ chung quanh thành phố với
vòm kính hình tròn đường kính 160 feet, thuộc loại cao nhất
của nước Mỹ. Với 4 thang máy chạy với vận tốc 1800 feet/phút (tương
đương 20,5 dặm một giờ) sẽ đưa du khách lên đỉnh
tháp rất nhanh chóng và tiện lợi. Sẽ là một thách thức
lớn cho những ai muốn leo 1.644 bậc thang từ mặt đất lên đến
đỉnh. Trong tháp có 107 gian hàng, quán
rượu, nhà hàng... và hai nhà nguyện ở tầng 103 để tổ
chức đám cưới...trên cao...Đặc biệt trên đỉnh tháp
là những trò chơi được đặt ngoài không gian mở mà
những ai yếu tim không nên thử! Sớm hôm
sau, du khách lục tục vác hành lý xuống "lobby" của khách
sạn để chuẩn bị lên đường. Xe rời Las Vegas và bắt đầu
đi vào vùng sa mạc, đồi núi trơ trọi đồng khô cỏ
cháy chỉ có loại xương rồng là gồng mình chịu được.
Hai bên đường hiếm khi gặp làng mạc, nơi tiếp giáp của
3 tiểu bang Nevada, Utah và Arizona, vùng đại vực khô cằn này không
thấy sinh hoạt phố xá sầm uất, thỉnh thoảng là một ngôi
làng nhỏ lèo tèo ít nhà cửa, có nóc nhà thờ Mormon
vươn lên và lá cờ nước Mỹ bay phần phật trong nắng.
Tôi chợt nhớ ra bộ phim chiếu lại cuộc hành trình của những
người đạo Mormon, cũng nằm trong cuộc lịch sử khởi đầu
khai phá miền Tây nước Mỹ, bằng những cỗ xe ngựa như một
cái nhà nhỏ có bánh xe bằng gỗ, lăn bánh trên những
đồng cỏ gập ghềnh, chống chỏi với khí hậu khắc nghiệt
ngày nóng đêm lạnh của sa mạc, đói khát vì không
đủ lương thực, và họ đã chết rất nhiều trước
khi tìm được miền đất hứa. ANTELOPE
CANYON, Page/Arizona Địa điểm du lịch chính
của chúng tôi lần này là Lower Antelope Canyon. Được hình thành
hàng nhiều triệu năm trước, do nước từ vùng cao đổ xuống
xâm thực vào lòng đất, tạo thành một khe nứt tách hòn
núi ra làm đôi, nhưng rất ít người để ý đến.
Vùng đất này có tên là Navajo Land, tiếng thổ dân có
nghĩa là "Nơi nước chảy xuyên qua đá" do người
gốc da đỏ quản lý nên các tour guides địa phương đều
là người gốc da đỏ. Cho mãi đến
năm 1997, một số nhiếp ảnh gia đã đến đây và thực hiện
những bộ ảnh rất đẹp được phổ biến rộng rãi trên
hệ thống truyền thông và nhất là trên internet. Mọi người
đều bị lôi cuốn bởi những bức ảnh màu sắc tuyệt vời
này và lũ lượt kéo đến thăm ngày càng đông.
Vì vậy các đoàn du lịch đều phải lấy hẹn trước
và phải mất khoảng ba tiếng đồng hồ xếp hàng mới đến
được cửa động.
Hang núi Từ đó du khách phải leo nhiều bực thang có chỗ
dốc đến 30 độ để xuống đến con đường dẫn vào
trong. Đây là một hang động mở hay nói đúng hơn là
nước đã phá một đường chảy len lỏi, lắt léo xuyên
qua một ngọn núi với vách đá thẳng đứng một màu
đất nung. Với góc độ nhận ánh sáng mặt trời chiếu
vào từ trên cao khác nhau, chúng ta sẽ ghi nhận được những
hình ảnh đa sắc màu chuyển đổi từ vàng sang cam rồi đỏ,
tím đến xám rất lạ mắt.. Du khách
sẽ mất khoảng một tiếng để đi chuyển qua những hành lang
hẹp, nhiều chỗ chỉ vừa đặt lọt bàn chân. Sau đó sẽ
lại phải leo lên những bậc thang kim loại để trở lên mặt
đất. Đây là vùng thung lũng sâu nên rất dễ bị lụt
một cách bất thường dầu cho nơi này không mưa hay chỉ có
mưa nhỏ mà thôi. Vào ngày 12 tháng 8 năm
1997, mười hai du khách gồm 7 người Pháp, 1 Anh, 1 Thụy Điển và
2 người Mỹ đã tử nạn tại đây đó nước dâng
cao bất ngờ mặc dù hôm đó trời mưa rất nhỏ. Lý do
là ngày hôm trước một lượng lớn nước mưa đã
đổ xuống vùng cao thượng nguồn cách đó khoảng 7 dặm
và đã ập về mà không có dấu hiệu báo trước!
Ngoài ra hệ thống thang để leo ra vào động lúc đó chỉ
mới làm sơ sài bằng gỗ nên đã bị nước lũ cuốn
trôi! Người sống sót duy nhất trong đoàn là Francisco "Puncho"
Quinnata, hướng dẫn viên du lịch người da đỏ, vì đã
được huấn luyện cách thoát hiểm trên giòng lũ. Ngày nay hệ thống thang lên xuống động đã
được thay thế bằng kim loại và được khóa cố định
vào vách đá. Hai thang lưới thoát hiểm cùng hệ thống
theo dõi, thông báo thời tiết với còi báo động đã
được trang bị tại hai đầu vào và ra. Để bảo đảm an toàn, du khách cũng được chia ra thành
mỗi toán nhỏ 15 người do một tour guide địa phương hướng
dẫn trong suốt chặng đường di chuyển. Rồi từ sâu hun hút
và ngõ ngách của núi, chúng tôi cũng thở phào khi bước
ra khỏi hang và nhìn thấy ánh nắng mặt trời. Xe lại tiếp tục
cuộc hành trình dở dang, đi không lâu đã tới một địa
điểm khác đó là COLORADO HORSESHOE BEND. Nằm phía dưới của đập
Glen Canyon, cách thành phố Page của Coconino county, tiểu bang Arizona khoảng 4 miles
về hướng Tây-Nam. Đây là chỗ giòng chảy của sông Colorado
gặp một núi đá lớn chắn ngang nên nó đã phải di
chuyển vòng quanh trái núi này gần như một vòng tròn, tạo
thành hình móng ngựa trước khi suôi về hạ nguồn. Để ngắm được cảnh
kỳ vĩ này du khách phải lội bộ một đoạn đường
băng ngang sa mạc, cát lún dưới chân dài 1.5 mile tức khoảng
2.5km hai lần đi và về đến chỗ đậu xe cạnh xa lộ 89. Vì
vậy không ít người tuy đã đến đây nhưng đành
ngồi lại trên xe hoặc bỏ cuộc nửa đường! Khi lên đến nơi với độ
cao 4,200 feet trên mực nước biển, nhìn xuống vực sâu 1,000 feet (khoảng
trên 300m) nơi con sông uốn lượn phía dưới, vách đá
lởm chởm thẳng đứng, du khách cảm thấy chóng mặt và không
khỏi rờn rợn khi nhớ lại lời căn dặn của hướng dẫn viên
du lịch là phải hết sức cẩn thận vì nơi đây hàng
năm đều có đúng 4 người mất mạng vì xẩy chân
rơi xuống vực sâu! Và cho đến hôm nay, vào cuối tháng 11
năm 2017 đã có 3 người thiệt mạng rồi, còn một người
nữa không biết sẽ là ai?!!! Cầu mong cho mọi người an toàn, trở
về đầy đủ!!!
Trời
đã về chiều, xe lại quay trở lại Las Vegas để nghỉ đêm.
Sau một ngày lặn lội với sa mạc, ai nấy mệt nhoài và chỉ
lặng yên khi xe chở khách ngang qua những con đường Las Vegas về đêm.
Người ta vẫn đông như chảy hội, đèn nhấp nháy trên
các bảng hiệu và các sòng bài, ôi thôi thật là hấp
dẫn và quyến rũ làm sao! Xe chạy thẳng về khách sạn cho khách
nghỉ ngơi, để sáng hôm sau đi thăm nhà máy sản xuất
kẹo chololate và vườn xương rồng đủ loại. ETHEL.M CHOCOLATES FACTORY và VƯỜN XƯƠNG RỒNG Trước khi dời Las Vegas để quay trở về Los Angeles, chúng tôi
được đưa đến thăm nhà máy sản xuất kẹo chocolate
của hãng Ethel.M. Đây là một điểm du lịch nằm ở ngoại
ô Las Vegas. Tường của nhà máy ngăn cách với phòng trưng
bày và bán các sản phẩm được làm bằng kính để
du khách có thể xem cách vận hành các máy móc dùng để
sản xuất các loại chocolate. Đặc biệt,
trước cửa hãng là một công viên khá lớn trồng toàn
các loại cây của sa mạc Nevada và còn nổi tiếng vì trang hoàng
đèn rất đẹp vào ban đêm trong mùa giáng sinh. Bà cháu
tôi chạy chơi vòng vòng quanh những con đường lên xuống trong
vườn cây, tiếc là không phải ban đêm nên không thấy
được vẻ đẹp tuyệt vời của đèn hoa nhấp nháy, và
sau đó lại lên xe mất đến 5 tiếng nữa mới trở lại Norwalk,
một thành phố nhỏ trong biết bao nhiêu thành phố khác của vùng
Los Angeles. Trong vài ngày còn lại
ở Nam Cali, chúng tôi có dịp đi thăm những thành phố núi
đồi của Los Angeles. Thật bất ngờ khi khám phá ra một ngôi chùa
của người Đài Loan, có thể đánh giá là một ngôi
chùa mang tính cách của người Trung Hoa, lớn nhất ở vùng này.
Ngôi chùa nằm trên đỉnh một ngọn đồi, phía Bắc của
khu Puente Hills thuộc thành phố Hacienda Heights cuả quận hạt Los Angeles, tiểu
bang California, xây dựng xong từ năm 1988.
Chuà Hsi Lai có nghĩa
là đi về Hướng Tây, là một chi nhánh của Fo Guang Shan, một
tổ chức Phật Giáo của Đài Loan. Tôi nhận ra nét quen thuộc
của chùa Chung Mye ở Houston gần nhà, ở những hình tượng các
chú tiểu xinh xinh đứng ngồi rất hồn nhiên trong vườn cây
kiểng xung quanh chùa. Điểm đặc biệt thu hút du khách là bông
giấy đủ màu rất đẹp, mọc thành
từng bụi lớn ven rào, đã làm ngây ngất tâm hồn khách
nhàn du đi vãn cảnh chùa, trước khi vào xem khu chánh điện. MÙA THU CALI ... Muà
thu Cali, thật tình thì không rực rỡ muôn màu như mùa thu New
Hampshire, hay như những mùa thu ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Thời
gian còn lại ở Cali không nhiều, chúng tôi lang thang đi thăm thêm
những thành phố nhỏ nằm nối tiếp nhau thuộc quận hạt Los Angeles,
mỗi một thành phố hay "county" chúng tôi ghé qua đều có
công viên, trong đó công viên La Mirada của thành phố La Mirada được
đánh giá là có nhiều hình ảnh đa dạng nhất, vì
công viên này tọa lạc trên một vùng đồi thoai thoải cạnh
xa lộ Adelfa. Đây là một khu đất rộng
76 mẫu do quận hạt Los Angeles mua để làm công viên, mục đích
cho dân địa phương có chỗ thư giãn và vui chơi, nhưng
cũng là điểm hấp dẫn du khách phương xa khi tới thăm Cali.
Thanh Bình Trong công
viên, vì là ngày thường nên cũng thưa thớt người vào
thăm, nhưng chính sự yên lặng ấy khiến cho công viên mang lại
cho khách phương xa cảm thấy đất trời của riêng ta, giữa trời
cao đất rộng. Đặc biệt là đàn vịt khác nhau bơi lội
trên mặt hồ, có thể được mua về và nuôi dưỡng
nên khá quen với người đến thăm có mang theo thức ăn cho vịt.
Có thể đất lành chim đậu, ít lâu sau lại có bao nhiêu
giống chim lội nước bay về đây hợp đoàn cùng sống trong
công viên an bình này. Chúng sống chung hòa bình, có vẻ
không thích chiến tranh, sự bình yên ấy lan toả đến tâm
hồn những ai yêu thích sự êm ả, tĩnh lặng. Lác đác ven hồ có vài người đang thả câu chờ
cá đớp mồi, thỉnh thoảng chiếc cần câu lay động tạo
thành những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Cũng khó tìm
ở đâu có cảnh bầy vịt sau khi no nên, lặn hụp kiếm ăn,
bơi theo những mảng lá vàng, lá khô nổi lềnh bềnh trên
mặt hồ, lại kéo nhau lên đồi cỏ để ngủ giấc ban trưa,
dưới những bóng cây cao. Những cái đầu xinh xinh dấu trong cánh
để làm một giấc ngủ ngắn trong ngày, khiến tôi nghĩ đến
sự nghỉ ngơi rất cần thiết cho con người. Đó chính là
làm sao có được cách sống "an nhiên tự tại" với
những gì giản dị, có lẽ quý hơn là tất bật, bon chen
giữa dòng đời nơi "phồn hoa đô hội".
Tuyết Houston 8 Dec 2017 Thế rồi chúng tôi cũng bay về Houston, giữ
lại trong tim bao hình ảnh đặc biệt của tiểu bang Cali. Những nơi
chúng tôi đi qua, đang bị thần Hỏa thổi ngọn lửa hung tàn
thiêu rụi nhà cửa, rừng núi. Một con ngựa đau cả tàu không
ăn cỏ, dù nơi chúng tôi ở mùa thu rất ngắn, đã bước
vào mùa Đông với cơn mưa tuyết đầu muà rất tuyệt,
nhưng mùa thu Cali vẫn nằm trong tâm tưởng, qua bài thơ sau đây: Mùa Thu Cali... Mùa
thu Cali Không buồn nhưng
lạ Lá vàng, lá
khô Rơi trên mặt
hồ Trời hiu hiu gió Xào xạc lá khô Âm vang thu trước Còn tới bây giờ Trời thu xanh lơ Nắng thu dìu dịu Đi trên đồi cỏ Thấy lòng bình yên Mùa thu công viên Chừng như lắng đọng Có bầy vịt trời Ngủ yên giấc trưa Mùa thu êm ả Đất trời thênh thang Ta đi trong nắng Nghe muà thu sang ... Cùng
viết Nguyễn văn Đông và Nguyên Nhung, mùa Thu 2017. _________________________________________________________________________________________________
TỪ DENVER tới YELLOW STONE
Bút Ký của Nguyễn văn Đông
& Nguyên Nhung Sau chuyến đi 3 ngày từ Los Angeles tới San Francisco của một hãng
du lịch khá thông dụng, giá cả phải chăng nếu không nói
là rất hợp với túi tiền của những người cao niên đã
về hưu, chúng tôi được ghé thăm nhiều thắng cảnh kể
cả lượt đi lẫn lượt về. Thế là lần này chỉ sau
2 tháng, chúng tôi quyết định thêm một chuyến nữa, sau khi hỏi
kỹ người dẫn đường về hành trình từ Denver đến
Yellowstone. Tôi vẫn thường khuyến khích "chàng"
của tôi bằng một câu mà xem ra khá hợp lý, nghĩa là "đừng
tước đoạt tuổi thọ của mình, khi đã đến lúc nghỉ
ngơi", nên quyết định đừng ham lao động nữa, tiền kiếm
được chỉ tổ đóng thuế nhiều mà thôi. Trung bình một
ngày có 24 giờ, chia làm 3 thì thời gian nghỉ ngơi rất cần
thiết cho sức khoẻ, không cân nhắc là tự mình muốn lên
bàn thờ ngồi ngắm gà khoả thân như thiên hạ thường
nói.
May mắn sao chàng nghe lời tôi, nhưng để chuyển
tiếp từ việc quen đi làm như một cái máy, sang giai đoạn
ngồi nhà "buồn tay buồn chân" cũng khó lắm, rồi lại
ở không ngồi ôm người tình mặt vuông, sinh ra " nhàn cư
vi bất thiện". Nhân ngay lúc đó có một số anh chị đồng
môn trường tôi rủ nhau làm một chuyến dài ngày thăm
Úc châu nhân dịp Đại Hội Trường, chúng tôi quyết định
đi ngay, vì vậy mà " anh xã" không bị cảm giác
buồn chán như bị đứng lại khi nhịp thở xã hội
cuồn cuộn chảy. Trở lại với chuyến đi lần này, chúng tôi
chọn chuyến bay sớm nhất để tới Denver cho kịp chuyến tour bắt
đầu từ 12 giờ trưa. Hướng dẫn viên du lịch hẹn đến
đón ngay trong phi trường, và hình như tất cả du khách đều
bay từ các nơi đến, rồi tập trung lại khoảng 55 người trong
một chuyến bus-tour. Phi trường Denver là phi trường rộng nhất nước
Mỹ, còn bận rộn thì đứng hàng thứ 6 trong số các sân
bay quốc tế của Hoa Kỳ. Trong phi trường rộng lớn này, muốn ra
tới chỗ hẹn, chúng tôi phải lội bộ tướt khói luôn,
nhân tiện để nhắc bạn nào muốn đi du ngoạn vòng vòng,
cần phải có đôi chân khá vững vàng quen lội bộ đường
xa nữa nhé! Điểm đầu tiên là Công viên
Red Rocks thuộc Jefferson county, Colorado. Nằm cách thủ phủ Denver khoảng 10 miles về
hướng tây. Năm 1906 , một sân khấu lộ thiên Red Rocks Amphitheatre rất
bề thế được xây dựng giữa một phong cảnh thiên nhiên
hùng vĩ, với 9,525 chỗ ngồi, đã là nơi biểu diễn của
các ban nhạc danh tiếng trên thế giới. Sau đó chúng tôi đi
thăm một vòng thủ phủ Denver, Federal building là một công trình rất
đẹp với mái vòm lợp bằng vàng ròng nói lên sự
thịnh vượng của tiểu bang. Denver có một phố đi bộ (16th Street)
với những bồn hoa rất đẹp dọc theo hai bên đường, khách
bộ hành cứ thong thả dạo phố, hưởng vẻ đẹp của hàng
cây lá nhỏ, chưa sang thu mà lá đã nhuộm vàng, dẫn tới
một ngôi giáo đường cổ kính. Tiếng chuông nhà thờ
lan lan trong không gian buổi chiều khi mặt trời sắp đi ngủ, khiến
tâm hồn thật êm dịu. Sáng
hôm sau, từ Denver, Colorado xe lăn bánh đưa chúng tôi về hướng
bắc qua Wyoming, đây là tiểu bang có dân số thấp nhất nước
Mỹ , với chưa đến sáu trăm ngàn người, nhưng Wyoming có
những đồng cỏ bạt ngàn nuôi trên hai triệu rưỡi con bò!
có nghĩa là số bỏ nhiều gấp năm lần dân số của tiểu
bang! Để thăm một số thẳng cánh của tiểu bang South Dakota, lần
lượt xe rẽ vào những nơi được coi là thắng cảnh của
tiểu bang nằm dọc theo đường đi, đồi núi chập chùng,
hai bên đường từng đàn bò thong thả gặm cỏ trên những
cánh đồng cỏ xanh đã hơi uá vàng. WIND CAVE: Nằm
gần Rapid city, phía tây của S. Dakota Đây là hang động dài hàng
thứ sáu trên thế giới (140.47 miles). Vùng đất này
khô ráo, không có nước ngầm nên hang động không có
thạch nhũ như nơi khác mà đá Calcite trong động bị oxy hoá,
phân hủy tạo thành hình dạng như tổ ong (boxwork) rất lạ.
Được đặt tên là "Động gió" vì tại lối
vào thiên nhiên, nơi người ta đầu tiên khám phá ra động,
luôn luôn có một luồng gío để điều hoà áp xuất
trong lòng động và không gian bên ngoài. Thật ra Động
Gió ở South Dakota không đẹp bằng động thạch nhũ ở San Antonio,
thành phố du lịch nổi tiếng của Texas đâu nha, vì động khô
lại thiếu đèn nên thiếu vẻ sinh động, trong khi đó động
thạch nhũ ở TX có những giọt nước chảy long tong từ các
khối đá óng ánh, tạo thành nhiều hình tượng đặc
biệt mà nếu tưởng tượng thêm, bạn có thể hình dung
ra một thế giới thần tiên, hằng triệu năm có các vị tiên
ông ngồi đánh cờ với nhau dưới lòng đất.
Đi xuống hang thì dễ nhưng lên thì không dễ đâu,
vì có tới vài trăm bậc, khiến nhiều người cao niên đã
thấy mỏi nhừ đôi chân. May quá chúng tôi đi lên bằng
thang máy, và cả đoàn lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình
vì đường còn xa, thẳng tới CRAZY HORSE MEMORIAL. Đây là tượng đài kỷ niệm một chiến
binh anh hùng của người da đỏ Lakota (Sioux) có biệt danh là "Ngựa
điên". Người đã cầm đầu các cuộc chiến đấu
dũng cảm chống lại người da trắng xâm lấn vùng đất tổ
của họ. Tượng được tạc trên ngọn núi Thunderhead gần
Black Hill, Custer county, South Dakota. Khởi công từ năm 1948, nhưng họ không chịu
nhận sự trợ giúp của chính phủ liên bang cũng như tiểu bang,
nên sau 70 năm mới chỉ hoàn thành được khuôn mặt của
Crazy Horse với chiều cao 87 feet (so với 60 feet là chiều cao của khuôn mặt
4 vị tổng thống tại Mount Rushmore) và không biết đến bao giờ
mới hoàn tất được công trình này! Chắc các bạn đã nghe nhiều về rặng núi
MOUNT RUSHMORE NATIONAL MEMORIAL: Chỉ cách Crazy Horse Memorial 17 miles. Được khởi công
từ năm 1927 và hoàn tất vào năm 1941 với khuôn mặt của
4 vị tổng thống của Mỹ: George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham
Lincoln được tạc vào núi đá Rushmore/Black Hill, Keystone, South Dakota.
Đã nghe nói từ lâu, lần này
mới thực hiện được niềm mơ ước tới nơi thâm sơn
cùng cốc này để chiêm ngưỡng hình ảnh 4 vị tổng thồng
nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ. Đẹp nhất vẫn là khi xe đang
chạy luồn trên con đường núi bao quanh, từ xa lẫn trong rừng núi
đã thấy chân dung các vị tổng thống nổi bật lên nền
trời, mặc dù lúc đó là buổi chiều với trần mây
đục. Chúng tôi cố gắng ghi lại được nhiều tấm ảnh
đẹp để đem về làm kỷ niệm. Đi tour như vậy cũng có cái tiện là giá cả
rất " mềm", khỏi phải lái xe nhất là những con đường
núi ngoằn nghoèo cần phải có tài xế đầy kinh nghiệm.
Ngoài ra cũng phải lội bộ giỏi, phải đúng giờ giấc quy định
vì không để cho mọi người đi chung phải chờ đợi, làm
chậm trễ chương trình của một ngày. Cũng không phải lúc
nào xe cũng dừng lại để ăn uống cho đúng giờ như khi
chúng ta ở nhà, có những ngày xe phải đi liên lỉ mấy
tiếng đường dài, thường người tour-guide đã phải cho
biết trước từ chiều hôm trước, họ ghé vào siêu thị
hay nhà hàng để cho hành khách chuẩn bị bữa sáng, hay trưa
cho mình, khi nhiều đoạn đường trơ trụi núi non, cỏ không
mọc nổi, không một cánh chim trời như vùng Badlands thì còn
có thức ăn và nước uống mang theo để đỡ dạ.
Thế là lại lên đường, hai bên
chỉ là những rặng núi đá trơ trụi không một ngọn
cỏ mọc. Bề mặt của núi đôi khi giống như cái mặt bàn
khổng lồ, đã được bàn tay của hoá công san phẳng,
lạnh lùng với gió sương.Chúng tôi đến BADLANDS National
Park/South DAKOTA. Đây là công viên quốc gia
rộng gần một trăm ngàn hecta nằm ở phía tây nam của tiểu
bang South Dakota. Vùng đất này được đặt tên là "Bad
Lands" vì khu vực này không có nguồn nước nên dân cư
không thể sinh sống mà chỉ là nơi săn bắn của các thổ
dân da đỏ sống dọc theo con sông Missouri, từ mười một ngàn
năm trước, mà hiện nay con cháu của họ đang sống ở North
Dakota.
Vì là vùng khô ráo nên những
núi đã ở đây được tạo thành từ hàng triệu
năm qua do sự xâm thực của gió và hủy hoại của thời tiết
thay đổi đột ngột giữa ngày và đêm, tạo nên những
giải núi trải dài trông giống như những đền dài trong cảnh
thần tiên với nhiều màu sắc ngoạn mục. Các loại rắn rung chuông cực độc sinh sản mạnh
tại đây nên du khách được cảnh báo không được
bước vào những vùng đất cỏ mọc. Rời
vùng đất chết, chúng tôi tới một nơi cò đời sống
của các loại động vật hoang dã, đó là BEAR COUNTRY U.S.A. Ở
đây là một cánh rừng thật rộng, nuôi, thả thú thiên
nhiên cho phép du khách lái xe vào xem tại Black Hill, nằm cách
28 miles về phía tây nam thành phố du lịch Rapid của tiểu bang South Dakota. Trong đó các loại thú rừng
mà nhiều nhất là các loại gấu được thả trong các
khu riêng biệt có hàng rào ngăn cách với nhau. Điều đặc
biệt là các khu vực này đều có các cổng ra vào để
xe của du khách có thể vào xem tận nơi. Không hiểu họ đã
thiết kế, trang bị những gì mà các loại thú lớn chỉ
lẩn quẩn qua lại trước cổng mà không con nào dám..."trốn
trại" qua khu vực của loài khác. Tại đây cũng có một nơi các trẻ em rất thích
đó là khu vực nuôi các loại thú nhỏ và các chú
gấu mới sinh đã được tách biệt khỏi mẹ của chúng,
đang leo cây, đùa giỡn với nhau rất sinh động. Người xem có
thể đứng nép sau bờ rào, nhìn thật gần những chú Gấu
xinh xinh đang leo lên cây thông và vặt trụi cành nhánh để
đùa giỡn với nhau, con vật sống với thiên nhiên xem ra cũng được
hít thở không khí tự do "cơm no áo ấm". Thế rồi xe lại quay ngược lại tiểu
bang Wyoming, đưa chúng tối đến một địa điểm du lịch mang
tên DEVILS TOWER National Memorial được Tổng thống Theodore Roosevelt cho thành lập
vào ngày 24 tháng 9 năm 1906. Được
hình thành trên hai trăm triệu năm trước bên giòng sông
Belle Fourch. Đây là một đỉnh núi cao hình dạng rất giống
một cái oản trên mặt đỉnh bằng phẳng và với những
cột đá thẳng đứng dọc theo chung quanh sườn núi, trông xa
giống như những vết cào thẳng từ trên đỉnh xuống đến
chân núi. Với vách núi thẳng đứng, đây là một nơi
thử thách khó khăn cho các tay leo núi chuyên nghiệp.
Nằm
trong một khu đất rộng 1,347 acres (545 hecta) tai Crook County thuộc vùng đông
bắc của tiểu bang Wyoming với chiều cao 5,112 feet so với mực
nước biển. Devils Tower nổi bật trên nền trời và được
nhìn thấy từ rất xa, dưới chân tháp lổn nhổn những tảng
đá lớn chồng chất lên nhau, giống như từ trên đỉnh tháp
mới xảy ra một trận hỗn chiến dữ dội của thế giới quỷ
ma. Người da đỏ xem đây là đất Thánh của họ và
không hài lòng với tên Devils Tower mà người ta đã đặt
tên cho ngọn núi lạ lùng này. Theo truyền thuyết
của người da đỏ Kiowa và Lakota thì từ thuở xa xưa có một
nhóm thiếu nữ rủ nhau đi chơi trong rừng thì có một bầy
gấu khổng lồ đuổi theo họ. Họ bèn leo lên một hòn đá
to và quỳ xuống cầu xin thần linh che chở. Nghe lời cầu xin, thần linh
đã nâng hòn đá lên cao vút tận trời! Bày gấu đuổi
tới nơi liền tìm cách leo lên hòn đá để bắt họ
nhưng chúng leo đến đâu thì hòn đá lại mọc cao hơn
nữa và sau cùng thì chúng đuối sức tuột xuống vực sâu
nên móng vuốt của chúng đã cào vào vách đá tạo
nên những vết sước thẳng từ trên đỉnh xuống chân núi
như hiện nay! YELLOWSTONE
National Park Đây là
điểm đến chính trong chuyến du lịch của chúng tôi. Được
tạo dựng từ trên hai triệu năm trước, Yellostone trải rộng trên
lãnh thổ của 3 tiểu bang Wyoming, Montana va Idaho. Với diện tích lên đến
trên hai triệu mẫu Anh (gần mười ngàn km2) nằm trên một núi
lửa khổng lồ lớn nhất trên lục địa (rộng 3825km2, sâu
8km) và đã phun trào dữ dội nhiều lần từ khai thiên, lập
địa đến nay chưa kể hàng ngàn vụ động đất hàng
năm, phần lớn là quá nhẹ nên con người không thể nhận
biết được! Đây là vùng đất người da đỏ
đã sinh sống và săn bắn từ trên11 ngàn năm trước vì
có rất nhiều loại thú hoang dã sinh sống, trong đó có đàn
bò tót (bison) hiện nay tập trung đông nhất nước Mỹ.
Vì công viên quá lớn với những
quang cảnh lạ mắt khác nhau nên nếu du khách muốn thăm tất cả
mọi nơi phải cần đến từ 3 đến 4 ngày để thấy hết
những suối...nước sôi lên đến 160 độ F (Đã có
du khách gặp tai nạn ngã xuống và bị .. luộc chín ngay!!!)
những hồ hay hố nhỏ đầy bùn sôi sùng sục! và một
miệng hang được đặt tên là "miệng rồng" vị
cứ vài phút nó lại phun ra một đám khói, hơi nước
với mùi diêm sinh hôi nồng nặc với tiếng "khè" giống
như rồng đang phun lửa! Những giếng phun ở đây cũng rất mạnh
vì nước được đun sôi trước khi phun lên. Đặc biệt
là giếng phun Old Faithful thì cứ đúng 91 phút là nó lại
phun lên một lần với cột nước cao hàng trăm mét (Vì
biết trước được giờ giấc hoạt động của nó nên
du khách được thông báo để tập trung quan sát cảnh tượng
này rất đông). Có hai con sông lớn bắt nguồn từ
đây những chạy về hai hướng khác nhau: Snake River chạy ra Thái
Bình Dương và sông Yellowstone chạy ra Đại Tây Dương (qua
vịnh Mexico). Công viên có trên 290 thác lớn nhỏ mà lớn nhất
là thác Lower falls rất hùng vỹ cao 308 feet với nước chảy cuồn
cuộn tại đình thác tạo thành cầu vồng dưới chân tháp
rất đẹp. Từ chân tháp, dòng suối chảy qua một thung lũng
với vách đá dựng đứng hai bên tạo nên Grand Canyon of Yellowstone
với những khối đá màu vàng óng ánh như dát bằng
vàng nên tên đá vàng (yellow stone) đã được dùng
để đặt tên cho công viên này. Yellowstone Lake là hồ rộng 136 dặm vuông (350km2)
rất lớn là một trong những hồ nằm trên độ cao nhất của
nước Mỹ (7,732 feet so với mặt biển) và sâu trung bình 139feet (chỗ
sâu nhất có thể lên đến trên 300 feet!) Vào mùa đông
hồ đóng băng dày khoảng 3feet ngoại trừ những nơi nước
cạn, gần những suối nước...sôi!!! Chúng tôi dời Yellowstone với những đàn bò tót thanh
thản trên đồi cỏ bạt ngàn và hồ Yellowstone mây nước
mênh mông đề về Great Salt Lake bằng đường xuyên bang US 91 ngang
qua tiểu bang Idaho. IDAHO là tiểu bang phía Tây-Bắc Hoa Kỳ
có biên giới cực bắc với Bristish Columbia của Canada. Với diện tích
lớn thứ 14 (83.569 dặm vuông = 216.440 km2) nhưng lại đứng hàng
thứ 7 về tiểu bang ít dân số. Thủ phủ là Boise và một
thành phố du lịch nổi tiếng là Idaho Falls. Sản phẩm chính là
nông nghiệp mà nổi tiếng là khoai tây với sản lượng chiếm
1/3 của cả nước.
Dọc đường là con sông "Rắn"
(Snakes River) chạy dọc theo rặng Rocky mountain trải dài suốt chiều dọc
của nước Mỹ, với những đỉnh cao phủ tuyết quanh năm tạo
nên những cảnh đẹp thiên nhiên rất hùng vĩ. Trước khi vào Salt Lake City, chúng tôi ghé thăm
GREAT SALT LAKE, hồ nước mặn lớn nhất nước Mỹ với điện
tích trung bình 1.700 dặm vuông (4.400km2 nhưng khi nước lớn diện
tích họ có thể tăng lên gấp đôi). Nước hồ do 3 con sông Jordan, Weber va Bear đổ vào cùng
với khoảng 1.1 triệu tấn khoáng chất hàng năm. Vì không có
đường thoát ngoài bốc hơi nên nước ở đây còn
mặn hơn cả nước biển nên có biệt danh là "Biển
Chết của Mỹ" (người có thể nổi mà không cần
biết bơi). Với nồng độ 25% muối, không có loại sinh vật nào
có thể sống trong hồ trừ một loại giáp xác duy nhất có
tên là Brine Shrimp. Tuy vậy, các
nhà khoa học tiên đoán là diện tích hồ đang bị thu hẹp
dần và sẽ khô cạn trong tương lai làm mất đi nguồn lợi
chiết xuất được trong nước hồ (muối và các loại
hoá chất) và trứng của loài Brine Shrimp (làm thực phẩm cho
cá) trị giá khoảng 1,1tỷ dollars hàng năm! SALT LAKE CITY, đây là thành phố cuối cùng trong chuyến
du ngoạn sáu ngày đi qua năm tiểu bang: Colorado,Wyoming, South Dakota, Idaho va Utah
của chúng tôi.
Trước tiên, chúng tôi được
đưa đến thăm Utah Capitol Building là nơi làm việc của chính
phủ tiểu bang. Được xây dựng từ năm 1912 đến năm 1916 và
sau đó được tân trang vào năm 2004 để có thể chịu
đựng được những trận động đất lên đến 7.3 độ
Richter. Nổi bật trên đỉnh Capitol Hill, tòa nhà được
xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch màu trắng láng bóng
từ ngoài vào trong nên vô cùng tốn kém và đã được
Hoa Kỳ liệt vào danh sách những di tích lịch sử của quốc gia
vào năm 1978. Một điều đáng nói ở đây là tòa
nhà mở rộng cửa đón tiếp du khách vào thăm mà không
phải qua một thủ tục khám xét an ninh nào cả. Cuối
cùng chúng tôi đến thăm nhà thờ Mornon trong Temple Square, một mảnh
đất rộng 10 hecta bao chung quanh bởi bốn con đường lớn của trung
tâm thành phố Salt Lake. Trong khuôn viên, ngoài ngôi thánh đường
thật lớn, mà chỉ có các tín đồ Mormon mới được
vào, còn có nhiều công trình phụ và nổi bật là một
building cao 28 tầng, nơi làm việc của các văn phòng truyền giáo
của Mormon trên toàn thế giới. Với những hồ, tháp phun nước
lớn và những vườn hoa thật đẹp, dù đã cuối hè
nhưng vẫn rực rỡ khoe sắc thắm, do được các thiện nguyện
viên thường xuyên chăm sóc chu đáo. Vì vậy nơi đây
là một điểm du lịch nổi tiếng, thu hút 3 đến 5 triệu du
khách đến thăm mỗi năm.
Tiểu bang Utah là chặng cuối của
cuộc hành trình từ Denver tới Yellowstone. Cơn bão Harvey đổ bộ
vào tiểu bang Texas với những cơn mưa lớn gây lụt lội cho nhiều
thành phố khiến chúng tôi kẹt lại Utah hết 5 ngày vì không có chuyến
bay về. May mà gia đình và nhà cửa được bình an, tổn
thất không đáng kể, nên đành phải đi lang thang để tìm
tòi thêm về tiểu bang Utah, được đánh giá là 1 trong 10
tiểu bang có phong cảnh và đời sống an lành nhất nước Mỹ.
Thân mến chào tạm biệt! Nguyên Nhung.
NGUYÊN NHUNG: YOUTUBE: ĐẠI HỘI PTGĐTĐ XXI-HOUSTON TEXAS 2017: 1. ĐÊM TIỀN HỘI 5/5/2017: Click
hàng chữ dưới đây: 2. ĐÊM
ĐẠI HỘI 6/5/2017: Click
hàng chữ dưới đây:
An online flipbook from donguyen66. CÕI MÙ SƯƠNG
của NGUYÊN NHUNG ( Xin Click vào tên truyện
Cõi Mù Sương dưới đây, nó sẽ mở ra, đọc xong thì click nhẹ vào
góc cuối trang phiá bên tay mặt, sách
sẽ mở ra )
QUÊN . . . Tôi mở tim ra tìm nỗi nhớ Ôi lạ lùng sao
! Chẳng nhớ gì Bao nhiêu kỷ niệm, người năm cũ Lặng lẽ tan vào trong giấc
mơ Tôi lật hình ra tìm bóng cũ Lạ lẫm nhìn nhau chẳng thấy quen Ngày tháng đong đưa tình đã
cạn Đời chỉ dài thêm
những lãng quên. Tôi thấy trùng trùng cơn sóng vỗ Biển vẫn trầm trầm khóc tỉ tê Thuyền ngút ngàn xa, bờ bãi vắng Bầy chim xoải cánh rủ nhau
về Tôi gọi tôi về với
gió thơm Về với niềm
vui, với nỗi buồn Gió
thổi luồn qua hồn trống rỗng Kỷ
niệm khoanh tròn con số không Tôi hỏi bóng mình in đáy nước Hồn ma bóng quế lạc đâu về? Gợn sóng phù du tan biến cả Cuộc đời ảo ảnh tựa
cơn mê Nguyên Nhung Bài họa : NHỚ Anh cố
quên nhưng luôn phải nhớ Người
ta quên sao phải nhớ gì ? Kỷ niệm
trôi hoài ngày tháng cũ Bây
giờ đọng lại mãi trong mơ.
Hai đứa chụp hình ghi ngày tháng
Bây giờ nhìn lại thấy quen quen
Em e ấp mãi bên sông cạn Thử hỏi làm sao anh lãng quên ?! Hai đứa
nhìn trời chim cánh vỗ Từ trên
cao gió lộng tái tê Anh dìu em
trên con đường vắng Chân run
khập khễnh lối đi về.
Anh vuốt nhẹ nhàng suối tóc thơm
Chia tay sau đó lặng câm buồn Em qua ngõ vắng tim tôi rỗng Anh mãi nhìn theo em biết không ? Tôi hỏi em chim trời
cá nước Em đi lâu quá chắc
không về Con sóng trào dâng tan
tất cả Nhưng tình hoài niệm
mãi đam mê !!! Dương hồng Thủy 17/02/2017
NGƯỜI ĐƯA
THƯ Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư
ngụ khu chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta. Đó
là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền
quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một
ông già Santa Claus mỗi mùa Giáng sinh. Nụ cười hiền, đôi
mắt xanh mông mênh màu biển, ông là người đều đặn
mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ
Việt Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà.
Ông ta
trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán
tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó. Mỗi buổi
chiều, khi chiếc xe của Bưu Điện chạy vào con dốc đầy ổ
gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng
đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết
ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú. Ông ta bỏ thư
vào từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không
quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng
sân trống. Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm
tã, tôi thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn
chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một
lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt Nam gửi sang,
đề trúng tên người gửi và địa chỉ "zip-code", nhưng
thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết
là của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được
tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư, rồi
vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại
cho Bưu Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi. Hôm ấy trời
bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu
trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt.
Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt
át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng
trên mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh
miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt: "
Xin lỗi, có phải tên cô không?" Tôi ngạc nhiên, vì lần
đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà con trong khu
chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ
về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được
cả. Tôi nhận đúng là tên mình, rất cảm kích vì
tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn
như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới
màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh: "Ông có vội lắm không? Mời ông vào
nhà chơi, mưa lớn quá." Ông
nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu
thành ngữ tiếng Anh: "It's raining. .
. cats and dogs..." Đoạn ông ta nói
bằng tiếng Việt: "Mưa lớn quá,
giống như mưa ở Việt Nam." Tôi
mở to mắt nhìn ông thán phục: "Ông
nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?"
Người đưa thư giơ tay vuốt những
giọt mưa trên tóc, trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật
xa vời: "Từ Việt Nam. Tôi đã
từng ở Việt Nam, cách đây ba mươi năm. Việt Nam luôn
ở trong trái tim tôi." Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người
Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở người đàn ông này,
tôi không thấy sự giả dối. Một lần nữa, tôi mời ông
vào nhà , không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng
ấm, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:
"Người Việt thường cởi giày
trước khi vào nhà, có phải vậy không?" Ngạc nhiên vì
câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của
người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết
với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có
cảm tình với ông. Như hai người đồng hương đã lâu
không gặp nhau, ông thổ lộ: "Tôi
nhớ Việt Nam nhiều lắm, nhớ "người" Việt Nam lắm..."
"Người
Việt Nam" ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu
ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn
được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được
bài trí theo kiểu Á Đông, ông dừng lại một bức tranh trên
tường vẽ cảnh mùa Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở
vàng thật đẹp. Ông thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:
"Đấy có phải là hoa mai?"
Tôi gật
đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở
của mình: "Ồ! Ông cũng biết
hoa mai? Nó là loại hoa biểu tượng cho mùa Xuân ở quê hương
tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân." Ông gật đầu, đôi
mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi mưa
nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối: "Tôi biết, vì cô ấy tên M. Hình như ông xúc
động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc
nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa
thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm trước
vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi.
Buổi
chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu
chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy
dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt Nam, cả cái không
khí lãng đãng một chút ngậm ngùi theo từng giọt mưa rớt
xuống hàng hiên ẩm ướt. Trong khi chờ mưa ngớt hạt, người
đưa thư bồi hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba mươi
năm trước.. .. * * * David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California.
Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng
trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu
bang của Hoa Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống
trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản chất
một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu
thiên nhiên. Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để
tiếp tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính
hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt Nam làm
công tác giáo dục và thiện nguyện. Do đấy, chàng có
một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung
tâm Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi.
Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi
hai tuổi. Trước khi sang Việt Nam, chàng được học tiếng Việt
sáu tháng, cho nên lúc đến Việt Nam chàng đã bập bẹ
nói được những câu xã giao thông thường với người
bản xứ. Năm David tới Việt Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang,
nhưng ở thành phố tương đối người dân vẫn sống trong
yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh.
David chỉ ở Sài Gòn một thời gian ngắn, sau đó được
đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven
bờ sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết
thương lòng. David đã có dịp
đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền
Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4. Những cánh đồng lúa
bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo khuất
sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa,
lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những
chuyến phà qua sông Hậu Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng
hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh
Việt Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần gụi biết bao, không
hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu Long lần đầu
tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm
ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều
có nét khác biệt nhau. Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ
ở thành phố, không đối diện với chiến tranh như những người
lính Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, và cũng không hề giao tiếp
với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh. Cho nên, những
ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần
đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô
bé Việt Nam, Mai là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền
trong lớp học căn bản của Trung Tâm này. Mai đẹp lắm, ít là
dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á Đông rất ưa nhìn.
Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn,
nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á Đông khiến
con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức
vì nhớ thương. Như câu ca dao Việt Nam,"Yêu ai yêu cả đường
đi lối về", David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông
Cửu Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt
sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như
nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi
và đầy thiện cảm. Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn
những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc
xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường.
Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông
đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy
rau quả, những đứa trẻ con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh
hình như chưa hiện diện nơi đây. David có được những
tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của mình, một
biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành
phố. Năm
ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm
nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái
tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân
tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình
với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng
rất có cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất
hiền hậu nữa. Sau nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một
học sinh xuất sắc được chọn là người phụ giáo cho những
lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc
chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn. Với bản tính thẳng thắn
của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về chuyện
hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao cuộc hôn
nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau
hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng,
nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ
nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận, dù David là
một chàng trai học thức. David không hiểu tại sao Mai không quyết định
được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm
thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền
lành ấy. David thắc mắc thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho
chàng biết những gia đình Việt Nam bảo thủ, không bao giờ chấp
nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc.
Sống ở
Việt Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt Nam, học được
cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất
cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt nhưng
vẫn bị từ chối. Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi
dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ
vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn
sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai,
nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm
cái chết để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái
Việt. Cuối cùng, bị khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp
tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc
về người khác. David được hồi hương trước thời gian
ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc
và nói với chàng : " Nếu
không được kết hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa."
* * * Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng
đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi: "Tại sao dân tộc cô lại có cái nhìn khe
khắt như thế? Một tình yêu khác chủng tộc có phải là
điều tội lỗi?" Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt
nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì
tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người
có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận. David lại nói
tiếp: "Ba mươi năm nay tôi vẫn
không quên điều đó, vẫn tìm tòi văn hóa Việt, và
tôi hiểu tại sao dân tộc Việt Nam không tiến lên được.
Trong một vấn đề giản dị đó, họ đã không có
cái nhìn rộng rãi, thì những vấn đề lớn hơn, họ
cũng khó mà thay đổi." Tôi thở dài nói với David:
"Tôi nghĩ không chỉ người Việt
Nam chúng tôi mới có quan niệm thiển cận như thế, ngay những
người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người
không cùng sắc tộc với mình. Hơn nữa người Việt Nam lấy
chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi chống đối lại cha mẹ,
và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định mệnh
đã đặt để, ông thông cảm cho. Nhưng thưa ông, đấy
chỉ là những suy nghĩ của thời gian đó, bây giờ mọi điều
đã thay đổi..." Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài
hiên, ông nói: "Cô có biết
tôi đã đau khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai,
tôi đâm ác cảm với tất cả người Việt vì lối
suy nghĩ của họ. Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên
được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói
cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã
thực hiện được. Khi đất nước cô bị rơi vào tay Cộng
Sản, tôi vẫn hy vọng là sẽ gặp Mai trong đám người Việt
di tản sang Hoa Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở
này không ai cấm cản Mai kết hôn với tôi cả". Tôi ngắt
lời David: "Ông có gặp lại
cô ta không?" David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi
lại toát ra một tia nhìn ấm áp: "Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là
người dừng lại, vì Mai đã là một nữ tu đang săn sóc
cho đám trẻ mồ côi đem từ Việt Nam sang. Lần này tôi thực
sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao
quý đó. Mai đã hy sinh tình yêu, tuổi xuân để phục
vụ cho một nghĩa vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân loại.
Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm
của riêng, khi nhìn thấy bản chất cao đẹp trong tâm hồn nàng."
Giọng
ông ta chợt bùi ngùi: "Đồng
thời tôi cũng hiểu được ý nghĩa lời nói của Mai, khi
đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước
khi chia tay nhau. Nàng là người con gái Việt Nam thuần túy có
những suy nghĩ theo tính cách của dân tộc nàng, nhưng trong tình
yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích hợp với đời
sống và việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối
lại cha mẹ. Để rồi cuối cùng cô đã chọn con đường
ấy, con đường phục vụ cho tha nhân." Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại
hướng về bức tranh có những bông mai vàng óng ả treo trên
tường, thật dịu dàng ông nói tiếp: "Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một
điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ
nhoi. Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả
lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy vọng, và
ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư.
Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ hội để tìm một việc
làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề nghiệp hiện
tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những gì
họ chờ đợi, nhất là trong những muà Lễ, Tết. Tôi cũng
hiểu rằng từ miền đất xa xăm nghèo khổ kia, họ đã phải
tiết kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một
lá thư cho người phương xa." Tôi cảm động nghe ông ta nói,
tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có lúc đã
rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng
chỉ vì sợ phải giúp đỡ. Ngược giòng thời gian, tôi
như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông
chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được
tấm lòng như người đưa thư này. Lúc ấy, nhìn đôi
mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền
hậu và dễ thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con
mỗi mùa Giáng Sinh. Tôi nói với ông rất thành thật:
"Tôi cám ơn ông, một người
Mỹ rất có tình với quê hương tôi, dân tộc tôi, dù
trước kia ông đã bị đau khổ vì sự suy nghĩ của họ."
Mưa đã
ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối
xầm lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện,
đem theo những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm.
Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười
nhìn những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng Sinh
ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư bước ra đường,
lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông
ở xứ người. Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ.
Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt
lên trên đó, nó có một sứ mệnh thật cao cả khi người
ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống với cái đẹp
của tình yêu. Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất
Mỹ, Mai, cô gái Việt Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng
tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô. Không
biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã
làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang
đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng
với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người. Giá tất cả thế nhân đều
nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ
chiến tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất.
Nguyên Nhung __________________________________________________________________________________________________________________
Một Thoáng Thu Về...
Buổi sáng ra vườn sau Thấy cúc vàng đã nở Thế là một mùa thu Lại
về khu vườn nhỏ Như người bạn tri âm Lâu rồi mình
không gặp Mà nào có xa xăm
Mới bốn mùa thay đổi Bao điều mình
định nói Nhưng lúc nhớ lúc
quên Mùa thu không thay đổi
Chĩ có mình đổi thay
Không nắm được bàn tay Vẫn
chạm vào quá khứ Không nắm được tương lai Ngày
lúc nào vẫn vậy Một ngày như mọi ngày Đều là
ngày chủ nhật Nên buồn hay nên
vui Vì đời êm ả quá
Sáng
nay hoa cúc nở Thêm một chút heo may Nên tự nhiên mới
nhớ Có muà thu qua đây... Nguyên Nhung
NGƯỢC GIÒNG... Giá như quay ngược thời gian lại Cho tôi về tìm lại tuổi thơ Bánh xà phòng với cọng rơm khô
Tôi thổi bóng bay lên trời, rất ngộ!
Quả bóng nước lung linh mà dễ
vỡ Đẹp làm sao trong ấy có
bầu trời Và hình như còn
có cả nụ cười Của cô
bé mới chừng ba, bốn tuổi... Trò chơi trẻ con như trang giấy mới Vài tấm hình nguyệch ngoạc vẽ đơn sơ
Những trưa hè tiếng chó sủa vu vơ
Có bụi trúc lả mình chơi với
nắng Là áo mẹ phơi, sân đầy hoa nắng Đã in hình trong quả bóng tròn quay In vào hồn cô bé rất thơ ngây
Những nét đẹp hồn nhiên ngày thơ
dại Để bây giờ giật mình ngồi nghĩ lại Đời khác chi thuở thổi bóng lên trời Theo thời gian, phù vân tan biến cả
Ảo ảnh cuộc đời cũng chỉ thế
thôi! Nguyên Nhung, 2016
VIDEO: Giới thiệu Tập truyện
BÃI
BỂ NƯƠNG DÂU của
2 tác giả: TUYÊN ÚY NGUYỄN
& NGUYÊN NHUNG (Click 2 hàng chữ
hay vào ảnh dưới đây) https://vimeo.com/164857951
Bút ký Nguyên Nhung
Đã hơn 20 năm tôi chưa một lần trở lại quê nhà,
dù bao lần hẹn với người thân trong gia đình ít nhất cũng
phải có một lần gặp lại. Nếu không có Đại Hội
trường xưa của tôi tổ chức tại Melbourne bên Úc châu, tháp
tùng nhiều anh chị đồng môn tham dự thì chắc chuyện về
thăm gia đình cũng chỉ là một giấc mơ. Khi ngồi trong phi cơ
chờ hạ cánh xuống phi trường TSN, tôi cảm thấy hơi hồi hộp
dù đã nhủ lòng không có gì phải lo lắng. Nỗi vui mừng
khi sắp gặp lại gia đình, chuẩn bị sẵn những gì phải "đối
phó" sau nhiều năm dài xa quê hương. Suốt đoạn đường
bay khá dài, trò chuyện cùng một cặp vợ chồng trẻ cũng
từ Hoà Lan về thăm nhà. Tuy mới quen, khi biết đây là lần
đầu tôi trở lại quê hương anh ta tò mò hỏi - Chị có
thể cho biết cảm tưởng của chị khi về lại quê nhà?
Cảm
tưởng ư? Nhiều lắm chứ, cả nỗi suy nghĩ vẩn vơ nếu như
có điều gì không vui xảy tới. Suy nghĩ một chút tôi trả
lời anh ta: - Ngày tôi đi trời còn mờ sương, nay trở về
trời đã hoàng hôn. Như một giấc mộng dài. Tôi đang
nghĩ đến gia đình, đến niềm vui xum họp sau hơn hai mươi
năm mà may mắn là các anh, chị tôi còn sống cả.
Đặt
chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, tôi như chạm mặt với
một bức tường băng giá, xa lạ và lòng lại tràn ngập
nỗi lo sợ vẩn vơ. Mãi tới khi qua khỏi những thủ tục phiền
phức, có người muốn tôi đưa một chút gì đó mà
họ gọi là "chút quà cho quê hương", ra ngoài gặp lại
bao người thân trong gia đình tôi mới thở phào nhẹ nhõm.
Tuy nhiên, những ngày về thăm nhà tôi không ghi lại gì ngoài
những khúc phim và hình ảnh, nhưng trong tâm tôi mỗi một nơi
tôi đến đã ghi đậm bao nhiêu cảm xúc buồn, vui ...
Sài
Gòn Hơn hai mươi năm trở lại, Sài Gòn về đêm
trời vẫn oi bức. Vây xung quanh là người thân ra đón, tôi
ngỡ ngàng nhìn mấy đứa cháu nay cũng già đi với thời
gian, trách nào tôi cũng già đi khi mấy đứa cháu ngày
tôi ra đi mới ngoài hai mươi tuổi, nay tôi về đã ngoài
bốn mươi, đã lập gia đình và với một thế hệ tiếp
nối chào đời có vài đứa cháu đã tốt nghiệp
Đại Học. Tình cảm của tôi đối với các anh, chị trong
nhà, với lũ cháu thân yêu ngày nào không thấy có chút
đổi thay trong mắt nhìn của tôi, lại cảm thương hơn khi
hiểu những đưá cháu một thời sinh ra đã chịu bao thiệt
thòi trong nỗi nhọc nhằn, đắng cay với cha mẹ sau ngày chiến
tranh chấm dứt, hiện tại vẫn vất vả để mưu sinh. Đêm Sài
Gòn đèn màu chấp chới, những con đường mới mở sau
này thuộc vùng phi trường TSN ngày xưa, khi tôi ra đi chỉ thưa
thớt nhà cửa và đồng ruộng, nay thành phố xá nhà cửa
san sát. Người ta đi đâu mà đông vậy? Lòng đường
chật chội hay trước hàng hiên của mỗi căn nhà, hình như
vẫn bán buôn một thứ gì đó. Sau này tôi mới nhận
ra vẻ phồn thịnh này tiêu biểu cho một nền kinh tế èo uột,
người dân bán mua, mua bán lẫn nhau để tìm cách sống,
giữa một thành phố vật giá leo thang, khó tìm nổi công ăn
việc làm vững chắc.
Chiếc taxi đưa tôi trở về căn nhà
của người anh cả trong một ngõ hẻm chật không thể nào rộng
hơn được nữa. Tuy là hẻm nhỏ nhưng ven bờ rào vẫn phảng
phất mùi nguyệt quế, trời nhấp nháy sao đêm, dịu bớt đi
chút nóng bức và khói bụi của thành phố đông người.
Anh chị tôi vẫn còn thức chờ tôi về, tôi cứ nhớ mãi
một ngày nửa đêm về sáng cách đây hơn 22 năm, khi tiễn
tôi và gia đình ra đi anh đã bật lên khóc hù hụ
. Nay trở về, anh tôi già quá, miệng móm mém vì mất
đi những chiếc răng, lần này thì anh không khóc mà chỉ
lặng nhìn cô em út sau hơn hai mươi năm biền biệt cách xa
. . . Đêm đầu tiên về thăm nhà, Sài Gòn ban đêm
vẫn hầm hập nóng dù máy lạnh chạy rì rì và quạt
quay đều đều. Nhà chật nên tôi rủ bà chị ruột ngủ
chung cho vui, chị em rù rì chuyện trò mãi mà chưa ngủ được,
bao nhiêu buồn vui hơn hai mươi năm xa cách. Chị già đi nhiều,
thanh âm của "cô giáo gìa" trầm đi như nốt nhạc buồn.
Tuy vậy tôi vẫn nhìn ra sự thương yêu, trìu mến săn
sóc của chị dành cho tôi như ngày còn thơ dại, và nhớ
cả thời gian chị em tôi phải vật lộn để mưu sinh giữa chợ
đời đen bạc. Chị là nhân vật cô giáo bán chợ Trời
trong câu chuyện "Lá Thư Gửi Thầy Giáo Cũ" tôi viết
đã lâu, bóng dáng một cô giáo gầy gò, ngồi bệt
trên mảnh ny lông trải bên hiên phố chợ vẫn còn đó.
Với anh, chị trong nhà, mỗi người đều được tôi ghi lại
thành một câu chuyện, mà sao chuyện nào cũng buồn đến rơi
lệ ... Mấy lần thức giấc trong đêm, sớm tinh sương tôi mới
chập chờn đi vào giấc ngủ. Ấy là nhờ tiếng chuông, tiếng
mõ, tiếng tụng kinh từ nhà hàng xóm vọng sang, hình như trong
các ngõ hẻm ở Sài Gòn luôn luôn có tiếng động,
không trẻ con chạy chơi thì cũng là tiếng rao hàng của mấy
gánh hàng rong. Nhớ tiếng rao hàng của Sài Gòn năm nao, tôi
lại chợt nhớ đến một người bạn cũ, cái thời "cạn
ao thì bèo xuống đất" ở nhiều thập niên trước, chúng
tôi gặp nhau bên lề đường gió bụi để ... mưu sinh. Chị
kể lúc kinh tế gia đình xuống đã phải bưng thúng xôi
rao bán khắp hang cùng ngõ hẻm. Ngặt từ bé đến lớn chị
là "em là gái trong song cửa", nên đâu biết rao hàng làm
sao. Bưng thúng xôi đi vào con ngõ tối om, nhìn trước nhìn
sau không thấy ai chị mới dám cất tiếng rao "Ai ăn xôi không?"
thì tự nhiên nghẹn lời, nước mắt rơi lả chả. Chao ơi
là tội, trở về Sài Gòn hôm nay, nhớ tiếng rao hàng của
những người mua gánh bán bưng, tôi lại nhớ đến chị
ấy, không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu? Bình minh
Sài Gòn trời oi bức, mới rạng đông mà người rít
chịt mồ hôi báo hiệu một ngày nắng gắt. Chị tôi rủ
đi ra đầu ngõ ăn phở, tôi muốn thưởng thức lại hương
vị Phở Sài Gòn năm xưa xem thế nào. Cũng tạm được,
chỉ buồn cười là phở Sài Gòn bây giờ lại ăn với
rau ngò om, loại rau chỉ dùng để nấu canh chua. Cố nuốt cho xong tô
phở nhỏ tôi hiểu đất Sài Gòn vật giá đắt đỏ,
muốn bán một tô phở cho người bình dân dĩ nhiên là
chủ tiệm phải tính toán kỹ chi ly từng miếng thịt. Tôi không
quan tâm về miếng ăn và rất cảm thông khi hoàn cảnh sống
chỉ cho phép ... có thế thôi!
Quay về nhà bần thần trước mấy
va ly đồ đạc ngổn ngang, tôi lại phải chuẩn bị hành lý
cho chuyến bay tối qua Úc. Úc đang vào thu, Sài Gòn lại nóng
chảy mỡ, trong va ly chèn đầy nhóc quần áo ấm , tới đây
tôi thấy toát mồ hôi, mệt rã rời ... khi nghĩ tới lúc
phải bước chân vào phi trường, với những thủ tục hải
quan rắc rối . . . Hai tuần lễ ở Úc, hội ngộ Trường Xưa với
các anh, chị đồng môn, được hưởng những ngày vui thật
trọn vẹn với các anh, chị dù rất nhiều người tôi chưa
gặp bao giờ. Nửa tháng trời ở bên Úc, là đúng nửa
tháng tôi được thăm nửa vòng nước Úc. Đó là
người ta bảo vậy, vì các tiểu bang của Úc đều nằm
lòng vòng theo bờ biển, ở giữa là sa mạc nắng cháy nên
nước Úc rộng thênh thang mà không có người ở.
Thế
rồi sau chuyến Úc Du, sau đại hội được lang thang trên các
nẻo đường, từ Melbourne một ngày bốn mùa nóng lạnh nắng
mưa, đến Sydney khí hậu ấm áp mặc dù bấy giờ là
mùa thu nước Úc, chúng tôi còn được đến Brisbane biển
xanh trời xanh tuyệt đẹp.Hai tuần rong chơi để tận mắt nhìn
thấy sự hiền hoà, thân ái của người bản xứ, được
gặp lại hai người bạn cũ cùng xóm từ những ngày còn
nhỏ, quay về Sài Gòn đến phi trường TSN, trong lòng lại luấn
quấn một điều gì mù mờ không rõ rệt Ai ngờ lần
trở về này lại là lần cuối cùng anh em tôi được sống
gần nhau để nói nốt những câu chuyện dở dang ... Ngoài những
chuyến du lịch ngắn ngày, tôi thích về nhà với anh tôi, tuy
căn nhà chật chội những cảm thấy được che chở ấm áp.
Chị gái tôi từ Long Xuyên lên. Buổi chiều khi cơm nước xong,
một lũ cháu lớn, nhỏ ngồi vây quanh nghe các ông, bà nói
chuyện. Riêng tôi kể chuyện về nước Mỹ xa xôi, chuyện của
đời thường với sự thật 100% về cái xứ sở mà
mọi người cứ tưởng chỉ toàn "mật và sữa". Nước
Mỹ đâu phải thiên đàng nhưng nó cũng không phải hoả
ngục, cũng "tay làm hàm nhai" nhưng cơ hội thường mở cửa
cho người chịu khó và kiên nhẫn sống một cách lương
thiện, được bảo vệ và hít thở bầu không khí tự
do tuyệt vời. Thời gian đó sức khoẻ anh tôi đã xuống dốc,
với những đêm khó ngủ vì chứng tim mạch hành hạ. Nhờ
có tôi về thăm, nên anh có vẻ khoẻ lên nên cả nhà
ai cũng mừng, những bữa cơm đơn sơ trong gia đình ngon hơn nhà
hàng dù thật là giản dị. Lại nhớ đến những bữa cơm
dưa cà của mẹ tôi thời thơ ấu, cái vui không phải vì
"cao lương mỷ vị" mà vì cái tình đầm ấm của
một gia đình đoàn tụ.
Sau bữa cơm tối cả nhà quây quần
bên nhau nói chuyện cũ.Trong mỗi hồi tưởng, anh nhắc nhiều về
căn nhà cũ nơi chôn nhau cắt rốn ở phố Cửa Tiền, Sơn
Tây, những lần hành quân giày "sault" bê bết bùn sình,
và cả những khuôn mặt đồng nghiệp báo chí, hay đồng
đội cùng làm việc chung ngày xưa trong đời lính, anh tôi
chẳng quên ai. Mấy đứa cháu nội, ngoại của anh lại há hốc
mồm ra nghe các ông bà nói chuyện. Đối với chúng cũng
giống như chuyện đời xưa, mà nào có xa xôi gì, chỉ
mấy chục năm trước thôi sao lại giống như chuyện cổ tích.
Việt Nam bây giờ không còn khói lửa chiến tranh, mà chỉ còn
là khói bụi ngập đường, đâu tìm ra được cái
êm đềm của "đường xưa lối cũ" với những tà
áo dài tung bay trên hè phố.
Chuyện hai chị em tôi cũng buồn. Chị kể
cảnh một cô giáo nghèo, lắm khi trên mâm cơm chỉ duy nhất
có một cái hột vịt giầm nước mắm để chấm rau. Mỗi
năm tiêu chuẩn phân phối mỗi người 2 mét vải, may được
cái quần thì không có cái áo. Mấy đưá cháu lại
hít hà, miệng há ra vì ngạc nhiên quá đỗi. Một đưá
cháu ngoại của anh quay qua hỏi mẹ nó: - Thật không mẹ? Mẹ nó
là đưá cháu gái gọi tôi bằng cô, gật đầu trả
lời con giọng cũng bùi ngùi: -
Thật đó, tại bây giờ con no đủ rồi nên không thấy được
cảnh đó đâu. Hồi đó bằng tuổi con mẹ đã phải
nghỉ học ở nhà vì trường huyện xa quá, phải học thêu
may đan lát tiếp ông bà ngoại kiếm cơm". Rồi nó đánh
trống lảng: "Thôi con đừng hỏi nữa ..." Giọng cháu nghẹn ngào vì nỗi khổ ngày xưa
hiện về như một cuộn phim buồn. Tôi nhìn cháu mà đứt
ruột, nghèo là cái tội đổ lên đầu người dân
một thời tưởng như chuyện cổ tích. Những đưá cháu
ngoan ngoãn của các anh, chị tôi, trưởng thành từ cái khổ,
như cái ách của con trâu cầy buộc lên cổ người trên
thửa ruộng cằn khô.
Thời gian thấm thoát qua đi, một năm rưỡi
trôi qua là lúc anh tôi cũng "rũ bụi trần" về với ông
bà, cha mẹ bên kia thế giới. Buồn vì mất đi người anh thân
yêu, ngày tôi còn nhỏ anh phụ mẹ nuôi em, một người anh
đúng nghĩa "Quyền Huynh Thế Phụ", mỗi lần nghĩ về anh
tôi lại chảy nước mắt. Nhận lá thư chia buồn của một
người bạn, đọc mấy câu "Sống Gửi Thác Về" tôi
chợt giựt mình "ngộ" ra chữ VỀ nghĩ ngợi mãi và vơi
bớt nỗi buồn, thì ra anh tôi chỉ Về với mẹ, với cha, với
cội nguồn, "Lá Rụng Về Cội" là thế! Nghe gia đình kể
lại trong những ngày cuối đời, lúc tỉnh lúc mê anh đã
nhiều lần nhìn về di ảnh của mẹ tôi trên bàn thờ mà
gọi "mẹ, mẹ" biết bao nhiêu lần. Chẳng biết người ta
thế nào, nhưng với anh thì tôi cho rằng từ thuở còn trẻ
dại cho tới khi trưởng thành, anh luôn gần gũi mẹ nên lúc
nào cũng con đâu mẹ đó. Dân nhà binh, mỗi lần thuyên
chuyển đi đơn vị mới anh tôi luôn mang mẹ và em theo, bởi
vậy đời tôi cũng trôi nổi theo bước chân người anh là
Lính, biết nhiều nơi chốn hay nếp sống của người dân miền
sông nước. Ngoài ra trong những ngày cuối đời ấy anh cũng
hay gọi tên các em, trong khi đã có một bầy con, cháu bộn bề.
Phải chăng đến giây phút ấy trong tâm hồn mỗi người,
vẫn có những lúc quay về quá khứ, nhớ về mái ấm gia
đình trong đó có hình bóng những người thân yêu
của mình. Chết chưa phải là hết, triết lý theo tôn giáo
nào thì chết chỉ có nghĩa là tiếp nối về một nơi
nào đó Bình An, rất mù mờ như khói sương. Tôi vẫn
nghĩ như vậy và hy vọng anh tôi gặp lại những người thân,
những đồng đội của anh đã yên nghỉ từ lâu.
Nhắc
chuyện cũ về mẹ tôi, năm mẹ mất cũng là những năm gạo
châu củi quế, hôm nào mấy đứa cháu đi "ruộng"
đem về được rổ ốc béo là bà biến chế ngay thành
món ốc nấu khế cho cả nhà được một bữa ngon cơm.
Khi mẹ mất, chị em tôi tìm và giữ được hai chiếc áo
cũ của mẹ, lẳng lặng chia nhau kỷ vật thân thương nhất của
người mẹ hiền tảo tần chắt chiu nuôi con ăn học. Chị tôi
giữ cái áo cánh nâu còn hằn những nếp nhăn bạc màu
hai bên nách áo, tôi giữ chiếc áo dài màu cánh dán
mẹ tôi vẫn mặc đi nhà thờ, những đường chỉ cũng
bạc màu với thời gian.
Ngày anh tôi mất, chị nghĩ đến chuyện
giao lại tấm áo kỷ niệm của mẹ cho đưá cháu đích
tôn của mẹ tôi, đứa con trai đầu lòng của anh tôi mà
bà nội đã nâng như trứng, hứng như hoa khi cháu mới chào
đời, nay cũng là một nhà giáo. Tấm áo ấy được
phủ lên quan tài của anh tôi, như muốn nói với anh rằng: "Cuối
cùng thì mẹ cũng đón anh về, anh cũng được ôm trong
vòng tay yêu thương của mẹ."
Nguyên Nhung (
muà đông-2015)
Một
Thời Chinh Chiến Điêu Linh
Nguyên Nhung Dưới đây
là truyện viết về 1 phóng viên chiến trường thuộc vùng
IV chiến thuật: Phóng viên MAI HÒA. Đây là 1 nhà báo quân
đội chuyên nghiệp, xuất thân từ Việt Nam Thông Tấn Xã.
Khoảng thời gian của thập niên 60, ngòi bút và những hình
ảnh, những thước phim tại chỗ của Mai Hòa ngự trị trên báo
chí hầu như hàng ngày. Qua đó đọc giả như thấy cuộc
chiến diễn ra sống động ngay trước mắt mình. Ký giả Mai Hòa hay Giuse
Nguyễn Văn Hòa chính là người anh cả của nhà văn Nguyên
Nhung. Giuse đã thanh thản về với Chúa hôm 16/11/2015 tại Sài Gòn.
Trang Nhà xin thành kính chia buồn cùng Đông - Nhung và Tang quyến.
Nguyện cầu Hồng Ân Thiên Chúa sớm đưa linh hồn Giuse về Nước
Thiên Đàng. Trang Nhà ptgdtdusa.com____________________________ Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương
khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu
người lính khác, anh còn phải đeo lủng lẳng cái máy quay
phim và caméra trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt
trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai
chữ "Báo Chí", hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tuả
vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa.
Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn,
riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa
đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đã ghi lại biết
bao nhiêu hình ảnh trung thực của người lính sống thời chiến
chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường đất nước.Tiếng
đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ : "Không biết sống
chết lúc nào". Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước
phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người.
Ðoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân
tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm
lũi bước , đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng
sâm sấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như
nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập
rình chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn
mưa chiều luồn những giọt tái tê vào lòng người chiến
sĩ. Anh nhớ lại trận đánh
ở vùng Thới Lai, Cờ Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong
một vùng dầy đặc cỏ lác và sông rạch. Không phải
lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất phương
hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ
ảo, anh lần mò ra được đường cái, ở đấy có
một ngôi chuà nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng
mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng
chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng
phất giữa đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa
kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng
độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư ra quận lỵ,
hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.Ngôi chùa
tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn,
nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong
bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo mấy bụi
cây thấp trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người
nằm la liệt trên sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ,
quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất,
rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính.
Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn
uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ
mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng
đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến
trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có
đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng
chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là
những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận
kề với nỗi chết.Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành
đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu,
chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy
sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của
những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh giống như mùi
máu.Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc,
chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của
muôn loài vẫn diễn ra bình thường dù chiến tranh và sự
chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh
giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng,
rồi lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chuà,
chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người
lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một
giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính
tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà
xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận." Không phải
lúc nào ta cũng thắng ", anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử
thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là
vậy, thắng hay thua thì bên nào cũng có người nằm xuống,
có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ,
chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người
Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà
áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong
gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất còn
lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước
những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm
rầm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác
và sợ hãi, khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu
giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được
lời nào. Năm 1969, anh theo cuộc hành
quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang
cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Ðốc. Người phóng
viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín mùi
của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân
dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.Gia đình anh
gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh
gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát.
Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng
dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà
chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch
lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng
vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa
Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng
nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một
tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi thanh xuân nằm
lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy. Từ trên
máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ
huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào hình ảnh núi non chất
ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ
đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi
ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa
thấy đau vì tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như
bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy
ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã ướt
thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng
ngã xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy
loà nhoà hình ảnh người lính cứu thương bế anh lên
chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt
trên một vùng cỏ xanh.Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng
hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ
anh đã nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi . Anh thoát chết trong
đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng
trời, để được nhìn thấy sự hy sinh và đau đớn tận
cùng của người lính trong thời chiến.Những hình ảnh ấy
vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, tim anh vẫn thắt lại
khi bất chợt hôm nào nhìn thấy trên vỉa hè, người thương
binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất
chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai Năm
1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà
Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người
dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chuà chiền
cổ kính, lại vội vã bỏ vùng quê đi lánh bom đạn.
Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nhìn
hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước
mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có
lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô
tội, quê hương mình sao khốn khổ đến thế. Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám
tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay
làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió
mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có
rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên
người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ. Người phóng viên chiến trường đâu phải
lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng
theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương
lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đã phải ngắm nhìn
chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào
hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi
vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những
bàn tay dấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời
nguyền ruả sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này
tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân
liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời
sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy
những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến
tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh
chỉ là hình ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ,
là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm
cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già
không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự
an bình cho những đứa con. Anh phóng viên chiến
trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt
ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của
hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ
tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt
trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà
dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn
lại khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn
đạn vô tình.Tình cảm giữa người và người bắt
anh phải quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị
khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài.Hai tay bế hai đứa
bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy
anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng
giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối phương.Suốt
một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường
nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đã bao phen đối mặt
với tử thần. Anh còn bị thương một lần nữa trước khi
chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm
nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng
lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp
Mười. May là Thượng đế đã che chở anh, đã cho anh trở
về với một xác thân lành lặn.Ngày chiến tranh kết thúc,
một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại
trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần
nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa,
lòng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào
đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những
bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe những giọt
nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh. Từ đây cuộc đời bắt đầu là những
chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có
những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã
bị quên lãng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi
làm cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có
những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền
miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ , sợ
hãi cả tiếng bước chân của chính mình. Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng
viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá
kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường
tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe
tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại thì thầm đọc mấy câu
kinh cho những linh hồn đã khuất. Gia tài của
anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ
màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây quần
bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng
sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã
no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như
đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh
đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn
lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh
giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy
con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên
bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng
để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một
con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát,
đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá
cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm
thấy hào hứng muốn theo giõi trận đá cá của hai đứa
trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đưá trẻ nữa
quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng
nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa
mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn. Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào
xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ lúc ấy
phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua
thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả.
Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công
nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng.
Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt
nước hớp không khí, cái mình cá vẩy óng ánh màu
xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát
thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những
tràng cười khoái chí. Tan cuộc, hai thằng
nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp
đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ "hotel" và mấy
quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt
kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến
phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến
cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm lòng quặn
lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường
năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng mình như con cá bại
trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một
cách thảm thương Tội nghiệp anh, những cuộn
phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài
điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói.
Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên
tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào
đầu khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân
năm xưa, khi anh còn là một người lính. Anh tưởng tượng
lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một
ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại
nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học.
Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng
cũng ê ẩm, lòng vòng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không
hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt
đường, đã nát mình dưới những vòng xe lăn. Phố đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để
về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi.
Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm nói với mình,
" Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình
không nhỉ ? " Viết cho anh tôi, 1 phóng
viên chiến trường. NN
CĂN
GÁC ÐÌU HIU Truyện
ngắn của Nguyên Nhung
Hình như dĩ vãng
không hề tách rời khỏi tâm hồn Ðoàn, mỗi lần nghĩ về
những khoảnh đời cũ, Ðoàn lại nhớ như in căn gác lửng
mái tôn có cái trần thấp lè tè , một thế giới
đầy kỷ niệm của những ngày trẻ tuổi. Mỗi lần bước
lên gác, chàng lại phải khom mình xuống, để tránh đụng
đầu vào cây kèo trên căn gác chật hẹp ấy.
Thế nhưng, căn gác thấp tuy nhỏ bé lại
là cả một giang sơn của một cậu học sinh thời Trung học, có
một chiếc bàn nhỏ làm bàn học, vứt đầy những bản
nhạc mua được bằng những đồng tiền dành dụm quà sáng.
Chiếc kệ bằng gỗ tạp xếp nghiêng nghiêng
những cuốn sách học, những tập vở, lẫn lộn vào đó
là vài cuốn tiểu thuyết, hay một vài bài thơ viết dở
dang. Rồi khi thêm được cây đàn , ngoài những lúc đi
vắng, căn gác nhỏ là cả một thế giới âm thanh của tuổi
trẻ và tình yêu. Những ngày với bạn bè lang thang ngồi quán
cà phê ngắm những tà áo màu tung bay trên hè phố, khuôn
viên trường Ðại học, hay khi chỉ một mình trong căn gác
thấp và tối, âm nhạc quả là thế giới kỳ diệu để
tuổi trẻ tạm quên đi nỗi buồn chiến tranh. Ði
xa nhiều năm, trở về căn gác nhỏ của mình, Ðoàn vẫn
thấy xúc động khi có dịp sống lại với những kỷ niệm
cũ, và trong đời chàng, có lẽ khoảng thời gian ấy, là
thời gian đẹp nhất trong cuộc đời, khi bỏ lại đời sinh
viên, xa khung trời Ðại Học, chọn binh nghiệp làm hướng đi
của người trai thế hệ. Thế hệ của chiến tranh, của những
đêm nhìn ánh hỏa châu lơ lửng trên vùng đêm đen
ở phía xa thành phố, của những ngày đi học nhìn bạn bè
chuẩn bị lên đường nhập ngũ, Ðoàn đã có lúc
nghĩ, thế nào rồi cũng tới lượt mình. Không có chọn
lựa nào khác thì đành là phải chọn lựa thôi, nếu
như bảo rằng vì say mê binh nghiệp, giã từ nếp áo sinh viên
để lăn mình vào chỗ chết, chưa chắc lúc ấy Ðoàn
đã có ý nghĩ đó. Nhưng khi bước chân vào đời
quân ngũ, tự nhiên hoàn cảnh đưa đẩy, khiến chàng phải
xác định lại chỗ đứng của mình, nhất là khi có những
người bạn nằm xuống lúc tuổi còn đang độ thanh xuân.
Bấy giờ
thì căn gác của Ðoàn thật sự buồn hiu vì sự vắng
mặt của chàng, để mỗi lần về phép trong đời lính,
khi nhìn lại những đồ vật quen thuộc trên căn gác xép,
lòng chàng vẫn vu vơ nỗi nhớ đằm thắm của một thời
hoa mộng. Chàng hay lẩn thẩn nhìn mặt bàn, chiếc ghế, bâng
khuâng nhớ đến dáng ngồi khép nép và mái tóc dài
của người bạn gái cùng lớp, chiếc cặp tóc bỏ quên
trên mặt bàn khi ra về, Ðoàn vẫn giữ gìn nâng niu như
một kỷ niệm khó phai. Ít ra cũng có một chút gì để
nhớ. Sau này khi ra đơn vị, đóng quân ở Pleiku, thành phố
có những con đường quanh co gió núi với mây mù, đi loanh
quanh một buổi chiều đã hết mấy con đường của thị xã.
Ly cà phê đậm đắng, ngồi lơ mơ với điếu thuốc rồi
thả hồn theo những tiếng hát, Ðoàn lại thú vị vì biết
đời vẫn rất cần có những nỗi nhớ dịu dàng như vậy.
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, chạy
thục mạng theo đoàn quân đổ về phươngNam. Suốt một đời
làm lính Ðoàn chưa bao giờ khóc, ngay cả phút chia tay với
bạn bè sau bốn năm ở quân trường, thế mà những ngày
cuối tháng Tư năm ấy, nó cứ in vào lòng chàng một nỗi
buồn ray rứt khôn nguôi. Làm sao quên được chặng đường
thương khó đầy máu và nước mắt, Ðoàn bắt gặp
hình ảnh người vợ lính, một mình tay bồng tay dắt mấy
đứa con nhỏ để chạy theo đoàn quân lui về phương Nam.
Ðể rồi trên một chặng nghỉ chân, người vợ lính ấy
gào khóc thảm thiết đến tuyệt vọng khi đứa con bốn tuổi
đã lạc mất trong dòng người hỗn độn . . . Lúc đó,
tự nhiên nước mắt Ðoàn cứ tuôn như mưa trên đôi
gò má xạm đi vì nắng bụi, sự đổ vỡ tan tác cuả
gia đình người lính trong thời loạn, đã trở thành nỗi
buồn khó phai trong lòng chàng mãi mãi về sau. . . . . Tưởng như một phép lạ khi Ðoàn lại trở
về với căn gác nhỏ, sau những ngày dài đói khát vượt
rừng bằng đôi chân không đau buốt, đem theo cái buồn
u uất lẫn với nỗi phẫn hận khiến chàng mệt mỏi, nằm vùi
trên chiếc giường nhỏ. Vật vờ vì cơn sốt chợt đến
chợt đi, bao nhiêu nhiệt huyết của tuổi trẻ dường như cũng
theo đó mà xụp đổ. Nhìn qua khung cửa sổ bé tý trên
căn gác tối, một nửa vầng trăng và những ánh sao đêm
ấy sao lạnh lẽo quá chừng, chưa bao giờ chàng cảm thấy cô
đơn bằng lúc ấy. Cơ thể mệt mỏi rã rời, tâm hồn
trống rỗng hụt hẫng, tất cả thực tại hình như trong thoáng
chốc đã biến mất, như có như không, những bạn bè năm
cũ, những gương mặt đồng đội bỗng dưng lại có thể
nhanh chóng biến thành những bóng ma dật dờ sau cơn đồng thiếp
chiến tranh. . . .
Ðể rồi sau cuộc đổi
đời đó, người lính biến thành người tù còn
nhận thêm những cay đắng của thân "cá chậu chim lồng".
Cái hào khí ngất lửa năm xưa tạm nằm im để chịu đựng
thêm những nhục nhằn , cơ cực. Cuối cùng, Ðoàn đã trở
về căn gác cũ của mình sau ba năm xa vắng, nó vẫn cho chàng
đầy ắp cảm giác được trở về căn nhà xưa, như
người bạn tình chung không hề thay lòng đổi dạ.
*
* *
Ðời đã bước
qua một bước ngoặt, thế nào đi nữa Ðoàn vẫn phải có
một việc làm để mưu sinh. Không phải lúc để chọn lựa,
vì trước mắt chàng tương lai hoàn toàn không có. Có
chăng là phải thoát ra khỏi cuộc đời đầy bóng tối
vây bủa những tù ngục vô hình, lúc nào cũng lởn vởn
trong chàng ý muốn được đi xa. Có những đêm khuya Ðoàn
cố nằm im đợi giấc ngủ, bỗng chàng chợt ngồi bật dậy,
một luồng hơi tức nghẹn trong lồng ngực khiến mắt chànng
cay cay, rồi cứ vậy chập chờn suốt đêm khuya. . . Không còn làm gì được nữa, thôi thì
đành chấp nhận hoàn cảnh rồi đời muốn ra sao thì ra. Ngày
hôm sau Ðoàn đạp xe lang thang đi tìm những người bạn cũ
đồng cảnh, may mắn sao chàng lại tìm được một việc
làm tương đối thích hợp. Ðó là vẽ mặt cho những
con búp bê biết cười bằng gỗ, một thứ đồ chơi tiểu
công nghệ rẻ tiền cho trẻ con, dựa vào những câu chuyện cổ
tích thần thoại Liên Xô đang được hâm mộ lúc bấy
giờ. Lúc nhận việc, Ðoàn vẫn hóm
hỉnh nghĩ đến cái tương phản của công việc với tâm
hồn mình lúc ấy, vẽ mặt người cười trong khi mặt chàng
lúc nào cũng muốn méo xệch đi vì thất vọng. Người
ta đang ru ngủ những đứa trẻ thơ , để tin rằng vẫn có
những mơ ước trong cái cõi đời đầy bịp bợm, riêng
với Ðoàn, chắc khó tìm lại được niềm tin khi vừa trải
qua nhiều tháng ngày vật lộn với tù tội, đói khát. Nhưng
cũng thời gian ấy, trong nỗi buồn miên man , Ðoàn mơ hồ
rằng giữa lúc cuộc đời đến tận cùng bằng số, chàng
vẫn có một mối tình để nhớ. Công việc quả không cực nhọc gì, bề bộn quanh mình
là những con búp bê bằng gỗ đang chờ được chàng vẽ
phác một nụ cười. Nhân vật là thằng bé có cái
mũi dài, cô bé Lọ Lem, công chúa với hoàng tử, mụ phù
thủy và những vị "Thần Tháng" râu tóc bạc phơ. Mỗi
lần ngồi tô điểm nụ cười cho những nhân vật không có
thật ấy, Ðoàn cảm tưởng mình cũng quên được phần
nào nỗi buồn của thực tại. Ðược
phân công làm việc chung với một cô bé, có lẽ thua chàng
đến gần chục tuổi, vì thế mà cô ta gọi Ðoàn
bằng chú. Thật tình lúc ban đầu, chàng cũng thích lối
xưng hô ấy, khi Tâm cho Ðoàn biết bố cô cũng là một
sĩ quan Ðà Lạt lớp đàn anh, đang bị tập trung cải tạo.
Và bây giờ vì hoàn cảnh sống, Tâm phải bỏ học đi
làm để tiếp mẹ nuôi lũ em còn bé dại. Sau thấy Ðoàn
còn trẻ, lại độc thân, Tâm tự nhiên thay đổi lối xưng
hô. Như một người anh lớn, Ðoàn thường chỉ vẽ thêm
cho Tâm cách tô điểm sao cho những con búp bê, mỗi con một vẻ
đầy tính cách nghệ thuật. Tự nhiên Ðoàn có cảm tưởng
hai người rất gần nhau, vì họ có chung một cảnh đời bất
hạnh như nhau.
Tâm cũng khéo tay, từ
từ đã vẽ được đôi mắt và chiếc mũi xinh xinh
cho những con búp bê gỗ, rồi đẩy qua Ðoàn để chàng
vẽ vào đó một cái miệng cười. Có lần Toàn vừa
vẽ, vừa nhìn đôi môi chúm chím cười trên khuôn mặt
còn đầy nét thơ ngây của Tâm, chàng bỗng liên tưởng
đến nụ cười xinh xinh của cô bé Lọ Lem trong cổ tích. Tự
nhiên Ðoàn hy vọng, một ngày nào đó cô bé Lọ Lem
đang ngồi trước mặt chàng, sẽ có thể biến thành một
công chuá.
Ðể rồi từ đấy
với một tâm hồn nghệ sĩ, mỗi khi vẽ nụ cười cho búp
bê, chàng lại có cảm tưởng mình đang vẽ nụ cười
của Tâm, nhờ thế mà khuôn mặt của những con búp bê sinh
động hẳn lên, đến nỗi ai nhìn qua cũng đều tấm tắc
khen đôi tay tài hoa của chàng. Anh bạn cũ cũng là chủ nhân
của cơ sở sản xuất búp bê thật tinh mắt, anh đã nhìn
ra được tâm hồn bạn mình gửi gấm qua những nụ cười
búp bê, đôi khi anh ta hay nhìn Ðoàn rồi nheo mắt cười thông
cảm. Chuyện vẫn chỉ là thế nếu không
có lần hai người cùng làm việc chung, Ðoàn bất chợt nghe
Tâm hát. Nàng hát nhỏ thôi nhưng vì lúc ấy trời mưa,
mưa nhỏ thôi nhưng không gian chừng như giăng giăng những cụm
buồn trên nền trời đầy mây xám, chỉ có tiếng mưa vẫn
rích rắc nhỏ giọt xuống hàng hiên ẩm ướt bên ngoài
khung cửa. Tự nhiên Ðoàn xúc động, lâu lắm rồi chàng
bỗng nghe lại một tiếng hát, hay là một bài hát mà chàng
thích, trong những buổi chiều ẩm ướt ngồi uống cà phê nơi
thành phố gió núi và bụi đỏ ngày xưa. Giọng hát
Tâm còn non nớt, không điêu luyện lắm, nhưng bản nhạc
vô tình lại khiến Ðoàn xúc động: " Phố núi cao, phố núi đầy sương.
Phố núi cây xanh, trời thấp thật buồn. Anh khách lạ đi lên
đi xuống, may mà có em, đời còn dễ thương. Em Pleiku, má
đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều, quanh năm mùa Ðông,
nên mắt em ướt, và tóc em ướt, nên em mềm như mây chiều
trôi. . .."
Chàng buông cây cọ trên
tay, thẫn thờ nhìn ra khung cửa sổ, những sợi mưa mỏng đan nghiêng
nghiêng làm không gian càng ẩm ướt một nỗi buồn. Giá như
có cây "guitare" để đệm theo tiếng hát buồn buồn
của Tâm trong buổi chiều hôm đó, có lẽ hạnh phúc đối
với Ðoàn chỉ có vậy. Không biết Tâm có cảm được
bản nhạc cô vừa hát đã khiến Ðoàn xúc động đến
thế không, nhưng khi thấy Ðoàn im lặng lắng nghe, cô bé đang
hát bỗng bẽn lẽn ngồi im, khiến chàng phải lên tiếng:
" Tâm hát hay lắm. Bản nhạc này khiến
tôi nhớ nhiều đến một thành phố cũ..." Vốn ít nói, Ðoàn cũng chỉ nói tới đó
rồi thôi, những nỗi buồn chàng vẫn thường hay giữ lấy một
mình, như những lá thư tình tuổi học trò chàng gửi vào
đấy bao nỗi nhớ nhung, để rồi nó vẫn không bao giờ được
gửi đi cho người nhận. Tâm vẫn vừa chăm chỉ tô những
đường nét trên khuôn mặt búp bê, sơn phết lại áo
quần cho nhân vật trong phim " Mười hai vị Thần Tháng", vừa
hát nho nhỏ " ... may mà có em, đời còn dễ thương...",
khiến Ðoàn tủm tỉm cười, thầm ao ước rằng câu hát
ấy được Tâm dành riêng cho chàng trong buổi chiều nay. Chàng
bỗng dưng chợt nhớ đến mấy vần thơ thật dễ thương
cuả một cô bé chàng quen thời đi học, mỗi chiều tan trường
đi ngang nhà, vẫn lắng nghe tiếng đàn "guitare" cuả chàng
vọng xuống từ mái hiên căn gác nhỏ. Rồi khi chàng nhập
ngũ, Ðoàn có nhận được mấy vần thơ trước lúc
lên đường, như một lời tỏ tình rất dễ thương:
"
Chắc anh người trai trẻ, Ðã lên đường tòng quân,
Ðường đi ra chiến trận, Có mang đàn theo không?"
Bây giờ ngồi làm việc chung với Tâm, càng
gần gũi với những nhân vật trong huyền thoại cổ tích, cô
bé cũng như Ðoàn, đã có lúc đắm hồn vào những
mơ ước của mộng ảo, để quên đi nỗi buồn thực tại.
Có lần Ðoàn đã thân mật nói với Tâm, bằng sự
chân thành nhất của lòng mình: " Lắm khi nghĩ lại thấy công việc của tụi mình rất
buồn cười. Ðời thì buồn nẫu ruột ra vì không có tương
lai, thế mà ngày nào cũng sống trong thế giới mơ ước của
công lý, kẻ ác phải đền tội, người hiền sẽ được
hạnh phúc. Thế mà đời vẫn không là vậy. . ."
Ngày nào cũng như ngày nấy, công việc
chỉ có vậy, mà cũng không phải dễ để có việc làm
đều đặn hoài như thế. Những con búp bê bằng gỗ xinh
đẹp biết cười sắp hết thời, đám trẻ nhỏ chắc cũng
không tin tưởng lắm vào đôi đũa thần của sự mơ ước.
Như Ðoàn và Tâm lúc ấy, cũng phập phồng nghĩ tới
một hôm nào đó, sẽ không còn việc làm để nuôi
thân và giúp đỡ gia đình. . . Tất cả đều trở thành thói quen, dù sự đau khổ
hay nỗi cô đơn, nó cũng sẽ chỉ là thói quen khi con người
đã quen chịu đựng nó, huống gì mỗi ngày được
làm việc chung với một cô bé dễ thương như Tâm,
đã cuốn hút Ðoàn vào nỗi đam mê vốn có sẵn
không rời ra được. Nhìn Tâm, Ðoàn bỗng nhớ da diết khung
trời Ðà Lạt mà những mối tình ở lại, cũng mong manh như
những sợi tơ trời lãng đãng trên nền trời xanh biếc. Chàng
mơ hồ mình đã yêu, rồi lại dối lòng bảo rằng không
khi chạnh nghĩ tới thực tại. chàng có gì để dám ngỏ
thật với Tâm là thực sự chàng đang muốn chia xẻ với cô
bé, những khó khăn trong cuộc sống hiện tại. Chắc chỉ trong đêm
khuya nằm trằn trọc chờ giấc ngủ trong căn gác nhỏ, Ðoàn
vẫn thấy hình ảnh Tâm lúc nào cũng lưởng vưởng trong
tâm trí. Trong chàng như có hai con người lẫn lộn, giữa tình
cảm và lý trí. Một đứa như bảo chàng, làm sao khi yêu
còn kiểm soát nổi nhịp đập của trái tim, thế nhưng tiếng
nói của đứa kia mạnh mẽ hơn, thực tế hơn khi lôi chàng
trở về với hiện tại, bảo chàng phải đi đâu đó,
phải tìm một cái gì đó. Cuối cùng chàng cũng mơ
hồ hiểu rằng đó là niềm khao khát được thở một
chút không khí tự do mà chàng đã mất. . . Với những mâu thuẫn nội tâm, có lẽ cả đời
Ðoàn vẫn chưa nói hết được điều hay ho, dù con
tim chàng nó xúi bẩy chàng nói đi, sống thật đi kẻo hết
một đời cũng vậy thôi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi,
Ðoàn chưa nói được gì thì chính Tâm lại là
người nói trước. Ðoàn vẫn không bao giờ quên chiều hôm
ấy, lúc hai người cùng cắm cúi làm việc chung với nhau thì
Tâm bỗng thở dài rồi nói khẽ: " Anh em mình sắp xa nhau rồi." Ðoàn thảng thốt nhìn Tâm, nhưng
vẫn im lặng. Ðôi mắt Tâm thật buồn, chẳng bao giờ chàng quên
nổi đôi mắt u uẩn như còn đọng đầy một hồ lệ.
Tâm nói tiếp, rất nhỏ như một cơn gió thoảng: " Tâm sắp đi rồi..." Chữ " Ði " lúc này
có nghĩa là ly biệt, và khó có ngày gặp lại. Ði
là đi tìm tương lai ở một vùng trời xa lạ, nhưng chữ
" Ði " vẫn có nghĩa là sắp bước vào một đoạn
đời chông chênh đầy bão tố, một sống một chết, một
mất một còn, hay tệ hơn là trước khi tìm thấy tương
lai, đã phải đánh đổi bằng nhiều mất mát. Lúc ấy,
không hiểu sao khi nghe Tâm nói, Ðoàn lại chỉ nói: " Nếu đi được thì cũng nên
đi, nhưng phải cẩn thận. . . " Tâm lắc đầu, mái tóc nàng thoảng mùi hương
bồ kết. Giọng Tâm trầm xuống gần như muốn khóc: " Nếu chỉ đi thôi thì
đã không có gì để nói, nhưng..." Ðoàn ngắt lời Tâm với nỗi lo
sợ lẫn xót xa: "
Nhưng làm sao hở Tâm?" Rồi chàng chờ đợi, như chàng sợ sắp sửa
phải nghe Tâm nói điều gì đó mà chàng mong đợi,
mà lại hoàn toàn không biết sẽ trả lời ra sao. Nhưng Tâm
chỉ buồn buồn bảo Ðoàn: " Tâm sắp đi, nhưng trước khi đi thì phải lấy
chồng đã. Người ta muốn vậy, đời luôn luôn là sự
đổi chác." Gần
như choáng váng vì câu nói của Tâm, nó lạnh lẽo như
nước đá dù cô bé đang đề cập đến chuyện
quan trọng trong đời mình. Ðoàn hỏi lại: " Sao lại như thế?" Tâm mím chặt đôi môi
như để giữ lại nỗi xúc động, mà lại có vẻ liều
lĩnh khi chấp nhận một sự thật ê chề: " Bố đang bị tù, mẹ không biết làm
gì để nuôi được các em, chỉ còn cách là phải
đi thì mới đem lại niềm hy vọng cho gia đình. Nhưng khả năng
lại không có, chỉ còn cách này thôi. Họ có phương
tiện, còn mình thì không, nhưng không chấp nhận thì không
còn con đường nào nữa." Ðoàn
hiểu, lòng quặn lên nỗi thương cảm. Cô con gái của
một người sĩ quan chế độ cũ, đã có một quyết định
quyết liệt dù rằng cô hiểu niềm hy vọng đó có thể
làm tan nát trái tim cô. Người cha giờ này đang mịt mù
nơi rừng sâu núi thẳm, trong một trại tù nào đó tuốt
ngoài miền Bắc, chắc hẳn những lá thư gửi về đã xa
gần nhắn gửi đến vợ con điều mong mỏi của ông...
Chiều hôm đó, lần đầu tiên hai người
đạp xe đi bên nhau đến một quán cà phê vắng, nói nốt
câu chuyện dở dang mà có lẽ sau này không bao giờ có dịp
nói nữa. Ðoàn vẫn nhớ giọng nói dịu dàng của Tâm,
khi cô se se những sợi tóc vương trên chiếc áo trắng:
" Anh Ðoàn nhỉ? Có những điều người
ta không cần nói ra, mà vẫn hiểu là đã nhận, đã
nghe. Tâm rất mến anh, nhất là hôm vô tình anh lắng nghe Tâm
hát. Ðúng là đời dù có tàn tạ tới đâu, vẫn
cần giữ cho mình một chỗ riêng để nhớ. Mai mốt dù đi
đâu, ở đâu, Tâm vẫn không bao giờ quên anh. . ."
Lúc ấy Ðoàn cũng chỉ muốn nói: "
Anh cũng thế, anh cũng sẽ không bao giờ quên em, cô em bé bỏng
dễ thương của anh". Nghĩ thế nhưng Ðoàn vẫn không nói
được, nhưng chàng hiểu chỉ nhìn vào mắt chàng, Tâm
có thể nhận hết những gì chàng đang nghĩ trong lòng.
Buổi chiều trong quán cà phê vắng, tự nhiên
Ðoàn thèm nghe tiếng hát của Tâm, với bản nhạc vô tình
nhắc nhở Ðoàn những ngày cuối cùng của một người lính
tâm hồn nhiều mộng mơ, quán cà phê và con đường Hai
Bà Trưng ở Pleiku, những buổi chiều mùa Ðông lẩn khuất
trong hàng cây ven đường. Chiều
bỗng dưng đổ mưa, Ðoàn trầm ngâm nhìn khói thuốc
bay trong không gian mờ tối, trong khi Tâm âu yếm bỏ đường
vào ly cà phê cho Ðoàn, rồi nhấp môi nếm thử . Có lẽ
những giờ cuối còn ngồi bên nhau, không biết ngày mai đời
sẽ như thế nào, Tâm muốn dành riêng cho Ðoàn chút êm
dịu của một mối tình không ngỏ được. Không biết nghĩ
sao, Ðoàn nhìn vào đôi mắt Tâm , cầm ly cà phê đặt
môi mình vào chỗ đôi môi của Tâm vừa nhấp, tưởng
như chàng vừa đặt một nụ hôn lên đôi môi xinh xinh của
nàng. Ðôi mắt họ bối rối nhìn nhau, cho đến suốt cả
đời, chàng vẫn không bao giờ quên được đôi mắt
Tâm chiều hôm ấy. . .
* *
* Những ngày sau đó, Tâm không còn
đến Tổ Hợp Búp Bê để làm việc, Ðoàn một mình
làm hết những công việc cho khuôn mặt búp bê, nhưng lòng
hoàn toàn trống rỗng để không làm sao vẽ trọn vẹn một
nụ cười. Những nụ cười vui tươi, xinh xinh trước kia được
chàng say sưa, nắn nót để tô điểm, nay cứ méo xệch
đi như sắp khóc. Cứ mỗi lần vẽ nụ cười cho con búp
bê gỗ, tùy theo khuôn mặt của nó, chàng lại thấy mắt
mình cay cay, nhòe đi như không nhìn rõ được gì nữa.
. . Chắc chắn rằng Ðoàn không còn
hứng thú gì để tiếp tục công việc này, dù nó cũng
giúp cho chàng ngày hai bữa cơm, thêm thắt vào đời sống
gia đình cho cha mẹ. Sự ra đi của Tâm đã mang theo tất cả
niềm hy vọng màu xanh vừa hồi sinh trong trái tim chàng, khiến Ðoàn
buồn rã rượi. Làm sao đời lại chỉ là những bất hạnh
này tiếp nối những bất hạnh khác, nhất là điều ấy
lại xảy ra với một cô gái vừa ngơ ngác bước vào đời
như Tâm, đã phải chua chát chấp nhận hoàn cảnh đau
xót ấy. Những bế tắc cuả đời sống hiện tại, khiến
người ta chỉ nghĩ đến chuyện thoát ra, mà không biết
những bất hạnh đang rình rập ở phía trước. Ðoàn vẫn cầu nguyện cho Tâm gặp nhiều may mắn
trên con đường vượt biển đầy hiểm nguy và bão tố.
Không lẽ ông Trời lại nghiệt ngã không ban cho nàng niềm hy
vọng cuối cùng, ước muốn là con chim đầu đàn trong
gia đình, bay đến một phương trời xa và mang niềm hy vọng
cho người thân trong nhà. Cuối
cùng, Ðoàn cũng từ giã những người cùng làm chung trong
Tổ Hợp Búp Bê, vì đã tìm được một việc khác
, tuy nặng nhọc hơn nhưng đỡ phải suy nghĩ. Chàng hy vọng thời
gian sẽ làm chàng nguôi đi nỗi nhớ, chút tình yêu dịu
dàng khởi đầu bằng một tiếng hát, để nhìn về tương
lai với một niềm hy vọng, cho chàng và cho Tâm. . . Những buổi chiều một mình trong căn gác
đìu hiu, nhìn những mảng mây tím lãng đãng trên bầu
trời lúc hoàng hôn, Ðoàn vẫn nghĩ về Tâm, nghĩ tới
nụ cười xinh như con búp bê trong cổ tích, nhớ hoài đôi
mắt buồn còn ngấn những giọt lệ. Nhất là những buổi chiều
mưa, Ðoàn đứng mãi bên khung cửa sổ, để những giọt
mưa hắt vào ướt đẫm trên mặt mình, không biết
đó là những giọt nước mưa hay những giọt nước mắt.
Ðoàn bâng khuâng dạo lại bản đàn cũ, nghe như trong không
gian im vắng của buổi chiều, có tiếng hát êm êm của Tâm
còn bỏ lại.
(
Viết thay tâm sự cuả một người)
Nguyên Nhung
ĐỪNG HỎI VÌ SAO
Tháng Tư buồn Năm
vừa qua, chuyến xe đưa chúng tôi từ Đà Nẵng về Qui Nhơn,
tôi mới có dịp đi qua đoạn đường "máu đổ thây
phơi" của 40 năm trước. Đi qua những địa danh quen thuộc miền
Trung, từ Đức Phổ, Mộ Đức, những quận lỵ xơ xác đói
nghèo vì chiến tranh đã được hồi sinh. Có lẽ 40 năm
sóng biển Sa Huỳnh vẫn vỗ vào bờ một nỗi buồn xa vắng.
Hai bên ruộng lúa vẫn xanh rờn, xa xa dải núi mờ sương lại
khiến tôi thương cảm không cầm được giọt lệ. Tôi
biết anh đã yên nghỉ, nhưng nắm xương tàn nằm ở đâu
thì cho đến bây giờ vẫn chưa tìm lại được.
Tháng Tư. Đốt nén hương
lòng tưởng nhớ anh, một người anh hiền hoà, luôn thương
yêu các em. Sau 40 năm anh đã yên nghỉ , gửi nắm xương
tàn nơi rừng sâu núi thẳm, nhưng nỗi thương nhớ vẫn
còn ở lại với người thân trong gia đình. Bốn mươi năm mới viết nổi bài
thơ, "Đừng Hỏi Vì Sao Tháng Tư Buồn", hay 40 năm nhìn
lại với một nỗi buồn khó nguôi. Nguyên Nhung _________________________________________________________________________________________________________________
NGƯỜI LÍNH GÌA
TRÊN CHUYẾN TÀU ĐÊM
Con tàu
chuyển mình ra khỏi ga Hoà Hưng vào lúc hoàng hôn, đuổi
theo là những mảng mây tím trên nền trời. Sài Gòn nằm
lại đằng sau với phố phường rực rỡ ánh đèn, xe cộ
chen nhau trên đường phố, nóng và bụi khiến con người tưởng
như đang chìm lỉm trong bầu không khí đặc quánh đầy
ô nhiễm. Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước
xuống phi trường Tân Sơn Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức,
không khí ngột ngạt. Ông Bảo lặng lẽ nối đuôi sau đám
hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải quan,
mồ hôi vã ra đầy người. Người về lặng lẽ chờ,
cảm giác có nôn nao nhưng không láo nháo bằng đám người
nhà đang đứng ở phiá ngoài chờ đợi thân nhân. Khi
ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường, ông Bảo mới ngỡ
ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn
đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố
tìm lại vài nơi chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi len lỏi
trong dòng xe đầy nghẹt trên đường phố. Thay đổi nhiều,
nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái
thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân,
đang chen chúc nhau gần như không có không khí để thở.
Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà
con vùng ngoại ô thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó
có bà mẹ già của ông đang thoi thóp những ngày cuối
đời chờ đứa con xa trở về.
Đã quen với những xa lộ thênh thang cuả
nước Mỹ, những khu nhà ở cách xa nhau nằm ẩn mình sau những
bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ hành trên đường
phố. Ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng,
cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình
để ngoi lên với những đô thị lớn trên thế giới.
Hồi
xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông
sự thay đổi ấy không làm ông choáng ngợp bao nhiêu. Mười
hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc
ông hỗn độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước,
nhưng quả đáng tội, hồi niên thiếu ông sống ở miền
Trung, dải đất nghèo nhất trong ba miền Trung Nam Bắc, đã để
lại nhiều nỗi nhớ sâu đậm trong lòng ông, dù ông được
sinh ra ở miền Bắc.
* * * Trời dần tối, những
vị sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời tối thẫm như
nhung. Bỏ lại Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông , thành phố
ánh sáng của những người giàu và cũng nơi trú ẩn
cho những người nghèo trong những hẻm hóc tối tăm không bình
yên. Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt
gặp được những hình ảnh tương phản cuả sự nghèo
giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở Việt Nam. Chẳng cần
nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như
ông từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm
cảm giác cuả chuyến tàu đêm , hoặc những người thành
phần khá giả ở trong nước thường vẫn kiếm một chỗ khá
đầy đủ tiện nghi trên xe lửa. Còn ở những toa tàu ngồi,
giữa khoảng trống cuả hai hàng ghế, lổn nhổn những chân cẳng
và hành lý ngổn ngang, người đi tàu đang thu dọn để
tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn đường dài ra Trung,
Bắc. Toa ông ở có bốn người, hai anh Tây ba lô đi du lịch
Việt Nam, một người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về
thăm nhà ngoài Trung. Khi vào phòng, loại giường hai tầng khá
bất tiện khi ban đêm có người lục đục trèo xuống để
ra ngoài. Mọi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi
tìm chỗ của mình. Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn
để ngồi uống trà, vài cuốn quảng cáo về du lịch để
trên mặt bàn, ông bỗng nghe tiếng nhạc dặt dìu vang lên
, có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông
không để ý. Quái lạ! Bản nhạc "Tàu Đêm Năm
Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm buồn vẫn lồng
lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến ông bàng
hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên sân
ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến
tranh còn đang sôi sục.
"Trời đêm dần tàn, tôi đến
sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn, tàu cũ năm xưa
mang về trả cho tôi người xưa..." Thốt nhiên, ông nghe mắt
mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu đêm năm cũ
hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại,
như là ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người
lính năm xưa, bùi ngùi nắm tay người yêu trước giờ
chia biệt. Và tiếng còi tàu, ôi tiếng còi tàu sao lúc
ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu. Ông vội nhắm
mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại
gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại. Không,
ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng
nhất, tóc đã bạc, đôi mắt xụp mí khi về già, nhìn
mải miết vào bóng đêm mịt mùng để tìm lại những
hình bóng cũ. Con tàu tăng tốc độ, hé mở cửa sổ phiá
bên ngoài ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù
tiếng gió đêm thổi bạt hai bên tai. Có lẽ sau hai tiếng đồng
hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu đi vào khu thành
phố rực ánh đèn. Khung cưả lưới của toa tàu khá rộng,
hai người Tây ba lô đang nhai mỗi anh một ổ bánh mì thịt,
vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam cùng
phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống
ở sân ga. Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:
" Đây là đâu nhỉ?"
Ông ta cũng trả lời trống không, giọng
miền Bắc: " Tới Long Khánh rồi".
Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp: " Hơn chín giờ. Ông về đâu?" " Tôi ra Quảng Ngãi." Ông trả lời vắn tắt. Người khách tò mò hỏi
thêm: " Ông từ nước ngoài
về?" Ông lắc đầu, nói "Không, không". Có gì chứng
minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ
quần áo tầm thường khiến ông trông giống một người
lính già đã giải ngũ hơn là một ông Việt Kiều. Mà
ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là
cái lằn Nam, Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn
chỉ là một người lính già không hơn không kém.
Bốn
chữ "Nhà Ga Long Khánh" lộng lẫy đóng khung trong những
bóng đèn xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt
buồn rầu khi nhớ rằng có một thời vợ ông đã vất vả
đi lên đi xuống cái sân ga này. Từ đây đi thêm
một cuốc xe " Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây
số. Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền
Bắc, đi khoảng 2 cây số là đã thấy nhà thờ. Chỗ
đấy có một trại tù , ngày xưa vợ ông đã đi
tìm chồng hú họa ở cái địa chỉ mang những con số
đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của ông.
Gần
ba mươi năm trước, vợ ông giả dạng thành một người
bán rong gánh trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng. Long Giao
là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại,
khu quân sự rộng lớn bao xung quanh là những con đường đất
đỏ bụi mù. Sau vùng này trồng chuối bạt ngàn xen lẫn
với những vườn tiêu của dân địa phương, len lỏi vào
khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.
Năm
đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm
chồng với cái hy vọng mong manh là tìm được chồng trong
đám đàn ông ngày ngày vác cuốc đi lao động xung quanh
trại. Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh,
dưới thúng đựng dăm thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc
mẹt ngụy trang vài thứ trái cây. Từ một khoảng xa đến hai
lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận ngừng
tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp
thon thả đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào.
Kẻ nhóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên
khó nhận ra nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn
vào gần hàng rào kẽm gai để được gần gũi hơn đám
tù đang cuốc đất, lại bị đuổi ra xa như một bầy
gà nhao nhác. "Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm
gai với lại những câv súng kè kè như vậy". Họ í
ới gọi nhau hỏi chuyện, lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ
trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi vai nhỏ bé là đôi
đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có
thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết
gồng gánh là gì. "Cạn ao thì bèo xuống đất",
ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công nhận sự khéo
léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương ấy.
Chỉ
lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên
đường ra Bắc. Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để
đi xa, ông có nghe tiếng còi tàu. Tiếng còi rúc lên lạnh
lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi nghĩ đến vợ
con. Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào
bà cũng tìm một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu,
cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là chuyến tàu đêm năm cũ
trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và
lũ con. . . . Mới đó mà gần ba mươi năm. Mười ba năm
trong tù ông không quên. Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga
Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi đầu cuả một cuộc hành
trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm gia đình.
Hú viá! Ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng
vẫn còn đây, ông sờ vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng
mình vẫn còn đây, người tù mười ba năm vẫn còn
đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngưá ngáy
một cách dị kỳ khi nhớ lại. . .
Sau thời gian dừng lại để khách lên
khách xuống, con tàu lại rùng rùng chuyển bánh, ông để
ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một hồi
còi rất dài,nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn thắt ruột.
Nhạc lại vang vang trong những cái loa gắn trên thân tàu, toàn những
bản đã cũ: "....Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm
xứ mẹ cho em về cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu...".
Tiếng
hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời
viết cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm
. Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm
quá khứ , dường như những người lính sống hay chết đã
đồng loạt tử trận từ tháng Tư năm ấy. Ông rút một
điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè
như lóe sáng dậy một thời trẻ tuổi. Con tàu trong đêm
tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển
mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong
gió. Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh
vật mập mờ, nhưng ông đánh hơi được nơi chốn bằng
khứu giác. Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống,
những người bán hàng rong và người đi tàu đang kỳ
kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước mắm.
Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn
bè, con khô nướng vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới
gầm bàn, ngả nghiêng đi về với một vầng trăng khuya. Vậy
mà không ngã, vẫn ngất ngưởng đi về đến nơi
đến chốn. Thời ấy hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là
những nơi ghé vào ngắn hạn, nhưng ông nhớ hoài mùi
biển mặn. Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân
cuối cùng từ bãi biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn
độn, chen lấn, quan không ra quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông
mất sạch sành sanh, khi về đến Vũng Tàu mỗi người chỉ
còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần áo, đúng
là " trên răng, dưới ...dế". Ông nhớ ngày hôm ấy,
chiếc xà lan quá tải ngả nghiêng trên mặt biển, người
ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số. Ôi lại biển,
kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ônng lại nghĩ
đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ
lùng. Nha Trang biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã
nghe được tiếng sóng , ngửi được mùi biển mặn. Chỉ
tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng
cách lại đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng
khứu giác, bằng đôi mắt lập lờ nhìn không rõ cuả
tuổi già. Ông đi vào giường nằm nhưng vẫn không ngủ
được. Trằn trọc, thao thức, chiếc giường êm ái làm
ông lại nhớ tới chuyến tàu về Nam cách đây trên hai
mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình "huynh
đệ" nhờ chiếc còng gắn vào cổ tay hai người. Đêm
tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra
khỏi còng, vì thế mà ông được giải thoát một chặng
đường dài. Kỷ niệm ấy ông nhớ mãi. . . Bây giờ anh
ta trôi dạt đâu nhỉ?
"Một đêm muà hè, tôi đến
sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu cũ đêm
nay có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây.
. ." Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non trên chiếc
loa suốt đoạn đường dài, hình như tàu mỗi lúc một
đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng đồng quê, đã thấp thoáng
những rừng dừa bạt ngàn để bước vào ranh giới
tỉnh Bình Định. Bây giờ thì dường như trong ký ức
cuả người lính già, kỷ niệm lần lượt trở về rõ
mồn một, khổ nỗi lại chỉ toàn kỷ niệm thời chinh chiến.
Năm 72, nơi ấy những trận đánh ác liệt nhất đã diễn
ra ở đây, trở ra những vùng khốc liệt như Sa Huỳnh, Đức
Phổ, Mộ Đức. Đơn vị thám sát cuả ông toàn là
những người lính tiên phong cảm tử đi vào miền đất
chết, trước khi quân bạn được dàn trận đi đằng
sau. Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy
mình gần gũi với kỷ niệm thời quân ngũ. Những địa danh
gợi nhớ đến quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi,
từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người.
Màu xanh cuả rừng dưà Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp
yên bình để người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi
chết trong đó. Bồng Sơn, Quế Sơn, tên đẹp chi lạ mà
đầy oan khiên cuả máu và nước mắt. Tàu ra khỏi Qui Nhơn,
khoảng hai giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ
này đã tối đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt
lại như mực, giá ban ngày ông đã có thể thấy những
đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ lau trắng xoá tiếp
giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi. Ngày xưa, ông đã
mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom đạn
và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như
người goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.
Vẫn
nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng
nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy. Những
ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh
hình như nền trời bỗng sáng hơn. Ông dùng thêm ly cà phê
đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè
vì thiếu ngủ nhiều đêm , nhưng vẫn không làm sao ngủ được.
Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về
những vùng đất thân yêu đã gắn liền với ông suốt
thời trai trẻ. Trong khung cưả sổ của toa tàu chỉ mình ông đứng
đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say, còn người đàn
ông kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông nghe tiếng
ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu. Con tàu cứ lầm lũi băng
mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc. Nhất là
ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và
những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào núi rừng
miền Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả
đời lính thám sát nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi
năm trước. Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì
ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những cành cây lay động dưới
ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà cứ ngỡ là
những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa, đang
vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ. Thế giới vô hình làm
sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng
phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân
hay bè bạn. Sa Huỳnh ơi! Nhớ quá đi thôi mặt trận đêm
ấy. Những người lính thám sát lầm lũi đi trong bóng tối,
những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những vạch đạn
cưá vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể
người lính đang di động trong đêm, tiếng rên la của người
lính bị thương đòi uống nước. " Nước, cho xin hớp
nước..." Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn
cuả người đàn em bị trúng đạn đòi xin hớp nước
giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông. Ông nhớ
có những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên
im tiếng súng rút vào cố thủ, khi dừng quân ông được
một người lính tiếp vụ đưa cho ly cà phê đựng
trong chiếc ca sắt nóng hổi. Chưa bao giờ có một thứ cà phê
nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh táo và lòng
ngập tràn tình thương yêu đồng đội, gắn bó với
nhau trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người. Ôi những
ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã
ra đi mà vẫn thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, khônng
biết ở cõi bên kia linh hồn họ có tìm lại được mùi
cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này không?
Ở
đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị
ông hay đơn vị bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu
đỏ, những bàn tay, cái chân cho cuộc chiến ấy, chưa kể có
những người đã ra đi vào miền đất lạnh. Thiếu uý
Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người đàn em dễ
thương mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám
rừng đen đặc kia. Ông nhớ lúc ấy đã vét tuí tìm
gói thuốc " Quân tiếp Vụ", chỉ còn duy nhất một điếu
cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi người đàn
em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không
bao giờ trở về. Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà
quý dành cho người sắp chết, ông thèm lắm mà không dám
hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng đơn vị,
mắt cũng cay xè. . . Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen
thẫm như tiếng reo cuả linh hồn những ngươì đàn anh, đàn
em năm cũ vọng u u trong đầu ông, ông thấy nước mắt mình
trào ra ướt đẫm trên má. Ông thò tay vào túi, gói
thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi nâng lên trước
mặt thì thầm nói một mình:
" Hút, hút đi các bạn, hút cho
thoả trước khi để linh hồn tan vào cõi hư vô.
Ông
ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng
cây ven đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập
phồng hai lá phổi héo, nhưng trong đầu ông lồng lộng :
"Hết
chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi! Thuốc đây, hút
đi, hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng
ở lại đây nưã. . ."
Những điếu thuốc bay lả tả theo
đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra ướt đầm
trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố
ý, đêm nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo
sơ mi và chiếc quần màu ô liu, y như một người lính kỳ
nghỉ phép về thăm nhà. Trong cái loa tiếng nhạc lại vang vang :
"Ngày
tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính
ngày nào. Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người
xưa, để đêm nay ngồi đây, viết lại câu chuyện này.
. ." Ông bịt hai lỗ tai để đừng nghe âm thanh rên rỉ buồn
buồn cuả bài hát lập đi lập lại trên chuyến tàu
đêm. Tạm biệt các bạn thân quý của tôi, ba mươi năm
gặp lại nhau như thế đủ rồi, khi ra đi đầu các bạn còn
xanh, nay trở về đầu tôi đã bạc. Khác nhiều lắm rồi,
những mỏm đất, những đồi cỏ, những rừng dầy, rừng thưa,
đã phủ kín một màu xanh, cho quê hương thôi máu lửa.
. . Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã
hy sinh còn để lại những gì cho Tổ Quốc . Ngoài những vết
sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh nghĩ đến
những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên
vỉa hè thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một
gánh nặng buồn tủi. Thế còn những đứa con của người
tử sĩ thì sao? Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt,
khi chết trận bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ,
trung sĩ Nghĩa có một đứa con không biết là trai hay gái
trong bụng vợ. Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc
ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt cho những cuộc hành quân dài
ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã kéo theo sau lưng
mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của
một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung số phận. . .
* * *
Bình minh đã lên, ở miền nhiệt
đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm, chuyến tàu đi qua những
quận lỵ cũ để vào thị xã. Lúc tàu đi ngang Đức
Phổ, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những chiếc
xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy
lính ra mặt trận. Tàu ghé vào ga, những người bán dạo
trên bến ga mời chào í ới. Nhìn đĩa xôi gà trên
tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra đời
sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá.
Nhìn cậu bé 12 tuổi sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán
dạo, cái đùi gà vàng lườm được rô ti thật hấp
dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên đầu dân tộc
ông, mắt ông bỗng nằng nặng như đêm qua ông về ngang chốn
cũ. Ông ăn mà không biết ngon, chỉ ăn cho đỡ đói,
để tìm hương vị cũ, niềm đau cũ. Chú bé bán xôi
được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi
gà, cứ đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép
lạ đang xảy ra trên sân ga.
" Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười
năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa xôi gà trên
tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương
thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo
lớn nhất mà ông Trời bắt con người phải chịu". Lúc
này đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông
sắp về tới gia đình, về với bà mẹ già vừa lòa vưà
điếc, chưa chắc gì đã nhận ra con. Người ta lại tấp
nập lên tàu, xuống tàu. Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một
ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người xuống, bỗng
liên tưởng cuộc đời y hệt một chuyến tàu, mà
những người lính già như ông còn ngồi lại với nỗi
buồn chiến tranh đọng lại trong mỗi hồi tưởng. Đêm qua
khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp
lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã
xuống tàu ba mươi năm trước. Ba mươi năm sau trên chuyến
tàu đời, những lớp người đi sau như thằng bé bán xôi,
cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống
là lớp người sau lên tàu muộn . Bây giờ nếu ông kể
chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ tròn
mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích
rất buồn, chỉ còn mỗi người lính già như ông ngồi
lại trên chuyến tàu đêm, khắc khoải. Tiếng nhạc vẫn lồng
lộng trên sân ga, không phải bài " Tàu Đêm Năm Cũ",
mà nghe rất lạ, như bài cầu kinh sắp tới hồi kết thúc:
" Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương
Tìm lại xót xa, tìm lại vui
buồn Đi vào nhân gian,
với lòng yêu thương. Đi
đi, đi thấu kiếp người. . . Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui Đi đi, đi thấu kiếp người Đi đi, để biết khóc cười hỡi ...ơi!"
Hơn
mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông sốc cái ba lô trên
lưng, chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu
lại tu tu lên khóc. Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa
trong một ngõ nhỏ. Con ngõ này hồi xưa thế nào nay vẫn vậy,
nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng lại khiến thoạt
nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác. Ông về với
mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy
tay mẹ, tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là
một rúm da bọc xương khẳng khiu. Mẹ ông nằm đó, chả
biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng ánh sáng
mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt.
Bên
cạnh bà mẹ già vưà loà, vừa điếc, vẫn không biết
là có một đứa con đi xa vừa trở về. Không còn cách
nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc cuả
mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt
đầm trên những ngón tay. Không biết trong cõi mịt mù của
đời người sắp tàn ấy, bà có sờ ra được
khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp. NGUYÊN
NHUNG ( Tháng Tư , 2004)
Đôi Mắt
Thuở vào đời mình đã
có nhau Cùng thấu hiểu "mình tuy hai mà một" Trên
đường đời sẽ cùng nhau song bước Biết buồn vui qua cửa
sổ tâm hồn
Đôi mắt đầu đời nhận
diện mẹ cha Nụ cười hồn nhiên đong đầy hạnh phúc Rất dễ thương trong veo đôi mắt ngọc Khi khóc khi cười
chẳng hiểu gì đâu
Đôi mắt long lanh nhìn rõ sắc
màu Hàng phượng đỏ lung linh trời ngập nắng Tuổi học
trò phất phơ tà áo trắng Ngày thần tiên, đôi mắt
biết mộng mơ
Đã nhiều lần khép mắt
gửi vào thơ Để đợi chờ hay nhớ thầm, ai biết ... Có nhiều khi ánh mắt buồn da diết Giọt lệ nhoà đứng
trước cảnh phân ly
Đời mấy lần từng tiễn biệt
người đi Mà chẳng biết đến khi nào gặp lại ...
Đôi mắt ướt rưng rưng chiều tê tái Người xa rồi
mà mắt vẫn trông theo
Mắt ưu tư khi lâm cảnh ngặt
nghèo Mà tuyệt vọng không làm sao thoát được Ôi
cuộc đời như thuyền bơi nước ngược Bao bến bờ ghềnh
thác lắm cheo leo
Dù thế nào đôi mắt vẫn
bên nhau Rất chông chênh như đôi chân khập khễnh
Nhìn thế sự ôi đục trong
lẫn lộn Vẫn mỉm cười ngạo nghễ với thương đau
Nói sao hết, cuộc hành trình của mắt Khi sinh ra
cho tới lúc lìa đời Từ mầm xanh cho tới lúc lá rơi Bao ấm lạnh bởi tình đời bạc bẽo Đôi
mắt tuổi gìa ngu ngơ lá héo Đôi mắt bao dung, đôi
mắt vị tha Bởi thời gian vụt một thoáng trôi qua Trong chớp
mắt đã trở thành quá khứ Nguyên Nhung
Đằng Sau Những Cánh Rừng Nguyên Nhung Hôm
ấy là một chiều mùa hè, nhưng thời tiết ở xứ lạnh
không bình thường như ở vùng nhiệt đới. Chỉ cần một
cơn mưa thôi là mùa thu đã chập chờn đến sớm, ra đường
người ta vẫn phải khoác chiếc áo ấm hay choàng một tấm
khăn san mỏng. Khi Huyền đưa tôi
về nhà, đẩy cánh cổng gỗ bước vào mảnh sân nhỏ,
từ trong khung cửa sổ mờ mờ tối đã thấy hai chấm màu xanh
như lân tinh nhìn ra chờ đợi. Thì ra đó là đôi mắt
của một con mèo, có cái tên dễ thương là Mina, Huyền nói
hôm nào cũng vậy, hễ đi làm về là Mina đã chực sẵn
bên cửa sổ chờ đợi.Chắc thấy nhà có khách, Mina chỉ
"meo meo" câu chào hỏi như mỗi ngày rồi thay vì quấn
quýt bên cô chủ, Mina lại khủng khỉnh đứng dậy, cái dáng
mềm mại uyển chuyển ấy đã nhảy tót lên cầu thang dẫn
lên phòng ngủ, ngồi đấy nhìn khách lạ như muốn hỏi:
"Ai thế? Hôm nay làm gì lại tới
đây?" Mina ra dáng một cô
con gái nhu mì, hiền ngoan ra phết, chiếc áo lông tự nhiên màu
vàng xẫm óng mượt khiến Miêu Tiểu Thơ thật quý phái.
Dù sao thì cũng có người thứ ba bước chân vào căn
nhà tĩnh mịch này, khuấy động không khí êm đềm thân
quen của người chủ cô đơn và con mèo cũng cô đơn
nốt. Hai kẻ ấy cần nhau để sưởi ấm những buổi chiều
cô quạnh, những ngày đông dài lê thê, dù không thể
nói với nhau điều gì, nhưng bằng thứ ngôn ngữ riêng, họ
hiểu là không thể thiếu nhau. Huyền
là em họ của tôi, từ khi chia tay với người chồng có tính
gió trăng, cô ở có một mình, hai đứa con đi học xa ra trường
rồi cũng tìm được việc làm tốt, ít khi về nhà với
mẹ ngoài những ngày lễ nghỉ. Huyền sống lặng lẽ như thế
nhiều năm , vui với kinh kệ mỗi tối trước khi đi ngủ, đêm
lại ngủ ít nên sáng dậy sớm tụng thêm một hồi công
phu trước khi đi làm. Mãi rồi cũng thành thói quen, chỉ có
con mèo quẩn quanh làm bạn, tối nào đến giờ đi ngủ, Mina
đã nhẹ nhàng leo lên chỗ nằm của nó dưới chân
người, hình như nó cũng tự biết vẫn phải giữ một khoảng
cách cần thiết để không xâm phạm nhau. Dưới nhà phía bên trái là căn bếp rất
ngăn nắp sạch sẽ, bên phải là phòng khách, tấm màn mỏng
giăng ngang khung cửa sổ rộng, như một bức tranh thật lớn để
nhìn ra bên ngoài. Huyền nói: "
Chị ngồi đây, từ chỗ này nhìn ra ngoài thì cái khung
cửa đã là một bức tranh rồi, không cần treo một tấm màn
nào nữa." Thật vậy, qua khung cửa mở rộng có mặt kính trong
suốt, tấm màn mỏng thật mỏng gần như phủ một lớp sương
mù là cảnh rừng cây mùa hè dậy sức sống, cây cỏ
ở miền này rũ chết trong mùa Đông, nhưng hễ trời sang Xuân
là ngóc mình lên rất nhanh. Khi
kéo tấm màn ra là có liền một bức tranh đập vào mắt,
vì khoảng sân sau trống trải là rừng cây thưa , dây leo đã
quấn hết hàng rào ngăn cánh rừng với khu công viên, nhìn
ra vẫn thấy khách bộ hành đang thong thả cuốc bộ trên con
đường nhỏ. Căn nhà nhỏ nằm trên ngọn đồi nhỏ san
sát với những căn nhà khác, vì thế không đến nỗi
hiu quạnh. "Tuyệt! Quả là một bức tranh của bốn mùa, Huyền
khéo chọn cái nhà này đấy, nó tạo cảm giác cho người
ở trong nhà luôn gần gũi với thiên nhiên, và không cảm
thấy cô đơn". Huyền lục
đục làm bữa cơm chiều, vừa làm cơm vừa nói chuyện :
« Em thích căn nhà này, dù chỉ
có một mình nhưng nó vẫn ấm áp, bốn muà theo nhau thay đổi
trong tầm mắt. Mùa Đông nhìn ra bên ngoài vạn vật như được
phủ tấm chăn màu trắng, em có để một cây đèn bão
trên thành cửa sổ, mùa Đông buồn đốt một ngọn nến
trắng, ánh sáng lung linh tự nhiên làm ấm lại. Khu này ít
có người đi lại nên tuyết rơi xuống vẫn giữ nguyên
được vẻ đẹp rất tinh khiết, trong khi đó con đường
phía trước thì nhầy nhụa bánh xe và bước chân, trông
bẩn thỉu như một cô gái giang hồ phấn son tơi tả».
Nghe Huyền ví von tôi suýt bật cười,
trong cô là cả một cánh rừng âm u mà tôi đang muốn vạch
những tàng cây tìm những chú sóc nâu nhảy nhót, tìm
một con thỏ màu vàng rơm gặm cỏ, và biết đâu lại
không có một con nai đạp trên lá vàng khô. Tội nghiệp
người phụ nữ cô đơn và chịu đựng, dấu nỗi buồn
trong kinh kệ với con mèo nhỏ để làm bạn suốt bốn mùa
hiu quạnh. * *
* Đêm đó, tôi khó ngủ
vì lạ nhà, chập chờn mãi mới thiếp đi thì gần sáng
bỗng giựt mình vi văng vẳng có tiếng chuông, mõ hoà vào
nhau, có lẽ Huyền đã dậy và đang tụng kinh. Hôm nay có tôi đến chơi, Huyền xin nghỉ ở
nhà vài hôm để đưa tôi đi chơi, cứ tiếc mãi là
tôi không đến chơi vào mùa thu. Mùa Thu ở Canada thật đẹp,
tuy ngắn ngủi nhưng những cánh rừng đã kịp chuyển màu cho
tới khi lá rụng hết, đẹp nhất là những rừng phong đầy
lá đỏ sáng rỡ lên như vẻ đẹp của người đàn
bà sầu muộn. Khi hai chị em ngồi
uống cà phê ăn sáng, Mina cũng nhẹ nhàng nằm dưới
chân bà chủ, giụi tấm thân mượt mà êm êm ấy vào
đôi chân của Huyền, như muốn cho biết sự hiện diện của
nó trong căn nhà này. Huyền cúi xuống nựng nịu con mèo nhỏ,
vuốt ve mảng lông mượt mà vàng óng của nó, cô nói :
« Chị biết không ? Sáng nào
Mina cũng đánh thức em dậy để tụng kinh, hôm nào quên không
để đồng hồ báo thức cũng không sao, vì cứ đến
giờ đó là Mina quào vào chân hay ống quần để gọi
em dậy. Khi em đánh răng rửa mặt vào thì nó đã
nhảy xuống yên vị trên cái gối kề bàn thờ chờ đợi,
nó cũng mê nghe kinh như em mê niệm Phật vậy ». Huyền kể một cách bình thản, riêng tôi
lại ngạc nhiên không ít. Tiếng chuông tiếng mõ có gì
nhiệm mầu đến nỗi hấp dẫn một con mèo để trở thành
thói quen tốt, quán tính tự nhiên của loài vật hay chính
con mèo là hiện thân của một con người, mà ông trời vì
thương cho cảnh người phụ nữ hiền hậu cô đơn, đã
gửi nó đến để làm bạn ?!! Hèn chi tôi nhìn thấy ở Mina có một vẻ gì rất
lạ lùng, trong đôi mắt xanh hiền từ và trong sáng như một
đứa trẻ con tâm hồn còn ngây thơ trong trắng. Chiều qua khi Huyền
đưa tôi về nhà, nó đã biết ra cửa sổ chờ đợi
như đứa con chờ mẹ về chợ, tối qua khi tôi và Huyền ngồi
ăn cơm, Mina nằm thiu thỉu ngủ trên chiếc sofa, lim rim đôi mắt
nghe hai người chuyện vãn. Và khi đến giờ đi ngủ, nó lại
lặng lẽ theo bước chân người rồi nhảy tót lên chỗ ngủ
cuối chân giường, không hề làm phiền đến ai. Tôi cũng đã biết người ta huấn luyện
những con vật nuôi trong nhà thật kỷ luật, và con vật ấy thường
tuân theo chỉ vì được hưởng những phần thưởng như
chiếc bánh, vài hột đậu mà nó thích. Mina không hề giống
những con vật trung thành với chủ mà tôi biết, vì trong đôi
mắt và cung cách của nó, toát ra một vẻ gì rất người,
mà nếu là người thì cũng phải là loại người có
nhân cách tử tế. Con mèo nghe kinh hay ghiền nghe tiếng chuông tiếng
mõ, hay nơi chốn ấy rất cần thiết để hai bên nương tựa
vào nhau tìm sự an ủi, theo tôi là một điều kỳ diệu và
bí ẩn trong cánh rừng âm u, cây này ngả vào cây kia để
trốn gió hay để che chắn bớt những cơn gió khắc nghiệt và
thịnh nộ thổi vào cuộc đời nhiều cảnh huống khác nhau.
Ngày hôm sau Mina đã tỏ ra thân thiện
hơn với khách, nó nhẹ nhàng đến ngồi vào giữa khi tôi
và Huyền đang nói chuyện với nhau, mắt mơ màng lim rim, thỉnh
thoảng duỗi chân ra như muốn nói cho biết : « Cứ tự
nhiên đi nhen , bữa nay nhà thêm người tui cũng vui ». Đó
là tôi tưởng tượng vậy, cánh cửa khu rừng đã mở
ra cho tôi nhìn thấy sự bằng lòng dễ chịu của Huyền với
hoàn cảnh, chính một phần nhờ tấm lòng của Mina, trong nó
tiềm ẩn một tình bạn thật chân thành mà nhiều khi người
ta không thể tìm được ở con người. Hai hôm sau, chuyến xe bus rời Montreal vào lúc 10 giờ tối,
hành khách chuyện vãn ồn ào một chút, rồi tất cả đều
im lặng chìm vào giấc ngủ chập chờn. Tôi vẫn mang theo hình
ảnh cô em họ hiền lành, con mèo Mina biết lắng nghe tiếng chuông
mõ kinh kệ những buổi sáng mù sương trong tâm khảm. Chỉ
có một vầng trăng đầy đi theo tiễn tôi suốt chặng đường
nửa khuya, hai bên đường là rừng cây và ánh trăng lấp
loáng khi xe chạy qua những dòng sông, khoảng hơn 6 giờ xe cặp
bến, trời Boston còn mờ tối ẩm ướt hơi sương. Chiều hôm đó chúng tôi đến thành
phố Lowell thăm chị bạn cũ sau mấy năm chưa gặp. Chị là người
bạn mà theo tôi do duyên lành đưa đẩy để quen nhau, cái
duyên quen biết kéo dài hơn hai mươi năm, nối dài cho mãi
đến hôm nay thật là kỳ diệu, chúng tôi gặp nhau để
rồi thân chỉ bắt đầu bằng hai tấm ny lông trên lề đường
bụi bặm. Lần trước khi tôi
đến thăm, anh còn sống, lần này đến thì anh đã không
còn nữa. Anh đi thật bất ngờ, xum vầy và phân ly cũng kề
bên nhau không đoán trước được, chị đang sửa soạn
vali để hôm sau hai vợ chồng đi Cali thăm bạn bè , hai người
còn đang chuyện trò thì tự nhiên anh im bặt, khi chị nhìn lại
thì anh đã đổ gục ra đằng trước. Tin sao được là
chỉ tích tắc thôi đã thấy không còn nữa, mới nói
cười đây sao lại im lặng mau thế ! Sự ra đi của anh để lại cho chị một nỗi buồn nặng
trĩu khó nguôi trong căn nhà trống trải, vừa ổn định được
sau một thời gian dài định cư ở xứ người. Hình như đâu
đó vẫn phảng phất hình bóng anh trong căn nhà nhỏ , nằm
chênh chếch với một ngọn đồi rợp bóng thông xanh, giống
y như Đà Lạt vì trời lúc nào cũng hơi lành lạnh.
Chị dẫn tôi vào phòng khách, căn
nhà trang trí theo lối cũ ở quê nhà, bàn thờ tổ tiên
trân trọng đặt giữa phòng có nhang đèn chu đáo, bên
cạnh là bàn thờ nhỏ để tấm ảnh của anh. Tôi đốt
nén nhang cặm trên bàn thờ, thay cho một lời chào thăm hỏi ngày
anh còn sống. Trên chiếc kệ nhỏ ngoài phòng khách, tôi lại
nhìn thấy một con mèo. Hình như
tôi có duyên với mèo nên đến nhà ai tôi cũng gặp.
Con mèo này cũng to như Mina ở nhà Huyền, nhưng nó có vẻ
im lặng, thấy tôi nhìn chị giải thích : « Mèo giả đấy, chỉ khi nào mình sờ
đầu nó hay vuốt mạnh vào đuôi nó mới «meo meo» thôi.
Mình mua con mèo này dù không thích mèo lắm đâu, hôm
đi chơi với cháu thấy họ bày bán nhiều con thú, tự nhiên
mình lại lưu luyến với nó, chắc tại anh ấy tuổi mèo. »
Chị thật là tình nghĩa, với mọi
người chị quen chứ không phải chỉ với chồng con trong nhà, tôi
vẫn quý cái tính này từ ngày quen biết chị. Hoàn cảnh
đẩy chúng tôi ra lề đường, mỗi đứa một tấm
ny lông tìm kế sinh nhai, được đồng nào hay đồng đó.
Chị mua bán bạc cắc xưa, đồng tiền xưa, vài hòn đá
hay miếng đồng đen gì đó, người không hiểu biết thì
chả biết chị ngồi bán và mua cái gì với những thứ mang
đầy dầu ấn thời gian như vậy. Tôi thực tế hơn, những
gì mọi người cần dùng hằng ngày như bộ tách cũ ,
cái ấm trà, manh quần tấm áo cũ cho thời buổi cái gì
cũng cần, cái gì cũng thiếu. Lê
la trên vỉa hè gió bụi, chúng tôi có niềm vui là nhiều
thì giờ để nói chuyện, chị là giáo sư toán tốt
nghiệp sư phạm đàng hoàng, tôi cũng có một gói văn
chương mang theo để tán chuyện ngày xưa, bỗng vì thế mà
hợp nhau rồi xem nhau như chị em. Buổi
chiều chị đãi vợ chồng tôi một bữa cơm thật ngon, cá
Salmon nướng cuộn bánh tráng, tuy là một thành phố nhỏ ít
người Việt nhưng rau cỏ chẳng thiếu gì. Khi vừa bước lên
phòng ăn giáp với phòng khách nhỏ nhà chị, tôi bỗng
thấy con mèo «giả» bật lên tiếng chào «meo meo», nên
tôi cũng vui vẻ chào lại chú ta bằng hai tiếng «meo meo»
mà quên khuấy lời chị nói với tôi lúc ban trưa, con mèo
chỉ kêu được khi có ai vuốt mạnh vào đầu hoặc nắm
cái đuôi của nó. Liên tiếp
khi ấy con mèo giả lại xoay cái đầu và đưa đôi mắt
xanh biếc về hướng bàn ăn, lại «meo meo» lần nữa và
lần nữa, tôi vẫn vô tình ghẹo lại : « Biết rồi, khổ lắm, nói mãi ! Hôm
nay mèo cũng biết có khách đến ăn chực nên chào hoài
đấy nhỉ ? » Vừa nói
tôi vừa cười, mùi thơm của thức ăn trên bàn cơm làm
cồn cào cái bao tử. Nhưng tôi thấy chị ngồi im, lặng người
như cố nén xúc cảm đang dâng trong lòng chị. Thấy tôi nhìn,
chị hỏi : « N. có thấy
gì lạ không ? » Tôi lắc
đầu, chị nói tiếp : « Với mình thì lạ
lắm, vì con mèo ... tự nhiên nó lại kêu mà không cần
ai đụng tới. Mình nghĩ là anh ấy mượn con mèo để cảm
ơn bạn dù xa xôi vẫn đến đây thăm, và còn nhớ
đến anh ấy nữa. » Tôi
nói nhỏ : «Vậy mà em cứ
tưởng chị lên dây «cót» nên con mèo mới kêu
hoài như vậy.» Bây giờ thì
tôi nhớ ra rồi, cảm thấy lạnh sống lưng nhìn về phía con
mèo giả, giờ này đã hết kêu «meo meo» và quay mặt
ra phiá cửa sổ một cách bình thản. Không khí bàn ăn
thật im lặng, như mỗi người lại chìm đắm với một dấu
hỏi trong đầu, một xáo trộn kỹ thuật xảy đến với con
mèo hay là «ai» đã nhập vào nó, để mượn
con mèo gửi lời chào đến mọi người trong niềm vui hội ngộ.
Tuy là mùa hè nhưng ở miền Đông
Bắc vẫn phảng phất chút mùa thu, buổi tối vẫn phải khoác
chiếc áo ấm. Tôi nhìn ra khung
cửa sổ, vẫn một vầng trăng đầy vằng vặc chiếu qua song cửa,
soi rõ dáng nằm ẩn nhẫn cuả con mèo bên thành cửa sổ.
Con mèo giống như một bóng người, im lặng ngắm ánh trăng
treo ngoài cửa sổ. Cứ cho là câu chuyện con mèo kêu liên tiếp
những tiếng « meo meo » chỉ là một trùng hợp nào
đó, tôi vẫn cảm thấy có một điều gì lạ lùng
đang xảy ra đằng sau những cánh rừng. Ở đó hình như
có một thung lũng ngập lá vàng khô mùa gió nổi,có những
chiếc lá chờ nhau đang xào xạc kể chuyện. NGUYÊN NHUNG / tháng
10 năm 2009
Thất Thời, Thất Nghiệp
Truyện Nguyên Nhung
Ông bị thất nghiệp rồi, điều
linh cảm mơ hồ đã thành sự thật khi buổi sáng mới lò
mò vào hãng . Còn sớm chán, ông vào Internet đọc Email mỗi
ngày như thói quen, đang ngấu nghiến đọc vội để chuẩn
bị đến giờ làm thì một đồng nghiệp đi ngang vỗ mạnh
lên vai: " Thôi cha nội, hôm
nay tha hồ về nhà lướt Net. Hay gì chưa? Có tên ông trong danh
sách được về nhà "ngồi chơi xơi nước" đấy."
Chẳng biết hắn nói chơi hay thiệt,
tin này làm ông giật bắn cả người. Thế mà là chuyện
thật, năm ngoái người ta đã xôn xao bàn tán, nhưng tính
chủ quan là chuyện ấy chỉ xảy ra cho người khác, nên ông
vẫn "bình chân như vại" vì nghĩ mình làm việc lâu
năm, tay nghề giỏi bậc thầy, hãng chỉ cho nghỉ việc những "cụ"
vượt qua tuổi hưu mà chưa chịu nghĩ là mình mất sức
lao động, hay bọn tay mơ mới chập chững vào nghề. Thế là thất nghiệp thật, ở nhà chơi
không cứ buồn rũ cả chân tay. Ông có định thất nghiệp
đâu, nhưng việc ấy tự nhiên nó tới thì cứ tới. Y như
cái ngày khốn nạn năm bảy mươi lăm, ông cũng chưa bao
giờ nghĩ tới chuyện bị giải ngũ ngang xương, thế mà bước
qua tháng Năm năm ấy thì đương nhiên cũng bị giải ngũ.
Thằng bạn ông tinh thần chiến đấu
kém, chỉ mong hòa bình để ở nhà "đuổi gà" cho
vợ. Năm ấy thấy tình hình căng thẳng, nó đi tìm lão
thầy bói để đoán hộ đường công danh sự nghiệp.
Lão thầy bói ấy tài lắm, không mù nhưng vẫn đeo đôi
kính đen. Lão bảo bạn ông xòe bàn tay, rồi lấy một tờ
giấy ghi mấy con số, xem đi xem lại, thầy phán một câu xanh rờn:
" Chỉ nội năm nay, cậu đương
nhiên giải ngũ." Ông bạn
vàng hí hởn về rỉ tai mọi người, thế là lũ lượt
một bọn rủ nhau đi cúng tiền cho thầy bói ăn, anh nào anh nấy
ra về cũng vui như Tết. Hòa bình là cái chắc, quân đội
chỉ cần cho nhu cầu chiến tranh, một mai hòa bình, giã từ vũ
khí về quê lập vườn, ngồi vui hưởng cảnh thái bình
thịnh trị. Lão thầy bói
nói thánh thật, hay là cả bọn bạn bè ông đều ngây
thơ tin rằng đã tới lúc "bất chiến tự nhiên thành".
Đúng là một lũ ngây thơ, thầy bói là một tay phản
chiến hạng nặng làm nản lòng chiến sĩ, sau này khi đi tù,
ông đã nghiệm ra điều ấy đúng mười năm ăn bo bo
và khoai lang, khoai mì mòn cả răng. Đấy là chuyện ngày xưa, còn chuyện thất nghiệp
của ông bây giờ là do tụi khủng bố gây ra, rồi chiến tranh
chống khủng bố lan rộng, tiền tỉ đóng thuế của dân chúng
đổ theo bom, đạn. Đổ một lúc hai cái nhà to nổi tiếng
thế giới, sau đó thì kéo theo hằng loạt những công ty và
hãng xưởng đua nhau giảm bớt công nhân, ông ở tuổi tròm
trèm sáu mươi kéo lết theo đà kinh tế để đến
hôm nay mới đến lượt về nhà nằm khểnh xem TiVi. Giưã
nơi đông người hay với bọn đàn em một thuở, ông luôn
cho mình thuộc hàng tiền bối kinh nghiệm đầy mình, xứng
đáng lên hàng "Cụ", khi mất việc rồi tự nhiên
ông lại nghĩ " sáu mươi đâu đã gọi là già,
vẫn còn làm việc được, dù tóc có thưa thớt và
răng cái còn cái mất, so với các lão tướng bên nhà
ông vẫn còn phong độ". Thằng con lớn an ủi bố:
"Từ ngày qua đây đến giờ,
bố cày miết. Thôi được dịp nghỉ ngơi, ở nhà trông
hộ con mấy đứa cháu., Với lại những người có tuổi
cũng nên nghỉ sớm để nhường chỗ cho đám trẻ, học
mờ mắt mà khi ra trường tìm mãi không ra việc. Như tuổi
con chẳng hạn, mất việc lúc này là kẹt thiệt, trông mong vô
mấy đứa nhỏ chưa biết tương lai thế nào, chỉ thấy bây
giờ lo tướt khói." Vợ
ông nghe cha con nói chuyện cũng ngưá miệng góp vô:
" Thôi thì "liệu cơm gắp mắm"
chứ có gì mà lo, có nỗi khổ nào bằng năm 75 cha ở tù,
con một lũ lau nhau , trong túi không có đồng xu mà rồi ai cũng
sống nhăn đến bây giờ, sóng đánh đến đâu thì
thuyền neo đến đó con ạ." Nó nói cũng phải, hai mươi năm ông đi cày đóng
thuế hộc xì dầu cho mấy người ăn trợ cấp hưởng, như
thế là bất hợp lý. Nhưng có ở nhà chơi với cháu
mấy hôm liên tiếp ông mới thấy còn mệt bằng năm lần
đi làm, vì chúng nó một lũ lâu nhâu bằng nhau, chưa đứa
nào khôn hẳn, hét rát cả họng vẫn không ăn thua. Ông phục
bà lắm, thế mới biết cái chịu đựng của đàn bà
Việt Nam. Ông bảo bà: " Thôi, mai tôi phải đi tìm việc , chứ mang tiếng ở
nhà mà chả nghỉ ngơi được bao nhiêu. Chán lắm!"
Bà băn khoăn hỏi ông đầy vẻ
giễu cợt: " Ai mướn ông
bây giờ? Xem ở Bưu Điện có cần người dán tem thư thì
ra đấy mà xin việc." Ông
nhếch mép cười nhạt: "
Bưu điện bây giờ cũng chỉ thở thoi thóp, cả bà cũng
khinh thường thằng già này. Để rồi bà xem, việc nhiều tiền
thì hiếm chứ mấy cái lặt vặt thiếu gì." Bà khuyên ông: " Ngồi chơi mát ăn bát vàng không muốn, lại cứ
thích cực thân. Hay là làm hãng lau nước đá vậy?"
Biết bà hay trêu ghẹo ông chồng
già, vì từ xưa tới nay hai vợ chồng vốn khắc khẩu. Tự họ
trêu ghẹo nhau để sinh tội, chứ có ai bắt họ cãi nhau đâu.
Mà thế thật, số ông hình như phải đi ra khỏi nhà mới
khá. Thời chinh chiến, nếu ông cứ ở nhà " ăn quẩn cối
xay" thì làm gì quân đội có những người hùng. Ông
đánh giặc cừ thật, bị giải ngũ ngang xương là tại cái
"vận nước" nó tới hồi mạt vận, chứ cứ thử hai
thằng đánh ngang sức nhau, ông đâu có chịu thua. Ngày xưa lúc còn trong quân ngũ, ông đi
biền biệt để vợ ở nhà với lũ con. Cứ mỗi chuyến về
phép là vợ ông lại mang bầu, rồi tự động đẻ đái
lo liệu một mình, ông đâu có biết thế nào là cảnh
"vượt cạn " của phụ nữ. Sau ngày đương nhiên giải
ngũ ấy, ông cũng đương nhiên đi ở tù, bạn bè ông
có một số thoát được ra nước ngoài năm bảy mươi
lăm, chắc là đương nhiên có số xuất ngoại. Lần đi
tù này ông xa nhà đúng mười niên, khi về thằng con út
" mót " được kỳ phép cuối cùng trong đời lính
đã lên mười tuổi, đứa con gái lớn đã biết ra
chợ giúp mẹ buôn chui bán nhủi . "Thế chiến quốc, thế xuân
thu, gặp thời thế, thế thời phải thế", ông cố nghĩ vậy
để đừng bỏ nhà lên rừng ở với khỉ. Không chỉ vì sợ lũ cháu nghịch như
giặc mà ông quyết đi tìm việc, ngay cả chuyện ở nhà với
vợ một ngày trọn vẹn cũng làm ông nản chí anh hùng. Bà
nói lắm lắm, miệng quang quác suốt ngày như một mụ gà
mái lắm điều. Ông nghĩ vậy chứ không dám nói ra miệng,
cũng chỉ vì một lần "trà dư tửu hậu" của lũ đàn
ông, điều ví von ấy đã khiến ông bị bà sỉ vả
là một lão gà trống vô tích sự. Khiếp quá cho cái
miệng đàn bà, nhưng cũng chả sai tý nào, ông cũng thấy
lão gà trống quả vô tâm lắm, cứ " xong việc" là lão
ta nhảy tót lên nóc chuồng để te te gáy, mặc kệ lũ gà
mái với mấy con gà con. " Nói có sách, mách có chứng",
chưa bao giờ ông thấy gà trống dẫn gà con đi kiếm ăn, nhưng
lão cũng rất hào hoa khi tìm được một con giun, con dế, sẽ
không ngại gì gọi lũ mái tơ đến để "share" với
nhau chút của ngon.
* * * Thế là ông long lên đi tìm việc, dù mới chỉ
ăn tiền thất nghiệp được ba tháng. Ba tháng ở nhà đi
ra đi vào ông thở dài sườn sượt, nhớ lạ lùng tiếng
chạy rì rì khi đứng máy, thèm ngửi mùi dầu nhớt và
tiếng cười nói xôn xao của những người bạn đồng nghiệp.
Cả một bọn lớn tuổi được cho nghỉ trước, sau đến
mấy tay trẻ hơn. Lúc đầu ai cũng có vẻ lạc quan, công việc
xuống chỉ độ ít lâu, chừng giải quyết xong thì kinh tế
lại phục hồi, lúc ấy tha hồ mà làm "over-time".
Nhưng mãi cũng chả thấy khả quan hơn,
kinh tế cứ tiếp tục xuống, y như chiếc quan tài được hạ
xuống lòng đất là nằm đấy chứ làm gì người
chết có khả năng ngồi dậy được. Bây giờ ông không
hy vọng gì kiếm được chỗ nào khá hơn chỗ cũ, dù
những việc vớ vẩn có đấy nhưng nặng nhọc quá không
hợp khả năng, bây giờ ông lại thương cho người chủ hãng
với lối làm việc dễ dãi đối với công nhân, thế mà
nhiều người vẫn dài họng ra chê bai, bây giờ mất việc mới
thấy tiếc hùi hụi. Hôm đầu tiên, ông vui vẻ mặc quần
áo đi từ sáng sớm, mãi đến trưa mới về ăn cơm.
Thấy ông mặt mũi bơ phờ, bà hỏi: " Sao, có chỗ nào nó nhận chưa?"
Ông chán nản lắc đầu:
" Có một chỗ, mới vào "apply"
là nó gọi phỏng vấn ngay, nhưng nó bảo sẽ gọi tới báo
sau." Bà nhếch mép cười
mai mỉa: " Mỹ mà, chết
đến đít nó vẫn lịch sự, chúng tôi sẽ thông báo
tới ông có nghĩa là thôi ông về mà ngủ đi cho được
việc." Ông tiếp tục câu
chuyện: "Còn một chỗ nữa
lương bổng khá, không nặng nhọc nhưng trèo cao quá không
kham nổi." Bà lại cười
trêu ông: "Việc gì thế?
Chắc lại lau cửa kính cho mấy cái cao ốc phải không?"
Ông tủm tỉm cười: "Bà này nói như Thánh. Hồi ấy nhằm
nhòi gì ba cái lẻ tẻ ấy, thế mà bây giờ già, cứ
trèo cao là run, lại còn chóng mặt nữa . . . " . Bà quay đi nói nhỏ nhỏ một mình: "Đã bảo hết thời rồi mà. . . "
Rồi bà nói to lên cho ông nghe:
"Ừ, biết lượng sức mình thế
là tốt, không như nhiều người leo hết thang rồi mà cứ muốn
leo nữa, thế là lộn đầu xuống đất." Ngày hôm sau ông lại dậy từ sáng sớm,
uống xong ly cà phê nóng ông mặc quần áo tề chỉnh đi kiếm
việc làm. Bà nhìn ông ra xe mà lắc đầu ngao ngán, đúng
là ông lão chân hay đi phải ở nhà sinh cuồng cẳng. Đến
trưa thì ông về ăn cơm, mặt buồn thiu buồn thỉu. Bà hỏi:
"Sao? Có gì lạ không?"
Ông cười, nhưng cái miệng như
mếu xệch đi, trông khổ thân lắm. Mặt ông lại nhăn nhăn
khiến bà hốt hoảng: "Sao
thế?" "Cái chân."
"Cái chân làm sao?" Ông cúi xuống bóp bóp cái chân đau:
"Cái chân nó đau. Hôm nay thì
họ cần một chân "clean-up", nhưng mà cái chân nó lại
đau, chán thật." Bà dọn
cơm cho ông ăn, lấy thuốc cho ông uống, nói nho nhỏ một mình:
"Đã bảo hết thời rồi mà."
Đang ăn cơm, ông lại há miệng
ra nhăn nhó. Bà lại hỏi: "Sao
thế? Ông ngừng nhai, uống một
ngụm nước nóng: "Cái
răng." "Cái răng làm
sao?" "Cái răng tự nhiên nó muốn tuột ra, bởi vậy hễ
ăn gì cứng nó lại cộm lên, đau muốn chết."
Bà nhìn ông tội nghiệp:
"Vậy mà cứ long lên sòng sọc
để tìm việc làm, ở nhà dẫn cháu đi công viên không
thích hơn à?" Ông gắt:
"Khốn nỗi, chân cẳng thế này
không chạy theo chúng nó được." Bà cười: "Thế
mà họ cứ bảo đàn bà chúng tôi vô tích sự. Chỉ
chạy theo mấy đứa nhỏ quanh quanh trong nhà, cũng bằng mấy lần
"ếch xơ sai" ngoài đường." Biết bà lại sắp kể công và gây sự, vì đó
là cái "khắc khẩu" thường xảy ra khi vợ chồng ngồi
nói chuyện với nhau, chỉ câu trước câu sau là thế nào
cũng có chuyện. Ăn xong, ông bỏ ra ngoài sân, xem mấy chậu kim
quất quả đã hườm hườm chin. Mùa đông năm nay lạnh
hơn những năm trước, nên hoa đào hoa mai chẳng thấy trổ hoa,
hay là cây cỏ cũng có linh tính mà không chịu toét miệng
cười như mỗi năm trời sang Xuân, vì thế mà tuy nhà nào
cũng ăn Tết, nhưng không khí dường như vẫn buồn buồn thế
nào ấy.Con ông nói đúng, năm nay ông đã ngoài sáu
bó, cũng nên nhường chỗ cho đám trẻ còn đang lao đao
tìm việc mãi không ra. Sáu mươi với mấy ông "ăn trên
ngồi trước" thì chưa già, còn về được Việt Nam kiếm
bồ nhí, nhưng ông mất mẹ nó mười niên trong tù, sức
khỏe suy kiệt cho nên trông vẫn già hơn tuổi. Dạo này cái
chân lại trở chứng, lắm hôm đau không nhấc lên đưọc,
ông ngẫm nghĩ bản thân mình cũng suy thoái, trách chi thế giới
càng đông người, quả đất càng lúc càng già cũng
sinh lắm chuyện, chỗ này động đất, chỗ kia lụt lội, nơi
nào cũng lãnh đủ. Buổi
trưa, ông khập khiễng đi ra đường chờ xe "school-bus" , đón
hai đứa cháu học Mẫu giáo có nửa ngày sắp về, thay cho
bà đang dọn dẹp trong bếp. Một chốc, ba ông cháu đã kéo
nhau về, hai đứa nhỏ vừa đi vừa chạy, vừa nắm tay ông mà
kéo, mặc cho ông vừa đi vừa nhăn. Bà đã làm xong việc
nhà bếp, chạy ra mắng cháu: "Khéo
ngã ông nội bây giờ." Dắt
cháu vào nhà, bà không quên ngoái ra nói với ông:
"Trên hội già họ đang cần một
chân xoa mạt chưọc đấy, ông có muốn thì lên đấy
mà xin việc." Nguyên
Nhung
MẸ QUẤT *
Truyện Nguyên Nhung
Người ta đưa Quất về nhà vào khoảng giữa tháng chạp
âm lịch, lúc ấy trời sắp sang Xuân, chỉ thỉnh thoảng còn
vài đợt gió lạnh từ miền Bắc thổi về. Y như một cô
dâu mới về nhà chồng, khăn áo lượt là, Quất khoác
một chiếc áo vàng màu hoàng hậu, khiến căn phòng khách
sáng rực hẳn lên.
Bóng dáng xinh đẹp của Quất dường như đem cả mùa Xuân
vào căn phòng ấm, ông chủ nhà là một tay xính văn chương,
đã âu yếm tặng cho Quất cái mỹ danh là cô "Kim Quất
", như người ta vẫn gọi những người con gái đẹp là
Kim Cương, Kim Hồng, Kim Hạnh v. v... Kim Quất vốn quê mùa, từ ngày
sinh ra cho tới lúc lớn lên, trời cho có chút nhan sắc xinh đẹp
tự nhiên, lại dễ sống cho nên mùa Xuân đến thì cô
mượt mà lắm, nay lại được đem vào chỗ cao sang, nhà
cao cửa rộng, Kim Quất bỗng thấy đời tưng bừng hẳn lên, dù
chưa biết cái khổ của cảnh "cá chậu chim lồng".
Chỉ vài
hôm thôi, Kim Quất nghe đã nhàm tai những câu khen tặng, ông
đi qua bà đi lại không ngớt tâng tiu cô Kim Quất trẻ tuổi.
Người ta khen cây rồi lại khen người, khen ông chủ nhà khéo
chọn được cây Kim Quất xum xuê, tươi tốt, đầy những
quả vàng óng, báo hiệu một năm gia chủ sẽ thịnh vượng,
xung mãn, làm gì được nấy.
Quất chẳng hiểu gì về sự liên quan giữa mình và con người
kia, vì chuyện Quất sinh hoa kết quả là chuyện tự nhiên của
Trời, đất nuôi Quất và trời ban mưa nắng cho Quất thì Quất
lớn, chứ tại sao một người mang Quất về nhà vì thế có
thể bỗng chốc thành công mọi mặt. Hóa ra người vẫn
hay tin nhảm, cho nên mới sinh chuyện con yêu con ghét trong nhà, hễ
đứa con nào ra đời mà cha mẹ làm ăn khấm khá thì
ai cũng gọi là "quý tử", còn đứa nào lúc sinh ra
cha mẹ gặp vận rủi, lại được đổ thừa là cái nợ
phải trả...
Ở trong nhà vài hôm, Quất mới thấy được sự gò bó
của những thứ kềm kẹp như hơi thở, đồ đạc, tay chân
con người không để Quất yên. Ðầu tiên là cái máy
sưởi, vì trời còn lạnh nên người ta phải dùng thứ
máy sưởi để cho căn nhà ấm áp, vì thế mà Quất
đâm nghẹt thở. Mới đầu Quất cứ thấy khô khô, lá
tự nhiên không tươi tắn như ở ngoài trời, người Quất
như khát nước kinh niên, trạng thái này Quất chưa bao giờ
thấy. Bây giờ thì Quất ghét cay đắng phòng khách chật
hẹp này, nó bóng lộn những thứ đồ đạc đắt tiền,
nhưng chúng nó đâu biết thở như Quất . Họ có cho Quất
uống nước đó chứ, nhưng khí trời thì họ không cho
được, bởi vậy Quất đâm khó chịu như người quê
mùa đến nhà kẻ giàu sang, ăn được bữa cơm cứ rón
rén như xin của bố thí. Nếu là người thì thà Quất
cứ ở cái chỗ quê mùa, nghèo hèn , nhà tranh vách đất
để mà được tự do thở, tự do ăn, chứ ở đâu
mà cứ nem nép khó chịu, dẫu có "cơm vàng canh bạc"
Quất cũng chả ham.
Quất còn phải ở trong nhà cho đến hết tháng giêng, ngột
ngạt vì cái máy sưởi và tiếng cười nói râm ran
của khách tới thăm chúc Tết gia chủ. Nhờ thế Quất mới có
dịp thấy rõ sự mệt mỏi của con người, khi bị đóng
một màn kịch quá lâu đến nhàm chán. Cũng bấy nhiêu
câu chúc được nói đi nói lại, nhất là trong ngày
đầu Xuân thì họ cứ như một cái máy hát cũ, ca hoài
một bản nhạc có bấy nhiêu lời đã đầy hai lỗ tai. Trước
tiên thì những thứ rượu , mứt, thịt thà đã làm người
ta thấy đầy cả bụng, còn nói nhiều quá cũng làm người
ta rát cả họng, thành thử xem vậy trong xôn xao đã có mùi
nhàm chán. Ông bà chủ vừa ngả lưng thiu thiu, đã có một
hồi chuông giựt ngược dậy. Cái mặt đang cau có vì mệt
mỏi và mất ngủ, ông chủ nhà đã phải vội vàng khoác
lấy bộ quần áo tề chỉnh ra đón khách, bà chủ nhà
cũng mau mau lấy lại nụ cười cho "mặt hoa da phấn" đỡ ủ
ê, rồi lại một điệp khúc cũ mèm được tái diễn,
Quất thấy chẳng có gì là thi vị cả. Bây giờ thì ông
chủ không còn ngồi ngắm nghía cô Kim Quất của ông như hôm
mới đem về, ông buồn buồn đưa tay bứt một quả để
nhấm nháp, và ông tỉnh hẳn người khi thấy nàng quất
xinh đẹp vậy mà cũng chua ngoa đáo để.
* * *
Sang tiết tháng Hai trời mát mẻ dần lên, Quất cũng sắp sửa
được ông chủ cho "hạ thổ" khi nhìn thấy nét ủ
ê của nó. Lũ trẻ con tới nhà đã ngứa tay bứt những
quả quất chín để chơi, vài chiếc lá đã héo nằm
cong xuống khiến Quất đâu còn mượt mà như hôm nọ. Ðàn
bà con gái lấy chồng chỉ đẹp nhất hôm cưới, bây giờ
thì Quất cũng quen mắt mọi người, không thấy ai nhìn Quất
để trầm trồ nữa. Bà chủ đã hái những quả quất
để chế biến thành thứ thuốc trị ho, cho nên cành lá lại
càng thêm xơ xác.
Khi biết ông chủ quyết định đem Quất ra vườn, Quất mừng
lắm, y như người quanh năm làm ăn nơi phồn hoa đô hội,
bỗng được trở về quê cha đất tổ với gió đồng
cỏ nội, khiến Quất xôn xao và tỉnh hẳn người khi được
trở về với Ðất. Ðất chính là quê hương cuả Quất,
là Mẹ, là Cha, là mạch máu khi rễ lớn rễ nhỏ được
chạy nhảy luồn lách vào đất, như đứa trẻ được
nhảy nhót trên con đường làng ngoằn nghoèo mát rượi.
Thứ đất trong chiếc chậu chật hẹp kia chỉ là đất tạm,
dù rằng người ta đã đem Quất đứng vào cái chậu
sứ thật đẹp, bên ngoài vẽ phụng vẽ rồng. Bao nhiêu năm
tháng Quất co mình lại trong chiếc chậu chật hẹp đó, với
một dúm đất cỏn con. Quất hiểu lắm thứ tự do khoảng khoát
của đất, khi đất bị nhốt vào chậu, đất cũng buồn
bã như cây, đất và cây gậm nhấm nỗi buồn trong chiếc
chậu hẹp, vì thế mà đất cằn cỗi, vì thế mà cây
xác xơ.
Quất thấy ông chủ ngắm nghía tìm cho Quất một chỗ đứng
trong khu vườn rộng mà lòng lại nôn nao. Góc vườn kia đã
có một chị bưởi, một anh cam, và thêm một cây hoa đào
nữa. Những người hàng xóm này chắc ngày xưa lúc mới
về cũng ngơ ngác như Quất, nay thấy họ đã có một chỗ
đứng vững chãi lắm. Cuối cùng sau khi ngắm nghía mãi, Quất
được ông chủ đặt gần kề cây hoa đào, vì vào
mùa Xuân, từ góc vườn này gia chủ có thể nhìn thấy
những cánh hoa đào, hồng hồng xinh xinh như môi thiếu nữ, và
cũng có thể nhìn thấy Quất mặc áo vàng để khoe sắc
với chúa Xuân.
Bây giờ là lúc Quất phải hội nhập vào thế giới của
cây cỏ, phải làm quen với Ðất vì đất vốn hiền lành
không nói năng, nhưng muốn được nó chấp nhận cũng đâu
phải một ngày là nên chuyện. Ra đến ngoài vườn, Quất
thở phào, vốn quê mùa giản dị, Quất bám ngay vào đất,
như kẻ tha hương ngộ cố tri. Còn nỗi mừng nào đang lúc
khát lại được bát nước uống, hay đang cần tâm sự
bỗng vớ được người tri kỷ. Quất cần đất như con người
cần hơi thở, nhất là giữa tiết Xuân mát mẻ, tâm hồn
Quất phơi phới để chẳng mấy chốc lại nẩy lộc đơm
hoa.
Bắt đầu từ đây Quất thực sự hưởng không khí tự
do sau bao nhiêu ngày tù túng ở trong nhà. Khoảng vườn rộng
được chia ranh giới hẳn hoi, bọn hoa cảnh được chủ nhân
trồng ở trước sân, từ trong nhà bước ra đã thấy bao
nhiêu là hoa hồng, cẩm chướng, cúc tím, cúc vàng. Lũ
cây ăn trái như Quất được chủ nhân chia riêng một khoảng
đất trống ven bờ rào, tuy thế, cảnh quê mùa này vẫn thích
hợp với tâm hồn Quất, vốn vẫn không bao giờ muốn chen vai thích
cánh với bọn hoa hoét lòe loẹt ở khoảng sân tù túng
kia. Thỉnh thoảng gia chủ lại mời khách khứa tới chơi nhà, lũ
hoa cảnh được chăm chút cẩn thận để trang trí và để
khách ngắm nghía thưởng ngoạn, được vài hôm đã
rã rượi, rơi rụng cả xuống sân, chẳng còn ai ngó ngàng
gì nữa. Thương thay cho những bóng sắc hào nhoáng bên ngoài,
đầu hôm sớm mai đã ủ ê, tàn tạ. Quất và lũ bạn
bè nhà quê cứ ăn chắc mặc bền, lộc non đâm ra rồi
cũng thành lá, hoa nở rồi thành quả, cứ thế mà lớn lên
xôi xổi như con nhà nghèo, cơm dưa cà quanh năm mà vẫn khỏe
mạnh.
Thích nhất là những đêm trăng, vì đấy là ngày hội
của đám cỏ cây trong vườn. Nhìn trăng khuyết Quất cứ
mơ trăng tròn, vì dưới ánh trăng mập mờ huyền ảo, Quất
thấy tất cả những lá hoa, cây cỏ đã trở nên huyển
mộng, những chiếc bóng lá rung rinh dưới ánh trăng bàng bạc,
chỗ nào cũng xinh đẹp tình tứ, cây nào trông cũng đáng
yêu. Trăng đã sáng mà trời lại gió, gió đẩy
đưa cho lá đong đưa, lúc ấy cả khu vườn cùng khiêu
vũ dưới ánh trăng, chắc gì trần gian đã có những buổi
dạ vũ đêm trăng tuyệt vời như vậy. Quất ngẫm nghĩ
đến bọn người hay nhảy nhót, xập xình với nhau trong những
căn phòng mờ mờ tối, ngột ngạt mùi nước hoa và khói
thuốc, người này thở ra người kia hít vào, Quất lại càng
thương hại. Trong những chỗ chật chội ấy, những thân người
quay cuồng, quấn quýt lấy nhau, sao bằng được nơi gió mát
trăng thanh này, cành lá cứ xôn xao thì thào to nhỏ, trong đêm
khuya hoa cỏ toát mùi hương thanh khiết, ngọt ngào. Không có
gì hơn là hãy để tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên,
và không có gì hơn những mùi hương giản dị của cây
cỏ phảng phất trong không gian.
* * *
Thời gian này là thời gian để Quất làm quen với mưa nắng
cuộc đời, và cũng vì sự hòa hợp âm dương của
Trời Ðất, Quất cứ lớn lên như thổi. Quất có già dặn
hơn, cành lá đã um tùm hơn vì Quất đã thích nghi
được với khí hậu bất thường của Trời Ðất. Ðấy
là một kinh nghiệm sống quý giá mà Quất rất hãnh diện,
biết khả năng của mình tới đâu và biết sức sống của
cây cỏ cũng như con người đến mức nào. Ðúng là "trời
sinh voi, sinh cỏ", Quất dư sức chịu được cái nóng của
mùa hè, cái lạnh của mùa Ðông, và điều mà Quất
thích nhất là thỉnh thoảng lại được tắm gội dưới
trời mưa. Lúc ấy mẹ con Quất tha hồ mà ngả nghiêng, đừa
giỡn dưới gió và mưa, hai lão ấy đã có từ đời
Trời sinh ra Ðất, già lão mà còn chơi lắm trò mạnh bạo,
có khi cứ vùi giập lũ cây cỏ dưới những đợt gió
và nước ào ạt. Quất nhìn các chị em xung quanh, thì tâm
trạng ai cũng thích trời mưa, như trẻ con thích tắm mưa, thích
đuổi nhau trong những con hẻm ngập nước để nước văng lên
tung tóe. Quất vui tính, hồn nhiên như con trẻ, có lẽ nhờ
sống giữa thiên nhiên, Quất thấy tâm hồn mình khoảng khoát,
bao dung. Nếu sống trong căn nhà đóng kín cửa kia, có lẽ Quất
cũng sẽ nảy sinh tính ích kỷ, đóng kín đời mình
trong bốn bức tường không bạn bè với ai, có ngày cũng chết
trong sầu muộn.
Thấm thoát mà Quất đã sống trong khu vườn này được
mấy năm, cứ sinh hoa kết quả, lũ con này ra đời rồi đi, lũ
con khác lại được sinh ra và nuôi dưỡng. Quất không nề
hà gì việc sinh nở, vì Trời sinh Quất thế. Nó có thể
ra hoa quanh năm, trái đang đầy cành mà hoa đã trắng xóa.
Bây giờ thì những người hàng xóm đã gọi Quất là
Mẹ Quất, dù vậy Quất chỉ hơi già thôi, chứ nét xuân
sắc của Kim Quất năm xưa vẫn còn phảng phất trong chùm hoa trắng,
vẫn nồng nàn trong buổi sáng còn ướt sương, khiến có
người đi qua vẫn phải có lúc tưởng nhớ một mùi hương.
. .
Chị Bưởi, anh Cam, chị Quýt trong khu này ai cũng bảo Mẹ Quất
sung sức, nhà cửa lúc nào cũng ríu rít trẻ con. Cứ ngắm
nhìn sức cưu mang của Mẹ Quất mới thấy ông Trời cũng khá
hào sảng khi cho Mẹ Quất một sức khỏe bền bỉ, dẻo dai.
Nếu ví mỗi đứa con là một tác phẩm của một nhà
văn, thì ôi thôi mẹ Quất đã sáng tác lu bù trận.
Có đứa cũng lớn lên thành người, có đứa cũng chết
non chết yểu khi mới đơm hoa kết trái, có đứa nửa chừng
đã từ giã mẹ đi vào lòng đất lạnh. Bỏ đi những
đứa con non yểu, thiếu tháng, đa số con của mẹ Quất đều
nên người, chẳng gì cũng được chế biến với mật
ong, thành món thuốc để con người thấm giọng khi ho hen, cảm mạo.
Nó cũng là món trái cây để giải khát những ngày
hè nóng nực, vị Quất thơm, uống tới đâu thấm tới đó,
chứ nó không chua lè như chanh, mà cũng không đắng như bưởi,
lại không nóng như Quýt. Nghĩa là ở Quất người ta vẫn
thích thú chút chua chua dôn dốt của từng múi Quất, mà cũng
có thể nhấm nhẳn chút vỏ hơi the the, ngòn ngọt, Quất
bé nhỏ hiền lành nhưng hương vị lại đậm đà khó
quên là thế.
Qua những tháng năm dày dạn nắng mưa, gió bụi, thời tiết
đối với Quất như là những đắng, cay, ngọt, bùi trong cái
"nhân tình thế thái " của con người, hay những vinh nhục,
thăng trầm mà hầu như con người nào cũng có lúc trải
qua. Nếu không trải qua sự thử thách đau khổ đó, Quất nghi
ngờ rằng những con người đó không đào đâu ra được
chiều sâu của tâm hồn. Chuyện sinh ra, lớn lên rồi chết, đã
là điều tự nhiên mà bất cứ một vật gì hiện hữu
trên cõi đời này đều phải trải qua, nhưng nếu không
có những thử thách và đau khổ để tôi luyện, đời
xem ra cũng vô nghĩa. Quất nghiệm ra rằng cứ mỗi một đổi thay
xảy ra trong đời Quất, đều là một bài học để Quất
ghi nhận.
Cô Quất ngày xưa nay đã già, không còn mượt mà mãi
với thời gian, cành nhánh đã xù xì những mảng da cóc
khô queo, nhưng sức chịu đựng và việc sinh sản thì dễ ai
bằng mẹ Quất. Có lắm lúc kiệt sức, mẹ Quất không đủ
sữa nuôi con, vì thế mà những chiếc lá cứ nhỏ dần đi,
và có những nụ hoa ra trái mùa, có kết quả cũng chỉ
bé tẻo teo, rồi lần lượt rụng cả. Ðó là những mùa
Ðông rét ghê gớm, cây nào cũng được gia chủ phủ
trên mình những chiếc khăn lông cũ, hay những tấm ni lông để
làm chăn đắp đỡ qua những tối trời Ðông. Nhắc tới
đây mẹ Quất không khỏi rùng mình, khi nhớ lại một đêm
trăng mùa Ðông, sao cũng là trăng mà trăng mùa Ðông lại
lạnh lẽo, nghiệt ngã như một mụ phù thủy. Cả khu vườn
và những thứ cây lá cóng lại, gió thổi phần phật những
tấm ni lông như những mảnh khăn tang phấp phới trên những mái
đầu, mẹ con Quất co lại với nhau nghe tiếng gió rền rĩ ngoài
không gian , chịu đựng suốt những đêm trường băng giá.
Cũng may là
sáng hôm sau trời lặng gió, mặt trời lại hí hửng trải
xuống trần gian những tia nắng ấm áp. Khi được chui ra khỏi tấm
chăn bẩn, Quất đã nhìn thấy nỗi đau khổ và ủ ê
của những chị em, bạn hữu quanh mình, rồi Quất lại hồn nhiên
an ủi mình : "Sau cơn mưa trời lại sáng", chứ đâu dám
trách Trời sao có lúc cũng nóng lạnh, vui buồn để làm
khổ con người và cây cỏ.
Mẹ Quất được trời sinh bản tính dễ vui dễ buồn, đã
quen với sự khắc nghiệt của Trời Ðất, nên vì thế mà
chịu đựng được tất cả những đổi thay, ít khi nào
gậm nhấm một nỗi buồn giận ai lâu trong bụng. Vì thế mà
"sau cơn mưa trời lại sáng thật". Ðó là món quà
quý Trời phú cho mẹ Quất , để mẹ Quất cùng lũ con yêu
đời trở lại, để vẫn làm hết nhiệm vụ của một
kiếp cây mà ông Trời đã giao cho từ khi có mặt trên trái
đất.
Hiểu được điều đó mẹ Quất không cảm thấy mình
thừa thãi và buồn bã, khi so sánh mình với những bạn bè
may mắn, xinh đẹp, ngon ngọt hơn. Con đường dẫn tới "sinh, lão,
bệnh, tử" chẳng chừa một ai, từ công hầu cho đến giai nhân
ai cũng phải chết, tài giỏi, giàu có tới đâu cũng có
lúc bỏ lại tất cả, xuôi hai tay mà đi. Lắm khi nghĩ tới
phận mình một lúc nào không còn hiện hữu trong cuộc đời,
chẳng còn ai nhớ đến mình nữa, lòng mẹ Quất cũng se se
buồn, nhưng cứ nhìn quanh thì đâu có gì tồn tại. Những
mảng cỏ xanh hôm nào nay đã vàng úa xác xơ, những bông
hoa hồng, hoa cẩm chướng xinh đẹp là thế mà chỉ vài hôm
đã tàn tạ, héo úa. Lá chưa vàng đã rụng, hoa chưa
thắm đã tàn, bao nhiêu điều bày trải trước mắt mẹ
Quất há chưa phải là một bài học để ghi nhận sao?
Bởi
thế khi mùa Xuân trở lại thì mẹ Quất vẫn hớn hở cười
với gió Xuân, vẫn khoe những chiếc lá non dưới nắng Xuân
dịu dàng, vẫn cố đơm những chiếc hoa xinh để khu vườn
vẫn thơm ngát mùi cây cỏ. Mẹ Quất tuổi cao nhưng không già,
già hay trẻ là ở mình, dẫu có trăm tuổi mà tâm hồn
vẫn hồn nhiên, vui vẻ thì đời vẫn trẻ. Chỉ có
bụi chuối ở góc vườn là chết hẳn, vì nó không sống
lại khi mùa Xuân tới. Những tàu lá chuối khô phơ phất
bay trong gió, như những cánh tay dài ngoẵng đang vẫy vẫy giã
từ đám bạn bè cây cỏ còn lại trong vườn. Cái vẫy
tay như một nhắn gửi, cuộc đời vốn đã vô thường
thì sống hay chết cát bụi vẫn chỉ là cát bụi.
Nguyên
Nhung.
Hoa Nở Chiều
Đông Chiều Đông trời đất
buồn chi lạ Mưa phùn, gió bấc rét căm căm Lạc
lõng chiều đông hoa hé nở Rưng rức buồn rơi chiều
cuối năm Bao nhiêu nỗi nhớ từ xa xăm Ùa
đến tìm ta như sóng vỗ Bao chuyện ngày
xưa như thác đổ Bạc màu ghềnh đá với
thời gian Ngày ấy qua rồi cơn tao loạn Cửa nhà, hình ảnh cũng tan hoang Muốn về tìm lại
nơi chốn cũ Mà tiếc là như ... giấc mộng tàn Cuối năm hoa nở chiều đông lạnh Vẫn
nhoẻn nụ hồng với gió sương Ước sao được
giống cành hoa nhỏ Lặng lẽ đời trôi giấc mộng thường Nguyên Nhung
NGUYÊN NHUNG
Những Bông Hoa Cuối
Mùa Xếp lá thư của Chuyên vào túi áo, Ngọc mỉm cười
xa vắng. Lá thư từ miền hỏa tuyến gửi về thành phố đến
tay Ngọc vào những ngày đầu tháng mười hai, báo tin Chuyên
sắp về phép trong mùa Giáng Sinh khiến Ngọc nôn nao chờ đợi.
Nhớ lại Noel năm ngoái Chuyên không về được vì phải
ở lại đơn vị, chỉ có mình Ngọc đi lễ nửa đêm
với cô em gái, nghe hồi chuông ngân lan lan trên nóc nhà thờ
giăng giăng những ánh đèn chớp tắt, Ngọc lại nhớ Chuyên
da diết . . . Đứng dưới
giàn mướp ở góc sân sau, những bóng nắng in xuống nhảy
múa đậu trên chiếc áo trắng của Ngọc, tưởng như cũng
biết cười với nỗi vui thầm kín của người con gái. Những
bông hoa cuối mùa, dù đợt gió cuối năm hơi lành lạnh
đã làm những chiếc lá trên giàn ngả màu vàng
úa, đang xào xạc theo từng cơn gió mùa thổi tới. Bầu trời cao và trong, xanh biếc, nắng vẫn óng ả trên những
cây cỏ trong vườn. Chuyên về. Ngọc nghe những tiếng reo vui ấy
cứ ấm áp ngân mãi trong lòng, như tiếng chuông đêm
giáng sinh năm nào. Rồi Ngọc chợt buồn cười nhớ lại những
kỷ niệm vui vui lần đầu gặp Chuyên mùa Giáng Sinh hai năm
về trước, để từ đấy hai đứa đi vào đời nhau
như một giấc mơ huyền nhiệm.
Chuyên nhập ngũ khi tròn hai mươi tuổi,
tâm hồn người thanh niên thời ly loạn đã sớm nhìn ra chiến
tranh đang giăng bủa trên quê hương, với những trăn trở mơ
ước đất nước được an bình, bạn bè chàng lớp
lớp lên đường tòng quân nhập ngũ. Mới đó mà chín
tháng quân trường trôi nhanh, đời chinh chiến đưa đẩy
Chuyên làm người lính xa nhà, dù chưa có một mối tình
nồng đậm ở hậu phương, nhưng vài khuôn mặt dễ thương
tuổi học trò vẫn ẩn hiện trong tim người lính Ra đơn
vị một thời gian, nhiều lần hành quân thử lửa nơi chiến
trường lửa khói, viên đạn địch ghim vào chân bên phải
và phá vỡ xương đùi, chàng phải nằm bệnh viện dưỡng
thương một thời gian. Vết thương sau khi lành lặn đã để
lại cho người lính một kỷ niệm khó quên, thời gian ấy lại
rơi đúng vào mùa Giáng Sinh nên Chuyên có được những
ngày nghỉ hiếm hoi trong đời lính với mái ấm gia đình.
Bây giờ chàng sĩ quan mặt búng ra sữa ấy trông đã
có vẻ lì lợm, chững chạc hơn so với ngày mới bước
chân vào lính, không biết sao lại ngoan ngoãn theo bố mẹ đến
nhà Ngọc dự bữa tiệc đêm Giáng Sinh năm ấy. Ngọc và
lũ em không làm sao nín cười được, khi Chuyên mặt đỏ
bừng vì ngượng , vâng lời cha mẹ khoe chiến thương cho mọi
người xem. Mấy đứa con gái kéo nhau vào phòng trong rúc
rích cười, con em út đã nghịch ngợm bảo Ngọc: "
May quá chị Ngọc nhỉ? Nếu anh Chuyên bị thương ở trên bụng
thì em không biết . . . " Ngọc
vội vàng bịt miệng em kịp lúc, rồi mấy chị em lại rúc
rích cười với nhau, tha hồ bàn tán về anh chàng sĩ quan trẻ
ngượng nghịu ngoài phòng khách. Sau này, khi hai đứa yêu nhau,
Ngọc có kể lại chuyện này cho Chuyên nghe, hai đứa cứ rũ
ra cười, khi đang yêu họ ríu rít như đôi chim non, mỗi lần
về phép là những ngày vui dài bất tận. Đó cũng là
những kỷ niệm đẹp ghi đậm trong tâm khảm hai người, và
mùa Giáng Sinh năm ấy bỗng lại là mùa Giáng Sinh đẹp
nhất trong đời Ngọc. Để rồi sau mỗi lần về phép, Chuyên
trở ra đơn vị, Ngọc lại hồi hộp chờ đợi và mong mỏi
chàng trở về với một xác thân lành lặn. Ngọc tuy không đẹp
nhưng rất có duyên, còn Chuyên thì khỏe mạnh, đầy nam tính.
Chàng có cái lì lợm toát ra từ vẻ mặt, từ đôi
mắt, bởi vậy lần đầu tiên gặp Chuyên, Ngọc đã nhìn
thấy đôi mắt ấy hình như có lửa, đã đốt cháy
trái tim Ngọc ngay khoảnh khắc đầu tiên. Người ta gọi đó
là "tiếng sét ái tình", dù hai bên gia đình hình
như đã có sự sắp xếp để hai đứa gặp nhau. Riêng
Ngọc, nàng lại cho là có sự sắp xếp của định mệnh,
để hai người vĩnh viễn bước vào đời nhau đúng
vào đêm Chúa sinh ra đời.
* * * Ngọc đang sửa
soạn những món ăn cho đêm Noel thì Chuyên về. Suốt ngày
hôm đó Ngọc nôn nao mong đợi, nào ai biết được những
gì xảy ra cho người lính. Mãi tới khi thấy Chuyên đứng
bên ngưỡng cửa, bộ đồ nhà binh còn bám bụi đường
xa, nụ cười rạng rỡ của chàng khi cô em út đã nhảy
ra mừng trước chị, Ngọc mới yên chí là chàng về thật.
Một kỳ nghỉ phép vào mùa Giáng Sinh thật hiếm hoi cho đời
lính, những cuộc đụng độ bất ngờ trong giờ hưu chiến
vẫn có thể giữ Chuyên ở lại đơn vị là chuyện thường.
Đánh đổi những ngày phép hiếm hoi này không phải dễ
cho một người lính ở đơn vị tác chiến như Chuyên, ròng
rã nhiều tháng ngày Ngọc làm tượng đá chờ
đợi, nàng mới cảm thông được nỗi buồn của những
người vợ lính. . .
Việc đầu tiên trong kỳ nghỉ phép
rất hiếm hoi này, Chuyên chạy vội đến một cửa hàng bách
hóa để mua quà Giáng Sinh cho Ngọc. Đứng trước bao nhiêu
món quà trưng bày trong tủ kính, cuối cùng chàng đã
tìm được món quà cho người yêu, con búp bê thật xinh
với dáng đứng và khuôn mặt của cô bé tuổi mười
lăm, duyên dáng và ngây thơ như Ngọc. Ngoài ra Chuyên còn
mua thêm vài món quà nữa, những món quà này Chuyên dấu
kín trong một túi giấy, với một bí ẩn mà chắc rằng chỉ
có chàng mới hiểu được ý nghĩa cao đẹp của nó.
Sau
khi tiếp mẹ nấu nướng những món ăn cho bữa tiệc đêm
Giáng Sinh, Ngọc vội vã vào phòng riêng trang điểm chờ Chuyên
tới đưa nàng đi chơi đêm Noel. Thành phố vẫn tưng bừng
trong không khí rộn rã của đêm Noel, trong khi ấy chắc hẳn có
những người lính ở miền xa đang căng mắt chờ đợi những
bất an xảy đến cho họ. Đã có một " party " thật vui
nhộn do cô bạn thân mời, Ngọc có thể xin phép mẹ để
được đi chơi với Chuyên mà không bị nhắc nhở, dặn
dò, lo lắng như những lần được bạn bè mời đi ăn
sinh nhật trước kia. Hay là bây giờ Ngọc đã lớn, bố mẹ
đã hoàn toàn tin tưởng nàng chọn lựa đúng người
để gửi gấm yêu thương. Bố vẫn nói đùa với mọi
người, có lũ con gái ở trong nhà như bom nổ chậm, lòng
ngay ngáy không yên. Mỗi lần thấy con gái đi theo để thưa
với bố điều gì, ông lại hồi hộp không biết có
phải tin báo giờ bom sắp nổ. Bố vui tính hay đùa, chứ
ba đứa con gái của ông là ba bông hoa tươi thắm, đã
khiến ngôi nhà vang lên những tiếng cười trong trẻo, óng ánh
như tia nắng đầu ngày trải trên giàn mướp hương hoa vàng
ở mảnh vườn sau. Khi Chuyên trở lại để xin phép mẹ đưa
Ngọc đi chơi, chàng thật bảnh bao trong bộ quần áo "civil"
thẳng nếp, tóc tai chải gọn gàng, mày râu nhẵn nhụi,
khác hẳn khuôn mặt phong trần, xạm nắng trong bộ quân phục chàng
mặc lúc ban chiều. Trên tay chàng là gói quà nhỏ tặng Ngọc, ngoài
ra còn một gói to hơn, bọc kín mít trong một túi giấy, bỏ
vào chiếc túi ny lông, hơi cồm cộm, Ngọc đoán là giầy
dép, hay quần áo. Món quà ấy Chuyên nhờ Ngọc cầm hộ,
khi hai người chở nhau trên chiếc xe Honda, Ngọc chỉ mơ hồ đoán
đó là món quà Chuyên dành cho ai đó nhưng không tiện
hỏi. Cả tuần nay, Ngọc
băn khoăn chọn chiếc áo dài có màu sắc thích hợp cho
đêm Giáng Sinh. Dưới ánh đèn mờ thì màu đỏ
huyết dụ sẽ làm khuôn mặt Ngọc nổi lên những đường
nét quyến rũ, dù rằng Ngọc rất thích chiếc áo màu thiên
thanh, đi trong nắng sẽ làm vẻ tươi thắm của khuôn mặt trở
nên dịu dàng hơn, nhưng dưới ánh đèn qua sự phản
chiếu ánh sáng, nó sẽ bị lợt lạt đi. Băn khoăn mãi,
không biết sao Ngọc lại chọn màu áo trắng học trò, có
thêu những chiếc hoa xinh màu xanh nhạt dưới hai tà áo. Ngọc
thấy sự giản dị của màu áo lại khiến mình có nét
ngây thơ của một cô em gái hậu phương, có lẽ vì Chuyên
là một người lính? Ý nghĩ ấy khiến Ngọc mỉm cười
hoài một mình, chỉ màu áo mà cũng làm những kẻ đang
yêu nghĩ ngợi mãi, có phải vì Ngọc vẫn nghĩ tới Chuyên
với một tâm tình trong sáng của tuổi trẻ còn nguyên vẹn.
Trên
đường phố đã nhộn nhịp người qua lại, xe cộ dập
dìu như mắc cửi, nhưng sao trong đôi mắt Chuyên, Ngọc thấy
niềm vui như vẫn phảng phất một nỗi buồn. Ngọc không dám
hỏi Chuyên về những điều thầm kín đó, và khi thấy
Chuyên chở mình đi về hướng ngoại ô của thành phố,
qua những con đường đầy ổ gà chỉ có ánh đèn
đường vàng vọt, chen chúc những căn nhà ván lợp lá
nghèo nàn khuất dưới tàng cây tối thẫm, Ngọc lại
bâng quơ nghĩ tới những chuyện không vui, mà vẫn không đủ
can đảm hỏi Chuyên tại sao lại tới đó. Trong lòng Ngọc nhen
nhúm chút buồn bã, vì Ngọc tưởng một đêm Noel trọn
vẹn của hai đứa, phải là những tiếng cười rộn rã với
bạn bè, màu rượu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh,
phải là những bước chân quấn quýt dìu nhau trong thế giới
cuả âm nhạc, những bài ca Giáng Sinh vang vang trên đường phố.
Và cuối cùng, trong không khí ấm áp của ngôi giáo đường
rền rền tiếng chuông ngân, hai đứa sẽ thì thầm với nhau
những lời ước nguyện đẹp đẽ. Đêm Noel là đêm an bình mà ở một góc trời xa vẫn
bừng lên ánh hỏa châu trên vùng trời đen thẫm, có điều
gì khắc khoải trong tâm hồn Ngọc khi nghĩ sau những ngày nghỉ
phép thần tiên, Chuyên lại trở ra đơn vị. Lại những chiến
trường xa gian khổ, lại những bất trắc rình rập quanh đời
sống của chàng, Ngọc cố xua đuổi những nỗi buồn vô cớ
để hưởng trọn tình yêu đêm giáng sinh với người
yêu. Mãi tới khi chiếc xe Honda quẹo vào một con ngõ tráng xi măng
ngoằn nghoèo, con hẻm sâu và tối, thỉnh thoảng có một nhà
treo đèn ngôi sao trước cửa, như dấu hiệu của một mùa
Giáng Sinh buồn bã nơi những gia đình nghèo khổ và cô
đơn Nỗi thất vọng và buồn bã lại nhen nhúm trong lòng
cô gái trẻ, Ngọc cứ bâng khuâng tự hỏi, Chuyên định
làm gì mà hoang phí những giờ phút quý hiếm của lần
về phép, với đêm Giáng Sinh tuyệt vời như vậy? Ý
tưởng ấy cứ miên man trong lòng Ngọc, cho đến khi Chuyên ngừng
xe trước thềm một căn nhà đơn sơ, cửa vẫn mở
để Ngọc nhìn thấy tất cả sự nghèo nàn của nó.
Duy nhất
một ngọn đèn trần vàng úa tỏa xuống những đồ đạc
rẻ tiền . Trên chiếc giường con kê ở góc nhà, hai đứa
trẻ con đang nằm chơi với nhau, bi bô nói chuyện. Và ở chiếc
võng phía bên kia, theo tiếng võng kẽo kẹt đưa có tiếng
người mẹ ru con buồn não nuột. Chắc người mẹ còn trẻ,
vì Ngọc nghe tiếng ru tuy rất buồn nhưng âm thanh còn trong trẻo, không
khí phảng phất chút hiu quạnh với bức ảnh của người
đàn ông mặc quân phục còn khá trẻ, đặt trên bàn
thờ ở giữa nhà dưới ngọn đèn dầu leo lét.
Mãi
tới khi Chuyên cất tiếng gọi, thiếu phụ ngồi nhỏm dậy quấn
vội mái tóc mây, đứa bé bồng trên tay mở to đôi mắt
trong veo nhìn hai người xa lạ chực khóc, và hai đứa bé đang
chơi trên chiếc giường nhỏ chạy ùa tới nhìn khách chăm
chăm. Ngọc đã gần đoán hiểu ra được sự thăm
viếng đột ngột của Chuyên dành cho gia đình một người
lính cùng đơn vị, khi anh ta đã nằm xuống mấy tháng trước
đây trong một cuộc đụng độ giữa hai bên. Người phụ nữ
còn trẻ, chắc dưới tuổi ba mươi, ngạc nhiên vì sự thăm
viếng khá bất ngờ của người sĩ quan chỉ huy cùng đơn
vị với chồng mình và cô bạn trẻ, trong chiếc áo dài
trắng đơn sơ. Có lẽ hình ảnh ấy khiến chị nhớ đến
hình ảnh một thời của mình, và cái chết quá mới mẻ
của chồng khiến chị vừa cảm động, vừa tủi thân. Trong tiếng
nói cuả chị, Ngọc nghe như có chút nghẹn ngào khiến nàng
cảm động: "Chào Trung
Uý, chào cô . . . "
Rồi chị nín bặt như sợ nói thêm sẽ có thể bật lên
khóc. Để tránh sự xúc động, Chuyên nắm tay hai đứa
bé lôi vào lòng xoa đầu chúng một cách trìu mến, rồi
chàng giơ tay bồng đứa bé độ bảy, tám tháng trên
tay chị. Mấy đứa nhỏ quấn ngay lấy chàng, như đã lâu
lắm rồi chúng chưa được nắm lấy bàn tay yêu thương
của một người nào giống như cha chúng. Chuyên vội giới thiệu
với Ngọc: "Đây là chị Luân, trước kia anh Luân cùng
đơn vị với anh. Còn đây là Ngọc, em gái hậu phương
của tôi đấy."
Chàng cố pha trò cho không khí bớt
phần buồn bã, vì nhìn những đứa bé còn nhỏ như
vậy, Ngọc hiểu anh Luân chỉ ra đi ít lâu nay, và cái buồn
hình như còn y nguyên trong lòng người vợ. Chị Luân định
chạy đi tìm nước mời khách, nhưng Chuyên đã ngăn lại,
rồi hướng về mấy đứa bé, đang nhìn chàng bằng những
đôi mắt đen lay láy. Chuyên nói: "Chú có quà cho các
cháu đây. Nguyên năm tuổi, học mẫu giáo rồi phải không,
chú cho con hộp viết chì màu để tô hình nhé. Bé Tiên
thì lại làm cô tiên, cái áo đầm này đẹp chưa?
Nào em bé ra đây, bé thế này thì chỉ có sờ tí
mẹ thôi, chú cho bé con thỏ biết nhảy để ba anh em chơi chung
với nhau nè!" Hai đứa
lớn mừng rỡ xà vào lòng Chuyên, bây giờ mới ríu rít
kể chuyện. Những chuyện của trẻ con thật dễ thương, điều
thương cảm hơn cả là chúng chưa hiểu gì về sự vắng
mặt của người cha. Ngọc đã phải bậm môi để đừng
chảy nước mắt khi nghe thằng Nguyên nhắc về cha nó, với nỗi
mong đợi của đứa bé ao ước được gặp bố, sau nhiều
tháng chưa thấy bố về phép như mọi khi. Nó thỏ thẻ hỏi
Chuyên: "Chừng nào bố con về hở chú?" Chuyên vội quay đi để tránh
cái nhìn tha thiết trong đôi mắt trẻ thơ của thằng bé:
"Bố
còn bận lắm chưa về được, nhưng bố nhắn chú về
mua quà cho con và mấy em rồi. Con phải ngoan, nhớ trông em cho mẹ, kỳ
tới chú về bố con sẽ gửi quà nhiều hơn." Những câu nói dối để xoa dịu nỗi mong đợi nơi
thằng bé năm tuổi, khiến người lớn nghe thắt cả lòng. Đằng
sau những vinh quang của vòng hoa tươi thắm quàng lên cổ áo người
lính trở về từ mặt trận, những khuôn mặt rắn rỏi và
kiêu hùng trong tiếng nhạc rộn ràng kia, có bao giờ lại thiếu
những hồi kèn truy điệu thiết tha, ngân lên rồi đọng lại
trong lòng người ở lại sự vắng mặt của người đã
nằm xuống, không bao giờ trở về. Chuyên trở lại câu chuyện với chị Luân, người góa phụ
còn xuân sắc với ba đứa con thơ trên tay, Ngọc không hiểu
chị có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua cái
chênh vênh của cuộc sống chật vật và cô đơn ấy được
bao lâu. Cho dù thời gian qua đi, một mai đất nước có thanh bình,
nhưng chiến tranh đã để lại những dấu tích bi thảm trên
thân phận người vợ lính, những đứa bé không cha dẫy
đầy trên mảnh đất quê hương. Nghĩ tới đây, rồi
nhìn thấy đôi mắt ướt của người góa phụ còn
trẻ, Ngọc bỗng rùng mình , và mắt nàng cũng rưng rưng
một màn lệ mỏng . . . Tuy nhiên, mùa Giáng Sinh năm ấy lại là mùa Giáng Sinh ý
nghĩa nhất trong đời Ngọc, nó đã trở thành một kỷ
niệm đẹp của hai người, để Ngọc có dịp đánh giá
tâm hồn Chuyên sâu sắc hơn. "Không bỏ anh em, không bỏ
bạn bè", có phải đấy là giá trị duy nhất mà một
người Lính sau bao nhiêu lần thử thách với cái chết còn
giữ được, ngay cả mạng sống của họ. Bây giờ Ngọc
mới thực sự nhìn ra tâm hồn cuả người yêu, rồi nhận
ra những cảnh đời cô đơn, cùng khổ đang nhan nhản xảy
ra xung quanh nàng, tự nhiên Ngọc không còn thiết tha gì với những
cảnh xa hoa, hào nhoáng ở ngoài kia, nó như những mảnh
vải màu sắc rực rỡ, vá lên một chiếc áo rách tả
tơi. . . . * * *
Năm nay, mùa Giáng Sinh lại tới, Chuyên
và Ngọc đã về với nhau được hơn ba mươi năm, đôi
bạn tình đã trải qua nhiều đau khổ với cảnh tan nát của
nước non. Chuyên may mắn thoát chết trong những ngày chinh chiến gian
khổ, nhưng sau đó chàng nếm thêm nhiều năm tù tội khi đất
nước hòa bình. Hoàn cảnh lại xô đẩy Ngọc giống như
chị Luân, vợ một người lính đã nằm xuống, nhưng có
điều là nàng vẫn còn niềm hy vọng, vì cuối cùng Chuyên
cũng trở về với Ngọc và các con. Chẳng hiểu sao định mệnh
cứ đưa đẩy đất nước vào những nghịch lý triền
miên như vậy, và điều ấy khiến con người càng ngày
càng xa cách nhau hơn. Rồi dài theo những bước chân và sự xoay vần của lịch
sử, hai vợ chồng và mấy đứa con lại trôi nổi nơi xứ
lạ quê người. Trong mảnh sân vuông vức, Ngọc vẫn trồng một
giàn mướp đằng sau vườn để nhớ tới mảnh vườn
ở quê nhà năm xưa. Nhìn tia nắng ban mai chiếu ánh sáng qua
giàn lá xanh như ngọc , Ngọc lại không quên được những
kỷ niệm êm đềm của những mùa Giáng Sinh xưa. Những đợt
gió cuối mùa ở quê người, là cái dữ dội của
con dao cắt vào ruột kẻ tha hương, chứ không phải cái hiu
hắt dịu êm của chút gió cuối năm ở quê nhà những
mùa Noel cũ. Trời khi nóng khi lạnh, khiến giàn mướp
đã xơ xác vẫn còn những chiếc lá thưa thớt xào xạc
thoảng qua tai Ngọc, như tiếng ngân của một cung đàn đềm
êm trong quá khứ. Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn
giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ
dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy
như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng
mỗi khi mùa Giáng Sinh trở lại. Ở góc vườn bên kia, bóng Chuyên lom khom xới đất để
sửa soạn trồng những cây hoa pensée mùa Đông. Một thời
tuổi trẻ đã qua rồi, nhưng sao lòng Ngọc vẫn ấm áp khi
nhớ lại đêm Giáng Sinh năm ấy, chính vì thế trong mắt nàng
Chuyên vẫn là Chuyên của những năm tháng cũ. Nắng đã
lên rực rỡ, chỉ còn Ngọc đứng dưới giàn mướp
đã thưa thớt lá. Nhìn bóng nắng nhảy múa trên
vai áo mình, Ngọc tự nhiên nhớ lại mùa Giáng Sinh năm
xưa, và mỉm cười vu vơ như thuở nàng còn là người
yêu của lính. NGUYÊN NHUNG Mùa
Giáng Sinh
"Mời
thưởng thức bài thơ PPS Về Cần Thơ, thơ Nguyên Nhung, PPS với
những hình ảnh mới nhất của Cần Thơ năm 2014 - NN"
|
Nguyen Nhung.pps
Về Cần Thơ Từ
xa tôi về thăm lại Cần Thơ Vào tháng Năm đúng
mùa hoa phượng trổ Ngôi trường cũ bây giờ sao lạ
quá Cần Thơ bây giờ không giống ngày xưa Từ bến Ninh Kiều theo chuyến đò đưa Con nuớc lớn
về Cái Răng chợ nổi Sông nước bao la gió lồng lộng
thổi Qua những địa danh quen thuộc một thời Bao chiếc ghe buôn cây trái gọi mời Xoài, ổi, mãng
cầu, sầu riêng, vú sữa Cồn Ấu, Cái Răng, Phong Điền,
Bang Thạch Rải rác ven bờ ruộng lúa vườn cây Hôm nay không ngờ tôi cũng về đây Con
sông rộng chia thành bao nhánh nhỏ Cứ thong thả ngồi trên
xuồng ba lá Mình đi về những làng mạc xa xa Cây trái ruộng vườn màu mỡ phù sa Hai bên bờ
sông bóng dừa lơi lả Vẫn không thiếu những căn nhà
mái lá Thật tội tình nằm nép cạnh bờ mương Quê của ai mà tôi cứ luyến thương Con
ốc con cua cũng thành đặc sản Dân quê nhịn thèm
một đời vất vả Sống cách nào khi vật giá leo thang? Tôi đã về thăm chợ Nổi Cái Răng Ngồi
gần bên anh, ngồi gần bên chị Chị mù loà đưa
bàn tay sờ soạng Nắm tay tôi khen mũm mĩm tròn vo Nhớ lại ngày xưa lứa tuổi học trò Có người
bảo tôi xinh mà ...sổ sữa Ôi kỷ niệm nay đã không
còn nữa Cần Thơ bây giờ ... không phải ngày xưa Giã biệt Cần Thơ, giã biệt Cần Thơ! Nguyên Nhung 2014
Chiếc Lá ...
Thơ Nguyên Nhung Có đôi
khi tôi hỏi mình là ai Từ
đâu tới và còn đi đâu nữa? Đêm hôm qua chắc ngoài trời nổi gió
Vì sáng nay nhiều chiếc lá vàng
rơi Nhìn lá rơi tôi lại thấy ngậm ngùi
Như đâu đó, vài người thân
đã khuất Đặt bàn
tay lên trái tim thổn thức Những
gì qua không lấy lại bao giờ
Như trở về mình vẫn thấy dòng
sông Nơi bến cũ thuyền xưa
không còn nữa Tôi nhìn
mãi từng đường cong lá úa Nghĩ về Cha, về Mẹ, về Anh Em Đường tôi
đi sao chỉ thấy dài thêm Những
khắc khoải của một đời đã sống Một nửa đời còn đong đầy nỗi nhớ
Một nửa đời còn lại để
lãng quên Một ngày nào sẽ không nhớ nổi tên
Của những người quen mà mình đã
biết Và như thế ...
Lá cũng có một ngày để chết
Cho cành khô lại hé những lộc non
Để cuộc đời sẽ mãi mãi
xanh hơn Thì lá rớt đâu
phải điều đáng tiếc
Có một điều, chỉ một điều
tôi biết Khi ngước
nhìn theo một áng mây trôi Một
cánh chim đang xoãi cánh chơi vơi Bay mải miết dường như không biết mỏi Tôi đã tự trả lời một câu hỏi
Đời vẫn còn đẹp tựa một
bài thơ Có gì đâu,
sao ta phải hững hờ ?!! Nguyên Nhung Dương Hồng Thủy cảm tác: Chiếc Lá (từ Chiếc Lá của Nguyên Nhung) Chồi xanh mơn mởn
lông tơ Cho con ong nhỏ ôm bờ lá
cong Sương bay ươm nhẹ nắng hồng
Sắc khoe màu biếc thong dong dịu dàng.
Bỗng nhiên hoang vắng điêu tàn Phất phơ từng đợt lá vàng nhẹ bay Duyên thừa số phận lắt lay Thu sang mưa đổ xác đầy bơ vơ. Sang mùa
như mối tình hờ Lặng im lá
ngủ bên bờ quạnh hiu Lá bay khi
gió đổi chiều Vàng lên lá
rụng dập dìu lối quen.
Thương cho chiếc lá lỡ làng
Tử sinh sớm tối nhọc nhằn riêng mang
Bên đường rộn tiếng chuông ngân
Tiễn đưa về với mộ phần cỏ
hoa. Lá xanh cuộc sống chan hòa Chiều
nào mõi cánh cứ tà tà rơi Lá còn quyến luyến cuộc đời Hãy bay về phía chân trời nắng lên. Dương
hồng Thủy ( 25/10/2014)
"Thơ & Hình Ảnh: Tiếng Sóng Biển Tiếng
hát Don Hồ
Tiếng Sóng
Biển Ta về thăm lại biển quê hương Đắng lòng nghe biển khóc bi thương
Thăm thẳm hồn thiêng
sông núi gọi Sóng
vỗ từng cơn khúc đoạn trường Thương
quá bóng tàu thật lẻ loi Lầm lũi chiều sương tím cả trời Nghìn xa biển khóc đau từng đoạn
Biển của quê mình
sẽ mất thôi!
Ta có về nhưng chẳng
mấy vui Chỉ thấy
lòng ta rất ngậm ngùi Bãi vắng sóng xô buồn vô tận Vài con tàu nhỏ vẫn ra khơi
Đêm nằm thao thức nghe biển khóc Ta hiểu rằng lòng biển
rất đau Bao người
lòng cũng đau như biển Đất nuớc quay cuồng cuộc bể dâu Ta về gom gió mười phương lại Đánh tan thành quách lũ yêu ma
Cho biển quê hương yên
bình lại Biển
của Ta, biển mãi của Ta. Kỷ niệm
mùa hè thăm Đà Nẵng. Tháng 5/2014
Viếng mộ cụ
PTG & trở về mái trường xưa
(YouTube do Nguyên Nhung thực hiện nhân chuyến về quê
May 2014)
Xin nhấn chuột vào hàng chữ tím dưới đây để
xem:
________________________________________________________________________________
Xin
giới thiệu chương trình Nhạc & Thơ Nguyên Nhung:
https://soundcloud.com/nguyen-nhung-1/tho-nhac
Dáng Xuân Hôm nay mới thấy dáng Xuân về Sau những ngày Đông lạnh tái
tê Hoa đào dăm
nụ vừa nở hé Cây
lá trong vườn bớt ủ ê
Đón
Xuân viễn xứ sao vẫn nhớ Mừng Tết quê nhà chẳng thể quên Đì đùng tiếng pháo vang khắp ngõ Nụ cười, ánh mắt lũ trẻ thơ Quê người Xuân đến đào đơm nụ Lại nhớ cội mai trước cửa nhà Dáng Xuân lặng lẽ ngoài song cửa Đào cũng vì Xuân mà nở hoa Thêm một mùa Xuân nơi xứ xa Nghe vẫn nao nao nỗi nhớ nhà Đốt nén nhang trầm lòng tưởng nhớ Trong khói hương bay bóng mẹ gìa Nguyên Nhung
Truyện Tết Nguyên
Nhung: GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN
THƠ XUÂN
Ngược Giòng Nguyên Nhung Hai người đàn bà
đứng trước quầy tính tiền của một tiệm thực phẩm Á
Châu, họ đang trao đổi với nhau về cách làm món bún chả.
Nếu cứ nhìn những thực phẩm khô và rau tươi trên quày
hàng, người ta liền liên tưởng đến những món ăn Việt
Nam quen thuộc trên mâm cơm hằng ngày của người Việt
Nhưng lạ lắm, một người Mỹ, một người Việt, hai người
này rõ ràng là một đôi bạn, vì họ đang trò chuyện
cười nói ríu rít. Người đàn bà Mỹ khoảng hơn
bốn mươi, đôi mắt xanh hiền hậu với mái tóc vàng óng,
nước da trắng lốm đốm những điểm tàn nhang trên đôi
má phơn phớt hồng. Còn người phụ nữ Á Ðông là
một người Việt Nam, dáng người nhỏ nhắn, vẻ mặt xinh tươi,
ăn mặc thật giản dị. Hai người lại trao đổi tiếp tục
câu chuyện dở dang, người đàn bà Mỹ lắng nghe với tất
cả sự chăm chú, hình như bà ta dự định sẽ làm thêm
món bún chả vào ngày lễ Tạ Ơn năm nay,bởi vì món
gà Tây đút lò và món bánh bí đỏ tuy thích hợp
cho đám trẻ con và gia đình bên ngoại đến chơi, lại
vẫn không hợp khẩu vị với bà mẹ chồng và hai cô
em gái.
Cứ nghe hai người nói chuyện thì người ta cũng đoán
ra bản tính của hai dân tộc đã có tý chút khác nhau
khi làm một việc gì. Người Mỹ có thói quen làm theo sách
vở, còn người Việt lại chỉ làm theo cảm tính hay bằng
sự hiểu biết quen thuộc hằng ngày. Tuy nhiên, cuối cùng thì
họ cũng đồng ý với nhau rằng cái lưỡi của loài người
là dụng cụ đo lường chính xác nhất, để biết rằng
món ăn ấy ngon hay dở, có thể làm hài lòng khẩu vị
hết thảy mọi người. Người phụ nữ Việt còn hóm hỉnh
bảo bạn, cũng không nên tin hoàn toàn vào cái lưỡi của
mình, vì còn tùy theo lúc ấy cái bụng no hay đói, hay khi
người không được khỏe, sự nêm nếm cũng vì thế sẽ
không chính xác như mình tưởng.
Hóa ra, hai người này là hai người bạn cùng xóm,hay đi
chung nhà thờ mỗi sáng chủ nhật. Họ kết thân với nhau cũng
chỉ vì có cùng hoàn cảnh khá ngộ nghĩnh, một người
phụ nữ Mỹ có chồng Việt Nam và một người đàn bà
Việt Nam lấy chồng Mỹ. Ðó là lý do khiến họ tìm đến
với nhau để trao đổi một vài khía cạnh khác biệt giữa
con người , đối với cuộc hôn nhân dị chủng thì dẫu
có hòa hợp bao nhiêu, vẫn xảy ra những điều không hiểu
nổi về tâm hồn cũng như văn hóa của hai dân tộc.
* * * " Chị biết không? Tôi gặp nhà tôi
khi chúng tôi học cùng một phân khoa ở trường Ðại Học
Clear Lake,nơi ấy có một cái hồ rất đẹp và cũng là
thành phố mà gia đình tôi đang cư ngụ. Tôi cũng không
hiểu tại sao chúng tôi lại trở thành đôi bạn thân, rồi
yêu nhau lúc nào không biết nữa.
Anh ấy sang đây có một mình,
tôi nghe anh kể về chuyến vượt biển cam go của anh, và những
thảm cảnh xảy ra với những người vượt biển tìm tự do,
tôi đã không ngăn được xúc động. Hồi ấy, tôi
đã ngạc nhiên mỗi lần thấy anh chăm chú theo dõi tin tức,
khi nghe có những thuyền nhân được vào định cư ở Hoa
Kỳ, tôi đã hỏi anh rằng tại sao anh và những người đồng
xứ lại có thể bỏ quê hương mà đi. Khi nghe anh cắt
nghĩa tới hai chữ Tự Do thì tôi hiểu ngay, thông cảm với anh ấy
liền vì từ lúc còn nhỏ, mới bắt đầu đi học, chúng
tôi đã được biết thế nào là quyền tự do của
một con người.
Hóa ra, ở quê hương anh con người bị tước đoạt nhiều
thứ tự do mà tôi tưởng nó phải được tôn trọng
bất cứ ở đâu, nơi nào có con người là phải được
hưởng đồng đều như nhau. Ngoài giờ học, hai đứa tôi
cùng làm thêm ở thư viện, có điều kiện gần gũi nhau
nên chúng tôi trở thành một đôi bạn thân. Nhìn lối
làm việc chăm chỉ của anh, cần mẫn, ngăn nắp, tôi thật sự
bị rung cảm với con người đầy vẻ chịu đựng đó.
Bản tính anh hiền hòa, dường như trong đôi mắt đen kia còn
chất chứa một nỗi buồn sâu kín nào đó mà tôi không
hiểu nổi, khi anh ngồi hằng giờ nhìn ra mặt hồ sóng lăn tăn,
im lặng như có một cõi riêng mà tôi rất muốn chia xẻ.
Người Mỹ chúng tôi
là thế. Chúng tôi không chủ trương xâm phạm vào đời
sống riêng tư của nhau, nhưng nhìn nét u uẩn trong đôi mắt
anh với dáng ngồi lặng lẽ hằng giờ, tôi đoán anh đau khổ
mà nếu anh cho phép, tôi rất muốn chia xẻ. Anh càng buồn tôi
càng băn khoăn, và từ nỗi băn khoăn đó tôi đã
yêu anh ấy, khi ra trường thì hai đứa quyết định lấy nhau. Vào mùa hè, tôi
thường rủ anh đi biển với gia đình tôi. Lúc ngồi bên
ghềnh đá, nhìn từng cơn sóng vỗ vào bờ, tôi thường
bắt gặp anh chìm đắm trong một nỗi niềm xa xăm, dường như
mỗi lần tới biển, anh thường bị ám ảnh vì một điều
gì không xóa được trong tâm khảm. Tôi chưa hề xa đất
nước này bao giờ, chỉ có những chuyến du lịch ngắn đầy
vui tươi với gia đình, cho nên hồi ấy tôi chưa thể thông
cảm hết được nỗi nhớ nhà của một kẻ xa quê, mà
anh ấy gọi là tình hoài hương.
Thật ra, khi yêu anh, tôi cũng bị ảnh hưởng phần nào lối
suy nghĩ của một tâm hồn Á Ðông, thì ra nó có nhiều
điều phức tạp mà nếu không có tình yêu, người ta
không dễ gì hòa hợp được với nhau để trở thành
một. Cuối cùng khi hai đứa lấy nhau, tôi mới thực sự thấy
được sự ngược nguồn của những giòng sông. Anh qua đây
có một mình, gia đình còn ở lại Việt Nam, cho nên khi chấp
nhận lấy anh, là tôi cũng phải chấp nhận luôn việc chia xẻ
gánh nặng vật chất với gia đình ở bên kia. Tuy nhiên, tôi có nhận thấy
điều này, khi cho rằng chia xẻ chỉ là tự nguyện và tùy
theo khả năng, chứ còn lúc biến nó thành bổn phận thì
nặng nề quá. Tôi thẳng thắn bày tỏ với anh điều này,
nhưng không ngờ tôi thực sự bị "xốc" khi anh phản kháng
lại tôi ngay lập tức, mà nếu không khéo thì cuộc hôn
nhân có mòi bị tan vỡ. Biết làm thế nào bây giờ, vì
người Mỹ chúng tôi nghĩ khác. Tôi không ích kỷ để
bỏ mặc anh với những điều trăn trở với gia đình ở bên
kia, nhưng tôi cũng không thể bằng lòng khi anh phải lo lắng quá
nhiều như vậy.
Hình như người Việt của chị có quan niệm hướng về gia
đình , và những người thân yêu của họ. Cũng vì thế
mà đi hơi xa mức giới hạn của họ trong đời sống gia đình
của người khác. Cái này chị cho tôi nói hết nghe, vì
theo tôi nó có hợp lý và cũng bất hợp lý theo cách
nhìn của một người Mỹ. Nó có cái hay vì nó biểu
hiện được sự chia xẻ và tình thương yêu của một
gia đình thuần nhất, nhưng mà ... biết nói thế nào nhỉ,
ăn nhiều quá cũng mất ngon, mà nói nhiều quá cũng có thể
lỡ lời ( câu này tôi học được từ chồng tôi đấy
nhen chị). Tuy vậy, theo tôi mình phải tìm ra một giải pháp
để quân bình giữa hai cái với nhau, để không vì được
cái này mà lại mất cái kia đó mà. Từ ngày lấy anh ấy đến
nay, tôi thấy mình đổi khác nhiều lắm. Một cuộc hôn nhân
dị chủng, nhưng giờ đây ngôn ngữ không là vấn đề
nữa vì chúng tôi đã có thể hiểu nhau sau khi cùng nhau ngồi
xuống nói chuyện, thành thật bày tỏ cho nhau hiểu nỗi khó
khăn vì khác biệt tư tưởng , và cách hành xử sao cho dung
hòa với nhau để gia đình hạnh phúc. Cuối cùng thì anh
ấy cũng làm đầy đủ giấy tờ để mang gia đình sang
bên này, sau khi nói với tôi rằng nếu không làm được
điều đó, anh cảm thấy như mình có lỗi, khi việc ra đi
tìm Tự Do của anh, là do sự hy sinh của tất cả người thân
trong gia đình. Chúng tôi đã hoàn toàn hiểu nhau, và tôi
cũng hiểu khi chấp nhận làm vợ anh, là tôi cũng phải hy sinh phần
nào chút riêng tư để cùng anh ấy làm tròn bổn phận. Ba anh ấy đã
qua đời, nhưng mẹ anh ấy lại thật hiền. Chúng tôi đã
một lần về thăm nhà ở Việt Nam, nhìn bà cụ già ôm
mấy cháu nội hai giòng máu vào lòng, nụ cười móm mém,
đôi mắt bà đầy những thương yêu, tôi nghĩ mình
không thể ích kỷ để chỉ lo cho hạnh phúc của riêng mình,
mà phải cùng anh ấy giúp đỡ mẹ anh và các em của
anh. Bây giờ mẹ anh và hai cô em gái đã sang đây, mới đầu tôi
cũng hơi lúng túng khi không biết giải quyết thế nào để
cuộc sống đừng bị xáo trộn. Nhưng chị à, nhà tôi
anh ấy cũng thật tế nhị, cho nên vì thế mà chưa có gì
đáng tiếc xảy ra. Hai cô em đã đi làm, họ sống chung với
mẹ trong một căn chung cư hai phòng ngủ, và bây giờ khi tôi muốn
đi đâu xa mà không dẫn con theo, có thể gửi bé út cho
bà nội và hai cô trông giùm. Hồi
gia đình anh ấy chưa sang, tôi chỉ hay làm thức ăn theo lối Mỹ
để cả nhà cùng ăn. Sau này, anh ấy dẫn tôi và các
con đi ăn nhà hàng Việt Nam, tôi lại thấy thích những món
ăn Việt. Thế là tôi đề nghị anh ấy chỉ dẫn, và cho
tới khi gặp chị, tôi mới hoàn toàn thực hiện được
cho thật hoàn chỉnh. Ðàn ông mà chị, anh ấy nói hồi còn
ở nhà, anh ấy có bao giờ phải lo gì đến việc bếp núc,
đã có mẹ, chị hay em gái làm tất cả. Người Việt
của chị hình như quý con trai hơn con gái, cho nên cách đối
xử cũng hơi bất công đấy nha! Tôi không hoàn toàn đồng
ý chuyện này đâu, vì con trai hay con gái cũng là người
mà thôi, có lẽ vì vậy mà người ta khó có thể
tìm được cái họ gọi là dân chủ ở nước chị,
vì trong phạm vi nhỏ bé gia đình đã không thực hiện được
dân chủ rồi, huống gì cho một quốc gia thì chuyện ấy lại
càng khó.
Tuần trước, chị chỉ cho tôi làm món chả cá Thăng Long
theo kiểu Hà Nội. Chị biết không? Hôm ấy nhà tôi ngạc
nhiên lắm, vì anh không thể ngờ tôi lại có thể làm được
một món ăn cầu kỳ như vậy. Cá ướp nghệ, riềng, mẻ,
mắm tôm, thêm ít gia vị mà nướng trên lửa than thơm phức,
sau đó lại rắc thìa là sắt nhỏ lên mặt trước khi
ăn, cùng những thứ rau phải có để ăn kèm với bánh
tráng cuộn lại, chấm nước mắm chua ngọt hay mắm tôm chanh ớt.
Tuyệt lắm chị à, nhưng lúc phải pha chế món mắm để
ăn với nó, thú thật với chị tôi ớn quá. Sao lại có
thứ mắm gì nặng mùi quá sức như vậy, tôi không đủ
can đảm để làm món đó ở trong nhà, vì nó sẽ
bám vào thảm và đồ đạc, cho nên tôi phải nhờ chị
giúp là vậy.
Người ta bảo " tình yêu
đi qua bao tử ". Mới nghe thì có vẻ nặng mùi vật chất,
nhưng công nhận từ hồi tôi biết nấu nướng, thỉnh thoảng
hay làm những món ăn mà chồng tôi thích, tôi thấy hình
như anh ấy thương tôi nhiều hơn, hạnh phúc nhiều hơn. Thứ
nhất là được ăn ngon, thứ hai là anh ấy cũng nhận thấy
được tình yêu của tôi dành cho anh ấy và gia đình,
đã phải bỏ nhiều thì giờ hiếm hoi trong cuộc sống vật lộn
với vật chất của xứ này, khi thực hiện những bữa ăn tốn
kém khá nhiều thì giờ như vậy. Lũ con tôi mê món cơm
chiên với chả giò nhất hạng, người Tàu cũng có món
này nhưng chúng không thích vì nó trộn nhiều bắp cải
và món cơm chiên thì nhiều dầu quá. Lễ
Tạ Ơn năm nay có gia đình bên ngoại cuả mấy nhỏ đến
chơi, nghe tôi kể về món bún chả ai cũng tò mò muốn được
thưởng thức. Riêng mẹ chồng tôi chắc hẳn bà cụ sẽ
ngạc nhiên lắm, nếu cần hai cô em chồng sẽ phụ tôi một tay
để làm món này, cách pha nước mắm chị chỉ hôm nọ,
ngon đến nỗi ăn xong rồi húp luôn nữa đó. Mẹ chồng
tôi chắc sẽ không thể ngờ rằng con dâu Mỹ cũng biết chiều
mẹ chồng như phụ nữ Việt Nam vậy.” *
* * " Ðúng ra tôi không thích lấy chồng ngoại quốc đâu,
nhất là lúc còn ở quê nhà, người xứ sở tôi hay
nhìn những người phụ nữ lấy chồng nước ngoài với cái
nhìn không đẹp. Ðừng trách họ nghe chị, vì thời đó
họ còn bảo thủ lắm, tư tưởng phong kiến vẫn ít nhiều
còn tồn tại trong những gia đình Việt Nam. Với lại, hồi đó
là thời kỳ chiến tranh, đa số những người đàn ông đến
nước tôi chỉ đi tìm đàn bà để giải quyết sinh
lý, ít có những cuộc tình trọn nghĩa yêu thương. Cho đến
bây giờ, trên xứ sở này, vẫn có nhiều gia đình phản
đối con cái khi kết hôn với người nước ngoài. Ðiều ấy cũng dễ
hiểu thôi, vì nói cho cùng thì sự khác biệt về phong tục
cũng như văn hóa dễ đưa đến sự đổ vỡ. Tôi công
nhận điều này không phải là họ hoàn toàn sai, vì chính
tôi lắm lúc cũng vẫn ngược nguồn với nhà tôi để
trở về với những gì của dân tộc, nhất là về mặt
tư tưởng thì thật sự có khác nhau đó, khi tôi đã
được ảnh hưởng nó từ hồi còn thơ bé. Ðôi khi người ta vẫn có
cái nhìn thiển cận khi đánh giá một sự việc hời hợt
bên ngoài, chứ thật ra tôi rất cảm phục những người phụ
nữ Mỹ như chị. Chị có thể thay anh làm được tất cả
những việc đòi hỏi sức khỏe của người đàn ông,
sửa chữa nhà cửa, xốc vác nhiều việc nặng nhọc mà người
đàn bà xứ tôi không làm được, vì quan niệm đàn
bà "chân yếu tay mềm". Thế nhưng những việc nấu nướng,
thêu thùa, vá
may tỉ mỉ thì công nhận người đàn
bà Á Ðông có năng khiếu hơn, và họ thường tự
hào về điều đó.
Bây giờ tôi kể lại chị nghe chuyện tại sao tôi lại kết hôn
với nhà tôi nghe, cái ông David "gà tồ" lúc nào cũng
hay cười nói huyên thuyên vui vẻ đó. Người nhà tôi
trách tôi tại sao lại ly dị với người chồng Việt Nam, để
kết hôn với một người Mỹ, nhưng câu chuyện này nó
dài lắm, tôi chỉ tóm gọn để chị hiểu tại sao tôi
thương yêu ông David nhà tôi nghe chị.
Chị còn nhớ những thập niên trước, lúc làn sóng những
người đi tìm Tự Do ào ạt bỏ quê hương ra đi, chắc
chị đã nghe anh kể chuyện và cũng thông cảm với anh lý
do tại sao lại có những người phải bỏ quê hương, xứ
sở ra đi. Tôi là một trong những người ấy đó chị. Bây
giờ chuyện đã cũ, nhưng nhắc lại tôi vẫn bàng hoàng
và tưởng như cả đời mình chẳng bao giờ quên nổi những
ô nhục, đớn đau mà mình phải chịu.
Tôi là người phụ nữ không được may mắn vì chuyến
vượt biển của tôi đã gặp tụi hải tặc Thái Lan, và
cũng như bao phụ nữ trong chuyến tàu hôm ấy, tôi đã bị
chúng nó làm nhục. Chị là người phụ nữ, có lẽ
chị thông cảm cho một người đàn bà khi bị tước đoạt
những gì cao đẹp nhất, do sự đòi hỏi thô bỉ của đàn
ông, không do sự dâng hiến của tình yêu. Bởi vậy khi được
cứu thoát, và cho đến lúc được định cư ở xứ
này, tôi vẫn bị ám ảnh vì những bất hạnh đau đớn
đó. Thú thật với chị là trước khi gặp David, tôi cũng
có yêu thương một người cùng quê, anh ấy là người
bảo trợ cho tôi từ đảo sang, dù rằng tôi có nói với
anh những điều nhục nhã mà tôi cũng như những người
phụ nữ gặp phải trong chuyến đi ngày đó. Anh ấy nói với tôi là
hoàn toàn thông cảm và cho đấy là nỗi bất hạnh của
người con gái Việt Nam, nỗi đau chung của cả một dân tộc
chứ không phải cho riêng ai. Thế nhưng nói một đằng mà đến
khi sống với nhau lại không phải vậy, chỉ vì những lời đàm
tiếu thiếu tế nhị của những người cùng hoàn cảnh với
chúng tôi. Mỗi khi nhắc nhau về những chuyện cũ, họ vẫn hay nói
ra những điều đau đớn riêng tư của người khác , không
biết với ý đồ gì, nhưng cũng chỉ vì quá khứ cứ
quấn quýt họ hoài, mà không nghĩ là lại lôi kéo chúng
tôi trở lại niềm đau cũ. Họ hoài niệm dĩ vãng của họ,
nhưng cũng hay nhớ đến dĩ vãng của người khác, như lại
làm vết thương mưng mủ khi nó đã thành sẹo. Ðiều
đó thật là kỳ cục phải không chị?
Thật mệt mỏi cho một số người hẹp hòi hay đàm tiếu
trên nỗi bất hạnh của người khác. Chính vì thế mà
làm cho cuộc hôn nhân của tôi tan vỡ, vì tôi cũng không
chịu nổi vẻ mặt buồn rầu, đóng kín trong sự im lặng riêng
tư của người chồng cũ. Anh ta thương tôi chứ không phải
không, nhưng chính vì không bỏ qua được cái đau khổ
của dĩ vãng, nó chỉ là chuyện chẳng ai mong đợi, để
mỗi khi nghe ai nói đến vấn đề này, anh lại có mặc cảm
như tôi làm điều gì xấu xa vậy.
Tôi có một quan niệm. Ðời bình thường chưa chắc gì
tránh khỏi lầm lỡ, huống gì đây chỉ là một tai nạn
cho những người phụ nữ Việt Nam, mà hoàn cảnh đất nước
đưa đẩy đã phải tội tình gánh chịu. Cuộc sống
đâu phải một mặt nước phẳng lặng, cho nên khi có xung đột
trong gia đình, tôi vẫn phải cúi đầu chịu đựng nỗi
cay đắng một mình. Cho nên giải pháp cuối cùng là chia tay.
Ðồng ý là khi tan vỡ, tôi cũng đau khổ vậy, nhưng nhờ
thế tôi mới có cơ hội biết rằng đời vẫn có những
người đàn ông tốt, không quẩn quanh mặc cảm, đầy thành
kiến với thứ dĩ vãng buồn khổ, mà đúng ra cần phải
gột bỏ để vươn lên những điều tốt đẹp. Tôi gặp David khi đến
cơ quan xã hội để nhờ giúp đỡ tìm việc làm. Không
hiểu sao tôi kể cho ông ấy nghe hết những gì xảy ra trong đời
tôi, và chị biết điều gì xảy ra không? Ông ấy đã
khóc khi nghe tôi kể hết những bất hạnh tôi phải chịu. Ông
ấy nói rằng chính đất nước ông cũng phải chịu trách
nhiệm trước những bất hạnh này, vì đã không hết lòng
giúp đỡ người anh em bé nhỏ của mình, để gây ra bao
thảm cảnh cho người dân Việt Nam. David đưa tôi đi nhà thờ,
sinh hoạt với người bản xứ, giúp tôi quên đi quá khứ
tủi hờn để hòa nhập vào một xã hội hoàn toàn hướng
tới tương lai. Những gì xảy ra hôm qua là dĩ vãng, những
gì hôm nay là hạnh phúc và sự hiến tặng của Thượng
Ðế trong mỗi ngày cho con người, và những gì sắp tới sẽ
là những khám phá kỳ thú hơn. .
Từ ngày lấy David, không bao giờ tôi nghe ông ấy nhắc nhở những
riêng tư của tôi trong quá khứ, và vẫn rất hãnh diện khi
giới thiệu tôi với gia đình, bè bạn. Họ chấp nhận và
yêu thương tôi, khiến tôi tự tin và tự nhiên tâm hồn
cũng theo chiều hướng đó mà thích yêu thương, chia xẻ
với mọi người.Tôi đã đưa David về thăm quê hương,
bởi vì anh ấy muốn nhìn rõ sự vươn lên của một đất
nước sau chiến tranh ra sao. David cùng công nhận với tôi một điều,
tất cả những mặt nổi của bên ngoài không giúp gì
cho người dân bao nhiêu, đất nước vẫn còn quá nhiều
người nghèo,một xã hội loè loẹt màu sắc và băng
hoại vì chạy theo đồng tiền khiến tôi cũng cảm thấy đau
lòng cho quê hương của mình . Chuyến trở
về quê hương của chúng tôi vừa qua thực sự làm tôi
xúc động lắm chị à. Tôi với David đi thăm những người
thương phế binh bị bỏ rơi sau cuộc chiến, hiện tại họ vẫn
là những cái bóng lẻ loi, đơn độc trong một xã hội
lắm thành kiến chính trị. Chúng tôi cũng vào thăm chỗ
nuôi trẻ mồ côi hay khuyết tật, thật ái ngại cho đời sống
của chúng nó, mong sao sự giúp đỡ cuả những tấm lòng
nhân ái, có thể những con người vô tội ấy được
sống một cuộc sống tối thiểu no ấm để làm người. Mỗi
người đều có một quê hương như ai cũng có một mẹ
vậy, tôi vẫn giữ trong lòng những cái đẹp của dĩ vãng,
nhưng đồng thời tôi cũng phải mang ơn xứ sở tôi đang sống,
đã giúp tôi có cơ hội để nhìn lại quê hương
của mình, bản thân mình mà biết cái gì phải quên và
cái gì phải nhớ.
À quên. Chị hỏi tôi về món bún chả để ăn vào
ngày Lễ Tạ Ơn năm nay phải không chị? Có lý lắm khi
chị đã nghĩ tới bà mẹ chồng Việt Nam, chắc hẳn không
quen với món gà tây và món bí đỏ tuyệt cú mèo
cuả người Mỹ. Nhưng chị muốn làm theo kiểu nào, vì quê
tôi có tới ba miền Trung, Nam, Bắc, mỗi nơi cũng dùng thịt heo
để nướng nhưng lối dùng gia vị thì có khác nhau tý
chút. Người Nam hay cuộn tròn miếng thịt bên ngoài một miếng
mỡ heo xắt mỏng, họ ướp đường nhiều hơn nên khi ăn
có vị ngọt ngọt. Còn người Bắc lại dùng thịt pha mỡ,
họ chỉ ướp củ hành và chút nước mắm ngon với tiêu
thôi. Riêng người miền Trung thì không thể thiếu ít hột
mè cho miếng thịt thơm và bùi hơn đó chị. Nhưng với
tôi, kiểu nào cũng ngon hết, miễn là mình gửi vào đó
cái tình của mình đến với những người mình yêu thương
và muốn phục vụ, phải không chị?"
NGUYÊN NHUNG.
Mùa Tạ Ơn Đầu Tiên
Trên Xứ Mỹ. Tôi đến Mỹ vào một ngày mùa Đông
năm 1992. Đối với tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống
vắng khi nhìn thấy những rừng cây trơ trụi hai bên xa lộ
nằm thiếp ngủ , thành phố về đêm nhấp nháy những ánh
đèn xanh đỏ dưới cơn mưa phùn muà đông rét
mướt. Buồn, cảm giác buồn thay cho
bao háo hức thường ẩn hiện trong những giấc mơ khi còn ở
Việt Nam, hiện tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn rầu
khi chiếc xe chạy qua những đoạn đường ướt át. Lúc ấy
đã gần nửa đêm, người bảo trợ đưa cả nhà
về căn chung cư một phòng ngủ, ngổn ngang vài món cần thiết
xin được cuả hội từ thiện. Nhà hàng xóm người Kampuchia
đêm khuya vẫn còn thức, nghe có tiếng xê dịch ngoài hành
lang vội mở cửa nhìn ra, rồi biết có người mới qua cũng
tíu tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng mì gói và hộp
sữa. Đối với chúng tôi lúc
ấy tình người quý biết bao, nỗi nhớ quê còn đầy nhưng
sự chia xẻ ấy khiến lòng tôi ấm lại. Phải đến năm sau,
một năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc
Mỹ, tôi mới hưởng được không khí ấm áp cuả muà
lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.
Đẩy lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó
khăn ở quê nhà, cơ hội đã mở toang cánh cửa đón
gia đình tôi hoà nhập vào đất nước tự do. Hình như
quanh tôi có một điều khó diễn tả được khi cảm nhận
được hai chữ tự do, những ngày đầu tôi vẫn tưởng
mình đang nằm mơ, nhưng giấc mơ ấy đã thành sự thật,
bước ban đầu còn lạc lõng, chúng tôi đã nhận được
sự giúp đỡ cuả nước Mỹ, mặc dù chưa đóng góp
được gì cho xứ sở này.
Mỗi ngày, điều thích thú nhất với tôi là được
đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà còn cắp sách
đến trường, tung tăng như một nữ sinh trung học làm tôi sống
lại cảm giác thời thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu.
Dù đấy chỉ là lớp học dạy ESL, dành cho những người
chân ướt chân ráo mới được định cư tại Hoa Kỳ,
nhưng không khí cuả một lớp học thì dường như ở đâu
cũng vậy. Một, hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người
trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc gia học chung một
lớp. Chúng tôi đã thật sự đến gần với nhau qua những
tâm sự bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ sở
cuả mình và lý do đến được xứ sở này, cảm thông
với nhau về hoàn cảnh hiện tại, và niềm hy vọng tốt đẹp
ở tương lai Khi chuẩn bị
muà lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đã dạy cho chúng tôi học
bài học muà Tạ Ơn, để hiểu tại sao xứ sở này người
ta duy trì ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Bài học “The First Thanksgiving”
ngày hôm ấy là một đề tài hấp dẫn cho cả lớp,
và tôi đã cố học thuộc lòng như cháo vài câu cảm
ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ Ơn năm đó. “Theo câu chuyện kể lại. Một ngày,
những người Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ là
những người bị bắt buộc theo giáo phái cuả nhà Vua, gọi
là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu
nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi. Những người Pilgrims này đã tìm cách
rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ có tên
là Holland, họ đã hoà nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả
người địa phương, sự tư do cuả tôn giáo chỉ đúng
nghĩa nhất khi mỗi người được thực sự cầu nguyện theo
con đường mà họ thích. Người Holland được gọi là
người Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Thế là
một lần nữa, những người Pilgrims lại lên đường tìm
về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi. Tại xứ sở này, họ có được
sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh.
Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Pilgrims, những người đầu
tiên đi tìm đất mới rời Holland và tàu cuả họ đã
cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những
cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm
bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển. MayFlowers là một hải cảng nhỏ cuả tiểu
bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Pilgrims kiệt lực vì
sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc
đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng
muà đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng
khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng
ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có
sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó
là những người da đỏ được gọi là người Indians. Những người dân địa phương tốt
bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời
sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để
làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc
dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời
sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây
được nhà thờ cuả họ, bắt đầu xây dựng nhà cửa,
và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm
trong một xứ sở tự do. Tháng 11
năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành
cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân
đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn
để người Pilgrims có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ
, cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những
người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp
họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh
đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm.” Bài học về ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm
dứt, tiếp theo đó mỗi người trong lớp đã bày tỏ lòng
biết ơn cuả mình với những người xung quanh, mở đầu cho một
party mang nhiều màu sắc dân tộc. Trước mấy ngày, giờ ra chơi
những học sinh đã hỏi nhau về những món ăn mà mọi người
mang đến lớp học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần
đầu tiên chúng tôi được làm quen với những món ăn
truyền thống cuả từng dân tộc.
Martha người Mễ Tây Cơ còn trẻ và rất vui tính, trên
tay cô là một khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ Tây
Cơ, bánh bột bắp cuộn món bò hầm với rau đậu ăn lạ
miệng và khá ngon. Cô đến lớp đỏm dáng với chiếc
váy hoa sặc sỡ, đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc.
Martha là người đã dạy tôi hát bản “ Besame Mucho” bằng
tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều thể hiện dân tộc tính cuả
mình qua các món ăn hay cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ
thích âm nhạc, thích hưởng thụ khác với tính chuyên cần,
chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn tính trung
thực, Martha giản dị chỉ cho những người mắt kém đi chọn
một cái kính đeo mắt tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô
hóm hỉnh nói: “ Mình
chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt và mua một cái
kính đắt tiền, đến đó (ý cô nói là cửa hàng
Walgreen) có vô khối các loại kính đeo mắt cho mình chọn lựa.
Tạm thời thôi, mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm
tốt, các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính
hoàn hảo.” À thì
ra trong câu chuyện nhỏ, Martha đã đem đến cho mọi người ý
nghiã cuả sự tương đối, trong khi tôi biết một vài người
quen diện tỵ nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê hương,sang
đây vẫn hay ta thán bất mãn cho rằng cuộc sống cuả họ vẫn
chưa được những điều vừa ý. Đó là sự đòi
hỏi một cách quá đáng,khi chính bản thân họ vẫn đang
sống nhờ vào cộng đồng xã hội. Đáng lẽ thế này,
đáng lẽ thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn
nàn mà không nghĩ mình đang chịu ơn những người chả
hề mắc nợ mình, họ cũng phải một nắng hai sương đi làm
đóng thuế, và nhờ sự đóng góp cuả họ mà mình
được san xẻ. Trong bữa
tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất cuả lớp học,
đã làm nguyên một ổ bánh kem thật lớn, với hàng chữ
Tạ Ơn viết thật nắn nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già
VN mà còn hiếu học, tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến
người khác đã được thể hiện dài dài trong đời
bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở lớp dạy làm bánh tại
nhà, không hề nhận một đồng thù lao để dạy cho các
người Việt trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp
họp mặt trong gia đình, hoặc cho những người cần học một
nghề để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc tuổi
già vác ngà voi cuả bác, nhưng bác nói: “ Tôi già rồi, không đóng góp được
gì với đời. Bao nhiêu năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà
sang đây tỵ nạn, gia đình tôi đã làm lại từ đầu
nhờ xứ sở này rộng rãi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay
con cháu đã thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở này và
cuả cuộc đời cũng nhiều, không biết cách gì để trả
ơn, thôi thì đây cũng là một cách giúp chị em phụ
nữ như tôi biết thêm nghề gì hay nghề nấy. Đó cũng
là lý do làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc.” Bác thật hạnh phúc, tôi luôn nhớ
đến những gì bác làm cho mọi người và từ đó
tôi nghiệm ra hai chữ tri ơn cuộc đời cuả bác. Tháng Chín
năm trước, bác đã thênh thang đi về bên kia thế giới,
hành trang mang theo là những gì bác đã làm cho mọi người
khi còn sống. Ngày tang lễ cuả bác thật đông người đến
đưa tiễn, trong tấm ảnh, khuôn mặt hiền từ, đôn
hậu của một cụ già suốt đời chỉ thích làm việc thiện
vẫn nở nụ cười nhân từ với những bông huệ trắng muốt. Những người Mỹ tôi quen còn dạy cho
tôi một bài học về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống
cuả họ. Khi về già , họ không ngồi ta thán sự hẩm hiu cuả
mình trong bốn bức tường, không bi quan sầu luỵ quá về bệnh
tật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến bà Naomi, một
phụ nữ da trắng khuôn mặt tròn, da nhăn nheo xếp lớp với thời
gian, tuổi già đã làm cho bà nhỏ bé lại nhưng toàn khuôn
mặt toát lên thần sắc yêu đời tha thiết.Thế mà bà
đang bị ung thư thời kỳ cuối cùng đấy, nhưng tôi không
thể nào biết được người đàn bà cao niên ấy đang
phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha này như thế nào. Bữa ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng
vào dịp lễ Tạ Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi
cùng đi với nhóm bạn già cuả bà NaoMi đến thăm một
nhà dưỡng lão. Viện Dưỡng Lão vào một ngày muà
đông buồn ảm đạm, một cụ gìa ú ớ gọi tên hết
người này đến người khác, bà đang lẫn lộn dĩ vãng
với hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe lăn cho bà vợ tóc
xoã rũ rượi, ông nói: “
Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để
gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng tôi
thì nhớ bà là vợ mình.”
Một câu nói thật hay mà đâu cần phải tìm trong những
lời hay ý đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới. Vật lộn
với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc quan yêu đời
để lướt qua những cơn đau là tính lạc quan cuả bà NaoMi.
Một ngày thứ bảy cùng năm đó, tôi lại đến dự
tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh đường êm ả, nhìn
tấm ảnh nụ cười bà thật rạng rỡ. Những người bạn cao niên này còn dạy cho
tôi tinh thần tự nguyện làm công tác xã hội, không rụt
rè vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Bà Linda gầy gò
ngày ngày lái xe đến trường tiểu học để sắp xếp
những cuốn sách cuả các em học sinh bừa bãi trên bàn vào
các kệ sách cuả thư viện, dạy cho các em học tính ngăn
nắp và biết cách giữ gìn những cuốn sách. Một hôm đang
lơn tơn tìm gặp cô giáo của con tôi thì bất ngờ bị
chận lại bởi một giọng trẻ con thật dễ thương: “ Bà có cần tôi giúp gì không?” Ôi chao! Chắc chỉ có xứ sở này trường
học mới dạy cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy
tình người, được thốt ra từ đôi môi hồng cuả một
cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường tiểu học, khiến tôi phải
suy nghĩ và cảm động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới
biết hỏi ai đó câu này mà giúp đỡ họ. Đâu cần phải tìm ở đâu xa mới
thấy được tình yêu thương. Trên mảnh vườn nho nhỏ
của tôi, đàn chim bồ câu ở đâu bay tới vẫn cần cù
nhặt hột cỏ, xen lẫn là vài chú chim sẻ nhỏ nhít nhảy
xung quanh, chúng sống chung một cách hòa bình và tương trợ
lẫn nhau, một con sẻ nhỏ đã giúp cho con sáo non lạc bầy mẩu
bánh vụn một sớm mai sau cơn bão. Ở một trạm xe bus giờ đông
người, ông già da màu đã luống tuổi đi trên đường
đã ngồi thụp xuống đất cột sợi dây giày cho một anh
chàng tàn tật người da trắng ngồi xe lăn, họ có quen nhau đâu.
Một người khác không nề hà khi dắt một người mù lên
xe rồi vội vã trở lại con đường đi bộ của ông ta. Tôi
không nghe được lời “Cảm Ơn” nho nhỏ họ dành
cho nhau, nhưng chắc chắn đã hiểu được sự cảm động
trong đáy lòng người được giúp đỡ. Mỗi năm khi đến mùa Tạ Ơn, tôi
lại để lòng mình chìm đắm trong tưởng nhớ để
nghĩ về những khuôn mặt thân quen mà tôi gặp gỡ trong dòng
đời. Như một cuộn phim tình cảm ấm áp đang quay lại để
tôi nhớ đến họ, loại trừ đi những đoạn phim buồn, tôi
có nguyên một cuốn phim đầy tình người, mang theo biết bao nhiêu
kỷ niệm. Mùa Tạ Ơn năm
nay mưa nhiều, đã hơn hai mươi năm tôi đón mùa Tạ
Ơn trên đất nước Hoa Kỳ, cùng hoà nhập vào cuộc sống
nơi xứ sở mà ngày xưa đối với tôi nghe như chuyện huyền
thoại. Bước chân nào đã đưa gia đình tôi tới đây,
cùng chia xẻ với biết bao thăng trầm của một đất nước,
nơi tôi đã sống và xem như quê hương thứ hai của mình. Nhìn tấm ảnh gia đình chụp mùa Giáng
Sinh năm ngoái, từ con số vỏn vẹn 5 người khi đặt chân
tới Mỹ, nay đã nhân lên thành một đại gia đình
đầm ấm,có thêm những đứa cháu ngoan đem tiếng khóc
tiếng cười cho không khí mùa Tạ Ơn được ấm áp
hơn. Mưa vẫn rơi đều trên mảnh sân ướt át, đàn
chim sẻ và bồ câu mỗi ngày về đây nhặt hạt cỏ nuôi
thân, hôm nay cũng vắng bóng. Có lẽ lũ chim cũng đang ủ ấm
cho nhau trên một mái hiên nào đó. Cảm ơn Trời đã
cho tôi một đời sống bình lặng và êm ả qua hình ảnh
tổ chim chiu chít gọi đàn. Ngoài kia, trời vẫn đang mưa và
đang trở lạnh , có lẽ sau vài cơn mưa lút đầu ngọn
cỏ, những cây ngò non sẽ cùng nhau vươn lên mang màu xanh hy
vọng trong mảnh vườn mùa đông tàn tạ. Nguyên Nhung ( Muà Tạ Ơn )
Chuyện Một Nhà Văn
Nguyễn là một nhà văn. Cứ tạm gọi như thế, khi ngoài
giờ đi làm việc kiếm sống như mọi người, chàng còn
có thú viết. Nguyễn có một số bài đăng rải rác
trên các báo địa phương, có một số độc giả ái
mộ, nên nghiễm nhiên được truy tặng là nhà văn, mặc
dù chàng biết muốn đạt được danh hiệu ấy, chàng còn
phải viết tướt khói ra, mới được ngồi vào cái
chiếu văn chương đầy chữ nghĩa. Thôi mặc kệ, gọi như thế cho vui, mặc nhiên chàng cũng miễn
cưỡng nhận là mình đứng vào hàng văn nghệ sĩ, dù
chưa in được cuốn sách nào. Bạn bè có nhiều người
khuyến khích chàng ra mắt sách cho có một cái gì để
nhớ, nhưng do tình cờ Nguyễn cũng được biết thêm nhiều
cái bạc bẽo của người cầm bút. Giai đoạn phôi thai cho đứa
con tinh thần đã lắm nhọc nhằn, khi in xong cuốn sách lắm tác
giả tự nhiên như bừng tỉnh một cơn mơ, nhìn những thùng
sách cao nghều nghệu như núi chất lên nhau, nỗi hứng khởi ban
đầu đã pha trộn cảm giác chán chường. Chưa kể nỗi
đoạn trường khi bị những con buôn sách thiếu lương tâm
bóc lột, khiến người viết văn còn dọ dẫm trên hành
trình văn hoá lắm lúc muốn bật ngửa ra dở khóc dở cười
vì sách. Tuy vậy chàng cũng nôn nao hình dung một ngày
nào đó, khi đứa con tinh thần của mình chào đời, với
niềm vui của lòng chàng và sự chia xẻ nồng nhiệt của bạn
bè, cũng như độc giả bốn phương. Ngày xưa, lúc còn là sinh viên, Nguyễn cũng sáng tác
khá nhiều truyện ngắn, ông thầy học cũng từng khuyến khích
chàng bằng câu: "Dù chỉ có một người đọc và
hiểu mình, thế cũng đủ khi ta có một người tri âm, tri kỷ”.
Điều ấy đúng, nhưng không đúng với hoàn cảnh của
chàng hiện tại, đồng lương thì eo hẹp, chỉ đủ lo cho
gia đình mà nghĩ đến chuyện in sách, với vợ chàng đúng
là chuyện "ruồi bu". Chàng cũng có nghĩ ngợi, bỏ mấy
ngàn đồng bạc in một tuyển tập truyện ngắn , bạn bè khua
chiêng đánh trống lên, may ra trong buổi ra mắt sách chàng tiêu
thụ được một mớ, còn bao nhiêu vác về nhà nhìn nét
mặt cau có của vợ, chàng lại chịu không nổi. Thế là Nguyễn co vòi trước cái mộng
làm nhà văn, để có chút tên tuổi với thiên hạ. Đối
với chàng, viết lách là thú tiêu khiển tao nhã, giải tỏa
những uẩn ức của lòng, chia xẻ cảm nhận về cuộc sống với
những người xung quanh. Con người dù có thành công bao nhiêu,
thế nhưng đến một tuổi nào đó cũng cảm thấy cần
có một góc riêng sống thật với mình, không gì hay hơn
là làm bạn với âm nhạc, văn chương, sách vở, có dăm
người bạn đồng điệu để mà trao đổi, hạnh phúc
nhất cho cái tuổi không còn trẻ trung và sức lực để tranh
đua với đời nữa. Sang Mỹ, trôi giạt
vào khu chung cư đa số là người Việt Nam, Nguyễn cảm thấy
dễ chịu như chàng đang sống trên mảnh đất quê hương.
Khu chung cư nằm trên ngọn đồi thấp, một con dốc thoai thoải xuống
giòng suối um tùm cây lá, ven bờ là con đường mòn có
dấu chân người, Nguyễn biết đám trẻ con vẫn hay la cà đi
hái những trái dâu dại.Thỉnh thoảng, trong những buổi sáng
rảnh rỗi, Nguyễn thơ thẩn một mình dọc theo bờ suối. Mặt
nước phẳng lặng nổi lềnh bềnh những chiếc lá khô, Nguyễn
tưởng đấy là những chiếc thuyền con, đã chở hồn chàng
ngược về dĩ vãng, nơi có dòng sông êm đềm chốn
quê nhà. Đúng là văn sĩ có khác,
vợ chàng lắm lúc rất bực mình vì cái tật đãng
trí và vớ vẩn của chồng. Chỉ cần đi dọc theo con suối ấy,
Nguyễn cũng có vô khối cái nhìn về sự sống đang hiện
diện quanh chàng. Lũ chim chóc chuyền cành hót véo von trên cành
dâu chín màu tím thẫm, vài con bướm lượn lờ trên
những bông hoa dại, một con cá nhảy lên đớp mồi trên mặt
nước lao xao, tất cả như cùng chàng tận hưởng cái đẹp
của thiên nhiên. Chàng thấy dễ chịu quá, cần gì phải
đi đâu xa, cần gì phải tụ họp những chốn đông người,
người ta cứ phải ao ước đi đến nơi này chốn nọ mới
hưởng hết sinh thú của cuộc đời. Ở đây, ngay tại chốn
này, khi lòng chàng thanh thản thì chàng đã được hưởng
hết cái mỹ miều của trời đất, nó đâu hẹp hòi
gì và nào của riêng ai, cứ để hồn thênh thang với tám
phương, bốn hướng. Khu chung cư chàng ở
thuộc loại cũ kỹ lâu đời, người chủ Mỹ đã mừng
rỡ khi đẩy được vào tay những người di dân Việt Nam,
lại được một số tiền rất khá. Khi lọt vào tay những
người chủ Việt Nam, bộ mặt của khu chung cư đổi sắc, từ
vẻ hoang tàn của khu nhà dột nát, bỗng dậy lên
sức sống dưới bàn tay khéo léo của những người Việt
cần cù, chịu thương chịu khó.
Đằng
trước và đằng sau mỗi nhà là một khoảng đất trống
sát đường đi rộng chỉ độ một mét, vậy mà những
bà cụ già, những người phụ nữ lớn tuổi không đi làm,
đã chịu khó vun vén để trồng những khóm hành ngò,
rau thơm, những giàn bầu bí, khổ qua, đậu ván. Nguyễn
hay lang thang đi dạo quanh xóm, nhìn mảnh vườn rau quê hương xa
vời vợi trong tâm tư chàng, đang được những bàn tay của
bà con lối xóm gây dựng lại trên mảnh đất xứ người.
Nó thể hiện nụ cười của cả một dân tộc hiền hòa,
khi vợ chàng thiếu một nắm húng quế cho tô phở, thiếu quả
ớt cho bát nước chấm, lúc chàng khoan khoái thưởng thức
món thịt bò quấn lá lốt, phết mỡ hành và đậu phọng
giã nhỏ, bà hàng xóm đã cho vợ chàng những thứ rau
cần thiết. Sự thật, thỉnh thoảng họ
cũng có cãi nhau, chén bát còn có lúc xô huống gì
con người có tiếng nói. Họ hay phàn nàn nhau về chỗ đậu
xe, khi lũ trẻ có bạn bè từ nơi khác tới cứ đậu bừa
bãi lên "parking" của người khác. Họ rầy rà nhau một
lúc, cũng lời qua tiếng lại một hồi, nhưng lắng xuống lại
lý luận "ba xu" một chút rằng cái chỗ ấy có phải
của ông của cha gì mà giữ, lại mất đi tình hàng xóm
bấy lâu nay. Đa số đàn ông
trong xóm đi làm, còn phụ nữ ở nhà giữ trẻ, nấu cơm
. Nguyễn thích nghe bà già người hàng xóm miền Trung nói
lối, nó ngộ nghĩnh và đậm đà màu sắc thi ca dân tộc,
một bà cụ miền Nam chỉ thích tuồng cải lương, xem những
phim có hậu như Bao Công xử án Quách Hòe, Phạm Công Cúc
Hoa , Đời cô Lựu v.v... Đại loại các bộ phim phải có chung,
có thủy, có tình người. Họ cũng đọc sách báo, nhưng
có nhiều nhà văn viết theo lối mới, khó hiểu, từ ngữ cầu
kỳ kiểu cách, Nguyễn cũng chưa hiểu nổi họ nói
gì thì đám dân mộc mạc ở đây cần gì biết cho
mất công. Ngay như là vợ Nguyễn, nàng cũng chỉ thích đọc
những bài đơn giản, trắng ra trắng, đen ra đen, không nhuôm
nhuôm mờ mờ ảo ảo,bởi vậy mà lối viết của chàng
cũng ào ào, chằn chặt như tiếng dao băm trên thớt, như tiếng
bát đũa khua lanh canh, xủng xoảng của trẻ con háu đói trước
mâm cơm. Đám trẻ ở đây có
mòi nhiễm lối sống Âu Mỹ, thích sự yên tĩnh của những
căn nhà riêng biệt đóng kín cửa, họ cố làm ăn và
lôi cả nhà ra khỏi cái khu chung cư nghèo nàn, nhếch nhác.
Chỉ tội nghiệp những người lớn tuổi, cũng phải chạy theo đám
con cháu để hòa nhập vào xã hội phương Tây, họ trở
thành những cái bóng mờ bên lề cuộc sống. Suốt ngày,
lũ nhỏ đi học, đi làm, các cụ luẩn quẩn, loanh quanh trong căn
nhà đóng kín cửa, tội nghiệp biết bao. Từ ngày có mấy
Đài Phát Thanh Việt ngữ, các cụ cao niên và người Việt
trung niên như bắt được bạn vàng lâu ngày không gặp,
nghe như trong quãng đời hiu quạnh trên xứ người, thoang thoảng
chút tình quê trong tiếng nói của người đồng hương.
Thỉnh thoảng, Nguyễn gặp lại những người hàng xóm cũ, họ
trở về khu chung cư cũ kỹ, nụ cười móm mém nở trên
khuôn mặt hân hoan vì cảm động, họ thú thật với chàng
rằng, chỉ ở nơi này họ mới thấy tình quê hương, mới
cảm thấy ấm lòng để sống nốt những ngày còn lại. Ngay như Nguyễn cũng thế, một lần chàng đi thăm
bạn bè ở các tiểu bang xa, dù chỉ có hai tuần lễ mà
lúc về nhà, gặp lại những khuôn mặt hàng xóm quen thuộc,
nhìn giàn mướp xanh trĩu quả, ngắm cây cải lên ngồng với
con bướm lượn, nghe tiếng người xướng ngôn viên đọc
bản tin chiều, tự nhiên chàng xúc động quá. Chàng có
cảm tưởng như xa quê hương đã lâu, nay trở về mái
nhà xưa, chàng vô tình có được cái cảm xúc dạt
dào của đứa con xa nhà, nay trở về với mẹ. Chàng đi làm một tuần năm ngày, hai ngày nghỉ
ở nhà viết lách. Chàng không có mặc cảm khi nghĩ mình
chỉ là mầm cây non nớt giữa một rừng văn học ngát hương,
bởi vì chàng chỉ dùng văn chương để trang trải nỗi
lòng, kể lể chuyện đời buồn vui, không một mục đích
nào khác. Thằng con lớn nhân ngày Father’s
Day, mua tặng bố cái máy computer để sáng tác cho tiện,
vì mỗi khi nhìn bố gò lưng ra viết lách một cách khổ
sở, xoá xoá viết viết thấy khổ thân gì đâu. Chiếc
máy để trong căn phòng nhỏ đóng kín cửa, cố tạo sự
yên tĩnh để chàng sáng tác, vậy mà chàng không viết
được. Chàng công nhận mình quê mùa quá, không quen xử
dụng máy móc hiện đại. Trong căn phòng đóng kín, tiếng
máy lạnh chạy êm ru, chiếc màn hình trắng xóa, óc chàng
cũng trắng xóa, chàng cố gắng viết nhưng chữ nghĩa hình
như vô hồn, thế là chàng chịu thua. Bây giờ thì Nguyễn hiểu rồi, người ta phải tạo cho tâm
hồn một tư thế thảnh thơi thoải mái thì mới viết cho ra
hồn được. Chàng chỉ cần, một tập giấy, một cây bút,
một khung cửa bên ngoài là khoảng trời xanh, có những con chim đậu
trên sợi giây điện như những nốt nhạc trong buổi hoàng hôn
, có tiếng lá khô lạo sạo đuổi nhau trên mặt đường,
tất cả những thứ ấy mới là linh hồn của bài viết, chàng
chỉ có công tô điểm lên thôi. * * * Nguyễn chưa phải nhà văn chuyên
nghiệp,vậy mà không biết tại sao Nguyễn thích viết, "tiền
oan nghiệp chướng" tự kiếp nào, Nguyễn hiếm khi thấy một
nhà văn hoàn toàn sung sướng, không đói rách thì cũng
lận đận, cái kiếp con tằm nhả tơ, hay “vắt từ tim và
từng đêm mải miết, viết cho đời xương máu mới nên
câu". Việc ấy, mấy người đã biết, một tác phẩm
nâng niu, gọt giũa chỉ đọc vèo một cái là xong, có người
đọc để giải trí, có người cũng nghĩ ngợi đôi
chút rồi quên. Sự nghiệp viết
lách của chàng bắt đầu từ những lá thư, rồi điện
thọai đấu hót với bạn bè, nhưng nói mãi Nguyễn có
cảm tưởng mình chưa nói gì cả, chàng nghe được cả
tiếng ngáp, cái hững hờ của người nghe, ở đây tình
cảm càng ngày càng hiếm hoi, người ta phải chạy theo cơm áo,
thời gian bỗng trở thành ngắn ngủi. Nguyễn viết, những lá thư dài năm , bảy trang giấy, chẳng
biết người ta có đọc không nhưng ít khi nào chàng nhận
được hồi âm, không chừng người ta còn bảo chàng lẩm
cẩm. Sau đấy, có người thương hại bảo chàng viết văn
đăng báo, rồi có những tờ báo đăng bài của chàng,
từ đấy, Nguyễn có cái vui của người cầm bút, rồi
biết thêm rằng ngoài nhu cầu cơm ăn, nhà ở, công danh, sự
nghiệp, người ta vẫn cần có một món ăn bồi bổ cho tinh thần. Lúc bắt đầu, chữ nghĩa còn thập thò e lệ,
sau quen dần, như cô con gái lần đầu hẹn hò với tình nhân
còn thẹn thùng,luống cuống thừa tay thừa chân, nay đã biết
tận hưởng cảm giác đậm đà màu sắc yêu đương. Đề tài quanh quẩn chuyện trong nhà, cha mẹ, anh em, bạn
bè lần lượt đi vào tác phẩm của chàng, Nguyễn có
cái thiết tha chân thật khi chàng dùng ngòi bút để hồi
tưởng những bóng dáng thân yêu trong đời chàng, để
chàng thực lòng đã chảy nước mắt khi nhớ đến những
kỷ niệm rất đơn sơ, nồng ấm của thời thơ ấu. Chuyện
của chàng không có những pha mê ly, hấp dẫn, thế nên khi có
người đề nghị chàng viết truyện tình thì Nguyễn bối
rối lắm. Nhìn quanh xã hội này, Nguyễn không tìm ra chất liệu
để viết, thời buổi bây giờ mọi người đều có dư
thừa tự do và điều kiện để yêu, Nguyễn đọc nhiều
truyện tình yêu của xứ này, chàng biết tình yêu đơn
giản như người ta ăn một cái kẹo, một cuộc hẹn hò trên
bãi biển, đùa giỡn với sóng nước và nắng ấm, sau
đó đưa nhau vào khách sạn, vài giờ sau chia tay, không ngậm
ngùi, không khóc lóc. Cuối cùng
thì chàng nghĩ ra được một điều thật giản dị, văn
chương không cần màu mè hoa lá cành, không cần tình tiết
éo le, chẳng có mở mà chẳng có thắt. Nó chỉ là chuyện
đời thường viết cho người khác đọc, như mình đang
rủ rỉ kể những chuyện bình thường nhất , nó là của
mình mà cũng có thể là chuyện của người, để đọc
xong thì ai đó cũng có thể thở phào nhẹ nhõm, bâng khuâng
hay mơ mộng đến những ảo ảnh mù xa trong dĩ vãng. Thế rồi Nguyễn cũng cố thuyết phục vợ để
được chấp thuận trong vui vẻ, cho chàng ra đời một tác phẩm
đầu tay. Ngày hai vợ chồng có đứa con đầu lòng, chàng
cảm động như thế nào thì nay nhìn đứa con tinh thần của
mình Nguyễn lại có được cái cảm giác y hệt như vậy.
Đối với chàng, những đứa con được sinh ra bằng sự kết
hợp máu thịt của cha mẹ, dẫu đẹp hay xấu chàng đều
thương yêu như nhau, riêng tác phẩm của mình, Nguyễn cũng
vẫn say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi bài viết
đã chuyên chở ít nhiều tư tưởng và những kỷ niệm
của chàng cho từng nhân vật của truyện. Dĩ nhiên đâu phải Nguyễn đã có được những
phút giây sống hoàn toàn với đứa con tinh thần chàng yêu
thích. Vợ chàng có thể đặt nhiều dấu hỏi về một
nhân vật tưởng tượng của chàng, mà nàng cho là nhất
định đấy phải là một hình bóng của dĩ vãng. Chàng
đã phải trả lời nhiều câu hỏi nghe thật ngớ ngẩn mà
đầy những cạm bẫy, để rồi có khi nhiều lúc chàng
bần thần đến phát cuồng khi thấy mình bị tước đoạt
gần hết điều mà người ta hay gọi là tự do tư tưởng.
Đấy chỉ là những vui buồn lẻ tẻ trong nghiệp cầm bút, trong
một phạm vi nhỏ hẹp là gia đình, còn với thế giới bên
ngoài chàng cũng cảm thấy sự dè dặt của mình khi không
dám viết thật những gì mình nghĩ. Ôi! Đời mắc chi cái
nghiệp khổ như vậy, vậy mà vẫn say mê không dứt được. Nếu mai kia khi về già, cuộc đời sẽ trống rỗng
khi nhìn mấy bức tường trắng toát, hay loanh quanh trồng tỉa mấy
chậu hoa chậu kiểng, ngó mông lung một chiếc lá rơi trên khoảng
sân cỏ úa, điều ấy khiến Nguyễn vẫn thú vị với cái
" khổ" của nghiệp cầm bút mà Trời đã oái oăm
gửi cho chàng. Nguyễn vẫn say sưa với
cái cõi của mình, chập chờn những hình bóng của từng
nhân vật trong khi ăn, lúc đi ngủ. Họ là những con người
không có thật mà lại có sức mang đến cho chàng những
rung động lạ kỳ. Nguyễn có thể đi theo họ đến những
dòng sông xa xôi nào đó, ngồi với họ bên một bờ
sông mà lắng nghe tiếng sóng vỗ óc ách vào bờ. Đi theo
họ xuống thung lũng mù sương của Đà Lạt năm
xưa, nghe họ tỉ tê thương nhớ một thời đã mất, và
kỳ lạ rằng chàng cũng đã rưng rưng đến phát khóc
khi cho nhân vật đau khổ vì một mối tình tan vỡ. Còn nhiều,
nhiều nữa, những mối tình thời chinh chiến, những mất mát thua
thiệt đớn đau của cuộc đời, những nhớ nhung mảnh vườn
đầy bóng nắng lúc sang Xuân ở quê nhà. Đó phải chăng
là món quà của Thượng Đế đã ban cho chàng, không
cần tiền bạc mà chàng vẫn có thể để hồn lang thang đến
nhiều nơi chốn đầy kỳ thú trên trái đất. Nguyễn vẫn sống đạm bạc , bằng lòng với cái
nghèo của vật chất mà lòng vẫn không hề cảm thấy thiếu
thốn, không mơ tưởng đến một thế giới xô bồ của
bạc tiền, danh vọng. Sống như vậy nhưng lúc nào chàng cũng
cảm thấy đời dư thừa niềm vui, vì ngòi bút đã giúp
chàng đi chu du đến nhiều vùng trời đầy những đềm êm
và kỳ thú của văn chương, một thế giới không thể mua
được bằng tiền vậy. Nguyên
Nhung.
Bức Tranh
Thêu Bản Đồ Nước Mỹ ALASKA, TRỜI MÂY VIỄN PHƯƠNG __________________________________________________________________________ Chuyến bay từ Houston đến vùng sa mạc Arizona, chuyển tiếp
đến Seattle, bỏ lại những giọt mồ hôi cho hai miền
đất nóng tình sôi và khô cằn sỏi đá. Tôi đã
nhìn thấy cao nguyên tình xanh trong một ngày nắng đẹp. Hiện
dần trước mắt tôi những con dốc ngoằn nghoèo , những ngọn
thông xứ lạnh chưa bao giờ đẹp hơn thế chen lẫn
với những cây phong, hình như đã sắp đổi màu khi mùa
thu đến. Cao nguyên tình
xanh đây rồi, phải đặt chân xuống đất và đi trong cái
se se lạnh như đất trời Đà Lạt mới cảm thấy hết cái
kỳ thú của cao nguyên tình xanh. Một chút lạnh vừa đủ
vào buổi sáng, một chút nắng lung linh vào buổi trưa, một chút
gió se se của buổi chiều len vào căn nhà của anh chị Thanh bao quanh
là một khu vườn đẹp. Xứ này nhiều mưa, vì thế khi
mùa Đông rét lạnh vừa qua, những cơn mưa núi đổ xuống
khiến rừng cây bừng bừng sức sống, du khách không khỏi bỡ
ngỡ khi thấy bạt ngàn hai bên xa lộ, những rừng cây lại mau xanh
đến thế, và nó vẫn xanh tươi mãi cho hết một mùa
hè nhờ những cơn mưa. Hôm ấy là ngày hội ngộ của gia đình Cát Trắng
Nha Trang. Gọi là gia đình cũng đúng vì đây chỉ là
một buổi hội ngộ hằng năm, của một số cựu nữ sinh cùng
lớp cùng thời với nhau. Theo như chuyện các chị kể thì
ngôi trường nằm gần bờ biển có hàng phi lao vi vút,
sân trường là bãi cát trắng phau phau, nơi các nữ sinh thường
gặp nhau mỗi buổi sáng trong giờ tập thể dục. Nhớ ngôi trường
là nhớ những tà áo trắng học trò, nảy nở thêm bao mối
tình đẹp vì Nha Trang cũng là thành phố của quân trường,
nhiều mối tình anh tiền tuyến em hậu phương cũng từ đây
mà trôi nổi theo dòng đời đi bốn hướng. Họ đa số
là vợ lính, chia xẻ cảnh đơn chiếc khi xa chồng trong thời chinh
chiến, chịu nhọc nhằn đau khổ cùng chồng sau cuộc chiến tàn,
và cũng từ miền đất biển này, Nha Trang cũng là đất
cơ hội để họ theo con tàu vượt sóng đi tìm
tự do. Sáng sớm hôm
đó, sau bữa điểm tâm thật ngon miệng với ly cà phê sữa
nóng, một ngày tuyệt đẹp nữa lại đến, hình như ông
trời đãi ngộ cho khách phương xa những ngày đẹp trời
thay vì những cơn mưa sụt sùi đổ xuống cao nguyên tình xanh.
Mọi người đi thăm một vài nơi đặc biệt của Seattle, qua
cây cầu nối dài giữa hai bờ của con kênh đào nối liền
hai hồ Washington và Union có mực nước chênh nhau khá cao. Anh Hoàng Thanh, cư dân của cao nguyên
tình xanh là người am tường hiểu rất rõ về con kênh này,
vì thế ai cũng tò mò vây quanh để nghe anh giải
thích câu chuyện về con kênh và loài cá hồi bơi ngược
nguồn nước. Nhưng phải vài ngày sau khi chuyến Cruise của hãng
Princess ghé bến Alaska, chúng tôi mới thực sự thấy được
hình ảnh của những đàn cá hồi, bơi ngược nguồn nước
tìm về nơi ra đời của chúng. Ngày hôm sau, từ nhà anh chị Thanh ra bến cảng Seattle
khá xa, số người đi khoảng 30 người nên từ đêm hôm
trước, mọi người đã phải chuẩn bị hành trang để
sáng hôm sau lên đường. Có lẽ đây là một trong những
chuyến Cruise cuối cùng trong năm vì cứ hết tháng Chín, những
chuyến Cruise đi Alaska tạm ngưng cho đến đầu mùa hè sang năm,
lý do dễ hiểu là miền Bắc Cực mùa đông đến rất
sớm, chỉ cần tuyết rơi vài trận là đường xá đóng
băng, những con đường đi lên núi sẽ không vận chuyển
được. Một chuyến xe bus mới đủ chỗ đưa mấy chục người ra bến
cảng, đây là lần đầu tiên tôi được thấy du thuyền
Princess đồ sộ như một cao ốc khổng lồ đang nằm
chờ khách trên bến tàu. Mãi xế chiều tàu bắt đầu
chuyển mình ra khơi, biển rẽ sóng đưa tàu đi vào vùng
Bắc Thái Bình Dương, gió thổi mạnh và sóng lớn nên
tàu lao chao lắc lư khiến nhiều người bị say sóng. Sóng cứ
tiếp tục lắc mạnh, nhiều người lảo đảo đi không vững,
càng ra xa các đợt sóng càng cao hơn và đánh mạnh vào
thân tàu. Cuối cùng khi tàu tiến ra biển Bắc Thái Bình Dương,
sóng cũng dịu đi và mọi người toả ra đứng dựa vào
lan can tàu nhìn ra mông mênh đại dương. Alaska là tiểu bang thứ 49 của Hoa Kỳ, rộng 591.004
dặm vuông với dân số khoảng bảy trăm ngàn dân, đó
là ước tính của nhiều năm trước, sau này có nhiều
người đã rời Alaska để lập nghiệp ở các tiểu bang miền
nắng ấm. Cũng vì khí hậu khắc nghiệt như vậy nên chính
phủ Hoa Kỳ đã có nhiều ưu đãi cho những cư dân ở
đây. Đường xa hằng vạn hải lý, con tàu cứ
thế phăng phăng lướt sóng, như một thành phố nổi có
đầy đủ tiện nghi và các thú giải trí như shopping, nơi
đọc sách, tỉa hoa bằng trái cây, casino , hồ bơi và nhà
hát. Sau 1 ngày 2
đêm tàu cập bến thành phố Juneau thủ phủ cuả tiểu bang
Alaska, biển xanh thẳm như mây trời xanh thẳm, Alaska trùng trùng núi
non và cây rừng. Khi mùa Đông qua xuân đến, khí hậu ấm
dần lên tuyết tan từ đỉnh núi, bao nhiêu nước chảy thành
những dòng thác nhỏ rồi tụ vào nhau thành nhiều con suối
rộng, ghềnh đá lởm chởm chất lên nhau nước tung bọt
trắng xoá. Thủ phủ của Alaska là Juneau, có khoảng gần
40.000 dân và kinh tế của tiểu bang là du lịch và hải sản.
Như một hòn đảo lớn nằm ở phía Bắc Thái Bình Dương,
hằng năm du khách đổ về đây thăm viếng khá đông,
và phương tiện giao thông đều bằng đường thuỷ. Rất tiếc khi đến đây đã
cuối hè, chúng tôi không được đi xe chó kéo trên
băng, nhìn ra phiá xa tuyết vẫn phủ trắng trên những ngọn núi
cao, băng vẫn đông cứng màu trắng lạnh lùng và xanh lơ của
nước biển. Lang thang một ngày trên phố, Alaska
bừng bừng lên sức sống vì phố núi xanh bóng cây như hớn
hở vẫy tay chào du khách, lên cao nhìn xuống biển phong cảnh thật
hữu tình. Tàu lại rời bến, và GLACIER là điểm đặc
biệt nhất của ALASKA mà ai cũng muốn biết, đó là những
tảng băng trôi trên biển lạnh. Buổi sáng hôm đó khi mặt trời lên đã thấy du khách
lên trên boong để ngắm băng sơn trôi trên biển. Nơi này
cách Juneau khoảng 90 dặm về hướng Bắc. Tàu chạy chậm lại,
mọi người đổ xô ra hành lang tầng trên của con tàu để
ngắm băng bập bềnh trôi từng tảng lớn, nhỏ trên mặt nước,
ai cũng phải suýt soa vì vẻ đẹp của thiên nhiên.Núi đá
trơ trụi mờ mờ trong sương in bóng xuống mặt nước biển
màu xanh lơ, Alaska có vẻ đẹp lạnh lùng hiếm có vì sơn
thuỷ giao hoà, sự tĩnh lặng câm nín của Núi khiến lòng
người trở nên tĩnh mịch. Không biết ai ra sao chứ riêng tôi
thì chuyến đi thăm ALASKA là chuyến du lịch thú vị nhất, thiên
nhiên đã ưu đãi cho vùng băng giá này nhiều cảnh
đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, vừa xanh tươi lại vừa
băng giá, hấp dẫn như một thiếu phụ chín muồi tuổi tình
yêu, cũng như sự từng trải của dòng đời. Núi non chập
chùng phản chiếu dưới làn nước biển, đỉnh núi lại
óng ánh màn tuyết trắng và ẩn mờ trong sương, bồng lai
tiên cảnh nào hơn! Tàu
trôi trên biển lừ đừ cho mãi tới sáng hôm sau lại đến
một thành phố khác mang tên là SKAGWAY, cách Juneau 90 dặm về phía
Đông Bắc. có nhiều núi băng và dân cư thật là thưa
thớt. Một cái lạ dù nơi nào lạnh lẽo cách mấy cũng
có dấu chân loài người tìm đến, có thể họ là
những thổ dân lâu đời đã quen sống ở xứ tuyết nên
không muốn đi đâu. Tuy vậy vào mùa hè, nhờ số du khách
đổ tới, có ngày tới ba con tàu cặp bờ mà số người
lên đến hằng chục nghìn. Cư dân ở đây sinh sống bằng
nghề săn bắt nai, gấu, chim ưng và ó biển, dưới nước
thì có cá hồi, cá voi. Đặc biệt trên bầu trời xanh thẳm
của núi rừng SKAGWAY, những cánh chim ưng bay lượn để tìm
mồi, cá hồi ngược nguồn chết trên sông suối là món
ngon của loài chim và gấu. Chỉ mấy tháng thôi khi vào đông
trời rét lạnh, những bóng chim cũng biền biệt bay về miền nắng
ấm…. Đây cũng
là nơi cách đây hằng trăm năm có những người tìm
đến khai thác mỏ vàng, vẫn còn dấu vết qua hình
ảnh bức tượng hai người đi tìm vàng thuở ấy. Nay mỏ
vàng không còn nữa, lớp sóng người tiên phong đi về miền
băng giá đã chôn vùi trong quá khứ, nhưng cư dân vẫn
sống bằng nghề chài lưới, săn bắt thú rừng, hải cẩu
và cá salmon thì nổi tiếng trên thế giới. Chúng tôi lên kịp chuyến xe lửa ì ạch
chạy từ biển lên núi, điểm cuối cùng gặp nhau là biên
giới giữa Canada và Hoa Kỳ, có những lá cờ bay phất phới. Nhìn
cảnh này mới thấy sự tôn trọng chủ quyền biên giới của
các nước khác xa với quê mình khi lãnh đảo, lãnh hải
đang bị nước lân bang xâm lấn.Mặc dù chuyến “tour”
xe lửa không rẻ lắm nhưng nghìn năm một thuở mới tới đây,
đặc biệt hơn nữa là khi tàu lên cao dần theo triền núi
thoai thoải, du khách tha hồ nhìn ra phía xa hay nhìn xuống dòng sông,
thác đổ trong rừng cây hay những ngọn núi nửa chìm trong mây,
nửa phô mình thả xuống những dòng thác bạc. Chuyến về
con tàu chầm chậm đi xuống, lại có dịp nhìn về phía trong
vách núi, mới thấy cơ man nào là những cây thông nhỏ
xíu mọc cheo leo trên triền núi, nhỏ xíu như những cây “bonsai”
mà lại chi chít vào nhau như một cánh rừng. Ấy là vì
vào mùa hè khi tuyết tan thành suối, thác đổ trắng xóa
hay nước ẩm ướt mà cây đâm chồi nảy lộc từ khe
núi, lâu năm còi cọc cũng chỉ có thế thôi, nhưng vẫn
kiên gan cùng tuế nguyệt. Thiên nhiên ưu đãi cho Alaska một mùa hè thật
tươi tắn, y như cô gái sau mùa đông trút bỏ lớp áo
ngự hàn, để phô bày nhan sắc mượt mà hấp dẫn. Bây
giờ là lúc đi xem cá hồi thiên nhiên bơi lội trong các
dòng suối cạn. Từng đàn cá hồi không biết ở
đâu chen nhau bơi ngược trên dòng nước, hoặc trên lòng
suối nhỏ nằm ngay trong thành phố, xung quanh nhà cư dân cũng có
những dòng nước chảy, những con cá hồi vất vả quăng mình
lên những tảng đá nhỏ để ngược nguồn, rổi lại
bị nước đẩy ngược xuống, nhiều con chưa kịp làm tổ
đẻ trứng thì đã tiêu diêu miền cực lạc, thoi thóp
thở và lịm dần trong lòng suối. Nhìn cá mà lòng rưng rưng sầu, tự nhiên mọi người
liên tưởng đến những con tàu vượt biển năm xưa nhỏ
bé như chiếc lá tre lênh đênh giữa biển cả, bao nhiêu nguy
hiểm chờ đón y như đàn cá hồi đang lao đao
trên dòng nuớc ngược. Có tiếng than trong đám người vây
quanh bờ suối: “Trời
ơi, sinh chi mà khổ thế này?” Có ngưòi không hiểu cám cảnh
sao đó, nghĩ cá ra người nên kêu lên như tiếp hơi cho
con cá đã cố mấy phen mà không sao qua được triền sóng: “ Cố lên,
lạy trời cố lên, tội nghiệp!” Nghe như tiếng kêu cầu của người dân Việt bỏ
xứ ra đi tìm tự do năm nào đang lao đao trên biển cả.Ai nấy
đều cảm động và tự dưng nhớ lại những năm tháng
đã qua trong dòng đời, Nhìn con cá hồi chết trong dòng nước,
người đa cảm chắc không khỏi rưng rưng nước mắt, trong
nỗi đau sót đầy cảm thông, như kiếp Nhân Sinh lắm nỗi
đoạn trường. Có người nghĩ sao cá không ở biển mà
sinh sản , quay về làm chi để chết thảm chết sầu? Tại trời
sinh con cá phải quay ngược nguồn để bảo tồn nòi
giống của cá, như con người dù đi đâu ở
đâu lòng vẫn hướng về quê cha đất tổ. Những ngày vui qua mau, mọi người lại
theo con tàu trở về cao nguyên tình xanh, rồi lại bay về tổ ấm.
Bỏ lại Alaska hình ảnh những con cá hồi chết trong lòng suối
và nỗi ngậm ngùi còn nguyên trong lòng. Thôi thì viết lại
tâm sự qua bài thơ Chuyện Con Cá Hồi Vượt Sóng, gửi vào
giữa mênh mông để ai muốn nghĩ sao cũng được: Chuyện
Con Cá Hồi Vượt Sóng
Tôi ngẩn ngơ ngồi bên bờ suối Alaska chiều mây viễn phương Dưới khe, đàn cá hồi vượt
sóng Ngược dòng,
tất tả về quê hương
Nước chảy, từ trên nguồn
đổ xuống Cá quẫy ven bờ ngược nước lên
Vài thân cá
chết vương ghềnh đá
Gửi nắm xương tàn trong lãng quên Chuyện kể rằng, con cá hồi nước ngọt
Một ngày
kia, bỏ xứ ra biển Đông Biển
phong ba nhưng vẫn là biển rộng Suối thân quen nhưng suối rất hẹp
long . . . . . . . . . . . . . . Bến cũ xưa, nay nhuộm màu hoang phế
Cá ra khơi rồi đến lúc
quay về Đời vẫn thế xoay vần cơn dâu bể
Cá nhớ nguồn, trở lại để
sinh sôi Rồi một ngày,
nhớ lại thuở nằm nôi Chiếc
võng đu đưa Lời
mẹ ru buồn não nuột Dẫu
một đời cá vẫy vùng bốn bể Vẫn nao nao một chốn để quay về Giữa biển xa u uẩn một dòng sông Sóng vỗ sóng, bạc đầu vì
thương nhớ Rồi
một ngày, cá chạnh nhớ quê xưa Bơi
ngược sóng, tìm về nơi cố xứ
Trong lau lách, chim kêu lời báo
tử Đá ngậm ngùi bật khóc giữa
hoang vu Khóc con cá hồi
chết trên dòng nước Ngược
sóng tìm đường quy cố hương Hoá ra cá đã quen mùi biển Trời nước mênh mông lòng đại
dương
Tôi nhìn cá chết trong lòng suối
Dẫu về, nhưng có sống được
đâu Thoáng thấy bóng mình in đáy nước
Mới đó mà nay đã bạc
đầu ... Nguyên Nhung, tháng 9 năm 2009. ( Bút Ký này sẽ in trong tác phẩm “Bức
Tranh Thêu Bản Đồ Nước Mỹ,2014)
NHỊP THỞ THỜI GIAN Thơ & PPS: NGUYÊN
NHUNG "Mời bạn
vào xem những tấm hình, thêm những vần thơ nho nhỏ. Mỗi một tấm ảnh đối với tôi
gói gém một không gian và thời gian khi bất chợt cảm nhận
được trong đời sống" To access this shared file, visit this link: https://app.box.com/s/euqx1gs34l687w78r34m
" XÓM NHÀ LÁ"
Nguyên Nhung
" Xóm Nhà Lá" trong cái
lớp học của tôi ngày xưa, không có nghĩa để phân biệt
sự giàu nghèo như thế giới của người lớn, mà
chỉ là mấy dãy bàn trên và dưới trong lớp học ở
lứa tuổi học trò hồn nhiên vô tư lự. Xóm Nhà Lá
chỉ là biểu tượng cho một lũ học trò khoảng tuổi mười
lăm, mười sáu, ngồi chung với nhau nhiều lắm là hai
dãy bàn sát nhau, bàn trước và bàn sau, đếm được
khoảng 7,8 đứa. Xóm Nhà Lá cũng không hẳn là những cô học trò ngồi
ở dãy bàn cuối lớp, chỗ ấy mấy đứa cẳng dài luôn
bị dồn xuống đó, để mấy đứa nhỏ con, lùn tì
không phải mỏi cổ khi nhìn lên bảng đen. Thường ai cũng nghĩ
khi ngồi xa tít mù khơi như vậy, bọn học trò dễ quay phim
và ăn vụng, học hành lem nhem nên tránh đối diện với bàn
thầy cô. Nhất là những đứa học giỏi bao giờ cũng chen chân
vào hai dãy bàn ở trên cùng, phía tay trái ngay bàn thầy
nhìn xuống, hoặc ở giữa lớp, còn ở cửa lớp bước vào,
tuy là bàn đầu nhưng cũng có thể thuộc vào thành phần
Xóm Nhà Lá vì dễ "dzọt " ra cửa. Số tôi tuổi Trâu, bà con với con
bò, nên vì thế khi vừa oe oe cất tiếng khóc chào đời,
lão thầy bói đã đoán tuổi này có số đi cầy,
"ngu như bò" nên cả đời ngon lắm cũng chỉ có cỏ
nhai. Nhưng để an ủi số phận tuổi con trâu cày bừa vất vả,
thầy còn tán thêm với mẹ tôi rằng tuy con trâu, nhưng cũng
có người ẩn con trâu "dzàng", hễ may nhờ phước đức
ông bà, ẩn được tuổi trâu "dzàng" là mát mẻ
tấm thân, tuy ăn cỏ nhưng quanh năm nhàn nhã. Hổng tin xin mời
quý vị cứ quan sát cách "nhơi" cỏ của trâu nằm chuồng
là thấy ngay được vẻ "an nhiên tự tại" đó: mắt
lim rim, miệng trâu đưa lên đưa xuống nhai nhóp nhép như ăn
trầu, vẻ mặt bất cần đời của trâu cũng y hệt mặt tôi
mỗi khi trên dòng đời gặp cảnh không may . . . Đến nay qua tuổi tri thiên mệnh, tôi mới
ngẫm nghĩ lại rằng lão thầy bói nói đúng khi an ủi tôi
là tuổi "con trâu dzàng" nằm nhơi cỏ. Sự thật
hồi còn nhỏ tôi nghe nói vậy nên cũng cố gắng vươn
lên, bằng cách năm nào đầu niên học, cũng chạy đến
lớp thật sớm, leo lên bàn đầu ngồi chình ình một đống.
Bụng cứ nghĩ đơn giản theo sự dành giựt ở cõi
đời nhiều bon chen, hễ ai xếp hàng trước thì ưu tiên trước.
Lớp học tôi không có kiểu bon chen như vậy, nên số tôi không
khá, xung quanh tôi toàn là mấy đứa nhỏ con, loại ưu tiên
một, sau đến mấy đứa học giỏi thích ngồi gần Thầy Cô
để được đèn Giời soi sáng, tôi len vào đó có
khác gì chim sẻ đòi vào bầy với chim công, chim phượng. Đang ngồi hiu hiu tự đắc rằng phen này
nhất quyết đời đi lên, dù sao ngồi ở bàn đầu, thầy
cô chiếu tướng suốt nhiều giờ học, mới mong cải được
số "ngu như bò" của mình. Thiện chí như vậy
mà cũng không được, đúng là giày dép có số
thì con người cũng có số, như bây giờ tôi dốt
nát không làm nên "ông to bà nhớn" thì lỗi
ấy cũng tại ông Trời đó nghe. Tôi nín thở ngồi bàn
đầu, không dám cục cựa nhúc nhích sợ mình thở mạnh
là nó to ra như con bò, chưa gì đã nghe tiếng dõng
dạc của Thầy ban xuống: "
Em kia, bự con sao lại ngồi bàn đầu. Ôm tập vở xuống bàn
dưới." Theo ngón tay thầy
chỉ thì hỡi ơi, cái bàn ấy áp chót, có mấy đứa
cao lêu nghêu ngồi ở đó. Lũ nhóc ngồi xung quanh cười ầm
lên khoái chí, loại trừ một tên dốt như bò đi xuống
đúng nơi đúng chỗ, mấy đứa học giỏi "Xóm Nhà
Lầu" háy nhìn tôi ra điều không biết thân biết phận.
Tôi buồn bã ôm cặp vở len ra khỏi dãy bàn đầu sát
bàn thầy cô, vừa mắc cỡ vừa buồn bã. Âu là số mệnh.
Tôi tin con người có số ngay từ lúc đó, từ
hồi đi học thì đã có số học giỏi, học dốt rồi,
dù có chăm cách mấy mà lời thầy dạy chỉ đi vào
đến vùng ven của cái đầu rồi ngừng ở đó, thầy
nói thầy nghe, tôi có nghe nhưng không hiểu chi hết. Lũ bạn ở bàn dưới miễn cưỡng
tiếp nhận tôi vào Xóm Nhà Lá, tôi lại bị hiểu "nhầm"
thêm một lần nữa, cảm nhận được cái nhìn không mấy
thiện cảm, ý nói tôi dám leo trèo qua xóm nhà lầu mà
không biết lượng sức. Thực ra đó chỉ là ý nghĩ nông
nổi của tuổi học trò mà thôi, chứ đối với các Thầy
Cô thì lúc đến giờ "quay" bài đầu giờ học, theo
thói quen thường để ý đến những cư dân xóm nhà
lá, chứng tỏ các Thầy cũng đâu hẹp hòi mà bỏ rơi
tụi tôi, hay chỉ thương mấy đứa nhà lầu học giỏi. Chỉ mấy hôm là đâu vào đấy.
Xóm nhà lá toàn dân cao giò, to con, ngồi một bàn cũng như
người ta mà sao chật ních, nhất là lại gặp mấy đứa
"sổ sữa" như tôi mà ngồi chung bàn, thì ôi thôi quay
ngang quay dọc thế nào cũng đụng nhau. Lũ học trò làm quen với
nhau thật nhanh, chỉ vài hôm nhờ nụ cười thân thiện đã
khiến chúng tôi nhích lại gần nhau như chị em một nhà. Xóm
Nhà Lá coi vậy tinh thần đoàn kết cao, đến giờ kiểm tra
bài tập, hay có món gì ăn vụng được để dưới
hộc bàn, chúng tôi chia cho nhau, bài cùng chép, ăn cùng chia,
tinh thần tương trợ này không xóm nào trong lớp có được
như Xóm Nhà Lá. Đừng
tưởng Xóm Nhà Lá chỉ là những dãy bàn hẻo hút,
thân phận hẩm hiu ngồi ở dãy bàn chót mới gọi là Nhà
Lá. Nó có thể nằm ở giữa lớp học, hoặc ngay hai dãy
bàn đầu từ cửa lớp bước vô, nhưng bao giờ cũng không
bị Thầy cô chiếu tướng trong sự thương yêu như tụi nhà
lầu ở dãy trên cùng phía trong. Cư dân Xóm Nhà Lá chưa
hẳn đã học dốt, thông minh nữa là khác, nhưng ham chơi hơn
ham học mà thành dốt, phải cùng một tần số "Quậy",
phải biết luật giang hồ là không ích kỷ, không bỏ rơi bạn
bè mỗi khi làm bài kiểm tra, bạn nào đi học quên không
đem theo học cụ thì phải tương thân tương trợ ngay tức
khắc. Hồi xưa lũ con gái đi học đến tuổi "kéo cờ
đỏ" mỗi tháng, nếu chẳng may có đứa nào
gặp nạn thì cả lũ sẽ làm Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt
Nga, khi tan học hộ tống đằng trước đằng sau đưa bạn về
đến tận nhà, sợ tà áo trắng của bạn phất phơ theo
gió mà "phe kia" nhìn thấy bông hoa hồng đỏ thắm phía
sau tà áo. Năm đó,
sau một tháng đầu năm học thì có một nhỏ lạ hoắc
ở đâu chuyển về lớp hơi trễ nên dù nhỏ học giỏi
con nhà Quan thì khu nhà lầu cũng không còn chỗ . Chỉ còn
một chỗ trong khu nhà lá, con nhỏ được thầy chỉ thị vào
ngồi bàn của tôi. Lịch sự như Tây, tụi tôi nhích vào
trong để nhường chỗ cho nhỏ bạn mới đến, chứ đúng
ra thì nó phải chui vào ngồi trong cái hốc sát vách. Thế
nhưng con nhỏ này không có vẻ gì biết ơn và biết điều
với tụi tôi cả, mặt nó vênh vênh, lạnh lùng ôm cặp
ngồi ngay đầu bàn, không nhếch miệng cười làm quen hay cầu
thân, cũng không cảm ơn những người bạn mới đã tiếp
đón mình một cách ân cần như vậy. Sau buổi học, theo dõi thì mới biết nhỏ "kiêu
kỳ" này làm phách vì nó thuộc loại "con ông cháu
cha", đi học có xe đưa xe rước, tài xế lúc nào cũng
chực sẵn ở cổng trường đợi tiểu thư tan học. Những đứa
con cưng nhà giàu thường mang theo tinh thần kiêu kỳ ấy vào đời,
đó là chuyện tự nhiên như cái số mệnh con người mà
tôi đã đề cập ở trên. Sau này tụi tôi hiểu thì
ngoài cái "mác" con Quan, nhỏ còn học giỏi nữa,
nên khi đến chậm phải chung đụng với bọn nhà lá chúng
tôi thì tự nhiên bất mãn ra mặt. Bắt đầu từ đấy
khi có sự hiện diện "bất đắc dĩ" của nhỏ, không
khí Xóm Nhà Lá tự nhiên không còn vui hồn nhiên như
dạo trước, chỉ xì xào nói lén con nhỏ kênh kiệu ở
đâu nhảy vào phá mất cái vui của xóm nhà lá . Tụi tôi liền quyết định đặt tên
cho nhỏ là "Tiểu Thơ", dựa theo truyện thơ Lục Vân Tiên
của cụ Đồ Chiểu,con nhỏ mang hỗn danh "Tiểu Thơ" cũng biết
thế nhưng không làm gì được đám ma cũ Xóm Nhà
Lá. Tiểu Thơ mặt mũi lạnh lùng, chỉ nói khi cần, quần áo
lúc nào cũng phẳng phiu, trước khi ngồi xuống ghế bao giờ Tiểu
Thơ cũng nhẹ nhàng thả vạt áo dài ra đằng sau. Tinh thần
đoàn kết của xóm nhà lá như tôi đã kể vẫn
muôn năm, chúng tôi học được tính không ích kỷ, biết
chia xẻ với bạn bè lúc hữu sự, khi lớn lên vào đời
cư dân Xóm Nhà Lá vẫn thể hiện được tình yêu
thương đối với nhau, dù kẻ chân trời người góc bể. Tính ích kỷ của Tiểu Thơ hiện rõ
nhất trong những giờ làm bài kiểm tra, bây giờ nghĩ lại tôi
mới thấy lớp học năm xưa cũng là một xã hội thu nhỏ,
ông Trời sinh ra con người cũng đã sắp sẵn cho mỗi người
một bản chất xấu, tốt khác nhau. Tôi có thể kết luận như
"đinh đóng cột" rằng, sau mấy chục năm ra đời, đàn
chim non tản mát khắp nơi, bây giờ thành những con chim già mỏi
cánh, trụi cả lông lá mà bản chất con người ra sao thì
vẫn y chang vậy. Tiểu Thơ là một trường hợp điển hình,
nhưng cũng may là hiếm có trong thế giới học trò, nên bây
giờ còn lại được một ít bạn cũ, không bao giờ chúng
tôi được gặp lại bóng dáng Tiểu Thơ. Tôi còn nhớ mồn một buổi kiểm tra
bài sử địa của thầy Đức. Ông là một ông thầy
mà tôi nhớ nhất trong các vị giáo sư, ở những bài thơ,
câu chuyện liên quan đến lịch sử, hay chỉ là chuyện đời
mà trong lúc giảng bài, thầy hay kể hoặc đọc cho chúng tôi
nghe: " Công hầu bạch cốt, hồng
phấn khô lâu" Hay một
câu đối đáp lịch sử đáng ghi như sau: " Ai công hầu, ai khanh tướng,
đường trần ai ai dễ biết ai. Thế chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế
thế thì phải thế." Những
câu này đi vào tâm hồn non nớt của lũ học trò, sau này
với chiều sâu của đời sống chúng tôi càng nhận ra được
ý nghĩa vô cùng thâm sâu của nó. Bây giờ quay trở lại
giờ kiểm tra hôm đó của thầy Đức, đó là một
buổi chiều trời mưa rất âm u, ngọn đèn điện mờ mờ
ảo ảo không đủ sáng cho lớp học, nếu không nhờ ánh
sáng tự nhiên hắt vào lớp học từ những khung mắt cáo.
Những giờ kiểm tra như vậy đối với đám học trò học
"lơ tơ mơ" Xóm Nhà Lá quả rất gay go, nhưng
đối với Tiểu Thơ thì hình như là lúc để nhỏ
phô bày sự thông minh, chăm học của nhỏ. Lúc bấy giờ tự
nhiên cái bàn tôi ngồi bỗng rộng rinh, ba đứa ngồi trong xích
vào gần nhau hơn, mắt chớp lia, miệng lào xào thì thào như
trời thu lá rụng. Tiểu Thơ xích ra đầu bàn,
càng cách xa tụi tôi nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Phía
tay trái của Tiểu Thơ là đầu bàn, lại là đường
đi nên không còn xích xa hơn được nữa, nhưng phía bên
tay phải của nhỏ thì được phòng thủ như công sự chiến
đấu, bao nhiêu cuốn tập, cuốn sách lớn nhỏ được chất
lên chiếc bàn chật, che kín trang vở học trò vừa được
lấy ra từ tập vở để làm bài kiểm. Chưa hết, Tiểu Thơ
còn muốn dùng luôn cánh tay để thủ một khoảng rộng cho
đám bạn Xóm Nhà Lá không liếc được mắt vào,
dĩ nhiên cư dân xóm nhà lá đầy tinh thần tự trọng,
không ai cầu cứu đến Tiểu Thơ dù làm bài khó cách
mấy. Hôm đó Tiểu Thơ là người đem nộp bài cho Thầy
sớm nhứt, khi trở lại chỗ ngồi trên môi không quên nở một
nụ cười tự mãn. Công sự
"ấp chiến lược" của Tiểu Thơ được thu
gọn lại trống trải, lúc đó Tiểu Thơ mới đưa mắt
nhìn quanh để quan sát các bạn đang vật lộn với bài kiểm.
Và trong cái không gian im phăng phắc của lớp học, Tiểu Thơ bắt
đầu "méc" thầy khi phát hiện được sự quay, cóp
rải rác của các bạn ở bàn khác, khiến thầy Đức
thay vì khen Tiểu Thơ "báo cáo" giỏi lại đâm bực mình
vì cô học trò tính ích kỷ. Thầy lại chỗ
ngồi của Tiểu Thơ rồi khỏ nhẹ lên đâu nhỏ: "Nhiều
chuyện quá!". Tiểu Thơ chỉ học có năm đó rồi không
biết sao sang niên học mới cũng biến dạng, chắc ba của Tiểu Thơ
lại đổi đi nơi khác. Đó là một loại cá biệt
trong thế giới học trò, làm méo mó đi trong con tim not nớt của
lũ học trò tụi tôi chút kỷ niệm thời đi học. Những ngày gần Tết là những ngày
vui nhất của cư dân Xóm Nhà Lá, thiệp Xuân tự làm theo
lối thủ công được trao nhau như bươm bướm, buổi liên
hoan tất niên bao giờ Xóm Nhà Lá cũng đóng góp tài năng
sung mãn nhất. Tuy không thuộc thành phần học giỏi của lớp,
nhưng nói về những bộ môn khác Xóm Nhà Lá chẳng thua
ai. Văn chương, thơ thẩn, báo tường được bàn tay năm
ngón của Xóm Nhà Lá góp sức, đơn ca hợp ca được
diễn lùng tùng xèng trong sự thán phục của các Xóm khác
trong lớp học. Nhất là sau buổi học cuối cùng, cả bọn kéo
nhau ra bến Ninh Kiều làm dăm tấm hình kỷ niệm, nhờ vậy sau này
khi về già, trên bước đường đời cũng còn đôi
đứa giữ lại được hình ảnh cũ. Thời gian thấm thoát qua đi, mới đầu niên học chưa gì đã
đến cuối năm, khi bước qua Đệ nhị cấp thì Xóm Nhà
Lá ngậm ngùi chia tay nhau theo các ban A, B, C tùy theo khả năng của mỗi
bạn. Cư dân Xóm Nhà Lá thường thích học Ban C, tưởng
là được Chơi nhiều hơn học, văn chương vốn sẵn tính
trời không học cũng biết nhiều, không có môn Toán nhức
đầu mà đứa nào cũng sợ. Bước qua tuổi "mười
bảy bẻ gãy sừng trâu", đám con gái nhóc nhách ăn
quà, hay chạy nhảy năm xưa bây giờ trông điệu
đà hẳn ra, cô nào cũng mình hạc xương mai, đi đứng
chậm rãi từng bước chân âm thầm trên những nẻo đường
tới trường, làm lác mắt mấy bạn trai học trường kế
bên. Lớp nào cũng có Xóm Nhà Lá và Xóm Nhà Lầu,
đến bây giờ thì lớp học lại thêm một xóm nữa được
đặt tên là Xóm Giai Nhân.
Xóm này qui tụ toàn người đẹp của lớp, khi tan trường
lúc nào cũng sẵn một dàn xe Honda, xe Jeep đậu ngoài cổng Trường
để đưa người đẹp về dinh, hay lang thang đi uống sinh tố,
mì thập cẩm. Xóm Giai Nhân vì vậy mà học hành rất ...yểu
điệu, trong cặp ngoài sách vở thế nào cũng có vài bức
thư tình dấu trong tập vở. Xóm Nhà Lá chỉ giương mắt
lên mà chiêm ngưỡng và thán phục, khá khen thay cho các thầy
giáo trẻ nào lòng "khô như ngói", không hề rung rinh một
ly ông cụ trước một rừng hoa đầy hương sắc. Xóm
Giai Nhân vì bận rộn chuyện tình yêu, lắm người đưa
kẻ đón nên có khi đang học đã bỏ ngang để lại
một chỗ ngồi trống trải trong lớp học, lên xe hoa về "nâng
khăn sửa ví" cho một anh hùng súng ngắn, súng dài nào
đó. Thực ra chẳng có tuổi nào hồn nhiên và trong trẻo
như tuổi học trò, nên sau một vài năm làm phu nhân, các
giai nhân tuổi học trò sắc đẹp có đẹp hơn
chăng nữa, cũng khó tìm lại được nét ngây thơ trong
sáng của tuổi học trò năm xưa. Xóm Nhà Lá chơi cùng chơi, học cùng học nên
vì thế tuy không sao bì được với các bạn ở Xóm Nhà
Lầu, không đẹp như Xóm Giai Nhân nhưng chắc hẳn cái vui tuổi
học trò trọn vẹn nhất. Mùa nào chơi theo mùa nấy, Giáng
Sinh, đường phố đông như chảy hội cũng có Xóm Nhà
Lá rủ nhau đi vòng vòng nhà thờ dù đa số là con chiên
ngoại đạo. Gần Tết khi mùa mận , mùa xoài, một lũ đạp
xe vô vườn cột áo dài, leo cây vặt trụi mấy cây mận
trong vườn một bạn đồng lớp, chẳng hiểu khi lũ quỷ ma học
trò đi về, nhỏ bạn có bị cha mẹ rầy rà vì tội phá
phách vườn tược như khỉ không? Chỉ biết là những kỷ
niệm ấy nằm mãi trong tâm tư, mỗi khi hồi tưởng về quãng
đời học sinh, bao nhiêu hình ảnh bạn bè năm cũ hiện về
làm sống lại trong lòng niềm vui của tuổi xanh. Trong khi đó, các bạn Xóm Nhà Lầu như
"cá chép vượt vũ môn" leo lên Đại học, lần lượt
ra trường để nắm được những chỗ đứng ngon lành trong
xã hội, Xóm Nhà Lá cũng có những bạn chịu khó ngoi
dần lên với đời. Người công chức, đứa tần tảo bán
buôn, đứa thư ký đánh máy, đứa thợ may thợ thêu,
đứa nội trợ, đứa nào cũng sống được
qua ngày nhờ tính biết an phận thủ thường, đa số không đến
nỗi nào chỉ trừ những bạn hồng nhan bạc phận, sau năm 75, lại tái ngộ nhau ngoài
chợ đời để kiếm miếng cơm manh áo trong thời buổi khó
khăn. Ở bất cứ môi trường
nào, Xóm Nhà Lá vẫn giữ được tinh thần "tương
thân tương trợ " hiếm thấy, cho dù khi tuổi còn thơ ngây
trong lớp học, khi ra đời bươn chải tìm sống giữa thời buổi
"gạo châu củi quế", tình nghĩa con người trắng đen thay
đổi khó lường. Nhưng Xóm Nhà Lá không ích kỷ vơ
hết nồi cơm cho nhà mình, vẫn chia xẻ với bạn tận tình
như ngày còn thơ chia cho nhau miếng ổi, trái chùm ruột dấu
trong cái hộc bàn con con trong lớp học. Có dịp thấy đôi bạn thuở học trò ở giai
đoạn nghèo khướt ngồi bên nhau trên mảnh ni lông trải dưới
nền đất ẩm, kiếm gạo nuôi chồng con mới thấy được
cái tình cảm trân quý bắt nguồn từ thời đi học. Những
bông hoa phượng vẫn tả tơi rơi xuống thảm cỏ ven bờ sông,
mới héo hắt mà nhớ hoài tuổi học sinh vô tư lự. Cô
bạn cùng lớp năm xưa tuy không thuộc Xóm Giai Nhân, nhưng cũng
một thời hương sắc lên xe xuống ngựa, vậy mà sau những năm
vất vả đói kém ấy, mặc tấm áo vá ngồi bán buôn
giữa chợ đời, không thương sao được. Nhà hết vốn,
chồng tù tội, chẳng còn cách xoay xỏa bạn lột bán mái
tôn nhà bếp để có chút vốn nuôi con. Đến nhà bạn,
trời mưa lâm râm mà căn bếp khói xông mù lên cay ướt
mắt, bạn đội nón lá đứng nấu cơm chiều, cơm không
thấy đâu chỉ thấy ba đứa trẻ ghẻ lở ngồi quây quanh
rổ khoai lang để dưới thềm xi măng ở nhà trên. Chắc chỉ
có bạn bè Xóm nhà Lá mới có thể hiểu nhau, chia xẻ
với nhau đến giọt nước mắt tận cùng của cái nghèo
như vậy. . . Tôi không ca
tụng Xóm Nhà Lá của tôi đâu, hỡi những người bạn
đồng trang lứa năm xưa trong ngôi trường dấu yêu thuở ấy,
nhưng tôi luôn luôn ghi nhớ trong lòng cái tình thương yêu
của chúng mình tuổi học trò. Đến bây giờ những bạn
bè Xóm Nhà Lá năm xưa đã tan tác mỗi người mỗi
nơi mỗi ngả, nhưng nếu tin vào số mệnh thì dường như
ông Trời không đến nỗi bất công để cư dân Xóm
Nhà Lá năm xưa cả một đời lận đận. Dù rằng giờ
đây ở tuổi này, bạn H. chịu căn bệnh ngặt nghèo nằm
một chỗ trên giường bệnh, cuối cùng phải nhờ những viên
thuốc giải thoát thân phận làm người, dù bạn S. giờ này
vẫn một thân một mình đơn lẻ chiến đấu với sự
nghèo túng để sống qua ngày, MV chắc tóc đã bạc phơ,
trời còn mờ đất đã thức dậy nhen lửa để nấu quà
sáng bán cho người nghèo trong xóm. Vâng, các bạn Xóm Nhà Lá của tôi dăm đứa may mắn
sang được xứ sở tự do, giờ này ai cũng gia đình đầm
ấm no đủ. Đứa New York, đứa Houston, đứa San Jose, đứa
Wisconsin, chúng tôi vẫn không bao giờ bỏ rơi đám bạn Xóm
Nhà Lá của mình ở quê nhà. Của ít lòng nhiều năm
nào cũng có món quà gửi về gọi là an ủi, xẻ chia với
các bạn, như ngày xưa chia cho nhau trái mận đỏ, miếng ổi,
miếng bánh bò trong hộc bàn lớp học cũ. Tôi hoàn toàn
hãnh diện mình được là cư dân "Xóm Nhà Lá"
của lớp học năm xưa, dù trong thời cắp sách, đã có
lúc ao ước được lạc bước vào "Xóm
Nhà Lầu" hay là ngưởi đẹp của "Xóm
Giai Nhân." Xin gửi riêng đến
các bạn Xóm Nhà Lá năm xưa trong lớp học cũ của tôi
mấy vần thơ sau đây: " Dẫu có đi, về nơi
cõi khác Vòng quay sinh tử , vẫn vô tư Mốt
mai có gặp nhau lần nữa Thì vẫn ân tình như thuở
xưa." Nguyên Nhung __________________________________________
Niềm Vui Của Mỗi Ngày
☼Bình Minh Mỗi
buổi sáng như một cái đồng hồ đúng giờ, tôi lóc
dậy lúc 7 giờ. Việc đầu tiên là ra vườn tưới cây.
Mùa hè trời nóng lắm, hôm nào cũng khoảng ngoài 90 độ
F, nhưng cái nóng của ngoài trời lúc ban trưa cho người ta cảm
tưởng nhiệt độ lên tới cảtrăm độ. Chịbạn
thân cũng thích trồng hoa kiểng, hôm đầu Xuân tặng cho tôi
một cây đào, giốngđào này hiếm vì là đào
Nhật Tân Hà Nội, có màu hoa đỏ thắm chứ không phải
đào hồng như ở đây. Nhìn hoa nở thắm trong vườn nhà
chị hôm đầu Xuân, tôi cũng mơ ước ởsân sau nhà,
mình sẽ trồng được một cây đào xum xuê, mùa hè
che bóng mát cho mảnh sân nhỏ và sau những ngày Đông buốt
gía, sẽ tìm được mùa Xuân rực rỡ trong mảnh vườn
nhỏ của mình. Nhưng da tôi lại hay bị dị ứng
với ánh nắng mặt trời, nên khi ra vườn tưới cây vẫn
phảiđội mũ và đứng dưới bóng một cây cao để
tránh nắng. Buổi sáng nắng chưa gay gắt, gió thổi hiu hiu nên
mát rượi, nhìn cây đào lớn lên phơi phới tôi ngửa
mặt lên trời, bầu trời xanh điểm xuyết những bóng mây trắng.
Tôi thầm nghĩ đến chuyện phải cảm ơn trời đã cho tôi
hưởng không khí trong lành của một bình minh êm ả, đã
cho tôi chút gió mát để tâm hồn yêu đời phơi phới,
và phải cảm ơn cô bạn nữa vìđã tặng cho tôi cây
hoa quý, như đã cho tôi một mùa Xuân giữa những ngày đầu
hạ. ◙Nhổ Cỏ Mỗi buổi sáng đẹp trời như thế, nhổ
cỏ cũng là một cách tay chân hoạt động và đổ mồ
hôi thải bớt những chất độc trong người. Cỏ
đối với tôi không phải là kẻ thù nếu như nó được
mọc thành bãi, một bãi cỏ xanh trong một ngày đẹp trời,
để mình nằm thả dài trên sân cỏ mà nhìn trời xanh,
chẳng thú lắm sao! Nhưng cỏ mọc lẫn lộn trong hoa, sự
phát triển của nó nhanh cấp kỳ vì được tuới tắm mỗi
ngày. Tôi cũng đâu ích kỷ với Cỏ, nhưng muốn cho hoa tăng
trưởng được thì phải nhổ cỏ. Thôi đừng lười
biếng nữa, nhổ những cây cỏ non sống nhờ dưới thân hoa, là
một việc dễ dàng hơn là cứ để nó tự do lớn mạnh,
khi ấy rễ của Cỏ đã bám sâu vào đất, tôi sẽ
mất công lắm! Vừa nhổ cỏ tôi vừa nghĩ. Ừ
nhỉ, chất chồng trong tâm tôi cũng bao nhiêu cỏ dại, hãy dùng
một chút thời gian để nhổ bớt đi những cây cỏ mọc không
đúng chỗ trong tâm hồn mình, đời sẽ đẹp như mảnh
đất trồng hoa đã quang đãng hơn vì không còn cỏ dại,
hay chỉ còn rất ít. ♥Vẫn Còn Xuân
Chán! Tôi có
một vài người bạn vong niên, tuy gọi bằng “Chị” nhưng
hơn tôi đến hai mươi mấy tuổi. Quen rồi, hồi mới sang Mỹ
chúng tôi ở chung một xóm, cùng học chung một lớp ESL dành
cho những người mới tới. Chị là vợ một nhà văn, ông
viết cho một số tạp chí ở hải ngoại, hình như người
đàn ông ấy có những đam mê khác bà vợ, sống yên
lặng trong nhà ít giao du với hàng xóm. Chị hay cười và suốt
ngày lúi húi với những cây hoa hồng lúc nào cũng đơm
hoa. Quanh năm, người phụ nữ gầy gò, mảnh dẻ
ấy chỉ lúi húi ở nhà bếp và mảnh vườn sau, không
thấy chị xen vào việc sáng tác của chồng. Từ trên lầu
của khu chung cư ngó xuống, lúc nào tôi cũng thấy chị bưng
, xách từng chậu hay sô nước để tưới hoa. Nước ấy
là nước vo gạo, nước rửa rau, nước lau nhà, khuôn mặt
chị dấu kín dưới vành nón rộng, nhưng tôi biết chị
rất thích và đam mê với hoa lá của mình. Những
bông hồng cứ nở hoa, dọc theo đường đi, ai khen hay thích xin chị
cũng sẵn lòng cho một cây nhỏ ương sẵn về trồng, hai mắt
chị cười tít lại, hạnh phúc như tỏa ra trên khuôn mặt
đã nhiều vết chân chim. Bẵngđi nhiều năm
từ khi tôi rời xa chốn cũ, hình như tôi vẫn nhớ nơi này
nhiều nhất vì nó đã chuyên chở giùm tôi biết bao kỷ
niệm. Căn nhà có khung cửa kính mở rộng nhìn xuyên suốt
ra ngoài, ven đường có hàng sồi lặng lẽ xanh biếc với thời
gian. Đi quá vào trong là một con suối có nhiều cây dâu dại,
những chiếc lá khô rơi xuống và thả mình trên mặt nước
như những chiếc thuyền con. Tình cờ tôi gặp lại chị trong
chợ, vẫn nụ cười tít mắt trên khuôn mặt đã nhăn
nheo với thời gian. Chị mừng nắm tay tôi rồi bảo: “Vẫn
Còn Xuân Chán!” Tôi bật cười: “Hơn
10 năm rồi mới gặp lại. Chị khoẻ không?” Chịcười,
giọng nói vẫn sảng khoái và vui tươi như ngày tôi dọn
nhà đi, chị ân cần bứng luôn một bụi hồng lớn màu
hồng nhạt để tặng tôi, thêm cây dạ lý hương cũngđang
nở hoa: “Vẫn Còn Xuân Chán! Mỗi ngày tôi
uống một vốc thuốc cho đủ thứ bệnh già, nhưng hễcòn
đi lại được thì tôi “vẫn còn xuân chán”. Ha
ha, từ đấy tôi và chị hay liên lạc lại với nhau, chị khoe
khi dọn về nhà mới chịcũng có một mảnh vườn trồng
đầy hoa hồng, nhưng bây giờ tuổi đời chồng chất đã
87 cái xuân gìa, con chị không cho chị bưng nước tưới hoa
nữa, chị dùng vòi nước tưới cây trong vườn, hoa cỏ
lên phơi phới. Mỗi lần nói chuyện với chị
qua đường dây điện thoại, tôi hình dung ra người phụ
nữcao tuổi ấy là một bóng cây cao tỏa bóng mát cho khu vườn
của chị, và cả tâm hồn người khác nữa khi tôi nhớ
tiếng cười ha ha của chị: “Vẫn Còn Xuân
Chán!” ☺Nghỉ ngơi Anh”Còm” của tôi cũng thuộc hạng
lão làng như tôi vậy, nhưng tôi quý anh lắm, bởi đã
quen nhau như người bạn thân thiết lâu năm, tri âm tri kỷ tri bỉ
là thế! Tính không thích thay đổi khiến tôi hụt hẫng hay
khó chịu khi phải sử dụng một cái máy mới, có lẽ tôi
không đuổi kịp sự văn minh của khoa học, như một người
già khó thích nghi với cách sống tân tiến của đám trẻ
bây giờ. Những khi ở nhà, tôi miệt mài bỏ nhiều
giờ với “người tình mặt vuông”. Khi thì viết, lúc
làm thơ, lúc làm PPS, khi lại loay hoay với mấy tấm hình, thú
làm PPS khiến tôi cũng say sưa chụp ảnh nghệ thuật và sưu
tầm, ráp nối nhiều tấm ảnh đẹp. Gọi là thú vui tao nhã
của tuổi già cũng được, vì tôi không phải cô đơn
trống trải một ngày dài, lại không tốn tiền ảnh hưởng
kinh tế gia đình. Thếnhưng anh “còm” của tôi
đã cũ nên anh cũng hay đau yếu vặt vãnh, và khi nào phải
làm việc nhiều quá với cái đam mê của tôi thì người
anh nóng ran, muốn xì khói. Những lúc ấy tôi cũng linh cảm
nỗi mệt mỏi của anh, và của tôi nữa. Sờ vào anh đã
thấy hâm hấp như lên cơn sốt, anh như muốn bảo tôi: “Thôi
đứng lên đi, tôi mệt rồi, bạn không biết mệt hả? Coi
chừng cái lưng của bạnđấy!” Thấy tôi
vẫn còn nấn ná, anh nóng tiết lên ( nóng thật tình vì
có mùi khen khét): “Đứng lên đi, tôi mà cháy
máy thì bạn cũng hết đường tương chao. Làm gì thì
cũng phải nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi chứ!” Lần
này thì tôi đứng lên thật, dù muốn hay không tôi vẫn
phải nghĩ đến sự Nghỉ Ngơi cho anh, và cả cho tôi nữa. Thân
chào bạn nhé, vì bây giờ “ người tình mặt vuông”
của tôi đã mệt , và tôi cũng mệt rồi, phải nghỉ ngơi
để còn tận hưởng niềm vui của mỗi ngày đang có. Nguyên Nhung ( mùa hè
2013) Nếu rảnh, mời xem PPS " Niềm Vui Của
Mỗi Ngày" với những hình ảnh cây nhà lá vườn của
NN. PPS Tuỳ Bút" Niềm Vui Của Mỗi Ngày" là những
câu chuyện nhỏ quanh cuộc sống chúng ta, ghi lại cảm nghĩ về thiên
nhiên, con người và thi vị hoá những sinh hoạt đời thường,
qua một số hình ảnh cây cỏ ở mảnh vườn nho nhỏ.Mời
bạn ghé vào thăm.... Nguyên Nhung https://www.box.com/s/cqhiumryzxh6du1yeq9h
|
|
|