|
|
|
Trần
Bá Xử chs Phan Thanh Giản Springfield, Massachusetts,
Lối cũ
"Để nhớ lại con đường Hàng Xoài
mà chúng tôi đã đi qua một thuở nào thật xa, xa lắm"
Trần bá Xử, chs PTG/Cần
Thơ Hai ba hôm nay trời bỗng
nhiên quá nóng, cái nóng thật bất thường, nhứt là đối
với tiểu bang Massachusetts bé nhỏ của chúng tôi, một tiểu bang được
xem là lạnh có hạng xếp vào loại hạng nhì hoặc ba sau các
tiểu bang Minnesota, North Dakota, Wyoming, chưa kể Alaska lạnh quanh năm suốt tháng!
Phải nói là quá nóng vì nhiệt độ thường leo lên
hàng 8 như 88, 89, rồi phút chốc vọt lên 99, 100 hoặc hơn đôi
chút? Vì quá nóng như vậy
nên người học trò già tui bèn chơi trội mở máy nóng,
ủa quên, mở máy lạnh, để nhớ về cái lạnh mát dịu
của Thung Lũng Hoa Vàng San Jose thuộc miền Bắc tiểu bang California, cách
Cựu Kim Sơn (San Francisco) 50 dặm về phía bắc và cách Los Angeles 390 dặm
về phía nam. Đây là nơi có cộng đồng người Việt-Nam
lớn thứ nhì ở hải ngoại. San Jose nằm trong thung lũng Santa Clara ngày
nào là vùng trồng cây ăn trái ngút ngàn nay trở thành
vùng khoa học kỹ thuật hàng đầu với những trường đại
học nổi tiếng như Stanford và Berkeley mà bây giờ được xem
là Silicon Valley (Thung Lũng Điện Tử) với những hãng xưởng sản
xuất những bộ phận tinh vi ngành điện tử và mạng lưới
internet toàn cầu với những hãng xưởng lẫy lừng dẫn đầu
cuộc cách mạng tin học hiện nay như Cisco, HP, Oracle, Google, eBay, IBM, v.v.
Silicon Valley còn có mỹ danh là Thung Lũng
Hoa Vàng, vì mùa Xuân trong vùng còn có nhiều loài hoa dại
nở vàng rực trên những ngọn đồi trông rất đẹp mắt,
nên danh xưng này còn có nghĩa bóng là vùng "đất
lành chim đậu", ăn nên làm ra, và có thể nói không
ngoa tí nào khi người dân ở đây có mức thu nhập bình
quân cao nhất nước Mỹ.
Sở dĩ tui nói vòng vo tam quốc trước
khi nhảy vào câu chuyện chánh là vì đề tài chính chỉ
vỏn vẹn có hai chữ ngắn ngủn Lối Cũ lấy gợi ý
từ bản nhạc Đường Xưa Lối Cũ của nhạc sĩ Hoàng Thi
Thơ, và cũng là nguồn cảm hứng "cho lâu đài văn"
Phạm Tín An Ninh (người hiền đệ luôn luôn không nhận mình
là nhà văn) với bài viết có cùng tên trong tập truyện
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân. "Lối Cũ" tuy quá ngắn ngủi
nhưng lại gói ghém không biết cơ man nào là kỷ niệm của
tuổi học trò từ khi tôi bắt đầu làm quen với những địa
danh dễ thương từ bến bắc Cần Thơ đến Cầu Đôi, Vườn
Thầy Cầu, Đàng Tiên, bến Ninh Kiều, v.v., hay dọc theo đường
Nguyễn Trãi (may quá, đường nầy vẫn còn giữ tên cũ,
hay nôm na là đường Nhà Đèn) qua dinh tỉnh trưởng chạy
dọc theo đường Hàng Xoài dài hun hút đến
tận Đầu Sấu, Cái Răng. Tui rất tâm đắc khi nghe hai nhạc khúc
Đường Xưa Lối Cũ để thấy lòng mình rưng rưng khi
nhớ đến những Lối Cũ của một thuở học trò vô tư
lự năm nào dưới mái trường Phan Thanh Giản Cần Thơ khoảng
đầu thập niên 50 nhưng vẫn còn in đậm cho đến tận bây
giờ trong tâm trí ông lão đang quay mòng mòng trong vòng bát
thập cổ lai hi? Lần này cái lối
cũ xa xôi dịu vợi ấy đã ập về trong tôi mãnh liệt
hơn bao giờ hết với lời nhạc êm dịu của nhạc sĩ Hoàng
Thi Thơ qua hai câu: "chạnh lòng
thương nhớ những phút xưa, phút xưa qua qua rồi..."(câu thứ
nhất) "mà hình bóng cũ,
thiếu trong tôi mỗi khi nghe chiều rơi...."(câu thứ hai) Đặc biệt
với Đại Hội Thế Giới Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm lần
thứ XXII tại thành phố San Jose năm 2018, lối cũ lại hiện
về rõ nét khi các cựu học sinh Phan Thanh Giản và Đoàn Thị
Điểm Cần Thơ từ khắp mọi nơi trên thế giới lần lượt
quy tụ về Thung Lũng HoaVàng để đánh dấu điệp khúc
"San Jose, 19 Năm Hạnh Ngộ´ , một chủ đề mà Ban Tổ Chức
Đại Hội đã nêu lên để trân trọng kính mời quí
Thầy Cô, quí niên trưởng, đồng môn, và quí thân
hữu quy tụ về tham dự Đại Hội Thế Giới trường trung học
PTG-ĐTĐ CầnThơ kỳ XXII tại thành phố San Jose, Bắc California được
bắt đầu từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 5 năm 2018 chưa
kể thời gian du ngoạn sau Đại Hội. Gặp gỡ các
đồng môn tại quê nhà Cần Thơ trước ngày tổ chức
Đại Hội XXII tại San Jose, Bắc California: Vào sáng mùng bốn Tết Nguyên
Đán năm Mậu Tuất 2018, đề chuẩn bị cho ngày đại hội
sắp tới, tại quán cà phê Phiếm quen thuộc do tiểu muội Nguyễn
Kim Quang, nguyên Hiệu Trưởng Trường Trung học Tân Hưng, Cái Răng
"làm chủ xị" mời gọi, bản chức đã rất vui mừng
gặp lại những gương mặt cũ rất thân quen mà trước tiên
là anh Nguyễn Lương Sinh, người bạn học cùng lớp đã
từng cùng nhau đi mòn con đường Hàng Xoài dài hun hút,
bắt đầu từ đường Pétrus Ky, nơi hai chúng tôi ở
trọ cùng một vài bạn học đến từ các tỉnh Sóc Trăng,
Bạc Liêu, đặc biệt rất vui mừng và hí ha hí hửng khi có
sự hiện diện của hai cô chủ nhà trọ xinh đẹp cùng lứa
tuổi với chúng tôi (ngày xa xưa ấy mà chúng tui đã biết
thả dê ăn so đủa rồi mới phiền chớ bà con cô bác?).
Ngày ấy, bạn Sinh thuộc thành phần bạch diện thư sinh với nét
mặt dường như lúc nào cũng có nét buồn một cách
vô cớ, nhưng bi giờ anh ta cũng thuộc hàng "Không Không Sư
Tổ" có tài ăn nói hoat bát không kém chi ai. Anh ta luôn nhắc
đến câu chuyện học trò ngày ấy với vẻ tiếc nuối là
tại sao tuy "bảnh tỏn" như anh ta nhưng người nữ y tá rất
"mignonne" mà anh ta mê say đắm hổng thèm ngó ngàng gì
tới anh ta mà lại tò tò lẽo đẽo theo sau cậu học trò
xấu huơ xấu hoắc" (là tui đây chớ ai trồng khoai đất
nầy), nên, theo anh kể lại, có lẽ tui có xạo nhiều lắm lắm,
sau này anh ta ứa gan làm thơ tình nghêu ngao chơi cho bỏ ghét. Ngoài
ra, anh bạn Lương Sinh đa tài (và đa tình) của tui, dưới bút
danh Nguyễn Bích Như, còn miệt mài qua các công trình dịch
thuật có giá trị những tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn
học nghệ thuật Pháp qua nhiều tác phẩm như Trà Hoa Nữ của
Alexandre Dumas, Ben-Hur của Lewis Wallace, Thần Thoại La Mã của G. Chandon, cùng
những tác phẩm nổi tiếng khác như Những Người Khốn Khổ,
Ba Người Lính Ngự Lâm, Bá Tước Monte-Cristo, Hoa tuylip đen, Thằng
gù nhà thờ Đức Bà, Quo Vadis,v.v. Có lẽ ngày xưa tui
có vẻ quá bất công khi xem bạn Lương Sinh cũng chỉ là người
bạn "sàng sàng bậc trung" như tui nhưng ngày hôm nay, ở thiên
niên kỷ 21 này, bạn là người đã vượt xa tui về mọi
mặt, có lẽ có bà cô bé con của bạn ta là GS Hiệu trưởng
Trung học Tân Hưng Cái Răng Nguyễn Kim Quang xác nhận rõ điều
này, điều vượt trội của anh ta mà tui cũng rất hãnh diện
với bạn bè. Kế đó là sự xuất hiện thật
bất ngờ và thật cám động của anh Nguyễn Trung Nghĩa trong lần
hội ngộ bỏ túi kỳ nầy. Tôi không khỏi bùi ngùi khi tối
hôm trước anh, khi nghe tôi gọi điện thoại mời anh tham dự, anh
đã khước từ không đến được vì anh bị nhiều
hạn chế trong việc di chuyển cùng vài vấn đề khác như ăn
uống chẳng hạn. Đến sáng hôm sau, khi thấy cô con gái anh cho
biết anh cố gắng đến làm tôi rất ngỡ ngàng, nhất là
khi anh ráng hết sức mình bước xuống xe taxi qua sự tiếp sức
của con gái, bạn Sinh và tôi vội vàng chạy ra nắm hai cánh
tay anh dắt vào ghế ngồi khi anh đi thật chậm rãi từng bước
một cách rất cực nhọc. Thật lòng mà nói, trong tận đáy
lòng, chúng tôi không cầm được nước mắt khi dìu anh
từng bước một rất khó khăn, nhất là khi bước lên bậc
thềm để vào quán cà-phê. Không còn tình đồng môn
nào cao quí hơn những giây phút lắng đọng nầy! Điều
đáng mừng là anh đã nhận biết hầu hết những gương
mặt tất cả mọi đồng môn đến tham dự, từ hai anh bạn
cùng lớp Nguyễn Lương Sinh và Trần Bá Xử dĩ nhiên, đến
nhà thơ, nhà văn Dương Hồng Thủy/ Vương Thủy Tùng cũng
như GS Kim Quang, GS Hồ Hữu Hậu và phu nhân, thi sĩ Hồ Nguyễn, anh Dương
Hoàng Trung là anh bạn thân tình rất tài hoa ngụ cùng hẽm
Võ Tánh với tôi, người bạn với tiếng đàn Hạ Uy Di
và ngón đàn vĩ cầm thật điêu luyện làm say đắm
lòng người. Ngoài ra còn có sự hiện diện của vài anh
bạn tôi vừa về từ tiểu bang lạnh ngắt ở Mỹ, và nhất
là Học Trò Già (nhưng không già chút xíu nào hết)
Hồ Trung Thành tuy còn chưa lành hẵn bệnh nhưng nghe nói có
ông bạn già vong niên là bản chức nên cũng cố hết sức
bình sinh đến xem cái bản mặt mốc thích của cái ông già
nầy có biến đổi gì hông? Anh
Nghĩa rất vui khi gặp lại tất cả bạn bè già trẻ bé lớn
trong buổi họp mặt mà người hạnh phúc nhất phải là tôi
qua sự ưu ái đặc biệt của anh làm cho Lương Sinh và tôi
không khỏi bồi hồi xúc động. Tôi nghĩ chắc hẵn không
có món quà nào quí giá cho bằng xuyên qua tình bằng hữu
thật khắng khít và quí hóa như vậy! Trong suốt buổi hội
ngộ, anh ăn uống rất ít nhưng cứ nhìn anh em đồng môn mà
cười thật vui, nhất là với hai thằng quỷ sứ bạn cùng lớp
là Nguyễn Lương Sinh và tôi là Trần Bá Xử, mà các
bạn cùng lớp thuở ở Collège de Vinh Long ưu ái tặng cho tôi
hỗn danh Hà Bá Xử nghe thiệt oai hùng? Nhìn anh, tôi bất giác
hồi tưởng cái dáng vẻ cao to của anh ở thập niên 50 thế
kỷ trước lúc anh còn là một trong những tay đập bóng chuyền
xuất sắc của trường Phan Thanh Giản Cần Thơ để thấy lòng
mình chùn xuống khi bánh xe thời gian vẫn lăn đều. Anh rất
vui khi gặp chúng tôi, nhắc lại những chuyện cũ, cũng như tiếc
nuối vì không tìm được quyển Lưu Bút Ngày Xanh kỷ
niệm thuở học trò vui nhộn ngày nào. Anh cố gắng chung vui với
chúng tôi và lưu lại gần hai mươi phút (thời gian thật quá
dài so với tình trạng sức khỏe của anh lúc bấy giờ) rồi
ra về qua sự tiếp tay của con gái yêu quí của anh và anh em chúng
tôi. Chúng tôi rất quyến luyến không nỡ rời xa nhau và ước
mong sức khỏe của anh sẽ sớm khả quan hơn để hy vọng một ngày
không xa chúng tôi sẽ còn gặp lại nhau. Không có bữa
tiệc nào không tàn nên sau hơn ba giờ gặp gỡ nhau, cuối cùng
rồi chúng tôi, tất cả đồng môn Trường Trung học Phan Thanh
Giản-Đoàn Thị Điểm Cần Thơ cùng quí thân hữu
nói lời tạm biệt, hy vọng còn có cuộc hội ngộ trong tương
lai để hàn huyên tâm sự dài dài sau này. Tiếp theo cuộc
gặp nhau đầy ắp kỷ niệm lần nầy, người học trò già
(già thật sự này) xin được chia tay bạn bè trong niềm luyến
tiếc vô biên nhưng rất vui khi được tay bắt mặt mừng
hai anh bạn cùng lớp, một người là nhà phỏng dịch đại
tài các tác phẩm nổi danh của văn học Pháp, và một người
từng là giáo sư Pháp văn, cũng có nhiều năm dịch sách
Pháp sang tiếng Việt và cũng từng làm trưởng phòng công
chứng tại tòa án. Tôi rất hãnh diện được làm bạn
đồng song với hai anh, và rất mong có dịp được may mắn hội
ngộ cùng các anh khi điều kiện cho phép. Sau hơn sáu mươi
năm mà còn gặp lại nhau là một diễm phúc lớn nhất của
đời tôi. Sau khi về lại quê hương miền đất hứa, tôi
sẽ chờ đến đầu tháng 5 năm 2018 với hy vọng gặp một
vài đồng môn cùng lứa, ít nhất là anh Dương Quang Ngự,
trước cư ngụ tại Bình Thủy, nay ở tiểu bang Minnesota giá lạnh,
kế đó là anh Lâm Văn Mẫn, đốc sự hành chánh đang
ngụ tại Sacramento, thủ phủ tiểu bang California, và mong sao có sự hiện
diện của anh Nguyễn Hữu Phước, cũng ngạch đốc sự hành
chánh, cựu Giám đốc Nha thuộc Bộ Kinh Tế, là anh ruột của
cố giáo sư Nguyễn Hiếu Đức và giáo sư thi sĩ Mai Lộc
của trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, hiện cư ngụ tại
thành phố San Jose (Bắc California). Nếu được như vậy thì người
học trò già này cũng mãn nguyện lắm rồi. Gặp gỡ các
đồng môn tại Đại Hội Thế Giới lần thứ XXII ở San Jose,
CA: Từ trái (hàng sau):
Nguyễn Lương Sinh, Trần Bá Xử, Lê Trung Cang (hàng trước):
Huỳnh Hữu Phước, Trần Văn Giêng Như đã đề cập trong phần mở đầu, Đại Hội
Thế Giới Trung Học Thanh Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm kỳ XXII với
chủ đề San Jose, 19 Năm Hội Ngộ sẽ được long trọng tổ
chức tại Thung Lũng Hoa Vàng Silicon Valley trong 3 ngày từ ngày 5 đến
ngày 7 tháng 5 năm 2018 với hơn năm trăm vị tham dự, từ quí
vị giáo sư, quí niên trưởng, đồng môn và quí
thân hữu từ mọi nơi trên thế giới, từ Úc Châu đến
Âu Châu, từ Canada đến Việt Nam, và hầu hết 50 tiểu bang của
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Cũng như những lần hội ngộ của những
đại hội khác, phái đoàn của vùng New England/Massachusetts gồm
hơn 10 người trông cũng ngon lành lắm. Dường như "có huông"
hay sao ấy mà lần nầy tôi cũng là người đến sớm nhất.
Đối với tôi, có lẽ đến sớm cũng là cái tội
hay sao ấy? Tôi còn nhớ trong một lần đại hội nào đó,
khi giáo sư Chung Phước Khánh còn tại thế, chúng tôi ba người,
như ba người ngự lâm pháo thủ ngày xưa ấy, gồm có
giáo sư Chung Phước Khánh, anh Vũ Đức Báu và tui, chúng
tôi đặt chung một phòng. Lần gần đây nhứt, khi giáo sư
Chung Phước Khánh đã bỏ chúng tôi ra đi, bộ ba chúng tôi
chỉ còn mỗi anh Vũ Đức Báu và tôi. Và cũng vì cái
tật đến sớm nên tối hôm đầu tiên, tôi nằm chèo
queo một mình lạnh thấy mồ! Chuyện đã hết đâu, tôi
vừa nằm đợi anh Báu đến, hổng biết tại sao anh ấy bỏ
tôi bơ vơ một mình làm có đôi lúc tôi cũng hơi
chột dạ khi nghĩ vào một lúc nào đó có một bàn
tay sờ gáy tôi, ớn quá bà con ui, tôi vội xuống nước nói
nhỏ như là tâm sự hay đúng hơn là năn nỉ với GS Khánh
vậy "anh đừng đùa dai với tui nhen?" vì ngày trước ba
anh em chúng tôi hợp tính nhau lắm, và hay đùa giỡn với nhau
rất là tâm đắc. Vì tui bày đặt lớn tuổi hơn hai bạn
cùng phòng nên được GS Khánh gọi là đại ca, trong khi bồ
tèo Báu là tiểu đệ còn GS Khánh là nhị ca, kể ra cũng
ngon lành cho tui lắm đó chớ bộ? Mãi đến khi tiểu đệ
Báu từ Massachusetts về nhập bọn thì tui mới cảm thấy an tâm,
hổng phải tui sợ ma đâu vì dầu sao tui cũng có gốc nhà
binh nhưng nằm một mình bơ vơ trong căn phòng rộng thênh thang giữa
đêm khuya như vậy thì dẫu có run một chút xíu cũng là
lẽ thường mà, phải hông bà con? Khi tiểu đệ Báu về nhập bọn một lúc và chuẩn
bị đi ngủ muộn thì bổng nhiên không hiểu sao khi khổng khi không
đèn trong phòng chợt tắt ngúm. Bồ tèo Báu vội mở máy
điện thoại cầm tay để cố liên lạc với các bạn trong
đoàn thì máy điện thoại cũng "chết" mất tiêu.
Vì phòng mất điện nên hai anh em mò mẫm trong bóng tối nhưng
vì không chuẩn bị đèn pin nên chúng tôi loay hoay, đặc
biệt là tui lúi húi cố tìm cái điện thoại của tui cũng
không thấy vì tối hù? Lúc bấy giờ trong đầu tôi lóe
lên một nghi vấn "chẳng lẽ nhị ca Khánh của chúng tôi muốn
đùa dai và ghẹo phá chúng tôi hay sao ấy?" Dòng tư tưởng
ấy còn đang lởn vởn trong đầu tôi thì bổng nhiên tiểu
đệ Báu chúng tôi vui mừng reo lên "điện thoại liên
lạc được rồi", đồng thời đèn trong phòng bật sáng???
Không hiểu trong bộ óc thông minh của người tiểu đệ đốc
sự của chúng tôi có manh nha một sự nghi ngờ dù tí ti nào
hay không về biến cố bất ngờ vừa qua hay không, nhưng đối
với cá nhân tôi, từ trong tiềm thức của riêng tôi, cho mãi
đến giờ phút này, tôi vẫn canh cánh bên lòng một ảo
giác có lẽ người giáo sư hiền lành vui tính của chúng
tôi muốn về đùa với chúng tôi trong giây lát hơn là
cố hù chúng tôi???
Trở về đại hội, ngay sáng sớm hôm
sau, tuy ngụ cùng phòng mà riêng tôi đã mất ngủ khá
nhiều vì những suy tư mông lung trong đêm vừa qua, chúng tôi xuống
phòng khách dùng bữa ăn sáng cùng với quí anh chị em trong
đoàn. Điều ngạc nhiên thật lí thú đầu tiên mà
tôi gặp phải là tôi đã thấy sự hiện diện thật bất
ngờ của gia đình anh Dương Quang Ngự bạn học cùng lớp với
tôi (Tân Đệ Nhị và Tân Đệ Nhất niên khóa 1953-1955)
cùng thời với quí bạn Trương Quang Minh, Huỳnh Minh Bảo, Hồ
Công Minh, Hồ Công Tâm, Nguyễn Trung Nghĩa/pự con, Nguyễn Lương Sinh,
Hứa Xướng Văn, Lâm Văn Mẫn, v.v... Gia đình anh Ngự gồm có
anh chị và ba người con ngoan với hai gái một trai đến từ tiểu
bang giá lạnh Minnesota (lạnh hơn cả tiểu bang Massachusetts nơi tôi đang
cư ngụ). Vì lần đại hội trước tại Houston, TX, tôi
đã gặp chị Ngự rồi nên Chị nhận ra tôi ngay tức khắc.
Có lẽ nhờ đã thấy hình tôi trong các bài tôi viết
trong Đặc san của Trường Mẹ nên anh Ngự đã nhận ra tôi
ngay với dáng vóc nhỏ thó và gương mặt khó có ai xấu
cho bằng!!! Tay bắt mặt mừng sau hơn 60 năm xa cách, thật là không
có niềm vui nào sánh bằng! Anh Ngự vẫn không thay đổi với
chiều cao ngất ngưởng như cây tre miễu nhưng không mập thêm
một kí thịt nào cả vì nghe Chị nói sau này Anh hơi bịnh
hoạn một chút. Không biết ngày còn đi học anh ấy có nói
nhiều hay không nhưng bi giờ tui thấy anh "tám" cũng khá, cũng
giống tui vậy mà, sau không biết cơ man năm tháng nào xa cách
kể cho xiết. Anh kể chuyện trên trời dưới đất, từ cái
thuở còn ở Cần Thơ khi còn là một học sinh con nhà giàu,
có quyền có thế với căn nhà tổ nổi tiếng ở gần phi
trường Trà Nóc, cho đến khi vào quân đội rồi giải
ngũ nhờ có gốc gác pự tổ chảng? Nói đến Anh mà không
đề cập đến Chị thì quả là một thiếu sót vì
theo lới Anh kể, ngày xưa anh dạy chị học khi chị ấy chị còn
rất trẻ và là mỹ nhân trong vùng nên anh "hốt" cô
học trò bé bỏng của anh về dinh để làm người phu nhân
trẻ nhất trong vùng của riêng anh bạn Dương Quang Ngự của tui!
Giờ này đây, cứ mỗi lần anh kể lại câu chuyện tình
xa xưa nhưng rất có hậu của anh chị là mỗi lần chị nở
nụ cười e ấp bẽn lẽn với sự hãnh diện tột cùng của
anh và xen lẫn với những nụ cười dòn tan của các con anh chị!
Còn gì hạnh phúc cho bằng! Hai ngày sau, chúng tôi vẫn gặp
nhau trong tình thân ái vô bờ bến rất đáng ngưỡng mộ
tuy anh phải xa tôi sớm hơn dự định. Mãi đến đêm tổ
chức Đại hội, tôi mới gặp anh bạn rất thân thiết xuất
thân từ trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ mà đúng
ra tôi phải gặp hai bạn, đó là các anh Lâm Văn Mẫn, đốc
sự ở Sacramento và anh Nguyễn Hữu Phước, cũng là đốc sự,
nhưng vào giờ chót chỉ có bạn Nguyễn Hữu Phước tham dự
mà thôi. Bạn Phước rất nhiệt tình với cá nhân tôi
với tấm lòng bác ái vô biên khó ai sánh kịp. Anh lớn
hơn tôi một tuổi, là anh ruột của cố giáo sư Nguyễn Hiếu
Đức, phu nhân của giáo sư Hiệu Trưởng Lưu Khôn hiện cư
ngụ tại San Jose; anh cũng là anh ruột của giáo sư/thi sĩ tuổi
trẻ tài cao Mai Lộc hiện đang ở Nam California. Anh Phước là vị
khách đặc biệt ngồi chung bàn với các vị niên trường
có vai vế đăc biệt trong đêm đại hội tối hôm nay. Anh
Phước luôn yêu cầu tôi vào ngồi chung bàn với anh nhưng
tôi bị "kẹt giỏ" vì ngại tách rời khỏi nhóm New England/Massachusetts
của chúng tôi, hơn nữa tui cũng ngán ngồi chung bàn với mấy
ông lớn trong đêm đại hội đặc biệt nầy! Cuối cùng
tui phải như con thoi chạy qua chạy lại hai bàn và nhờ em Mai Lộc đặc
biệt tiếp đãi anh Phước là anh ruột mình. Để thay lời
kết, trong năm 2018 nầy, tôi đã có cơ may gặp lại vài người
bạn chung lớp một thời học chung tại trường trung học Phan Thanh Giản
Cần Thơ, mà thời bấy giờ gọi là Lycée Phan Thanh Giản
Cần Thơ, vào những năm từ 1953 đến 1955. Vào đầu năm (Tết Nguyên Đán 2018), tại thành
phố thân thương Cần Thơ, tôi đã hân hạnh hội ngộ
với bạn Nguyễn Lương Sinh với bút danh Nguyễn Bích Như, đã
phỏng dịch những kiệt tác của những văn thi sĩ lừng danh của
nền văn học Pháp qua các thời đại khiến tôi phải ngã
mũ chào thua. Sau đó, tôi lại rất hân hạnh và cảm kích
với tấm thịnh tình mà anh Nguyễn Trung Nghĩa đã đặc biệt
dành trọn vẹn cho tôi làm cho cuộc hạnh ngộ bỏ tùi này
gói ghém một ý nghĩa thật đặc biệt. Riêng tại Thung
Lũng Hoa Vàng với Đại Hội Thế Giới Hải Ngoại PTGĐTĐ kỳ
XXII, tôi lại rất hân hạnh gặp lại anh Dương Quang Ngự (Minnesota)
và Nguyễn Hữu Phước (San Jose) khiến cho chúng tôi là những
cựu học sinh già với tuổi đời từ 82 đến 85 là lứa
tuổi tạm gọi "cổ lai hi" cảm thấy rất hạnh phúc được
may mắn gặp lai nhau ở giai doạn cuối đời này. Nhìn bao quát,
trong khi tôi đang miên man hồi tưởng về Lối Cũ với con đường
Hàng Xoài dài hun hút, tôi mơ màng nhận thấy khá nhiều
bạn chúng tôi gặt hái được những thành công vượt
trội đáng khích lệ trên đường đời trong khi tôi cố
gắng lẹt đẹt chay theo sau muốn đứt hơi mới chụp được
một vài kết quả khiêm nhường, thật khiêm nhường.
Thành
phố Springfield, MA, ngày 9/7/2018, trời nóng
quá... TRẦN BÁ XỬ ___________________________________________________________________________________________
Những Bước Chập Chững Trên
Hành Trình Tị Nạn... (Để
riêng tặng Nhà Tôi) _________________________
Vài
lời phi lộ: Tôi là một
cựu học sinh Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ vào đầu thập niên
50 của thiên niên kỷ 19. Sau bốn năm theo học Trường Cao Đẳng
Tiểu Học Vĩnh Long, tôi may mắn giật được mảnh bằng Thành
Chung và hồi hộp thi tuyển vào lớp Tân Đệ Nhị (Seconde Moderne)
của Trường Trung Học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Thật lòng mà nói,
tuy là một học sinh khá giỏi của trường nhưng cá nhân tôi
và một số bạn học cùng lớp gốc ở Sa Đéc với tôi
vô cùng hồi hộp vì số lượng thí sinh nộp đơn thi kỳ
này khá đông trong khi Cần Thơ là nơi quy tụ học sinh từ
rất nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long như Long Xuyên,
Châu Đốc, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, và dĩ nhiên
là Cần Thơ, do vậy việc ganh đua rất cam go đòi hỏi mỗi thí
sinh phải có khả năng loại bỏ tối thiểu 4. 5 thí sinh khác mới
hy vọng được vào vòng trong. Một lần nữa, thần may mắn lại
mỉm cười với tôi nên tôi được hân hạnh vào học
nơi ngôi trường nổi tiếng của Tây Đô ngoài Trường
Trung Học Le Myre de Villers ở Mỹ Tho và Trường Trung Học Pétrus Trương
Vĩnh Ký, chưa kể Trường Chasseloup của Pháp ở thủ đô
Saigon. Sau khi đậu Tú Tài I tại
Trường Chasseloup Laubat, tôi lên Saigon tiếp tục việc học, sau đó
ghi danh vào Đại Học Sư Phạm, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh,
và Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, tiền thân của
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam sau này. Ba Má tôi rất mong tôi
sẽ là một giáo chức nhưng khi được chấp thuận vào
trường sư phạm và trường võ bị, tôi lại xin phép song
thân cho tôi lựa chon giải pháp 2 khiến ba tôi không vừa ý nhưng
rồi cuối cùng nghiệp kiếm cung đã thôi thúc tôi lên thành
phố sương mù bất chấp sự cản ngăn của ba mẹ và ông
chú từ miền Trung đã tức tốc vào Saigon để can gián.
Sau hơn hai năm học tập kể cả thời
gian học tại Hoa Kỳ, tôi trở về phục vụ trong quân đội đến
khi thăng cấp trung tá váo đầu năm 1971. Nhưng Quân Lực VNCH bị
bức tử vào tháng 4 đen năm 1975, và hơn 8 năm tù đày
là cái giá tôi phải trả với mỹ từ học "tập cải
tạo". Hơn 10 năm sau, tôi cùng vợ và hai con độc thân được
đến Hoa Kỳ để tị nạn vào cuối năm 1993. Gần 20 năm sau,
vào đúng ngày Chúa Giáng Sinh năm 2012, Nhà Tôi đã bỏ
lại tôi một mình với bao tiếc nuối khôn nguôi.
Cuộc Sống Nơi Miền Đất Hứa: Tính từ ngày Nhà Tôi bỏ tôi ra đi cho đến
nay cũng gần 5 năm rồi, chính xác hơn là xuýt xoát bốn
năm bảy tháng. Nhớ lại ngày
nào gia đình bốn người chúng tôi ngơ ngơ ngác đến
thành phố Springfield giá lạnh của miền đông bắc Hoa Kỳ trong
cảnh thiếu trước hụt sau nầy mà tính đến nay đã ngót
nghét 24 năm rồi. Sau gần một năm cư ngụ tại ngôi nhà
mướn của vợ chồng một người Ý, chúng tôi dã cố
gắng cắc ca cắc cỏm để dành một số tiền rất khiêm
nhường và ráng mua trả góp một căn nhà rẻ theo thời giá
lúc bấy giờ trong thời hạn 30 năm. Rời SG đi Mỹ Hồi tưởng ngày nào mới qua định cư gần như
với hai bàn tay trắng vì cả gia tài của chúng tôi chỉ võn
vẹn có khoảng hai trăm Mỹ kim kể cả 100 do anh chị bạn ở Hong
Kong biếu tặng ! Theo quy chế tị nạn ở thời điểm đó, chúng
tôi được hưởng 8 tháng tiền trợ cấp tị nạn chỉ
vừa đủ trang trải mọi chi tiêu trong gia đình, do vậy vợ chồng
chúng tôi phải lo tìm việc làm dù cực nhọc đến đâu
chăng nữa ngoài những giờ học lớp Anh Ngữ như sinh ngữ 2 (ESL)
tai LSS/ Lutheran Social Services và ghi danh tìm việc làm tùy khả năng của
mỗi người. Vào thời điểm này, Lutheran Social Services, còn được
gọi là LIRS (Lutheran Immigration and Refugee Service) và USCC (United States Catholic Conference) là
hai trong chín cơ quan thiện nguyện (VOLAG/Voluntary Agencies) trực thuộc Bô Ngoại
Giao Hoa Ky (US State Department) chuyên phụ trách tìm việc làm, lớp học
Anh ngữ ESL và các dịch vụ xã hội khác cho các sắc tộc
qua tị nạn tại Hoa Kỳ trong đó có Việt-Nam. Tại cơ quan thiện nguyện LIRS, tôi may mắn vượt
qua phần học ESL khi giáo viên chỉ định tôi làm phụ giáo
(TA, teacher-aid) vì thấy tôi có tí ti vốn Anh ngữ khả dĩ có
thể phụ giúp anh ta trong lãnh vực này. Khoảng một tuần lễ
sau, vào một buổi sáng đẹp trời, tôi được anh phụ trách
tìm việc làm chở tôi đến Marriott Hotel của thành phố để
tôi thực tập làm nhân viên tiếp tân cho khách sạn vào
ca 3 (từ 10 giờ đêm đến 7 giờ sáng) nên tôi buộc lòng
phải từ chối vì còn vài việc gia đình cần đến tôi
trong thời gian này Hai hôm sau, tôi
lại được "xách" đi đến cửa hàng TJ Maxx để
thự tập bán hàng (salesperson), nhưng một lần nữa, tôi lại từ
chối vì tự nhận thấy tôi không có khiếu buôn bán, hơn
nữa tôi tự nhận thấy chưa đầy đủ khả năng Anh ngữ
để giao tiếp với khách hàng? Tôi hơi chán nản với hai công
việc trên vì không phù hợp với khả năng của mình cho đến
hai hôm sau tôi được đứa cháu hàng xóm giới thiệu
vào làm trong một hảng nhôm cũng vào ca 3, phải nói là cực
hết biết! Thiệt là "ghét của nào trời trao của ấy",
tôi đã tránh ca 3 ở khách sạn có vẻ nhẹ nhàng hơn
thì phải nhảy vào làm ca 3 nặng nhọc hơn với việc đúc
những khuôn bằng nhôm (mold). Có lẽ tui là kẻ lù đù nên
có ông "cù" độ mạng (tui cứ nói đại chớ có
biết ông cù là ông nào đâu)? Hôm đầu tiên vào
làm việc khoảng 10 giờ đêm, tôi gặp một anh Mỹ già "cốt-xìn-tô"
(là đô lực sĩ đó) làm supervisor có vẻ cũng ngầu lắm
nên tôi cũng hơi ê càng không dám kênh xì-po với anh ta.
Nói vậy cho oai chơi chớ tui ốm nhom ốm nhách thì kênh cái
nỗi gì, anh ta chỉ cần búng một cái là tui đã bị bay
biệt mù sơn dã rồi? Anh ta hỏi tôi và khoảng 5 tân binh mà
hảng mới thu nhận thì may mắn thay, nhờ có chút vốn liếng Anh
ngữ nên tôi hơi ba hoa chích chòe làm đại cái chức thông
dịch viên "bất đắc dĩ" vì hấu hết không có anh
nào thèm nói tiếng Anh gì cả?. Do vậy, mỗi khi có nhu cầu
thông dịch viên thì anh chàng đô lực sĩ bèn xách cổ
tôi lên để dịch (hổng biết xác suất chính xác được
bi nhiêu, có trời biết mà thôi, may quá bà con ơi!). Nhờ vậy,
từ đó về sau, tôi được biệt đãi làm việc ở
cái "khâu" thanh tra thành phẩm, ngon lành chưa? Xin phép bà
con cô bác cho tui được xài đại cái từ "khâu"
của đỉnh cao trí tuệ miến Bắc ấy mà vì xưa nay tui chỉ
nghe nói đến khâu vá hay may vá mà thôi! Được hơn
một tuần thì "ông cố nội đô lực sĩ" tới hạch
hỏi tôi và xực tôi một trận với ly do là "mức dộ
thanh tra để sản xuất thành phẩm" của tôi quá chậm? Tôi
hơi nóng mặt vì tự nhận thấy đã làm việc hết mức
mong muốn rồi. Tôi bèn hỏi anh ta lý do chậm trễ của tôi và
nhờ anh ấy chỉ điểm cách làm nhanh hơn. Anh ta bèn nhanh nhẩu
cầm một khuôn nhôm đúc chưa thanh tra lên, xem mã số của
khuôn và đưa vào máy kiểm tra. Khi đèn xanh bật sáng báo
tín hiệu khuôn đúc tốt thì anh ta lấy tất cả các khuôn
có chung mã số với khuôn vừa rồi xếp vào nơi chuẩn bị
cho xuất xưởng, như vậy tiết kiệm rất nhiều thời gian. Tôi
hỏi lại anh ta "tại sao không kiểm soát các khuôn khác còn
lại, anh làm như vậy là không đúng, và nếu làm như
vậy, tôi cũng sẽ hoàn tất nhanh như anh ta vậy chớ đâu có
chậm rì như anh ta bảo. Anh ta lý luận rằng những khuôn nào
có cùng mã số với khuôn tốt vừa rồi chứng minh các khuôn
này đều tốt như nhau. Theo lời hướng dẫn khá hợp lý
của anh giám thị (supervisor), từ đó về sau tôi làm rất nhanh
nên không bị chê trách nữa. Tuy
công việc thanh tra thành phẩm khá nhàn hạ nhưng vì làm ca
3 thường làm tôi mất giấc ngủ có hại đến sức khỏe
nên tôi tìm cách kiếm một công việc khác ở những ca khác
như ca 1 hay ca 2 để gìn giữ sức khỏe. Ngoài ra còn một lý do khác khá quan trọng là hảng
nhôm chuyên đúc những khuôn nhôm (aluminum mold) là môi trường
có nhiều chất độc hại vì sức nóng trên 2000 độ để
đúc khuôn nhôm sẽ tạo ra chất hóa học sulphate d'alumium ảnh
hưởng rất xấu đến sức khỏe nên nếu cứ phải ngửi
liên tục sẽ bị ung thư, đặc biệt là ung thư phổi.
Sau gần 4 tháng làm việc tại đây,
một cơ may đã đến khi có người cháu họ giới thiệu
tôi vào làm tại một hảng chuyên sản xuất dây điện
tử (electronic cable) có rất nhiều đồng hương Việt-Nam làm chung
do đó tôi hăng hái đến ghi danh và đã được chấp
nhận cho vào làm ca 2 nên rất thuận tiện cho gia đình chúng
tôi. Về phần Nhà Tôi, nhờ
trước đây là y tá đã từng phục vụ trong ngành y tế
cả bên Việt Nam lẫn Hoa Kỳ nên khi khi vừa đặt chân lên miền
đất hứa này, nhà tôi đã Nhà tôi ghi danh theo học khóa Phụ Y Tá (nurse-aid) vì khả năng
Anh ngữ còn hạn hẹp về thuật ngữ y khoa (medical terminology) tuy nhà tôi
rành thuật ngữ bằng Pháp văn. Cùng lúc đó tôi cũng
nộp đơn xin theo học chung lớp với nhà tôi, và kết quả bị
từ chối vì kỷ năng chuyên môn y tá của nhà tôi có
tính thuyết phục hơn tôi nhiều. Thế là nhà tôi ngày ngày
cắp sách đi học chung với một số khóa sinh gốc Nga, Tây Ban Nha,
Puerto Rico. Theo nhà tôi kể lại, trong những ngày đầu tiên, mấy
cô gốc Tây Ban Nha và Puerto Rico nói tiếng Anh như gió làm nhà
tôi khớp quá chừng chừng nhưng khi phải viết bài thì họ
lọng cọng viết sai rất nhiều nên nhà tôi cũng thấy an ủi
phần nào. Ở trên cõi đời này, ngay cả giày dép còn
có số nên nhà tôi cũng không phải là ngoại lệ. Sau gần
một tháng học tập khá chăm chỉ tuy vẫn còn khớp, trong một
ngày định mệnh, có một số chị em trong thành phố đến
tâm sự với nhà tôi (không biết là may hay rủi đây), họ
tỉ tê với nhà tôi khi biết nhà tôi có ba người con còn
ở quê nhà mà nhà tôi (nhất định cũng có phần tôi)
rất thương yêu và lo cho tương lai của chúng, họ khuyên nhà
tôi ngưng kế hoạch dài hạn là đi học của nhà tôi
để đi làm việc kiếm được tiền ngay để gởi về
Việt-Nam cho các cháu. Dĩ nhiên đây là việc làm không
chính thức gọi nôm na là "under the table" không phải đóng
thuế. Vì chúng tôi mới chân ướt chân ráo mới qua Mỹ
nên đã phạm phải sai lầm, đến khi sửa đổi lại để
có một việc làm chính thức có đóng thuế thì lớp
học đã qua rồi!!! Sau này, mỗi lần nhắc lại câu chuyện
sai lầm không tiếp tục học ngành y tá thì vợ chồng chúng tôi vô cùng tiếc nuối, riêng tôi thấy
tội nghiệp nhà tôi vô cùng, nhưng biết làm sao hơn vì
đây là số mệnh nghiệt ngã khiến nhà tôi không được
tiếp tục ngành y mà nhà tôi đã theo đuổi hơn 20 năm
qua từ khi là một cô nữ y tá quốc gia! Vì không có bằng
cấp y tá của Mỹ nên nhà tôi phải làm những công việc
ít lương hơn so với nghề y tá cho mãi đến sau này.
Riêng cá nhân tôi đã được
chuyển đến hảng cung cấp dây cáp điện tử như là một
chuyên viên chạy máy (machine operator) với số lương khiêm nhường
không cao nhưng tương đối thoải mái mà gia đình chúng
tôi vui lòng chấp nhận. Cho đến một hôm, có lẽ tôi có
cung Thiên Di chiếu mạng hay sao ấy, mà bổng dưng có một anh bạn
giới thiệu tôi về làm tại một hảng giấy (papermills) dọc bờ
sông thành phố Holyoke cùng tiểu bang chuyên cung cấp những ấn bản
như các logo đủ loại. Điểm đặc biệt là lương bổng
khá hơn, vả lại còn làm ca 1 nên cuộc sống của gia đình
chúng tôi có phần thoải mái hơn nhưng đòi hỏi sự
khéo léo gần như tuyệt đối để có những thành phẩm
thật chính xác đúng như bản mẫu đã đề ra trong thao
tác thực hiện những logo rất nhỏ. Tôi đã cố gắng hoàn
tất những design khuôn logo hình vẽ và chữ đạt phẩm chất
cao khiến các supervisor và general manager rất hài lòng. Công việc nơi
đây tuy có phần nhàn hạ nhưng đòi hỏi sự chính xác
cao nên sau một thời gian ngắn làm việc tai hảng giấy này, tôi
được liên tục tăng lương hai lần khiến tôi rất hy vọng
sẽ nhận được mức lương cao hơn sau này. Tôi đang vui vẻ tận hưởng những thành quả
tốt đẹp này thì một sự kiện bất ngờ đã xảy
đến tạo ra một khúc quanh thay đổi hoàn toàn nếp sống tị
nạn của tôi về sau này. Số là tại thành phố chúng tôi
sinh sống có một tổ chức gọi là Việt-Mỹ Dân-Vu-Hội (VACA)
chuyên phụ giúp những đồng hương mới đến định cư,
đặc biệt là những vị cao niên già yếu với số vốn
Anh ngữ hạn chế, cần đền những cơ quan chính phủ để
xin các phụ cấp về an sinh xã hội, tem phiếu thực phẩm, những
phúc lợi công cộng, đi khám sức khỏe tại các bệnh viện
cùng các dịch vụ khác về pháp lý, xin thẻ an sinh xã hội,
xin thi lấy bằng lái xe cùng các trợ giúp linh tinh khác.
Trong một lần đi Boston, thủ phủ của tiểu
bang Massachusetts cùng với anh bạn trẻ đang làm giám đốc điều
hành văn phòng VACA, cháu này đã trình bày những khó
khăn đang gặp phải cần đến sự trợ giúp của một người
lớn tuổi như tôi để phụ trách chương trình người
cao niên nên cháu đã thiết tha mong mỏi tôi giúp một tay. Là
một người ít khi từ chối sự giúp đỡ những đồng
hương đang tị nạn thiếu điều kiện trong sự giao tiếp với
người Mỹ trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã đồng
cảm sâu sắc với họ và cuối cùng đã tạm thời nói
với anh bạn trẻ sẽ nghĩ lại về đề nghị này và hứa
sẽ trả lời trong một này rất gần. Tôi thực sự còn đang
phân vân vì số lương hiện tại của tôi khá đủ
cho gia đình chúng xoay sở trong cuộc sống tha hương này chưa cần
một sự thay đổi nào khác. Khi về nhà, tôi đã thảo
luận với nhà tôi mà tôi đã linh cảm, với lòng nhiệt
tình của nhà tôi với cộng đồng, nhất là những người
già yếu thiếu khả năng giao tiếp với bên ngoài, chắc hẳn
nhà tôi sẽ tán đồng ý kiến để tôi phục vụ cộng
đồng tuy mức lương của một điều hợp viên không hơn
số tiền tôi đang hưởng tại hảng giấy. Một tháng sau, tôi phải tìm mọi lý do chính
đáng để xin chuyển đến Việt-Mỹ Dân-Vụ-Hội, với
một "nghề" mới chuyên làm việc bằng tim óc, để đặc
biệt phục vụ cho những đồng hương yêu quý của tôi rất
cần sự giúp đỡ khi phải tiếp xúc với các cơ quan chính
phủ chuyên lo phục vụ lợi ích công cộng cho những người
tị nạn, chấm dứt hoàn toàn những bước thăng trầm khi phải
làm việc cực nhọc bằng tay chân của tôi trong hơn một năm
vừa qua. Trần bá Xử Springfield, MA, ngày 18/11/2017.
ĐẠI HỘI XXI, một thoáng hồi tưởng....
Trần Bá Xử Springfield, MA Trong
Đại Hội Thế Giới XXI - 2017 lần này, tôi có ý định
"gác kiếm" không dám múa may quay cuồng nữa vì đã
thành người "cổ lai hy" mất rồi,trên tám bó rồi chớ
bộ, hổng phải thất thập như thường tình nhi nữ đâu nhen
bà con? (xin lỗi quý thầy cô và quý vị trưởng thượng
vì mới mở màn mà đã dám dùng dao to búa lớn rồi).
Thiệt ra thì khi tạt qua Cần Thơ trước
khi lên Saigon để bay dìa thành phố Cánh Đồng Xuân (Springfield)
xa xôi dịu vợi, tôi đã được người hiền đệ
văn thi sĩ tài hoa Vương Thủy Tùng cùng với hiền muội GS
Kim Quang gốc gác ở Cái Răng, cũng đã nhắc nhở người
đại ca học trò già tôi phải có một bài viết nói
về ngày đại hội rất đặc biệt kỳ này! Mà không đặc biệt sao được khi Đại
Hội Thế Giới XXI - 2017 - Houston Texas Hải Ngoại năm nay đã cùng một
lúc nhằm tưởng niệm 150 năm cụ Phan tuẩn tiết (1867-2017), vừa
kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Trường Trung Học Phan Thanh Giản
Cần Thơ, đồng thời đánh dấu 20 năm sinh hoạt Phan Thanh Giản
& Đoàn Thị Điểm Hải Ngoại. Tôi còn đang phân vân vì thật ra tui còn kiếm đâu
để mà gác thì bất thình lình chị bạn đồng
song với tôi vào cái thuở còn là học sinh ở Collège de Vĩnh
Long từ năm 1949 là GS Phạm Thị Kim Chi, nguyên Hiệu Trưởng Trường
Đoàn Thị Điểm Cần Thơ đến bên tôi và phán một
câu xanh dờn gần "như lệnh xé xác"vậy: "kỳ này
anh phải viết một bài về sinh hoạt đại hội tối hôm nay nhen?".
Để thêm phần thuyết phục, bà ta còn nhắc câu chuyện cũ
(thật mắc cỡ vô cùng khi nhắc lại chuyện nầy) vào cái
lúc tôi mới vào học năm thứ nhứt (Première Année) và
được nhà trường quyết định chuyển tôi qua học chung lớp
với các cô bé nữ sinh nhí nha nhí nhảnh lớp con gái của
chị ấy (vì lớp nam quá đông học sinh) nên tôi đã
hoảng hồn hoảng vía òa lên khóc (có lẽ vì sợ học
kém con gái, vì thú thật với quý thầy cô và quý đồng
môn thân hữu là thuở ấy tôi nhát gái lắm chớ hổng
phải bổng nhiên trở thành quỷ sứ như bi giờ đâu?), tuy nhiên
tôi vẫn còn tí ti thông minh trong người nên bèn chạy
u, dĩ nhiên vừa chạy chậm chậm chớ hổng phải chạy marathon, vừa
khóc vừa mếu máo lên gặp vị GS Giám Học là thầy Phạm
Văn Thàn, thân phụ của chị Kim Chi, để xin được ở lại
lớp con trai chúng tôi. Vì thầy rất cưng tôi, tôi có vẻ
chủ quan quá quý vị à, và cũng vì sợ tôi khóc nhè
lâu quá làm ướt cả sân trường, nên thầy quyết định
thuyên chuyển anh Nguyễn văn Phẩm qua lớp nữ làm "vật tế
thần" thay thế tôi còn tôi được trở về "đơn
vị gốc" cùng với mấy tay bạn đực rựa phá như quỷ
của chúng tôi. Chị GS Phạm Thị Kim Chi đã quánh trúng tử
huyệt của tôi nên giờ này tôi mới hì hục mổ cò,
đánh máy hai ngón đó mà, để mần sao cho tròn nghĩa
vụ quân sự là có bài nộp cho người tổng bí thư,
ủa quên, người tổng biên tập, là người hiền đệ
đa tài Nguyễn Công Danh/Trần Bang Thạch của trang nhà trường chúng
ta đó mà. Lấy công tâm mà
nói thì quả thật Đại Hội Thế Giới XXI năm 2017 tổ chức
tại Houston Texas có quá nhiều điểm rất đặc biệt so với
các lần đại hội khác: 1.
Thành Phần tham dự: Qua 20 kỳ
Đại Hội, kể từ Đại Hội lần 1 tổ chức ngày 2 vả
3 tháng 8 năm 1997 tại Houston Texas cho đến Đại Hội XXI từ ngày
5 và 6 tháng 5 năm 2017 cũng tại thành phố nắng ấm tình nồng
Houston Texas thì lần này đã quy tụ một số lượng người
tham dự cao nhứt so với các nơi khác (lần đầu tiên vào
năm 1997 với số người tham dự trên 300 người, và năm nay đã
đạt đến mức kỷ lục là 746 người. Riêng thành phần
giáo sư năm nay cũng đạt mức cao nhứt là 46 vị). Quý vị giáo sự cùng quý đồng môn,
thân hữu và gia đình tham dự Đại Hội đã quy tụ từ
khắp nơi trên thế giới, từ Âu Châu đến Úc Châu, Mỹ
Châu, cho đến Việt-Nam, mà lần này TP Saigon có vị GS uyên bác
Lê Đức Cửu, còn TP Cần Thơ có hai vị giáo sư quen thuộc
là GS/thi sĩ Lê Trúc Khanh/Lê Phước Nghiệp và nữ GS Phan Thị
Thu Vân. 2. Ban Tổ Chức
Đại Hội: Tôi xin phép được
đưa mục Ban Tổ Chức Đại Hội lên trước để đề
cao tinh thần làm việc tích cực tuyệt vời của ban này vì như
người MC tuổi trẻ tài cao đến từ xứ sở con "cănguru/kangaroo"
Úc Châu là GS Bùi Hữu Việt đã nhiều lần tiết lộ
trong đêm Đại Hội là ông trời đã quá ưu đãi
thành phố nắng ấm tình nồng Houston Texas nên thanh phố này đã
tóm thâu quá nhiều nhân tài không biết cơ man nào mà
kể cho hết. Sơ sơ trên chóp bu có vị GS khả kính Nguyễn
Văn Trường từng là Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục VNCH hai nhiệm
kỳ đã cùng với nữ GS Phạm thị Kim Chi, Hiệu Trưởng Trung
Học Đoàn Thị Điểm nổ phát pháo đầu tiên đồng
ý đứng ra tổ chức Đại Hội lần này. GS Trường còn
tình nguyện đưa đón khách tham dự từ phi trường Hobby, TX
về khách sạn khi tuổi đời của GS đã ngót nghét lên
hàng 90? Sở dĩ cổ xe khổng lồ này chạy một cách êm ả
không chê vào đâu được là nhờ sự phục vụ hết
mình của tất cả mọi thành viên, mà hai con chiến mã Nguyễn
Công Danh/Trần Bang Thạch và Lê Hoàng Viện/Lê Cần Thơ (xin
lỗi hai hiền đệ nhen) đã chiếm công đầu, tuy nhiên phải
công bằng ban tặng cho tất cả quý GS và đồng môn trong Ban Tổ
Chức Houston TX điểm A++ mới tương xứng với sự cống hiến rất
đáng khen của mọi người. 3.
Diễn tiến hai buổi lễ Tiền Đại Hội và Đại Hội:
- Đưa đón khách
tham dự ĐH.
Ngoại trừ các
đồng môn thân hữu và gia đình ngụ tại Houston và phụ
cận, tất cả thành phần tham dự đều được đưa đón
tại một trong hai phi trường IAH/Bush và Hobby về Marriott Hotel, một khách
sạn rất khang trang xem như căn nhà chung của đại gia đình PTGĐTĐ
trong mấy ngày đại hội. Ban Tổ Chức đã khéo léo dàn
xếp với giá cả thật đặc biệt, họ chỉ thu với giá
khá thấp so với các khách sạn tương tự trong vùng Houston Westchase,
với giá biểu $79.00 và $89.00 một ngày thay vì bình thường
với giá $249.00 một ngày, dĩ nhiên bao gồm cả free breakfast.
- Đêm Tiền Đai Hội
5/5/2017.
Trọn buổi sáng ngày
5/5/2017, khách tham dự được tự do đi thăm viếng thành phố
nắng ấm tình nồng Houston TX, đến khoảng 4 giờ chiều thì lên
xe bông (ủa xe bus chớ bộ) đến nhà hàng Kim Sơn dự đêm
Tiền Hội xem như đêm Hạnh Ngộ (ăn mặc thoải mái). Đêm
nay là đêm khai mạc Chợ Đêm Ninh Kiều mở cửa trong 1 tiếng
đồng hồ với trên chục món ăn chơi rất ngon của tuổi
học trò như hột vật lộn , ủa quên, hột vịt lộn Xóm
Gà chớ bộ, nem nướng Cái Răng nữa nè, chè Cô Tám,
xôi bắp Ninh Kiều nữa nè, các loại bánh nướng chợ Cần
Thơ, cóc, ổi Ngô Quyền (mới nghe đã muốn chảy nước
miếng tùm lum tà la rồi bà con ui), rồi còn có đậu phọng,
bánh su sa, khô bò nữa nè, thiệt là ngon quá xá mấu? Không
biết cô em xinh gái Thiên Hương của tui đứng bán hàng có
len lén "nhón" món ăn ngon nào trong chợ đêm này hông?
Sau một giờ trưng bày thì các gian hàng bán sạch sành sanh,
láng coón luôn! Thiệt là ngon quá mờ! Sau phần khai mạc Chợ Đêm Ninh Kiều là phần dành cho
bà con tham dự tha hồ "tám" một cách thoải mái để
hồi tưởng cái thuở học trò vô tư lự năm nào. Nói
lén mấy cú nường chớ "tám" là nghề của mấy
nàng thiệt mà. Tui thử đi kiểm chứng xem thực hư ra sao nên bèn
tạt qua bàn cô em kết nghĩa ở Saigon qua tham dự thì bắt gặp
ngay một nhóm toàn là cựu sinh viên dược khoa, vui không thể
tưởng tượng vì cô nào cũng tranh nhau "tám" như cái
chợ chồm hỗm? (Tui xin lỗi mấy bà chớ thực sự là tui nói
thiệt đó nhen, có bồ Bùi Hữu Trạng đi bên cạnh tui làm
chứng mờ)? Nhắc tới đôi uyên ương tài hoa Bùi hữu
Trạng và Trương thị Ngọc Anh thì tui hổng thể nào quên
những nụ cười dòn tan và dễ thương của hai bồ này
mà dường như tui còn nợ họ một chiện "làm mai mối"
gì đó hổng biết đến bao giờ mới kết thúc câu chuyện
tình đầy sóng gió một cách có hậu đây, thôi thì
hẹn ngày tái nạm (lại quên rồi, ngày tái ngộ chớ bộ)
vào năm sau tại San Jose (nếu tui có khả năng) để luôn tiện
diện kiến với ông anh đẹp trai, trẻ mãi không già cùng
tuổi với tui là GS Nguyễn Như Hùng cho trọn tình trọn nghĩa (nói
như vậy có vẻ như thấy người sang bắt quàng làm họ
không bằng, phải hông bà con? Ngày
hôm sau (6/5/2017), ai ghi danh đi du ngọan thì lên xe bus để được
hướng dẫn đi viếng Moody Gardens khu ven biển Galveston để thưởng
ngoạn Rainforest với Aquarium Pyramid và Rainforest Pyramid hầu tận mắt thấy rừng
nhiệt đới ở Phi Châu và Á Châu hâm hấp nóng như thiệt
vậy. Sau đó chúng tôi vội vã ra xe bus đúng giờ để
về khách sạn chuẩn bị tham dự đêm Đại Hội chính thức.
Thời khắc mong đợi cho
đêm Đại Hội sắp đến. Đúng 4 giờ chiều, chúng tôi
ra xe bus gồm 5 chiếc dài ngoằng chuẩn bị đến nhà hàng Ocean
Palace (cả hai nhà hàng Kim Sơn và Ocean Palace đều có sức chứa
một ngàn thực khách). Riêng nhà hàng Ocean Palace nằm trên đại
lộ Bellaire, có tên Việt-Nam là đại lộ Saigon, cùng vài con
đường xung quanh có tên VN như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, v.v..
Nhà hàng được trang trí rất đẹp
mắt với cờ VNCH và Hoa Kỳ, với những cành phượng bông đỏ
rực rỡ cùng cách trang trí rất trang nghiêm dành cho đêm lễ
hội quan trọng này. Các phái
đoàn về tham dự Đại Hội được sắp xếp ngồi theo
quốc gia (Úc Châu, Âu Châu, Việt-Nam) hay theo tiểu bang, nhưng sau đó
vì quá đông nên có thể ngồi xen kẻ vào các chỗ
còn trống. Do vậy phái đoàn tiểu bang Massachusetts/New England của chúng
tôi và New Jersey có 2 bàn. Đại
Hội XXI tại Houston TX năm nay đã quy tụ 3 MC kiệt xuất nức danh dưới
trời Á Đông, nói vậy chớ 3 anh tài xuất chúng này, một
đến từ Melbourne, Úc Châu với GS tài hoa Bùi Hữu Việt, kế
đó là anh Phó Ngoại Vụ trong Ban Tổ Chức là GS Nguyễn Công
Danh/Trần Bang Thạch , người đã điều hành rất khéo léo
cùng với GS Việt và cháu Hoàng Thúy thành một bộ ba để
đưa đêm Đại Hội đến thành công mỹ mãn. Cháu
Hoàng Thúy là ái nữ của Trưởng Nhóm Houston TX Phan Thị Huệ,
người hiền muội đồng môn tuy nhỏ con nhưng là đai đen
nhu đạo của lò thầy Tỉnh Trưởng Phạm Đăng Cao, cùng
thời với đồng môn trưởng tràng cố Trung Tá Lưu Trọng
Kiệt (Lưu Départ), Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 42 BĐQ vang bóng một
thời. Mở đầu chương trình,
MC trưởng ban điều hợp Nguyễn Công Danh đã nói về ý
nghĩa thiêng liêng của ngày đại hội đối với Tổ Quốc,
đối với Quốc Tổ, và đối với Cụ Lương Khê Phan Thanh
Giản và Bà Hồng Hà Đoàn Thị Điểm. Tiếp nối chương trình là lễ rước linh vị
Cụ Phan và Bà Đoàn lên sân khấu được trang hoàng
rất đẹp đẽ, theo sau đó là nghi thức chào quốc kỳ
VNCH-Hoa Kỳ và quốc ca hai nước đã diễn ra trong bầu không khí
thật trang nghiêm. Sau hai nghi thức trọng
thể trên là phần phát biểu của các GS Nguyễn Văn Trường,
GS Lưu Khôn, GS Phạm Thị Kim Chi, GS Lê Đức Cửu (Việt-Nam), GS Phạm
Văn Đàm, GS Nguyễn Trung Quân, Tiến sĩ Huỳnh Long Vân (Úc Châu),
GS Lê Phước Nghiệp/Lê Trúc Khanh (Việt-Nam). Tiếp nối chương trình là phần văn nghệ vô
cùng phong phú của các phái đoàn đến từ Nam Bắc California,
Melbourne, Úc Châu, Houston, v.v. Đặc
biệt năm nay Đặc San 22 đã quy tụ đúng 100 cây viết trên
300 trang giấy với chủ đề Trở Về Mái Nhà Xưa để kỷ
niệm 100 năm Trường Phan Thanh Giản, một công trình văn nghệ đặc
sắc dưới sự điều hợp đầy sáng tạo của hai cộng
tác viên xuất sắc nhứt của trang nhà <www.ptgdtdusa.com> là Nguyễn
Công Danh/Trần Bang Thạch và Lê Hoàng Viện/Lê Cần Thơ.
Sau khi kết thúc đêm Đại Hội, qua ngày
hôm sau phái đoàn được chia làm hai nhóm: một nhóm trở
về "nguyên quán" vào ngay ngày hôm sau, nhóm còn lại
ghi danh đi du thuyền lớn "CARNIVAL BREEZE CRUISE LINE" trong 7 ngày từ ngày
7/5/2017 đến ngày 14/5/2017. Để thay
lời kết, người học trò già via cốc đế tui đây rất
muốn tham dự quá chừng chừng chuyến đi cruise vô tiền khoáng
hậu này nhưng bắt buộc phải đáo nhậm đơn vị cũ
vì những lý do bất khả kháng, không được cái diễm
phúc đi du thuyền cùng quý thầy cô và đồng môn thân
hữu để ghi lại phần tiếp theo nên rất buồn và tiếc hùi
hụi khi phải đặt dấu chấm hết nơi đây. TRẦN BÁ XỬ
Springfield, MA, ngày 10/5/2017 (trời đã lập Xuân nhưng vẫn còn se lạnh)
BẾN CŨ Trần
bá Xử Springfield, MA, ngày18/1/2017
Không phải đây là lần
đầu tiên người học trò già này trở về thăm ngôi
trường cũ và thành phố Cần Thơ thân thương năm nào
nhưng bổng nhiên tôi lại nghĩ đến hai chữ Bến Cũ
cùng tên với bản nhạc nổi tiếng của người đại niên
trưởng tài ba của tôi là nhạc sĩ Anh Việt, tức cố
Đại Tá Trần văn Trọng, đã từng một thời là Giám
Đốc Nha Quân Cụ, sau là Cục Trưởng Cục Quân Cụ của
QLVNCH. Bất giác tôi liên tưởng đến đọan đầu của
bản nhạc để thấy lòng mình rưng rưng, thật rưng rưng
như bất chợt quay về những kỷ niệm xa xưa của đời tôi,
của một thời anh học trò bé nhỏ nhưng liến thoắng ngày
ngày đã từng cắp sách đến trường mẹ, Trường Trung
Học Phan Thanh Giản Cần Thơ những niên học đầu thập niên 50:
"Bến ấy ngày xưa người đi
vấn vương biệt ly,
Gió cuốn muôn phương về đây, Thấy
bóng người về hay chăng....." Thấy bóng người
về hay chăng? Đã hơn 60 năm trôi qua, người xưa
nay đã trở về thăm mái trường cũ mà những vết tích
thân thương ngày nào vừa tròn 100 năm đã dần dần bị
bôi xóa, tuy nhiên chỉ bị xóa mờ trên thực tế nhưng luôn
luôn vẫn còn ngự mãi trong tim tôi! Và đây là lần thứ
ba tôi quay về chốn cũ để giải đáp câu "Thấy bóng
người về hay chăng" mà tôi thâm nghi chưa chắc gì cá
nhân tôi sẽ còn có dịp "Trở Về Mái Nhà Xưa"
như tên bản nhạc "Come Back to Sorento" vì giờ nầy tuổi
đời đã chồng chất lên đỉnh cao mất rồi!!! Theo dòng thời gian, tôi đã trở về thăm
mái trường xưa, đi qua những con đường quen thuộc ngày nào
đã dần thay đổi mà tôi không nhận ra? Trong sâu thẳm của
ký ức, có lẽ giờ đây tôi chỉ còn nhớ một vài
con đường cùng đia danh rất quen thuộc như đường Nguyễn
Trãi (đường Nhà Đèn) mà thôi. Cầu Đôi ọp ẹp
ngày ấy (dẫn đến Ô Môn, phi trường Trà Nóc, Bình
Thủy) đã lột xác hoàn toàn, rồi cầu Tham Tướng, rồi
Vườn Thầy Cầu, xóm Hai Địa? Nay còn đâu đường Hàng
Dương, đường Hàng Bã Đậu, đường Hàng Xoài
dài hun hút, đường Pétrus Ký, đường Capitaine d'Hers, đường
Phan Thanh Giản, bệnh viện Phan Thanh Giản, sân banh (bóng đá), bãi
đáp trực thăng cạnh sân banh của Cần Thơ năm nào? Nay còn
đâu đoạn đường dài ngút ngàn từ đường Hàng
Xoài trải dài đến Đầu Sấu, Cái Răng ? Ngày ấy con
sông Cái Răng quá chật hẹp bên cạnh Chợ Nổi với cây
cầu dài khoảng vài chục thước nay được thay thế bằng
chiếc cầu dài ngoằng biệt mù sơn dã nối liền Cái Răng
Bé, Cái Răng Lớn? Thời
gian lưu lại Cần Thơ: Gần cuối năm Bính Thân 2016, tôi
quay về chốn cũ để họp mặt các bạn bè đồng môn
Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm lần thứ nhất, mà thật ra là
lần thứ ba nếu kể từ ngày tôi quay về quê mẹ lần đầu
tiên. Hồi tưởng lại gần hai năm về trước, tôi đã
hội ngộ với gần 20 đồng môn thân hữu, đặc biệt có
3 anh học cùng lớp là Nguyễn Thới Lai, Nguyễn Trung Nghĩa, và người
thấp nhất là cá nhân tui chỉ cao có 1m,67 khi ghi danh nhập học Trường
Võ Bị Quốc Gia VN Đà Lạt, mà hổng biết tại sao giờ nầy
các bạn bè và con cháu bảo tui chỉ còn tối đa là 1m,
65, ôi thật đau buồn cho cái tuổi già nó xồng xộc ập tới
khiến cả cái chiều cao khiêm nhường của tui cũng bị cắt xén
mất tiêu luôn! Tuy vậy, để bù lại, lần họp mặt kỳ
này, qua trung gian của bà cô GS Kim Quang, cựu Hiệu Trưởng Trường
Trung học Tân Hưng, Cái Răng, tôi rất hân hạnh được gặp
mặt người cháu cô ta là anh bạn cùng lớp Nguyễn Lương
Sinh, người bạn trẻ tuổi đẹp trai nhất lớp mà có thời
gian chúng tôi ở trọ chung nhà tại đường Pétrus Ký có
hai cô chủ nhà đẹp gái hết biết (theo tiết lộ của anh bạn
Lương Sinh còn nhớ cả tên chị Điểu và Alice Cang nữa,
chứ tôi hoàn toàn ngây thơ vô...số tội, họa chăng có
Trời biết mà thôi?). Lần họp mặt kỳ này cũng khá vui nhộn
tuy thiếu vắng người niên đệ vui tính và ồn ào nhất
là Luật sư Hồ Trung Thành vì bận du lịch Winnipeg, Canada nên không
"đáo nhậm đơn vị mới" kịp thời. Cũng trong lần tái
ngộ này có sự vắng mặt của anh bạn cùng lớp đã
tham dự lần trước là Nguyễn Trung Nghĩa. Ngày ấy, anh cao lớn
vạm vỡ từng là hảo thủ bóng chuyền của trường, nhưng
lần này anh bị bệnh đi khập khiễng phải chống gậy, cô Kim
Quang và tôi đề nghị cho người chở anh ấy đến chỗ họp
mà anh nhất quyết khước từ vì sợ gây phiền phức cho bạn
bè. Anh còn cho biết hiện đang lưu giữ quyển lưu bút
ngày xanh có bút tích của các bạn cùng lớp như Nguyễn
Thới Lai, Huỳnh Minh Bảo, Trương Quang Minh, và tui nữa, v.v. nên tui mừng
húm nài nỉ anh đưa tập này cho bạn bè xem nhân ngày họp
mặt nhưng sau đó anh bảo quyển lưu bút quý giá ấy biến
đâu mất (có lẽ vì tuổi già và bệnh tật đã
khiến anh quên để đâu mất rồi), khiến tui tiếc hùi hụi
nhưng biết làm sao hơn khi sức khỏe của anh không cho phép!
Sau đó, tôi trở lên Saigon chứng kiến
một sự kiện trọng đại: năm trước tôi về Saigon tham dự
đám cưới đứa cháu ngoại trai cưng thì năm nay cháu
ấy mới có đứa con trai đầu lòng, như vậy tôi bổng chốc
lên tới chức ông cố một cách ngon lành? Nếu Nhà Tôi còn
tại thế, chắc hẵn Nhà Tôi sẽ hạnh phúc biết bao vì ngày
xưa vợ tôi từng bồng bế nâng niu cháu ngoại trai của chúng
tôi một thời gian dài thì bà sẽ cưng đứa cháu cố
này vô cùng tận rồi. Hơn
nửa tháng sau, tôi lại trở về Cần Thơ để tham dự ngày
rằm tháng giêng thượng nguơn do cô hiệu trưởng Kim Quang tổ
chức hằng năm với hơn 20 bạn bè thân hữu đồng môn tham
dự. Tất cả chúng tôi đều dùng cơm chay, nhưng không vì
thế mà thiếu sự ồn ào vui nhộn với sự trở về của
niên đệ LS Hồ Trung Thành. Do sự sắp xếp của GS Kim Quang cùng
với người ca nhạc sĩ tài danh Ngô văn Thanh (đến từ North Carolina,
Hoa Kỳ) qua tiếng đàn guitare điêu luyện ngọt xớt, tui đã
bạo gan lọt vào mê hồn trận nghêu ngao bài Chiếc Lá Cuối
Cùng của Tuấn Khanh để riêng tặng Nhà Tôi khiến tui bổng
chốc đã trở thành "thằng chột làm vua" bất đắc
dĩ? Trở Về Quê Hương
Thứ Hai: Cuối cùng rồi tui cũng
"lên xe bông", ủa quên lên máy bay trở về quê hương
thứ hai sau một thời gian lưu lại Saigon. Trên chuyến bay từ Saigon qua Tokyo,
Nhật Bản rồi từ Nhật về thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ,
mọi việc đều rất xuôi chèo mát mái nên tôi rất vui
mừng tuy không bao giờ tôi dỗ được giấc ngủ trên máy
bay. Từ Washington DC, sau khi xong thủ tục nhập cảnh, tôi lên máy bay nhỏ
để về Hartford, CT gần thành phố Springfield, MA nơi tôi cư ngụ
với chỉ gần một giờ bay mà thôi nên tôi mong cho sớm về
đến nhà để nghỉ ngơi. Bấy giờ mới 5 giờ chiều nhưng
bầu trời vần vũ như sắp có giông bão. Vì là máy
bay loại nhỏ đi quảng đường ngắn nên tôi có cảm giác
máy bay đang khiêu vũ trên bầu trời xám ngắt qua những hố
không khí (trou d'air) làm tôi hơi lo ngại, chẳng lẽ còn
một đọan đường rất ngắn mà tôi không được
yên thân hay sao? Tuy nhiên, cuối cùng chúng tôi cũng về đến
phi trường bình an vô sự. Ra khỏi phi trường, tôi cảm thấy
cái lạnh bất chợt xâm nhập tuy tôi đã chuẩn bị trước
áo ấm rồi. Tôi về tới nhà thì trời đã chạng vạng
tối khi độ lạnh tăng dần, lúc bấy giờ đã khoảng 2 độ
F, gần âm 15 độ C. Thành phố Springfield thân yêu đã đón
tiếp tôi như vậy trong ngày trở về? Nồng hậu hơn nữa là
qua hai ngày hôm sau thì trận tuyết dầy hơn 3 tấc (khoảng hơn
1 foot) đã ụp xuống thành phố (cả trường học và hảng
xưởng đều nghỉ việc) nên con tôi phải vất vả ủi tuyết
để có chỗ di chuyển đó đây. Để thay lời kết, tôi có cảm giác là dường
như Thượng đế muốn thử thách sức chịu đựng của
tôi qua cái rét run người mỗi lần từ Việt Nam trở về Mỹ.
Thật vậy, trong năm trước tôi đã được nếm cái lạnh
thấu xương khi đáp xuống phi trường O'Hare ở Chicago, và năm
nay, trận tuyết muộn màng đã trìu mến đón tiếp tôi
và để lại trong tôi một dấu ấn khó phai sau mỗi chuyến
viễn du. TRẦN BÁ XỬ, chs PTG/CT
Springfield, MA, mùa giá rét để đời,
2017
Tạp Ghi THƠ
VỚI THẨN________________ Trần Bá Xử
Springfield, MA Vài lời phi lộ: Người học trò "già via cốc đế"
nầy thấy một số đồng môn Trường Phan Thanh Giản - Đoàn Thị Điểm của chúng ta đã
sáng tác nhiều bài thơ hay tuyệt vời, từ vị giáo sư đànanh khả kính Phạm Khắc Trí đến Tây Đô Cuồng
Sĩ Chân Diện Mục, rồi nhiều biệt thự ...thơ như Trầm Vân, như Vương Thủy Tùng hoặc
lâu đài...thơ tuổi trẻ tài caoMai Lộc với những bài thơ ướt át cùng những bài
phỏng dịch thơ các thi sĩ Pháp vang bóng một thời hay hết ý nè, tuy nhiên nếu không nhắc
đến người nữ thi sĩ chưa lọt tuốt xuống sông "Cái Răng ..Khểnh" Kim Quang thì sẽ là
một thiếu sót lớn, phải hông hiền đệ Nguyễn Công Danh của ngu huynh? Do vậy bỗng nhiên tui lại
thấy ngứa ngáy tay chân, ngứa tay
thì đặng chớ ngứa chưn để làm cái gì ở đây
nè, nói túm lại tui muốn tỉ tê đôi điều về những lâu đài...thơ của cái xứ
Phờ-Lăng-Xa xa xôi dịu vợi, nước Phốp í mà, vì hồi
nhỏ tui cũng thích thơ với thẩn
lắm nhưng chẳng đẻ ra được một bài thơ nào cho ra hồn
ra vía gì cả. Nói vậy chớ
thủa ấy lúc mới học từ lớp "xanh kèm" trở lên gì
đó (cinquième), tui đã nổi hứng
và gồng mình viết thư cho anh bạn thân ở Châu Đốc toàn
bằng thơ không mới là lọa và oai chớ bộ, nhưng sau đó bị ngẩn tò te và cụt hứng
như bị xì lốp xe khi nhận được lời khen của ông anh người bạn là thi sĩ có tiếng
thứ thiệt (hổng biết có đúng là khen thiệt hay khen giả hay không) nên tui bị ê càng và dẹp
tiệm luôn vì không dám múa rìu qua mắt thợ nữa.
Trong bài Tạp Ghi nầy, tui chỉ dám đề
cập đến trào lưu lãng mạn ở phương Tây, đặc biệt
là Pháp Quốc, kể từ những
năm 30 của thế kỷ thứ XIX, trong sự đảo lộn sâu sắc của
xã hội và sự yếu thế của
đức tin tôn giáo, cộng với sự phát triển và thống trị
của chủ nghĩa tư bản, mà đặc
biệt sau cuộc đại cách mạng 1789 của Pháp. Trong bối cảnh đó,
xuất hiện nhiều khuynh hướng trong
đó có chủ nghĩa lãng mạn trong lãnh vực văn chương,
hội họa và âm nhạc mà tui
xin phép được nói qua về văn chương mà thôi. Văn chương lãng mạn: Trong văn chương, chủ nghĩa lãng mạn thể
hiện rõ nét nhất ở Pháp, nơi có nền văn học phát
triển rực rỡ, hay nói như Maxime
Gorki là nền văn học có tính quyết định (decisive) của châu
Âu. Chủ nghĩa lãng mạn đối
nghịch với chủ nghĩa cổ điển, ra đời từ cuối thế kỷ
thứ 18 đầu thế kỷ 19, nguyên
thủy là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực rồi tiến dần lên
tích cực, tạo ảnh hưởng lớn
cho các nhà văn hiện thực sau nầy như Prospée Mérimé hay Honoré
de Balzac, hoặc George Sand và Victor Hugo từ
lãng mạn tích cực tiến gần đến hiện thực phê phán.
Thực ra chủ nghĩa lãng mạn trước
tiên bắt nguồn từ Anh và Đức vào khoảng năm 1795, mà trước đó đã bàng bạc qua
các lãnh vực đề cập ở trên trong một số tác phẩm
như Confessions và Rêveries d'un promeneur solitaire
(1782) của Jean Jacques Rousseau hay Werther (1774) của
Goethe. Qua đầu thế kỷ 19 ở Pháp, Chateaubriand và Mme de Stael cũng khởi xướng chủ nghĩa lãng mạn dựa
theo nền văn chương non trẻ của Đức, nhưng mãi đến năm 1820 thì dòng văn học lãng mạn
mới định hình ở Pháp. Từ năm 1827, người thi bá đầu đàn Victor Hugo, được hội
tụ chung quanh ông với những Lamartine, Alfred
de Musset, Alfred de Vigny, Gérard de Nerval, v.v. cùng với họa sĩ Delacroix, đã
đưa chủ nghĩa lãng mạn đạt
đến đỉnh cao nhất. Như vậy, nói không phải nói ngoa
là chủ nghĩa lãng mạn là
một hiện tượng nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ 19.
Từ năm 1848, với sự sụp đổ
của nền quân chủ Pháp với các trào lưu dần dần suy yếu
nên họa chăng chỉ còn một vài
tài năng như Victor Hugo, nhưng với Beaudelaire, và tiếp theo đó là
những nhà siêu thực, ảnh hưởng
của chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn kéo dài cho đến cuối
thế kỷ 19. Một vài nhà
thơ lãng mạn: Như đã
nói ở trên, thế kỷ 19 của nền văn học Pháp đã sản
sinh ra nhiều thi sĩ tài danh mà trong
số đó chúng ta không thể không nhắc đền những tên
tuổi lẫy lừng như Victor Hugo, Lamartine,
Alfred de Musset, Alfred de Vigny, và sau cùng là Félix Arvers, một nhà thơ
vĩ đại với chỉ có một
bài thơ (sonnet) Tình Tuyệt Vọng trong Mes Heures Perdues. Victor Hugo rất nổi tiếng với những tác
phẩm văn học lẫy lừng như Nhà
Thờ Đức Bà (Notre Dame de Paris, 1831)) hoặc Người Khốn Khổ (Les Misérables, 1862), hay những bài thơ lừng danh
thế giới như Odes et Póesies Diverses (1822),
Nouvelles Odes (1824), Odes et Ballades (1826), Les Orientales
(1829), Les Feuilles d'Automne (1831), Les Chants du Crépuscule
(1835). Về kịch thì ông đã
thành công với Préface de Cromwell (1827) hay với Hernani (1830), Ruy Blas (1838).
Victor Hugo không chỉ nổi tiếng với những
tác phẩm nghê thuật lẫy lừng nêu trên mà còn được biết đến như tác giả của
những bức thư tình khiến trái tim mọi phụ nữ ở mọi thời
đại phải tan chảy, dù có đem
lòng yêu mến ông hay không qua những bức thư nóng bỏng gởi
cho nàng Adele Foucher là người yêu
đầu đời của ông ta. Chàng thanh niên V. Hugo là phải hông quý vị, chắc hẵn hổng thua gì
người học trò già quỷ sứ nầy là cái chắc vì mới
bi nhiều tuổi đầu mà đã
biết tán gái rồi?). Cô nàng Adele Foucher là cô bé hàng
xóm, nhưng cuộc tình mới chớm
nở nầy đã bất thành vì gia đình hai bên đều từ
chối, nhà trai từ chối do không
môn đăng hộ đối (cha V. Hugo là một tướng quân dưới
trướng của Napoléon Đại Đế chớ có ít ỏi gì đâu) còn nhà gái không ưng
thuận vì cu cậu V. Hugo này quá bay bướm (chắc cũng na ná giống như tác giả quá bà con ơi),
nhưng cà hai vẫn bí mật đính hôn, và vì chữ hiếu
nên chàng V. Hugo chỉ chính thức
cưới Adele Foucher sau cái chết của mẹ vào năm 1822. - Lamartine (Alphonse de Lamartine):
Từ thuở nhỏ, Lamartine (1790-1869) đã say mê
đọc sách của J.J. Rousseau, Chateaubriand, Dante, Swedenborg, và những tác giả
nầy đã có ảnh hưởng đến
văn chương của ông sau này. Qua Lamartine, chúng ta được biết
đến những tác phẩm lừng danh
như Méditations Póetiques (1820), Nouvelles Méditations ( 1823), Harmonies Póetiques et Religieuses
(1830), Jocelyn (1836), La Chute d'un Ange (1836), Recueillements
Póetiques (1839), Confidences (1849), Graziella (1852).
Lamartine,
nhà thơ và nhà chính trị Pháp, đã nhiều lần đi
du lịch nước ngoài (Ý, Trung Á) trong
đội cảnh vệ Hoàng gia. Cái chết của người yêu Elvire (12/1817)
là mất mát lớn nhất trong đời,
đã gợi cảm hứng cho ông vào tập thơ đầu tiên Trầm
Tư (Méditations Póetiques) cho ta thấy
những cảm xúc và suy tư về tình yêu, thiên nhiên, thân
phận con người, cái chết và
Chúa. Tập Trầm Tư đã làm nức lòng dân chúng Pháp
được thấy lại chất thơ trữ tình đã mất sau khi Ronsard (Pierre de Ronsard, 1524-1585) ra đi vĩnh viễn.
Chùm tập thơ Trầm Tư (Méditations
Póetiques) Ở ngưởng cửa trung học, không mấy ai trong chúng
ta là không biết đến những bài thơ trữ tình của Lamartine trong một chuỗi 7 bài thơ xuất sắc
trong Trầm Tư (Méditations) như Le
Lac (Hồ Xưa), L'Isolement (Cô Đơn), Souvenir (Kỷ Niệm), Milly ou La Terre Natale (Cố Hương), L'Automne (Mùa Thu), Le Vallon (Thung Lũng),
và Un Nom (Tên Cố Nhân). Như chúng
ta thấy theo thứ tự, bài thơ Le Lac (Hồ Xưa hay Hồ Ơi) có lẽ
được vinh dự đứng hàng
đầu mà rất nhiều thi sĩ đã phỏng dịch, trong đó dĩ
nhiên không thiếu tên chàng tuổi
trẻ tài cao Mai Lộc của Trường Mẹ chúng ta. Ngày ấy, tui cũng nhớ lỏm bỏm vài câu đầu
và 4 câu chót ra vẻ ta đây cũng ngon lành chớ bộ:
"Ainsi,
toujours poussés vers de nouveaux rivages, Dand
la nuit éternelle emportés sans retour...." (Cứ
xô đẩy về phía bờ mới lạ, Chẳng quay về - Đêm vĩnh cửu mênh mang, Có bao giờ trên biển cả thời gian
Ta neo giữ được một ngày dừng
lại- Hoàng Nguyên Chương dịch) Và 4 câu chót ra cái điều le lói một giây
rồi chợt tắt cho phải phép: "Que
le vent qui gémit, le roseau qui soupire, Que les
parfums legers de ton air embaumé, Que tout ce qu'on
entend, l'on voit ou l'on respire, Tout dise: "Ils
ont aimé". (Có thể còn trong
lau sậy thở dài, tiếng gió rỉ rên, Trong hương thơm nhẹ nhàng theo khí trời tỏa ngát,
Có thể mọi vật đang lắng nghe, đang
nhìn dào dạt, Tất cả
đồng thanh rằng "Họ đã yêu nhau" H. Nguyên Chương
dịch) Theo tài liệu ngày ấy cho rằng, Lamartine và Julie Charles,
còn có tên là Elvire, đang bị bệnh
phổi, đã vô tình gặp nhau tại hồ Bourget, và bất ngờ Lamartine
đã cứu Elvire khỏi bị chết
đuối, và họ đã quen nhau, yêu nhau, và có rất nhiều kỷ
niệm thật êm đềm. Họ hẹn nhau sẽ
gặp lại vào năm sau nhưng chàng không gặp nàng. Đau buồn
quá, Lamartine đã làm bài thơ
để tặng nàng nhưng nàng không bao giờ có dịp để đọc
vì nàng Elvire yêu dấu của chàng đã mất trước đó vào tháng 12/1817. Ngoài Le Lac, Lamartine
còn có bài trường thi L'Isolement (Cô Đơn) với 52 câu với
13 phân đoạn mà lâu đài
thơ MaiLộc nói đùa với tui là có vẻ hơi ê càng vì
dài quá. Trong bài Cô Đơn, chúng
ta thấy 4 câu đầu như sau; "
Souvent sur la montagne, à l'ombre du vieux chêne,
Au coucher du soleil, tristement je m'assieds: Je
promène au hazard mes regards sur la plaine,
Dont le tableau changeant se déroule à mes pieds... (Ngồi
dưới bóng sồi già trên đỉnh núi Lúc chiều vàng tôi buồn bã lâng lâng
Dõi mắt nhìn cánh đồng ở
dưới chân Đang đổi sắc
thay màu khi nắng xuống...) và
4 câu chót: " Quand là feuille des bois
tombe dans la prairie, Le vent du soir s'élève
et l'arrache aux vallons; Et moi, je suis semblable
à la feuille flétrie: Emporté
moi comme elle, orageux aquilons!" (Khi cánh
đồng bị lá rừng phủ kín Gió đêm lên cào xé khắp trũng sương Và tôi đây như chiếc lá còn vương
Hỡi giông tố, hãy cuốn tôi theo
lá!) Khi đọc Lamartine, tui cũng muốn dành đôi ba phút để
vinh danh bài Milly ou La Terre Natale
(Cố Hương) mà nhà thơ MaiLộc đã phỏng dịch
rất hay, trong đó tui tâm đắc nhất 2 câu thơ cuối cùng: " Objets
inanimés, avez-vous donc une âme, Qui
s'attache à votre âme, et la force d'aimer?"
(Hỡi những vật vô tri kia đó, Nói cho ta mi có hồn không?
Nào hay cái vẽ lạnh lùng,
Mà tình mi cột tận cùng hồn ta!)
____________________________MaiLộc
Để chấm dứt phần tản mạn những
vần thơ lãng mạn trong nền văn
học Pháp vào thế kỷ thứ XIX, học trò già này xin mạn
phép quý thầy cô, quý đồng
môn niên trưởng và môn đệ cho tôi được ba hoa chích chòe đôi điều về nhà
thơ mà tôi tâm phục khẩu phục
nhất tuy ông ta là tác giả nhiều vở kịch khá thành công,
nhưng những tác phẩm của ông
đã bị lãng quên, ngoại trừ duy nhất có một tập thơ Mes Heures Perdues (Những Giờ Khắc Bị
Đánh Mất) nên người
ta gọi ông là "Người Thi Sĩ của Một
Bài Thơ".
Đúng vậy, ông là thi sĩ một bài thơ nhưng là bài
thơ rất nổi tiếng đã để
lại đời đời cho hậu thế. Vào
nửa đầu thế kỷ XIX, thời kỳ rực rỡ nhất của trường
phái lãng mạn, trong lúc các
tác giả khác thông thường phóng túng trong nội dung và hình thức thì ngược lại, Félix
Arvers lại chọn sonnet, một
thể thơ đòi hỏi nhiều ràng buộc về hình thức. Mỗi
bài sonnet chỉ có 14 câu, bao gồm
2 khổ thơ 4 câu (quatrain) và 2 khổ thơ 3 câu (tercet), trong đó mỗi câu gồm 13 âm tiết (syllable). Cách
gieo vần cũng theo một quy định chặt chẽ: nếu ở các khổ 4 câu có thể dùng các loại
vần thông dụng (usual rhythm), thí dụ như vần chéo: ABAB (diagonal rhythm), hoặc vần ôm: ABBA (rhyme embrassé),còn
các thể 3 câu phải gieo vần liền
2 khổ theo kiểu CCD / EED hoặc CCD /EDE. Félix Arvers đã chọn thể thơ
sonnet rất khó thực hiện trong các
thể loại thơ lãng mạn, nhưng ông đã thực hiện một cách thật hoàn chỉnh, rất đáng được
khen ngợi như chúng ta đã biết. Ngày
trước, có một lần tôi đã thắc mắc không biết người
đẹp mà ông ta si mê là ai vì đây là một người đẹp rất đoan trang, hiền thục
mà chính nàng cũng không biết người được miêu tả trong những vần thơ trác tuyệt ấy
là ai đến nỗi có lần nàng đã vô tình và thản
nhiên dẫm chân lên cả khối
tình của người khác đã nâng niu trao tặng trong 2 câu thơ
mà tôi tâm đắc nhất:
"Elle ira son chemin, distraite et sans entendre Ce murmure d'amour élevé sur ses pas" "Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên
trên khối tình" Không
phải riêng cá nhân kẻ hèn này mà cũng có nhiều người,
khi đọc xong những vần thơ hay tuyệt
vời của Félix Arvers, có ý tò mò muốn biết ai là nguyên
mẫu, và là nguồn cảm hứng
khiến ông ta ôm mối tình tuyệt vọng viết nên bài thơ sonnet
trác tuyệt nêu trên. Không ít người cho rằng đây chỉ có
tính cách phúng dụ (allegorical), biểu tượng cho sự trong trắng, chân thật của nhân vật được
mô tả nhưng thiết nghĩ giả thuyết nầy không đứng vững và không có tính thuyết phục
cao. Một ý kiến khác suy đoán
rằng người đẹp là phu nhân của Victor Hugo tên Adèle, bạn
thân của Arvers mà ông ta đã
kín đáo nhắc đến tên Adèle bằng cách dùng
chữ "fidèle" và "d'elle"
trong khổ thơ cuối. (À l'austère
devoir, pieusement fidèle, Elle
dira, lisant ces vers tout remplis d'elle: "Qualle
est donc cette femme?" et ne comprendra pas.) Ngoài
ra, còn có một ý kiến khá vững cho rằng đây là nàng
Marie Nodier, ái nữ của viện sĩ Viện
Hàn Lâm Pháp Charles Nodier (1780-1844), người thường tổ chức những
buổi bình thơ văn tại thư viện
Arsenal quy tụ nhiều thi sĩ lừng danh như V. Hugo, Lamartine, A. de Vigny, A. de Musset... Những lần gặp gỡ thường xuyên
nời đây đã khiến Arvers thầm
yêu trôm nhớ Marie Nodier mà không hề ngỏ ý cho đến khi nàng
sang ngang vào năm 1833 và trở thành
bà Marie Mennessier - Nodier (theo bái viết của Thân Trọng Sơn). Dù sao thì bài thơ tuyệt tác Sonnet của
F. Arvers đã được nhà văn Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn dịch rất xuất sắc và
Lãng Nhân Phùng Tất Đắc cũng đã có một bài dịch
rất hay để cho chúng ta nghiền ngẫm.
Riêng thi sĩ F.Arvers đã mất rất sớm
ở lứa tuổi 40 trong nghèo nàn và bệnh hoạn. Thay cho lời kết, tôi rất say mê chủ nghĩa và
nền văn chương lãng mạn của Pháp vào thế kỷ thứ XIX tuy chủ nghĩa này khởi đi từ
Anh và Đức trước tiên ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nhưng chỉ nở rộ ở
Pháp và lên đến tột đỉnh qua những tên tuổi lớn như
Victor Hugo, Lamartine, Alfred de Musset. Alfred de Vigny, hay
Chateaubriand, Anatole France, Félix Arvers là tiêu
biểu, nên chắc hẵn đã làm cho cả thế giới phải ngã
mũ chào một cách trang trọng và
kính phục. TRẦN
BÁ XỬ Springfield, MA, trời lập
Thu, 2016 _______________________________________________________________________________
TẠP GHI
LANG THANG VỀ QUÊ MẸ____________________
TRẦN BÁ XỬ
- CHS PHAN THANH GIẢN CẦN THƠ Trên
cõi đời có rất nhiều chuyện bất ngờ mà chúng ta rất
khó dự đoán trước được ví vượt ngoài mức
tưởng tượng của chúng ta, trong đó dĩ nhiên có những
bất ngờ thật thú vị, êm đềm nhưng cũng có không ít
những điều gây cho chúng ta những lo âu, sửng sốt, vượt khỏi
những suy tư thông thường của chúng ta.
Trò
TÙNG, trò HỒ NGUYỄN, trò NGHĨA, trò KIM QUANG, trò XỬ, trò
TRUNG, trò THỚI LAI, trò Hát Tê Tê, trò HẬU, trò TRUNG NGHĨA,
trò ĐỨC, trò LƯU, trò NGHIỆP, trò DÂN và trò BỒI.
Trong năm 2014, là một cựu học sinh già
nua chậm chạp của Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ đang chuẩn bị
bước một chân vào ngưỡng cửa nghĩa trang Quân đội (xin
lỗi quý thầy cô và quý đồng môn vì tôi cứ ngỡ
tôi vưỡng còn là dân nhà "banh"} khi nhận biết mình
ở lứa tuổi cổ lai hi, nên tôi cố gắng quay về cố hương
để thăm lại những cảnh cũ người xưa (bi giờ chỉ cò
lèo tèo một hai "trự" là nhiều lắm rùi) của cái
thưở học trò chuyên nô đùa phá phách một cách
dễ thương, cũng có nhiều lúc đáng ghét dễ bị ăn
đòn như chơi cùng những mối tình học trò chợt đến
trong thoáng chốc, chợt bay đi rồi biến mất. Cũng trong năm này,
ngoài việc gặp lại những đờng môn niên đệ thân thương
như nhà giáo Anh Văn vá Pháp Văn Nguyễn Kỳ Phương hay người
Học Trò Già (HTG) Luật sư Hồ Trung Thành, điều hạnh phúc
nữa là được hàn huyên tâm sự với anh bạn đồng
môn học cùng lóp ở thập niên 50 với các vị thầy khả
kính Nguyễn Băng Tuyết, thầy Nguyễn Cao Thăng, thầy Nguyễn Văn Trọng,
thầy Mạnh, Cường, Thiệu, Quan, Quý, Cam, Hựu, v.v. Niềm hân hoan và
điều tâm đắc nhứt được nhân lên bội phần khi tui
được gặp lại anh bạn cùng xóm Võ Tánh ở bên hông
trường Mẹ đã mất tin tức gần nửa thế kỷ, một nhạc
sĩ vĩ cầm và tây ban cầm Hạ Uy Di nổi tiếng với biệt danh
là "người nghệ sĩ lăn tuốt xuống mương?" học trò già PTG.HTT, trò XỬ, trò
TRUNG NGHĨA, trò TRUNG và trò HẬU. Tôi cứ ngỡ năm 2015 đã khép kín cánh cửa
không cho tôi cơ hội quay vè Cần Thơ lần này nhưng bất ngờ
vẫn là bất ngờ như đã nêu ở trên, hơn nữa lại
là một sự bất ngờ thật kinh hoàng mà tôi sẽ kể tiếp
dưới đây. Trước đây,
tôi vẫn ước mơ được viếng thăm quý thầy cô
và đồng môn, thân hữu quê ở Cần Thơ hoặc xuất thân
từ Trường Phan Thanh Giản - Đoàn Thị Điểm Cần Thơ hiện
đang định cư tại Houston và vùng phụ cận tiểu bang Texas, Hoa Kỳ
vì theo thiển ý của tôi Houston nói riêng và Texas nói chung
là cái nôi của Hội Phan Thanh Giản - Đoàn Thị Điểm Cấn
Thơ của Thế Giới, là tổng hành dinh (lại dùng danh từ "nhà
banh" nữa rùi), nếu không thì tại sao khi khổng khi không lại
xuất hiện từ khuya trang nhà www.ptgdtdusa.com. Viết đến đây tôi có yêu cấu rất nhỏ là hai người
niên đệ tài ba của tui là Nguyễn Công Danh và Lê Hoàng
Viện (những công thần sáng giá nhứt của trang nhà) đừng
đỏ mặt nhen các hiền đệ! Cũng vì sự ngưỡng mộ
và cảm tình này mà tôi đã lặn lội đến Hoston, tuy
hổng có vượt sông vượt biển gì ráo trọi, để
gặp dung nhan mùa Xuân của của quý thầy cô và đồng môn
(ngon lành chưa?}. Đúng ra thời
gian lưu lại Houston sẽ dài hơn nhưng, chữ "nhưng" quái ác
này đã khiến tôi phải tức tốc trở về Springfield, MA ngay vào
giữa trưa hôm sau để bay về Saigon ngay vào khuya cùng ngày.
Sự việc này là "hỏa tốc"
vì con gái đầu lòng của tôi vừa về Saigon thăm gia đình
khoảng ba tuần trước thì bị tai nạn xe cộ, bị chấn thương
sọ não (brain injury) phải giải phẩu khẩn cấp (brain surgery) để lấy
máu bầm trong não ra. Bác sĩ yêu cấu có sự đồng
ý gấp của thân nhân để giải phẩu, cũng may đứa em gái
đã xuống kịp thời trước đó, và trong vòng 5 phút
cháu được giải phẩu ngay. Trước đó, đứa em gái
có đề nghi Bệnh Viện Đa Khoa Rạch Giá chở chị cháu về
Bệnh Viện Chợ Rẩy/Saigon để chửa trị nhưng bác sĩ bảo
không kịp thời gian. Ngồi trên máy
bay Korean Air mà lòng tôi như lửa đốt. Người tôi như bay
bổng ở trên không, quên trước quên sau không nhớ gì cả.
Về đến nhà thì chỉ còn hai đứa cháu ngoại vì ba
mẹ cháu đang ở bệnh viện. Tôi gọi điện thoại để
mua vé xe xuống Rạch Giá gấp nhưng hai con khuyên tôi nên chờ
vì xe chạy trong mấy ngày Tết rất nguy hiểm dễ gây tai nạn chết
người, chúng nó không muốn có thêm một người bệnh
nữa, hơn nữa trong lúc này, đã gần 3 ngày rồi, mà con
gái tôi vẫn còn mê man bất tĩnh nên tôi có xuống cũng
chẳng làm gì được. Vì quá lo lắng nên tôi đã
nhờ đứa cháu làm ở dịch vụ du lịch hàng không để
lo tím vé máy bay nhưng không còn một vé nào cả vào
lúc bấy giờ. Mãi đến trưa mùng hai Tết tôi mới đến
bệnh viện. Trông thấy con mà tôi không cầm được nước
mắt, nhưng nhờ ơn Trời Phật, mà tôi nghĩ cũng có sự
che chở của Nhà Tôi là mẹ cháu đã cầu xin ơn trên
phù hộ che chở cho đứa con gái đầu lòng của chúng tôi
nên sau hơn ba tuần điều trị tại Bệnh Viện Đa Khoa Rạch Giá,
cháu đã tai qua nạn khỏi và đang dần dần hồi phục
Hơn nửa tháng sau, bác sĩ điều trị
cho phép xuất viện. Để bảo đảm an toàn tối thiểu, cháu
tiếp tục nằm chăm sóc đặc biệt hơn một tuần tại nhà
người cháu bà con có thân nhân đang làm Phó Giám Đốc
tại Bệnh Viện Đa Khoa sở tại. Khi
bác sĩ xác nhận cháu có thể về Saigon một cách an toàn,
cháu được về Bệnh Viện Chợ Rẩy để tái tổng kiểm
tra lần cuối cùng. Vì cháu di
máy bay Nhật (JAL) trong khi tôi đi máy bay Đại Hàn (Korean Air) nên
tôi phải hũy bỏ chuyến bay của tôi và mua vé máy bay cùng
chuyến với cháu để lo lắng cho cháu, như vậy tôi phải vừa
mất tiền vé may bay hảng Korean Air vừa phải về sớm hơn dự định
cả hai tuần lễ để lo việc chuyên chở cháu đi khám sức
khỏe tại Mỹ. Đoạn Kết.
Khi về đến Saigon, tôi đã phác
họa trong cái đầu già chậm hiểu mau quên của tôi là sẽ
dành ít nhứt năm ba ngày để về thăm thầy cô, bạn bè,
đồng môn và thân hữu ở Đầu Sấu, Bình Thủy, Phong Điền,
Ô Môn, Bến Ninh Kiền, v.v Cần Thơ, để thỏa lòng mong ước.
Do vậy, tôi đã gọi điện thoại cho các anh Nguyễn Ký Phương
và HTG Luật sư Hồ Trung Thành, nhưng dường như các "bồ"
nhà ta có giác quan thứ sáu hay sao ấy mà cả hai bồ đều
khuyên tôi nên ưu tiên lo cho con gái trước, nếu còn dư dả
thời gian thì hãy mới tính sau. Trò HỒ NGUYỄN, trò
HẬU, trò HTT, trò XỬ, trò NGHĨA và trò KIM QUANG.
Bây giờ, trước khi trở về Mỹ, con
gái Mỹ-Linh của tôi đã mời tôi và các em vá cháu
của nó lên thăm nhà nó mới xây cất xong ở Đà-Lạt
năm trên ngọn đồi thoai thoải với những dãy thông bạt ngàn
trong bốn năm ngày khiến tôi nhớ lại những ngày tôi chỉ
mới là những sinh viên sĩ quan Võ Bị còn non choẹt hồi giữa
thập niên 50. Như vậy, khi trở về Saigon sau những ngày viếng thăm
Đà-Lạt. tôi và con gái tôi chỉ còn hai ba ngày để
trở về Mỹ, không còn cơ hội để về thăm Tây Đô
nữa rồi.
Viết xong vào giữa trưa hè Saigon oi bức tháng 4 năm 2015
TRẦN BÁ XỬ
VUI BUỒN TUỔI HỌC TRÒ______________________________________________
Chs TRẦN BÁ XỬ Lớp Seconde Moderne II cuối niên học 1953-1954 2 hàng đứng từ trái qua phải:
Hình 1* Hàng
trước: Phạm huy Hoàng (con thầy Liêu), Nguyễn văn Tiết (kỹ sư),
Lâm văn Mẫn (đốc sự),Lâm văn Miếng, Châu minh Thiện, Trần
bá Xử,Lưu bỉnh Khiêm, Lê khắc Nghĩa, Nguyễn phú Quí, Hứa
xướng Văn, Dương quang Ngự. *
Hàng sau: Trương quang Minh (HT), Nguyễn trung Nghĩa, Lê văn Hai (trung tá),Huỳnh
minh Bảo (kỹ sư), Hồ công Minh (hàng hải thương thuyền/marine marchande),
Hồ công Tâm (em ruột Hồ công Minh). Lời Mở Đầu:
Khi chọn tựa đề bài viết Vui Buồn
Tuổi Học Trò, người học trò già này liên tưởng ngay
đến quyển sách Vinh Nhục Đời Lính (Grandeur et Servitude Militaires) của
nhà văn kiêm nhà thơ nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ
19 thuộc trường phái lãng mạn là Alfred De Vigny vì có
lẽ hơi giống nhau ở hai thái cực vui và buồn trong cuộc đời.
Dưới đây tôi xin phép quý thầy cô và quý niên trưởng,
đồng môn và thân hữu được nêu lên vài câu chuyện
vui buồn tuổi cắp sách đến trường mà đa số buồn nhiều
hơn vui trong suốt chiều dài ở Trường Trung Học Phan Thanh Giản Cần
Thơ trong nửa đầu thập niên 50. Câu chuyện của chị đồng môn Nguyễn Thị Cẩm Lệ.
Nguyên nhân chính và
sâu xa nhứt khiến tôi viết bài này bắt nguồn từ khi tôi
mày mò xem bài VUI BUỒN CỦA TUỔI ĐỜI HỌC SINH do chị đồng
môn Nguyễn thị Cẩm Lệ viết trong chuyên mục TRƯỜNG
TÔI TRONG TRÍ NHỚ (TẬP I) xuất hiện trên giai phẩm PHAN THANH GIẢN
& ĐOÀN THỊ ĐIỂM được xuất bản năm 2002. Như vậy
có thể nói bài Vui Buồn Tuổi Học Trò của tôi là phần
nối tiếp bài viết của chị Nguyễn Thị Cẩm Lệ vì lúc
đọc bài của chị tôi rất vui khi nhận ra "đây là bà
con của mình đây mà" vì chúng tôi học cùng một
thời và cùng một trình độ như nhau, chỉ khác biệt ở
chỗ chị học ở série Classique, section Moderne đi từ Sixìème
đến Première Moderne trước khi lên classe terminale, còn tôi
thuộc enseignement Secondaire, section Moderne đi từ Première Année
đến Première Moderne trước khi qua classe terminale. Đúng như chị đã viết là người
ta nói hễ già hay nhớ chuyện xưa nên bây giờ tôi không
thoát ra khỏi thông lệ đó, do vậy tôi thường hay hồi tưởng
lại cái thuở cắp sách đến trường từ cái ngày mới
là cậu bé học ở trường làng bậc tiểu học nhưng phải
nói nhớ nhứt là thời gian mài đủng quần ở các trường
trung học đệ nhứt cấp và đệ nhị cấp, cái thời gian
nhiều kỷ niệm êm đềm nhứt mà mỗi lần nhớ lại là
không sao tránh khỏi nỗi bâng khuâng tiếc nuối như đã đánh
mất đi cái thời vàng son quý báu nhứt của cuộc đời.
Vì trong bài viết của chị có đoạn
cho biết Chị còn nhớ nhiều đồng môn bên nam cùng thời với
chị nên tôi hớn hở liên lạc với đồng môn niên đệ
Lê Hoàng Viện được xem như quyển tự điển sống của
sinh hoạt PTGĐTĐ hải ngoại để hy vọng được liên lạc với chị Nguyễn Thị
Cẩm Lệ và ba hoa chích chòe đôi điều với chị về cái
thuở được hân hạnh làm học trò của Collège de Cần
Thơ xa xưa ấy, nhưng than ôi, bản điện thư hồi âm của niên đệ
Lê Hoàng Viện như gáo nước lạnh dội vào người khi
được biết hung tin là chị Nguyễn Thị Cẩm Lệ đã qua
đời đã hơi khá lâu nhưng vì chị và phu quân là
anh Trương Kim Thạch ở tận bên phương trời Âu Châu xa tít
mù khơi là Hy Lạp nên chỉ có bạn bè ở Houston TX là
biết được tin này mà thôi. Đây là tin buồn đầu
tiên trong một chuổi dài những tin buồn liên quan đến chuyện Vui
Buồn Tuổi Học Trò nêu trên. Trong kỳ Đại Hội đầu tiên
các Cựu Học Sinh Trung Học Phan Thanh Giản- Đoàn Thị Điểm Hải
Ngoại tổ chức tại Houston TX năm 19 97 kỷ niệm 80 năm ngày thành
lập trường, các đồng môn luôn nhắc đến sự kiện
chị Nguyễn Thị Cẩm Lệ rất vui mừng khi gặp lại thầy xưa bạn
cũ đến bật khóc trông rất dễ thương và cảm động.
Ngày xa xưa ấy nay còn đâu hỡi chị Cẩm Lệ thân thương,
và như vậy là điều mong mỏi thiết tha nhứt của tôi được
tâm sự với chị sẽ không bao giờ thực hiện được; qua
bài viết này, tôi xin kính cẩn đốt nén hương lòng
để tưởng nhớ đến chị, một chị bạn đồng song mà
tôi rất mến mộ khi xem bài viết đầy chân tình của chị
mà chưa bao giờ tôi hân hạnh được diện kiến với chị
để biết thêm những tin tức về các bạn đồng môn cùng
thời ở đầu thập niên 50 với chúng ta. Câu chuyện về đồng môn Huỳnh Minh Bảo
Anh Huỳnh Minh Bảo là người bạn rất
thân học cùng lớp với tôi những niên học 1953, 1954 và 1955.
Tuy thời gian học chung với nhau chưa đủ dài nhưng tình cảm giữa
hai chúng tôi rất khắng khít mà chúng tôi xem như anh em ruột
vậy. Ngày ấy, khi Mối Tình Học Trò chớm nở, tuy chỉ trong tư
tưởng mà thôi, nhưng anh là nhân chứng đặc biệt quan trong
khi anh đang ở đường Capitaine d'Hers, sau này gọi là đường
Phan Thanh Giản, dường như ngụ chung nhà với "người đẹp"
giống Nhật (quê ở Sóc Trăng) học Đệ Ngũ A cùng lớp
với cô Huệ Judo và Bích Hằng con thầy hiệu trưởng Nguyễn
Băng Tuyết mà các bạn quỹ sứ lớp tôi đã đùa
nghịch, trêu chọc và gán ghép với tôi vì biết tôi rất
nhát gái, có trời mà biết thôi quý vị à? Đến
khi tôi gởi thiệp chúc Giáng Sinh cho người đẹp mà không
được hồi âm, chính anh Bảo là người tôi nhờ hỏi
thăm tin tức dùm tôi vì tôi biết anh cũng mến tôi và tôi
đặt hết tin tưởng vào anh vì dĩ nhiên tôi biết anh không
đùa nghịch với tôi như một vài bạn khác. Sau này, khi
tôi gia nhập Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thì cũng
đúng lúc anh Bảo vào học Trường Quốc Gia Nông Lâm Súc
ở Blao (Bảo Lộc) nên có đôi ba lần anh xuống thăm tôi tại
Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Một thời gian sau, khi tôi
là Trung úy huấn luyện viên, sau đó làm Trưởng Ban 3/Huấn
Luyện của Liên Đòan B Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung thì một
sự bất ngờ thú vị đã xảy ra khiến tôi gặp lại anh
trong hoàn cảnh dở khóc dở cười ngoài ý muốn của anh
để tôi được dịp giúp lại người bạn cũ chí cốt ngày xưa mà
cháu Huỳnh Minh Bích Nga, con gái đầu lòng của anh đã ghi lại
trong trang nhà của trường Mẹ qua bài Một Cách Sống Của Ba.
Câu chuyện chưa chấm dứt ở đây
vì sau biến cố 30.4.1975, tôi được định cư tại Mỹ sau
những năm tháng lao tù, còn anh, tuy cũng là sĩ quan và là
kỹ sư ngành Nông Lâm như vẫn ở lại Saigon với gia đình.
Chúng tôi vẫn liên lạc qua thư từ và vẫn giữ tình cảm
sâu đậm với nhau như ngày nào. Trong lần về thăm nhà vào
cuối năm 2013, tôi dự định mời anh về thăm Cần Thơ và
trường Mẹ nhưng sức khỏe anh suy yếu dần dần nên tôi hứa
với anh khi trở về Saigon, hai anh em sẽ rủ nhau đi uống cà-phê, nhưng
ngày tôi trở lại thì cũng là ngày tôi tiễn anh đến ga cuối cùng của cuộc đời.
Anh Bảo ơi, còn đâu những giây phút chúng ta gặp nhau ở
Đà Lạt, một dân sự và một quân sự, hay những giây
phút ở nhà anh cùng chị và các cháu, đặc biệt cháu
Bích Nga luôn túc trực bên cạnh để chăm sóc cho anh từng
ly từng tí một không rời xa anh một bước! Mong anh ở chín
tầng mây bạc luôn phù trợ cho Chị và các cháu được
mọi việc an lành. Câu chuyện
về đồng môn Trương Quang Minh. Trong hai năm học lớp Seconde Moderne II và Première Moderne II từ năm
1953 đến 1955, bạn Trương Quang Minh là học sinh Trưởng Lớp (major)
gương mẫu. Phải nói một cách công tâm rằng gần như
hầu hết các bạn cùng lớp với tôi học hành chăm chỉ,
ngon lành lắm chớ bộ, nhưng chỉ có vài trự vượt trội
"đè đầu đè cổ" chúng tôi trong đó phải nói
đến bạn Trương Quang Minh. Anh chẳng những học giỏi mà tính
tình rất dễ mến. Da dẻ anh hồng hào như con gái mà mỗi
khi ai chọc anh mắc cở thì y như rằng anh có vẻ bẽn lẽn như
con gái và ít tranh cải với ai, nhưng trong học tập, anh luôn luôn
có những ý kiến sắc bén đầy tính thuyết phục người
nghe. Đặc biệt trong giờ Physique (Vật Lý), thầy Nguyễn Văn Trọng
(FM Đầu Bạc) thường gọi bạn lên giảng bài cho cả lớp
nghe, và từ những giây phút đầu tiên ấy, anh đã có
đầy đủ đức tính của một giáo sư lành nghề sau
này. Từ khi lên Saigon học tiếp
rồi gia nhập Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt trở về
sau, tôi không biết tin tức về người bạn học cùng lớp giỏi
giang này nữa, mãi cho đến kỳ Đại Hội Thế Giới XVI PTG-ĐTĐ tổ chức tại thủ
phủ Boston, Massachusetts gần nơi tôi cư ngụ, tôi đã thăm hỏi
một số đồng môn các nơi về tham dự Đại hội 16, đặc
biệt là hai đồng môn chuyên trách trang nhà của Trường
Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm (mà tôi mới có dịp làm
quen lần đầu tiên) là Nguyễn Công Danh và Lê Hoàng Viện,
khi ấy tôi mới được biết tin bạn Trương Quang Minh đã
vĩnh viễn ra đi tại Melbourne, Úc Châu vào đầu năm 2005 để
lại trong tôi vô vàn luyến tiếc khôn nguôi. Câu chuyện về những đồng môn khác cùng
lớp với tôi. Đúng
theo tinh thần của chủ đề Tìm Về Kỷ Niệm của Đại Hội
Truyền Thống PTG&ĐTĐ và Một Thời Để Nhớ của Đặc
San số 19, qua thông tin cung cấp bởi đồng môn niên đệ Hồ
công Nghiệp là em của hai đồng môn bạn cùng lớp với bạn
Trương quang Minh và tôi là Hồ công Minh và Hồ công Tâm,
học trò già Luật sư Hồ Trung Thành đã chuyển đến
quý Thầy Cô và đồng môn 2 tấm hình ngày xưa của
các bạn học cùng lớp Seconde Moderne II với tôi chụp vào cuối
niên khóa 1953-1954 tại Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ (danh xưng ngày
ấy là Lycée Phan Thanh Giản Cần Thơ). Hình 2:(chỉ thêm một anh ngồi đàng sau chỗ
cao nhứt là Nguyễn thới Lai, GS đại úy, còn những người
khác như hình 1. Hàng sau cùng có anh Nguyễn thới Lai ngồi
cao nhứt * Hàng thứ 4: Các anh Hồ công
Minh, Nguyễn trung Nghĩa, Trần bá Xử, Lâm văn Mẫn, Huỳnh minh Bảo,
Hồ công Tâm * Hàng thứ 3: Dương quang
Ngự, Lưu bỉnh Khiêm, Nguyễn phú Quí, Hứa xướng Văn, Phạm
huy Hoàng, Lê văn Tiết * Hàng thứ 2: Lâm
văn Miếng, Lê khắc Nghĩa * Hàng đầu:
Trương quang Minh, Châu minh Thiện, Lê văn Hai Một trời kỷ niệm đã ập đến với tôi
khi nhìn thấy các diện mạo còn trẻ măng của bạn cũ năm
nào từ bạn Phạm Huy Hoàng, con cố GS Phạm kim Liêu hiện ở Hoa
Kỳ, bạn Nguyễn văn Tiết là kỹ sư hiện còn ở Việt Nam,
đến các bạn Lâm văn Mẫn, đốc sự hành chánh hiện
ở Sacramento, CA, bạn Hồ công Minh tốt nghiệp hàng hải thương thuyền
hiện ở Westminster, CA, và em là GS Hồ công Tâm, cựu Trưởng Phòng
Văn Hóa Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu hiện ở Tân Định,
quận 1 Saigon, bạn Nguyễn thới Lai, GS hiện ở An Hội, quận Ninh Kiều,
thành phố Cần Thơ. Trong hình còn có bạn Châu minh Thiện, kỹ
sư là em của cố Trung tá Châu minh Hiền và cố Thiếu tá
Châu minh Huệ là con của cố GS Châu văn Đồng (?) ở Châu Đốc
mà tôi không biết bạn Thiện bây giờ ở đâu cũng như
các bạn Nguyễn văn Miếng, Lưu bỉnh Khiêm, Lê khắc Nghĩa, Nguyễn
phú Quí, Dương quang Ngự cao nhòng, Lê văn Hai từng ở Phủ
Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Hòa, anh Nguyễn xuân Nghĩa, và đặc
biệt là anh Hứa xướng Văn trọ học tại Sca-Radio cạnh sông
cái ngang nhà chị em người đẹp 11 bia (onze bis hay ông già
bích). Cũng trong hình thứ hai này còn có hai anh bạn đã nêu
ở phần trên là bạn trưởng lớp Trương quang Minh, cố Hiệu
Trưởng trường PTG, cố Chánh
Sự Vụ Sở Học Chánh Phong Dinh và cố kỹ sư Huỳnh minh Bảo
đã rời bỏ các bạn cùng lớp chúng tôi năm 2014 vừa
qua. Một điểm đặc biệt
khác nữa là trong lớp tôi có hai cặp là anh em ruột, cặp thứ
nhứt là hai bạn Hồ công Minh và Hồ công Tâm, còn cặp
thứ hai quê ở Sa Đéc là hai bạn Trần văn Dẫu và Trần
văn Dược là bạn rất khắng khít với đồng môn bác
sĩ Nguyễn việt Tân Roland,
con trai duy nhứt của thầy Nguyễn gia Lịnh, hiện đang định cư tại
Miami, Florida. Điểm đặc biệt cuối
cùng mà tôi muốn đề cập đến trước khi chấm dứt
việc ba hoa chích chòe ở đây là lúc bấy giờ (những năm
1953-1955) trong lớp tôi có hai bạn là người Miên mà tôi không
nhớ tên. Từ năm 1956 trở về sau, chúng tôi chưa bao giờ gặp
lại nhau mãi cho đến năm 1971, lúc bấy giờ tôi là Trung tá
phục vụ tại Tổng Cục Quân Huấn Bộ Tổng Tham Mưu, trong dịp
tiếp đón Phái đoàn Campuchia trong thời gian Lon Nol lãnh đạo
quốc gia này, bấy giờ Quân Lực VNCH giúp Campuchia huấn luyện binh
sĩ của họ tại TTHL Lam Sơn ở Vùng 2 Chiến Thuật. Khi tiếp rước
phái đoàn Kampuchia (Délégation Cambodienne), điều bất ngờ thú
vị là tôi đã gặp lại anh bạn đồng học cùng lớp
năm xưa ở Lycée Phan Thanh Giản Cần Thơ khi ấy anh mang cấp bậc
Trung tá của Quân đội Campuchia, dĩ nhiên là anh ta đã rất
vui mừng nên đã xí xô xí xào bằng tiếng Việt Nam với
tôi một lúc khá lâu trước sự ngạc nhiên của cả hai phái đoàn Cao Miên và
Việt Nam. Viết tại Springfield, Massachusetts, mùa thu năm 2015 CHS/PTG TRẦN BÁ XỬ
TẠP GHI VĨNH-LONG, MỘT
THỜi ĐỂ NHỚ___________________________ Văn Thánh Miếu Tôi được ra đời và lớn
lên tại Sa Đéc, một địa danh có liên hệ gần gặn với
danh từ đa âm của người Kmer như Ông Nguyễn Hữu Hiếu của
Hội Sử Học tỉnh Đồng Tháp từng nhận xét nhưng tôi
vẫn muốn được nhận mình là người Sa Đéc một cách
thân thương và vẫn thích được xem như là người
của sông Sa hiền hòa, nói cách khác là người Sa Giang cho
có vẻ nên thơ vậy mà? Tuy chủ đề được tản mạn xoay quanh thành phố
Vĩnh Long, nơi đã từng cưu mang tên nhóc con như tôi suốt cả
chiều dài bốn năm từ khi chập chững bước vào ngưỡng cửa Trung học nhưng tôi vẫn
miên man nghĩ đến tỉnh Sa Đéc luôn gắn liền với tỉnh
Vĩnh Long như anh em một nhà vì ngay từ ngày còn bé tí tẹo,
lúc tôi vừa khoảng trên mười tuổi thôi, tôi vẫn thường
nghe danh xưng ba tỉnh của đồng bằng sông Cửu thường được
ghép chung với nhau, dĩ nhiên có cả tỉnh Sa Đéc của tui nữa,
là Sa Đéc- Vĩnh Long-
Trà Vinh mà hệ thống
giáo dục được đặt dưới quyển kiểm soát của vị
Thanh Tra Học Chính Liên Tỉnh, lúc bấy giờ gọi là Inspecteur Inter-Provincial trong đó gồm có Sa Đéc, Vĩnh Long và Trà
Vinh nên tôi cũng cảm thấy hãnh diện vì Sa Đéc của tui
được đứng ở hàng đầu (cái hãnh diện rất ngây
thơ của tuổi con nít lúc bấy giờ. Đến khi tôi nhận được
quyển Đặc san Phù Sa Sông Cửu Xuân Quý Tỵ 2013 của Hội
Ái Hữu Vĩnh Long-Vĩnh Bình-Sađéc do anh Lê Tấn Lộc, người
bạn đồng môn cùng lớp với tôi từ ngày mới thành
lập Collège de Vĩnh Long năm 1949 gởi tặng thì tôi thấy cái tỉnh
Sa Đéc của tui nhảy xuống hạng "bét dèm", tôi chỉ
nói đùa chớ thứ hạng nào cũng vậy thôi có ăn nhậu
gì đâu mà âu với sầu, cũng tương tự như cái tên
Vĩnh Bình hay Trà Vinh thì cũng na ná như thế. Nói vậy chớ
khi nhắc đến tỉnh Trà Vinh thì tôi rất tâm đắc với
tựa đề "Một Thoáng
Trà Vinh" mà người
tiểu muội đa tài trường Đoàn Thị Điểm Nguyên Nhung đã
phỗng tay trên" trong Đặc san Xuân Ất Mùi 2015 mất rùi nên
tui làm sao bắt chước được nữa? Như đã nói ở trên, hồi ở bậc
Cao Đẳng Tiểu Học (Trung Học Đệ Nhất Cấp), tôi học ở
Trường Cao Tiểu Vĩnh Long (Collège de Vĩnh Long) trong bốn năm từ 1949,
một thời gian không quá dài nhưng cũng đủ lưu lại trong trong
tôi nhiều kỷ niệm thật trẻ con, thật êm đềm và thú
vị về tỉnh Vĩnh Long vì đang ở trong giai đọan mới phát triển
của tuổi học trò. Ngày ấy, chỉ riêng tỉnh Trà Vinh là tôi ít có dịp
ghé thăm nhiều lần vì không có bà con thân thích cư ngụ
tại đây, mãi đến khi tôi vào quân đội và phải trầy da tróc vảy leo lên
đến cấp đại úy (sau gần 8 năm mang cấp Trung úy thời Đệ
Nhứt Cộng Hòa) vào đầu năm 1966 mới có cô cháu con bà
chị ruột tốt nghiệp kỹ sư Công Chánh được bổ nhiệm
về làm Trưởng Ty Công Chánh tỉnh Vĩnh Bình thì lúc bấy
giờ thỉnh thoảng tôi cùng Nhà Tôi tôi mới có dịp ghé
thăm tỉnh này. Công
Thần Miếu Riêng
hai tỉnh Vĩnh Long và Sa Đéc có nhiều quan hệ mật thiết dây
mơ rễ má với nhau qua một thời gian dài xem như hai tỉnh anh em. Ngược
dòng thời gian, vào thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, Sa Đéc là
một tỉnh riêng biệt cũng ngon lành lắm chớ có thua ai đâu,
nhưng đến ngày 8/10/1957, khi khổng khi không tỉnh Vĩnh Long được
tái tổ chức thành 6 quận trong đó lại có sự sát nhập
của tỉnh Sa Đéc của tui nữa, sau đó vào ngày 2/8/1969, tỉnh
Vĩnh Long lại tăng lên thành 7 quận với quận Châu Thành và
các quận Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Minh Đức,Trà Ôn, và
Vũng Liêm, gạt bỏ chàng nhóc tì Sa Đéc "ra rìa" để
Sa Đéc trở thành một tỉnh như trước đây. Vĩnh Long chỉ cách Sa Đéc có 24 cây số nên việc
qua lại giữa hai tỉnh rất nhanh chóng, đôi khi chỉ đi bằng xe đạp
cũng rất dễ dàng, nhứt là vào dịp cuối tuần hay ngày
lễ mà tôi đã có dịp mô tả khi tôi cùng anh bạn
cùng lớp hớn hở chạy u từ Vĩnh Long về Sa Đéc bằng xe đạp
qua các nẻo đường từ cầu Cái Cam, Cái Côn, chạy ngang qua
ngã ba cầu Bắc Mỹ Thuận, rồi qua Cái Tàu Hạ, v.v. Khi đên
Nha Mân chỉ còn cách Sa Đéc có 8 cây số, nơi có chợ
Nha Mân khang trang và một địa danh gọi là Chuồng Dê (có tiếng
là nguy hiểm vào Tết Mậu Thân 1968) là chúng tôi bắt đầu
tăng tốc độ như những cu-rơ nhà nghề vậy. Chúng tôi
càng háo hức chạy nhanh hơn khi đến khu Xẽo Vạc, Cái Xếp
với một dãy lò gạch nối tiếp nhau, khi ấy chúng tôi đã
thấy khu chợ Sa Đécthấp thoáng ở phía xa xa dọc theo dòng sông
Sa thì chúng tôi gò lưng chạy thật nhanh để mong sớm về
đến nhà gặp mặt cha mẹ thân yêu mà tôi biết chắc
mẹ tôi sẽ mừng rỡ vô cùng khi thấy bóng dáng cậu con
trai út của mình. Ngày
trở lại Vĩnh Long không vui nhộn như bận đi nên tốc độ
chạy xe có phần chậm hơn nhưng cuối cùng chúng tôi cũng
về đến nơi trọ để chuẩn bị cho ngày học mới.
Nhắc đến Vĩnh Long chắc
hẵn chúng tôi không thể nào quên những địa danh rất quen
thuộc như Cầu Lộ khi vừa vừa qua Ngã Ba Cần Thơ rồi quẹo
trái đến Cầu Cái Cá mà tôi có rất nhiều kỷ niệm
với xóm chài vì ở đây có vài anh bạn cùng quê
đang trọ học, đặc biệt có anh Hoàng người bé tí tẹo
nhưng lại là là một tay bơi cự phách khi anh dám bơi một
lèo qua Sông Tịnh
xá Ngọc Viên Cái rộng mênh mông không cần phải nhờ đến chiếc
ghe mà chúng tôi thường mướn chở thức ăn để qua bên
kia sông. Cũng trên chiều dài con sông này tôi có một kỷ
niệm thật êm đềm, trước hết là tạo cơ hội cho tôi
thực hành bơi đường trường với lý do đơn giản là
trên đoạn sông dài này thường có một cô bạn học
cùng trường chuyên ngồi học bài trên căn nhà sàn mỗi
buổi
chiều, và đó là dịp may để tôi tung tăng thực tập
bơi ngang qua chỉ để vẫy tay chào "người đẹp" một
hai cái rồi tiếp tục bơi luôn như trong phim "The River of No Return",
cũng nhờ vậy mà sau này tôi cũng lượm được một
vài huy chương về bơi đường dài? Nhưng eo ơi, cũng chính
tại con sông này, gần bên nhà thờ Vĩnh Long, có một lần
khi vừa bơi ra khỏi bờ khoảng 10 thước thì tôi thấy một vật
gì nổi lềnh bềnh phía trước, bất giác khi định thần
nhìn kỹ thì đó là "thằng chổng chết trôi" (thây
ma đó mà) nên tôi lính quýnh vội vã bơi vô bờ nhưng
có lẽ vì tôi ráng bơi nhanh nên nước cuốn cái thây
ma làm như nó muốn rượt theo tôi, cũng may tôi không bị vọp
bẻ nên đã may mắn vô được bờ bình an vô sự thì
sau đó cái thây ma cũng tấp vào bờ luôn nên tôi mừng
hú vía và không dám tiếp tục bơi để chiêm ngưỡng
cô bạn học nữa trong một thời gian dài. Trên giữa khoảng đường
từ Cầu Cái Cá đến nhà thờ có một nhà in tên Long
Hồ Ấn Quán cạnh nơi đó có hai chị em học cùng trường,
người chị tên Huỳnh Mai và người em tên Điểu học ngang
lớp với tôi mà thuở ấy tôi rất thích nhìn cặp mắt
to và đen láy của cô chị, để làm gì có trời mà
biết? Vĩnh Long có
khá nhiều cầu, không chỉ có Cầu Lộ, Cầu Cái Cá mà
còn có Cầu Thiền Đức cạnh nhà giáo sư Phạm Văn Thàn,
thân phụ của cô nữ sinh Henriette ngày xưa (sau này là giáo
sư Phạm Thị Kim Chi, hiệu trưởng trường nữ trung học Đoàn
Thị Điểm Cần Thơ) và Cầu Lầu (gần nhà thầy Lê Văn
Sĩ, giáo sư hội họa, bác của anh bạn học phá như quỹ
của tui là Lê Tấn Hội và cũng là cậu của cô Kim Chi) trên
đường đi Trà Vinh. Lúc mới nhập học Collège de Vĩnh Long, tôi ở trọ nhà
cô giáo Nam dạy học ở Ecole Francaise de Vĩnh Long. Nhà cô ở ngang
đất thánh Tây mà người địa phương thường gọi
là cimetìère. Nơi đây đã gieo rắc trong tôi tính đa
cảm đa sầu vì lâu lâu tại đây có đám tang mấy
quân nhân Pháp với tiếng kèn đồng buồn não nuột khiến
tôi lâu lâu lại nằm khóc một mình giữa đêm vắng do
buồn và nhớ nhà vì mới ở lứa tuổi 12, 13. Lúc bấy giờ,
ở nhà trọ, ngoài cô hiệu trưởng Nam còn có người
em gái là cô Tám, tốt nghiệp trường Sorbonne, Pháp cùng
người cháu gái rất dễ mến là chị Sáu và cô Châu
là phu nhân của Đại tá Điềm (Pháo Binh) sau này. Tôi vẫn
còn nhớ rõ như in là vào mỗi buổi sáng có ông "cò-mi"
tên Phép ỏ cùng đường thường đi ngang qua nhà chúng
tôi và cất tiếng chào các cô rõ to "Mes hommages, Mesdames".
Ngoài ra, cô Châu có người em ruột tên Bảng cũng ở trọ
chung với chúng tôi cùng với bạn Trực học sau tôi một lớp.
Bạn Trực là con của thầy ruột tôi là ông Đốc Nguyễn
Văn Lãnh ở Sa Đéc, anh hiền lành nhự cục bột trong khi bạn
Bảng rất lém lỉnh, bạn Trực và tôi thường bị anh ấy
ăn hiếp, sau này anh theo học khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân
Đà Lạt, cuối cùng mang cấp bậc Trung tá của Bô TTM. Kế
nhà trọ của chúng tôi còn có anh bạn học cùng lớp tên
Nguyễn thế Hưởng rất hài hước và vui tính là một
hảo thủ đánh bi-da nổi tiếng của Vĩnh Long mà thân phụ anh
ấy là kỹ sư chuyên sản xuất dầu thơm cho tỉnh nhà.
Nhắc đến quý thầy
cô và quý đồng môn, như tôi đã có lần nhắc
đến khi trường mới thành lập, trước tiên phải nhắc đến
giáo sư Nguyễn Văn Kính với biệt danh thân thương là Mơ-xừ
Te (Inspecteur Interprovincial/Thanh Tra Liên Lỉnh Sa Đéc-Vĩnh Long-TràVinh)
kiêm Ông Đìa (Directeur/Hiệu Trưởng). Phần nữ giáo sư
chỉ độc nhứt có mỗi một cô là giáo sư Nguyễn Thị
Sương rất trẻ đẹp là phu nhân của giáo sư âm nhạc
khét tiếng Trần Văn Khê với hai người con trai mà ông dùng
biệt danh này để gọi tên ông (Hải Minh) khi nói đến âm
nhạc. Như bạn Lê tấn Lộc đã mô tả,, trước 1975,
cô dạy học ở trường Gia Long, sau sang Pháp đoàn tụ với
chồng rồi trở về Việt-Nam sống với hai con Quang Hải và Quang Minh.
Trước ngày sang Mỹ tị nạn chính trị, bạn Lê tấn Hội
và tôi có đến từ giả Cô tại cư xá Ngân Hàng
bên kia cầu Xa Lộ khiến Cô mừng rỡ vô hạn, lúc ấy Cô
vẫn còn nét đẹp cao quý ngày nào. Cách đây khoảng
hai năm, chúng tôi nghe tin Cô vừa qua đời ở lứa tuổi gần
90 (?) Về phía nam giáo sư thì phải kể Giáo sư Phạm Văn
Thàn, ông thầy ruột của tôi và cũng là thân phụ của
cô Henriette học rất giỏi, nay là giáo sư Phạm Thị Kim Chi,
hiệu trưởng trưởng nữ trung học Đoàn Thị Điểm Cần
Thơ. Kế đó phải nhắc đến vị giáo sư dạy Pháp
văn tuyệt vời là thầy Phạm Văn Tệt, thân phụ của bạn
Triều học cùng lớp với tôi sau này sang du học bên Pháp. Ngoài
ra còn có giáo sư Phạm Văn Thiết (gia đình họ Phạm hơi
nhiều?) tốt nghiệp trường Sorbonne (Pháp) dạy Sử Địa mà
tôi còn nhớ lúc bấy giờ thầy giao trọng trách cho chi Khiêm
(bị cận thị nặng) lớp con gái và tôi vẽ một bàn đồ
thế giới "pự tổ chảng" ngay tại tư gia của chị để
thày dạy học mà tôi không nhớ nó mất tiêu lúc nào
hổng biết, có lẽ nó quá đẹp hay quá xấu chăng? Thuở
ấy còn có vị giáo sư trẻ tên Khiêm dạy tóan thật
xuất sắc, sau đó cả hai thầy Thiết và Khiêm đều vào
Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, trước 30.4,1975 thầy Thiết là
trung tá Quân Cụ còn thầy Khiêm là dại tá Pháo Binh. Ngoài
ra còn có giáo sư dạy Việt văn là thầy Dương văn Tường
và thầy Tư Hón dạy Thể dục với sự hỗ trợ tận tâm
của thầy Tổng giám thị Nguyễn văn Kỹ Mậu và thầy Giám
thị Nguyễn văn Mẫn (?). Về phía nữ học sinh (suýt
tí nữa tôi phải nhảy qua lớp nữ nếu không nhờ thầy Phạn
văn Thàn cứu "trò" cho trở về lớp "đực rựa")
tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng mấy "cô nương" gốc
Vĩnh Long như chị Liễu, Gấm, Henriette/giáo sư hiệu trưởng
"Kim Chi", Lê thị Cẩm Hồng, Lê thị Cẩm Vân, chị Nhơn,
Tương, Điểu, Xuân Lan, Nguyễn thị Trưởng Nhi, Lê thị Lý
(bác sĩ), Nguyễn thị Lý (Cán sự Điều dưỡng) chị Điểu,
Khiêm, Xuân Lan, Oanh, Loan, Thường, Nguyệt, Trương thị Cẩm, Cam thị
Mỹ, Lê thị Bửu, v.v., phía Sa Đéc có các chị Trịnh thị
Mai, Trần thị Hường, Lê thị Bằng, Trương thị Lan Anh (vừa mới
mất cách đây mấy hôm (tháng 5/2015) tại thủ đô Hoa Thịnh
Đốn, Hoa Kỳ), v.v. Quán
Âm Cửu Long Về phe các đực rựa, ngoài hai cây cổ thụ đứng đầu
lớp Nguyễn văn Vẹn và Lương ngọc Ẩn chuyên môn học nhảy
lớp, sau này trở thành giáo sư Toán và Pháp văn của
trường mẹ được cải danh thành Nguyễn Thông-Tống Phước
Hiệp, có các nam học sinh quê ở Vĩnh Long gồm những bạn Lễ
(Petit Lễ), Lê tấn Lộc, Thục, Bếp, Bảy (Phi Vấn), Nguyễn thế
Hưởng, Võ ngọc Các, Võ trung Thứ, Giáo, Giác, Lê an Lòng,
Lê hoàng Tông,Võ minh Kiểng, Bùi thế Xương, Tiết, Ba (gà
cồ), Hòa, Triều, v.v. Về phần học sinh quê ở Sa Đéc của
tui gồm có các bạn Giêng, Thoại, Phẩm, Trọng, Hội, Cang, Dẫu,
Dược, Thiết, Thiện, Phước, và tui là Trần bá Xử mà
bạn Lê Tấn Lộc cùng một số bạn ưu ái tặng thêm hỗn
danh là Hà Bá Xử cho có vẻ oai hùng và dữ tợn.
Không riêng gì tôi mà một vài bạn khác trong lớp tôi
cũng được sửa đổi tên như bạn Bùi thế Xương
thành Bò Té Sông, Trần văn Giêng thành Trần văn Điên,
Lê an Lòng thành Lê ăn...., "Sáu" Trọng, "Các dùi
đục", "Bảy Bùi", "Thoại tiệm vàng", "Ba Tàu
Tông", "Hưởng-dầu thơm hay bi-da", Nhựt "thòi lòi",
chị N. "hột mít"...cùng một dọc tên vui nhộn như "Các-Thứ-Lòng-Tông-Giáo
Giác. Đặc biệt tỉnh Trà Vinh chỉ có một "ngoe" là
bạn Lê văn Lộc để phân biệt với Lê tấn Lộc, bạn
Lộc (Trà Vinh) sau này theo học khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân
Đà Lạt như một số bạn cùng lớp và tử trận ở
Sa Đéc với cấp bậc Trung tá. Ngày xa xưa ấy, đã hơn sáu mươi năm rồi
còn gì, trong những ngày cuối tuấn, tôi thường đi rong chơi
bằng xe đạp qua khỏi ngả ba Cần Thơ gần một cây số trên
đường đi Cần Thơ thì có những mảnh vườn hay ruộng
dọc đường có trồng dưa gan mà tôi rất thích ăn với
đường thẻ. Tôi thường tạt qua để mua một hai trái để
ăn, nếu dưa chưa chin tới thì tôi đem về ngâm vào lu nước
để hôm sau lấy ra thì mùi thơm lừng làm tôi thèm nhỏ
dãi. Đôi khi tôi có thú vui tiếp tục đạp xe mải miết
rong chơi gần đến Ba Càng thì mới quay về, không dám thách
quá giá để chạy tới Cái Vồn, Cần Thơ sợ đôi
giò làm reo hổng chịu đi nữa thì mệt! Cũng trong những ngày ấy, có khi ba tôi
xuống Vĩnh Long thăm tôi thì tôi có dịp đi ăn tiệm ở
gần bến xe mà cạnh bên trường Ecole Francaise của cô Nam có một
nơi (gần tòa án) chuyên bán món "civet lapin/xi-vê thỏ"
mà thuở ấy tôi chưa bao giờ được nếm qua, nhưng tôi chú
ý thấy ông chủ người Ấn Độ lột da con thỏ rất lành
nghề chỉ trong giây lát thôi, bấy giờ tôi chỉ biết phục
tài ông chủ nhưng chưa hề nghĩ đến việc tội nghiệp chú
thỏ đáng thương! Thời gian qua nhanh quá, từ một cậu bé học sinh 12, 13 tuổi nay
đã ngót ngét bát tuần, tôi bùi ngùi nhớ lại một
thời đã qua mà chiều dài vượt quá ba phần tư đời
người, hình dung lại những gương mặt thân thương ngày
nào, hồi tưởng xem ai còn ai mất mà lòng thấy rưng rưng
khi đặt dấu chấm hết ở đây. Miền Đông
Bắc Hoa Kỳ vào cuối Hạ 2015
Trần Bá Xử
TẠP GHI CẦN
THƠ, MỘT THỜI ĐỂ NHỚ______________________
Như đã lâu
lắm rồi, từ cái ngày còn trai trẻ với biết bao mộng mơ,
với không ít hoài bảo chưa hay không bao giờ thực hiện được
vì quá xa vời để rồi không còn dịp quay trở về chốn
cũ sau biết bao năm tháng thăng trầm của cuộc đời. Cho mãi
đến hôm nay, cái hôm nay của đầu thế kỷ 21, khi đang sống
trong cảnh xa quê hương hơn cách nửa vòng trái đất, tôi
mới có dịp "tung cánh chim tìm về tổ ấm" để mong tìm
lại cái không khí thân quen ngày nào, từ làn gió thoảng
qua cánh đồng bao la bát ngát thơm ngát mùi mạ non của miệt
vườn và đồng ruộng đồng bằng sông Tiền, sông Hậu
rất quen thuộc của những ngày xưa thân ái ấy. Tuy nhiên, mọi
thứ trước mắt tôi đều đã quay ngược lại 360 độ
so với trước đây khi cảnh vật quanh tôi đều trở nên hoang
vắng xa lạ mà tôi có vẻ như đi lạc vào một vùng
đất hay một thế giới hoàn toàn mới, mới từ những con đường
rộng rãi thênh thang với những tòa nhà cao vút khác hẳn những
con đường tràn ngập bóng mát ở Hàng Bả Đậu đi
vào nhà lồng chợ đến đường Hàng Xoài dài hun hút,
từ bờ sông Cầu Cái Khế, Cầu Đôi, xóm Hai Địa, xóm
Cả Đài đến cầu Lộ Mới mà bây giờ đã trở
nên quá cũ hay không còn hiện diện nữa với thời gian.
Lòng nặng trĩu ưu khi
tư hồi tưởng một thời đã qua, ít nhứt cũng đã
hơn cả nửa đời người chớ có ít ỏi gì đâu,
tôi miên man đi bách bộ trên con đường Nguyễn Trãi thân
quen ngày nào, rất may là vẫn còn giữ được tên cũ,
với biết bao kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thanh xuân. Tôi chạnh
lòng khi chợt nhớ đến cây Cầu Đôi lát gỗ mà cạnh
bên dốc cầu là nơi trú ngụ của một chú trăn to và
dài quá khổ nằm trong một cái lồng thép kiên cố to tổ
nái, mà chú không bao giờ chịu thua tôi khi chú le lưỡi nhát
lại tôi mỗi khi bị bị tôi trêu chọc. Dọc bên trái về phía nhà đèn
là tiệm bán dụng cụ máy thu thanh với tên là Sca-Radio, nơi
anh Hứa Xướng Văn, bạn học cùng lớp Tân Đệ Nhị Lycée
Phan Thanh Giản Cần Thơ với tôi ở trọ. Tôi còn nhớ mãi
vào một ngày cuối tuần, vài anh bạn học cùng tôi mướn
một chiếc ghe khá lớn chở thức ăn gọn nhẹ chèo qua sông
cái ở ngang nhà, nơi đó là một cồn cát hơi cạn có
rất nhiều cây bần. Có thể nói hầu hết những học sinh chúng
tôi đều rất thích ăn trái bần chấm muối hoặc muối
ớt mà hương vị chua chua, chát chát của trái bần cộng
với hương vị mặn mà cay cay của muối ớt khiến chúng ăn
mải mê đến phát ghiền. Hôm ấy trời rất đẹp và
trong sáng không một gợn mây. Không ai bảo ai, chúng tôi đồng
loạt leo lên các cây bần để tha hồ "rứt' mấy trái
bần xuống để vào chiếc ghe bên dưới gốc cây bần. Riêng
cá nhân tôi cũng rất ham ăn nên đã "nhón" rất
nhiều trái khá to để đớp cho thỏa thích với cảm giác
được vị chua, chat quyện vào vị mặn khi chảy vào cổ họng
để nhận biết được việc ăn trái bần nó thú vị
đến mức độ nào. Chúng tôi đang mải mê thưởng thức
thì bất thình lình có một anh bạn đang trèo lên một
cây bần ở cách xa chúng tôi khoảng 2 thước hét to lên
rồi rơi bịch xuống mặt nước. Té ra anh bạn chúng tôi không
may mắn vớ phải một ổ ong vò vẽ, nhưng may mắn là chỉ có
hai ba con ong mà thôi, nếu không chắc có chuyện lớn xảy ra, nên
khi anh vô tình chạm vào ổ ong thì bị chích một phát khiến
anh ta nhảy dựng lên và rơi tõm ngay xuống nước. Như đã
nói ở phần trước là nước ở đây hơi cạn mà
lại rất trong nữa mới tai hại chớ bộ? Vì vậy khi anh ngoi đầu
lên để thở thì chú ong này, có lẽ đã có bằng
Tú Tài nên thông minh hơn chúng tôi, nên cứ lởn vởn bay
theo cái đầu của anh bạn để khi thấy vừa ngoi lên khỏi mặt
nước tí ti là chích tiếp khiến anh ta phải lặn ra xa hơn 2 thước
mới tránh được trận oanh kích của chú ong ranh mãnh kia. Thật
là hú vía nhưng cũng hơi buồn cho anh ta khi phải ôm cái đầu
sưng vù về nhà, dĩ nhiên là đau ghê lắm, mất cả bửa
tiệc thịnh soạn chưa tới màn kết thúc, tuy nhiên đối với
riêng tôi thì kể từ giây phút ấy, màn gặm nhắm trái
bần chua chát mặn mà ngày nào cũng bắt đầu kết thúc
vì bổng dưng tôi cảm thấy ngán khi nhìn thấy trái bần
phơi mình trong các rổ bán trái cây ở ngoài chợ.
Cũng ngang chỗ anh Văn ở
trọ, nếu tôi nhớ không lầm, thì có hai chị em, chắc cũng
là nữ sinh trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, có sắc đẹp "nghiêng
thùng đổ nước", thật ra có vẻ là sắc nước hương
trời xếp ngang hàng với nàng Tây Thi ngày xưa chớ hổng phải
nói chơi đâu. Thuở ấy tôi còn là nhóc con chuyên tâm
lo ăn học nên chỉ biết xuýt xoa chiêm ngưỡng mà thôi chớ
tuyệt nhiên không dám léng phéng tới gần làm quen, nhưng do
bản tính tò mò, có lẽ còn hơn cả mấy "cú nường"
nữ sinh nữa đó (xin lỗi nghe mấy cô nương nhí nhảnh của
chúng tôi nghen), nên mới biết dường như hai giai nhân nổi tiếng
nhất Cần Thơ này đang cư ngụ tại số nhà "11 bis"
mà các bạn tôi và thiên hạ nói trại ra là "hai
cô ở số <ông già bích> theo kiểu đánh
bài cơ, rô chuồng, bích không bằng? Kể ra thì ngoài việc học hành,Trường
Phan Thanh Giản Cần Thơ chúng tôi có nhiều điểm nổi bật
lắm quý vị à, như tôi đã từng kể lể dài dòng
trước đây. Trước
tiên, môn thể dục thể thao và võ thuật được nhà trường
đặc biệt chú trọng vừa để rèn luyện thân thể vừa
để tạo niềm tự tin cho học sinh khi tiếp xúc với thế giới
bên ngoài mà, không phải "mèo khen mèo dài đuôi dễ
chạy", nhưng phải công nhận trường chúng tôi được
đánh giá là một trong rất ít trường ở toàn vùng
miền nam Việt-Nam đã đạt được thành tích xuất sắc
nhứt. Không ngon lành
nhứt sao được khi vào những năm đầu thập niên 1950, đội
bóng chuyền học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ đã từng giữ chức
quán quân nhiều năm liền khi giao đấu với các trường học
khác, đặc biệt là kể cả các đội bóng hàng đầu
của những tỉnh miền Tây lúc bấy giờ nữa. Về môn nhu đạo, phái đoàn
nhu đạo của trường Phan Thanh Giản Cần Thơ cũng từng làm rạng
danh trường khi giao đấu với phái đoàn của lò nhu đạo
Hàn Bái Đường là ngôi sao bắc đẩu của thủ đô
Saigon vào thuở ấy với sự góp mặt của những võ sư Quan,
Kiệt, Chơi lừng danh một thời mà vị võ sư Chơi đã từng
đạt được đai đỏ thập đẳng. Về xà đơn (barre fixe), xà đôi (parallèle),
học sinh Phan Thanh Giản cũng ghi được dấu son cho Trường Mẹ khi có
một anh quay được vòng lớn của xà đơn là grand soleil
nhờ phong trào thể dục thể thao của trường luôn được
các thầy hướng dẫn và khuyến khích tập dượt không
ngừng. Hồi tưởng lại lúc mới đến trường, tôi chỉ
đạt được từ 10 đến 12 điểm về xà đơn, nhưng
sau khi tập luyện trong một thời gian rất ngắn, tôi đã đạt
điểm tối đa khi thực hiện thành công 7 động tác liên
tục ở trên xà, sau đó tôi còn quay được petit soleil, nhưng
đến grand soleil thì đành xếp giáp quy hàng! Tôi cũng chưa quên ngày ấy tôi
biết một anh học trên tôi một lớp có quốc tịch Pháp, lúc
nào đi học cũng có một cô bạn gái cùng lớp cặp tay
đi sát bên nhau, sau này họ là vợ chồng, mà lúc bấy
giờ báo chí ở Saigon xuống Cần Thơ làm bài phỏng vấn,
có viết một đoạn cho biết tại Tây Đô có một cặp
học sinh lúc nào cũng như cập đủa khi cặp kè tay trong tay bên
nhau mỗi lần đến trường học. Nếu có dịp đọc được
bài này, tác giả rất mong anh Đại tá Henri Kinh, nguyên Chỉ
Huy Trưởng Quân Cảnh của QLVNCH và phu nhân vui lòng tha lỗi cho người
đồng môn niên đệ này, thuở ấy cùng ở ngành quân
huấn với anh khi niên trưởng là Chỉ Huy Trưởng Trường Quân
Cảnh tại Vũng Táu. Về hội họa, không ít họa sĩ đã được thành
danh nhờ sự tận tâm chỉ dạy của thầy Cường qua bao năm tháng
ở trường Mẹ, riêng tác giả thì chỉ được cái
"quơ quào" lúc ở Trường Cao Tiểu Vĩnh Long khi mày mò
theo học lớp hàm thụ "cours ABC de Dessin" ở Pháp nhưng rốt cuộc
chỉ là "nửa thầy nửa thợ" không đâu vào đâu
cả, chỉ còn vớt vát được chút xíu là có nét
chữ cũng hơi dễ coi để may ra viết thư tình mà thôi nhưng
rốt cuộc rồi cũng bị từ chối (như trong Mối Tình Học Trò)
nên về sau cũng dẹp tiệm luôn. Nhưng tui hổng hiểu tại sao trong xóm tui ở, xóm Võ
Tánh nhỏ tí tẹo ấy mà chỉ có tui là lẹt đẹt theo
sau cầm đèn lái, còn các bạn tui anh nào cũng ăn nên làm
ra như các bạn Võ Sáng Nghiệp, Nguyễn Hữu Phước, Lâm Văn
Mẫn, còn các cô nữ sinh Hoàng, Xuân, Huệ cũng đâu kém
chi ai. Để tạm đánh
dấu chấm hết về một thời để nhớ với biết bao kỷ niệm
êm đềm ở miền Tây Đô thân thương năm nào, tui không
thể không nhắc đến mật tài năng trẻ lúc bấy giờ đã
làm cho Cần Thơ được thêm thăng hoa trên lĩnh vực âm nhạc.
Nhắc đến âm nhạc ở Cần Thơ thì không thể nào quên
được tiếng đàn Hạ Uy Di với những tiếng vuốt có nét
đặc trưng của thổ dân Hawaii để ta có cảm tưởng như
đang ở bãi biển Waikiki, Oahu, Maui hay ở phi trường Honolulu của tiểu
bang Hawaii, Hoa Kỳ. Đặc biệt tiếng đàn lục huyền cầm Hạ
Uy Di ở hẽm Võ Tánh do anh Dương Hoàng Trung độc tấu cũng
làm say mê lòng người không kém mà cá nhân tui, tuy cũng
cố gắng tập dượt nhưng chỉ làm bà con lối xóm mất
ngủ do tiếng vuốt nghe trẹo bản họng của tui thì làm sao mà
ngủ ngon cho đặng? Ngoài tiếng đàn rất êm dịu này, anh
Trung còn là một tay đàn vĩ cầm có hạng ở Cần Thơ
chỉ sau hai năm luyện tập mà thôi nhờ anh có sẵn năng khiếu
về âm nhạc. Nhờ sự giúp đỡ của đồng môn hiền
đệ Nguyễn Công Danh trong ban biên tập trang nhà của Trường Mẹ,
tôi đã may mắn và rất vui mừng khi tìm được lại anh
bạn tài hoa rất thân thiết là anh Dương Hoàng Trung sau gần 50
năm xa cách.
TRẦN BÁ XỬ Viết xong tại thành phố
Springfield, MA vào tiết Đông Chí 2014.
Tạp Ghi Sa Giang thương mến của tôi_____________________________________________________
TRẦN BÁ XỬ Tôi là người con trai út trong một gia đình nghèo
gồm 6 người con sinh sống ở tận miệt vườn xã Tân Hưng
quận châu thành Sa Đéc. Trước năm 1945, thân phụ tôi vốn
thuộc nguyên quán ở huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi ở
tận miền Trung Việt Nam. Thuở còn nhỏ, ông thích du lịch đó
đây và có khiếu về kỹ thuật nên sau khi tốt nghiệp Tiểu
Học ở huyện Đức Phổ, ông đã mầy mò ra tỉnh Quảng
Ngãi để theo học Trường Kỹ Thuật tương tự như Trường
Kỹ Thuật Cao Thắng ở Saigon lúc bấy giờ. Trong khi ấy, người chị
cả của tôi có chồng ở làng Diên Trường, huyện Đức
Phổ cho đến năm 1958 thì theo chồng vào miền đông Nam Phần
để làm nghệ trồng trà và cà-phê. Người anh thừ ba
có tư chất thông minh từ thuở nhỏ và là niềm tự hào
của gia đình, đã tiếp tục theo học hết Tú Tái 2, sau đó
được tuyển chọn ra Hà Nội tiềp tục học để lấy
được mãnh bằng kỹ sư mà lúc bấy giờ trong cả tỉnh
Sađéc chỉ có 3 thí sinh tốt nghiệp mà thôi. Người anh
thứ tư chuyên lo hành nghề lái xe đò trong khi bà chị thứ
5 kém may mắn đã mất đi khi còn rất trẻ. Còn lại người
chị thứ 6 đã cố gắng theo học lớp ý tá để sau này
về phục vụ tại Ty Y Tế tỉnh Kiến Phong ( Cao Lãnh), sau đó thuyên
chuyển về hành nghề y tại xã Tam Hà, quân Thủ Đức, Saigon.
Riêng người con trai út duy nhứt, với vóc dáng nhỏ thó nhưng
tôi rất ham thích tập dượt thể dục như xà đơn, leo dây,
cử tạ nhẹ và tham gia các môn thể thao như chạy đua, bơi
lội, nhu đạo, đánh bóng bàn, bóng chuyền, đá banh, v.v.
nên sức khỏe cũng ở mức trung bình. Lúc ban đầu, sau khi tốt nghiệp Trường Kỹ Thuật ở
Hà Nội, ba tôi đã chuyển qua làm nghề đấu thầu (entrepreneur)
xây cất nhà cửa cũng như các trường học hơặc bệnh
viện ở tận bên Ai Lao xa dịu vợi, nhưng sau bao nhiêu năm vật lộn
với đời, vận may đã không mỉm cười nên ông bị
phá sản phải quay về Sađéc và kết duyên với mẹ tôi
trong hoàn cảnh gia đình dưới mức trung bình nếu không muốn
nói là nghèo nàn. Thuở bấy
giờ, vì hoàn cảnh gia đình túng thiếu nên cha tôi buộc
lòng quyết định cho người chị thứ 6 tạm nghỉ học hai năm
để phụ giúp việc nhà tạo cơ hội cho một mình tôi
tiếp tục bậc Tiểu học. Trong điều kiện kinh tế gia đình xuống
dốc thê thảm như thế, vì không có phương tiện di chuyển
để đi học nên vào mỗi buổi sáng, tôi phải thức dậy
thật sớm để đi bộ đến Trường Làng Tân Vĩnh Hòa
cách xa nhà khoảng 3 cây số để đến lớp cho kịp giờ
học. Cũng do hoàn cảnh túng thiếu của gia đình nên tôi
quyết tâm cố vươn lên học hành rất chăm chỉ để
trở thành một học sinh xuất sắc của trường, do đó Ban Giám
Học nhà trường đã đặc cách chấp thuận cấp
cho tôi một học bổng toàn phần, đồng thời cho phép tôi
được ở lại ăn cơm trưa tại trường học và mãi
đến xế chiều mới về nhà.. Năm ấy cũng là lúc Quân
đội Nhật chiếm đóng Saigon và các tỉnh miền Tây nên
cả gia đình tôi phải chạy loạn (tản cư) trên một chiếc
ghe tam bản ngày đêm bồng bềnh trên sóng nước, ban ngày
núp dưới các tàn cây sum sê để tránh máy bay Nhựt
oanh tạc, còn ban đêm thì tiếp tục đi lẩn trốn vào vùng
xa hơn để mong được an toàn hơn. Khi lệnh báo động chấm dứt, hòa bình được
vãn hồi tạm thời vì phong trào yêu nước (Việt Minh) lúc
bấy giờ vẫn còn hoạt động thì gia đình nghèo nàn
của chúng tôi cũng gấp rút trở về thành thị để cho
tôi kịp chuẩn bị dự thi Sơ Học Yếu Lược. Tôi luôn luôn
ghi tạc trong lòng cái ngày đi thi đầy ắp kỷ niệm hôm đó
khi bụng chưa hoàn toàn no vì cảnh bần hàn, tuy nhiên Trời
Phật trên cao đã thương xót phù trợ cho tôi có một
trí nhớ khá tốt để có khả năng hoàn tất bài thi
một cách hoàn hão và nhanh chóng.Tôi làm sao quên được
vị giám khảo ngày hôm ấy là người thầy ruột của
mình. Tên của thầy là Huỳnh Vĩnh Minh, vị thân phụ của
anh Huỳnh Vĩnh Lại, sau này là Đại tá Chỉ Huy Trưởng Trường
Sinh Ngữ Quân Đội của Quân Lực VNCH, đã tạ thế tại
Houston, TX ngày 19 tháng 3 năm 1998 vừa qua, và cũng là thân phụ
của bạn học cùng lớp tôi tên Huỳnh Vĩnh Lộc, sau này là
Trung tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn Công Binh Chiến Đấu.
Tôi hoàn tất bài thi sớm nhứt nên thầy Minh đã thu bài
của tôi trước tiên và đem lên bàn của Ban Giám khảo.
Mùa thi năm đó, tôi đã ghi được
một điểm son cho Trường Tiều học Tân Vĩnh Hòa Sa Đéc
với thành tích là thi đậu Sơ Học Yếu Lược hạng nhứt
toàn tỉnh Sa Đéc. Ngày phát thưởng được tổ chức
rất long trọng với sự tham dự của tất cả quý vị thanh tra tiểu
học, quý thầy cô cùng học sinh các trường Tiểu học và
phụ huynh học sinh tỉnh Sa Đéc. Phần thưởng danh dự được
đích thân ông Tỉnh Trưởng người Pháp trao tặng do chính
ba tôi phụ giúp mang về vì phần thưởng cao khỏi đầu của
thí sinh đoạt giải.. Ngày ấy,
hệ thống giáo dục bậc Tiểu học Pháp gồm các lớp Năm,
Tư, Ba, Nhì một năm, Nhì hai năm, Nhất 1 và 2 năm, và lớp
Tiếp Liên trước khi thi lên năm thứ nhứt trung học, tạm dịch
như sau "Cours Enfantin, Cours Préparatoire, Cours Élémentaire, Cours Moyen 1ère Année,
Cours Moyen 2è Année, Cours Supérieur, đôi khi có Cours Supérieur 2è
Année, et Cours des Certifíés. Nhờ thành tích nhận phần thưởng
danh dự nên nhà trường cho phép tôi học nhảy lên lớp
Cours Moyen 2è Année thay vì Moyen 1ère Année. Nói đến những học sinh cùng những thành tích học
tập của họ mà không ghi nhận những công lao giảng dạy của
quý thầy cô là một điều thiếu sót rất lớn vì học
sinh luôn luôn nhớ nằm lòng câu "không thầy đố mày
làm nên". Vào cuối thập niên 40 và đầu thập niên
50, Ty Tiểu Học Sa Đéc có hai trường học ngoại trừ trường
làng. Vế phần nam học sinh thì có Trường Nam Tiểu Học ở
bên cạnh một bồn chứa nước rất lớn và cao vút của
tỉnh giống như một tháp nước mà ngày ấy người dân
và cả học trò chúng tôi cũng đều gọi là "château
d'eau". Khuôn viên trường cũng khá rộng rãi mà thuở ấy
các bạn tôi và tôi thích nhứt là được tự tay trồng
trọt và chăm sóc các rau cải và bông hoa trong một khu vườn
nhỏ xinh xắn có những luống rau hay hoa quả ngay hàng thẳng tắp trông
rất đẹp mắt dành riêng cho những học sinh hay phá phách như
chúng tôi khi được vinh hạnh xếp hạng ba sau quỷ và ma.
Trong trường còn có một sân quần
vợt dành cho quý thầy tập dượt ngoài giờ dạy học. Tôi
còn nhớ như in là có một lần trong giờ giải lao, khi quý thầy
vào phòng hội để nghỉ ngơi thì ở ngoài sân quần
vợt, do bản tính tò mò, vả lại vì gia đình quá nghèo
đâu biết đến chiếc vợt tennis tròn hay méo là gì, nên
tôi bèn rón rén đến gần một chiếc vợt của một vị
thầy đang để trên sân, nhẹ nhàng cầm một chiếc vợt
lên và bắt chước động tác của thầy thử đánh
trái banh bay đi như giao bóng vậy, không ngờ chiếc vợt vuột khỏi
bàn tay khẳng khiu của tôi và bay đi xa đến hai ba thước. Với
nét mặt tái mét không còn một giọt máu vì kinh hãi
tột độ, tôi vội chạy bay đến cầm chiếc vợt lên xem có
bị gãy hay trầy trụa gì không thì cũng vừa đúng lúc
thầy Nguyễn Văn Lãnh là chủ nhân chiếc vợt từ tốn đi
ra, xem xét sơ qua rồi cười vui vẻ, sau đó vò đầu tôi
và nói một câu thật dễ thương "Lần sau hãy cẩn thận
nghe con, con phải tập dượt nhiều mới có thể giao bóng tốt được".
Nói đến thầy Lãnh, một vị giáo viên dày dạn kinh nghiệm
trong ngành sư phạm từng được đánh giá là một trong
vài giáo viên xuất sắc nhứt của trường nam, nghe nói sau này
thầy lên làm Hiệu trưởng Trường Tiểu Học Sa Đéc.
Bên cạnh những vị giáo chức khả
kính của Ty Giáo Dục tỉnh Sa Đéc tuyệt nhiên không thể
không nhắc đến ông Thanh Tra Liên Tỉnh Sa Đéc-Vĩnh Long-Trà
Vinh Nguyễn Văn Thu, thân phụ của anh Nguyễn Trung Sơn, sau này là Đại
tá Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Tân Sơn
Nhất, và hai người em là Nguyễn Trung Hải cũng thuộc quân chủng
Không Quân và người em út là Nguyễn Trung Nguơn tốt nghiệp
trường Chasseloup Laubat và sau này dường như làm Hiệu trưởng
của chính trường Mẹ của mình. Kế đó tất cả học
sinh không bao giờ có thể quên vị Thanh tra Tiểu học kiêm giáo
viên tài ba xuất chúng của tỉnh là thầy Trịnh Quang Lai. Phương
pháp giảng dạy của thầy thật là vô tiền khoáng hậu, công
thêm sự tận tâm cao vời vợi và tinh thần bất vụ lợi đáng
được tôn vinh. Vào năm 1948, khi các bạn học cùng lớp và
tôi chuẩn bị ráo riết với hy vọng được chấp nhận vào
học năm thứ nhứt Collège de Vĩnh Long, thầy Trịnh Quang Lai đã
tập họp khoảng chin mười học sinh khá nhứt trường cả nam
lẫn nữ để giảng dạy đặc biệt miễn phí với quyết
tâm bằng mọi giá phải thi đậu vào trường trung học mới
thành lập của tỉnh Vĩnh Long. Kết quả là không có một
thí sinh nào phải "xách xe không" chạy về Sa Đéc cả,
nghĩ là đã đậu tất cả làm tăng uy tín cho thầy Lai
nói riêng, và cho tỉnh Sa Đéc nói chung. Về mặt giáo dục
được sáng ngời như thế nhưng vô phúc thay khi phu nhân của
thầy là nữ giáo viên Nguyễn Thị Mỹ (?) vừa xinh đẹp, thùy
mị vừa dạy học giỏi lại bất hạnh qua đời để lại
biết bao nỗi tiếc thương cho mọi người. Mộ của Cô chỉ
cách nhà tôi ở khoảng 100 thước nên nhiều học sinh, kể
cả gia đình chúng tôi, thường xuyên đến viếng Cô gần
như vào mỗi cuối tuần. Thầy Lai có ba người con rất xinh xắn,
riêng cô em út học rất giỏi cùng chung lớp với tôi, còn
hai người anh theo học Học Viện Hải Quân Pháp ở thành phố
cảng Brest, Pháp Quốc mà sau này đều thăng cấp Hải Quân
Đại Tá với những chức vụ rất quan trọng. Tuy bước đường
quan lộ và học vấn của các con Thầy theo chiều hướng rất
thuận lợi nhưng sau khi Cô mất đi khoảng 5, 6 năm sau đó thì
điều bất hạnh ụp xuống gia đình Thầy khi hai người con trai
cương quyết không chịu cho Thầy tái giá. Tuy tôi và một
học trò ruột cũ của Thầy cũng vào quân đội và giữ
chức vụ khá lớn ở Phủ Tổng Thống và Bộ Tổng Tham Mưu,
nhưng chúng tôi vẫn luôn luôn giữ lễ "tôn sư trọng đạo"
với vị thầy đáng kính có nhiều ơn nghĩa với các môn
sinh của thầy bằng cách thỉnh thoảng đến vấn an thầy trong khi
thầy vẫn sống lẻ loi một mình trong cư xá Lữ Gia mà hai cậu
con trai không bao giờ đến thăm viếng do sự bất hòa năm xưa.
Rồi có một hôm hai chúng tôi nhận được hung tin muộn màng
qua báo chí cho biết có một xác chết không người nhận
vì không có lý lịch trong người nên đã được
chôn cất sơ sài tại một ngôi mộ vô thừa nhận mà nửa
tháng sau đó mới có người láng giềng trong cư xá của
thầy báo tin nên mới biết đến sự mất tích của vị
thầy khả kính của các cựu học sinh tỉnh Sa Đéc chúng
tôi.Thật không có sự việc nào đáng thương tâm và
đau lòng như thế nao giờ! Ngoài
các thầy kể trên, còn có nhiều vị xuất sắc khác như
thầy Đoàn Văn Ban cũng dạy lớp Nhứt hoặc Tiếp Liên, thân
phụ của Trung tá Anh sau này làm Tiểu Khu Phó Tiểu khu Sa Đéc
và hai bạn học cùng lớp với tôi. Nhắc đến giáo viên
nghiêm khắc thì đặc biệt có thầy Nghi mà học trò
rất sợ mỗi khi thầy dùng thước gỗ khẻ vào bàn tay học
sinh thật đau điếng đến phải bật khóc. Bên cạnh đó
còn có thầy Trần Bá Mậu là chú ruột của Thiếu Tướng
Trần Bá Di trước đạy lớp tôi học là Moyen 2è Année,
sau này là Hiệu trưởng Trường Nam Tiểu học, trong khi ấy thì
bên Trường Nữ Tiểu Học có Cô Nguyễn Thị Nữ là phu
nhân của thầy Trần Bá Mậu làm Nữ Hiệu Trưởng.
Có một điểm hơi trùng hợp là
hầu như một số đông quý thầy cô thường cư ngụ phía
bên kia cầu sắt trên đường đi Cao Lãnh, trong khi ở phía
bên này sông và khu cầu Cái Sơn chỉ có thầy Lai, Thu, Điểu,
Thời. Về hội họa thì có thầy Huề dạy rất giỏi, riêng
họa sĩ Thủy Tiên rất nổi bật với những bức họa truyền
thần làm bằng lụa trông rất đẹp mắt mà hai người con
đều nối nghiệp cha, riêng con trai tên Hiếu Đệ là một họa
sĩ tài danh có một thời sống tại Pháp. Nhắc đến cây cầu sắt đi qua nhà thương
Sa Đéc ở miệt Tân Hưng, tôi có một kỷ niệm thật vui
và buồn cười rất khó quên Khi còn là một cậu bé,
mỗi khi đến trường tôi phải đi qua cây cầu sắt này,
nếu không có ai đi kèm một bên thì tôi không bao giờ dám
ngang nhiên đi bộ trên cầu vì mỗi lần nhìn xuống dòng
sông đang chảy cuồn cuộn phía dưới chân cầu là tôi
hoảng sợ nên chỉ dám bò qua từng bậc thang một, mãi một
hai tháng sau tôi mới hết sợ và đi đứng tự nhiên hơn.
Về phía bên này cầu sắt cách
Trường Nam và Nữ Tiểu Học không xa, quê hương Sa Đéc
nhỏ bé của chúng tôi cũng có một vài nhà thuốc tây
mà tôi chỉ còn nhớ nhà thuốc Nguyễn Viết Nguơn cùng một
số bác sĩ như bác sĩ Ngởi, bác sĩ Nghiên ở đường
Tống Phước Hòa, bác sĩ Sanh ở gần Cầu Cái Sơn, v.v.
Sa Đéc cũng không thiếu những đặc
sản như hủ tiếu Sa Đéc, tiệm mì Chú Dầu ngon nổi tiếng
ngay cạnh bờ sông gần cầu sắt, bún cá, nem Lai Vung, lẫu gà
nòi, bánh tráng sữa, phở bò , và đặc biệt nhứt là
bánh phồng tôm Sa Giang mà chủ nhân là người rất quen thuộc
với tôi, ông ta là một sĩ quan tốt nghiệp khóa 1Liên Trường
Võ Khoa Thủ Đức từng phục vụ tại TTHL Quang Trung, dường như
sau này đã qua định cư tại Pháp. Sa Đéc cũng là nơi đào tạo nhiều anh tài cho đất
nước. Trong quân đội đã có những vị tướng lãnh
như Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Trần Văn Minh, Thiếu Tướng
Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng TTHL Quang Trung,Thiếu tướng Nguyễn Văn
Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh cùng nhiều Đại tá các
quân binh chủng, các Chánh Sự Vụ thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ
Tổng Tham Mưu, v.v.. Về phía dân sự phải nhắc đến Thủ
Tướng Trần Văn Hữu, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn
Thành Giung, Thứ Trưởng Giáo Dục, bạn cùng lớp với tôi
là Giáo sư Tiến Sĩ Trần Kim Nở, cùng nhiều Chánh Sự
Vụ các Bộ Kinh Tế, Nha Thương Cảng Saigon, v.v.
Đôi dòng về sự ra đời của
tỉnh Sa Đéc quê hương tôi. Về các tỉnh củ của miền Tây Nam Bộ lúc ấy được
gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh với 6 tỉnh sơ khởi là Saigon, Mỹ
Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên. Theo dòng lịch sử, sau khi Nam Kỳ bị chiếm trọn
năm 1867, lục tỉnh trở thành thuộc địa của Pháp mà mỗi
tỉnh được xem như Tham biện hay Hạt Thanh tra (Inspection). Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ký
Nghị định bải bỏ chữ Tham biện và gọi là tỉnh (province),
chữ Inspecteur đổi thành Administrateur hay Tỉnh Trưởng (Chef de Province), có
hiệu lực từ 1/1/1900. Và cũng từ đó, Nam Kỳ thuộc địa
có 21 tỉnh mới chính thức được ghi danh theo thứ tự cố định
trong đó tỉnh Sa Đéc đứng hàng thứ 6, mà lúc bấy
giờ rất nhiều người thuộc vanh vách như sau: GIA (Định),
CHÂU (Đốc), HÀ (Tiên), RẠCH (Giá),
TRÀ (Vinh), SA (Đéc), BẾN (Tre), LONG
(Xuyên), TÂN (An), SÓC (Trăng), THỦ
(Dầu Một), TÂY (Ninh), BIÊN,(Hòa)
MỸ (Tho), BÀ (Rịa), CHỢ (Lớn),
VĨNH (Long), GÒ (Công), CẦN (Thơ), BẠC
(Liêu), CAP (Saint Jacques). Qua
các chính quyền của Việt Nam Cộng Hòa, tỉnh Sa Đéc cũng
đã trải qua những bước thăng trầm chính yếu như vào
cuối năm 1956 tỉnh lỵ bị giải thể, về mặt hành chánh vẫn
thuộc xả Tân Vĩnh Hòa, đóng vai trò là quận lỵ quận
Sa Đéc, sau đó vào năm 1966, tỉnh Sa Đéc tiếp tục tồn
tại tách ra từ tỉnh Vĩnh Long chỉ gồm phần đất nằm giữa
hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang. Tỉnh lỵ Sa Đéc khi đó có
tên là Sa Đéc, về mặt hành chánh vẫn thuộc xã Tân
Vĩnh Hòa; từ 1966-1975 thị xã Tân Vĩnh Hòa vẫn tiếp tục
đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành (sau 1968 gọi là
quận Đức Thịnh) và chính thức là tỉnh lỵ Sa Đéc,
tiếp tục tồn tại và bị mất tên gọi đơn vị hành
chánh cấp tỉnh từ tháng 2 năm 1976 cho đến nay. Nguồn gốc của danh xưng Sa Đéc
Theo Hội Nghiên Cứu Đông Dương (Société
des Études Indochinoises) thành lập ngày 23/2/1883 với chức năng nghiên
cứu các vấn đề nông nghiệp, kỷ nghệ, lịch sử, ngôn
ngữ, khảo cổ, mỹ thuật, dân tộc. Hội có thư viện riêng,
ra tập san Nghiên Cứu Đông Dương (Bulletin de la Société des Études
Indochonoises, viết tắt là BSEI) với những sưu tập để ở Viện
Bảo Tàng Saigon. Căn cứ theo Hội,
hiện vẫn còn trong quyển Địa Phương Chí (monographie) của từng
tỉnh của Nam Kỳ được biên soạn từ những năm đầu
thế kỷ 20, trong đó Địa Phương Chí (Monographie de la province de Sa Đéc)
ấn hành năm 1903 ghi rõ tỉnh Sa Đéc có xuất xứ từ hai
chữ Phsar (có nghĩa là chợ) và Dek là sắt,
xem như chợ bán sắt được dịch ra tiếng Pháp là "marché
aux fers", địa danh này được ghi như vậy từ hơn một thế
kỷ trôi qua cho đến bây giờ. Tuy nhiên cũng có người cho rằng
Sa Đéc là một danh từ đa âm của người Khmer để gọi
cái miếu, có đền thờ thủy thần mà theo Ông Nguyễn Hữu
Hiếu của Hội Sử Học tỉnh Đồng Tháp nói rõ thêm là
ở chợ Sa Đéc có một miếu thờ người con gái họ Thạch
(danh từ Miên) nhưng hậu thế không biết tìm kiếm ở đâu
sau hơn một thế kỷ trôi qua nên không có căn bản nghiên cứu
vững chắc. (Tham chiếu: trích đoạn
Sa Đéc (tỉnh) - Wikipedia tiếng Việt)
TRẦN BÁ XỬ Springfield, MA, mùa Đông 2014 ________________________________________________________________________
Tạp Ghi NGƯỜI CHÁU GÁI _______________________________________________
Trần Bá Xử
Ngày ấy đã xa lắm rồi,
khi mới 12 tuổi đầu, tôi phải xa gia đình, rời bỏ Trường
Tiểu học một tỉnh lỵ hiền hòa với những địa danh mộc
mạc như Ngã Bát, Ngã Cạy, cầu Rạch Rắn, cầu Bà Ban, cầu
Nhà Thờ, Tân Phú Đông, Tân Vĩnh Hòa, Tân Hưng, Lai Vung,
Lấp Vò, v.v.để đi du học, ủa không phải du học mà tiếp
tục đi học tại một tỉnh lỵ lớn hơn tí ti gọi là Vĩnh
Long. Ngày ấy, vào năm 1949, ba tỉnh Sađec, Vĩnh Long và Trà Vinh đều
trực thuộc hệ thống giáo dục chung điều hành bởi một vị
thanh tra liên tỉnh gọi là Inspecteur Inter-Provincial, và đây là Trường
Trung Học đầu tiên tại Vĩnh Long với danh xưng Collège de Vĩnh Long,
còn gọi là Trường Cao Tiểu Vĩnh Long, tiền thân của Trường
Nguyễn Thông, Tống Phước Hiệp sau này.
Cũng vào
thời điểm xa xưa ấy, tôi vẫn có nhớ quý Thầy Cô như
như giáo sư Hiệu trưởng có biệt danh là "Ông Đìa"
Nguyễn Văn Kính (director), vị thanh tra liên tỉnh đã nêu ở trên,
rồi đến vị nữ giáo sư duy nhứt của trường tên Nguyễn
Thị Sương dạy Pháp Văn, quý thầy Phạm Văn Thàn dạy
Toán Lý Hóa, thầy Dương Văn Tường cũng là thi sĩ Dương
Bích Thủy dạy Việt Văn, thầy Phạm Văn Tệt dạy Pháp Văn,
người đã có công đặt mua những quyển Sách Hồng (livre
rose) từ bên Pháp về và hướng dẫn cách đọc rất chuẩn
và tóm tắt ngắn nhứt, đặc biệt là phương pháp chia
động từ một cách tuyệt dịu, nhất là hai nhóm thứ hai và
thứ ba cùng tận cùng bằng hai chữ "ir" như "finir' và "venir"
rất dễ bị lẫn lộn (conjugaison des verbes du 2è et 3è groupe). Kế đó
phải nhắc đến vị giáo sư thầy dạy Pháp văn Phạm Văn
Thiết tốt nghiệp Trường Đại học Sorbonne, Pháp với những
bài luận đề luân lý (dissertation morale) mà sau này cả hai thầy
trò chúng tôi đều vào lò "đại học cải tạo",
và giáo sư Khiêm, cử nhân Toán sau này là Đại tá
Pháo Binh. Về môn hội họa có thầy Lê Văn Sĩ tốt nghiệp
Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật ở Hà Nội nên nói tiếng Pháp
theo giọng đặc sệt thành phố cảng Marseille của miền Nam nước
Pháp với câu mở đầu không bao giờ thay đổi mỗi khi vào
lớp "Regardez tous au tableau noir" (Xin các trò nhìn lên bảng đen),
với chữ "dessin/vẽ" khác giọng Paris thành ra (đết-xanh) hay chữ
"main/bàn tay" thành ra (manh) hoặc"demain/ngày mai" thành ra (đờ-manh).
Có một chuyện dở khóc dở cười là thầy hay ghét người
cháu ruột tên Lê Tấn Hội là bạn rất thân với tôi.
Anh ta vẽ không đến nỗi tệ lắm nhưng mỗi lần xem tập vẽ
của người cháu ruột mình là y như rằng thầy chỉ phê
cao nhất là 12 điểm nên bạn ấy đã ấm ức chạy đến
nhờ tôi ráng vẽ cho thật đẹp với hy vọng có điểm cao
hơn. Nhưng cũng như mọi lần, khi thấy tập vẽ của anh ta, dĩ nhiên
đã do tôi nắn nót vẽ thật kỹ, thì thầy cũng chỉ phê
y chang12 điểm mà thôi làm anh bạn tôi muốn bật mí nhưng
không dám nói mà chỉ lầu bầu với các bạn học "Tụi
bây thấy không, thằng Xử nó quẹt quẹt có mấy cái mà
ổng cho tới 16, 17 điểm, còn tập của tao chỉ được cao nhứt
12 điểm dù tao đã nhờ nó tận tình nắn nót cho tao đó
nghen?" Về phần nâng khăn sửa túi cho học sinh hay chọc phá như
chúng tôi thì đả có quý thầy Nguyễn Văn Mẫn làm
Giám Thị và thầy Nguyễn Văn Kỷ Mậu đặc trách Tổng
Giám Thị.
Tại trường trung học đầu đời
này, cứ cách nhau hai ba tuần vào mỗi trưa Thứ Sáu, một anh
bạn học chung lớp cùng quê Sađec với tôi và tôi thường
gò lưng trên xe đạp để chạy đua từ Vĩnh Long về nhà
thăm gia đình để xem ai về nhanh nhứt. Tuy hơi ốm yếu ho hen hơn
anh bạn nhưng thông thường tôi thường cán mức đến trước
bạn tôi gần chục thước có lẽ nhờ sự háo hức nóng
lòng muốn được gặp cha mẹ sau thời gian ngắn xa cách. Tôi
đã năn nỉ ba tôi trang bị những bộ phận khá tốt cho chiếc
xe đạp cà tàng của tôi để sau này tôi đã bất
ngờ lập được thành tích đáng khích lệ với 55 phút
trên chiều dài 24 cây số từ Vĩnh Long về Sađec nhứt là từ
Nha Mân đến Xẻo Vạc tới đoạn lò gạch ở Tân Xuân
khi tôi nhìn thấy thành phố thân yêu dọc theo bờ sông thì
tôi vượt nhanh lên bức phá như những tay đua xe đạp chuyên
nghiệp không bằng?
Vào thời điểm đầu của
thập niên 50, khi đang theo học chương trình Pháp tại Collège
de Vĩnh Long, tôi đã cố gắng dồn hết mọi nổ lực trong học
tập để chuẩn bị ráo riết cho kỳ thi Cao Đẳng Tiểu Học
(DEPSI/Diplôme d'Études Primaires Supérieures Indochinoises) tổ chức tại Trường
Trung học Le Myre De Vilers, tiền thân của Trường Trung học Nguyễn Đình
Chiểu Mỹ Tho sau này vì lúc bấy giờ miển Nam Việt Nam chỉ
có hai Trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ và Pétrus Trương
Vĩnh Ký tổ chức kỳ thi này còn Trường Chasseloup Laubat chỉ có
thi BE (Brevet Élémentaire) và BEPC (Brevet d'Études du Premier Cycle) mà thôi.
Thuở ấy, lúc nào ba tôi cũng đi theo sát bên
cạnh tôi trong các cuộc thi cử từ tỉnh lỵ Sađec bé nhỏ
đến các tỉnh Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ và Saigon. Trong gia đình
tôi, ngoài tôi ra còn có người anh thứ ba học rất giỏi
đã từng được trúng tuyển ở Saigon và được phép
ra Hà Nội cùng hai, ba thí sinh khác để dự thi và đã
tốt nghiệp kỹ sư nhưng sau này anh tôi bị Việt Minh giết chết
vì bị gán tội là Việt gian khi anh ấy làm giám đốc cho
một hãng khá lớn mà ngày ấy tôi chỉ biết loáng thoáng
là hãng Simon de Paris tại Saigon do người Pháp điều hành. Sau khi
anh ba tôi mất đi, ba tôi luôn luôn nuôi hy vọng tôi sẽ noi gương
người anh quá cố để mong đạt được chút ít thành
tựu tương đối trong xã hội vì gia đình chúng tôi không
thuộc thành phần khá giả. Có lẽ do mặc cảm thua sút bạn
bè vì gia cảnh thấp kém của mình, phần khác nhờ sự
khuyến khích cổ võ không ngừng của người cha luôn muốn
con mình vượt trội hơn người khác nên tôi đã chuyên
tâm học hành và tôi đã không khiến cha tôi thất vọng
trong giai đoạn đầu tiên này.
Như đã nói
ở trên, tôi thường thích chạy xe đạp về thăm nhà vào
những dịp lễ hay xa nhà khá lâu nhưng lần này thú vui lướt
gió chạy u về nhà không còn nữa vì tôi phải chuẩn bị
bài vở để chuẩn bị thi vào lớp Seconde Moderne tại Trường
Phan Thanh Giản Cần Thơ sau khi thi xong ở Mỹ Tho. Lần này tôi đi xe
đò trên lộ trình từ Vĩnh Long về Sađec, chỉ mang một túi
hành lý khá nặng trong đó chủ yếu là sách vở để
chuẩn bị cho cuộc thi tuyển lựa gay go sắp đến.
Ngồi bên
cạnh tôi là một cô gái xinh đẹp còn rất trẻ, có
lẽ cũng xấp xỉ tuổi với tôi mà thọat mới nhìn thoáng
qua tôi có cảm giác như rất quen thuộc. Vì mới quen biết nhau
nên sau vài câu hỏi xã giao một cách bâng quơ vô thưởng
vô phạt, tồi ngồi im để ngắm nhìn cô bé, ngang tuổi với
người ta mà dám gọi là cô bé mới oai và vô phép
chớ bộ? Quảng đường trên 20 cây số từ Vĩnh Long về Sađec
rút ngắn dần, tuy không dài nhưng cũng đủ cho các chàng
trai lém lỉnh tha hồ ba hoa chích chòe, nhưng tôi chỉ dám hỏi
được năm ba câu chuyện về sông nước khi biết cô ta thích
bơi lội, một môn thể thao ưa thích nhứt của tôi nữa đó
mà, nhưng tôi lại tịt ngòi luôn, có lẽ vì sự duyên
dáng và sắc đẹp có vẻ gần như nghiêng nước nghiêng
thùng của cô bé khiến tôi cứ ú ớ nói không ra lời.
Quả thật là cái miệng phản chủ? Ngoài ra, trong lúc chuyện
trò, cô ấy thường gọi tôi bằng anh, trời đất quỷ thần
ơi, hồi cha sanh mẹ đẻ đến giờ này có ai thèm gọi
tôi bằng chữ anh ngọt ngào này bao giờ đâu nên tôi như
chú ngố rừng đang bay lơ lửng trên không mà chưa biết giây
phút nào sẽ rớt xuống đất cái bịch đây nè. Mà
cô bé cũng tinh nghịch ghê, vì tôi nghe nói con gái thường
thông minh sớm hơn con trai phải không quý vị? Cô ta cứ thao thao bất
tuyệt nói chuyện về biển rộng sông dài vì tôi chỉ còn
nhớ loáng thoáng nhà cô ta ở gần biển nhưng tôi đâu
còn nhớ là biển Nha Trang hay biển Thái Bình, và dường như
cô ta đang đùa nghịch với tôi và quay tôi chư chong chóng
vậy.
Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đến bến
xe Sađec, điều khiến tôi phải tỉnh giấc nam kha để chuẩn bị
trở về nguyên quán. Cô ta đã chào từ biệt đến lần
thứ hai tôi mới qua cơn mê mà tôi cũng đã quên béng
hỏi nơi cô về gặp người thân, may mà tôi chỉ còn nhớ
mang máng tên cô ta là Bé Ba, một cái tên có vẻ quê
mùa vô cùng nên tôi khó quên được, nhưng cũng chưa
quê một cục như thằng tôi khi leo lên xe cyclo đạp với nỗi
ấm ức trong lòng khi nghĩ đến câu "tìm em như thể tìm
chim!"
Ngày hôm sau, tôi nghe lời ba mẹ lần lượt
đi thăm bà con mà xa nhứt có lẽ là ở miệt Tân Hưng
khi phải qua một bến đò trên sông Sa hiền lành uốn khúc
lên vùng cao hơn gần tỉnh Cao Lãnh cạnh Đồng Tháp Mười.
Tôi mon men đi bộ sau khi qua bến đò để đến thăm người
Cô là chị ruột của ba tôi. Ngày còn bé, cứ mỗi độ
Xuân về, tôi thường hay qua thăm Cô Dượng mà người Bắc
gọi là bác để được lì xì nhờ số tôi rất
hên nên mỗi lần tôi đi xông đất sáng sớm mồng một
Tết thì hai bác tôi đều gặp hên ghê lắm. Lần này
không phải ngày tư ngày tết gì cả nhưng tôi có sứ
mạng cao cẳng (cao cả chớ hổng phải cao cẳng hay cao giò gì cả)
là tôi bắt buộc phải đến thăm hai bác cho phải đạo.
Cũng như những lần trước đi thăm Cô vì Cô rất thương
yêu tôi như Mẹ tôi vậy nên tôi vui mừng hí hửng đi
như chân sáo vào nhà Cô ở sát bờ sông Sa để thường
được nghe Cô mắng yêu một câu rất dễ thương "mẹ
cha mầy đi đâu mà ào ào như vậy?" Không như những
lần trước. lần này Cô tôi ra vẻ nghiêm nghị nói vọng
vào bên trong như một mệnh lệnh:" Con ra chào Chú đi con?' Tôi
còn đang ngỡ ngàng thì một thiếu nữ từ nhà sau tiến ra
phía trước để chào hỏi tôi. Tôi đang định xem cô
cháu gái này ở đâu chui ra nhưng tôi chỉ kịp há hốc
mồm không thốt nên lời trong khi cô bé hí hửng định gọi
tôi "Anh đó hả?" thì sực nhớ đến thân phận của
mình nên chỉ lí nhí trong cổ họng dường như có hai chữ
"Chào Chú" cộc lốc pha lẫn sự ngạc nhiên tột độ.
Những hình ảnh trên chuyến xe đó ngày hôm qua còn quá
đệm nét trong tâm trí tôi, thật lòng mà nói, tôi cũng
có ý thích cô bé nhí nha nhí nhảnh ăn nói có duyên
này mà vẻ đẹp rất hao hao giống ba cô bé là anh tôi.
Cũng may cho tôi khi hai chú cháu chỉ trao đổi với nhau những câu
nửa vời về nơi cư ngụ (ở vùng biển Vũng Tàu) và sở
thích bơi lội mà chưa kịp hay chưa dám nói điều gì
khác có ảnh hưởng không tốt về sau này.
Sau đó, hai chú cháu ngồi cạnh bên nhau để tâm sự
rất nhiều chuyện. Cháu nói líu lo như chim họa mi hầu như không
có chuyện gì xảy ra trong khi tôi vẫn chưa thoát khỏi tâm trạng
bối rối khi nhớ lại lúc ngồi cạnh nhau trên xe đò ngày
hôm qua. Quả thật cháu gái tôi rất đẹp, nét đẹp của
một nữ lực sĩ thẩm mỹ, với làn da hơi bánh mật nhưng
không sạm nắng nhiều vì là dân miền biển mà, và với
thân hình nở nang thật cân đối nhờ thường xuyên bơi
lội. Có lẽ vì biết tôi cũng đam mê bơi lội khi tôi
tỉ tê trên xe nên cháu tự động vào nhà trong thay đồ
tắm và rủ tôi ra bơi lội trên dòng sông trước cửa
nhà có lẽ vì hiếu kỳ và muốn xem tài nghệ của tôi
đến mức độ nào. Rất may cho tôi là khi học ở Vĩnh Long,
mỗi chiều tôi đều tập bơi đường dài ngang qua nhà sàn
cô bạn học đang ngồi học bài và vẫy tay chào hỏi ra cái
điều mình cũng biết bơi đó nhen? Nhờ công trình tu luyện
(luyện tập chớ có tu gì đâu) nên tôi mới tương đối
bơi cầm cự với cô cháu một cách gần ngang ngửa khiến cháu
rất thích thú và nằng nặc rủ tôi thường xuyên qua bơi
lội với cháu cho đở buồn, dĩ nhiên là tôi cũng rất
vui vẻ nhận lời để có dịp thi thố tài năng với người
cháu xinh xắn tươi đẹp như hoa của mình.
Thắm thoát mà hơn mười lăm năm đã trôi qua
mà tôi không biết được tin của người cháu gái thương
mến sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời kể từ sau lần gặp
cháu ở Sađec. Bổng nhiên, vào một ngày đẹp trời trong năm
1968, tại cư xá tôi đang trú ngụ, bất ngờ qua trung gian của người
cháu gọi tôi bằng ông chú (là con gái của cháu tôi
ngày xưa đó mà) tôi được biết chồng của cháu
gái tôi cũng tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đalat. Khi
gặp lại nhau, tuy cháu có vẻ già giặn hơn nhưng vẫn còn
giữ được nét thanh xuân ngày nào, và khi kể lại cuộc
tao ngộ bất ngờ trên chuyến xe đó ngày xưa, hai chú cháu
cười nói rất tâm đắc mà có một lúc bất chợt
tôi bật mí với cháu là nếu ngày ấy cháu không phải
là cháu của chú thì không biết ngày sau sẽ ra sao khiến cháu
cười thật vui với nét mặt thật rạng rỡ và dễ thương
biết chừng nào. Tôi có cơ hội gặp lại cháu một lần
nữa khi cháu cùng gia đình chuẩn bị qua định cư tại Mỹ
mà đến bây giờ tôi cũng chưa biết họ ở đâu.
Ngày nay, tuổi đã ở bên bờ 80 "cổ lai hi",
khi bất chợt hồi tưởng lại những chuyện trùng hợp của một
thời đã qua, những bất ngờ thật thú vị đầy kịch tính,
những thời gian nở hoa bên dòng sông Sa hiền hòa với những cánh
lục bình trôi dạt đôi bờ và lững lờ trôi lên xuống
hằng ngày, tôi bổng chạnh lòng nhớ lại người cháu gái
xinh đẹp, duyên dáng và dễ thương ngày xa xưa ấy xem như
một kỷ niệm đẹp, thật đẹp không bao giờ có thể quên
được trong đời.
TRẦN BÁ XỬ, Springfield, Massachusetts
Một đêm đông lạnh lẻo, 6 tháng 12, 2014
"Tình chỉ đẹp khi còn
dang dở"
Ở độ tuổi học trò, chắc hẳn có
khá nhiều học sinh thường nghêu ngao hai câu thơ quen thuộc dưới
đây:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đồi
mất vui khi đã vẹn câu thề"
Thuở ấy tôi cũng không phải là biệt lệ nên cũng
mày mò tìm xem tập thơ Quê Ngoại của thi sĩ Hồ Dzếnh để
thấy được những câu thơ trữ tình trong bài "Ngập Ngừng",
lúc bấy giờ được phổ thành nhạc mà tôi rất tâm
đắc với câu "Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân..." để mở đầu
cho những vần thơ ướt át tiếp nối như:
"Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách - cố nhiên - nhưng rất nhẹ,
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở...."
Chữ "dang dở"
trên đây dường như cứ quấn quit mãi bên tôi nên tôi
thường hay gặp những tình huống dỡ khóc dỡ cười trong các
hoàn cảnh dang dở không trọn vẹn như thế trên bước đường
học vấn cũng như trong cuộc sống sau này.
Về học vấn, vào cuối thập niên 1940, cha tôi đã
lo lắng và chuẩn bị mọi thủ tục cho tôi xin vào học năm
đầu tiên (lớp sixìème) của Trường Chasseloup Laubat, Saigon từ
hành trang quần áo đến giày vớ, sách vở theo quy định
của trường, nhưng cơ may không đến khi gần đến ngày tựu
trường mà chưa nhận giấy chấp thuận cho nhập học vì nhà
trường còn đợi quyết định cho miễn tuổi (dispense d'âge)
của viện đại học Đà Lạt (Recteur de Dalat), Cuộc học bị
dở dang vì khi giấy chấp thuận gởi về thì trường đã
khai giảng được một tuần rồi!
Sau
đó, một phú ông có quốc tịch Pháp ở cùng quê cho
phép tôi qua Pháp để học chung với hai cậu con trai của ông là
bạn học cùng lớp với tôi nhưng Mẹ tôi khóc sướt mướt
không chịu vì không nỡ đành xa tôi một thời gian dài.
Thế là dở dang trên bước đường học vấn mà tương
lai có lẽ sẽ sáng sủa hơn.
Tôi
cũng đã để vuột khỏi tầm tay một dịp may cuối cùng
của thời học sinh khi tôi và vài anh bạn học giỏi cùng lớp
được phép tham dự buổi trắc nghiệm xem có đủ khả năng
lên trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn dự kỳ thi BEPC (Brevet d'Études
Premier Cycle) của Pháp tương đương Trung Học Đệ Nhất Cấp
khi đang học năm thứ 3 (Troisième Année) để nhảy một lớp,
nhưng trời xuôi đất khiến thế nào mà trưa hôm đó
tôi bị nhức đầu và ngủ quên, đến khi thức dậy thì
đã trễ giờ thi rồi nên tôi đã đánh phải chịu
dở dang đánh mất một cơ hội bằng vàng.
Những ngày
tháng mới quen nhau.
Riêng tập
hồi ký nhỏ này nêu lên sự dang dở rất đáng tiếc
trong mối tình đầu đầy thơ mộng của đôi trai gái sống
chung dưới một mái nhà, thương yêu nhau thắm thiết từ thuở
còn rất trẻ khi nàng sắp đến tuổi trăng tròn và chàng
chỉ hơn nàng bốn tuổi, với một mối tình trong sáng theo đúng
khuông phép Khổng giáo, một mối tình đầu keo sơn tưởng
như không bao giờ có thể phân ly được để trở thành
một cặp uyên ương lý tưởng của trần gian trong tương lai.
Ngày ấy, chàng là cậu học sinh
mới lớn lên vừa tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp Pháp
(BEPC/Brevet d'Études du Premier Cycle), và mới vượt qua kỳ thi đua gay
go với các thí sinh đến từ đồng bằng sông Cữu Long như
Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá,
Sađéc, Vĩnh Long, Trà Vinh và Cần Thơ để vào học lớp
Seconde Moderne của Lycée Phan Thanh Giản Cần Thơ.
Gia đình nàng và chàng rất thân thích như ruột
thịt vì cha của hai người nguyên là anh em kết nghĩa cùng với
một ông bạn khác được ví như như bộ ba "đào
viên kết nghĩa" thời Tam Quốc (Lưu Bị, Quan Vân Trường và
Trương Phi) hay "ba người ngự lâm pháo thủ" cùa đại
văn hào Pháp Alexandre Dumas (Les Trois Mousquetaires là Athos, Porthos,
và Aramis). Riêng về ba người ngự lâm pháo thủ Việt-Nam
này thì ba của chàng là anh cả còn ba của nàng là em út,
họ kết thân với nhau như anh em ruột thịt trong gia đình vậy, nên
khi chàng trai được chấp thuận nhập học Trường Phan Thanh Giản
nổi tiếng của miền Nam Việt-Nam lúc bấy giờ thì thân phụ
chàng đã vui mừng giao trọng trách nuôi dưỡng cậu trai út
cho vợ chồng người em kết nghĩa của mình. Bởi lý do trên
nên tuy có tiếng là ở trọ nhưng trên thực tế cũng như
ở chung trong một gia đình vậy. Cậu học sinh này thứ bảy, học
cũng khá giỏi và được nuông chìu tử thuở còn bé,
vì là con trai út trong gia đình, nhưng khi qua Cần Thơ cậu bổng
nhiên trở thành người anh cả trong gia đình thứ hai này. Vì
ba nàng mới lập gia đình, đặc biệt là do ba của chàng
làm chủ hôn, nên năm người con đều còn rất trẻ mà
cô gái lớn nhất chỉ ngắp nghé tuổi trăng tròn mà thôi
cùng với hai em trai và hai em gái còn nhỏ dại ngây thơ. Ngày
ấy, dưới tầm mắt của chàng, nàng chỉ mới là cô bé
mà chàng thầm nghĩ như là "con nít con nôi hôi bọ chét"
nên trong suốt nửa năm đầu, chàng có vẻ bất công khi xem
nàng như cô bé "mủi dãi lòng thòng" không đáng
quan tâm nên ra cái điều là kẻ cả tuy không dám bắt nạt
nàng mà thôi. Mà cũng bất công thật khi mấy chị em đều
rất trắng trẻo giống như cha mẹ chứ không đen ngòm xấu xí
như chàng trai này đâu. Có lẽ vì chàng trai không quan tâm
đến mấy chị em cô nàng do phải chăm lo việc học kẽo thua
sút bạn bè. Về phần cha mẹ nàng thì rất mực thương
yêu chàng và xem chàng như con ruột mình vậy nên chàng trai
rất yên tâm chuyên chú vào việc học.
Trong hai năm theo học Tú Tài I, chương trình lớp Seconde
(Tân Đệ Nhị) có phần nhẹ nhàng hơn lớp Tân Đệ
Nhất nên ngoài việc cần cù học tập chàng còn có một
số thời gian rổi rảnh để rèn luyện thân thể như tập
thể dục, thực tập các môn xà đơn (barre fixe), xà đôi
(parallèle), leo dây, nhảy xa, nhảy cao, chạy bộ hay học nhu đạo,
đánh bóng chuyền, bóng bàn, bơi lội qua sông Cần Thơ, v.v.
. Theo thời gian, càng ngày cô chị cả cảng "trổ mã" trông
cũng xinh xắn tệ, nàng tránh nhìn thẳng váo mắt chàng và
có dáng vẻ bẽn lẽn hơn trước khi chàng mới đến ở
trọ. Da các em nàng rất trắng, riêng nàng có thêm vẻ phơn
phớt hồng trông rất dễ thương, nhưng lúc bấy giờ chàng
chưa thấy rung động khi đứng trước mặt nàng.
Từ thuở còn ở bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp, chàng
đã ôm giấc mộng được đứng lên bảng đen để
giảng dạy tuy ngày ấy chàng vẫn chưa bộc lộ được khả
năng này. Đến khi qua Cần Thơ, nhất là vào năm Seconde Moderne,
vì anh chàng thấy có một số thời gian rổi rảnh sau giờ học
nên mới manh nha nảy ra sáng kiến đi dạy kèm học sinh như một
gia sư (nói cho có vẻ oai vậy mà) hoặc mở lớp dạy kèm
một vài em học sinh có ý định luyện thi vào năm thứ nhất
bặc Trung học (đệ thất hay lớp sáu). Một dịp may đến vừa
đúng lúc cô bé chung nhà chàng (người chị cả trong nhà
tức là nàng đó mà) cũng cần có người hướng
dẫn để luyện thi vào lớp 6 nên khi chàng nêu lên ước
muốn mở lớp luyện thi với cha mẹ nàng thì cha nàng, cũng là
Chú của chàng, tán đồng ý kiến ngay. Cha nàng là một
người có trình độ học vấn cao, dường như có bằng
Tú Tài Pháp thời bấy giờ nên rất quan tâm đến việc
học của các con mình. Thế là nhờ sự động viên của
cha nàng và sự giới thiệu cùa cha mẹ nàng với hàng xóm
láng giềng và nhất là nàng, nên chỉ trong một thời gian ngắn,
số ứng cử viên, ủa quên không phải là ứng cử viên
mà là vài cô bé đang học gần xong lớp 5, cùng với nàng
rầm rộ kéo đến căn nhà bé nhỏ của nàng để xin
"thọ giào" cùng anh chàng giáo viên bé tí tẹo
chỉ hơn các cô nàng học sinh khoảng bốn năm tuổi mà thôi.
Ngày ấy, sĩ số lớp học đầu tiên của chàng chỉ vỏn
vẹn có tám "cô nương" tham dự, điểm đặc biệt
là không có một cậu "nhóc tì" nào cả, có lẽ
con trai trong xóm của chàng còn kỳ thị cậu giáo viên cũng
còn nhóc con như họ chăng?
Ngày
còn mài đủng quần dưới mài trường Collège de Vĩnh
Long, chàng rất chăm chỉ học và thường mua những quyển sách
dành cho giáo sư giảng dạy (livre du maitre) thay vì livre d'élève
dành cho học sinh vì có phần giảng thêm mà đôi lúc học
sinh có thể chưa biết đến, đồng thời chàng cũng rất
chăm chú nghe lời chỉ dạy của các giáo sư nhiều kinh nghiệm
trong lãnh vực giáo dục để trang bị những kiến thức căn
bản tối thiểu rất hữu ích cho việc giảng huấn sau này. Khi bắt
đầu mở lớp dạy kèm mấy cô nữ sinh bé tí nhí nha
nhí nhảnh này, chàng đã chú tâm đem những kinh nghiệm
quý báu đã học hỏi được ở trường để truyền
đạt lại cho các em và ước mong sao đạt được kết
quả khả quan trong kỳ thi vào lớp 6 sắp tới đây. Sự miệt
mài giảng dạy của chàng đã không khiến chàng thất vọng
khi biết tin tất cả tám cô học sinh "đầu tay" của chàng
đều đậu hết. Niềm vui được chia đều cho tất cả học
sinh và gia đình có con em thi đậu, nhưng chắc hẳn có lẽ
có hai người vui nhất, trước tiên là người học trò
ruột của chàng, cô nàng học sinh con gái đầu lòng cưng
của Chú Thím chàng chứ còn ai vào đây nữa, và kế
đó dĩ nhiên phải là chàng, một cậu giáo viên "bất
đắc dĩ", được xếp hạng như "le maitre malgré lui".
Ngoài ra, niềm hân hoan này được nhân lên gấp bội vì
sau đó chàng đã nhận được một phần thưởng rất
đáng khích lệ khi các bà mẹ và phụ huynh các cô nương
học sinh khệ nệ mang đến biếu "thầy giáo bé con" nào
xoài cát, xoài thanh ca, và không biết cơ man nào là chuối,
cam, quit, mận, ổi, v.v., tóm lại là những thứ mà anh chàng rất
thích, rất hẩu xực!
Tiếng lành
đồn xa nên sau đó lớp học tư bé nhỏ của chàng được
mở rộng hơn trước để đón nhận nhiều học sinh hơn
trong suốt thời gian chàng theo học lớp Seconde Moderne. Rồi kỳ nghỉ
hè cũng đến, chàng phải trở về quê để gặp cha mẹ
và gia đình. Không ngờ, ở tỉnh lỵ quê chàng cũng có
một trường trung học tư thục mà người chú của chàng
là hiệu trưởng. Khi biết cậu cháu về quê nghỉ hè và
nghe qua vài thành tích khiêm nhường của người cháu có
lẽ do cha chàng thổi phồng nên ông chú mời chàng phụ giúp
chú giảng dạy môn Pháp văn, đặc biệt chú trọng về
vở bi-hài kịch Le Cid (tragic-comédie Mocedades Del Cid) vào thế kỷ
17 do đại thi hào Pháp Pierre Corneille (6/6/1606 - 1/10/1684) sáng tác. Cuối
cùng, chàng đã nghe lời cha để phụ giúp ông chú giảng
dạy cho xong năm chương diễn từ 1 đến 5 (Acte I đến Acte
V) mà hai chương đầu đề cập đến mối tình thơ
mộng của chàng trai anh tuấn tài ba Don Rodrigue con của Don Diègue
và nàng kiều nữ xinh đẹp con của Bá tước Don Gormas là
Chimène. Ngày còn ở trường học, chàng rất say mê
vở kịch nổi tiếng này và rất thích thú về mối tình
tuyệt đẹp nhưng đầy trắc trở của cặp tình nhân trai
tài gái sắc này nên khi giảng đến đoạn này, chàng
đã say mê đem hết tâm trí vào việc diễn tả những
tình tiết gay cấn trong vở kịch khi nàng Chimène bị giằng
co giữa tình phụ tử và tình yêu nên chàng đã vô
tình quên béng mất bản thân mình cũng chỉ là một cậu
trai mới lớn lên mà thôi. Khi bài giảng chấm dứt, chàng ung
dung ra về và chợt nghe có tiếng cười khúc khích khá gần
chỗ chàng đang rảo bước với lời nhận xét dường như
cố tình đủ để chàng nghe thấy "anh thầy giáo bé con
này mà cũng bày đặt giảng dạy về tình yêu, thật
ngộ nghĩnh vô cùng phải không các bồ?". Trên đường
về, anh chàng thấy quá ngượng ngùng và có ý định
xin phép ông chú cho nghỉ dạy nhưng không được cả người
cha và chú chấp nhận.
Khi trở
lại Cần Thơ, chàng trai vẫn duy trì lớp học một thời gian nữa
rồi bắt buộc phải chấm dứt để chuyên lo luyện thi Tú Tài
I cho chính bản thân mình, tuy nhiên chàng vẫn tiếp tục hướng
dẫn riêng cô nàng học thêm để khỏi thua sút bạn bè
nhất là khi có một "gia sư" luôn luôn ở bên cạnh. Lửa
ở gần rơm có ngày cũng xảy ra hoả hoạn nhưng đây không
phải là lửa cháy rừng mà là ngọn lửa tình đang âm
ỉ cháy trong lòng cặp trai gái vẫn gặp nhau hằng ngày dưới
một mái nhà. Rồi có một hôm, việc gì đến ắt sẽ
đến, chiều hôm ấy, nhân lúc cha nàng đang làm việc tại
hảng xe Đại Đồng, một hảng xe lớn của tỉnh lỵ Cần Thơ
và mẹ nàng bận ra chợ Cần Thơ mua thức ăn cho gia đình,
chàng đã lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở này để
ngồi kế bên nàng và tâm sự, nhưng tựu trung vẫn là chuyện
trên trời dưới đất, chuyện nắng chuyện mưa, nghĩa là
những chuyện không vào đâu cả mà chưa bao giờ đá động
đến chuyện tình cảm càng ngày càng sâu đậm giữa
hai người. Mà nói gì bây giờ vì khi nhìn thấy mặt nhau
thì nàng vội bẻn lẻn cuối đầu không dám ngước lên
nhìn thẳng vào mắt chàng trong khi chàng cũng ngượng nghịu hết
vò nát chiếc lá cây đang cầm trong tay đến dẫm chân trên
mặt đất dường như đang nghiền nát một con kiếng vô tội
nào đó đang vô tình chạy qua. Cuối cùng chàng cũng ráng
lấy hết can đảm để báo một cái tin lảng xẹt là vào
cuối niên học này chàng sẽ phải lên Sài-Gòn học tiếp
nên không còn ở Cần Thơ nữa để hướng dẫn việc
học của nàng nữa, nhưng không ngờ câu nói ấy khiến nàng
buồn bã đứng lặng người một thoáng chốc rồi vội vã
chạy vào nhà nằm úp mặt vào gối và thút thít khóc
một mình. Chàng hốt hoảng rượt theo nàng thì cũng vừa
đúng lúc mẹ nàng đi chợ về làm chàng khựng người
lại để chạy ra phụ mang thức ăn vào nhà. Sau đò, chàng
đã tỏ ra tiếc hùi hụi vì đã bỏ dịp may quý hơn
vàng để tâm sự nhiều hơn với nàng, nhưng thật sự chàng
cũng chẳng có đề tài gì để nói với nàng ngoài
những chuyện bâng quơ không đâu vào đâu cả. Nhưng cũng
kể từ dạo ấy nàng tỏ vẻ chăm sóc chàng nhiều hơn
ở một chừng mực hạn chế trong vòng lễ giáo. Như đã
đề cập ở trên, cha nàng là người có ăn học, các
anh của cha nàng là những bậc khoa bảng mà hai ông anh đều là
hiệu trưởng trường trung học tư thục Tân Thanh, một trường
tư thục nổi tiếng của Sài-Gòn lúc bấy giờ, nên tỏ
ra rất dè dặt trong cách ứng xử với mọi người. Chàng rất
hiểu cha nàng rất thương quý chàng nhưng không bao giờ nói
ra những điều thầm kín trong lòng. Riêng đối với mẹ nàng
thì cách ăn nói dịu dàng âu yếm chứng tỏ chàng đã
có một vị trí rất thuận lợi qua ánh mắt dịu dàng của
một người mẹ rất mực thương yêu con gái rượu của
mình. Tuy gia đình nàng không được khá giả như gia đình
chàng nhưng mỗi khi có dịp tốt là mẹ nàng thường hay mua
bành trái về để thết đãi các con mà chàng lúc
nào cũng được ưu tiên hơn nên chàng rất cảm động
xem như đây là gia đình ruột thịt của mình vậy. Dần
dà mối tình đầu chớm nở một cách kín đáo giữa
đôi trai gái và càng ngày càng thăng hoa với thời gian. Sau
đó không lâu, một dịp may lại đến khi đôi trẻ có
dịp gần nhau để tâm tình cởi mở hơn nhưng vẫn trong vòng
lễ giáo mà chàng ước mơ sẽ có ngày cùng nàng
lên hoa và dành cho nàng tất cả những gì trân quý nhất
trong lễ vu quy của nàng. Và chỉ đến ở chừng mực ấy mà
thôi nên lúc nào chàng cũng tôn trọng nàng không bao giờ
dám làm điều gì lỗ mãng trái ngược với lễ giáo,
ngay đến cả việc nắm lấy bàn tay nàng chàng cũng không
dám.
Thời gian đã trôi qua thật
nhanh, thật vô tình. Thắm thoát mà sắp đến ngày phải
xa gia đình nàng để lên Sài-Gòn chuẩn bị thi Tú tài
I tại Trường Chasseloup Laubat Sài-Gòn. Lúc bấy giờ ở xóm
nàng cư ngụ nói riêng và ở tỉnh lỵ Cần Thơ nói chung
thường xảy ra trộm cướp vào ban đêm nên thường có
tiếng chó sủa suốt canh thâu làm nhiều gia đình nơm nớp
lo sợ, kể cả gia đình của nàng vì mỗi lần cha nàng đi
công tác ở Sài-Gòn thì ở nhà, ngoài chàng ra, thì
chỉ còn lại võn vẹn có mỗi một người đàn bà
và ba cô con gái còn rất trẻ.
Chàng
còn nhớ mãi cái đêm sau cùng trước khi lên Sài-Gòn
chuẩn bị thi Tú Tài I, cũng như mọi đêm, chó thường
hay sủa rất lâu và nhiều. Chàng đang miên man suy nghĩ và lo
lắng cho những ngày sau này khi vắng bóng chàng thì mẹ con gia
đình nàng sẽ đối phó ra sao khi có kẻ cướp, rồi dần
dần đi vào giấc ngủ chập chờn thì chợt giật mình khi thấy
có bóng một người con gái đến gần cái divan nơi chàng
đang ngủ. Chàng choàng tĩnh dậy và nhớ loáng thoáng có
lẽ khi đang mơ màng chàng đã vô tình gây tiếng động
nên nàng cứ ngỡ chàng có ý gọi nàng để đề
phòng ăn cướp nên mới đi ra gặp chàng. Vẫn chưa tĩnh
cơn mơ, chàng vội ngồi dậy để hỏi nhỏ nàng có chuyện
gì thì nàng khẻ bảo cháng "em lo sợ ăn cướp quá
anh ơi!" Cũng không kém phần sợ hãi như nàng nên trong một
vài giây phút quýnh quáng như còn đang trong giấc mơ, chàng
bất chợt vén mùng lên để mời nàng chui vào cho có vẻ
an toàn hơn? Trời đất quỹ thần ơi, đây là lần đầu
tiên hai người cùng nằm chung trên bộ ván divan nên chàng không
biết nói năng làm sao mà nàng có lẽ vì có cảm tình
với chàng nên cũng riu ríu nằm xuống cạnh bên chàng mà
không thốt nên một lời nào. Như đã nói ở trên, hai
người luôn luôn tôn trọng lẫn nhau nên hai người chỉ đề
cập đến chuyện cướp và chàng khuyên nàng nên cẩn
thận đề phòng khi chàng vắng mặt mà thôi, và không biết
nói thêm câu nào cho ra hồn nữa. Tay chân của chàng bổng nhiên
thừa thãi không biết phải làm gì, cuối cùng lần đầu
tiên trong đời, chàng cảm thấy thương yêu nàng vô cùng
nên đã bạo gan thủ thỉ bên tai nàng "Cho anh hôn em một
cái nghe em?", và không kịp có thời gian nghe câu trả lời của
nàng, chàng vội choàng qua người nàng và hôn phớt lên
trán nàng một cái thật nhẹ như gió thoảng qua vậy. Nàng
co rúm người có lẽ vì mắc cở chớ không nói năng
gì cả, chàng càng thấy nàng quá mong manh tự như hơi sương
có thể tan biến lúc nào không biết nên tình thương yêu
nàng càng tăng lên bội phần nhưng chỉ biết thủ thỉ bên
tai nàng với lời khuyên nên tự biết bảo vệ mình trong thời
gian vắng xa nhau, ráng lo học hành và giúp đỡ ba mẹ và các
em nàng. Ngoài ra, điều quan trọng nhứt chàng muốn nhắn nhủ
để nàng yên tâm là chàng sẽ nhờ ba má qua gặp ba má
nàng để dạm hỏi nàng trong khi chờ đợi chàng tốt nghiệp
Tú Tài toàn phần và có công ăn việc làm vững chắc
sau này. Nàng không nói gì cả, chỉ tiếp tục tựa đầu
vào vai chàng và dường như đang nghẹn ngào trong tiếng nấc
khe khẻ khiến lòng chàng xốn xang vô cùng Sau đó, vì thấy
thời gian gần nhau đã khá lâu nên chàng vội vàng bảo
nàng về ngủ vì ngại sẽ đánh thức mẹ nàng đang ngủ
chung giường với nàng ở bên cạnh. Nàng riu ríu nghe lời chàng
và trở về ngủ tiếp. Trong tận đáy lòng chàng, dường
như có cái gì còn vương vấn và tiếc ngẩn tiếc ngơ
nhưng chàng kịp kềm chế lòng mình với ước mơ sau này
sẽ dành cho nàng thật trọn vẹn trong ngày cưới hỏi đàng
hoàng có sự chứng kiến của cha mẹ hai bên. Chàng không ngờ
đó là cái đêm định mệnh chứng kiến khúc quanh của
một mối tình vừa chớm nở của hai người thương yêu nhau
thắm thiết để rồi chàng không giữ được lời hứa
ban đầu khiến cho cuộc tình bị dở dang một cách oan uổng gây
tiếc nuối cho cả hai trong suốt cả cuộc đời.
Những Ngày Xa Cách - Thời Gian Ở Quân Trường
Sau cái đêm đầy ắp kỷ niệm đó, nàng đã
ôm mối tình đầu đầy mộng mơ khi vừa mới bước qua
ngưỡng cửa của tuổi 16. Nàng vẫn tiếp tục việc học ở
trường Trung Học Phan Thanh Giàn Cần Thơ với ước mơ sẽ gặp
lại người trong mộng trong một tương lai không xa.
Phần chàng, con đường còn xa ở phía trước vì
nay mai rất gần chàng phải thi đậu Tú Tài I, sau đó tiếp
tục phần 2 để có đủ điều kiện thi vào Trường Đại
Học Sư Phạm với hy vọng thực hiện giấc mơ trở thành thầy
giáo mà chàng đã mong ước từ rất lâu. Tuy nhiên, trong
cuộc đời có những ước mơ không bao giờ trở thành hiện
thực được. Khi chàng vừa đủ điều kiện để thực
hiện mộng làm nghề gỏ đầu trẻ thì cuộc chiến giữa
hai miền Nam Bắc bổng chốc trở nên khốc liệt. Lúc bấy giờ,
vài anh bạn cùng lớp với chàng bị động viên vào Liên
Trường Võ Khoa Thủ Đức hay tình nguyện vào Trường Võ
Bị Liên Quân Đà-Lạt để đáp ứng nhu cầu chiến
trường, có một số phải đổi ra tận miền Bắc để
chiến đấu ngay, và có một vài anh đã tử trận khi chưa
kịp hưởng lương sĩ quan!
Dạo
ấy, chàng có người anh bà con là Đại úy đang phục
vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu cho biết Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm vừa mới về nước chấp chánh, một người đã
từng du học và họat động nhiều năm ở các nước tân
tiến, một người có đầu óc cấp tiến, muốn phát triển
và nâng cao hiệu năng của quân lực hầu có thể theo kịp
đà tiến bộ của các nước văn minh trên thề giới. Ông
đã phối hợp chặt chẽ với chính phủ Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ để mở lớp huấn luyện đào tạo sĩ quan hiện dịch
tại Trường Võ Bị Đà-Lạt hoàn toàn theo chương trình
huấn luyện của Mỹ thay vì Pháp với thời gian học 2 năm và
tu nghiệp 1 năm tại Hoa Kỳ để nâng cao phẩm chất của Quân
đội. Nghe tin trên, chàng vừa làm đơn gởi Trường Đại
Học Sư Phạm vừa gởi về Bộ Tổng Tham Mưu để tham gia lớp
đào tạo sĩ quan hiện dịch. Vài tuần lễ sau, chàng nhận
giấy gọi nhập học của cả hai nơi. Khi trình giấy gọi cho phụ
thân thì cha chàng cương quyết từ chối cho chàng theo binh nghiệp
mặc dù chàng đã trình bày các lợi ích trước mắt
là thời gian học khá dài (khoảng 3 năm) khỏi phải ra chiến trường
đang trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng đầy hiểm nguy như lúc
bấy giờ nhưng cha chàng chỉ muốn chàng trở thành giáo chức
mà thôi. Cuối cùng, chàng phải nhờ mẫu thân là người
rất mực thương chàng là con trai út nên không muốn chàng
gặp nguy hiểm tánh mạng, Cuối cùng, mẹ chàng đã thắng,
và như vậy là chàng đã đánh mất giấc mộng làm
giáo viên và xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Trước khi khởi
hành lên Đà Lạt, chàng tạm trú ở nhà ông bác
"đào viên kết nghĩa" thứ hai và cũng là anh kết nghĩa
của cha người yêu bé bỏng của chàng đang ở Cần Thơ
đó mà. Vì còn mong mỏi con trai mình theo ngành giáo dục
nên cha chàng đã theo chàng lên Sài-Gòn và nhở chú
cùa chàng đến nhà ông bác để thuyết phục chàng
cả một đêm yêu cầu chàng bỏ ý định đi Đà-Lạt,
nhưng không thành vì chàng đã nhất quyết chọn binh nghiệp
cho đời mình rồi.
Nghe tin chàng
theo võ nghiệp, nàng cũng có vẻ buồn vì theo thiển ý của
nàng, việc chàng phục vụ trong quân ngũ không hẵn đã được
an toàn nhưng nàng chỉ nhắn người nhà của chàng ở Sa-Đéc
báo cho chàng biết nàng không phản đối, chỉ thiết tha mong sao
chàng sớm về đoàn tụ với nàng để tránh những ngày
sống lẻ loi ở quê nhà không có chàng ở bên cạnh để
chở che an ủi.
Những ngày tháng
dài ở quân trường nổi tiếng vùng Đông-Nam-Á đã
rèn luyện chàng trở thành một sĩ quan gương mẫu có kỷ
luật thép và kỹ thuật hiện đại như ở quân trường
Saint-Cyr của Pháp hay West Point của Hoa Kỳ.
Trong suốt thời gian dài đăng đẳng xa nhau, tuy chỉ cách
xa nhau hơn ba trăm cây số nhưng cặp tình nhân thấy dường như
họ là cặp Ngưu Lang - Chức Nữ không biết bao giờ mới gặp
lại nhau! Trong ngần ấy thời gian xa nhau, chỉ hơn một năm trước
khi sang du học tại Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà
Lạt, họ chỉ liên lạc với nhau qua thư từ chừng ba hay bốn lần
là cùng vì chương trình học quân sự và văn hóa
ở quân trường rất vất vả không còn thời gian trống để
biên thư cho nhau. Trong thời gian này, nàng vẫn tiếp tục học ở
trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ cùng ngang lớp với người
em con ông chú của chàng ngụ tại Đầu Sấu tỉnh lỵ Cần
Thơ, do vậy chàng vẫn luôn luôn nhận được tin tức của
nàng qua trung gian của cậu em con ông chú của chàng.
Thời gian thắm thoát như thoi đưa, cuối cùng rồi chàng
cũng tốt nghiệp Trường Võ Bị Liên Quân Đà lạt với
sự chủ tọa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong ngày lễ
mãn khóa với tên khóa "Cộng Hòa" để đánh dấu
khóa học đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa do Ông
đề xướng và theo dõi từng bước chân đi của khóa
học mà mỗi lần Ông lên viếng trường đều luôn luôn
được sinh viên sĩ quan cả khóa ra tận phi trường Liên Khương
dàn chào và tiếp đón.
Gần hơn
nửa tháng sau ngày mãn khóa, cả khóa học đều được
gởi đi thụ huấn hai khóa bổ túc quân sự và chuyên môn
hơn 10 tháng tại Trường Bộ Binh Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Ngày
đầu tiên đến Hoa Kỳ, chàng đã viết cho nàng một bức
thư dài nói lên lòng thương yêu và nỗi nhớ nhung vô
vàn khi ở đất khách quê người. Gần một tháng sau chàng
mới nhận được thư hồi âm mà chàng xem như báu vật.
Bổng nhiên, cuộc tình thật lãng
mạn và êm đềm của cặp tình nhân tưởng chừng như
hạnh phúc nhất hành tinh này đã gặp ngay một khúc quanh đầy
trắc trở mà khi viết những dòng chữ này, chàng vẫn thấy
tiếc nuối tận đáy lòng và trách sao con tạo lại quá
trêu ngươi! Khoảng ba tháng sau, chàng nhận được một bức
thư của người em con ông chú đang cùng học chung trường với
nàng báo cho chàng hay một tin "động trời" đáng ngờ
vực đưa đến cho chàng một dấu hỏi vĩ đại. Chàng
xem bức thư cả chục lần, đọc cẩn thận từng chữ một như
không tin vào chính mắt của mình. Trong bức thư, người em cho
biết có một hôm đã vô tình chứng kiến cảnh người
chị dâu tương lai của em, là nàng chớ còn ai vào đây
nữa, đã nói chuyện thân mật với một nam học sinh khác
lớp khá lâu, và cậu nam sinh này đã trao cho nàng một quyển
tập mà em để ý thấy có để một bức thư trong đó
trước khi hai người từ giả nhau. Cũng vẫn theo lời người em,
em cho biết đã thấy hai lần tương tự như vậy? Tình yêu
của chàng dành cho nàng rất trong sáng không có một chút
vẩn đục nào cả, chàng cũng như nàng đều mong mỏi có
ngày được kết hợp với nhau thành một để nên duyên
chồng vợ suốt cả cuộc đời. Ban đầu, lá thư của người
em đã khiến chàng buồn vô hạn khi nghĩ đến câu "cách
mặt xa lòng" như Pháp có câu "loin des yeux loin du coeur' hay câu "out
of sight out of mind" của Anh nên chàng rất đắn đo suy nghĩ để
phân tích xem nàng có phải thuộc hạng ngưới chóng quên
mối tình đầu mặn nồng đã vun đắp trong một thời gian
dài hay không? Suy nghĩ mãi chàng vẫn chưa tìm ra đáp số
vì chàng vẫn luôn luôn tin tưởng vào sự thủy chung của
nàng. Sau hơn một ngày suy tư, chàng bèn viết ngay bức thư gởi
về Cần Thơ cho nàng vì chàng muốn được chính nàng
xác nhận sự thật của nguồn tin trên. Một tuần, rồi một
tháng trôi qua trong im lặng, rồi một tháng nữa đã trôi đi
trong sự nóng lòng muốn nhận được tin của nàng nhưng vô
vọng. Sau đó, chàng cũng có viết thư về cho cậu em nhưng
cũng không nhận được thư phúc đáp. Như vậy là bí
mật đã trùm kín lên cậu chuyện do cậu em đưa tin, một
câu chuyện đã đóng góp vào việc tan vỡ mối tình
đầu đẹp nhứt trần gian của hai người đang quấn quit bên
nhau mà sau này phải xa lìa nhau mãi mãi trong uất ức, nghẹn ngào.
Rồi thời gian cũng qua mau, thắm thoát mà hai khóa tu nghiệp
cũng sắp chấm dứt. Chàng vẫn luôn luôn nghĩ đến người
yêu bé bỏng đang cách xa nửa vòng trái đất ở tận
mãi bên kia bờ Thái Bình Dương tuy trong lòng đôi khi có
những lo ngại vu vơ vì chưa biết thực hư ra sao. Trong niềm ước
ao được sớm trở về quê nhà để hỏi nàng nguyên
nhân bặt tin của nàng tuy đôi lúc chàng còn biện hộ cho
nàng vì đang còn là học sinh không có đủ điều kiện
để gởi thư đi quá xa và dĩ nhiên quá tốn kém đối
với nàng. Chàng đã cùng với anh bạn thân ra phố mua khá
nhiều quà tặng cho người vợ tương lai của mình trong đó
có một chiếc đồng hồ hiệu Longines cho phụ nữ với dự định
khi về nước sẽ trao cho nàng làm quà cưới.
Trở về quê hương - Tình tan vỡ ngoài ý
muốn
Gần một năm trôi
qua với biết bao biến đổi trên quê hương vẫn còn trong tình
trạng chiến tranh ý thức hệ giữ hai miền Nam Bắc. Có đi ra nước
ngoài mới thấy sự thanh bình, sự văn minh tiến bộ và sự
phồn thịnh của đất nước tự do Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
để khi nhìn lại đất nước mình thì thật đau lòng
xót dạ. Mới trở về nước, tất cả tân sĩ quan chúng
tôi được nghỉ phép khoảng một tuần trước khi trình
diện đáo nhậm đơn vị mới trong đời quân ngũ.
Lợi dụng thời gian nghỉ phép ngắn ngủi này, chàng
đã nhờ một ngườn bạn thân ở Sa-Đéc chở qua Cần
Thơ bằng xe vespa để thăm nàng và gia đình. Lúc bấy giờ
nhà nàng chỉ có mẹ nàng và nàng đang loay hoay dưới
bếp. Trông thấy chàng, mẹ nàng mừng rỡ thấy rõ nên sau
nhiều câu thăm hỏi gia đình chàng, đã ân cần dặn nàng
ngồi tiếp khách trong khi mẹ nàng lo vào bếp chuẩn bị thức
ăn ngon để đãi khách quý. Người bạn của chàng đã
xin phép ra thành phố Cần Thơ để chúng tôi được nói
chuyện và hàn huyên tâm sự với nhau một cách thoải mái.
Sau bao năm xa cách, nay gặp lại nhau trông nàng đã là một thiếu
nữ cao lớn hơn, trắng trẻo hơn và dĩ nhiên là đẹp hơn
trước nhiều. Nàng nhìn chàng với dáng vẻ bẽn lẽn và
với đôi má ửng hồng trông thật duyên dáng vô cùng
khiến chàng cảm thấy ngất ngây khi nghĩ tới ngày được
cùng nàng nên duyên chồng vợ. Trong niềm vui thầm lặng ấy bất
chợt chàng nhớ đến những thắc mắc còn vương vấn trong
lòng trong thời gian xa cách nhau, đặc biệt về cái tin mà chú
em của chàng cho biết vẫn chưa được nàng giải đáp thỏa
đáng. Lúc đầu chàng yêu cầu nàng cho biết sao không có
hồi âm, và tiếp theo là sự thật về nguồn tin nàng giao du thân
mật với mới một học sinh khác, đồng thời nhỏ nhẹ tâm
sự với nàng "Không ai có quyền ngăn cấm vấn đề tình
cảm của người khác, nếu em thật sự có tình ý với
anh ta thì anh không có quyền can thiệp vào, vậy anh xin em cho anh biết
sự thật để chúng ta giải quyết thỏa đáng vấn đề
này". Tuy nói cứng như vậy nhưng tim chàng cũng đau nhói
khi nghĩ phải xa người mà mình rất yêu thích từ thuở còn
rất trẻ. Chàng chăm chú nhìn nàng để xem phản ứng của
nàng nhưng nàng chỉ cuối mặt xuống bàn đối diện mà
không thốt ra lời nào cả. Chàng nhắc lại lần thứ hai thì
cảm nhận thấy vai nàng đang run lên dường như nàng đang thút
thít khóc thì phải.. Chàng đang miên man suy nghĩ rất nhiều,
chàng không muốn mất nàng vì quá yêu thương nàng, nhưng
cũng vì yêu nên chàng cũng pha lẫn lộn sự ghen tuông khi liên
tưởng đến việc trong tim nàng còn có người khác. Qua vài
lần chàng gạn hỏi mà nàng vẫn một mực giữ im lặng khiến
chàng có phần gia tăng sự nghi ngờ. Bây giờ khi bình tâm suy
nghĩ lại, chàng tự trách tại sao không vào hỏi ý kiến
của mẹ nàng , biết đâu sẽ có lối thoát tốt đẹp
hơn, nếu lúc ấy mẹ nàng xuất hiện thì đâu đến
nỗi có hoàn cảnh éo le về sau, âu đó cũng là duyên
số của hai người đang yêu nhau tha thiết phải gặp trắc trở
như thế này. Vì không muốn ép buộc nàng phải hấp tấp
trả lời một vấn đề vô cùng trọng đại nên chàng
đã xin phép nàng ra phố khoảng nửa giờ để nàng có
thời gian lấy lại bình tĩnh và suy nghĩ chính chắn trước
khi trả lời. Khi chàng quay trở lại, nàng vẫn còn ngồi tại
chỗ cũ, có lẽ nàng không vào bên trong để nói chuyện
với mẹ nàng hay sao ấy, biết đâu chừng khi nàng hỏi ý
kiến mẹ nàng, có thể mọi việc sẽ diễn biến khác hơn.
Chàng tiếp tục đặt lại câu hỏi và nàng vẫn giữ thái
độ im lặng? Đến đây là khúc quanh định mệnh của
hai người khi chàng đưa ra một đề nghị thật trẻ con và
hết sức ngu xuẩn đưa đến một hậu quả thật bi đát
khiến chàng phải ân hận suốt cả cuộc đời. Không ai có
thể đùa giỡn với tình yêu bao giờ , thế mà trong giây
phút nghiêm trọng này, chàng đã đưa ra một đề nghị
có tính cách quyết định như thế này: "Từ nảy giờ,
em đã có đủ thời gian để suy nghĩ và tự chọn một
hướng đi đúng nhứt cho mình rồi. Bây giờ anh hỏi em lần
chót "em có quen biết thân mật với ai ngoài anh không?", nếu
em bảo "không" thì mọi việc sẽ tốt đẹp như ngày
trước, và anh sẽ là người hạnh phúc nhứt trần gian này.
Không biết có phải định mệnh đã an bài trước hay sao
mà kết quả vẫn là sự im lặng như các lần trước nên
buộc lòng chàng đã đưa ra một đề nghị rất trẻ
con và vô lý như sau: "bây giờ anh sẽ đếm từ 1 đến
3, nếu sau 3 tiếng mà em cho biết "không có" thì mọi việc
sẽ rất tốt đẹp như chưa có gì xảy ra, nếu em vẫn giữ
im lặng thì xem như em đã có người khác rồi để anh
rút lui vĩnh viễn". Điều chàng không bao bao giờ mong muốn cuối
cùng đã xảy ra khi sự im lặng của nàng đã tạo ra bấu
không khí thật nặng nề sau khi chàng ngập ngừng đếm hết
tiếng thứ ba. Điều này khiền chàng rất đau khổ nên chàng
đã nói lên sự nuối tiếc khi nàng vẫn một mực giữ
sự im lặng thật khó hiểu, sau đó chàng đã buồn bã
từ giả nàng để trở về Sa-Đéc trong nỗi tuyệt vọng
tột cùng quên luôn cả lịch sự tối thiểu là chào tạm
biệt mẹ nàng, biết đâu khi ấy mẹ nàng sẽ có lời
giải đáp thích đáng cho bí mật đang bao trùm lên cuộc
tình vhưa có đoạn kết của hai người đang yêu nhau? Như
vậy là bao nhiêu hy vọng tràn trề trong suốt lộ trình từ Sa-Đéc
qua Cần Thơ giờ đây đã tan thành mây khói.
Khi trở về nhà trước khi chuẩn bị lên Saigon trình
diện Bộ Tổng Tham Mưu để nhận nhiệm sở mới, chàng có
hỏi phụ thân về việc hứa hôn của chàng trong thời gian chàng
du học tiến triển ra sao thì cha chàng cho biết hai song thân đã gặp
nhau rất lâu nhưng chưa có hứa hẹn gì cả khiến chàng thất
vọng vô cùng vì nếu đã có ràng buộc qua việc hứa
hôn thi chàng phải tuân theo cha mẹ chàng mà thôi. Với biết
bao nỗi buồn dồn dập trên, tinh thần chàng bị suy sụp nặng nề
nên chàng bị cảm sốt trong ba ngày liên tục, sau đó chàng
cố gắng lên Saigon nhận sự vụ lệnh bổ nhậm về Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung để làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh quân
dịch.
Trong suốt thời gian hai năm sau
đó chàng không nhận được tin tức gì của nàng cả
cho đến khi chàng lập gia đình. Khi ấy, chàng đã thăng cấp
Trung úy chuyên trách huấn luyện môn vũ khí nhẹ bao gồn môn
lựu đạn, mìn và cạm bẫy. Trong một lần về Saigon, chàng
lái xe lambretta đổ xăng thì bất ngờ gặp lại nàng đang làm
kế toán viên tại trạm xăng khá lớn ở đây. Khi nàng
ngước mắt nhìn lên và thấy chàng, nàng mừng rỡ vô
hạn còn chàng cũng không dấu nỗi lòng thương cảm của
mình nhưng biết làm sao bây giờ khi chàng đã lập gia đình
rồi. Sau một lúc lâu ngồi tâm sự ôn lại chuyện ngày xưa,
nàng cho biết hiện đang ở chung với cha mẹ ngay tại Saigon. Chàng hứa
sẽ đến viếng thăm cha mẹ nàng trong một ngày không xa. Khoảng
gần một tuần sau, chàng đã chở vợ đếm thăm ba mẹ nàng.
Mẹ nàng đón tiếp chàng cùng vợ với sự ân cần chu
đáo nhưng trong ánh mắt mẹ nàng cũng không dấu được
nỗi buồn kín đáo mà chàng đã nhận ra. Sau đó, thỉnh
thoảng gia đình chàng đến thăm viếng gia đình nàng, riêng
mẹ nàng vẫn giữ thái độ thương mến chàng như ngày
còn ở Cần Thơ năm nào.
Thời
gian trôi qua nhanh, thoáng chốc mà chàng đã thăng cấp Thiếu
tá và đã chuyển về phục vụ tại Tổng Cục Quân Huấn
Bộ Tổng Tham Mưu. Trong một dịp khi chàng vừa lái xe jeep gần tới
chỗ cha nàng và nàng đang làm việc chung với nhau, dường như
hảng bảo hiểm ở đương Nguyễn Chu Trinh, Saigon thì phải, thì
chàng thấy nàng đang rảo bước đến gần xe chàng đang
chạy khiến chàng ngừng xe lại. Đột nhiên, nàng leo lên ngồi
ngang chỗ chàng và bất ngờ ôm chặt chàng vào lòng và
khóc nức nở khiến chàng bàng hoàng pha lẫn cảm xúc không
biết nguyên nhân ra sao. Sau đó, nàng cho biết vừa trở về từ
bệnh viện Grall ở Đồn Đât với tin sét đánh là nàng
bị ung thư. Có lẽ nàng quá xúc động với tin chẳng lành
này, và sự bộc lộ sau bao nhiêu dồn nén về tình cảm
bấy lâu nay khiến nàng không còn dè dặt gì nữa khi biết
mình sắp lìa bỏ tất cả. Nàng ôm chàng rất lâu, đây
là lần đầu tiên trong đời hai người ôm nhau như thế này,
sau đó nàng dẫn chàng lên lầu hai là nơi làm việc của
cha nàng và nàng để nàng bàn giao mọi thứ trước khi thôi
việc mà nàng dự định để chuẩn bị cho những ngày cuối
của cuộc đời mình trước cặp mắt tò mò lẫn ngạc
nhiên quá độ của các nhân viên đồng sự. Chàng thực
sự cảm động tận đáy lòng về tấm chân tình của
người con gái mà chàng đã yêu say đắm một thời gian
khá dài.
Khoảng một năm sau đó
vào đầu năm 1971, chàng được thăng cấp Trung tá, và
đã cùng vợ đến thăm gia đình nàng thì được
biết lời chẩn đoán nàng bị ung thư trước đây không
đúng sự thật nên nàng đã tìm được sự bình
yên trong cuộc sống. Hơn một năm sau đó, bất ngờ nàng
đến thăm gia đình chàng và ngồi tâm sự với chàng
rất lâu, điều đặc biệt là vợ chàng cũng rất quý
mến nàng, sau đó nàng đã nói riêng với chàng một
câu mà chàng nhớ mãi suốt đời "Em đến báo cho anh
biết tin em Thới, người em trai út của nàng, sắp tốt nghiệp Trường
Bộ Binh Thủ Đức (trường đào tạo sĩ quan trừ bị), đây
là lần đầu tiên em nhờ anh và cũng xem như là bổn phận
của anh, phải lo mọi việc cho em ấy". Chàng đã vui vẻ nhận
lời và đã nhờ bạn bè lo cho em nàng để sau này em được
về phục vụ tại Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu mà
nếu không có biến cố Tháng Tư Đen thì chàng cũng sẽ
về làm việc chung với em tại đây.
Qua không biết bao nhiêu thăng trầm từ sau ngày chàng phải
đi tù cải tạo trong hơn 8 năm, chàng chỉ được biết nàng
đã cùng chông qua định cư tại Canada trong khi cha mẹ nàng và
các em qua Mỹ sinh sống, chàng luôn luôn mong muốn có dịp được
biết tin tức của gia đình nàng nhưng vẫn không tìm thấy.
Mãi đến đầu năm 2014, chàng
đã nhờ người cộng sự viên thân tín ngày xưa đăng
tin nhắn trên một tờ nhật báo ở Nam Cali với hy vọng sẽ biết
tin tức của gia đình nàng. Cuối cùng, trời cũng không phụ
lòng người nên vào khoảng giữa năm 2014, chàng đã liên
lạc được với hai người em của nàng, một cô em gái và
người em trai út. Qua tin tức của hai người em, chàng được
biết hiện tại gia đình nàng chỉ còn ba người, mẹ nàng
nay đã 92 tuổi bị lú lẩn (mất trí nhớ) và hai chị em.
Người ra đi sớm nhứt là em gái nàng mất vào tháng 9 năm
2000, kế đó là ba nàng mất vào tháng 6 năm 2001, và sau đó
là nàng, người yêu đầu đời và cũng là người
vợ chưa bao giờ cưới của chàng, đã mất ngày 8/9/2003, một
điều khiến chàng rất đau xót vì chàng vẫn chưa biết
nguyên nhân sự tan vỡ của mối tình đầu. Tuy nhiên, theo tiết
lộ của người em gái đã từng sống khắng khít với chị
cả của mình nên chỉ vài tuần sau đó, bức màn bí
mật được dần dần vén lên cho biết một sự kiện rất
to tát và khó tin đối với chàng, một sự kiện vô cùng
bất ngờ khiến chàng càng chua xót tận đáy lòng. Như đã
nói ở trên, trước khi chàng đi du học Mỹ, chàng đã
căn dặn ba chàng liên lạc với ba của nàng để hai anh em bàn
bạc với nhau về cuộc hứa hôn của đôi trẻ để khi hồi
hương sẽ tiến hành ngay lễ cưới. Như cha chàng cho biết, cha
của nàng có qua thăm gia đình chàng khá lâu nhưng cha chàng
không nhắc đến việc tổ chức lễ hỏi gì cả, Khi nghe cha chàng
cho biết sự việc trên, chàng nghĩ có lẽ chưa có kết quả
là vì cha nàng không dám mở lời trước vì e ngại mình
là em mà dám đặt vấn đề trước với anh mình, trong
khi đó cha chàng cò lẽ cũng ngại vì muốn để em mình
đề nghị trước rồi người anh cả sẽ quyết định sau.
Không ngờ mọi tiên đoán của chàng đều không đúng
sự thật. Theo lời nàng tâm sự với em gái mình thì sau khi
về nhà, cha nàng cho biết cha chàng có vẻ "chê" gia đình
nàng nghèo hay sao ấy nên ba nàng tự ái không cho xúc tiến
những thủ tục khác sau đó.
Bây
giờ, cả cha của chàng và nàng đều đã quy tiên rồi,
nhưng trong hiện tại, khi suy nghĩ lại, chàng rất buồn và có
ý trách cha mình đã có những suy nghĩ mà chàng không
thể chấp nhận được vì thật ra gia đình chàng có khá
giả hơn gia đình nàng cho cam, hơn nữa cha và các chú bác
của nàng đều là những vị có học vấn cao, cao hơn cả
ba chàng là khác, thì việc so sánh hay kỳ thị là một điều
hoàn toàn vô lý không thể chấp nhận được. Việc buồn
lòng lớn lao nhất thứ hai và cũng là mấu chốt của vấn
đề là nếu, nếu, nếu.... ngày ấy cậu em con người chú
của chàng ở Đầu Sấu cùng học chung Trường Phan Thanh Giản
với nàng (sau này làm hiệu trưởng một trường tiểu học
thì phải, và bây giờ cũng đã mất rồi) nếu cậu ta
không gởi bức thư "định mệnh" báo tin chẳng lành cho
chàng thì mọi việc có thể sẽ xuôi chèo mát mái, đâu
xảy ra cuộc chất vấn không thể và không nên xảy ra với
biết bao hậu quả quá đau lòng!
Nhắc
lại chuyện xưa vào thời điểm này quả thật đã quá
muộn màng khiến chàng vô cùng bàng hoàng và hối hận.
Ngoài ra, chàng đã suy nghĩ mọi việc cũng có thể do thiên
ý đã an bài sẵn khi chàng và nàng chỉ có duyên nhưng
không có nợ với nhau để có thể ăn đời ở kiếp
với nhau được. Giá như trong ngày chàng trở về quê hương
mà nàng hoặc mẹ nàng cho biết sự thật về ý nghĩ của
cha chàng thì vì tình yêu khắng khít giữa hai người, chắc
hẩn chàng sẽ cương quyết về nhà năn nỉ cha mẹ cho phép
chàng được cưới nàng làm vợ với bất cứ giá
nào, nhứt là mẹ chàng lúc nào cũng cưng chìu chàng
là con trai út độc nhứt của gia đình, chắc hẵn mẹ chàng
sẽ hết lòng xin cho chàng được toại nguyện.
Ngoài sự kiện xảy ra giữa cha nàng và chàng trong thời
gian chàng du học, chàng vẫn chưa rõ nguyên nhân nào đã
khiến cho nàng vẫn giữ thái độ im lặng để rồi cuối
cùng chỉ ngồi khóc một mình sau khi chàng đã vặn hỏi
nàng nhiếu lần khi hai người gặp lại nhau ở Cần Thơ trong khi nàng
vẫn một lòng thương yêu chàng sâu sắc. Theo chàng suy luận,
chắc hẳn cha nàng đã cho nàng biết toàn bộ sự thật khi
hai đấng sinh thành đã gặp nhau, đã thảo luận việc cưới
hỏi mà không đạt được kết quả tốt đẹp nào
cả, sau đó cha nàng buộc lòng phải khuyên nàng dập tắt
mối tình đầu đầy thơ mộng và lãng mạn để nàng
chịu cảnh bẽ bàng, ngang trái? Vì là người con có hiếu
nên nàng đã ngoan ngoản vâng lời cha mẹ, buộc lòng gạt
hẳn tình cảm cá nhân qua một bên ngoài ước mong thầm kín
của nàng, chịu hết mọi thiệt thòi về phần mình để
rồi cuối cùng phải mang mối tình đầu dang dở xuống tuyền
đài không một lời oán than, không một câu trách móc thật
đáng tội nghiệp và đáng thương tâm biết chừng nào!
Springfield, MA, trời lập Đông 2014
Hồi Ký
KỶ NIỆM BUỒN THỜI NIÊN THIẾU ______________________________________________________________________________________________
Những năm học cuối cùng (1953-1955) của hai lớp Seconde
Moderne và Premìère Moderne tại Lycée Phan Thanh Giản Cần Thơ rồi
cũng nhanh chóng trôi qua. Trong bầu không khí buồn bã vì phải
xa người thân yêu và bạn bè đồng song, Hà bịn rịn
lên xe đò Đại Đồng lên Saigon để chuẩn bị cho cuộc
thi đầy cam go sắp tới, Tú Tài Phần I (Baccalauréat Premìère
Partie) tổ chức tại Trường Chasseloup Laubat, Saigon. Đây là một chuỗi
dài thi cử đầy cam go để nếu may mắn thi đậu thì sẽ
tiếp tục học lớp cuối cùng (classe terminale) tại Trường Pétrus
Trương Vĩnh Ký hay Trường Chasseloup Laubat đều ở ngay thủ đô
Saigon tráng lệ để lãnh bằng Tú Tài II (Baccalauréat Deuxìème
Partie). Bao nhiêu năm đèn sách
từ khi vượt qua bậc Cao Đẳng Tiểu Học để qua bậc Trung Học
Đệ Nhị Cấp, nay chỉ còn khoảng một tháng ngắn ngủi nữa
để phân định con cá "Hà" này có thể "hóa
long" hay không để còn hy vọng tiếp nối nghiệp văn vào những
năm tháng sắp đến. Cuộc tranh
tài giật lấy mảnh bằng Tú Tài I sắp xảy ra vào khoảng
giữa tháng 6 của niên học. Tất cả thí sinh từ các trường
trung học công lập miền Nam Việt-Nam bao gồn Lycée Phan Thanh Giản Cần
Thơ, Trường Trung Học Le Myre de Villers Mỹ Tho, Trường Pétrus Trương
Vĩnh Ký đến hội tụ cùng học sinh các Trường Taberd,
Marie Curie và Lýcée Chasseloup Laubat tại Saigon để mong đem mũ mão
về làng làm hài lòng đấng sinh thành và rạng danh xóm
làng. Rồi ngày thi cũng qua đi trong lo âu của
từng thí sinh một. Chiều ngày tuyên bố kết quả thi viết năm
ấy, trời lất phất mưa nên các sĩ tử vừa run lên vì
lạnh và cũng vì hồi hộp. Cuối cùng thì Hà cũng đến
được chỗ dán yết thị cho hội đồng giám khảo của
Hà (jury d'examen). Mỗi jury có khoảng từ 20 đến 30 thí sinh tham dự,
và ô kìa, Hà rất vui mừng khi thấy tên mình ở gần cuối
bảng nên Hà vội chạy u ra thông báo cho phụ thân đang đứng
đợi ở ngoài cổng trường để cùng chia xẻ niềm vui với
gia đình. Đến giờ phút này thì Hà đã yên tâm
phần nào với hy vọng tràn đầy sẽ vào phần vấn đáp
một cách trót lọt. Có thể
đây là lần đầu tiên trong đời, Hà đã ỷ
lại vào sự trợ giúp của người khác theo sự sắp xếp
người cha luôn luôn theo sát bên cậu con trai út trong suốt chiều
dài con đường học vấn của Hà nên Hà phải trả một
giá rất đắt sau này. Từ xưa đến nay Hà luôn luôn tin
vào khả năng học tập của mình vì trước đây Hà
đã từng là học sinh xuất sắc của trường, bằng chứng
cụ thể là gần đây nhất Hà đã lãnh phần thưởng
hạng nhất sau bốn năm học tại Trường Cao Tiểu Vĩnh Long (Collège
de Vĩnh Long). Nếu Hà vẫn tiếp tục cố gắng học hành như
hiện nay không nhờ vã vào ai khác thì việc vượt qua phần
vấn đáp sẽ không là vấn đề tối quan trọng đối
với Hà. Nhưng ở trên đời có những ngã rẻ khó lường
trước được (turning-point) ảnh hưởng rất lớn cho tương lai
của mình. Nguyên nhân là cha của Hà có một cậu em từng
giao du thân mật với một giáo sư Việt Nam duy nhất dạy tại Trường
Chasseloup Laubat. Ông ta có hai con đang học tại Trường Chasseloup Laubat và
Trường Nữ Marie Curie nên có sự liên hệ mật thiết với vị
giáo sư này. Theo lời cậu em thì khi được biết Hà dự
thi Tú Tài I khóa này, ông ta bảo đảm với ông cậu nếu
Hà đậu phần thi viết thì ông ta sẽ bảo đảm phần thi
vấn đáp một cách trót lọt. Bây giờ khi nghĩ lại Hà
thấy không có cái dại nào bằng khi không biết dựa vào
chính sức lực của mình, mà nếu Hà là một học sinh dưới
trung bình cho cam, nên mới phải ỷ lại vào sự phụ giúp của
người khác, nên âu đó cũng là bài học quá đắt
giá mà Hà phải trả để bị ân hận suốt đời.
Đến trưa hôm sau là ngày thi vấn
đáp, vì quá tin vào lời hứa của người cậu em của
cha, Hà cũng ôn lại bài vở như thường lệ nhưng ở một
chừng mực giới hạn thay vì phải chuyên tâm ôn luyện những
bài học quan trạong, lại là một sai lầm to lớn khác mà sau
này Hà không bao giờ dám tái phạm, nhưng có lẽ đã
quá muộn màng rồi! Hà đã đi cùng với ba và một
người bạn thân cùng trường cũng dự thi vấn đáp đã
đến trường rất sớm, có lẽ khoảng gần hơn một giờ
trước giờ quy định. Trong khi chờ đợi, Hà và người bạn
đi vòng các hành lang trong sân trường. Hà chú ý thấy
có một phòng đang thi vấn đáp sớm môn La-tinh và Hy Lạp
(Latin & Grèque) cho thí sinh série Moderne mà Hà nghĩ không liên
quan gì đến anh thuộc section khác. Vốn hay tò mò nên anh bạn
và Hà phải đu lên bực cửa sổ để xem cho rõ bên trong
phòng thi vì cửa sổ của trường Chasseloup Laubat rất cao so với trường
Phan Thanh Giản Cần Thơ. Ngay khi ấy Hà trông thấy một nữ giám
khảo người Pháp trông rất trẻ nhưng lại mang kính cận thị
thật dầy xem ra có đến 4, 5 độ. Không hiểu trời xui đất
khiến thế nào mà cái miệng vô duyên của Hà bỗng phát
ra một tiếng cười "định mệnh" khiến cô giám khảo
giật mình ngước mắt ra ngoài cửa sổ thì đã nhận
diện ngay gương mặt đáng ghét của Hà còn đang chới
với ở trên cao vì vụng về và lính quýnh nên tuột xuống
không kịp, trong khi bạn của Hà đã nhanh tay lẹ chân dọt xuống
ngay một cách êm ái. Thật là hú vía sau biến cố vừa
qua nhưng rồi mọi việc cũng trở nên yên tịnh trở lại như
không có điều gì quan trọng xảy ra. Không ngờ đó
chỉ là phần mở đầu cho một biến cố nguy kịch khác sắp
giáng xuống đầu Hà khoảng một giờ sau đó.
Cuối cùng rồi cũng đến giờ thi vấn
đáp của anh bạn và Hà. Vì có niềm tin cao về môn văn
học sử Pháp (littérature francaise) nên Hà mạnh dạn bước vào
ngay phòng thi môn tâm đắc này và ngồi ngay bàn đầu của
lớp học. Khoảng vài ba phút sau, vì giám khảo vào lớp. Khi
ngước mặt nhìn lên, Hà sững sờ khi thấy chính cô giáo
sư trẻ với cặp kính cận thị dầy côm mà Hà vừa thấy
khi nãy đang nhẹ bước vào phòng. Dường như, có lẽ
Hà đã suy đoán lầm hay chăng, vị giám khảo đã không
quên gương mặt mốc đáng ghét của Hà, một kẻ đã
dám cả gan cười cô ta cách đây hơn nửa tiếng đồng
hồ, nên đã gọi Hà lên bắt thăm bài thi vấn đáp.
Tuy phân vân không biết tại sao cô ta mới chấm thi môn La-Tinh và
Hy-Lạp mà lại nhào vô chấm thi văn học sử Pháp? Tuy nghĩ
như vậy nhưng Hà vẫn ngoan ngoản lên bàn giám khảo để
bắt một đề tài thi. Liếc qua đề tài thi trong tay, Hà bối
rối thấy rõ vì đây là một đề tài rất xa lạ
đối với Hà với câu hỏi "Préface de Cromwell de Victor Hugo. Différence
avec le classicisme du XVIIè siècle". Khi trở về chỗ ngồi, Hà bỗng
sực nhớ ra là anh chưa học bài này, mà theo quy chế dành cho
thí sinh các trường công lập thì thí sinh được phép
xin đổi lại câu hỏi khác mà không bị trừ 5 điểm.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề, không
biết Hà có sai lầm hay không, là vì Linh Mục Choimet, giáo sư
dạy văn học sử Pháp cho lớp Premìère Moderne chỉ dạy các
bài (đã có ghi trong học bạ/livret scolaire) như Hernani, La Vache, Booz Endormi,
và L'Expiation của đại văn hào Pháp Victor Hugo mà Hà đã
nhìn thấy học bạ của mình đang ở trên bàn của giám
khảo. Vì giáo sư Choimet là Linh Mục nên Cha đặc biệt không
thích những triết gia thế kỷ 18 của Pháp như Voltaire (1694-1778), Montesquieu
(1689-1755), Denis Diderot (1713-1784), Jean-Jacques Rousseau (1712-1778). Đặc biệt với Voltaire, con
chim đầu đàn phong trào khai sáng Pháp của thế kỷ 18 được
xem là thời đại ánh sáng (le siècle des lumìères), một thành
tựu của tinh thần khoa học của triết lý Tây phương. Voltaire là
một thiên tài văn học Pháp mà theo ông, văn chương đồng
nghĩa với khoa học trong sự hùng biện và sắc sảo của nó.
Vì ông đả kích chế độ cường quyền của vua Louis XV
và sự thiếu khoan dung của nhà thờ Ki-Tô Giáo và giáo điều
của nhà thờ tuy ông không phải là vô thần nên Cha Choimet luôn
chỉ trích Voltaire cùng các triết gia khác mà ông thường ví
họ như những con ruồi, con muỗi khi ông giảng bài "cette mouche de Voltaire"?
Cũng có lẽ vì thời gian đả kích giới triết gia Pháp quá
nhiều nên thời lượng dành cho thế kỷ thứ 19 đã vô
tình bị cắt xén đi phần nào chăng? Hà vội vàng trở lên bàn vị giám khảo để
phân trần lý do trong sổ học bạ không có ghi bài học liên
quan đến đề thi nhưng cô ta không thèm nhìn vào học bạ
đang nằm ở góc phải của bàn mà chỉ yêu cầu Hà về
chỗ để soạn bài. Cũng theo thông lệ của trường thi, thí
sinh đầu tiên có khoảng từ 10 đến 15 phút để chuẩn
bị bài. Đến khi thí sinh đầu tiên này lên dự phần
vấn đáp thì thí sinh kế tiếp lên bắt thăm và có
đủ thời gian chuẩn bị trong khi giám khảo hỏi bài thí sinh đầu
tiên, và cứ thế mà tiếp tục theo dây chuyền sau này.
Hà không được hưởng ưu tiên
này nên chỉ trong năm ba phút ngắn ngủi, Hà phải lên trả
bài ngay trong khi tâm trí đang bấn loạn và chưa ổn định
vì chưa chuẩn bị kỹ lưỡng bài thi. Hà khá thuộc bài về classicisme (chủ nghĩa cổ điển)
hay théâtre classique (sân khấu cổ điển) của Pháp vào thế
kỷ 17 với Corneille, Racine, Molière qua quy luật rất khắt khe gọi nôm
na là "Luật Ba Đơn Vị" hay "Ba Sự Thống Nhất" (Règle
Des Trois Unités) được hệ thống hóa một cách rõ ràng
dễ hiểu do cha đạo Aubignac (abbé d'Aubignac) đề ra tuy trước đó
đã có nhà bác học Ý tên Jules César Scaliger ghi nhận vào
năm 1630 trong Bức thư về Kịch nghệ (Lettre sur l'Art Dramatique) dưới thời
Đức Hồng Y Richelieu của Pháp, là tiêu biểu của ngôn ngữ
sân khấu sau này được gọi là sân khấu cổ điển.
Hà đang cố tình dành nhiều
thời gian giải thích "règle des trois unités" bao gồm unité d'action
(thống nhất hành động), unité de lieu (thống nhất địa điểm),
và unité de temps (thống nhất thời gian) của thế kỷ 17 mà chưa
đá động gì đến thế kỷ 19 của Victor Hugo nhưng vị nữ
gám khảo đã đánh đúng vào tử huyệt của Hà
khi hỏi một câu rất ngắn gọn "còn thế kỷ 19 thì sao?"
(et the 19è siècle?) khiến Hà lúng túng thấy rõ. Chỉ trong vài
giây ngập ngừng của Hà cũng đủ để vị giám khảo
trẻ măng phán một câu rùng rợn mà Hà luôn ghi mãi trong
lòng "Sortez" (Ra Ngoài) nhằm đuổi Hà ra khỏi phòng thi. Thật
đau đớn và nhục nhã cho Hà khi bị đánh rớt với môn
học tâm đắc nhất của mình! Đến lúc đó, Hà như
người tĩnh cơn mê khi vẫn còn mang máng nghe đâu đây
câu nói đầy tự tin của người cậu "Chỉ cần nó
đậu phần viết thì cứ yên chí, mọi việc còn lại cứ
để em lo". Trong nỗi hoang mang vì bị thua keo đầu, dường như
Hà đã đánh mất lòng tự tin nơi chính bản thân mình
nên đã tiếp tục vào thi các môn kế tiếp với tâm
trạng của một kẻ mộng du. Khi đến phần thi về Việt Văn là
phần Hà tự thấy yếu nhất với những vần thơ của Chinh Phụ
Ngâm Khúc, Cung Oán Ngâm Khúc hay Đoạn Trường Tân Thanh . Hà
vào phòng thi như đang lơ lửng trên không nhưng khi gặp vị
giám khảo người Việt Nam, Hà khựng người lại vì kinh ngạc
lẫn vui mừng vì ông ta chính là người bạn thân quen với
ông cậu. Hà vẫn còn mang một tia hy vọng cỏn con có thể
vớt vát những gì đã mất nên cậu ta hăm hở bước
đến bốc thăm đồng thời nhìn thẳng vào mắt vị giám
khảo ước mong ông ta có vài thay đổi trên nét mặt khi nhìn
thấy tên cậu, nhưng tuyệt nhiên không có động tịnh gì
cả. Cầm mẫu câu hỏi, Hà bối rối thấy rõ vì cậu
khá dốt về các điển tích trong các truyện Kiều, Cung Oán
Ngâm Khúc hay Chinh Phụ Ngâm Khúc. Tuy bối rối nhưng Hà vẫn
còn nhớ mang máng vài câu mà giám khảo yêu cầu dịch
ra Pháp văn như sau:
"Dắt díu nhau lên cạn mà chơi,
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương" Phải thật lòng mà nói, lúc bấy giờ Hà
không hiểu điển tích về "lò cừ" hay "bức tranh vân
cẩu" là thế nào thì làm sao dịch cho trơn tru được
nhưng thật khôi hài là lúc ấy Hà vẫn còn tin vào sự
giúp đỡ của người quen mà vị giám khảo đang ngồi trước
mặt không phải người quen là gì? Với tâm trạng lạc quan
nửa vời ấy, Hà buột miệng dịch ba câu thơ nói trên sang
tiếng Pháp một cách thật là "bồi" nên khi dịch xong, Hà
lại bật cười nho nhỏ như tự chế giễu mình. Vì đây
là lần đầu tiên trong đời Hà thực hiện được một
kỳ công, một công trình dở nhất thế giới xứng đáng
được ghi vào sách kỷ lục Guiness? Lần này, câu nhận xét
của vị giám khảo "Dịch như vậy mà cũng gọi là dịch
à?" đã khiến Hà tỉnh giấc mộng nam kha, đồng thời
rất buồn khi suy đoán có lẽ gia đình Hà đã bị cho
ăn bánh vẽ rồi! Hà vẫn tiếp tục dự các môn thi khác
khi trời đã chạng vạng tối. Bài thi cuối cùng là Vật
Lý (Physique). Khi Hà vào phòng thi thì cũng vừa lúc chỉ còn
một nữ thí sinh cuối cùng. Cô bé trông cũng xinh xắn tệ,
lúc bấy giờ mà Hà còn lòng dạ để ý đến phái
nữ vì cô ta đẹp thật và rất duyên dáng. Khi vị giám
khảo thật trẻ người Pháp nhắc nhở cô trả lời thì
không biết vì lý do gì thì cô cứ ngập ngừng, có lẽ
cũng không thuộc bài như Hà vậy chăng, kịp đến khi vị
giam khảo nhắc lại lần thứ hai thì bỗng nhiên cô ta bật khóc,
có lẽ giống như tiếng khóc của Tây Thi ngày xưa vậy nên
càng tăng thêm vẻ đẹp một cách não nùng khiến Hà
cũng mủi lòng muốn khóc theo? Lúc bấy giờ, dường như vị
giám khảo cũng ra sức dỗ cho cô ngưng khóc thì phải, cuối
cùng cô cũng rời khỏi phòng thi chỉ còn mỗi một mình
Hà mà thôi. Hà cồ gắng hoàn tất bài thi hạch miệng
khá trôi chảy và không quên nhìn tên nữ thí sinh "người
đẹp Tây Thi" trước khi rời khỏi phòng thi vấn đáp trong
lúc trời đã tối hẵn. Lòng Hà nặng trĩu ưu tư với
một nửa ngày thi đầy sóng gió mà Hà đoán trước
chắc chắn kết quả sẽ chằng lạc quan tí nào. Cuối cùng, Hà không còn nhớ rõ nhưng có
lẽ hai ngày sau mới có kết quả chung cuộc kỳ thi viết và vấn
đáp Tú Tài I được niêm yết tại trước cổng trường
Chasseloup Laubat ở đường Hồng Thập Tự Saigon. Hà cũng hồi hộp
khi xem kết quả chung cuộc tuy đã đoán trước một tương
lai màu xám thay vì màu hồng của mình. Nhìn danh sách hội
đồng thi (jury d'examen) của Hà, tổng cộng chỉ còn 8 trên 25 thí
sinh trúng tuyển, điều ngạc nhiên lớn nhất trong cuộc đời
học sinh của Hà là cô gái xinh đẹp tựa như Tây Thi đã
khóc sướt mướt đêm nào lại là thí sinh cuối cùng
được lọt vào danh sách trúng tuyển? Riêng Hà phải xách
xe không về nhà (Bùi Kiệm rồi còn gì nữa mà âu với
sầu). Đây cũng là đầu tiên trong đời Hà thi hỏng vì
trong những lần thi khác, Hà không những đậu mà lại còn
chiếm những vị trí rất cao. Sau
khi xem lại sách vở, Hà mới chợt hiểu khi so sánh giữa classicisme
của thế kỷ 17 với Jean Racine và Pierre Corneille qua règle des trois unités
và thế kỷ 19 của Victor Hugo thì sự khác biệt lớn nhất là
không còn luật "Ba Đơn Vị/Thống Nhất" rất kắt khe nữa
mà chuyển qua trường phái cách mạng mới là Lãng Mạn
(romantisme) hũy bỏ và đối lập hoàn toàn với quy luật trên
(l'abandon de unités) ngoại trừ l'unité d'action còn duy trì như chúng
ta thấy không còn một địa điểm duy nhất (lieu), một thời
gian giới hạn trong 24 giờ (temps) với nhiều vai diễn pha lẫn giữa văn
xuôi và thi ca, giữa sự cao cả và sự tầm thường, để
rồi đến năm 1843, vở kịch Burgraves đã đánh dấu chấm
hết cho trường phái lãng mạn và chuyển tiếp qua giai đoan phim
ảnh (cinéma). Kịch bản Préface de Cromwell (1827) của Victor Hugo là sự
biện hộ và bảo vệ thể loại kịch lãng mạn của thế
kỷ 19 được tóm lược như sau: 1. La Théorie des trois ages (lý thuyết 3 thời thống nhất);
2. Les temps primitives (thời đại nguyên thủy); 3. Les temps antiques (thời đại
cổ xưa); 4. Les temps modernes (thời kỳ hiện đại); 5. La théorie du drame (lý
thuyết của kịch nghệ); 6. Le mélange des genres (sự pha lẫn các thể
loại); 7. L'abandon des unités (sự loại bỏ các thể loại "thống
nhất"); 8. La couleur locale (màu sắc có tính cách cục bộ).
Cũng may mắn cho Hà là vẫn còn sau
lưng kỳ thi hạch miệng lần thứ nhì (2è session) mà Hà nguyện
với lòng sẽ quyết tâm không xao lãng việc học, phải tự
trông cậy vào sức mình để không phụ công ơn dưỡng
dục và sự lo lắng của cha mẹ. Tuy có muộn màng, nhưng có
còn hơn không, Hà đã vượt qua một cách trót lọt
kỳ thi vấn đáp lần thứ hai đem lại biết bao nỗi vui mừng
cho gia đình và danh dự cho xóm làng, đặc biệt là các
ngôi trường từ Sađec qua Vĩnh Long và đến Cần Thơ đã
đào tạo cho Hà nên người. Tuy
nhiên khi quay lưng nhìn lại quá khứ, Hà không khỏi chạnh lòng
nghĩ đến nỗi phiền muộn của đấng sinh thành cũng như cá
nhân Hà qua sự thất bại chua cay không nên có của lần thi trước,
một điều chắc chắn đã hằn sâu trong tâm khảm của Hà
như một kỷ niệm buồn, thật buồn trong đời.
TRẦN BÁ XỬ
Springfield, MA, trời lập Đông, năm 2014
Hồi Ký
CUỘC HẠNH NGỘ
BẤT NGỜ ĐẦY KỊCH
TÍNH SAU 46 NĂM XA CÁCH Ảnh: Đôi
bạn trẻ thành đôi bạn già Dương Hoàng Trung (CT) & Trần
Bá Xử (Springfield, MA) gặp lại nhau ngày 2/4/2014 tại CT sau 46 năm xa cách. Tôi không phải
là triết gia mà chỉ là một học sinh quèn nhưng cũng
bày đặt bắt chước thiên hạ quan niệm rằng
trong cuộc giao tiếp hằng ngày, nhiều lúc có những
bạn bè đã quen biết rất lâu nhưng không để
lại dấu ấn gì quan trọng trong tiềm thức của mình,
tuy nhiên trái ngược lại có những người bạn sơ
giao, chỉ mới quen biết trong thoáng chốc ấy mà, nhưng
đã khiến cho ta dành cho một thiện cảm đặc biệt
không bao giờ mờ nhạt và đã để lại một
ấn tượng thật tốt đẹp trong suốt
cả cuộc đời. Điều này được minh chứng
rõ nét trong trường hợp giữa anh bạn Dương Hoàng Trung
và tôi trong thập niên 50 khi tôi đang theo học Trường Trung
học Phan Thanh Giản Cần Thơ, lúc bấy giờ được
gọi dưới danh xưng là Lycée Phan Thanh Giản Cần Thơ. Ngày
ấy, khi mới quen nhau, chúng tôi ở cùng chung một xóm
được gọi là Hẽm Võ Tánh, hồi đó thường
được gọi là Ruelle de Võ Tánh, nằm bên hông trường
Phan Thanh Giản, nghĩa là rất gần trường tôi đang
theo học hai năm Seconde Moderne II và Premìère Moderne II, vì mỗi buổi
sáng tôi chỉ đi bộ một khoảng đường rất
ngắn, thật ngắn độ hơn hai mươi thước là
đến cổng trường rồi. Điều
đặc biệt giữa hai chúng tôi là anh Trung lớn hơn
tôi khoảng năm tuổi nên khi tôi thi đậu vào lớp
Seconde Moderne thì cũng vừa lúc anh ấy anh đã đậu bằng
Brevet (BEPC) và thi đậu vào làm thư ký ngạch Công Chánh (secrétaire
des Travaux Publics), ngày ấy nếu có bằng Tú Tài sẽ được
thi vào ngạch Tham sự, gọi nôm na là ngạch “cò-mi”. Lúc
bấy giờ anh Trung không tiếp tục học ở Lycée Phan Thanh
Giản chung với tôi nữa mà đã đi làm, giống như
anh Nguyễn Hữu Phước cùng ở hẽm Võ Tánh làm
thư ký hành chánh (secrétaire du gouvernement) vậy. Các anh chị trong
hẽm Võ Tánh (rất ngắn) thân với nhau như cùng trong một
đại gia đình, trong đó phải kể đến các anh Võ
Sáng Nghiệp, Lâm Văn Mẫn và tôi cùng học chung một
lớp mà anh Trương Quang Minh là trưởng lớp (major), các
anh Trung và Phước đang làm ở ngạch thư ký, ngoài ra còn
các chị Xuân, Hoàng và Huệ (judo).và một số học
sinh lớp dưới nữa. Tôi giao du
thân mật với các bạn đồng môn nhưng với anh
Trung tôi lại có một thiện cảm đặc biệt vì
có nhiều sở thích giống nhau. Mỗi buổi chiều,
sau giờ làm việc ở Ty Công Chánh cũng như sau giờ
học ở trường, anh và tôi thường hay chạy xe đạp
tà tà ra khu bungalow ở bến Ninh Kiếu để hưởng
làn gió mát trong lành cạnh bờ sông cái và đặc
biệt để ngữi mùi hoa sứ thơm lừng khiến
người ta muốn ngất ngây. Thêm vào đó, và cũng
điều quan trọng nhất mà chúng tôi thường đến
đây, là để bàn chuyện trên trời dưới
đất mà tựu trung vẫn là để thảo luận
về quan niệm cho cuộc sống tương lai. Bây giờ suy
nghĩ lại tôi thấy không biết tại sao lúc bấy giờ
chúng tôi lại quan tâm đến đề tài tẻ nhạt như
vậy, tuy nhiên lúc ngày ấy có một thực tế
không thể chối bỏ được là thực trạng tình
hình đất nước trong những năm từ 1953 đến
1955 không hoàn toàn sáng sủa như mong muốn khi miền Bắc
không từ bỏ ý định xâm lược miền Nam Việt
Nam. Với nhiệt tâm muốn ngăn chận làn sóng đỏ,
việc động viên mọi tầng lớp quân nhân các
cấp là điều quan trọng nhằm bảo vệ chính nghĩa
quốc gia dân tộc. Do vậy, hằng ngày, ngay trong giờ
học, thường có nhân viên của Ty An Ninh Liên Bang (sureté fédérale)
xông vào lớp học để đọc giấy gọi nhập
học ( lettre de convocation). Tôi đã nhiều lần chứng kiến
cảnh gọi động viên với giọng không mấy lịch thiệp
ấy của họ, nhưng để đối phó lại, anh trưởng
lớp đã nhã nhặn cho biết là học sinh này mới
về quê tuy anh ta thực sự đang hiện diện trong lớp
học. Thật là hú vía! Và sự việc gọi nhập
ngũ như vậy đã khiến cho một số học sinh bỏ
dỡ việc học nửa chừng. Vì lý do này nên anh Trung
và tôi thực sự lo lắng cho tương lai thật bấp
bênh có thể sẽ đổ ập xuống đầu chúng
tôi, và lúc bấy giờ hai chúng tôi đều có chung
quan điểm là tìm một ngành nghề tự do nào đó
giúp chúng tôi không bị lệ thuộc vào người khác,
và thực sự anh ấy đã thực hiện được
ước mơ của mình ở phân nữa cuộc đời
còn lại của anh khi anh là chủ nhân ông một cửa hàng
đặc trách về điện lạnh. Riêng cá nhân tôi
thì suốt đời vẫn bị lệ thuộc vào người
khác vì khi tôi làm trưởng ban huấn luyện thì có
ông trưởng khối huấn luyện “đè đầu
đè cổ” cho đến khi là trung tá chủ sự phòng
thì cũng có ông đại tá chánh sự vụ sở ở
trên chỉ huy tôi! Lần sau cùng trước khi quân đội
tan hàng, tôi đã gặp anh vào năm 1968 khi tôi là thiếu
tá ở Tổng Cục Quân Huấn Bộ Tổng Tham Mưu
đi công tác tại TTHL Chi Lăng và luôn tiện gặp anh trong giây
lát tại đường Võ Tánh (đường Nhà Đèn) khi
anh quản lý cửa hàng điện lạnh. Từ đó trở
đi, tôi chưa bao giờ gặp lại anh nữa. Bây
giờ, sau hơn 46 năm, tôi không biết tin tức của anh nên
đã nhờ người niên đệ đồng môn là
anh GS Nguyễn Công Danh đăng bản Nhắn Tin vào trang nhà của
trường mẹ PTGĐTĐ. Trong chuyến về Saigon trị bệnh
thần kinh tọa/thoái hóa cột sống, tôi đã tìm
cách về Cần Thơ thăm trường mẹ và các đồng
môn trong ba lần, đến lần thứ ba thì cơ may đã
đến gần như phép lạ vì anh ấy đã thay đổi
chỗ ở đến hai ba lần, từ hẽm Võ Tánh đến
hẽm Hai Địa rồi đến địa điểm hiện tại
ở một khu tái định cư xa lơ xa lắc thuộc phường
An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Trước
đó, tôi đã nhờ đồng môn giáo sư Nguyễn
Kỳ Phương “đèo” xe Honda chở đi lùng sục các hang
cùng ngõ hẽm để tìm ra tung tích các bạn đồng
môn cũ và anh ấy qua các địa danh nêu trên nhưng chỉ
gặp được mỗi một anh, đặc biệt với
anh, thì biệt vô âm tính “tìm anh như thể tìm chim”?
Cuối cùng, nhờ sự hướng dẫn của đồng
môn Hồ Công Nghiệp, em của hai bạn học cùng lớp là
Hồ Công Minh và Hồ Công Tâm mà tôi vừa mới
gặp ở Tân Định, Saigon, tôi đã may mắn gặp lại
cố nhân mà tôi xem như người anh trong gia đình. Để thay lời kết, tôi xin mạn phép được
ghi lại một trích đoạn trong bức thư gởi cho anh ấy,
vì anh không dùng máy vi tính, để hồi tưởng một
thời đã qua: “Anh Trung
mến, Những năm 1953-1955, chúng
ta đã quen thân với nhau, bây giờ, sau nửa thế kỹ
rồi còn gì, sau bao thăng trầm của cuộc sống, sau không
biết bao nhiêu lần tìm kiếm, cuối cùng Thượng
đế đã xót thương cho chúng ta có cuộc hạnh ngộ
ngày Thứ Tư, 2/4/2014, tại thành phố Cần Thơ thân thương
năm nào khi anh Trung hào hoa phong nhã với mái tóc bồng bềnh,
với ngón đàn Hạ Uy Di tuyệt luân và tiếng đàn
vĩ cầm thánh thót làm rung động lòng người của
ngày nào, mà bây giờ bánh xe thời gian đã biến
anh thành một cụ ông với mái tóc bạc phơ, với đôi
kính cận dày cộm, nhưng tôi vẫn nhận ra anh qua giọng
cười vui rất dễ thương, với vầng trán thông
minh, và vẫn với mái tóc dợn sóng của người
“nghệ sĩ lăn tuốt xuống mương” thay vì “lăn
lóc gió sương” của thập niên 50! Không gì vui cho bằng
khi gặp lại cố nhân…không bút mực nào tả cho
xiết nỗi vui mừng vô hạn trên hai gương mặt có
nhiều vết chân chim của chúng ta khi hồi tưởng lại
một thời đã qua với biết bao kỷ niệm êm đềm,
thật êm đềm, phải không anh Trung thân quý của tôi”.
Trần bá Xử
Saigon, Xuân 2014
Tạp
ghi Vài cảm nghĩ nhân chuyến
về thăm trường mẹ sau gần 60 năm xa cách. Tôi là một cựu học sinh
Trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ từ đầu thập
niên 50 mà chương trình giáo dục lúc bấy giờ đều
thực hiện bằng Pháp ngữ. Tôi được sinh ra trong
chiến tranh tại đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu,
hiền hòa và thanh bình. Danh từ thanh bình ở đây có
lẽ đã mâu thuẩn với cụm từ chiến tranh nêu
trên nhưng thực tế là như vậy vì tuy miền Tây
đất nước chúng tôi đang thực sự yên vui trong
hòa bình nói riêng nhưng cả miền Nam chúng tôi nói chung
vẫn còn chịu cảnh chiến tranh ý thức hệ giữa
lý tưởng quốc gia dân tộc ở miền Nam so với
chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt-Nam.
Vì vậy cho nên cuộc chiến Quốc Cộng vẫn
âm ỉ kéo dài mà miền Nam luôn luôn tâm niệm là
một cuộc chiến ôn hòa nhằm bảo vệ chính
nghĩa quốc gia trong khi phía bên kia từng bước một tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược với ý đồ
nhuộm đỏ toàn bộ nước Việt-Nam thân yêu của
chúng ta. Là trai của thời loạn nên chúng
tôi phải thi hành nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi
quy định. Riêng cá nhân tôi đã ghi danh tình nguyện theo học
Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt để trở
thành sĩ quan hiện dịch phục vụ cho Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, một quân đội hùng mạnh với trang thiết
bị hiện đại và với quân số hơn một triệu
mốt từng được xếp hàng thứ ba trên thế
giới thời bấy giờ. Tôi rất hãnh diện được
phục vụ trong một quân đội oai hùng như vậy nhưng
một bóng đêm kinh hoàng đã bao trùm lên đất nước
khốn khổ của chúng tôi qua Tháng Tư Đen năm 1975. Trong phút
chốc, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức
tử một cách oan uổng do sự sắp xếp giữa
phe Cộng sản quốc tế và người bạn đồng
minh không thủy chung của chúng tôi. Bao nhiêu hoài bảo
của tuổi trẻ đã tan thành mãnh vụn sau biến cố
trọng đại trên đưa đến nhiều hệ quả đau
thương khiến hàng trăm ngàn sĩ quan thuộc mọi lực
lượng cùng các viên chức trong chính phủ phải vào các
trại tập trung “cải tạo”, một điều không hề
xảy ra sau cuộc nội chiến của Mỹ quốc (1861-1866) cũng
như sau khi bức tường Bá Linh bị sụp đỗ (1989). Cùng
chung số phận với các đồng đội của chúng
tôi, tôi cũng đã phải trả một cái giá thật nghiệt
ngã qua hơn tám năm đầy tủi nhục trong các trại tập
trung từ Nam ra Bắc.
Thanh, Long, Dân, Xử
Xử, Lai Giờ đây, khi đang vào tuổi
“cổ lai hi” với mái tóc đã điểm sương
với một chân đang ở ngoài và một chân đang
bước vào nghĩa trang (chớ không phải đang chuẩn bị
bước vào), tôi có cơ may được trở về mái
trường mẹ Phan Thanh Giản Cần Thơ để hồi tưởng
lại những kỷ niệm êm đềm của những ngày xưa
thân ái đã qua sau gần đúng sáu mươi năm xa cách
(1955-2014). Có một thực tế không thể chối cải
được là mọi thứ ở thành phố Cần Thơ
thân yêu ngày nào hầu như đều đã trở nên
xa lạ, với biết bao thay đổi, từ những địa
danh thân thương ngày trước đến những trường
học, những đại lộ, những con đường, những
đường hẽm, cây cầu hay bệnh viện, sân banh, v..v..
khiến tôi như bị lạc lỏng, bị hụt hẫng vì sự
đổi mới gần như hoàn toàn này. Nếu như không
có sự giúp đỡ rất nhiệt tình của anh bạn
đồng môn, dĩ nhiên là trẻ tuổi hơn tôi khá nhiều,
là anh Nguyễn Kỳ Phương, thì chắc hẵn tôi đã
không có được một chuyến về thăm trường
Mẹ một cách trọn vẹn. Anh Phương nhỏ hơn tôi bảy tuổi,
khi tôi vừa rời mái trường xưa thì cũng là lúc
anh vào nhập học năm đầu tiên của trường trung học
nhưng chúng tôi đã rất tâm đắc trong nhiều lĩnh
vực, từ những kiến thức tổng quát cho đến
những giao tiếp ngoài đời, xứng đáng với sự
giới thiệu nồng nhiệt của đồng môn Bùi Hữu
Trạng, đại diện cựu học sinh Phan Thanh Giản-Đoàn Thị
Điểm Cần Thơ tại Úc Châu. Anh Phương là người
rất khiêm nhường không muốn nói nhiều về
mình nhưng tôi cũng xin được phép bật mí một
tí về người đồng môn đa năng này. Anh đã
từng là giáo sư Anh ngữ, vừa phụ trách giảng dạy
vừa lo cả việc dịch thuật đã từng là giám
học (censeur), điều quan trọng và đặc biệt hơn hết
anh còn là đồng sự và bạn thân của anh bạn cùng
lớp với tôi là anh Trương Quang Minh, nguyên là giáo sư
và hiệu trưởng Trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, đã
từng một thời là Giám đốc Sở Học chánh,
sau cải danh thành Ty Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, đã tạ
thế tại Úc Châu. Trong dịp về thăm lại Cần Thơ,
anh Phương đã chở tôi đi thăm ngôi trường cũ Phan
Thanh Giản, gọi trường cũ với danh xưng Phan Thanh Giản vì trường
mới đã có danh xưng khác là trường Châu Văn Liêm,
nhưng trường cũ chưa bao giờ mất tiếng như đồng
môn Bùi Hữu Trạng ở Úc Châu đã minh xác “Đại
Hội Úc Châu mở rộng nhằm nối kết tình
thầy trò, nghĩa đồng môn PTG-ĐTĐ để thắt
chặt thêm nghĩa tình giữa những người cùng xuất
thân dưới mái trường thân thương đồng thời
để tự hào dù Trường xưa tuy đã mất tên
nhưng chưa bao giờ mất tiếng”. Điều khiến
tôi cảm động tận đáy lòng là khi nhìn thấy
mái trường xưa vẫn còn giữ nguyên cấu trúc
cũ làm cho tôi chạnh nghĩ đến những ngày nào thường
xuyên đến trường, nhớ đến buổi lễ
chào cờ mỗi sáng thứ hai, đến những giờ
tập thể dục, thể thao với các môn barre fixe tuyệt
vời,với môn bóng chuyền vô địch từng khiến
các đội bóng chuyền các tỉnh bạn nể phục, với
môn nhu đạo lừng danh một thời với thầy Quang, anh
Kiệt “đề-ba” khi tham dự những trận đấu
với các võ sinh nổi tiếng của lò võ Hàn Bái Đường
ở Sài-Gòn, chưa kể đến những bộ môn
khác như leo giây, nhảy xa, nhảy cao, parallèle, ném tạ,
v..v.. Tôi thật sự không nén nỗi bâng khuâng khi đi
ngang qua khu vực tôi đã từng cư ngụ ở ruelle de Võ Tánh
bên hông trường Mẹ , nơi tôi đã từng đến
trường mỗi buổi sáng, nhưng bây giờ đã đổi
khác quá nhiều với những dãy phố sầm uất
khiến tôi không thể nào nhận ra được. Lúc
bấy giờ tôi bổng nhớ đến lời nhắn
nhủ của người bạn cùng lớp tôi là anh Huýnh Minh Bảo
đang nằm dưởng bệnh tại nhà ở khu cư xá Bắc
Hải, Sài-Gòn nên tôi đã đi ngang qua nơi anh đã từng
cư ngụ, nơi ấy còn có các nữ sinh rất dễ
thương nhưng phá như…học trò ở trọ “vang bóng một
thời của lớp Đệ ngũ A” trong đó có cô Bích
Hằng, ái nữ của giáo sư Hiệu trưởng Nguyễn
Băng Tuyết, cô “Huệ judo” và người đẹp Phù
Tang trong “Mối Tình Học Trò” của tôi. Đó là đường
Xô Viết Nghệ Tĩnh, một cái tên lạ hoắc sau hai
lần dổi tên từ Capitaine d’Hers đến Phan Thanh Giản.
Khi tôi viết đến những dòng chữ này thì anh bạn
Huỳnh Minh Bảo thân thương của tôi, một danh thủ bóng chuyền
của trường, cũng là kỹ sư Lâm nghiệp và là sĩ
quan Quân Lực VNCH ngày nào, đã vẩy tay chào vĩnh biệt
chúng tôi để lại bao nỗi tiếc thương khôn nguôi
cho chị và các cháu! Cũng theo sự hướng dẫn của
anh Bảo, chúng tôi đến hẽm Vú Sữa dọc theo đường
Phan Thanh Giản cũ, nay cải danh thành hẽm 1 Hoàng Văn Thụ An Hội
(lại có thêm chữ An Hội để tăng độ dài
“lòng thòng” cho hợp thời trang? Sau nhiều lần tìm
kiếm chạy ngang chạy dọc qua các đường hẽm chi chít chật
hẹp, cuối cùng tôi đã vô cùng mừng rỡ khi gặp
được anh bạn học cùng lớp Nguyễn Thới Lai, với
mái tóc bồng bềnh giống như “người nghệ
sĩ..lăn tuốt xuống mương” do tôi phịa ra nhái theo lời
một bản nhạc về bến đò xưa mà tôi quên béng
tên vì bản thân là một ông “già via cốc đế”
rồi còn gì nữa! Ngày xa xưa ấy, bạn Lai của tôi
là một người nghệ sĩ rất thích môn văn chương
khi học với thầy Bửu Trí và Linh mục Pháp Choimet, ngày
xa xưa ấy anh đã để lại đôi dòng trong quyển
Lưu bút viết cho tôi mà tôi vẫn còn nhớ mãi một
đoạn ngắn như sau “et comme Chateaubriand, j’ai porté mon
coeur en écharpe”. Anh cũng từng là giáo sư Anh văn và Pháp
văn nhưng không có duyên mặn mà với quân đội
(vì có thời gian giải ngũ rồi tái ngũ theo lệnh tổng
động viên) nên chỉ leo lên đến cấp đại úy
mà thôi. Anh em chúng tôi đã tâm sự với nhau rất
lâu, kể cho nhau nghe những chuyện vui của thời học sinh và
hẹn ngày tái ngộ! Sau đó, chúng tôi loay hoay trong khu hẽm Hai
Địa kế bên hẽm Vú Sữa để mong gặp được
anh bạn Dương Hoàng Trung, người có tiếng đàn Hạ
Uy Di nổi tiếng ở cùng hẽm Võ Tánh với tôi (đã
được người hiền đệ đồng môn tài
ba của tôi là CHS/Giáo sư Nguyễn Công Danh đưa vào bàn
Nhắn Tin đã khá lâu nhưng chưa có hồi âm) để
nhớ lại những đêm trăng sáng hai đứa lang thang ra khu bungalow
bến Ninh Kiều thơm ngát mùi hoa sứ để ngồi
tâm sự và nói chuyện tương lai? Ngoài tài đàn Hạ
Uy Di anh cón rất giỏi môn violon mà anh học rất nhanh. Sau này
hai đứa ở hai phương trời cách biệt, tôi chỉ
còn nhớ mang máng trong một lần công tác ngắn ngủi
ghé lại Cần Thơ khi tôi là một anh Thiếu tá trẻ,
tôi có dịp gặp lại anh khi ấy đang là chủ nhân ông
một tiệm bán tủ lạnh ở đường Nguyễn
Trãi được nôm na gọi là đường Nhà Đén.
Tôi đã cố công đi tìm nhưng vẫn chưa có kết
quả, rất mong có đồng môn hay vị nào biết tin anh ấy
và nhắn cho anh ấy biết thì tôi xin chân thành cảm
tạ. Anh Phương cũng chở tôi đi dọc theo đường Nhà
Đèn/Nguyễn Trãi, nơi mà thời học sinh thường nhắc
đến số nhà 11 bis (mà chúng tôi thường kháu với
nhau là “ông già bích” vì ở đó có một giai
nhân mà chúng tôi gán cho mỹ danh là “cô ông già bích”
vì không dám hỏi tên cô ta, hơn nữa tôi có bao giờ
dám tiếp cận cô ấy để mong biết được
tên với tuổi? Cũng trên đường Nguyễn Trãi
ấy, lần đầu tiên tôi ở trọ trước khi
chuyển đế hẽm Võ Tánh, tôi đã làm quen với
chị Quế, một võ sinh Judo có hạng khác, và anh Thế
ở cạnh nhà sau này theo học khóa sĩ quan trừ bị tại
Thủ Đức. Tôi cũng còn nhớ con đường ấy
khi gần đến Cầu Đôi có một con trăn rất
lớn nằm trong lồng sắt mà mỗi lần đi ngang
qua tôi đều tò mò đừng nhìn nó uốn éo và
lè lái lưỡi ra nhát tôi.
Còn nhiều địa
danh để kể cho quý bạn đồng môn niên đệ
vì cùng lớp tôi bây giờ ở đây chỉ còn độc
nhất có anh Nguyễn Thới Lai ngoài anh Võ Sáng Nghiệp
(Kỹ sư Công nghệ/Ingénieur Arts & Métiers) ở Saigon và anh Huỳnh
Minh Bảo vừa tạ thế ở Saigon… như đường Háng
Xoài (đại lộ Hòa Bình), cầu Cái Khế, bệnh
viện Phan Thanh Giản, sân banh, bãi đáp trực thăng, đường
đi Đầu Sấu, nơi ở của chú ruột và các
em tôi, đường đi Cái Răng với nhiều kỷ niệm
đầu đời khó quên mà mỗi sáng cuối tuần
tôi đều dong ruổi trên chiếc xe đạp cà tàng để
ngắm cảnh hoặc mang theo giá vẽ để ra cái điều
ta đây cũng một “dessinateur malgré lui” như ai? Một trời kỷ niệm đang đầy ắp
trong tôi khi nhớ đến trường mẹ, nhớ đến
các bạn cùng lớp, nhớ đến những bạn bè và
người thân sau hơn nửa thế kỷ cách xa nên tôi xin
mượn câu thơ dưới đây của đại thi hào Pháp
Lamartine để kết thúc phần tạp ghi này: Ainsi tout change, tout passe, Ainsi sur la terre tout s’efface, Tout, excepté le souvenir.
TRẦN BÁ XỬ
Saigon, 25/3/2014
TẢN MẠN VỀ LYCÉE
PHAN THANH GIẢN, CẦN-THƠ
(Mến tặng quý đồng môn hai lớp Tân Đệ
Nhị & Tân Đệ Nhất - 1953-1955)
__________________________________________________
Trần Bá Xử Phần Mở Đầu: Quả thật thời gian đã trôi qua quá
nhanh, bánh xe thời gian vẫn lướt đi một cách vô tình, thật
vô tình. Hồi tưởng lại mới ngày nào còn bé tí
tẹo cách đây hơn nửa thế kỷ, ngày mới chập chững bước
vào ngưỡng cửa trường làng, trường tiểu học, rồi xa
quê để tiếp tục bậc trung học đệ nhất cấp, đệ nhị
cấp, học thêm vài năm rồi nhập ngũ làm bổn phận công
dân thời chinh chiến, rồi du học, rồi trở về phục vụ quân
đội, phục vụ quê hương. Nào ngờ vận nước ngã nghiêng,
quân đội hào hùng ngày nào bị bức tử để rồi
phải vào vòng lao lý và cuối cùng phải rời xa nơi chôn
nhau cắt rốn mến yêu này trải qua kiếp sống ly hương. Đến nay, mái tóc
đã bạc màu khi đang chuẩn bị bước vào ngưởng cửa
“cổ lai hi” vì bây giờ tuổi thọ trên bát tuần mới
có thể cho là quý hiếm, do vậy nếu chúng ta muốn níu kéo
thời gian lại như ngày xưa thi sĩ Pháp Alphonse de Lamartine (1792-1869) đã
thảng thốt kêu lên “Thời gian hỡi, dừng ngay cánh lại….”
trong bài thơ bất hủ Hô Xưa (Le Lac) “ “O temps, suspends ton vol ! et vous, heures propices Suspendez votre cours; Laissez-nous savourer les rapides
délices Des plus beaux de nos jours!...” thì e rằng đã quá muộn màng rồi.
Nhưng thực tế là ông tiên thời gian đã không quá vô
tình nên tôi đã có cơ may được gặp lại những
đồng môn cũ thuộc Trường Trung Học Phan Thanh Giản, Cần Thơ
sau gần 60 năm xa cách. Tôi cầm tinh chú chuột cống xù , chính xác hơn
là chuột cống nhum vì tôi được sinh ra và lớn lên
ở đồng bằng sông Cửu Long nhưng có lẽ tôi thuộc số
con vịt đẹt nên người ta thường gặp tiền hung hậu kiết,
còn tôi thì tiền hung hậu kiết…(lỵ?) hay sao mà việc gì
tôi cũng chỉ hơn chú rùa một tí ti thôi. Sau khi mãn hạn
tù qua biến cố 30/4/1975, tôi nhân được Giấy Giới Thiệu (LOI/Letter
of Introduction) của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái-Lan từ năm 1984 cho
phép gia đình tôi định cư Hoa Kỳ, nhưng tôi lay hoay thế nào
mà mãi đến năm 1994 gia đình chúng tôi mới đặt chân
đến miền đất hứa này. Đến đầu thiên niên kỷ
21, tôi thấy có vài hội đồng hương cũng như hội cựu
học sinh các trường ở miền Nam tổ chức họp mặt nhưng theo
sự hiểu biết hạn hẹp của tôi, tôi chưa nghe nói đến
một vài trường ở miền Tây như Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ
Tho hay Phan Thanh Giản Cần Thơ,v.v. Cho đến một hôm nhân dịp được mời
thuyết trình về đề tài Ý Nghĩa Lá Cờ Vàng
Ba Sọc Đỏ tại Hartford, Connecticut, tôi đã may mắn gặp anh Trần
Tấn Minh ở Boston, MA, và rất ngạc nhiên khi biết Trường Mẹ Phan
Thanh Giản/Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ của chúng tôi đã
tổ chức được đến 15 kỳ Đại hội rồi và đang
chuẩn bị tổ chức Đại Hội XVI tại Boston, Massachusetts. Cũng trong Đại
Hội XVI này, tôi đã bất ngờ gặp lại vài đồng môn
trong đó có anh Trần Khương cùng học lớp Premìère Moderne
như tôi, nhưng anh học Premìère Moderne I còn tôi học Premìère
Moderne II, đặc biệt có một bạn thân trước cùng làm việc
tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung với tôi sau chuyển về Trường
Bộ Binh, nguyên là Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức trong khi tôi
về Tổng Cục Quân Huấn Bộ Tổng Tham Mưu. Thật không bút mực
nào có thể tả nỗi sự vui mừng vô hạn của chúng tôi
vì chúng tôi đã từng phục vụ trong ngành quân huấn nhiều
năm và có cùng chung cấp bậc, ngoài ra tôi càng vui mừng hơn
khi biết anh là huynh trưởng của tôi ở Trường Phan Thanh Giản,
Cần Thơ mà trước đây tôi chưa bao giờ biết. Năm
nay anh đã 85 tuổi trong khi tôi 77 tuổi nhưng chúng tôi là bạn
rất thân vi đã có mối liên hệ chặt chẽ về huấn luyện
trong thời gian dài, hiện anh ở Atlanta, Georgia. Gặp lại anh, tôi tự nhũ
cần ghi lại nên những kỷ niệm buồn vui trong thời gian
tôi theo học Trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Danh xưng của Trường & Chương Trình Học:
Ảnh: Ban Giám Đốc & Ban Giảng
Huấn Trung Học Phan Thanh Giản 1960
Trước năm 1953, khi còn là Trường
Trung Học Đệ Nhất Cấp, Trường có danh xưng là Collège Phan
Thanh Giản de Cần Thơ, cũng còn được gọi là Collège de Cần
Thơ. Thí sinh tốt nghiệp được cấp bằng Thành Chung hay bằng
Brevet sẽ được đề cập dưới đây. Từ năm 1953 trở
đi, Trường theo chương trình giáo dục Trung Học Đệ Nhị
Cấp tạo điều kiện cho học sinh dự thi Tú Tài I tại Trường
Trung Học Chasseloup Laubat, Saigon, nên được cải danh thành Lycée
Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Sau khi có bằng Tú Tài I, thí sinh sẽ tiếp
tục học năm cuối cùng (classe terminale) tại Trường Chasseloup Laubat hoặc
Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký ở SàiGòn. Lúc bấy giờ
Trường Trung Học Phan Thanh Giản có 4 lớp: hai lớp Seconde Moderne và hai
lớp Premìère Moderne được phân biệt như sau (theo ngu ý của
tôi, kính mong các bậc trưởng thượng, quý vị giáo sư
và quý huynh trưởng và đồng môn cao minh hướng dẫn thêm
nếu có sai sót, xin cám ơn).
1. Enseignement Secondaire, Section Moderne
dành cho học sinh theo chương trình từ 1ère Année đến 4ème
Année (năm thứ nhất đến năm thứ tư, tương đương
với Đệ Thất, Lục, Ngũ, Tứ sau này), sau đó qua cuộc
thi concours, cuộc thi tuyển khó khăn tranh cao thấp dựa theo số lượng
nhà trường cho phép mà thôi, khác với kỳ thi examen cho thí
sinh đậu khi đủ điểm, không hạn chế số lượng như
thi DEPSI (Diplôme d’Études Primaires Supérieures Indochinoises, gọi nôm na là
bằng Thành Chung) hay BEPC/ Brevet d’Études du Premier Cycle hoặc bằng BE (Brevet Élémentaire)
mà theo tôi quan niệm thì hai bằng Thành Chung và Brevet
Élémentaire tương đương nhau, còn bằng BEPC thấp hơn một
tí vì trình độ Toán và Lý Hóa chỉ tương đương
lớp 3ème Année (năm thứ 3) mà thôi. 2.
Série Classique,
Section Moderne dành cho học sinh bắt đầu từ lớp 6è (sixìème)
lên 5è (cinquìème) , 4è (quatrième), đến 3è (troisième),
rồi thi concours để lên Seconde, rồi Premìère. Học sinh ở Section Classique
Moderne này thường có học và thi vấn đáp tiếng Latin (La-Tinh)
và Grec (Hy-Lạp). Riêng cá nhân tôi lúc bấy giờ học theo Enseignement Secondaire, Série
Moderne từ Seconde Moderne II đến Première Moderne II cùng với các anh Trương
Quang Minh, La Quốc Bảo, Huỳnh Minh Bảo, Hồ Công Minh, Hồ Công Tâm,
Nguyễn Thới Lai dáng dấp như thi sĩ, Lâm Văn Mẫn, Võ Sáng
Nghiệp, Hứa Xướng Văn, Mai Hữu Chấn, hai anh em ở Sađéc Nguyễn
Văn Dẫu và Nguyễn Văn Dược, Claude Phan Văn Báu, Lâm Văn Miến,
Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hạnh con thầy Nguyễn Cao Thăng dạy
Sử Địa, cùng một số bạn khác mà tôi đã
quên tên. Ảnh: Anh chị Trần Khương và
các con cháu Còn bên Série Classique Moderne tôi chỉ còn nhớ anh
Trần Khương (hiện ở Boston, MA), anh Phạm Maurice, con GS Phạm Kim Liêu
dạy Sử Địa,… Trên tôi một lớp, tôi nhớ có các anh
Henri Nguyễn Kinh (Đại tá Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Cảnh),
anh Võ văn Hai (Trung tá), anh Lê Văn Giàu, bạn cùng khóa 12 Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam với tôi từng phục vụ tại TTHL Quang Trung
với tôi, sau này là Quận trưởng quận nội thành của tỉnh
Phong Dinh. Chúng tôi
và các bạn đồng môn thuộc thành phần áp chót theo học
chương trình Pháp từ năm thứ nhứt cho đến Tú Tài I,
chương trình này được kéo dài thêm một năm nữa,
sau đó chương trình giáo dục hoàn toàn chuyển sang Việt-Văn.
Tiếp theo đó, trường đã đổi danh xưng thành Trường
Trung Học Phan Thanh Giản, Cần Thơ.
Các Sinh Hoạt Của Trường: a.
Học Hành
và Chọc Phá: Trong lớp chúng tôi có một số bạn nổi bật về một số
phương diện, nhưng học đồng đều nhất và xuất sắc
nhất phải kể đến anh trưởng lớp Trương Quang Minh (major)..
Anh là một học sinh rất dễ thương, ăn nói nhỏ nhẻ
như con gái, nước da trắng trẻo, đặc biệt hay mắc cở như
con gái, và mỗi lần như vậy là y như rằng mặt anh ửng hồng
lên trông rất dễ mến. Tính tình anh rất hòa nhã và
chưa bao giờ biết giận ai. Trong giờ Lý Hóa (Physique/Chimie), nhiều lần
thầy Nguyễn Văn Trọng thường giaocho anh Minh trọng trách giảng bài
cho các bạn trong lớp. Ảnh: GS Nguyễn Văn Trọng Lớp tôi có hai
anh tên Bảo, một anh là Petit Bảo hay “Bảo Tiểu” (La Quốc Bảo)
vì anh hơi nhỏ con so với anh Huỳnh Minh Bảo tự “Bảo Đại”
cao lớn dềnh dàng là một hảo thủ bóng chuyền của trường.
Cả hai anh đều học giỏi, anh Bảo Tiểu sau này lên Sài-Gòn
học Math Géné, sau đó được học bổng qua Canada lấy bằng
Cử Nhân Toán, riêng anh Bảo pự con sau này là Kỷ sư Nông
Lâm Mục (hay Nông Lâm Súc. Trong lớp chúng tôi còn có hai
anh em là Hồ Công Minh to kềnh càng cũng là tay đập bóng chuyền
cừ khôi của trường và Hồ Công Tâm nhỏ con hơn anh nhiều.
Nói đến anh trưởng lớp Trương Quang Minh mà không nhắc đến
anh Võ Sáng Nghiệp là một thiếu sót lớn vì bạn Nghiệp
cũng học rất giỏi gần ngang ngửa với anh Minh. Điểm đặc biệt
là anh học rất chăm chỉ, có óc tổ chức và rất mê
đọc sách nên sau một thời gian học tư tại nhà thầy Bửu
Trí, anh đã xơi tái hết các sách trong thư viện mini của
thầy (thầy cho phép học sinh được mượn sách thoải mái
với điều kiện khi trả sách phải viết một bản tóm lược
những gì đã đọc trong sách, và từ khi có sự hiện
diện của con mọt sách Võ Sáng Nghiệp, thư viện nhỏ của
thầy Bửu Trí đã phải bổ sung nhiều sách mới, dĩ nhiên
hầu hết là sách tiếng Pháp.
Không phải “mèo khen mèo dài
đuôi” nhưng hầu hết các bạn trong lớp tôi học niên
học 1953-1954 và 1954-1955 học giỏi ghê lắm quý đồng môn à.
Đó
là nhờ công lao của các Thầy Cô Hiệu Trưởng và các
Giáo Sư luôn tận tâm chỉ dạy chúng tôi về trí dục
lẫn đức dục, ngược lại chúng tôi rất biết tôn
sư trọng đạo, luôn kinh trọng thầy cô khác hẵn với tình
thầy trò hời hợt và lỏng lẻo trong xã hội ngày nay! Chúng
tôi làm sao quên được gương mặt lạnh như băng
“vắng bóng nụ cười” và mắt cứ nhìn lên trần
nhà mỗi khi giảng bài của thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Băng
Tuyết, gương mặt nghiêm nghị hay “ghét học trò cười”
của GS Nguyễn Văn Trọng “FM Đầu Bạc” khi giảng Physique, gương
mặt dễ thương của GS Bửu Trí cũng như của GS Linh Mục Père
Choimet với bộ râu xồm xoàm của người Pháp khi giảng về
Văn chương Pháp (litérature Francaise), và gương mặt rất uy nghi
của GS Nguyễn Cao Thăng dạy Sử nói tiếng Pháp như gió và
rất nghiêm khắc nhất là đối với hai cậu quý tử là
Nhã và Hạnh. Thế mà có một lần chính tôi (tác giả)
là người đã dám cả gan trêu ghẹo vị GS khả kính
này vì tính tình trẻ con chớ không có mảy may ác ý
nào cả. Khi được GS gọi lên trả bài về trận đánh
Trafalgar lẫy lừng của Nả-Phá-Luân Đệ Nhât (Napoléon 1er), tôi
đã bắt chước một cách suông sẻ y hệt cách giảng
bài của GS với vài chữ thêm thắt vào kiểu người Pháp
như “comment dirai-je?”, “n’est-ce-pas?”, “devant cet état de chose”,
“mais quoi?”. Cả lớp đều muốn bật cười nhưng không dám,
nhưng sau khi biết hậu ý dễ thương và “dễ bị đánh
đòn” của tôi, vị GS khả kính và nghiêm khắc này đã buột
miệng cười nho nhỏ thôi! Thật là hú vía, nhưng quý bạn
biết không, tôi đã phải học thật thuộc bài để có
thể gồng mình và mạnh dạn lên bảng một cách khoan thai và
từ tốn trả bài như GS đang giảng bài vậy! Ngoài ra còn
một chuyện buồn cười nữa khi vị GS dạy Việt-Văn, dường
như là GS Thiệu, bảo tôi dịch chữ “balance du pendule” của văn
sĩ Pháp Pierre Loti, và tôi đã khiến cả lớp cười ngã
nghiêng khi tôi cho đó là “cái trứng dái của đồng
hồ” thay vì là “quả lắc của đồng hồ”??? Ảnh: GS Nguyễn Băng
Tuyết Ngoài ra, tôi vẫn còn nhớ đến quý vị GS
Pháp Văn/ Hiệu Trưởng Nguyễn Mạnh, người đã cùng với
GS Hiệu Trưởng tiền nhiệm Nguyễn Băng Tuyết đã
ký vào học bạ (livret scolaire) niên học từ 1953 đến 1955 của
tôi, đến GS Lịnh dạy Toán, GS Cam và Thiệu dạy Việt-Văn,
GS Nguyễn Cướng dạy Vẽ, GS Tài, Surveillant Général (Tổng Giám
Thị), GS Nhung, Quang dạy Thể Dục Thể Thao. Nói tóm lại, phải
công bằng mà nói là các bạn tôi, dĩ nhiên cò tôi
lẹt đẹt theo sau, cũng không học tệ lắm Mà không giỏi sao
được khi bạn Trương Quang Minh sau này là Giáo Sư Hiệu Trưởng
của chính Trường Mẹ Phan Thanh Giản, Cần Thơ, còn tốt nghiệp
kỹ sư thì khá nhiều như các anh Nghiệp, Bảo, Khương, không
thấy có bác sĩ vì có lẽ sợ dao kéo và mổ xẻ.
Hai anh Phước (đốc sự hành chánh) và Nghiệp (kỹ
sư công kỹ nghệ) đều là Giám Đốc Bộ Kinh Tế, và
anh Mẫn (đốc sự hành chánh) làm Giám Đốc Nha Thương
Cảng sau này. Riêng về binh nghiệp thì như đã nói ở trên có 3 anh Henri
Nguyễn Kinh (Đại tá), Lê Văn Giàu và Võ Văn Hai (Trung tá)
học trên tôi một lớp, riêng trong lớp tôi chỉ có cu ky một
mình tôi theo binh nghiệp vào Trường Võ Bị Quốc Gia VN ĐàLạt
để rồi chỉ trèo lên đến Trung tá (1971) với hậu quả
là nằm sơ sơ hơn 8 năm trong lao tù CS ! Ảnh:
CHS PTG Lê Văn Giàu đang cư ngụ vùng Dallas-Fort Worth, Texas b. B.Thê Dục, Thể Thao & Võ Thuật; Vào thời chúng
tôi, Trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ là lò sản xuất những
anh tài xuất chúng về thể dục, thể thao và võ thuật. Đội
bóng chuyền của trường, gồm các anh Huỳnh Minh Bảo, Hồ Công
Minh, Hân, An, Thân, Nghĩa đã từng tung hoành “vô địch thủ”
trong các tỉnh miền Tây. Sau này, khi vào Quân đội, tôi
cũng bắt chước các bạn tôi và từng là thủ quân của
các đội TTHL/ Quang Trung, Tổng Cục Quân Huấn , Bộ TTM và liên
tục giữ chức vô địch trong 6 mùa liền. Cũng trong thời gian ở trường,
tôi đã cùng một số bạn tập leo dây, chạy bộ, chơi
parallèle, barre fixe, và đã tập thuần tục 7 động tác barre
fixe, và động tác petit soleil, ngoại trừ grand soleil thì chỉ có
vài anh tập được mà thôi. Sau này, khi vào Trường Võ
Bị Quốc Gia VN Đà-Lạt, tôi đã làm rạng danh cho Trường
Phan Thanh Giản Cần Thơ đi d9u71ng nhứt về môn thể dục thể thao. Về võ thuật, đặc
biệt là nhu đạo (judo), trường chúng ta có thầy Quang, anh Lưu
Trọng Kiệt (Đề-Ba), chị Quế, chị Huệ là những môn sinh ruột
của sư phụ Đại Tá Cao là Tỉnh Trưởng lúc bấy giờ,
đặc biệt nổi bật nhất là anh Kiệt rất xuất sắc làm
trưởng tràng, sau này anh là Trung tá ưu tú của binh chủng
Biệt Động Quân QLVNCH (đã tử trận tại chiến trường miền
Tây). Phần Kết: Trường Phan Thanh Giản
và Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ đã đào tạo rất
nhiều anh tài cho đất nước Việt Nam chúng ta qua nhiều lĩnh vực
khác nhau, hy vọng sẽ được đề cập chi tiết hơn ở những
lần sau. Rất đáng tiếc và đáng buồn thay là ngày nay,
danh xưng Trường Trung Học Phan Thanh Giản không còn nữa!Tôi bị
đưa vào vòng xoáy về tản mạn những kỷ niệm thuở học
trò năm nào như vào mê hồn trận, khó khăn lắm tôi
mới có thể đánh dấu chấm hết ở đây với bao nỗi
bồi hồi xúc cảm khi hồi tưởng lại một thời đã qua,
nhớ lại ai còn, ai mất với niềm xót xa khôn nguôi, nhưng có
một điều chắc chắn là những kỷ niệm về sự thành công
của ngôi trường Mẹ vẫn sống mãi trong tôi, bất diệt với
thời gian..
Springfield, MA Hoa Kỳ, mùa hạ 2013
CHS Trần Bá Xử
Tuổi
Ô Mai (Kính dâng lên hương hồn Thầy
Giáo Sư Phạm Văn Thàn với lòng kính mến vô biên)
Vào một đêm
Thứ Sáu cuối tháng 7, 2013, khi nhận được cú điện thoại
của bà GS Phạm Thị Kim Chi, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Đoàn
Thị Điểm Cần Thơ từ thành phố Houston, TX gọi tới, tôi
thật sự ngỡ ngàng vì đã khá lâu tôi chưa được
tin tức của Chị. Khi tôi gởi lời chào bà Hiệu Trưởng thì
Chị bật cười thật dài, thật vui và thật thoải mái; cũng
tương tự như lúc tôi gọi vị GS Hiệu Trưởng Trường
Phan Thanh Giản Cần Thơ Nguyễn Trung Quân bằng Thầy thì ông ta buột
miệng nói “ông là bạn học với Thầy Hiệu Trưởng Trương
Quang Minh mà gọi tôi bằng thầy cái nổi gì”? Thật ra tình
sư đồ với nhau rất cao quý, nhưng tình đồng môn cũng
không kém phần quan trọng và thắm thiết. Hồi tưởng lại
đêm hội ngộ vào giữa tháng 10 năm 2012 của Đại Hội
Thế giới XVI 2012 tại Boston, MA, khi tôi thấy một bà dáng
vẻ là bà Hiệu Trưởng do cách trang phục đến hỏi tôi,
tôi thực sự bất ngờ nhưng khi Chị cho biết là cựu học sinh
Collège de Vĩnh Long thì tôi suy đoán có lẽ là Chị Phạm
Thị Kim Chi. Chị Chi trước đây tên là Henriette, là con gái cưng của
thầy ruột tôi mà chúng tôi thường gọi trống không một
cách thân thương là Thầy Thàn. Mà thật đúng như vậy,
cả một bầu trời đầy kỷ niệm của tuổi thiếu niên, cái
tuổi “ô-mai” đối với các nữ sinh nhí nha nhí nhảnh
nhưng không kém phần duyên dáng và tinh nghịch đã sống
lại trong tôi.
Ảnh dưới: Gặp lại sau hơn 60 năm tại ĐH XVI PTGĐTĐ, Boston Oct
2012 Chị Kim Chi và tôi có vài điểm rất giống nhau. Năm 1949, Chị
là một nữ học sinh trẻ tuổi nhất lớp Premìère Année
của “con gái” mà cũng là nữ học sinh học giỏi nhất
lớp nữa, còn tôi là học sinh từ tỉnh lỵ Sađéc bé
tí tẹo xuống Vĩnh Long học, cũng trẻ tuổi nhất và cũng may
mắn là học rất giỏi trong lớp Première Année “con trai”. Thuở
ấy, vì lớp “con gái” của chị Kim Chi còn thiếu học sinh
trong khi lớp “con trai” còn dư dả học sinh nên nhà trường,
lúc bấy giờ chỉ có hai lớp, do đó Ban Giám Học quyết
định chuyển ba học sinh nam trẻ tuổi nhất qua lớp “con gái”
và ô kìa, sao tôi lại được nhà trường “để
mắt xanh” đến như vậy kìa! Cho nên tôi phải chuẩn bị
“đáo nhậm đơn vị mới”, ủa quên, phải chuyển qua
lớp “con gái”! Khi nghe đọc quyết định kinh khủng trên, tôi
tá hỏa tam tinh bèn khóc bù lu bù loa và chạy đến xin cầu
cứu Thầy Thàn là thân phụ của chị Kim Chi. Lại Thầy Thàn
nữa vì tôi biết thầy rất cưng tôi, có vẻ tự tin quá,
để xin Thầy ra đặc ân chỉ định bạn học khác thay thế
tôi vì bấy giờ tôi rất nhát gái! Kết quả là tôi
đã được may mắn ở lại lớp “con trai” phá như quỷ
của chúng tôi. Không biết sự lựa chọn này của tôi có
đúng không, nhưng suy đi tính lại, tôi nghĩ nếu tôi chuyển
qua lớp “nữ sinh” của chị Kim Chi thì biết đâu tôi sẽ
cố gắng học giỏi hơn vì sợ thua sút học sinh con gái? Tính
ra thì đằng nào tôi cũng thấy không ổn vì nếu học
chung với chị Kim Chi thì tôi sẽ thua chị là cái chắc rồi Còn
ở bên lớp “đực rựa” chúng tôi, vài ba tháng đầu,
tôi đã may mắn được đứng hạng cao nhất, nhưng sau này
không biết sao tôi lại bị hai anh chàng khổng lồ Nguyễn Văn Vẹn
(đã có vợ rồi) và anh Lương Ngọc Ẩn đè đầu
đè cổ làm tôi ít còn cơ hội ngoi lên cầm cờ “chỉ
huy” chớ không phải “cờ đỏ”? Ở cái ngày xa xưa
huy hoàng ấy, mỗi khi vị Giáo sư Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Kính,
thường được gọi là ông “Đìa” (Directeur) vào
kiểm tra mỗi đầu tháng đồng thời yêu cầu thí sinh lên
đứng xếp hàng theo thứ hạng cao thấp thì một vài anh trong đó
có tôi, thường được kêu lên đầu tiên và được
ông khen ngợi làm tôi nở lỗ mũi to lắm trong khi một số bạn
khác khi đứng xếp hàng phải lập lại lời thầy nhận xét
“Tôi hạng thứ….Tôi đã đứng hạng thứ…”.Vậy
tôi lên được mấy hạng….hoặc sụt xuống mấy hạng;
nếu lên hạng cao thì “c’est excellent”, nếu xuống hạng nhiều
thì “c’est énorme”, hoặc nếu tôi cầm đèn đỏ
thì ôi thôi “donc, je tiens la lanterne rouge” và phải cố gắng để
lần sau học khá hơn, do vậy để khuyến khích học sinh cố
gắng học giỏi hơn nữa nên nhà trướng còn phát thêm
một bảng danh dự về những cố gắng liên tục (tableau d’honneur
pour ses efforts constants pendanh le mois de….”.
Ngoài việc học hành, bây giờ khi hồi
tưởng lại “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”, đôi
lúc tôi cảm thấy mắc cở vô cùng, nguyên nhân là thuở
ấy tôi cũng thích thơ thẩn lắm, nghĩa là thích làm thơ
đó mà khi đã bắt đầu học các loại thơ luc bát,
thơ ngũ ngôn, song thất lục bát, kể cả thơ yết hậu, thơ
đường luật nữa, nhưng bây giờ nhớ lại tôi thấy có
lẽ tôi làm thơ “con cóc” là hay nhất? Người ta học
về thơ để tập làm thơ cho đúng mỗi khi thầy cô kiểm
tra bài, hoặc làm thơ để nghêu ngao cho vui, còn riêng tôi lại
chơi ngông là viết thư cho bạn bè toàn bằng thơ mới là
kinh hoàng chớ? Thuở ấy tôi có anh bạn thân trước trọ chung
nhà với tôi ở khu đất thánh Tây tại nhà bà Nguyễn
Thị Nam, giáo viên Trướng École Francaise de Vĩnh Long, sau về sống
chung với anh chị tại Long Xuyên. Chúng tôi chơi rất thân với
nhau và thường liên lạc qua thư từ viết toàn bằng thơ, thông
thường là thơ lục bát, lâu lâu tập viết một bài thơ
đường luật nhưng rất khó khi phải đối câu, đối chữ,
đối vần, v..v.., bây giờ tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng
mấy câu phải học thuộc lòng như “nhất, tam, ngũ bất luận,
nhì tứ lục phân minh, hay câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối
với câu 6, hoặc học thuộc lòng cách gieo vần như “bằng
bằng trắc trắc bằng bằng; bằng bằng trắc trắc bằng bằng
trắc bằng” chẳng hạn??? Cuộc thư từ qua lại được kéo
dài khoảng gần nửa năm thì bỗng một hôm tôi nhận được
bức thư của ông anh ruột của bạn tôi với lời khen ngợi mà
tôi không biết đúng hay không đúng “em Xử làm thơ
gởi cho em Tín rất hay, cứ tiếp tục đi nghe em?” Tôi hoang mang không
biết anh của bạn tôi là ai, mãi đến thời gian một tháng
sau tôi mới biết ông anh của bạn tôi là một nhà thơ có
hạng của miền Nam lúc bấy giờ làm tôi ê càng nên không
dám làm thơ nữa!!! Cũng ở cái tuổi “ô mai” của quý cô nương nhí
nhảnh ấy mà thuở ấy tôi thường so sánh với mấy ông
ma mảnh đực rựa nhà tôi là tuổi “ô môi” (từ
này do tôi phịa ra đó, nếu các bạn trai của tui không bằng
lòng thì cứ tự nhiên “xù” luôn, chớ có hại thằng
Tây nào đâu mà lo với sợ? Hỗng biết tôi nghĩ có đúng
không nhưng ở vào cái tuổi í (ấy) trong bọn tôi cũng có
vài anh thích thơ thẩn lắm. Vì tôi không phải là thi sĩ
(chớ không phải “vì tôi là linh mục)? nên khi được
biết có một số rất hiếm thi sĩ Pháp, vì tôi học chương
trình Pháp nên hay để ý đến mấy vị này, chỉ có
vài bài thơ, thậm chí chỉ có duy nhất một bài, mà đã
nổi danh thiên hạ, thí dụ như Paul Verlaine hay Félix Arvers. Lúc bấy
giờ, tôi xem mê mệt bài thơ được gọi là Tình Tuyệt
Vọng (Le Désespoir) nhưng thực ra Félix Arvers chỉ có bài “Sonnet
d’Arvers” đã được nhà văn nổi tiếng trong Tự Lực
Văn Đoàn là Khái Hưng dịch ra với tựa đề được
cải biến thành “Tình Tuyệt Vọng” được xem là hay
nhất so với vài bài dịch khác như của Lãng Nhân Phùng
Tất Đắt chẳng hạn. Thuở ấy, không biết các nữ sinh từ
Troisième Année đến Quatrième Année (Đệ Ngũ, Đệ Tứ)
ra sao, nhưng với kinh nghiệm bản thân, tôi thường cảm thấy có
những mối tình vu vơ, rất nhẹ nhàng, rất thoáng, chợt đến
rồi chợt đi, kiểu như “mối tình học trò” của tôi,
nên rất thích xem những bài thơ ca tụng tình yêu thường
là cao thượng để rồi tiếc tiếc, thương thưong, và rồi
lại thôi. Vì vậy, khi xem tập thơ Mes Heures Perdues xuất bản năm 1833,
thời điểm mà tên tuổi các nhà thơ thuộc trường phái
lãng mạn Pháp đã rực sáng, từ Lamartine với Méditations Poétiques
(1820), Victor Hugo với Les Odes (1822), Les Orientales (1829), Les Feuilles d’Automne (1831), Alfred de Vigny
với Poèmes Antiques et Modernes (1835), cho đến Alfred de Musset với Premières Poésies
(1835), rồi khi xem đến Sonnet d’Arvers của Félix Arvers (1806-1850) thì tôi
bỗng nhiên thấy tuy các bài thơ Le Lac hoặc L’Isolement hay ngay cả
Le Désespoir của Lamartine đã để lại trong tôi nhiều nỗi bâng
khuâng nhè nhẹ nhưng khi chỉ đọc mỗi một bài Sonnet của
Félix Arvers thì tôi cứ ray rứt mãi không nguôi và cứ thắc
mắc không biết người đẹp mà Félix Arvers si tình là ai;
mà thắc mắc làm chi cho mệt cái thân…trẻ? Có lẽ tôi
đã quá lo bao đồng nhưng khi xem những lời thơ lãng mạn như
bốn câu đầu: “Mon âme a son secret, ma vie a son mystère Un amour éternel en un moment cọncu Le mal est sans
espoir, aussi j’ai du le taire, Et celle qui l’a fait en a jamais rien su…. “ và Khái Hưng đã
dịch như sau: “Lòng ta chôn một khối tình Tình trong
giây phút mà thành thiên thâu Tình tuyệt vọng,
nỗi thảm sầu Mà người gieo thảm như hầu không
hay….” Và…cũng đến tận bây giờ, tôi vẫn còn nhớ
mang máng vài đoạn thơ kế tiếp mà tôi ưng ý nhất
hai câu “Elle ira son chemin, distraite
et sans entendre Ce murmure d’amour
élevé sur ses pas” “Đường đời lặng lẽ bước tiên Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình” Rồi đến 2 câu
thơ cuối cùng: “Elle dira, lisant ces vers tout remplis d’elle “Quelle est donc cette femme”? et ne comprends pas”
‘Lạnh lùng lòng
sẽ hỏi lòng Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây? “ ….
thì bỗng
nhiên tôi vẫn thấy thích làm thơ ghê lắm, nhưng như đã
nói ở trên, tôi chỉ có biệt tài làm thơ con cóc
mà thôi, hơn nữa khi chuyển qua Trường Trung Học Phan Thanh Giản
Cần Thơ, tôi phải bận bịu đủ thứ, kể cả việc săn
lùng một “Mối Tình Học Trò” (BBT: Đã đăng trên
Trang Nhà, Mục VHNT - Văn Trần bá Xử)cũng lãng mạn không
kém “Le Lac” của Lamartine hay “Tình Tuyệt Vọng” của Félix
Arvers nên tôi xin mạn phép được tạm đánh dấu chấm
hết nơi đây.
CHS/PTG
Trần Bá Xử Springfield, MA sắp sang Thu 2013 __________________________________________________________
Kính dâng hương hồn cha mẹ tôi với một hoài niệm khó phai….. Trần
Bá Xử
Tôi được sinh ra vào giữa thập niên
30 trong vùng đồng bằng phì nhiêu sông Cửu Long, chính xác
hơn là vùng Sa-Giang với dòng thủy triều muôn thuở, với hai con nước lớn và ròng, và với đám lục bình lững
lờ trôi lên xuống dọc theo dòng sông Sa hiền hòa.. Đây
là quê ngoại tôi với địa danh mộc mạc là Ngã Cạy
của tỉnh Sa-Đéc , nơi có dòng sông êm đềm uốn lượn
qua một nhánh sông đối diện được gọi là Ngã Bát.
Nơi đây, tôi đã sống những ngày thơ ấu
vô tư cùng với đám bạn trẻ trong xóm. Ngày
qua ngày, ngoài thời gian đi học tư với một ông giáo dễ
thương, mỗi khi rổi rảnh, đám bạn hay phá phách của tôi
và tôi (đứng hàng thứ ba sau quỹ và ma) thường hay thi nhau lội
qua con sông khá rộng hay ném đất qua bên kia sông để xem ai giỏi
hơn. Tơi thường chiếm chức quán quân về bơi lội giúp
tôi sau này có dịp tập bơi đường dài dọc theo sông
Vĩnh Long ra phía cồn xa tít mù, lý do đơn giản là để
ngắm nhìn cô bạn bạn gái tôi thương cùng lớp Đệ
Tứ (quatrìème année) đang ngồi học bài trên nhà sàn
gần bờ sông với mối tình học trò một chiều không kết
quả. Việc tập luyện từ thuở ấu thơ này cũng đã giúp
tôi trở thành một tay ném lựu đạn có hạng và là
niềm hãnh diện khi tôi có dịp biểu diễn môn ném lựu đạn
tay trong nhiệm vụ huấn luyện viên môn lựu đạn tại Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung sau này cho đến lúc gặp một tân binh quân
dịch cao quá khổ tên Dần người gốc Nha Trang. Trong một
lần thực tập ném lựu đạn huấn luyện MK2, anh ta đã ném
quả lựu đạn màu xanh này bay xa tít thò lò không biết
đến bến bờ nào nên kể từ đó tôi không thèm
biểu diễn nữa vì bị ê càng và quê ơi là quê ! Sau
này, anh ta là một cầu thủ có hạng của đội tuyển bóng
chuyền quốc gia Việt-Nam. Ngoài việc ném đất và
bơi lội, tôi còn được vinh dự làm thủ lĩnh trong toán
bắn chim trong làng. Trước đó, tôi chỉ lẽo đẽo
theo sau nhóm bạn và chỉ được bắn ná (nạng giàn thun)
khi anh trưởng toán cho phép cho đến một hôm tôi lập được
thành tích xuất sắc nhờ may mắn khi hạ được hai bạn chim
sâu cùng một lúc khi cả hai cô cậu mải mê chụm đầu
vào mổ một trái mận trong vườn nhà tôi. Cái
vinh dự này rồi cũng chấm dứt cho đến một hôm tôi liên
tục bắn trượt hai con chim cu đang gáy cúc cu trên cành cây xoài
cao vút. Ngoài các thú vui trên, tôi còn say mê đào
các hang trong ruộng nhà tôi để bắt mấy anh dế sừng sỏ
nhất để tranh tài với các trự dế nổi tiếng khác trong
xóm. Có một lần tôi chộp được một anh dế
đầu bự với cái hàm rất rộng mà mỗi khi anh ta hả miệng
ra là các đối thủ đều xếp giáp quy hàng chạy có
cờ. Tuổi ấu thơ rồi cũng qua đi khi gia đình chúng
tôi phải chạy tản cư bằng ghe về miệt vườn thật sâu
cách xa thành phố có đến chín, mười cây số để
tránh máy bay Nhật oanh tạc. Khi tôi trở về thành phố
thi may mắn thay cũng vừa lúc chuẩn bị thi Sơ Học Yếu Lược.
Tôi luôn nghĩ “cái tôi là đáng ghét” nhưng
một lần nữa tôi xin phép được ba hoa chích chòe là thần
may mắn đã gỏ cửa nên tôi đã đậu nhất tỉnh với
phần thưởng danh dự cao hơn người tôi do ông Tỉnh trưởng
người Pháp trao tặng, và do ba tôi phụ giúp mang về. Thần
may mắn vẫn lẽo đẽo theo tôi cho đến năm học cuối cùng
(classe terminale) khi tôi nhận mãnh bằng Tú Tài 2 mà năm nào tôi
cũng lãnh một trong ba phần thưởng đầu của lớp. Vào khoảng năm 1954, chiến tranh quốc cộng
bùng nổ khá dữ dội, các bạn cùng lớp tôi, người
sang Pháp hay Phi Châu học các khóa Không Quân tại Rochefort, Auxerre,
Marrakech hoặc được gọi theo học Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức,
còn một số đông khác tình nguyện vào Trường Võ
Bị Liên Quân Đà-Lạt để thi hành nghĩa vụ quân sự.
Riêng tôi, tôi nộp đơn xin vào Trường Đại
học Sư Phạm, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Trường Võ
Bị Liên Quân Đà-Lạt. Bản thân tôi rất ghét chiến
tranh, một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nhưng rốt
cuộc tôi đã gửi đơn tình nguyện vào Trường Võ
Bị Liên Quân Đà-Lạt vì lúc ấy tôi được biết
khóa học này sẽ kéo dài khoảng hai năm và sẽ học thêm
một năm nữa tại một quân trường ở Hoa Kỳ để bổ
túc quân sự và chuyên môn. Lúc bấy giờ, tin tức
báo chí cho biết một số bạn tôi tham dự các khóa học
ở Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức và Trường Võ Bị
Liên Quân Đà-Lạt đã tử trận khi vừa mới rời khỏi
nhà trường được vài tháng do cuộc chiến càng ngày
càng khốc liệt nên theo ý nghĩ nông cạn của tôi lúc bấy
giờ, thời gian gần ba năm ở quân trường có lẽ là giải
pháp khả thi nhất. Do vậy, khi nhận được giấy gọi
cùng một lúc của Trường Đại học Sư Phạm và Trường
Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt, tôi đã không ngần ngại
chọn giải pháp thứ hai, điều này đã khiến cha tôi không
vừa lòng vì lúc nào ba tôi cũng mong muốn tôi trở thành
nhà giáo hay bác sĩ. Sau
khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt, sau cải
danh thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam, cả khóa chúng tôi
được gửi đi Trường Bô Binh Fort Benning để tham dự khóa
Đại Đội Trưởng Bộ Binh và khóa Sĩ quan Truyền tin Binh đoàn
hoặc khóa Quân xa tại thành phố Columbus, Georgia, Hoa Kỳ. Khi trở về nước, một số bạn chúng
tôi được về một số binh chủng binh sở như Truyền
Tin, Pháo Binh, Công Binh, Quân Cụ, riêng 66 tân Thiếu Úy còn lại,
trong đó có tôi, được thuyên chuyển về Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung vì nhu cầu huấn luyện tân binh quân dịch theo phương
pháp huấn luyện mới được tiếp thu tại Hoa Kỳ. Sau
hơn tám năm liên tục làm huấn luyện viên rồi Trưởng
Ban 3 Huấn Luyện, tôi được chuyển về Tổng Cục Quân Huấn
Bộ Tổng Tham Mưu để đảm trách công tác tham mưu huấn
luyện trong ròng rã chin năm qua các chức vụ Trưởng Ban, Chủ
Sự Phòng và Phụ Tá Chánh Sự Vụ Sở. Binh nghiệp
của tôi chấm dứt một cách đột ngột như cuộc bức tử
tức tưởi của Saigon yêu thương của mọi người Việt-Nam
quốc gia chúng tôi. Hơn tám
năm trong lao tù Cộng Sản đã biến cá nhân tôi và những
chàng trai đầy nhiệt huyết năm nào khi bước chân vào ngưởng
cửa Trường Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam thành những kẻ trắng
tay, mất tất cả hy vọng của cuộc sống. Trong những ngày
lao động khổ sai trong ngục tù, điều đau đớn nhất đối
với tôi là tin song thân tôi lần lượt qua đời mà mãi
bốn, năm năm sau tôi mới được tin vì vợ con tôi không
muốn hay không dám đem đến cho tôi niềm thất vọng lớn lao
trong đời. Trên chuyến tàu
hỏa Thống Nhất chở những người bạn tù chúng tôi và
tôi xuôi về miền Nam yêu dấu (tất cả chúng tôi đều
bị còng một tay chung với nhau), tôi bất chợt bang hoàng khi con tàu
ngưng tại Ga Diên Trường, thường được người địa
phương gọi nôm na là “Ga Gà” Quảng Ngãi có
lẽ vì nơi đây bán nhiều gà. Cả một trời
kỷ niệm ập đến khiến tôi chợt nhớ ra rằng đây là
quê hương thứ hai của tôi ngoài tỉnh lỵ Sa-Đéc với
con sông Sa hiền hòa tươi mát đã mang đến cho tôi không
biết bao nhiêu kỷ niệm thật êm đềm của thuở ấu thơ.
Đây là quê hương thứ hai của tôi đây mà vì
ba tôi được sinh ra và lớn lên tại làng Diên Trường,
huyện Đúc Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở bé, tôi
có dịp được về thăm quê nội khi vừa lên bốn.
Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn hình dung được căn nhà
bề thế (theo suy nghĩ ngây thơ của tôi khi còn bé) của ông
nội tôi. Căn nhà được xây bằng gạch thẻ
với bậc thềm “cao ơi là cao” , có lẽ đây là nhận
xét của tôi lúc bấy giờ vì khoảng mười năm sau đó,
khi có dịp trở về thăm quê nội, tôi cũng vẫn thấy tuy thềm
nhà có cao nhưng ở chừng mực nào đó, có lẽ vào
khoảng bốn gang tay. Điều đập vào mắt tôi trước
tiên là ngang hông phải của căn nhà có hai cổ quan tài màu
gỗ gụ, dĩ nhiên trống rỗng, nằm chình ình ở
đó khiến tôi giật mình sợ hãi không dám bén mảng
đến gần vì bản tính nhút nhát sợ ma của tôi.
Bản tính này vẫn còn đeo đuổi tôi mãi ngay cả khi
tôi đã trở thành sinh viên sĩ quan của Trường Võ Bị
Liên Quân Đà-Lạt. Có một lần khi tôi đang trực
gác đêm cạnh nhà kho vắng vẻ âm u có khu rừng thông nằm
ngay phía dưới thung lũng quạnh hiu thì bổng khi khổng khi không từ
trên trời rớt xuống một hòn đá rõ to lăn lông lốc
trên mái tôn nhà kho quỹ quái và rớt xuống ngay cạnh chân
tôi làm tôi hồn vía bay lên trời nên tôi hốt hoảng vội
kéo cò lên đạn một cái rột, rất may là không có
đạn, để lên tinh thần nhưng vẫn hồi hộp và mong sao cho sớm
xong phiên gác hầu khỏi phải nơm nớp lo sợ…ma. Tôi vẫn còn nhớ mãi hai cổ áo
quan trống rổng mà nội tôi đã chuẩn bị sẵn cho ông bà
trong tương lai. Ngoài ra, cách nhà nội tôi không xa còn
có một cây đa to lớn với cành lá xum xuê mà khi chiều
đến tôi có cảm giác như nổi da gà khi bắt buộc phải
đi ngang qua mỗi lần nội sai tôi đem quà qua nhà bà nội tôi
ở cách xa khoảng hơn một trăm thước. Trên đường về,
khi vừa ra khỏi nhà bà nội là tôi ba chân bốn cẳng chạy
u về nhà ông nội tôi nhưng vẫn không quên dòm chừng cây
đa vì sợ con ma có thể bất thần nhảy ra le lưỡi dài ngoằng
ra nhát tôi chăng. Còn một
kỷ niệm khó quên nữa khi một hôm tôi thấy đoàn tàu
hỏa sắp vừa ngừng tại ga Diên Trường thì bất chợt tôi
thấy có một gói quà rớt ra từ xe lửa lăn lông lốc xuống
con đường nhỏ cách tôi vài thước khiến tôi mừng rở
hy vọng. Nhìn quanh khi không thấy ai, tôi rón rén đến
gần và hồi hộp khẻ bóc gói quà ra nhưng tôi hoàn toàn
thất vọng vì đây chỉ là gói đựng rác và các
đồ dơ bẩn khác. Một lần khác, khi tôi bén
mảng đến gần đoàn tàu vừa ngừng lại thì bất ngờ
có một người đàn ông nhảy xuống dường như muốn
túm lấy tôi làm tôi hồn phi phách tán chạy thục mạng
về nhà nội tôi, vừa run cầm cập vừa lồm cồm bò lên
bậc thềm nhà mà tôi cảm thấy thật quá cao. Lúc
bấy giờ tôi loáng thoáng nghe tin đồn có phong trào bắt cóc
các em bé đem vào miền Nam nhưng không biết thực hư ra sao? Sau hơn tám năm trong lao tù Cộng Sản,
cộng thêm gần chín năm lao động cật lực sau đó với
vài ngành nghề khác nhau như vẽ pa-nô quảng cáo, phiên dịch
các tài liệu Anh ngữ trong quyển tự điển Oxford sang Việt ngữ,
hoặc dạy Anh văn căn bản cho những người chuẩn bị di dân sang
Mỹ, Úc, Canada, cuối cùng, gia đình tôi cũng được
phép định cư tại thành phố Springfield, Massachusetts, Hoa Kỳ vào cuối
năm 1993 để lại sau lưng ba cháu gái vì chúng đã lập
gia đình, một điều thật đắng cay khi nghĩ đến cụm từ
“đoàn tụ gia đình” thật vô nghĩa!
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nhớ ơn đất nước Mỹ đã
cưu mang chúng tôi và cho chúng tôi thấy rõ ý nghĩa thật
sự của hai tiếng Tự Do. Quả nhiên, miền đất hứa
Hoa Kỳ này là mãnh đất của cơ hội (land of opportunity), nơi đã
giúp không biết bao nhiêu gia đình người Việt thành công
nếu có ý chí vươn lên, đặc biệt nhất với hệ
thống giáo dục thực dụng tuyệt vời không phân biệt tuổi
tác. Do vậy, nhiều vị cao niên vẫn còn có cơ hội cắp sách
đến trường để trau dồi thêm kiến thức kỹ thuật và
chuyên môn mà mình mong muốn. Và đây là quê
hương thứ ba của tôi, một nơi tạm dung mới mẻ đã đào
tạo không biết bao nhiêu tài năng trẻ Việt-Nam giỏi giang không
thua kém ai so với các nước khác trên thế giới. Giờ đây, tôi có đến ba quê
hương, hai quê hương ở Việt-Nam, một ở tỉnh Quảng Ngãi
thuộc trung phần Việt-Nam, một ở tỉnh Sa-Đéc thuộc miền nam Việt-Nam
và một ở tiểu bang Massachusetts, Hoa kỳ cách xa Thái Bình Dương
vài ngàn dặm, nhưng trong tận đáy lòng, tôi vẫn luôn hướng
về quê hương ruột thịt của tôi trong niềm hy vọng thiết tha
được thấy một nước Việt-Nam thanh bình, thật sự được
độc lập, tự do và dân chủ trong một tương lai gần đây.
Trần Bá Xử Cựu học
sinh PTG Cần-Thơ
Mười bảy mùa thu xa quê hương…11/2010
TÁM NĂM ĐẠI HỌC CẢI TẠO Trần Bá Xử_______________________
Các bạn thân mến, Thông thường thì
bằng cấp cao nhất của bậc Đại học có thể là bằng
Tiến sĩ như Ph.D. (Doctor of Philosophy), M.D. (Doctor of Medicine), Pharm.D. (Doctor of Pharmacy), D.D.S.
(Doctor of Dental Surgery), Ed.D. (Doctor of Education), J.D. (Doctor of Jurisprudence), v..v.. và với thời
gian từ 8 đến hơn 10 năm nhưng các bạn tôi và cá nhân
tôi lại nhận được học vị cao nhất và ngon lành nhất
là Tiến sĩ Cải-Tạo! Thời gian trên tuy quá ngắn đối với
một đời người nhưng lại quá dài đối với kẻ chiến
bại như chúng tôi, những người đã phải gánh chịu muôn
vàn khổ nhục trong lao tù Cộng Sản. Dưới đây
là hành trình của cá nhân tôi "tuy cái tôi là đáng
ghét" với những thăng trầm, vui có, buồn có, dĩ nhiên buồn
nhiều hơn vui, trong những chuỗi ngày bị tù đày, mà tôi
xin phép được sơ lược những mốc thời gian đáng ghi nhớ
dưới đây: Khi lịch sử lật sang trang mới, qua giờ
thứ 25 sau khi Sài-Gòn thay đổi chủ, tôi cảm thấy như bị
hụt hẫng không biết mình là ai, đang ở đâu, và làm
những gì. Buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi cứ tưởng mình đang
mơ vì thực tế quá phũ phàng với bao nghi vấn trong đầu:
mình có phải là Trung tá vẫn còn làm việc tại Tổng
Cục Quân Huấn Bộ Tổng Tham Mưu hay là ai mà bây giờ lại
rổi rảnh như một kẻ thất nghiệp vậy? Tôi và các bạn
đồng cảnh ngộ đi bộ lang thang khắp Sài-Gòn, chia xẻ với
nhau những ly rượu bất kể là Johnny Walker hay Ông Già Chống Gậy
hoặc rượu thuốc mà trước đây tôi chưa bao giờ ghé
môi tới, để tạo cái ảo giác là mình đang ở một
thế giới nào khác và giúp cho đỡ buồn. Nhưng “sầu
lại thêm sầu”. Bổng sau đó vài ngày, báo chí cho biết
nhà nước yêu cầu các sĩ quan từ cấp Trung tá trở lên
phải đến doanh trại đường Trần Hoàng Quân, Chợ-Lớn để
ghi danh học tập trong một tháng với cước chú là phải mang theo
tiền ăn đầy đủ. Lòng tuy hoang mang nhưng tôi vẫn thi hành
như cái máy với hy vọng đoàn tụ với gia đình sau một
tháng “học tập cải tạo” (thật là ngây thơ khi dùng
cụm từ này vì trên thực tế là đi ở tù, ở tù
mà phải đóng tiền cơm thì thật là đáng buồn cười
biết bao!) Gặp các bạn tại trại Trần Hoàng Quân, chúng tôi
chỉ trao đổi với nhau vài câu ngắn gọn và ai nấy lo thủ
tục nhập học ngay. Đêm 15 tháng 5 năm 1975, chúng tôi
được xe Molotova kín bít bùng đưa đến một địa điểm
mà sáng hôm sau chúng tôi mới biết là trường Don Bosco, một
ngôi trường ở quận Gò-Vấp rất gần nhà tôi ở khu cư-xá
Lê-Văn-Duyệt, Gia-Định. Đến chiều, chúng tôi được
ăn cơm do nhà hàng Đồng Khánh cung cấp, điều này đã
đánh tan phần nào mối hoài nghi của tôi về thực tế của
cuộc đi học tập này.
Trại Long-Giao: Đêm hôm đó (thông thường
những lần di chuyển trại đều được thực hiện vào ban
đêm để tránh sự dòm ngó của dân chúng), chúng tôi
lại được chở bằng xe Molotova cũ kỹ đến một địa điểm
khác. Ngồi trong chiếc xe bít bùng gần ngộp thở, tôi không
biết họ chở chúng tôi đến đâu. Vì xe chạy chậm, tôi
đoán họ đang cho xe chạy lòng vòng để đánh lạc hướng.
Gần lúc muốn ngộp thở, tôi chợt nhớ ra là có mang một
con dao rất nhỏ trong túi quần nên tôi đã rọc một đường
dài khoảng nửa gang tay bên hông tấm vải bạt xe trước chỗ
tôi đứng để tìm không khí đồng thời may
ra có thể biết mình đã đến đâu. Tôi rất đỗi
ngạc nhiên vì đã khá lâu mà chiếc xe chỉ chạy một
đoạn rất ngắn. Xe chỉ mới đến khu bưu điện và cư
xá Lê-văn-Duyệt là nơi tôi đang trú ngụ. Tôi cố tìm
một người thân quen để liên lạc nhưng tôi đã thất
vọng, chiếc xe đã vô tình lăn đều bánh đến một
nơi vô định. Với tốc độ chậm như vậy
nên mãi đến sáng hôm sau xe mới đến doanh trại mà các
bạn rành khu vực này cho biết là Long Giao, Long Khánh. Kể
từ hôm nay, chúng tôi bắt đầu đi lao động nhưng rất nhẹ
nhàng vì phần lớn thời gian ở đây tập trung vào việc học
tập 10 bài căn bản của Cộng Sản. Tôi chúa ghét ‘chính
chị chính em” nên rất lơ là trong việc học tập nhưng bất
hạnh thay “ghét của nào trời trao của ấy” vì tôi được
chỉ định làm “B Trưởng” học tập (trung đội trưởng),
và tôi phải thường xuyên đi họp để “bồi dưỡng”
kiến thức tổng quát để còn biết đường hướng dẫn
buổi học tập. Một hôm, đang thảo luận về lý
lịch trích dọc trích ngang gì đó, anh cán bộ giảng huấn
đang lim dim gật gà gật gù bất chợt ngồi nhỏm dậy như bị
điện giật và yêu cầu học viên trình bày lại đọan
vừa qua. Anh cán bộ tỉnh giấc mộng vàng khi nghe anh Hoàng Mão,
nguyên Trung tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Sư Đoàn 1
Bộ Binh diễn lại màn anh ta tiêu diệt gọn một lực lượng
địch khi anh còn là Đại đội trưởng! Cũng trong
suốt thời gian học tập này, tôi cứ nghe các cán ngố ra rả
suốt ngày về danh từ “ngụy quân ngụy quyền” gán cho chúng
tôi. Tôi nghĩ có lẽ họ khẳng định quá sớm, sau này
lịch sử trung thực sẽ phán quyết ai là chánh ai là tà. Sau
khi học xong 10 bài trong khoảng hai tháng rưỡi, các bạn chúng tôi
bàn tán xôn xao về lễ mãn khóa sẽ được tổ chức
tại sân vận động Cộng Hòa với sự tham dự đông đủ
của gia đình học viên. Hôm sau, anh cán bộ trưởng ban giảng
huấn đến thăm viếng doanh trại các cựu Trung tá và Đại
tá. Một học viên đúng lên hỏi: “Thưa anh, chúng tôi
được báo chí cho biết thời gian học tập là một tháng
nhưng đến nay vẫn chưa nghe nói gì hết?” Tay cán
bộ tỉnh bơ phán ngay một câu: “Nếu không nói như thế
thì giờ đây làm gì có mặt đông đủ các anh
như thế này!” Thật đáng sợ biết bao! Sau này,
khi đến bến bờ tự do, trong luận án Cao học về Giáo dục,
tôi có đề cập câu tuyên bố đó trong bài viết về
Chiến tranh Việt-Nam với kết luận: “Người Cộng Sản nói chung,
và Việt-Cộng nói riêng, là những tay bịp bợm nhất thế
giới” (The Communists in general, and the Việt-Cộng in particular, are the best liars in the world).
Chúng không những lừa dối nhân dân Việt-Nam mà con trắng trợn
lừa bịp cả các nước khác trên thế giới. Cũng trong
thời gian trên, tôi hân hạnh được biết thi sĩ Hà Thượng
Nhân mà tôi vẫn còn nhớ bài thơ bất hủ của anh đã
được phổ thành nhạc (Đã ba mươi năm rồi còn gì,
tôi chỉ còn nhớ lõm bõm vì tuổi già sức yếu, xin thi
sĩ miễn chấp nếu tôi có chỗ sai sót, xin chân thành cám
ơn anh): Trời có điều chi buồn, mà trời mưa
mãi thế, Cây cỏ có chi buồn, mà cây
cỏ đẫm lệ (mà cỏ cây lệ tuôn) Anh nhớ em từng phút, anh thương con từng giây, Chim nào không có cánh, cánh nào không thèm bay, Người nào không có lòng, lòng nào không ngất
ngây. Gửi làm sao nỗi nhớ, trao làm sao niềm thương, Nhớ thương như trời đất, trời đất vốn vô thường, Ngày xưa chim hồng hộc, vượt chín tầng mây cao, Ngày xưa khắp năm châu, bước chân coi nhỏ hẹp, Bây giờ giữa Long Giao, ngồi nghe mưa sùi sụt, Cuộc đời như chiêm bao, Có hay chăng ngõ cụt, Anh châm điếu thuốc lào, Anh châm điếu thuốc lào, Mình say mình say sao? Mình say mình say sao? Trại Suối
Máu/Tân Hiệp (Ảnh dưới): Sau khi học xong 10 bài, chúng tôi được lệnh chuyển trại, lần
này được đưa đến trại Suối Máu hay Tân Hiệp. Chúng
tôi được phân phối thành 10 đội, mỗi đội do một
đội trưởng trách nhiêm. Tôi không thuộc đội
nào cả mà thuộc toán đặc biệt như là ban chỉ huy vậy.
Toán này chịu trách nhiệm tổng quát cho trại, làm gạch nối
giữa ban chỉ huy trại và các học viên chuyên lo các vấn đề
như thư tín, truyền tin, y tế, và trang trí. Thành phần gồm
có anh Cúc (Trung tá Pháo Binh, trưởng toán), anh Cường (Trung tá
bác sĩ Quân Y, y tế), Anh Khanh (Trung tá Truyền Tin, âm thanh), họa sĩ
Tạ Tỵ (trung tá Tổng Cục CTCT) và tôi, Tổng Cục Quân Huấn,
trang trí). Nhờ làm việc ở đây nên tôi có thể giúp
các bạn chuyển thư (lậu) ra ngoài khi tình hình cho phép. Mỗi
đội đều có một quản ca gồm toàn những nhạc sĩ nổi
tiếng của QLVNCH như các nhạc sĩ Khôi, Vũ Đức Nghiêm, Thục
Vũ, Cung Trầm Tưởng, v..v.. Họ họp nhau mỗi tuần một lần để
tiếp nhận và phổ biến những bài ca của Việt-Cộng như bài
“Như có bác Hồ trong ngày đại thắng”, “Tiến về
Sài-Gòn” mà mỗi lần cất tiếng hát là tôi thấy
rợn da gà. Một hôm, anh cán bộ phụ trách quên đem cây
đàn nên định hoãn buổi họp vào lần sau, nhưng một
nhạc sĩ đã yêu cầu cho xem bản nhạc, và chỉ trong một thoáng
đã hướng dẫn các quản ca hát bản nhạc này một cách
dễ ợt trước sự kinh ngạc và thán phục tột độ của
tên cán bộ. Họa sĩ Tạ Tỵ (ảnh dưới) và tôi
phụ trách phần trang trí doanh trại nên cũng có phần nhàn hạ
ngoại trừ vào dịp lễ và Tết thì mất cả ăn uống để
hoàn tất chỉ tiêu giao phó. Một hôm, sau khi thấy họa sĩ Tạ
Tỵ vẽ chân dung cho một vài anh bạn để làm kỷ niệm, bác
sĩ Cường đứng kế bên và ỏn ẻn nói: “Anh có thể
nào vẽ cho tôi một bức chân dung để tôi gửi về cho bà
xã tôi làm kỷ niệm không? Họa sĩ Tạ Tỵ ưng thuận và
chỉ trong một thời gian ngắn đã hoàn tất bức họa nghệ thuật.
Bác sĩ Cường hăm hở cầm lấy nhưng ngần ngừ chưa chịu
rút lui. Họa sĩ hỏi tại sao chưa về phòng để nghỉ thì
bác sĩ Cường ấp úng nói: “Anh vẽ cho tôi rất đẹp
nhưng tôi chỉ còn có một con mắt thì sợ bà xã tôi
hạch tội tôi là chỉ trong một thời gian ngắn mà đã bị
chột hết một mắt làm “độc nhãn long” thì làm sao
ăn nói với bả đây?” Họa
sĩ Tạ Tỵ nhất định không chịu thay đổi ý kiến để
bảo vệ trường phái Picasso (lập thể/trừu tượng) của mình.
Chắc bác sĩ Cường không dám gửi bức danh họa về cho bà
xã ngoại trừ khi có thêm một con mắt nữa.
Miền Bắc
Xã Hội Chủ Nghĩa: Sau khoảng
6 tháng ở trại Suối Máu, một hôm chúng tôi nhận lệnh
chuẩn bị hành quân. Riêng tôi thấy hoảng hồn và nghĩ ngày
xưa chúng ta đi hành quân để diệt địch mang lại hòa
bình cho đất nước, nhưng bây giờ thì còn đánh đấm
gì nữa, sao lại phải đi hành quân? Sau đó tôi mới vỡ
lẽ ra “hành quân” đồng nghĩa với “di chuyển”!
Gần chiều, chúng tôi được chở đến khu vực Tân
Cảng (New Port) cạnh sông Sài-Gòn để chuẩn bị một cuộc
hành trình mới. Tôi may
mắn được xếp vào đội cuối cùng nên phải đợi
các bạn khệ nệ vác hành lý lên tàu, kế đó phải
làm sạch sẽ khu vực mới đến trước khi lên tàu (chắc
tôi thuộc số con rệp!).Đây là tàu Sông Hương có sức
tải khá lớn. Trên tàu, tôi thấy một khu vực rất lớn dành
cho cán bộ với đủ loại máy móc, xe hơi, xe gắn máy, ti-vi,
radio hằm bà lằng. Khi tôi đặt chân lên tàu thì các bạn
tôi đã ổn định chỗ nằm rồi. Tôi đi lòng vòng
để tìm một chỗ trống nhưng không thấy đâu cả. Chợt
tôi khám phá ra một chỗ nên vội vã nhào tới như sợ
có ai giành mất. Tôi mới ngồi xuống có một chốc thì
dường như nghe có tiếng động ở trên đầu. Tôi ngửng
đầu lên và muốn rụng rời tay chân vì có vài giọt
nước rơi xuống đầu tôi, hóa ra trên đó là nhà
vệ sinh nên không ai dại dột gì bén mảng đến đó.
Cuối cùng, may mắn thay, tôi được một anh bạn sống cùng
cư xá với tôi nhường một phần nhỏ chỗ năm của mình
để tôi có thể ghé lưng bằng cách nằm nghiêng chứ
không nằm ngửa vì quá chật chội. Tôi cám ơn anh bạn rối
rít và hỏi thăm anh về tình hình trong cư xá nhưng anh không
biết gì hơn tôi. Chiều đến, chúng tôi được phát
lương khô và một ít nước uống nhưng tôi chỉ dùng
một ít bánh và không dám uống nước vì anh em cho biết
phải đợi rất lâu mới tới phiên mình đi vệ sinh. Tôi
đã kiên trì không uống nước cho tới khi đến địa
điểm mới. Mấy anh bạn thuộc Hải Quân tìm cách lên boong
tàu và sau khi định hướng đã cho biết tàu đang chạy
về hướng Phú Quốc. Tôi nghĩ lần này chắc phải sống
tự túc trên hoang đảo như “Robinson Crusoe” ngày xưa chăng?
Nhưng sau đó anh bạn này đã mất phương hướng nên
chúng tôi đành phó mặc cho mọi việc đến đâu thì
đến. Tôi không còn ý
niệm về thời gian cho đến một buổi chiều, chúng tôi được
thông báo là sẽ được đặt chân lên miền Bắc Xã
Hội Chủ Nghĩa mà các bạn gốc ở miền Bắc cho biết là
Hải Phòng. Vừa đặt chân lên đất liền , việc
trước tiên là tôi phải xả bầu tâm sự (đi tiểu tiện),
và thật là kinh hoàng khi tôi thấy nước tiểu có màu
đỏ như máu vậy? Trên bờ,
loa phóng thanh ra rả cho biết là chúng tôi được đặt chân
lên miền bắc Xã Hội Chủ Nghĩa ưu việt, tự do và độc
lập! Pha lẫn với tiếng loa vang dội là tiếng chó sủa bất tận,
dường như chúng ngửi thấy mùi của người miền Nam và
muốn ngoạm chúng tôi một miếng cho bõ ghét. Sau đó
chúng tôi được phát mỗi người một trái chuối già
và đi chích ngừa. Tôi thầm nghĩ biết đâu chừng sau mũi
tiêm này chúng tôi sẽ tiêu diêu nơi miền âm cảnh? Chích
xong, chúng tôi được phối trí lại và đi nghỉ ngơi.
Vì quá mệt mỏi nên vừa mới đặt lưng xuống là tôi
đã ngủ ngay một cách ngon lành. Khi tôi được đánh
thức dậy thì anh em đã đi đâu mất cả rồi. Tôi lang
thang chạy theo các bạn và cuối cùng lên được tàu hỏa
cho cuộc hành trình kế tiếp. Nói là tàu hỏa cho có vẻ
ngon lành nhưng thật ra là một sàn tàu chở súc vật không
có bàn ghế gì cả. Chúng tôi nằm ngủ trên sàn tàu
chật như nêm. Tôi nằm cạnh một anh cao quá khổ, vì anh ta cao
lớn nên tôi cũng có phần ngán và riu ríu nghe lời anh ta hướng
dẫn: “Tôi nằm ngủ trước, anh ngủ sau”. Vì chỗ
nằm choán nhiều chỗ nên tôi phải ngồi để trông chừng
anh ta nằm ngủ. Một lúc khá lâu, tôi đánh thức anh ta dậy
để tôi nằm một tí. Khi tôi vừa nghỉ được một chút
thì cảm thấy có cái gì đè trên ngực. Tôi tỉnh
dậy và thấy cái chân dài ngoằn của anh ta gác lên ngưc
tôi, xém chút nữa thì đến cổ của tôi rồi. Hóa ra
anh ta đâu có ngồi mà lại tiếp tục ngủ, và vì chúng
tôi nằm đổi đầu nên cái cẳng dài quá khổ của
anh ta mới vượt biên và leo lên ngực của tôi (sau này khi quen
thân nhau, chúng tôi nhắc lại chuyện cũ và cười muốn bể
bụng luôn). Các trại
tù ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa: Yên Bái, Nghĩa Lộ/Hoàng
Liên Sơn, Cẩm Nhân, Vĩnh Phú.
Sau khi tàu hỏa ngừng, chúng tôi tập
trung lại, chuẩn bị lên xe Molotova vượt sông Hồng để đến
Yên Bái, Nghĩa Lộ thuộc Hoàng Liên Sơn. Đến đây chúng
tôi bắt đầu thực sự lao động khổ sai khi năng lượng trong
người chúng tôi gần kiệt quệ sau hơn một năm ở miền
Nam ăn cơm gồm hầu hết là gạo mốc hết chất bổ dưỡng
với ít bắp cải và cải su. Tại đây chúng tôi
được xếp thành đội theo từng cấp bậc. Tôi thuộc Trại
2 Liên Trại 2 Hoàng Liên Sơn chuyên lo về xây cất nhà trét
đất và rơm. Khi còn ở miền Nam, tôi có dịp học về
kiến trúc do một anh bạn kiến trúc sư chỉ dạy nên tôi được
cán bộ cho tôi phụ trách vẽ đồ án xây cất. Vì thấy
anh em không còn sức lực nên tôi đã chiết tính số lượng
cây với đường kính nhỏ và chiều dài ngắn hơn quy định,
nhưng tay cán bộ có chút căn bản về xây dựng đã bắt
tôi sửa lại. Một thời gian sau, vì thiếu nhân lực nên tôi
cũng phải lên rừng đốn cây và vì vậy càng biết rõ
sự cực nhọc của anh em nhiều hơn. Có
một lần tôi vác một khúc cây có đường kính gần
gang tay và dài 5 thước. Đọan đường đi rất dốc và
trơn trợt vì trời đang mưa. Lên gần hết dốc và chuẩn
bị về trại, tôi chợt vấp ngã. May mắn thay, khúc gỗ to chỉ
đè lên chân tôi và không va vào đầu, nếu không giờ
này tôi đâu còn ngồi đây để viết những dòng
chữ này, tuy nhiên tôi vẫn phải nằm tại chỗ hơn hai tuần
lễ. Lê cái chân đau ra khỏi khúc gỗ, tôi ngồi xuống bên
lề đường và khóc rấm rứt một mình như trẻ con.Tôi
khấn vái Trời Phật cùng các vị thần linh khác, và khi nghĩ
đến vợ con đang trông chờ nên tôi cố thu hết tàn lực
để kéo lê khúc gỗ (thay vì vác) mãi đến chiều tối
mới về đến trại. Một hôm,
chúng tôi được lệnh tải gạo từ Ba Khe về trại ở Nghĩa
Lộ. Sau nhiều lần thử nghiệm, anh em thử đổ gạo vào hai ống
quần ngủ, cột chặt ống và lưng quần xong để trên vai xung
quanh cổ mà đi, trông rất nhẹ nhàng và dễ đi. Trên lộ
trình đi, thỉnh thoảng chúng tôi thấy rải rác những trái
cà-na do dân cố tình để lại cho chúng tôi ăn, chứng tỏ
lòng thương mến của họ, khác hẳn với thái độ thù
nghịch khi chúng tôi mới đến. Có một lần chúng tôi gặp
một cụ già râu tóc bạc phơ nhưng diên mạo rất phương
phi đang cưỡi ngựa và dừng lại nói với chúng tôi: “Chúng
tôi mong đợi ngày các ông ra giải phóng miền Bắc chúng
tôi nhưng bây giờ như thế này thì còn trông mong gì nữa?”
Ông ta thuộc thành phần trí thức hoặc tư sản mại bản bị
Việt-Cộng đày lên đây với lý do là đi khu kinh tế
mới. Bên cạnh Ba Khe là trại trà Trần Phú nổi
tiếng của miền Bắc. Tôi có anh bạn thân trước kia làm Chỉ
Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù nổi danh là người
nhảy dù đẹp và hay nhất của quân đội. Ngày xưa, khi
chúng tôi gặp nhau trong các trận đấu bóng chuyền tại sân
Phan Đình Phùng, Trung tá Vinh là tên anh, rất điển trai và
đô con (75 kí) tuy da hơi ngăm đen như tôi. Khi đi Ba Khe tải gạo,
chúng tôi không thể nào tưởng tượng anh chỉ còn 45 kí
(trong thời gian sống chung bên nhau, anh vẫn thường ăn rau tàu bay cho đỡ
đói, chúng tôi đã khuyên can nhưng anh không chịu, nghe nói
rau này sẽ làm mất máu ghê lắm). Vài năm sau, chúng tôi
nghe tin anh đã nằm xuống vĩnh viễn trong rừng sâu để lại
biết bao tiếc thương cho anh em đồng ngũ!
Sau đó chúng tôi được chuyển về Cẩm Nhân, Tuyên
Quang. Tôi thuộc đội mộc chuyên làm bàn ghế và tủ rất
cần sự tỉ mỉ khéo tay. Tôi học bào trong cả tháng mới
tạm gọi là khá thành thạo. Cũng trong thời gian mới đến
Cẩm Nhân, tôi được biết một tin rất buồn: anh bạn thân
là Trung tá Nguyễn-Vũ Từ-Thức trước làm ở Tổng Cục
Quân Huấn, sau làm Tùy Viên Quân Lực ở Úc vừa mới từ
trần vì bị ngộ độc thức ăn (60 anh em khác phải vào bệnh
xá). Trong suốt thời gian đầu
ở miền Bắc, chúng tôi được các anh bộ đội quản
lý nên sinh họat có phần dễ thở hơn như được tự
do vào rừng đốn gỗ, giang, tre, lò-ồ, v..v.., và ban đêm trại
không khóa cửa có thể đi lại tự do. Sau
này, chúng tôi được Bộ Công An tiếp quản nên gặp nhiều
khốn đốn với các tay công an mà mấy anh bộ đội gọi
là bọn chó vàng vì chúng mặc quân phục màu vàng.
Trạm dừng chân đầu tiên là Vĩnh Phú. Tôi vẫn tiếp
tục làm mộc “mớp” (meuble/bàn ghế) khác với “mộc
nhà” chuyên lo xây cất nhà trong doanh trại Vĩnh Quang B, sau đó
đến Vĩnh Quang A trước khi chuyển về miền Nam năm 1982 bằng tàu
hỏa và bị còng một tay với một bạn tù khác. Thắm
thoát đả 7 năm tù đày với biết bao đắng cay tủi nhục.
Trên đường về Nam chúng tôi gặp những quang cảnh quen thuộc
từ Thừa Thiên trở vào. Dọc đường chúng tôi chứng kiến
những cảnh rất cảm động khi người mẹ gặp lại con một
cách vội vã không nói nên lời, hoặc người vợ chạy
theo tàu hỏa vừa mới tới bến khi hay tin muộn chồng mình đang
ở trên tàu, hoặc khi bà con tặng thức ăn cho anh em bị còng
(viết tới đây tôi không ngăn được dòng lệ tự nhiên
tuôn trào vì chính tôi là chứng nhân mục kích rõ ràng
những cảnh thương tâm đó). Trạm dừng chân
ở miền Nam là Xuân Lộc B, Long Khánh. (Z30A). Tại đây không khí
có phần dễ thở hơn, hàng ngày chúng tôi thấy những chiếc
xe lam chở bà con lên thăm thân nhân, nhưng riêng cá nhân tôi
chỉ được thăm gia đình có một lần vào buổi sáng
vì vợ tôi phải đầu tắt mặt tối với sinh kế để
lo cho 5 đứa con còn nhỏ dại. Một ngày đẹp
trời giữa năm 1983, tôi được lệnh phóng thích, nâng tổng
số thời gian đi tù lên 8 năm một tháng. Khi tôi bước chân
vô nhà, mọi người nhìn tôi sững sờ vì tôi như một
bộ xương cách trí biết đi. Với vốn liếng làm mộc học
được trong tù, tôi ra sức đóng các bàn ghế để
vợ con tôi bán cà-phê trong một góc nhỏ của cư xá Lê
Văn Duyệt, Gia Định nay cải danh là cư xá Phan Đăng Lưu. Hơn
10 năm sau tôi mới được sang định cư tại Hoa Kỳ, bỏ lại
sau lưng ba đứa con vì chúng đã lập gia đình. Tôi thấy
cụm từ “đoàn tụ gia đình” thật quá đắng cay
khi hai phương trời vẫn còn cách biệt!
Các
bạn thân mến, Giờ đây, những hình ảnh kinh
hoàng của một thời trong lao tù đã đi vào dĩ vãng, chỉ
còn lại những kỷ niệm sẽ tồn tại mãi mãi trong tôi. Tôi
muốn ghi lại những hình ảnh đó với nhiều tình tiết hơn
nhưng khuôn khổ tập Kỷ Yếu có hạn nên tôi chưa ghi hết
những gì đáng nói, hơn nữa vì mắt mũi kèm nhèm
lại vừa trải qua một cuộc giải phẩu tim thập tử nhất sinh nên
tôi xin dừng nơi đây. Thưa các bạn, sau 50 năm rời mái trường Mẹ, chúng
ta đã tích lũyđược nhiều kỷ niệm êm đềm của
thời niên thiếu, lúc học tập tại trường và du học Hoa kỳ,
kỷ niệm hào hùng của những năm tháng phục vụ Quân đội,
kỷ niệm đau thương của những năm dài trong lao tù Cộng Sản.
Những chuỗi ngày ở miền đất hứa này đã cho chúng
ta một ý niệm sâu sắc về tình đồng khóa. Năm mươi
năm đã trôi qua, tuy có nhiều thay đổi trong cuộc sống thăng
trầm này nhưng những kỷ niệm của anh em khóa 12 Trường Võ
Bị Liên-Quân Đà-Lạt vẫn còn đó, trường tồn bất
diệt với thời gian như đại thi hào Pháp Lamartine đã viết: Ainsi tout change, tout passe, Ainsi sur la terre tout s’efface, Tout, excepté la souvenir.
Trần Bá Xử (Hà Viễn
Xứ} Miền Đông Bắc Hoa Kỳ giá lạnh, 3/12/2004
MỐI TÌNH
HỌC TRÒ . CHS PTG Trần Bá Xử___________________________________________
Hà là một cậu học
sinh con nhà nghèo được sinh ra và lớn lên tại một tỉnh
nhỏ rất thanh bình thuộc đồng bằng sông Cửu Long, được
bao bọc bởi nhiều nhánh sông nhỏ chi chít bên cạnh gìòng
sông Hậu hiền hòa mà đất phù sa luôn bồi đắp nên
đã tạo thành một vùng đất phì nhiêu với không biết
bao nhiêu hoa quả thơm ngon như xoài và mận đủ màu đủ
loại, bưởi, cam, đặc biệt loại cam sành với lớp cỏ sần
sùi không đẹp mắt nhưng chất ngọt rất dễ làm người
ăn mê thích. Rồi đến những trái quit mọng nước ngọt
ngào làm mát lòng người ăn nhất là vào mùa hè
nóng nực. Mảnh đất dịu hiền này đồng thời
cũng đã sản sinh ra biết bao cô gái xinh đẹp mỹ miều nổi
tiếng miền Đồng Tháp. Vùng Sa Giang hiền
lành này cũng là nơi đào tạo ra nhiều nhân tài xuất
chúng cho miền Nam Việt Nam vào những thập niên 40, 50 với những vị
có học vấn uyên bác làm hãnh diện cho người dân địa
phương mỗi khi nhắc đến một vài vị khoa bảng đã từng
một thời giữ chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục hay giữ chức
vụ lãnh đạo trong guồng máy chính quyền dân sự hay quân
sự đương thời cùng các lĩnh vực khoa học kỹ thuật của
miền Nam Việt-Nam. Hà không nằm trong số đó nhưng
cũng là một trong những học sinh xuất sắc trong vùng. Vì là
con nhà nghèo nên câu ta đã chuyên tâm cố gắng học để
mong sao đạt được những thành quả tốt đẹp cho tương
lai. Những cố gắng không ngừng của Hà đã được đền
bù xứng đáng khi cậu ta đậu Tiểu học nhất tỉnh, và
những thành tựu sáng chói ớ bậc trung học sau này, điều
khiến thân phụ mẫu Hà vui mừng khôn xiết và hãnh diện
với hàng xóm và những người thân. Sau bậc tiểu học, ba
mẹ Hà nộp đơn xin cho cậu vào trường Trung học Chasseloup Laubat,
Sài-Gòn nhưng vận may không mỉm cười với cậu khi hồ sơ
xin miễn tuổi (dispense d’âge) cho cậu chỉ được Viện Đại
học Đà-Lạt (Recteur de Dalat) chấp thuận sau ngày nhập học hơn
một tuần lễ nên cậu mất cơ hội vào học một trường
nổi tiếng ở Sài-Gòn cũng như trường Albert Sarraut ở Hà-Nội
lúc bấy giờ. Do vậy, cậu xin nhập học trường Pétrus Trương
Vĩnh Ký, nhưng những biến cố về trò Trần Văn Ơn sau đó
nên thân phụ Hà xin cho cậu về học Collège de Vĩnh-Long vừa mới
mở niên học đầu tiên. Tại nơi này, Hà đã nhận
được học bổng toàn niên (bourse entìère) do những cố gắng
không ngừng của cậu ta trong học tập và do tình trạng gia đình
quá eo hẹp của cậu ta. Học bổng này đã tạo
điều kiện cho Hà mua một số sách giáo khoa ở Pháp để
việc học sau này được thuận lợi hơn,. Nơi đây, cậu
là một trong vài học sinh nhỏ tuổi nhất lớp nên được
xếp vào học chung với các bạn nữ học sinh khiến cậu khóc
cả buổi vì bị mắc cở nên cuối cùng Ban Giám Hiệu đánh
phải ra đặc ân cho Hà bằng cách chỉ định một nam học
sinh khác thay thế, có thể sự lựa chọn này đã khiến cậu
đánh mất cơ may được thăng tiến xa hơn nữa vì biết
đâu chừng khi học chung với các bạn gái cậu ta sẽ chẳng
cố gắng hơn vì sợ bị thua sút bạn bè nhất là phái
nữ? Tháng đầu tiên khi ông Hiệu trưởng đến viếng trường
và gọi các học sinh lên xếp hàng theo thứ tự cao thấp thì
Hà đã mừng rỡ vô hạn khi được xếp vào hạng cao
nhất lớp. Trường Trung học này quy tụ học sinh của cả ba tỉnh
Sađéc – Vĩnh-Long và Trà Vinh nên các học sinh đã cố
gắng tranh đua học tập hầu đem vinh dự về cho tỉnh nhá. Ngoài
việc đạt thành tích học vấn đồng đều về mọi môn
học, Hà còn là một học sinh khá giỏi về môn Vẽ nên
được giáo sư môn hội họa (danh xưng giáo viên bậc trung
học ngày xưa) luôn khen ngợi, ngay cả sau này khi Hà tốt nghiệp
bằng Thành Chung (DEPSI) tại trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu
(Collège Le Myre de Villers), vị giáo sư này đã khoe với
các giáo sư đồng nghiệp trong Ban Giám khảo đây là học
trò ưng ý nhất của ông. Cuối năm học cuối cùng ở
bậc Trung học Đệ Nhất Cấp, Hà đã lãnh phần thưởng
hạng nhất toàn trường với sự hiện diện của thân phụ
cậu. Niên học kế tiếp, Hà phải qua cuộc thi concours vào lớp Tân
Đệ Nhị tại Trường Trung học Phan Thanh Giản/Lycée Phan Thanh Gian, Cần
Thơ tuyển lựa vì có nhiều học sịnh ghi danh. Lúc
bấy giờ, trường Trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ là một trong
ba trường trung học đệ nhị cấp của miền Nam Việt-Nam cùng
thời với trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (Le Myre
de Villers) tại Mỹ-Tho và trường Pétrus Trương Vĩnh Ký tại
Sài-Gòn. Trường Trung học Phan Thanh
Giản Cần-Thơ là nơi hội tụ nhiều học sinh của đồng bằng
sông Cửu Long với các tỉnh Cần-Thơ, Sóc-Trăng, Bạc-Liêu,
Kiên-Giang, An-Giang, Châu-Đốc, Cà-Mau nên sự ganh đua học tập
càng diễn ra gay go, quyết liệt hơn. Hà rất
chăm chỉ học hành mong được thành đạt vẻ vang với hy
vọng duy nhất xóa bỏ mặc cảm nghèo nàn của gia đình do
sự phá sản gây ra. Ngoài việc chăm chú học tập, Hà không
quan tâm đến việc gì khác. Nhưng, chữ “nhưng” quái
ác này là khúc quanh quan trọng và nghiệt ngã trong
quảng đời học sinh của Hà. Nếu năm Tân-Đệ-Nhị (Seconde
Moderne) là khoảng thời gian dễ thở thì lớp Tân-Đệ-Nhất
(Premìère Moderne) lại là giai đọan cực kỳ khó khăn để
thí sinh chuẩn bị thi Tú Tài phần I tại trường Trung học Chasseloup
Laubat ở Sài-Gòn. Trong thời gian gay cấn này, thật bất ngờ làm
sao khi Hà để ý đến một nữ sinh học dưới Hà bốn
lớp. Cô ta là một cô gái khá xinh xắn có thân hình
cân đối với làn da trắng như trứng gà bóc cộng với
với đôi mắt một mí giống như người Nhật Bổn. Vì
có sự quan tâm đến người đẹp nên Hà đã tìm
mọi cách để làm quen với các em gái của anh bạn học cùng
lớp với Hà đang trú ngụ cùng chỗ với cô ta. Qua sự trung
gian này, Hà được biết cô ta có cái tên rất đẹp,
đẹp tựa như chị Hằng của mùa thu. Hà tìm cách để
làm quen với cô ta nhưng không biết bằng cách nào. Bí mật
này được Hà giữ thật kín nhưng làm sao qua mặt được
những ông ma mãnh chỉ xếp hàng sau “nhất quỷ, nhì ma”
này nên một thời gian sau cả hai lớp Tân-Đệ-Nhất và Đệ
Ngũ đều biết có một anh chàng học sinh Tân-Đệ-Nhất
đang trồng cây si to tổ bố bên cạnh người đẹp của đảo
Phù Tang. Bọn học trò quỷ sứ này còn trêu ghẹo Hà là
Napoléon Bonaparte đang chuẩn bị tấn công nước Nhật? Sở dĩ
bọn chúng kháo nhau như vậy là vì đã có một lần
Hà đã dám trêu chọc vị giáo sư Sử học từ Pháp
về bằng cách trả bài một cách dí dỏm gần giống như
cách giảng bài bằng Pháp văn của thầy dạy Sử này về
trận đánh thắng vang dội của Napoléon Đệ Nhất vào Trafalgar
khi ông ta đang là vị tướng trẻ nhất của thế giới lúc
bấy giờ. Tuy đang trồng cây si nhưng Hà chưa có dịp nào
để được tiếp xúc trực tiếp hoặc trò chuyện với
cô ta. Cậu ta chỉ có cơ may được ngắm nhìn dung nhan kiều
diễm của cô ta vào mỗi sáng Thứ Hai khi lớp họp của cô
ta phải xuống lầu và đi ngang qua lớp Tân Đê-Nhất của Hà
để chuẩn bị dự lễ chào cờ hằng tuần. Cứ mỗi lần
như thế thì các bạn học của Hà được dịp để
tha hồ trêu chọc cô ta và Hà bằng cách la lên khá lớn
“Hà ơi, chừng nào bạn sẽ đánh thắng trận ở Nhật
Bổn đây”? làm cô ta mắc cở cuối đầu mà chẳng
dám ngước lên nhìn ai vì e thẹn, chắc hẵn các cô bạn
gái của cô ta, đồng thời cũng là em gái mấy anh bạn
quỹ sứ nghịch ngợm của Hà đã tiết lộ cho cô ta biết
về bí mật học trò này. Nhìn rõ dáng điệu luống
cuống của cô ta, Hà lẩm bẩm trong cuống họng với niềm vui thích
tột độ “Thật đáng yêu làm sao”. Và chỉ có
thế thôi. Cho đến một hôm vận may đã mỉm cười với
Hà khi mùa Giáng Sinh đến. Không phải là một tín đồ
Thiên Chúa Giáo nhưng Hà cũng tìm mua cho bằng được một
thiệp Giáng Sinh thật đẹp và nắn nót viết những lời chúc
rất chân thành và dễ thương. Hà rất tự tin ở những
dòng chữ mà bạn bè thường khen Hà có nét chữ bay bướm
đẹp nhất trường. Muốn cho chắc ăn, Hà phài đạp xe đạp
đến tận nơi cô ta nghỉ trọ để biết chắc chắn là
địa chỉ hoàn toàn chính xác rồi mới chạy u về nắn
nót ghi địa chỉ vào phong bì trước khi gởi đi. Kế tiếp
là thời gian chờ đợi trong sự hồi hộp khó tả xen lẫn một
chút tự tin vì trước đây Hà đã có gởi thiệp
chúc Tết cho vài cô bạn không có cảm tình sâu đậm
như với người đẹp Phù Tang này và đều nhận được
câu trả lời rất nhã nhặn. Hai ngày, rồi ba ngày đã trôi qua mà không có
một tin tức nào cả. Khi thấy bóng dáng người phát thư
vừa ở trước cửa nhà là Hà vội nhảy phóc ra để
xem có thư mới đến hay chăng, nhưng một tiếng “không”
lạnh lùng đưa gió lộng qua cỏi lòng hồi hộp đợi mong
một cái gì hết sức thân yêu mà không thấy!!! Có lẽ
Hà thất tình mất rồi, cậu ta bắt đầu hơi chểnh mảng
việc học hơn trước, cứ theo đà này chưa chắc Hà sẽ
giành được mãnh bằng Tú Tài I sau cuối niên học ??? Không
nén được sự hồi hộp, Hà bèn đánh liều cầu cứu
anh bạn cùng lớp nhờ cô em gái học chung lớp với cô ta để
kín đáo hỏi xem tin tức về “bức thư đã gởi đi
mà không được hồi âm” này. Tin tức giữa bạn gái
với nhau đi rất nhanh, và ô kìa, cô em gái của anh bạn, chứ
không phải là chính cô ta, đã tiết lộ cho Hà biết nguyên
văn như sau: “Bồ chuyển lời hộ cho anh ấy biết: (Mình đã
có người yêu rồi, anh ta đang học kỹ sư ở bên Pháp,
mình xin lỗi không thể đáp lại ân tình của anh ấy, xin
anh ấy hãy quên mình đi mà chuyên tâm học hành). Khi nhận
được tin chẳng lành này, Hà như người mất hồn, nhưng
khi thấy bản thân mình còn quá kém bạn trai cô ta nên Hà
cố tự nhủ với lòng mình để cố gắng học giỏi hơn
vì bây giờ mình còn thua xa người ấy. Mối tình học trò
tự dưng chết lịm trong tức tưởi, tuy nhiên cũng có tác động
tốt đến việc học của Hà sau này. Cậu ta không còn có
những giấc mơ viễn vong nữa mà dồn hết nổ lực vào việc
học đã bị tạm thời gián đoạn trong vái ba tuần lễ
đầy mộng mơ. Năm đó, Hà thi dỗ
Tú Tài I một cách chật vật vì phải thi lại phần vấn
đáp vào kỳ hai, sau đó cậu cũng lấy luôn được
mảnh bằng Tú Tài II. Cậu ta tiếp tục chuẩn bị dự thi vào
cả hai trường Đại học Sư phạm và Học viện
Quốc Gia Hành Chánh nhưng không ngờ Hà lại có duyên với
binh nghiệp nên cậu ta đã tình nguyện ghi danh vào Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt, sau cải danh thành Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam, ngược hẵn với ước mơ của người
cha yêu dấu của Hà mong muốn cậu trở thành một giáo sư
hay bác sĩ. Trong thời gian này, tuy đã không biết tin tức gì
về “người đẹp Phù Tang”, nhưng Hà vẫn âm thầm
theo dõi việc học hành của cô vì Hà đã biết trước
đây cô ta là một học sinh rất xuất sắc của trường Phan
Thanh Giản Cần Thơ. Trong một lần xem báo, Hà được biết cô
ta đã thi đậu Tú Tài II Toán với kết quả “ưu hạng”. Sau thời gian khá dài thụ huấn tại Trường Võ
Bị Quốc Gia Việt-Nam và tu nghiệp gần một năm tại Trường
Bộ Binh Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, cậu ta đã trở về Việt-Nam để
phục vụ cho quê hương. Sau hơn 10 năm
phục vụ trong Quân đội, vào một buổi trưa đẹp trời,
Hà, lúc bấy giờ là một Đại-úy ngành Quân
Huấn, đến thăm một người bạn trước đây cũng học
trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ hiện cũng là Đại Úy phụ
trách thanh tra huấn luyện. Và thật bất ngờ khi vợ anh ấy, trước
đây cũng từng học chung lớp vời “người đẹp” của
Hà, kéo Hà qua phòng khách để tâm sự với Hà. Chị
ấy hỏi Hà; “Anh có biết bây giờ người đẹp Nhật
Bổn của anh đang làm gì và ở đâu không”? Hà khựng
người lại vì đống tro tàn đã nguội lạnh bây giờ
bị khơi dậy. Dĩ nhiên là Hà không biết gì cả nên
đã yêu cầu chị cho biết tin tức người bạn cũ với câu
nhận xét :” Chuyện đã xưa lắm rồi, nhắc lại cũng có
ích gì đâu, tuy nhiên tôi cũng rất cám ơn cô ấy đã
cho tôi biết sự thật để tôi không sa vào mê hồn trận
ở tuổi học trò, nhờ vậy tôi đã thực sự yêm tâm
lo việc học sau này”. Nhưng sự thật đã khác xa với những
điều Hà suy đoán khi nghe chị ấy tiết lộ sự thật như
sau: “Anh biết không, tôi là bạn rất thân với cô ta. Sau lần
anh bị từ chồi, thấy dáng vẻ tiu nghỉu của anh, cô ta cũng thấy
tội nghiệp anh vô cùng, nhưng cô ta tự nhủ phải làm như
vậy thôi và đã tâm sự với tôi là cô ta chưa hề
có người yêu nào cả, nhưng nếu cô ta không dứt khoát
như vậy thì đường học vấn đang lên của anh sẽ bị
ngưng trệ ảnh hưởng không tốt sau này. Cô ta cũng có biết
anh đã đi theo binh nghiệp, một con đường mà trước đây
chắc anh chưa bao giờ nghĩ đến”. Hà thật sự bàng hoàng
khi hay tin trên, và nhẹ nhàng hỏi chị: “ Bây giờ cô ta đang
làm gì hả chị”? thì được chị cho biết là sau khi
tốt nghiệp kỷ sư Công Chánh, cô đã được bổ nhiệm
làm Trưởng Ty Công Chánh ở một tỉnh miền đông Nam phần,
đồng thời chị hỏi tôi có muốn lên thăm cô ấy không
vì dường như cô ta vẫn còn sống độc thân? Hà thấy
bồi hồi trong tấc dạ nhưng biết làm sao bây giờ khi cậu ta vừa
mới lập gia đình? Tuy nhiên trong tận đáy lòng, Hà cảm
thấy lòng mình rưng rưng khi nghĩ đến cô bạn gái ngày
xưa ở độ tuổi ô mai, mà cho mãi đến bây giờ Hà
vẫn chưa bao giờ được hân hạnh trực diện để nói
chuyện riêng tư dù chỉ trong năm ba phút ngắn ngủi, nhưng lòng
cao thượng tuyệt vời của cô ta khi đã biết tự kiềm chế
mình, quên mất niềm vui tuổi học trò, quên mất bản thân
mình để lo lắng cho tương lai của người khác đã khiến
Hà chân thành cám ơn và cảm động thật sâu sắc.
Trần Bá Xử
Springfield, MA, mùa thu 2011
|
|
|