CHUYỆN SAU 30/4
Tô Nguyên Thành,
Nguyên
Nhung,
Nguyễn Thị Thanh Dương,
Trần Bang Thạch
.
CHUYỆN 1 CHIẾC TÀU
Tô Nguyên Thành
Sau ngày 30-4-1975 hàng
ngàn chiếc tàu mong manh vượt sóng gió ra khơi. Bao nhiêu trăm
ngàn người vì 2 chữ Tự Do mà liều mạng đi trên những
con tàu mong manh đó. Có nhiều người may mắn sống sót và
cũng không ít người gởi xác thân trên biển cả.
Chiếc tàu
dưới đây chỉ là 1 trong hàng ngàn chiếc tàu ấy. Tàu
phát xuất từ một bãi vắng trên sông Cần Thơ vào một
ngày của tháng 10 năm 1978 với 100 người. Chủ tàu là 1
cựu học sinh PTG ở Cái Răng: Anh Trương Minh Hiếu, hiện định
cư tại Chicago. Trên tàu có những CHS PTGĐTĐ khác như Tô
Nguyên Thành, Trần Tố Nga, Mã Thị Lan, Lưu Tài, Trần Thị Lừng.
Mọi người
đều an toàn khi Tàu cập bến Pulo Tanga, Mã Lai.
.
Em Về Vạt Nắng Chiều Xuân
Nguyên
Nhung
Cứ như là định mệnh, cơn bão tháng Tư thổi bay tôi
ra khỏi Đà Lạt vào một ngày cuối tháng Ba năm ấy. Tôi
đi mà không kịp từ giã Đà Lạt thương yêu, chập
chùng những đồi thông với mối tình đầu vừa chớm nở
như nụ hoa xinh trong lòng cô gái mới ngoài hai mươi tuổi. Thật
ra mối tình ấy hình như đã đến từ lâu trước khi
Lãng ra trường và chuyển về đơn vị, suốt một thời trung
học tôi và Hà, em của Lãng đã từng có rất nhiều
kỷ niệm, kể cả lần theo gia đình Hà lên trường Võ
Bị Đà Lạt ngày lễ mãn khóa của Lãng.
Cuối tháng ba năm ấy, gia đình tôi hối
hả chạy về Sài Gòn theo cơn bão lốc của chiến tranh. Cả
nhà trú ngụ trong nhà người chú đang làm việc tại Hải
Quân công xưởng, Sài Gòn tháng Ba nóng như nung, tin chiến sự
mỗi ngày cho tôi biết Đà Lạt thơ mộng của tôi đã
không còn nữa. Tôi nghĩ đến Hà, đến Lãng, chẳng hiểu
nhà bạn ra sao và Lãng thế nào nơi chiến trường khói
lửa, mỗi lần nghĩ đến tim tôi chừng thắt lại, thổn thức
trong nỗi chuyếnh choáng của một cơn ác mộng.
Những ngày cuối tháng Tư không khí Sài Gòn lúc nào
cũng như lên cơn sốt, một ngày chú Nhân hối hả về đưa
cả nhà ra bến tàu, vội vã đến mức mỗi người chỉ
mang theo một cái túi xách cá nhân đựng ít quần áo
và lương khô phòng hờ lúc cần thiết. Chuyến tàu ra biển
Đông vào đêm tối, ban đầu cũng chen chúc hỗn độn
vì phải chở một số người quá đông , nhưng rồi đến
lúc tàu càng đi càng xa chẳng còn nhìn thấy chân trời
đâu nữa, nhiều người đã bật khóc vì biết rằng
lần này thì mất hẳn quê hương ….
* * *
Tôi không mang được gì
ngoài vài tấm ảnh đen trắng chụp ở ven hồ Xuân Hương,
một tấm nơi cổng trường Võ Bị Đà Lạt với Hà
và Lãng ngày anh ra trường. Có một tấm hình màu duy nhất
ngày anh về phép, như để nhớ lại ngôi trường cũ tiện
thể anh đưa tôi và Hà lên chơi rừng Ái Ân bên bờ
hồ Than Thở. Người Đà Lạt không lạ gì cảnh buồn của
nơi này khi nhìn ra phía xa đỉnh Lâm Viên mờ mờ trong mây
phủ.Làm sao tôi quên được vì tấm ảnh chụp ba người
dưới gốc thông gìa men theo con dốc nhỏ, nhìn ra mặt hồ lăn
tăn gợn sóng và rừng thông buồn xao xác. Lúc đó Hà
kiếm cớ đi hái hoa dại, cũng là lần đầu tiên Lãng
cầm lấy tay tôi với ánh mắt êm đềm thật sâu lắng như
muốn trao gửi điều gì. Tính anh vốn vậy, ít nói và trầm
lặng, lao đao trong cảm xúc đón nhận tôi cũng im lặng nhìn
anh chới với. Nắng lung linh trên rừng thông tạo những bóng nắng
nhảy múa trên mặt cỏ, tim tôi đập mạnh dù biết rằng
chẳng cần phải nói ra thì cả hai cũng hiểu được sự
say đắm của tình yêu. Sau này khi xa nhau, nhìn tấm hình kỷ
niệm tôi hay bị dằn vặt bởi tấm hình chụp ba người mà
người ta bảo là điềm của chia ly.
Hơn hai mươi tuổi tâm hồn tôi đã khắc khoải theo những
thăng trầm của đất nước, mối tình đầu mơ hồ vẫn
đọng lại trong tâm khảm. Ra nước ngoài, hoà nhập vào xã
hội mới trong nỗi nhọc nhằn khó khăn của cha mẹ, để rồi
sau một thời gian dài đủ nguôi quên Đà Lạt trong trí nhớ,
tới gần 30 tuổi tôi mới lập gia đình. Chẳng được bao
năm hương lửa chồng tôi cũng qua đời trong một tai nạn xe cộ
để lại tôi một mình chơ vơ với hai đứa con còn bé
dại, từ đó tôi bắt đầu tin số mệnh. Số tôi đường
tình hình như trắc trở, tình yêu đầu với Lãng chưa
ấm một vòng tay, tình yêu sau cũng chẳng trọn con đường trần,
thôi thì ở vậy nuôi con chờ ngày chúng khôn lớn với nỗi
buồn góa phụ.
Khi các con trưởng thành và
đi làm xa, tự nhiên không hiểu sao tôi lại hay nghĩ về quá
khứ, đến Lãng, đến Hà và khung trời Đà Lạt, cứ
mơ ước một lần trở về con đường quen, cái xóm nhỏ
có những căn nhà gỗ ở cuối dốc, từ đó có thể
nhìn xuống phía dưới là vườn rau xanh Đà Lạt. Đấy
là căn nhà của Hà, ngày xưa hai đứa hay ngồi phía sau
nhà nhìn thẳng ra bãi rau xanh phía xa rồi mơ màng nghĩ vẩn
vơ, những lúc ấy không biết Hà nghĩ gì nhưng riêng tôi
thì bao giờ cũng có hình ảnh Lãng.
Quyết định trở về thăm lại Đà Lạt sau hơn ba mươi
mấy năm, kể từ ngày tôi xa Đà Lạt năm ấy. Rủ thêm
Quyên người bạn mới quê ở Đà Lạt về cho có bạn,
Quyên cũng muốn đi tìm lại chốn cũ thăm người dì ruột
và đám em họ. Đà Lạt hôm nay đã thay đổi hết
rồi, tôi lạc lõng trong thành phố xưa để đi tìm lại
kỷ niệm cũ, ngoài những con đường xưa không thể thay đổi
nhưng nhà cửa thì đồ sộ, bóng bẩy và ồn ào hơn
như hầu hết các nơi khác. Ba tôi là công chức nên ở
nhà chính phủ, căn nhà ấy nay có chủ mới, xây dựng lại
tôi nên tôi không còn nhận ra những gì thân quen . Coi như hết,
ở tuổi tôi đâu cần tìm cái mới, may ra có thể tìm
lại Hà và một số bạn học cùng trường năm xưa.
Ngày hôm sau tôi một mình tìm về
xóm nhỏ ngày xưa, với hy vọng mong manh gặp lại người bạn
cũ. Nếu gặp Hà tức nhiên tôi sẽ có tin của Lãng, vì
tháng Ba năm ấy khi tôi chạy về Sài Gòn thì anh vẫn còn
đang lao đao ngoài vòng lửa đạn. Trong lòng tôi chỉ mong mỏi
một điều tất cả mọi người đều bình yên, và nếu
như gặp Lãng thì cũng mong anh luôn được êm đềm hạnh
phúc. Rất may là Hà vẫn còn ở căn nhà gỗ sơn màu
xanh nhạt, nhà cửa xây dựng lại trông có phần chắc chắn
hơn xưa. Bạn tôi không có nhà, người nhà cho biết Hà
đang ở ngoài cửa hàng đan len và bán hàng lưu niệm cho
du khách.
Lòng khấp khởi mừng vì
sắp gặp lại bạn cũ, tôi sẽ gỉa làm khách du lịch đi
mua hàng xem Hà có nhận ra bạn cũ. Không khó lắm tôi đã
tìm ra địa chỉ, Hà đang ngồi ở trong quầy, nay đã tròn
trịa, gìa dặn hơn trong chiếc áo len màu trứng sáo, khi về
gìa trông Hà thật đôn hậu. Thấy tôi vào Hà chau mày
nghĩ ngợi, bất chợt giật mình như cố nhớ xem nét mặt quen
quen này ở đâu. Sau một lúc gỉa vờ la cà xem mấy tấm khăn
phu la treo trên vách, mắt tôi chợt đập vào mấy bức tranh nhỏ
vẽ cảnh Đà Lạt đặt gần phía ngoài để thu hút
khách du lịch. Tranh lộng trong khung tre, sau những rặng thông đan nhau nhạt
nhòa màu thời gian, dải Lâm Viên chập chùng mờ mờ trong sương
sớm, nơi góc của bức tranh ký một chữ “Lãng” rất
nhỏ khiến tôi bàng hoàng. Đúng lúc đó thì Hà
đã theo ra đứng phía sau lưng tôi, ngỡ ngàng gọi tên tôi
rồi cứ thế bật khóc nức nở ….
Cả hai chúng tôi cùng khóc, có lẽ cả hai cùng đang
nhớ về những biến động của thời thế và tang thương của
đất nước mấy chục năm trước. Giọng Hà ướt sũng
khi hỏi tôi:
“ Ngọc về bao giờ thế? Hà
cứ tưởng như trong mơ …”
Nghẹn
lời khi không nói hết được những gì muốn nói, hai đứa
im lặng nhìn nhau. Rồi Hà kể cho tôi nghe bao nhiêu dâu bể cuộc
đời xảy ra cho gia đình trong những năm tháng đó, Lãng bị
bắt làm tù binh và trở về nhà với một cái chân tật
nguyền không phải vì bom đạn.Tôi chỉ vào bức tranh rừng
thông với giải núi xa màu xanh xám phủ mây mù hỏi Hà,
giọng xúc động:
“ Tranh này
của anh Lãng?”
Hà gật đầu:
“ Phải, nhờ vẽ những bức tranh này mà
anh cũng có đủ thu nhập để sống trong bấy nhiêu năm trời.
Chiến tranh băng mình trong lửa đạn không hề hấn gì, thế
mà vào tù khi đi lao động lại bị tai nạn, cây đổ gây
thương tật đi đứng không còn được như xưa, may là
còn sống. Anh ấy vẫn không gặp may, nếu ở tù đủ ba năm
thì cũng được đi Mỹ theo diện H.O. Ba mẹ Hà theo nhau về trời,
Hà lập gia đình với một người lính cũ, anh ấy rất
chịu khó nên cả nhà cũng thoát qua được lúc ngặt
nghèo. Đợi mình lập gia đình xong thì anh Lãng nhất định
đòi lên rừng ở…”
Tôi
trố mắt nhìn Hà:
“ Lên
rừng? Anh làm gì ở trên rừng?”
Hà bật cười giải thích:
“ Nói là rừng chứ không hoàn toàn là rừng. Trên
ấy có một làng nhỏ người ta sống bằng nghề làm củi,
trồng rau, mình có một bà cô già sống một mình không
con cái, cô chuyên làm chao, làm tương nổi tiếng ngon, bán cho
người nghèo quanh vùng, thời buổi ấy nhà nào cũng chỉ
sống bằng rau dưa chao tương qua ngày thôi. Cô mình chỉ ăn
chay, gần như tu tại gia nên anh Lãng bảo lên đó sống với
cô hủ hỉ cho vui nhà vui cửa, giờ rảnh anh phụ cô làm tương
chao, phía sau nhà có mảnh vườn nhỏ đủ rau khoai cho hai cô cháu.
Anh ấy cũng tu rồi Ngọc ạ, sớm chiều hai buổi công phu theo bà
cô và ngồi thiền để khỏi ngẫm nghĩ chuyện đời.”
Nghe Hà kể mà tôi ngậm ngùi, tưởng
tượng ra một xó rừng nào đó Lãng đã ru đời
mình theo tiếng chuông tiếng mõ. Hà tiếp tục câu chuyện:
“ Nhờ sống ở đó mà anh Lãng
trở thành họa sĩ, không có trò giải trí anh mới nghĩ ra
cần phải vượt lên trên số phận bằng cây cọ. Thấy anh
vẽ đẹp quá nên Hà nảy ra ý định đem lộng khung rồi
bán những bức tranh nhỏ cho du khách làm quà lưu niệm, vậy
mà không hiểu sao tranh bán rất được, mỗi tháng anh phải
đem về cho mình hằng chục bức, nhờ vậy đời sống anh thoải
mái hơn. Nhưng anh cũng lấy đó làm vui và giúp mình để
nuôi các cháu ăn học chứ không nghĩ gì đến bản thân,
tội nghiệp quá!”
Hà cười
mà đôi mắt còn ướt vì hạnh phúc:
“ Cũng nhiều chuyện vui vui khi bán tranh cho anh Lãng, nhờ vậy
mà bạn anh từ nước ngoài về thăm Đà Lạt, nhìn ra
đỉnh Lâm Viên ngày xưa của mấy anh ấy trong tranh nên đã
tìm ra bạn cũ. Họ rủ nhau đến thăm anh, mua tranh với giá cao để
giúp bạn và nhờ vậy anh Lãng cũng thật ấm lòng với tình
bạn đời quân ngũ. Có người còn muốn giúp anh về lại
thành phố mở xưởng vẽ, nhưng anh Lãng thật khác người,
từ khi lên rừng sống với bà cô tu tại gia thì anh ấy đã
thay đổi hoàn toàn, chẳng bao giờ vui quá hay buồn quá, anh ấy
bảo đau khổ bao nhiêu cũng chỉ cần một nụ cười là hoá
giải được tất cả.”
Thì
ra là vậy, tự nhiên tôi cũng tò mò muốn đến thăm Lãng
để xem cuộc sống ra sao mà anh lại “an nhiên tự tại” vui
hưởng thú điền viên với rặng thông già. Tôi chợt cười
thầm và nhớ lại. Đúng là Lãng, Lãng của ngày xưa
ngay cả khi tỏ tình cũng chỉ lặng lẽ trao gửi mà đâu cần
nói một lời nào, điều này khiến tôi càng ao ước
gặp Lãng, và tôi đã nói điều đó với Hà. Hà
gật đầu hóm hỉnh:
“ Nhưng
Hà nói trước, anh Lãng bây giờ không phải anh Lãng ngày
xưa, chỉ tu tâm mà không khoác áo tu, đầu tóc râu ria
trắng xoá , nếu gặp lại chắc Ngọc sẽ ngỡ ngàng lắm đó.”
Tôi gật đầu bảo Hà:
“ Ngọc sẽ không ngạc nhiên đâu!”
* * *
Hà
giao cửa hàng cho con gái trông nom rồi cùng tôi rong ruổi đó
đây với đất trời Đà Lạt. Cuối năm trời vẫn trong
veo và nắng vẫn óng ả, chúng tôi lên “ rừng” thăm
Lãng như dự định. Không báo trước nhưng Hà biết anh
mình không đi đâu xa vì mới đem tranh xuống phố, nếu có
vắng nhà chỉ là lúc anh mang cọ, màu đi vẽ ở một góc
nào đó thôi. Kể ra sống như Lãng cũng thú, chẳng vướng
bận thê nhi, chẳng lo lắng miếng cơm manh áo vì đã quen ăn
chay mấy chục năm trường. Bà cô già kể từ khi Lãng vẽ
tranh kiếm được tiền để sống qua ngày đã thôi không
làm tương chao, nhưng lo nỗi Lãng là cháu trai không tiện việc
săn sóc bà khi nằm một chỗ nên đã xin vào ở hẳn
trong chùa sư nữ để tìm nơi nương tựa lúc tuổi gìa.
Xe ngừng ở ngoài đầu con đường
nhỏ, chúng tôi còn phải lội bộ khoảng mười lăm phút
mới đến nơi ở của Lãng. Căn nhà nằm ngay đầu dốc
nên cao hơn các nhà trồng rau ở phía dưới, vài cây thông
xanh trước nhà và phía sau như bao bọc lấy căn nhà nhỏ
bằng gỗ màu xám nhạt, từa tựa như những căn nhà miền
quê ở Âu Châu.Tự nhiên tôi lại thấy hồi hộp, mấy chục
năm rồi kể từ khi xa nhau bây giờ sắp gặp lại thì đã
hai màu tóc, người lính trẻ năm xưa kiêu hùng trong màu
áo trận, cô gái đang độ xuân xanh má đỏ môi hồng
thuở nào nay đã thay đổi nhiều với thời gian. Sẽ như thế
nào nhỉ? Thôi mặc kệ tất cả, như định mệnh là bàn
tay tai quái đã phủ chụp lên thân phận con người thì chuyện
gì đến tất phải đến.
Ngọc
vào nhà trước, Lãng đang ngồi uống trà nhìn ra khung cửa
sổ, bên ngoài là thung lũng thoai thoải có những luống rau xanh thẳng
tắp chạy dài xuống chân đồi. Nghe tiếng bước chân anh ngoảnh
nhìn lại, hơi ngạc nhiên vì thấy em gái đi với khách lạ,
linh tính cho anh biết khách từ xa đến đây, và người khách
ấy chỉ có thể là Ngọc vì chả bao giờ Hà chịu bỏ
cửa hàng để đi đâu. Tôi chưa kịp lên tiếng chào
thì Lãng đã lên tiếng trước, bình thản như hỏi một
người quen mới đi đâu về:
“
Ngọc đấy à? Em về bao giờ thế?”
Tuy đã chuẩn bị nhưng tôi vẫn bối rối, trước mặt
mình là một người đàn ông chưa gìa lắm mà đầu
tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào khoẻ mạnh. Anh đấy ư?
Vẻ an nhiên tự tại trên nét mặt bình thản ấy như đã
từng vượt trên đầu sóng của số phận khiến tôi thán
phục sức chịu đựng của anh, hóa ra tôi vẫn yếu ớt như
ngày nào mặc dù đã nhủ lòng đừng khóc. Đến
nỗi Lãng phải bước tới bên cạnh tôi, cầm lấy bàn
tay gía lạnh vì tiết trời rét buốt tháng chạp, xiết chặt
như muốn chuyền hơi ấm:
“Đừng
khóc, người từ xa về mang niềm vui đến đây sao lại khóc?
Anh đang vui đây vì em đến như một giấc mơ không đợi,
mới đó mà ba mươi mấy năm rồi nhỉ?”
Tôi nghe như có tiếng thở dài rất nhẹ
sau câu nói đùa của Lãng, bên ngoài hàng thông vẫn reo
vi vu như hòa theo chút ngậm ngùi của ngày hạnh ngộ. Bình
tâm lại sau những cảm xúc ban đầu, ba người ngồi xung quanh chiếc
bàn nhỏ trò chuyện, Lãng rót cho tôi một tách trà nóng,
giọng ân cần như xưa:
“
Ngọc uống đi, anh không dùng trà từ lâu mặc dù trà là
đặc sản của Lâm Đồng. Đây là nước gạo lức
rang, anh đã dùng nhiều năm thay trà để tăng cường sức
khoẻ . Hằng ngày chỉ tập thêm “Suối Nguồn Tươi Trẻ”
là đủ, tuy đầu tóc bạc phơ nhưng cơ thể không bịnh
tật, khí hậu trên rừng cũng tốt hơn thành phố em ạ.”
Toàn những chuyện của hôm nay, tôi
đang muốn biết dưới đáy biển ngầm của mối tình xưa
có vỗ lại những đợt sóng trong trái tim người đàn
ông đã một thời yêu tôi và tôi cũng một thời yêu
anh say đắm. Hà ngồi đó mỉm cười nhìn anh và bạn,
như đang nhớ lại buổi trưa trong rừng Ái Ân bên bờ hồ
Than Thở năm xưa, đã gỉa vờ đi tìm hoa dại cho hai người
yêu nhau có dịp bày tỏ nỗi lòng. Bây giờ Lãng nói nhiều
chứ không trầm lặng như xưa, hay anh cũng đang bối rối che dấu
bằng những câu chuyện đâu đâu trong lần hạnh ngộ?!!
Xế chiều hôm đó khi trời còn
vương vất nắng, Lãng đưa chúng tôi đi lang thang xuống chân
đồi xem vườn rau và rừng thông nằm rải rác phía xa xa,
chỗ ấy có một con suối nhỏ mà anh thường ra đó để
vẽ, khung cảnh này tôi đã nhìn thấy trong một tấm tranh của
Lãng. Đêm đầu tiên ở lại với Hà trong căn nhà của
Lãng, tôi chờ nghe tiếng chuông tiếng mõ và mùi trầm hương
để ru mình vào giấc ngủ, chập chờn trong giấc mơ tôi nghe
như những giọt nước mắt mằn mặn bờ môi khi vùi mặt
lên vùng ngực ấm của người lính trận trước giờ chia
tay. Lãng trở ra đơn vị và cũng chỉ vài tháng sau tôi xa
Đà Lạt mãi mãi …
Sáng
hôm sau mới bốn giờ đã ngửi thấy mùi nếp thơm phả
trong căn nhà nhỏ. Trời mưa, Lãng dậy sớm theo thói quen nhen lửa
thổi nồi xôi đậu phọng ăn với muối vừng. Hà còn nằm
ngủ nướng vì đêm qua trằn trọc khó ngủ, tôi ra phòng
ngoài thì đã thấy Lãng đang ngồi đun nước trên bếp
than hồng đỏ rực. Thấy tôi anh nhường chỗ ngồi ấm bên
bếp lửa rồi hỏi:
“ Ngọc
ngủ có ngon không? Lạ nhà chắc cũng hơi khó ngủ, có ấm
nước nóng anh đặt trên bếp cho mấy cô rửa mặt, trời
cũng lạnh đấy. Ngồi xuống đây cho ấm, bữa nay anh chỉ có
món qùa nhà quê đãi hai cô thôi. À quên, hôm qua có
nải chuối chín tới, cây trái trong vườn mùa nào thức
nấy anh không phải mua gì cả, muốn lên đây ăn tết với
anh thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu thứ, không hiểu
mấy cô có chịu nổi không?”
Tôi nhìn Lãng mỉm cười không nói, chưa biết tôi
có chịu nổi cách sống chay tịnh lành mạnh này được
bao lâu, nhưng giờ đây lòng tôi thật êm ả sau những phong
ba bão táp trong bấy nhiêu năm đời viễn xứ. Không hiểu sao
tôi lại buột miệng hỏi Lãng:
“
Sao hồi đó khi còn trẻ anh không lập gia đình cho tuổi gìa
đỡ cô quạnh?”
Lãng nhìn
lại tôi, câu trả lời hóm hỉnh mà nghe thấm đến tận
tim phổi:
“ Anh đã tu rồi mà, tu rồi
thì lấy vợ làm gì. Thật ra nếu em ở lại trong khoảng thời
gian đó, mới cảm nhận được cái đau tinh thần nơi người
ở lại. Anh đã không hoà nhập được với cái mới
nên phải tự tách ra tìm cái gì đó cho mình để
khỏi phải nghĩ ngợi. Thời gian cũng làm lành tất cả những
vết thương, cái chân tật nguyền bị gãy trong lần đốn
cây trên rừng thời gian tù tội, anh đau cái đau của thể
xác đã đành mà còn mang thêm nỗi nhức nhối vì
bị bỏ rơi, bị lãng quên sau khi đã cống hiến tuổi trẻ
cho đất nước. Nhiều năm nay anh không nói vì không ai hỏi,
đây chính là lý do anh lên rừng ở ẩn sau khi Hà lập gia
đình.”
Thương anh quá, tôi hiểu vì
sao anh hay vẽ những bức tranh có đỉnh Lâm Viên mây mờ che phủ,
với ngàn thông chập chùng trong mảng rừng chiều thăm thẳm. Buổi
sáng nơi này trời đang mưa, tự nhiên tôi muốn hát một
ca khúc đã quên lời từ lâu, “mưa rừng ơi mưa rừng,
tìm đâu hỡi ơi bóng ngày xưa…”. Trôi theo những kỷ
niệm vật vờ trong quá khứ, tôi thủ thỉ nói với anh:
“ Người ta cứ hay nói “không
thể tắm được hai lần trên một dòng sông”, những khi
ấy em cho là ngớ ngẩn và rất buồn cười, nhưng đến bây
giờ em mới lờ mờ hiểu ý nghĩa của câu này.”
Lãng mỉm cười châm thêm nước
sôi vào bình thuỷ, trả lời tôi bằng mấy câu thơ:
“ Dẫu anh biết chẳng bao giờ có
thể
Tắm được hai lần trên
một dòng sông
Sông còn kia mà nước
chẳng quay về
Cứ khắc khoải mà trôi
ra lòng biển”
( thơ NN)
Tôi nheo mắt nhìn Lãng và chỉ về phía những bức tranh
vẽ dở dang trong góc phòng tối:
“
Theo em hiểu thì anh tu vì muốn chôn vùi dĩ vãng, nhưng trong những
bức tranh em vẫn thấy thấp thoáng hình bóng của dĩ vãng trong
đó. Hàng thông ven bờ hồ Than Thở, đỉnh Lâm Viên hai dải
núi mờ trong sương, đồi Cù cỏ xanh và hồ Xuân Hương
gờn gợn sóng, ngôi trường cũ ẩn hiện không rõ nét
nhưng con đường với bóng giai nhân ngày chủ nhật thì không
lẫn lộn đi đâu được. Có phải vậy không anh?”
Lãng cười, lâu lắm rồi tôi mới
thấy anh vui như thế:
“ Em thật
thông minh Ngọc ạ, tri âm tri kỷ tri bỉ mà định mệnh lại
chia lià nhau chỉ vì cái tan nát của nước non. Đúng thế,
anh vẫn không thể nào quên quá khứ dù khi đến đây
sống với bà cô gìa, anh tập tìm quên cuộc đời trong tiếng
chuông tiếng mõ. May có cô để anh bám víu nương tựa
và có em Hà nâng đỡ anh trong cuộc sống hằng ngày nếu
không anh đã nhảy xuống hồ tự vận, khi nhìn lại mình những
lúc ấy mà cứ tưởng rằng ai rất xa lạ…”
Tôi ngồi im chờ đợi anh nói tiếp, vì
bản tính Lãng từ ngày xưa ít khi thổ lộ nỗi lòng với
ai. Ngay cả những lần về phép rồi trở ra đơn vị, mỗi khi
chia tay Lãng cũng chỉ lặng lẽ trao gửi bằng ánh mắt thương
yêu, trong khi tôi thắc thỏm âu lo cho anh ngoài trận địa. Mơ màng
nhìn ra ngoài cừa sổ, những cây thông ướt sũng nước
mưa và gió vẫn rít từng cơn như những tiếng thở dài
não nuột:
“Ở gần bà cô nhiều
năm mà anh vẫn chẳng thuộc được bao nhiêu kinh kệ, nhưng đã
bình tâm lại được nhờ quen dần với tiếng chuông tiếng
mõ. Đối với anh lúc đó đời chỉ có hai nơi, một
nơi là cõi bên kia và nơi anh đang sống là cõi bên này.
Cõi bên kia là bạn đời lính đã ra đi khi tuổi còn
xanh, những người thân đã khuất trong gia đình, dù sao thì
họ cũng về nơi an nghỉ, anh cầu cho họ tìm được một thế
giới tốt đẹp hơn cõi đời đầy khổ luỵ. Cõi bên
này xem vậy mà khổ hơn, những người dân sống xung quanh anh hay
những nơi anh đã đi qua, họ cam chịu một đời lam lũ vì
không có cách nào thoát ra được, họ cũng phải chống
chỏi để tồn tại trong vất vả nhọc nhằn. Đời có gì
vui đâu, chưa kể bịnh hoạn ốm đau tiền đâu mà chạy
chữa, nghĩ vậy nên anh chỉ cầu an cho họ. Nói là tu nhưng đó
chỉ là cách giúp cho tâm hồn mình bình thản hơn để
chịu cái nghiệp khổ mình phải trả, vượt lên trên cái
khổ để nhìn ra hạnh phúc nhiều khi giản dị đến không
ngờ. Dù em không nói nhưng anh cũng hiểu cái khổ mà em phải
ôm mang, chẳng qua cũng chỉ là nghiệp mà em phải trả, trả chưa
xong thì lòng có khi nào an ổn mà nghĩ tới hạnh phúc.”
Tôi thổn thức lắng nghe từng
lời chia xẻ của Lãng, dù chưa kể cho Lãng nghe bao nhiêu mà
sao anh đã hiểu và soi thấu tâm hồn tôi cũng đang khắc khoải
vì cô đơn. Lãng nhìn tôi đầy thương mến, như một
người anh vẫn săn sóc cô em gái nhỏ của mình:
“ Nếu anh không lầm thì Ngọc vẫn còn
nhiều bổn phận, em vẫn phải đi làm có đúng không?”
Tôi gật đầu trong nỗi phiền muộn,
anh nghĩ đúng, tôi còn phải vật lộn với cuộc sống vì
chưa tới tuổi nghỉ ngơi, hai đứa con chưa lập gia đình vẫn
làm tôi quan tâm nghĩ ngợi. Lại hay hoài nghi về cuộc đời
và tình người, tôi khó tìm ra sự an bình như đời
sống của anh. Lãng âu yếm nhìn tôi và hỏi:
“ Nếu Ngọc bằng lòng thì chiều nay trời
hết mưa, anh mời em ra phía sau nhà nhìn ra hàng thông và vườn
rau xa xa, anh sẽ vẽ bức tranh để kỷ niệm ngày gặp lại. Mai sau
nếu như một lẽ gì đó mình không gặp lại, nhìn bức
tranh anh vẫn thấy ấm lòng và tưởng như mình chưa hề xa
nhau.”
Hình như trời cũng chiều lòng
người, cơn mưa đêm về sáng đã ngưng, trả lại cho
bầu trời sắp sang Xuân những tia nắng mềm mại óng ả. Tôi
không ngờ Lãng vẽ nhanh quá,cảnh vật quanh đây như tấm ảnh
đã ghi vào trí Lãng và anh chỉ cần quơ đôi tay ra là
nắm được. Bức tranh có hồn đến không ngờ khi Lãng vẽ
thêm vào cảnh phía sau lưng một dáng người phụ nữ ngồi
nhìn ra phía xa, ánh nắng chiếu qua mái tóc và đọng lại
trên đó lung linh một vạt nắng.
Suốt buổi chiều hôm đó tôi ngơ ngẩn trong trạng thái
của người mộng du. Tình yêu ngày nào đã đánh mất
như nắm được trong tay, đẹp như một vạt nắng vương
trên mái tóc, nhưng chao ơi có ai nắm được nắng bao giờ.
Nghĩ đến hai chữ “Định Mệnh” tôi lại rùng mình
và nếu cho là mỗi phút giây hiện tại tôi đang có là
hạnh phúc, thì hãy hưởng chút hạnh phúc nhỏ bé ấy
đi. Không dám hứa với Lãng là sẽ có một ngày gặp
lại, thôi thì đến đâu hay đến đó, cũng ngay sáng
hôm sau tôi theo Hà trở về phố thị vì bạn cần phải chuẩn
bị cho ngày Tết của gia đình. Trước khi chia tay, Lãng chỉ đưa
cho tôi một mảnh giấy nhỏ ghi mấy vần thơ:
“ Lạ lùng sao có vạt nắng chiều sương
Len lén đến nghiêng vai ngoài song cửa
Ôi vạt nắng hong bàn tay buốt gía
Nắng muộn màng mà ấm cả hồn
ta …”
Nguyên Nhung
TỔ HỢP MÌ SỢI.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
Sáng thứ
bảy tôi nấu món mì đồ biển thập cẩm. Những nguyên
liệu, gia vị đã đấy đủ nào tôm tươi, mực tươi,
cá viên chiên, gìo sống, cần Tàu và gói mì sợi Canada
quen thuôc tôi vẫn hay dùng.
Vừa ninh nồi xương tôi vừa vui vẻ làm việc và
lắng nghe tin từ đài ti vi Việt Nam . Thì ra chỉ còn 3 ngày nữa
là kỷ niệm 30 tháng Tư, ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng
sản vào năm 1975.
Tôi
bỗng thẫn thờ và chạnh buồn, ngẩn ngơ mất mấy phút mà
hộp mì tươi vẫn còn cầm trên tay, nhìn hộp mì sợi,
bỗng gợi tôi nhớ ngay đến tổ hợp mì sợi của thời kỳ
sau biến cố 1975. Hồn tôi như dòng sông chảy miệt mài về
miền qúa khứ.
**********************
Sau khi công sản chiếm miền
Nam Việt Nam họ chủ trương lùa dân thành phố đi kinh tế mới,
một đề án to lớn mà rỗng tuếch vì không hề được
đầu tư chuẩn bị. Bao nhiêu gia đình đã phải ra đi dù
họ không hề mong muốn. Họ đập phá nhà cửa để lấy
tôn, lấy gỗ hoặc là mang đến vùng kinh tế mới để cất
lại nhà cửa, hoặc bán lấy tiền, nhà gỗ nhà tôn trở
thành có gía trị hơn nhà xây gạch kiên cố vì còn
lấy được những vật liệu .
Nhưng dù là nhà loại nào cũng để
lại thảm cảnh, người đi rồi bỏ trơ lại căn nhà bị
đập phá nham nhở, vách tường chênh vênh, nền hoang, sân
lạnh. Trông thật đau lòng.
Người mừng vui chiến thắng!! Người nhà cửa tan
hoang !!!
Tại phường
tôi cư ngụ hai cán bộ tuyên truyền đi đến từng hộ nhà
dân để khuyến khích và thúc đẩy dân đi kinh tế mới.
Hai cán bộ, một nam một
nữ này đến nhà ai thì chủ nhà thường tìm cách
lánh mặt không tiếp nên họ cứ đến rồi đi, rồi đến
nữa, nên hầu như ai cũng quen mặt và gọi mỉa mai họ là “Hai
vợ chồng kinh tế mới”
Tôi cũng một lần phải tiếp khách không mời này. Họ
là cán bộ kinh tế của phường, hai người thay phiên nhau ca ngợi
về vùng kinh tế mới ở rừng lá Thuận Hải, sẽ có chuyến
xe đưa đồng bào đi về vùng đất mới, đến đó
lập nghiệp chúng ta sẽ khai hoang rừng thành ruộng đất tha hồ
mà trồng lúa ngô, khoai, sắn hay rau qủa, rồi nuôi thêm gà,
vịt, dần dần tiến lên heo, bò, chẳng bao lâu chúng ta sẽ làm
giàu từ hai bàn tay trắng.
Anh cán bộ kết luận:
- Có sức người sỏi đá cũng thành
cơm.
Tôi ngoan ngoãn
lắng nghe họ thao thao nói những điều tốt đẹp về vùng đất
mới, cứ nghĩ đến chuyện đốn cây rừng, phá bụi rậm
gai góc, xẻ đất, cuốc xới trồng trọt là tôi đã kinh
hồn hoảng vía, nhưng tôi không có công ăn việc làm, chồng
lại là “lính nguỵ” đang đi “học tập cải tạo”
thì họ chỉ muốn tống ra khỏi thành phố thôi. Tôi coi như
số phận mình không thoát khỏi kinh tế mới nên tôi cố vớt
vát may ra đời có chút gì vui. Kiên nhẫn đợi họ nói
xong tôi mới e dè hỏi:
- Thế rừng lá có…đẹp không ạ?
Chị cán bộ tưởng cá đã
cắn câu, chị ta vẽ vời thêm:
- Rừng lá đẹp lắm, có suối reo, có chim hót,
nhà chị ở sẽ trồng giàn bầu, giàn bí…đời sống
sẽ thanh thản êm đềm hơn hẳn ở thành phố.
Anh cán bộ nhấn mạnh:
- Chị đưa các con đi kinh tế mới
thì chồng chị đang học tập cải tạo sẽ chóng về.
Tôi hứa liều:
- Vâng, để tôi suy nghĩ..
Tôi đã nghĩ về rừng
đẹp như chị cán bộ diễn tả và như tôi từng mộng
mơ thời con gái, nào biết rằng trong rừng ngoài suối reo chim hót
còn có rắn rít muỗi mòng, có vắt, và các loại côn
trùng độc hại khác ..
Nhưng tôi biết làm gì trong khu rừng lá xa lạ ấy?
chưa kể cái tội sợ ma nữa. Làm sao mà tôi sống ở trong
rừng với 2 đứa con thơ được!!.
May qúa đúng lúc này thì tôi nghe tin
từ người bạn quen có một nhóm người ở Xóm Mới đang
thành lập tổ hợp mì sợi tại phường tôi, họ đã
đăng ký và xin được giấy phép rồi, chỉ cần thêm
vài hội viên góp vốn để trả chi phí lắp đặt máy
móc và thành hình.
Tôi đã liên lạc được với anh Tình trưởng nhóm
xin “một chân” trong tổ hợp và đồng ý góp cổ phần..
Thế là khi 2 cán bộ kinh
tế mới ghé nhà tôi lần nữa để thúc giục tôi đăng
ký đi kinh tế mới, tôi đã tự tin trả lời:
- Tôi sắp đi làm trong tổ
hợp mì sợi, cũng là góp sức lao động sản xuất thực
phẩm phục vụ đồng bào, xã hội. Bao giờ chồng tôi đi
học tập về thì sẽ tính chuyện đi kinh tế mới sau.
Đó là năm 1978.
Hai tháng sau thì tổ hợp
mì sợi bắt đầu hoạt động, địa điểm họ thuê
là 2 căn nhà tôn trong khu gia binh cũ phá các vách ngăn ra cho rộng
để làm nơi sản xuất, rất gần nhà tôi, đi bộ chừng
10 phút là tới.
Tuy
là từ căn nhà ở như hộ dân nhưng ở mặt tiền đường,
treo bảng hiệu lên cũng đập vào mắt người ta “ Tổ Hợp
Mì Sợi gia công phường10 Gò Vấp”. Bên trong tiếng máy
chạy ầm ĩ ( chắc vì máy cũ, phụ tùng rổm mới kêu
to đến thế?) và tiếng nói cười của mười mấy công
nhân mỗi ca cũng làm khối người mơ ước được vào
làm tổ hợp như tôi.
Từ một cỗ máy cũ và mớ sắt hư vụn nào đó,
anh Tình đã cải tiến thành cỗ máy làm mì sợi liên
hoàn, trông cũng oai lắm, đầu máy là thùng trộn bột, đoạn
giữa máy là cán bột và cuối cùng là máy cắt thành
sợi mì.
Nhân viên
tổ hợp đa số là cư dân trong xóm chúng tôi, chưa bao giờ
biết làm mì sợi là gì.
Khi thì tôi đứng chỗ máy cán bột khi thì
tôi cắt mì, và khi thì tôi vắt mì, hai bàn tay lả lướt
đưa những vạt mì sợi chảy từ máy xuống nia xuống mẹt
sao cho không bị rối, để chốc nữa sẽ cho vào lò hấp, khi
mì chín hoặc là sẽ giao mì sợi tươi hoặc là nắm
thành từng vắt phơi khô giao cho tổ lương thực của phường
tùy theo hợp đồng gia công.
Làm vài ngày quen tay, quen việc nên chẳng bao lâu
ai cũng thành thạo dù đứng ở khâu nào.
Tổ hợp mì sợi có 2 ca, ca sáng sớm
đến chiều và ca chiều đến khuya. Ai cũng phải làm 2 ca, thay qua
đổi lại cho công bằng.
Hồi ấy tôi còn trẻ, vẫn còn mê ngủ, nếu tôi làm
ca sáng thì có bác Mộc cùng làm và nhà bác gần
nhà tôi, là người đến gọi tôi dậy. Mỗi buổi sáng
tờ mờ, bác đứng trước cổng rào và gọi to mấy lần:
- Bông ơi là Bông…dậy
chưa?
Khi tôi giật
mình thức giấc thì chắc rằng mấy nhà hàng xóm bên cạnh
nhà tôi cũng thức giấc theo vì bác Mộc gào to qúa. May là
hàng xóm Việt Nam dễ tính và thông cảm không ai khiếu nại
gì cả.
Lần nào
tôi ra đến cổng cũng bị bác Mộc trách:
- Tao gọi mày như gọi đò sang sông!
Bác Mộc gốc dân Hà
Nội, di cư từ 1954, trước 1975 gia đình bác là gia đình
sang cả trong xóm, hai vợ chồng phong lưu như cậu mợ và đứa
con gái duy nhất của bác từ bé đã hay diện áo đầm
đi giày màu hồng xinh xắn thường làm tôi lúc bé đã
ước ao và ghen tị. Tôi và con gái bác bằng tuổi nhau, nên
bác Mộc xem tôi như hàng con cái.
Từ khi bác trai mất đi gia đình bác sa sút,
rồi biến cố 1975 lại càng thêm sa sút, bác Mộc phải ra chợ
bán hàng, nhưng bác vẫn “qúy phái” kiểu Hà Thành,
tóc vấn trần cài lược, áo trắng nõn, cổ đeo chuỗi
hạt ngọc màu xanh dù bác Mộc ngồi bán xôi vò, chè,
bánh trôi, bánh chay chình ình giữa chợ, kẻ qua người lại
và bụi rác ngổn ngang.
Hôm nào hàng ế, bác bưng cả rổ bánh chay hay xôi vò
đến nhà tôi bán tống bán táng giá “mão” rẻ
bèo bắt tôi mua bằng được. Bác bảo nhà mày em đông,
mua cho chúng nó ăn.
Bác
cũng đóng tiền vào tổ hợp mì sợi cho yên thân, khỏi
phải mỗi ngày nấu nướng chè bánh và bưng ra chợ bán
nữa.
Có bác
Mộc ca chúng tôi vui nhộn hẳn lên vì bác hay thơ phú và
kể chuyện tiếu lâm, chuyện tiếu lâm của bác thanh mà tục,
tục mà thanh, ai cũng thích nghe.
Có hôm bác ngâm thơ “Đồi thông hai mộ”
:
- “Anh Đinh Lăng giờ
đây đâu nhỉ?
Anh của em yêu qúy nhất đời.”
Có hôm bác trải chiếc chiếu xuống đất
để mọi người ngồi vắt mì sợi thành từng nắm đem
phơi khô bác liền ngâm nga hai câu thơ, không biết là cao dao
tục ngữ của dân gian hay do bác sáng chế ra:
- “Trải chiếu ra đôi ta nằm xuống,
Xong cuộc rồi ta cuộn chiếu
lên…”
Một bác
gái khác vội phản đối:
- Ấy chết bác Mộc đừng ngâm thơ loại này
nữa, ở đây có mấy đứa xa chồng, đừng làm hư chúng
nó…
Khi tôi đổi
sang làm ca tối, tôi vốn nhát gan sợ ma thì có cô Tỵ làm
cùng ca đưa về tận nhà vì nhà cô phải đi ngang nhà
tôi.
Một đêm
khuya khi tôi và cô Tỵ đang đi trong khu xóm, đến nhà thờ
tôi trông thấy 1 bóng người mặc áo khoác dài như áo
mưa đang đứng nép mình vào góc cổng nhà thờ. Tôi
sợ hãi vừa chạy nhanh vừa la to:
- Cô Tỵ ơi, có người! có người !
Cô Tỵ cũng sợ vội chạy
theo cho kịp tôi, khi hoàn hồn cô Tỵ nói:
- Bông ơi là Bông, sao em dại thế,
bóng người ấy là kẻ gian đấy, đang đêm mà mặc
áo khoác dài tới chân đi lang bang trong xóm là để rình
mò nhà người ta thôi. Nó thấy mình nó sợ phải ẩn
mình trong góc cổng nhà thờ mà Bông lại sợ nó thế mới
ngược đời. Thằng kẻ cắp ấy được một phen tha hồ
mà cười.
- Nhưng nó
việc gì phải mặc áo khóac hay áo mưa thế hả cô Tỵ?
- Để không ai đoán ra
hình dạng nó đấy mà
- Lần sau em sẽ rút kinh nghiệm, nếu gặp nó chúng
mình cứ hiên ngang đi qua mặt nó nhé
Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ
cứ …chạy là tốt nhất, còn cô Tỵ có chạy hay không
thì mặc cô ấy..
Nghe chuyện này bác Mộc lại thân mến mắng tôi:
- Bông ơi, mày đi làm
mà như công chúa đi chơi, sáng có người đến gọi
đi, khuya có người đưa về tận nhà.
Tôi đi làm thì nhởn nhơ như vậy,
em và con tôi lại hay đến tổ mì tìm tôi vì đủ những
lý do. Chưa có ai đi làm mà thoải mái và “tiện nghi”
như tôi.
Cũng may vì
từ tổ trưởng đến tổ viên của tổ hợp mì sợi toàn
là người cùng chế độ cũ, cùng hoàn cảnh nên gần
gũi và thông cảm nhau lắm.
Cô em gái áp úp tên Thoa lúc ấy trông coi thằng
Bí con tôi mới lên 3 tuổi những khi tôi đi làm. Thằng Bí
sinh tháng 8 năm 1975 vào cái năm lịch sử buồn của miền Nam Việt
Nam .. Mẹ tôi mới mất nên chị em tôi ở chung một nhà. Tôi
là chị cả đầu đàn.
Dì mới 12 tuổi đầu bế cháu vẹo cả sườn
vì thằng bé mập mạp, đi bộ từ nhà đến tổ mì.
Hai dì cháu nó đứng
ngoài cửa sổ tổ mì nhìn vào trong, hễ thấy bóng tôi
là cùng reo lên mừng rỡ rối rít như bắt gặp được
vàng hoặc như ngàn trùng xa cách, lâu lắm mới gặp lại
nhau:
- Chị Bông ơi.. chị
ơi…chị ơi…
- Mẹ Bông ơi…mẹ ơi…mẹ ơi…
Tôi cũng mừng vui không kém nhưng phải
tất tả chạy ra bên cửa sổ và gỉa bộ mắng em gái:
- Mày bế cháu đến
đây làm gì?
-
Thằng Bí khóc đòi gặp mẹ, em bế nó đến đây
chơi cho nó vui.
- Chỗ người
ta làm việc chứ có phải công viên đâu mà chơi cho vui,
hả? hả?
Thằng Bí
nào hiểu chỗ làm việc là gì, cứ đòi hỏi:
- Mẹ về nhà đi, mẹ
bế con đi…
- Còn lâu
mẹ mới về.
Thoa nhanh nhẩu:
- Em với thằng Bí chơi ở
ngoài sân đợi chị về luôn.
Thế là tôi vừa làm việc vừa thỉnh
thoảng trông thấy con và em mình lấp ló ở khung cửa sổ. Khi
nào rảnh tay tôi lại chạy ra cửa sổ để…mỉm cười
với chúng nó, như muốn nói với thằng con bé bỏng rằng
“Con ơi, mẹ vẫn ở bên con, đừng khóc nhè nhé”
Thoa bế thằng Bí đến
tổ mì thường xuyên như cơm bữa, đến chơi vớ vẩn
hoặc có lý do đàng hoàng.
Có hôm Thoa bế cháu đến, tôi lại hiện ra
ở khung cửa sổ tổ mì để “giao lưu” với em mình, chưa
kịp hỏi thì Thoa đã nghiêm trọng nói
- Chị Bông ơi, thằng phường đội
vừa đến nhà mình hỏi anh Thủy đâu? Em nói là đi học
lâu lắm mới về.
Con
bé thông minh và khôn ngoan lắm dù chỉ là nghe hóng mà đã
hiểu chuyện, nó biết là thằng phường đội đến nhà
nào là đưa giấy báo “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự”
cho nhà nấy, nên nhà nào có con trai đến tuổi lính rất
lo sợ thằng phường đội ghé nhà. Tôi dặn Thoa:
- Trưa nay Thủy về thì em
nói Thủy ăn cơm xong đạp xe lên Hàng Xanh nhà bác Châu
tạm trú vài ngày nhé, thằng phường đội sẽ đến
vài lần nữa không gặp Thủy để giao giấy báo “trúng
tuyển” thì cũng qua đợt giao quân nghĩa vụ quân sự, là
Thủy sẽ thoát được đợt này.
Thế là tuy tôi đi làm nhưng vẫn “chỉ
huy” và “điều hành” được công việc ở nhà.
Thời sau 1975 nhà nào có
con em bị nhận giấy “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” cũng
đau khổ như nhận giấy báo tử. Tôi quen một gia đình ở
Xóm Mới, bà cho thằng con trai và đứa cháu ngoại đi vượt
biên bị chết biển mà bà khóc thương thằng cháu ngoại
vật vã hơn là thương thằng con trai. Hỏi ra thì bà giải
thích:
- Thằng con
trai tôi bị gọi đi “nghĩa vụ quân sự” thì coi như trước
sau gì cũng chết, chỉ thương thằng cháu ngoại ngây thơ vô
tội…
Rồi bà
Bắc kỳ di cư ở Xóm Mới đay nghiến :
- Tiên sư cha chúng nó, chúng bắt
buộc thanh niên đi bộ đội mà còn gỉa nhân gỉa nghĩa,
láo khoét và mồm mép gọi là “Trúng tuyển” làm
như khó khăn lắm, cạnh tranh lắm và vinh dự lắm mới được
đi. Con ông cháu cha chúng nó chẳng đứa nào được “trúng
tuyển ” cả, mà toàn đi du học hay lao động Đông Âu,
Liên Sô đua nhau gởi hàng hóa về Việt Nam như đi buôn. Hay
chúng nó làm việc trong nước thì cũng là ăn trên ngồi
chốc thiên hạ, nhà cửa mình chúng chiếm, công việc ngon chúng
hưởng.
Có hôm
thì Thoa có lý do khác khi bồng bế cháu đến tổ mì gặp
tôi:
- Chị Bông
ơi, sổ mua chất đốt để ở đâu để em nộp cho tổ
trưởng tổ dân phố ngày mai mua dầu hôi.
- Trong ngăn kéo bàn trong phòng ngủ đấy.
- Em tìm rồi mà không thấy…
Tôi ngẫm nghĩ một lúc
và nhớ ra:
- À , hôm
nọ chị mang ra hợp tác xã mua củi còn để ở kệ sách
thì phải…
Cái kệ
sách màu nâu yêu qúy của tôi, cái kệ sách mà tôi
đã thuê bác Tùng thợ mộc trong xóm đóng theo đúng
kiểu tôi vẽ ra, kê ngoài phòng khách không còn thuần túy
là sách nữa vì tôi đã phải đốt hay vứt đi khá
nhiều những cuốn không thích hợp với chế độ mới nếu
không muốn bị kết tội “tàng trữ văn hóa phẩm phản
động và đồi truỵ”, nên kệ sách lỏng le, đựng
đủ thứ lặt vặt trời ơi đất hỡi, không biết Thoa có
bới tìm ra cuốn sổ chất đốt không? hay lại chạy ra tổ mì
hỏi tôi lần nữa.
Tôi đi mua củi về lười biếng để cuốn sổ chất
đốt ở đấy rồi quên phéng đi không cất trở lại
chỗ cũ .
Hôm thì
Thoa đến để bàn chuyện ăn uống:
- Sáng mai đến lượt tổ mình được
mua bánh mì tổ. Mai chị đừng làm món mì sợi hấp chấm
xì dầu nữa nhé, em ngán lắm.
- Chị cũng ngán nữa đây, nói chi em. Thôi
để hôm nào lãnh lương chị sẽ nấu một nồi xúp
xương chan mì sợi rắc hành ngò tiêu ớt vào ăn ngon lắm.
Thoa tươi nét mặt, háo
hức nhưng thắc mắc:
- Em cũng thích ăn mì sợi có chan nước lèo như thế,
nhưng mà có thịt không?
Tôi trả lời nước đôi, nó muốn hiểu sao thì
hiểu:
- Chị không
chắc là xếp hàng chen lấn nổi với người ta để mua thịt
heo theo sổ đâu, mà mua thịt chợ đen thì đắt lắm…
Ôi, tôi chán làm sao cảnh
xếp hàng mua thịt ở ngoài chợ, cả một đám đông các
bà các cô dù ở nhà thanh lịch cỡ nào đến đây
cũng hơn thua, xô đẩy chen lấn, cũng bu đen bu đỏ quanh phản thịt
như đàn kiến bu quanh hũ đường, nhưng tay vẫn cầm chặt
cuốn “Sổ thực phẩm” như cầm một báu vật không thể
đánh rơi đánh mất, người đứng vòng ngoài không
thể nào nhìn thấy mặt mũi miếng thịt. Thấy mặt mũi cô
bán thịt cũng khó như thấy dung nhan thủ trưởng cơ quan nào
đó.
Cô hàng
thịt cắt thịt thoăn thoắt và cũng thoăn thoắt thảy miếng thịt
lên bàn cân, cái cân còn nghiêng ngửa, chông chênh chưa
ồn định thì cô đã nhanh tay lấy thịt ra đưa cho khách
hàng, mà ai cũng hiểu là miếng thịt ấy cân non chưa đủ
số lượng, nhưng vẫn “hồ hởi” nhận miếng thịt để
thoát ra khỏi vòng vây, còn hơn là khiếu nại đã không
được giải quyết còn bị cô hàng thịt sưng xỉa, cửa
quyền và chảnh chọe: “Nếu không muốn thì trả lại thịt
đây”.Hoặc cô lườm nguýt mắng cho: “ Chỉ làm mất
thì giờ của đám đông tập thể bà con”.
Cô đã lấy danh nghĩa
“tập thể” ra đe dọa là quan trọng lắm, không ai dám giằng
co với cô thêm nữa.
Mỗi ngày bán hàng xong ít ra cô hàng thịt cũng kiếm
được mấy ký thịt “thặng dư” mang về nhà.
Đấy là cảnh chợ búa,
tại các cơ quan cũng “phàm phu tục tử” chẳng kém. Khi mà
Việt cộng chơi trò quản lý bao tử, làm con người thiếu
thốn đói khát thì con người bỗng trở nên thực tế,
tầm thường và có cả hèn mọn. Bạn tôi là giáo viên
kể rằng mỗi khi mua thịt heo định kỳ, các giáo viên lên
văn phòng để chia chác mỗi người nửa ký, có những
ganh tị, bất đồng và tranh dành vì miếng thịt này không
ngon bằng miếng thịt kia.
Nếu các học trò mà chứng kiến được cảnh này
thì không biết hình ảnh thầy cô giáo của chúng có còn
đáng trân trọng nữa không?
Tan trường giáo viên ra về với miếng thịt heo buộc
dây treo lủng lẳng ở tay lái xe đạp đã là một ngày
hoan hỉ.
Nét mặt
Thoa lại ỉu xìu với thực tế:
- Nhưng chị ơi…ngày mai món bánh mì
tổ ăn với chuối hay hấp mỡ hành ăn với rau sống chấm nước
mắm em cũng ngán luôn. Chị mua trứng về tráng ăn với bánh
mì nhé?
“Bánh
mì tổ” khác với bánh mì ngoài chợ đen, vì vừa
cứng vừa dở, bánh để nguội, để cũ là cứng như
đá, ném ai chắc cũng chảy máu đầu hay gây thương tích…trầm
trọng !
Tôi gắt
lên:
- Chưa biết,
mai ăn thì mai tính.
Thời
buổi xã hội chủ nghĩa, thực phẩm bán theo quy chế, hạn chế
mỗi đầu người, ngoài phần gạo ít ỏi theo tiêu chuẩn
mà gạo thì đầy bông cỏ và sạn, họ còn bán kèm
theo mì sợi, bột mì, hay khoai lang, khoai mì, hạt bo bo.
Đến nhà nào cũng thấy ông già
bà cả hay trẻ con ngồi trước cái mâm trải gạo mỏng ra để
nhặt sạn hay bông cỏ trước khi nấu cơm. Thế mà có khi vẫn
còn sót, nhiều người đang nhai cơm vấp phải hạt sạn tế
tái cả răng và tê tái cả cõi lòng.
Thoa nhà tôi thích công việc nhàn
hạ này, nó thường ao ước:
- Cầu trời khi lớn lên ai thuê em làm công
việc nhặt bông cỏ và sạn gạo.
Tôi rên rỉ:
- Thoa ơi, tới lúc ấy mà vẫn phải ăn
loại gạo xấu kém chất lượng này sao! Em phải cầu trời là
mai mốt không phải làm công việc nhặt sạn và bông cỏ gạo
nữa nhé.
Ngoài ra còn
những “công việc” như nay đi xếp hàng mua nước mắm hay
mớ cá ươn ở “Cửa hàng thủy hải sản”, mai xếp
hàng mua bó rau gìa quả héo từ “Cửa hàng rau qủa”.
Biết là hàng không ngon, kém chất lượng nhưng vì gía
rẻ hơn gía chợ đen.nên người ta vẫn chen lấn chờ đợi
để mua cho bằng được. Mốt lại cũng xếp hàng, mua nhu yếu
phẩm tại “Cửa hàng bách hóa tổng hợp”, gồm mấy
gói thuốc lá Hoa Mai hay Đà Lạt ( dù nhà có hút hay không
họ vẫn cứ bán theo tiêu chuẩn) một dúm bột ngọt, nửa ký
đường v.v....
Thế là
phát sinh ra “nghề” mua đi bán lại hàng nhu yếu phẩm. Người
mua đứng xếp hàng trước cửa hàng bách hóa thì mấy
con buôn đứng luẩn quẩn gần đó, mua hàng ra bán ngay tại
chỗ, tiền trao cháo múc vô cùng nhanh chóng và thuận lợi.
Đã gọi là “nhu
yếu phẩm” thì nhà nào chẳng cần dùng, tiêu chuẩn ít
ỏi chưa đủ dùng, nhưng vì thiếu thốn, vì cần tiền
nên phải nhịn dùng để bán đi lấy tiền chi tiêu cho chuyện
khác cần kíp hơn.
“Cửa hàng bách hóa tổng hợp” cái tên nghe to lớn
và lộng lẫy thế mà hàng hoá chỉ lèo tèo và đơn
điệu bày trên kệ, những món mà không ai muốn mua vì vừa
đắt vừa không cần thiết, món nào có giá thì các
cô nhân viên bán hàng chỉ bán ra một ít lấy lệ, còn
thì các cô chia nhau mua và tuồn ra chợ đen kiếm lời. Tóm lại
các nhân viên bán hàng cho các cửa hàng nhà nước vừa
ăn chận của dân vừa ăn hiếp dân, không cần biết lịch
sự là gì. Xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những loại
người ấy.
Ấy là
chưa kể thỉnh thoảng còn phải đi họp tổ dân phố, nhiều
nhà “phái” cha mẹ gìa, tai điếc, mắt mờ hay con trẻ, tuổi
vị thành niên đi họp, hiểu được nội dung cuộc họp hay
không? Không thành vấn đề, miễn là …có mặt., để
khỏi bị tổ dân phố phê bình kiểm điểm.
Ông già bà cả và trẻ con thật
là hữu ích.
Thành ra sống
dưới xã hội chủ nghĩa ai cũng bận rộn và có việc làm
cả ngày.
Ban đầu
nghe danh từ “hạt bo bo” tôi hí hửng tưởng hạt bo bo tôi
thường ăn trong ly sâm bổ lượng ngày xưa, vừa trắng vừa
mềm vừa bùi bùi. Nhưng hoá ra là hạt bo bo khác, bo bo màu
vàng ngà ngà, nếu chà vỏ rồi còn đỡ cứng, chưa
chà vỏ thì hạt bo bo vừa dai vừa cứng là nguyên nhân chính
đưa đến sau này nhiều người dân thành phố miền Nam bị
bệnh đau bao tử.
Nhưng
cũng…nhờ hạt bo bo mà dân chúng có thêm nghề mới nữa
là máy chà vỏ hạt bo bo và máy xay hạt bo bo cho vỡ nhỏ ra.
Trong cái khó ló ra cái khôn để mà sống.
Nghe đồn món bo bo này của đất
nước xã hội chủ nghĩa anh em nào đó vốn là thực phẩm
nuôi ngựa, trâu, bò của nước họ, viện trợ cho Việt Nam dùng
làm thực phẩm cho con người.
Hàng xóm đua nhau chế biến các sản phẩm thay cho
lương thực lúa gạo ấy, nhà nọ bắt chước nhà kia
Món bột mì tôi cũng
chế biến thành bánh canh nước dừa, nhồi bột, cán mỏng
cắt sợi làm bánh canh và nấu với nước cốt dừa nêm
mắm muối bột ngọt.
Món mì sợi thì hấp vào nồi cơm mang ra chấm xì dầu
hay nước mắm tỏi ớt.
Khoai lang, khoai mì thì luộc ăn chơi ngao ngán đến điêu
đứng, ăn không hết, khoai lang bị sùng thì đem gọt vỏ phơi
khô bán cho mấy người nuôi heo vớt vát được đồng
nào hay đồng ấy.
Còn món bo bo chỉ có nước chà vỏ, xay nhỏ rồi độn
vào gạo nấu thành cơm.
Một hôm tổ hợp mì sợi long trọng tổ chức liên
hoan để đón tiếp ông phó chủ tịch đặc trách kinh tế
của phường đến tham quan và có buổi họp cực kỳ quan trọng,
tất cả công nhân không làm việc để tham dự buổi họp
này.
Ông phó
chủ tịch diễn thuyết một hồi lâu và đưa ra những ý
tưởng mà ông hớn hở cho là sẽ thành hiện thực không
xa:
- Nay mai tổ hợp mì
sợi của chúng ta sẽ tiến xa hơn, sẽ phục vụ nhu cầu của
nhân dân nhiều hơn, thành nhà máy sản xuất mì sợi chứ
không phải trong căn nhà tuyềnh toàng như thế này, sẽ có
nhà ăn cho công nhân viên, sẽ có nhà trẻ cho con em công nhân
viên và những quy chế phúc lợi khác nữa.
Sau buổi họp của ông phó phường
ai cũng phấn khởi. Tôi thì lo xa nếu tổ hợp mì sợi biến
thành nhà máy thì 2 dì cháu Thoa và thằng Bí hết còn
chỗ đến đây chơi và gặp tôi, vì nhà máy sẽ
có cổng rào, có nhân viên bảo vệ, ai cho dì cháu nó
bồng bế nhau vào được?
Một chị bạn hiểu ý tôi, an ủi:
- Đừng lo nhé Bông, lúc ấy mày
sẽ gởi thằng Bí vào nhà trẻ trong khu nhà máy, càng gần
con chứ sao.
Nghĩ tới
điều đó tôi mừng vui hết lo buồn nữa, tôi tưởng tượng
giờ nghỉ trưa sẽ sang khu nhà trẻ thăm con, chiều tan ca tôi bế
nó về.
Nhưng bác
Mộc đã thức tỉnh giấc mơ của tôi:
- Bông ơi, mày tin gì lũ Việt cộng
hả? chúng nó nói thì như thánh như thần. Đơn gỉan
ai cũng hiểu là bột mì ở đâu ra để nhà máy sản
xuất mì sợi chứ? nước Việt Nam mình đâu có trồng
lúa mì, chỉ đang nhận viện trợ lúa mì khẩn cấp từ
nước Nga trong thời gian khó khăn này thôi, mai kia mốt nọ Nga sô
hết viện trợ thì tổ hợp mì sợi cũng đóng cửa chứ
đừng nói nhà máy to tướng trong tương lai.. Với lại dân
mình dùng lương thực chủ yếu là gạo chứ có phải
mì sợi đâu. Chúng ta cứ làm việc, được tới đâu
hay tới đó, còn hơn là ngồi không ở nhà bị gọi đi
làm thủy lợi không công cho nhà nước, để chúng nó
bóc lột sức lao động của mình..
Mỗi lần họp tổ dân phố mà phổ biến
tin đi làm thủy lợi, ai rảnh rang không có công ăn việc làm
như tôi là lo âu hồi hộp vì mình sẽ được “ưu
tiên” đi trước. Làm thủy lợi là đào đất ven bờ
hay đào vét trong lòng kinh, lòng rạch cho kinh rạch thông thương
xuôi chảy. Công việc bẩn thỉu, nặng nhọc và vất vả vì
tất cả công đoạn đều làm bằng tay chân cuốc xẻng, bằng
sức người, nên chẳng ai muốn đi.
Tôi đã một lần đi làm thủy lợi
tại xã Bình Mỹ A thuộc Củ Chi ráp ranh với Hốc Môn, quần
sắn cao lên, lội xuống con kinh đầy bùn rác hôi hám. Một
dãy người cũng tư thế như tôi đứng xếp hàng cạnh
nhau để chuyền tay nhau những cục đất vừa đào xới lên
ở đầu kia. Tôi là người đứng cuối cùng ở đầu
này.
Khi cục đất
đến tay tôi, thay vì phải chụp nhanh và quăng lên bờ thì
tôi chợt rụng rời khi nhìn thấy mấy đầu con giun đang lòng
thòng ngọ nguậy nên không đỡ cục đất mà họ đã
tốn bao công phu từ người đào lên đến qua tay hơn chục
người. Cục đất rơi xuống lòng kinh, thế là toi công, còn
tôi thì vẫn bàng hoàng sợ hãi mấy con giun đất và tủi
thân đứng khóc giữa lòng con kinh dơ bẩn của xứ Củ Chi.
Tôi cũng mấy lần
nghe tin đồn là bột mì viện trợ đến từ nước Nga, chẳng
biết họ lấy thông tin từ đâu, nhưng 1 cô bạn tôi là
nhân viên cửa hàng lương thực quận đã cả quyết thế
vì cô thấy bao đựng bột mì ghi chữ Nga ở bên ngoài.
Tôi vặn vẹo hỏi bạn:
- Mày có biết chữ Nga bao
giờ đâu. Đoán mò hả?
- Thì cứ thấy dòng chữ có mẫu tự nào viết
ngược là tiếng Nga , cần gì phải đoán cho mất công
Đúng thế, người ta kể
rằng những người đi vượt biển ra khơi thấy tàu có chữ
nào ngược là tàu Nga thì tránh cho xa., không đến gần,
nó không cứu mà còn bắt giao cho đàn em xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nó.
Lời
bác Mộc thật có lý, một người lớn tuổi giàu kinh nghiệm
đời và nhất là kinh nghiệm cộng sản từ ngày xưa ngoài
Bắc. Bác Mộc đã than thở :
- Tôi phải bỏ “bác Hồ” từ Bắc chạy
vào Nam mà “bác” không tha còn đuổi theo.
Tôi lại có cái lo khác, sợ tổ
hợp mì sợi hết bột làm và đóng cửa ngang xương khi
tôi lãnh lương chưa đủ gỡ lại vốn liếng đã đóng
góp cổ phần.
Ở xóm
tôi cũng như nhiều xóm khác mấy đàn bà con gái loại
vô công rỗi nghề đang lao động làm công việc đan mây
tre lá mà họ đùa vui gọi vắn tắt là nghề “Xỏ lá”.
Ngồi gù lưng cả
ngày, nhà cửa bề bộn mây tre để đan thành những cái
rổ, cái khay v.v… gia công cho tổ hợp, món hàng rẻ tiền nên
công cán chẳng là bao.
Chị hàng xóm khoe với tôi:
- Nay mai tổ hợp mây tre lá sẽ xuất khẩu
hàng thủ công ra nước ngoài mang lại công ăn việc làm dồi
dào cho chị em, làm không hết việc, nâng cao thu nhập.
Trời ! chắc tổ hợp mây
tre lá này cũng đã được ông phó chủ tịch phường
đến tham quan và hứa hẹn những lời bay bổng như ông đã
nói với tổ hợp mì sợi chúng tôi sau khi đã nhận những
phong bì và ăn uống liên hoan chiêu đãi..
Tính tôi không kiên nhẫn, ngồi xỏ
lá thì thế nào lá cũng đâm vào tay làm đứt tay
chảy máu.
Hay là tôi
sẽ mua 1 cái máy se cói về se cói gia công? Không xong, món này
cũng bừa bộn nhà cửa lắm, con tôi đi qua đi lại thế nào
cũng vấp ngã, tội nghiệp nó !
Hay là mua cái máy chà gạo gia công cho hàng
xóm vì nhà cha mẹ tôi ngay mặt tiền đường dễ mở tiệm
? Cũng không thích, vì bụi cám làm bẩn nhà và hít
bụi vào làm hại phổi, tôi chết sớm ai nuôi con tôi trong khi
chồng đi tù tội chưa biết ngày về.?
Tôi thật sự chán nản khi nghĩ đến
những “ngành nghề” ấy.
Sự lo xa của tôi không vô lý và lời phán
đoán của bác Mộc càng có lý. Tổ hợp mì sợi của
tôi làm việc được hơn 1 năm thì bắt đầu sa sút
vì thiếu bột mì, tổ lương thực phường không có bột
để nhờ tổ mì chế biến gia công nữa.
Bác Mộc thở dài dạy cho tôi một
bài học:
- Mày thấy
chưa? chớ bao giờ tin lũ chúng nó. Thử hỏi bột mì ở đâu
ra mà chúng nó cấp giấy phép lu bù cho người ta đua nhau mở
tổ hợp sản xuất mì sợi khắp quận Gò Vấp này và
những quận huyện khác trong thành phố để bây giờ cùng
chết yểu, chết chùm cả lũ ??
Tôi thật sự ngưỡng mộ sự hiểu biết khôn
ngoan của bác Mộc nên lo lắng hỏi sang chuyện khác với vẻ tin
cậy hết lòng:
- Bác Mộc
ơi, thế họ nói mấy ông sĩ quan đi trình diện “học tập
cải tạo” 10 ngày sẽ về mà nay đã hơn 4 năm rồi. Vậy
bác biết bao giờ về không?
- Mày đã trồng cây mít bao giờ chưa? 3 năm
mít mới có qủa, thì cứ từ hai lần cái 3 năm ấy trở
lên may ra chồng mày mới được tha về.
Tôi chán nản:
- Nghĩa là bình quân từ 6 năm và
hơn nữa hở bác? hở trời??
Cuối cùng thì tổ hợp mì sợi chính thức
đóng cửa khi tôi chưa thu hồi đủ vốn đã đóng góp
đúng như tôi đã lo ngại. Anh Tình tổ trưởng chỉ biết
hứa hẹn an ủi mọi người:
- Bao giờ tôi bán được cái máy làm mì
sợi liên hoàn kia sẽ bồi thường lại các tổ viên mỗi
người một ít.
-
Nhưng thời buổi này bột mì khan hiếm ai mua máy về làm gì
hở anh?
Anh Tình chán
nản:
- Thì đành
bán đống sắt vụn như từ lúc nó chưa thành hình cái
máy liên hoàn mì sợi này.
Ối giời ôi, không biết lúc này ông
phó phường đặc trách về kinh tế, người đã nhận
mấy lần phong bì của anh Tình tổ trưởng từ lúc bắt đầu
đăng ký xin thành lập tổ mì đến khi đi vào hoạt động,
người đã mấy lần ăn liên hoan phủ phê với tổ mì,
đã đến tham quan và tổ chức buổi họp quan trọng với tổ
mì sợi của chúng tôi có còn nhớ những lời phát biểu
vàng ngọc “vô gía” của ông không? Tổ hợp mì sợi
sẽ tiến lên thành nhà máy mì sợi.
Bây giờ cái máy liên hoàn làm
mì sợi cũng đang thành đống sắt vụn “vô giá”
nằm chơ vơ chờ rỉ sét kia kìa
Nhà máy sản xuất mì sợi trong tương
lai của ông phó phường chỉ là một hồn ma bóng quế không
bao giờ là thật.
Những
ngày nghỉ ở nhà tôi chưa biết làm gì vì vẫn thấp
thỏm “canh chừng” tổ hợp mì sợi với hi vọng biết đâu
nước Nga lại thương tình mà viện trợ bột mì cho Việt
Nam một lần nữa thì tôi lại có công ăn việc làm.
Hoặc là cái máy làm
mì sợi liên hoàn kia bán được thì tôi cũng sẽ được
chia ít tiền.
Tình trạng
tổ mì của tôi sống dở chết dở chỉ là chuyện nhỏ.
Nông trường Lê Minh Xuân huyện Bình Chánh trồng trái thơm
do thanh niên xung phong đổ bao nhiêu mồ hôi công sức cuốc đất
và trồng trọt mới là chuyện lớn. Kế hoạch nhà nước
đưa ra hô hào thanh niên xung phong trồng thơm để sản xuất
đã thất bại não nề.
Thơm tới mùa thu hoạch, cả nông trường thơm chín
vàng mà không có nơi tiêu thụ, đóng hộp xuất khẩu
thì còn non kém làm sao kiếm ra khách hàng, bán trong nội địa
càng ế ẩm vì thơm tươi ngon đầy rẫy, người ta mắc
mớ gì phải mua thơm đóng hộp vừa kém phẩm chất vừa
đắt tiền.
Thế là
trái thơm tuôn ào ào ra khắp các chợ búa lớn nhỏ trong
thành phố, đi đâu cũng thấy một trời màu vàng của
trái thơm đập vào mắt. Loại thơm trái nhỏ tròn này
mùi thơm và ngọt rất xứng đáng mang tên “Thơm”, thơm
bán trên quầy, bên lề đường, hè phố, và vỏ thơm
thì ngập ngụa trương sình khắp các chợ tha hồ cho ruồi
bu kiến đậu.
Chưa hết,
chắc thơm thu hoạch còn ứ đọng nhiều tại nông trường
Lê Minh Xuân nếu không mau thanh toán thì sẽ hư thối nên các
anh em thanh niên xung phong mặc đồng phục, đội mũ tai bèo, chân
đi dép râu cũng rời nông trường về phố xá đẩy
những xe ba gác đi bán thơm, vào tận hang cùng ngõ hẻm trong
các xóm lao động. Chưa bao giờ dân thành phố được ăn
trái thơm với gía rẻ bèo đến thế.
Tôi mua thơm và hỏi chuyện hai thanh niên
xung phong rất trẻ. Hào khí tuổi trẻ của bao nhiêu thanh niên nam
nữ đã bị người ta bóc lột và tận dụng không thương
tiếc tại những nông trường và những lâm trường hoang vu cách
xa thành phố, thiếu thốn ngay cả những tiện nghi tối thiểu nhất
của đời thường. Nhiều người bị bệnh tiêu chảy, nhiễm
trùng, vàng da sốt rét kinh niên.
Ở xóm tôi có một anh đi thanh niên xung phong
bị chết thảm khốc tại một lâm trường khi đang đốn chặt
tre nứa. Thay vì phạt con dao vào gốc nứa sao cho phần gốc chặt ra
ngã đổ về phía trước thì anh đã vụng về hay sơ
ý làm phần gốc cây nứa ngã ngược lại, đầu nứa
vừa chặt nhọn hoắt đã theo đà đổ nhào thật mạnh
của thân cây đâm phập vào bụng anh lòi cả ruột gan.
Một hôm tôi gặp chị
Đình gánh nước mắm đi bán ngang nhà liền gọi vào
mua nước mắm và hỏi chuyện, vì Đình là em ruột anh Tình
tổ trưởng tổ hợp mì sợi của tôi.
Trong thời gian đầu thành lập tổ hợp
mì sợi Đình đã theo phụ tá ông anh rất đắc lực
nên chúng tôi đều quen biết Đình. Chị chạc bằng tuổi
tôi.
Đình vừa
đong nước mắm cho tôi vừa khoe:
- Tớ bán nước mắm mà sắm được
xe gắn máy cho chồng dễ như chơi, đằng ấy muốn vào nghề
không tớ bỏ mối nước mắm cho?
Mắt tôi sáng lên vì ham lời:
- Muốn chứ, bán nước
mắm dễ không Đình?
- Thì chịu khó gánh đi rong phắp nơi thôi, tớ gánh
từ Xóm Mới qua An Nhơn, xuống vùng Hạnh Thông Tây rồi vòng
về Xóm Mới là hết vèo 2 can nước mắm, tiền nhét đầy
túi.
Tôi than thở:
- Sao gánh đi xa thế! Mà
tôi chưa biết gánh bao giờ…
- Chứ ngồi một chỗ thì bán cho ai? Mình đi tìm
khách hàng chứ khách hàng nào đi tìm mình.
- Nước mắm Đình lấy
từ hãng nào?
Đình thuộc
loại người vừa láu táu vừa thật thà, chị nhìn tôi
ngạc nhiên và …thương hại:
- Cần gì hãng nào hả giời! sao đằng
ấy ngây ngô thế !.Tớ chế ra đấy, chỉ cần một ít nước
mắm thật còn bao nhiêu là nước muối và nước…lã
nấu với lá chuối khô cho có màu đẹp như màu nước
mắm là thành sản phẩm..
Tôi thảng thốt kêu lên:
- Người ta ăn vào ngộ độc hay đau bụng
thì sao??
Đình thản
nhiên:
- Đã có
“Xuyên tâm liên” trị đủ thứ bệnh mà. Nhưng đằng
ấy đừng lo, lá chuối khô lành lắm, gói bánh gai thơm ngon
đến nỗi chỉ ngửi mùi lá chuối khô đã thèm ăn
bánh gai rồi, tớ chưa nghe ai ăn nước mắm của tớ than đau bệnh
gì cả.
Tôi hiểu
ý Đình, đi khám bệnh ở phường ở quận thì dù
bệnh gì người ta cũng bán cho bằng được loại thuốc dân
tộc tên “Xuyên Tâm Liên” kèm vào, nên ai cũng thuộc
tên, cũng biết mặt loại thuốc này. Viên thuốc thô sơ màu
xanh xám như màu rêu cũ trông nghèo nàn buồn tẻ làm sao,
nhưng vẫn cần thiết vì không phải ai cũng có tiền mua thuốc
tây ngoài chợ đen và không phải thuốc ngoài chợ đen đều
bảo đảm là thuốc thật.
Mỗi lần đi khám bệnh là mỗi lần cơ cực,
sau khi nộp sổ khám sức khỏe vào chồng sổ cao ngất ngưỡng
nơi bàn làm việc của phòng khám ở phường là sự
chờ đợi dài lâu đến mỏi mòn và khi gặp được
cô y sĩ để khai bệnh, tùy theo cô buồn vui mà nghe cô gắt
gỏng nhiều hay ít.
Có
lần tôi dẫn đứa em đi nhổ răng ở phòng y tế quận Gò
Vấp, cấp quận cao hơn cấp phường, nhưng dù quận hay phường
cũng chờ đợi dài lâu như nhau. Khi ông nha sĩ hay nha tá gì
đó xuất hiện ai cũng mừng rỡ, thì ông dõng dạc tuyện
bố:
- Hôm nay hết
thuốc gây tê rồi, ai chịu nhổ răng với điều kiện tự
nhiên thì chúng tôi sẽ sẵn sáng phục vụ.tới cùng.
Ông nha sĩ tưởng mình
là hiệp sĩ Don Quixote ra tay cứu nhân độ thế chắc? Ai mà chịu
đau cho nổi hỡi nha sĩ kiêm hiệp sĩ hoang tưởng kia..
Tôi thò tay chấm vào nước
mắm trong can của Đình và nếm thử vẫn có mùi nước
mắm mặn mà, không cố tâm để ý thì khó mà biết
là nước mắm gỉa được.
Đình chua thêm vào:
- Thời buổi nghèo đói lại nhiễu
nhương này ai dỗi hơi mà để ý mà phân tích từng
mùi vị nước mắm gỉa hay thật miễn là gía rẻ, cứ
nghe lời tớ đi bán nước mắm lấy tiền nuôi con. Sĩ diện
là chết trước đấy.
Thấy mặt tôi còn ngơ ngẩn, Đình tiếp:
- Hàng ngày đằng ấy
mua hàng gỉa mà không biết đấy, thí dụ cái món mỡ
nước từ chợ Đồng Xuân Hà Nội do con buôn tuyến đường
xe lửa Nam Bắc tuôn vào trong Nam người ta đã trộn thêm cả
bí đao hầm nhừ vào, cặn bí đao trông như cặn mỡ thịt
đọng lại, vừa hấp dẫn ngon mắt vừa nặng ký, chứ làm
gì có mỡ nước nguyên chất thắng từ mỡ thịt ra đâu.
Món này con buôn Xóm Mới cũng bắt chước con buôn thủ đô
Hà Nội làm rồi, một vốn bốn lời.
Đúng là thời thế tạo con người,
thời thế xấu thì một số con người cũng dễ dàng xấu
theo.
Dân Xóm Mới xông
xáo và gan dạ thật, nghề gì cũng làm được, từ mổ
heo lậu, làm pháo lậu. Thỉnh thoảng lại có vụ thuốc pháo
nổ làm chết người mà họ vẫn không ngán, chỉ vì
sức mạnh của đồng tiền.
Không biết ngoài vụ nước mắm gỉa, mỡ nước
gỉa, còn những món gì giả nũa? Có trời mà biết…
Tôi cầm chừng:
- Để tôi đợi tổ
hợp mì sợi ngã ngũ ra sao đã…
Đình gạt đi:
- Khỏi đợi, tớ là em anh Tình thì lạ
gì, anh ấy đang tính chuyện làm ăn khác rồi, cỗ máy sắt
vụn kia bao giờ bán được thì bán chứ ngồi mà đợi
nó ngã ngũ thì chết đói.
Tôi tò mò:
- Anh Tình tính làm ăn gì cho tôi theo với?
Đình ghé tai tôi thì
thầm:
- Tổ chức
vượt biên, anh ấy sẽ mua tàu….kín mồm miệng giùm nhé,
tớ thương hoàn cảnh đằng ấy nên mới nói trước
để mà lo liệu, ở lại vừa đói khổ vừa bị đối
xử phân biệt lý lịch bao giờ con em mình mới ngóc đầu
lên nổi? nếu muốn đi thì cứ 3 cây một đầu người
đóng cọc trước, tới ngày sẽ lên đường. Thôi, tớ
đi bán hàng tiếp đây..
Chuyện phân biệt lý lịch lắm đắng cay, ai đi
xin việc làm hay con em đi học cũng phải nộp kèm theo giấy chứng
nhận lý lịch của địa phương. Nhà nào nghèo mạt rệp,
bần cố nông mấy đời đi ở đợ thế mà sướng,
lý lịch “sạch sẽ” . Nhà nào có người làm việc
cho chế độ cũ “nguỵ quân ngụy quyền” hay giàu có “tư
sản mại bản” thì tờ giấy chứng nhận lý lịch tối
đen như đêm 30 Tết.
Tôi nghĩ đến tương lai của hai con mình mà thương !!!.
Sau đó tôi không gặp
lại Đình nữa, tôi nghe tin cả nhà anh Tình đã đi vượt
biên tới đảo Mã Lai. Chắc là Đình đã cùng đi
với anh Tình rồi.
Bấy
giờ tôi mới hiểu vì sao nhóm anh Tình cư ngụ ở Xóm Mới
mà lại xuống Hạnh Thông Tây mở tổ hợp mì sợi, anh tạo
cớ vắng mặt thường xuyên tại địa phương để dễ
dàng khi đi vượt biên không bị ai nghi ngờ.
Chuyện đại sự của anh là tổ chức
đi vượt biên tìm tự do chứ không phải chuyện làm ăn
sản xuất mì sợi kia.
May cho Đình và cũng may cho tôi, tôi khỏi phải trả lời
Đình tôi không thể bán món nước mắm gỉa này được.
Vì ngay hôm vừa mua nước mắm của Đình xong tôi đã
đổ đi hết không dám ăn thì làm sao tôi dám bán cho
người khác ăn?
Chuyện
ông tổ trưởng tổ sản xuất mì sợi đi vượt biên
cũng đến tai địa phương tôi, người ta niêm phong tổ mì
trong đó có cái máy liên hoàn cà rịch cà tàng và
những đồ dùng không đáng gía khác như bộ bàn ghế
cũ, những cái mẹt, cái nia để hấp mì, v..v…
Chỉ tội chủ nhân cho thuê
hai căn nhà chắc đang mong chính quyền địa phương thanh lý
dứt điểm vụ tổ hợp mì sợi để họ lấy lại căn
nhà thân yêu đang bị vạ lây niêm phong khóa kín lại.
Tôi không còn trông mong
gì lấy lại được đồng xu nào từ tổ hợp mì sợi
nữa.
*****************
- Em ơi!
- Ơi.. ơi…
Chồng tôi từ ngoài vườn sau bước vào
bếp, vui vẻ và tò mò :
- Anh dọn vườn xong rồi. Trưa thứ bảy em cho anh ăn món
gì đây?
- Anh thử đoán
xem…
- Bún riêu
hả?
Tôi âu
yếm “ chì chiết” chồng:
- Anh cứ thích món bún riêu là thế nào!
Chồng cũng âu yếm “mắng”
vợ:
- Em đành
hanh vừa vừa chứ, là những món em nấu làm anh yêu thích đấy.
Tôi khoe:
- Hôm nay là món mì đồ biển
thập cẩm. Chúng ta vừa ăn mì vừa…tưởng nhớ nhé anh..
- Món này anh cũng thích
luôn. Mà em nói gì lạ thế?
Giọng tôi trở lại thoáng buồn như lúc
chợt nghe đài ti vi làm gợi lại một thời kỳ gian nan vất vả:
- Thì ăn mì và nhớ
lại tổ hợp mì sợi của em
Chồng tôi bật cười:
- Tưởng gì, anh đã chẳng cùng em nhớ
lại tổ hợp mì sợi cả …triệu lần rồi sao, vì em đã
kể cho anh nghe cả…triệu lần về cái tổ hợp mì sợi ấy
mà.. Cái ngày mà em phải ăn mì sợi hấp chấm với nước
mắm hay xì dầu ngao ngán thì anh đang ở trong tù ước mơ
cũng không tìm đâu ra một vắt mì dù chỉ để chấm
với muối trắng ăn cho no bụng.
- Anh ơi , em nhớ đến tổ hợp mì sợi không phải
để so sánh món mì sợi hấp chấm xì dầu ngày xưa
với tô mì đồ biển thập cẩm hôm nay, cái tổ hợp mì
sợi ấy chẳng là gì cả với thế giới này nhưng với
em nó là tất cả. Đó là kỷ niệm, là hình ảnh một
đoạn cuộc đời em đã đi qua giữa thời cuộc thăng trầm
dâu bể của vận nước, của chúng ta từ năm 1975 .
- Ừ, anh biết rồi, hiểu rồi.
Chẳng phải mình em mà bao nhiêu người miền Nam Việt Nam, ai cũng
có những hình ảnh, những kỷ niệm riêng tư nào đó
nhưng cùng giống nhau, cùng chung một nỗi bất hạnh, nỗi buồn
khi ngày ấy miền Nam tự do rơi vào tay cộng sản.
Tôi đã nấu xong hai tô mì và
bày ra bàn.
- Bây giờ
mời anh ra ăn tô mì thập cẩm đồ biển của em.
Chúng tôi ngồi vào bàn,
chồng tôi múc thìa súp nước lèo nếm thử và hài
lòng khen:
- Cám ơn
cô công nhân tổ hợp mì sợi năm xưa đã nấu tô
mì ngon lành này nhé, và cám ơn cuộc đời đã đưa
đẩy chúng ta đến bến bờ tự do này. .
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Tháng Tư 2013)
ĐEM THEO, NGÀY XA XỨ
Trần
Bang Thạch
Có một sự kiện hầu như bất di bất dịch từ
nhiều năm nay: hai cây mai trước nhà nở đầy bông vào hạ
tuần tháng Tư Tây mỗi năm. Dù bà Thuận có bón phân,
tỉa cành, lặt lá… có săn sóc thế nào đi nữa hai
cây mai vẫn không nở rộ đúng vào dịp Tết Âm lịch
mỗi năm như cây mai mẹ ở sân nhà thuở trước. Cũng là
mấy cái hột từ cây mai ở quê nhà vậy mà nó cứ
một mực nở trái mùa. Chắc mai cũng mang thân phận của người
xa xứ, gởi thân nơi xứ người cho nên phải ít nhiều uốn
nắn cách sống của mình cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh.
Hay mai nở muộn để nhắc một ngày ngang trái nào đó đáng
nhớ trong đời của ông bà chủ của mình? Mỗi lần nhìn
hoa nở như hai trái cầu vàng bên ngoài khung cửa sổ trước
nhà, các đóa hoa sáu cánh hai từng vàng nghệ nhắc ông
bà Thuận là ngày 30 tháng Tư lại sắp trở về. Không phải
ông bà Thuận quên cái ngày này; ông bà nhớ lắm chớ,
nhiều khi nhớ bất chợt, nhớ bất cứ vào ngày nào, tháng
nào khi có một sự kiện nào đó liên quan tới ngày đau
buồn này. Chẳng hạn như khi nhớ chuyện thằng con lớn ra biển rồi
biệt tích hay như chuyện giỗ quãy mấy người bạn tù…
là cái ngày 30 tháng Tư bất chợt hiện ra . Nhiều khi nghĩ tới
cha mẹ, anh em… ông bà Thuận cũng lại nhớ tới ngày 30 tháng
Tư. Thật là trớ trêu khi cái hận của một ngày đen tối
luồn lách vào nỗi nhớ và nỗi buồn của người ta. Như
hạt cát chui vào chiếc giầy, thật là khó chịu. Không có
ngày oan nghiệt 30 tháng Tư thì đâu có các thảm cảnh
này. Màu vàng của các hoa mai như hồi chuông gióng lên mỗi
năm một lần trong trí nhớ ông bà Thuận.
Không phải chỉ hai cây mai nhắc ông bà Thuận ngày này.
Từ cả tuần nay, các đài phát thanh và truyền hình Việt
ngữ không ngớt nói về ngày 30 tháng Tư. Gặp các nhân
vật thường hay sinh hoạt cộng đồng cũng nghe nói về các buổi
hội họp, hội thảo, mết-tinh…nhân ngày kỷ niệm sắp đến.
Những năm cuối thập niên bảy mươi và kéo dài cho tới
đầu thập niên tám mươi, cái điệp khúc nghe hoài: “Hôm
nay mình tụ họp ở đây, hẹn năm sau chúng ta cùng gặp nhau
ở Sài Gòn, gặp nhau ở Sài Gòn, Sài Gòn, Sài Gòn!”
phát ra từ cái micro trên tay các ông cộng đồng trên khán
đài các buổi mết-tinh, lúc đầu thì cả một rừng người
hưởng ứng, miệng hô to, tay đưa cao nắm đấm; dần dần những
năm sau khí thế hình như hơi nguội. Điệp khúc nầy từ
hơn chục năm nay có chiều hướng thay đổi, có lẽ vì
“đường đi sao quá xa”. Người ta vẫn có những
buổi hội họp mỗi năm. Hội họp lớn thì cả ngàn người
với cờ xí, biểu ngữ trống kèn, ca hát; các bài diễn
văn mỗi năm hình như có ít hơn, ngắn hơn và vắng bớt
những kêu gào của thập niên đầu, thay vào là những đòi
hỏi tự do nhân quyền, tự do tôn giáo…. Và hình như những
buổi tổ chức nếu muốn có thật đông người tham dự thì
có lẽ phải có đông ca sĩ nổi tiếng từ thủ đô
tị nạn Cali. Ca nhạc, xổ số…nhiều năm có cả múa lân
rình rang. Trước kia đâu có truyền thanh hay truyền hình Việt
ngữ để đọc thông báo, thơ mời, nhưng qua truyền miệng
hay qua vài tờ báo Việt ngữ địa phương, dù cho không có
lấy một ca sĩ nổi danh, người ta nô nức chờ và tham dự rất
đông. Bây giờ các thông báo, thơ mời, hội thoại liên
quan tới ngày 30 tháng Tư nghe hoài hằng bữa trên các đài.
Có lẽ người ta nghĩ càng có nhiều người tham
dự thì buổi tổ chức ngày quốc hận càng thành công và
càng thêm ý nghĩa chăng? Hay cái hận này trong một số người
đã mõi mệt, cần thêm những lều thuốc để lên giây
cót? Nếu vậy thì quả là không thể được. Niềm đau
thấu trời xanh thì trăm năm vẫn còn; còn trong trí nhớ thì
cũng vẫn còn đau.
Dầu gì
thì cũng nên gặp nhau để nhắc nhớ một ngày đau buồn.
Những buổi gặp gỡ nhỏ thì năm bảy chục, hay trăm ngoài.
Người ta ngồi lại để cùng nhau kể chuyện, như chuyện giờ
thứ 25 của Sài Gòn, hay chuyện vượt biên, rồi chuyện thành
đạt của thế hệ thứ nhất, thứ một rưỡi, thứ hai…của
cộng đồng mình nơi xứ này. Nếu có chen đôi chút chánh
trị thì nói chuyện càng ngày càng có thêm các chánh
quyền địa phương chấp nhận cờ vàng là lá cờ của
cộng đồng tị nạn Việt Nam, hay chuyện các nhà tranh đấu
cho quyền làm người ở Việt Nam đang sinh sống trong nước hay tại
hải ngoại. Những chuyện nho nhỏ như vậy cũng đủ cho người
ta sống những giờ phút buồn, vui trong ngày đáng nhớ của mỗi
người tị nạn.
Sống nhiều năm tại hải ngoại, sau những năm tháng vất vả
tạo dựng một nếp sống ổn định trên đất mới cho cả
gia đình, ngày 30 tháng Tư vẫn còn đó nhưng có lẽ
người ta càng ngày càng muốn biết những bí ẩn đằng
sau cái chết tức tưởi của một chánh quyền đang lần lần
được hé mở từ những hồ sơ đang được giải mật,
từ những bài nghiên cứu, những trang hồi ký hay từ những nhân
vật có thẩm quyền thời đó. Người ta cũng nhìn ngày
30 tháng Tư qua những bước đi càng ngày càng vững vàng
của lớp con cháu trong dòng sống của đất nước tạm dung này.
Nhớ hồi năm ngoái, tại một trung tâm sinh hoạt người cao niên
một cựu tướng lãnh vùng 4 đã làm cho nhiều người
rơi lệ khi nhắc tới ngày giờ cuối cùng của một quân đoàn
thiện chiến Miền Tây. Súng đạn, lính tráng còn đủ,
kế hoạch hành quân sẵn sàng nhưng cuối cùng thì cấp chỉ
huy người tự sát, người vào tù, dân, quân tứ tán,
nhà tan, cửa nát.
Hôm
qua một bạn văn ở Melbourne, gởi qua email một bài thơ nhân ngày
mà anh gọi là ngày nước mắt, nhà tan. Anh còn mở
ngoặt, đóng ngoặt nói thêm: “mắt chớ hổng phải
mất, đất nước này còn giành
lại sao mà mất được”. Điều nầy chắc có nhiều
người cho là chí lý! Từ hồi nào tới giờ ôngThuận
và một số bạn đâu có dễ dàng chấp nhận cái từ
“mất nước” này. Dù có đúng đi nữa thì
cũng không lòng dạ nào mà chấp nhận. Bị Tàu cai trị cả
ngàn năm, xài cả chữ viết của họ, rồi bị đô hộ
hết Nhật đến Tây cả trăm năm, nước mình cũng đâu
có mất. Nước mình còn ràng ràng ra đó mà. Hồn
thiêng sông núi vẫn chập chờn trên Hồng Lĩnh, Thất Sơn. Anh
linh tiền nhân, khí phách anh hùng, liệt nữ vẫn trải dài trên
sông Hồng, sông Cửu. Vẫn một dãy giang san gấm vóc hình chữ
S bên bờ biển Đông. Mất là mất cái chánh quyền tự
do dân chủ miền nam, khiến cho người dân miền nam cũng mất luôn
tất cả những quyền căn bản của con người. Người ta chỉ
tạm thời chiếm đoạt được cái ghế ngồi trong căn nhà
quyền lực mà thôi. Họ ngồi đó mà thấy cửa nhà dần
dần mục nát, người bỏ nhà đi tứ tán, người
còn lại thì lòng bất an, tâm bất phục, sống với hy vọng
đổi đời. Kẻ chiếm quyền chủ nhà ngồi trên cái ghế
một chân thì làm sao mà bền cho được.
Gia đình ông bà Thuận cũng là người từ căn nhà
bị chiếm đoạt ấy mà ra đi. Không đi quá sớm như nhiều
người lên máy bay hay lên mẫu hạm, cũng không quá trễ như
hàng trăm hàng ngàn cựu tù nhân chánh trị, nhưng thời
gian gần ba mươi năm đủ để ông bà Thuận nhận biết
những mất, những được và những còn trong gia đình ông
bà.
Nhớ
ngày chuẩn bị ra đi, ông Thuận tìm những khai sanh, hôn thú,
bằng cấp đủ cỡ đủ hạng, và đào bới từ cháy
nhà, góc bếp chứng chỉ tại ngũ, chứng minh thư, giấy khen, huân
chương, quân hàm. Tất cả bỏ vào một túi ny-lông rồi
ép kín miệng lại. Ông hy vọng những thứ này sẽ rất hữu
ích nếu ông có may mắn vào một đất nước tự do, nhất
là vào được nước Mỹ, một đồng minh cũ của nước
ông. Vô hình chung ông gói niềm hy vọng lớn vào một cái
túi nhỏ chỉ bằng bàn tay. Vậy mà từ khi trải qua nhiều cuộc
phỏng vấn ở trại tị nạn cho đến khi đặt chân lên nước
Mỹ và khi làm thủ tục thi quốc tịch, ông bà Thuận chưa
khi nào buộc phải xuất trình những thứ giấy tờ cá nhân
này. Nhiều khi ông Thuận tự hỏi không biết người ta nghe nhưng
có tin lời mình hay không: ông muốn xòe tờ giấy trước
mặt họ để chứng tỏ mình khai thật. Ông điền đơn
thế nào thì người ta biết lý lịch mình như vậy. Kể
cả cái Chứng chỉ tại ngũ hay hai cái bằng cấp đại học
ông cũng không cần trưng ra, làm như CIA đã nắm hết lý
lịch và hồ sơ cá nhân của ông không bằng! Lâu dần
ông mới biết người ta mướn ông và giữ chân ông lâu
hay mau là do khả năng thật sự của ông. Bây giờ sắp hưu trí,
nghĩ lại gần 30 năm làm việc cho một công ty duy nhất quả là
một thời gian dài, nghĩ tới mà giựt mình. Các đồng nghiệp
trong sở ai nghe qua cái thâm niên này cũng thè lưỡi thán phục.
Có người trầm trồ: Làm một công việc mỗi ngày trong suốt
ba mươi năm, quả là superman! Có gì lạ đâu: lạc nghiệp
để được an cư mà; dại gì làm cái con job hopper như
nhiều người khác, nhảy hoài cũng có ngày lọi tay, què
cẵng, có khi còn là homeless chớ chẳng phải chơi! Ăn chắc mặc
bền mà hay. Đoạn đường dài đi làm mỗi ngày ông
Thuận đã chứng kiến nhiều thay đổi trong một thành phố đổi
thay từng giờ, từng phút. Ông cũng thấy tâm trạng mình cũng
có nhiều đổi thay. Người Mỹ chia loại nhân viên thành white
collars và blue collars. Không phải là điều dễ dàng khi ông Thuận
vốn là một cổ trắng từ bên nhà đang trở thành một
cổ xanh tại hãng xưởng này. Sa vào hoàn cảnh này, tư
tưởng ông Thuận chạy nhảy lung tung lắm. Mặc cảm nầy nọ cũng
không thiếu. Chữ nghĩa, quyền lực ngày nào của ông chạy
đi đâu hết rồi. Xếp của ông bây giờ là những con người
cục cằn, thô lỗ, dốt nát đó sao? Ta ơi, hãy nuốt vào,
nuốt vào đi, nuốt vào đi ta những hào quang cũ, nuốt vào
đi ta những chén đắng nghẹn ngào này. Ông Thuận đã
thật lực cố hết sức mình để đôi tay, đôi chân
thành thạo với cái bù lon, đinh ốc, với máy móc, búa
kềm. Tâm trạng của ông cũng phải uốn cho nó đi song song nhuần
nhuyễn với đôi tay đôi chân. Những năm đầu, ông Thuận
đã đem theo ông con người Việt Nam Cổ Trắng để đặt
vào giữa trung tâm của thế giới Mỹ Mễ Cổ Xanh, và phải
làm như họ; nhiều khi ông muốn tập nói như họ, có khi tập
nghĩ như họ để gọi là hòa đồng cho dễ làm lụng
với nhau. Uốn nắn tay chân thì cố gắng vài tuần hay một tháng
cũng làm được; vã lại công việc cũng không nặng nhọc
gì so với việc đào kinh đắp đê trên cánh đồng
xã nghĩa sau tháng Tư đen; nhưng tập cách nói, cách nghĩ
như họ thì quả là khó. May mắn cho ông, cái khó này
chưa làm được thì ông nhận rằng có lẽ không cần
thiết khi ông đã chân cứng, đá mềm với công việc quen
tay hàng ngày. Ông lao động còn hơn bao nhiêu đồng nghiệp
khác nhờ ông siêng năng, chịu khó, tháo vát và làm
việc có sáng kiến. Mấy đợt sa thải cộng chung cả mấy trăm
mà ông Thuận đã không hề hấn gì mà lại còn leo
lên từng bậc thang nghề nghiệp. Nhiều ông xếp cũng lần lượt
ra đi, bây giờ nếu muốn kể lại tên của họ, ông Thuận
cũng không nhớ hết. Gần ba mươi năm bộ mặt của công ty
và cả cái tên công ty đã đổi thay mấy lần, ông Thuận
vẫn vừa là cái bánh xe trong cổ máy, vừa là người đứng
nhìn các bánh xe đang lăn. Ông Thuận cũng lần lần hiểu rằng
nhờ tay nghề của một cổ xanh mà ông còn được giữ lại
và có lẽ nhờ không ăn nói tục tằng trây trúa mà
ông giữ được một chút con người cổ trắng của mình.
Rõ ràng là mình nên học cái tốt mà không học cái
thói quen xấu. Vừa giữ được nồi cơm, vừa giữ được
cái vốn quí nhân cách trong con người của mình.
Nước mắt, nhà tan. Phải. Đêm từ biệt cha mẹ và anh
em ra đi, nước mắt của những người ở lại đã đi theo
gia đình ông mấy chục năm nay, nước mắt của ông một
phần đã để lại bến sông quê nhà, một phần ông
đã mang theo cho tới bây giờ. Có một cái ông Thuận đã
mang theo cho đến nay đã gần hết cuộc đời, không phải cái
túi ny-lông đựng bằng cấp, đựng quân hàm, mà đó
là nhân cách của một người tị nạn chánh trị Việt
Nam. Điều này lúc ra đi ông Thuận không hề nghĩ tới, vậy
mà hôm nay nó là vật tùy thân quí giá. Nó làm cho
ông dù không ngẫng cao đầu nhưng chưa phải cúi gằm trước
mọi người. May là ông không đánh mất trong dòng đời
xuôi ngược tại xứ người.
Còn bà Thuận thì đơn giản hơn ông. Ngày ra đi bà
không có gì nhiều để mang theo. Ngoài con người nội trợ
đảm đang có sẵn từ thời con gái đến người vợ rồi
người mẹ hết dạ lo cho chồng con, ngoài những vật dụng, áo
quần cần thiết cho cả nhà, bà Thuận đem theo mấy hột giống
rau cỏ, hoa trái từ vườn nhà. Hột ổi, hột cam, hột ngò
gai, hột quế, hột bầu, hột bí…đặc biệt là mấy hột
mai sáu cánh, hai từng. Mấy hột mai nầy bà cất giữ từ cây
mai ông Thuận đã trồng trước sân nhà để kỷ niệm
cái tết đầu tiên của vợ khi về làm dâu nhà chồng.
Đặt chân tới Mỹ, sau vài tháng ổn định, bà Thuận
đã đi làm ngay cho một cửa hàng bán thực phẩm. Vốn là
người siêng năng, tháo vát bà Thuận không thấy khó khăn
gì đối với công việc buôn bán hàng ngày. Bà cũng
không có cái mặc cảm cổ xanh, cổ trắng gì như ông chồng
nên bà như người bơi xuồng, cứ cho xuồng ra giữa dòng rồi
bơi, nước trong, nước đục, nước lớn nước ròng gì
bà cũng đâu có quan tâm; miễn sao mỗi chiều về nhà bà
nấu một bữa cơm ngon để cả nhà ngồi ăn, vừa nghe chuyện
chồng con, vừa nhìn hạnh phúc của mình trong căn nhà nhỏ. Về
sau, những bữa ăn không đủ mặt các con, có đứa này
thì vắng đứa kia, nhưng những thành tích học tập và tánh
tình của các con cũng đã phần nào làm cho hạnh phúc
gia đình bà vẫn luôn có mặt.
Không biết có phải vì lúc ra đi bà Thuận đã vô
tình đem theo một nội tướng tài ba trung thành, hắn tiềm ẩn
trong cái dáng vấp nhỏ nhắn của bà mà gia đình vợ
chồng bà từ lâu đã thành một tổ ấm giữa xứ người,
có ngăn có nắp, có trên có dưới, có tình có nghĩa,
có thành có đạt. Cũng có thể là do cái khuôn mẫu
của một gia đình nề nếp đã theo ông bà Thuận vượt
biên tới đây.
Nói gì thì nói, ngoài con người nội tướng của
vợ mà ông đã biết từ lâu, ông Thuận phục sát đất
bà vợ của mình đã rất “hiện thực chủ nghĩa”
khi bước xuống ghe đem theo gói hột giống. Chỉ một gói giấy
nhỏ nằm gọn trong túi áo bà ba mà từ nhiều năm nay khu vườn
rau trái sau nhà luôn luôn có mặt, để cả nhà nhìn nó
như nhìn một góc sân quê nhà, để có hoài hương
vị vườn nhà trong các bữa ăn. Đặc biệt là hai cây
mai hai từng, sáu cánh trổ bông vàng nghệ vào khoảng cuối
tháng Tư hàng năm. Rõ ràng, ngoài bao nhiêu thứ khác, người
vợ yêu quí của ông vào phút cuối đã đem theo kỷ
niệm của vợ chồng ông. Bốn mươi năm trước, người
rễ mới đã âu yếm trồng cây mai tặng cô dâu mới để
kỷ niệm ngày bắt đầu của một hạnh phúc. Vợ ông thích
loại mai nầy khi ông bà chưa cưới nhau. Bông mai có hai từng như
cái bông sen, mỗi từng 6 cánh; từng dưới nâng đỡ từng
trên như chồng nâng đỡ vợ, cho nên mai được đặt tên
là mai phu thê. Một lần, nhìn mai, ông Thuận nói với vợ: Chúng
ta phải có một lố con như 12 cánh mai vàng hực nầy!Bây giờ,
bốn mươi năm sau, một cây mai mẹ ở quê nhà nay đã thành
hai cây mai lưu vong đầy bông vàng nghệ, vẫn 6 cánh dưới
mạnh mẽ nâng 6 cánh trên. 12 cánh mai như đàn con 12 đứ
chạy lúo súp dưới chân cha mẹ. Phải chăng đó là hạnh
phúc đã nhân đôi, nghĩa phu thê đã chói lòa hào
quang rực rỡ? Ở chân trời góc biển nào thì kỷ niệm vẫn
đi theo, hạnh phúc vẫn có mặt khi người ta biết trân quý,
giữ gìn nó.
Hàng năm mỗi lần Tết đến, ông bà Thuận ước chi
hai cây mai nở đầy trước mắt như ngày xưa ở quê nhà
hai người nhìn mai đón Tết, nhìn mai rồi kín đáo nhìn
nhau để nhớ cái thuở ban đầu. Nhớ trọn vẹn. Vui trọn vẹn.
Nhiều năm nay ông bà Thuận cũng có dịp nhìn mai nở rộ trái
mùa mỗi năm để nhớ ngày cưới của mình và sống
với kỷ niệm. Nhưng thật là lạ lùng, đâu có
ai bỏ túi hay lộn lưng ngày Tháng Tư Đen oan nghiệt, đáng
ghét ấy, cớ sao nó cứ đi theo bước chân hai người để
chen vào các đóa hoa mai kỷ niệm của vợ chồng, để hai người
vừa sống với kỷ niệm riêng, vừa nhớ, vừa đau nỗi đau
chung của dân tộc.
Lịch sử thật là oái oăm sanh làm chi cái ngày Tháng
Tư Đen để nước mắt, nhà tan; lại còn khiến cho cây mai
dù đã lưu vong vẫn phải ép bụng nở hoa trái mùa! Thương
cho hoa mà cũng thương cho mình!
Trần
Bang Thạch