TL_30thang4_tolichcu.gif

THƠ                

TRUYỆN

30/4                   

1. Vườn Thơ Thẩn: Tháng Tư buồn

2. Thơ Trần Bang Thạch: Nặng oằn vai gánh

3. Tạp ghi đoàn xuân thu:  Khuya khuya chút nữa!

4. Thơ Cao Vị Khanh: Bài hành...tháng tư 

5. Thơ Phạm Thị Minh Hưng & Dư Thị Diễm Buồn :  Chờ Anh - Anh hứa

 

 

 1.    Vườn Thơ Thẩn: THÁNG TƯ BUỒN

                                Mailoc, Cao Linh Tử, Mai Xuân Thanh, Songquang, Mai Thắng, Phương Hà 

 

 

Bài Xướng : Tháng Tư Buồn

 

Mấy chục năm trời biệt cố  hương 

Vẫn đi, đi mãi hết con đường.

Ngày về xa lắc lòng ray rứt,

Vận nước u hoài trí vẩn vương.

Lặng lẽ thời gian ngày tháng lụn, 

Bồi hồi tuổi trẻ nỗi sầu đươn.

Tháng tư lại đến, hờn sông núi,

Kẻ thắng, người thua luống đoạn trường.

            Mailoc
          4-6-18

 

 Họa Y Đề 

 

Khác nào khách lạ giữa quê hương

Ngơ ngác nhìn qua vạn nẻo đường

Lá đỏ bên hè nghe tủi tủi

Nắng vàng dưới cổ thấy vương vương

Thằng chăn lên ghế ngồi la lối

Kẻ sĩ về vườn học đát đươn

Lây lất qua ngày nơi khoáng dã

Tuy là cỏ cú vẫn can trường

 

Cao Linh Tử

7/4/2018

 

Bài Họa Thơ : "Tháng Tư Buồn" - Thầy Mailoc

 

Bão dông vượt biển biệt quê hương

Chạy trước còn hơn khổ cuối đường

Cứu vớt ban ân lòng ngưỡng mộ

Cưu mang giúp đỡ nợ tơ vương

Năm chầy tháng lụn đầu ta bạc

Tuổi trẻ xuân tàn mái tóc đươn

Ngày ấy tháng tư buồn đất nước

Ra đi, hổn độn bãi sa trường !

 

Mai Xuân Thanh

 

 

Nhớ một tháng tư nào!

 

Nhớ tháng tư nao quá đoạn trường

Lũ về tàn phá nát quê hương

Người đi bỏ nước buồn giăng mắc

Kẻ ở lại nhà dạ vấn vương

Tổ quốc đâu ngờ...tàn lửa đạn

Chinh nhân có ngỡ lụi sầu đương

Cuộc cờ thoáng chốc thay bàn mới!

Đất lở trời nghiêng bít nẽo đường

 

           x     x     x

 

Đất lở trời nghiêng bít nẽo đường

Bây chừ đã lạc mất quê hương

Hồn nghe thao thức mùi hương cũ

Dạ thấy xôn xao vị đắng vương

Ta nén thương đau vào uất nghẹn

Em nhoè ngấn lệ giữa sao đương (đan)

Khơi nguồn lịch sử lòng ngơ ngác

Xáo thịt nồi da ni đoạn trường

 

songquang

(Viết cho tháng tư đen)

 

Tháng Tư buồn

 

Năm dài đằng đẳng khóc quê hương

Nỗi nghẹn ngào dâng khúc đoạn trường

Tan tác đàn chim trời oán vọng

Ngậm ngùi số phận chuỗi sầu vương

Thời gian lặng lẽ chìm vô hướng

Tuổi lão bâng khuâng lạc nẻo đường

Ngày hạ thu buồn đang kéo đến

Tháng Tư vần vũ những đau thương

Mai Thắng

180408

 

Nỗi Buồn Tháng Tư

 

Thương người vượt biển biệt quê hương

Sống kiếp tha phương khắp nẻo đường

Xót kẻ quê nhà bao hận chuốc

Đau lòng đất mẹ lắm sầu vương

Ngày về xa tít, vầng trăng lụn

Chốn cũ mịt mờ, bóng tối đươn

Mòn mỏi đợi chờ trong uất nghẹn

Bạc đầu thao thức mỗi đêm trường.


 Phương Hà

2. Thơ Trần Bang Thạch:

 

Nặng oằn vai gánh

 

Tôi nhìn hoài những cơn mưa khuya

Em cô phụ nhọc nhằn quá đỗi

tần tão nuôi con, nuôi chồng tù tội

đâu sá gì vóc hạc, hình mai

 

Tôi mười năm rồi gánh nước ở đây

Vai không nặng mà tim chừng đã nặng

Gánh hận bại binh, gánh ngàn cay đắng

Gánh nhớ, gánh thương nghĩa vợ tình chồng

 

Em một thân cò vất vả ven sông

Tôi nát thân tù nơi đèo heo hút gió

Khi nhớ nhau ta có vầng trăng cổ độ

để nghe lòng ấm chút hơi quen

 

Ta tìm nhau giữa lối nhớ trong tim

Ta nói với nhau những lời trong mộng

Hơi thở ta quyện nhau giữa đất trời cao rộng

Thù hận nào tạo được cách chia?!

 

Em gánh gồng vạn dặm đường khuya

Chân phải vững để đá mòn dưới gót

Tôi cắn chặt răng những đêm dài lạnh buốt

để ngày mai còn đủ sức dựng cờ.

 

tbt

2000

 

3. Tạp ghi đoàn xuân thu

KHUYA KHUYA CHÚT NỮA!


dxt_apr20_khuya.jpg 
Bảo Huân

 

Trong chốn văn nghệ, trước 75, nhà văn phải viết truyện dài đang nhiều kỳ trên nhựt báo, gọi là viết Feuilleton (phơi-dơ-tông) để kiếm sống. Nhưng trước cái biến cố đau thương, miền Nam sụp đổ, nhiều nhà văn vượt thoát ra nước ngoài làm người tị nạn lại chuyển qua làm thơ. Và thơ rất hay vì ý thơ phát xuất từ đáy lòng đang đau đớn.

Nhà văn Thanh Nam (1931-1985) là một trong những nhà văn đó. Cuộc đời tị nạn cũng ông thật ngắn ngủi chỉ 10 năm; nhưng khoảng thời gian đó cũng đủ để lại cho đời tập thơ với nhan đề "Đất khách" (1983).

Tháng Tư lại về trên Đất khách, tôi nhớ đến thơ Thanh Nam: "Ngó ra buổi sáng quê người/ Tiếng xe lăn bánh nhịp đời trôi mau/ Giã từ ngôn ngữ đã lâu/ Hôm nay thèm nói một câu chửi thề!"

Nhà thơ sống bằng chữ nghĩa nên thèm nói một câu chửi thề; riêng tui lại thèm một tô hủ tiếu Mỹ Tho mới chết.

Nói nào ngay Footscray, nơi tui đến ở, cũng có quán bán hủ tiếu đó chớ. Nhưng khi ăn ở mấy tiệm nầy tui lại càng nhớ hủ tiếu Mỹ Tho hơn. Vì ăn không hẳn chỉ là ăn mà còn trong đó một cái tình quê tha thiết nữa đó bà con ơi!

***

Tui nhớ quê mình mỗi vùng đều có những món ăn nức tiếng trên chốn giang hồ nhưng đều tụ lại Thủ đô Sài Gòn, dân tứ xứ!

Nào là Phở Bắc theo đồng bào di cư vào Nam năm 1954. Nào là Bún Bò Huế từ cố đô, đất thần kinh cũng vào cho cay như ớt!

Rồi thời Phản Thanh Phục Minh bên Tàu, mấy chú Ba thiếm Xẩm, người Quảng Đông, Triều Châu chống không lại cái nhà Thanh, đàn ông mà thắt bím, bèn lên đường bôn tẩu.

Ra đi mang theo quê hương; mang theo hủ tiếu, mì, hoành thánh, bò vò viên đến Cù lao Phố Biên Hòa, đến Mỹ Tho, Sóc Trăng và cả đất Hà Tiên.

 

Người Tàu hồi mới đến Việt Nam thì cũng nghèo sặc gạch bèn bán hủ tiếu trên xe. Xe thì đậu một chỗ nơi có đông người qua lại. Vốn lấy công làm lời vì đâu có tiền mà mướn phố để kinh doanh.

Úc hay Mỹ giờ đây mới có cái vụ đặt đồ ăn nhờ ‘Uber Eats' giao tới tận nhà, chớ chú Ba đã có cái dịch vụ phục vụ hủ tiếu, mì hoành thánh tới ngay tại chỗ; chỉ còn thiếu cái điều là gắp đút luôn vào miệng khách hàng thương mến thương mà thôi.

Đó là hủ tiếu gõ! Hang cùng ngõ hẻm nào của tám nẻo đường thành Sài Gòn nào mà không có nó.

Trong ngõ, xe đậu lại ngã ba, thằng nhỏ cầm hai thanh tre ngắn, gõ lóc cóc luồn quanh hẻm nhỏ lúc đêm về. "Ê cho một tô hủ tiếu nhiều thịt ít tiền đi mậy!" là 5 phút sau một tô hủ tiếu nóng hổi mang tới tận nơi.

Ngôn ngữ người Sài Gòn rất hay nhe. Nói cho một tô hủ tiếu tuy xin như vậy nhưng có trả tiền đàng hoàng chớ không ăn quỵt rồi chạy bao giờ!

Bán hủ tiếu gõ đã lâu, làm ăn chí thú, ky cỏm tiền bạc; không chơi số đề hay vào sòng bài Kim Chung hay Đại Thế giới thua sặc máu thì trước hay sau chú Ba sẽ lên đời bằng cách sắm một chiếc xe bán hủ tiếu trụ lại ngã tư đường có nhiều ông đi qua bà đi lại!

dxt_apr20_xehutiu.jpg

Chiếc xe nầy có miếng gỗ có thể bật lên, gài chốt làm thành một cái bàn hình chữ nhựt dài và hẹp, vừa đủ để đặt lên tô hủ tiếu còn bốc khói và chai xì dầu, giấm đỏ và hũ ớt sừng trâu ngâm dấm và một lọ tiêu xay.

Khách ngồi trên ghế xếp, ngồi chờ, xem tranh Tàu vẽ trên mặt kiếng hình Quan Công quánh nhau với Tào Tháo trong Tam Quốc Chí của Trần Thọ hay Tề Thiên Đại Thánh quánh với Ngưu Ma Vương trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân...

Những chiếc xe hủ tiếu kỳ cựu, chủ nhân nó luôn chung thủy với những đũa, muỗng, tô, vợt lưới to để trụng vớt bánh hủ tiếu hay trụng mì.

Ghế xếp mặt ngồi bóng lưỡng bằng gỗ và chân sắt mộc mạc cũ kỹ, nhưng chắc chắn.

Rồi lại làm ăn chí thú, ít xít ra nhiều, chú Ba nấu, thiếm Xẩm rửa chén, con Muổi chạy bàn kha khá hơn bèn ra ngã tư mướn nhà mặt tiền mở quán nước.

Nhưng bất cứ quán nước nào xe hủ tiếu cũng chiếm vị trí mặt tiền, trung tâm của quán. Vì mùi thơm của nồi nước lèo bốc ra ngào ngạt, lan tỏa trong buổi sáng tinh sương của đất Sài Gòn làm ai nấy đi qua mà không đói bụng, thèm một tô hủ tiếu mì nóng hổi... vừa thổi vừa ăn chớ?

Giờ ngoài hủ tiếu, mì hoành thánh ra còn thêm bánh bao, xíu mại, cà phê cà pháo kể cả la ve cho bà con ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều ăn luôn bữa tối.

Bà con mình đi qua những ngã tư đường ở vị trí tiện lợi sẽ gặp: Tuyền Kỳ, Hưng Ký, Phánh Ký, Phát Ký, Gia Ký, Oai Ký... Mì gia!

Sao chú Ba nào cũng ‘Ký' hết vậy cà? Té ra chữ Ký trên bảng hiệu nghĩa là nhãn hiệu, thương hiệu như Phánh Ký là tiệm mì của chú Phánh vậy mà.

Trên bước đường hành hiệp chốn giang hồ, tui đã ăn hủ tiếu nhiều nơi nhiều chỗ. Ở Cần Thơ, Tây Đô thì có Hoạt Ký, Khung Ký đối diện rạp hát Minh Châu trên đường giữa Phan Đình Phùng thuở ấy.

Rồi về lại Sài Gòn ra đường Trần Quý Cáp gần tới đường Cao Thắng quận Ba, ăn hủ tiếu Nam Vang Hồng Phát.

(Đường Trần Quý Cáp đặt tên một nhà Nho yêu nước đất Điện Bàn Quảng Nam vì tham gia Phong trào Duy Tân nên bị án tử yêu trảm là chém ngang lưng; nhưng sau nầy VC vô đặt lại tên đường là Võ văn Tần!

Tui thú thiệt không biết ông nội con nít nầy là ai? Có công trạng gì với đất nước mình mà dám cả gan thay thế nhà chí sĩ Trần Quý Cáp?!).

Rồi trên đường Huỳnh Thúc Kháng ở quận Một có quán hủ tiếu Thanh Xuân quảng cáo là hủ tiếu Mỹ Tho; nhưng ăn có cả rau tần ô nữa(?!).

 

Hai quán nầy bán đắt ắt hẳn là ngon nhưng không thể nào làm tui quên được xe hủ tiếu của em yêu bên hông rạp Định Tường nằm trên đường Lý Thường Kiệt, chỉ đi chục bước chân là ra tới đường Trưng Trắc, dọc theo bờ sông Bảo Định.

Em yêu, Á xẩm, con chú Phu bán hủ tiếu ngày xưa là vợ yêu, má của hai thằng cu tui bây giờ.

Chẳng qua mất nước, đi học tập cải tạo nghĩa là ở tù VC về, tui đi chạy xích lô.

Bữa nào trúng mối, thèm tui ghé xe hủ tiếu của Ba má em để thiếm xực một tô, làm thêm xị đế mà bùi ngùi nhớ những huy hoàng ngày cũ. (Dẫu sao mình cũng từng làm quan đóng tới lon Thiếu Úy chớ bộ!)

Ăn riết rồi quen. Rồi được em lén Tía em cho tui thiếu chịu. Nói nào ngay thiếu cũng chừng chục tô thôi. May mắn canh me, vượt biên ra khỏi nước, rồi bèo giạt hoa trôi tới tận cái nước Úc nầy đây, nhớ cái ơn cho ăn chịu ngày xưa tui quay về mà rước em qua.

Qua tới đây em chỉ lo cơm nước, tui đi cày mà trả nợ em. Trả hoài mà tới giờ chưa có hết. Hu hu!

***

Chiều này quê người đất khách. Tháng Tư lại về mặt tui rầu rầu như vừa bị ăn cướp. Phải rồi tụi nó đã cướp nước tui, cướp quê hương tui, cướp luôn một thời tuổi trẻ nhiều ước vọng của tui thì hỏi tui không buồn sao đặng!

Vợ chồng đầu ấp tay gối bấy lâu em yêu thấy tui rầu nên lòng em cũng xót.

Em thỏ thẻ rằng: "Ngộ sẽ nấu hủ tiếu cho nị ăn! Rồi còn xí quách làm một tô cho nị nhậu để bớt buồn nhớ quê vì xa xứ! Thấy nị buồn, ngộ chịu không có nổi!"

He he! Lấy vợ là Áxẩm mấy chục năm nay mà em yêu nói tiếng Việt chưa rành.

Tiếng Việt em chưa sõi nhưng tài nấu hủ tiếu gia truyền của em đã chinh phục lòng anh (lòng nghĩa đen là cái bao tử) thì không cần phải hỏi. Nói theo kiếm hiệp là công phu đã đạt đến chốn thượng thừa!

Sáng hôm sau em đi chợ Footscray một mình rồi lỉnh kỉnh mang về hầm bà lằng đủ thứ.

Em giảng rằng: Bánh hủ tiếu hồi xưa ở Mỹ tho làm bằng gạo phải là từ Gò Cát, bên kia sông Bảo Định, từ cây lúa mùa mới đặng. Bằng lúa thần nông cọng hủ tiếu sẽ không dẻo, không dai và cũng không thơm.

Sau đó là xay gạo ra thành bột. Thêm bột lọc và trộn cho đều. Xong tráng bột thành bánh rồi đem phơi ngoài nắng. Cuối cùng là cắt thành sợi. Mình ăn hủ tiếu tươi không hè!

Giờ hủ tiếu để trong bọc, có chất phụ gia bảo quản. Chết em; em không tiếc nhưng chết anh em không đành... Vì cứ hai tuần ai lãnh lương về đưa tiền chợ cho em?

Cái quan trọng không kém một ly ông cụ nào là nồi nước lèo.

Cho xương heo, khô mực, tôm khô vào nồi ninh, thêm củ cãi trắng, củ cãi muối thêm chút muối, đường phèn, bột ngọt, nước mắm. Để lửa riu riu khoảng 3 tiếng, đun sôi, hớt bọt cho nước lèo nó trong.

Cho vào nồi thảo quả, đại hồi, tiểu hồi, quế (gọi là bí quyết gia truyền ai cũng giấu) trong nồi nước lèo.

Để có mùi thơm vị ngọt, tấn công vào vị giác và khứu giác của mình thì phải phi hành tím!

Thịt mỡ luộc lên, rồi cắt nhỏ, lớn hơn hạt bắp. Khi thắng tép mỡ, cho lửa lớn đảo đều cho tép săn lại, khi đó hạ lửa xuống và chiên riu riu cho tép vàng, săn lại và giòn. Đập vài tép tỏỉ sống để cho vào mỡ khi lấy ra khỏi bếp, là đủ độ nóng cho tỏỉ vàng rồi.

Bàn tay thoăn thoắt, em ngắt một nhúm bánh hủ tiếu khô, nhét sâu vào cái vợt cán tre, cùng ít giá, trụng vào nồi nước sôi, dạo lên dạo xuống mấy lượt, xốc lên xốc xuống cho ráo nước. Xong, cho vào tô, cho ít mỡ tỏi phi và hành phi trộn nhẹ cho đều thêm cải bắc thảo.

Lấy dao bén em xắt miếng thịt nạc heo mỏng còn hơn tờ giấy quyến trải đều lên mặt, vài lớp gan heo cũng mỏng không kém. Không phải hà tiện gì đâu! Ở Úc mà. Như phải xắt mỏng như vậy để cho nước lèo mới thắm vào từng sớ thịt; ăn mới ngon.

Rau kèm theo thì có ngò rí, hẹ, hành lá thêm hai lá xà lách to, ít cọng hẹ rẫy, một miếng bánh tôm chiên.

Em dọn tô hủ tiếu bốc khói ra để trước mặt chàng. Chàng hỏi còn ‘giấm sửu' đâu?

Em hiểu ý; hứ nghe cái cốc. "Ban ngày ban mặt mà giấm sửu cái gì? Nị ăn hủ tiếu của ngộ với xì dầu và giấm đỏ đi! Còn‘giấm sửu'thì để khuya khuya chút nữa nhe!"

 

đoàn xuân thu.

melbourne

 

4. Thơ Cao Vị Khanh:

                       Bài hành...tháng tư 

 


cvk_30thang4.jpg

Bài hành 
... tháng tư ________

 

 

Vậy đó, tưởng quên mà vẫn nhớ

Từ đêm vỡ tuyến lạc ven đô

Người thua trận chót đền trăm tuổi

Ta gánh thù sâu chốn hải hồ

Những tưởng mười năm đời sáng lại

Ta về bươi kiế́m miểng xương khô

Vét hết oan khiên người lỡ vận

Vùi sâu xóa dấu một hoang mồ

Ta đi rong khắp Nam cùng Bắc

Gom hế́t muôn ngàn vải tám thô

May đủ hai hàng cờ lá phướng

Treo lên trắng toát một cơ đồ

 

Vậy đó, tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm đủ lạnh một hương nguyền

Người thơm áo mới mùi hoa vải

Ta cứ u hoài một nỗi riêng

Đã quá xa xôi ngày thất tán

Biển xưa chừng lắng những con thuyền

Ôi trinh tiết gái ngoài hoang đảo

Chắc cũng nhạt nhòa chuyện đảo điên

 

Vậy đó, tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm đánh đổi chuyện keo sơn

Người thân biệt xứ lên rừng núi

Kẻ ngóng đầu non đến mỏi mòn

Thư nhắn trên đầu trang giấy rách

" quên đi mà cứu trẻ măng non

mười năm thân đã mềm như lá

như xác ve sầu đã héo hon

bồng bế con ra ngoài cõi ngoại

giữ lấy giùm nhau chút mộng tròn "

 

Vậy đó, tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm giậu đổ nát bìm xanh

Mười năm thôn xóm thành hang ổ

Người sống như loài thú mọc nanh

Con lớn hoang đàng theo cỏ dại

Mẹ buồn như cái vạc sang canh

Mẹ gởi con đi ngoài biển lạnh

Bằng như cọng cỏ ném sau gành

Thuyền con mỏng mảnh trời đen kịt

Mẹ thức từng đêm mắt lạnh tanh

Con đi một sống trăm lần chết

Mẹ đứt từng khoanh ruột đoạn đành

 

Vậy đó, tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm ngờ ngợ giữa chiêm bao

Ngày đi tóc rối còn đen mượt

Mắt sáng còn nguyên đốm lửa sao

Lòng đã dặn lòng chờ Câu Tiễn

Gom mộng bình sinh nối chí cao

Ai kẻ mài gươm về đấ́t cũ

Ai mang đoản kiếm nhập Tần sâu

Hẹn nhau xẻ núi dầu sạn đạo

Miễ̃n thấy cờ bay ải địa đầu

 

Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm nếm đủ vị chua cay

Mười năm mòn lẳn đôi giày cỏ

Ngó lại xem còn mất những ai

Đất khách đãi nhau toàn mật đắng

Tâm giao chưa quá một đêm say

Người ơi ... đất nước mà rao bán

Thiên hạ muôn người sợ lấm tay

 

Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ

Mười năm ... một giấc mộng không thành

Người chờ cho hết đời cô quạnh

Ta đứng bên trời, lệ chảy nhanh

 

 cao vị khanh


 tháng tư 1985 

5.Thơ Phạm Thị Minh Hưng - Dư Thị Diễm Buồn

        Chờ Anh - Anh hứa 

                   TL_QuocHan30_4.jpg 

 

CHỜ ANH

PTMH


Xin hãy về đi em vẫn chờ

Từng ngày thương nhớ bước anh đi

Xuân này chắc hẳn là vui lắm

Anh nhớ về ... ấm áp tình quê...

 

Từ ngày ly biệt, mắt ướt mi

Nhớ anh em có thiết tha gì

Anh hãy về đi Xuân Mậu Tuất

Đón anh, trong nước mắt tình si...

 

Hứa nha anh, về thăm quê hương

Xin đừng hờ hững... nát canh trường

Bụi xa rũ bỏ - tình chan chứa

Em chờ em đợi bóng người thương...

Phạm Thị Minh Hưng 

 

ANH HỨA

 

Cảm ơn Phạm Thị Minh Hưng

DTDB

 

Vận nước phải đành, em thấu chăng?

Quê Nam bỗng bão nổi đất bằng

Dân tộc đắm chìm trong kềm kẹp

Bẫy rập, hầm chông... Cộng bủa giăng

 

Anh vẫn nhớ em, nhớ cố hương...

Nửa đời cải tạo, nửa tha phương

Dung nhan phiền muộn trong nỗi nhớ

Em"Chờ Anh" tóc sớm pha sương

 

Anh hứa không xa có một ngày

Cùng hậu duệ về dựng tương lai

Toàn dân náo nức mừng đón Tết

Là lúc cờ vàng phấp phới bay...

 

Dư Thị Diễm Buồn

 

 

 

 


TL_30thang4_tolichcu.gifCHUYỆN SAU 30/4

Tô Nguyên Thành,

Nguyên Nhung,

Nguyễn Thị Thanh Dương,

Trần Bang Thạch

.

CHUYỆN 1 CHIẾC TÀU

Tô Nguyên Thành

Sau ngày 30-4-1975  hàng ngàn chiếc tàu mong manh vượt sóng gió ra khơi. Bao nhiêu trăm ngàn người vì 2 chữ Tự Do mà liều mạng đi trên những con tàu mong manh đó. Có nhiều người may mắn sống sót và cũng không ít người gởi xác thân trên biển cả.

Chiếc tàu dưới đây chỉ là 1 trong hàng ngàn chiếc tàu ấy. Tàu phát xuất từ một bãi vắng trên sông Cần Thơ vào một ngày của tháng 10 năm 1978 với 100 người. Chủ tàu là 1 cựu học sinh PTG ở Cái Răng: Anh Trương Minh Hiếu, hiện định cư tại Chicago. Trên tàu có những CHS PTGĐTĐ khác như Tô Nguyên Thành, Trần Tố Nga, Mã Thị Lan, Lưu Tài, Trần Thị Lừng.

Mọi người đều an toàn khi Tàu cập bến Pulo Tanga, Mã Lai.

TNThanh_apr13_boat.jpg

 .

Em Về Vạt Nắng Chiều Xuân

Nguyên Nhung

NN_Apr29_NNandbuctranhtuongdaioHouston.jpgCứ như là định mệnh, cơn bão tháng Tư thổi bay tôi ra khỏi Đà Lạt vào một ngày cuối tháng Ba năm ấy. Tôi đi mà không kịp từ giã Đà Lạt thương yêu, chập chùng những đồi thông với mối tình đầu vừa chớm nở như nụ hoa xinh trong lòng cô gái mới ngoài hai mươi tuổi. Thật ra mối tình ấy hình như đã đến từ lâu trước khi Lãng ra trường và chuyển về đơn vị, suốt một thời trung học tôi và Hà, em của Lãng đã từng có rất nhiều kỷ niệm, kể cả lần theo gia đình Hà lên trường Võ Bị Đà Lạt ngày lễ mãn khóa của Lãng.

Cuối tháng ba năm ấy, gia đình tôi hối hả chạy về Sài Gòn theo cơn bão lốc của chiến tranh. Cả nhà trú ngụ trong nhà người chú đang làm việc tại Hải Quân công xưởng, Sài Gòn tháng Ba nóng như nung, tin chiến sự mỗi ngày cho tôi biết Đà Lạt thơ mộng của tôi đã không còn nữa. Tôi nghĩ đến Hà, đến Lãng, chẳng hiểu nhà bạn ra sao và Lãng thế nào nơi chiến trường khói lửa, mỗi lần nghĩ đến tim tôi chừng thắt lại, thổn thức trong nỗi chuyếnh choáng của một cơn ác mộng.

Những ngày cuối tháng Tư không khí Sài Gòn lúc nào cũng như lên cơn sốt, một ngày chú Nhân hối hả về đưa cả nhà ra bến tàu, vội vã đến mức mỗi người chỉ mang theo một cái túi xách cá nhân đựng ít quần áo và lương khô phòng hờ lúc cần thiết. Chuyến tàu ra biển Đông vào đêm tối, ban đầu cũng chen chúc hỗn độn vì phải chở một số người quá đông , nhưng rồi đến lúc tàu càng đi càng xa chẳng còn nhìn thấy chân trời đâu nữa, nhiều người đã bật khóc vì biết rằng lần này thì mất hẳn quê hương ….

* * *

Tôi không mang được gì ngoài vài tấm ảnh đen trắng chụp ở ven hồ Xuân Hương, một tấm nơi cổng trường Võ Bị Đà Lạt với Hà và Lãng ngày anh ra trường. Có một tấm hình màu duy nhất ngày anh về phép, như để nhớ lại ngôi trường cũ tiện thể anh đưa tôi và Hà lên chơi rừng Ái Ân bên bờ hồ Than Thở. Người Đà Lạt không lạ gì cảnh buồn của nơi này khi nhìn ra phía xa đỉnh Lâm Viên mờ mờ trong mây phủ.Làm sao tôi quên được vì tấm ảnh chụp ba người dưới gốc thông gìa men theo con dốc nhỏ, nhìn ra mặt hồ lăn tăn gợn sóng và rừng thông buồn xao xác. Lúc đó Hà kiếm cớ đi hái hoa dại, cũng là lần đầu tiên Lãng cầm lấy tay tôi với ánh mắt êm đềm thật sâu lắng như muốn trao gửi điều gì. Tính anh vốn vậy, ít nói và trầm lặng, lao đao trong cảm xúc đón nhận tôi cũng im lặng nhìn anh chới với. Nắng lung linh trên rừng thông tạo những bóng nắng nhảy múa trên mặt cỏ, tim tôi đập mạnh dù biết rằng chẳng cần phải nói ra thì cả hai cũng hiểu được sự say đắm của tình yêu. Sau này khi xa nhau, nhìn tấm hình kỷ niệm tôi hay bị dằn vặt bởi tấm hình chụp ba người mà người ta bảo là điềm của chia ly.

Hơn hai mươi tuổi tâm hồn tôi đã khắc khoải theo những thăng trầm của đất nước, mối tình đầu mơ hồ vẫn đọng lại trong tâm khảm. Ra nước ngoài, hoà nhập vào xã hội mới trong nỗi nhọc nhằn khó khăn của cha mẹ, để rồi sau một thời gian dài đủ nguôi quên Đà Lạt trong trí nhớ, tới gần 30 tuổi tôi mới lập gia đình. Chẳng được bao năm hương lửa chồng tôi cũng qua đời trong một tai nạn xe cộ để lại tôi một mình chơ vơ với hai đứa con còn bé dại, từ đó tôi bắt đầu tin số mệnh. Số tôi đường tình hình như trắc trở, tình yêu đầu với Lãng chưa ấm một vòng tay, tình yêu sau cũng chẳng trọn con đường trần, thôi thì ở vậy nuôi con chờ ngày chúng khôn lớn với nỗi buồn góa phụ.

Khi các con trưởng thành và đi làm xa, tự nhiên không hiểu sao tôi lại hay nghĩ về quá khứ, đến Lãng, đến Hà và khung trời Đà Lạt, cứ mơ ước một lần trở về con đường quen, cái xóm nhỏ có những căn nhà gỗ ở cuối dốc, từ đó có thể nhìn xuống phía dưới là vườn rau xanh Đà Lạt. Đấy là căn nhà của Hà, ngày xưa hai đứa hay ngồi phía sau nhà nhìn thẳng ra bãi rau xanh phía xa rồi mơ màng nghĩ vẩn vơ, những lúc ấy không biết Hà nghĩ gì nhưng riêng tôi thì bao giờ cũng có hình ảnh Lãng.

Quyết định trở về thăm lại Đà Lạt sau hơn ba mươi mấy năm, kể từ ngày tôi xa Đà Lạt năm ấy. Rủ thêm Quyên người bạn mới quê ở Đà Lạt về cho có bạn, Quyên cũng muốn đi tìm lại chốn cũ thăm người dì ruột và đám em họ. Đà Lạt hôm nay đã thay đổi hết rồi, tôi lạc lõng trong thành phố xưa để đi tìm lại kỷ niệm cũ, ngoài những con đường xưa không thể thay đổi nhưng nhà cửa thì đồ sộ, bóng bẩy và ồn ào hơn như hầu hết các nơi khác. Ba tôi là công chức nên ở nhà chính phủ, căn nhà ấy nay có chủ mới, xây dựng lại tôi nên tôi không còn nhận ra những gì thân quen . Coi như hết, ở tuổi tôi đâu cần tìm cái mới, may ra có thể tìm lại Hà và một số bạn học cùng trường năm xưa.

Ngày hôm sau tôi một mình tìm về xóm nhỏ ngày xưa, với hy vọng mong manh gặp lại người bạn cũ. Nếu gặp Hà tức nhiên tôi sẽ có tin của Lãng, vì tháng Ba năm ấy khi tôi chạy về Sài Gòn thì anh vẫn còn đang lao đao ngoài vòng lửa đạn. Trong lòng tôi chỉ mong mỏi một điều tất cả mọi người đều bình yên, và nếu như gặp Lãng thì cũng mong anh luôn được êm đềm hạnh phúc. Rất may là Hà vẫn còn ở căn nhà gỗ sơn màu xanh nhạt, nhà cửa xây dựng lại trông có phần chắc chắn hơn xưa. Bạn tôi không có nhà, người nhà cho biết Hà đang ở ngoài cửa hàng đan len và bán hàng lưu niệm cho du khách.

Lòng khấp khởi mừng vì sắp gặp lại bạn cũ, tôi sẽ gỉa làm khách du lịch đi mua hàng xem Hà có nhận ra bạn cũ. Không khó lắm tôi đã tìm ra địa chỉ, Hà đang ngồi ở trong quầy, nay đã tròn trịa, gìa dặn hơn trong chiếc áo len màu trứng sáo, khi về gìa trông Hà thật đôn hậu. Thấy tôi vào Hà chau mày nghĩ ngợi, bất chợt giật mình như cố nhớ xem nét mặt quen quen này ở đâu. Sau một lúc gỉa vờ la cà xem mấy tấm khăn phu la treo trên vách, mắt tôi chợt đập vào mấy bức tranh nhỏ vẽ cảnh Đà Lạt đặt gần phía ngoài để thu hút khách du lịch. Tranh lộng trong khung tre, sau những rặng thông đan nhau nhạt nhòa màu thời gian, dải Lâm Viên chập chùng mờ mờ trong sương sớm, nơi góc của bức tranh ký một chữ “Lãng” rất nhỏ khiến tôi bàng hoàng. Đúng lúc đó thì Hà đã theo ra đứng phía sau lưng tôi, ngỡ ngàng gọi tên tôi rồi cứ thế bật khóc nức nở ….

Cả hai chúng tôi cùng khóc, có lẽ cả hai cùng đang nhớ về những biến động của thời thế và tang thương của đất nước mấy chục năm trước. Giọng Hà ướt sũng khi hỏi tôi:

“ Ngọc về bao giờ thế? Hà cứ tưởng như trong mơ …”

Nghẹn lời khi không nói hết được những gì muốn nói, hai đứa im lặng nhìn nhau. Rồi Hà kể cho tôi nghe bao nhiêu dâu bể cuộc đời xảy ra cho gia đình trong những năm tháng đó, Lãng bị bắt làm tù binh và trở về nhà với một cái chân tật nguyền không phải vì bom đạn.Tôi chỉ vào bức tranh rừng thông với giải núi xa màu xanh xám phủ mây mù hỏi Hà, giọng xúc động:

“ Tranh này của anh Lãng?”

Hà gật đầu:

“ Phải, nhờ vẽ những bức tranh này mà anh cũng có đủ thu nhập để sống trong bấy nhiêu năm trời. Chiến tranh băng mình trong lửa đạn không hề hấn gì, thế mà vào tù khi đi lao động lại bị tai nạn, cây đổ gây thương tật đi đứng không còn được như xưa, may là còn sống. Anh ấy vẫn không gặp may, nếu ở tù đủ ba năm thì cũng được đi Mỹ theo diện H.O. Ba mẹ Hà theo nhau về trời, Hà lập gia đình với một người lính cũ, anh ấy rất chịu khó nên cả nhà cũng thoát qua được lúc ngặt nghèo. Đợi mình lập gia đình xong thì anh Lãng nhất định đòi lên rừng ở…”

Tôi trố mắt nhìn Hà:

“ Lên rừng? Anh làm gì ở trên rừng?”

Hà bật cười giải thích:

“ Nói là rừng chứ không hoàn toàn là rừng. Trên ấy có một làng nhỏ người ta sống bằng nghề làm củi, trồng rau, mình có một bà cô già sống một mình không con cái, cô chuyên làm chao, làm tương nổi tiếng ngon, bán cho người nghèo quanh vùng, thời buổi ấy nhà nào cũng chỉ sống bằng rau dưa chao tương qua ngày thôi. Cô mình chỉ ăn chay, gần như tu tại gia nên anh Lãng bảo lên đó sống với cô hủ hỉ cho vui nhà vui cửa, giờ rảnh anh phụ cô làm tương chao, phía sau nhà có mảnh vườn nhỏ đủ rau khoai cho hai cô cháu. Anh ấy cũng tu rồi Ngọc ạ, sớm chiều hai buổi công phu theo bà cô và ngồi thiền để khỏi ngẫm nghĩ chuyện đời.”

Nghe Hà kể mà tôi ngậm ngùi, tưởng tượng ra một xó rừng nào đó Lãng đã ru đời mình theo tiếng chuông tiếng mõ. Hà tiếp tục câu chuyện:

“ Nhờ sống ở đó mà anh Lãng trở thành họa sĩ, không có trò giải trí anh mới nghĩ ra cần phải vượt lên trên số phận bằng cây cọ. Thấy anh vẽ đẹp quá nên Hà nảy ra ý định đem lộng khung rồi bán những bức tranh nhỏ cho du khách làm quà lưu niệm, vậy mà không hiểu sao tranh bán rất được, mỗi tháng anh phải đem về cho mình hằng chục bức, nhờ vậy đời sống anh thoải mái hơn. Nhưng anh cũng lấy đó làm vui và giúp mình để nuôi các cháu ăn học chứ không nghĩ gì đến bản thân, tội nghiệp quá!”

Hà cười mà đôi mắt còn ướt vì hạnh phúc:

“ Cũng nhiều chuyện vui vui khi bán tranh cho anh Lãng, nhờ vậy mà bạn anh từ nước ngoài về thăm Đà Lạt, nhìn ra đỉnh Lâm Viên ngày xưa của mấy anh ấy trong tranh nên đã tìm ra bạn cũ. Họ rủ nhau đến thăm anh, mua tranh với giá cao để giúp bạn và nhờ vậy anh Lãng cũng thật ấm lòng với tình bạn đời quân ngũ. Có người còn muốn giúp anh về lại thành phố mở xưởng vẽ, nhưng anh Lãng thật khác người, từ khi lên rừng sống với bà cô tu tại gia thì anh ấy đã thay đổi hoàn toàn, chẳng bao giờ vui quá hay buồn quá, anh ấy bảo đau khổ bao nhiêu cũng chỉ cần một nụ cười là hoá giải được tất cả.”

Thì ra là vậy, tự nhiên tôi cũng tò mò muốn đến thăm Lãng để xem cuộc sống ra sao mà anh lại “an nhiên tự tại” vui hưởng thú điền viên với rặng thông già. Tôi chợt cười thầm và nhớ lại. Đúng là Lãng, Lãng của ngày xưa ngay cả khi tỏ tình cũng chỉ lặng lẽ trao gửi mà đâu cần nói một lời nào, điều này khiến tôi càng ao ước gặp Lãng, và tôi đã nói điều đó với Hà. Hà gật đầu hóm hỉnh:

“ Nhưng Hà nói trước, anh Lãng bây giờ không phải anh Lãng ngày xưa, chỉ tu tâm mà không khoác áo tu, đầu tóc râu ria trắng xoá , nếu gặp lại chắc Ngọc sẽ ngỡ ngàng lắm đó.”

Tôi gật đầu bảo Hà:

“ Ngọc sẽ không ngạc nhiên đâu!”

* * *

Hà giao cửa hàng cho con gái trông nom rồi cùng tôi rong ruổi đó đây với đất trời Đà Lạt. Cuối năm trời vẫn trong veo và nắng vẫn óng ả, chúng tôi lên “ rừng” thăm Lãng như dự định. Không báo trước nhưng Hà biết anh mình không đi đâu xa vì mới đem tranh xuống phố, nếu có vắng nhà chỉ là lúc anh mang cọ, màu đi vẽ ở một góc nào đó thôi. Kể ra sống như Lãng cũng thú, chẳng vướng bận thê nhi, chẳng lo lắng miếng cơm manh áo vì đã quen ăn chay mấy chục năm trường. Bà cô già kể từ khi Lãng vẽ tranh kiếm được tiền để sống qua ngày đã thôi không làm tương chao, nhưng lo nỗi Lãng là cháu trai không tiện việc săn sóc bà khi nằm một chỗ nên đã xin vào ở hẳn trong chùa sư nữ để tìm nơi nương tựa lúc tuổi gìa.

Xe ngừng ở ngoài đầu con đường nhỏ, chúng tôi còn phải lội bộ khoảng mười lăm phút mới đến nơi ở của Lãng. Căn nhà nằm ngay đầu dốc nên cao hơn các nhà trồng rau ở phía dưới, vài cây thông xanh trước nhà và phía sau như bao bọc lấy căn nhà nhỏ bằng gỗ màu xám nhạt, từa tựa như những căn nhà miền quê ở Âu Châu.Tự nhiên tôi lại thấy hồi hộp, mấy chục năm rồi kể từ khi xa nhau bây giờ sắp gặp lại thì đã hai màu tóc, người lính trẻ năm xưa kiêu hùng trong màu áo trận, cô gái đang độ xuân xanh má đỏ môi hồng thuở nào nay đã thay đổi nhiều với thời gian. Sẽ như thế nào nhỉ? Thôi mặc kệ tất cả, như định mệnh là bàn tay tai quái đã phủ chụp lên thân phận con người thì chuyện gì đến tất phải đến.

Ngọc vào nhà trước, Lãng đang ngồi uống trà nhìn ra khung cửa sổ, bên ngoài là thung lũng thoai thoải có những luống rau xanh thẳng tắp chạy dài xuống chân đồi. Nghe tiếng bước chân anh ngoảnh nhìn lại, hơi ngạc nhiên vì thấy em gái đi với khách lạ, linh tính cho anh biết khách từ xa đến đây, và người khách ấy chỉ có thể là Ngọc vì chả bao giờ Hà chịu bỏ cửa hàng để đi đâu. Tôi chưa kịp lên tiếng chào thì Lãng đã lên tiếng trước, bình thản như hỏi một người quen mới đi đâu về:

“ Ngọc đấy à? Em về bao giờ thế?”

Tuy đã chuẩn bị nhưng tôi vẫn bối rối, trước mặt mình là một người đàn ông chưa gìa lắm mà đầu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào khoẻ mạnh. Anh đấy ư? Vẻ an nhiên tự tại trên nét mặt bình thản ấy như đã từng vượt trên đầu sóng của số phận khiến tôi thán phục sức chịu đựng của anh, hóa ra tôi vẫn yếu ớt như ngày nào mặc dù đã nhủ lòng đừng khóc. Đến nỗi Lãng phải bước tới bên cạnh tôi, cầm lấy bàn tay gía lạnh vì tiết trời rét buốt tháng chạp, xiết chặt như muốn chuyền hơi ấm:

“Đừng khóc, người từ xa về mang niềm vui đến đây sao lại khóc? Anh đang vui đây vì em đến như một giấc mơ không đợi, mới đó mà ba mươi mấy năm rồi nhỉ?”

Tôi nghe như có tiếng thở dài rất nhẹ sau câu nói đùa của Lãng, bên ngoài hàng thông vẫn reo vi vu như hòa theo chút ngậm ngùi của ngày hạnh ngộ. Bình tâm lại sau những cảm xúc ban đầu, ba người ngồi xung quanh chiếc bàn nhỏ trò chuyện, Lãng rót cho tôi một tách trà nóng, giọng ân cần như xưa:

“ Ngọc uống đi, anh không dùng trà từ lâu mặc dù trà là đặc sản của Lâm Đồng. Đây là nước gạo lức rang, anh đã dùng nhiều năm thay trà để tăng cường sức khoẻ . Hằng ngày chỉ tập thêm “Suối Nguồn Tươi Trẻ” là đủ, tuy đầu tóc bạc phơ nhưng cơ thể không bịnh tật, khí hậu trên rừng cũng tốt hơn thành phố em ạ.”

Toàn những chuyện của hôm nay, tôi đang muốn biết dưới đáy biển ngầm của mối tình xưa có vỗ lại những đợt sóng trong trái tim người đàn ông đã một thời yêu tôi và tôi cũng một thời yêu anh say đắm. Hà ngồi đó mỉm cười nhìn anh và bạn, như đang nhớ lại buổi trưa trong rừng Ái Ân bên bờ hồ Than Thở năm xưa, đã gỉa vờ đi tìm hoa dại cho hai người yêu nhau có dịp bày tỏ nỗi lòng. Bây giờ Lãng nói nhiều chứ không trầm lặng như xưa, hay anh cũng đang bối rối che dấu bằng những câu chuyện đâu đâu trong lần hạnh ngộ?!!

Xế chiều hôm đó khi trời còn vương vất nắng, Lãng đưa chúng tôi đi lang thang xuống chân đồi xem vườn rau và rừng thông nằm rải rác phía xa xa, chỗ ấy có một con suối nhỏ mà anh thường ra đó để vẽ, khung cảnh này tôi đã nhìn thấy trong một tấm tranh của Lãng. Đêm đầu tiên ở lại với Hà trong căn nhà của Lãng, tôi chờ nghe tiếng chuông tiếng mõ và mùi trầm hương để ru mình vào giấc ngủ, chập chờn trong giấc mơ tôi nghe như những giọt nước mắt mằn mặn bờ môi khi vùi mặt lên vùng ngực ấm của người lính trận trước giờ chia tay. Lãng trở ra đơn vị và cũng chỉ vài tháng sau tôi xa Đà Lạt mãi mãi …

Sáng hôm sau mới bốn giờ đã ngửi thấy mùi nếp thơm phả trong căn nhà nhỏ. Trời mưa, Lãng dậy sớm theo thói quen nhen lửa thổi nồi xôi đậu phọng ăn với muối vừng. Hà còn nằm ngủ nướng vì đêm qua trằn trọc khó ngủ, tôi ra phòng ngoài thì đã thấy Lãng đang ngồi đun nước trên bếp than hồng đỏ rực. Thấy tôi anh nhường chỗ ngồi ấm bên bếp lửa rồi hỏi:

“ Ngọc ngủ có ngon không? Lạ nhà chắc cũng hơi khó ngủ, có ấm nước nóng anh đặt trên bếp cho mấy cô rửa mặt, trời cũng lạnh đấy. Ngồi xuống đây cho ấm, bữa nay anh chỉ có món qùa nhà quê đãi hai cô thôi. À quên, hôm qua có nải chuối chín tới, cây trái trong vườn mùa nào thức nấy anh không phải mua gì cả, muốn lên đây ăn tết với anh thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu thứ, không hiểu mấy cô có chịu nổi không?”

Tôi nhìn Lãng mỉm cười không nói, chưa biết tôi có chịu nổi cách sống chay tịnh lành mạnh này được bao lâu, nhưng giờ đây lòng tôi thật êm ả sau những phong ba bão táp trong bấy nhiêu năm đời viễn xứ. Không hiểu sao tôi lại buột miệng hỏi Lãng:

“ Sao hồi đó khi còn trẻ anh không lập gia đình cho tuổi gìa đỡ cô quạnh?”

Lãng nhìn lại tôi, câu trả lời hóm hỉnh mà nghe thấm đến tận tim phổi:

“ Anh đã tu rồi mà, tu rồi thì lấy vợ làm gì. Thật ra nếu em ở lại trong khoảng thời gian đó, mới cảm nhận được cái đau tinh thần nơi người ở lại. Anh đã không hoà nhập được với cái mới nên phải tự tách ra tìm cái gì đó cho mình để khỏi phải nghĩ ngợi. Thời gian cũng làm lành tất cả những vết thương, cái chân tật nguyền bị gãy trong lần đốn cây trên rừng thời gian tù tội, anh đau cái đau của thể xác đã đành mà còn mang thêm nỗi nhức nhối vì bị bỏ rơi, bị lãng quên sau khi đã cống hiến tuổi trẻ cho đất nước. Nhiều năm nay anh không nói vì không ai hỏi, đây chính là lý do anh lên rừng ở ẩn sau khi Hà lập gia đình.”

Thương anh quá, tôi hiểu vì sao anh hay vẽ những bức tranh có đỉnh Lâm Viên mây mờ che phủ, với ngàn thông chập chùng trong mảng rừng chiều thăm thẳm. Buổi sáng nơi này trời đang mưa, tự nhiên tôi muốn hát một ca khúc đã quên lời từ lâu, “mưa rừng ơi mưa rừng, tìm đâu hỡi ơi bóng ngày xưa…”. Trôi theo những kỷ niệm vật vờ trong quá khứ, tôi thủ thỉ nói với anh:

“ Người ta cứ hay nói “không thể tắm được hai lần trên một dòng sông”, những khi ấy em cho là ngớ ngẩn và rất buồn cười, nhưng đến bây giờ em mới lờ mờ hiểu ý nghĩa của câu này.”

Lãng mỉm cười châm thêm nước sôi vào bình thuỷ, trả lời tôi bằng mấy câu thơ:

Dẫu anh biết chẳng bao giờ có thể

Tắm được hai lần trên một dòng sông

Sông còn kia mà nước chẳng quay về

Cứ khắc khoải mà trôi ra lòng biển”

( thơ NN)

Tôi nheo mắt nhìn Lãng và chỉ về phía những bức tranh vẽ dở dang trong góc phòng tối:

“ Theo em hiểu thì anh tu vì muốn chôn vùi dĩ vãng, nhưng trong những bức tranh em vẫn thấy thấp thoáng hình bóng của dĩ vãng trong đó. Hàng thông ven bờ hồ Than Thở, đỉnh Lâm Viên hai dải núi mờ trong sương, đồi Cù cỏ xanh và hồ Xuân Hương gờn gợn sóng, ngôi trường cũ ẩn hiện không rõ nét nhưng con đường với bóng giai nhân ngày chủ nhật thì không lẫn lộn đi đâu được. Có phải vậy không anh?”

Lãng cười, lâu lắm rồi tôi mới thấy anh vui như thế:

“ Em thật thông minh Ngọc ạ, tri âm tri kỷ tri bỉ mà định mệnh lại chia lià nhau chỉ vì cái tan nát của nước non. Đúng thế, anh vẫn không thể nào quên quá khứ dù khi đến đây sống với bà cô gìa, anh tập tìm quên cuộc đời trong tiếng chuông tiếng mõ. May có cô để anh bám víu nương tựa và có em Hà nâng đỡ anh trong cuộc sống hằng ngày nếu không anh đã nhảy xuống hồ tự vận, khi nhìn lại mình những lúc ấy mà cứ tưởng rằng ai rất xa lạ…”

Tôi ngồi im chờ đợi anh nói tiếp, vì bản tính Lãng từ ngày xưa ít khi thổ lộ nỗi lòng với ai. Ngay cả những lần về phép rồi trở ra đơn vị, mỗi khi chia tay Lãng cũng chỉ lặng lẽ trao gửi bằng ánh mắt thương yêu, trong khi tôi thắc thỏm âu lo cho anh ngoài trận địa. Mơ màng nhìn ra ngoài cừa sổ, những cây thông ướt sũng nước mưa và gió vẫn rít từng cơn như những tiếng thở dài não nuột:

“Ở gần bà cô nhiều năm mà anh vẫn chẳng thuộc được bao nhiêu kinh kệ, nhưng đã bình tâm lại được nhờ quen dần với tiếng chuông tiếng mõ. Đối với anh lúc đó đời chỉ có hai nơi, một nơi là cõi bên kia và nơi anh đang sống là cõi bên này. Cõi bên kia là bạn đời lính đã ra đi khi tuổi còn xanh, những người thân đã khuất trong gia đình, dù sao thì họ cũng về nơi an nghỉ, anh cầu cho họ tìm được một thế giới tốt đẹp hơn cõi đời đầy khổ luỵ. Cõi bên này xem vậy mà khổ hơn, những người dân sống xung quanh anh hay những nơi anh đã đi qua, họ cam chịu một đời lam lũ vì không có cách nào thoát ra được, họ cũng phải chống chỏi để tồn tại trong vất vả nhọc nhằn. Đời có gì vui đâu, chưa kể bịnh hoạn ốm đau tiền đâu mà chạy chữa, nghĩ vậy nên anh chỉ cầu an cho họ. Nói là tu nhưng đó chỉ là cách giúp cho tâm hồn mình bình thản hơn để chịu cái nghiệp khổ mình phải trả, vượt lên trên cái khổ để nhìn ra hạnh phúc nhiều khi giản dị đến không ngờ. Dù em không nói nhưng anh cũng hiểu cái khổ mà em phải ôm mang, chẳng qua cũng chỉ là nghiệp mà em phải trả, trả chưa xong thì lòng có khi nào an ổn mà nghĩ tới hạnh phúc.”

Tôi thổn thức lắng nghe từng lời chia xẻ của Lãng, dù chưa kể cho Lãng nghe bao nhiêu mà sao anh đã hiểu và soi thấu tâm hồn tôi cũng đang khắc khoải vì cô đơn. Lãng nhìn tôi đầy thương mến, như một người anh vẫn săn sóc cô em gái nhỏ của mình:

“ Nếu anh không lầm thì Ngọc vẫn còn nhiều bổn phận, em vẫn phải đi làm có đúng không?”

Tôi gật đầu trong nỗi phiền muộn, anh nghĩ đúng, tôi còn phải vật lộn với cuộc sống vì chưa tới tuổi nghỉ ngơi, hai đứa con chưa lập gia đình vẫn làm tôi quan tâm nghĩ ngợi. Lại hay hoài nghi về cuộc đời và tình người, tôi khó tìm ra sự an bình như đời sống của anh. Lãng âu yếm nhìn tôi và hỏi:

“ Nếu Ngọc bằng lòng thì chiều nay trời hết mưa, anh mời em ra phía sau nhà nhìn ra hàng thông và vườn rau xa xa, anh sẽ vẽ bức tranh để kỷ niệm ngày gặp lại. Mai sau nếu như một lẽ gì đó mình không gặp lại, nhìn bức tranh anh vẫn thấy ấm lòng và tưởng như mình chưa hề xa nhau.”

Hình như trời cũng chiều lòng người, cơn mưa đêm về sáng đã ngưng, trả lại cho bầu trời sắp sang Xuân những tia nắng mềm mại óng ả. Tôi không ngờ Lãng vẽ nhanh quá,cảnh vật quanh đây như tấm ảnh đã ghi vào trí Lãng và anh chỉ cần quơ đôi tay ra là nắm được. Bức tranh có hồn đến không ngờ khi Lãng vẽ thêm vào cảnh phía sau lưng một dáng người phụ nữ ngồi nhìn ra phía xa, ánh nắng chiếu qua mái tóc và đọng lại trên đó lung linh một vạt nắng.

Suốt buổi chiều hôm đó tôi ngơ ngẩn trong trạng thái của người mộng du. Tình yêu ngày nào đã đánh mất như nắm được trong tay, đẹp như một vạt nắng vương trên mái tóc, nhưng chao ơi có ai nắm được nắng bao giờ. Nghĩ đến hai chữ “Định Mệnh” tôi lại rùng mình và nếu cho là mỗi phút giây hiện tại tôi đang có là hạnh phúc, thì hãy hưởng chút hạnh phúc nhỏ bé ấy đi. Không dám hứa với Lãng là sẽ có một ngày gặp lại, thôi thì đến đâu hay đến đó, cũng ngay sáng hôm sau tôi theo Hà trở về phố thị vì bạn cần phải chuẩn bị cho ngày Tết của gia đình. Trước khi chia tay, Lãng chỉ đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ ghi mấy vần thơ:

“ Lạ lùng sao có vạt nắng chiều sương

Len lén đến nghiêng vai ngoài song cửa

Ôi vạt nắng hong bàn tay buốt gía

Nắng muộn màng mà ấm cả hồn ta …”

Nguyên Nhung

T HP MÌ SI.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Sáng thứ bảy tôi nấu món mì đồ biển thập cẩm. Những nguyên liệu, gia vị đã đấy đủ nào tôm tươi, mực tươi, cá viên chiên, gìo sống, cần Tàu và gói mì sợi Canada quen thuôc tôi vẫn hay dùng.

Vừa ninh nồi xương tôi vừa vui vẻ làm việc và lắng nghe tin từ đài ti vi Việt Nam . Thì ra chỉ còn 3 ngày nữa là kỷ niệm 30 tháng Tư, ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản vào năm 1975.

Tôi bỗng thẫn thờ và chạnh buồn, ngẩn ngơ mất mấy phút mà hộp mì tươi vẫn còn cầm trên tay, nhìn hộp mì sợi, bỗng gợi tôi nhớ ngay đến tổ hợp mì sợi của thời kỳ sau biến cố 1975. Hồn tôi như dòng sông chảy miệt mài về miền qúa khứ.

**********************

Sau khi công sản chiếm miền Nam Việt Nam họ chủ trương lùa dân thành phố đi kinh tế mới, một đề án to lớn mà rỗng tuếch vì không hề được đầu tư chuẩn bị. Bao nhiêu gia đình đã phải ra đi dù họ không hề mong muốn. Họ đập phá nhà cửa để lấy tôn, lấy gỗ hoặc là mang đến vùng kinh tế mới để cất lại nhà cửa, hoặc bán lấy tiền, nhà gỗ nhà tôn trở thành có gía trị hơn nhà xây gạch kiên cố vì còn lấy được những vật liệu .

Nhưng dù là nhà loại nào cũng để lại thảm cảnh, người đi rồi bỏ trơ lại căn nhà bị đập phá nham nhở, vách tường chênh vênh, nền hoang, sân lạnh. Trông thật đau lòng.

Người mừng vui chiến thắng!! Người nhà cửa tan hoang !!!

Tại phường tôi cư ngụ hai cán bộ tuyên truyền đi đến từng hộ nhà dân để khuyến khích và thúc đẩy dân đi kinh tế mới.

Hai cán bộ, một nam một nữ này đến nhà ai thì chủ nhà thường tìm cách lánh mặt không tiếp nên họ cứ đến rồi đi, rồi đến nữa, nên hầu như ai cũng quen mặt và gọi mỉa mai họ là “Hai vợ chồng kinh tế mới”

Tôi cũng một lần phải tiếp khách không mời này. Họ là cán bộ kinh tế của phường, hai người thay phiên nhau ca ngợi về vùng kinh tế mới ở rừng lá Thuận Hải, sẽ có chuyến xe đưa đồng bào đi về vùng đất mới, đến đó lập nghiệp chúng ta sẽ khai hoang rừng thành ruộng đất tha hồ mà trồng lúa ngô, khoai, sắn hay rau qủa, rồi nuôi thêm gà, vịt, dần dần tiến lên heo, bò, chẳng bao lâu chúng ta sẽ làm giàu từ hai bàn tay trắng.

Anh cán bộ kết luận:

- Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.

Tôi ngoan ngoãn lắng nghe họ thao thao nói những điều tốt đẹp về vùng đất mới, cứ nghĩ đến chuyện đốn cây rừng, phá bụi rậm gai góc, xẻ đất, cuốc xới trồng trọt là tôi đã kinh hồn hoảng vía, nhưng tôi không có công ăn việc làm, chồng lại là “lính nguỵ” đang đi “học tập cải tạo” thì họ chỉ muốn tống ra khỏi thành phố thôi. Tôi coi như số phận mình không thoát khỏi kinh tế mới nên tôi cố vớt vát may ra đời có chút gì vui. Kiên nhẫn đợi họ nói xong tôi mới e dè hỏi:

- Thế rừng lá có…đẹp không ạ?

Chị cán bộ tưởng cá đã cắn câu, chị ta vẽ vời thêm:

- Rừng lá đẹp lắm, có suối reo, có chim hót, nhà chị ở sẽ trồng giàn bầu, giàn bí…đời sống sẽ thanh thản êm đềm hơn hẳn ở thành phố.

Anh cán bộ nhấn mạnh:

- Chị đưa các con đi kinh tế mới thì chồng chị đang học tập cải tạo sẽ chóng về.

Tôi hứa liều:

- Vâng, để tôi suy nghĩ..

Tôi đã nghĩ về rừng đẹp như chị cán bộ diễn tả và như tôi từng mộng mơ thời con gái, nào biết rằng trong rừng ngoài suối reo chim hót còn có rắn rít muỗi mòng, có vắt, và các loại côn trùng độc hại khác ..

Nhưng tôi biết làm gì trong khu rừng lá xa lạ ấy? chưa kể cái tội sợ ma nữa. Làm sao mà tôi sống ở trong rừng với 2 đứa con thơ được!!.

May qúa đúng lúc này thì tôi nghe tin từ người bạn quen có một nhóm người ở Xóm Mới đang thành lập tổ hợp mì sợi tại phường tôi, họ đã đăng ký và xin được giấy phép rồi, chỉ cần thêm vài hội viên góp vốn để trả chi phí lắp đặt máy móc và thành hình.

Tôi đã liên lạc được với anh Tình trưởng nhóm xin “một chân” trong tổ hợp và đồng ý góp cổ phần..

Thế là khi 2 cán bộ kinh tế mới ghé nhà tôi lần nữa để thúc giục tôi đăng ký đi kinh tế mới, tôi đã tự tin trả lời:

- Tôi sắp đi làm trong tổ hợp mì sợi, cũng là góp sức lao động sản xuất thực phẩm phục vụ đồng bào, xã hội. Bao giờ chồng tôi đi học tập về thì sẽ tính chuyện đi kinh tế mới sau.

Đó là năm 1978.

Hai tháng sau thì tổ hợp mì sợi bắt đầu hoạt động, địa điểm họ thuê là 2 căn nhà tôn trong khu gia binh cũ phá các vách ngăn ra cho rộng để làm nơi sản xuất, rất gần nhà tôi, đi bộ chừng 10 phút là tới.

Tuy là từ căn nhà ở như hộ dân nhưng ở mặt tiền đường, treo bảng hiệu lên cũng đập vào mắt người ta “ Tổ Hợp Mì Sợi gia công phường10 Gò Vấp”. Bên trong tiếng máy chạy ầm ĩ ( chắc vì máy cũ, phụ tùng rổm mới kêu to đến thế?) và tiếng nói cười của mười mấy công nhân mỗi ca cũng làm khối người mơ ước được vào làm tổ hợp như tôi.

Từ một cỗ máy cũ và mớ sắt hư vụn nào đó, anh Tình đã cải tiến thành cỗ máy làm mì sợi liên hoàn, trông cũng oai lắm, đầu máy là thùng trộn bột, đoạn giữa máy là cán bột và cuối cùng là máy cắt thành sợi mì.

Nhân viên tổ hợp đa số là cư dân trong xóm chúng tôi, chưa bao giờ biết làm mì sợi là gì.

Khi thì tôi đứng chỗ máy cán bột khi thì tôi cắt mì, và khi thì tôi vắt mì, hai bàn tay lả lướt đưa những vạt mì sợi chảy từ máy xuống nia xuống mẹt sao cho không bị rối, để chốc nữa sẽ cho vào lò hấp, khi mì chín hoặc là sẽ giao mì sợi tươi hoặc là nắm thành từng vắt phơi khô giao cho tổ lương thực của phường tùy theo hợp đồng gia công.

Làm vài ngày quen tay, quen việc nên chẳng bao lâu ai cũng thành thạo dù đứng ở khâu nào.

Tổ hợp mì sợi có 2 ca, ca sáng sớm đến chiều và ca chiều đến khuya. Ai cũng phải làm 2 ca, thay qua đổi lại cho công bằng.

Hồi ấy tôi còn trẻ, vẫn còn mê ngủ, nếu tôi làm ca sáng thì có bác Mộc cùng làm và nhà bác gần nhà tôi, là người đến gọi tôi dậy. Mỗi buổi sáng tờ mờ, bác đứng trước cổng rào và gọi to mấy lần:

- Bông ơi là Bông…dậy chưa?

Khi tôi giật mình thức giấc thì chắc rằng mấy nhà hàng xóm bên cạnh nhà tôi cũng thức giấc theo vì bác Mộc gào to qúa. May là hàng xóm Việt Nam dễ tính và thông cảm không ai khiếu nại gì cả.

Lần nào tôi ra đến cổng cũng bị bác Mộc trách:

- Tao gọi mày như gọi đò sang sông!

Bác Mộc gốc dân Hà Nội, di cư từ 1954, trước 1975 gia đình bác là gia đình sang cả trong xóm, hai vợ chồng phong lưu như cậu mợ và đứa con gái duy nhất của bác từ bé đã hay diện áo đầm đi giày màu hồng xinh xắn thường làm tôi lúc bé đã ước ao và ghen tị. Tôi và con gái bác bằng tuổi nhau, nên bác Mộc xem tôi như hàng con cái.

Từ khi bác trai mất đi gia đình bác sa sút, rồi biến cố 1975 lại càng thêm sa sút, bác Mộc phải ra chợ bán hàng, nhưng bác vẫn “qúy phái” kiểu Hà Thành, tóc vấn trần cài lược, áo trắng nõn, cổ đeo chuỗi hạt ngọc màu xanh dù bác Mộc ngồi bán xôi vò, chè, bánh trôi, bánh chay chình ình giữa chợ, kẻ qua người lại và bụi rác ngổn ngang.

Hôm nào hàng ế, bác bưng cả rổ bánh chay hay xôi vò đến nhà tôi bán tống bán táng giá “mão” rẻ bèo bắt tôi mua bằng được. Bác bảo nhà mày em đông, mua cho chúng nó ăn.

Bác cũng đóng tiền vào tổ hợp mì sợi cho yên thân, khỏi phải mỗi ngày nấu nướng chè bánh và bưng ra chợ bán nữa.

Có bác Mộc ca chúng tôi vui nhộn hẳn lên vì bác hay thơ phú và kể chuyện tiếu lâm, chuyện tiếu lâm của bác thanh mà tục, tục mà thanh, ai cũng thích nghe.

Có hôm bác ngâm thơ “Đồi thông hai mộ” :

- “Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ?

Anh của em yêu qúy nhất đời.”

Có hôm bác trải chiếc chiếu xuống đất để mọi người ngồi vắt mì sợi thành từng nắm đem phơi khô bác liền ngâm nga hai câu thơ, không biết là cao dao tục ngữ của dân gian hay do bác sáng chế ra:

- “Trải chiếu ra đôi ta nằm xuống,

Xong cuộc rồi ta cuộn chiếu lên…”

Một bác gái khác vội phản đối:

- Ấy chết bác Mộc đừng ngâm thơ loại này nữa, ở đây có mấy đứa xa chồng, đừng làm hư chúng nó…

Khi tôi đổi sang làm ca tối, tôi vốn nhát gan sợ ma thì có cô Tỵ làm cùng ca đưa về tận nhà vì nhà cô phải đi ngang nhà tôi.

Một đêm khuya khi tôi và cô Tỵ đang đi trong khu xóm, đến nhà thờ tôi trông thấy 1 bóng người mặc áo khoác dài như áo mưa đang đứng nép mình vào góc cổng nhà thờ. Tôi sợ hãi vừa chạy nhanh vừa la to:

- Cô Tỵ ơi, có người! có người !

Cô Tỵ cũng sợ vội chạy theo cho kịp tôi, khi hoàn hồn cô Tỵ nói:

- Bông ơi là Bông, sao em dại thế, bóng người ấy là kẻ gian đấy, đang đêm mà mặc áo khoác dài tới chân đi lang bang trong xóm là để rình mò nhà người ta thôi. Nó thấy mình nó sợ phải ẩn mình trong góc cổng nhà thờ mà Bông lại sợ nó thế mới ngược đời. Thằng kẻ cắp ấy được một phen tha hồ mà cười.

- Nhưng nó việc gì phải mặc áo khóac hay áo mưa thế hả cô Tỵ?

- Để không ai đoán ra hình dạng nó đấy mà

- Lần sau em sẽ rút kinh nghiệm, nếu gặp nó chúng mình cứ hiên ngang đi qua mặt nó nhé

Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ cứ …chạy là tốt nhất, còn cô Tỵ có chạy hay không thì mặc cô ấy..

Nghe chuyện này bác Mộc lại thân mến mắng tôi:

- Bông ơi, mày đi làm mà như công chúa đi chơi, sáng có người đến gọi đi, khuya có người đưa về tận nhà.

Tôi đi làm thì nhởn nhơ như vậy, em và con tôi lại hay đến tổ mì tìm tôi vì đủ những lý do. Chưa có ai đi làm mà thoải mái và “tiện nghi” như tôi.

Cũng may vì từ tổ trưởng đến tổ viên của tổ hợp mì sợi toàn là người cùng chế độ cũ, cùng hoàn cảnh nên gần gũi và thông cảm nhau lắm.

Cô em gái áp úp tên Thoa lúc ấy trông coi thằng Bí con tôi mới lên 3 tuổi những khi tôi đi làm. Thằng Bí sinh tháng 8 năm 1975 vào cái năm lịch sử buồn của miền Nam Việt Nam .. Mẹ tôi mới mất nên chị em tôi ở chung một nhà. Tôi là chị cả đầu đàn.

Dì mới 12 tuổi đầu bế cháu vẹo cả sườn vì thằng bé mập mạp, đi bộ từ nhà đến tổ mì.

Hai dì cháu nó đứng ngoài cửa sổ tổ mì nhìn vào trong, hễ thấy bóng tôi là cùng reo lên mừng rỡ rối rít như bắt gặp được vàng hoặc như ngàn trùng xa cách, lâu lắm mới gặp lại nhau:

- Chị Bông ơi.. chị ơi…chị ơi…

- Mẹ Bông ơi…mẹ ơi…mẹ ơi…

Tôi cũng mừng vui không kém nhưng phải tất tả chạy ra bên cửa sổ và gỉa bộ mắng em gái:

- Mày bế cháu đến đây làm gì?

- Thằng Bí khóc đòi gặp mẹ, em bế nó đến đây chơi cho nó vui.

- Chỗ người ta làm việc chứ có phải công viên đâu mà chơi cho vui, hả? hả?

Thằng Bí nào hiểu chỗ làm việc là gì, cứ đòi hỏi:

- Mẹ về nhà đi, mẹ bế con đi…

- Còn lâu mẹ mới về.

Thoa nhanh nhẩu:

- Em với thằng Bí chơi ở ngoài sân đợi chị về luôn.

Thế là tôi vừa làm việc vừa thỉnh thoảng trông thấy con và em mình lấp ló ở khung cửa sổ. Khi nào rảnh tay tôi lại chạy ra cửa sổ để…mỉm cười với chúng nó, như muốn nói với thằng con bé bỏng rằng “Con ơi, mẹ vẫn ở bên con, đừng khóc nhè nhé”

Thoa bế thằng Bí đến tổ mì thường xuyên như cơm bữa, đến chơi vớ vẩn hoặc có lý do đàng hoàng.

Có hôm Thoa bế cháu đến, tôi lại hiện ra ở khung cửa sổ tổ mì để “giao lưu” với em mình, chưa kịp hỏi thì Thoa đã nghiêm trọng nói

- Chị Bông ơi, thằng phường đội vừa đến nhà mình hỏi anh Thủy đâu? Em nói là đi học lâu lắm mới về.

Con bé thông minh và khôn ngoan lắm dù chỉ là nghe hóng mà đã hiểu chuyện, nó biết là thằng phường đội đến nhà nào là đưa giấy báo “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” cho nhà nấy, nên nhà nào có con trai đến tuổi lính rất lo sợ thằng phường đội ghé nhà. Tôi dặn Thoa:

- Trưa nay Thủy về thì em nói Thủy ăn cơm xong đạp xe lên Hàng Xanh nhà bác Châu tạm trú vài ngày nhé, thằng phường đội sẽ đến vài lần nữa không gặp Thủy để giao giấy báo “trúng tuyển” thì cũng qua đợt giao quân nghĩa vụ quân sự, là Thủy sẽ thoát được đợt này.

Thế là tuy tôi đi làm nhưng vẫn “chỉ huy” và “điều hành” được công việc ở nhà.

Thời sau 1975 nhà nào có con em bị nhận giấy “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” cũng đau khổ như nhận giấy báo tử. Tôi quen một gia đình ở Xóm Mới, bà cho thằng con trai và đứa cháu ngoại đi vượt biên bị chết biển mà bà khóc thương thằng cháu ngoại vật vã hơn là thương thằng con trai. Hỏi ra thì bà giải thích:

- Thằng con trai tôi bị gọi đi “nghĩa vụ quân sự” thì coi như trước sau gì cũng chết, chỉ thương thằng cháu ngoại ngây thơ vô tội…

Rồi bà Bắc kỳ di cư ở Xóm Mới đay nghiến :

- Tiên sư cha chúng nó, chúng bắt buộc thanh niên đi bộ đội mà còn gỉa nhân gỉa nghĩa, láo khoét và mồm mép gọi là “Trúng tuyển” làm như khó khăn lắm, cạnh tranh lắm và vinh dự lắm mới được đi. Con ông cháu cha chúng nó chẳng đứa nào được “trúng tuyển ” cả, mà toàn đi du học hay lao động Đông Âu, Liên Sô đua nhau gởi hàng hóa về Việt Nam như đi buôn. Hay chúng nó làm việc trong nước thì cũng là ăn trên ngồi chốc thiên hạ, nhà cửa mình chúng chiếm, công việc ngon chúng hưởng.

Có hôm thì Thoa có lý do khác khi bồng bế cháu đến tổ mì gặp tôi:

- Chị Bông ơi, sổ mua chất đốt để ở đâu để em nộp cho tổ trưởng tổ dân phố ngày mai mua dầu hôi.

- Trong ngăn kéo bàn trong phòng ngủ đấy.

- Em tìm rồi mà không thấy…

Tôi ngẫm nghĩ một lúc và nhớ ra:

- À , hôm nọ chị mang ra hợp tác xã mua củi còn để ở kệ sách thì phải…

Cái kệ sách màu nâu yêu qúy của tôi, cái kệ sách mà tôi đã thuê bác Tùng thợ mộc trong xóm đóng theo đúng kiểu tôi vẽ ra, kê ngoài phòng khách không còn thuần túy là sách nữa vì tôi đã phải đốt hay vứt đi khá nhiều những cuốn không thích hợp với chế độ mới nếu không muốn bị kết tội “tàng trữ văn hóa phẩm phản động và đồi truỵ”, nên kệ sách lỏng le, đựng đủ thứ lặt vặt trời ơi đất hỡi, không biết Thoa có bới tìm ra cuốn sổ chất đốt không? hay lại chạy ra tổ mì hỏi tôi lần nữa.

Tôi đi mua củi về lười biếng để cuốn sổ chất đốt ở đấy rồi quên phéng đi không cất trở lại chỗ cũ .

Hôm thì Thoa đến để bàn chuyện ăn uống:

- Sáng mai đến lượt tổ mình được mua bánh mì tổ. Mai chị đừng làm món mì sợi hấp chấm xì dầu nữa nhé, em ngán lắm.

- Chị cũng ngán nữa đây, nói chi em. Thôi để hôm nào lãnh lương chị sẽ nấu một nồi xúp xương chan mì sợi rắc hành ngò tiêu ớt vào ăn ngon lắm.

Thoa tươi nét mặt, háo hức nhưng thắc mắc:

- Em cũng thích ăn mì sợi có chan nước lèo như thế, nhưng mà có thịt không?

Tôi trả lời nước đôi, nó muốn hiểu sao thì hiểu:

- Chị không chắc là xếp hàng chen lấn nổi với người ta để mua thịt heo theo sổ đâu, mà mua thịt chợ đen thì đắt lắm…

Ôi, tôi chán làm sao cảnh xếp hàng mua thịt ở ngoài chợ, cả một đám đông các bà các cô dù ở nhà thanh lịch cỡ nào đến đây cũng hơn thua, xô đẩy chen lấn, cũng bu đen bu đỏ quanh phản thịt như đàn kiến bu quanh hũ đường, nhưng tay vẫn cầm chặt cuốn “Sổ thực phẩm” như cầm một báu vật không thể đánh rơi đánh mất, người đứng vòng ngoài không thể nào nhìn thấy mặt mũi miếng thịt. Thấy mặt mũi cô bán thịt cũng khó như thấy dung nhan thủ trưởng cơ quan nào đó.

Cô hàng thịt cắt thịt thoăn thoắt và cũng thoăn thoắt thảy miếng thịt lên bàn cân, cái cân còn nghiêng ngửa, chông chênh chưa ồn định thì cô đã nhanh tay lấy thịt ra đưa cho khách hàng, mà ai cũng hiểu là miếng thịt ấy cân non chưa đủ số lượng, nhưng vẫn “hồ hởi” nhận miếng thịt để thoát ra khỏi vòng vây, còn hơn là khiếu nại đã không được giải quyết còn bị cô hàng thịt sưng xỉa, cửa quyền và chảnh chọe: “Nếu không muốn thì trả lại thịt đây”.Hoặc cô lườm nguýt mắng cho: “ Chỉ làm mất thì giờ của đám đông tập thể bà con”.

Cô đã lấy danh nghĩa “tập thể” ra đe dọa là quan trọng lắm, không ai dám giằng co với cô thêm nữa.

Mỗi ngày bán hàng xong ít ra cô hàng thịt cũng kiếm được mấy ký thịt “thặng dư” mang về nhà.

Đấy là cảnh chợ búa, tại các cơ quan cũng “phàm phu tục tử” chẳng kém. Khi mà Việt cộng chơi trò quản lý bao tử, làm con người thiếu thốn đói khát thì con người bỗng trở nên thực tế, tầm thường và có cả hèn mọn. Bạn tôi là giáo viên kể rằng mỗi khi mua thịt heo định kỳ, các giáo viên lên văn phòng để chia chác mỗi người nửa ký, có những ganh tị, bất đồng và tranh dành vì miếng thịt này không ngon bằng miếng thịt kia.

Nếu các học trò mà chứng kiến được cảnh này thì không biết hình ảnh thầy cô giáo của chúng có còn đáng trân trọng nữa không?

Tan trường giáo viên ra về với miếng thịt heo buộc dây treo lủng lẳng ở tay lái xe đạp đã là một ngày hoan hỉ.

Nét mặt Thoa lại ỉu xìu với thực tế:

- Nhưng chị ơi…ngày mai món bánh mì tổ ăn với chuối hay hấp mỡ hành ăn với rau sống chấm nước mắm em cũng ngán luôn. Chị mua trứng về tráng ăn với bánh mì nhé?

“Bánh mì tổ” khác với bánh mì ngoài chợ đen, vì vừa cứng vừa dở, bánh để nguội, để cũ là cứng như đá, ném ai chắc cũng chảy máu đầu hay gây thương tích…trầm trọng !

Tôi gắt lên:

- Chưa biết, mai ăn thì mai tính.

Thời buổi xã hội chủ nghĩa, thực phẩm bán theo quy chế, hạn chế mỗi đầu người, ngoài phần gạo ít ỏi theo tiêu chuẩn mà gạo thì đầy bông cỏ và sạn, họ còn bán kèm theo mì sợi, bột mì, hay khoai lang, khoai mì, hạt bo bo.

Đến nhà nào cũng thấy ông già bà cả hay trẻ con ngồi trước cái mâm trải gạo mỏng ra để nhặt sạn hay bông cỏ trước khi nấu cơm. Thế mà có khi vẫn còn sót, nhiều người đang nhai cơm vấp phải hạt sạn tế tái cả răng và tê tái cả cõi lòng.

Thoa nhà tôi thích công việc nhàn hạ này, nó thường ao ước:

- Cầu trời khi lớn lên ai thuê em làm công việc nhặt bông cỏ và sạn gạo.

Tôi rên rỉ:

- Thoa ơi, tới lúc ấy mà vẫn phải ăn loại gạo xấu kém chất lượng này sao! Em phải cầu trời là mai mốt không phải làm công việc nhặt sạn và bông cỏ gạo nữa nhé.

Ngoài ra còn những “công việc” như nay đi xếp hàng mua nước mắm hay mớ cá ươn ở “Cửa hàng thủy hải sản”, mai xếp hàng mua bó rau gìa quả héo từ “Cửa hàng rau qủa”. Biết là hàng không ngon, kém chất lượng nhưng vì gía rẻ hơn gía chợ đen.nên người ta vẫn chen lấn chờ đợi để mua cho bằng được. Mốt lại cũng xếp hàng, mua nhu yếu phẩm tại “Cửa hàng bách hóa tổng hợp”, gồm mấy gói thuốc lá Hoa Mai hay Đà Lạt ( dù nhà có hút hay không họ vẫn cứ bán theo tiêu chuẩn) một dúm bột ngọt, nửa ký đường v.v....

Thế là phát sinh ra “nghề” mua đi bán lại hàng nhu yếu phẩm. Người mua đứng xếp hàng trước cửa hàng bách hóa thì mấy con buôn đứng luẩn quẩn gần đó, mua hàng ra bán ngay tại chỗ, tiền trao cháo múc vô cùng nhanh chóng và thuận lợi.

Đã gọi là “nhu yếu phẩm” thì nhà nào chẳng cần dùng, tiêu chuẩn ít ỏi chưa đủ dùng, nhưng vì thiếu thốn, vì cần tiền nên phải nhịn dùng để bán đi lấy tiền chi tiêu cho chuyện khác cần kíp hơn.

“Cửa hàng bách hóa tổng hợp” cái tên nghe to lớn và lộng lẫy thế mà hàng hoá chỉ lèo tèo và đơn điệu bày trên kệ, những món mà không ai muốn mua vì vừa đắt vừa không cần thiết, món nào có giá thì các cô nhân viên bán hàng chỉ bán ra một ít lấy lệ, còn thì các cô chia nhau mua và tuồn ra chợ đen kiếm lời. Tóm lại các nhân viên bán hàng cho các cửa hàng nhà nước vừa ăn chận của dân vừa ăn hiếp dân, không cần biết lịch sự là gì. Xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những loại người ấy.

Ấy là chưa kể thỉnh thoảng còn phải đi họp tổ dân phố, nhiều nhà “phái” cha mẹ gìa, tai điếc, mắt mờ hay con trẻ, tuổi vị thành niên đi họp, hiểu được nội dung cuộc họp hay không? Không thành vấn đề, miễn là …có mặt., để khỏi bị tổ dân phố phê bình kiểm điểm.

Ông già bà cả và trẻ con thật là hữu ích.

Thành ra sống dưới xã hội chủ nghĩa ai cũng bận rộn và có việc làm cả ngày.

Ban đầu nghe danh từ “hạt bo bo” tôi hí hửng tưởng hạt bo bo tôi thường ăn trong ly sâm bổ lượng ngày xưa, vừa trắng vừa mềm vừa bùi bùi. Nhưng hoá ra là hạt bo bo khác, bo bo màu vàng ngà ngà, nếu chà vỏ rồi còn đỡ cứng, chưa chà vỏ thì hạt bo bo vừa dai vừa cứng là nguyên nhân chính đưa đến sau này nhiều người dân thành phố miền Nam bị bệnh đau bao tử.

Nhưng cũng…nhờ hạt bo bo mà dân chúng có thêm nghề mới nữa là máy chà vỏ hạt bo bo và máy xay hạt bo bo cho vỡ nhỏ ra. Trong cái khó ló ra cái khôn để mà sống.

Nghe đồn món bo bo này của đất nước xã hội chủ nghĩa anh em nào đó vốn là thực phẩm nuôi ngựa, trâu, bò của nước họ, viện trợ cho Việt Nam dùng làm thực phẩm cho con người.

Hàng xóm đua nhau chế biến các sản phẩm thay cho lương thực lúa gạo ấy, nhà nọ bắt chước nhà kia

Món bột mì tôi cũng chế biến thành bánh canh nước dừa, nhồi bột, cán mỏng cắt sợi làm bánh canh và nấu với nước cốt dừa nêm mắm muối bột ngọt.

Món mì sợi thì hấp vào nồi cơm mang ra chấm xì dầu hay nước mắm tỏi ớt.

Khoai lang, khoai mì thì luộc ăn chơi ngao ngán đến điêu đứng, ăn không hết, khoai lang bị sùng thì đem gọt vỏ phơi khô bán cho mấy người nuôi heo vớt vát được đồng nào hay đồng ấy.

Còn món bo bo chỉ có nước chà vỏ, xay nhỏ rồi độn vào gạo nấu thành cơm.

Một hôm tổ hợp mì sợi long trọng tổ chức liên hoan để đón tiếp ông phó chủ tịch đặc trách kinh tế của phường đến tham quan và có buổi họp cực kỳ quan trọng, tất cả công nhân không làm việc để tham dự buổi họp này.

Ông phó chủ tịch diễn thuyết một hồi lâu và đưa ra những ý tưởng mà ông hớn hở cho là sẽ thành hiện thực không xa:

- Nay mai tổ hợp mì sợi của chúng ta sẽ tiến xa hơn, sẽ phục vụ nhu cầu của nhân dân nhiều hơn, thành nhà máy sản xuất mì sợi chứ không phải trong căn nhà tuyềnh toàng như thế này, sẽ có nhà ăn cho công nhân viên, sẽ có nhà trẻ cho con em công nhân viên và những quy chế phúc lợi khác nữa.

Sau buổi họp của ông phó phường ai cũng phấn khởi. Tôi thì lo xa nếu tổ hợp mì sợi biến thành nhà máy thì 2 dì cháu Thoa và thằng Bí hết còn chỗ đến đây chơi và gặp tôi, vì nhà máy sẽ có cổng rào, có nhân viên bảo vệ, ai cho dì cháu nó bồng bế nhau vào được?

Một chị bạn hiểu ý tôi, an ủi:

- Đừng lo nhé Bông, lúc ấy mày sẽ gởi thằng Bí vào nhà trẻ trong khu nhà máy, càng gần con chứ sao.

Nghĩ tới điều đó tôi mừng vui hết lo buồn nữa, tôi tưởng tượng giờ nghỉ trưa sẽ sang khu nhà trẻ thăm con, chiều tan ca tôi bế nó về.

Nhưng bác Mộc đã thức tỉnh giấc mơ của tôi:

- Bông ơi, mày tin gì lũ Việt cộng hả? chúng nó nói thì như thánh như thần. Đơn gỉan ai cũng hiểu là bột mì ở đâu ra để nhà máy sản xuất mì sợi chứ? nước Việt Nam mình đâu có trồng lúa mì, chỉ đang nhận viện trợ lúa mì khẩn cấp từ nước Nga trong thời gian khó khăn này thôi, mai kia mốt nọ Nga sô hết viện trợ thì tổ hợp mì sợi cũng đóng cửa chứ đừng nói nhà máy to tướng trong tương lai.. Với lại dân mình dùng lương thực chủ yếu là gạo chứ có phải mì sợi đâu. Chúng ta cứ làm việc, được tới đâu hay tới đó, còn hơn là ngồi không ở nhà bị gọi đi làm thủy lợi không công cho nhà nước, để chúng nó bóc lột sức lao động của mình..

Mỗi lần họp tổ dân phố mà phổ biến tin đi làm thủy lợi, ai rảnh rang không có công ăn việc làm như tôi là lo âu hồi hộp vì mình sẽ được “ưu tiên” đi trước. Làm thủy lợi là đào đất ven bờ hay đào vét trong lòng kinh, lòng rạch cho kinh rạch thông thương xuôi chảy. Công việc bẩn thỉu, nặng nhọc và vất vả vì tất cả công đoạn đều làm bằng tay chân cuốc xẻng, bằng sức người, nên chẳng ai muốn đi.

Tôi đã một lần đi làm thủy lợi tại xã Bình Mỹ A thuộc Củ Chi ráp ranh với Hốc Môn, quần sắn cao lên, lội xuống con kinh đầy bùn rác hôi hám. Một dãy người cũng tư thế như tôi đứng xếp hàng cạnh nhau để chuyền tay nhau những cục đất vừa đào xới lên ở đầu kia. Tôi là người đứng cuối cùng ở đầu này.

Khi cục đất đến tay tôi, thay vì phải chụp nhanh và quăng lên bờ thì tôi chợt rụng rời khi nhìn thấy mấy đầu con giun đang lòng thòng ngọ nguậy nên không đỡ cục đất mà họ đã tốn bao công phu từ người đào lên đến qua tay hơn chục người. Cục đất rơi xuống lòng kinh, thế là toi công, còn tôi thì vẫn bàng hoàng sợ hãi mấy con giun đất và tủi thân đứng khóc giữa lòng con kinh dơ bẩn của xứ Củ Chi.

Tôi cũng mấy lần nghe tin đồn là bột mì viện trợ đến từ nước Nga, chẳng biết họ lấy thông tin từ đâu, nhưng 1 cô bạn tôi là nhân viên cửa hàng lương thực quận đã cả quyết thế vì cô thấy bao đựng bột mì ghi chữ Nga ở bên ngoài.

Tôi vặn vẹo hỏi bạn:

- Mày có biết chữ Nga bao giờ đâu. Đoán mò hả?

- Thì cứ thấy dòng chữ có mẫu tự nào viết ngược là tiếng Nga , cần gì phải đoán cho mất công

Đúng thế, người ta kể rằng những người đi vượt biển ra khơi thấy tàu có chữ nào ngược là tàu Nga thì tránh cho xa., không đến gần, nó không cứu mà còn bắt giao cho đàn em xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nó.

Lời bác Mộc thật có lý, một người lớn tuổi giàu kinh nghiệm đời và nhất là kinh nghiệm cộng sản từ ngày xưa ngoài Bắc. Bác Mộc đã than thở :

- Tôi phải bỏ “bác Hồ” từ Bắc chạy vào Nam mà “bác” không tha còn đuổi theo.

Tôi lại có cái lo khác, sợ tổ hợp mì sợi hết bột làm và đóng cửa ngang xương khi tôi lãnh lương chưa đủ gỡ lại vốn liếng đã đóng góp cổ phần.

Ở xóm tôi cũng như nhiều xóm khác mấy đàn bà con gái loại vô công rỗi nghề đang lao động làm công việc đan mây tre lá mà họ đùa vui gọi vắn tắt là nghề “Xỏ lá”.

Ngồi gù lưng cả ngày, nhà cửa bề bộn mây tre để đan thành những cái rổ, cái khay v.v… gia công cho tổ hợp, món hàng rẻ tiền nên công cán chẳng là bao.

Chị hàng xóm khoe với tôi:

- Nay mai tổ hợp mây tre lá sẽ xuất khẩu hàng thủ công ra nước ngoài mang lại công ăn việc làm dồi dào cho chị em, làm không hết việc, nâng cao thu nhập.

Trời ! chắc tổ hợp mây tre lá này cũng đã được ông phó chủ tịch phường đến tham quan và hứa hẹn những lời bay bổng như ông đã nói với tổ hợp mì sợi chúng tôi sau khi đã nhận những phong bì và ăn uống liên hoan chiêu đãi..

Tính tôi không kiên nhẫn, ngồi xỏ lá thì thế nào lá cũng đâm vào tay làm đứt tay chảy máu.

Hay là tôi sẽ mua 1 cái máy se cói về se cói gia công? Không xong, món này cũng bừa bộn nhà cửa lắm, con tôi đi qua đi lại thế nào cũng vấp ngã, tội nghiệp nó !

Hay là mua cái máy chà gạo gia công cho hàng xóm vì nhà cha mẹ tôi ngay mặt tiền đường dễ mở tiệm ? Cũng không thích, vì bụi cám làm bẩn nhà và hít bụi vào làm hại phổi, tôi chết sớm ai nuôi con tôi trong khi chồng đi tù tội chưa biết ngày về.?

Tôi thật sự chán nản khi nghĩ đến những “ngành nghề” ấy.

Sự lo xa của tôi không vô lý và lời phán đoán của bác Mộc càng có lý. Tổ hợp mì sợi của tôi làm việc được hơn 1 năm thì bắt đầu sa sút vì thiếu bột mì, tổ lương thực phường không có bột để nhờ tổ mì chế biến gia công nữa.

Bác Mộc thở dài dạy cho tôi một bài học:

- Mày thấy chưa? chớ bao giờ tin lũ chúng nó. Thử hỏi bột mì ở đâu ra mà chúng nó cấp giấy phép lu bù cho người ta đua nhau mở tổ hợp sản xuất mì sợi khắp quận Gò Vấp này và những quận huyện khác trong thành phố để bây giờ cùng chết yểu, chết chùm cả lũ ??

Tôi thật sự ngưỡng mộ sự hiểu biết khôn ngoan của bác Mộc nên lo lắng hỏi sang chuyện khác với vẻ tin cậy hết lòng:

- Bác Mộc ơi, thế họ nói mấy ông sĩ quan đi trình diện “học tập cải tạo” 10 ngày sẽ về mà nay đã hơn 4 năm rồi. Vậy bác biết bao giờ về không?

- Mày đã trồng cây mít bao giờ chưa? 3 năm mít mới có qủa, thì cứ từ hai lần cái 3 năm ấy trở lên may ra chồng mày mới được tha về.

Tôi chán nản:

- Nghĩa là bình quân từ 6 năm và hơn nữa hở bác? hở trời??

Cuối cùng thì tổ hợp mì sợi chính thức đóng cửa khi tôi chưa thu hồi đủ vốn đã đóng góp đúng như tôi đã lo ngại. Anh Tình tổ trưởng chỉ biết hứa hẹn an ủi mọi người:

- Bao giờ tôi bán được cái máy làm mì sợi liên hoàn kia sẽ bồi thường lại các tổ viên mỗi người một ít.

- Nhưng thời buổi này bột mì khan hiếm ai mua máy về làm gì hở anh?

Anh Tình chán nản:

- Thì đành bán đống sắt vụn như từ lúc nó chưa thành hình cái máy liên hoàn mì sợi này.

Ối giời ôi, không biết lúc này ông phó phường đặc trách về kinh tế, người đã nhận mấy lần phong bì của anh Tình tổ trưởng từ lúc bắt đầu đăng ký xin thành lập tổ mì đến khi đi vào hoạt động, người đã mấy lần ăn liên hoan phủ phê với tổ mì, đã đến tham quan và tổ chức buổi họp quan trọng với tổ mì sợi của chúng tôi có còn nhớ những lời phát biểu vàng ngọc “vô gía” của ông không? Tổ hợp mì sợi sẽ tiến lên thành nhà máy mì sợi.

Bây giờ cái máy liên hoàn làm mì sợi cũng đang thành đống sắt vụn “vô giá” nằm chơ vơ chờ rỉ sét kia kìa

Nhà máy sản xuất mì sợi trong tương lai của ông phó phường chỉ là một hồn ma bóng quế không bao giờ là thật.

Những ngày nghỉ ở nhà tôi chưa biết làm gì vì vẫn thấp thỏm “canh chừng” tổ hợp mì sợi với hi vọng biết đâu nước Nga lại thương tình mà viện trợ bột mì cho Việt Nam một lần nữa thì tôi lại có công ăn việc làm.

Hoặc là cái máy làm mì sợi liên hoàn kia bán được thì tôi cũng sẽ được chia ít tiền.

Tình trạng tổ mì của tôi sống dở chết dở chỉ là chuyện nhỏ. Nông trường Lê Minh Xuân huyện Bình Chánh trồng trái thơm do thanh niên xung phong đổ bao nhiêu mồ hôi công sức cuốc đất và trồng trọt mới là chuyện lớn. Kế hoạch nhà nước đưa ra hô hào thanh niên xung phong trồng thơm để sản xuất đã thất bại não nề.

Thơm tới mùa thu hoạch, cả nông trường thơm chín vàng mà không có nơi tiêu thụ, đóng hộp xuất khẩu thì còn non kém làm sao kiếm ra khách hàng, bán trong nội địa càng ế ẩm vì thơm tươi ngon đầy rẫy, người ta mắc mớ gì phải mua thơm đóng hộp vừa kém phẩm chất vừa đắt tiền.

Thế là trái thơm tuôn ào ào ra khắp các chợ búa lớn nhỏ trong thành phố, đi đâu cũng thấy một trời màu vàng của trái thơm đập vào mắt. Loại thơm trái nhỏ tròn này mùi thơm và ngọt rất xứng đáng mang tên “Thơm”, thơm bán trên quầy, bên lề đường, hè phố, và vỏ thơm thì ngập ngụa trương sình khắp các chợ tha hồ cho ruồi bu kiến đậu.

Chưa hết, chắc thơm thu hoạch còn ứ đọng nhiều tại nông trường Lê Minh Xuân nếu không mau thanh toán thì sẽ hư thối nên các anh em thanh niên xung phong mặc đồng phục, đội mũ tai bèo, chân đi dép râu cũng rời nông trường về phố xá đẩy những xe ba gác đi bán thơm, vào tận hang cùng ngõ hẻm trong các xóm lao động. Chưa bao giờ dân thành phố được ăn trái thơm với gía rẻ bèo đến thế.

Tôi mua thơm và hỏi chuyện hai thanh niên xung phong rất trẻ. Hào khí tuổi trẻ của bao nhiêu thanh niên nam nữ đã bị người ta bóc lột và tận dụng không thương tiếc tại những nông trường và những lâm trường hoang vu cách xa thành phố, thiếu thốn ngay cả những tiện nghi tối thiểu nhất của đời thường. Nhiều người bị bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng, vàng da sốt rét kinh niên.

Ở xóm tôi có một anh đi thanh niên xung phong bị chết thảm khốc tại một lâm trường khi đang đốn chặt tre nứa. Thay vì phạt con dao vào gốc nứa sao cho phần gốc chặt ra ngã đổ về phía trước thì anh đã vụng về hay sơ ý làm phần gốc cây nứa ngã ngược lại, đầu nứa vừa chặt nhọn hoắt đã theo đà đổ nhào thật mạnh của thân cây đâm phập vào bụng anh lòi cả ruột gan.

Một hôm tôi gặp chị Đình gánh nước mắm đi bán ngang nhà liền gọi vào mua nước mắm và hỏi chuyện, vì Đình là em ruột anh Tình tổ trưởng tổ hợp mì sợi của tôi.

Trong thời gian đầu thành lập tổ hợp mì sợi Đình đã theo phụ tá ông anh rất đắc lực nên chúng tôi đều quen biết Đình. Chị chạc bằng tuổi tôi.

Đình vừa đong nước mắm cho tôi vừa khoe:

- Tớ bán nước mắm mà sắm được xe gắn máy cho chồng dễ như chơi, đằng ấy muốn vào nghề không tớ bỏ mối nước mắm cho?

Mắt tôi sáng lên vì ham lời:

- Muốn chứ, bán nước mắm dễ không Đình?

- Thì chịu khó gánh đi rong phắp nơi thôi, tớ gánh từ Xóm Mới qua An Nhơn, xuống vùng Hạnh Thông Tây rồi vòng về Xóm Mới là hết vèo 2 can nước mắm, tiền nhét đầy túi.

Tôi than thở:

- Sao gánh đi xa thế! Mà tôi chưa biết gánh bao giờ…

- Chứ ngồi một chỗ thì bán cho ai? Mình đi tìm khách hàng chứ khách hàng nào đi tìm mình.

- Nước mắm Đình lấy từ hãng nào?

Đình thuộc loại người vừa láu táu vừa thật thà, chị nhìn tôi ngạc nhiên và …thương hại:

- Cần gì hãng nào hả giời! sao đằng ấy ngây ngô thế !.Tớ chế ra đấy, chỉ cần một ít nước mắm thật còn bao nhiêu là nước muối và nước…lã nấu với lá chuối khô cho có màu đẹp như màu nước mắm là thành sản phẩm..

Tôi thảng thốt kêu lên:

- Người ta ăn vào ngộ độc hay đau bụng thì sao??

Đình thản nhiên:

- Đã có “Xuyên tâm liên” trị đủ thứ bệnh mà. Nhưng đằng ấy đừng lo, lá chuối khô lành lắm, gói bánh gai thơm ngon đến nỗi chỉ ngửi mùi lá chuối khô đã thèm ăn bánh gai rồi, tớ chưa nghe ai ăn nước mắm của tớ than đau bệnh gì cả.

Tôi hiểu ý Đình, đi khám bệnh ở phường ở quận thì dù bệnh gì người ta cũng bán cho bằng được loại thuốc dân tộc tên “Xuyên Tâm Liên” kèm vào, nên ai cũng thuộc tên, cũng biết mặt loại thuốc này. Viên thuốc thô sơ màu xanh xám như màu rêu cũ trông nghèo nàn buồn tẻ làm sao, nhưng vẫn cần thiết vì không phải ai cũng có tiền mua thuốc tây ngoài chợ đen và không phải thuốc ngoài chợ đen đều bảo đảm là thuốc thật.

Mỗi lần đi khám bệnh là mỗi lần cơ cực, sau khi nộp sổ khám sức khỏe vào chồng sổ cao ngất ngưỡng nơi bàn làm việc của phòng khám ở phường là sự chờ đợi dài lâu đến mỏi mòn và khi gặp được cô y sĩ để khai bệnh, tùy theo cô buồn vui mà nghe cô gắt gỏng nhiều hay ít.

Có lần tôi dẫn đứa em đi nhổ răng ở phòng y tế quận Gò Vấp, cấp quận cao hơn cấp phường, nhưng dù quận hay phường cũng chờ đợi dài lâu như nhau. Khi ông nha sĩ hay nha tá gì đó xuất hiện ai cũng mừng rỡ, thì ông dõng dạc tuyện bố:

- Hôm nay hết thuốc gây tê rồi, ai chịu nhổ răng với điều kiện tự nhiên thì chúng tôi sẽ sẵn sáng phục vụ.tới cùng.

Ông nha sĩ tưởng mình là hiệp sĩ Don Quixote ra tay cứu nhân độ thế chắc? Ai mà chịu đau cho nổi hỡi nha sĩ kiêm hiệp sĩ hoang tưởng kia..

Tôi thò tay chấm vào nước mắm trong can của Đình và nếm thử vẫn có mùi nước mắm mặn mà, không cố tâm để ý thì khó mà biết là nước mắm gỉa được.

Đình chua thêm vào:

- Thời buổi nghèo đói lại nhiễu nhương này ai dỗi hơi mà để ý mà phân tích từng mùi vị nước mắm gỉa hay thật miễn là gía rẻ, cứ nghe lời tớ đi bán nước mắm lấy tiền nuôi con. Sĩ diện là chết trước đấy.

Thấy mặt tôi còn ngơ ngẩn, Đình tiếp:

- Hàng ngày đằng ấy mua hàng gỉa mà không biết đấy, thí dụ cái món mỡ nước từ chợ Đồng Xuân Hà Nội do con buôn tuyến đường xe lửa Nam Bắc tuôn vào trong Nam người ta đã trộn thêm cả bí đao hầm nhừ vào, cặn bí đao trông như cặn mỡ thịt đọng lại, vừa hấp dẫn ngon mắt vừa nặng ký, chứ làm gì có mỡ nước nguyên chất thắng từ mỡ thịt ra đâu. Món này con buôn Xóm Mới cũng bắt chước con buôn thủ đô Hà Nội làm rồi, một vốn bốn lời.

Đúng là thời thế tạo con người, thời thế xấu thì một số con người cũng dễ dàng xấu theo.

Dân Xóm Mới xông xáo và gan dạ thật, nghề gì cũng làm được, từ mổ heo lậu, làm pháo lậu. Thỉnh thoảng lại có vụ thuốc pháo nổ làm chết người mà họ vẫn không ngán, chỉ vì sức mạnh của đồng tiền.

Không biết ngoài vụ nước mắm gỉa, mỡ nước gỉa, còn những món gì giả nũa? Có trời mà biết…

Tôi cầm chừng:

- Để tôi đợi tổ hợp mì sợi ngã ngũ ra sao đã…

Đình gạt đi:

- Khỏi đợi, tớ là em anh Tình thì lạ gì, anh ấy đang tính chuyện làm ăn khác rồi, cỗ máy sắt vụn kia bao giờ bán được thì bán chứ ngồi mà đợi nó ngã ngũ thì chết đói.

Tôi tò mò:

- Anh Tình tính làm ăn gì cho tôi theo với?

Đình ghé tai tôi thì thầm:

- Tổ chức vượt biên, anh ấy sẽ mua tàu….kín mồm miệng giùm nhé, tớ thương hoàn cảnh đằng ấy nên mới nói trước để mà lo liệu, ở lại vừa đói khổ vừa bị đối xử phân biệt lý lịch bao giờ con em mình mới ngóc đầu lên nổi? nếu muốn đi thì cứ 3 cây một đầu người đóng cọc trước, tới ngày sẽ lên đường. Thôi, tớ đi bán hàng tiếp đây..

Chuyện phân biệt lý lịch lắm đắng cay, ai đi xin việc làm hay con em đi học cũng phải nộp kèm theo giấy chứng nhận lý lịch của địa phương. Nhà nào nghèo mạt rệp, bần cố nông mấy đời đi ở đợ thế mà sướng, lý lịch “sạch sẽ” . Nhà nào có người làm việc cho chế độ cũ “nguỵ quân ngụy quyền” hay giàu có “tư sản mại bản” thì tờ giấy chứng nhận lý lịch tối đen như đêm 30 Tết.

Tôi nghĩ đến tương lai của hai con mình mà thương !!!.

Sau đó tôi không gặp lại Đình nữa, tôi nghe tin cả nhà anh Tình đã đi vượt biên tới đảo Mã Lai. Chắc là Đình đã cùng đi với anh Tình rồi.

Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao nhóm anh Tình cư ngụ ở Xóm Mới mà lại xuống Hạnh Thông Tây mở tổ hợp mì sợi, anh tạo cớ vắng mặt thường xuyên tại địa phương để dễ dàng khi đi vượt biên không bị ai nghi ngờ.

Chuyện đại sự của anh là tổ chức đi vượt biên tìm tự do chứ không phải chuyện làm ăn sản xuất mì sợi kia.

May cho Đình và cũng may cho tôi, tôi khỏi phải trả lời Đình tôi không thể bán món nước mắm gỉa này được. Vì ngay hôm vừa mua nước mắm của Đình xong tôi đã đổ đi hết không dám ăn thì làm sao tôi dám bán cho người khác ăn?

Chuyện ông tổ trưởng tổ sản xuất mì sợi đi vượt biên cũng đến tai địa phương tôi, người ta niêm phong tổ mì trong đó có cái máy liên hoàn cà rịch cà tàng và những đồ dùng không đáng gía khác như bộ bàn ghế cũ, những cái mẹt, cái nia để hấp mì, v..v…

Chỉ tội chủ nhân cho thuê hai căn nhà chắc đang mong chính quyền địa phương thanh lý dứt điểm vụ tổ hợp mì sợi để họ lấy lại căn nhà thân yêu đang bị vạ lây niêm phong khóa kín lại.

Tôi không còn trông mong gì lấy lại được đồng xu nào từ tổ hợp mì sợi nữa.

*****************

- Em ơi!

- Ơi.. ơi…

Chồng tôi từ ngoài vườn sau bước vào bếp, vui vẻ và tò mò :

- Anh dọn vườn xong rồi. Trưa thứ bảy em cho anh ăn món gì đây?

- Anh thử đoán xem…

- Bún riêu hả?

Tôi âu yếm “ chì chiết” chồng:

- Anh cứ thích món bún riêu là thế nào!

Chồng cũng âu yếm “mắng” vợ:

- Em đành hanh vừa vừa chứ, là những món em nấu làm anh yêu thích đấy.

Tôi khoe:

- Hôm nay là món mì đồ biển thập cẩm. Chúng ta vừa ăn mì vừa…tưởng nhớ nhé anh..

- Món này anh cũng thích luôn. Mà em nói gì lạ thế?

Giọng tôi trở lại thoáng buồn như lúc chợt nghe đài ti vi làm gợi lại một thời kỳ gian nan vất vả:

- Thì ăn mì và nhớ lại tổ hợp mì sợi của em

Chồng tôi bật cười:

- Tưởng gì, anh đã chẳng cùng em nhớ lại tổ hợp mì sợi cả …triệu lần rồi sao, vì em đã kể cho anh nghe cả…triệu lần về cái tổ hợp mì sợi ấy mà.. Cái ngày mà em phải ăn mì sợi hấp chấm với nước mắm hay xì dầu ngao ngán thì anh đang ở trong tù ước mơ cũng không tìm đâu ra một vắt mì dù chỉ để chấm với muối trắng ăn cho no bụng.

- Anh ơi , em nhớ đến tổ hợp mì sợi không phải để so sánh món mì sợi hấp chấm xì dầu ngày xưa với tô mì đồ biển thập cẩm hôm nay, cái tổ hợp mì sợi ấy chẳng là gì cả với thế giới này nhưng với em nó là tất cả. Đó là kỷ niệm, là hình ảnh một đoạn cuộc đời em đã đi qua giữa thời cuộc thăng trầm dâu bể của vận nước, của chúng ta từ năm 1975 .

- Ừ, anh biết rồi, hiểu rồi. Chẳng phải mình em mà bao nhiêu người miền Nam Việt Nam, ai cũng có những hình ảnh, những kỷ niệm riêng tư nào đó nhưng cùng giống nhau, cùng chung một nỗi bất hạnh, nỗi buồn khi ngày ấy miền Nam tự do rơi vào tay cộng sản.

Tôi đã nấu xong hai tô mì và bày ra bàn.

- Bây giờ mời anh ra ăn tô mì thập cẩm đồ biển của em.

Chúng tôi ngồi vào bàn, chồng tôi múc thìa súp nước lèo nếm thử và hài lòng khen:

- Cám ơn cô công nhân tổ hợp mì sợi năm xưa đã nấu tô mì ngon lành này nhé, và cám ơn cuộc đời đã đưa đẩy chúng ta đến bến bờ tự do này. .

Nguyễn Thị Thanh Dương.

( Tháng Tư 2013)

ĐEM THEO, NGÀY XA XỨ

Trần Bang Thạch

              Có một sự kiện hầu như bất di bất dịch từ nhiều năm nay: hai cây mai trước nhà nở đầy bông vào hạ tuần tháng Tư Tây mỗi năm. Dù bà Thuận có bón phân, tỉa cành, lặt lá… có săn sóc thế nào đi nữa hai cây mai vẫn không nở rộ đúng vào dịp Tết Âm lịch mỗi năm như cây mai mẹ ở sân nhà thuở trước. Cũng là mấy cái hột từ cây mai ở quê nhà vậy mà nó cứ một mực nở trái mùa. Chắc mai cũng mang thân phận của người xa xứ, gởi thân nơi xứ người cho nên phải ít nhiều uốn nắn cách sống của mình cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh. Hay mai nở muộn để nhắc một ngày ngang trái nào đó đáng nhớ trong đời của ông bà chủ của mình? Mỗi lần nhìn hoa nở như hai trái cầu vàng bên ngoài khung cửa sổ trước nhà, các đóa hoa sáu cánh hai từng vàng nghệ nhắc ông bà Thuận là ngày 30 tháng Tư lại sắp trở về. Không phải ông bà Thuận quên cái ngày này; ông bà nhớ lắm chớ, nhiều khi nhớ bất chợt, nhớ bất cứ vào ngày nào, tháng nào khi có một sự kiện nào đó liên quan tới ngày đau buồn này. Chẳng hạn như khi nhớ chuyện thằng con lớn ra biển rồi biệt tích hay như chuyện giỗ quãy mấy người bạn tù… là cái ngày 30 tháng Tư bất chợt hiện ra . Nhiều khi nghĩ tới cha mẹ, anh em… ông bà Thuận cũng lại nhớ tới ngày 30 tháng Tư. Thật là trớ trêu khi cái hận của một ngày đen tối luồn lách vào nỗi nhớ và nỗi buồn của người ta. Như hạt cát chui vào chiếc giầy, thật là khó chịu. Không có ngày oan nghiệt 30 tháng Tư thì đâu có các thảm cảnh này. Màu vàng của các hoa mai như hồi chuông gióng lên mỗi năm một lần trong trí nhớ ông bà Thuận.

              Không phải chỉ hai cây mai nhắc ông bà Thuận ngày này. Từ cả tuần nay, các đài phát thanh và truyền hình Việt ngữ không ngớt nói về ngày 30 tháng Tư. Gặp các nhân vật thường hay sinh hoạt cộng đồng cũng nghe nói về các buổi hội họp, hội thảo, mết-tinh…nhân ngày kỷ niệm sắp đến. Những năm cuối thập niên bảy mươi và kéo dài cho tới đầu thập niên tám mươi, cái điệp khúc nghe hoài: “Hôm nay mình tụ họp ở đây, hẹn năm sau chúng ta cùng gặp nhau ở Sài Gòn, gặp nhau ở Sài Gòn, Sài Gòn, Sài Gòn!” phát ra từ cái micro trên tay các ông cộng đồng trên khán đài các buổi mết-tinh, lúc đầu thì cả một rừng người hưởng ứng, miệng hô to, tay đưa cao nắm đấm; dần dần những năm sau khí thế hình như hơi nguội. Điệp khúc nầy từ hơn chục năm nay có chiều hướng thay đổi, có lẽ vì “đường đi sao quá xa”. Người ta vẫn có những buổi hội họp mỗi năm. Hội họp lớn thì cả ngàn người với cờ xí, biểu ngữ trống kèn, ca hát; các bài diễn văn mỗi năm hình như có ít hơn, ngắn hơn và vắng bớt những kêu gào của thập niên đầu, thay vào là những đòi hỏi tự do nhân quyền, tự do tôn giáo…. Và hình như những buổi tổ chức nếu muốn có thật đông người tham dự thì có lẽ phải có đông ca sĩ nổi tiếng từ thủ đô tị nạn Cali. Ca nhạc, xổ số…nhiều năm có cả múa lân rình rang. Trước kia đâu có truyền thanh hay truyền hình Việt ngữ để đọc thông báo, thơ mời, nhưng qua truyền miệng hay qua vài tờ báo Việt ngữ địa phương, dù cho không có lấy một ca sĩ nổi danh, người ta nô nức chờ và tham dự rất đông. Bây giờ các thông báo, thơ mời, hội thoại liên quan tới ngày 30 tháng Tư nghe hoài hằng bữa trên các đài. Có lẽ người ta nghĩ càng  có nhiều người tham dự thì buổi tổ chức ngày quốc hận càng thành công và càng thêm ý nghĩa chăng? Hay cái hận này trong một số người đã mõi mệt, cần thêm những lều thuốc để lên giây cót? Nếu vậy thì quả là không thể được. Niềm đau thấu trời xanh thì trăm năm vẫn còn; còn trong trí nhớ thì cũng vẫn còn đau.

        Dầu gì thì cũng nên gặp nhau để nhắc nhớ một ngày đau buồn. Những buổi gặp gỡ nhỏ thì năm bảy chục, hay trăm ngoài. Người ta ngồi lại để cùng nhau kể chuyện, như chuyện giờ thứ 25 của Sài Gòn, hay chuyện vượt biên, rồi chuyện thành đạt của thế hệ thứ nhất, thứ một rưỡi, thứ hai…của cộng đồng mình nơi xứ này. Nếu có chen đôi chút chánh trị thì nói chuyện càng ngày càng có thêm các chánh quyền địa phương chấp nhận cờ vàng là lá cờ của cộng đồng tị nạn Việt Nam, hay chuyện các nhà tranh đấu cho quyền làm người ở Việt Nam đang sinh sống trong nước hay tại hải ngoại. Những chuyện nho nhỏ như vậy cũng đủ cho người ta sống những giờ phút buồn, vui trong ngày đáng nhớ của mỗi người tị nạn.

                Sống nhiều năm tại hải ngoại, sau những năm tháng vất vả tạo dựng một nếp sống ổn định trên đất mới cho cả gia đình, ngày 30 tháng Tư vẫn còn đó nhưng có lẽ người ta càng ngày càng muốn biết những bí ẩn đằng sau cái chết tức tưởi của một chánh quyền đang lần lần được hé mở từ những hồ sơ đang được giải mật, từ những bài nghiên cứu, những trang hồi ký hay từ những nhân vật có thẩm quyền thời đó. Người ta cũng nhìn ngày 30 tháng Tư qua những bước đi càng ngày càng vững vàng của lớp con cháu trong dòng sống của đất nước tạm dung này. Nhớ hồi năm ngoái, tại một trung tâm sinh hoạt người cao niên một cựu tướng lãnh vùng 4 đã làm cho nhiều người rơi lệ khi nhắc tới ngày giờ cuối cùng của một quân đoàn thiện chiến Miền Tây. Súng đạn, lính tráng còn đủ, kế hoạch hành quân sẵn sàng nhưng cuối cùng thì cấp chỉ huy người tự sát, người vào tù, dân, quân tứ tán, nhà tan, cửa nát.

           Hôm qua một bạn văn ở Melbourne, gởi qua email một bài thơ nhân ngày mà anh gọi là ngày nước mắt, nhà tan. Anh còn mở ngoặt, đóng ngoặt nói thêm: “mắt chớ hổng phải  mất, đất nước này còn giành lại sao mà mất được”. Điều nầy chắc có nhiều người cho là chí lý! Từ hồi nào tới giờ ôngThuận và một số bạn đâu có dễ dàng chấp nhận cái từ “mất nước” này. Dù có đúng đi nữa thì cũng không lòng dạ nào mà chấp nhận. Bị Tàu cai trị cả ngàn năm, xài cả chữ viết của họ, rồi bị đô hộ hết Nhật đến Tây cả trăm năm, nước mình cũng đâu có mất. Nước mình còn ràng ràng ra đó mà. Hồn thiêng sông núi vẫn chập chờn trên Hồng Lĩnh, Thất Sơn. Anh linh tiền nhân, khí phách anh hùng, liệt nữ vẫn trải dài trên sông Hồng, sông Cửu. Vẫn một dãy giang san gấm vóc hình chữ S bên bờ biển Đông. Mất là mất cái chánh quyền tự do dân chủ miền nam, khiến cho người dân miền nam cũng mất luôn tất cả những quyền căn bản của con người. Người ta chỉ tạm thời chiếm đoạt được cái ghế ngồi trong căn nhà quyền lực mà thôi. Họ ngồi đó mà thấy cửa nhà dần dần mục nát, người bỏ nhà đi tứ tán,  người còn lại thì lòng bất an, tâm bất phục, sống với hy vọng đổi đời. Kẻ chiếm quyền chủ nhà ngồi trên cái ghế một chân thì làm sao mà bền cho được.

           Gia đình ông bà Thuận cũng là người từ căn nhà bị chiếm đoạt ấy mà ra đi. Không đi quá sớm như nhiều người lên máy bay hay lên mẫu hạm, cũng không quá trễ như hàng trăm hàng ngàn cựu tù nhân chánh trị, nhưng thời gian gần ba mươi năm đủ để ông bà Thuận nhận biết những mất, những được và những còn trong gia đình ông bà.

          Nhớ ngày chuẩn bị ra đi, ông Thuận tìm những khai sanh, hôn thú, bằng cấp đủ cỡ đủ hạng, và đào bới từ cháy nhà, góc bếp chứng chỉ tại ngũ, chứng minh thư, giấy khen, huân chương, quân hàm. Tất cả bỏ vào một túi ny-lông rồi ép kín miệng lại. Ông hy vọng những thứ này sẽ rất hữu ích nếu ông có may mắn vào một đất nước tự do, nhất là vào được nước Mỹ, một đồng minh cũ của nước ông. Vô hình chung ông gói niềm hy vọng lớn vào một cái túi nhỏ chỉ bằng bàn tay. Vậy mà từ khi trải qua nhiều cuộc phỏng vấn ở trại tị nạn cho đến khi đặt chân lên nước Mỹ và khi làm thủ tục thi quốc tịch, ông bà Thuận chưa khi nào buộc phải xuất trình những thứ giấy tờ cá nhân này. Nhiều khi ông Thuận tự hỏi không biết người ta nghe nhưng có tin lời mình hay không: ông muốn xòe tờ giấy trước mặt họ để chứng tỏ mình khai thật. Ông điền đơn thế nào thì người ta biết lý lịch mình như vậy. Kể cả cái Chứng chỉ tại ngũ hay hai cái bằng cấp đại học ông cũng không cần trưng ra, làm như CIA đã nắm hết lý lịch và hồ sơ cá nhân của ông không bằng! Lâu dần ông mới biết người ta mướn ông và giữ chân ông lâu hay mau là do khả năng thật sự của ông. Bây giờ sắp hưu trí, nghĩ lại gần 30 năm làm việc cho một công ty duy nhất quả là một thời gian dài, nghĩ tới mà giựt mình. Các đồng nghiệp trong sở ai nghe qua cái thâm niên này cũng thè lưỡi thán phục. Có người trầm trồ: Làm một công việc mỗi ngày trong suốt ba mươi năm, quả là superman! Có gì lạ đâu: lạc nghiệp để được an cư mà; dại gì làm cái con job hopper như nhiều người khác, nhảy hoài cũng có ngày lọi tay, què cẵng, có khi còn là homeless chớ chẳng phải chơi! Ăn chắc mặc bền mà hay. Đoạn đường dài đi làm mỗi ngày ông Thuận đã chứng kiến nhiều thay đổi trong một thành phố đổi thay từng giờ, từng phút. Ông cũng thấy tâm trạng mình cũng có nhiều đổi thay. Người Mỹ chia loại nhân viên thành white collars và blue collars. Không phải là điều dễ dàng khi ông Thuận vốn là một cổ trắng từ bên nhà đang trở thành một cổ xanh tại hãng xưởng này. Sa vào hoàn cảnh này, tư tưởng ông Thuận chạy nhảy lung tung lắm. Mặc cảm nầy nọ cũng không thiếu. Chữ nghĩa, quyền lực ngày nào của ông chạy đi đâu hết rồi. Xếp của ông bây giờ là những con người cục cằn, thô lỗ, dốt nát đó sao? Ta ơi, hãy nuốt vào, nuốt vào đi, nuốt vào đi ta những hào quang cũ, nuốt vào đi ta những chén đắng nghẹn ngào này. Ông Thuận đã thật lực cố hết sức mình để đôi tay, đôi chân thành thạo với cái bù lon, đinh ốc, với máy móc, búa kềm. Tâm trạng của ông cũng phải uốn cho nó đi song song nhuần nhuyễn với đôi tay đôi chân. Những năm đầu, ông Thuận đã đem theo ông con người Việt Nam Cổ Trắng để đặt vào giữa trung tâm của thế giới Mỹ Mễ Cổ Xanh, và phải làm như họ; nhiều khi ông muốn tập nói như họ, có khi tập nghĩ như họ để gọi là hòa đồng cho dễ làm lụng với nhau. Uốn nắn tay chân thì cố gắng vài tuần hay một tháng cũng làm được; vã lại công việc cũng không nặng nhọc gì so với việc đào kinh đắp đê trên cánh đồng xã nghĩa sau tháng Tư đen; nhưng tập cách nói, cách nghĩ như họ thì quả là khó. May mắn cho ông, cái khó này chưa làm được thì ông nhận rằng có lẽ không cần thiết khi ông đã chân cứng, đá mềm với công việc quen tay hàng ngày. Ông lao động còn hơn bao nhiêu đồng nghiệp khác nhờ ông siêng năng, chịu khó, tháo vát và làm việc có sáng kiến. Mấy đợt sa thải cộng chung cả mấy trăm mà ông Thuận đã không hề hấn gì mà lại còn leo lên từng bậc thang nghề nghiệp. Nhiều ông xếp cũng lần lượt ra đi, bây giờ nếu muốn kể lại tên của họ, ông Thuận cũng không nhớ hết. Gần ba mươi năm bộ mặt của công ty và cả cái tên công ty đã đổi thay mấy lần, ông Thuận vẫn vừa là cái bánh xe trong cổ máy, vừa là người đứng nhìn các bánh xe đang lăn. Ông Thuận cũng lần lần hiểu rằng nhờ tay nghề của một cổ xanh mà ông còn được giữ lại và có lẽ nhờ không ăn nói tục tằng trây trúa mà ông giữ được một chút con người cổ trắng của mình. Rõ ràng là mình nên học cái tốt mà không học cái thói quen xấu. Vừa giữ được nồi cơm, vừa giữ được cái vốn quí nhân cách trong con người của mình.

      Nước mắt, nhà tan. Phải. Đêm từ biệt cha mẹ và anh em ra đi, nước mắt của những người ở lại đã đi theo gia đình ông mấy chục năm nay, nước mắt của ông một phần đã để lại bến sông quê nhà, một phần ông đã mang theo cho tới bây giờ. Có một cái ông Thuận đã mang theo cho đến nay đã gần hết cuộc đời, không phải cái túi ny-lông đựng bằng cấp, đựng quân hàm, mà đó là nhân cách của một người tị nạn chánh trị Việt Nam. Điều này lúc ra đi ông Thuận không hề nghĩ tới, vậy mà hôm nay nó là vật tùy thân quí giá. Nó làm cho ông dù không ngẫng cao đầu nhưng chưa phải cúi gằm trước mọi người. May là ông không đánh mất trong dòng đời xuôi ngược tại xứ người.

               Còn bà Thuận thì đơn giản hơn ông. Ngày ra đi bà không có gì nhiều để mang theo. Ngoài con người nội trợ đảm đang có sẵn từ thời con gái đến người vợ rồi người mẹ hết dạ lo cho chồng con, ngoài những vật dụng, áo quần cần thiết cho cả nhà, bà Thuận đem theo mấy hột giống rau cỏ, hoa trái từ vườn nhà. Hột ổi, hột cam, hột ngò gai, hột quế, hột bầu, hột bí…đặc biệt là mấy hột mai sáu cánh, hai từng. Mấy hột mai nầy bà cất giữ từ cây mai ông Thuận đã trồng trước sân nhà để kỷ niệm cái tết đầu tiên của vợ khi về làm dâu nhà chồng. Đặt chân tới Mỹ, sau vài tháng ổn định, bà Thuận đã đi làm ngay cho một cửa hàng bán thực phẩm. Vốn là người siêng năng, tháo vát bà Thuận không thấy khó khăn gì đối với công việc buôn bán hàng ngày. Bà cũng không có cái mặc cảm cổ xanh, cổ trắng gì như ông chồng nên bà như người bơi xuồng, cứ cho xuồng ra giữa dòng rồi bơi, nước trong, nước đục, nước lớn nước ròng gì bà cũng đâu có quan tâm; miễn sao mỗi chiều về nhà bà nấu một bữa cơm ngon để cả nhà ngồi ăn, vừa nghe chuyện chồng con, vừa nhìn hạnh phúc của mình trong căn nhà nhỏ. Về sau, những bữa ăn không đủ mặt các con, có đứa này thì vắng đứa kia, nhưng những thành tích học tập và tánh tình của các con cũng đã phần nào làm cho hạnh phúc gia đình bà vẫn luôn có mặt.

             Không biết có phải vì lúc ra đi bà Thuận đã vô tình đem theo một nội tướng tài ba trung thành, hắn tiềm ẩn  trong cái dáng vấp nhỏ nhắn của bà mà gia đình vợ chồng bà từ lâu đã thành một tổ ấm giữa xứ người, có ngăn có nắp, có trên có dưới, có tình có nghĩa, có thành có đạt. Cũng có thể là do cái khuôn mẫu của một gia đình nề nếp đã theo ông bà Thuận vượt biên tới đây.

              Nói gì thì nói, ngoài con người nội tướng của vợ mà ông đã biết từ lâu, ông Thuận phục sát đất bà vợ của mình đã rất “hiện thực chủ nghĩa” khi bước xuống ghe đem theo gói hột giống. Chỉ một gói giấy nhỏ nằm gọn trong túi áo bà ba mà từ nhiều năm nay khu vườn rau trái sau nhà luôn luôn có mặt, để cả nhà nhìn nó như nhìn một góc sân quê nhà, để có hoài hương vị vườn nhà trong các bữa ăn. Đặc biệt là hai cây mai hai từng, sáu cánh trổ bông vàng nghệ vào khoảng cuối tháng Tư hàng năm. Rõ ràng, ngoài bao nhiêu thứ khác, người vợ yêu quí của ông vào phút cuối đã đem theo kỷ niệm của vợ chồng ông. Bốn mươi năm trước, người rễ mới đã âu yếm trồng cây mai tặng cô dâu mới để kỷ niệm ngày bắt đầu của một hạnh phúc. Vợ ông thích loại mai nầy khi ông bà chưa cưới nhau. Bông mai có hai từng như cái bông sen, mỗi từng 6 cánh; từng dưới nâng đỡ từng trên như chồng nâng đỡ vợ, cho nên mai được đặt tên là mai phu thê. Một lần, nhìn mai, ông Thuận nói với vợ: Chúng ta phải có một lố con như 12 cánh mai vàng hực nầy!Bây giờ, bốn mươi năm sau, một cây mai mẹ ở quê nhà nay đã thành hai cây mai lưu vong đầy bông vàng nghệ, vẫn 6 cánh dưới mạnh mẽ nâng 6 cánh trên. 12 cánh mai như đàn con 12 đứ chạy lúo súp dưới chân cha mẹ. Phải chăng đó là hạnh phúc đã nhân đôi, nghĩa phu thê đã chói lòa hào quang rực rỡ? Ở chân trời góc biển nào thì kỷ niệm vẫn đi theo, hạnh phúc vẫn có mặt khi người ta biết trân quý, giữ gìn nó.

             Hàng năm mỗi lần Tết đến, ông bà Thuận ước chi hai cây mai nở đầy trước mắt như ngày xưa ở quê nhà hai người nhìn mai đón Tết, nhìn mai rồi kín đáo nhìn nhau để nhớ cái thuở ban đầu. Nhớ trọn vẹn. Vui trọn vẹn. Nhiều năm nay ông bà Thuận cũng có dịp nhìn mai nở rộ trái mùa mỗi năm để nhớ ngày cưới của mình và sống với kỷ niệm. Nhưng thật là lạ lùng,  đâu có ai bỏ túi hay lộn lưng ngày Tháng Tư Đen oan nghiệt, đáng ghét ấy, cớ sao nó cứ đi theo bước chân hai người để chen vào các đóa hoa mai kỷ niệm của vợ chồng, để hai người vừa sống với kỷ niệm riêng, vừa nhớ, vừa đau nỗi đau chung của dân tộc.

          Lịch sử thật là oái oăm sanh làm chi cái ngày Tháng Tư Đen để nước mắt, nhà tan; lại còn khiến cho cây mai dù đã lưu vong vẫn phải ép bụng nở hoa trái mùa! Thương cho hoa mà cũng thương cho mình!

Trần Bang Thạch

Enter supporting content here