GÓC ĐƯỜNG THI
_
THU VŨ DẠ MIÊN
Bạch Cư Dị
Bản dịch:
Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Phương
Hà
_________________________________________________________________________________
Cùng Bạn,
Lâu
lắm Cali mới hưởng được một trận mưa rỉ rả suốt
đêm qua và sẽ kéo dài hết ngày hôm nay. Mưa thì có
nước xài và ao hồ bớt cạn và những cánh đồng bát
ngát cây trái có nước để tưới tiêu thật mừng,
tuy nhiên người ta đang lo âu cho những trận đất chuồi núi
lở sẽ xảy ra ở những vùng bị bão lửa vừa qua sẽ khủng
khiếp nếu mưa bão liên tục. Nhưng thôi tạm để qua một
bên cái lo âu muôn đời của kiếp nhân sinh, mời các bạn
thơ hãy thưởng thức một bài thơ của Bạch Cư DỊ dưới
đây, và riêng tôi cũng thật cảm khái nghe tiếng mưa tí
tách bên ngoài đêm qua, nhất là sáng nay dậy sớm , bên
ly cà phê nóng thơm lừng, nhìn màn mưa bên ngoài mà
cảm thấy vô cùng hạnh phúc, mình được ân huệ của
Trời Đất,hơn biết bao nhiêu người khác trên hành tinh nầy
đang đói lạnh không nhà! Xin cảm tạ Ơn Trên.
Mailoc
Thu Vũ
Dạ Miên
Bạch Cư
Dị
Lương lãnh tam thu dạ,
An nhàn nhất lão
ông.
Ngoạ trì đăng diệt hậu,
Thuỳ mỹ vũ
thanh trung.
Hôi túc ôn bình hoả,
Hương thiêm noãn
bị lung.
Hiểu tình hàn vị khởi,
Sương diệp mãn
giai hồng.
Dịch nghĩa:
Ngủ
Trong Đêm Thu Mưa
Một đêm giá lạnh trong ba tháng
thu;
có một ông già đang an nhàn.
Lên giường
trễ sau khi tắt đèn;
ngủ ngon trong tiếng mưa rơi.
Chỉ
còn tro tàn trong lò sưởi;
bỏ thêm trầm hương vào
lồng đốt.
Buổi sáng quang đãng, khí lạnh chưa tới;
Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm.
- Bản dịch của Mai Lộc --
Ba tháng thu một đêm lạnh lẽo
Một lão nhân
trong vẻ an nhàn .
Lên giường đèn tắt muộn màng
Vùi say giấc điệp mơ màng nhạc mưa .
Trong lò hồng
tro vừa tắt ngủm
Thêm trầm hương một nhúm vào lồng
Rét còn chưa tới, rạng đông
Sương đêm nhuộm
thắm rực hồng lá thu .
Mailoc phỏng dịch
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau
đây :
1. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ :
秋雨夜眠 THU VŨ DẠ MIÊN
涼冷三秋夜,
Lương lãnh tam thu dạ,
安閒一老翁。
An nhàn nhất lão ông.
臥遲燈滅後,
Ngọa trì đăng diệt hậu,
睡美雨聲中。
Thụy mỹ vũ thanh trung.
灰宿溫瓶火, Hôi
túc ôn bình hỏa,
香添暖被籠。
Hương thiêm noãn bị lung.
曉晴寒未起,
Hiểu tình hàn vị khởi,
霜葉滿階紅。
Sương diệp mãn giai hồng !
白居易
Bạch Cư Dị
2. Chú thích :
- Lương Lãnh : Lương là Mát; Lãnh
là Lạnh; Lương Lãnh là Mát đến thấy lạnh,
vì đã Tam Thu là vào khoảng tháng 9 âm lịch.
- Bình Hỏa : là Cái bình bằng
sành hơ trên lửa cho nóng để ôm ngủ cho ấm trong đêm
thu lạnh lẽo.
- Bị Lung :
là cái mền bung ra như cái lồng để chui vào cho ấm.
- Hiểu Tình : là Buổi sáng
tạnh ráo không có mưa thu.
-
Sương Diệp : là Những chiếc lá nhuốm sương thu.
3. Bối cảnh
xuất xứ của bài thơ :
Bài thơ trên đây được sáng tác vào năm Đại
Hòa thứ 6, đời vua Đường Văn Tông. Lúc bấy giờ
Bạch Cư Dị đang là Phủ Doãn của tỉnh Hà Nam, đã
trên sáu mươi tuổi và thân thể đã suy nhược già
yếu. Việc quan tuy nhàn hạ nhưng vô vị, cộng thêm người bạn
thơ thân thiết là Nguyên Chẩn 元稹 vừa mới tạ thế, nên tâm tình của ông đang
xuống dốc buồn chán và lãnh đạm với mọi việc.
4. Nghĩa
Bài Thơ :
Ngủ
Trong Đêm Mưa Thu
Một lão ông đang an nhàn ngủ đi trong cái lạnh lẽo
của ba tháng mùa thu. Nằm trăn trở hèn lâu khi đèn đóm đà
tắt hết, rồi ngủ thiếp đi ngon lành trong tiếng mưa thu. Tro tàn
trong lò còn làm ấm lên cái bình sưởi, và trầm
hương còn tỏa hương thơm vào tấm chăn thơm ấm áp.
Trong buổi sáng mai quang tạnh nhưng lạnh lẽo nầy, ta còn nằm ráng
mà chưa muốn thức dậy, trong khi sương thu đã nhuộm đỏ
cả các lá cây rụng xuống phủ đỏ cả các bậc
thềm !
5. Diễn Nôm :
Ngủ
Trong Đêm Mưa Thu
Ba
tháng thu lạnh lẽo,
An nhàn một lão ông.
Tắt đèn đi ngủ trễ,
Mưa thu say giấc nồng.
Bình sưởi tàn tro ấm,
Chăn
gối thoảng hương nồng.
Sáng trời chưa muốn dậy,
Sương nhuốm lá đỏ hồng !
Lục bát :
Ba thu lạnh lẽo heo may,
An nhàn một lão ông ngoài sáu mươi.
Đèn
tàn nằm trễ nghe lười,
Mưa thu thánh thót ngủ vùi năm canh.
Tro tàn bình ấm còn quanh,
Trầm
hương thoang thoảng chăn lành lạnh thơm.
Sáng
ngày biếng dậy chập chờn,
Sương thu nhuộm lá đỏ rơn mặt thềm !
Đỗ Chiêu Đức
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch
Giấc Ngủ Đêm Thu Mưa
Trời khuya lạnh lẽo giữa thu sang
Trong tiếng mưa rơi tựa nhịp đàn
Ông lãp say sưa trong giấc muộn
Đêm qua trằn trọc giữa canh tàn
Lò tro hơi ấm nồng lan tỏa
Chăn dạ hương trầm ngát chửa tan
Sáng rét, trời quang, nằm nán lại
Ngoài hiên lá rụng đỏ chen vàng.
Phương
Hà phỏng dịch
______________________________________________________________
Mailoc, Phương Hà,
Quên Đi
NHỚ QUÊ HƯƠNG
Cùng Bạn,
Mới rồi đọc bài thơ của thầy PKT ‘Bố Muốn Dẫn
Con Về " rồi bài " Có Một Chỗ Để Về" của
TBT, tôi vô cùng xúc động.
Ở tuổi già, người ta thường có khuynh hướng nhớ về
quê hương, nhớ ngày xưa chuyện cũ. Tôi cũng vậy, thỉnh
thoảng tôi bỗng dưng nhớ lại hết chuyện nầy đến chuyện
khác, hình ảnh người thân nầy, người bạn nọ , lại
trở về trong trí tôi có khi rõ nét có khi mơ hồ. Đôi
khi tôi cũng nhớ rõ ràng căn nhà cũ thời thơ ấu của
tôi, từ mái ngói, cái hàng rào, cây nhản trước nhà,
bụi tre sau hè , cái bàn đá ngồi ăn cơm, nhớ bộ ngựa
gõ bên cửa sổ v..v... nhớ từng chi tiết như mới ngày hôm
qua . Nhiều lần khi đọc lại bài " Chỗ Quê Hương
Đẹp Hơn Cả " trong bộ Quốc Văn Giaó
Khoa Thư lớp dự bị mấy chục năm về trước, tôi thật
thấm thía vô cùng với câu: " Từ cái bụi tre
ở xó vườn, cho đến con đường khúc khủyu trong làng,
cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể
không sao xiết được "., thì ra dường như những
vật vô tri cũng có linh hồn khiến chúng ta quyến
luyến nhớ thương nó vô cùng mỗi khi xa .
Nhân đây xin chuyển đến các bạn
đọc chơi vài bài thơ đời Đường, thi nhân ngày
trước, và chúng ta bây giờ tâm trạng gần như nhau, đều
tha thiết gắn bó với quê hương .
Đề Bình Dương
Quận Phần Kiều Biên Liễu Thụ
Sầm Tham
題平陽郡汾橋邊柳樹
此地曾居住,
今來宛似歸。
可憐汾上柳,
相見也依依。
Thử địa tằng cư trú
Kim niên uyển tự
quy
Khả liên Phần thượng liễu
Tương kiến dã
y y
Sầm
Tham
Ghi chú: Quận Bình Dương, có sông
Phần chảy qua, nay là huyện Phần, tỉnh Thiễm Tây.
--Dịch
nghĩa--
Thơ về cây liễu bên cầu sông Phần
ở quận Bình Dương
(ta đã từng ở nơi này)
(nên năm nay ta trở lại)
(khá thương cho cây liễu trên
bờ sông Phần)
(gặp lại ta vẫn thấy như hồi nào)
Dịch
Thơ :
Xưa đất
nầy ta đã từng ở ,
Nay có dịp lại
trở về thăm .
Thương sao gốc liễu
sông Phần ,
Gặp nhau ta liễu tình thân
ngày nào .
Mailoc phỏng dịch
Lý Bạch khí
xa quê, không nhắc gì hết ngoài cái khóm tường vi, mây
quê nhà, vầng trăng cũ , thật ý nhị rạc rào ...
Ức Đông Sơn kỳ nhất
Nguyên tác: Lý
Bạch
憶東山其一
李白
不向東山久,
薔薇幾度花。
白雲還自散,
明月落誰家。
Ức Đông Sơn
Lý Bạch
Bất hướng Đông Sơn cửu ,
Tường vi kỷ độ hoa .
Bạch vân hoàn tự tán ,
Minh nguyệt lạc thùy gia .
--Dịch nghĩa :--
Nhớ Đông Sơn
Đã lâu không đến
Đông Sơn (1)
Tường vi đã nở mấy lần ?
Mây
trắng lại tự tan ra
Trăng sáng rụng xuống nhà nào ?
(1) Đông Sơn là chỗ Lý Bạch ở, nằm về
phía
đông nam thành Nam Kinh bây giờ
-- Bản dịch
của Trần Trọng Kim : --
Đông Sơn xa cách
bao xuân ,
Tường vi đã trải mấy lần nở hoa .
Mây kia bạc xóa tan ra ,
Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà
nào.
-- Bản dịch của Ngô
Tất Tố : --
Non Đông xa cách bao xuân !
Cây tường vi đã mấy lần nở hoa ?
Mây xưa hẳn
vẫn bay xa ?
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao?
--Bản dịch của Mai Lộc--
(1)
Đông
Sơn cách biệt đã từ lâu ,
Chẳng biết tường vi
nở mấy lần ?
Mây trắng như xưa tan tác mãi ?
Nhà ai trăng rụng lúc tàn thâu ?
(2)
Đông Sơn
vắng từ lâu ,
Tường vi nở mấy lần ?
Mây trắng
vẫn tan tác ?
Nhà ai rụng trăng thâu ?
(3)
Đã mấy xuân Đông Sơn cách
biệt ,
Tường vi xưa nở
biết mấy lần ?
Vẫn còn
mây trắng lãng dâng ?
Nhà
ai rớt rụng trăng tàn đêm nay ?
Bạch Cư Dị khi xa Giang Nam hai năm ông quay quắc
nhớ hàng dường liễu ông trồng , rồi sợ có người
nào đó nở bẻ cành chơi
Ức giang liễu
Nguyên tác: Bạch
Cư Dị
憶江柳
白居易
曾栽楊柳江南岸,
一別江南兩度春。
遙憶青青江岸上,
不知攀折是何人。
Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn,
Nhất biệt Giang
Nam lưỡng độ xuân.
Dao ức thanh thanh giang ngạn thượng,
Bất tri phan chiết thị hà nhân.
--Dịch
nghĩa:--
Nhớ liễu bên sông
Từng
trồng dương liễu ở bờ sông Giang Nam,
Từ khi cách biệt
Giang Nam,đã hai lần xuân sang.
Vẫn xa nhớ bờ sông xanh xanh,
Chỉ không biết ai đã đến bẻ cành liễu.
Dịch
Thơ :
Nhớ
Liễu Bên Sông
Bến Giang Nam từng trồng
dương liễu
Xa Giang Nam lòng trĩu hai xuân.
Nhớ
bờ liễu biếc xinh xinh,
Ai người lại nỡ
tay vin bẻ cành?
Mailoc
phỏng dịch
Đông Đình Nhàn Vọng
Nguyên tác: Bạch Cư Dị
東亭閑望
白居易
東亭盡日坐,
誰伴寂寥人?
綠桂為佳客,
紅蕉當美人.
笑言雖不接,
情狀似相親.
不作悠悠想,
如何度晚春?
Đông đình tận nhật tọa,
Thùy bạn tịch
liêu nhân ?
Lục quế vi giai khách,
Hồng tiêu đáng
mỹ nhân.
Tiếu ngôn tuy bất tiếp,
Tình trạng tự
tương thân.
Bất tác du du tưởng,
Như hà độ
vãn xuân ?
--Dịch nghĩa:--
Nhàn
Ngắm Từ Đình Phía Đông
Cả ngày ngồi ở đình phía đông,
ai
sẽ là bạn cho kẻ nhàn nhã này ?
Cây quế xanh có
thể là vị khách quý,
cây chuối hồng đáng mặt
người đẹp.
Tuy không trực tiếp nói cười được,
nhưng tình trạng như thật thân thiết.
Nếu không tưởng
tượng rộng rãi như vậy,
làm sao ta có thể qua được
những ngày xuân muộn này ?
--Bản
dịch của MaiLộc-
Ngồi suốt ngày đình đông
lặng lẽ ,
Ai bạn nhàn với kẻ nầy đây ?
Quế
xanh khách qúi nầy nầy ,
Chuối hồng người đẹp hây hây bạn lòng .
Tuy chẳng
cười cũng không giao tiếp ,
Nhưng tình thân thắm thiết
vô cùng .
Nếu không tưởng tuợng mông lung ,
Làm
sao chống chỏi nỗi buồn cuối xuân ?
ML
Còn Lamartine thì sao ? Là người
lãng mạn, trong bài thơ Milly ou la terre natale , xa quê hương
ông đau khổ rồi tự ví mình như kẻ bị lưu đày,
nơi xa xôi ông nhớ lại từ dư âm cũ của từng bước
chân đi của người thân quen, nhớ đến núi đồi thung lũng
sương trắng ban mai, nhớ tháp cổ hiu hắt nắng chiều, nhớ những
mái rạ , nhớ bếp hồng khói lam chiều v...v..., rồi cuốí cùng
quá da diết ông phải thốt lên một câu thật thống thiết
bất hủ để muôn đời:
Objets
inanimés !
Avez-vous donc une âme ?
Qui s ‘attache à mon âme ,
Et la force d' aimer .
Lamartine
Hỡi những vật
vô tri kia đó ,
Nói cho ta mi có hồn không ?
Nào hay cái vẽ lạnh
lùng ,
Mà tình mi cột tận
cùng hồn ta !
Mailoc
Phương Hà xin được góp bài phỏng
dịch cùng anh Mai Lộc và VTT
1- Phỏng
dịch bài Đề Bình Dương Quận Phần Kiều Biên Liễu
Thụ của Sâm Tham
Cây liễu bên cầu
sông Phần
Nhớ xưa ta ở chốn này
Năm nay trở lại lòng đầy vấn vương
Thương sao cây liễu sông Phần
Cùng ta gặp lại tình thân vẫn nồng.
Phương Hà
phỏng dịch
2- Phỏng dich bài Ức Đông Sơn của
Lý Bạch
Nhớ Đông Sơn
Lâu rồi chưa dịp ghé
Đông Sơn
Chẳng biết tường
vi nở mấy lần ?
Mây trắng hợp
về rồi tản mác
Nhà ai trăng
sáng rụng đầy sân ?
Phương Hà phỏng dịch
3- Phỏng dịch bài Ức
giang liễu của Bach Cư Dị
Nhớ liễu bên sông
Ta trồng rặng
liễu ở Giang Nam
Cách biệt hai năm
chẳng ghé thăm
Vẫn nhớ bờ
sông xanh ngút mắt
Biết ai đã
đến, đã vin cành ?
Phương Hà phỏng dịch
4- Phỏng dịch bài Đông
Đình Nhàn Vọng của Bạch Cư Dị
Ngắm cảnh
từ Đông Đình
Suốt ngày nhàn tản ở Đông Đình
Biết có ai đâu bạn với mình
Quế biếc xem như người khách quý
Chuối hồng nào khác kẻ đoan trinh
Nói cười tuy chẳng cùng giao tiếp
Thân thiết dường như đã trọn
tình
Nếu chẳng hình dung ra sự
thể
Làm sao qua được buổi xuân
tàn ?
Phương Hà phỏng dịch
5- Phỏng dịch 4 câu kết trong bài Milly
ou la terre natale của Lamartine
Hỡi vật vô tri, ta muốn hỏi
Có hay chăng một cõi linh hồn ?
Cùng ta chia sẻ vui buồn
Tâm tư vương vấn bồn chồn nỗi yêu.
Phương Hà phỏng
dịch
Tiếp theo Phương Hà,
Quên Đi xin góp vui:
1/ Đề Bình Dương Quận Phần Kiều
Biên Liễu Thụ
(Câu
2 chữ thứ nhì là lai chớ không phải niên)
Lúc
trước nơi này từng trú ngụ
Nay về thăm chốn cũ năm nao
Sông Phần cội liễu rì rào
Cảnh đây vẫn thế khác nào thuở xưa.
2/ Ức
Giang Liễu
(Nhớ Hàng Liễu
ở Giang Nam)
Từng trồng liễu ở bờ sông
Giang Nam hai lượt xuân đông chưa về
Màu xanh xanh biếc trên đê
Người từ đâu đến mân mê bẻ
cành.
3/ Phía Đông Của Đình Ngắm
Ngồi
nơi đình phía đông
Cảnh
vắng bạn thì không
Quế
biếc làm thân khách
Người
xinh ấy chuối hồng
Nói cười
tuy chúng chẳng
Nhưng cũng thấy
vui lòng
Đành phải nghĩ
như thế
Để xuân được
chút nồng
Quên Đi
CHU TRUNG
Huyền Quang Thiền Sư
Bản dịch: Quên Đi, Kim Oanh, Phương
Hà, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________________________________________
Đất trời hoà một, trời là
đất, đất là trời, không còn ranh giới giữa cõi Phật
và nhân gian, chỉ có Chân Như trong sáng thôi.
舟中
Chu Trung
一葉扁舟湖海客 Nhất diệp
biển chu hồ hải khách
撐出葦行風慼慼 Sanh xuất
vy hành phong thích thích
微茫四顧晚潮生
Vi mang tứ cố vãn triều sinh
江水連天一鷗白
Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch
玄光禪師 Huyền
Quang Thiền Sư
Dịch Nghĩa: Trong Thuyền
Kẻ đang phiêu
bạt biển hồ, ngồi trên con xuồng mong manh như chiếc lá
Chống xuồng qua đám lau, nghe tiếng gió
buồn buồn rên rỉ
Bốn phía
mịt mù, trong khi con nước buổi chiều đang lên
Giữa vùng trời và sông nước như liền nhau,
xuất hiện một cánh chim hải âu trắng.
Diễn ý:
Từ bài Thơ Thiền này, Quên Đi nảy
sinh liên tưởng:
Đây có
phải là chiếc Thuyền không đáy của Tiếp Dẫn Tăng, và
người khách là thầy trò Đường Tăng? Rời bến Lăng
Vân, bỏ lại phía sau chốn mê, Tiếp Dẫn Tăng đưa thầy
trò Đường Tăng sang đất Phật.
Dịch Thơ
Kẻ phiêu bạt ngồi trên xuồng nhỏ
Vượt ngàn lau trong gió thì thào
Chiều mờ con nước
dâng cao
Giữa trời đất quyện
hiện màu trắng âu.
Quên Đi
Phiêu bạt một chiếc thuyền con
Hàng lau xào xạc dập dồn gió than
Chiều lờ mờ nước dâng tràn
Hải âu trắng xóa mênh mang đất trời
Kim
Oanh
Phương Hà xin có bài phỏng dịch góp vui cùng
anh Quên Đi, Kim Oanh và VTT
I -
Trong thuyền
Mong manh thuyền nhỏ trên hồ rộng
Qua đám lau già, nghe gió than
Mờ mịt bốn bên, trời nước quyện
Cánh chim ẩn hiện giữa mây ngàn.
II-
Trong thuyền
Biển
hồ rộng, mong manh thuyền nhỏ
Vượt
lau ngàn, nghe gió thở than
Bốn bên
triều ngập mênh mang
Giữa vùng
trời nước, nhịp nhàng cánh âu.
III-
Trong thuyền
Mong manh thuyền nhỏ giữa hồ
Thở than, tiếng gió trong bờ lau cao
Bốn bên trời nước một màu
Cánh chim âu trắng từ đâu lượn về.
IV-
Trong thuyền
Thuyền nhỏ trên hồ rộng
Trong lau, tiếng gió than
Mênh mang
trời nước quyện
Trắng hiện
cánh chim ngàn
Phương
Hà
Chu Trung
Như chiếc
lá rong chơi thuyền khách,
Gió
xạc xào lau lách vượt qua.
Triều
lên mù mịt chiều tà,
Giữa
trời mây nước xa xa cánh cò.
Mailoc phỏng dịch
Trên Thuyền
Chiếc thuyền con chở theo người
hồ hải,
Gió se se rời khỏi khóm
lau xanh.
Con nước tối chung quanh chừng
bát ngát,
Một cánh cò giữa
trời nước thanh thanh !
Đỗ
Chiêu Đức
TRƯƠNG
KẾ: PHONG KIỀU DẠ BẠC
Bản dịch: Phạm Khắc Trí,
Danh Hữu, Mailoc, Tản Đà, VHKT, Mai Xuân Thanh, Quên Đi
PHẠM KHẮC TRÍ
Tôi đã chuyển dịch lại bài Phong Kiều Dạ
Bạc của Trương Kế nhiều lần ,nhưng đều không được
vừa ý , đành bỏ cuộc chơi rồi sao? Sau đây là 2 bài
chuyển dịch lần cuối(?), chép lại để mọi người đọc
cho vui và để nhớ lại mười mấy năm trước đây , vườn
thơ "trân quý sợi dây thân ái/ thơ thẩn cho vui/ đùa
rỡn với chữ nghĩa/ đâu kể đến niêm luật ràng buộc
/ trong tình anh chị em một nhà, vui thôi , vui như ngày Tết .. .
Cầu chúc an lành cho tất cả mọi người quý mến của tôi.
PKT 03/20/2016 .
楓橋夜泊
Phong Kiều Dạ Bạc
月落烏啼霜滿天
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;
江楓漁火對愁眠
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺
Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,
夜半鍾聲到客船
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.
張計
Trương Kế
Thuyền Đêm
Bến Lạ
PKT 04/20/2014
Trăng lặn ,quạ
kêu , trời ngập sương ,
Bến
phong trở giấc những tơ vương.
Lửa
chài hiu hắt trên sông lạnh ,
Thuyền
khách , chuông khuya , vỗ mộng thường.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
DANH HỮU
Nhân đọc thấy bác Trí thích bài thơ này và đã
cố công dịch nó nhiều lần nhưng chưa vừa ý, vậy xin gửi
tới bác bài phiếm luận này, bác và chư vị đọc chơi.
Một bài thơ muốn dịch cho hay thiết tưởng cũng nên tìm hiểu
rõ nội dung của nó, mình có thấm ý thì dịch mới dễ
đạt.
Xin mời đọc :
Phiếm Luận
楓橋夜泊
Phong Kiều Dạ Bạc
月落烏啼霜滿天
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;
江楓漁火對愁眠
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺
Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,
夜半鍾聲到客船
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.
張計
Trương Kế
Bài thơ
này trước đây được người Nhật tán tụng và
Khang Hữu Vi, một nhân sĩ đời Thanh rất chuộng văn hóa Nhật
bản, đã thuê người khắc bài thơ này lên một tảng
đá lớn đặt trước chùa Hàn San. Một bài thơ mà
đã bị người Tầu chê dở và Âu Dương Tu đã
phê rằng : Nhà thơ vì mê câu văn hay đã làm cho
ý văn không được thông, đó là ngữ bệnh vậy.
Họ cho là làm gì có chùa nào thỉnh chuông lúc nửa
đêm, chẳng qua Trương Kế mơ mơ màng màng rồi thiếp đi
đến gần sáng, lúc nghe tiếng chuông thỉnh an sáng sớm lại
tưởng là còn nửa đêm. Người Tầu khác lại muốn
biện minh cho tác giả nên cũng đã bịa đặt ra câu chuyện
thầy trò nhà sư chùa Hàn San làm được câu thơ hay
mới thỉnh chuông để tạ ơn Phật mà nên mới có tiếng
chuông thỉnh lúc nửa đêm. Bài thơ này quá dở nên
lòi ra là chuyện giả. Một anh phóng viên Nhật, cách nay hơn
chục năm, cũng đã ghé chùa Hàn san để tìm hiểu và
được vị trụ trì giảng cho nghe là gần đấy có ngôi
làng mang tên Ô Lạc, và ngọn núi xa xa, tên của nó là
Nguyệt Lạc. Anh không cãi lại nhưng trong bút ký của anh, anh cho
dó là chuyện bịa đặt của người sau muốn phong Thánh cho
làng mình nhờ vào bài thơ xưa.
Trong đại chiến
thế giới II, người Nhật đã lén tháo chuông cùa chùa
Hàn San đem về Nhật, vì họ cho là tiếng chuông có cái
gì đó linh thiêng khiến được Trương Kế làm ra bài
thơ thần diệu này. Về sau phía Trung quốc đòi mãi, người
Nhật mới chịu hoàn trả, nhưng là hoàn trả một chiếc chuông
khác của họ mới đúc để thế vào, còn chiếc chuông
cũ thì họ vẫn giữ.
Tại sao cũng một bài thơ mà những người hậu duệ của
nước tác giả thì chê mà lại được người nước
ngoài tán thưởng ? Ấy là vì cái nội dung tinh thần của
bài thơ này, nó giống với đặc điểm tinh thần thơ Haiku
của người Nhật. Vậy thì, trước khi bàn về cái hay, cái
tinh túy của bài thơ Trương Kế, ta hãy xem cấu trúc tinh thần
của thể thơ Haiku là gì.
Hồi trẻ, cách nay cũng trên 50 năm, tác giả bài phiếm luận
này có đọc mấy bài thơ Haiku nhưng có một bài, đã
qua bao năm tháng mà không thể quên được dù chẳng còn
nhớ tên tác giả là ai. Bài đó được dịch ra như
sau :
Con bướm vàng
Đậu trên đầu trượng của nhà sư hành hương
Thiu thiu ngủ.
Nếu ta là người ngoại đạo của thơ Haiku, ta sẽ chẳng thể
nào hiểu được cái thâm thúy của bài thơ này, ta
chỉ thấy đây là một câu tả cảnh mà người ta cố
tình xuống hàng cho ra vẻ thơ, mà thôi. Nhưng, đây là một
bài thơ rất được chuộng ở người Nhật. Ta biết rằng
hàng năm vào ngày đầu năm, Nhật Hoàng có lệ mời
một vị có bài thơ Haiku hay nhất trong năm đến cùng ngài
uống trà ở cung vua, như một phần thưởng cao quí, bất kể
nhà thơ đó đang định cư ở đâu (báo đăng có
một ông thi sĩ Nhật sống ở Mỹ đã có lần được
hân hạnh về uống trà đầu năm với Nhật hoàng). Lệ này
vẫn còn giữ mãi cho đến gần đây.
Vậy,
cái hay của thơ Haiku là ở đâu ? Ta biết rằng quán tính
của con bướm, là không đậu yên một chỗ, nó cứ nhởn
nhơ, vừa đáp xuống lại lập tức bay lên, như là sợ sệt
lủ con nít thích bắt bướm ở đâu đó chộp nó
vậy. Đó là trạng thái không yên ổn của tâm hồn nếu
đem đặt vào con người. Ngồi chưa nóng chỗ đã nhổm
đít đứng lên. Nhưng ở đây, tại sao con bướm nó
lại cảm thấy thật bình yên để mà có thể thiu thiu ngủ
một giấc ngon lành như vậy, tác giả có đãng trí không ?
Thưa, là vì tác giả đã cho nó đậu trên đầu
cây trượng của một hòa thượng, mà không phải là bất
cứ một ông hòa thượng nào, mà phải là một hòa
thượng hành hương trên đường tìm về xứ Phật. Một
nhà sư hành hương về xứ Phật tất không còn chút ham
muốn nào có thể chi phối ông, dù là trước một con bướm
đẹp, mà những đứa trẻ con, dù có táy máy đến
đâu cũng không dám dỡn mặt với một vị tu hành, nhất
là, trước mặt chúng nó, có cây thiền trượng đe dọa,
sẵn sàng gõ vào đầu chúng. Chỉ có ở nơi đó,
với những bảo đảm chừng ấy và viễn ảnh chừng kia, mới
khiến được con bướm dám vững bụng mà nằm ngủ yên
lành, phó thác tính mạng cho số phận mà nó đinh ninh là
sẽ được đến cõi Thiên trúc cùng với nhà sư.
Một hình ảnh thật độc đáo khó thể tìm thấy ở
đâu. Bài thơ Haiku này dùng hình ảnh đơn sơ để
miêu tả một chân lý, đó là sự quảng bá đức
tin về đạo Phật, một tôn giáo che chở cho chúng sinh yếu đuối
đến nơi an lành. Chỉ với vài nét loáng thoáng, tác giả
đã vẽ nên một chân lý, thật là ý tại ngôn ngoại.
Bây giờ trở về với thơ Trương Kế, Bài thơ này có
gì liên quan đến thể thơ Haiku ? Có chứ ! Bài thơ không
chỉ đơn thuần là chỉ tả một cảnh đêm khó ngủ,
bất chợt nghe tiếng chuông chùa như ta đọc thấy ở các bản
dịch thơ chưa chuẩn. Vậy trước hết, xin hãy dịch đã
để đãi, hầu quí bạn :
Đêm trên bến Phong Kiều
Trăng rụng, quạ kêu, trời phủ sương;
Hàng phong, đốm lửa, gục buồn vương.
Cô Tô, ngoài ấy, chùa Hàn vắng
Thuyền khách, khuya về, viếng tiếng chuông.
Như nói ở trên, Haiku là một thể loại thơ dùng vài nét
phác tả để gợi ý người đọc, chứ không nói thẳng
ý ra như ta thường thấy ở những bài thơ Đường tầm
thường. Do vậy, thơ Haiku rất kén người đọc, vì không
phải ai cũng đủ hội ý mà hiểu được thâm ý tác
giả.
Bài thơ của Trương Kế có cái độc đáo của thể
loại thơ Haiku nên mà được người Nhật tán thưởng
và thích thú. Ta thử phân tích :
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ được làm ra trên
bến Phong Kiều, bến Phong Kiều chỉ là cái cớ. Ta biết cây Phong
là một loại cây được vua Hán đem trồng trong Triều đình
ở sân vua, nên nó có tên là Phong thần, thu đến sắc lá
của nó đỏ ối như rực lửa để xua tan cái lạnh. Vậy
Phong Kiều dạ bạc là có hàm ý : ngôi vua đang trong thời kỳ
đen tối (như hàng phong đứng vô hồn trong đêm lạnh lẽo
bên cầu trên bến vắng).
Bây
giờ ta đi vào nội dung bài thơ :
Câu một : Nguyệt lạc : Trăng luôn là biểu tượng gợi
hứng cho nhà thơ, nay trăng đó đã rụng mất rồi. (Nguyệt
lạc là trăng rơi rụng chứ không phải trăng lặn, trăng lặn
là Nguyệt há). Nhà thơ không còn thấy hứng thú gì nữa.
Ô đề là quạ kêu, (quạ luôn bị coi là con vật mang tai họa
đến) hiện nay, nó đang xuất hiện, đang to tiếng, chế ngự không
gian. Nghĩa là thế gian bây giờ chỉ còn có giống quạ (gian thần)
tác quái. Sương mãn thiên là trời bị bao phủ bởi màn
sương đêm, hàm ý nhà vua bị che khuất, công lý chẳng
còn nữa.
Câu hai : Giang phong : hàng
cây trên bến hàm ý để chỉ các đại thần của
giang sơn, đất nước; ngư hỏa : nó chỉ còn leo lét như
cái đóm lửa của bác thuyền chài. Đối sầu miên :
Nhìn cảnh đó mà tác giả thấy buồn nôn chỉ muốn
đi nằm (tức không còn sức để làm việc).
Câu ba : Cô Tô là gợi ý địa danh, nơi mà
ngày xưa vua Hán dùng làm nơi tuyển nhân tài tuấn kiệt
ở trước cổng thành Cô Tô. Nơi đó bây giờ chẳng
có ai, ngoài một ngôi chùa Hàn san lạnh lẽo.
Câu bốn : Bán dạ chung thanh : Tiếng chuông nửa đêm;
đáo khách thuyền : đến thuyền khách. Chữ "đáo"
ở đây là nhãn tự, nó làm cho tiếng chuông như một
vị Thần đêm đến viếng nhà thơ.
Bài thơ, là một bài bàn về Thế sự. Nhà thơ
(Trương Kế nguyên là một tiến sĩ đời Đường thế
kỷ thứ VIII), trước cảnh Quốc phá, gian thần lộng hành,
đành buông xuôi và trong đêm tăm tối không có hướng
ra thì bỗng được nghe tiếng chuông, là hàm ý chỉ có
nơi cảnh Phật là có thể giúp tác giả quên hết sự
đời. Đối với Phật, tất cả giai không, chẳng có gì
mà phải luyến tiếc.
Tóm lại,
nội dung bài thơ là tác giả muốn nói lên cái ý muốn
quy viên (từ quan) như Trương Hàn thác là mình nhớ món
gõi cá vược ở quê nhà nên từ quan, chứ không phải
là mình đã chán ngấy, ngày ngày làm ông quan phỗng
ở Triều đình.
Trên đây, bàn phiếm về nội dung bài thơ của Trương Kế,
chẳng biết quí bạn có ý kiến gì khác không ?
Thân mến,
Danh
Hữu
Mailoc
Anh Danh thân mến ,
Thật thích
thú đưọc đọc phiếm luận của anh .Anh đã dắt chúng
tôi đi từ Phong Kiều Dạ Bạc dến bài thơ Haiku của Nhật
Bản, rồi trở về PKDB của Trương Kế ...một cuộc viễn du đầy
lý thú.Riêng tôi bỡi qúa tệ chử Hán nêndốt nát
về điển tích Tầu , thật khó lòng hiểu nỗi ý nghiã
sâu sắc thâm thúy của tác giả trong bài thơ, chỉ biết
mỗi lần đọc lại PKDB lòng tôi thật cảm khái .Năm 2007
trong chuyến du lịch Tầu , tôi có ghé viếng Hàn San tự để
thoả lòng khao khát , nhưng tôi có chút thất vọng trước
cảnh thực tế của Hàn San bây giờ , chẳng ccòn gì mơ màng
như trong trí tưởng tượng của mình lúc trước, chỉ có
hàng liễu rũ dọc con kinh trong lúc hoàng hôn là còn chút
thơ mộng .Hàn San tự cũng vậy, được xây mới nên mất
hết vẽ cỗ kính . Tuy nhiên khi lên xe bus trở về khách sạn
lúc chiều tối , quay lại nhìn cảnh chùa trong cảnh nhá nhem tối,
nghe một tiếng chuông ngân nga rền vang ( có lẽ do du khách dộng chuông
để cầu phước sau khi đã bỏ ra chút ít tiền )đã để
lại trong tôi một ấn tượng khó quên . Xin gởi bạn chia sẻ
Xin cam ơn anh Danh , anh Trí
Thân kính
Mailoc
Hàn San Tự Hoài Cảm
Hoàng hôn phủ mái Hàn San,
Cô Tô đâu tá ? trơ gan chiếc cầu
.
Xa mờ một chiếc thuyền nâu,
Không gian trầm lắng ngân sầu tiếng chuông
.
Ê a kinh mõ buồn buồn ,
Não lòng du khách như vương tơ lòng.
Phong Kiều Dạ Bạc đôi dòng,
Mà sao đọc mãi cõi lòng ngất
ngây !
Mailoc
10-22-07
Nhân đây
xin gởi đến các bạn vài bài phỏng dịch PKDB cũ góp
vần cùng anh Trí và các ban
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên ,
Giang phong , ngư hỏa đối sầu miên .
Cô-Tô thành ngoại Hàn San tự ,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Trương Kế
TẢN ĐÀ
Thuyền Đậu Bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng qụa kêu sương ,
Lửa chài ,cây bến sầu vương giấc
hồ .
Thuyền ai đậu bến Cô-Tô
?
Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa
Hàn San.
TẢN ĐÀ
VHKT
Trăng lặng ,qụa kêu
khắp trời ,
Cây phong,ngư lửa ngủ
cùng đôi .
Cô-Tô ngoài có
Hàn San tự ,
Chuông vang nửa đêm
thuyền đậu khơi .
VHKT
Bản dịch của Mailoc
(1)
Trăng tà tiếng qụa kêu sương
Lửa chài, phong lặng , đêm trường
chẳng an .
Cô-Tô bến nước
Hàn San ,
Nửa đêm ,thanh vẳng
chuông vang tận thuyền .
(2)
Sương khói ,trăng tà , tiếng qụa
than ,
Lửa chài, phong lặng , giấc mơ
màng .
Cô-Tô bến nước Hàn
San tự ,
Đêm vắng tận thuyền
tiếng chuông vang .
MaiLoc
MAI
XUÂN THANH
TRĂNG
RỤNG BẾN PHONG KIỀU
1)
Mù trời,
trăng rụng quạ kêu sương,
Ánh
lửa bờ phong thảm thiết thường.
Cổ
tự Hàn San sao vắng vẻ,
Khách
thuyền chuông vọng một đêm trường
2)
Sương phủ, quạ kêu bóng nguyệt mờ,
Bờ phong đóm lửa thấy bơ vơ.
Hàn San cổ tự buồn xa vắng,
Chuông vọng khách thuyền khuya khoắt mơ.
Mai Xuân Thanh
Ngày 24 tháng 03 năm 2016
QUÊN ĐI
Sau Hoàng
Hạc lâu của Thôi Hiệu, bài Phong Kiều Dạ Bạc là bài thơ
khiến Quên Đi có nhiều suy nghĩ nhất, một thắc mắc cứ mãi
trong đầu: Tại sao tác giả dùng từ " Dạ bán " mà
không dùng " Bán dạ"?có phải chỉ để cho êm tai hơn
, thuận miệng hơn khi đọc hay còn một nguyên do nào khác?
Giống như Thầy Khắc Trí, Quên Đi
cứ dịch mãi bài thơ này cũng chưa vừa ý.Xin gởi ra đây
những bài Quên Đi đã dịch:
Đêm Neo Thuyền Ở Bến
Phong Kiều
1
Tiếng quạ kêu sương bóng
nguyệt buông
Đèn câu le lói bến phong buồn
Hàn San chùa
cổ canh khuya vắng
Quá nửa đêm về vọng tiếng chuông
2
Sương phủ trăng mờ quạ khóc than
Đèn
chài phong bến giấc sầu lan
Tô Châu thành ngoại Hàn San Tự
Chuông vẳng giữa đêm mộng khách tàn
3
Sương mờ trăng lặn quạ hờn
Cầu phong giấc ngủ chập
chờn sầu vương
Hàn San yên
vắng phật đường
Nửa đêm chuông đổ Hoàng Lương
mộng tàn
4
Trăng tàn quạ nhác sương
Phong bến giấc sầu
vương
Đêm vắng Hàn San Tự
Chuông ngân khách có
tường
5
Sương
giăng tiếng quạ trăng tàn
Cầu phong chài lửa man man giấc
trần
Hàn San Tự đêm khuya
dần
Nam Kha đang mộng chuông ngân
vọng về
Quên Đi
Đảo Y Thiên ( Lý
Bạch)
Mailoc phỏng
dịch
Chia ly là
nỗi đau muôn đời của Chinh Phu Chinh Phụ. Xem cảnh chia tay của người
vợ lính Mỹ ôm con tiễn chồng trong sân bay, trên bến tàu cho
cuộc chiến Iraq, Afghanistan trên TV mà lòng bùi ngùi nhớ đến
cảnh người vợ lính VNCH chúng ta ngày trước khi chia tay
chồng đi tù cải tạo. Lý Bạch đời Đường cũng
diễn tả nỗi đau thương mong đợi chồng của người chinh
phụ cô phòng lẻ bóng ngày xưa, cũng lâm ly như trong Chinh Phụ
Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm vậy .
Xin chia xẻ cùng các Bạn.
Thân,
Mailoc
Đảo Y Thiên
Lý Bạch
Khuê lý giai nhân niên thập dư
Tần nga đối ảnh hận li cư
Hốt phùng giang thượng xuân
quy yến
Hàm đắc vân trung xích tố thư
Ngọc thủ
khai giam trường thán tức
Cuồng phu do thú Giao hà bắc
Vạn lí Giao hà thuỷ bắc lưu
Nguyện vi song yến phiếm
trung châu
Quân biên vân ủng thanh ti kỵ
Thiếp xứ
đài sinh hồng phấn lâu
Lâu thượng xuân phong nhật tương
yết
Thuỳ năng lãm kính khan sầu phát
Hiểu xuy viên
quản tuỳ lạc hoa
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Chân châu liêm bạc
yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương
Quỳnh diên bảo
ác liên chi cẩm
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao
Vi quân lưu hạ tương
tư chẩm
Trích tận đình lan bất kiến quân
Hồng
cân thức lệ sinh nhân uân
Minh niên nhược canh chinh biên
tái
Nguyện tác Dương Đài nhất đoạn vân
Chú thích: 1/ Giao hà, tên sông, nay ở phía tây
huyện Thổ lỗ phồn trong khu tự trị Tân Cương, 2/ Dương đài,
tên ngọn núi trong rặng núi Vu sơn ở phía đông nam tỉnh
Tứ Xuyên. 3/ Theo lệ đời Đường, gia đình phải giặt áo
lạnh gửi ra chiến trường cho người thân đi lính.
--Dịch
nghĩa: --
Bài ca giặt áo
Người đẹp
ở trong phòng the đã hơn mười năm ; soi gương chau mày buồn
cho cuộc sống [có chồng ] xa vắng. Bỗng thấy trên sông xuân một
cánh nhạn bay về ; trong mây ngậm một phong thư trắng dài cả
thước . Bàn tay ngọc mở thư xem rồi [miệng] than một tiếng dài
: người chồng cuồng vẫn còn đóng trong quân phía bắc sông
Giao . Sông Giao dài cả vạn dặm, nước chảy ngược lên phía
bắc ; thiếp nguyện làm đôi chim bay bay giữa bãi sông . Nơi biên
giới chàng ở, mây phả vào [mặt] con ngựa [lông] tơ xanh ; lầu
hồng thiếp ngụ, rêu đang bao phủ . Trên lầu có gió xuân,
nắng sắp tắt ; ai còn có thể soi gương để xem mái tóc
buồn . Buổi sáng thổi sáo tròn theo lá rụng ; đêm giặt
áo trận [của chàng] nhìn về vầng trăng sáng . Trăng trên
cao sáng cả đêm ; rèm ngọc đã giăng nhà lan . Giải đồng
tâm kết bằng lụa quý trên màn treo ngang ; rủ lưng chừng vào
chiếu quỳnh thơm mùi tô hợp. Chiếu quỳnh, màn quí đều
là gấm thêu cành hoa ; đèn đuốc soi sáng chỗ ngủ cô
đơn . Giả sử có tin chàng, thiếp sẽ dùng kéo vàng ; may
chiếc gối tương tư lưu niệm . Đã hái hết hoa lan trong sân
mà chưa thấy chàng về ; khăn hồng lau lệ đến mờ cả
mắt . Sang năm nếu chàng còn ở biên ải ; thiếp nguyện làm
một cụm mây ở Dương Đài.
--Bản dịch của Mailoc-
BÀI CA GIẶT ÁO
Hơn
mười năm khuê phòng quạnh quẽ
,
Buồn nhìn gương
bóng lẻ xa chồng .
Xuân về én liệng trên sông ,
Xua mây miệng ngậm thư hồng lụa trong .
Mở
thư xong hận lòng than thở ,
Anh
chồng cuồng còn ở sông Giao .
Sông
Giao phương bắc thét gào ,
Nguyện
làm đôi én thì thào bến sông .
Mây mơn
chàng , ngựa hồng tơ sắc ,
Thiếp
lầu son hiu hắt rêu phong .
Gác
xuân ngày hết gió lồng ,
Tóc
sầu ai nỡ gương hồng ngắm soi .
Tiếng sáo sớm , hoa
rơi từng cánh ,
Giặt chinh y
dưới ánh trăng thâu .
Trăng
ngời giọt lậu dài lâu
Rèm
châu buông xuống nhà lan lạnh lùng .
Ngang màn qúi giải
đồng tâm kết
Giường
chiếu quỳnh chưa hết hợp hương .
Chiếu quỳnh màn gấm uyên ương
Sáng ngời đèn nến soi giường lặng trang .
Có
tin chàng , kéo vàng may cắt
Gối
tương tư thiếp khắc bóng chàng .
Chàng ơi ! sân trước lan tàn
Nhạt nhoà lệ thắm chứa chan khăn hồng .
Chàng
sang năm còn rong biên tái
Thiếp
làm mây bay mãi Chương Đài .
Mailoc phỏng dịch
__________________________________________________________________________________________________
Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức,
Anh Tú
春晴
XUÂN TÌNH
雨前初見花間蕊. Vũ tiền
sơ kiến hoa gian nhụy,
雨後全無葉底花。 Vũ hậu toàn
vô diệp để hoa.
蜂蝶紛紛過牆去, Phong điệp
phân phân qúa tường khứ,
卻疑春色在鄰家。
Khước nghi xuân sắc tại lân gia.
王駕
Vương Giá
DIỄN NÔM :
XUÂN TÌNH
Trước mưa hoa hãy còn phong nhụy,
Sau trận mưa rào tan tác hoa.
Ong bướm bay sang tường
vội vả,
Nhà bên xuân ngự, phải chăng là ?!
Lục bát :
Trước
mưa hoa nở đẹp sao,
Sau mưa dưới lá hoa nào còn chi
!
Cách tường ong bướm bay đi,
Ngờ rằng xuân sắc có
khi bên nhà !
Đỗ Chiêu Đức
***
Cảm tác từ Xuân Tình:
Dưới Nắng Xuân*
Hoa khoe sắc thắm chờ mưa
Mưa rơi hoa rũ đong đưa
cánh sầu
Bướm ong vội vã về đâu?
Phải chăng Xuân đã
đẹp màu vườn bên?
Anh Tú
02/Tháng 12/2015
Palm Beach Gardens, FL
SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
Nguyên tác: SẦM THAM
Bản dịch: Đổ Chiêu Đức, Phương
Hà, Mailoc _____________________________
Mùa Xuân là mùa hoa cỏ xanh tươi rực
rở với muôn hồng ngàn tía, nhưng... phải ở hoàn cảnh nào
thì cỏ non hoa đẹp mới làm vui được lòng người... Đôi
khi cỏ non hoa đẹp chỉ tạo thêm nỗi tang thương biến đổi
của cuộc sống mà thôi !!!...
Mời tất cả hãy cùng đọc bài " Sơn Phòng Xuân Sự
" của Sầm Tham thì sẽ rõ...
山房春事 SƠN
PHÒNG XUÂN SỰ
梁園日暮亂飛鴉,
Lương Viên nhật mộ loạn phi nha,
極目蕭條三兩家。
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
庭樹不知人去盡,
Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
春來還發舊時花。
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
岑參
Sầm Tham.
Chú Thích :
1. Sơn Phòng
: là Nhà cất trên triền núi như là một biệt thự ngày
nay, để ngắm cảnh và hưởng nhàn. PHÒNG là Cái Phòng,
nghĩa rộng là Nhà .
2. XUÂN SỰ : là Việc của mùa xuân, ý chỉ Xuân Sắc, Xuân
Quang, là Quang cảnh của mùa Xuân.
3. LƯƠNG VIÊN : là khu vườn nghỉ mát, hưởng nhàn, hưởng
lạc, của Lương Hiếu Vương Lưu Võ đời Tây Hán dựng
nên, còn có tên là Thố Viên 兔园, và tục danh là
Trúc Viên 竹园. Vườn rất lớn, chu vi hơn 300 dặm, tọa lạc
tại phía đông của Thương Khâu huyện, thuộc tỉnh Hà
Nam hiện nay. Trong vườn có Bách Linh Sơn, Lạc Viên Nham, Thê Long Tụ,
Nhạn Trì, Hạc Châu... Tòa ngang dãy dọc, kỳ hoa dị thảo, trân
cầm dị thú khắp nơi. Lương Hiếu Vương từng thiết tiệc
lớn nơi nầy, tất cả danh tài đương thời như Tư Mã
Tương Như... đều được mời đến, nhằm lúc mùa
xuân, hoa thơm cỏ biếc, tài tử giai nhân hội tụ, ngựa xe như
nước, áo quần như nen... Phồn hoa nhất thời không đâu sánh
kịp.
4. LOẠN PHI NHA : là Quạ đen
bay loan xạ cả.
5. CỰC MỤC : là
Mút tầm mắt.
6. ĐÌNH THỌ
: là Cây cỏ trong sân vườn.
XUẤT XỨ :
Bài thơ nầy
tả cảnh Sơn Phòng, biệt thự nghỉ mát ngày xưa của Lương
Hiếu Vương sau hơn 500 năm, vào đời Đường, sau 8 năm
chiến tranh loạn lạc của loạn An Lộc Sơn, dân cư sơ tán, cảnh
trí tiêu điều. Mùa thu năm Khai Nguyên thứ 29 ( 741 ), Sầm Tham từ
Khuông Thành dọn về Đại Lương. Mùa xuân năm sau, dạo
chơi ở Lương Viên và làm bài thơ nầy .... Ta hãy nghe
Sầm Tham kể lể đây...
DỊCH NGHĨA :
Quang Cảnh Mùa Xuân Ở SƠN PHÒNG.
Chiều xuống trên Lương Viên lũ quạ bay xao xác, hổn loạn.
Nhìn mút tầm mắt chỉ thấy xác xơ tiêu điều vài ba
căn nhà còn xót lại. Trong sân lá hoa cây cỏ không biết
người đà thất tán hết rồi, nên khi xuân đến lại
vẫn rực rỡ trổ những hoa xưa như những năm nào !
Thiên nhiên cây cỏ vẫn vô tình, không cảm nhận được
cái tang thương biến đổi của cuộc đời, tàn phá của
chiến tranh, ly tan của nhân thế, đào thải của thời gian .....
DIỄN NÔM :
CHUYỆN
XUÂN CỦA SƠN PHÒNG
Vườn Lương chiều xuống quạ nhởn nha ,
Hoang vắng tiêu điều mấy nóc gia.
Cây cỏ biết đâu người thất tán,
Xuân
về vẫn trổ bấy nhiêu hoa.!
Lục bát :
Lương Viên chiều xuống quạ bay,
Tiêu điều mấy nóc nhà ai hoang tàn,
Cỏ cây đâu biết ly tan,
Xuân về vẫn nở ngập tràn hoa xưa !
Đỗ Chiêu Đức.
Phương Hà
xin góp bài phỏng dịch
XUÂN NƠI NHÀ VƯỜN TRÊN NÚI
Chiều xuống Vườn Lương quạ
túa bay
Nhà hoang vài nóc ẩn đâu đây
Vô tình hoa nở khi xuân đến
Nào biết không ai ở chốn này
Vườn Lương quạ táo tác bay
Nhà hoang vài nóc lạc loài khuất
xa
Nào hay người đã rời xa bấy chầy.
Phương Hà phỏng
dịch
Mailoc xin góp bài phỏng dịch
XUÂN SƠN PHÒNG
(1)
Lương Viên huyên náo quạ chiều tà ,
Xa
tắp tiêu điều mấy nóc gia .
Cây
chẳng biết người đà tứ tán ,
Xuân về vẫn rực những bông hoa .
Mailoc
(2)
Chiều Lương Viên
quạ về huyên náo ,
Tít
mù xa mờ ảo mấy nhà .
Không
hay người đã đi xa ,
Cây
sân xuân đến đơm hoa như thường .
Mailoc phỏng dịch
_____________________________________________________________________________________
TẶNG BIỆT
Đỗ Chiêu Đức
" Ôi, Cái
cảnh biệt ly sao mà buồn vậy ! ". Câu nói trong " Quốc Văn
Giáo Khoa Thư " ngày xưa mới đơn giản nhưng thấm thía
làm sao ! Biệt ly là một trong Sanh Ly Tử Biệt, là đề tài muôn
thuở của nhân sinh, thi nhân từ ngàn xưa đến nay đều không
bỏ qua đề tài nầy, Đỗ Mục cũng không ngoại lệ, ta hãy
cùng đọc một bài Thất ngôn Tứ tuyệt tuyệt tác về
biệt ly của ông nhé !
贈別
TẶNG BIỆT
多情卻似總無情,
Đa tình khước tự tổng vô tình,
唯覺樽前笑不成。 Duy giác
tôn tiền tiếu bất thành.
蠟燭有心還惜別,
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
替人垂淚到天明。 Thế
nhân thùy lệ đáo thiên minh !
杜牧 Đỗ
Mục
XUẤT XỨ CỦA BÀI
THƠ :
Năm Đại Hòa thứ 9 ( khoảng năm 835 ) Đỗ Mục từ chức
vụ Hoài Nam Tiết Độ Sứ Chưởng Thư Ký thăng nhậm Giám
Sát Ngự Sử, nên phải rời Dương Châu về lại Trường
An. Đây là bài thơ TẶNG BIỆT ông làm để nói lên
cái tình quyến luyến của mình khi phải chia tay cùng một hồng
nhan tri kỷ là một cô ca kỷ xinh đẹp ở Dương Châu.
CHÚ THÍCH :
TẶNG BIỆT : hay Tống Biệt, Tiễn Biệt đều có nghĩa là Tiễn
Đưa, Đưa Tiễn một ai đó.
KHƯỚC
TỰ : Lại giống như, Ý chỉ một nghĩa ngược lại.
TIẾU BẤT THÀNH : là Không
cười nổi. Cười hổng nổi.
LẠP
CHÚC HỮU TÂM : Ngọn nến có tim. Cây đèn cầy cũng có
tim đèn cầy như tim của con người vậy.
TÍCH BIỆT : Thương tiếc cho nổi biệt
ly.
THẾ : là Thay.
Ta có từ kép Thay Thế.
THÙY LỆ : Chảy nước mắt. Rơi lệ.
NGHĨA BÀI THƠ :
Rất đa tình
mà lại phải làm như là rất vô tình vậy. Chỉ cảm
thấy rằng trước chén rượu chia tay thì không thể nào gượng
cười cho nổi. Ngay cả ngọn nến kia cũng có cái tim ở giữa
như con người, cho nên cũng tiếc thương cho nổi biệt ly mà thay
người nhỏ lệ thâu đêm suốt sáng !
Đọc 2 câu :
Đa tình khước tự tổng vô tình,
Duy
giác tôn tiền tiếu bất thành.
làm
ta nhớ đến một vế thơ trong bài " Giây Phút Chạnh Lòng
" của Thế Lữ :
Rồi
bỗng ngừng vui cùng lẵng lặng,
Nhìn nhau bình thản lúc ra đi,
Nhưng
trong khoảnh khắc ơ thờ ấy,
Thấy
cả muôn đời hận biệt ly !
và
... 2 câu :
Lạp
chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh !
Làm ta nhớ đến câu :
Lạp
cự thành hôi lệ thuỷ can.
( Lệ nến chảy tan hết thành tro thì lệ lòng mới cạn )
trong bài thơ VÔ ĐỀ thất ngôn bát cú
cuả Lý Thương Ẩn.
và ... câu thơ của Ngân Giang Nữ Sĩ thời
Tiền chiến là :
" Đêm nay lệ nến rơi thành chữ ! "
DIỄN NÔM :
TẶNG
BIỆT
Đa tình
lại tựa giống vô tình,
Trước rượu cười vui tiếng chẳng thành.
Nến
nọ có lòng nên cũng biết...
Thay người nhỏ lệ suốt năm canh !
Lục bát :
Đa tình phải giống vô tình,
Bồi hồi chén
tiễn lặng thinh nói cười.
Nến
kia cũng tựa như người,
Suốt đêm nhỏ lệ ngậm ngùi biệt ly !
Đỗ Chiêu Đức
KHIỂN HOÀI
Nhắc đến Đỗ Mục là người ta nghĩ ngay đến một chàng
thư sinh đẹp trai phóng đãng lạc phách giang hồ, xuất khẩu
thành thơ, phong lưu rất mực " văn chương nết đất, thông
minh tính trời ", hợp cùng với Lý Thương Ẩn ( Lý
Nghĩa Sơn ) thành một cặp LÝ ĐỖ tài hoa của buổi Tàn
Đường.ĐỖ MỤC
( 803-852 ), tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ, người đất Kinh
Triệu ( Tây An thiểm Tây ngày nay ). Ông là con của Đỗ
Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến
sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm
thứ 2.
Đỗ
Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời.
Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang
Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán
Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối
đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên
người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác
Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ
tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ đê phân
biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường.
Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ
ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là
Lý Bạch và Đỗ Phủ .
Nhân bài Diễu Đỗ
Mục của Thầy Chân Diện Mục Phan Huy Viên...
DIỄU ĐỖ
MỤC
Kẹp tay bầu rượu rong chơi,
Eo thon đùi đẹp ngất cười lẳng
lơ !
Mười năm vùi mộng vừa
chưa ?
Lừng danh chàng Sở thôi vừa
đi cha !!!
CDM
Sau đây
là một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt nổi tiếng của
ông với nội dung như Thầy CDM đã diễu :
遣懷
KHIỂN HOÀI
落魄江湖載酒行,
Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
楚腰纖細掌中輕.
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
十年一覺揚州夢,
Thập niên nhất giác Dương châu mộng,
贏得青樓薄倖名。 Doanh đắc
thanh lâu bạc hãnh danh !
杜牧
Đỗ Mục
CHÚ THÍCH :
KHIỂN HOÀI : Khiển là Điều
động, như Điều khiển,khiển dung. Khiển là Giải bày, Bày
tỏ. Hoài là Lòng dạ. Nên KHIỂN HOÀI là Bày tỏ nổi
lòng, là Giải bày tâm sự.
LẠC PHÁCH : là Sa cơ thất thế, là Lụn bại. Lạc Phách
Giang Hồ là Thất thểu, lang thang trong chốn giang hồ.
SỞ YÊU : Chỉ chung cái
eo rất thon rất nhỏ của phái nữ. Theo điển tích : Sở Linh Vương
rất thích những người đẹp có cái eo thon nhỏ, nên tất
cả cung nữ trong cung đều thắt eo và nhịn ăn cho có được
cái eo thon để được vua thương !
TIÊM TẾ : Nhỏ nhắn gọn gàng dễ thương.
CHƯỞNG TRUNG KHINH : Chưởng
là Lòng bàn tay. Chưởng Trung Khinh là Nhẹ nhàng trong lòng bàn
tay. Theo tích : Hoàng hậu của Hán Thành Đế là Triệu Phi Yến
có thân hình nhẹ như chim én, có thể ca múa ở trên lòng
bàn tay của lực sĩ.
DOANH
: là Thắng, là Lời, là Gặt hái được.
BẠC HÃNH : là Bạc tình, là
... Sở Khanh. Bạc Hãnh Lang là Chàng họ Sở !
NGHĨA BÀI THƠ :
GIẢI BÀY TÂM SỰ
Bất
đắc chí, lang thang lưu lạc giang hồ với một bầu rượu trong
tay. Ta lăn lóc trong đám người đẹp eo thon ẻo lả của
thanh lâu. Suốt mười năm trường thoáng qua như một giấc mộng
dài chìm đắm trong tửu sắc ở Dương Châu. Kết
cuộc, được gì đây ? Chỉ được tiếng là gã
bạc tình nổi tiếng nhất lầu xanh mà thôi !
Cảm khái thay lời tâm sự
của một thư sinh lạc phách ! Tự mình nhìn lại mình, tự
mình đánh giá mình, để thấy được sự tự
huỷ hoại mình trong ăn chơi trác táng khi bất đắc chí,
khi thất cơ lở vận ... cũng chẳng giải quyết được gì,
chỉ tổ làm cho mình càng trụy lạc chìm đắm hơn mà
thôi !
Câu
cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du
mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Kiều là ...
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
(
Một tay chôn biết mấy cành phù dung ! )
DIỄN NÔM :
KHIỂN HOÀI
Bầu rượu lang thang khắp lữ trình,
Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.
Mười
năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình !
Lục
bát :
Đắm
chìm tửu sắc lang thang,
Eo
thon mình én dạ càng ngẩn ngơ.
Dương
Châu giấc mộng ơ hờ,
Mười
năm được tiếng ai ngờ Sở Khanh !
Đỗ Chiêu Đức
DIỄU ĐỖ MỤC
Kẹp tay bầu rượu
rong chơi,
Eo thon đùi đẹp ngất cười
lẳng lơ !
Mười năm vùi mộng
vừa chưa ?
Lừng danh chàng Sở thôi
vừa đi cha !!!
CDM
BẠC TẦN HOÀI
Đỗ
Chiêu Đức
Nhân
nhắc đến cầu Chu Tước bắt ngang qua sông Tần Hoài để
đến Ô Y Hạng, làm ta lại nhớ đến con sông nên thơ luôn
phủ mờ sương khói : Sông Tần Hoài ! Kính mời tất cả
cùng đến thăm con sông nầy trong một lần ghé bến với
bài thơ " BẠC TẦN HOÀI " của chàng thi sĩ hào hoa phong
lưu lãng tử : Đỗ Mục.
泊秦淮
BẠC TẦN HOÀI
煙籠寒水月籠沙,
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
夜泊秦淮近酒家。
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
商女不知亡國恨,
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
隔江猶唱後庭花。
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.
杜牧
Đỗ Mục
Chú thích :
TẦN HOÀI 秦淮 :
Tức con sông Tần Hoài, bắt nguồn từ vùng đông bắc tỉnh
Giang Tô, chảy qua Nam Kinh rồi đổ vào sông Trường Giang. Tương
truyền do Tần Thuỷ Hoàng khi tuần du đất Cối Kê ở phương
nam, mới cho đào khúc sông nầy để nối dòng Hoài Thuỷ
cho chảy vào Trường Giang , nên mới có tên là TẦN HOÀI
từ đó.
LUNG 籠 : Có bộ Trúc ở phía trên, có nghĩa là Cái
Lồng. Nghĩa phát sinh là Bao trùm, phủ trùm. LUNG cũng có nghĩa
là Mông Lung, Mờ ảo.
BẠC 泊 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, có nghĩa là
Trôi nổi, như Phiêu Bạc. BẠC cũng có nghĩa là Ghé lại,
như Bạc Thuyền là Ghé thuyền lại.
THƯƠNG NỮ 商女 : Một
cách gọi riêng để chỉ các cô Ca Kỷ, Ca Nhi, các Ả Đào,
Kỷ Nữ.
HẬU
ĐÌNH HOA 後庭花 : Tức là nhạc khúc " Ngọc Thụ
Hậu Đình Hoa ". Trần Hậu Chủ, tên là Thúc Bảo, là
người hoang dâm xa xỉ, đắm chìm trong thanh sắc. Khi giặc đã
đánh tới cửa cung mà trong nầy nhà vua còn cho trổỉ khúc
Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa, nên khúc hát nầy được gọi
là " Vong Quốc Chi Âm 亡國之音 " ( Khúc Âm
nhạc mất nước ). Đối với đất nước, Trần Hậu Chủ
là một tội đồ vong quốc, nhưng trên văn đàn Ngài là
một nhà Từ ( Từ Gia 詞家 ) trác tuyệt.
NGHĨA BÀI THƠ :
ĐẬU BẾN TẦN HOÀI
Khói
sóng phủ mờ làn nước sông lạnh lẽo, và ánh trăng
mông lung phủ trùm cả baĩ cát mênh mông. Đêm ta ghé thuyền
đậu ở bến sông Tần Hoài gần cạnh các tửu lâu. Các
ả ca nhi kia đâu có biết được cái hờn vong quốc, cho nên
cách bờ sông bên kia còn cất cao giọng để hát khúc Hậu
Đình Hoa !
Tiếng là trách các ca nhi chỉ biết ca cho người mua vui, mà không
biết được cái hờn vong quốc của bài ca, kỳ thực là
Đỗ Mục đang chỉ trích châm biếm, trách cứ cái tầng
lớp phú quý đang vùi đầu ăn chơi sa đọa kia, không biết
rằng xã hội đang nhiễu nhương, loạn lạc cuả buổi Tàn
Đường, với các cuộc nôỉ dậy như của Huỳnh Sào
chẳng hạn .... Cũng như để diễn tả các cuộc ăn chơi trác
táng thâu đêm suốt sáng của các bậc vương hầu vua
chúa như trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
cũng đã viết :
Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác
Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa
DIỄN NÔM :
BẠC TẦN HOÀI
Khói mờ nước lạnh bóng trăng nhòa,
Đêm
ghé Tần Hoài cạnh tửu gia.
Ca
kỷ biết đâu hờn mất nước,
Cách sông
còn hát Hậu Đình Hoa !
Lục
bát :
Trăng
lồng khói sóng cát nhòa,
Tần
Hoài ghé bến tửu gia đêm trường.
Ca nhi nào biết chi hờn,
Bên
sông còn vẳng tiếng đờn Đình Hoa !
Đỗ
Chiêu Đức
Hai bên bờ sông Tần
Hoài của ngày nay.
Đỗ Chiêu
Đức
________________________________________________________________________________________________________
U CƯ -Vi Ứng Vật
Quý
tiện tuy dị đẳng,
Xuất môn giai hữu dinh.
Độc vô ngoại vật khiên,
Toại
thử u cư tình.
Vi vũ dạ lai quá,
Bất tri xuân thảo sinh.
Thanh sơn hốt dĩ thự,
Điểu tước nhiễu xá minh.
Thời
dữ đạo nhân ngẫu,
Hoặc tùy tiều giả
hành.
Tự đương an kiển liệt,
Thùy vị bạc thế vinh.
Chú
thích: Năm 779 tác giả Vi Ứng Vật đang làm huyện
lệnh huyện Hộ, bị đổi đi làm huyện lệnh huyện Lịch
Dương. Ông cáo bệnh không đi và từ quan luôn, ở ẩn.
Ông làm bài này trong giai đoạn đó.
--Dịch nghĩa: --
Ở ẩn
Quý phái và bần tiện
tuy hai đẳng cấp khác nhau,
nhưng đã ra khỏi
cửa đều phải mưu cầu dinh dưỡng.
Chỉ
mình ta không bị ngoại vật trói buộc,
nên
thỏa tình sống nơi vắng vẻ an nhàn.
Đêm
qua vừa có trận mưa phùn,
chẳng cần biết
cỏ xuân tươi tốt.
Nắng bỗng bừng trên
núi xanh,
chim chóc bay quanh nhà đua hót.
Đôi khi bạn cùng đạo sĩ,
hoặc
đi theo tiều phu [vào rừng].
Tự yên lòng làm
thân thấp kém;
[vì coi ] đạm bạc, vinh hoa trên
đời có là cái gì đâu.
--Bản dịch của Mai Lộc-
Ở Ần
Tuy khác
biệt nghèo hèn - sang trọng ,
Ra
khỏi nhà cái sống lo toan .
Riêng
ta ngoại vật chẳng màng ,
Sống
nơi thanh vắng an nhàn lòng ưa .
Đêm vừa qua cơn mưa lất phất ,
Đâu cần hay cỏ ngát xuân tươi
.
Núi xanh bỗng rực sáng ngời
,
Chim muông lảnh lót đến
chơi quanh nhà .
Có khi đến lân la đạo sĩ ,
Khi cùng tiều thủ thỉ rừng sâu .
Yên lòng thấp kém bản thân ,
Giàu sang-đạm bạc để tâm làm
gì ?
Mailoc
Đỗ Chiêu
Đức tham gia với các phần sau :
1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA
BÀI THƠ :
幽居
U CƯ
韋應物
Vi Ứng Vật
貴賤雖異等,
Quí tiện tuy dị đẳng,
出門皆有營。
Xuất môn giai hữu dinh.
獨無外物牽,
Độc vô ngoại vật khiên,
遂此幽居情!
Toại thử u cư tình !
微雨夜來過,
Vi vũ dạ lai quá,
不知春草生。
Bất tri xuân thảo sanh.
青山忽已曙,
Thanh sơn hốt dĩ thự,
鳥雀繞舍鳴。
Điểu tước nhiễu xá minh.
時與道人偶,
Thời dữ đạo nhân ngẫu,
或隨樵者行。
Hoặc tùy tiều giả hành.
自當安蹇劣,
Tự đương an kiển liệt,
誰謂薄世榮?!
Thùy vị bạc thế vinh ?!
Đôi dòng về tác giả :
VI ỨNG VẬT :( 737-792 ) Người đời
xưng là Vi Giang Châu hoặc Vi Tô Châu. Ông là thi nhân lớn của
những năm Đại Lịch đời Đường. Thơ của ông nổi
tiếng về tả phong cảnh và cảnh vật đồng quê, lời lẽ
đơn giản nhẹ nhàng mà hàm Ý sâu xa. Còn để lại
" VI TÔ CHÂU TẬP ".
韋應物
(公元737 - 約792),人稱韋江州或韋蘇州,唐代大歷時期大詩人。其詩以寫田園風物而著名,語言簡淡而意蘊深遠。有《韋蘇州集》。
2. CHÚ
THÍCH :
U CƯ : U là Thâm U , vắng vẻ. CƯ là
Ở. U CƯ : là ở nơi thanh tịnh vắng vẻ, chỉ Ở Ẩn.
DỊ ĐẲNG : DỊ là Khác, ĐẲNG là Đẳng Cấp. DỊ ĐẲNG
ở đây chỉ : Khác nhau về Giai Cấp xã hội.
DINH 營 : còn đọc là DOANH, là Kinh Doanh, là làm cái gì
đó để sinh sống.
KHIÊN 牽 : là Nắm, Níu,
Kéo, Dẫn, Dắt. Ở đây có nghĩa là : Bị Liên lụy, Dính
líu, vướng bận.
TOẠI : là Toại nguyện, là
Thỏa lòng.
THỰ 曙 : Trời Rựng Sáng. Sáng
ra.
ĐIỂU TƯỚC :
Điểu là Chim, Tước là Chim Sẻ, nên từ ĐIỂU TƯỚC
có nghĩa là CHIM CHÓC, chỉ chung các loài chim.
MINH
鳴 : Là chữ HỘI Ý : gồm bộ KHẨU và bộ ĐIỂU ghép
lại mà thành, lấy nghĩa Miệng của con chim, nên có nghĩa là
HÓT, KÊU.
NGẪU 偶: là Đôi, là Chẵn.
Như NGẪU SỐ là Số Chẵn. GIAI NGẪU là Tốt Đôi, Đẹp
Đôi. Trong câu có nghĩa là Làm Bạn.
KIỂN
LIỆT 蹇劣 : KIỂN là Què, Đi Cà nhắc. LIỆT : là Xấu,
Hư, Ác... như ÁC LIỆT là Xấu Xa. Nên KIỂN LIỆT là Què
quặc, Hèn kém, Tồi Tệ, là Dở ...Ẹt chẳng ra gì !
3. NGHĨA
BÀI THƠ :
Ở NƠI THANH VẮNG ( Ở ẨN )
Người đời mặc
dù phân biệt cao sang hèn hạ, nhưng tất cả đều phải bôn
ba với sinh kế của mình. Duy chỉ có mình ta là không bận bịu
với những vật ngoại thân, từ quan và sống thỏa mãn với
cuộc sống ẩn dật của mình ! Mặc cho đêm qua mưa gió đầy
trời và cũng không cần biết đến cỏ xuân đã trở
nên xanh mơn mởn. Núi xanh cũng vụt bừng lên trong nắng sớm, lủ
chim non líu lo ríu rít lượn quanh nhà. Cuộc sống thanh nhàn, đôi
khi ta làm bạn cùng các đạo sĩ trong núi, đôi khi lại chung
lối đi về với các tiều phu. Tự mình yên phận với cuộc
sống thấp hèn kém cỏi của mình, mà không màn đến
vinh hoa phú quí của cuộc đời bạc bẽo nầy ! Câu chót là
câu phản vấn : Ai bảo cuộc đời bạc bẽo nầy là Vinh hoa Phú
quí ?!
4. DIỄN NÔM :
U CƯ
Sang hèn tuy có khác,
Đều vất vả mưu sinh.
Chỉ ta không vướng bận,
Ẩn cư thỏa chút tình.
Đêm qua mưa rả rít,
Cỏ xuân mơn mởn xanh,
Núi đồi bừng nắng sớm,
Líu lo chim hót quanh.
Khi bạn cùng đạo sĩ,
Lúc về với tiều phu.
Yên thân sống hèn mọn,
Đời bạc, ngỡ vinh ư ?!
Lục bát :
Cho dù
quí tiện hèn sang,
Sinh nhai
đều phải lo toan suốt ngày.
Riêng ta chẳng chút đoái hoài,
Từ quan ở ẩn ngày rày yên thân !
Đêm qua chợt gió mưa xuân,
Cỏ non mơn mởn xanh um vươn dài.
Núi xanh bừng sáng nắng mai,
Chim non ríu rít lượn bay quanh nhà.
Khi cùng đạo sĩ la cà,
Khi cùng đốn củi xuyên qua núi đồi.
An nhiên cuộc sống thảnh thơi,
Ai rằng vinh hiễn, cuộc đời bạc đen ?!
Đỗ
Chiêu Đức
GIANG LÂU THƯ HOÀI -Triệu
Hỗ
Bản dịch: Quên Đi,
Phương Hà, Mailoc, Kim Phượng, Nguyễn Đắc Thằng, Đỗ Chiêu
Đức
Triệu Hỗ 趙嘏
(810-856) tự Thừa Hựu 承祐, sinh quán ở huyện Sơn Dương, thuộc
Sơn Ðông ngày nay. Tên ông cũng có khi đọc là Giả. Năm
mới 17 tuổi ông đã được cử làm Hương cống lên
cư ngụ Trường An. Ở đây ông kết du rộng rãi với các
văn nhân đương thời, thường chỉ suốt ngày "nghêu
ngao vui thú yên hà." Ông quen biết và đã từng thề thốt
nặng lời với một ca kỹ, nhưng nàng này lại bị Tiết độ
sứ của Chiết Tây cưỡng ép bắt đem về làm thiếp.
Vì thấy mình không thể đòi lại người ngọc nếu
chẳng có công danh, Triệu quyết chí đi thi. Năm 32 tuổi, ông đậu
tiến sĩ dưới triều Ðường Vũ Tông. Vừa mới biết mình
đậu, mặc dù chưa có chức phận gì lớn lao, ông đã
gởi ngay một bài tứ tuyệt "Toạ thượng hiến Nguyên tướng
công" cho viên Tiết độ sứ kia. Viên Tiết độ sứ kia chẳng
biết vì thẹn hay vì sợ, vội trả ngay người ngọc về cho
Triệu. Hai người gặp nhau ngay trên đường Triệu vinh quy, người
con gái khóc lóc thảm thiết rồi chết. Triệu mai táng nàng
ngay chỗ họ gặp lại nhau.
Đường
công danh của Triệu rất lận đận, mãi đến năm 42 tuổi,
tức là 10 năm sau khi thi đậu, mới được bổ làm một chức
quan nhỏ ở Vị Nam. Ông mất không lâu sau đó.
Có phải
vì hoài niệm người tình mà ông có bài thơ "Giang
Lâu Thư Hoài" này chăng?
江 樓 書 懷
Giang Lâu Thư Hoài
獨 上 江 樓 思 悄 然 Độc
thượng giang lâu tứ thiểu nhiên
月 光 如 水 水 如 天 Nguyệt quang như
thủy thủy như thiên
同 來
玩 月 人 何 在 Đồng lai ngoạn nguỵệt
nhân hà tại
風 景 依
稀 似 去 年 Phong cảnh y hi tự khứ niên
趙 嘏 Triệu
Hỗ
Dịch Nghĩa: Lầu Bên Sông Nhớ Viết
Một mình
lên lầu bên sông cảm thấy buồn man mác
Trăng trong sáng như màu nước, sắc nước như
màu trời
Người từng cùng ta đến đây ngắm trăng
giờ ở phương nao
Phong cảnh vẫn vắng vẻ như năm trước
Dịch
Thơ: Bên Sông Gợi Nhớ
Bến lạnh lầu sương buồn điệp
điệp
Mây trời sông nước
trắng màu trăng
Kề vai thưởng
nguyệt người đâu tá
Cảnh
cũ còn đây nỗi nhớ giăng
Quên Đi
CẢM HOÀI NƠI LẦU VẮNG BÊN SÔNG
Lầu
vắng bên sông, dạ thẫn thờ
Trăng
in trời nước một màu thơ
Chốn
xưa trăng cũ, người đâu tá
Quạnh quẽ, lầu nghiêng bóng đợi chờ.
Phương
Hà phỏng dịch
Giang Lâu Nỗi Nhớ
(1)
Thơ thẩn lầu sông luống
ngậm ngùi ,
Trăng trong như nước
, nước như trời .
Người xưa
cùng ngắm nay đâu tá ?
Cảnh
sắc như xưa chẳng đổi dời .
Mailoc
(2)
Thơ
thẩn lầu sông chân lê bước ,
Gương
trăng như nước , nước như trời .
Người xưa cùng ngắm đâu rồi ?
Cảnh y năm ngoái tơi bời nhớ thương .
Mailoc
Bên Sông Gợi Nhớ
Bến vắng lầu đơn đến
não lòng
Trời trăng tợ nước
nước màu trong
Hỡi người thưởng
nguyệt giờ đâu đã
Chốn
cũ riêng đầy nỗi quạnh mong
Kim Phượng
LẦU NHỚ
Lầu
vắng bên sông đứng lẻ loi
Trăng
soi màu nước, nước in trời
Người
cũ năm nào cùng thưởng nguyệt
Cảnh xưa vẫn vắng nhớ bồi hồi.
Nguyễn Đắc Thắng
20150402
Xin
được trình bày một dị bản nữa của bài " GIANG LẦU
THƯ HOÀI " là " GIANG LẦU HỮU CẢM " của nhà
thơ TRIỆU HỖ đời Đường như sau :
江樓有感
GIANG LÂU HỮU CẢM
獨上江樓思悄然,
Độc thướng giang lâu tứ tiểu nhiên,
月光如水水如天。
Nguyệt quang như thủy thủy như thiên.
同來玩月人何在,
Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại ?
秋景依稀似去年。
Thu cảnh y hi tự khứ niên !
趙嘏
Triệu Hỗ.
CHÚ THÍCH :
1. 江樓有感 GIANG LÂU HỮU CẢM : là Cảm xúc khi lên cái
lầu ở ven sông.
2. 江樓書懷 GIANG LÂU THƯ HOÀI
: Ghi lại hoài cảm khi lên lầu ở ven sông.
3. 上
đọc là THƯỢNG có nghĩa là TRÊN, đọc là THƯỚNG
thì có nghĩa là LÊN. Tương tự chữ 思 đọc là
TƯ có nghĩa là NGHĨ ĐẾN, đọc là TỨ có nghĩa là
sự NGHĨ NGỢI.
4. TIỄU NHIÊN 悄然 : là Một cách
Âm thầm, Lặng lẽ. Chữ TIỄU 悄 còn được đọc là
THIỄU, khi là Phó Từ thì 悄悄 TIỄU TIỄU có nghĩa là
Len lén.
5. Y HI 依稀 : là Mơ Hồ, là Văng Vẳng,
là Mường Tượng... là Hình Dung Từ vừa diễn tả Thị
Giác vừa diễn tả Thính Giác như trong câu :
Sanh ca uyển chuyển Tần Liên Tử,
Cựu khúc
y hi tối não nùng !
DỊCH
NGHĨA :
Lặng lẽ suy tư trong lúc lên lầu
ở ven sông có một thân một mình. Nhìn ánh trăng trong như
nước và nước cũng trong như màu trời. Chạnh lòng, nhớ
đến người cùng đến nơi nầy để ngắm cảnh năm
rồi, không biết bây giờ đang ở phương nao? Trong khi cảnh thu trước
mắt vẫn còn mơ hồ như hồi năm trước !
DIỄN NÔM :
GIANG LÂU HỮU CẢM
Một bóng lầu
cao luống ngậm ngùi,
Trăng trong như
nước nước như trời !
Nào
cùng ngắm cảnh người đâu tá ?
Thu cũ mơ hồ dạ chẳng nguôi !
Lục bát :
Một mình
lầu vắng ngẩn ngơ,
Trăng trong như nước nước
ngờ trời trong !
Đâu người
ngắm cảnh ven sông ?
Dáng thu phảng phất
cho lòng xót xa !!!
Đỗ
Chiêu Đức
TẢO THU SƠN CƯ- Ôn Đình Quân
Dịch / Phỏng dịch: Phạm Khắc Trí. Mailoc, Đỗ
Chiêu Đức, Phương Hà
Diệp
can văn lộc hành. Lá khô nghe nai đi. Những mong cùng nhau, mặc dù
đã bao nhiêu nước chảy qua cầu , đã bao nhiêu đổi thay
dâu biển , ta vẫn còn nghe được tiếng chân nai chạy trong khu rừng
xưa ngập lá thu khô, cho vui . Vâng , cho vui thôi. PKT 06/10/2014
Tảo Thu Sơn Cư
Ôn Đình Quân
(812 - 870)
Sơn cận giác hàn tảo
Thảo đường sương khí tình
Thụ điêu song hữu
nhật
Trì mãn thủy vô thanh
Quả lạc kiến viên quá
Diệp can văn lộc hành
Tố cầm cơ lự tĩnh
Không bạn
dạ tuyền thanh
Dịch Xuôi : Thu Sớm
Ở Núi
PKT 06/10/2014
Ở gần
núi nên biết được lạnh sớm
Nhà cỏ đầy khí
sương lành, thông thoáng dưới trời quang
Cây già trơ
lá ,nắng hong , lấp lánh ngoài song cửa
Mặt ao đầy nước,
êm ả , long lanh
Quả cây rụng thấy bóng vượn qua
Lá
vàng khô nghe chân nai đi
Ôm tố cầm mà lòng nghe nhẹ
nhõm
Đêm đêm bạn cùng với tiếng nước suối chảy,
mà vui
Thu Sớm Ở Núi
PKT
06/10/2014
Cận núi, lạnh về sớm
Nhà gianh đầy khí lành
Cây già nắng lấp lánh
Ao lặng nước long lanh
Quả rụng khô chờ vượn
Lá
rơi vàng đón nai
Ôm đàn lòng nhẹ nhõm
Tiếng suối đêm, riêng ai .
Chú
Thích : Chuyện kể , cuối đời nhà Tấn , Đào Tiềm
(365 - 427) , tác giả bài Qui Khứ Lai Từ (Ta Về Đi Thôi) , ra làm
quan được mấy ngày , bỏ về làm ruộng , vì không chịu
nổi cảnh luồn cúi chốn quan trường. Khi rượu say , tiên sinh thường
lấy tay vỗ vào tố cầm , một cây đàn không dây ,mà
ca hát nghêu ngao. (Trích dẫn : Đường Thi Trích Dịch - Đỗ
Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản ).PKT 06/09/2014
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
THU SỚM
TRONG NÚI
(1)
Trong rừng
núi đã nghe lạnh sớm ,
Túp lều tranh , thu chớm ,mờ
sương .
Ngoài song
lá úa nắng vương ,
Ao đầy tĩnh lặng , khói
dường như mây .
Hoa trái rụng chuyền cây vượn
hú ,
Lá xạc xào
một lũ hươu nai .
Gảy đàn thanh thoát lòng ai ,
Bạn cùng suối
nước đêm nay một mình .
Mailoc
(2)
Rừng núi
lạnh heo may ,
Lều
tranh sương khói bay .
Lá úa
ngoài song nắng ,
Ao lặng
nước dâng đầy .
Vượn về , hoa trái rụng
,
Xào xạc bước
hươu nai .
Gảy đàn
lòng yên tĩnh ,
Suối
nước bạn đêm nay
Mailoc
ỗ
Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. Sơ Lược về tiểu sử tác giả :
ÔN ĐÌNH
QUÂN ( 812-870 ) Thi nhân đời Tàn Đường, tên là KỲ, tự
là Phi Khanh, người đất KỲ, Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây
ngày nay, là cháu nội của Ôn Ngạn Bác. Ôn Đình Quân
thông minh dĩnh ngộ, rất có thiên tài, nên rất Ỷ thị vào
tài năng của mình, lại sống phóng túng buông thả, thường
châm chích giới quyền quí, đắc tội cả đến Tể Tướng
Lệnh Hồ Đào. Vì thế mà đi thi mãi vẫn không đỗ
Tiến Sĩ, suốt đời bất đắc chí. Chỉ giữ các chức
quan nhỏ như Huyện ÚY, Thành ÚY ( 859-866 ) mà thôi. Ôn rất
giỏi thơ, được người đời xếp ngang hàng với LÝ
THƯƠNG ẨN, lại rất giỏi từ và tinh thông âm luật. Nổi
tiếng với " HOA GIAN TẬP ",là tập từ có ảnh hưởng rất
lớn tới đời sau.
2. Bản chữ Hán cổ của bài
thơ :
早秋山居
TẢO THU SƠN CƯ
山近覺寒早,
Sơn cận giác hàn tảo,
草堂霜氣晴。
Thảo đường sương khí tình.
樹凋窗有日,
Thọ điêu song hữu nhật,
池滿水無聲。
Trì mãn thủy vô thinh.
果落見猿過,
Quả lạc kiến viên quá,
葉幹聞鹿行。
Diệp can văn lộc hành.
素琴機慮靜,
Tố cầm cơ lự tịnh,
空伴夜泉清。
Không bạn dạ tuyền thanh.
溫庭筠
Ôn Đình Quân.
3. NGHĨA BÀI THƠ :
Ở gần núi cho nên có cảm giác là cái lạnh của mùa
thu tới sớm, trong gian nhà cỏ sương thu báo cho biết là trời
sẽ nắng ráo, cây đã bắt đầu tàn úa, trong cảnh mặt
trời lắp ló ngoài song cửa, ao thu đầy nước yên ắng không
một tiếng động. Nên ngoài kia trái thu chín rụng thấp thoáng
thấy bóng vượn đi qua. Lá khô rơi đầy nên nghe tiếng
bước chân nai xào xạc. Trong cảnh yên tĩnh với rừng núi
thâm u nầy, đêm đêm tiếng tố cầm hòa lẫn với tiếng
suối reo tạo thành một âm thanh trong trẻo bàng bạc hơi thu !
Đọc
bài thơ nầy, làm ta nhớ đến...
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp lên lá vàng khô !
của
LƯU TRỌNG LƯ thời Tiền Chiến.
4. DIỄN NÔM :
Gần núi hơi thu lạnh,
Nhà cỏ sương phủ mờ.
Cây úa song vương nắng,
Ao thu nước lửng lờ.
Vượn nhặt trái thu rụng,
Nai đạp lá vàng khô.
Tố cầm hòa tiếng suối,
Đêm thanh vắng nên thơ !
Lục
Bát :
Núi
gần nghe lạnh sớm thu,
Một gian nhà cỏ mịt mù hơi sương.
Cây vàng nắng úa vương vương,
Ao thu lạnh lẽo nước trương lửng lờ.
Bóng vượn lượm trái ngẩn ngơ,
Nai vàng xào xạc đạp bờ lá khô.
Tố cầm lẫn tiếng suối mơ,
Trong đêm thanh vắng mịt mờ tiếng thu !
Đỗ Chiêu Đức.
THU SỚM
Núi rừng báo sớm tiết thu sang
Nhà cỏ, hơi sương đón nắng
vàng
Cây úa, trời trong vương
ánh nhạt
Ao đầy, nước lặng
chẳng âm vang
Nhẹ nhàng vượn
đến gom chùm rụng
Xào xạc
nai đi đạp lá tàn
Thánh thót
suối reo hòa tiếng nhạc
Hơi thu
bàng bạc khắp không gian.
Phương Hà
______________________________________________________________________________
Độ Tang Càn
Lại tiễn biệt, lại chia tay, nhưng không phải
với người, cũng không phải với vật, mà là với ĐẤT,
Đất là Đất Nước nơi mà ta đang cư trú, là Quê
Hương, nơi chôn nhau cắt rốn, Quê Hương thứ hai, thứ ba... Nơi
đã bảo bọc ta trong cuộc sống lưu vong xa rời Quê Cha Đất
Tổ...
Xin kính mời tất cả cùng đọc và cùng dịch để
thắm thía hơn nỗi niềm xa xứ với bài thơ sau đây :
渡桑乾
Độ Tang Càn
客舍併州已十霜, Khách xá Tinh Châu dĩ thập
sương,
歸心日夜憶咸陽。
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương.
無端更渡桑乾水, Vô đoan cánh
độ Tang Càn Thủy,
卻望并州是故鄉。
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương !
賈 島
Giả Đảo
Chú Thích :
1. Khách Xá : là Ở nơi đất khách. Xá : là chỗ
trọ, là nhà ở.
2. Thập
Sương : Mười mùa sương giáng. Mỗi năm chỉ có một
mùa sương giáng. Thập sương là mười năm.
3. Ức : là Nhớ. Hồi ức là Nhớ
lại.
4. Vô Đoan : là Khi
khổng khi không. là Tình cờ , là chuyện đến mà không
có dự tính trước, ta nói là Bỗng Dưng.
5. Khước ; là Lại ,là Phó từ bổ nghĩa
cho Động từ đi sau nó. Khước vọng : là Lại nhìn, lại
ngắm.
Dịch nghĩa :
Qua sông TANG CÀN.
Ở trọ nơi đất khách là xứ Tinh Châu nầy đã mười
năm nay, nhưng trong lòng ngày đêm luôn luôn nhớ về quê cũ
là xứ Hàm Dương. Hôm nay, tình cờ lại phải đi qua sông
Tang Càn để rời xa xứ Tinh Châu, thì lại cảm thấy quyến
luyến nơi nầy, mặc dù thuyền đi đã xa rồi, nhưng vẫn
còn trông ngóng về phía Tinh Châu như là trông ngóng về
phía cố hương vậy !
Diễn nôm :
Tinh Châu đất khách mười
năm trường,
Lòng vẫn nhớ về đất Hàm Dương.
Tang Càn nay lại sang sông nữa,
Trông ngóng Tinh Châu ngỡ cố
hương !
Lục bát :
Mười năm quán khách Tinh Châu,
Lòng quê thường vẫn
nhớ sầu Hàm Dương.
Tang Càn qua bến vấn vương,
Rời Tinh Châu ngỡ Hàm Dương
dạo nào !
Cảm tác qua thực tế của cuộc sống định cư
trên đất MỸ :
Đất khách Ca-li mấy chục sương,
Việt Nam không lúc chẳng nhớ thương
!
Nay lại di cư qua Tết xát
( TAXAS ),
Rời Ca-li ngỡ rời
cố hương !!!
Đỗ Chiêu Đức.
Nhà thơ GIẢ
ĐẢO ( 779- 843 ).
GIẢ ĐẢO
( 779-843 ) , một thi nhân thuộc xu hướng Quái Đản đời Đường,
Tự là Lãng Tiên, người đất Phạm Dương ( cạnh Bắc
Kinh hiện nay ). Đã từng đi tu làm hòa thượng với pháp
hiệu Vô Bổn, sau nghe lời Hàn Dũ hoàn tục, tham gia khoa cử, nhưng
thi mãi vẫn không đậu. Được Hàn cất nhắc làm Chủ
Bộ Trường Giang đời Huyền Tôn, năm Khai Thành thứ 5 làm Tham
Quân ở Phổ Châu. Mất năm Hội Xương thứ 3 đời vua Võ
Tôn. Thọ 65 tuổi.
Tương truyền khi làm bài thơ Đề Lý
Ngưng U Cư, khi viết đến 2 câu :
Điểu túc trì biên thọ 鳥宿池邊樹
Tăng XAO nguyệt
hạ môn 僧敲月下門
ông đã lưỡng lự
mãi là không biết nên dùng từ " XAO " 敲 hay từ "
THÔI " 推 cho câu thơ trên, vì... " Tăng XAO nguyệt hạ môn
" là : Nhà sư GÕ cửa dưới ánh trăng, còn... " Tăng
THÔI nguyệt hạ môn " là : Nhà sư ĐẨY cửa dưới
ánh trăng,
Sự thật thì " THÔI " hay " XAO " gì thì
câu thơ trên vẫn hay, vẫn gợi hình và thi vị như thường,
nhưng Giả Đảo lại cứ đắn đo mãi, không biết phải
chọn chữ nào, ngồi trên lưng lừa mà cứ do dự mãi, không
biết nên hạ chữ nào đây, nên tay phải làm động tác
GÕ cửa, và tay trái cứ làm động tác ĐẨY cửa. Mãi
lo ra, đến nỗi con lừa xuýt chút nữa thì đâm vào đầu
ngựa của Hàn Dũ. Bị quân hầu níu lại, Hàn Dũ hỏi
rõ nguồn cơn, mới cả cười và khuyên ông nên chọn từ
XAO cho câu thơ trên.
Vì điển tích nầy mà thành ngữ TQ
có câu Hà Tất THÔI XAO 何必推敲, nghĩa là : " Sao
lại phải Thôi Xao như thế ! " Câu nầy có nghĩa là : "
Sao lại phải ĐẺO GỌT lời văn như thế ". Thường để
chỉ những người ĐẺO GỌT lời văn quá đáng, thì
người TQ sử dụng Thành ngữ trên.
Giả Đảo còm nổi
tiếng khổ ngâm ( Rất khổ sở trong việc làm thơ ngâm thơ )
với bài thơ Tứ Tuyệt sau đây :
Nhị cú tam niên đắc, 二句三年得,
Nhất ngâm song lệ
lưu . 一吟双淚流.
Tri âm như bất thưởng , 知音如不賞,
Qui ngọa cố sơn
thu. 歸卧故山秋.
Có nghĩa :
Ba năm được hai câu,
Ngâm xong lệ
tuôn trào.
Tri âm không thưởng thức,
Về núi tự nghe sầu !
Gò gẫm, mò mẫm
suốt 3 năm trời mới làm được có 2 câu thơ mà thôi,
bỏ công khổ sở là thế, nên khi ngâm lên xúc động
đến tuôn rơi hai hàng lệ. Thế mà kẻ tri âm còn không
biết thưởng thức còn cho là chưa hay, thôi thì, chỉ có
nước là về lại núi sâu mà nằm buồn khóc một mình
thương cho mùa thu héo hắt ! Ôi ! Sao có người lại khổ
sở vì làm thơ đến như thế ! Quả không hổ danh là
phái QUÁI ĐẢN của thời Trung Đường !
Sẽ viết về
Phái QUÁI ĐẢN trong những bài tới !
Đỗ Chiêu Đức.
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh
Chiêu Đức, Thầy và các bạn:
NHỚ CỐ HƯƠNG
Sống
nơi xứ Tịnh đã mười năm
Lòng vẫn đinh ninh nhớ dất Hàm
Nay sắp sang sông rời đất Tịnh
Bùi ngùi như phải biệt quê hương
!
Lục bát :
Mười năm đất Tịnh, mãi còn
Nhớ về quê cũ Hàm Dương ngậm ngùi
Nay xa Tịnh, lại bồi hồi
Lòng đau như phải xa rời cố hương.
Phương
Hà
Xin được góp mặt để thay lời cám ơn anh
Chiêu Đức đã cho đọc Độ Tang Càn của Giả Đảo
và như thường lệ kèm theo bản dịch rất sát nghĩa của
anh. Cầu chúc quí anh chị em mọi điều lành.
PKT
05/20/2014
Độ Tang Càn
(Mây
Tần - PKT)
Quán khách mười năm những gió sương ,
Tinh Châu sớm tối nhớ Hàm Dương .
Tang Càn, qua bến , quay nhìn lại ,
Bỗng ngộ Tinh Châu là cố hương.
Phụ
Chú :
Bài Độ Tang Càn của
Giả Đảo tôi đã thử chuyển dịch nhiều lần nhưng đều
không được vừa ý nên đành bỏ cuộc vì cho rằng
không nói lên được " khoảnh khắc Tang Càn" của nguyên
tác.
Cho đến tận bây giờ
, thú nhận là đôi lúc tôi vẫn còn muốn tự hỏi :
"Tang Càn nước chảy xuôi hay ngược / Đất khách sao giờ
là cố hương ?". Và, có lẽ vì thế , giải thích được
phần nào , tại sao tôi lại thấy thích khi đọc mấy câu lục
bát của Phương Hà. Lời lẽ nhẹ nhàng , quê cũ đất
mới , tình ý trước sau thuần hậu.
PKT 05/20/2014
BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH
Để nối tiếp cho dòng
thơ tiễn biệt của " Mùa Chia Tay ", xin lại được giới
thiệu đến Quí Thầy Cô, Quí Đồng Môn Thân Hữu, Quí
em học sinh thân mến bài thơ BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH của
nhà thơ Nhung Dục 戎昱 đời Đường, bài thơ nầy
còn có một tựa nữa là : " Di Gia Biệt Hồ Thượng Đình
" 移家别湖上亭. 移家别湖上亭
DI GIA BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH
好是春风湖上亭,Hảo thị
xuân phong hồ thượng đình,
柳条藤蔓系离情。Liễu
điều đằng mạn hệ ly tình.
黄莺久住浑相识,Hoàng
oanh cữu trú hồn tương thức.
欲别频啼四五声。Dục
biệt tần đề tứ ngũ thinh.
戎昱 Nhung Dục.
CHÚ THÍCH :
DI GIA : là Dời nhà, dọn nhà, đổi chỗ ở.
BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH : Chia
tay với cái đình ở trên hồ.
ĐẰNG MẠN : là dây leo, dây chùm gởi.
HỆ : là Trói, buộc, ràng buộc.
HỒN 浑 : HỒN có 3 chấm Thủy, nghĩa gốc
là NƯỚC ĐỤC. Nghĩa bóng là ĐẦN ĐỘN. Ở đây
HỒN là TRẠNG TỪ nên có nghĩa là : Rất, cả thảy.
HỒN TƯƠNG THỨC : Rất là quen biết nhau.
TẦN 频 : là Thường, là
Liên Tục. TẦN ĐỀ : Hót liên tục.
DỊCH NGHĨA :
Dời nhà nên đến từ biệt với cái đình ở
trên hồ. GIẢ BIỆT ĐÌNH TRÊN HỒ.
Đẹp thay, mát thay gió xuân hây hẩy
trong cái đình ở trên hồ, nhưng, những cành tơ liễu thướt
tha quấn quít bay theo gió quyện với những sợi dây leo chùm gởi
vươn dài như nuốn nắm níu cái cảnh tình ly biệt, cả
chim hoàng oanh trên cành cũng thế, trước lúc biệt ly như còn
lưu luyến mà hót lên bốn năm tiếng dài não nuột !
Tất cả đều được tác giả sử dụng thủ pháp
Nhân Cách Hóa một cách tài tình. Cái đình trên hồ,
những cành liễu thướt tha, những dây leo vươn dài và tiếng
hót của chim hoàng oanh... tất cả đều như có tâm hồn, có
cảm tình lưu luyến như không muốn chia tay, như còn muốn nắm
níu, bịn rịn không nở xa rời ! Cảnh vật còn như thế,
huống chi con người !
DIỄN NÔM
:
Gió xuân hây hẩy
trước hồ đình,
Cành
liễu dây leo buộc lấy tình.
Oanh vàng quen biết nên ly biệt,
Hót liền mấy tiếng đoạn làm thinh !
Lục bát :
Đình hồ hây hẩy gió xuân,
Thướt tha nhành liễu buộc tình dây leo.
Chim oanh như cũng sầu theo,
Chia tay hót tiếng buồn meo cả lòng !
Đỗ Chiêu Đức.
Phương
Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh Chiêu Đức, Thầy
và các bạn:
Thơ Đường
Luật:
GIÃ BIỆT
Trước đình, hây hẩy gió xuân qua
Soi bóng trên hồ, liễu thướt tha
Buồn cảnh biệt ly, oanh cất tiếng
Ngân dài não nuột khúc chia xa.
Thơ lục bát:
GIÃ BIỆT
Trước đình
hây hẩy gió xuân
Bên hồ dây
quấn, liễu buông một màu
Chim oanh
cảm nỗi buồn đau
Ngân dài tiếng
hót khúc sầu biệt ly
Phương Hà
Mailoc xin tham gia bài dịch cùng Chiêu Đức và các ban , tìm
một chút vui chiều Chủ nhật.
Thân
kính
ML
Giả Biệt Đình Trên Hồ
Vờn đình hồ gió xuân hay hẩy ,
Liễu , dây leo , quấn lấy cành nhau .
Hoàng Oanh thân thiết từ lâu ,
Hót năm ba tiếng rầu rầu biệt ly .
Mailoc phỏng dịch
TÚC HOA ÂM
TỰ
Nguyên tác:
Nguyễn Trung Ngạn
Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Phương
Hà, Đỗ Chiêu Đức, Quên Đi, Kim Oanh, Kim Phượng, Song Quang
Cùng Ban,
Xin chuyển đến bạn
thơ ,một bài thơ của Nguyễn trung Ngạn , một bài thơ mang sắc
thái thiền khiến lòng tôi vô cùng cảm khái .
Nguyễn
trung Ngạn ( 1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người
làng Thổ Hoàng , huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên .Năm 16 tuổi đỗ
Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn ( cùng khoá với Mạc đỉnh
Chi ) , làm quan tới chức Đại Hành Khiển Tước Thân Quốc
Công , thọ 82 tuổi .
Thân kính
Mailoc
Túc
Hoa Âm tự
( Nguyễn trung Ngạn )
宿花陰寺
偶徬招提宿,
僧留半榻分。
石泉朝汲水,
紙帳夜眠雲。
松子臨窗墜,
猿聲隔岸聞。
粥魚敲夢醒,
花雨落繽紛。
Túc Hoa Âm tự
Ngẫu bạng chiêu đề túc,
Tăng lưu bán tháp
phân.
Thạch tuyền triêu cấp thuỷ,
Chỉ trướng dạ miên
vân.
Tùng tử lâm song truỵ,
Viên thanh cách ngạn văn.
Chúc ngư sao mộng tỉnh,
Hoa vũ lạc tân phân.
Dịch Nghĩa :
Ngẫu nhiên vào ngủ đêm trong chùa
Sư dành cho nửa giường
Sáng ra đi múc nước ở
suối đá ,
Đêm ngủ với mây trong trướng giấy .
Qủa thông rụng trước cửa sổ ,
Tiếng vượn bên kia sông
.
Mõ chùa khua tỉnh giấc mộng ,
Mưa hoa rơi xuống tơi bời
.
--Bản dịch của Mailoc—
Trọ
tại chùa Hoa Âm
Ghé trọ chùa tình cờ đêm
tối
Sư nhượng cho nửa gối chăn giường .
Sáng ra múc
nước suối nguồn
Đêm về trong trướng mây vương ngủ
vùi .
Ngoài song cửa thong rơi một trái
Vượn gọi bầy
vẳng lại bên sông .
Mõ chùa lay tỉnh giấc nồng
Từ
đâu tan tác mưa bông rợp trời
Mailoc
GHÉ NGỦ CHÙA
Ngẫu
nhiên ngủ nhờ chùa vắng
Sư
nhường nửa chõng tre nằm
Sáng
ra múc nước suối đá
Đêm
nằm mượn mây thay màn
Trái tùng vào song cũng thích
Vượn kêu bờ suối inh vang
Sáng ra giật mình tỉnh mộng
Quanh
mình mưa bụi mênh mang
C.D.M.
TRỌ ĐÊM TẠI CHÙA
Ngẫu nhiên được trọ lại trong chùa
Chia với sư già chiếc chõng thưa
Nước suối trong veo khua thỏa thích
Phòng mây ấm áp ngủ say sưa
Thông rơi lộp độp ngoài song cửa
Vượn hót véo von cách khoảng bờ
Tiếng mõ vang đều xua giấc mộng
Rào rào hoa rụng xuống như mưa.
Phương Hà (Lộc Mai)
ĐÊM TRỌ CHÙA
HOA ÂM
Tình cờ tá túc Hoa Âm,
Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
Nước trong suối đá êm êm,
Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
Đỗ Chiêu Đức.
Ở Lại Chùa Hoa Âm
Ở lại
chùa đêm xuống
Nửa giường sư nhượng ta
Nước
ngoài khe sáng lấy
Mây dỗ giấc mơ qua
Trong cửa nhìn thông
rụng
Vượn kêu vẳng suối xa
Chày kình vang tỉnh mộng
Lất phất trận mưa hoa
Quên Đi
Hoa Âm Tự Qua Đêm
Hữu duyên tạm trú chùa Hoa Âm
Nhường lại sư chia đôi
chỗ nằm
Nguồn suối tinh mơ chờ lấy nước
Màn mây
tối ủ giấc mơ Nam
Ngoài song thông quả đang rơi rụng
Bờ nọ vẳng xa tiếng vượn thầm
Chày dọng lay lay choàng
giấc điệp
Mưa hoa lất phất gió căm căm.
Kim Phượng
Lạc Vào Chùa Hoa Âm
Tình cờ
lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo
suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song
tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Đánh
thức tiếng mỏ tụng kinh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
QUA ĐÊM CHÙA HOA ÂM
Tình cờ ngủ trọ chùa khi đêm xuống
Nửa chiếc giường sư cụ nhượng
cho nằm
Sáng múc
nước suối chảy luồn kẻ đá
Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn
@ @ @
Bên song cửa thông rơi vương vài
quả
Vượn
gọi bầy vang vọng cả ven sông
Tiếng chuông mõ trong chùa khua tỉnh mộng
Giọt mưa rơi làm rụng mấy
cành bông
SONG QUANG
THÍNH VŨ
Nguyễn Trãi
Bản dịch: Đào Duy Anh, Mailoc, Quên Đi, Chân
Diện Mục, Lộc Mai, Đỗ Chiêu Đức, Song Quang
Cùng Bạn ,
Cả năm nay Cali lâm vào tình trạng khô hạn dữ
dội , khiến Thống Đốc Tiểu Bang Cali phải lên tiếng báo
động . Các đài truyền thanh truyền hình Mỹ Việt đều
nhắc nhở người dân tiết kiêm nước hằng ngày . Cá
nhân tôi cũng vô cùng lo âu khi nhìn thấy vẽ tiêu điều
của màu xanh cỏ cây dọc các free way . Nhưng hai hôm nay thời may cơn
bão mùa đông -xuân từ tây bắc tràn về đem những trận
mưa nước dồi dào cho các hồ chứa nơi đây ,những
mong các cánh dồng cây trái rau qủa Cali sẽ tốt tươi như
mọi khi , xin các bạn chia sẻ .
Đêm qua Cali mưa suốt đêm , tôi nhớ những đêm
mưa ở quê nhà mà lòng bùi ngùi khôn tả . Xin gởi đến
các bạn bài thơ của cụ Nguyễn Trãi .đoc giải khuây đôi
phút . Cám ơn .
Thân kính
Mailoc
Thính vũ
Nguyên tác:
Nguyễn Trãi
聽雨
阮廌
寂寞幽齋裏,
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。
Thính vũ
Nguyễn
Trãi
Tịch
mịch u trai lý,
Chung
tiêu thính vũ thanh.
Tiêu
hao kinh khách chẩm!
Điểm
trích sổ tàn canh.
Cách
trúc xao song mật,
Hoà
chung nhập mộng thanh.
Ngâm
dư hồn bất mị,
Đoạn
tục đáo thiên minh.
Dịch nghĩa:
Nghe mưa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe mưa rơi.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh
thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa
sổ,
Lẫn
tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi mà vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối
cho đến trời bình minh.
Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh(1)
Vò võ
trai phòng vắng,
Suốt
đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng rung gối khách,
Thánh thót mấy canh dư.
Cách trúc khua song nhặt,
Hoà chuông động giấc mơ.
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Đứt nối đến tờ mờ.
(1)Trong Nguyễn Trãi toàn tập, phần Ức
Trai thi tập
--Bản dịch
của MaiLộc –
Đêm tối tăm trai phòng
lặng lẽ
Suốt đêm trường mưa mãi không ngưng .
Não nùng gối khách run run ,
Giọt mưa tí tách
lạnh lùng năm canh .
Tiếng lào xào trúc cành
chạm cửa ,
Chuông ngân nga lạc giữa mơ mòng
.
Ngâm thơ không dỗ giấc nồng ,
Chập
chờn đứt nối, vừng hồng sáng ra .
Mailoc phỏng dịch
Nghe Mưa
Lạnh lẽo phòng
im vắng
Đêm trường mưa gió lay
Xuyến xao choàng tỉnh
giấc
Rỉ rả suốt canh chày
Ngoài cửa tre xào xạc
Vào mơ chuông vọng dài
Ngâm nga tìm giấc ngủ
Trằn
trọc đã sang ngày
Quên Đi
MƯA , TIẾNG CHUÔNG VÀ MỘNG
Thư phòng ngồi nhìn đêm tối
Não
người thánh thót mưa rơi
Trăn trở
tiếng vọng bên gối
Tàn canh lòng vẫn
bồi hồi
Ngoài song lao xao cành trúc
Chuông chùa theo mộng mơ trôi
Thơ ngâm hồn say khôn ngủ
Chập
chờn trời sáng lại rồi
C.D.M.
Lộc Mai xin góp bài phỏng dịch
cùng Thầy và các bạn:
NGHE
TIẾNG MƯA ĐÊM
Một
mình lặng lẽ giữa màn đêm
Nghe tiếng mưa rơi trước mái thềm
Thê thiết, não nùng run gối khách
Lạnh lùng, giá buốt gợi sầu riêng
Xạc xào ngọn trúc khua song cửa
Văng vẳng hồi chuông lắng nỗi niềm
Trằn trọc năm canh không chợp mắt
Thơ ngâm càng khiến não lòng thêm.
Lộc Mai (Phỏng dịch)
Đỗ Chiêu Đức xin được góp Ý với
các phần sau đây :
1.
NGHĨA TỪ :
Trước tiên, xin được
Lạm Bàn về cái tựa đề " THÍNH VŨ 聽雨 ", mà ai cũng biết
là NGHE MƯA. Nhưng, ở đây, theo tôi, phải hiểu là " LẮNG
Nghe Mưa ". Xin được chiết tự chữ THÍNH 聽 nghe chơi cho vui như sau :
Chữ THÍNH 聽, bên trái là chữ NHĨ
là TAI, phía dưới là chữ THỦ ( được viết cách
điệu ) là TAY. Bên phải là THẬP MỤC ( chữ MỤC được
viết ngang ) là Mười con Mắt, là chăm chú NHÌN, phía dưới
là NHẤT TÂM, là Một Lòng Một Dạ. Vậy, THÍNH là gì
?!...
THÍNH là...
Chống TAY lên TAI, MẮT nhìn chăm chú và lắng lòng mà NGHE...
cái gì đó ! THÍNH là Listen chứ không phải là Hear.
Đêm mưa tầm tả, dai dẳng,
không ngủ được, nên cụ NGUYỄN TRÃI nhà ta đã NGHE
hết những tiếng động của ĐÊM MƯA, nên...
... Tựa đề THÍNH
VŨ là LẮNG NGHE MƯA, còn muốn nói cho văn vẻ hơn là : "
LẮNG TIẾNG MƯA RƠI ! "
Bây giờ thì lại LẠM
BÀN về chữ NGÂM của câu số 7 nhé ! Đêm mưa tầm tả
rả rít, buồn muốn thúi ruột, thì... lấy HỨNG ở đâu
mà NGÂM THƠ ?! Nên, tôi nghĩ, chữ ngâm ở đây là TRẦM
NGÂM 沈吟
là Chìm trong sự yên lặng kéo dài... NGÂM DƯ là Trầm
Ngâm mãi.... Nghĩa câu số 7 : " Ngâm dư hồn bất tẫm "
là : Trầm ngâm mãi mà hầu như ( hồn ) không ngủ được
!
Đến như câu cuối, hai chữ ĐOẠN TỤC 斷續 là " Đứt Nối
", như " ĐOẠN TỤC CAO " trong truyện võ hiệp của Kim Dung là
: Thuốc dán chuyên dùng để nối xương bị gãy cho nó
lành lại... Còn ở đây chỉ " Cơn Mưa Đêm "... Mưa
một lúc, dừng rồi lại mưa, mưa rồi lại dừng, lại mưa...
là " Mưa Dai Dẵng suốt đêm ", chứ ta đâu có thói
quen nói là " Mưa ĐỨT NỐI suốt đêm " đâu !...
Trên đây, chỉ
là Ý kiến riêng, LẠM BÀN cho vui của Đỗ Chiêu Đức
mà thôi, nếu có mạo phạm đến ai, thì xin gởi lời CÁO
LỖI trước. Mong hỉ xả!
2.
DIỄN NÔM :
LẮNG
TIẾNG MƯA RƠI
Trong trại buồn hiu hắt,
Suốt đêm nghe mưa nhanh.
Tầm tả bên gối khách,
Rả
rít suốt tàn canh.
Tre xạc xào kẻo
kẹt ,
Chuông ngân nga mong manh.
Trầm ngâm không ngủ được,
Dai dẳng suốt đêm thanh !
Đỗ
Chiêu Đức.
ĐÊM NGHE TIẾNG MƯA RƠI
Đêm khuya vắng thư phòng thêm quạnh
quẻ
Suốt canh chầy lặng lẻ giọt mưa rơi !
Nghe nảo nùng ,làm dạ khách chơi vơi
Tiếng tí tách rơi đều như nức
nở
Cành tre trúc đập khua khung cửa sổ
Chuông vẳng đưa vào ảo mộng nhẹ nhàng
Trầm ngâm hoài,giấc ngủ vẫn đi hoang
Mưa không dứt, bình minh vừa ló dạng
.
SONG QUANG (Phỏng dịch)
LỢI CHÂU NAM ĐỘ
Đầu Xuân ,nắng ấm , thấy được một vài nét đẹp
chữ nghĩa lấp lánh trong một bài thơ xưa , lòng vui khôn ngăn
muốn được chia sẻ cùng với mọi người thân quí trong
nhà. Thế thôi. Còn chuyện thoát vòng danh lợi thị phi thế
tục, tâm hồn an nhiên ,hưởng thú trăng nước trời cho thì
nhà giáo tôi thật tình không dám lạm bàn. PKT 02/22/2014
Lợi
Châu Nam Độ
Ôn Đình Quân (- 859 -)
Đạm nhiên không thủy đới tà
huy
Khúc đảo thương mang tiếp thúy vi
Ba thượng mã tê khan trạo khứ
Liễu biên nhân yết đãi thuyền quy
Sổ tùng sa thảo quần âu tán
Vạn khoảnh giang điền nhất lộ phi
Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi
Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ky
Dịch Xuôi : Qua Bến Đò Nam Lợi
Châu
PKT 02/22/2014
Sông nước lững
lờ chở nắng cuối ngày trôi
Khúc đảo xanh xanh vòng quanh chân
núi xanh
Trên
sóng nước, ngựa hý , nhìn thuyền chèo đi
Bên bờ liễu ,khách đợi , ngóng thuyền quay về
Bầy chim âu chạy xao xác , quanh mấy bụi
cỏ trên bãi cát
Một cánh
cò bay lờ lững trên cánh đồng mênh mông dọc ven sông
Có mấy ai hiểu được chuyện chèo
thuyền đi tìm Phạm Lãi
Để
cùng hưởng thú Ngũ Hồ khói nước ,thoát khỏi vòng
danh lợi thị phi .
Chú Thích :
(1) Lợi
Châu , tên đất thuộc huyện Quảng Nguyên , tỉnh Tứ Xuyên
(2) Phạm Lãi , người nước
Việt . Chuyện kể , sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt được
nước Ngô của Phù Sai , đã cùng người đẹp Tây
Thi sống mai danh ẩn tích ở Ngũ Hồ, vùng có năm hồ (Động
Đình Hồ, Ba Dương Hồ , Sào Hồ , Thái Hồ , Chung Hồ ) thuộc
các tỉnh Hồ Nam , Giang Tô , và Chiết Giang .
Qua Bến Đò
Chiều
PKT 02/22/2014
Lững lờ ,sông nước , ráng chiều sa,
Khúc đảo, mờ xanh,
chân núi xa.
Ngựa hí ,chèo
xuôi , khua sóng nổi ,
Liễu buông,
khách đợi, ngóng thuyền qua.
Vài
con âu chạy , quanh lùm cỏ ,
Một
cánh cò bay , dưới nắng tà...
Ai hiểu chuyện xưa , ông họ Phạm,
Ngũ Hồ ẩn tích, lánh phù hoa ?
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
LỘC MAI phỏng dịch
BẾN ĐÒ CHIỀU
Con sông lờ lững chở ngày
trôi
Đảo
biếc vòng chân núi cuối trời
Ngựa hí, thuyền chèo rời bến vắng
Người chờ, liễu
rũ ngóng đò xuôi
Chim âu xao xác quanh cồn cỏ
Cò trắng chập chờn giữa
khoảng khơi
Ai
đã theo dòng tìm Phạm Lãi
Thảnh thơi xa lánh chuyện trên đời ?
Lộc Mai
QUÊN ĐI:
Qua Miền Nam Lợi Châu.
Sắc ráng nhoà trong nước lững lờ
Kề nhau đảo núi một màu lơ
Sóng đùa ngựa hí
chèo khua động
Liễu rũ mong thuyền khách ngẩn ngơ
Đám
cỏ ven bờ âu tản mác
Bên sông đồng rộng vạc bơ
vơ
Đi tìm Phạm Lãi thuyền không lối
Khói nước
Ngũ Hồ tựa giấc mơ.
Quên Đi
Bản dịch của Mailoc
Qua miền Nam Lợi Châu
Chiều bảng lảng nước sông xanh biếc ,
Đảo quanh co núi tiếp xanh rờn .
Thưyền đi ngựa hí
sóng vờn ,
Dừng chân tựa liễu khách chờ thuyền quây
.
Bờ cát cỏ chim bầy xao xác ,
Một cánh cò man
mác đồng không .
Ai tìm Phạm Lải thuyền dong ,
Ngủ
Hồ khói nước để mong quên đời .
Đỗ
Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây
:
1. Bản chữ
Hán của bài thơ :
利洲南渡
LỢI CHÂU NAM ĐỘ
澹然空水對斜暉, Đạm nhiên không thủy đối
tà huy,
曲島蒼茫接翠微。 Khúc đảo thương mang tiếp thúy
vi.
波上馬嘶看棹去, Ba thượng mã tê khan trạo khứ,
柳邊人歇待船歸。 Liễu biên nhân yết đãi thuyền
qui.
數叢沙草群鷗散, Sổ tùng sa thảo quần âu tán,
萬頃江田一鷺飛。 Vạn khoảnh giang điền nhất lộ
phi.
誰解乘舟尋范蠡? Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi?
五湖煙水獨忘機。 Ngũ hồ yên thủy độc vong ki.(
cơ ).
溫庭筠
Ôn Đình Quân
2. Nghĩa Bài Thơ :
Nước
sông lắp loáng phản chiếu long lanh dưới ánh nắng chiều, bờ
đảo xanh xanh nối tiếp với rặng núi xanh biêng biếc. Mắt trông
người đi ngựa hí trên thuyền đang lướt sóng ra khơi,
trên bến đò dưới rặng liễu một nhóm người còn
đang đợi thuyền quay trở lại. Khi thuyền qua các bụi cây trên
bờ đảo làm kinh động lũ hải âu tung bay tứ tán, bên
nây bờ ruộng mênh mông vạn mẫu chỉ một cánh cò đơn
độc thẳng cánh tung bay. Ai biết được trong lòng ta đang muốn
lướt thuyền ra khơi để đi tìm Phạm Lãi, trong cảnh khói
sóng mênh mông của Ngũ Hồ mới dễ khiến cho người ta quên
đi cái tâm cơ tầm thường của thế tục !
3. DIỄN NÔM :
QUA BẾN LỢI CHÂU
Lắp lánh sông trôi dưới nắng chiều,
Xanh xanh núi đảo một màu rêu.
Sóng xô ngựa hí chèo khua nước,
Thuyền đợi người mong liễu rũ xiêu.
Bãi cỏ đàn âu bay tan tác,
Cánh cò ngàn mẫu lượn tiêu diêu.
Ai hay Phạm Lãi tìm vui thú,
Mây nước Ngũ Hồ ân oán tiêu.
Đỗ
Chiêu Đức.
Song Quang:
QUA BẾN ĐÒ CHIỀU
Nắng tà theo nước chở chiều trôi!
Ốc đảo xanh xanh tiếp núi đồi
Ngựa hý, thuyền xuôi theo sóng biếc
Đò về, khách đợi liễu buông lơi
Chim âu xào xạc quanh cồn cỏ
Cò trắng lượn lờ ruộng lúa khơi
Ai hiểu chuyện đi tìm Phạm Lãi ?
Ngũ Hồ ẩn náu lánh xa đời.
SONG QUANG
XUÂN
DẠ
Cùng Bạn .
Bây
giờ đã qua rằm tháng giêng , hết mùng rồi nghĩa là
hết Tết , song trời vẫn đang xuân . Kính chuyển đến Thầy
và các bạn thơ bài Xuân Dạ của thi hào Nguyễn Du để
cùng thấm thía với Cụ cảnh đêm xuân xa nhà lại bịnh
hoạn rề rề .
春 夜
Xuân dạ
黑 夜 韶 光 何 處 尋
Hắc dạ thiều quang hà
xứ tầm?
小 窗 開 處 柳 陰 陰
Tiểu song khai xứ liễu âm
âm
江 湖 病 到 經 時 久
Giang hồ bệnh đáo kinh
thời cửu
風 雨 春 隨 一 夜 深
Phong vũ xuân tùy nhất
dạ thâm
羈 旅 多 年 燈 下 淚
Kỳ lữ đa niên đăng
hạ lệ
家 鄉 千 里 月
中 心
Gia hương
thiên lý nguyệt trung tâm
南 臺 村 外 龍 江 水
Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
一 片 寒 聲 送 古 今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
* Long
Giang hay Thanh Long giang: sông Lam
Lược dịch1:
Đêm xuân
Đêm tối tăm tìm đâu
xuân sắc
Liễu âm u im phắt ngoài song .
Giang hồ
bệnh hoạn khiếp lòng
Xuân về mưa gió mịt mùng đêm
sâu .
Khách bên đèn lệ sầu năm tháng
Quê dặm ngàn
lai láng nguyệt trông .
Nam Đài Long Thủy một dòng
Cổ kim sóng
tiễn lạnh lùng mãi trôi .
Mailoc phỏng dịch
Cali 2-18-14
Năm 1789, Tây Sơn
chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn binh lửa, cụ
đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình).
Bài thơ trên nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ
đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này, lúc cụ
chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ
không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân
cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng
đời thanh xuân của cụ. Sống nơi thôn ổ, cụ đã gần
gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và tâm tình của
tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã
37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ
Tri Huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường
Tín (Hà Tây).
TIẾNG LÒNG ĐÊM XUÂN
Đêm sâu chẳng sáng chút
nào
Bên hiên liễu rủ một màu tóc tang
Bệnh
lâu thẹn đối giang san
Gió mưa điên đảo tâm
can dật dờ
Lang thang
rơi lệ đèn mờ
Quê hương muôn dặm ơ hờ ngắm trăng
Ngoài thôn sông nước lạnh
căm
Thời gian lướt nhẹ khôn ngăn tiếng lòng
C.D.M.
HIỂU VŨ
Sáng nay, nhìn tuyết
rơi nhẹ phủ trắng lớp cỏ xanh ngoài sân, không hiểu sao lại
nhớ đến một bức tranh xuân qua 1 bài thơ xưa. "Đối cảnh
vô tâm" , tôi ngồi chuyển dịch lại bài này mong được
chia sẻ với mọi người thân quí , qua chữ nghĩa ,một vài
phút giây chiêm ngưỡng nét đẹp thanh tú của đất trời
, cùng lúc nghe được tiếng chim hót lảnh lót đầu năm,
riêng cho người xa xứ .PKT 02/08/2014
Hiểu Vũ
Trương Lỗi (Đời
Tống)
Khinh âm giang
thượng thiên phong tú
Tiểu vũ tường biên bách thảo
sinh
Duy hữu xuân cầm úy cô khách
Hiểu đề hồn tự
cố viên thanh
Dịch
Xuôi : Mưa Sáng
PKT 02/08/2014
Ngàn ngọn núi xa in bóng lung linh ,trên
sông, đẹp như tranh vẽ
Rặng cỏ non mọc ven tường, xanh tươi
dưới làn mưa bụi mỏng
Duy chỉ có chim xuân an ủi kẻ
xa quê , chưa về được
Sáng cất tiếng hót lảnh lót,
nghe như từ vườn xưa
Mưa Sáng Ngày Xuân
PKT 02/08/2014
Non ngàn soi bóng xanh dòng
nước,
Cỏ biếc ven tường trắng bụi mưa.
An ủi riêng
ai, đời lữ thứ ,
Chim xuân, sáng hót , tiếng quê xưa.
Phụ Chú : "Đối cảnh vô tâm" , chữ mượn trong 1 câu
kệ "đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền " (đối cảnh
, vô tâm , đừng hỏi thiền) của vua Trần Nhân Tông , vị sư
tổ dòng Thiền Trúc Lâm đời nhà Trần.Trước ngoại cảnh
, tâm không động , lòng trong không vướng bận ,như mặt nước
trong , không xao động , để có thể thấy được toàn vẹn
hình ảnh mặt trăng hiện ở dưới đáy chậu thau vàng.
PKT 02/08/2014
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Mưa
Buổi Sáng
Ngàn non đẹp , sông mờ sương phủ ,
Mưa bên tường , cỏ nhú xanh trong .
Chim xuân , cô khách bạn lòng ,
Líu lo sáng sớm , giọng cùng quê xưa .
Mailoc
SÁNG XUÂN
Núi xa ngàn ngọn đẹp lung linh
In bóng trên sông tựa bức tranh
Thảm cỏ ven tường xanh nõn biếc
Làn mưa rải bụi trắng mong manh
Cô
đơn, lữ khách sầu man mác
An
ủi, chim khuyên nhẩy quẩn quanh
Sáng sớm,
cất lời ca lảnh lót
Như từ vườn
cũ vọng âm thanh.
Lộc Mai
Đỗ
Chiêu Đức xin được góp Ý với các phần sau đây
:
1. Tên Tác giả bài thơ :
Thưa Thầy, Bài thơ nầy tác
giả là : TRƯƠNG LỖI 張耒, thi sĩ đời Tống, chớ không phải
TRƯƠNG LAI 張來 đời Đường. Vì chữ LAI 來
, khi được viết theo thể HÀNH cho nhanh thì trông giống như chữ
LỖI 耒.
TRƯƠNG LỖI, tự là Văn Tiềm, hiệu là Kha Sơn, người đời
gọi là UYỂN KHÂU tiên sinh, Trương Hựu Sử. Vì ông người
tướng tá cao lớn, khôi ngô khác thường, nên người đời
còn gọi là " Phì Tiên "( Ông Tiên Mập ). Sanh năm Chí
Hòa Nguyên niên đời Bắc Tống ( 1054 ), mất vào năm Chính
Hòa thứ 4 ( 1114 ), hưởng thọ 61 tuổi. Ông đậu Tiến Sĩ năm
Hi Ninh đời Tống Thần Tông. Đã từng giữ các chức Lâm
Hoài Chủ Bộ, Trứ tác Lang, Sử Quán Kiểm Thảo. Đầu năm
Thiệu Thánh vua Triết Tông, giữ chức Long Các Tri Nhuận Châu. Đến
đời Tống Huy Tông được triệu về làm Thái Thường
Thiếu Khanh, là một trong " Tô Môn Tứ Học Sĩ ".
2. Bản chữ Hán của
bài thơ :
曉雨(宋· 張耒) HIỂU VŨ ( Tống. Trương Lỗi )
輕陰江上千峰秀, Khinh âm giang thượng thiên phong
tú,
小雨牆邊百草生。 Tiểu vũ tường biên bách
thảo sanh.
惟有春禽慰孤客, Duy hữu xuân cầm ủy cô khách,
曉啼渾似故園聲。 Hiểu đề hồn tự cố viên
thanh.
3. Diễn Nôm
:
MƯA SÁNG
Chập chùng ngàn núi trong sương,
Xanh tươi hoa cỏ bên tường mưa rơi.
Muông chim như cảm thông người,
Cất cao tiếng hót như hồi quê xưa.
Đỗ
Chiêu Đức.
XUÂN ĐÁN
Nguyên tác: Chu Văn An
Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh
Hữu, Chân Diện Mục, Quên Đi
_______________________________________________________________________
Cùng Bạn,
Chuyển đến
bạn một bài phỏng dịch Xuân Đán của Chu văn An , đọc
cho vui vài giây phút đầu Xuân .Mời Bạn tham gia cùng dịch để
vui thêm .
Cám
ơn
Mailoc
.
XUÂN ÐÁN Tịch mịch sơn gia trấn nhật
nhàn Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn Bích mê thảo
sắc thiên như tuý Hồng thấp hoa sao lộ vị can Thân dữ
cô vân trường luyến tụ Tâm đồng cổ tỉnh bất
sinh lan Bách huân bán lảnh trà yên yết Khê điểu
nhất thanh xuân mộng tàn Chu Văn An * |
MAILOC:
SỚM MAI ĐẦU XUÂN
Ngày nhàn hạ trên
non lều vắng ,
Cửa trúc phên nghiêng chắn
gió hàn .
Trời trong cỏ biếc ngút ngàn
,
Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .
Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,
Sóng
lòng như giếng cổ lặng căm .
Hương phai trà nguội
khói tan ,
Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .
Mailoc phỏng dịch
Cali mùng 4 Tết Giáp Ngọ
(*)Chu Văn An người làng Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm
( Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông). Ông là một nhà Nho học đạo
đức. Vua Trần Minh Tôn dùng vào chức Quốc Tử Tư Nghiệp,
dạy Thái Tử. Ðến triều vua Dụ Tôn, ông dâng sớ xin chém
đầu 7 tên nịnh thần, vua không nghe, ông từ quan về ở ẩn
núi Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn .
ĐỖ CHIÊU ĐỨC:
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. Nguyên bản chữ Hán của
bài thơ :
春旦 XUÂN ĐÁN | | |
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch
sơn gia trấn nhật Nhàn, 竹扉斜擁護輕寒。
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn. 碧迷草色天如醉, Bích
mê thảo sắc thiên như tuý, 紅濕花梢露未乾。 Hồng
thấp hoa sao lộ vị can. 身與孤雲長戀岫,
Thân dữ cô vân trường luyến tụ, 心同古井不生瀾。
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan. 柏薰半冷茶煙歇, Bách
huân bán lảnh trà yên yết, 溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu
nhất thanh xuân mộng tàn 朱文安
Chu Văn An | | |
2. Dịch Nghĩa :
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng
lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy
căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa.
Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như
ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ
với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân
ta như đám mây đơn lẻ kia cú mãi quyến luyến không
nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như
chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh
tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng
đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang
oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
3. DIỄN NÔM :
Nhà tịch mịch núi
cao nghe vắng vẻ,
Cửa
phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Đỗ Chiêu Đức.
Chú Thích :
Theo tôi nghĩ, chữ YÊN trong câu 7 có
nghĩa là thuốc hút chớ không phải KHÓI.
Đầu
năm góp vui ít vần
DANH HỮU:
春旦
| |
|
寂寞山家鎮日閒, 竹扉斜擁護輕寒。 碧迷草色天如醉, 紅濕花梢露未乾。 身與孤雲長戀岫, 心同古井不生瀾。 柏薰半冷茶煙歇, 溪鳥一聲春夢殘。
朱文 安 | | |
XUÂN ĐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi
tà ủng hộ khinh hàn. ,
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường
luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất
sinh lan.
Bách huân bán lảnh trà
yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân
mộng tàn
Chu Văn An
Xuân Sớm
Vắng tanh sơn ốc, suốt ngày nhàn,
Rèm trúc treo nghiêng cũng đỡ hàn.
Thắm biếc cỏ màu, trời tựa sỉn,
Đượm hồng hoa chỏm, sương chưa tan.
Thân như mây nổi, cùng ưa núi,
Tâm giống giếng xưa, chẳng gợn làn.
Sắp hết củi thông, trà hết
khỏi,
Tiếng chim bên suối, mộng xuân tàn.
Danh Hữu dịch
CHÂN DIỆN MỤC:
Xin góp bản dịch cùng các
bạn :
SỚM XUÂN
Ở núi buồn hiu người nhẹ bỗng
Cổng tre cọt kẹt gió chênh chông
Trời nghiêng cỏ biếc say xuân sắc
Một đóa hồng nhung sương phủ hồng
Thân dạt góc trời mây tâm sự
Lòng ta đã cạn , sóng nào rung
Củi tàn , hơi lạnh , thuốc trà hết
Chim núi kêu xui lạnh cõi lòng
C.D.M.
QUÊN ĐI:
Kính
thưa Thầy Cô Anh Chị,
Quên Đi có nhận xét thế này"
"Bách huân bán lảnh trà yên yết"
Mùi hương
từ củi thông đã nhạt, và khói trà cũng hết. Nếu
nghĩ thoáng một cách nôm na: bếp lửa bằng củi thông đã
cháy già nửa, nên hơi nóng đã giảm nhiều, vì chủ
nhân đã đi nghỉ từ lâu, không pha thêm trà. Do đó
trà không còn lên khói.
Như vậy chữ "yên" ở
đây không thể là khói thuốc.
Quên Đi xin bài thơ
dịch :
Nhà
vắng trên non ngày tháng rảnh
Trúc rèm nghiêng
cản bớt hơi đông
Trời như say cỏ đang
màu biếc
Hoa ẩm sương đêm dưới
ánh hồng
Mây lẻ cùng ta lưu luyến núi
Lòng như mặt giếng lặng hư không
Hương tùng gần lụn trà vừa hết
Chim báo xuân sang tỉnh giấc nồng.
Quên Đi
KHAI
BÚT MỒNG MỘT TẾT GIÁP NGỌ
Điền Viên Lạc
Nguyên tác: Vương
Duy
Bản dịch: Phạm
Khắc Trí, Đỗ Chiêu Đức, Chân Diện Mục, Mailoc
________________________________________________________________________
Khai bút
mồng một Tết Giáp Ngọ , xin được gửi đến mọi người
thân quí , mấy vần thơ mộc mạc, để đọc cho vui trong mấy
ngày xuân.
PKT 01/31/2014
Điền Viên
Lạc
Vương Duy (699 - 759)
Đào hồng phục hàm túc vũ
Liễu
lục cánh đãi triêu yên
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên
Dịch Xuôi : Vui Thú Điền Viên
PKT 01/31/2014
Đào hồng , đọng giọt mưa đêm
Liễu biếc
, vương tơ sương sớm
Hoa rụng , gia đồng chưa quét
Oanh hót , sơn khách còn ngủ
Phụ Chú :
(1) Gia đồng =
trẻ giúp việc trong nhà
(2) Sơn khách = khách núi = ý nói
người ở ẩn, xa lánh việc đời
Điền Viên Lạc
PKT 01/31/2014
Đào hồng,
mưa đêm, trổ lộc ,
Liễu biếc, sương sớm, đong đưa.
Hoa rụng đầy sân êm ả ,
Oanh ca người ngủ dậy chưa
?
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Đỗ CHIÊU ĐỨC:
Thường thì nhắc tới Đường Thi, người ta chỉ
nghĩ đến thơ 5 chữ và 7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn
Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn
Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, mà ít ai biết đến Lục
ngôn thi, tức là Thơ 6 chữ. Kỳ nầy, xin trình làng một bài
thơ Đường 6 chữ của thi sĩ Cố Huống, người đã có
bài thơ nổi tiếng khi vịnh Giai thoại Điển tích LÁ THẮM
của chàng thư sinh Vu Hựu và Cung nhân Hàn Thị như sau :
Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,
花落深宫鶯亦悲
Thượng Dương cung nữ đoạn
trường thì. 上陽宫女斷腸時
Quân ân bất bế đông lưu thủy, 君恩不閉東流水
Diệp thượng đề
thi ký dữ thùy ? 枼上題詩寄與誰?
Tạm
diễn nôm như sau :
Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,
Thượng Dương cung nữ quặn
lòng đau.
Ơn Vua chẳng bế dòng lưu thủy,
Trên lá đề
thơ gởi đến đâu ?
Bây giờ thì xin cùng thưởng thức và cùng kính mời tất
cả Quý thầy cô, các bạn đồng môn, các em học sinh, chúng
ta cùng tìm hiểu và dịch bài thơ đặc biệt này nhé
!
歸山作
QUY SƠN TÁC
心事數莖白髮, Tâm sự sổ
kinh bạch phát
生涯一片青山。 Sanh nhai nhất phiến
thanh sơn
空林有雪相待,
Không lâm hữu tuyết tương đãi
古道無人獨還。 Cổ
đạo vô nhân độc hoàn
桃紅復含宿雨, Đào
hồng phục hàm túc vũ
柳綠更帶朝煙. Liễu
lục cánh đái triêu yên
花落家童未掃, Hoa
lạc gia đồng vị tảo
鳥啼山客猶眠 . Điểu
đề sơn khách do miên.
顧 况 Cố
Huống.
SÁNG TÁC KHI VỀ NÚI Ở ẨN,
Tâm sự tịch
liêu của tuổi già, chỉ còn biết tỉ tê cùng vài sợi
tóc bạc lưa thưa mà thôi. Sinh nhai ư ?. Ừ, thì cứ sống
nhờ vào cỏ hoa cây trái của một dãy núi xanh xanh kia. Trong cảnh
núi rừng vắng lặng nầy, ta chỉ còn bầu bạn với tuyết trắng
mà thôi. Mỗi ngày trên con đường xưa lối cũ nầy, ta
chỉ đi về với một thân một bóng. Mỗi chiều chiều ngắm
hoa hồng còn long lanh với những hạt mưa xuân, và mỗi buổi sáng
hàng liễu xanh chập chờn ẩn hiện trong làn hơi sương sớm.
Hoa rụng đầy thềm đầy đất, gia đồng còn chưa kịp
quét đi. Tiếng chim líu lo của buổi ban mai cũng không đánh thức
được người khách núi nhàn nhã còn đang mơ màng
giấc điệp.
Diễn nôm :
Tâm sự : Lơ thơ tóc bạc,
Núi xanh một dãi
: Sinh nhai !
Rừng vắng bạn bầu cùng tuyết
Đường xưa
vắng vẻ không ai ,
Hoa đào hồng vì mưa tối
Sương
sớm đưa cành liễu bay
Hoa rụng gia đồng chưa quét,
Chim
ca khách núi còn say !
Lục bát :
Lơ thơ tóc trắng
não nùng,
Sinh nhai một dãy chập chùng núi xanh.
Bạn cùng
tuyết trắng phủ quanh,
Đường xưa vắng vẻ độc hành
một thân,
Đào hồng lóng lánh mưa xuân,
Liễu xanh
thấp thoáng bâng khuâng sáng trời.
Gia đồng chưa quét hoa
rơi,
Giấc nồng khách núi mặc lời chim ca !
Đỗ Chiêu
Đức diễn nôm.
Cố Huống 顧況 (725-814) tự Bô Ông 逋翁, người Hải Diêm 蘇州 Tô Châu 海鹽 (nay thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江, Trung Quốc).
về già, tự lấy hiệu là Bi Ông. Ông là
Thi sĩ, họa sĩ của đời Đường. Quan không cao, từng giữ
chức Trứ Tác Lang. Vì làm thơ châm chích giới quyền quí
đương thời, nên bị biếm đến Nhiêu Châu làm Tư Hộ
Tham Quân. Về già ẩn cư ở núi Mao Sơn.
PHẠM KHẮC TRÍ:
Anh Chiêu Đức ơi , một hai năm trước đây
, anh chị em chúng ta cũng đã chuyển dịch bài này. Riêng tôi
rất thích bài thơ 6 chữ 8 câu này của Cố Huống. Bốn câu
sau có sách chép cho là 1 trong các bài Điền Viên Lạc của
Vương Duy . Hôm nay , nhân ngày mồng một Tết , nhân dịp anh đề
cập đến , ngồi đọc lại một mình... Cám ơn anh. Gửi
lại bản dịch cũ để mọi người cùng đọc cho vui.
Cầu chúc một năm mơi an lành cho tất cả chúng ta. Thân kính.
Qui Sơn Tác
Cố Huống (725 - 814)
Tâm sự sổ kinh bạch phát
Sanh nhai nhất
phiến thanh sơn
Không lâm hữu tuyết tương đãi
Cổ
đạo vô nhân độc hoàn
Đào hồng phục hàm túc
vũ
Liễu lục cánh đãi triêu yên
Hoa lạc gia đồng
vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên.
Qui Sơn Tác
PKT 01/31/2014
Tâm sự vui cùng tóc bạc,
Núi xanh ngày
tháng tung hê.
Rừng vắng tuyết trắng mời đón ,
Lối
xưa một bóng đi về.
Đào hồng mưa đêm tươi nở
,
Liễu biếc sương sớm vấn vương.
Hoa rụng gia đồng
chưa quét ,
Oanh ru sơn khách giấc nồng .
CHÂN DIỆN MỤC:
Tâm sự miên man buồn tóc trắng
Lui về góc núi sống qua ngày
Sương tuyết rơi hoài ta cũng
cảm
Đường
đời bạn hữu vắng tăm hơi
Xuân về hoa nở trong mưa bụi
Cành biếc hanh hao dưới
khói trời
Hoa
rụng hiên xuân bay quẩn mãi
Dụi mắt ngáp dài
đón xuân tươi
C.D.M
MAILOC:
Quy Sơn Tác
Tâm sự bời bời trắng tóc mai ,
Bên sườn núi biếc cuộc sinh
nhai .
Rừng hoang tuyết
trắng chờ ta đó ,
Đường
cũ quay về chẳng bóng ai .
Mưa tối đào hồng hoa ngấn nước ,
Sương mai cành biếc liễu vươn dài
.
Hoa rơi con trẻ nhà
chưa quét ,
Chim hót
giấc nồng khách ngủ say .
Mailoc
_________________________________________________
TRÚC CHI TỪ
Lưu
Vũ Tích
Phạm Khắc Trí,
Mailoc, Chân Diện Mục, Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Quên Đi, Kim
Phượng
_________________________________________________________________________
Đã có chùm lan , cành đào , nhánh hạnh , hôm nay xin
gửi thêm một bài ca xưa để mọi người thân quí ăn
Tết cho vui . Cảnh hò hát trên sông nước quê nhà thuở
nào ,dù đã qua , đã xa, vẫn mãi là một hồi ức
đẹp. Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi ! PKT 01/25/2014
Trúc Chi Từ
Lưu Vũ Tích (772 - 842)
Dương liễu thanh thanh giang thủy
bình
Văn lang giang thượng xướng
ca thanh
Đông biên nhật xuất
tây biên vũ
Đạo
thị vô tình khước hữu tình
Dịch Xuôi : Trúc Chi Từ
PKT 01/25/2014
Dương liễu xanh xanh , dòng sông phẳng
lặng
Nghe tiếng chàng hát hò
trên sông
Bên đông mặt trời đang
lên, bên tây trời đang mưa
Nói là trời mưa mà lại là trời nắng đấy
người ơi
Chú Thích:
(1) Trúc Chi Từ là một thể loại dân
ca xưa , thường được làm ra để nói về cảnh tình
của người dân sinh sống hiền lành ở nơi thôn dã. Đây
là 1 trong số các bài Trúc Chi Từ của tác giả.
(2) Trong chữ hán , có
2 chữ đồng âm , cùng đọc là "tình" nhưng khác
nghĩa , một nghĩa là "trời tạnh/không mưa" và một nghĩa
là "có tình ý đối với nhau ". Câu 4 trong nguyên tác
, với dụng ý chơi chữ thú vị của tác giả , còn có
thể hiểu : "nói là vô tình mà lại là hữu tình
đấy".
Trúc Chi Từ
PKT 01/25/2014
Liễu biếc xanh dòng nước chảy xuôi,
Trên sông vang tiếng chàng hò vui.
Bên tê mưa gió , bên ni tạnh ,
Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi !
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Khúc Ca Trúc chi
Liễu xanh xanh , mặt sông phẳng
lặng ,
Giọng hát chàng văng vẳng trên sông .
Mưa tây , đông nắng
rực hồng ,
Tưởng không lại hóa mênh mông rất tình .
Mailoc phỏng dịch
Cali 1-25-14
MƯA RẮC
BÊN SÔNG
Cành tre bên bến
lặng nhìn sông
Tiếng hát theo
giòng suôi gió Đông
Nắng
nhạt như mơ , mưa lắc rắc
Tạnh
rồi lòng vẫn thấy mưa giông
C.D.M.
1. Nguyên tác chữ Hán của
bài thơ :
竹枝詞
TRÚC CHI TỪ
劉禹錫
Lưu Vũ Tích
楊柳青青江水平, Dương liễu thanh thanh giang thủy
bình,
聞郎江上唱歌聲。 Văn lang giang thượng xướng
ca thinh.
東邊日出西邊雨, Đông biên nhật xuất
tây biên vũ,
道是無晴卻有晴。 Đạo thị vô tình khước
hữu tình !
CHÚ
THÍCH :
* Đạo Thị : Bảo là, Nói là, Gọi là.
* Tình 晴 : Tình nầy là NẮNG RÁO,
vì có bộ NHẬT là Mặt Trời một bên. Chữ nầy ĐỒNG
ÂM với chữ Tình 情 là TÌNH CẢM, TÌNH Ý,
có bộ TÂM là Lòng Dạ một bên. Nên, HỮU TÌNH là
CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH là Có Tình Ý.
NGHĨA BÀI THƠ :
Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe
tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang
ló dạng ở phía đông với những tia nắng đầu ngày ,
nhưng phía bên trời tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo
là không có nắng, nhưng lại có nắng, nói là không có
tình, nhưng lại có tình Ý thật thiết tha !
DIỄN NÔM :
Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,
Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.
Tây đổ mưa rào đông lại nắng,
Hữu tình người lại ngỡ vô tình !
Đỗ Chiêu Đức.
TRÚC CHI TỪ
Mặt nước êm đềm, bóng liễu in
Giọng chàng xao động khúc sông yên
Tây mưa, đông vẫn đang hừng nắng
Người ngỡ vô tâm lại hữu tình.
Lộc
Mai
Không môn đăng hộ đối,
chàng thì xót phận. Nơi Nàng thì rực rỡ tươi vui, bên
chàng cả một màu u ám.
Quên Đi xin góp vui với bài dịch:
Đôi Bờ
Bên dòng nước
lặng liễu khoe thân
Sông vắng tiếng chàng trầm bổng ngân
Đông nắng tây mưa nào muốn thế
Sao đành than trách
hỡi tình nhân.
Quên Đi
Ý Tình
Dòng nước lặng soi mình
dáng liễu
Điệu ca buồn não nuột trên sông
Đông còn nắng ấm tây
mưa lạnh
Đầy
ý tình căm lặng ngỡ không
Kim Phượng
______________________________________________________________
CỔ KIM NHƯ MỘNG
Thơ Tô Đông Pha
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi
____________________________________________
Lời Dẫn Về Bản Dịch Cổ Kim Như Mộng
Nguyên tác là một bản ca từ làm
theo điệu Vĩnh Ngộ Lạc của Tô Đông Pha , đời Tống . Phần
chuyển dịch đã không thể giữ được âm ngữ cho đúng
điệu nhạc. Chẳng qua , mấy ngày đầu xuân , đọc được
lời than của người xưa , cổ kim như mộng , vị dư hạo thán
(xin hãy vì ta mà than dài ) , thú thực không hiểu sao nhà-giáo-tôi
lại không cảm thấy buồn , mà ngược lại, lại cảm thấy
vui vui , và ngược lại , lại muốn được chia sẻ , thay vì
nỗi buồn, mà là nỗi vui này , cùng với người xưa và
với mọi người thân quí. Vâng , cổ kim như mộng ,ai buồn cho
đây , vì thế dại gì mà không vui ?( Đêm nay ,chắc sẽ
ngủ ngon , Ông Táo đã về Trời ,đâu còn ai ở Hạ Giới
để ghi chép cái tội chọc phá mọi người cho vui của tôi
nữa ) . PKT 01/23/2014
Vĩnh
Ngộ Lạc
Tô Đông Pha (1037 - 1101)
Minh nguyệt như sương
Hảo phong như thủy
Thanh cảnh vô hạn
Khúc cảng khiêu
ngư
Viên hà tả lộ
Tịch mịch vô nhân kiến
Thẩm
như tam cổ
Khanh nhiên nhất diệp
Ảm ảm mộng vân kinh đoạn
Dạ mang mang
Trùng tầm vô xứ
Giác lai tiểu viên hành
biến
Thiên nhai quyện khách
Sơn trung qui lộ
Vọng đoạn
cố viên tâm nhãn
Yến Tử lâu không
Giai nhân hà tại
Không tỏa lâu trung yến
Cổ kim như mộng
Hà tằng mộng
giác
Đản hữu cựu hoan tân oán
Dị thời đối
Hoàng lâu dạ cảnh
Vị dư hạo thán
Cổ Kim Như Mộng
PKT 01/23/2014
Trăng sương
lung linh ,
Gió nhẹ dịu mát ,
Trời đất yên ngủ ,
Cá quẫy ngoài sông,
Lá sen tròn tuôn hạt sương đọng
,
Lặng lẽ trong thanh vắng .
Canh ba trống điểm,
Một chiếc lá rụng ,
Tỉnh giấc
mộng xuân ảo não ,
Đêm tối mịt mùng ,
Tìm đâu
thấy nữa ,
Tha thẩn cùng khắp khu vườn nhỏ .
Cuối trời chân mỏi ,
Chốn cũ
quay về ,
Vườn xưa ngày đêm tưởng nhớ,
Lầu xưa
hoang liêu ,
Người xưa một thuở ,
Ôi con yến nhỏ ngày
nào, nay đã bay về đâu nhỉ ?
Cổ kim như mộng,
Bao lần tỉnh thức ,
Vui xưa không
còn ,
Dòng đời dâu bể ,
Đêm dài lầu
vắng ,
Ai buồn cho đây?
Phụ Chú : Lầu Yến Tử ,lấy
tên một người ca nữ , chuyện kể, vợ chồng đầm ấm hạnh
phúc , sau khi chồng chết , ở vậy, cho đến khi qua đời.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Cổ Kim Như Mộng
Trăng sáng ngời
tợ sương
Gió mát lạnh như nước
Bầu trời đêm trong suốt
Cá
nhảy vượt bờ nương .
Trên lá
sen sương lóng ,
Vắng lặng nào ai hay
Lá rụng âm vang động
Canh ba trống canh dài .
Xót xa khi
tỉnh giấc
Đêm tăm tối mịt mờ
Biết tìm đâu ra chốn
Vườn
nhỏ dạo thẩn thơ .
Cuối trời
khách chân mỏi
Năm cũ đường về mong
Vườn xưa trông mút mắt
Yến Tử lầu vắng không .
Giai nhân
giờ đâu tá ?
Chim én kín lầu xuân
Xưa nay đời như mộng
Tỉnh
giấc đã bao lần .
Buồn vui những
ngày cũ
Sau nầy liệu có ai ?
Lầu vàng trong đêm vắng
Vì
ta thở than dài .
Mailoc phỏng dịch
Cali 01-23-14
Chuyện Cũ Giờ
Như Mộng
(Phóng tác Cổ Kim Như Mộng)
Trăng thanh gió mát cảnh như thơ
Sen
ủ sương khuya cá thẩn thờ
Đêm vắng canh chầy ôm mộng
ảo
Bàng hoàng lá rụng dạ nao nao.
Nơi lòng vương
cảnh cũ
Đâu dáng ngọc lầu cao
Người xưa nay vắng
bóng
Lầu xưa cũng điêu tàn.
Sự đời có tựa
không
Chuyện cũ giờ như mộng.
Quên Đi
HOÀI CỰU
Năm
nay, trong tiết đông lạnh, vùng Plano Texas, chỗ chúng tôi ở, trời
trở chứng, nhiệt độ trong ngày lên xuống thất thường, dường
như cơ thể già nua đã không thích ứng kịp, đầu gối
bị đau nhức, đôi khi chịu không thấu, lại nhớ đến...con
lừa trong thơ Tô Đông Pha. "Lộ trường, nhân khốn, kiển
lư tê" . Đường còn xa, người đã mỏi mệt , mà
con lừa cưỡi thì chân lại đi khập khiễng, kêu đau. Trong cơn
đau nhức trời hành này, năm cùng tháng tận, tôi ngồi viết
mấy hàng chữ này để mọi người thân quí trong nhà
đọc cho vui cùng tôi và cùng nhau, thân tâm an lạc, đón
mừng năm 2014, một Năm Mới an lành, hanh thông, và như ý.
PKT 12/29/2013
Hoài Cựu
Tô Đông Pha (1037 - 1101)
Nhân sinh đáo xứ tri hà
tự
Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
Nê thượng ngẫu
nhiên lưu chỉ trảo
Hồng phi na phục kế đông tây
Lão
tăng dĩ tử thành tân tháp
Hoại bích vô do kiến cựu
đề
Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
Lộ trường nhân
khốn kiển lư tê
Phụ chú :
Nguyên đề bài là
: Họa Tự Do Mãnh Trì Hoài Cựu , họa bài Mãnh Trì Hoài
Cựu của Tử Do. Tử Do là em của Tô Đông Pha. Mãnh Trì là
tên huyện thuộc tỉnh Hà Nam.
Dịch Xuôi : Hoài Cựu
PKT 12/29/2013
Đời người rồi sẽ
đi về đâu nhỉ
Có phải tựa như một con chim hồng bay
đạp trên tuyết rơi
Ngẫu nhiên để lại dấu chân
trên tuyết
Rồi thoắt đó bóng hình chim đã bay vút
đông tây mất hút rồi
Vị tăng già đã viên tịch
, ngôi tháp mới cho tăng vừa mới xây xong
Bức tường cũ
thơ đề nay đã đổ nát không còn thấy chữ viết
nữa
Không biết đường đi gian truân ngày trước có
được ghi lại không
Bây giờ chỉ biết , đường còn
xa , người đã mỏi mệt , con lừa khập khiễng kêu đau
Hoài Cựu
PKT 12/29/2013
Kiếp người
rồi sẽ về đâu nhỉ ?
Tựa cánh hồng bay đạp tuyết
rơi.
Đây đó dấu chân còn đọng tuyết ,
Mà
đâu hình bóng đã mù khơi.
Tăng già , tháp mới
yên phần xác ,
Chữ viết , tường rêu lấp mất lời.
Khổ nạn ngày qua , trời đất biết ,
Đường dài , lừa
ốm...bỡn nhau thôi !
Tri Khac
Pham
Phamid1934@gmail.com
Bài dịch LỘC MAI:
HOÀI CỰU
Đi về đâu hỡi, kiếp con người
?
Tựa cánh chim bằng lướt
tuyết rơi
Vừa thấy dấu chân
in thảm trắng
Thì đà bóng
dáng khuất mù khơi
Tăng già
yên nghỉ sâu lòng tháp
Tường
cũ tang thương nhạt chữ lời
Hiểm trở đường xưa, ai có nhớ
Lừa đau, người mỏi, nẻo xa xôi.
Lộc Mai
Bài dịch MAILOC:
Hoài Cựu
Đường vạn nẻo đời người chẳng biết ,
Tựa cánh hồng giẫm tuyết rơi đầy .
Dấu
chân bỗng chốc còn đây ,
Mà hồng heo hút đông
tây xa vời .
Trong tháp mới sư già thâm
tịch ,
Tường đổ rồi dấu tích thơ đâu
.
Nhớ thương khập khểnh dãi dầu ,
Mệt nhoài la mỏi nỗi sầu đường xa .
Mailoc
phỏng dịch
Cali 29-12-13
Bài
dịch QUANG TUẤN:
NHỚ XƯA
Nhân sinh nào biết
về đâu nhỉ?
Như cánh chim hồng giẫm tuyết rơi.
Ôi dấu chân kia còn rõ đó
Mà hình bóng ấy đã
xa rồi.
Tăng già tháp giữ thân yên ổn
Tường cũ lời
ghi nét nhạt phai.
Đường trần muôn thuở luôn gian khổ
Dặm thẳm. ngưởi lừa mệt quá thôi.
Chiều ngày 30/12/2013
QUANG TUẤN
Bài
dịch QUÊN ĐI:
Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân
Hữu Thân mến,
Vừa nhận được Bài của Các Thầy
Cô, tôi tìm ngay bản chữ Hán gởi ra đây để cùng nhau
tham khảo.
和子由澠池懷舊 Hoạ Tử Do
Mãnh trì hoài cựu
人生到外知何似, Nhân sinh đáo xứ
tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ứng tự phi hồng đạp
tuyết nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu
nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi ná phục
kế đông tê (tây)
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ
tử thành tân tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích vô do
kiến cựu đề
往日埼嶇還記否, Vãng nhật kỳ
khu hoàn ký phủ
路人長困蹇驢嘶。 Lộ nhân trường
khốn kiển lô đề.
Có một điều ở câu thứ
nhất, chữ thứ tư ( 外 ) là chữ ngoại có nghĩa là bên ngoài.
Nhớ Lại Nơi Xưa
Sinh ra rồi sẽ đến đâu đây
Tựa cánh hồng đi trên tuyết lầy
Móng vuốt hãy còn
lưu dấu vết
Bay nhanh chẳng thiết hướng đông tây
Sư
già tháp mới vùi xương cốt
Tường đổ thơ đề
mất tiếc thay
Hiểm trở lối xưa giờ vẫn nhớ
Người
la mệt lả đoạn đường này
Quên Đi
ĐỖ
CHIÊU ĐỨC: Dịch & Góp ý
Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân Hữu Thân mến,
Vắng
tiếng lâu nay, vì tâm tình còn trĩu nặng, hôm nay chợt mở
mail, đọc được các bài dịch của Quí Thầy và Các
Bạn về cuộc sống nhân sinh, cũng chợt thấy lòng cảm khái,
nên xin được tham gia với các phần sau :
1.
NGUYÊN TÁC CỦA BÀI THƠ :
和子由澠池懷舊 HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI CỰU
人生到處知何似, Nhân sinh đáo xứ tri
hà tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ưng tự phi hồng đạp
tuyết nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu nhiên
lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi nả phục kế
đông tê (tây)
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ tử thành
tân tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích vô do kiến
cựu đề
往日埼嶇還記否? Vãng nhật kỳ khu
hoàn ký phủ?
路長人困蹇驢嘶。 Lộ trường nhân khổn
kiển lô đề.
蘇軾
Tô Thức
2. XUẤT XỨ CỦA BÀI THƠ :
Năm Gia Hựu Nguyên niên đời Tống Nhân Tông ( năm 1056 ), Tô
Tuân dẫn Tô Thức và Tô Triệt lai kinh ứng thí, trên đường
đi ngang qua huyện Mãnh Trì, đêm trọ lại cư thất của Phụng
Nhàn Hòa Thượng, có đề thơ trên vách chùa.
Năm Gia Hựu thứ 6, Tô Thức ( Tự là Tử Chiêm, Hiệu là
Đông Pha Cư Sĩ ) đến nhậm chức quan ở Phụng Tường, trên
đường đi, lại đi ngang qua huyện Mãnh Trì, được em là
Tô Triệt ( tự là Tử Do ) gởi cho bài thơ " Hoài Mãnh Trì
kí Tử Chiêm Huynh Thi " 懷澠池寄子瞻兄詩,
nên mới làm bài thơ nầy để họa lại.
3. GÓP Ý :
a) Về chữ thứ tư của câu đầu : Bạn Hùynh
Hữu Đức ghi chữ NGOẠI 外 là vì bạn
nhầm với chữ Giản Thể của chữ Xứ 處 được viết như thế nầy : 处. Nên
câu đầu căn cứ theo nguyên tác phải là :
Nhân sanh đáo XỨ tri hà tự.
b) Chữ đầu
của câu thứ 2 phải đọc là ƯNG.
Chữ 應 đọc là ƯNG là Phó từ, có
nghĩa : PHẢI, NÊN. Ví dụ : Ưng Thị, Ưng tự ( Phải là ).
Đọc là ỨNG là Động Từ, có
nghĩa : LÊN TIẾNG. Ví dụ : Đồng Thanh Tương Ứng, Hưởng
Ứng.
c) Chữ 那 , ở đây
phải đọc là NẢ, vì đúng ra chữ nầy phải được
viết như thế nầy : 哪, là Nghi vấn từ dùng để
hỏi, có nghĩa là NÀO?, là SAO?.
d) Câu
chót phải là :
LỘ TRƯỜNG NHÂN
KHỔN kiển lư tê.
Lộ Trường
Nhân Khổn là Đường dài người mõi. Chữ nầy 困 đọc là KHỐN, có nghĩa là KHÓ, ta có từ
Khốn Khó. Còn đọc là KHỔN thì có nghĩa là Mõi
Mệt.
4. DIỄN NÔM :
HỌA BÀI MÃNH TRÌ HOÀI CỰU Của TỬ DO.
Cuộc
sống người đời chẳng biết sao?
Tựa chân nhạn đạp tuyết hôm nào.
Ngẫu nhiên dấu ấn lưu trên tuyết,
Bình thản cánh hồng bay đến đâu?
Tháp mới sư già vừa viên tịch,
Tường hư thơ mất mới hôm nao !
Chông gai ngày cũ quên hay nhớ ?
Người mõi đường xa lừa hí đau !
Đỗ Chiêu Đức.
Bài thơ nầy còn ẩn Ý THIỀN ở bên trong !
DANH
HỮU dịch & góp ý:
.
Nhân dịp đầu năm, góp
vài ý với các bạn yêu thơ Đường.
和子由澠池懷舊 HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI
CỰU
人生到處知何似, Nhân sinh đáo xử, tri hà
tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ưng tự phi hồng đạp tuyết
nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu nhiên lưu
chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi na phục kế đông tê.
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ tử, thành tân
tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích, vô do kiến cựu
đề.
往日埼嶇還記否 Vãng nhật kỳ khu,
hoàn ký bĩ
路長人困蹇驢嘶。 Lộ trường nhân, khốn
kiển lư đề.
蘇軾
họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của
Tử Do
Chuyện xử thế của con người, ta biết theo ai !
Bắt chước con chim hồng lướt trên bùn tuyết
ư ?
Bùn tuyết chỉ tình
cờ ghi lại dấu vết của nó.
Kế sách "Hồng bay" cũng đâu giải quyết được
gì trước nay
Hay như Lão
tăng vừa viên tịch để lại ngôi tháp mới xây.
Vì bức tường đã hỏng, bài thơ của
ông đề không còn thấy nữa
Ngày trước thật uổng cái kỳ công, vì lời ghi không
hay .
Đi đường dài gặp cơn
khốn đốn chỉ vì sự thua kém nên chỉ biết kêu lên.
Vài từ ngữ
Đáo xử : đến
chuyện xử thế
Ưng tự : nên
theo cái nào
Na phục : đâu giải
quyết được
Kế đông
tây : kế sách xưa nay
Tân tháp
: tháp xây dùng đựng cốt nhà sư mới viên tịch
Hoàn ký bĩ : chỉ vì lời ghi không hay (ám
chỉ lời chê lúc trước của ông về thơ Vương An Thạch).
Kiển lư : ngựa què từ ngữ chỉ sự thua kém
Bài thơ này, theo tôi nghĩ,
là ông than vì chuyện xử thế vụng của mình mà bị đày
đi xa (chuyện ông sửa thơ của Vương An Thạch và bị Thạch
để tâm, khi hắn lên làm Thừa tướng, hắn đã trả
thù bằng cách đày ông đến nhiệm sở mới nơi mà
trước đây đã hình thành bài thơ của Thạch, cũng
giống chuyện nhạc sĩ Văn Cao, hồi trước có lần Tố Hữu
rủ ông lại nhà để khoe mấy bài thơ ông ta mới làm,
Văn Cao trả lời : thơ cậu thì có gì mà phải đọc.
Tố Hữu để tâm thù, khi nắm quyền đã đày ải Văn
Cao suốt đời không ngóc đàu lên nổi, nhờ Văn Cao là
tác giả bài Quốc ca nên mới không bị đi tù như các
bạn hữu của ông).
Nội dung bài này
rất khó dịch cho lọn nghĩa mà không làm sai lạc ý thơ.
Nhân đầu năm, thôi thì cũng xin góp lời kẽo bạn Lộc
lại hỏi : sao dạo này anh còn dịch thơ Đường nữa không
?
Họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của
Tử Do
Đường
đời xử thế, biết chi nêu
Bắt chước chim hồng, vượt tuyết rêu ?
Rêu tuyết tình cờ in dấu vết
Hồng phi há dễ giải nan điều !
Lão tăng vừa tịch, tháp còn đấy,
Tường nát, khó tìm, thơ đã tiêu.
Công uổng trước kia, phê hạ sách
Đường dài, tài mọn, chỉ đành kêu.
Danh Hữu dịch
Chúc quý bạn một năm mới 2014 thi tứ dồi dào,
sức khỏe hanh thông
___________________________________________________________________
Túc Vương Xương Linh ẩn cư
Cùng Bạn .
Xin Chuyển đến
các bạn một bài thơ của Thường Kiến , đọc giải
khuây thư xã cho tâm hồn trong ngày cuối tuần và cũng mong bạn
thơ mình góp vần cho vui với góc đường thi nhé .
Thân mến
Mailoc
Túc Vương Xương
Linh ẩn cư
Nguyên tác: Thường Kiến
宿王昌齡隱居
常建
清溪深不測,隱處唯孤雲。
松際露微月,清光猶為君。
茅亭宿花影,藥院滋苔紋。
余亦謝時去,西山鸞鶴群。
Túc
Vương Xương Linh ẩn cư
Thường Kiến
Thanh khê thâm bất trắc,
Ẩn xứ duy cô vân.
Tùng tế lộ vi nguyệt,
Thanh quang do vị quân.
Mao đình túc hoa ảnh,
Dược viện tư đài văn.
Dư diệc tạ thời khứ,
Tây sơn loan hạc quần.
--Dịch nghĩa:
Trọ đêm nơi ở ẩn của Vương
Xương Linh
Suối
trong sâu thăm thẳm,
Nơi
ở ẩn chỉ có đám mây lẻ loi.
Trăng lấp ló trong lùm thông,
Ánh sáng trong mát vẫn dành cho bác.
Nếp đình
tranh lúc nào cũng có bóng hoa,
Vết rêu lan dài bên viện thuốc.
Ta nay cũng từ giã việc đời,
Về làm bạn với bầy loan, hạc ở non Tây.
-- Bản
dịch của MaiLộc : --
Suối trong ngần đáy sâu khó đoán ,
Nơi ẩn cư một đám mây cô .
Lùm thông thấp thoáng trăng nhô ,
Ánh trăng trông vắt mơ hồ chờ anh .
Túp lều tranh hoa cành ôm
ấp
Phòng thuốc nhà lấm tấm rêu xanh .
Từ
nay thế sự thôi đành ,
Non tây , loan , hạc , bạn lành bên
nhau .
Ở Lại Nơi Ẩn Cư Của Vương Xương
Linh
1
Thăm
thẳm suối trong mát
Lẻ loi mây chốn thanh
Cành thông che bóng nguyệt
Trăng
sáng thú riêng anh
Hoa nở tươi lều cỏ
Dược phòng rêu phủ xanh
Bao giờ rời thế sự
Dạo
núi Tây yên lành
2
Xa khuất xuôi dòng con
suối trong
Áng mây cô lẻ chốn giai không
Mờ mờ sau cội tùng trăng hiện
Sáng sáng ánh ngà ngắm chỉ Ông
Rực rỡ lều tranh hoa rộ sắc
Âm
u gian thuốc phủ rêu phong
Việc đời đến lúc khi ngưng được
Oanh Hạc Tây
Sơn thoả thích lòng
Quên Đi
CHỐN ẨN CƯ
Suối sâu thăm thẳm một dòng
Đám mây đơn lẻ âm
thầm cùng ta
Ánh trăng nấp bóng
thông già
Một vầng trong mát
thiết tha chờ người
Lều tranh hoa
điểm hiên ngoài
Dược phòng
u ám lan dài vết rêu
Việc đời
gác lại đi thôi
Hạc loan làm
bạn bên trời non tây.
Lộc Mai
________________________________________________
Thu Tịch Ký Hoài Tố
Thượng Nhân
Cùng Bạn ,
Xin chuyển đến Bạn một bài thơ Đường
của Hoàng phủ Tăng , bài thơ thoát lên cái vẻ thâm nghiêm
trầm
mặc của cảnh chùa chiều Thu khiến lòng tôi vô cùng cảm
khái . Xin chuyển đến các bạn thơ để chia sẻ và
cũng mong bạn góp vần cho vui ngày cuối tuần .
Thân mến
Mailoc
Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng Nhân
Nguyên tác: Hoàng Phủ Tăng
秋 夕
寄 懷 素 上 人
已 見 槿 花 朝 委 露
獨 悲
孤 鶴 在 人 群
真 僧
出 世 心 無 事
靜 夜
名 香 手 自 焚
窗 臨
絕 澗 聞 流 水
客 至
孤 峰 掃 白 雲
更 想
清 晨 誦 經 處
獨 看
松 上 雨 紛 紛
皇 甫 曾
Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng
Nhân
Dĩ kiến cẩn hoa triêu ủy lộ
Độc
bi cô hạc tại nhân quần
Chân tăng xuất thế tâm vô
sự
Tĩnh dạ danh hương thủ tự phần
Song lâm tuyệt
giản văn lưu thủy
Khách chí cô phong tảo bạch vân
Cánh tưởng thanh thần tụng kinh xứ
Độc khan tùng thượng
vũ phân phân
Hoàng Phủ Tăng
Dịch Nghĩa:
Chiều Thu Viết Gửi Sư Thày
Hoài Tố
(đã thấy hoa dâm bụt bị phó mặc cho móc buổi
sáng)
(riêng thương cho con hạc lẻ loi giữa đám người
ta)
(người tu chân chính khác người đời, lòng không
thiết sự vật)
(trong đêm yên tĩnh, tự tay đốt nén
nhang thơm có tiếng)
(cửa sổ trông ra khe suối đẹp, nghe
tiếng nước róc rách)
(khách tới đỉnh núi chơ
vơ quét mây trắng)
(lại nghĩ tới nơi tụng kinh buổi
sáng trong lành)
(một mình nhìn mưa bay lất phất trên
ngọn thông)
-- Bản dịch của MaiL ộc –
Đóa
dâm bụt dầm mình sương sớm ,
Thương hạc buồn gữa chốn nhân gian .
Đại
tăng sự thế không màng ,
Đêm yên tay thấp nén
nhang hương trầm .
Suối bên song rì rầm nước chảy
,
Núi trơ vơ , khách trẩy mây xây ,
Lắng
lòng kinh sớm chuông mai ,
Một mình dõi mắt mưa
lay ngọn tùng .
.
Bản dịch SONG QUANG:
Hoa dâm bụt đẩm mình trong sương sớm
Thương hạc buồn lẻ bạn giữa nhân
gian
Kẻ
chân tu thế sự chẳng mơ màng
Đêm tỉnh lặng thấp hương
trầm khấn nguyện
Bên song cửa ,tiếng suối ngàn rung chuyển
Đỉnh núi
cao, khách viếng thấy tầng mây
Tụng công phu kinh sớm với chuông mai
Mưa lất
phất nhìn ngọn thông đơn độc.
SONG QUANG
Bản
dịch Quên Đi:
.
Chiều Thu Gởi Sư Hoài Tố
Cánh
dâm bụt mặc sương ban sớm
Hạc một mình hoà giữa thế
gian
Chuyện tục nhân không lay ý đạo
Khói trầm hương
toả ngát đêm tàn
Tựa song vẳng nước khe sâu chảy
Khách lặng theo mây quét núi ngàn
Nhớ lại sáng nơi phòng tụng niệm
Tùng trầm mưa lạnh
chẳng bi quan
Quên Đi
GIANG
TUYẾT
Liễu Tông Nguyên
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Trần
Trọng Kim, Trần Trọng San, Tản Đà, Mailoc, HKKM
Chỗ
tôi ở , mấy hôm nay trở lạnh ,như trời đã vào đông.
Nhớ lại bài Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên đời Đường.
Một nét tĩnh đặc thù trong thi họa đông phương. Một bức
tranh thủy mạc đẹp. Lung linh hình ảnh một lão ông ,nón lá,
áo tơi , ngồi câu trên một con thuyền nhỏ , cô đơn giữa
sông lạnh, trong lúc tuyết trời đang rơi mù mịt , chung quanh đồng
không non quạnh , không một bóng chim bay , không một bóng dáng người.
Nhớ nhau, tôi ngồi chuyển dịch lại gửi đi, thay lời thăm hỏi
và cũng mong nhau cảm nhận được ít nhiều ấm áp tình
tôi. PKT 11/23/2013.
Giang Tuyết
Liễu
Tông Nguyên (774 - 819)
Thiên
sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu soa lạp ông
Độc
điếu hàn giang tuyết
Dịch Xuôi :
Tuyết Sông
PKT 11/23/2013
Ngàn non trông mờ mịt, không một bóng chim bay qua
Vạn lối
đều trắng xóa, không còn dấu vết chân người đi
Một lão ông đội nón lá , khoác
áo tơi, trên một chiếc thuyền nhỏ lẻ loi
Một mình , lặng lẽ, ngồi câu cá trên con
sông lạnh , giữa trời tuyết đổ
Giang Tuyết
PKT 11/23/2013
Non ngàn mờ mịt, vắng chim bay ,
Vạn nẻo đường
không, tuyệt bóng người.
Nón
lá ,áo tơi, chờ cá động ,
Thuyền trên sông tuyết , lạnh đâu hay.
River Snow
Innes Herdan
In a thousand hills birds have ceased to fly
On countless tracks footprints have disappeared
A solitary boatman in bamboo cape and hat
Is fishing the icy river in the snow
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Kính Thầy cùng các Bạn,
Đọc lại bài Giang Tuyết của LTN và bài
dịch của Thầy , lòng cảm thấy bùi ngùi bên tách càphê
buổi sáng , trong khi bên ngoài trời đà trở lạnh .Nếu
so sánh với bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến , tôi thấy bài
Giang Tuyết có hồn hơn nhiều mặc dù chỉ võn vẹn 4 câu
thôi, ngắn gọn nhủ ngôn. Qua bài thơ ta thấy ngoài cái cảnh
thê lương hoang vắng trên đường trên núi , ngoài cái
giá lạnh của tuyết rơi , chúng ta còn thấy sự lẻ loi cùng
cực lạnh lẽo của ngư ông trên sông vắng , buông cần , chiến
đấu với lạnh với đói để tìm miếng ăn cho chiều
tối nay , khiến ai cùng cao xuyến thương tâm . Đúng như Thầy
nói , đây là một bức tranh thuỷ mạc vừa đẹp vừa rung
động lòng người . Nếu bài Thu Điếu ta thấy cảnh an nhàn
của thi nhân ngồi câu để thưởng thức cảnh hồ thu tuyệt đẹp
, được cá hay không được cá cũng không sao , nhưng
trong Giang Tuyết ta thây ngư ông chịu đựng hoàn cảnh khắc
nghiệt cuả Trời Đật đê kiêm miếng ăn , kiêm
sống . Bài thơ thật đẹp , thật não lòng lòng . Cũng
vì thế biêt bao nhà thơ đã phỏng dịch Giang Tuyết . Nhân đây
Mailoc xin kính chuyển đến Thầy và các bạn thơ một số bài
dịch của nhiều người đọc cho vui cuối tuần .Cám ơn Thầy
Nay Kính
Mailoc
THU
ĐIẾU
Nguyễn
Khuyến
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo
teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước
gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân
bèo
Các bản dịch GIANG TUYẾT:
-Bản dịch
của Trần Trọng Kim:
Nghìn non chim hết vẫy-vùng,
Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không bóng người.
Áo tơi,
nón lá, ông chài,
Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông
câu.
-Bản dịch của Trần Trọng San:
Ngàn ngọn núi, chim bay đi hết,
Muôn con đường
nhạt vết chân người.
Ông già nón lá áo tơi,
Đậu thuyền sông tuyết, riêng ngồi buông câu.
-Bản dịch của Tản Đà :
Nghìn non mất bóng chim bay,
Muôn con đường tắt dấu
giày tuyệt không.
Kìa ai câu tuyết bên sông,
Áo
tơi, nón lá, một ông thuyền chài.
- Bản dịch của Mailoc :
1)
Nghìn non khuất dạng dấu chim bay
,
Vạn dặm đường dài chẳng bóng ai .
Ngư lão áo
tơi , thuyền một chiếc ,
Ôm cần , sông lạnh, tuyết rơi đầy .
(2)
Dấu chim
bay ngàn non khuất dạng
Vạn dặm đường hoang vắng bóng
người .
Lão già nón lá áo tơi ,
Thuyền
đơn sông lạnh , tuyết rơi ôm cần .
(3)
Thiên Sơn chim khuất dạng
Dặm đường chẳng
bóng người
Thuyền đơn lão tơi nón ,
Ngồi câu sông tuyết rơi .
Mailoc
-Bản dịch của HKKM :
Hôm nay trời ở chỗ tôi ở cũng rất lạnh . Bèn
có ngẩu hứng chạy theo anh .
Trộm nghĩ rằng :
Nếu không đến
Mỹ thì chắc không biết tuyết như thế nào . Bằng như đã
ở xứ lạnh gần 40 nâm thí khi tuyết phủ để núi vắng bóng
chim, đường không có vết chân người , thì sông đóng
băng (có thể ice skating được) . Khi sông đóng băng
làm sao có thuyền đậu ?????
Người Pháp nói rằng traduire c'est
trahir .
Từ Hán ra Việt, chắc nhà thơ PKT đă qua đà đi
hơi xa, rồi từ Việt qua Anh núi non trở thành đồi hehehe
Mạo muội đóng
góp bài thơ theo ý của tôi
Sông băng
Ngàn non biệt cánh chim
Vạn nẻo không bóng người
Mình ông cùng tơi nón
Ngâm khóc dòng sông băng
HKKM
___________________________________________________________
Chinh
Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
Cùng Bạn
Gởi bạn một bài thơ của
Lý thương Ẩn , phảng phất một chút rợn người nhân Halloween
sắp đến
Thân
Mailoc
Chinh
Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
Nguyên tác: Lý Thương Ẩn
正月崇讓宅
李商隱
密鎖重關掩綠苔,
廊深閣迥此徘徊.
先知風起月含暈,
尚自露寒花未開.
蝙拂帘旌終展轉,
鼠翻窗網小驚猜.
背燈獨共余香語,
不覺猶歌\"起夜來\".
Chinh Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
Lý Thương Ẩn
Mật
tỏa trùng môn yểm lục đài,
Lang thâm các huýnh thử
bồi hồi.
Tiên tri phong khởi nguyệt hàm vựng,
Thượng tự
lộ hàn hoa vị khai.
Biển phất liêm tinh cung triển chuyển,
Thử phiên song võng tiểu kinh sai.
Bội đăng độc cộng dư
hương ngữ,
Bất giác do ca “Khởi Dạ Lai”
Chú
thích: Sùng nhượng trạch, là ngôi nhà ở phường Sùng
nhượng ở Đông đô Lạc Dương (nay là thành phố Lạc
Dương, tỉnh Hà Nam). Đây là nhà cha vợ của tác giả
LTA. Ông cùng vợ con sống tại đây một thời gian. Khi vợ mất
(năm 851), ông dọn ra ở riêng. Sáu năm sau có dịp trở lại
thăm ngôi nhà xưa thì…
--Dịch nghĩa:--
Tháng
Giêng Nơi Nhà Cũ Phường Sùng Nhượng
Cửa ngõ khóa kín, rêu
phong xanh um,
ta đi đi lại lại trên hành lang dài
thăm thẳm và căn gác vắng lặng.
Biết trước gió nổi
trăng lên,
vì móc lạnh nên hoa chưa nở.
Dơi bay chạm
vào rèm cửa làm ta trằn trọc không ngủ được.
Tiếng
chuột leo nơi lưới cửa sổ làm ta chợt hơi sợ [vì tưởng
hồn em về].
Một đèn một bóng ta nói chuyện với hương
thừa của em,
còn hát bài “Khởi Dạ Lai” [em ưa thích]
nữa.
--Bản
dịch của MaiLộc—
Rêu phong xanh , ngỏ cài kín mít
Bước tới lui , tĩnh mịch hành lang .
Gió hiu khơi mảnh trăng tàn
Cỏ hoa chưa nở sương lam lạnh tràn
.
Rèm phất phơ dơi làm khó ngủ
,
Chuột leo song , sợ ngỡ hồn ma .
Bên đèn thu thỉ hương xa ,
Bài ca “Khởi Dạ” anh ca nhớ về .
( Bài ca em thích , anh ca nhớ về)
Bản
dịch: Quên Đi:
.
Cửa
vào khóa kín rêu xanh phủ
Lầu vắng ngõ sâu dạ xốn xang
Trăng biết gió lên quầng xám hiện
Hoa chưa nở vội ngại sương lan
Dơi bay rèm động khôn an giấc
Chuột chạy khua song thoáng ngỡ ngàng
Chiếc bóng bên đèn hương cũ
thoảng
Khúc ca " Khởi Dạ"
nhớ vô vàng
Quên
Đi
Bản dịch: Song Quang:
Cửa đã khoá,tường
rêu xanh phủ kín
Hành lang
dài,vắng lặng một mình ên
Lát nữa đây,gió nổi với trăng lên
Sương mốc lạnh nên hoa chưa kịp nở
Dơi bay đụng
rèm thưa khôn thẳng giấc
Chuột
leo khua song cửa ngở hồn về
Ngọn đèn
tàn bên hương cũ như mê
Ta hát khúc "Khởi
Dạ Lai" em thích.
SONG QUANG
_______________________________________________________________
DẠ ẨM
Cùng Bạn ,
Hơi
khá lâu chắc hẳn chúng ta cũng nhớ giây phút về "Góc Đường
Thi " . Đọc Dạ Ẩm lòng tôi bỗng nhiên man mác buồn đồng cảm
với người ly hương , giải sầu bên chén rượu . Phải
chăng đó cũng là tâm trạng chúng ta ? Mời Bạn chia sẻ
và góp vần chơi . Cám ơn .
Thân mến
Mailoc
Dạ Ẩm
Nguyên tác: Lý Thương Ẩn
夜飲
李商隱
卜夜容衰鬢,
開筵屬異方。
燭分歌扇淚,
兩送酒船香。
江海三年客,
乾坤百戰場。
誰能醉酩酊,
淹臥劇清漳。
Dạ
Ẩm
Lý Thương Ẩn
Bốc dạ dung suy mấn,
Khai diên thuộc dị phương.
Chúc phận
ca phiến lệ,
Lưỡng tống tửu thuyền
hương.
Giang hải tam niên khách,
Càn khôn bách
chiến truờng.
Thùy năng túy mính
đính,
Yêm ngọa kịch Thanh Chương
Chú thích: 1/ bốc dạ, lấy
ý từ thành ngữ “bốc trú bốc dạ”, nghĩa là uống
rượu ban đêm. 2/ Thanh Chương, tên ngòi, nay ở phía đông
tỉnh Sơn Tây, là một chi nhánh của sông Chương. 3/ Tác giả
LTA có tài (đậu tiến sĩ, thơ để lại 3 quyển gồm 571
bài), nhưng công danh lận đận, làm toàn chức nhỏ và đổi
chỗ liền liền, ông chết khi tuổi mới 46.
--Dịch
nghĩa:--
Uống Rượu Ban Đêm
Ban đêm uống rượu dung nhan tiều
tụy ;
vì rượu uống nơi xứ người.
Lời ca (của ai đó) làm ta cùng nến
đều rơi lệ ;
đôi bên khóc
với nhau qua hơi rượu trên thuyền.
Là
khách lưu lạc sông hồ đã ba năm ;
trong
trời đất đã uống say cả trăm trận.
Có
ai say túy lúy như ta ;
nằm gục bên
bờ ngòi Thanh Chương.
--Bản
dịch của MaiLộc—
Mặt hao gầy rượu
đêm uống mãi ,
Rượu
tha hương tê tái say say .
Cùng ta nến khóc lệ dài
Đôi bên tấm tức men say trên thuyền .
Khách ba năm triền miên sông nước ,
Giữa dất trời say khướt trăm khi .
Có ai ngất ngưởng li bì
Như ta sóng sượt bên bờ Thanh Chương .
__________________________________________________________________
Mộ
Quy - Đỗ Phủ
Mấy hôm nay đang đọc
bài Mộ Quy của Đỗ Phủ. Một bài thơ Đường 8 câu
7 chữ , phá cách ,không niêm luật. Âm ngữ , nghe như lục đục
phá phách , muốn vượt thoát, nhưng cuối cùng cũng đành
chịu yên bề. Thú vị lắm. Mời đọc cho vui. Thân quí. PKT
10/03/2013
Mộ Quy
Đỗ Phủ (712 - 770)
Sương hoàng bích ngô bạch hạc
thê
Thành thượng kích thác phục ô đề
Khách
tử nhập môn nguyệt kiểu kiểu
Thùy gia đảo luyện phong thê
thê
Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp
Bắc quy Tần Xuyên
đa cổ bề
Niên quá bán bách bất xứng ý
Minh nhật
khán vân hoàn trượng lê
Dịch Xuôi : Trở Về Lúc Chiều Tối
PKT 10/03/2013
Con hạc trắng đậu trên cành ngô xanh biếc, lá
đã úa vàng vì sương thu
Trên thành , tiếng mõ
điểm canh, lại thêm có tiếng quạ kêu
Khách trở về
, bước vào cửa , trăng sáng vằng vặc
Nghe trong gió ,tiếng
chày đập lụa nhà ai , buồn lê thê
Muốn đi xuống miền
Nam, qua Quế Thủy , ngại sông ít có thuyền bè chở qua
Tính đi lên miền Bắc, vượt Tần Xuyên, sợ vùng
nhiều trống trận, giặc giã
Tuổi quá nửa trăm rồi mà
chuyện đời có được vừa ý đâu
Sáng mai lại
, chống gậy lê , đứng nhìn mây trời bay về
Mộ
Quy
PKT 10/03/2013
Hạc trắng sương thu vàng
lá rụng ,
Thành chiều mõ điểm quạ kêu vang .
Người
về cửa khách, trăng vằng vặc ,
Lụa đập nhà ai , gió
ngỡ ngàng.
Ngược Bắc Tần Xuyên, nhiều giặc giã,
Xuôi
Nam Quế Thủy , thiếu đò ngang .
Đời người quá nửa ,
tri thiên mạng ,
Mai sáng , đứng nhìn mây kéo sang.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Hạc đậu
cành ngô, lá úa vàng
Trên thành
mõ giục ,qua kêu vang
Khách về mở cửa,trăng
vằng vặc
Lụa đập
nhà ai tiếng rộn ràng
Quế Thủy xuôi Nam ,đò thiếu vắng
Tần Xuyên ngược Bắc giặc tràn
lan
Tuổi đời
quá nửa lòng chưa toại
Chống gậy nhìn trời mây phủ ngang
SONG QUANG
(1)
TRỞ
VỀ LÚC CHIỀU TỐI
Cành ngô xanh hạc trắng sương vàng ,
Qụa rộn trên thành tiếng mõ canh .
Người tới cửa trăng đà sáng
quắc ,
Chày nhà
ai não nuột đêm thanh .
Xuôi
Nam sông Quế khan thuyền khách ,
Ngược Bắc dòng Tần rộn chiến tranh .
Thấm
thoát nửa đời tay vẫn trắng ,
Ngày mai lê gậy ngắm mây xanh .(*)
Mailoc phỏng dịch
(*) chỉ là thơ 7 chử xin miễn "đối "
(2)
Cành ngô xanh sương vàng hạc trắng
,
Tiếng qụa đêm , mõ vẳng
thành đêm .
Tới nhà trăng sáng mông mênh
Chày ai gió lạnh càng thêm não nề
.
Xuôi sông Quế thuyền thuê
rất khó ,
Ngược dòng Tần
lại có chiến tranh .
Nửa đời
sự nghiệp chẳng thành ,
Sáng mai lê
gậy nhìn quanh mây trời .
Mailoc phỏng dịch
Thân
gởi anh Hữu Đức,
Cám ơn anh đã có hứng thú với thơ Ngô Thể. Sự
thật thì Ngô Thể không phải dùng để chỉ một thể thơ
chính quy trong thi ca, mà dùng để chỉ một Phong Cách Sáng Tác
văn học đặc thù do Đỗ Phủ đề xướng mà thôi.
Người đời
Tống gọi là " Ảo Tự Thi " 拗字詩, hoặc "Ảo Thể " 拗體 ( chữ ẢO
拗 có nghĩa
là Trúc trắc, trẹo lưỡi khó đọc ). Đến đời Thanh,
thì Quế Phức gọi là " Ngô Quân Thể ", căn cứ vào
thi nhân Ngô Quân đời Lương ( một nước trong thời Lục
Triều trước đời Đường ), lúc bấy giờ Luật Thơ chưa
thành hình, nhưng ông đã chú ý đến Bằng Trắc trong
thơ Ngũ Ngôn, mặc dù chưa có Niêm Luật như đời Đường
sau nầy, nhưng lời thơ đã thanh thoát suông sẽ mỹ lệ, nên
được mọi người hưởng ứng mô phỏng, gọi là Ngô
Quân Thể. Nhưng Quế Phức đã nhầm, vì lúc bấy giờ
Luật Thi chưa được thành hình, và vì nếu mô phỏng
Ngô Quân, thì Đỗ Phủ đã chú là " Ngô Quân Thể
" rồi, tại sao chỉ nói gọn là " Ngô Thể " ?!
Khi ở Quỳ Châu, vì có
ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên
Đỗ Phủ mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Như
ta đã biết 2 bài " SẦU " và " MỘ QUY ", mặc dù
bức phá Niêm Luật, nhưng 2 cặp Thực và Luận đều công
đối rất tề chỉnh, như :
.........
客子入門月皎皎, Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,
誰家搗練風淒淒。 Thùy gia đão luyện phong thê thê.
南渡桂水闕舟楫, Nam độ
Quế Thủy khuyết chu tiếp,
北歸秦川多鼓鼙。 Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.
..............................
và... câu chú thích trong
bài đầu tiên " Cưởng hí vi Ngô Thể "( Cưởng là
Gượng ép, nên Cưởng Hí có nghĩa là Đùa chơi,
Đùa Dai, là thơ làm theo thể Ngô ).
Chữ NGÔ 吳 là Họ Ngô, nước
Ngô, đồng âm với chữ NGÔ 吾 là Tôi. Nên, NGÔ THỂ 吾體 còn có nghĩa là
Thể Thơ Của TÔI. và theo âm Quan Thoại, chữ NGÔ còn đồng
âm với chữ VÔ 無, nên NGÔ THỂ cũng là VÔ THỂ 無體, tức là Không Theo
Thể Thơ Nào Cả ! Đây có thể là một cách CHƠI CHỮ
của Đỗ Phủ mà thôi :
" Cưởng hí vi Ngô Thể " là " Làm chơi
theo thể của Tôi ", hoặc " Làm chơi không theo thể nào cả
".... Nhưng vì
tiếng tăm của Đỗ Phủ rất lớn, nên trước sau đã
có đến 6 nhà thơ hưởng ứng làm theo " Ngô Thể
" nầy, gồm có Bì Nhựt Hưu, Lục Quy Mông đời Đường,
Hoàng Đình Kiên, Hồ Đạm Yêm và Lục Du đời Tống,
cuối cùng là Biên Liên Bảo đời Thanh.
Ta thử đọc một bài của Lục Quy
Mông theo Ngô Thể nhé !
陸龜蒙: 新秋月夕客有自遠相尋者作吳體二首以贈
Lục Quy Mông : TÂN THU NGUYỆT
TỊCH KHÁCH HỮU TỰ VIỄN TƯƠNG TẦM GIẢ Tác Ngô Thể Nhị
Thủ Dĩ Tặng.
其一
Kỳ Nhất
風初寥寥月乍滿, Phong sơ liêu liêu
nguyệt sạ mãn,
杉篁左右供餘清。 Sam hoàng tả hữu
cung dư thanh.
因君一話故山事, Nhân quân nhất thoại
cố sơn sự,
憶鶴互應深溪聲。 Ức hạc hỗ ưng
thâm khê thinh.
雲門老森定未起, Vân môn lão sâm
định vị khởi,
白閣道士遙相迎。 Bạch các đạo
sĩ dao tương nghinh.
日聞羽檄日夜急, Nhựt văn vũ hịch
nhựt dạ cấp,
掉臂欲歸岩下行。 Điếu(trạo) bích
dục quy nham hạ hành.
其二
Kỳ Nhị
驚聞遠客訪良夜, Kinh văn viễn khách
phỏng lương dạ,
扶病起坐綸巾攲。 Phù bệnh khởi tọa
luân cân khi.
清談白紵思悄悄, Thanh đàm bạch trữ
tư tiểu tiểu,
玉繩銀漢光離離。 Ngọc thằng Ngân hán
quang ly ly.
三吳煙霧且如此, Tam Ngô yên vụ thả như
thử,
百越琛賮來何時。 Bách Việt thâm tận lai hà thì.
林端片月落未落, Lâm đoan phiến nguyệt
lạc vị lạc,
強慰別情言後期。 Cưởng ủy biệt tình ngôn hậu kỳ.
Đã đến giờ đi
làm, hẹn thơ sau nói tiếp.
Thân mến,
Đỗ Chiêu Đức
Công Nguyên 768 ( Năm Đại Lịch thứ 3 vua Đường
Đại Tông ), lúc bấy giờ Đỗ Phủ đã 57 tuổi, đang
ở Hồ Bắc. Trước đó, khi ở Quỳ Châu ông rất chú
trọng đến Luật thơ và đã làm rất nhiều bài thơ
Niêm Luật thật nghiêm cẩn, như 8 bài Thu Hứng....Đồng thời
cũng trong thời gian nầy, ông có ý nghĩ muốn bức phá sự
trói buộc của Niêm Luật, nên mới muốn thử làm ra một thể
thơ mới. Một hôm, ông làm ra một bài thơ Phi Cổ Phi Luật
( không phải Cổ Thi mà cũng không phải Luật Thi ) có tựa là
" SẦU " , phía dưới ghi chú là " Cường hí vi Ngô
Thể " ( Đùa rằng đây là thơ NGÔ THỂ ). Tiếp đó
, ông lại làm thêm 17, 18 bài như thế nữa, và vì thế
mà trong Đường Thi lại thêm một thể loại : Thơ NGÔ THỂ.
" MỘ QUY " 《暮歸》 chính là thơ Ngô Thể được Đỗ Phủ
làm khi đang ở Hồ Bắc .
暮歸
MỘ QUY
杜甫
Đỗ Phủ.
霜黄碧梧白鶴棲, Sương hoàng bích
ngô bạch hạc thê,
城上擊柝複烏啼。 Thành thượng kích thác phục ô đề.
客子入門月皎皎, Khách tử nhập môn
nguyệt giảo giảo,
誰家搗練風淒淒。 Thùy gia đão luyện
phong thê thê.
南渡桂水闕舟楫, Nam độ Quế Thủy khuyết
chu tiếp,
北歸秦川多鼓鼙。 Bắc quy Tần Xuyên đa
cổ bề.
年過半百不稱意, Niên quá bán bách
bất xứng ý,
明日看雲還杖藜。 Minh nhựt khan vân hoàn trượng lê.
Chú
Thích :
Hoàng : Còn đọc là HUỲNH,
màu vàng, ở đây là Động Từ, nê có nghĩa là
Làm Cho Vàng, Nhuộm Vàng.
Thác : là Cái Mõ
Canh, nên Kích Thác : Gõ Mõ Canh .
Nguyệt
Giảo Giảo : là Trăng sáng vằng vặc.
Đão Luyện : Dùng chày để đập cho tơ mềm ra để
giặt cho thành lụa, chuẩn bị may áo mùa đông.
Phong Thê Thê : Gió hắt hiu.
Tiếp :
là Mái Chèo. Khuyết Chu Tiếp : là Thiếu Mái Chèo của Thuyền.
Không phải là thuyền không có mái chèo, mà là không
có TIỀN để thuê một thuyền chèo.
Cổ Bề : là Trống trận. Đa Cổ Bề : Nhiều trống trận. Có
nghĩa : Có nhiều trận đánh nhau với quân Thổ Phồn.
Trượng Lê : Chống gậy Lê. Lê là một loại thảo mộc,
có thân cứng và dẽo như Cây Mây, nên dùng làm gậy
cho chắc và nhẹ.
Dịch Nghĩa :
CHIỀU VỀ
( Nhà Trọ )
Bạch Hạc đậu trên
cành ngô đồng đã vàng lá vì sương thu lạnh lẽo,
trên thành tiếng mõ đã bắt đầu điểm canh lẫn với
tiếng quạ kêu sương. Khách trở về nhà trọ, vào cửa
trong lúc ánh trăng đã vằng vặc ngoài trời, trong khi đó
tiếng chày giặc lụa của nhà ai còn vang vang trong gió thu hiu hắt.
Ta muốn xuôi Nam qua dòng Quế Thủy nhưng lại không đủ sức
thuê thuyền, muốn trở về đất Bắc ở Tần Xuyên thì giặc
giã chiến tranh, trống trận nổi lên liên miên không dứt. Quá
nửa đời người không có chuyện gì xứng ý toại lòng
cả ! Thôi thì, ngày mai lại phải chống gậy mà ngắm mây
trời xa xa để thương nhớ về cố hương mà thôi !
Diễn Nôm :
CHIỀU VỀ
Hạc
trắng đậu cành ngô vàng sương lạnh,
Quạ đen kêu tiếng mõ báo canh tàn.
Khách vào nhà đón trăng sáng miên mang
Tiếng chày giặt lẫn gió buồn thê thiết.
Muốn về nam không tiền xuôi Quế Thủy,
Bắc Tần Xuyên giục giã trống quân vang.
Quá năm mươi còn lưu lạc chưa an ,
Ngày mai lại gậy lê nhìn mây trắng !
Đỗ Chiêu Đức.
Sầu - Cưỡng hí
vi Ngô thể
Nguyên
văn chữ Hán | Phiên âm Hán-Việt | Bản dịch của Nhượng Tống |
愁-強戲為吳體
江草日日喚愁生, 巫峽泠泠非世情。 盤渦鷺浴底心性, 獨樹花發自分明。 十年戎馬暗萬國, 異域賓客老孤城。 渭水秦山得見否, 人經罷病虎縱橫。 | Sầu
- Cưỡng hí vi Ngô thể
Giang thảo nhật nhật hoán sầu sinh, Vu Giáp
linh linh phi thế tình. Bàn oa lộ dục để tâm tính, Độc
thụ hoa phát tự phân minh. Thập niên nhung mã âm vạn quốc, Dị vực tân khách lão cô thành. Vị thuỷ Tần sơn
đắc kiến phủ, Nhân kinh bãi bệnh hổ tung hoành. | Sầu - Đùa làm theo thể Ngô
Cỏ sông ngày ngày
khéo gọi sầu Non Vu lạnh ngắt muốn trêu nhau Cây một
hoa nở ra rực rỡ Nước xoáy cò lội thấy đục ngầu Mười năm muôn nước loạn dài mãi Đất lạ thân
già ốm bấy lâu Sông Vị núi Tần về chẳng được Người thì mệt lử, hùm nhâu nhâu. |
CHIỀU TRỞ VỀ NHÀ
Hạc đậu cành ngô lá úa sương
Quạ kêu xen tiếng mõ canh trường
Khách về, cửa mở, trăng vằng vặc
Lụa đập, gió đưa, nỗi cảm thương
Lên Bắc- Tần Xuyên- nhiều trống giặc
Xuống Nam - Quế Thủy- ít đò thương
Đời người quá nửa , chưa như ý
Sáng đến nhìn mây dạ vấn vương.
Lộc Mai
Buồn- Đành Đến Với Thể Song thất Lục Bát
Cỏ sông buồn ngày ngày réo gọi
Hẻm Vu Sơn tối tối trêu ai
Sóng cuồng cò tắm mê say
Kia rồi một đóa hoa khai trên cành
Mười năm loạn muôn dân nặng gánh
Khổ thân già ốm lạnh tha phương
Núi Tần sông Vị nhớ
thương
Một
mai thoát bệnh cọp dương danh hùng
Quên Đi
________________________________________________
THU TỨ
Cùng Bạn
Trời đã thật sự vào thu ! Cali buổi sáng
mây giăng mờ ,buổi trưa nắng cũng nghiêng nghiêng ui ui ,yếu
ớt , buổi chiều hơi thu lành lạnh , với gió heo may , buồn
buồn khó tả . Bài thơ ý thu dưới đây của Bạch cư
Dị chỉ võn vẹn 8 câu mà diển tả đủ thứ , từ trời
trăng mây nước , tiếng động mùa thu ... kể cả nỗi
lòng mình ; đọc xong tôi thật ngẩn ngơ , xin mời Bạn cùng
chia xẻ.
Thu Tứ
Nguyên tác: Bạch
Cư Dị
秋 思
夕 照 紅 于 燒
晴 空 碧 勝 藍
獸 形 雲 不 一
弓 勢 月 初 三
雁 思 來 天 北
砧 愁 滿 水 南
蕭 條 秋 氣 味
未 老 已 深 諳
白 居 易
Thu Tứ
Tịch
chiếu hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất
nhất
Cung thế nguyệt sơ tam
Nhạn tứ lai thiên bắc
Châm sầu mãn
thủy nam
Tiêu điều thu khí vị
Vị lão dĩ thâm am
Bạch
Cư Dị
--Dịch
Nghĩa--
(ý thu)
(nắng chiều chiếu ánh đỏ như
thiêu đốt)
(bầu trời tạnh ráo sắc xanh nhiều hơn sắc lam)
(mây đổi thay hình dạng các
thú vật)
(trăng mùng ba có hình cánh cung)
(ý nhạn muốn bay
lên mạn bắc)
(tiếng chầy làm buồn bã vùng sông phía nam)
(khí
vị mùa thu thực là buồn bã)
(chưa già nhưng đã hiểu
biết nhiều)
--Bản dịch của MaiLộc--
Ý
Thu
Nắng chiều
hồng mặt trời đỏ thắm
Xanh biếc trời vương vấn chút lam .
Trong mây hình thú hợp tan
Mồng ba , liềm mỏng trăng đang tượng hình .
Ngóng về bắc viễn chinh cánh nhạn
Tiếng chày buồn lãng đãng sông Nam .
Hơi thu sầu thảm không gian
Chưa già mà đã mênh mang hiểu đời .
Mailoc
phỏng dịch
Cali 9-22-13
Ý THU (xin phỏng dịch)
Nắng chiều thiêu đốt
bóng ngày tan
Trời ửng
màu xanh ẩn chút lam
Mây đổi dạng hình muôn vạn thú
Trời thay lưỡi hái mồng
ba trăng.
Nhạn
tung cánh mỏi về phương Bắc
Chày vọng sông buồn vẳng phía Nam
Cảnh vật mùa thu hiu quạnh
quá
Chưa
già mà hiểu biết mênh mang.
Quang Tuấn 22/9/13
Cảm Nhận Mùa Thu
Nắng chiều như lửa đỏ
Xanh biếc khoảng trời
trong
Mây biến hình muôn thú
Mùng Ba dáng nguyệt cong
Nhạn mơ về mạn bắc
Chày nhịp buồn nam sông
Xơ Xác
tình thu úa
Trẻ nhưng trí chẳng nông
Quên Đi
HƠI THU
Đỏ
rực ráng ngời như lửa thiêu
Bầu trời xanh loãng sắc lam chiều
Mây mang dạng thú muôn hình vẻ
Trăng uốn liềm cong một bóng
xiêu
Chầy nhịp
sông Nam âm khắc khoải
Nhạn
về phương Bắc dáng cô liêu
Hơi thu ảm đạm sầu giăng ngập
Chưa lão, lòng đầy nỗi tịch
liêu.
Lộc
Mai
Ý THU
Nắng
vàng rực đỏ lúc chiều buông !
Xanh biếc da trới
điểm sắc trong
Mây đổi hình thù muôn
vạn thú
Trăng mùng ba ló dạng cung cong
Nhạn bay về bắc dang đôi cánh
Chày
nhịp phương nam vọng bên sông
Cảnh vật
hơi thu sầu quạnh quẻ
Đâu già sự việc
hiểu càng thông !
SONG
QUANG
Kính Thầy,
" Thu
Tứ " của Bạch Cư Dị mà Thầy nêu lên là bài 2. Sau
đây em xin " trình làng " cả 2 bài tìm thấy trên mạng
như sau :
秋思
THU TỨ
白居易
Bạch Cư Dị
其一: Bài 1 :
病眠夜少夢, Bệnh miên
dạ thiểu mộng,
閑立秋多思。 Nhàn lập thu đa tứ.
寂寞馀雨晴, Tịch mịch dư vũ
tình,
蕭條早寒至。 Tiêu điều tảo hàn chí.
鳥棲紅葉樹, Điểu thê
hồng diệp thụ,
月照青苔地。 Nguyệt chiếu thanh đài địa.
何況鏡中年, Hà huống
kính trung niên,
又過三十二。 Hựu quá tam thập nhị.
其二:
Bài 2 :
夕照紅於燒, Tịch chiếu hồng ư thiêu,
晴空碧勝藍。 Tình không
bích thắng lam.
獸形雲不一, Thú hình
vân bất nhất,
弓勢月初三。 Cung thế nguyệt sơ tam.
雁思來天北, Nhạn tứ
lai thiên bắc,
砧愁滿水南。 Châm sầu mãn thủy nam.
蕭條秋氣味, Tiêu điều
thu khí vị,
未老已深諳。
Vị lão dĩ thâm am.
Dịch
nghĩa :
TỨ THU
Bài 1 :
Vì bệnh hoạn nên đêm ngủ mê man ít
mộng mị, đứng một mình trong cảnh thu nên nhiều ưu tư. Sau
cơn mưa, nắng lên trong trong hoang vắng tịch liêu, cảnh trí tiêu
điều trong cái hơi lạnh đến sớm. Chim chóc đậu trên
những cây lá đã trở màu đỏ, và ánh trăng chiếu
lên những mảng rêu xanh trên mặt đất. Huống gì tuổi tác
trong gương cũng đã qua tuổi trung niên ( tuổi đã vào
thu, lúc bấy giờ tuổi thọ của người đời chỉ khoảng
45 ), giờ lại qua tuổi 32 rồi !
Bài 2 :
Ráng chiều làm cho phía trời tây đỏ rang như cháy, Trời
quang mây tạnh nên bầu trời xanh biếc hơn lam. Ngàn đám mây
nổi muôn hình dạng trạng như muôn thú thay đổi bất nhất,
Trăng mùng 3 treo nghiêng nghiêng thế tựa cánh cung. Nhạn đã
bay xuống nam còn nhớ về trời bắc. Tiếng chày giặt áo bên
sông buồn buồn vang lên bên sông nước tràn đầy bờ phía
nam. Trong cảnh tiêu điều buồn bã nầy đã có chút gì
hơi hám của mùa thu phảng phất, Chưa già nhưng đã âm
thầm thấu hiểu một cách sâu xa cái ý vị của mùa thu
!
Diễn Nôm :
Ý THU
Bệnh hoạn mê mang không mộng,
Nhàn trông nên lắm ý thu.
Tịch mịch sau mưa nắng chiếu,
Tiêu điều sớm lạnh gió ru.
Chim hót trên cành lá đỏ,
Trăng soi mặt đất rêu đầy.
Trông gương tuổi đời đã luống,
Qua rồi tam thập nhị đây.
..........
Ráng chiều đỏ rang như cháy,
Xanh lơ trời thẳm hơn lam.
Vạn trạng thú hình mây nổi,
Như cung trăng đã sơ tam.
Nhạn nam mơ về đất bắc,
Chày buồn nước ngập sông nam.
Tiêu điều hơi thu hiu hắt,
Chưa già cảm xúc sớm am !
Đỗ Chiêu Đức.
Lữ Dạ Thư
Hoài - Đỗ Phủ
Miên man trong dòng thơ Đỗ Phủ , bài Lữ
Dạ Thư Hoài , những gì dành trọn cả một thời xuân theo
đuổi, không thành , bỗng dưng nay lại trở nên vô nghĩa
. Chỉ còn là trước mặt một khoảng trống mênh mang và trong
lòng, một nỗi cô đơn cùng cực của một đời người
lúc về già. Như Tô Đông Pha (1037 - 1101) trong một từ khúc :
" Phiếu điểu cô hồng ảnh ...Tịch mịch sa châu lãnh ".
Một bóng chim hồng lẻ loi trong vùng trời phiêu lãng ...Cồn sông
cát lạnh im lìm. PKT 09/24/2013
Lữ Dạ Thư Hoài
Đỗ Phủ (712 - 770)
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy
tường độc dạ chu
Tinh thùy bình dã khoát
Nguyệt
dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão
bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất
sa âu
Dịch Xuôi :
Đôi Dòng Tâm Sự Trong Một Đêm Ở
Nơi Đất Khách
PKT 09/24/2013
Bờ
cỏ xanh non trong làn gió thoảng nhẹ
Một con thuyền với chiếc
cột buồm cao lẻ loi giữa đêm vắng
Sao trời rũ chùm , trông
như muốn rụng xuống cánh đồng hoang bát ngát
Ánh trăng
tan tràn lan trên dòng sông lớn đang cuồn cuộn trôi
Ta há
cầu danh bằng trước tác văn chương sao
Còn làm quan mà
già yếu bệnh hoạn thế này thì cũng nên về nghỉ cho rồi
Thân phận lênh đênh , thật tình ta giống như cái gì
đây nhỉ
Một con chim âu, lạc bầy, đứng chơ vơ trên
cồn cát lạnh, giữa đất trời
Lữ Dạ Thư Hoài
PKT 09/24/2013
Bờ
cỏ non phất phơ làn gió nhẹ ,
Cột buồm cao lạc lõng giữa
đêm thâu.
Vòm sao rụng ngập đầy cánh đồng vắng,
Sóng trăng tan cuồn cuộn trôi về đâu ?
Há cầu chút
danh văn chương phù phiếm ,
Thôi ,già yếu rồi ,từ quan
cho xong.
Cái thân long đong ,nửa đời phiêu bạt ,
Con âu
bóng lẻ , trời đất mênh mông !
Recording My Thoughts While Traveling At Night
Translated By Red Pine - Poems Of
The Masters
A shore of thin reeds in light wind ,
a tall boat alone at night ,
stars hang over
the barren land ,
the moon rises out of the Yangtze .
How could writing ever lead to fame ,
I quit my post
due to illness and age ,
drifting along what am I like ,
a solitairy gull between Heaven and Earth ,
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Nỗi Niềm Đêm Đất
Khách
(1)
Ven bờ cỏ dợn , gió hiu hiu
Thuyền lẽ , buồm đêm lướt
sóng triều .
Đồng
vắng , trời cao sao lấp lánh ,
Trăng rơi , sông rộng nước cuồn lưu .
Văn
chương siêu thoát danh lừng lẫy ?
Bệnh hoạn tuổi già phải
cáo hưu .
Bỗng thấy phiêu phiêu vòng tục lụy ,
Mênh mông trời đất cánh
chim chiều .
Mailoc phỏng dịch
(2)
Bờ cỏ non , vờn theo gió nhẹ
Cánh buồm đêm lặng lẽ trời đêm .
Đồng hoang sao rụng mông mênh ,
Ánh trăng loang loáng cuộn trên
sông dài .
Danh tiếng hẳn văn tài lừng lẫy ,
Tuổi về chiều bệnh phải cáo
hưu .
Chơi vơi giữa chốn hoang liêu ,
Bao la trời đất cánh diều cô
đon .
ML
BUỒN
THU ĐÊM XA XĂM
Cỏ xác xơ bờ vắng
Buông thuyền đêm dài ghê
Ngàn sao buồn rơi rụng
Trăng
trôi sông lạnh tê
Văn chương
danh suông hão
Lão bệnh cũng nên
về
Chơi vơi đi đâu nữa
Cánh chim âu mỏi mê
C.D.M.
Đêm Đất khách
Cỏ non phơ phất
gió đưa
Lẻ loi buồm
gió chèo khua đêm dài
Đồng hoang sao rụng u hoài
Ánh trăng tan giữa sông ngài ngại trôi
Lợi danh phù phiếm trong đời
Tháng năm già yếu thật rồi
từ quan
Nửa đời phiêu
bạt lang thang
Một con chim
lẻ lạc đàn về đâu ?
Trầm Vân
Tháng Tư Vĩnh Thái nguyên niên
( 765 ), Nghiêm Võ tạ thế, Đỗ Phủ mất nơi nương tựa.
Tháng 5, Mới dắt díu gia quyến xuống thuyền rời khỏi Thành
Đô sau 5 năm định cư nơi đất Thục, xuôi về đông,
phiêu bạc trên Miên Giang Trường Giang một giải. Khoảng sau Trung Thu
năm đó, lại tiếp tục đi xuống Vân An ( Nay là Vân Dương
). Chính trên đường đi nầy, ông sáng tác bài " Lữ
Dạ Thư Hoài " ( Viết về những hoài cảm của mình trên
bước lữ hành ), để nói lên cái cảm khái của một
đời phiêu bạc, có tài nhưng lại chẳng gặp thời !
旅夜書懷
LỮ DẠ THƯ HOÀI
細草微風岸, Tế thảo vi phong ngạn,
危檣獨夜舟。 Nguy tường độc dạ chu.
星垂平野闊, Tinh thùy bình dã khoát,
月湧大江流。 Nguyệt dũng đại giang lưu.
名豈文章著? Danh khởi văn chương trứ ?
官應老病休。 Quan ưng lão bệnh hưu.
飄飄何所似? Phiêu phiêu hà sở tự ?
天地一沙鷗。 Thiên địa nhất sa âu.
杜甫
Đỗ Phủ.
Dịch
Nghĩa :
HOÀI
CẢM ĐÊM LỮ HÀNH.
Gió hiu hiu thổi lên đám cỏ non
bên bờ sông, đêm xuống, thuyền đậu bến, ta ngồi dưới
cột buồm cao cao nhìn bầu trời đầy sao lắp lánh, nên cảm
thấy cánh đồng trước mắt như mênh mông hơn. Bóng trăng
dường như từ trong nước chiếu ra lắp lánh theo dòng. Văn chương
có phải làm nên được tiếng tăm chăng? Quan trường thì
vì bệnh tật mà phải cáo hưu. Một đời phiêu bạc khắp
nơi với mục đích gì đây ? Chỉ còn lại cảm giác
cô đơn như cánh hãi âu cô độc trong trời đất mênh
mông mà thôi !
Lấy cột buồm cao cao so sánh với thân lẻ
loi cô độc của mình, lấy bầu trời cao với trăng sao để
thấy sự nhỏ nhoi của con người, lại lấy cánh đồng mênh
mông để giải bày uẩn khúc ở nội tâm. 4 câu đầu
là " LỮ DẠ ", lấy cảnh để ngụ tình. 4 câu sau là
" THƯ HOÀI ", nói lên cái hoài bảo và cảm xúc của
mình, không ngờ là nhờ văn chương mà được nổi
tiếng, trong khi chính trường thì vì bệnh tật, già cả mà
phải bị từ quan, thương cảm cho tấm thân phải phiêu bạc khắp
nơi không nơi nương tựa, lời thơ bi thiết như tiếng thở
dài !...
Diễn Nôm :
Vi vút gió đùa cỏ dại,
Cao cao buồm trống cột không.
Sao trời như chùn xuống thấp,
Nước trăng lắp lánh về đông.
Văn chương làm nên danh giá ?
Lão bệnh quan trường hết mong,
Phiêu bạt phương trời ai biết ?
Hải âu, trời biển mênh mông !
Đỗ Chiêu Đức
ĐÊM
THU BUỒN LỮ QUÁN
Gió
nhẹ thổi phất phơ đấu ngọn cỏ
Cột
buồm cao trơ trọi giữa đêm sương
Có
chùm sao rơi rung xuống đồng hoang
Trăng loang loáng
trên dòng sông cuộn chảy
Mưu danh lợi bằng
văn chương sao phải ??
Thân đã già nên
cáo bệnh từ quan
Sống lênh đênh, đời
lữ khách lang thang
Như trong bão có chim âu
lạc bạn.
SONG QUANG
________________________________________________________________
Phong vũ
vãn bạc
Cùng
Bạn ,
Chiều
thứ bảy buồn , đọc bài thơ nầy lòng tôi vô cùng cảm
khái ,phỏng dịch gởi đến bạn thân đọc chơi . Qua cảnh
vật nên thơ của Đất Trời , thi nhân cảm xúc gởi lòng
mình qua vài câu thơ nhưng nghe thấm thía vô cùng .
Thân mến
Mailoc
Phong vũ
vãn bạc
Nguyên
tác: Bạch Cư Dị
風雨晚泊
白居易
苦竹林邊蘆葦叢,
停舟一望思無窮.
青苔撲地連春雨,
白浪掀天盡日風.
忽忽百年行欲半,
茫茫萬事坐成空.
此生飄蕩何時定?
一縷鴻毛天地中.
Phong vũ vãn bạc
Bạch Cư Dị
khổ trúc lâm biên lô vi tùng,
đình chu nhất vọng tư
vô cùng .
thanh đài phác địa liên xuân vũ,
bạch
lãng hiên thiên tận nhật phong.
hốt hốt bách niên hành
dục bán,
mang mang vạn sự toạ thành không.
thử sinh phiêu
đãng hà thì định?
nhất lũ hồng mao thiên địa
trung.
-Bản dịch của Tản Đà
Rừng
tre khóm sậy thú bên sông
Đỗ lại con thuyền bát ngát
trông
Mưa cữ, rêu xuân xanh đất giải
Ngày thâu, sóng
gió bạc trời tung
Trăm năm phút chốc toàn non nửa
Muôn
việc trần gian có hoá không
Xiêu giạt bao giờ yên chốn
nhỉ ?
Sống trong trời đất một lông hông
--Bản
dịch của MaiLộc—
Bên
bờ lau , trúc tre xào xạc ,
Buộc
con thuyền , bát ngát vời trông .
Mưa xuân đất phủ rêu phong
Suốt ngày sóng gió bọt tung trắng trời .
Tuổi trăm năm nửa đời chớp nhoáng ,
Muôn việc trần thấp thoáng có không .
Bao giờ thôi hết bềnh bồng ?
Giữa trời lơ lửng lông hồng nhẹ
tênh .
ĐẬU
THUYỀN CHIỀU MƯA GIÓ
Bụi lau khóm trúc
giữa mênh mông
Thuyền nhỏ xa mờ lãng đãng
trông
Mưa suốt mùa xuân rêu xanh sắc
Ngày dài gió lộng sóng không cùng
Trăm năm chớp mắt qua già nửa
Muôn việc rồi ra cũng hoá không
Rốt lại đời ta lang thang mãi
Như lông
hồng lơ lửng từng không
C.D.M.
SQ cũng xin mua vui cùng các bạn "vườn
thơ thẩn"
Để
không vượt qua ý người xưa,SQ cũng chỉ lượm lặt ghép
lại mà thôi.Mong lượng thứ.SQ
GIÓ MƯA TỰ
VẤN
Ven bờ lau sậy mọc thong dong
Một chiếc thuyền con dõi mắt trông
Mưa đổ tiết Xuân rêu
sắc thắm
Gió lay
ngày cuối sóng lung tung
Trăm
năm mấy chốc, giờ hơn nữa
Vạn sự rồi qua , có tựa không
Phiêu lãng bao giờ ta cố định ???
Đất trời nhẹ thể một
lông hồng !!
SONG QUANG
風雨晚泊
PHONG VŨ VÃN BẠC
白居易
Bạch Cư Dị
苦竹林邊蘆葦叢, Khổ trúc lâm
biên lô vi tùng,
停舟一望思無窮。 Đình chu nhất
vọng tứ vô cùng.
青苔撲地連春雨, Thanh đài phác
địa liên xuân vũ,
白浪掀天盡日風。 Bạch lãng hiên thiên tận nhật
phong.
忽忽百年行欲半, Hốt hốt bách
niên hành dục bán,
茫茫萬事坐成空。 Mang mang vạn sự tọa thành không.
此生飄蕩何時定? Thử sanh phiêu đãng
hà thời định ?
一縷鴻毛天地中. Nhất lũ hồng mao thiên
địa trung.
Chú Thích :
Khổ Trúc : Tên một loại tre, như cây lồ ồ của ta.
Phác địa : Phủ đấy đất.
Hiên
Thiên : Cuốn lên trời.
Hốt Hốt : Bổng
chốc, Vội vả.
Mang Mang : Mênh mông , Mờ Mịt,
Mơ hồ.
Nhất Lũ Hồng Mao : Một sợi lông
hồng.
Dịch Nghĩa
:
ĐẬU
THUYỀN ĐÊM MƯA GIÓ.
Bên rừng
tre sát ven bờ lao sậy, ta dừng thuyền bên bến nhìn cảnh vật
mà tâm tư xúc động vô cùng. Rêu xanh phủ đầy đất
trong bầu trời lấm tấm mưa xuân, ngoài khơi sống bạc đầu
như cuốn đến tận chân trời trong cơn gió lộng suốt ngày.
Cuộc đời trăm năm thoáng chốc mà đã qua hết phân nửa
rồi, và muôn sự ở đời như mênh mông mờ mịt chẳng
có thành đạt gì. Cuộc sống phiêu bạc nổi trôi nầy
phải đến lúc nào mới ổn định được đây ? Ôi
thân ta khác nào sợi lông hồng đang lãng đãng phiêu bồng
trong trời đất.
Diễn Nôm :
Rừng trúc xạt xào khua lao sậy,
Dừng thuyền cảm xúc cảnh vô cùng.
Rêu xanh phủ đất mưa xuân ướt.
Sóng bạc ngất trời gió lộng tung.
Thoáng chốc trăm năm đà quá nửa,
Mơ hồ vạn sự cũng thành không.
Kiếp nầy phiêu bạc khi nào nghỉ ?
Một sợi tơ trời lãng đãng trông.
Đỗ Chiêu Đức.
Thưa quí Thi hữu
Tôi xin cố gắng nương theo ý tác giả được
gần chừng nào hay chừng nấy mà dich bài này để cùng
nhau góp vui với qui bạn
Thân chào
Quang Tuấn
NEO THUYỀN TRÊN BẾN MƯA
Lau trúc mọc
đầy khắp dải sông
Cho thuyền đỗ bến xa vời trông.
Mưa Xuân dầm đất rêu xanh biếc
Gió lộng tung
trời sóng trắng trong.
Thấm thoát trăm năm qua quá
nửa
Miên man vạn sự trở thành không.
Bao
giờ yên ổn đời phiêu lãng?
Nhẹ bổng chiếc lông
cõi mịt mùng .
Quang
Tuấn
Quên
Đi xin góp đôi dòng:
Đường hoạn lộ của Bạch
Cư Dị cũng lắm gian nan. Đang tước trọng quyền cao ở triều đình,
từ từ bị giáng xuống làm một viên quan coi việc quân ở
tận huyện Giang Châu. Có phải đây lả tâm trạng của Ông
trong bài "Phong Vũ Vãn Bạc"?
風雨晚泊
Phong vũ vãn bạc
白居易
Bạch Cư Dị
苦竹林邊蘆葦叢, Khổ trúc lâm biên lô
vĩ tùng
停舟一望思無窮。 Đình chu nhất vọng tứ
vô cùng
青苔撲地連春雨, Thanh đài phác địa
liên xuân vũ
白浪掀天盡日風。 Bạch lãng hiên thiên tận
nhật phong
忽忽百年行欲半, Hốt hốt bách niên hành
dục bán
茫茫萬事坐成空。 Mang mang vạn sự tọa thành
không
此生飄蕩何時定, Thử sinh phiêu đãng hà
thời định
一縷鴻毛天地中 Nhất lũ hồng
mao thiên địa trung
Dịch Nghĩa : Neo Thuyền Đêm
Mưa Gió
Đám
sậy cạnh bên rừng tre
Thuyền đã dừng lại, bồi hồi
nhìn về chốn xa xăm
Mưa xuân liên tiếp khiến rêu xanh phủ
đầy mặt đất
Sóng bạc đầu như được gió
nâng lên trời lúc cuối ngày
Thoáng chốc trăm năm đi
qua muốn nửa
Tràn ngập muôn việc trên đời lại phải
ngồi không
Cuộc sống trôi giạt bao giờ mới ổn định
Hay như những chiếc lông hồng giữa đất trời.
Dịch
Thơ :
Neo Thuyền Đêm
Mưa Gió
Bên cạnh rừng tre
chen chúc sậy
Dừng thuyền xao xuyến vợi vời trông
Mưa xuân ẩm đất rêu xanh phủ
Sóng gió
nước đùa trắng cả sông
Thoáng chốc trăm năm đà
được nửa
Ngập tràn muôn việc lại ngồi không
Bao
giờ ổn định thân trôi giạt
Hay mãi lưng trời tựa chiếc
lông
Quên Đi
NEO THUYỀN ĐÊM
MƯA
Neo thuyền bên đám sậy chen dầy
Ngơ ngẩn nhìn về chốn
cuối mây
Thấm đẫm
mưa xuân, rêu phủ đất
Tung trào sóng bạc, gió đưa ngày
Nửa đời thấm thoát, chưa yên
phận
Mọi việc
bời bời, vẫn bó tay
Như
chiếc lông hồng trong vũ trụ
Đời ta ổn định lúc nào đây?
Lộc Mai
Tam Quốc
Diễn Nghĩa Đề Từ
Nguyên tác: Dương Thận
Bản dịch: Phạm Khắc Trí,
Quên Đi, Chân Diện Mục, Mỹ Hồng
_____________________________________________
Được sự đồng cảm trong thơ
xưa là một niềm vui. Tôi ngồi chép lại một bài thơ xưa
để thay lời cám ơn.Cầu chúc an lành.
PKT
08/22/2013
Tam Quốc Diễn Nghĩa
Đề Từ
Dương Thận (1488 - 1559)
Cổn cổn Trường giang đông
thệ thủy
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu không
Thanh sơn y cựu tại
Kỷ độ tịch dương hồng
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng
Quán khan
thu nguyệt xuân phong
Nhất hồ trọc
tửu hỷ tương phùng
Cổ kim
đa thiểu sự
Đô phó tiếu
đàm trung
Ca
Từ Mở Đầu Truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa
(Theo điệu Lâm
Giang Tiên - Mây Tần- PKT)
Trường Giang cuồn cuộn đổ ra biển
Sóng nổi dìm
hết anh hùng
Chính tà thành
bại thoắt thành không
Non xanh xưa
còn đó
Bao độ nắng chiều
hồng !
Đôi
bạn ngư tiều trên sông nước
Trăng thanh gió mát rong
chơi
Hồ rượu tương phùng
chừng đã vơi
Cổ kim thiên
hạ sự
Khề khà cười vui
thôi !
PKT
Trọc Thanh
Trường Giang nước cuộn đổ về đông
Sóng dập biết bao anh hùng
Phải quấy hơn thua tựa bằng không
Non xanh vẫn thế đấy
Mấy lượt ánh ráng hồng
Trọn
kiếp ngư tiều trên bãi vắng
Ngắm
thời gian chảy theo dòng
Khi gặp cùng
vui bên bầu rượu
Sự thế há
bận lòng
Cứ tự tại thong dong.
Quên Đi
ĐỀ TỪ TRUYỆN TAM QUỐC
Trường Giang sóng cuộn về Đông
Anh hùng lớp lớp sập giòng thời gian
Chẳng còn ai thắng bại
Như nắm đuốc lụi tàn
Vầng dương sáng rồi tắt
Núi xanh như thi gan
Kiếm củi giăng câu bên
bến vắng
Bạc đầu trơ mặt gió xuân sang
Rượu đục một bầu vui gặp gỡ
Chuyện
xưa nay lan man
Bỏ mặc nhân gian
Nâng chén cười
tràn
C.D.M.
Lãng Quên
Sông dài đổ tận biển khơi
Sóng thời gian
cuộn dập vùi hùng anh
Thắng
thua, thành hoại tan tành
Núi
cao duy vẫn trơ xanh giữa trời
Khi
vần dương khuất sau đồi
Ngư tiều đôi bạn rượu mời nhau vui
Bồng bềnh sóng nước chơi vơi
Trăng thanh gió mát sự đời lãng
quên.
Mỹ-Hồng
24/08/13
KHUÊ
TÌNH
Thơ Lý Bạch
Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Lộc Mai, Quên Đi, VHKT, Danh Hữu,
Đỗ Chiêu Đức
Cùng
Bạn.
Đã
khá lâu thấy vắng bóng góc Đường Thi , nay xin mạn phép
gởi đến các Thầy và Bạn một bài thơ của Lý Bach
mà tôi vừa phỏng dịch xong để cùng nhau hâm nóng lại mấy
vần thơ dịch cho vui .
Kính mến
Mailoc
Khuê
tình
Nguyên tác: Lý Bạch
閨情
流水去絕國。浮雲辭故關。
水或戀前浦。雲猶歸舊山。
恨君流沙去。棄妾漁陽間。
玉箸夜垂流。雙雙落朱顏。
黃鳥坐相悲。綠楊誰更攀。
織錦心草草。挑燈淚斑斑。
窺鏡不自識。況乃狂夫還。
Khuê tình
Lý Bạch
Lưu thủy khứ tuyệt quốc,
Phù vân từ cố quan.
Thủy hoặc luyến tiền phố,
Vân
do quy cựu san.
Hận quân Lưu Sa khứ
Khí thiếp Ngư Dương
gian.
Ngọc trợ dạ thùy lưu,
Song song lạc châu nhan.
Hoàng
điểu tọa tương bi.
Lục dương thùy cánh phan?
Chức
cẩm tâm thảo thảo,
Khiêu đăng lệ ban ban.
Khuy kính bất
tự thức,
Huống nãi cuồng phu hoàn.
--Dịch nghĩa:--
Tình trong khuê phòng
Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu
luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình
ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn
thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.
--Bản dịch của MaiLộc--
Nước trôi mãi về nơi xa vắng ,
Biên thùy xưa mây trắng
lưa thưa .
Nước còn lưu luyến bến xưa ,
Mây về núi cũ tình
chưa xóa nhòa .
Hận chàng đi Lưu Sa lòng chạnh ,
Thiếp
Ngư Dương cô quạnh sầu thương .
Châu sa đũa ngọc đêm
trường ,
Hai dòng lệ thắm vương vương má hồng
.
Tiếng oanh hót khiến lòng xao xuyến ,
Liễu tơ xanh chẳng luyến vin
cành .
Vẩn vơ , gấm dệt chẳng thành ,
Khêu đèn , thổn thức
, long lanh lệ tình .
Soi gương không nhận ra mình
,
Chàng về có lẽ càng nhìn càng đau
Mailoc
ĐỢI CHÀNG
Ôi nước lan man xa tít
Mây ngoài quan ải bơ
vơ
Nước ngoái nhìn mãi bến bờ
Mây còn tương tư núi xưa
Chàng
dứt áo ra quan ải
Có còn nghĩ thiếp bơ
vơ
Đêm đêm lệ rơi không dứt
Chảy tràn trên mặt hoa tàn
Chim ơi
thương ta chăng chớ
Buồn chuyền cành liễu
khóc than
Cầm thoi tay đưa rời rã
Sợi rối sợi đứt khôn hàn
Gương
ơi sao mi hiểm thế
Lòng ta thảng thốt đợi
chàng
C.D.M.
Xin
cám ơn anh Mai Lộc đã cho thưởng thức bài thơ KHUÊ TÌNH
của thi hào Lý Bạch và bản dịch rất hay của anh. Dựa theo
ý của bài thơ, Lộc Mai xin có bài đường
luật cảm tác sau đây:
LỜI NGƯỜI CÔ PHỤ
Nước chảy miên man vẫn giữ nguồn
Mây xa núi cũ bóng còn vương
Giận chàng biền biệt nơi biên ải
Thương thiếp âm thầm chốn cố hương
Khắc khoải thâu đêm, sầu chất ngất
Mỏi mòn suốt sáng, lệ dầm tuôn
Soi gương, thảng thốt nhìn hoa úa
Ôi, buổi người về biết có thương ?
Lộc Mai
Khuê Tình
Nước chảy đi cuối xứ
Mây
trôi từ ải xưa
Nước chẳng quên bến cũ
Mây sẽ
lại non nhà
Giận chàng đến Lưu Sa
Ngư Dương bỏ
thiếp lại
Hằng đêm lệ tuôn dài
Dung nhan dần héo
úa
Than thở cùng chim oanh
Liễu biếc ai vin cành
Dệt gấm
buồn mang mang
Thắp nến lệ hàng hàng
Soi gương tìm dáng
cũ
Chàng về thiếp chẳng an.
Quên Đi
Nước lạnh lùng trôi về bất tận.
Mây hững hờ
che lấp ải quan.
Bến cũ, nước vẫn lan man.
Núi xưa, mây phủ
mênh mang, là đà.
Hận chàng đến Lưu Sa hoang vắng.
Ở Ngư Dương
cay đắng thiếp mong.
Đũa ngọc đêm chảy dòng dòng.
Hai hàng lệ
thắm má hồng, ai đang?
Đem đau thương, chim vàng chia sẻ.
Cành dương
xanh, ai bẻ cùng ai?
Dệt gấm, lòng mãi u hoài.
Khêu đèn, lệ lại
chảy dài đẫm khăn.
Soi gương thấy, da nhăn đã khác.
Huống chi ngày chàng vác cung về.
VHKT
Tình đàn bà
Dòng
nước trôi cuối xứ,
Đám mây rời cố quan.
Nước
còn yêu nguồn cũ
Mây cũng về cựu san.
Lưu Sa, giận
chàng đến;
Ngư Dương, mặc thiếp hàn.
Đêm
đêm, lệ ngọc chảy
Hàng hàng, mặt châu lan.
Chim
vàng, cũng buồn đậu;
Dương xanh, đâu mơn man.
Gấm
dệt, lòng rối rắm,
Đèn khêu, lệ hoen tràn.
Soi
gương, ta đâu nhỉ ?
Chàng về, luống mừng ran.
Danh Hữu dịch
Đỗ Chiêu Đức: Góp ý & bản dịch Khuê
Tình
Kính
thưa Quý Tiền Bối và Thân Hữu,
Đến hôm nay Đỗ Chiêu Đức mới có rảnh để tham gia
cùng Quý vị về bài thơ KHUÊ TÌNH của Lý Bạch. Xin được
góp ý như sau...
Về
câu11 : " Chức cẩm tâm THẢO THẢO ". Ta tìm hiểu về chữ
THẢO nhé...
THẢO 草
là CỎ, thuộc Bộ Thảo 艹, chỉ chung các loại Thảo Mộc.
Cỏ là Cỏ rác, vật không được xem trọng, nên có những
nghĩa phát sinh như sau : THẢO là Cái gì đó... rất Sơ Sài,
Hời Hợt...
Ví dụ :
Bản Thảo : Là Văn bản chưa được sửa chửa và chỉnh
trang.
THẢO một bức thơ,
là chưa phải thơ Chính Thức, bức thơ nầy còn phải được
viết lại cho đàng hoàng.
Khi được ghép 2 chữ THẢO thành : Thảo Thảo 草草, thì
có nghĩa : Chuyện gì đó chỉ Làm Lấy Có, làm Dối
Trá, làm Phức Cho Xong, làm Quấy làm Quá.... Ví dụ :
Người Hoa có Thành Ngữ : Thảo Thảo Liễu Sự 草草了事, có nghĩa : Làm Sơ Sài cho xong việc. Nên...
" Chức Cẩm Tâm THẢO THẢO " 織錦心草草
có
nghĩa...
Ngồi dệt
gấm mà lòng Lơ Đễnh để ở đâu đâu. Vì nhớ
thương chồng nên ra vào không có việc gì làm, ngồi dệt
gấm là dệt cho có, chớ thực tâm không có muốn dệt gấm
!...
Còn một câu cuối
nữa...
Câu 14 :" Huống
nãi Cuồng Phu hoàn." 況乃狂夫還。
CUỒNG 狂 là Mạnh
Bạo, Khùng Điên... Vậy...
CUỒNG PHU 狂夫 là Anh chồng Khùng sao ?! Thưa, không phải ! Đây
chỉ là cách Nói Lẫy của bà vợ nhớ chồng quá rồi
hóa... Lẫy ! Ta xét thêm nghĩa của câu 13 nữa nhé...
Khuy kính bất tự thức, 窺鏡不自識 là " Nhìn vào gương mà mình cũng
không biết là mình " Vì nhớ chồng quá nên dung nhan tiều
tụy võ vàng, ngay cả mình cũng không nhận ra mình, nên mới...
" Huống nãi Cuồng Phu hoàn."
況乃狂夫還。
......Sợ " thằng chồng
Gàn Dỡ của mình cũng không chịu nhìn ra mình nữa ! Chính
mình còn không nhận ra mình, Huống Hồ thằng chồng Cà Chớn
của mình khi về, biết Nó có chịu nhìn mình hay không ?! Rõ
khổ !!!...Đây chỉ là một kiểu MẮNG YÊU mà thôi !
Bây giờ thì Đỗ Chiêu Đức
xin được góp bài dịch như sau :
TÌNH KẺ PHÒNG KHUÊ
Nước trôi trôi biền biệt,
Mây bay khuất ải quan.
Nước còn mơ bến cũ,
Mây vẫn nhớ núi ngàn.
Hận chàng Lưu Sa biệt,
Bỏ thiếp giữa Ngư Dương.
Đêm nhỏ hai hàng lệ,
Song song ướt má hường.
Oanh vàng buồn thôi hót,
Liễu xanh chẳng kẻ màng.
Khung gấm lòng lơ đễnh,
Chong đèn lệ chứa chan.
Soi gương không nhận bóng,
Huống chi anh chồng gàn !!!
Lục
bát :
Nước trôi cố quốc xa rồi,
Mây bay biền biệt bồi hồi ải xa.
Nước kia còn luyến bến nhà,
Mây ngàn nhớ núi la cà về thăm.
Lưu Sa chàng mất biệt tăm,
Ngư Dương bỏ thiếp âm thầm xót thương.
Đêm đêm nhỏ lệ đoạn trường,
Hai hàng châu ngọc má hường ủ ê.
Oanh vàng cất tiếng thảm thê,
Liễu xanh ai bẻ, ai về, hỏi ai ?!
Bên khung dệt gấm ai hoài,
Chong đèn giọt vắn giọt dài thở than.
Soi gương khôn xiết ngỡ ngàng,
Dung nhan tiều tụy sợ chàng về chê !!!
Đỗ Chiêu Đức
Nhàn Cư Tặng Bạn
Nguyên tác: Vương Duy
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Chân Diện Mục, Trầm Vân
_________________________________________________
Quả thực là "nhàn cư vi bất thiện
" , ngồi nhàn làm điều chẳng lành , học lóm được
đôi ba chữ thánh hiền , cuối tuần thơ thẩn chọc phá chữ
nghĩa ,và mọi người thân quí cho vui thôi. Cầu chúc an lành.
PKT 07/27/2013*
Võng Xuyên Nhàn Cư Tặng Tú Tài Bùi Địch
Vương
Duy (699 -759)
Hàn sơn chuyển thương thúy
Thu thủy nhật sàn
viên
Ý trượng sài môn
ngoại
Lâm phong thính mộ thiền
Độ đầu dư lạc nhật
Khư lý thượng cô yên
Phục trị Tiếp Dư túy
Cuồng
ca ngũ liễu tiền
Dịch Xuôi : Sống Nhàn
Ở Võng Xuyên Làm Bài Thơ Tặng Tú Tài Bùi Địch
PKT 07/27/2013
Núi trời lạnh ,đã đổi sang màu
xanh thẫm
Nước tiết thu , ngày vẫn chảy miệt mài
Đứng chống gậy ở ngoài cửa gỗ
mục
Nghe trong gió lộng tiếng ve chiều
kêu
Đầu bến đò chìm
ngập trong bóng hoàng hôn
Ngoài
gò xóm lửng lơ ngọn khói lẻ loi
Ước tưởng mình là gã Sở Cuồng say
Đang nghêu ngao hát trước nhà ông Ngũ Liễu
Chú Thích
(1)
Tiệp Dư là tên tự của Lục Thông , người nước Sở
, đời Xuân Thu , thấy việc nước suy đồi , giả dại , không
chịu ra làm quan , người đời gọi là gã Sở Cuồng.
(2) Đào Tiềm , cuối đời nhà Tấn
, không chịu cảnh luồn cúi chốn quan trường , từ quan , lui về
ẩn dật , trước nhà có trồng 5 cây liễu , nên còn được
người đời gọi là ông Ngũ Liễu .
Nhàn
Cư Tặng Bạn
PKT 07/27/2013
Núi trời lạnh đổi sang màu xanh biếc ,
Nước ngày
thu sao vội chảy miệt mài.
Chống gậy
đứng ngoài cửa sài hiu quạnh ,
Trong
gió chiều , ve ra rả ru ai.
Đầu bến
vắng chở hoàng hôn sang muộn ,
Khói
lam thưa vương vấn xóm gò xa.
Hồn
thả về trước nhà năm cây liễu ,
Thấy người điên đang hát khúc cuồng ca .
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Nhàn cư ở Võng Xuyên
(1)
Núi
hoang lạnh trở màu xanh ngọc biếc
Nước sông thu cứ mải miết
đêm ngày
Chống gậy tre lững thững trước cổng sài .
Ve
sầu thảm , gió hây hây , chiều xuống.
Trên bến
vắng còn vài tia nắng muộn .
Làn khói thôn cô
quạnh lượn mơ màng.
Như Tiếp Dư đang túy lúy làng
quàng .
Nghêu ngao hát dưới tàn cây năm liễu
.
ML
(2)
Núi đang lạnh
chuyẻn màu xanh biếc ,
Nước sông thu chảy siết đêm
ngày .
Gậy tre lững thững cổng ngoài ,
Gió
chiểu hây hẩy u hoài tiếng ve .
Đầu bến sông
nắng hoe lấp lánh ,
Làn khói lam cô quạnh thôn chiều
.
Tiếp Dư say khướt liêu xiêu
Bên
hàng năm liễu hát nghêu quên đời .
ML
MUỐN
UỐNG RƯỢU SAY HÁT
TRƯỚC NHÀ NGŨ LIỄU TIÊN SINH
Xanh xanh thương núi lạnh ngả
mầu
Nước biếc Thu về chảy lũng sâu
Cổng trúc lão
buồn chống gậy ngắm
Gió chiều lấp lửng tiếng ve sầu
Bến
sông vầng ác lang thang mãi
Sợi khói trên gò lơ đãng
đâu
Muốn học Sở Cuồng ca ngất ngưởng
Trước nhà
Bành Trạch liễu xanh mầu
C.D.M.
Nhàn Cư
Tặng Bạn
Lạnh
trời núi sẫm màu xanh
Ngày thu nước vẫn chảy quanh miệt mài
Tay cầm gậy chống cửa ngoài
Gió
lồng lộng tiếng gọi ai ve chiều
Hoàng hôn ngập
bến đò xiêu
Gò xa ngọn khói đăm chiêu lướt
ngày
Ngỡ mình gã Sở cuồng say
Trước nhà năm liễu lất lây hát cuồng
Trầm Vân
Đăng Tân Bình Lâu
Lý Bạch
Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi, C.D.M
_____________________________________________________
Nhàn
nhã vô tích sự (!) bên tách cà phê starbucks sáng nay. Vốn
biết bản chuyển dịch đã không giữ được "phong cách
Lý Bạch" (những nào :khứ quốc , hoài qui , thiên trường
, thủy tĩnh , Tần vân , Hồ nhạn , thương thương , mục cực)
nhưng vẫn cứ gửi đi để mọi người đọc cho vui với
chữ nghĩa cuối tuần thôi. Cầu chúc an lành. Thân quí . PKT-
07/20/2013
Đăng Tân Bình Lâu
Lý Bạch (701 - 762)
Khứ quốc đăng tư lâu
Hoài qui thương mộ thu
Thiên
trường lạc nhật viễn
Thủy tĩnh hàn ba lưu
Tần vân
khởi lĩnh thụ
Hồ nhạn phi sa châu
Thương thương kỷ
vạn lý
Mục cực lệnh nhân sầu
Dịch
Xuôi :
Lên Chơi Trên Lầu Tân Bình
PKT 07/20/2013
Xa xứ , bước lên lầu này
Trời cuối thu buồn , nhớ về
nhà
Trời dài , mặt trời lặn ngoài xa
Sông lặng, sóng
nước lạnh trôi xuôi
Mây Tần nổi lên ở rặng cây
trên núi
Nhạn Hồ bay xuống đậu trên bãi cát bên sông
Xanh xanh mấy vạn dặm
Vời trông mòn mắt, trạnh buồn
Chú Thích:
Lầu
Tân Bình ở huyện Vu Sơn , tỉnh Tứ Xuyên , bên Tàu.
Đăng Tân Bình Lâu
PKT 07/20/2013
Xa xứ , trên lầu vắng ,
Tiết thu muộn nhạt nhòa.
Cuối
trời bóng ác lặn ,
Sông lạnh , sóng trôi xa.
Mây nổi trắng non cao ,
Nhạn bay về bãi nào.
Xanh
xanh mấy vạn dặm ,
Mòn mắt, dạ nao nao.
Lên Chơi Lầu Tân Bình
Xa quê lâu , lầu cao đứng ngắm ,
Trời cuối thu sầu lắng quê nhà .
Chân trời bảng lảng chiều tà ,
Sông yên sóng lạnh nhẩn nha xuôi dòng .
Áng mây Tần chập chùng rừng núi ,
Cồn cát sông rong ruổi nhạn Hồ .
Dặm ngàn xanh ngắt lô nhô ,
Trông càng thấm thía , ngẩn ngơ se sầu .
Mailoc
Cali 7-20-13
Dịch Thơ : Lên Lầu Tân Bình
Xa xứ
lên lầu vắng
Cuối thu thêm nhớ nhà
Trời cao chiều xuống chậm
Sóng
lạnh nước trôi xa
Cổ thụ mây
Tần đến(*)
Nhạn Hồ bãi cát sa(**)
Rừng xanh hàng vạn dậm
Dõi
mắt lệ chan hoà
Quên
Đi
(*) Có
người cho rằng hai chữ Tần Vân trong bài thơ trên xuất phát
từ bài thơ của Hàn Dũ: "Tả Thiên Chí Lam Quan Thị Điệt
Tôn Tương"
Vân hoành Tần Lĩnh
gia hà tại (Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu)
Nhưng
nếu xét kỹ về năm sanh của Lý Bạch : 701 - 162. Còn Hàn Dũ
thì mãi đến 768 - 824. Như thế chữ Tần Vân này, Lý Bạch
không thể dựa theo bài thơ của Hàn Dũ được.
-Cũng
có quan điểm "Tần Mây" dùng để đối với"Mưa
Sở". Điều này lại hoàn toàn vô lý. Vì Câu thơ
của Lý Bạch ẩn ý nhớ quê nhà.
(**) Theo tích Chiêu
Quân Cống Hồ
Khi Chiêu Quân đi ngang sa mạc, lòng
nàng buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Lúc ngồi
lưng ngựa liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con nhạn
bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc nhạc liền sa xuống vùng
cát hoang vu.
BÓNG MÂY , CHIM XA XĂM
Kẻ bỏ nước lên lầu
Chiều xanh nhớ
nước quá
Mặt trời xa buồn rầu
Nước lạnh chân sóng
lạ
Mây Tần cây lạnh mầu
Nhạn Hồ bay sa châu
Vạn
dặm sầu xa cách
Càng nhìn xa càng đau
C.D.M.
LÊN LẦU KHÁCH NGẨN NGƠ
Nhớ quê lên lầu buồn
Quê xanh mầu
chiều thu
Mặt trời xa cuối bãi
Nước lạnh buồn âm u
Cây xưa u sầu góc núi
Chim Việt lạc giọng giòng sâu
Chiều thêm thêm mầu tối
Khách ngẩn ngơ nhìn đâu đâu
C.D.M.
VÔ ĐỀ
Lý
Thương Ẩn
Bản
dịch: Danh Hữu,
Đỗ Chiêu Đức, Quang Tuấn, Mailoc, Lộc Mai, Phạm Khắc Trí, Nguyễn Hồng Ẩn
_______________________________________________________________
Góp vui cuối tuần
Mấy lúc sau này
mình không có góp dịch thơ Đường với các bạn yêu
thích thể loại thơ này, vì mình tuổi vốn quá đát
(date) rồi nên không thích các bài thơ quá buồn (các bạn
thứ cho nhé !). Sáng nay tình cờ lục lại chồng sách cũ, thấy
có câu thơ của Lý Thương Ẩn do ông Đông Hồ múa
bút trên cánh thiếp : Tương kiến thời nan, biệt diệc nan,
nên mình lục lại bài thơ nầy và cao hứng dịch để
góp vui với các bạn tuần này. Cũng nhân dịp gởi lời cảm
tạ anh Lộc đã chúc sức khỏe vợ chồng mình hôm trước,
xin gởi tới anh lời chúc tương tự và cầu xin tất cả chúng
ta đều khỏe mạnh mãi để vui cùng nàng thơ. Luôn tiện
nhờ anh bạn Chiêu Đức có rảnh giúp diễn xuôi (hoặc chú
thích) giùm.
無題
相見時難別亦難
東風無力百花殘
春蠶到死絲方盡
蠟炬成灰淚始乾
曉鏡但愁雲鬢改
夜吟應覺月光寒
蓬萊此去無多路
青鳥殷勤為探看
李商隱
Vô Đề
Tương
kiến thời nan, biệc diệc nan;
Đông phong vô lực, bách
hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử, ti phương tận;
Lạp cự thành hôi, lệ thủy can.
Hiểu
kính đản sầu, vân mấn cải,
Dạ ngâm
ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồn Lai thử khứ, vô đa
lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
Lý Thương Ẩn
Bài thơ không đề
Gặp đã khó, xa nhau
khó thêm !
Gió
đông đâu khiến rụng hoa thềm.
Thân tằm đến chết, tơ vừa cạn;
Nến sáp thành tro, lệ mới
kềm.
Gương
ngắm, buồn cho mầu tóc bạc
Khuya ngâm, cảm thấy lạnh trăng đêm.
Bồng Lai mấy nẽo, rày đi thử
Hẹn với chim xanh đoán
hộ xem.
Danh Hữu dịch
Paris 12.7.2013
Kính
Tiền Bối,
Lâu quá mới thấy Tiền Bối
tái xuất giang hồ, rất hân hạnh được Tiền Bối giao cho trách
nhiệm Diễn xuôi và chú thích bài thơ VÔ ĐỀ nổi tiếng
nhất trong số hơn chục bài thơ đều cùng tên Vô Đề
của Lý Thương Ẩn.
無題 VÔ ĐỀ
相見時難別亦難 Tương kiến thời nan biệt
diệc nan,
東風無力百花殘 Đông phong vô lực bách
hoa tàn.
春蠶到死絲方盡 Xuân tầm đáo tử ty
phương tận,
蠟炬成灰淚始乾 Lạp cự thành hôi lệ
thủy can.
曉鏡但愁雲鬢改 Hiểu kính đản sầu
vân mấn cải,
夜吟應覺月光寒 Dạ ngâm ưng giác nguyệt
quang hàn.
蓬萊此去無多路 Bồng lai thử khứ vô đa
lộ,
青鳥殷勤為探看 Thanh điểu ân cần vị
thám khan.
李商隱 Lý Thương Ẩn.
Dịch
nghĩa:
Khi gặp được nhau đã khó rồi,
chia tay nhau lại càng khó hơn.
Gió xuân bất lực không đủ
sức, để trăm hoa phải tàn héo.
Con tằm xuân đến chết
mới nhả hết tơ lòng.
Ngọn nến tàn thành tro mới khô
hết những giọt lệ nến.
Sáng sớm soi gương, mới buồn
là tóc mai đã đổi trắng như mây.
Ban đêm ngâm
nga mới chợt thấy ánh trăng sao mà lạnh lẽo.
Từ đây
không có nhiều lối để đến được Bồng Lai. Nên...
mới ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm đường đi nước
bước.
Chú Thích :
Lý Thương Ẩn ( 812-858 ), tự là
Nghĩa Sơn, nên thường đựơc gọi thân mật là Lý Nghĩa
Sơn. Ông sống vào thời Vãn Đường (836-907), nhà Đường
xuống dốc và sụp đổ nhanh chóng. Nông dân bị bóc lột,
sưu cao thuế nặng, quan lại hà hiếp, sự xa hoa trụy lạc của bọn
quí tộc quan liêu. Lời hịch khởi nghĩa truyền nhau đã dẫn
dắt đến nhiều cuộc nổi dậy để đòi quyền sống,
đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Trong cảnh xã
hội nhiễu nhương, đất nước loạn ly phân tán, nền văn
học Trung Hoa cũng đột nhiên chuyển biến mang tính chất lãng mạn,
phóng khoáng, hiện thực, trữ tình, đem tình yêu nam nữ vào
thi ca, và những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ nầy có thể
nói là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Tào Đường, Ôn
Đình Quân, Đỗ Tuân Hạc …
Lý Thương Ẩn nổi
tiếng qua những bài thơ VÔ ĐỀ vì có ẩn tình riêng.
Cuộc đời tình ái của ông vô cùng lãng mạn như thanh
niên nam nữa hiện nay, ông yêu cả 2 chị em nữ đạo sĩ Tống
Hoa Dương, yêu cả người Thị thiếp của Lệnh Hồ Sở là
Cẩm Sắc, yêu cả một Thiên kim tiểu thơ tên Liễu Chi....nên
thơ của ông như tình của ông dàn trãi mênh mông, cuồng
nhiệt, say mê đắm đuối mà... mơ hồ không rõ đối
tượng, vì thế mà có tựa là VÔ ĐỀ, trong khi mọi
người đều làm thơ HỮU ĐỀ, và ông lại nổi tiếng
nhờ vào những bài thơ Vô Đề đó cho mãi đến hiện
nay, và... Mọi người đều tôn xưng ông là ông Tổ của
thơ VÔ ĐỀ.
Bài thơ trên là một
trong những bài VÔ ĐỀ nổi tiếng nhứt của ông đã ảnh
hưởng rất nhiều đến văn học, như câu :
Xuân tầm đáo
tử ty phương tận,
Cụ Nguyễn Du đã mượn ý câu trên
cho lời của Thúc Sinh nói với Kiều là :
Dù cho sông cạn
đá mòn,
CON TẦM ĐẾN THÁC VẪN CÒN VƯƠNG TƠ !
và hình ảnh của con chim xanh chuyên dọ đường và
đưa thơ của bà Tây Vương Mẫu...
Thanh điểu ân cần
vị thám khan
mà Cụ Nguyễn Du đã vận dụng rất tài
tình vào lúc chàng Kim đi dò la chỗ của cô Kiều ở :
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm DỨT
ĐƯỜNG CHIM XANH !
Cũng như câu :
Lạp
cự thành hôi lệ thủy can,
... mà Ngân Giang Nữ Sĩ ( thơ Tiền
Chiến ) đã mượn ý cho câu :
Đêm nay lệ nến rơi
thành chữ !
.............................................
Thưa
Tiền Bối,
Đ C Đ biết bấy nhiêu thì góp ý bấy nhiêu
thôi, mong Tiền Bối tiếu nạp ( vui vẻ mà nhận cho ) !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.
Bây giờ thì ĐC Đ xin được tham gia với bài Diễn Nôm
sau đây :
VÔ
ĐỀ.
Khó gặp được nhau khó cách xa,
Gió xuân bất
lực héo ngàn hoa.
Tầm kia đến thác tơ còn vướng,
Nến nọ tàn canh lệ chửa nhòa.
Trước kính sầu sao làn
tóc trắng,
Thâu đêm ngâm mãi ánh trăng lòa.
Bồng
Lai chẳng phải đường La Mã,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Đỗ Chiêu Đức
.
VÔ
ĐỀ
Dễ
gặp nhưng mà khó cách xa
Gió Đông đâu khiến úa ngàn hoa.
Tằm dù đến thác tơ còn vướng
Nến dẫu
sắp tàn lệ vẫn sa.
Ngày ngắm
mây vương làn tóc trắng
Đêm ngâm thơ vọng bóng
trăng tà.
Đâu là nẻo đến Bồng Lai cảnh
Nhờ cánh chim xanh hỏi giúp ta.
QUANG TUẤN
.
VÔ ĐỀ
Gặp chẳng dễ , khó thay ly biệt
Thoảng đông phong , rũ riệt ngàn
hoa .
Tơ tằm trọn kiếp xót xa
Nến thành tro bụi ,sáp đà lệ
khô .
Sáng soi gương sầu tô tóc
trắng
Đêm ngâm thơ
lạnh mảnh trăng tà .
Bồng
Lai muốn tới không xa ,
Chim xanh
dẫn lối giúp ta thăm dò.
Mailoc
Cali 7-12-13
.
VÔ
ĐỀ
Khó gặp, lại càng khôn cách
xa
Gió xuân chẳng đủ thắm muôn hoa
Lực mòn,
tằm hết tơ - đời dứt
Giọt cạn, nến tàn tro -
kiếp qua
Ngơ ngẩn soi gương, sầu tóc trắng
Thẫn
thờ vịnh cảnh, xót trăng tà
Đường nào đến chốn
Bồng Lai ấy
Ơi hỡi chim xanh chỉ giúp ta !
Lộc
Mai
Vô Đề
(Mây Tần - PKT)
Tan hợp , hợp tan , những đoạn trường ,
Trăm hoa tàn úa ,gió xuân
vương.
Thân tằm đến thác , tơ còn vướng ,
Phận nến hồ tàn , lệ vẫn tuôn.
Gương sáng
ngậm ngùi râu tóc bạc ,
Đêm khuya thơ thẩn bóng
trăng suông.
Bồng lai đâu đó, không nhiều lối ,
Ngóng đợi chim xanh đến dẫn đường.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
.
KHÔNG ĐỀ
Khó gặp thì càng khó biệt nhau
Gió đông thiếu ấm giữ
hoa lâu
Sợi
tơ ngưng nhả khi tằm chết
Ngọn nến lụn tàn ngưng lệ lau
Sáng sớm soi gương
buồn tóc bạc
Đêm khuya ngâm phú
lạnh trăng sầu
Bồng Lai đường đến không nhiều nẽo
Chỉ lối chim xanh giúp giùm
mau.
NGUYỄN HỒNG ẨN
January 7, 2013
Quan San Nguyệt ( Lý Bạch )
. Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Phạm
Khắc Trí, Chân Diện Mục . 關 山
月 QUAN SAN NGUYỆT 李白 Lý Bạch. 明月出天山, Minh nguyệt xuất Thiên San, 蒼茫雲海間。 Thương mang vân hải gian.
長風幾萬里, Trường phong kỷ vạn lý, 吹度玉門關。 Xuy độ Ngọc Môn Quan. 漢下白登道, Hán hạ Bạch Đăng
đạo, 胡窺青海灣。 Hồ khuy Thanh Hải loan. 由來征戰地, Do lai chinh chiến địa, 不見有人還。 Bất kiến hữu nhân hoàn. 戍客望邊色, Thú khách vọng biên
sắc, 思歸多苦顏。 Tư quy đa khổ nhan, 高樓當此夜, Cao lâu đương thử
dạ, 歎息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn Chú Thích : 1.「天山」Thiên Sơn,即祁連山,在今甘肅省境內。Tức
là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay. 2.「白登」Bạch Đăng,山名,在今山西大同東。漢高祖曾被匈奴圍困於此, tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh
Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô dây khổn
ở đây. 3.「窺」Khuy,窺伺。là dòm ngó. 4. 「青海灣」Thanh Hải loan,即青海湖,在今青海省境內。Tức
Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay. 5.「高樓」Cao Lâu,這裡指征夫住在家中的妻子。Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà.
Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú. Nghĩa
của Bài thơ : 皎潔的月亮從祁連山升起,輕輕漂浮在迷茫的雲海裏。長風掀起塵沙席捲幾萬里,玉門關早被風沙層層封閉。白登道那裏漢軍旌旗林立,青海灣卻是胡人窺視之地。自古來這征戰廝殺的場所,參戰者從來不見有生還的。守衛邊陲的征夫面對現實,哪個不愁眉苦臉思歸故里?今夜高樓上思夫的妻子們,又該是當窗不眠歎息不已。 Vầng trăng sáng vằng vặc đang
mọc lên từ Kỳ Liên Sơn, nhẹ nhàng lẩn khuất trong rung mây
mờ mịt. Gió lốc thổi dài từng cơn suốt mấy vạn dặm,
phủ lắp cả Ngọc Môn Quan là ải địa đầu. Cờ xí
và Hán binh đóng rợp cả Bạch Đăng đạo, còn binh Hồ
thì đang dòm dỏ Thanh Hải Loan. Từ xưa đến nay, những người
ra đi chính chiến nơi chiến địa, chẳng thấy có mấy ai được
về quê. Những người lính thú đang trấn giữ biên thùy,
ai là không mặt ủ mày ê mơ ước ngày được về
quê. Đêm nay, những nàng chinh phụ trên lầu cao mong nhớ chồng,
chắc cũng đang thở vắn than dài khôn nguôi. DIỄN NÔM
: TRĂNG LÊN ẢI NÚI. Trăng lên
đỉnh Thiên San, Bàng bạc núi mây ngàn. Muôn dặm cơn
gió lốc, Thổi thốc Ngọc Môn Quan. Hán xuống Bạch Đăng
đạo, Hồ dòm Thanh Hải Loan. Vì chưng nơi chiến địa, Có mấy ai khải hoàn ? Lính thú sầu biên tái, Mơ
về dạ ngổn ngang. Gác canh cao đêm vắng, Buông dài tiếng
thở than ! Đỗ Chiêu Đức. Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ
là : 高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ, 嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn. 1.
Ý thứ nhất : Cho người lính thú. Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng
là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc,
nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng
tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa ! 2. Ý thứ hai : Cho người
cô phụ ở nhà. Câu thơ có
nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ
cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không
phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa ! và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ
là : Lầu cao nhìn trăng sáng, Nàng
cô phụ thở than ! Làm ta lại nhớ đến
2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau : Lòng
thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên
San.... và... lại và...2 câu : 漢下白登道, 胡窺青海灣。 Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải
Loan. Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu
: Nay Hán xuống Bạch Thành đóng
lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất
lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !
Bận
bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời
gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu
! Đỗ Chiêu Đức. |
TRĂNG BIÊN ẢI
Trăng soi đỉnh núi Thiên San
Ánh
vàng lẩn khuất bạt ngàn rừng mây
Gió xa thổi
thốc dặm dài
Ngọc Môn Quan Ài mờ phai bụi đường
Binh
đao, cờ xí một phương
Hán , Hồ dàn trận trùng
trùng lửa, quân
Thương người chinh chiến xa xăm
Mấy
ai lành lặn mà mong trở về
Lính biên tấc dạ ủ
ê
Niềm riêng canh cánh nhớ quê, nghẹn lời
Lòng
người chinh phụ rối bời
Lầu cao quạnh quẽ, lệ rơi
mấy hàng....
Lộc Mai
QUAN SAN NGUYỆT
Lý Bạch
(701 -762)
Minh nguyệt xuất Thiên San
Thương mang vân hải
gian
Trường phong kỷ vạn lý
Xuy độ Ngọc Môn Quan
Hán hạ Bạch
Đăng đạo
Hồ khuy Thanh Hải loan
Do lai chinh chiến địa
Bất
kiến hữu nhân hoàn
Thú khách vọng biên sắc
Tư quy đa
khổ nhan
Cao lâu đương thử dạ
Thán tức vị ưng nhàn
Quan San Nguyệt
(Mây Tần - PKT)
Trăng mọc đỉnh Thiên San,
Biển mây sáng mênh mang.
Gió dặm dài thê thiết ,
Kéo qua Ngọc Môn quan .
Quân Hán
xuống Bạch Đăng ,
Rợ Hồ nhòm Thanh Hải.
Xưa nay từ chiến
địa ,
Mấy người về hay chăng?
Biên tái lộng sao trời ,
Nhớ
nhà dạ bồi hồi.
Đêm nay trên lầu vắng ,
Vầng trăng
ai xẻ đôi !
Phụ Chú :
Trong Truyện Kiều - Nguyễn Du có câu : "Vầng trăng ai xẻ làm đôi
/ Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường".
.Tôi nhớ đã
dịch bài này rồi ( không biết do ai đăng lên ) . Nay xin dịch
thêm bài nữa :
TRĂNG NGOÀI XA KIA
Trăng
bước ra triền núi Tuyết
Mờ mờ ngàn dặm mây trôi
Gió thổi điệp trùng quyết liệt
Rét buốt vào đất
ta rồi
Quân ta ra trấn biên giới
Giặc Hồ há dám trêu
ngươi
Chiến tranh hẳn là việc dữ
Thương người lính
thú xa xôi
Một đi nghĩ gì trở lại
Thái Sơn nhẹ
tựa lông thôi
Lầu cao ngồi ngóng hoà bình
Than than thở
thở khôn nguôi
C.D.M.
bản dịch cũ :
TRĂNG BIÊN ĐỊA
Trăng đã ló sau rèm
biếc
Núi và mây bên biển xanh
Gió lao xao tràn muôn dặm
Vượt biên cương nhiễu cửa thành
Quân giặc dòm đất
ta
Quân ta ra trọng trấn
Anh hùng phải như thế
Kể chi niềm
vương vấn
Hỡi ôi ! Từ xưa ai ca tụng
Hỡi ôi ! Từ
xưa ai khóc than
Đêm nay lên cao nhìn trận địa
Trăng đẹp
lung linh sáng quan san
C.D.M.
Chương Đài dạ tứ
Cùng Bạn ,
Xin chuyển đến
Bạn Thơ bài thơ " Đêm ở Chương Đài " cuả Vi
Trang để cùng góp vần chơi cho qua ngày thứ bảy cuối tuần
.
Chúc
sức khỏe , an vui .
Thân
ML
Chương Đài dạ
tứ
Nguyên tác:
Vi Trang
五言律詩
韋莊
章臺夜思
清瑟怨遙夜, 繞絃風雨哀。
孤燈聞楚角, 殘月下章臺。
芳草已云暮, 故人殊未來。
鄉書不可寄, 秋雁又南迴。
Chương
Đài dạ tứ
Thanh sắt oán dao dạ
Nhiễu huyền
phong vũ ai
Cô đăng văn Sở giác
Tàn nguyệt há Chương
Đài
Phương thảo dĩ nhân mộ
Cố nhân thù vị
lai
Hương thư bất khả ký
Thu nhạn hựu nam hồi.
Dịch Nghĩa
Tiếng đàn lảnh
lót oán hận đêm dài
Dây đàn run rẩy niềm xót
xa trong mưa gió
Dưới ngọn đèn cô đơn nghe điệu
kèn nước Sở
ánh trăng nhạt soi xuống Chương Đài.
Cỏ thơm đã dần dần tàn úa
Bạn cũ chưa có
ai về.
Thư nhà không thể gửi được
Vì nhạn mùa
thu đã lại xuôi nam. –
.
-Bản
dịch của Trần Trọng Kim--
Đêm xa vắng, nhặt thưa
thanh sắt,
Nắn đường tơ, réo-rắt gió mưa.
Tiếng
còi Sở, ngọn đèn mờ,
Đường Chương-đài dưới
bóng nga tiI mù.
Cỏ thơm sắp hết mùa tươi tốt,
Bạn
cố tri trông hút thấy đâu.
Thư nhà dễ gửi được
nào,
Gió thu đưa nhạn ào ào về nam.
--Bản dịch của MaiLộc—
Đàn ai oán đêm trường réo rắt ,
Gió mưa ngoài se sắt dây cung .
Đèn đơn, còi Sở não nùng ,
Trăng tàn rơi rụng mông lung Chương
Đài .
Cỏ thơm đã dần
phai hương sắc ,
Bạn cũ đâu !
vắng ngắt người về .
Thư nhà muốn
gửi khó bề ,
Xuôi Nam thu nhạn lê
thê cuối trời
.
BẢN DỊCH QUANG TUẤN
Đàn ai não nuột đêm thâu
Tiếng tơ run lạnh giọt sầu gió mưa
Dưới đèn, điệu Sở xa đưa
Ánh trăng
tà rụng gọi mơ Chương Đài.
Cỏ thơm hương sắc tàn phai
Bạn xưa mong nhớ, chẳng ai trở về
Thư nhà mong gởi khó ghê
Nhạn Thu ôi đã bay về phương
Nam.
.
CHƯƠNG ĐÀI ĐÊM MONG
NHỚ
Réo rắt xa đưa đêm vắng ,
Tiếng đàn
theo gió u hoài.
Đèn lụn đâu đây còi Sở,
Trăng
tàn lấp ló Chương Đài.
Cỏ non đâu còn mơn mởn,
Người xưa nào thấy vãng lai.
Thơ nhà sầu không thể
gởi,
Nhạn thu mõi cánh đường dài.
Đỗ Chiêu
Đức.
.
ĐÊM CHƯƠNG ĐÀI
Đàn
ai run rẩy giữa đêm trường
Trong gió mưa gào như oán thương
Hiu hắt
đèn đơn, kèn nức nở
Ảo mờ trăng khuyết, lối mờ sương
Cỏ thơm
nay đã phai màu lá
Bạn cũ lâu rồi biệt cố hương
Lỡ cánh
thư nhà không kịp gởi
Nhìn theo cánh nhạn vút lên đường.
Lộc
Mai
Chương
Đài Dạ Tứ
(Mây Tần - PKT)
Đêm
dài, đàn se sắt ,
Tơ chùng nỗi bi ai.
Đèn khuya vẳng tiếng ốc
,
Trăng lạc nẻo Chương Đài.
Cỏ hương đà
tàn úa ,
Người xưa bặt tăm hơi.
Thư nhà
không gửi được ,
Trời đã vào Thu rồi.
PKT
Đêm
Chương Đài
Tiếng đàn ai oán đêm trường
Dây run rẩy buốt giọt buồn mưa nghiêng
Điệu kèn Sở thổi mờ đèn
Ánh
trăng mờ nhạt bóng đêm Chương Đài
Cỏ thơm dần úa tàn phai
Bạn
xưa chờ mãi chẳng ai trở về
Thơ
nhà nào dễ gửi đi
Xuôi nam thu nhạn
tái tê lòng này
Trầm Vân
Quan san nguyệt
Cùng Bạn ,
Cuối
tuần lại sắp hết , thời gian trôi mau một cách lạnh lùng . Tôi
xin gởi đến các bạn một bài thơ của Lý Bạch mà đọc
lên tôi cảm thấy man mác buồn cho chinh chiến xưa nay .
Thân mến
Mailoc
Quan san nguyệt
Nguyên tác: Lý Bạch
李白
關山月
明月出天山, 蒼茫雲海間;
長風幾萬里, 吹度玉門關。
漢下白登道, 胡窺青海灣。
由來征戰地, 不見有人還。
戍客望邊色, 思歸多苦顏;
高樓當此夜, 歎息未應閑。
Quan san nguyệt
Minh nguyệt xuất Thiên
San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ
khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh
chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng
biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
-- Bản dịch của Tản
Đà --
TRĂNG QUAN SAN
Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn
dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vụng* kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru
mấy người ?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng
khách thú nhớ nơi quê nhà.
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
_____________________
* Có
sách ghi là Vùng
--Bản dịch của MaiLộc—
Trăng Thiên San đầu non
thấp thoáng ,
Mây biển xanh loang loáng mênh mang .
Gió từ vạn dặm gào ngàn ,
Đưa trăng tới tận Ngọc
Quan biên ngoài .
Bạch Đăng thành cửa
cài quân Hán ,
Vùng Thanh Hải , Hồ mán
dòm qua .
Xưa nay
chinh chiến trường sa ,
Mấy ngưòi trở lại quê nhà mà mong .
Người lính thú vời trông
cảnh sắc ,
Nỗi
nhớ nhà se thắt lòng ai .
Lầu cao đêm vắng canh dài ,
Đêm nay trăn trở , u hoài khôn
khuây .
Mailoc phỏng
dịch
關山月
李白
明月出天山,
蒼茫雲海間。
長風幾萬里,
吹度玉門關。
漢下白登道,
胡窺青海灣。
由來征戰地,
不見有人還。
戍客望邊色,
思歸多苦顏。
高樓當此夜,
嘆息未應閒。
Quan San Nguyệt
Lý Bạch
Minh
nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong
kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng
đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến
hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa
khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng
nhàn
Dịch Nghĩa:Trăng Miền
Biên Ải
Trăng
sáng vừa nhô lên khỏi núi Thiên Sơn,
Giữa vùng mây
biển xám mênh mông.
Gió từ ngoài muôn dặm,
Thổi đến
ải Ngọc Môn.
Quân Hán xuống đóng quân nơi con đường
dẫn tới thành Bạch Đăng.
Quân Hồ dòm ngó vùng vịnh
Thanh Hải.
Từ trước đến giờ đi chinh chiến
Không thấy
có người trở về.
Người lính thú nhìn quang cảnh nơi
biên cương,
Nghĩ đến ngày trở về khiến vẻ mặt hiện
nhiều nét đau khổ.
Đêm nay nơi lầu cao
Than thở mãi
không yên
Dịch Thơ : Trăng Biên Ải
Thiên Sơn trăng ló dạng
Giữa biển xanh
mây ngàn
Gió từ ngoài muôn dậm
Tràn đến Ngọc
Môn quan
Bạch Đăng quân Hán đóng
Thanh Hải Hồ nhìn
sang
Xưa nay đi chinh chiến
Mấy kẻ về bình an
Lặng nhìn
vùng quan tái
Nghĩ khó trở về làng
Đêm nay nơi lầu
vắng
Dạ buồn mãi thở than
Quên Đi
TRĂNG
BIÊN ĐỊA
Trăng đã ló sau rèm biếc
Núi và mây
bên biển xanh
Gió lao xao tràn muôn dặm
Vượt biên cương
nhiễu cửa thành
Quân giặc dòm đất ta
Quân ta ra trọng
trấn
Anh hùng phải như thế
Kể chi niềm vương vấn
Hỡi ôi
! Từ xưa ai ca tụng
Hỡi ôi ! Từ xưa ai khóc than
Đêm nay lên
cao nhìn trận địa
Trăng đẹp lung linh sáng quan san
C.D.M.
TRĂNG LÊN ẢI NÚI
.
Trăng lên đỉnh Thiên
San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có
mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ
ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than
!
Đỗ Chiêu Đức.
Xin được lạm bàn về
2 câu chót của bài thơ là : 高樓當此夜, Cao lâu
đương thử dạ, 嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn. 1. Ý thứ nhất
: Cho người lính thú. Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng
là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc,
nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng
tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa ! 2. Ý thứ hai : Cho
người cô phụ ở nhà. Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên
lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì
nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với
tâm tình nhàn nhã nữa ! và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2
câu dịch cuối sẽ là :
Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !
Làm ta lại nhớ đến
2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau : Lòng thiếp tựa bóng trăng
theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên San....
và... lại và...2 câu : 漢下白登道, 胡窺青海灣。 Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan. Lại
làm cho ta nhớ đến 2 câu :
Nay Hán xuống
Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất
lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !
Bận
bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời
gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu
!
Nay kính,
Đỗ Chiêu
Đức.
Thu tịch lữ hoài
Cùng Bạn ,
Chuyển đến các bạn một bài thơ của Lý Bạch đọc chơi cuối tuần và xin bạn thơ chúng mình góp vần giải khuây .
Thân
mến
Mailoc
Thu tịch lữ hoài
Nguyên tác: Lý Bạch
秋夕旅懷
涼風度秋海。
吹我鄉思飛。
連山去無際。
流水何時歸。
目極浮云色。
心斷明月暉。
芳草歇柔艷。
白露催寒衣。
夢長銀漢落。
覺罷天星稀。
含悲想舊國。
泣下誰能揮。
Thu tịch lữ hoài
Lương phong độ thu hải
Xuy ngã
hương tứ phi
Liên sơn khứ vô tế
Lưu thủy hà thời
quy
Mục cực phù vân sắc
Tâm đoạn minh nguyệt huy
Phương
thảo yết nhu diệm
Bạch lộ thôi hàn y
Mộng trường Ngân
Hán lạc
Giác bãi thiên tinh hy
Hàm bi tưởng cựu quốc
Khấp hạ thùy năng huy
-- Dịch nghĩa --
Gió
lạnh thổi qua bể mùa thu
Thổi theo lòng nhớ quê nhà của
tôi
Núi liền nhau như chạy dài vô cùng tận
Nước
trôi mãi hỏi có khi nào trở về chăng?
Sắc mây nổi
xa cùng cực khỏi tầm mắt,
Trăng sáng soi tỏ làm đứt
tươm khúc ruột.
Cỏ thơm hết đẹp mướt,
Sương
bạc giục người mặc áo rét
Giấc mơ dài tưởng rơi dải Ngân hà
Tỉnh dậy sao trên trời chỉ còn lác đác
Ôm mối
sầu tưởng nhớ đến nước cũ
Khóc rơi nước mắt
ai lau cho được.
-- Bản dịch của Tản Đà
--
Lạnh lùng gió vượt bể thu
Hồn quê theo gió như
vù vù bay
Chạy dài dãy núi liền mây
Nước trôi
trôi mãi, có ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa
chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi
Cỏ
thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người
móc sa!
Giấc mơ rơi dải Ngân hà,
Sao thưa lác đác
tỉnh ra khắt trời
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi
Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?
-- Bản dịch
của MaiLộc—
Gió thu
qua biển khơi lạnh ngắt ,
Mang
nhớ nhung héo hắt tình quê .
Ngút
ngàn đồi núi lê thê ,
Nước
trôi, trôi mãi có về hay chăng ?
Áng
mây sầu dung dăng heo hút ,
Ngắm
trăng ngà bức rức lòng ta .
Cỏ
thơm thôi hết mượt mà ,
Áo
hàn , khẽ lạnh , sương sa trắng ngần .
Lòng mải mê sông Ngân , hồn lạc ,
Sao thưa dần mờ nhạt , tỉnh ra .
Ôm lòng sầu tưởng quê nhà ,
Ai người mắt lệ xót xa khôn cầm
.
CHIỀU THU TRÊN ĐƯỜNG
Gió qua biển lạnh lướt về
Tri âm cùng tớ nhớ quê hỡi mình
Chập trùng ờ núi xanh xanh
Nước trôi có gửi tâm tình cho nhau
Sắc mây dụ ta nhìn theo
Kìa trăng sáng quá như trêu dạ này
Cỏ thơm quyến khách cô liêu
Sương rơi áo lạnh thấm nhiều nỗi quê
Mộng bay lên cạnh sao Khuê
Tỉnh ra khuya khoắt bốn bề sao thưa
Đất nước tôi đến bao giờ .....
Đưa tay lau lệ mà mơ thanh bình
C.D.M.
ĐÊM THU NHỚ NHÀ
(phỏng dịch "Thu tịch lữ hoài của Lý Bạch)
Gió Thu thổi lạnh thoáng vèo qua
Nổi nhớ tình quê cảm đậm
đà
Dãy núi chạy
dài như bất tận
Nước
trôi về lại được chăng là ??
Mây cao vút mắt khuất tầm xa
Trăng sáng thấu soi rỏ ruột ta ?
Đám cỏ thơm đâu tươi
mượt nữa
Áo hàn mặc
lạnh lúc sương sa.
Giấc
mơ rơi tưởng dãy Ngân hà
Lác đác sao trời lúc tỉnh ra
Nước củ ngậm ngùi khi đoái tưởng
Hỏi ai mắt khóc lệ không nhòa
??!
SONG QUANG
Kính Thầy,
Đỗ Chiêu Đức
xin được bổ sung tài liệu sau đây :
Năm Công nguyên 756, tức là
năm thứ hai sau loan An Lộc Sơn, Lý Bạch vì bi phẩn trước thời
cuộc, nên tham gia dưới trướng của Vĩnh Vương Lý Lân.
Chẳng may, Vĩnh Vương vì tranh đoạt đế vị với Túc Tôn
thất bại, Lý vì liên lụy nên bị đày xuống Dạ Lang
( tỉnh Quý Châu hiện nay ), nhưng dọc đường lại được
lệnh ân xá, vì thế mà phiêu bạc tha hương....
Bài
thơ " Thu Tịch Lữ Hoài " có thể được làm vào
mùa thu năm 758 ( năm Càn Nguyên Nguyên niên cùa Đường Túc
Tôn ). Lúc bấy giờ Lý vừa được tha, tấm thân lưu lạc
xứ người, lòng nhớ quê hương cố quốc, nên lời thơ
bi thiết thê lương là thế !....
Xin phép được góp dịch bằng lời
thơ 6 chữ sau đây :
NỖI LÒNG ĐẤT KHÁCH ĐÊM THU.
Biển thu gió vàng
se sắt,
Nhớ quê lòng muốn bay về.
Ngàn trùng núi non mút
mắt,
Bao giờ nước chảy đến quê ?
Ngút ngàn mây
trời giăng mắc,
Lòng đau trăng lạnh tái tê.
Cỏ non đâu
còn mơn mởn,
Sương thu thấm áo não nề.
Ngân Hà
mờ theo mộng ảo,
Sao thưa trời sáng ủ ê.
Nén sầu vời
trông cố quốc,
Lệ rơi thấm áo mơ về....
Đỗ
Chiêu Đức.
Dưới đây là bài diễn nôm của Thi sĩ Tản
Đà :
Tối
mùa thu nhớ nhà.
Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Chạy dài dãy núi
liền mây,
Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng ?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột
dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấc mơ rơi dải
Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.
Đoái
thương nước cũ ngậm ngùi
Khóc rơi giọt lệ lau chùi
đố ai ?
Tản Đà.
NỖI NHỚ ĐÊM THU
Biền trời thu lạnh, gió lê thê
Se sắt trong lòng nỗi nhớ quê
Núi
thẳm chập chùng xa hút mắt
Sông dài
trôi mãi. có quay về?
Mây bay chầm chậm mờ xa khuất
Trăng sáng khơi sầu, dạ ủ ê
Cỏ thơm cũng kém màu nhung mượt
Áo ấm mặc rồi vẫn rét tê
Mơ hồ tưởng giải ngân hà rụng
Giật mình: lác đác ánh sao khuya
Trông vời cố quốc, lòng tê tái
Nước mắt tuôn tràn, ai xẻ chia ?
Lộc Mai
.
Trên Đường Thu Buồn
Gió
thu biển lạnh thổi qua
Thổi theo cả nỗi
nhớ nhà long đong
Núi liền núi biếc điệp trùng
Nước trôi trôi mãi có không ngày về ?
Mây xa tầm mắt bay đi
Đứt
tươm khúc ruột bốn bề trăng soi
Cỏ thơm
thôi đẹp mướt rồi
Giục người
mặc áo lạnh trời sương giăng
Dải Ngân
hà giấc mơ nằm
Tỉnh ra, lác đác
sao ngâm bầu trời
Nhớ non nước cũ sầu rơi
Khóc rơi nước mắt ai chùi ai lau ?
Trầm Vân
Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ
Nguyên
tác: Vi Ứng Vật
Bản
dịch: Trần Trọng Kim, Mailoc, Lộc Mai, Trầm
Vân, Song Quang, Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________
Cùng
Bạn,
Sáng nay nhận được liên tiếp mấy bài họa của
bạn thơ từ khắp nơi khiến lòng tôi vô cùng cảm khái
vì bài nào ý cũng hay , hồn thơ cũng dạt dào .Nhân đây
, xin chuyển đến các bạn một bài thơ của Vi ứng Vật , đọc
lên tôi cảm thấy bùi ngùi , thương cảm nhiều. Đã cuối
tuần rồi xin mời các bạn thơ góp vần cho vui nhé .
Thân
mến
ML
Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ
Nguyên tác: Vi Ứng Vật
寄全椒山中道士
韋應物
今朝郡宅冷,
忽念山中客。
澗底束荊薪,
歸來煮白石。
欲持一瓢酒,
遠慰風雨夕。
落葉滿空山,
何處尋行蹟?
Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ
Vi Ứng Vật
Kim triêu quận trạch lãnh,
Hốt niệm
sơn trung khách.
Giản để thúc kinh tân,
Quy lai chử bạch
thạch.
Dục trì nhất biều tửu,
Viễn uỷ phong vũ tịch.
Lạc diệp mãn không sơn,
Hà xứ tầm hành tích?
--Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Thư gửi cho đạo sĩ ở trong núi Toàn Tiêu
Sáng nay quận
thự lạnh lùng,
Trạnh niềm nhớ khách ở trong núi rừng.
Dưới khe nhặt củi lăng nhăng,
Đem về
bên đá nhì nhằng nấu đun.
Muốn đem tặng hủ rượu
ngon,
Để khi mưa gió giải buồn hôm nay.
Rừng không lá
rụng đầy nơi,
Biết đâu hành tích mà sai người
tìm.
--Bản dịch của MaiLộc:
Sáng nay quận đường trời giá lạnh ,
Chạnh nhớ người cô quạnh rừng sâu .
Dưới khe nhặt củi , dãi dầu ,
Lò
kê trên đá vùi đầu thổi cơm .
Ta muốn
mang rượu ngon một hủ ,
Chút hương
nồng ấp ủ đêm mưa .
Ngập rừng
lá đổ gió lùa ,
Nơi nao biết
dấu mà đưa đến ngưòi ?
-Bản dịch
của Lộc Mai:
THƯƠNG NGƯỜI ĐẠO SĨ GIỮA RỪNG
Sớm mai
lạnh giá hơi sương
Thương người vò võ núi rừng xa xôi
Củi khô
nhặt một bó vơi
Loay hoay nhóm bếp tạm thời nấu đun
Động
lòng, muốn tặng rươu ngon
Để người ấm bụng những
hôm mưa dầm
Mênh mông rừng thẳm, lá tuôn
Biết đâu
tung tích mà mong gặp người !
Lộc Mai
-Bản dịch của
Trầm Vân:
Lạnh về quận thự sáng nay
Chạnh lòng nhớ khách từng ngày rừng sâu
Dưới khe nhặt củi dãi dầu
Đem về
góc đá vùi đầu nấu đun
Muốn
đem tặng hũ rượu ngon
Phòng khi mưa gió
giải buồn đầy vơi
Núi non dày đặc
lá rơi
Biết đâu chỗ ở tìm người
không ra
Trầm Vân
-Bản
dịch của Song Quang:
THƠ GỞI ĐẠO HUYNH TRÊN NÚI
Trời
lạnh thư trai buổi sớm mai
Nhớ người chợt nghỉ Đạo
Huynh này
Xuống khe tìm củi về nhum bếp
Ra gốc đá vùi
nấu bửa chay
Quảy rượu ngon theo mời một hủ
Giải buồn,mưa
gió bỏ ngoài tai
Lá rơi dày đặc đầy non thẩm
Biết
nẻo mô tìm dấu vết đây ??!
SONG QUANG
-Bản dịch của Đỗ Chiêu Đức:
Đây
là một dị bản nữa của bài thơ, chỉ khác một chữ
ở câu đầu :
Kim triêu quận TRAI lãnh.
và Kim triêu quận
TRẠCH lãnh,
TRAI : là Cái Trại. THƯ TRAI : là cái trại cất
riêng để đọc sách, khác với THƯ PHÒNG : là cái phòng
đọc sách nằm trong nhà.
QUẬN TRAI : là Phòng sách ở trong
quận, một cách nói của nơi Quan Quận làm việc. QUÂN TRẠCH
: Trạch cũng là Nhà, nên Quân Trạch cũng là nhà làm việc
trong Quận. Hai cách nói giống nhau thôi, chỉ phân tích để nghe
chơi thôi !
CHỮ BẠCH THẠCH : là Nấu đá trắng. Theo tích
Thần Tiên Truyện thì Đạo sĩ tu tiên ở trong núi không có
ăn cơm gạo, chỉ nấu đá trắng làm lương thực mà
thôi, ăn để thành tiên mà ! Nên có thành ngữ là
" Chữ Thạch vi lương "( nấu đá làm lương thực ) là
thế !
Xin tham gia với bài diễn nôm sau đây :
寄全椒山中道士 GỞI ĐẠO SĨ TOÀN TIÊU TRONG NÚI
今朝郡齋冷, Thư trai sáng se lạnh,
忽念山中客。 Chợt nhớ đến đạo huynh.
澗底束荊薪, Dưới khe tìm nhúm củi,
歸來煮白石。 Mang về nấu đá xanh.
欲持一瓢酒, Ta quảy theo bầu rượu,
遠慰風雨夕。 Mưa gió ấm chút tình.
落葉滿空山, Lá rơi đầy núi vắng,
何處尋行跡。 Biết
đâu mà tìm anh !?
.
韋應物 Đỗ
Chiêu Đức diễn nôm.
Túc nghiệp sư sơn phòng đãi Đinh
Đại, bất chí
Cùng Bạn
Xin chuyển
đến bạn một bài thơ của Mạnh hạo Nhiên , xin mời bạn
thơ góp vần tìm vui một chút cuối tuần .
Thân
Mailoc
Túc nghiệp sư sơn phòng
đãi Đinh Đại, bất chí
Nguyên tác: Mạnh Hạo Nhiên
宿業師山房待丁大不至
孟浩然
夕陽度西嶺,
群壑倏已暝。
松月生夜涼,
風泉滿清聽。
樵人歸欲盡,
煙鳥棲初定。
之子期宿來,
孤琴候蘿逕。
Túc nghiệp sư sơn phòng
đãi Đinh Đại, bất chí
Mạnh Hạo
Nhiên
Tịch dương độ tây lĩnh,
Quần hác thúc dĩ
mính.
Tùng nguyệt sinh dạ lương,
Phong tuyền mãn thanh thính.
Tiều nhân quy dục tận,
Yên điểu thê sơ định.
Chi tử kỳ túc lai,
Cô cầm hậu la kính.
--Dịch nghĩa:--
Đêm ngủ ở sơn phòng của nghiệp sư,
chờ
Đinh Đại, không đến
Qua tây lĩnh lúc chiều xuống
Các hang hóc bỗng chốc
chìm trong bóng tối
Hàng tùng và ánh trăng làm đêm
lạnh thêm
Nghe rõ tiếng gió vang và tiếng suối reo
Tiều
phu đã về hết
Chim sương bắt đầu tìm chỗ trú
Người (bạn) ấy hẹn đến ở lại qua đêm
Mình
ta ôm đàn đợi nơi con đường nhỏ.
DỊCH THƠ :
(1)
Qua
Tây Lĩnh nắng chiều ngả bóng ,
Bóng
tối tràn hang động thật nhanh .
Trời
đêm trăng lạnh thông xanh ,
Gió vang
suối nhạc âm thanh trong ngần .
Tiều phu
đã dần dần về hết ,
Trong khói
sương khuất vết chim trời .
Đêm
nay bạn hẹn đến chơi ,
Ôm đàn
đường nhỏ đợi người mình ta .
Mailoc
phỏng dịch
(2)
Tây
lĩnh chiều dần tàn ,
Hố hang tối
ngập tràn .
Trăng , tùng , đêm lạnh giá ,
Trong gió suối reo vang .
Vội
vã tiều về hết ,
Chim sương trú núi
ngàn .
Bạn cùng đêm ước hẹn
,
Đường nhỏ , đợi ôm đàn
.
ML phỏng dịch
Qua Tây Lĩnh
ngả bóng chiều
Đêm sa hang động chìm
liêu xiêu chìm
Tùng chen trăng rải lạnh thêm
Gió vang tiếng suối reo mềm bờ sương
Bóng tiều phu khuất nẻo đường
Chim tìm nơi đậu cành vương tơ trời
Đêm nay bạn hẹn đến chơi
Ôm
đàn lối nhỏ chờ người tri âm
Trầm
Vân
TÂY LĨNH ĐỢI
NGƯỜI
Đường
qua Tây Lĩnh nắng chiều buông
Hang động lặng chìm khuất ánh dương
Trăng lạnh vén màn mây lấp ló
Gió vang suối nhạc suốt đêm
trường
Tiều phu vội vả
về dần hết
Chim chóc
tìm nơi trú tránh sương
Bạn hởi ! tôi chờ giây ước hẹn
Ôm đàn ngồi khảy đợi bên đường
SONG QUANG
Đỗ
Chiêu Đức xin được tham gia bài dịch bằng thơ 6 chữ...
Nắng chiều xuyên qua tây lãnh,
Ngàn non khuất bóng hôn hoàng.
Trăng chiếu đầu thông đêm
xuống,
Suối reo gió rít miên mang ,
Vắng bóng tiều phu xuống
núi,
Muôn chim yên tổ trên ngàn.
Người hẹn cùng ta
qua tối,
Đường rêu đợi bạn khúc đàn.
Đỗ
Chiêu Đức.
Lộc Mai xin được góp bài phỏng dich:
ĐỢI BẠN
Tây
Lĩnh chiều buông nắng cuối ngày
Hang động tỏ mờ trong khói mây
Hàng thông lặng lẽ, trăng khuya lạnh
Suối reo, gió thoảng, nhạc xa bay...
Hối hả, tiều phu về cuối nẻo
Vội vã, chim trời khuất bóng cây
Hẹn bạn đêm nay cùng đối
ẩm
Ôm đàn, ta
đợi dưới trăng say...
Lộc Mai
HẺM NÚI CHIỀU ĐỢI BẠN
Bóng
chiều đã ngả phía non tây
Hang hốc chìm trong bóng tối dày
Bóng
nguyệt rải tùng thêm lạnh lẽo
Suối reo dưới gió tiếng đầy
tai
Tiều phu gánh củi đà về hết
Lác đác chim
về đậu khói cây
Bạn hẹn với mình đêm nay tới
Hẻm núi
ôm đàn ta đợi đây
C.D.M.
SÁNG THU SOI GƯƠNG
Nguyên tác: Tiết Tắc
Bản dịch: Phạm Khắc
Trí, Song Quang, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh Hữu
___________________________________________________________________
Đi xa về , mãi
đến đêm qua mới đọc được ĐS 17. Thật cảm động.
Tôi ngồi chuyển dịch lại bài Thu Triêu Lãm Kính của Tiết
Tắc trong Thu Xưa (trang 209) để thay lời cám ơn muộn đến quí
anh chị em trong gia đình PTG-ĐTĐ , và riêng đến ban tổ chức
ĐH 16 và ban biên tập ĐS 17. Cầu chúc an lành.Thân kính . PKT
04/19/2013
THU TRIÊU LÃM KÍNH
Tiết Tắc (649 - 713)
Khách tâm kinh lạc mộc
Dạ tọa thính thu phong
Triêu nhật khan dung mấn
Sinh nhai tại kiến
trung
LOOKING
AT MY FACE IN THE MIRROR
Translated by PKT 04/18/2013
Away from home , I feel uncomfortably
to see the falling leaves
sitting all night to hear
the sound of autumn wind
in the morning looking at my face in the mirror
I wonder who that person
is but not me
SÁNG THU SOI GƯƠNG
PKT 04/18/2013
Thu về ngại lá rụng ,
Đêm gió lộng canh
dài.
Sáng lấy gương soi mặt ,
Ngấn ngơ nhìn
tưởng ai .
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
SÁNG
THU SOI GƯƠNG
Mỗi độ Thu về ngại lá bay !
Đêm khuya gió lộng suốt canh dài
Sáng
ra lấy kiến nhìn khuôn mặt
Ngơ ngẩn thấy
mình lại tưởng ai ?
SONG QUANG
.
Sáng
thu soi gương
(1)
Lá rơi khách bàng-hoàng ,
Đêm , gió thu vang vang .
Sáng sớm dung nhan ngắm ,
Trong gương thấy bẻ-bàng .
Mailoc
(2)
Tiếng lá rơi làm khách rụng rời .
Đêm thu nghe gió rít
ngàn khơi .
Sớm
mai thức dậy , dung nhan ngắm ,
Ngao-ngán trong gương một cuộc đời .
Mailoc
(3)
Tiếng lá rơi làm khách kinh động ,
Đêm thu nghe gió lộng
trên ngàn .
Sớm
mai ngắm lại dung nhan ,
Cuộc đời vất vả rõ ràng trong gương !
Mailoc
_______________
Đỗ Chiêu Đức:
.
THU TRIÊU LÃM KÍNH
Đỗ Chiêu Đức
cũng xin được tham gia bằng bảng viết tay và 2 bản dịch của
40 năm trước ( 1972 ) :
1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :
秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木, Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。 Dạ
tọa thính thu phong.
朝日看容鬢, Triêu
nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。 Sinh nhai
tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.
Ảnh bên: Bản vitế tay của ĐCĐ
(1972)
2. Tiểu sử TIẾT TẮC :
薛稷(649~713),中国唐代画家,书法家。字嗣通,蒲州汾阴(今山西万荣)人。曾任黄门侍郎、参知机务、太子少保、礼部尚书,后被赐死狱中。工书法,师承褚遂良,与虞世南、欧阳询、褚遂良并列初唐四大书法家。善绘画,长于人物、佛像、树石、花鸟,尤精于画鹤,能准确生动地表现出鹤的形貌神情。无作品传世。
TIẾT
TẮC ( 649-713 ), Ông là nhà thư pháp, họa sĩ và thi sĩ đời
Đường. Tự là Tự Thông, người đất Bồ Châu thuộc
Phần Dương ( thuộc Vạn Vinh Sơn Tây ngày nay ). Từng giữ chức
Hoàng Môn Thị Lang, Tham Tri Cơ Vụ, Thái Tử Thiếu Bảo, Lễ Bộ
Thượng Thư. Sau bị vua xử chết trong ngục. Ông giỏi về thư
pháp, thầy học là Chữ Toại Lương, cùng với Ngu Thế Nam,
Âu Dương Tuân hợp xưng là Sơ Đường tứ đại Thư
Pháp Gia. Lại giỏi về vẽ, chuyên về vẽ người, Phật, Cây
đá, Hoa chim, đăc biệt giỏi về vẽ Hạc, có thể biểu
hiện một cách sinh động chuẩn xác hình dáng và điệu
bộ của Hạc, nhưng không có tác phẩm để lại đời
sau (?!).
3.
Chú Thích :
KINH : là Sợ, nhưng ở đây có nghĩa là
Giật Mình.
LẠC MỘC : là Loại cây có thân cao lớn và
là rụng vào mùa thu.
TRIÊU : là Buổi. Vd : Dưỡng quân
thiên nhật, Dụng tại nhất TRIÊU là Nuôi quân ngàn ngày,
dùng trong một BUỔI. TRIÊU còn có nghĩa là Buổi Sáng : Vd:
Triêu Vân : Mây Buổi Sáng. Trong bài thơ TRIÊU NHẬT : là Sáng
ngày.
DUNG MẤN : Dung là Nét Mặt, Mấn là Tóc Mai. Khi nhìn
vào gương, ta sẽ thấy gương mặt và tóc mai hiện lên
trước nhất.
SINH NHAI : là Cách Sinh Sống, ở đây dùng với
nghĩa bóng, chỉ sự vật vả, bon chen trong cuộc sống đều hiện
lên trên nét mặt với những nếp nhăn với những sợi tóc
mai sớm bạc...
4. Diễn Nôm :
SÁNG THU SOI GƯƠNG
Lá rụng kinh lòng
khách,
Đêm nghe tiếng thu reo.
Sáng ra trông gương thấy,
Tóc mai cũng bạc theo.
Lục bát :
Bàng hoàng lòng khách
lá rơi,
Đêm ngồi nghe gió thu bồi hồi thương.
Sáng
ra nhìn bóng trong gương,
Tóc râu mặt mũi pha sương mất
rồi !
Đỗ Chiêu Đức.
1972.
.
Danh Hữu:
Góp vui cùng các bạn !
Gửi các
anh vài dòng thơ cảm hứng dịch sáng chủ nhật.
秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木, Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。 Dạ tọa thính thu phong.
朝日看容鬢, Triêu nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。 Sinh nhai tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.
Soi gương buổi sáng thu
Khách vốn sợ lá rơi,
Đêm
qua, gió tơi bời;
Tóc tai, sáng ra ngắm :
Trong gương hiện rõ đời.
Danh Hữu dịch
____________________________________________________
Khuyết nguyệt quải sơ
đồng
Ai tri âm đó , mặn
mà với ai?
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
PKT 03/09/2013
Bốc Toán Tử
Tô Đông Pha (1037 -1101)
Khuyết nguyệt quải sơ đồng
Lậu đoạn nhân sơ tĩnh
Thùy kiến u nhân độc vãng lai
Phiếu điểu cô
hồng ảnh
Kinh khởi khước hồi đầu
Hữu hận
vô nhân tỉnh
Giản tận hà chi bất khẳng thê
Tịch
mịch sa châu lãnh
Dịch Xuôi : Khuyết
Nguyệt Quải Sơ Đồng (Theo Điệu Bốc Toán Tử)
PKT
03/09/2013
Vầng trăng khuyết treo trên cành
ngô đồng trơ lá ,
Lậu đoạn canh tàn ,
Đâu có ai thấy
người ở ẩn, chiếc thân tha thẩn trong đêm thanh vắng.
Một
bóng chim hồng cô đơn trên vùng trời phiêu lãng ,
Giật
mình bay hoảng lên cao ,còn ngoái đầu nhìn xuống ,
Ai
thấu cho lòng mang nỗi hận này ,
Không chọn được
một cành cây khô nào ngủ đậu qua đêm ,
Bờ
sông im lìm cát lạnh !
Phụ Chú : Lậu đoạn = đêm
khuya ,đồng hồ nước ngưng nhỏ giọt.
Đêm Trăng Khuyết
Cành ngô trơ lá trăng treo
Đồng hồ ngưng nhỏ nước theo đêm
dài
Một mình thơ thẩn
ai hay
Chim cô đơn giữa trời bay một
mình
Lên cao xuống thấp lặng
thinh
Ai hay nỗi hận gập ghềnh niềm riêng
Cây khô nào đậu qua đêm
Bên sông cát trắng im lìm vô thanh
Trầm Vân
Khuyết Nguyệt Quải Sơ Đồng
Cành ngô đồng ,trăng
non hiu hắt
Trong đêm
thanh tí tách tiếng đồng .
Tới lui ẩn sĩ se lòng ,
Lơ mơ một bóng chim hồng đêm
thâu
Bỗng kinh
hoàng quay đầu nhìn lại ,
Người vùi say , cảm khái riêng mình .
Đắn đo chẳng chịu đậu cành ,
Bơ vơ cồn cát lạnh tanh bốn bề .
Mailoc phỏng dịch
Nhân Gian Như Mộng
Nguyên tác Tô Đông
Pha - Bản dịch Phạm Khắc Trí, Trầm Vân - Cảm
tác Song Quang
___________________________________________________________________
Ngày
Xuân , chút cảm hứng từ một nét đẹp trong thơ xưa ghi vội,
gửi người thân quí, để đọc cho vui và để ...thương
nhau hơn ở những ngày tháng còn lại trong cõi nhân gian như
mộng này .PKT 02/25/2013.
Nhân Gian Như Mộng
Tô Đông Pha (1037
- 1101)
Cố quốc thần du
Đa
tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát
Nhân gian như mộng
Nhất tôn hoàn lỗi giang nguyệt
Dịch Xuôi : Cõi Người Như Mộng
PKT 02/25/2013
Chốn cũ ngao du
Mặc ai cười ta đa tình
Tóc đã sớm bạc
Cõi người như mộng
Đổ chén
rượu xuống sông mời vầng trăng đáy nước
Nhân Gian Như Mộng
PKT 02/25/2013
Ngược xuôi gió bụi,
Chốn cũ về thăm,
Tóc xanh sớm bạc,
Thấm thoắt bao năm .
*
* *
Lung linh thiên
cổ ,
Cười gã đa tình ,
Chén rượu đổ sông
,
Thức ai đáy nước ,
Nằm ôm trăng ngủ ,
Gối vạn
cổ sầu.
*
* *
Nhân gian như mộng ,
Chút tình gửi đâu
?
Chú Thích :
1 - Nhân Gian Như Mộng ,(tựa đề này do tôi
tự đặt) , là 5 câu cuối trong một bài từ Niệm Nô Kiều
"Xích Bích Hoài Cổ " của Tô Đông Pha (1037 -1101).
2- Truyền
thuyết , Lý Bạch (701 - 762), cuối đời thành tiên , uống rượu
say ,nằm ôm trăng ngủ dưới đáy nước trong lòng sông
Thái Thạch bên Tàu .
Tri
Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
Bản dịch Trầm Vân:
Nhân Gian Như Mộng
Lại về chốn
cũ ngao du
Mặc ai cười cợt ta mơ đa tình
Tóc nay sợi bạc mỏng manh
Cuộc
đời như mộng thoáng thành lão ông
Tay cầm
chén rượu đổ sông
Mời vầng trăng
nước bềnh bồng cơn say
Trầm Vân
Cảm tác Song Quang:
SQ
xin có bài thơ "Cảm tác" theo ý thơ "Nhân Gian như mộng"
chứ không dám là bài dịch vì câu dài hơn nguyên tác
và có thêm những ý phụ.Xin Thầy và quý thi huynh miển chấp.Đa
ta. Song Quang
CÕI NGƯỜI NHƯ MỘNG
Đi loanh quanh cũng
về chốn củ
Vốn đa tình,mặc thế cợt cười
!
Tóc nay đã sớm bạc rồi
Xem như giấc mộng
cuộc đời thế nhân.
Cầm chén rượu đỗ sông
mời mọc
Cùng vầng trăng đáy nước uống say
Đời
sao biết được ngày mai ??
"Cỏi người như mộng"
u hoài mà chi !
SONG QUANG
KÝ NỘI
Phan Thanh Giản, Trầm Vân,
Mailoc, Song Quang, C.D.M.
Xướng:
Ký Nội
Từ buổi vương se
mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường
mây cười tớ ham rong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh
lùng
Ân nước nợ trai đành lỗi phận
Cha già nhà
khó cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn lâm biệt
Rằng
nhớ rằng quên lòng hỡi lòng.
Phan Thanh Giản
Họa:
Tâm Sự
Từ lúc tình se dệt sợi hồng
Đời như con nước chảy về sông
Cơm rau đạm bạc thương mòn
mõi
Ánh mắt hân hoan nhớ
lạ lùng
Vai
địu nợ trai hồn khắc mãi
Dạ mang ơn nước gió theo cùng
Việc nhà trông cậy vào nương
tử
Nghĩa nặng ân sâu
ngập cõi lõng
Trầm Vân ( họa )
Nỗi Lòng.
Sắc thắm trời tây nhuộm ráng hồng ,
Thành Nam hiu quạnh máu thành sông .
Bóng chim biền biệt tin mòn mõi ,
Tiếng cuốc bi ai , nước lạnh lùng.
Quyết chiến , thương dân , lòng chẳng nỡ ,
Cam tâm hàng phục , nhục vô cùng .
Lòng ta tan nát , non sông hỡi !
Chén
đắng nầy đây chẳng thẹn lòng .
Mailoc ( cựu học sinh trường
PTG)
Cali 02-23-13
CẠN NỖI LÒNG
Sợi chỉ Ông Tơ buộc
má hồng
Tình nầy trót nợ núi cùng sông
Nước
non ghi tạc câu chung thủy
Nghĩa vợ thương em để lạnh
lùng
Lục tỉnh Nam Kỳ :trung muốn giử
Hại
dân,lực yếu :bại khôn cùng
Thôi đành thuốc độc
:lời ly biệt
Cái chết thay cho cạn nổi lòng.
SONG QUANG
KHÔNG BIẾT GỬI AI
Biền biệt phương nao cánh nhạn hồng
Bờ
nào ngăn cách những giòng sông
Nhớ về quê cũ khôn
vơi lệ
Người hỡi đêm thâu có lạnh lùng
Ước hẹn sẽ về trao tâm sự
Mà sao ngăn
cách đến không cùng
Một nước một non người
đâu tá
Nỡ để cho nhau luống thẹn lòng
C.D.M.
MONG NHẠN
Tin nhạn
ngồi mong dưới nắng hồng
Thẹn cùng người trước
, với non sông
Nhìn quanh dáo dác hồn tê dại
Chỉ thấy mây bay mãi lạnh lùng
Lác đác
bên đường người bương trải
Mình ta ngóng
đợi kẻ đi cùng
Danh lợi nhử người ta chẳng ngó
Gửi thơ nhắn với bạn chung lòng
C.D.M.
___________________________________________________
Xuân đề hồ thượng
Cùng Bạn
Mấy năm trước
, tới Hàng Châu , tôi có dịp du ngoạn thưởng thức cảnh
đẹp Tây Hồ. Cảnh tuyệt đẹp
say đắm , thật
khó quên .Xin chuyển đến bạn mấy dòng thớ của BCD tả cảnh
hồ về Xuân tuyệt vời .
Mời các bạn thơ mình
tham gia góp vần cho vui lúc Xuân về
Thân
ML
Xuân đề hồ thượng
Nguyên tác: Bạch Cư Dị
春题湖上
白居易
湖上春来似画图,乱峰围绕水平铺。
松排山面千重翠,月点波心一颗珠。
碧毯线头抽早稻,青罗裙带展新蒲。
未能抛得杭州去,一半句留是此湖。
Xuân đề hồ thượng
Bạch Cư Dị
Hồ thượng
xuân lai tự họa đồ
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy
Nguyệt
điểm ba tâm nhất khỏa châu
Bích thảm tuyến đầu
trừu tảo đạo
Thanh la quần đái triển tân bồ
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ
Nhất bán câu lưu
thị thử hồ
Dịch nghiã
Xuân về trên hồ , cảnh đẹp như tranh vẽ
Núi lô nhô bao quanh mặt
nước phẳng lặng
Thông bày ra nghìn lớp xanh biếc trên sườn núi
Trăng dọi vào sóng
nước lấp lánh như hạt ngọc
Luá nếp sớm như những sợi tơ trên tấm thảm
biếc
Lớp cỏ
bồ mới nảy lộc như dải lụa xanh
Ta chưa bỏ Hàng Châu đi ngay được
Một nửa vì cảnh hồ
này níu kéo lại
-- Bản dịch cuả Mailoc
Xuân về hồ đẹp tựa tranh tô,
Phẳng lặng mặt hồ núi
nhấp nhô .
Xanh
biếc ngàn thông đồi núi lặng ,
Long lanh châu ngọc nước trăng xô
.
Thảm xanh
lúa sớm khoe mầm nõn ,
Dãi biếc cỏ bồ nhú lụa tơ .
Chưa bỏ Hàng Châu ngang dứt
được ,
Cũng
vì bịn rịn cảnh sông hồ .
Mailoc phỏng dịch
Bản dịch Song Quang:
XUÂN
VỀ TRÊN HỒ
Cảnh đẹp, Xuân về tựa bức tranh
Mặt
hồ phẳng lặng núi bao quanh
Ngàn thông xanh ngắt trên
đồi dốc
Trăng dọi nước hồ chiếu lóng lanh
Lúa
sớm khoe mầm như thảm biếc
Cỏ bồ nảy lộc giống
đồng xanh
Hàn Châu chưa thể rời đi được
Bịn
rịn cảnh hồ, níu bước chân.
SONG QUANG
.
Bản
dịch Đỗ Chiêu Đức:
Xin được góp ý và tham gia
với các phần sau :
1. Về ý nghĩa của câu thứ 6 :
" Thanh la quần
đái triển tân bồ "
* THANH LA : Thanh là màu Xanh. LA là LÀ,
Lụa Là. nên Thanh la là Giải lụa màu xanh.
* QUẦN ĐÁI
: Quần là Cái Quần mà ta mặc. Đái là Cái Thắt lưng,
là Dây nịt. Nên Quần Đái là Dây thắt lưng quần.
THANH LA QUẦN ĐÁI : là Giải lụa xanh dùng để thắt lưng
của mấy bà mấy cô thời xưa. thường rất dài, cho nên
thắt xong, dây còn thừa buông xõa một bên, khi gió thổi thì
phất phơ cho thêm phần yểu điệu... thục nữ !.
Bạch Cư
Dị đã ví các cọng cỏ Bồ mới mọc ở ven hồ phất
phơ trước gió giống như là những dãi lụa thắt lưng
xanh phất phới của các nàng giai nhân, mỹ nữ ở Hàng Châu.
Tô Châu, Hàng Châu nổi tiếng là nơi có Cảnh đẹp,
Người đẹp và Món ăn ngon với câu xưng tụng sau đây
: " Thượng hữu Thiên Đàng, Hạ hữu Tô Hàng ". Có
nghĩa : " Trên trời thì có Thiên Đàng, còn dưới đất
thì có Tô Châu và Hàng Châu " !.
2. Diễn nôm :
CẢM
ĐỀ XUÂN TRÊN HỒ TÂY
Xuân đến Tây Hồ đẹp
tựa tranh,
Nhấp nhô núi biếc nước xây thành.
Thông
reo lớp lớp cành xanh mướt,
Trăng chiếu long lanh sóng bủa quanh.
Thảm lúa chập chờn oằn hạt mới,
Cỏ bồ phất phới
thắt lưng xanh.
Hàng Châu lưu luyến rời không nở,
Nửa
bởi Hồ kia, bước chẳng đành !
Đỗ Chiêu Đức.
.
Bản
dịch Trầm Vân:
Hồ Xuân
Hồ xuân cảnh
đẹp như tranh
Lô
nhô bóng núi bao quanh chập chờn
Ngàn thông xanh biếc núi non
Ánh trăng ngà ngọc soi hồn
long lanh
Thảm tơ
lúa sớm mong manh
Cỏ
bồ kết dải lụa xanh lững lờ
Hàng Châu cảnh đẹp như mơ
Níu chân ta biết
bao giờ mới xa
Trầm
Vân
______________________________________________________________________________
XUÂN VỌNG
Đỗ Phủ.
Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Mailoc
Kính mời chư liệt vị Tiền Bối, Bằng Hữu cùng
dịch bài thơ " XUÂN VỌNG " của Đỗ Phủ. Bài thơ
tuy cũ và đã dược rất nhiều người dịch, nhưng ý
nghĩa sâu xa của nó cũng còn rất đa dạng..... Trân trọng
kính mời !....
杜甫
杜甫(712—770),字子美,自号少陵野老,唐代大诗人,
Đỗ Phủ ( 712-770 ) , tự là Tử Mỹ , Tự hiệu
là Thiếu Lăng Dã Lão, thi nhân đời Đường.
春望
Ảnh trên: Bài thơ XUÂN VỌNG
được viết bằng chữ Thảo
XUÂN
VỌNG Đỗ Phủ
Năm Chí Đức thứ
2 ( 757 ) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng
An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Thi nhân nhìn cảnh
xuân với tâm tình của một con dân mất nước, núi sông
vẫn như cũ, nhưng nước đã mất nhà đã tan, xuân
về nhưng cả thành Tràng An đều đượm vẻ thê lương,
xúc cảnh sanh tình tạo nên lời thơ cảm khái và bi thương
qua bài Ngũ ngôn Luật Thi sau đây...
春 望 XUÂN VỌNG
杜 甫 Đỗ Phủ
國破山河在 Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。 Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚, Cảm thời hoa tiễn
lê,
恨別鳥驚心 Hận biệt điểu
kinh tâm.
烽火連三月 Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。 Gia thư để vạn
kim.
白頭搔更短, Bach. đầu tao cánh
đoản,
渾欲不勝簪 Hồn dục bất thắng trâm.
CHÚ THÍCH :
1. Quốc Phá : trong Thành ngữ " Quốc Phá
Gia Vong ", tương đương với câu nói " Nước mất nhà
tan " của ta.
2. Thâm : là Sâu, là Đậm, Ở đây nghĩa
là Xanh om tươi tốt.
3. Tiễn : là Ép cho tuôn trào ra. Tiễn
Lệ là ứa lệ, là rơi lệ.
4. Phong Hỏa : Đài cao dùng
đốt lửa để báo hiệu quân địch tấn công. Ở đây
chỉ Chiến Tranh.
5. Để : là Đáng giá, Có giá trị
như...
6. Tao : là gãi. Ở đây có nghĩa là dùng các
ngón tay để gom tóc lại.
7. Hồn Dục : là Gần như, là
Hầu như.
8. Bất Thắng : Ở đây không có nghĩa là Thua
( không thắng ), mà là Không Thể.
9. Trâm : Danh Từ là Cây
Trâm. Ở đây là Động Từ, nên có nghĩa là Cài
Trâm.
10. Vọng : là Hy Vọng. Ở đây là Trông Ngóng, Mong
chờ.
DỊCH NGHĨA :
XUÂN MONG CHỜ
Nước đã mất, nhưng núi sông thì
hãy còn trơ đó , thành Trường An vào xuân cây cỏ
vẫn xanh om tươi tốt ( vì cỏ cây đâu biết hờn mất nước
). Lòng đầy xúc cảm vì thời cuộc, nên trông hoa nở cũng
khiến lệ rơi,Hận vì chiến tranh cách biệt, nên nghe tiếng chim
kêu cũng kinh hãi trong lòng. Chinh chiến tràn lan suốt ba tháng nay, tin
nhà đều bặt, nên nhận được thơ nhà thấy quý giá
như được ngàn vàng. Tuổi già tóc bạc, vuốt thấy đã
rụng và ngắn lại nhiều, hầu như không còn búi được
để cài trâm nữa !
DIỄN NÔM :
Nước mất núi sông còn đó,
Vào xuân hoa cỏ xanh rì.
Đau
xót hoa còn rướm lệ,
Kinh hoàng chim sợ phân ly.
Khói
lửa mịt mờ ba tháng,
Thư nhà khoắc khoải người đi.
Tóc bạc bơ phờ năm tháng,
Trâm cài chẳng được
còn chi !
Đỗ Chiêu Đức.
. . Riêng câu 3 và 4 có thể giải là :
Cảm thương về thời cuộc đão điên, nên
hoa cũng ứa lệ.
Ly hận của sự biệt ly, làm cho chim cũng cảm
thấy kinh hoàng....
Hiểu như trên , lại
làm cho ta nhớ đến bài thơ " GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG "
của Nhà thơ THẾ LỮ...
" Hôm nay tạm
nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ rang.
Rủ áo
phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân
sang !
và....
Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : "
HOA KIA KHÓC HỘ NGƯỜI ! "
Đỗ
Chiêu Đức .
.
Mailoc phỏng dịch:
Ngóng Xuân
Nước tan tành , núi sông còn đó ,
Thành vào Xuân cây cỏ xanh
tươi .
Hoa
buồn thế sự lệ rơi ,
Biệt ly , khắc khoải chim trờì chơi vơi .
Ba tháng rồi , ngất trời hiệu
lửa ,
Tin tức
nhà qúi tựa tiền muôn .
Vò đầu tóc trắng cứ tuôn ,
Dường như ngắn ngủn khó
luồn trâm qua .
Mailoc phỏng dịch
TRỪ DẠ HỮU HOÀI Thôi Đỗ
NỖI
NHỚ ĐÊM CUỐI NĂM. Đỗ Chiêu Đức,
Quên Đi, MaiLoc, Song Quang_______________________________
1.Đỗ Chiêu Đức
Cũng
TRỪ DẠ HỮU HOÀI, cũng tấm thân phiêu lãng, lữ thứ tha hương,
nhưng tâm sự của THÔI ĐỒ xót xa thảm hại hơn Mạnh Hạo
Nhiên rất nhiều. Ta hãy cùng chia xẽ với tác giả tâm sự
qua bài thơ sau đây :
除夜有懷 TRỪ DẠ HỮU HOÀI
迢遞三巴路, Điều đệ tam ba lộ,
羈危萬里身。 Ký nguy vạn lý thân.
亂山殘雪夜, Loạn sơn tàn nguyệt dạ,
孤燭異鄉人。 Cô chúc dị hương nhân.
漸與骨肉遠, Tiệm dữ cốt nhục viễn,
轉於奴僕親。 Chuyển ư nô bộc thân.
那堪正飄泊, Na kham chánh phiêu bạc,
來日歲華新。 Lai nhật tuế hoa tân.
崔涂 Thôi Đồ
CHÚ THÍCH :
1. Điều Đệ : Xa xôi diệu dợi.
2.
Tam Ba : Chỉ xứ Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, nay thuộc đông bộ của
tỉnh Tứ Xuyên.
3. Ký Nguy : Chỉ Trong nguy nan mà thân lại ở
xứ người.
4. Câu số 4 : Có bản chép là : " Cô độc
dị hương xuân " 孤獨異鄉春 . Có nghĩa : Mùa xuân đến mà
chỉ có một thân một mình nơi đất khách tha hương. CHÚC
: Là Đuốc. Hoa Chúc : là Đuốc Hoa. Cô Chúc : là Cây đuốc
cô đọc lẻ loi.
5. Đồng Bộc Thân : Đồng là Tiểu
đồng, Thư đồng. Bộc là Nô bộc. Thân là Thân thiết
. Đồng Bộc Thân có nghĩa : Cả thư đồng nô bộc cũng
thấy thân thiết như người thân.
崔涂 (854~?)字礼山,今浙江富春江一带人。唐僖宗光启四年(888)进士。终生飘泊,漫游巴蜀、吴楚、河南,秦陇等地,故其诗多以飘泊生活为题材,情调苍凉。《全唐诗》存其诗1卷。
THÔI ĐỒ ( 854-? ) , tự
là Lễ Sơn, là người ở dãi Phú Xuân Giang, thuộc tỉnh
Chiết Giang ngày nay. Ông đậu Tiến Sĩ năm Quang Khải thứ 4, đời
Đường Hi Tông. Cả đời phiêu bạc, lãng du các xứ Ba
Thục, Ngô Sở, Hà Nam, Tần Lũng... , nên thơ của ông phần
nhiều lấy đề tài tả cảnh sống phiêu bạc giang hồ, tình
tiết âm điệu thê lương. " Toàn Đường Thi " còn
giữ được một tập thơ của ông.
DỊCH NGHĨA :
Diệu
vợi trên đường đi gập ghềnh khúc khủy của xứ Tam Ba,
Tấm thân ngoài ngàn dặm nầy đang tạm dung ở xứ người
an nguy khó định. Đêm lạc lỏng trong cảnh tuyết tan giữa núi
non chập chùng , người tha hương cô đọc với ngọn đuốc
lẻ loi, và ... càng đi thì lại càng xa những người thâm
tình cốt nhục, nên tình cảm chuyển sang cho thư đồng nô
bộc xem họ như những người thân. Không sao kham nỗi với nỗi
phiêu bạc giang hồ, trong khi ngày mai nầy đã lại bước sang năm
mới rồi !
DIỄN NÔM :
Ba sơn diệu vợi
đường dài,
Lẻ loi cô độc ai hoài một thân.
Tuyết
tan non núi chập chùng,
Đuốc đơn người lẻ ngại ngùng
bước chân.
Tính thân chuyển cả thư đồng bộc nô.
Tấm thân phiêu bạc giang hồ,
Mai ngày năm mới thân cô một
mình !
Đỗ Chiêu Đức.
2.Quên Đi
Đêm Trừ Tịch Nhớ.
Diệu vợi đường
Tam Ba
Chốn nguy chẳng nệ hà
Ngàn non đêm tuyết chảy
Xuân
khách một mình ta
Thân tộc giờ ngăn cách
Người hầu
kề chẳng xa
Đành thôi thân lãng tử
Thêm một mùa
xuân qua
Quên Đi
3.Mailoc
Nỗi Nhớ Đêm Cuối
Năm
Đường Ba Tam xa-xôi diệu vợi ,
Bao hiểm nguy chờ đợi một thân .
Tuyết đêm đồi núi tan
dần ,
Quê người
dưới ánh đèn dầu mình ta .
Thân bằng hữu rồi ra mất biệt ,
Chỉ tiểu đồng thân thiết
nghiã cao .
Nổi
trôi há chịu mãi sao ?
Ngày mai năm mới đượm màu xuân tươi .
Mailoc phỏng dịch
01-02-13
.
4.Song Quang:
NỔI LÒNG ĐÊM TRỪ TỊCH
Đường
đi diệu vợi chốn Tam Ba
Dung tạm xứ người ở rất xa
Như
lạc trong đêm tan tuyết núi
Tha hương đất khách một
mình ta
Thân nhân bạn hữu nào hay biết !
Nô bộc
xem như trẻ ở nhà
Phiêu bạc giang hồ kham nổi tá ??
Ngày
mai năm mới chắc đơm hoa ?
SONG QUANG
_________________________________________