GÓC ĐƯỜNG THI
TL_Mountain.jpg_

 

THU VŨ DẠ MIÊN

Bạch Cư Dị

Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Phương Hà

 

_________________________________________________________________________________ 

Cùng Bạn,

Lâu lắm Cali mới hưởng được một trận mưa  rỉ rả suốt đêm qua và sẽ kéo dài hết ngày hôm nay. Mưa thì có nước xài và ao hồ bớt cạn và những cánh đồng bát ngát cây trái có nước để tưới tiêu thật mừng, tuy nhiên người ta đang lo âu cho những trận đất chuồi núi lở sẽ xảy ra ở những vùng bị bão lửa vừa qua sẽ khủng khiếp nếu mưa bão liên tục. Nhưng thôi tạm để qua một bên cái lo âu muôn đời của kiếp nhân sinh, mời các bạn thơ hãy thưởng thức một bài thơ của Bạch Cư DỊ dưới đây, và riêng tôi cũng thật cảm khái nghe tiếng mưa tí tách bên ngoài đêm qua, nhất là sáng nay dậy sớm , bên ly cà phê nóng thơm lừng, nhìn màn mưa bên ngoài mà cảm thấy vô cùng hạnh phúc, mình được ân huệ của Trời Đất,hơn biết bao nhiêu người khác trên hành tinh nầy đang đói lạnh không nhà! Xin cảm tạ Ơn Trên.

Mailoc


Thu Vũ Dạ Miên 

                Bạch Cư Dị 

Lương lãnh tam thu dạ, 
An nhàn nhất lão ông. 
Ngoạ trì đăng diệt hậu, 
Thuỳ mỹ vũ thanh trung. 
Hôi túc ôn bình hoả, 
Hương thiêm noãn bị lung. 
Hiểu tình hàn vị khởi, 
Sương diệp mãn giai hồng. 



Dịch nghĩa: 

Ngủ Trong Đêm Thu Mưa 

Một đêm giá lạnh trong ba tháng thu; 
có một ông già đang an nhàn. 
Lên giường trễ sau khi tắt đèn; 
ngủ ngon trong tiếng mưa rơi. 
Chỉ còn tro tàn trong lò sưởi; 
bỏ thêm trầm hương vào lồng đốt. 
Buổi sáng quang đãng, khí lạnh chưa tới; 
Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm. 


- Bản dịch của Mai Lộc -- 

Ba tháng thu một đêm lạnh lẽo 
Một lão nhân trong vẻ an nhàn . 
Lên giường đèn tắt muộn màng 
Vùi say giấc điệp mơ màng nhạc mưa . 
Trong lò hồng tro vừa tắt ngủm 
Thêm trầm hương một nhúm vào lồng 
Rét còn chưa tới, rạng đông 
Sương đêm nhuộm thắm rực hồng lá thu . 

         Mailoc phỏng dịch 

 

Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :

 

DCD_Thuvudamien_1.jpg

        
1. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ :

 

  秋雨夜眠           THU VŨ DẠ MIÊN

 

涼冷三秋夜,    Lương lãnh tam thu dạ,

安閒一老翁。    An nhàn nhất lão ông.

臥遲燈滅後,    Ngọa trì đăng diệt hậu,

睡美雨聲中。    Thụy mỹ vũ thanh trung.
灰宿溫瓶火,    Hôi túc ôn bình hỏa,

香添暖被籠。    Hương thiêm noãn bị lung.

曉晴寒未起,    Hiểu tình hàn vị khởi,

霜葉滿階紅。    Sương diệp mãn giai hồng !

         白居易                             Bạch Cư Dị

DCD_Thuvudamien_2.jpg

 

    2. Chú thích :

    - Lương Lãnh : Lương là Mát; Lãnh là Lạnh; Lương Lãnh là Mát  đến thấy lạnh, vì đã Tam Thu là vào khoảng tháng 9 âm lịch.

    - Bình Hỏa : là Cái bình bằng sành hơ trên lửa cho nóng để ôm ngủ cho ấm trong đêm thu lạnh lẽo.

    - Bị Lung : là cái mền bung ra như cái lồng để chui vào cho ấm.

    - Hiểu Tình : là Buổi sáng tạnh ráo không có mưa thu.

    - Sương Diệp : là Những chiếc lá nhuốm sương thu.

 

3. Bối cảnh xuất xứ của bài thơ :

            Bài thơ trên đây được sáng tác vào năm Đại Hòa thứ 6, đời vua Đường Văn Tông. Lúc bấy giờ Bạch Cư Dị đang là Phủ Doãn của tỉnh Hà Nam, đã trên sáu mươi tuổi và thân thể đã suy nhược già yếu. Việc quan tuy nhàn hạ nhưng vô vị, cộng thêm người bạn thơ thân thiết là Nguyên Chẩn 元稹 vừa mới tạ thế, nên tâm tình của ông đang xuống dốc buồn chán và lãnh đạm với mọi việc. 

 

4. Nghĩa Bài Thơ :

                          Ngủ Trong Đêm Mưa Thu

          Một lão ông đang an nhàn ngủ đi trong cái lạnh lẽo của ba tháng mùa thu. Nằm trăn trở hèn lâu khi đèn đóm đà tắt hết, rồi ngủ thiếp đi ngon lành trong tiếng mưa thu. Tro tàn trong lò còn làm ấm lên cái bình sưởi, và trầm hương còn tỏa hương thơm vào tấm chăn thơm ấm áp. Trong buổi sáng mai quang tạnh nhưng lạnh lẽo nầy, ta còn nằm ráng mà chưa muốn thức dậy, trong khi sương thu đã nhuộm đỏ cả các lá cây rụng xuống phủ đỏ cả các bậc thềm !   

5. Diễn Nôm :

                   Ngủ Trong Đêm Mưa Thu

                   

DCD_Thuvudamien_3.jpg

              

                     Ba tháng thu lạnh lẽo,

                     An nhàn một lão ông.

                     Tắt đèn đi ngủ trễ,

                     Mưa thu say giấc nồng.

                     Bình sưởi tàn tro ấm,

                     Chăn gối thoảng hương nồng.

                     Sáng trời chưa muốn dậy,

                     Sương nhuốm lá đỏ hồng !  

    Lục bát :

                  Ba thu lạnh lẽo heo may,

                  An nhàn một lão ông ngoài sáu mươi.

                  Đèn tàn nằm trễ nghe lười,

                  Mưa thu thánh thót ngủ vùi năm canh.  

                  Tro tàn bình ấm còn quanh,

                  Trầm hương thoang thoảng chăn lành lạnh thơm.

                  Sáng ngày biếng dậy chập chờn,

                  Sương thu nhuộm lá đỏ rơn mặt thềm !           

 

                                                         Đỗ Chiêu Đức

 Phương Hà xin góp bài phỏng dịch

 Giấc Ngủ Đêm Thu Mưa

 Trời khuya lạnh lẽo giữa thu sang

Trong tiếng mưa rơi tựa nhịp đàn

Ông lãp say sưa trong giấc muộn

Đêm qua trằn trọc giữa canh tàn

Lò tro hơi ấm nồng lan tỏa

Chăn dạ hương trầm ngát chửa tan

Sáng rét, trời quang, nằm nán lại

Ngoài hiên lá rụng đỏ chen vàng.

 

Phương Hà phỏng dịch

 

______________________________________________________________ 

  

 

Mailoc, Phương Hà, Quên Đi 

NHỚ QUÊ HƯƠNG

Cùng Bạn,

    Mới rồi đọc bài thơ của thầy PKT ‘Bố Muốn Dẫn Con Về " rồi bài " Có Một Chỗ Để Về" của TBT, tôi vô cùng xúc động.

   Ở tuổi già, người ta thường có khuynh hướng nhớ về quê hương, nhớ ngày xưa chuyện cũ. Tôi cũng vậy, thỉnh thoảng tôi bỗng dưng nhớ lại hết chuyện nầy đến chuyện khác, hình ảnh người thân nầy, người bạn nọ , lại trở về trong trí tôi có khi rõ nét có khi mơ hồ. Đôi khi tôi cũng nhớ rõ ràng căn nhà cũ thời thơ ấu của tôi, từ mái ngói, cái hàng rào, cây nhản trước nhà, bụi tre sau hè , cái bàn đá ngồi ăn cơm, nhớ bộ ngựa gõ bên cửa sổ v..v... nhớ từng chi tiết như mới ngày hôm qua . Nhiều lần khi đọc lại bài " Chỗ Quê Hương Đẹp Hơn Cả " trong bộ Quốc Văn Giaó Khoa Thư lớp dự bị mấy chục năm về trước,  tôi thật thấm thía vô cùng với câu: " Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khủyu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được "., thì ra dường như những vật vô tri cũng có linh hồn khiến chúng ta quyến luyến  nhớ thương nó  vô cùng mỗi khi xa  .

   Nhân đây xin chuyển đến các bạn  đọc chơi vài bài thơ đời Đường, thi nhân ngày trước, và chúng ta bây giờ tâm trạng gần như nhau, đều tha thiết gắn bó với quê hương .

 

Đề Bình Dương Quận Phần Kiều Biên Liễu Thụ 

            Sầm Tham
題平陽郡汾橋邊柳樹 

此地曾居住, 
今來宛似歸。 
可憐汾上柳, 
相見也依依。 

Thử địa tằng cư trú 
Kim niên uyển tự quy 
Khả liên Phần thượng liễu 
Tương kiến dã y y 

                         Sầm Tham 

Ghi chú: Quận Bình Dương, có sông Phần chảy qua, nay là huyện Phần, tỉnh Thiễm Tây. 

--Dịch nghĩa-- 

Thơ về cây liễu bên cầu sông Phần ở quận Bình Dương
(ta đã từng ở nơi này) 
(nên năm nay ta trở lại) 
(khá thương cho cây liễu trên bờ sông Phần) 
(gặp lại ta vẫn thấy như hồi nào) 

 

 Dịch Thơ : 

 

  Xưa đt ny ta đã tng , 

Nay có dp li tr v thăm . 

Thương sao gc liu sông Phn , 

Gp nhau ta liu tình thân ngày nào .

                                 Mailoc phỏng dịch

 

Lý Bch khí xa quê, không nhắc  gì hết ngoài cái khóm tường vi, mây quê nhà, vầng trăng cũ , thật ý nhị rạc rào ...

 Ức Đông Sơn kỳ nhất

        Nguyên tác: Lý Bạch

憶東山其一 
李白 

不向東山久, 
薔薇幾度花。 
白雲還自散, 
明月落誰家。 

Ức Đông Sơn 

                  Lý Bạch 

Bất hướng Đông Sơn cửu , 
Tường vi kỷ độ hoa . 
Bạch vân hoàn tự tán , 
Minh nguyệt lạc thùy gia . 

--Dịch nghĩa :-- 

Nhớ Đông Sơn 

Đã lâu không đến Đông Sơn (1) 
Tường vi đã nở mấy lần ? 
Mây trắng lại tự tan ra 
Trăng sáng rụng xuống nhà nào ? 

(1) Đông Sơn là chỗ Lý Bạch ở, nằm về 
phía đông nam thành Nam Kinh bây giờ 

-- Bản dịch của Trần Trọng Kim : -- 

Đông Sơn xa cách bao xuân , 
Tường vi đã trải mấy lần nở hoa . 
Mây kia bạc xóa tan ra , 
Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà nào. 

-- Bản dịch của Ngô Tất Tố : -- 

Non Đông xa cách bao xuân ! 
Cây tường vi đã mấy lần nở hoa ? 
Mây xưa hẳn vẫn bay xa ? 
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao? 

 


--Bản dịch của Mai Lộc-- 

(
1) 
Đông Sơn cách biệt đã từ lâu , 
Chẳng biết tường vi nở mấy lần ? 
Mây trắng như xưa tan tác mãi ? 
Nhà ai trăng rụng lúc tàn thâu ? 
(2) 
Đông Sơn vắng từ lâu , 
Tường vi nở mấy lần ? 
Mây trắng vẫn tan tác ? 
Nhà ai rụng trăng thâu ? 

(3) 

Đã mấy xuân Đông Sơn cách biệt , 

Tường vi xưa nở biết mấy lần ? 

Vẫn còn mây trắng lãng dâng ? 

Nhà ai rớt rụng trăng tàn đêm nay ? 

Bạch Cư Dị khi xa Giang Nam hai năm ông quay quắc nhớ hàng dường liễu ông trồng , rồi sợ có người nào đó nở bẻ cành chơi


Ức giang liễu

         Nguyên tác: Bạch Cư Dị

憶江柳 

白居易 

曾栽楊柳江南岸, 
一別江南兩度春。 
遙憶青青江岸上, 
不知攀折是何人。 

Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn, 
Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân. 
Dao ức thanh thanh giang ngạn thượng, 
Bất tri phan chiết thị hà nhân. 

--Dịch nghĩa:-- 

Nhớ liễu bên sông 

Từng trồng dương liễu ở bờ sông Giang Nam, 
Từ khi cách biệt Giang Nam,đã hai lần xuân sang. 
Vẫn xa nhớ bờ sông xanh xanh, 
Chỉ không biết ai đã đến bẻ cành liễu. 

 

  Dch Thơ :

 

        Nh Liu Bên Sông

Bến Giang Nam tng trng dương liu

Xa Giang Nam lòng trĩu hai xuân.

Nh b liu biếc xinh xinh,

Ai người li n tay vin b cành?

                   Mailoc phng dch

 

Đông Đình Nhàn Vọng

                      Nguyên tác: Bạch Cư Dị

東亭閑望 
白居易 

東亭盡日坐, 
誰伴寂寥人? 
綠桂為佳客, 
紅蕉當美人. 
笑言雖不接, 
情狀似相親. 
不作悠悠想, 
如何度晚春? 

Đông đình tận nhật tọa, 
Thùy bạn tịch liêu nhân ? 
Lục quế vi giai khách, 
Hồng tiêu đáng mỹ nhân. 
Tiếu ngôn tuy bất tiếp, 
Tình trạng tự tương thân. 
Bất tác du du tưởng, 
Như hà độ vãn xuân ? 


--Dịch nghĩa:-- 

Nhàn Ngắm Từ Đình Phía Đông
 


Cả ngày ngồi ở đình phía đông, 
ai sẽ là bạn cho kẻ nhàn nhã này ? 
Cây quế xanh có thể là vị khách quý, 
cây chuối hồng đáng mặt người đẹp. 
Tuy không trực tiếp nói cười được, 
nhưng tình trạng như thật thân thiết. 
Nếu không tưởng tượng rộng rãi như vậy, 
làm sao ta có thể qua được những ngày xuân muộn này ?

--Bản dịch của MaiLộc

Ngồi suốt ngày đình đông lặng lẽ , 
Ai bạn nhàn với kẻ nầy đây ? 
Quế xanh khách qúi 
ny ny , 
Chuối hồng người đẹp hây hây bạn lòng . 
Tuy chẳng cười cũng không giao tiếp , 
Nhưng tình thân thắm thiết vô cùng . 
Nếu không tưởng tuợng mông lung , 
Làm sao chống chỏi nỗi buồn cuối xuân ? 

               ML

 Còn Lamartine thì sao ? Là người lãng mạn, trong bài thơ Milly ou la terre natale , xa quê hương ông đau khổ rồi tự ví mình như kẻ bị lưu đày, nơi xa xôi ông nhớ lại từ dư âm cũ của từng bước chân đi của người thân quen, nhớ đến núi đồi thung lũng sương trắng ban mai, nhớ tháp cổ hiu hắt nắng chiều, nhớ những mái rạ , nhớ bếp hồng khói lam chiều v...v..., rồi cuốí cùng quá da diết ông phải thốt lên một câu thật thống thiết bất hủ để muôn đời:

 

        Objets inanimés !

Avez-vous donc une âme ?

Qui s ‘attache à mon âme ,

Et la force d' aimer .

                                         Lamartine

Hi nhng vt vô tri kia đó ,

Nói cho ta mi có hn không ?

Nào hay cái v lnh lùng ,

Mà tình mi ct tn cùng hn ta !

                                               Mailoc

 

Phương Hà xin được góp bài phỏng dịch cùng anh Mai Lộc và VTT

 

 

1- Phỏng dịch bài Đề Bình Dương Quận Phần Kiều Biên Liễu Thụ của Sâm Tham



Cây liễu bên cầu sông Phần

 

Nhớ xưa ta ở chốn này

Năm nay trở lại lòng đầy vấn vương

Thương sao cây liễu sông Phần

Cùng ta gặp lại tình thân vẫn nồng.

             Phương Hà phỏng dịch

 

2- Phỏng dich bài  Ức Đông Sơn của Lý Bạch

 

Nhớ  Đông Sơn

 

Lâu rồi chưa dịp ghé Đông Sơn

Chẳng biết tường vi nở mấy lần ?

Mây trắng hợp về rồi tản mác

Nhà ai trăng sáng rụng đầy sân ?

              Phương Hà phỏng dịch

 

3- Phỏng dịch bài Ức giang liễu của Bach Cư Dị

 

Nhớ liễu bên sông

 

Ta trồng rặng liễu ở Giang Nam

Cách biệt hai năm chẳng ghé thăm

Vẫn nhớ bờ sông xanh ngút mắt

Biết ai đã đến, đã vin cành ?

             Phương Hà phỏng dịch

 

4- Phỏng dịch bài Đông Đình Nhàn Vọng của Bạch Cư Dị

 

Ngắm cảnh từ Đông Đình

 

Suốt ngày nhàn tản ở Đông Đình

Biết có ai đâu bạn với mình

Quế biếc xem như người khách quý

Chuối hồng nào khác kẻ đoan trinh

Nói cười tuy chẳng cùng giao tiếp

Thân thiết dường như đã trọn tình

Nếu chẳng hình dung ra sự thể

Làm sao qua được buổi xuân tàn ?

              Phương Hà phỏng dịch

 

5- Phỏng dịch 4 câu kết trong bài Milly ou la terre natale của Lamartine

 

Hỡi vật vô tri, ta muốn hỏi

Có hay chăng một cõi linh hồn ?

Cùng ta chia sẻ vui buồn

Tâm tư vương vấn bồn chồn nỗi yêu.

              Phương Hà phỏng dịch

 

 

Tiếp theo Phương Hà, Quên Đi xin góp vui:

 

1/ Đề Bình Dương Quận Phần Kiều Biên Liễu Thụ 

(Câu 2 chữ thứ nhì là lai chớ không phải niên)

 

Lúc trước nơi này từng trú ngụ

Nay về thăm chốn cũ năm nao

Sông Phần cội liễu rì rào

Cảnh đây vẫn thế khác nào thuở xưa.

 

2/ Ức Giang Liễu

(Nhớ Hàng Liễu ở Giang Nam)

 

Từng trồng liễu ở bờ sông

Giang Nam hai lượt xuân đông chưa về

Màu xanh xanh biếc trên đê

Người từ đâu đến mân mê bẻ cành.

 

3/ Phía Đông Của Đình Ngắm 

 

Ngồi nơi đình phía đông

Cảnh vắng bạn thì không

Quế biếc làm thân khách

Người xinh ấy chuối hồng

Nói cười tuy chúng chẳng

Nhưng cũng thấy vui lòng

Đành phải nghĩ như thế

Để xuân được chút nồng

                       Quên Đi

  

  

CHU TRUNG

Huyền Quang Thiền Sư

Bản dịch: Quên Đi, Kim Oanh, Phương Hà, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức

 ______________________________________________________________________________________ 


 Đất trời hoà một, trời là đất, đất là trời, không còn ranh giới giữa cõi Phật và nhân gian, chỉ có Chân Như trong sáng thôi.

 

         舟中                               Chu Trung

 

一葉扁舟湖海客     Nhất diệp biển chu hồ hải khách         

撐出葦行風慼慼     Sanh xuất vy hành phong thích thích              

微茫四顧晚潮生     Vi mang tứ cố vãn triều sinh

江水連天一鷗白     Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch        

          玄光禪師                 Huyền Quang Thiền Sư

 

Dịch Nghĩa: Trong Thuyền

 

Kẻ đang phiêu bạt biển hồ, ngồi trên con xuồng mong manh như chiếc lá

Chống xuồng qua đám lau, nghe tiếng gió buồn buồn rên rỉ

Bốn phía mịt mù, trong khi con nước buổi chiều đang lên

Giữa vùng trời và sông nước như liền nhau, xuất hiện một cánh chim hải âu trắng.

 

Diễn ý:

Từ bài Thơ Thiền này, Quên Đi nảy sinh liên tưởng:

 Đây có phải là chiếc Thuyền không đáy của Tiếp Dẫn Tăng, và người khách là thầy trò Đường Tăng? Rời bến Lăng Vân, bỏ lại phía sau chốn mê, Tiếp Dẫn Tăng đưa thầy trò Đường Tăng sang đất Phật.

 

Dịch Thơ

 

      Kẻ phiêu bạt ngồi trên xuồng nhỏ

      Vượt ngàn lau trong gió thì thào

        Chiều mờ con nước dâng cao

Giữa trời đất quyện hiện màu trắng âu.

                               Quên Đi

 

Phiêu bạt một chiếc thuyền con

Hàng lau xào xạc dập dồn gió than

Chiều lờ mờ nước dâng tràn

Hải âu trắng xóa mênh mang đất trời

 

Kim Oanh   

 

Phương Hà xin có bài phỏng dịch góp vui cùng anh Quên Đi, Kim Oanh và VTT

I -

Trong thuyền

Mong manh thuyền nhỏ trên hồ rộng

Qua đám lau già, nghe gió than

Mờ mịt bốn bên, trời nước quyện

Cánh chim ẩn hiện giữa mây ngàn.

II-

Trong thuyền

Biển hồ rộng, mong manh thuyền nhỏ

Vượt lau ngàn, nghe gió thở than

Bốn bên triều ngập mênh mang

Giữa vùng trời nước, nhịp nhàng cánh âu.

III-

Trong thuyền

Mong manh thuyền nhỏ giữa hồ

Thở than, tiếng gió trong bờ lau cao

Bốn bên trời nước một màu

Cánh chim âu trắng từ đâu lượn về.

 

IV-

Trong thuyền

Thuyền nhỏ trên hồ rộng

Trong lau, tiếng gió than

Mênh mang trời nước quyện

Trắng hiện cánh chim ngàn

 

                         Phương Hà

 Chu Trung

 Như chiếc lá rong chơi thuyền khách,

Gió xạc xào lau lách vượt qua.

Triều lên mù mịt chiều tà,

Giữa trời mây nước xa xa cánh cò.

            Mailoc phỏng dịch

 

Trên Thuyền

Chiếc thuyền con chở theo người hồ hải,

Gió se se rời khỏi khóm lau xanh.

Con nước tối chung quanh chừng bát ngát,

Một cánh cò giữa trời nước thanh thanh !

Đỗ Chiêu Đức

  

 

 

 TRƯƠNG KẾ: PHONG KIỀU DẠ BẠC

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Danh Hữu, Mailoc, Tản Đà, VHKT, Mai Xuân Thanh, Quên Đi 

TL_Phongkieudabac.jpg 

 

 PHẠM KHẮC TRÍ                                                

Tôi đã chuyển dịch lại bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nhiều lần ,nhưng đều không được vừa ý , đành bỏ cuộc chơi rồi sao? Sau đây là 2 bài chuyển dịch lần cuối(?), chép lại để mọi người đọc cho vui và để nhớ lại mười mấy năm trước đây , vườn thơ "trân quý sợi dây thân ái/ thơ thẩn cho vui/ đùa rỡn với chữ nghĩa/ đâu kể đến niêm luật ràng buộc / trong tình anh chị em một nhà, vui thôi ,  vui như ngày Tết .. . Cầu chúc an lành cho tất cả mọi người quý mến của tôi. PKT 03/20/2016 .

 

       楓橋夜泊                                   Phong Kiều Dạ Bạc

月落烏啼霜滿天            Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;

江楓漁火對愁眠            Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.

姑蘇城外寒山寺            Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,

夜半鍾聲到客船            Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.

                 張計                                                  Trương Kế

 

 

Thuyền Đêm Bến Lạ

PKT 04/20/2014

 

Trăng lặn ,quạ kêu , trời ngập sương ,

Bến phong trở giấc những tơ vương.

Lửa chài hiu hắt trên sông lạnh ,

Thuyền khách , chuông khuya , vỗ mộng thường.

 

 

Tri Khac Pham

Phamid1934@gmail.com

 

 DANH HỮU                                                  

 

                Nhân đọc thấy bác Trí thích bài thơ này và đã cố công dịch nó nhiều lần nhưng chưa vừa ý, vậy xin gửi tới bác bài phiếm luận này, bác và chư vị đọc chơi. Một bài thơ muốn dịch cho hay thiết tưởng cũng nên tìm hiểu rõ nội dung của nó, mình có thấm ý thì dịch mới dễ đạt.

Xin mời đọc :

 

                               Phiếm Luận

 

                                              

       楓橋夜泊                                   Phong Kiều Dạ Bạc

月落烏啼霜滿天            Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên;

江楓漁火對愁眠            Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.

姑蘇城外寒山寺            Cô Tô, thành ngoại, Hàn San Tự,

夜半鍾聲到客船            Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền.

                 張計                                                  Trương Kế

 

               Bài thơ này trước đây được người Nhật tán tụng và Khang Hữu Vi, một nhân sĩ đời Thanh rất chuộng văn hóa Nhật bản, đã thuê người khắc bài thơ này lên một tảng đá lớn đặt trước chùa Hàn San. Một bài thơ mà đã bị người Tầu chê dở và Âu Dương Tu đã phê rằng : Nhà thơ vì mê câu văn hay đã làm cho ý văn không được thông, đó là ngữ bệnh vậy. Họ cho là làm gì có chùa nào thỉnh chuông lúc nửa đêm, chẳng qua Trương Kế mơ mơ màng màng rồi thiếp đi đến gần sáng, lúc nghe tiếng chuông thỉnh an sáng sớm lại tưởng là còn nửa đêm. Người Tầu khác lại muốn biện minh cho tác giả nên cũng đã bịa đặt ra câu chuyện thầy trò nhà sư chùa Hàn San làm được câu thơ hay mới thỉnh chuông để tạ ơn Phật mà nên mới có tiếng chuông thỉnh lúc nửa đêm. Bài thơ này quá dở nên lòi ra là chuyện giả. Một anh phóng viên Nhật, cách nay hơn chục năm, cũng đã ghé chùa Hàn san để tìm hiểu và được vị trụ trì giảng cho nghe là gần đấy có ngôi làng mang tên Ô Lạc, và ngọn núi xa xa, tên của nó là Nguyệt Lạc. Anh không cãi lại nhưng trong bút ký của anh, anh cho dó là chuyện bịa đặt của người sau muốn phong Thánh cho làng mình nhờ vào bài thơ xưa.

               Trong đại chiến thế giới II, người Nhật đã lén tháo chuông cùa chùa Hàn San đem về Nhật, vì họ cho là tiếng chuông có cái gì đó linh thiêng khiến được Trương Kế làm ra bài thơ thần diệu này. Về sau phía Trung quốc đòi mãi, người Nhật mới chịu hoàn trả, nhưng là hoàn trả một chiếc chuông khác của họ mới đúc để thế vào, còn chiếc chuông cũ thì họ vẫn giữ.

                Tại sao cũng một bài thơ mà những người hậu duệ của nước tác giả thì chê mà lại được người nước ngoài tán thưởng ? Ấy là vì cái nội dung tinh thần của bài thơ này, nó giống với đặc điểm tinh thần thơ Haiku của người Nhật. Vậy thì, trước khi bàn về cái hay, cái tinh túy của bài thơ Trương Kế, ta hãy xem cấu trúc tinh thần của thể thơ Haiku là gì.

                Hồi trẻ, cách nay cũng trên 50 năm, tác giả bài phiếm luận này có đọc mấy bài thơ Haiku nhưng có một bài, đã qua bao năm tháng mà không thể quên được dù chẳng còn nhớ tên tác giả là ai. Bài đó được dịch ra như sau :

                                               Con bướm vàng
                                               Đậu trên đầu trượng của nhà sư hành hương
                                               Thiu thiu ngủ.

                Nếu ta là người ngoại đạo của thơ Haiku, ta sẽ chẳng thể nào hiểu được cái thâm thúy của bài thơ này, ta chỉ thấy đây là một câu tả cảnh mà người ta cố tình xuống hàng cho ra vẻ thơ, mà thôi. Nhưng, đây là một bài thơ rất được chuộng ở người Nhật. Ta biết rằng hàng năm vào ngày đầu năm, Nhật Hoàng có lệ mời một vị có bài thơ Haiku hay nhất trong năm đến cùng ngài uống trà ở cung vua, như một phần thưởng cao quí, bất kể nhà thơ đó đang định cư ở đâu (báo đăng có một ông thi sĩ Nhật sống ở Mỹ đã có lần được hân hạnh về uống trà đầu năm với Nhật hoàng). Lệ này vẫn còn giữ mãi cho đến gần đây.

                Vậy, cái hay của thơ Haiku là ở đâu ? Ta biết rằng quán tính của con bướm, là không đậu yên một chỗ, nó cứ nhởn nhơ, vừa đáp xuống lại lập tức bay lên, như là sợ sệt lủ con nít thích bắt bướm ở đâu đó chộp nó vậy. Đó là trạng thái không yên ổn của tâm hồn nếu đem đặt vào con người. Ngồi chưa nóng chỗ đã nhổm đít đứng lên. Nhưng ở đây, tại sao con bướm nó lại cảm thấy thật bình yên để mà có thể thiu thiu ngủ một giấc ngon lành như vậy, tác giả có đãng trí không ? Thưa, là vì tác giả đã cho nó đậu trên đầu cây trượng của một hòa thượng, mà không phải là bất cứ một ông hòa thượng nào, mà phải là một hòa thượng hành hương trên đường tìm về xứ Phật. Một nhà sư hành hương về xứ Phật tất không còn chút ham muốn nào có thể chi phối ông, dù là trước một con bướm đẹp, mà những đứa trẻ con, dù có táy máy đến đâu cũng không dám dỡn mặt với một vị tu hành, nhất là, trước mặt chúng nó, có cây thiền trượng đe dọa, sẵn sàng gõ vào đầu chúng. Chỉ có ở nơi đó, với những bảo đảm chừng ấy và viễn ảnh chừng kia, mới khiến được con bướm dám vững bụng mà nằm ngủ yên lành, phó thác tính mạng cho số phận mà nó đinh ninh là sẽ được đến cõi Thiên trúc cùng với nhà sư. Một hình ảnh thật độc đáo khó thể tìm thấy ở đâu. Bài thơ Haiku này dùng hình ảnh đơn sơ để miêu tả một chân lý, đó là sự quảng bá đức tin về đạo Phật, một tôn giáo che chở cho chúng sinh yếu đuối đến nơi an lành. Chỉ với vài nét loáng thoáng, tác giả đã vẽ nên một chân lý, thật là ý tại ngôn ngoại.

                Bây giờ trở về với thơ Trương Kế, Bài thơ này có gì liên quan đến thể thơ Haiku ? Có chứ ! Bài thơ không chỉ đơn thuần là chỉ tả một cảnh đêm khó ngủ, bất chợt nghe tiếng chuông chùa như ta đọc thấy ở các bản dịch thơ chưa chuẩn. Vậy trước hết, xin hãy dịch đã để đãi, hầu quí bạn :

                         Đêm trên bến Phong Kiều

Trăng rụng, quạ kêu, trời phủ sương;

Hàng phong, đốm lửa, gục buồn vương.

Cô Tô, ngoài ấy, chùa Hàn vắng

Thuyền khách, khuya về, viếng tiếng chuông.

                Như nói ở trên, Haiku là một thể loại thơ dùng vài nét phác tả để gợi ý người đọc, chứ không nói thẳng ý ra như ta thường thấy ở những bài thơ Đường tầm thường. Do vậy, thơ Haiku rất kén người đọc, vì không phải ai cũng đủ hội ý mà hiểu được thâm ý tác giả.

                Bài thơ của Trương Kế có cái độc đáo của thể loại thơ Haiku nên mà được người Nhật tán thưởng và thích thú. Ta thử phân tích :

Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ được làm ra trên bến Phong Kiều, bến Phong Kiều chỉ là cái cớ. Ta biết cây Phong là một loại cây được vua Hán đem trồng trong Triều đình ở sân vua, nên nó có tên là Phong thần, thu đến sắc lá của nó đỏ ối như rực lửa để xua tan cái lạnh. Vậy Phong Kiều dạ bạc là có hàm ý : ngôi vua đang trong thời kỳ đen tối (như hàng phong đứng vô hồn trong đêm lạnh lẽo bên cầu trên bến vắng).

Bây giờ ta đi vào nội dung bài thơ :

Câu một : Nguyệt lạc : Trăng luôn là biểu tượng gợi hứng cho nhà thơ, nay trăng đó đã rụng mất rồi. (Nguyệt lạc là trăng rơi rụng chứ không phải trăng lặn, trăng lặn là Nguyệt há). Nhà thơ không còn thấy hứng thú gì nữa. Ô đề là quạ kêu, (quạ luôn bị coi là con vật mang tai họa đến) hiện nay, nó đang xuất hiện, đang to tiếng, chế ngự không gian. Nghĩa là thế gian bây giờ chỉ còn có giống quạ (gian thần) tác quái. Sương mãn thiên là trời bị bao phủ bởi màn sương đêm, hàm ý nhà vua bị che khuất, công lý chẳng còn nữa.

Câu hai : Giang phong : hàng cây trên bến hàm ý để chỉ các đại thần của giang sơn, đất nước; ngư hỏa : nó chỉ còn leo lét như cái đóm lửa của bác thuyền chài. Đối sầu miên : Nhìn cảnh đó mà tác giả thấy buồn nôn chỉ muốn đi nằm (tức không còn sức để làm việc).

Câu ba : Cô Tô là gợi ý địa danh, nơi mà ngày xưa vua Hán dùng làm nơi tuyển nhân tài tuấn kiệt ở trước cổng thành Cô Tô. Nơi đó bây giờ chẳng có ai, ngoài một ngôi chùa Hàn san lạnh lẽo.

Câu bốn : Bán dạ chung thanh : Tiếng chuông nửa đêm; đáo khách thuyền : đến thuyền khách. Chữ "đáo" ở đây là nhãn tự, nó làm cho tiếng chuông như một vị Thần đêm đến viếng nhà thơ.

Bài thơ, là một bài bàn về Thế sự. Nhà thơ (Trương Kế nguyên là một tiến sĩ đời Đường thế kỷ thứ VIII), trước cảnh Quốc phá, gian thần lộng hành,  đành buông xuôi và trong đêm tăm tối không có hướng ra thì bỗng được nghe tiếng chuông, là hàm ý chỉ có nơi cảnh Phật là có thể giúp tác giả quên hết sự đời. Đối với Phật, tất cả giai không, chẳng có gì mà phải luyến tiếc.

Tóm lại, nội dung bài thơ là tác giả muốn nói lên cái ý muốn quy viên (từ quan) như Trương Hàn thác là mình nhớ món gõi cá vược ở quê nhà nên từ quan, chứ không phải là mình đã chán ngấy, ngày ngày làm ông quan phỗng ở Triều đình.

                Trên đây, bàn phiếm về nội dung bài thơ của Trương Kế, chẳng biết quí bạn có ý kiến gì khác không ?

Thân mến,

Danh Hữu
                                               

Mailoc                                                    

Anh Danh thân mến ,

Thật thích thú đưọc đọc phiếm luận của anh .Anh đã dắt chúng tôi đi từ Phong Kiều Dạ Bạc dến bài thơ Haiku của Nhật Bản, rồi trở về PKDB của Trương Kế ...một cuộc viễn du đầy lý thú.Riêng tôi bỡi qúa tệ chử Hán nêndốt nát về điển tích Tầu , thật khó lòng hiểu nỗi ý nghiã sâu sắc thâm thúy của tác giả trong bài thơ, chỉ biết mỗi lần đọc lại PKDB lòng tôi thật cảm khái .Năm 2007 trong chuyến du lịch Tầu , tôi có ghé  viếng Hàn San tự để thoả lòng khao khát , nhưng tôi có chút thất vọng trước cảnh thực tế của Hàn San bây giờ , chẳng ccòn gì mơ màng như trong trí tưởng tượng của mình lúc trước, chỉ có hàng  liễu rũ dọc con kinh trong lúc hoàng hôn là còn chút thơ mộng .Hàn San tự cũng vậy, được xây mới nên mất hết  vẽ cỗ kính . Tuy nhiên khi lên xe bus trở về khách sạn lúc chiều tối , quay lại nhìn cảnh chùa trong cảnh nhá nhem tối, nghe một tiếng chuông ngân nga rền vang ( có lẽ do du khách dộng chuông để cầu phước sau khi đã bỏ ra chút ít tiền )đã để lại trong tôi một ấn tượng khó quên . Xin gởi bạn chia sẻ

Xin cam ơn anh Danh , anh Trí 

Thân kính 

Mailoc

 

    Hàn San Tự Hoài Cảm

 

Hoàng hôn phủ mái Hàn San,

Cô Tô đâu tá ? trơ gan chiếc cầu .

Xa mờ một chiếc thuyền nâu,

Không gian trầm lắng ngân sầu tiếng chuông .

Ê a kinh mõ buồn buồn ,

Não lòng du khách như vương tơ lòng.

Phong Kiều Dạ Bạc đôi dòng,

Mà sao đọc mãi cõi lòng ngất ngây !

                    Mailoc

                  10-22-07

Nhân đây xin gởi đến các bạn vài bài phỏng dịch PKDB cũ góp vần cùng anh Trí và các ban

 

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên ,

Giang phong , ngư hỏa đối sầu miên .

Cô-Tô thành ngoại Hàn San tự ,

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

                                        Trương Kế

TẢN ĐÀ                                                 

Thuyền Đậu Bến Phong Kiều

Trăng tà tiếng qụa kêu sương ,

Lửa chài ,cây bến sầu vương giấc hồ .

Thuyền ai đậu bến Cô-Tô ?

Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

                                                        TẢN ĐÀ

 VHKT                           

Trăng lặng ,qụa kêu khắp trời ,

Cây phong,ngư lửa ngủ cùng đôi .

Cô-Tô ngoài có Hàn San tự ,

Chuông vang nửa đêm thuyền đậu khơi .

                                                                 VHKT

Bản dịch của Mailoc                                                 

  (1)

Trăng tà tiếng qụa kêu sương

Lửa chài, phong lặng , đêm trường chẳng an .

Cô-Tô bến nước Hàn San ,

Nửa đêm ,thanh vẳng chuông vang tận thuyền .

  (2)

Sương khói ,trăng tà , tiếng qụa than ,

Lửa chài, phong lặng , giấc mơ màng .

Cô-Tô bến nước Hàn San tự ,

Đêm vắng tận thuyền  tiếng chuông vang .

                                                          MaiLoc

 MAI XUÂN THANH                                               

TRĂNG RỤNG BẾN PHONG KIỀU

 

1)

Mù trời, trăng rụng quạ kêu sương,

Ánh lửa bờ phong thảm thiết thường.

Cổ tự Hàn San sao vắng vẻ,

Khách thuyền chuông vọng một đêm trường

 

2)

Sương phủ, quạ kêu bóng nguyệt mờ,

Bờ phong đóm lửa thấy bơ vơ.

Hàn San cổ tự buồn xa vắng,

Chuông vọng khách thuyền khuya khoắt mơ.

 

Mai Xuân Thanh

Ngày 24 tháng 03 năm 2016

 QUÊN ĐI                                                      

Sau Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, bài Phong Kiều Dạ Bạc là bài thơ khiến Quên Đi có nhiều suy nghĩ nhất, một thắc mắc cứ mãi trong đầu: Tại sao tác giả dùng từ " Dạ bán " mà không dùng " Bán dạ"?có phải chỉ để cho êm tai hơn , thuận miệng hơn khi đọc hay còn một nguyên do nào khác?

Giống như Thầy Khắc Trí, Quên Đi cứ dịch mãi bài thơ này cũng chưa vừa ý.Xin gởi ra đây những bài Quên Đi đã dịch:

 

    Đêm Neo Thuyền Ở Bến Phong Kiều 
1

Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt buông
Đèn câu le lói bến phong buồn
Hàn San chùa cổ canh khuya vắng
Quá nửa đêm về vọng tiếng chuông


2
Sương phủ trăng mờ quạ khóc than
Đèn chài phong bến giấc sầu lan
Tô Châu thành ngoại Hàn San Tự
Chuông vẳng giữa đêm mộng khách tàn


3

            Sương mờ trăng lặn quạ hờn
  Cầu phong giấc ngủ chập chờn sầu vương
          Hàn San yên vắng phật đường
Nửa đêm chuông đổ Hoàng Lương mộng tàn
 

4
 

Trăng tàn quạ nhác sương
Phong bến giấc sầu vương
Đêm vắng Hàn San Tự
Chuông ngân khách có tường


5
         Sương giăng tiếng quạ trăng tàn
   Cầu phong chài lửa man man giấc trần
            Hàn San Tự đêm khuya dần

Nam Kha đang mộng chuông ngân vọng về 

 

                                           Quên Đi 

   



 

   Đảo Y Thiên ( Lý Bạch)

    Mailoc phỏng dịch 

 

 Chia ly là nỗi đau muôn đời của Chinh Phu Chinh Phụ. Xem cảnh chia tay của người vợ lính Mỹ ôm con tiễn chồng trong sân bay, trên bến tàu cho cuộc chiến Iraq, Afghanistan trên TV mà lòng bùi ngùi nhớ đến cảnh người  vợ lính VNCH chúng ta ngày trước khi chia tay chồng đi tù cải tạo. Lý Bạch đời Đường cũng diễn tả nỗi đau thương mong đợi chồng của người chinh phụ cô phòng lẻ bóng ngày xưa, cũng lâm ly như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm vậy .

Xin chia xẻ cùng các Bạn. 

Thân, 

Mailoc

 

TL_LyBach.jpg

Đảo Y Thiên 

                         Lý Bạch 

Khuê lý giai nhân niên thập dư 
Tần nga đối ảnh hận li cư 
Hốt phùng giang thượng xuân quy yến 
Hàm đắc vân trung xích tố thư 
Ngọc thủ khai giam trường thán tức 
Cuồng phu do thú Giao hà bắc 
Vạn lí Giao hà thuỷ bắc lưu 
Nguyện vi song yến phiếm trung châu 
Quân biên vân ủng thanh ti kỵ 
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu 
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết 
Thuỳ năng lãm kính khan sầu phát 
Hiểu xuy viên quản tuỳ lạc hoa 
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt 
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường 
Chân châu liêm bạc yểm lan đường 
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết 
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương 
Quỳnh diên bảo ác liên chi cẩm 
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm 
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao 
Vi quân lưu hạ tương tư chẩm 
Trích tận đình lan bất kiến quân 
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân 
Minh niên nhược canh chinh biên tái 
Nguyện tác Dương Đài nhất đoạn vân 

Chú thích: 1/ Giao hà, tên sông, nay ở phía tây huyện Thổ lỗ phồn trong khu tự trị Tân Cương, 2/ Dương đài, tên ngọn núi trong rặng núi Vu sơn ở phía đông nam tỉnh Tứ Xuyên. 3/ Theo lệ đời Đường, gia đình phải giặt áo lạnh gửi ra chiến trường cho người thân đi lính. 

 

--Dịch nghĩa: -- 

Bài ca giặt áo 

Người đẹp ở trong phòng the đã hơn mười năm ; soi gương chau mày buồn cho cuộc sống [có chồng ] xa vắng. Bỗng thấy trên sông xuân một cánh nhạn bay về ; trong mây ngậm một phong thư trắng dài cả thước . Bàn tay ngọc mở thư xem rồi [miệng] than một tiếng dài : người chồng cuồng vẫn còn đóng trong quân phía bắc sông Giao . Sông Giao dài cả vạn dặm, nước chảy ngược lên phía bắc ; thiếp nguyện làm đôi chim bay bay giữa bãi sông . Nơi biên giới chàng ở, mây phả vào [mặt] con ngựa [lông] tơ xanh ; lầu hồng thiếp ngụ, rêu đang bao phủ . Trên lầu có gió xuân, nắng sắp tắt ; ai còn có thể soi gương để xem mái tóc buồn . Buổi sáng thổi sáo tròn theo lá rụng ; đêm giặt áo trận [của chàng] nhìn về vầng trăng sáng . Trăng trên cao sáng cả đêm ; rèm ngọc đã giăng nhà lan . Giải đồng tâm kết bằng lụa quý trên màn treo ngang ; rủ lưng chừng vào chiếu quỳnh thơm mùi tô hợp. Chiếu quỳnh, màn quí đều là gấm thêu cành hoa ; đèn đuốc soi sáng chỗ ngủ cô đơn . Giả sử có tin chàng, thiếp sẽ dùng kéo vàng ; may chiếc gối tương tư lưu niệm . Đã hái hết hoa lan trong sân mà chưa thấy chàng về ; khăn hồng lau lệ đến mờ cả mắt . Sang năm nếu chàng còn ở biên ải ; thiếp nguyện làm một cụm mây ở Dương Đài. 



--Bản dịch của Mailoc-

                BÀI CA GIẶT ÁO


Hơn mười năm khuê phòng qunh qu ,

Bun nhìn gương bóng l xa chng .

Xuân về én liệng trên sông ,

Xua mây miệng ngậm thư hồng lụa trong .

 

Mở thư xong hận lòng than thở ,

Anh chồng cuồng còn ở sông Giao .

Sông Giao phương bắc thét gào ,

Nguyện làm đôi én thì thào bến sông .

 

Mây mơn chàng , ngựa hồng tơ sắc ,

Thiếp lầu son hiu hắt rêu phong .

Gác xuân ngày hết gió lồng ,

Tóc sầu ai nỡ gương hồng ngắm soi .

 

Tiếng sáo sớm , hoa rơi từng cánh ,

Giặt chinh y dưới ánh trăng thâu .

Trăng ngời giọt lậu dài lâu

Rèm châu buông xuống nhà lan lạnh lùng .

 

Ngang màn qúi giải đồng tâm kết

Giường chiếu quỳnh chưa hết hợp hương .

Chiếu quỳnh màn gấm uyên ương

Sáng ngời đèn nến soi giường lặng trang  .

 

Có tin chàng , kéo vàng may cắt

Gối tương tư thiếp khắc bóng chàng .

Chàng ơi ! sân trước lan tàn

Nhạt nhoà lệ thắm chứa chan khăn hồng .

 

Chàng sang năm còn rong biên tái

Thiếp làm mây bay mãi Chương Đài .

                       

                     Mailoc phỏng dịch

__________________________________________________________________________________________________ 

 

 

  

    

AnhTu_XuanTinh.jpeg
 
Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Anh Tú

       

春晴                               XUÂN TÌNH
 
   雨前初見花間蕊.        Vũ tiền sơ kiến hoa gian nhụy,
   雨後全無葉底花。      Vũ hậu toàn vô diệp để hoa.
   蜂蝶紛紛過牆去,      Phong điệp phân phân qúa tường khứ,
   卻疑春色在鄰家。      Khước nghi xuân sắc tại lân gia.
                   王駕                                      Vương Giá
 
DIỄN NÔM :
                              XUÂN TÌNH
 
                 Trước mưa hoa hãy còn phong nhụy,
                 Sau trận mưa rào tan tác hoa.
                 Ong bướm bay sang tường vội vả,
                 Nhà bên xuân ngự, phải chăng là ?!
 Lục bát :
                 Trước mưa hoa nở đẹp sao,
                 Sau mưa dưới lá hoa nào còn chi !
                 Cách tường ong bướm bay đi,
                        Ngờ rằng xuân sắc có khi bên nhà !
                 Đỗ Chiêu Đức

 

***
 
Cảm tác từ Xuân Tình:

 

Dưới Nắng Xuân*
 
Hoa khoe sắc thắm chờ mưa
Mưa rơi hoa rũ đong đưa cánh sầu
Bướm ong vội vã về đâu?
Phải chăng Xuân đã đẹp màu vườn bên?
 
 
Anh Tú
02/Tháng 12/2015
                    Palm Beach Gardens, FL

SƠN PHÒNG XUÂN SỰ

Nguyên tác: SẦM THAM

Bản dịch: Đổ Chiêu Đức, Phương Hà, Mailoc _____________________________

          Mùa Xuân là mùa hoa cỏ xanh tươi rực rở với muôn hồng ngàn tía, nhưng... phải ở hoàn cảnh nào thì cỏ non hoa đẹp mới làm vui được lòng người... Đôi khi cỏ non hoa đẹp chỉ tạo thêm nỗi tang thương biến đổi của cuộc sống mà thôi !!!...
              Mời tất cả hãy cùng đọc bài " Sơn Phòng Xuân Sự " của Sầm Tham thì sẽ rõ...

DCD_SonPhong_1.jpg 

 

                 山房春事                    SƠN PHÒNG XUÂN SỰ

    梁園日暮亂飛鴉,     Lương Viên nhật mộ loạn phi nha,
    極目蕭條三兩家。     Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
    庭樹不知人去盡,     Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
    春來還發舊時花。     Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
                          岑參                                              Sầm Tham.
Chú Thích :
        1. Sơn Phòng : là Nhà cất trên triền núi như là một biệt thự ngày nay, để ngắm cảnh và hưởng nhàn. PHÒNG là Cái Phòng, nghĩa rộng là Nhà .

        2. XUÂN SỰ : là Việc của mùa xuân, ý chỉ Xuân Sắc, Xuân Quang, là Quang cảnh của mùa Xuân.

        3. LƯƠNG VIÊN : là khu vườn nghỉ mát, hưởng nhàn, hưởng lạc, của Lương Hiếu Vương Lưu Võ đời Tây Hán dựng nên, còn có tên là Thố Viên 兔园, và tục danh là Trúc Viên 竹园. Vườn rất lớn, chu vi hơn 300 dặm, tọa lạc tại phía đông của Thương Khâu huyện, thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay. Trong vườn có Bách Linh Sơn, Lạc Viên Nham, Thê Long Tụ, Nhạn Trì, Hạc Châu... Tòa ngang dãy dọc, kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú khắp nơi. Lương Hiếu Vương từng thiết tiệc lớn nơi nầy, tất cả danh tài đương thời như Tư Mã Tương Như... đều được mời đến, nhằm lúc mùa xuân, hoa thơm cỏ biếc, tài tử giai nhân hội tụ, ngựa xe như nước, áo quần như nen... Phồn hoa nhất thời không đâu sánh kịp.
          4. LOẠN PHI NHA : là Quạ đen bay loan xạ cả.
          5. CỰC MỤC : là Mút tầm mắt.
          6. ĐÌNH THỌ : là Cây cỏ trong sân vườn.


XUẤT XỨ :
           Bài thơ nầy tả cảnh Sơn Phòng, biệt thự nghỉ mát ngày xưa của Lương Hiếu Vương sau hơn 500 năm, vào đời Đường, sau 8 năm chiến tranh loạn lạc của loạn An Lộc Sơn, dân cư sơ tán, cảnh trí tiêu điều. Mùa thu năm Khai Nguyên thứ 29 ( 741 ), Sầm Tham từ Khuông Thành dọn về Đại Lương. Mùa xuân năm sau, dạo chơi ở Lương Viên và làm bài thơ nầy .... Ta hãy nghe Sầm Tham kể lể đây...

 

DỊCH NGHĨA :
                      Quang Cảnh Mùa Xuân Ở SƠN PHÒNG.

           Chiều xuống trên Lương Viên lũ quạ bay xao xác, hổn loạn. Nhìn mút tầm mắt chỉ thấy xác xơ tiêu điều vài ba căn nhà còn xót lại. Trong sân lá hoa cây cỏ không biết người đà thất tán hết rồi, nên khi xuân đến lại vẫn rực rỡ trổ những hoa xưa như những năm nào !
           Thiên nhiên cây cỏ vẫn vô tình, không cảm nhận được cái tang thương biến đổi của cuộc đời, tàn phá của chiến tranh, ly tan của nhân thế, đào thải của thời gian .....

   DCD_SonPhong_2.jpg 

                          DIỄN NÔM :

                         CHUYỆN XUÂN CỦA SƠN PHÒNG


                      Vườn Lương chiều xuống quạ nhởn nha ,
                      Hoang vắng tiêu điều mấy nóc gia.
                      Cây cỏ biết đâu người thất tán,
                      Xuân về vẫn trổ bấy nhiêu hoa.!
   Lục bát :
                      Lương Viên chiều xuống quạ bay,
                      Tiêu điều mấy nóc nhà ai hoang tàn,
                      Cỏ cây đâu biết ly tan,
                      Xuân về vẫn nở ngập tràn hoa xưa !


                                                                 Đỗ Chiêu Đức.

              Phương Hà xin góp bài phỏng dịch

 

XUÂN NƠI NHÀ VƯỜN TRÊN NÚI

I- 

Chiều xuống Vườn Lương quạ túa bay

Nhà hoang vài nóc ẩn đâu đây

Vô tình hoa nở khi xuân đến

Nào biết không ai ở chốn này

 

II-

Vườn Lương quạ táo tác bay

Nhà hoang vài nóc lạc loài khuất xa

Xuân về cây vẫn trổ hoa

Nào hay người đã rời xa bấy chầy.

 

              Phương Hà phỏng dịch

Mailoc xin góp bài phỏng dịch      

XUÂN  SƠN  PHÒNG

(1)

Lương Viên huyên náo quạ chiều tà ,

Xa tắp tiêu điều mấy nóc gia .

Cây chẳng biết người đà tứ tán ,

Xuân về vẫn rực những bông hoa .               

Mailoc

(2)

Chiều Lương Viên quạ về huyên náo ,

Tít mù xa mờ ảo mấy nhà .

Không hay người đã đi xa ,

Cây sân xuân đến đơm hoa như thường .             

Mailoc phỏng dịch 

_____________________________________________________________________________________ 

 

 

TẶNG BIỆT                   

Đỗ Chiêu Đức 

 

          " Ôi, Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy ! ". Câu nói trong " Quốc Văn Giáo Khoa Thư " ngày xưa mới đơn giản nhưng thấm thía làm sao ! Biệt ly là một trong Sanh Ly Tử Biệt, là đề tài muôn thuở của nhân sinh, thi nhân từ ngàn xưa đến nay đều không bỏ qua đề tài nầy, Đỗ Mục cũng không ngoại lệ, ta hãy cùng đọc một bài Thất ngôn Tứ tuyệt tuyệt tác về biệt ly của ông nhé !

 

         贈別                             TẶNG BIỆT

   多情卻似總無情,      Đa tình khước tự tổng vô tình,

   唯覺樽前笑不成。      Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
   蠟燭有心還惜別,      Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,

   替人垂淚到天明。      Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh !

                   杜牧                                            Đỗ Mục

DCD_KhienHoai_2.jpg 

XUẤT XỨ CỦA BÀI THƠ :

            Năm Đại Hòa thứ 9  ( khoảng năm 835 ) Đỗ Mục từ chức vụ Hoài Nam Tiết Độ Sứ Chưởng Thư Ký thăng nhậm Giám Sát Ngự Sử, nên phải rời Dương Châu về lại Trường An. Đây là bài thơ TẶNG BIỆT ông làm để nói lên cái tình quyến luyến của mình khi phải chia tay cùng một hồng nhan tri kỷ là một cô ca kỷ xinh đẹp ở Dương Châu.


CHÚ THÍCH :

      TẶNG BIỆT : hay Tống Biệt, Tiễn Biệt đều có nghĩa là Tiễn Đưa, Đưa Tiễn một ai đó.

      KHƯỚC TỰ : Lại giống như, Ý chỉ một nghĩa ngược lại.

      TIẾU BẤT THÀNH : là Không cười nổi. Cười hổng nổi.

      LẠP CHÚC HỮU TÂM : Ngọn nến có tim. Cây đèn cầy cũng có tim đèn cầy như tim của con người vậy.

      TÍCH BIỆT : Thương tiếc cho nổi biệt ly.

      THẾ : là Thay. Ta có từ kép Thay Thế.

      THÙY LỆ : Chảy nước mắt. Rơi lệ.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

          Rất đa tình mà lại phải làm như là rất vô tình vậy. Chỉ cảm thấy rằng trước chén rượu chia tay thì không thể nào gượng cười cho nổi. Ngay cả ngọn nến kia cũng có cái tim ở giữa như con người, cho nên cũng tiếc thương cho nổi biệt ly mà thay người nhỏ lệ thâu đêm suốt sáng !

          Đọc 2 câu :

                   Đa tình khước tự tổng vô tình,

                   Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.

làm ta nhớ đến một vế thơ trong bài " Giây Phút Chạnh Lòng " của Thế Lữ :

                   Rồi bỗng ngừng vui cùng lẵng lặng,

                   Nhìn nhau bình thản lúc ra đi,

                   Nhưng trong khoảnh khắc ơ thờ ấy,

                   Thấy cả muôn đời hận biệt ly !

và ... 2 câu :

                   Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,

                   Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh !

Làm ta nhớ đến câu :

                   Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can.

       ( Lệ nến chảy tan hết thành tro thì lệ lòng mới cạn )

trong bài thơ VÔ ĐỀ thất ngôn bát cú cuả Lý Thương Ẩn.

 

và ... câu thơ của Ngân Giang Nữ Sĩ thời Tiền chiến là :

             " Đêm nay lệ nến rơi thành chữ ! "

 

                

 DCD_Tangbiet.jpg

DIỄN NÔM :

                            TẶNG BIỆT

 

                 Đa tình lại tựa giống vô tình,

                 Trước rượu cười vui tiếng chẳng thành.

                 Nến nọ có lòng nên cũng biết...

                 Thay người nhỏ lệ suốt năm canh !

  Lục bát :

                 Đa tình phải giống vô tình, 

                 Bồi hồi chén tiễn lặng thinh nói cười.

                 Nến kia cũng tựa như người,

                 Suốt đêm nhỏ lệ ngậm ngùi biệt ly !   

 

                                                         Đỗ Chiêu Đức

https://ssl.gstatic.com/ui/v1/icons/mail/images/cleardot.gif

 

 

KHIỂN HOÀI

 

         Nhắc đến Đỗ Mục là người ta nghĩ ngay đến một chàng thư sinh đẹp trai phóng đãng lạc phách giang hồ, xuất khẩu thành thơ, phong lưu rất mực " văn chương nết đất, thông minh tính trời ", hợp cùng với Lý Thương Ẩn  ( Lý Nghĩa Sơn ) thành một cặp LÝ ĐỖ tài hoa của buổi Tàn Đường.ĐỖ MỤC  ( 803-852 ), tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ, người đất Kinh Triệu  ( Tây An thiểm Tây ngày nay ). Ông là con của Đỗ Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm thứ 2.

        Đỗ Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời. Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ đê phân biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường. Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là Lý Bạch và Đỗ Phủ .

 

        Nhân bài Diễu Đỗ Mục của Thầy Chân Diện Mục Phan Huy Viên...              
                 DIỄU ĐỖ MỤC
         Kẹp tay bầu rượu rong chơi,
         Eo thon đùi đẹp ngất cười lẳng lơ !
         Mười năm vùi mộng vừa chưa ?
         Lừng danh chàng Sở thôi vừa đi cha !!!
                                             CDM

        Sau đây là một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt nổi tiếng của ông với nội dung như Thầy CDM đã diễu :

 

      遣懷                             KHIỂN HOÀI

落魄江湖載酒行,      Lạc phách giang hồ tải tửu hành,

楚腰纖細掌中輕.        Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.

十年一覺揚州夢,      Thập niên nhất giác Dương châu mộng,

贏得青樓薄倖名。      Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh !

               杜牧                                                 Đỗ Mục

 

          

 

CHÚ THÍCH :

      KHIỂN HOÀI : Khiển là Điều động, như Điều khiển,khiển dung. Khiển là Giải bày, Bày tỏ. Hoài là Lòng dạ. Nên KHIỂN HOÀI là Bày tỏ nổi lòng, là Giải bày tâm sự.

       LẠC PHÁCH : là Sa cơ thất thế, là Lụn bại. Lạc Phách Giang Hồ là Thất thểu, lang thang trong chốn giang hồ.

       SỞ YÊU : Chỉ chung cái eo rất thon rất nhỏ của phái nữ. Theo điển tích : Sở Linh Vương rất thích những người đẹp có cái eo thon nhỏ, nên tất cả cung nữ trong cung đều thắt eo và nhịn ăn cho có được cái eo thon để được vua thương !

       TIÊM TẾ : Nhỏ nhắn gọn gàng dễ thương.

       CHƯỞNG TRUNG KHINH : Chưởng là Lòng bàn tay. Chưởng Trung Khinh là Nhẹ nhàng trong lòng bàn tay. Theo tích : Hoàng hậu của Hán Thành Đế là Triệu Phi Yến có thân hình nhẹ như chim én, có thể ca múa ở trên lòng bàn tay của lực sĩ.

       DOANH : là Thắng, là Lời, là Gặt hái được.

       BẠC HÃNH : là Bạc tình, là ... Sở Khanh. Bạc Hãnh Lang là Chàng họ Sở !

 

NGHĨA BÀI THƠ :

                            GIẢI BÀY TÂM SỰ

        Bất đắc chí, lang thang lưu lạc giang hồ với một bầu rượu trong tay. Ta lăn lóc trong đám người đẹp eo thon ẻo lả của thanh lâu. Suốt mười năm trường thoáng qua như một giấc mộng dài chìm đắm trong tửu sắc ở Dương Châu. Kết cuộc, được gì đây ? Chỉ được tiếng là gã bạc tình nổi tiếng nhất lầu xanh mà thôi !

        Cảm khái thay lời tâm sự của một thư sinh lạc phách ! Tự mình nhìn lại mình, tự mình đánh giá mình, để thấy được sự tự huỷ hoại mình trong ăn chơi trác táng khi bất đắc chí, khi thất cơ lở vận ... cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ tổ làm cho mình càng trụy lạc chìm đắm hơn mà thôi !

        Câu cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Kiều là ...

                       Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,

              ( Một tay chôn biết mấy cành phù dung ! )

                   

DIỄN NÔM :

                            KHIỂN HOÀI

                  Bầu rượu lang thang khắp lữ trình,

                  Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.

                  Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,

                  Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình !

Lục bát :

                  Đắm chìm tửu sắc lang thang,

                  Eo thon mình én dạ càng ngẩn ngơ.

                  Dương Châu giấc mộng ơ hờ,

                  Mười năm được tiếng ai ngờ Sở Khanh !

                                                          Đỗ Chiêu Đức

 

 

                DIỄU ĐỖ MỤC
         Kẹp tay bầu rượu rong chơi,
         Eo thon đùi đẹp ngất cười lẳng lơ !
         Mười năm vùi mộng vừa chưa ?
         Lừng danh chàng Sở thôi vừa đi cha !!!
                                             CDM

 

 

BẠC TẦN HOÀI

 Đỗ Chiêu Đức

         Nhân nhắc đến cầu Chu Tước bắt ngang qua sông Tần Hoài để đến Ô Y Hạng, làm ta lại nhớ đến con sông nên thơ luôn phủ mờ sương khói : Sông Tần Hoài ! Kính mời tất cả cùng đến  thăm con sông nầy trong một lần ghé bến với bài thơ " BẠC TẦN HOÀI " của chàng thi sĩ hào hoa phong lưu lãng tử : Đỗ Mục.

 

 

DCD_BacTanHoai_1.jpg 

 

          泊秦淮                                       BẠC TẦN HOÀI    

煙籠寒水月籠沙,     Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,

夜泊秦淮近酒家。     Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.

商女不知亡國恨,     Thương nữ bất tri vong quốc hận,

隔江猶唱後庭花。     Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.

           杜牧                                 Đỗ Mục

 Chú thích :

      TẦN HOÀI 秦淮 : Tức con sông Tần Hoài, bắt nguồn từ vùng đông bắc tỉnh Giang Tô, chảy qua Nam Kinh rồi đổ vào sông Trường Giang. Tương truyền do Tần Thuỷ Hoàng khi tuần du đất Cối Kê ở phương nam, mới cho đào khúc sông nầy để nối dòng Hoài Thuỷ cho chảy vào Trường Giang , nên mới có tên là TẦN HOÀI từ đó.

       LUNG 籠 : Có bộ Trúc ở phía trên, có nghĩa là Cái Lồng. Nghĩa phát sinh là Bao trùm, phủ trùm. LUNG cũng có nghĩa là Mông Lung, Mờ ảo.

        BẠC 泊 :  Có 3 chấm thuỷ bên trái, có nghĩa là Trôi nổi, như Phiêu Bạc. BẠC cũng có nghĩa là Ghé lại, như Bạc Thuyền là Ghé thuyền lại.

         THƯƠNG NỮ 商女 : Một cách gọi riêng để chỉ các cô Ca Kỷ, Ca Nhi, các Ả Đào, Kỷ Nữ.

         HẬU ĐÌNH HOA 後庭花 : Tức là nhạc khúc " Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa ". Trần Hậu Chủ, tên là Thúc Bảo, là người hoang dâm xa xỉ, đắm chìm trong thanh sắc. Khi giặc đã đánh tới cửa cung mà trong nầy nhà vua còn cho trổỉ khúc Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa, nên khúc hát nầy được gọi là " Vong Quốc Chi Âm 亡國之音 " ( Khúc Âm nhạc mất nước ). Đối với đất nước, Trần Hậu Chủ là một tội đồ vong quốc, nhưng trên văn đàn Ngài là một nhà Từ ( Từ Gia 詞家 ) trác tuyệt.

NGHĨA BÀI THƠ :

                             ĐẬU BẾN TẦN HOÀI

          Khói sóng phủ mờ làn nước sông lạnh lẽo, và ánh trăng mông lung phủ trùm cả baĩ cát mênh mông. Đêm ta ghé thuyền đậu ở bến sông Tần Hoài gần cạnh các tửu lâu. Các ả ca nhi kia đâu có biết được cái hờn vong quốc, cho nên cách bờ sông bên kia còn cất cao giọng để hát khúc Hậu Đình Hoa !

          Tiếng là trách các ca nhi chỉ biết ca cho người mua vui, mà không biết được cái hờn vong quốc của bài ca, kỳ thực là Đỗ Mục đang chỉ trích châm biếm, trách cứ cái tầng lớp phú quý đang vùi đầu ăn chơi sa đọa kia, không biết rằng xã hội đang nhiễu nhương, loạn lạc cuả buổi Tàn Đường, với các cuộc nôỉ dậy như của Huỳnh Sào chẳng hạn .... Cũng như để diễn tả các cuộc ăn chơi trác táng thâu đêm suốt sáng của các bậc vương hầu vua chúa như trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng  đã viết :

                 Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,

                 Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa

                               DCD_BacTanHoai_2.jpg 

                 DIỄN NÔM :

                               BẠC TẦN HOÀI

                 Khói mờ nước lạnh bóng trăng nhòa,

                 Đêm ghé Tần Hoài cạnh tửu gia.

                 Ca kỷ biết đâu hờn mất nước,

                 Cách sông còn hát Hậu Đình Hoa ! 

Lục bát  :

                 Trăng lồng khói sóng cát nhòa,

                 Tần Hoài ghé bến tửu gia đêm trường. 

                 Ca nhi nào biết chi hờn,

                 Bên sông còn vẳng tiếng đờn Đình Hoa !

                                                         Đỗ Chiêu Đức

 

           DCD_BacTanHoai_3.jpg  

           Hai bên bờ sông Tần Hoài của ngày nay.

 

Đỗ Chiêu Đức 

________________________________________________________________________________________________________ 

 

U CƯ -Vi Ứng Vật 


Quý tiện tuy dị đẳng, 
Xuất môn giai hữu dinh. 
Độc vô ngoại vật khiên, 
Toại thử u cư tình. 
Vi vũ dạ lai quá, 
Bất tri xuân thảo sinh. 
Thanh sơn hốt dĩ thự, 
Điểu tước nhiễu xá minh. 
Thời dữ đạo nhân ngẫu, 
Hoặc tùy tiều giả hành. 
Tự đương an kiển liệt, 
Thùy vị bạc thế vinh. 


Chú thích: Năm 779 tác giả Vi Ứng Vật đang làm huyện lệnh huyện Hộ, bị đổi đi làm huyện lệnh huyện Lịch Dương. Ông cáo bệnh không đi và từ quan luôn, ở ẩn. Ông làm bài này trong giai đoạn đó. 

--Dịch nghĩa: -- 

Ở ẩn 

Quý phái và bần tiện tuy hai đẳng cấp khác nhau, 
nhưng đã ra khỏi cửa đều phải mưu cầu dinh dưỡng. 
Chỉ mình ta không bị ngoại vật trói buộc, 
nên thỏa tình sống nơi vắng vẻ an nhàn. 
Đêm qua vừa có trận mưa phùn, 
chẳng cần biết cỏ xuân tươi tốt. 
Nắng bỗng bừng trên núi xanh, 
chim chóc bay quanh nhà đua hót. 
Đôi khi bạn cùng đạo sĩ, 
hoặc đi theo tiều phu [vào rừng]. 
Tự yên lòng làm thân thấp kém; 
[vì coi ] đạm bạc, vinh hoa trên đời có là cái gì đâu. 

--Bản dịch của Mai Lộc-

 

Ở Ần

 

Tuy khác biệt nghèo hèn - sang trọng ,

Ra khỏi nhà cái sống lo toan .

Riêng ta ngoại vật chẳng màng ,

Sống nơi thanh vắng an nhàn lòng ưa .

 

Đêm vừa qua cơn mưa lất phất ,

Đâu cần hay cỏ ngát xuân tươi .

Núi xanh bỗng rực sáng ngời ,

Chim muông lảnh lót đến chơi quanh nhà .

 

Có khi đến lân la đạo sĩ ,

Khi cùng tiều thủ thỉ rừng sâu .

Yên lòng thấp kém bản thân ,

Giàu sang-đạm bạc để tâm làm gì ?

                              Mailoc

Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau :

 

1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ :

 

   幽居                        U CƯ 
           韋應物                      Vi Ứng Vật

貴賤雖異等,         Quí tiện tuy dị đẳng,
出門皆有營。         Xuất môn giai hữu dinh.
獨無外物牽,         Độc vô ngoại vật khiên,
遂此幽居情!          Toại thử u cư tình !
微雨夜來過,         Vi vũ dạ lai quá,
不知春草生。         Bất tri xuân thảo sanh.
青山忽已曙,         Thanh sơn hốt dĩ thự,
鳥雀繞舍鳴。         Điểu tước nhiễu xá minh.
時與道人偶,         Thời dữ đạo nhân ngẫu,
或隨樵者行。         Hoặc tùy tiều giả hành.
自當安蹇劣,         Tự đương an kiển liệt,
誰謂薄世榮?!         Thùy vị bạc thế vinh ?!

 

Đôi dòng về tác giả :


        

web_DCD_ViUngvat.jpg

 VI ỨNG VẬT :( 737-792 ) Người đời xưng là Vi Giang Châu hoặc Vi Tô Châu. Ông là thi nhân lớn của những năm Đại Lịch đời Đường. Thơ của ông nổi tiếng về tả phong cảnh và cảnh vật đồng quê, lời lẽ đơn giản nhẹ nhàng mà hàm Ý sâu xa. Còn để lại " VI TÔ CHÂU TẬP ".
         韋應物 (公元737 - 約792),人稱韋江州或韋蘇州,唐代大歷時期大詩人。其詩以寫田園風物而著名,語言簡淡而意蘊深遠。有《韋蘇州集》。        

 

2. CHÚ THÍCH :
     U CƯ : U là Thâm U , vắng vẻ. CƯ là Ở. U CƯ : là ở nơi thanh tịnh vắng vẻ, chỉ Ở Ẩn.
     DỊ ĐẲNG : DỊ là Khác, ĐẲNG là Đẳng Cấp. DỊ ĐẲNG ở đây chỉ : Khác nhau về Giai Cấp xã hội.
     DINH 營 : còn đọc là DOANH, là Kinh Doanh, là làm cái gì đó để sinh sống.
     KHIÊN 牽 : là Nắm, Níu, Kéo, Dẫn, Dắt. Ở đây có nghĩa là : Bị Liên lụy, Dính líu, vướng bận.
     TOẠI : là Toại nguyện, là Thỏa lòng.
     THỰ 曙 : Trời Rựng Sáng. Sáng ra.

     ĐIỂU TƯỚC : Điểu là Chim, Tước là Chim Sẻ, nên từ ĐIỂU TƯỚC có nghĩa là CHIM CHÓC, chỉ chung các loài chim.
     MINH 鳴 : Là chữ HỘI Ý : gồm bộ KHẨU và bộ ĐIỂU ghép lại mà thành, lấy nghĩa Miệng của con chim, nên có nghĩa là HÓT, KÊU.
     NGẪU 偶: là Đôi, là Chẵn. Như NGẪU SỐ là Số Chẵn. GIAI NGẪU là Tốt Đôi, Đẹp Đôi. Trong câu có nghĩa là Làm Bạn.
     KIỂN LIỆT 蹇劣 : KIỂN là Què, Đi Cà nhắc. LIỆT : là Xấu, Hư, Ác... như ÁC LIỆT là Xấu Xa. Nên KIỂN LIỆT là Què quặc, Hèn kém, Tồi Tệ, là Dở ...Ẹt chẳng ra gì !

 

3. NGHĨA BÀI THƠ :
                    Ở NƠI THANH VẮNG ( Ở ẨN )
     Người đời mặc dù phân biệt cao sang hèn hạ, nhưng tất cả đều phải bôn ba với sinh kế của mình. Duy chỉ có mình ta là không bận bịu với những vật ngoại thân, từ quan và sống thỏa mãn với cuộc sống ẩn dật của mình ! Mặc cho đêm qua mưa gió đầy trời và cũng không cần biết đến cỏ xuân đã trở nên xanh mơn mởn. Núi xanh cũng vụt bừng lên trong nắng sớm, lủ chim non líu lo ríu rít lượn quanh nhà. Cuộc sống thanh nhàn, đôi khi ta làm bạn cùng các đạo sĩ trong núi, đôi khi lại chung lối đi về với các tiều phu. Tự mình yên phận với cuộc sống thấp hèn kém cỏi của mình, mà không màn đến vinh hoa phú quí của cuộc đời bạc bẽo nầy ! Câu chót là câu phản vấn : Ai bảo cuộc đời bạc bẽo nầy là Vinh hoa Phú quí ?!    

 

4. DIỄN NÔM :
                       U  CƯ


               Sang hèn tuy có khác,
               Đều vất vả mưu sinh.
               Chỉ ta không vướng bận,
               Ẩn cư thỏa chút tình.
               Đêm qua mưa rả rít,
               Cỏ xuân mơn mởn xanh,
               Núi đồi bừng nắng sớm,
               Líu lo chim hót quanh.
               Khi bạn cùng đạo sĩ,
               Lúc về với tiều phu.
               Yên thân sống hèn mọn,
               Đời bạc, ngỡ vinh ư ?!


    Lục bát :
               Cho dù quí tiện hèn sang,
            Sinh nhai đều phải lo toan suốt ngày.
               Riêng ta chẳng chút đoái hoài,
            Từ quan ở ẩn ngày rày yên thân !
               Đêm qua chợt gió mưa xuân,
            Cỏ non mơn mởn xanh um vươn dài.
               Núi xanh bừng sáng nắng mai,
            Chim non ríu rít lượn bay quanh nhà.
               Khi cùng đạo sĩ la cà,
            Khi cùng đốn củi xuyên qua núi đồi.
               An nhiên cuộc sống thảnh thơi,
            Ai rằng vinh hiễn, cuộc đời bạc đen ?!


                                                     Đỗ Chiêu Đức
     

 

 

 GIANG LÂU THƯ HOÀI -Triệu Hỗ

Bản dịch: Quên Đi, Phương Hà, Mailoc, Kim Phượng, Nguyễn Đắc Thằng, Đỗ Chiêu Đức 

Triệu Hỗ 趙嘏 (810-856) tự Thừa Hựu 承祐, sinh quán ở huyện Sơn Dương, thuộc Sơn Ðông ngày nay. Tên ông cũng có khi đọc là Giả. Năm mới 17 tuổi ông đã được cử làm Hương cống lên cư ngụ Trường An. Ở đây ông kết du rộng rãi với các văn nhân đương thời, thường chỉ suốt ngày "nghêu ngao vui thú yên hà." Ông quen biết và đã từng thề thốt nặng lời với một ca kỹ, nhưng nàng này lại bị Tiết độ sứ của Chiết Tây cưỡng ép bắt đem về làm thiếp. 

Vì thấy mình không thể đòi lại người ngọc nếu chẳng có công danh, Triệu quyết chí đi thi. Năm 32 tuổi, ông đậu tiến sĩ dưới triều Ðường Vũ Tông. Vừa mới biết mình đậu, mặc dù chưa có chức phận gì lớn lao, ông đã gởi ngay một bài tứ tuyệt "Toạ thượng hiến Nguyên tướng công" cho viên Tiết độ sứ kia. Viên Tiết độ sứ kia chẳng biết vì thẹn hay vì sợ, vội trả ngay người ngọc về cho Triệu. Hai người gặp nhau ngay trên đường Triệu vinh quy, người con gái khóc lóc thảm thiết rồi chết. Triệu mai táng nàng ngay chỗ họ gặp lại nhau. 

Đường công danh của Triệu rất lận đận, mãi đến năm 42 tuổi, tức là 10 năm sau khi thi đậu, mới được bổ làm một chức quan nhỏ ở Vị Nam. Ông mất không lâu sau đó. 

 

Có phải vì hoài niệm người tình mà ông có bài thơ "Giang Lâu Thư Hoài" này chăng?

 

       江 樓 書 懷               Giang Lâu Thư Hoài

獨 上 江 樓 思 悄 然     Độc thượng giang lâu tứ thiểu nhiên 

月 光 如 水 水 如 天     Nguyệt quang như thủy thủy như thiên 

同 來 玩 月 人 何 在     Đồng lai ngoạn nguỵệt nhân hà tại 

風 景 依 稀 似 去 年     Phong cảnh y hi tự khứ niên 
                      趙 嘏                               Triệu Hỗ

 

Dịch Nghĩa: Lầu Bên Sông Nhớ Viết

 

Một mình lên lầu bên sông cảm thấy buồn man mác

Trăng trong sáng như màu nước, sắc nước như màu trời 
Người từng cùng ta đến đây ngắm trăng giờ ở phương nao
Phong cảnh vẫn vắng vẻ như năm trước

 

Dịch Thơ: Bên Sông Gợi Nhớ

 

Bến lạnh lầu sương buồn điệp điệp

Mây trời sông nước trắng màu trăng

Kề vai thưởng nguyệt người đâu tá

Cảnh cũ còn đây nỗi nhớ giăng

                              Quên Đi

 

 

 

CẢM HOÀI NƠI LẦU VẮNG BÊN SÔNG

 

Lầu vắng bên sông, dạ thẫn thờ

Trăng in trời nước một màu thơ

Chốn xưa trăng cũ, người đâu tá

Quạnh quẽ, lầu nghiêng bóng đợi chờ.

                           Phương Hà phỏng dịch

 

   Giang Lâu Nỗi Nhớ 

(1)

Thơ thẩn lầu sông luống ngậm ngùi ,

Trăng trong như nước , nước như trời .

Người xưa cùng ngắm nay đâu tá ?

Cảnh sắc như xưa chẳng đổi dời .

                                 Mailoc

(2)

Thơ thẩn lầu sông chân lê bước ,

Gương trăng như nước , nước như trời .

Người xưa cùng ngắm đâu rồi ?

Cảnh y năm ngoái tơi bời nhớ thương .

                                   Mailoc

 

 Bên Sông Gợi Nhớ

 

Bến vắng lầu đơn đến não lòng

Trời trăng tợ nước nước màu trong

Hỡi người thưởng nguyệt giờ đâu đã

Chốn cũ riêng đầy nỗi quạnh mong

 

Kim Phượng

 

LẦU NHỚ

 

Lầu vắng bên sông đứng lẻ loi

Trăng soi màu nước, nước in trời

Người cũ năm nào cùng thưởng nguyệt

Cảnh xưa vẫn vắng nhớ bồi hồi.

 

Nguyễn Đắc Thắng

20150402

Xin được trình bày một dị bản nữa của bài " GIANG LẦU  THƯ HOÀI  "  là " GIANG LẦU HỮU CẢM  " của nhà thơ TRIỆU HỖ đời Đường như sau :


   江樓有感             GIANG LÂU HỮU CẢM

獨上江樓思悄然,  Độc thướng giang lâu tứ tiểu nhiên,
月光如水水如天。  Nguyệt quang như thủy thủy như thiên.
同來玩月人何在,  Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại ?
秋景依稀似去年。  Thu cảnh  y  hi tự khứ niên !
        趙嘏                       Triệu Hỗ.

CHÚ THÍCH :
    1. 江樓有感 GIANG LÂU HỮU CẢM : là Cảm xúc khi lên cái lầu ở ven sông.
    2. 江樓書懷 GIANG LÂU THƯ HOÀI : Ghi lại hoài cảm khi lên lầu ở ven sông.
    3. 上 đọc là THƯỢNG có nghĩa là TRÊN, đọc là THƯỚNG thì có nghĩa là LÊN. Tương tự chữ 思 đọc là TƯ có nghĩa là NGHĨ ĐẾN, đọc là TỨ có nghĩa là sự NGHĨ NGỢI.
    4. TIỄU NHIÊN 悄然 : là Một cách Âm thầm, Lặng lẽ. Chữ TIỄU 悄 còn được đọc là THIỄU, khi là Phó Từ thì 悄悄 TIỄU TIỄU có nghĩa là Len lén.
    5. Y HI 依稀 : là Mơ Hồ, là Văng Vẳng, là Mường Tượng... là Hình Dung Từ vừa diễn tả Thị Giác vừa diễn tả Thính Giác như trong câu :
       Sanh ca uyển chuyển Tần Liên Tử,
       Cựu khúc  y  hi tối não nùng !


DỊCH NGHĨA :
       Lặng lẽ suy tư trong lúc lên lầu ở ven sông có một thân một mình. Nhìn ánh trăng trong như nước và nước cũng trong như màu trời. Chạnh lòng, nhớ đến người cùng đến nơi nầy để ngắm cảnh năm rồi, không biết bây giờ đang ở phương nao? Trong khi cảnh thu trước mắt vẫn còn mơ hồ như hồi năm trước !

 

DIỄN NÔM :


               GIANG LÂU HỮU CẢM
          Một bóng lầu cao luống ngậm ngùi,
          Trăng trong như nước nước như trời !
          Nào cùng ngắm cảnh người đâu tá ?
          Thu cũ mơ hồ dạ chẳng nguôi !


 Lục bát :
            Một mình lầu vắng ngẩn ngơ,
      Trăng trong như nước nước ngờ trời trong !
            Đâu người ngắm cảnh ven sông ?  
      Dáng thu phảng phất cho lòng xót xa !!!


                                                    Đỗ Chiêu Đức 

  

dcd_jun11_manwithflute.jpg

TẢO THU SƠN CƯ- Ôn Đình Quân

Dịch / Phỏng dịch: Phạm Khắc Trí. Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Phương Hà 

Diệp can văn lộc hành. Lá khô nghe nai đi. Những mong cùng nhau, mặc dù đã bao nhiêu nước chảy qua cầu , đã bao nhiêu đổi thay dâu biển , ta vẫn còn nghe được tiếng chân nai chạy trong khu rừng xưa ngập lá thu khô, cho vui . Vâng , cho vui thôi. PKT 06/10/2014


Tảo Thu Sơn Cư
Ôn Đình Quân (812 - 870)

Sơn cận giác hàn tảo
Thảo đường sương khí tình
Thụ điêu song hữu nhật
Trì mãn thủy vô thanh
Quả lạc kiến viên quá
Diệp can văn lộc hành
Tố cầm cơ lự tĩnh
Không bạn dạ tuyền thanh

Dịch Xuôi : Thu Sớm Ở Núi
PKT 06/10/2014

Ở gần núi nên biết được lạnh sớm
Nhà cỏ đầy khí sương lành, thông thoáng dưới trời quang 
Cây già trơ lá ,nắng hong , lấp lánh ngoài song cửa 
Mặt ao đầy nước, êm ả , long lanh
Quả cây rụng thấy bóng vượn qua
Lá vàng khô nghe chân nai đi 
Ôm tố cầm mà lòng nghe nhẹ nhõm
Đêm đêm bạn cùng với tiếng nước suối chảy, mà vui

Thu Sớm Ở Núi
PKT 06/10/2014
         
Cận núi, lạnh về sớm 
Nhà gianh đầy khí lành 
Cây già nắng lấp lánh 
Ao lặng nước long lanh
Quả rụng khô chờ vượn
Lá rơi vàng đón nai 
Ôm đàn lòng nhẹ nhõm 
Tiếng suối đêm, riêng ai .

Chú Thích : Chuyện kể , cuối đời nhà Tấn , Đào Tiềm (365 - 427) , tác giả bài Qui Khứ Lai Từ (Ta Về Đi Thôi) , ra làm quan được mấy ngày , bỏ về làm ruộng , vì không chịu nổi cảnh luồn cúi chốn quan trường. Khi rượu say , tiên sinh thường lấy tay vỗ vào tố cầm , một cây đàn không dây ,mà ca hát nghêu ngao. (Trích dẫn : Đường Thi Trích Dịch - Đỗ Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản ).PKT 06/09/2014    

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

 

 

 

THU  SM  TRONG  NÚI 

(1)

Trong rng núi đã nghe lnh sm ,

Túp lu tranh , thu chm ,m sương .

Ngoài song lá úa nng vương ,

Ao đy tĩnh lng , khói dường như mây .

Hoa trái rng chuyn cây vượn hú ,

Lá xc xào mt lũ hươu nai  .

Gy đàn thanh thoát lòng ai ,

Bn cùng sui nước đêm nay mt mình .

                                         Mailoc

(2)

Rng núi lnh heo may ,

Lu tranh sương khói bay .

Lá úa ngoài song nng ,

Ao lng nước dâng đy .

Vượn v , hoa trái rng ,

Xào xc bước hươu nai .

Gy đàn lòng yên tĩnh ,

Sui nước bn đêm nay 

                                     Mailoc

 

 

ỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :


  1. Sơ Lược về tiểu sử tác giả :

                 

        ÔN ĐÌNH QUÂN ( 812-870 ) Thi nhân đời Tàn Đường, tên là KỲ, tự là Phi Khanh, người đất KỲ, Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay, là cháu nội của Ôn Ngạn Bác. Ôn Đình Quân thông minh dĩnh ngộ, rất có thiên tài, nên rất Ỷ thị vào tài năng của mình, lại sống phóng túng buông thả, thường châm chích giới quyền quí, đắc tội cả đến Tể Tướng Lệnh Hồ Đào. Vì thế mà đi thi mãi vẫn không đỗ Tiến Sĩ, suốt đời bất đắc chí. Chỉ giữ các chức quan nhỏ như Huyện ÚY, Thành ÚY  ( 859-866 ) mà thôi. Ôn rất giỏi thơ, được người đời xếp ngang hàng với LÝ THƯƠNG ẨN, lại rất giỏi từ và tinh thông âm luật. Nổi tiếng với " HOA GIAN TẬP ",là tập từ có ảnh hưởng rất lớn tới đời sau.

  2. Bản chữ Hán cổ của bài thơ :


 

         早秋山居              TẢO THU SƠN CƯ


  山近覺寒早,          Sơn cận giác hàn tảo,
       草堂霜氣晴。        Thảo đường sương khí tình.
  樹凋窗有日,        Thọ điêu song hữu nhật,
       池滿水無聲。        Trì mãn thủy vô thinh.
  果落見猿過,        Quả lạc kiến viên quá,
       葉幹聞鹿行。        Diệp can văn lộc hành.
  素琴機慮靜,        Tố cầm cơ lự tịnh,
       空伴夜泉清。        Không bạn dạ tuyền thanh.
                    溫庭筠                                 Ôn Đình Quân.

 

  3. NGHĨA BÀI THƠ :
           Ở gần núi cho nên có cảm giác là cái lạnh của mùa thu tới sớm, trong gian nhà cỏ sương thu báo cho biết là trời sẽ nắng ráo, cây đã bắt đầu tàn úa, trong cảnh mặt trời lắp ló ngoài song cửa, ao thu đầy nước yên ắng không một tiếng động. Nên ngoài kia trái thu chín rụng thấp thoáng thấy bóng vượn đi qua. Lá khô rơi đầy nên nghe tiếng bước chân nai xào xạc. Trong cảnh yên tĩnh với rừng núi thâm u nầy, đêm đêm tiếng tố cầm hòa lẫn với tiếng suối reo tạo thành một âm thanh trong trẻo bàng bạc hơi thu !

            Đọc bài thơ nầy, làm ta nhớ đến...
                            Con nai vàng ngơ ngác,
                             Đạp lên lá vàng khô !
                                                    của LƯU TRỌNG LƯ thời Tiền Chiến.


  4. DIỄN NÔM :
                 Gần núi hơi thu lạnh,
                 Nhà cỏ sương phủ mờ.
                 Cây úa song vương nắng,
                 Ao thu nước lửng lờ.
                 Vượn nhặt trái thu rụng,
                 Nai đạp lá vàng khô.
                 Tố cầm hòa tiếng suối,
                 Đêm thanh vắng nên thơ !

  Lục Bát :
                 Núi gần nghe lạnh sớm thu,
                 Một gian nhà cỏ mịt mù hơi sương.
                 Cây vàng nắng úa vương vương,
                 Ao thu lạnh lẽo nước trương lửng lờ.
                 Bóng vượn lượm trái ngẩn ngơ,
                 Nai vàng xào xạc đạp bờ lá khô.
                 Tố cầm lẫn tiếng suối mơ,
                 Trong đêm thanh vắng mịt mờ tiếng thu !

   
                                                                     Đỗ Chiêu Đức.

 

THU SỚM

 

Núi rừng báo sớm tiết thu sang

Nhà cỏ, hơi sương đón nắng vàng

Cây úa, trời trong vương ánh nhạt

Ao đầy, nước lặng chẳng âm vang

Nhẹ nhàng vượn đến gom chùm rụng

Xào xạc nai đi đạp lá tàn

Thánh thót suối reo hòa tiếng nhạc

Hơi thu bàng bạc khắp không gian.

                        Phương Hà

______________________________________________________________________________ 

 

Độ Tang Càn
 
Lại tiễn biệt, lại chia tay, nhưng không phải với người, cũng không phải với vật, mà là với ĐẤT, Đất là Đất Nước nơi mà ta đang cư trú, là Quê Hương, nơi chôn nhau cắt rốn, Quê Hương thứ hai, thứ ba... Nơi đã bảo bọc ta trong cuộc sống lưu vong xa rời Quê Cha Đất Tổ...
 
Xin kính mời tất cả cùng đọc và cùng dịch để thắm thía hơn nỗi niềm xa xứ với bài thơ sau đây :
渡桑乾                    Độ Tang Càn
客舍併州已十霜, Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương,
歸心日夜憶咸陽。 Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương.
無端更渡桑乾水, Vô đoan cánh độ Tang Càn Thủy,
卻望并州是故鄉。 Khước vọng Tinh Châu thị cố hương !
賈 島                                                        Giả Đảo
 
Chú Thích :
1. Khách Xá : là Ở nơi đất khách. Xá : là chỗ trọ, là nhà ở.
2. Thập Sương : Mười mùa sương giáng. Mỗi năm chỉ có một mùa sương giáng. Thập sương là mười năm.
3. Ức : là Nhớ. Hồi ức là Nhớ lại.
4. Vô Đoan : là Khi khổng khi không. là Tình cờ , là chuyện đến mà không có dự tính trước, ta nói là Bỗng Dưng.
5. Khước ; là Lại ,là Phó từ bổ nghĩa cho Động từ đi sau nó. Khước vọng : là Lại nhìn, lại ngắm.
 
Dịch nghĩa :
Qua sông TANG CÀN.
Ở trọ nơi đất khách là xứ Tinh Châu nầy đã mười năm nay, nhưng trong lòng ngày đêm luôn luôn nhớ về quê cũ là xứ Hàm Dương. Hôm nay, tình cờ lại phải đi qua sông Tang Càn để rời xa xứ Tinh Châu, thì lại cảm thấy quyến luyến nơi nầy, mặc dù thuyền đi đã xa rồi, nhưng vẫn còn trông ngóng về phía Tinh Châu như là trông ngóng về phía cố hương vậy !
 
Diễn nôm :
 
Tinh Châu đất khách mười năm trường,
Lòng vẫn nhớ về đất Hàm Dương.
Tang Càn nay lại sang sông nữa,
Trông ngóng Tinh Châu ngỡ cố hương !
 
Lục bát :
Mười năm quán khách Tinh Châu,
Lòng quê thường vẫn nhớ sầu Hàm Dương.
Tang Càn qua bến vấn vương,
Rời Tinh Châu ngỡ Hàm Dương dạo nào !
 
Cảm tác qua thực tế của cuộc sống định cư trên đất MỸ :
 
Đất khách Ca-li mấy chục sương,
Việt Nam không lúc chẳng nhớ thương !
Nay lại di cư qua Tết xát ( TAXAS ),
Rời Ca-li ngỡ rời cố hương !!!
 
Đỗ Chiêu Đức.
 
Nhà thơ GIẢ ĐẢO ( 779- 843 ).
GIẢ ĐẢO ( 779-843 ) , một thi nhân thuộc xu hướng Quái Đản đời Đường, Tự là Lãng Tiên, người đất Phạm Dương ( cạnh Bắc Kinh hiện nay ). Đã từng đi tu làm hòa thượng với pháp hiệu Vô Bổn, sau nghe lời Hàn Dũ hoàn tục, tham gia khoa cử, nhưng thi mãi vẫn không đậu. Được Hàn cất nhắc làm Chủ Bộ Trường Giang đời Huyền Tôn, năm Khai Thành thứ 5 làm Tham Quân ở Phổ Châu. Mất năm Hội Xương thứ 3 đời vua Võ Tôn. Thọ 65 tuổi.
 
Tương truyền khi làm bài thơ Đề Lý Ngưng U Cư, khi viết đến 2 câu :
Điểu túc trì biên thọ 鳥宿池邊樹
Tăng XAO nguyệt hạ môn 僧敲月下門
 
ông đã lưỡng lự mãi là không biết nên dùng từ " XAO " 敲 hay từ " THÔI " 推 cho câu thơ trên, vì... " Tăng XAO nguyệt hạ môn " là : Nhà sư GÕ cửa dưới ánh trăng, còn... " Tăng THÔI nguyệt hạ môn " là : Nhà sư ĐẨY cửa dưới ánh trăng,
 
Sự thật thì " THÔI " hay " XAO " gì thì câu thơ trên vẫn hay, vẫn gợi hình và thi vị như thường, nhưng Giả Đảo lại cứ đắn đo mãi, không biết phải chọn chữ nào, ngồi trên lưng lừa mà cứ do dự mãi, không biết nên hạ chữ nào đây, nên tay phải làm động tác GÕ cửa, và tay trái cứ làm động tác ĐẨY cửa. Mãi lo ra, đến nỗi con lừa xuýt chút nữa thì đâm vào đầu ngựa của Hàn Dũ. Bị quân hầu níu lại, Hàn Dũ hỏi rõ nguồn cơn, mới cả cười và khuyên ông nên chọn từ XAO cho câu thơ trên.
 
Vì điển tích nầy mà thành ngữ TQ có câu Hà Tất THÔI XAO 何必推敲, nghĩa là : " Sao lại phải Thôi Xao như thế ! " Câu nầy có nghĩa là : " Sao lại phải ĐẺO GỌT lời văn như thế ". Thường để chỉ những người ĐẺO GỌT lời văn quá đáng, thì người TQ sử dụng Thành ngữ trên.
 
Giả Đảo còm nổi tiếng khổ ngâm ( Rất khổ sở trong việc làm thơ ngâm thơ ) với bài thơ Tứ Tuyệt sau đây :
Nhị cú tam niên đắc, 二句三年得,
Nhất ngâm song lệ lưu . 一吟双淚流.
Tri âm như bất thưởng , 知音如不賞,
Qui ngọa cố sơn thu. 歸卧故山秋.
 
Có nghĩa :
Ba năm được hai câu,
Ngâm xong lệ tuôn trào.
Tri âm không thưởng thức,
Về núi tự nghe sầu !
 
Gò gẫm, mò mẫm suốt 3 năm trời mới làm được có 2 câu thơ mà thôi, bỏ công khổ sở là thế, nên khi ngâm lên xúc động đến tuôn rơi hai hàng lệ. Thế mà kẻ tri âm còn không biết thưởng thức còn cho là chưa hay, thôi thì, chỉ có nước là về lại núi sâu mà nằm buồn khóc một mình thương cho mùa thu héo hắt ! Ôi ! Sao có người lại khổ sở vì làm thơ đến như thế ! Quả không hổ danh là phái QUÁI ĐẢN của thời Trung Đường !
 
Sẽ viết về Phái QUÁI ĐẢN trong những bài tới !
 
Đỗ Chiêu Đức.
 
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh Chiêu Đức, Thầy và các bạn:
 
NHỚ CỐ HƯƠNG
 
Sống nơi xứ Tịnh đã mười năm
Lòng vẫn đinh ninh nhớ dất Hàm
Nay sắp sang sông rời đất Tịnh
Bùi ngùi như phải biệt quê hương !
 
Lục bát :
 
Mười năm đất Tịnh, mãi còn
Nhớ về quê cũ Hàm Dương ngậm ngùi
Nay xa Tịnh, lại bồi hồi
Lòng đau như phải xa rời cố hương.
 
Phương Hà
 
Xin được góp mặt để thay lời cám ơn anh Chiêu Đức đã cho đọc Độ Tang Càn của Giả Đảo và như thường lệ kèm theo bản dịch rất sát nghĩa của anh. Cầu chúc quí anh chị em mọi điều lành.
PKT
05/20/2014
 
Độ Tang Càn
(Mây Tần - PKT)
 
Quán khách mười năm những gió sương ,
Tinh Châu sớm tối nhớ Hàm Dương .
Tang Càn, qua bến , quay nhìn lại ,
Bỗng ngộ Tinh Châu là cố hương.
 
Phụ Chú :
Bài Độ Tang Càn của Giả Đảo tôi đã thử chuyển dịch nhiều lần nhưng đều không được vừa ý nên đành bỏ cuộc vì cho rằng không nói lên được " khoảnh khắc Tang Càn" của nguyên tác.
Cho đến tận bây giờ , thú nhận là đôi lúc tôi vẫn còn muốn tự hỏi : "Tang Càn nước chảy xuôi hay ngược / Đất khách sao giờ là cố hương ?". Và, có lẽ vì thế , giải thích được phần nào , tại sao tôi lại thấy thích khi đọc mấy câu lục bát của Phương Hà. Lời lẽ nhẹ nhàng , quê cũ đất mới , tình ý trước sau thuần hậu.
 
PKT 05/20/2014


BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH

Để nối tiếp cho dòng thơ tiễn biệt của " Mùa Chia Tay ", xin lại được giới thiệu đến Quí Thầy Cô, Quí Đồng Môn Thân Hữu, Quí em học sinh thân mến bài thơ BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH của nhà thơ Nhung Dục 戎昱 đời Đường, bài thơ nầy còn có một tựa nữa là : " Di Gia Biệt Hồ Thượng Đình " 移家别湖上亭. 移家别湖上亭

dcd_may19_diGia.jpg

DI GIA BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH

好是春风湖上亭,Hảo thị xuân phong hồ thượng đình,

柳条藤蔓系离情。Liễu điều đằng mạn hệ ly tình.

黄莺久住浑相识,Hoàng oanh cữu trú hồn tương thức.

欲别频啼四五声。Dục biệt tần đề tứ ngũ thinh.

戎昱                     Nhung Dục.

CHÚ THÍCH :

DI GIA : là Dời nhà, dọn nhà, đổi chỗ ở.

BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH : Chia tay với cái đình ở trên hồ.

ĐẰNG MẠN : là dây leo, dây chùm gởi.

HỆ : là Trói, buộc, ràng buộc.

HỒN 浑 : HỒN có 3 chấm Thủy, nghĩa gốc là NƯỚC ĐỤC. Nghĩa bóng là ĐẦN ĐỘN. Ở đây HỒN là TRẠNG TỪ nên có nghĩa là : Rất, cả thảy.

HỒN TƯƠNG THỨC : Rất là quen biết nhau.

TẦN 频 : là Thường, là Liên Tục. TẦN ĐỀ : Hót liên tục.

DỊCH NGHĨA :

Dời nhà nên đến từ biệt với cái đình ở trên hồ. GIẢ BIỆT ĐÌNH TRÊN HỒ.

Đẹp thay, mát thay gió xuân hây hẩy trong cái đình ở trên hồ, nhưng, những cành tơ liễu thướt tha quấn quít bay theo gió quyện với những sợi dây leo chùm gởi vươn dài như nuốn nắm níu cái cảnh tình ly biệt, cả chim hoàng oanh trên cành cũng thế, trước lúc biệt ly như còn lưu luyến mà hót lên bốn năm tiếng dài não nuột ! Tất cả đều được tác giả sử dụng thủ pháp Nhân Cách Hóa một cách tài tình. Cái đình trên hồ, những cành liễu thướt tha, những dây leo vươn dài và tiếng hót của chim hoàng oanh... tất cả đều như có tâm hồn, có cảm tình lưu luyến như không muốn chia tay, như còn muốn nắm níu, bịn rịn không nở xa rời ! Cảnh vật còn như thế, huống chi con người !

DIỄN NÔM :

Gió xuân hây hẩy trước hồ đình,

Cành liễu dây leo buộc lấy tình.

Oanh vàng quen biết nên ly biệt,

Hót liền mấy tiếng đoạn làm thinh !

Lục bát :

Đình hồ hây hẩy gió xuân,

Thướt tha nhành liễu buộc tình dây leo.

Chim oanh như cũng sầu theo,

Chia tay hót tiếng buồn meo cả lòng !

Đỗ Chiêu Đức.

Phương Hà xin góp bài phỏng dịch cùng anh Chiêu Đức, Thầy và các bạn:

Thơ Đường Luật:

GIÃ BIỆT

Trước đình, hây hẩy gió xuân qua

Soi bóng trên hồ, liễu thướt tha

Buồn cảnh biệt ly, oanh cất tiếng

Ngân dài não nuột khúc chia xa.

Thơ lục bát:

GIÃ BIỆT

Trước đình hây hẩy gió xuân

Bên hồ dây quấn, liễu buông một màu

Chim oanh cảm nỗi buồn đau

Ngân dài tiếng hót khúc sầu biệt ly

Phương Hà

Mailoc xin tham gia bài dịch cùng Chiêu Đức và các ban , tìm một chút vui chiều Chủ nhật.

Thân kính

ML

Giả Biệt Đình Trên Hồ

Vờn đình hồ gió xuân hay hẩy ,

Liễu , dây leo , quấn lấy cành nhau .

Hoàng Oanh thân thiết từ lâu ,

Hót năm ba tiếng rầu rầu biệt ly .

Mailoc phỏng dịch

 

TÚC HOA ÂM TỰ

Nguyên tác: Nguyễn Trung Ngạn

Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Phương Hà, Đỗ Chiêu Đức, Quên Đi, Kim Oanh, Kim Phượng, Song Quang

Cùng Ban,
Xin chuyển đến bạn thơ ,một bài thơ của Nguyễn trung Ngạn , một bài thơ mang sắc thái thiền khiến lòng tôi vô cùng cảm khái .
Nguyễn trung Ngạn  ( 1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng , huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên .Năm 16 tuổi đỗ Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn ( cùng khoá với Mạc đỉnh Chi ) , làm quan tới chức Đại Hành Khiển Tước Thân Quốc Công , thọ 82 tuổi .
Thân kính 
Mailoc



   Túc Hoa Âm tự 
( Nguyễn trung Ngạn )  



宿花陰寺 

偶徬招提宿,
僧留半榻分。
石泉朝汲水,
紙帳夜眠雲。
松子臨窗墜,
猿聲隔岸聞。
粥魚敲夢醒,
花雨落繽紛。

Túc Hoa Âm tự 

 Ngẫu bạng chiêu đề túc,
Tăng lưu bán tháp phân.
Thạch tuyền triêu cấp thuỷ,
Chỉ trướng dạ miên vân.
Tùng tử lâm song truỵ,
Viên thanh cách ngạn văn.
Chúc ngư sao mộng tỉnh,
Hoa vũ lạc tân phân. 
 
 Dịch Nghĩa :

Ngẫu nhiên vào ngủ đêm trong chùa
Sư dành cho nửa giường 
Sáng ra đi múc nước ở suối đá ,
Đêm ngủ với mây trong trướng giấy .
Qủa thông rụng trước cửa sổ ,
Tiếng vượn bên kia sông .
Mõ chùa khua tỉnh giấc mộng ,
Mưa hoa rơi xuống tơi bời .   


--Bản dịch của Mailoc—
 
    Trọ tại chùa Hoa Âm
 
Ghé trọ chùa tình cờ đêm tối
Sư nhượng cho nửa gối chăn giường .
Sáng ra múc nước suối nguồn
Đêm về trong trướng mây vương ngủ vùi .
Ngoài song cửa thong rơi một trái
Vượn gọi bầy vẳng lại bên sông .
Mõ chùa lay tỉnh giấc nồng
Từ đâu tan tác mưa bông rợp trời
                                   Mailoc

 

                      GHÉ NGỦ CHÙA

  Ngẫu nhiên ngủ nhờ chùa vắng

Sư nhường nửa chõng tre nằm

Sáng ra múc nước suối đá

Đêm nằm mượn mây thay màn

Trái tùng vào song cũng thích

Vượn kêu bờ suối inh vang

Sáng ra giật mình tỉnh mộng

Quanh mình mưa bụi mênh mang

C.D.M.    

TRỌ ĐÊM TẠI CHÙA

Ngẫu nhiên được trọ lại trong chùa

Chia với sư già chiếc chõng thưa

Nước suối trong veo khua thỏa thích

Phòng mây ấm áp ngủ say sưa

Thông rơi lộp độp ngoài song cửa

Vượn hót véo von cách khoảng bờ

Tiếng mõ vang đều xua giấc mộng

Rào rào hoa rụng xuống như mưa.

Phương Hà (Lộc Mai)

 

           ĐÊM TRỌ CHÙA HOA ÂM


            Tình cờ tá túc Hoa Âm,
            Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
            Nước trong suối đá êm êm,
            Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
            Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
            Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
            Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
            Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !

                                                            Đỗ Chiêu Đức.

 

 Ở Lại Chùa Hoa Âm

Ở lại chùa đêm xuống
Nửa giường sư nhượng ta
Nước ngoài khe sáng lấy
Mây dỗ giấc mơ qua
Trong cửa nhìn thông rụng
Vượn kêu vẳng suối xa
Chày kình vang tỉnh mộng
Lất phất trận mưa hoa

                       Quên Đi

 

Hoa Âm Tự Qua Đêm

Hữu duyên tạm trú chùa Hoa Âm
Nhường lại sư chia đôi chỗ nằm
Nguồn suối tinh mơ chờ lấy nước
Màn mây tối ủ giấc  mơ Nam
Ngoài song thông quả đang rơi rụng
Bờ nọ vẳng xa tiếng vượn thầm
Chày dọng lay lay choàng giấc điệp
Mưa hoa lất phất gió căm căm.

Kim Phượng

Lạc Vào Chùa Hoa Âm

Tình cờ lạc lối cửa Chùa

Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già

Nước reo suối nguồn hoang dã

Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm

Ngoài song tùng hát êm êm

Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình

Đánh thức tiếng mỏ tụng kinh

Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.

 

Kim Oanh

 

 

QUA ĐÊM CHÙA HOA ÂM

 

Tình cờ ngủ trọ chùa khi đêm xuống

Nửa chiếc giường sư cụ nhượng cho nằm

Sáng múc nước suối chảy luồn kẻ đá

Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn

 

                                       @   @   @

 

Bên song cửa thông rơi vương vài quả 

Vượn gọi bầy vang vọng cả ven sông

Tiếng chuông mõ trong chùa khua tỉnh mộng

Giọt mưa rơi làm rụng mấy cành bông

 

 

SONG  QUANG

 

 

 

 

THÍNH VŨ

Nguyễn Trãi

Bản dịch: Đào Duy Anh, Mailoc, Quên Đi, Chân Diện Mục, Lộc Mai, Đỗ Chiêu Đức, Song Quang

Cùng Bạn , 

Cả năm nay Cali lâm vào tình trạng khô hạn dữ dội , khiến Thống Đốc Tiểu Bang Cali phải  lên tiếng báo động . Các đài truyền thanh truyền hình Mỹ Việt đều  nhắc nhở người dân tiết kiêm nước hằng ngày . Cá nhân tôi cũng vô cùng lo âu khi nhìn thấy vẽ tiêu điều của màu xanh cỏ cây dọc các free way . Nhưng hai hôm nay thời may cơn bão mùa đông -xuân từ tây bắc tràn về đem những trận mưa nước dồi dào cho các hồ chứa nơi đây ,những mong  các cánh dồng cây trái rau qủa Cali sẽ tốt tươi như mọi khi , xin các bạn chia sẻ . 

Đêm qua Cali mưa suốt đêm , tôi nhớ những đêm mưa ở quê nhà mà lòng bùi ngùi khôn tả . Xin gởi đến các bạn bài thơ của cụ Nguyễn Trãi .đoc giải khuây đôi phút . Cám ơn .

Thân kính

Mailoc

 

Thính vũ

Nguyên tác: Nguyễn Trãi

聽雨 

阮廌 

寂寞幽齋裏, 
終宵聽雨聲。 
蕭騷驚客枕, 
點滴數殘更。 
隔竹敲窗密, 
和鐘入夢清。 
吟餘渾不寐, 
斷續到天明。 

Thính vũ 

Nguyễn Trãi 

Tịch mịch u trai lý, 
Chung tiêu thính vũ thanh. 
Tiêu hao kinh khách chẩm! 
Điểm trích sổ tàn canh. 
Cách trúc xao song mật, 
Hoà chung nhập mộng thanh. 
Ngâm dư hồn bất mị, 
Đoạn tục đáo thiên minh. 

Dịch nghĩa: 

Nghe mưa 

Vắng vẻ trong phòng tối tăm, 
Suốt đêm nghe mưa rơi. 
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách, 
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn. 
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ, 
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng. 
Ngâm rồi mà vẫn không ngủ được, 
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh. 

Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh(1) 

Vò võ trai phòng vắng, 
Suốt đêm nghe tiếng mưa. 
Não nùng rung gối khách, 
Thánh thót mấy canh dư. 
Cách trúc khua song nhặt, 
Hoà chuông động giấc mơ. 
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ, 
Đứt nối đến tờ mờ. 

(1)Trong Nguyễn Trãi toàn tập, phần Ức Trai thi tập 

--Bản dịch của MaiLộc –

  Đêm tối tăm trai phòng lặng lẽ

Suốt đêm trường mưa mãi không ngưng .

 Não nùng gối khách run run ,

 Giọt mưa tí tách lạnh lùng năm canh .

 Tiếng lào xào trúc cành chạm cửa ,

 Chuông ngân nga lạc giữa mơ mòng .

 Ngâm thơ không dỗ giấc nồng ,

 Chập chờn đứt nối, vừng hồng sáng ra .

                                          Mailoc phỏng dịch

  Nghe  Mưa

Lạnh lẽo phòng im vắng
Đêm trường mưa gió lay
Xuyến xao choàng tỉnh giấc
Rỉ rả suốt canh chày
Ngoài cửa tre xào xạc
Vào mơ chuông vọng dài
Ngâm nga tìm giấc ngủ
Trằn trọc đã sang ngày

                             Quên Đi

MƯA , TIẾNG CHUÔNG VÀ MỘNG

 

Thư phòng ngồi nhìn đêm tối

Não người thánh thót mưa rơi

Trăn trở tiếng vọng bên gối

Tàn canh lòng vẫn bồi hồi

Ngoài song lao xao cành trúc

Chuông chùa theo mộng mơ trôi

Thơ ngâm hồn say khôn ngủ   

Chập chờn trời sáng lại rồi

C.D.M.       

Lộc Mai xin góp bài phỏng dịch cùng Thầy và các bạn:

 
NGHE TIẾNG MƯA ĐÊM

 

Một mình lặng lẽ giữa màn đêm

Nghe tiếng mưa rơi trước mái thềm

Thê thiết, não nùng run gối khách

Lạnh lùng, giá buốt gợi sầu riêng

Xạc xào ngọn trúc khua song cửa

Văng vẳng hồi chuông lắng nỗi niềm

Trằn trọc năm canh không chợp mắt

Thơ ngâm càng khiến não lòng thêm.

                        Lộc Mai (Phỏng dịch)

Đỗ Chiêu Đức xin được góp Ý với các phần sau đây :

1. NGHĨA TỪ :
        Trước tiên, xin được Lạm Bàn về cái tựa đề " THÍNH VŨ  
聽雨 ", mà ai cũng biết là NGHE MƯA. Nhưng, ở đây, theo tôi, phải hiểu là " LẮNG Nghe Mưa ". Xin được chiết tự chữ THÍNH nghe chơi cho vui như sau :

Chữ THÍNH , bên trái là chữ NHĨ là TAI, phía dưới là chữ THỦ ( được viết cách điệu ) là TAY. Bên phải là THẬP MỤC ( chữ MỤC được viết ngang ) là Mười con Mắt, là chăm chú NHÌN, phía dưới là NHẤT TÂM, là Một Lòng Một Dạ. Vậy, THÍNH là gì ?!...

THÍNH là... Chống TAY lên TAI, MẮT nhìn chăm chú và lắng lòng mà NGHE... cái gì đó ! THÍNH là Listen chứ không phải là Hear.

Đêm mưa tầm tả, dai dẳng, không ngủ được, nên cụ NGUYỄN TRÃI nhà ta đã NGHE hết những tiếng động của ĐÊM MƯA, nên...

 ... Tựa đề THÍNH VŨ là LẮNG NGHE MƯA, còn muốn nói cho văn vẻ hơn là : " LẮNG TIẾNG MƯA RƠI ! "

      Bây giờ thì lại LẠM BÀN về chữ NGÂM của câu số 7 nhé ! Đêm mưa tầm tả rả rít, buồn muốn thúi ruột, thì... lấy HỨNG ở đâu mà NGÂM THƠ ?! Nên, tôi nghĩ, chữ ngâm ở đây là TRẦM NGÂM 沈吟 là Chìm trong sự yên lặng kéo dài... NGÂM DƯ là Trầm Ngâm mãi.... Nghĩa câu số 7 : " Ngâm dư hồn bất tẫm " là : Trầm ngâm mãi mà hầu như ( hồn ) không ngủ được !

  Đến như câu cuối, hai chữ ĐOẠN TỤC 斷續 là " Đứt Nối ", như " ĐOẠN TỤC CAO " trong truyện võ hiệp của Kim Dung là : Thuốc dán chuyên dùng để nối xương bị gãy cho nó lành lại... Còn ở đây chỉ " Cơn Mưa Đêm "... Mưa một lúc, dừng rồi lại mưa, mưa rồi lại dừng, lại mưa... là " Mưa Dai Dẵng suốt đêm ", chứ ta đâu có thói quen nói là " Mưa ĐỨT NỐI suốt đêm " đâu !...

  Trên đây, chỉ là Ý kiến riêng, LẠM BÀN cho vui của Đỗ Chiêu Đức mà thôi, nếu có mạo phạm đến ai, thì xin gởi lời CÁO LỖI trước. Mong hỉ xả!

2. DIỄN NÔM :


           LẮNG TIẾNG MƯA RƠI

           Trong trại buồn hiu hắt,
           Suốt đêm nghe mưa nhanh.
           Tầm tả bên gối khách,
           Rả rít suốt tàn canh.
           Tre xạc xào kẻo kẹt ,
           Chuông ngân nga mong manh.
           Trầm ngâm không ngủ được,
           Dai dẳng suốt đêm thanh !


                                                 Đỗ Chiêu Đức.

                             ĐÊM NGHE TIẾNG MƯA RƠI

                            Đêm khuya vắng thư phòng thêm quạnh quẻ

                             Suốt canh chầy lặng lẻ giọt mưa rơi !

                             Nghe nảo nùng ,làm dạ khách chơi vơi

                            Tiếng tí tách rơi đều như nức nở

                            Cành tre trúc đập khua khung cửa sổ

                            Chuông vẳng đưa vào ảo mộng nhẹ nhàng

                            Trầm ngâm hoài,giấc ngủ vẫn đi hoang

                             Mưa không dứt, bình minh vừa ló dạng

.

                             SONG  QUANG (Phỏng dịch)  

 

 

LỢI CHÂU NAM ĐỘ                 

 

Đầu Xuân ,nắng ấm , thấy được một vài nét đẹp chữ nghĩa lấp lánh trong một bài thơ xưa , lòng vui khôn ngăn muốn được chia sẻ cùng với mọi người thân quí trong nhà.  Thế thôi. Còn chuyện thoát vòng danh lợi thị phi thế tục, tâm hồn an nhiên ,hưởng thú trăng nước trời cho thì nhà giáo tôi thật tình không dám lạm bàn. PKT 02/22/2014


Lợi Châu Nam Độ
Ôn Đình Quân (- 859 -)

Đạm nhiên không thủy đới tà huy
Khúc đảo thương mang tiếp thúy vi
Ba thượng mã tê khan trạo khứ
Liễu biên nhân yết đãi thuyền quy
Sổ tùng sa thảo quần âu tán
Vạn khoảnh giang điền nhất lộ phi
Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi
Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ky

Dịch Xuôi : Qua Bến Đò Nam Lợi Châu
PKT 02/22/2014

Sông nước lững lờ chở nắng cuối ngày trôi
Khúc đảo xanh xanh vòng quanh chân núi xanh 
Trên sóng nước, ngựa hý , nhìn thuyền chèo đi
Bên bờ liễu ,khách đợi , ngóng thuyền quay về
Bầy chim âu chạy xao xác , quanh mấy bụi cỏ trên bãi cát
Một cánh cò bay lờ lững trên cánh đồng mênh mông dọc ven sông
Có mấy ai hiểu được chuyện chèo thuyền đi tìm Phạm Lãi
Để cùng hưởng thú Ngũ Hồ khói nước ,thoát khỏi vòng danh lợi thị phi  .

Chú Thích :

(1) Lợi Châu , tên đất thuộc huyện Quảng Nguyên , tỉnh Tứ Xuyên 
(2) Phạm Lãi , người nước Việt . Chuyện kể , sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt được nước Ngô của Phù Sai , đã cùng người đẹp Tây Thi sống mai danh ẩn tích ở Ngũ Hồ, vùng có năm hồ (Động Đình Hồ, Ba Dương Hồ , Sào Hồ , Thái Hồ , Chung Hồ ) thuộc các tỉnh Hồ Nam , Giang Tô , và Chiết Giang .


Qua Bến Đò Chiều
PKT 02/22/2014

Lững lờ ,sông nước , ráng chiều sa,
Khúc đảo, mờ xanh, chân núi xa.
Ngựa hí ,chèo xuôi , khua sóng nổi ,
Liễu buông, khách đợi, ngóng thuyền qua.
Vài con âu chạy , quanh lùm cỏ ,
Một cánh cò bay , dưới nắng tà...
Ai hiểu chuyện xưa , ông họ Phạm,
Ngũ Hồ ẩn tích, lánh phù hoa ? 

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

 

LỘC MAI phỏng dịch

 

 

BẾN ĐÒ CHIỀU

 Con sông lờ lững chở ngày trôi

Đảo biếc vòng chân núi cuối trời

Ngựa hí, thuyền chèo rời bến vắng

Người chờ, liễu rũ ngóng đò xuôi

Chim âu xao xác quanh cồn cỏ

Cò trắng chập chờn giữa khoảng khơi

Ai đã theo dòng tìm Phạm Lãi

Thảnh thơi xa lánh chuyện trên đời ?

                      Lộc Mai

 

 

QUÊN ĐI:

 

    Qua Miền Nam Lợi Châu.

Sắc ráng nhoà trong nước lững lờ
Kề nhau đảo núi một màu lơ
Sóng đùa ngựa hí chèo khua động
Liễu rũ mong thuyền khách ngẩn ngơ
Đám cỏ ven bờ âu tản mác
Bên sông đồng rộng vạc bơ vơ
Đi tìm Phạm Lãi thuyền không lối
Khói nước Ngũ Hồ tựa giấc mơ.

                                   Quên Đi

 

Bản dịch của Mailoc

Qua miền Nam Lợi Châu 

Chiều bảng lảng nước sông xanh biếc , 
Đảo quanh co núi tiếp xanh rờn . 
Thưyền đi ngựa hí sóng vờn , 
Dừng chân tựa liễu khách chờ thuyền quây . 
Bờ cát cỏ chim bầy xao xác , 
Một cánh cò man mác đồng không . 
Ai tìm Phạm Lải thuyền dong , 
Ngủ Hồ khói nước để mong quên đời .
 

 

Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :


    1. Bản chữ Hán của bài thơ :


      
利洲南渡                 LỢI CHÂU NAM ĐỘ

 

 澹然空水對斜暉,  Đạm nhiên không thủy đối tà huy,
 
曲島蒼茫接翠微。  Khúc đảo thương mang tiếp thúy vi.
 
波上馬嘶看棹去,  Ba thượng mã tê khan trạo khứ,
 
柳邊人歇待船歸。  Liễu biên nhân yết đãi thuyền qui.
 
數叢沙草群鷗散,  Sổ tùng sa thảo quần âu tán,
 
萬頃江田一鷺飛。  Vạn khoảnh giang điền nhất lộ phi.
 
誰解乘舟尋范蠡?  Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi?
 
五湖煙水獨忘機。  Ngũ hồ yên thủy độc vong ki.( cơ ).
                      
                    
溫庭筠                                        Ôn Đình Quân

 

   2. Nghĩa Bài Thơ :
      Nước sông lắp loáng phản chiếu long lanh dưới ánh nắng chiều, bờ đảo xanh xanh nối tiếp với rặng núi xanh biêng biếc. Mắt trông người đi ngựa hí trên thuyền đang lướt sóng ra khơi, trên bến đò dưới rặng liễu một nhóm người còn đang đợi thuyền quay trở lại. Khi thuyền qua các bụi cây trên bờ đảo làm kinh động lũ hải âu tung bay tứ tán, bên nây bờ ruộng mênh mông vạn mẫu chỉ một cánh cò đơn độc thẳng cánh tung bay. Ai biết được trong lòng ta đang muốn lướt thuyền ra khơi để đi tìm Phạm Lãi, trong cảnh khói sóng mênh mông của Ngũ Hồ mới dễ khiến cho người ta quên đi cái tâm cơ tầm thường của thế tục !

 

  3. DIỄN NÔM :


                    QUA BẾN LỢI CHÂU


           Lắp lánh sông trôi dưới nắng chiều,
           Xanh xanh núi đảo một màu rêu.
           Sóng xô ngựa hí chèo khua nước,
           Thuyền đợi người mong liễu rũ xiêu.
           Bãi cỏ đàn âu bay tan tác,
           Cánh cò ngàn mẫu lượn tiêu diêu.
           Ai hay Phạm Lãi tìm vui thú,
           Mây nước Ngũ Hồ ân oán tiêu.


                                                 Đỗ Chiêu Đức.

Song Quang:

 

            QUA BẾN ĐÒ CHIỀU

 

 Nắng tà theo nước chở chiều trôi!

Ốc đảo xanh xanh tiếp núi đồi

Ngựa hý, thuyền xuôi theo sóng biếc

Đò về, khách đợi liễu buông lơi

Chim âu xào xạc quanh cồn cỏ

Cò trắng lượn lờ ruộng lúa khơi

Ai hiểu chuyện đi tìm Phạm Lãi  ?

Ngũ Hồ ẩn náu lánh xa đời.

SONG QUANG

 

 

 

XUÂN D

Cùng Bạn .

Bây giờ đã qua rằm tháng giêng , hết mùng rồi nghĩa là hết Tết , song trời vẫn đang xuân . Kính chuyển đến Thầy và các bạn thơ bài  Xuân Dạ của thi hào Nguyễn Du để cùng thấm thía với Cụ cảnh đêm xuân xa nhà lại bịnh hoạn rề rề .

  


Xuân dạ -
春夜
của Nguyễn Du

 

 

 

Xuân dạ

 
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?

Tiểu song khai xứ liễu âm âm

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm

Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ
    
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm

Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy

Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).

* Long Giang hay Thanh Long giang: sông Lam

Lược dịch1:

Đêm xuân

Đêm tối tăm tìm đâu xuân sắc 

Liễu âm u im phắt ngoài song .

Giang hồ bệnh hoạn khiếp lòng 

Xuân về mưa gió mịt mùng đêm sâu .

Khách bên đèn lệ sầu năm tháng 

Quê dặm ngàn lai láng nguyệt trông .

Nam Đài Long Thủy một dòng 

Cổ kim sóng tiễn lạnh lùng mãi trôi .

Mailoc phỏng dịch

Cali 2-18-14                            

Năm 1789, Tây Sơn chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn binh lửa, cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình). Bài thơ trên nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này, lúc cụ chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng đời thanh xuân của cụ. Sống nơi thôn ổ, cụ đã gần gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và tâm tình của tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã 37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri Huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây).

TIẾNG LÒNG ĐÊM XUÂN

Đêm sâu chẳng sáng chút nào

Bên hiên liễu rủ một màu tóc tang

Bệnh lâu thẹn đối giang san

Gió mưa điên đảo tâm can dật dờ

Lang thang rơi lệ đèn mờ

Quê hương muôn dặm ơ hờ ngắm trăng

Ngoài thôn sông nước lạnh căm

Thời gian lướt nhẹ khôn ngăn tiếng lòng

C.D.M.              

 

 

HIỂU VŨ                              

 

Sáng nay, nhìn tuyết rơi nhẹ phủ trắng lớp cỏ xanh ngoài sân, không hiểu sao lại nhớ đến một bức tranh xuân qua 1 bài thơ xưa. "Đối cảnh vô tâm" , tôi ngồi chuyển dịch lại bài này mong được chia sẻ với mọi người thân quí , qua chữ nghĩa ,một vài phút giây chiêm ngưỡng nét đẹp thanh tú của đất trời , cùng lúc nghe được tiếng chim hót lảnh lót đầu năm, riêng cho người xa xứ .PKT 02/08/2014

Hiểu Vũ
Trương Lỗi (Đời Tống)

Khinh âm giang thượng thiên phong tú
Tiểu vũ tường biên bách thảo sinh
Duy hữu xuân cầm úy cô khách
Hiểu đề hồn tự cố viên thanh

Dịch Xuôi : Mưa Sáng
PKT 02/08/2014

Ngàn ngọn núi xa in bóng lung linh ,trên sông, đẹp như tranh vẽ
Rặng cỏ non mọc ven tường, xanh tươi dưới làn mưa bụi mỏng
Duy chỉ có chim xuân an ủi kẻ xa quê , chưa về được
Sáng cất tiếng hót lảnh lót, nghe như từ vườn xưa

Mưa Sáng Ngày Xuân
PKT 02/08/2014

Non ngàn soi bóng xanh dòng nước,
Cỏ biếc ven tường trắng bụi mưa.
An ủi riêng ai, đời lữ thứ ,
Chim xuân, sáng hót , tiếng quê xưa.

Phụ Chú : "Đối cảnh vô tâm" , chữ mượn trong 1 câu kệ "đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền " (đối cảnh , vô tâm , đừng hỏi thiền) của vua Trần Nhân Tông , vị sư tổ dòng Thiền Trúc Lâm đời nhà Trần.Trước ngoại cảnh , tâm không động , lòng trong không vướng bận ,như mặt nước trong , không xao động , để có thể thấy được toàn vẹn hình ảnh mặt trăng hiện ở dưới đáy chậu thau vàng. PKT 02/08/2014

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

 

     Mưa Buổi Sáng 

 

Ngàn non đẹp , sông mờ sương phủ ,

Mưa bên tường , cỏ nhú xanh trong .

Chim xuân , cô khách bạn lòng ,

Líu lo sáng sớm , giọng cùng quê xưa .

                          Mailoc

SÁNG XUÂN

 

Núi xa ngàn ngọn đẹp lung linh

In bóng trên sông tựa bức tranh

Thảm cỏ ven tường xanh nõn biếc

Làn mưa rải bụi trắng mong manh

Cô đơn, lữ khách sầu man mác

An ủi, chim khuyên nhẩy quẩn quanh

Sáng sớm, cất lời ca lảnh lót

Như từ vườn cũ vọng âm thanh.

 

                      Lộc Mai

 

 

     Đỗ Chiêu Đức xin được góp Ý với các phần sau đây :


 1. Tên Tác giả bài thơ :


       Thưa Thầy, Bài thơ nầy tác giả là : TRƯƠNG LỖI
張耒, thi sĩ đời Tống, chớ không phải TRƯƠNG LAI 張來  đời Đường.  Vì chữ LAI   , khi được viết theo thể HÀNH cho nhanh thì trông giống như chữ LỖI .

 

 

      dcd_feb10_TruongLoi.jpgTRƯƠNG LỖI, tự là Văn Tiềm, hiệu là Kha Sơn, người đời gọi là UYỂN KHÂU tiên sinh, Trương Hựu Sử. Vì ông người tướng tá cao lớn, khôi ngô khác thường, nên người đời còn gọi là " Phì Tiên "( Ông Tiên Mập ). Sanh năm Chí Hòa Nguyên niên đời Bắc Tống ( 1054 ), mất vào năm Chính Hòa thứ 4 ( 1114 ), hưởng thọ 61 tuổi. Ông đậu Tiến Sĩ năm Hi Ninh đời Tống Thần Tông. Đã từng giữ các chức Lâm Hoài Chủ Bộ, Trứ tác Lang, Sử Quán Kiểm Thảo. Đầu năm Thiệu Thánh vua Triết Tông, giữ chức Long Các Tri Nhuận Châu. Đến đời Tống Huy Tông được triệu về làm Thái Thường Thiếu Khanh, là một trong " Tô Môn Tứ Học Sĩ ".

 

2. Bản chữ Hán của bài thơ :

 

曉雨(宋· 張耒)   HIỂU VŨ ( Tống. Trương Lỗi )

 

輕陰江上千峰秀,   Khinh âm giang thượng thiên phong tú,
小雨牆邊百草生。   Tiểu vũ tường biên bách thảo sanh.
惟有春禽慰孤客,   Duy hữu xuân cầm ủy cô khách,
曉啼渾似故園聲。   Hiểu đề hồn tự cố viên thanh.

 

3. Diễn Nôm :

                           MƯA SÁNG


             Chập chùng ngàn núi trong sương,
             Xanh tươi hoa cỏ bên tường mưa rơi.
             Muông chim như cảm thông người,
             Cất cao tiếng hót như hồi quê xưa.


                                                            Đỗ Chiêu Đức.

 

XUÂN ĐÁN                              

Nguyên tác: Chu Văn An

Bản dịch: Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh Hữu, Chân Diện Mục, Quên Đi

_______________________________________________________________________

Cùng Bạn,

 Chuyển đến bạn một bài phỏng dịch  Xuân Đán của Chu văn An , đọc cho vui vài giây phút đầu Xuân .Mời Bạn tham gia cùng dịch để vui thêm .

Cám ơn

Mailoc 

               .     

 

XUÂN ÐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như tuý
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lảnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn

       Chu Văn An *

 MAILOC:

  SỚM MAI  ĐẦU  XUÂN

Ngày nhàn hạ trên non lều vắng ,

Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn .

Trời trong cỏ biếc ngút ngàn ,

Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .

Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,

Sóng lòng như giếng cổ lặng căm .

Hương phai trà nguội khói tan ,

Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .

Mailoc phỏng dịch

Cali mùng 4 Tết Giáp Ngọ

(*)Chu Văn An người làng Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm ( Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông). Ông là một nhà Nho học đạo đức. Vua Trần Minh Tôn dùng vào chức Quốc Tử Tư Nghiệp, dạy Thái Tử. Ðến triều vua Dụ Tôn, ông dâng sớ xin chém đầu 7 tên nịnh thần, vua không nghe, ông từ quan về ở ẩn núi Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn .

ĐỖ CHIÊU ĐỨC:

Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :

1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :

 

    春旦         XUÂN ĐÁN               

寂寞山家鎮日閒,      

Tịch mịch sơn gia trấn nhật Nhàn, 
竹扉斜擁護輕寒。
        

Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉,
        

Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
紅濕花梢露未乾。
        

Hồng thấp hoa sao lộ vị can. 
身與孤雲長戀岫,
        

Thân dữ cô vân trường luyến tụ, 
心同古井不生瀾。
        

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan. 
柏薰半冷茶煙歇,
        

Bách huân bán lảnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。
        

Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
朱文安                                                      

Chu Văn An

  

 2. Dịch Nghĩa :
           Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cú mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.

3. DIỄN NÔM :
               
              Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
              Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
              Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
              Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
              Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
              Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
              Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
              Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
                                                                    Đỗ Chiêu Đức.

Chú Thích :
  Theo tôi nghĩ, chữ YÊN trong câu 7 có nghĩa là thuốc hút chớ không phải KHÓI.

  Đầu năm góp vui ít vần

DANH HỮU: 

 

      春旦                                

       

      

寂寞山家鎮日閒,

竹扉斜擁護輕寒。      
碧迷草色天如醉,

紅濕花梢露未乾。
身與孤雲長戀岫,

心同古井不生瀾。

柏薰半冷茶煙歇,

溪鳥一聲春夢殘。

  朱文

 

 

XUÂN ĐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn, 
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
      

Bích mê thảo sắc thiên như tuý,

Hồng thấp hoa sao lộ vị can. 

Thân dữ cô vân trường luyến tụ, 

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan. 

Bách huân bán lảnh trà yên yết,

Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
   Chu Văn An

Xuân Sớm

Vắng tanh sơn ốc, suốt ngày nhàn,

Rèm trúc treo nghiêng cũng đỡ hàn.

Thắm biếc cỏ màu, trời tựa sỉn,

Đượm hồng hoa chỏm, sương chưa tan.

Thân như mây nổi, cùng ưa núi,

Tâm giống giếng xưa, chẳng gợn làn.

Sắp hết củi thông, trà hết khỏi,

Tiếng chim bên suối, mộng xuân tàn.

Danh Hữu dịch

CHÂN DIỆN MỤC:

Xin góp bản dịch cùng các bạn :

 SỚM XUÂN

Ở núi buồn hiu người nhẹ bỗng

Cổng tre cọt kẹt gió chênh chông

Trời nghiêng cỏ biếc say xuân sắc

Một đóa hồng nhung sương phủ hồng

Thân dạt góc trời mây tâm sự

Lòng ta đã cạn , sóng nào rung

Củi tàn , hơi lạnh , thuốc trà hết

 Chim núi kêu xui lạnh cõi lòng

 C.D.M.     

 

QUÊN ĐI: 

Kính thưa Thầy Cô Anh Chị,
Quên Đi có nhận xét thế này"
"Bách huân bán lảnh trà yên yết"
Mùi hương từ củi thông đã nhạt, và khói trà cũng hết. Nếu nghĩ thoáng một cách nôm na:  bếp lửa bằng củi thông đã cháy già nửa, nên hơi nóng đã giảm nhiều, vì chủ nhân đã đi nghỉ từ lâu, không pha thêm trà. Do đó trà không còn lên khói.
Như vậy chữ "yên" ở đây không thể là khói thuốc.
Quên Đi xin  bài thơ dịch :

Nhà vắng trên non ngày tháng rảnh

Trúc rèm nghiêng cản bớt hơi đông

Trời như say cỏ đang màu biếc

Hoa ẩm sương đêm dưới ánh hồng

Mây lẻ cùng ta lưu luyến núi

Lòng như mặt giếng lặng hư không
Hương tùng gần lụn trà vừa hết

Chim báo xuân sang tỉnh giấc nồng.

                                          Quên Đi

 

 

 

KHAI BÚT MỒNG MỘT TẾT GIÁP NGỌ

Điền Viên Lạc

Nguyên tác: Vương Duy

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Đỗ Chiêu Đức, Chân Diện Mục, Mailoc

________________________________________________________________________

 

Khai bút mồng một Tết Giáp Ngọ , xin được gửi đến mọi người thân quí , mấy vần thơ mộc mạc, để đọc cho vui trong mấy ngày xuân. 

PKT 01/31/2014
 
Điền Viên Lạc
Vương Duy (699 - 759)


Đào hồng phục hàm túc vũ
Liễu lục cánh đãi triêu yên
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên


Dịch Xuôi : Vui Thú Điền Viên
PKT 01/31/2014
 
Đào hồng , đọng giọt mưa đêm
Liễu biếc , vương tơ sương sớm
Hoa rụng , gia đồng chưa quét
Oanh hót , sơn khách còn ngủ


Phụ Chú :
(1) Gia đồng = trẻ giúp việc trong nhà
(2) Sơn khách = khách núi = ý nói người ở ẩn, xa lánh việc đời

Điền Viên Lạc
PKT 01/31/2014

Đào hồng, mưa đêm, trổ lộc ,
Liễu biếc, sương sớm, đong đưa.
Hoa rụng đầy sân êm ả , 
Oanh ca người ngủ dậy chưa ?
 
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com 

Đỗ CHIÊU ĐỨC:

               Thường thì nhắc tới Đường Thi, người ta chỉ nghĩ đến thơ 5 chữ và 7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, mà ít ai biết đến Lục ngôn thi, tức là Thơ 6 chữ. Kỳ nầy, xin trình làng một bài thơ Đường 6 chữ của thi sĩ Cố Huống, người đã có bài thơ nổi tiếng khi vịnh Giai thoại Điển tích LÁ THẮM của chàng thư sinh Vu Hựu và Cung nhân Hàn Thị như sau :

 

Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,                        花落深宫鶯亦悲
Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì.        
上陽宫女斷腸時 
Quân ân bất bế đông lưu thủy,                           
君恩不閉東流水
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy ?                        
枼上題詩寄與誰?

Tạm diễn nôm như sau :


Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,
Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau.
Ơn Vua chẳng bế dòng lưu thủy,
Trên lá đề thơ gởi đến đâu ?


                     Bây giờ thì xin cùng thưởng thức và cùng kính mời tất cả Quý thầy cô, các bạn đồng môn, các em học sinh, chúng ta cùng tìm hiểu và dịch bài thơ đặc biệt này nhé !

歸山作                               QUY SƠN TÁC

心事數莖白髮,               Tâm sự sổ kinh bạch phát

生涯一片青山。               Sanh nhai nhất phiến thanh sơn

空林有雪相待,               Không lâm hữu tuyết tương đãi

古道無人獨還。               Cổ đạo vô nhân độc hoàn

桃紅復含宿雨,                  Đào hồng phục hàm túc vũ
柳綠更帶朝煙
.                  Liễu lục cánh đái triêu yên
花落家童未掃
,                  Hoa lạc gia đồng vị tảo
鳥啼山客猶眠 .                 Điểu đề sơn khách do miên.

顧 况                               Cố Huống.

SÁNG TÁC KHI VỀ NÚI Ở ẨN,
Tâm sự tịch liêu của tuổi già, chỉ còn biết tỉ tê cùng vài sợi tóc bạc lưa thưa mà thôi. Sinh nhai ư ?. Ừ, thì cứ sống nhờ vào cỏ hoa cây trái của một dãy núi xanh xanh kia. Trong cảnh núi rừng vắng lặng nầy, ta chỉ còn bầu bạn với tuyết trắng mà thôi. Mỗi ngày trên con đường xưa lối cũ nầy, ta chỉ đi về với một thân một bóng. Mỗi chiều chiều ngắm hoa hồng còn long lanh với những hạt mưa xuân, và mỗi buổi sáng hàng liễu xanh chập chờn ẩn hiện trong làn hơi sương sớm. Hoa rụng đầy thềm đầy đất, gia đồng còn chưa kịp quét đi. Tiếng chim líu lo của buổi ban mai cũng không đánh thức được người khách núi nhàn nhã còn đang mơ màng giấc điệp.


Diễn nôm :
Tâm sự : Lơ thơ tóc bạc,
Núi xanh một dãi : Sinh nhai !
Rừng vắng bạn bầu cùng tuyết
Đường xưa vắng vẻ không ai ,
Hoa đào hồng vì mưa tối
Sương sớm đưa cành liễu bay
Hoa rụng gia đồng chưa quét,
Chim ca khách núi còn say !

dcd_feb2_14_CoHuong.jpgLục bát :
Lơ thơ tóc trắng não nùng,
Sinh nhai một dãy chập chùng núi xanh.
Bạn cùng tuyết trắng phủ quanh,
Đường xưa vắng vẻ độc hành một thân,
Đào hồng lóng lánh mưa xuân,
Liễu xanh thấp thoáng bâng khuâng sáng trời.
Gia đồng chưa quét hoa rơi,
Giấc nồng khách núi mặc lời chim ca !

Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.

Cố Huống 顧況 (725-814) tự Bô Ông 逋翁, người Hải Diêm 蘇州 Tô Châu 海鹽 (nay thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江, Trung Quốc).
về già, tự lấy hiệu là Bi Ông. Ông là Thi sĩ, họa sĩ của đời Đường. Quan không cao, từng giữ chức Trứ Tác Lang. Vì làm thơ châm chích giới quyền quí đương thời, nên bị biếm đến Nhiêu Châu làm Tư Hộ Tham Quân. Về già ẩn cư ở núi Mao Sơn.

 

PHẠM KHẮC TRÍ: 

Anh Chiêu Đức ơi , một hai năm trước đây , anh chị em chúng ta cũng đã chuyển dịch bài này. Riêng tôi rất thích bài thơ 6 chữ 8 câu này của Cố Huống. Bốn câu sau có sách chép cho là 1 trong các bài Điền Viên Lạc của Vương Duy . Hôm nay , nhân ngày mồng một Tết , nhân dịp anh đề cập đến , ngồi đọc lại một mình... Cám ơn anh. Gửi lại  bản dịch cũ để mọi người cùng đọc cho vui. Cầu chúc một năm mơi an lành cho tất cả chúng ta. Thân kính.


Qui Sơn Tác
Cố Huống (725 - 814)

Tâm sự sổ kinh bạch phát
Sanh nhai nhất phiến thanh sơn
Không lâm hữu tuyết tương đãi
Cổ đạo vô nhân độc hoàn
Đào hồng phục hàm túc vũ
Liễu lục cánh đãi triêu yên
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên.

Qui Sơn Tác
PKT 01/31/2014

Tâm sự vui cùng tóc bạc,
Núi xanh ngày tháng tung hê.
Rừng vắng tuyết trắng mời đón ,
Lối xưa một bóng đi về.
Đào hồng mưa đêm tươi nở ,
Liễu biếc sương sớm vấn vương.
Hoa rụng gia đồng chưa quét ,
Oanh ru sơn khách giấc nồng .

CHÂN DIỆN MỤC:


 Tâm sự miên man buồn tóc trắng

Lui về góc núi sống qua ngày    

Sương tuyết rơi hoài ta cũng cảm

Đường đời bạn hữu vắng tăm hơi

Xuân về hoa nở trong mưa bụi

Cành biếc hanh hao dưới khói trời

Hoa rụng hiên xuân bay quẩn mãi

 Dụi mắt ngáp dài đón xuân tươi

 C.D.M

 MAILOC:                                                         

 Quy Sơn Tác

Tâm sự bời bời trắng tóc mai ,

Bên sườn núi biếc cuộc sinh nhai .

Rừng hoang tuyết trắng chờ ta đó ,

Đường cũ quay về chẳng bóng ai .

Mưa tối đào hồng hoa ngấn nước ,

Sương mai cành biếc liễu vươn dài .

Hoa rơi con trẻ nhà chưa quét ,

Chim hót giấc nồng khách ngủ say .

                              Mailoc

_________________________________________________

 

TRÚC CHI TỪ                                  

Lưu Vũ Tích

Phạm Khắc Trí, Mailoc, Chân Diện Mục, Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Quên Đi, Kim Phượng

_________________________________________________________________________

Đã có chùm lan , cành đào , nhánh hạnh , hôm nay xin gửi thêm một bài ca xưa để mọi người thân quí ăn Tết cho vui . Cảnh hò hát trên sông nước quê nhà thuở nào ,dù đã qua , đã xa,  vẫn mãi là một hồi ức đẹp. Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi ! PKT 01/25/2014

Trúc Chi Từ
Lưu Vũ Tích (772 - 842)

Dương liễu thanh thanh giang thủy bình
Văn lang giang thượng xướng ca thanh
Đông biên nhật xuất tây biên vũ
Đạo thị vô tình khước hữu tình

Dịch Xuôi : Trúc Chi Từ
PKT 01/25/2014

Dương liễu xanh xanh , dòng sông phẳng lặng
Nghe tiếng chàng hát hò trên sông
Bên đông mặt trời đang lên, bên tây trời đang mưa
Nói là trời mưa mà lại là trời nắng đấy người ơi

Chú Thích:

(1) Trúc Chi Từ là một thể loại dân ca xưa , thường được làm ra để nói về cảnh tình của người dân sinh sống hiền lành ở nơi thôn dã. Đây là 1 trong số các bài  Trúc Chi Từ của tác giả.

(2) Trong chữ hán , có 2 chữ đồng âm , cùng đọc là "tình" nhưng khác nghĩa , một nghĩa là "trời tạnh/không mưa" và một nghĩa là "có tình ý đối với nhau ". Câu 4 trong nguyên tác , với dụng ý chơi chữ thú vị của tác giả , còn có thể hiểu : "nói là vô tình mà lại là hữu tình đấy".

Trúc Chi Từ
PKT 01/25/2014

Liễu biếc xanh dòng nước chảy xuôi,
Trên sông vang tiếng chàng hò vui.
Bên tê mưa gió , bên ni tạnh ,
Nắng ấm lên rồi , ai đó ơi !

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com  

Khúc Ca Trúc chi

Liễu xanh xanh , mặt sông phẳng lặng ,

Giọng hát chàng văng vẳng trên sông .

Mưa tây , đông nắng rực hồng ,

Tưởng không lại hóa mênh mông rất tình .

                         Mailoc phỏng dịch

                               Cali 1-25-14

MƯA RẮC BÊN SÔNG

Cành tre bên bến lặng nhìn sông

Tiếng hát theo giòng suôi gió Đông

Nắng nhạt như mơ , mưa lắc rắc

Tạnh rồi lòng vẫn thấy mưa giông

                                          C.D.M.  

1. Nguyên tác chữ Hán của bài thơ :

 竹枝詞                             TRÚC CHI TỪ
              
劉禹錫                                      Lưu Vũ Tích

楊柳青青江水平,  Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,
聞郎江上唱歌聲。  Văn lang giang thượng xướng ca thinh.
東邊日出西邊雨,  Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
道是無晴卻有晴。  Đạo thị vô tình khước hữu tình !

CHÚ THÍCH :
   * Đạo Thị : Bảo là, Nói là, Gọi là.
   * Tình
: Tình nầy là NẮNG RÁO, vì có bộ NHẬT là Mặt Trời một bên. Chữ nầy ĐỒNG ÂM với chữ Tình là TÌNH CẢM, TÌNH Ý, có bộ TÂM là Lòng Dạ một bên. Nên, HỮU TÌNH là CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH là Có Tình Ý.

NGHĨA BÀI THƠ :
      Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang ló dạng ở phía đông với những tia nắng đầu ngày , nhưng phía bên trời tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo là không có nắng, nhưng lại có nắng, nói là không có tình, nhưng lại có tình Ý thật thiết tha !

DIỄN NÔM :
           Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,
           Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.
           Tây đổ mưa rào đông lại nắng,
           Hữu tình người lại ngỡ vô tình !
                                                           Đỗ Chiêu Đức.

  TRÚC CHI TỪ

Mặt nước êm đềm, bóng liễu in

Giọng chàng xao động khúc sông yên

Tây mưa, đông vẫn đang hừng nắng

Người ngỡ vô tâm lại hữu tình.

                       Lộc Mai

Không môn đăng hộ đối, chàng thì xót phận. Nơi Nàng thì rực rỡ tươi vui, bên chàng cả một màu u ám.
Quên Đi xin góp vui với bài dịch:

                     Đôi Bờ
Bên dòng nước lặng liễu khoe thân
Sông vắng tiếng chàng trầm bổng ngân
Đông nắng tây mưa nào muốn thế
Sao đành than trách hỡi tình nhân.

                                      Quên Đi

Ý Tình

Dòng nước lặng soi mình dáng liễu

Điệu ca buồn não nuột  trên sông

Đông còn nắng ấm tây mưa lạnh

Đầy ý tình căm lặng ngỡ không

Kim Phượng

______________________________________________________________

 

 

CỔ KIM NHƯ MỘNG

Thơ Tô Đông Pha

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi

____________________________________________

Lời Dẫn Về Bản Dịch Cổ Kim Như Mộng

Nguyên tác là một bản ca từ làm theo điệu Vĩnh Ngộ Lạc của Tô Đông Pha , đời Tống . Phần chuyển dịch đã không thể giữ được âm ngữ cho đúng điệu nhạc. Chẳng qua , mấy ngày đầu xuân ,  đọc được lời than của người xưa , cổ kim như mộng , vị dư hạo thán (xin hãy vì ta mà than dài ) , thú thực không hiểu sao nhà-giáo-tôi lại không cảm thấy buồn , mà ngược lại,  lại cảm thấy vui vui , và ngược lại , lại muốn được chia sẻ , thay vì nỗi buồn, mà là nỗi vui này , cùng với người xưa và với mọi người thân quí. Vâng , cổ kim như mộng ,ai buồn cho đây , vì thế dại gì mà không vui ?( Đêm nay ,chắc sẽ ngủ ngon , Ông Táo đã về Trời ,đâu còn ai ở Hạ Giới để ghi chép cái tội chọc phá mọi người cho vui của tôi nữa ) . PKT 01/23/2014

Vĩnh Ngộ Lạc
Tô Đông Pha (1037 - 1101)


Minh nguyệt như sương
Hảo phong như thủy
Thanh cảnh vô hạn
Khúc cảng khiêu ngư
Viên hà tả lộ
Tịch mịch vô nhân kiến
Thẩm như tam cổ
Khanh nhiên nhất diệp
Ảm ảm mộng vân kinh đoạn
Dạ mang mang
Trùng tầm vô xứ
Giác lai tiểu viên hành biến
Thiên nhai quyện khách
Sơn trung qui lộ
Vọng đoạn cố viên tâm nhãn
Yến Tử lâu không
Giai nhân hà tại
Không tỏa lâu trung yến
Cổ kim như mộng
Hà tằng mộng giác
Đản hữu cựu hoan tân oán
Dị thời đối
Hoàng lâu dạ cảnh
Vị dư hạo thán

Cổ Kim Như Mộng
PKT 01/23/2014

Trăng sương lung linh ,
Gió nhẹ dịu mát ,
Trời đất yên ngủ ,
Cá quẫy ngoài sông,
Lá sen tròn tuôn hạt sương đọng ,
Lặng lẽ trong thanh vắng .

Canh ba trống điểm,
Một chiếc lá rụng , 
Tỉnh giấc mộng xuân ảo não ,
Đêm tối mịt mùng ,
Tìm đâu thấy nữa ,
Tha thẩn cùng khắp khu vườn nhỏ .

Cuối trời chân mỏi ,
Chốn cũ quay về ,
Vườn xưa ngày đêm tưởng nhớ,
Lầu xưa hoang liêu ,
Người xưa một thuở ,
Ôi con yến nhỏ ngày nào, nay đã bay về đâu nhỉ ?

Cổ kim như mộng,
Bao lần tỉnh thức ,
Vui xưa không còn ,  
Dòng đời dâu bể ,
Đêm dài lầu vắng , 
Ai buồn cho đây?

Phụ Chú : Lầu Yến Tử ,lấy tên một người ca nữ , chuyện kể, vợ chồng đầm ấm hạnh phúc , sau khi chồng chết , ở vậy, cho đến khi qua đời.

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Cổ Kim Như Mộng

Trăng sáng ngời tợ sương

Gió mát lạnh như nước

Bầu trời đêm trong suốt

Cá nhảy vượt bờ nương .

Trên lá sen sương lóng ,

Vắng lặng nào ai hay

Lá rụng âm vang động

Canh ba trống canh dài .

Xót xa khi tỉnh giấc

Đêm tăm tối mịt mờ

Biết tìm đâu ra chốn

Vườn nhỏ dạo thẩn thơ .

Cuối trời khách chân mỏi

Năm cũ đường về mong

Vườn xưa trông mút mắt

Yến Tử lầu vắng không .

Giai nhân giờ đâu tá ?

Chim én kín lầu xuân

Xưa nay đời như mộng

Tỉnh giấc đã bao lần .

Buồn vui những ngày cũ

Sau nầy liệu có ai ?

Lầu vàng trong đêm vắng

Vì ta thở than dài .

                    Mailoc phỏng dịch

                      Cali 01-23-14

 Chuyện Cũ Giờ Như Mộng
(Phóng tác Cổ Kim Như Mộng)
    
Trăng thanh gió mát cảnh như thơ
Sen ủ sương khuya cá thẩn thờ
Đêm vắng canh chầy ôm mộng ảo
Bàng hoàng lá rụng dạ nao nao.

Nơi lòng vương cảnh cũ
Đâu dáng ngọc lầu cao
Người xưa nay vắng bóng
Lầu xưa cũng điêu tàn.
Sự đời có tựa không
Chuyện cũ giờ như mộng.

                          Quên Đi

 

 

HOÀI CỰU                                         

Năm nay, trong tiết đông lạnh, vùng Plano Texas, chỗ chúng tôi ở, trời trở chứng, nhiệt độ trong ngày lên xuống thất thường, dường như cơ thể già nua đã không thích ứng kịp, đầu gối bị đau nhức, đôi khi chịu không thấu, lại nhớ đến...con lừa trong thơ Tô Đông Pha. "Lộ trường, nhân khốn, kiển lư tê" . Đường còn xa, người đã mỏi mệt , mà con lừa cưỡi thì chân lại đi khập khiễng, kêu đau. Trong cơn đau nhức trời hành này, năm cùng tháng tận, tôi ngồi viết mấy hàng chữ này để mọi người thân quí trong nhà đọc cho vui cùng tôi và cùng nhau, thân tâm an lạc, đón mừng năm 2014, một Năm Mới  an lành, hanh thông, và như ý. PKT 12/29/2013

Hoài Cựu
 TL_ToDongPha.jpg
Tô Đông Pha (1037 - 1101)

Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
Hồng phi na phục kế đông tây
Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
Hoại bích vô do kiến cựu đề
Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
Lộ trường nhân khốn kiển lư tê

Phụ chú :

Nguyên đề bài là : Họa Tự Do Mãnh Trì Hoài Cựu , họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của Tử Do. Tử Do là em của Tô Đông Pha. Mãnh Trì là tên huyện thuộc tỉnh Hà Nam.

Dịch Xuôi : Hoài Cựu
PKT 12/29/2013

Đời người rồi sẽ đi về đâu nhỉ
Có phải tựa như một con chim hồng bay đạp trên tuyết rơi
Ngẫu nhiên để lại dấu chân trên tuyết
Rồi thoắt đó bóng hình chim đã bay vút đông tây mất hút rồi
Vị tăng già đã viên tịch , ngôi tháp mới cho tăng vừa mới xây xong
Bức tường cũ thơ đề nay đã đổ nát không còn thấy chữ viết nữa
Không biết đường đi gian truân ngày trước có được ghi lại không
Bây giờ chỉ biết , đường còn xa , người đã mỏi mệt , con lừa khập khiễng kêu đau

Hoài Cựu
PKT  12/29/2013

Kiếp người rồi sẽ về đâu nhỉ ?
Tựa cánh hồng bay đạp tuyết rơi.
Đây đó dấu chân còn đọng tuyết ,
Mà đâu hình bóng đã mù khơi.
Tăng già , tháp mới yên phần xác ,
Chữ viết , tường rêu lấp mất lời.
Khổ nạn ngày qua , trời đất biết ,
Đường dài , lừa ốm...bỡn nhau thôi !
 
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Bài dịch LỘC MAI:

HOÀI CỰU

Đi về đâu hỡi, kiếp con người ?

Tựa cánh chim bằng lướt tuyết rơi

Vừa thấy dấu chân in thảm trắng

Thì đà bóng dáng khuất mù khơi

Tăng già yên nghỉ sâu lòng tháp

Tường cũ tang thương nhạt chữ lời

Hiểm trở đường xưa, ai có nhớ

Lừa đau, người mỏi, nẻo xa xôi.

Lộc Mai

Bài dịch MAILOC:

Hoài Cựu

Đường vạn nẻo đời người chẳng biết ,

Tựa cánh hồng giẫm tuyết rơi đầy .

Dấu chân bỗng chốc còn đây ,

Mà hồng heo hút đông tây xa vời .

Trong tháp mới sư già thâm tịch ,

Tường đổ rồi dấu tích thơ đâu .

Nhớ thương khập khểnh dãi dầu ,

Mệt nhoài la mỏi nỗi sầu đường xa .

Mailoc phỏng dịch

Cali 29-12-13

Bài dịch QUANG TUẤN:

NHỚ XƯA
 
Nhân sinh nào biết về đâu nhỉ?
Như cánh chim hồng giẫm tuyết rơi.
Ôi dấu chân kia còn rõ đó
Mà hình bóng ấy đã xa rồi.
Tăng già tháp giữ thân yên ổn
Tường cũ lời ghi nét nhạt phai.
Đường trần muôn thuở luôn gian khổ
Dặm thẳm. ngưởi lừa mệt quá thôi.
 
                   Chiều ngày 30/12/2013
                       QUANG TUẤN

Bài dịch QUÊN ĐI:

 

Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân Hữu Thân mến,

Vừa nhận được Bài của Các Thầy Cô, tôi tìm ngay bản chữ Hán gởi ra đây để cùng nhau tham khảo.

和子由澠池懷舊
    Hoạ Tử Do Mãnh trì hoài cựu
人生到外知何似,
  Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。
  Ứng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪,
   Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。
    Hồng phi ná phục kế đông tê (tây)
老僧已死成新塔,
    Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
壞壁無由見舊題。
   Hoại bích vô do kiến cựu đề
往日埼嶇還記否,
    Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
路人長困蹇驢嘶。
    Lộ nhân trường khốn kiển lô đề.

Có một điều ở câu thứ nhất, chữ thứ tư (
) là chữ ngoại có nghĩa là bên ngoài.


     Nhớ Lại Nơi Xưa

Sinh ra rồi sẽ đến đâu đây
Tựa cánh hồng đi trên tuyết lầy
Móng vuốt hãy còn lưu dấu vết
Bay nhanh chẳng thiết hướng đông tây
Sư già tháp mới vùi xương cốt
Tường đổ thơ đề mất tiếc thay
Hiểm trở lối xưa giờ vẫn nhớ
Người la mệt lả đoạn đường này

                                    Quên Đi

 

ĐỖ CHIÊU ĐỨC: Dịch & Góp ý

 

Kính thưa Quí Thầy Cô, Đồng Môn, Thân Hữu Thân mến,

Vắng tiếng lâu nay, vì tâm tình còn trĩu nặng, hôm nay chợt mở mail, đọc được các bài dịch của Quí Thầy và Các Bạn về cuộc sống nhân sinh, cũng chợt thấy lòng cảm khái, nên xin được tham gia với các phần sau :

  1. NGUYÊN TÁC CỦA BÀI THƠ :

 和子由澠池懷舊    HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI CỰU

人生到處知何似,   Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。   Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪,   Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。   Hồng phi nả phục kế đông tê (tây)
老僧已死成新塔,   Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
壞壁無由見舊題。   Hoại bích vô do kiến cựu đề
往日埼嶇還記否?    Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ?
路長人困蹇驢嘶。   Lộ trường nhân khổn kiển lô đề.
                     
蘇軾                                               Tô Thức

2. XUẤT XỨ CỦA BÀI THƠ :

         Năm Gia Hựu Nguyên niên đời Tống Nhân Tông ( năm 1056 ), Tô Tuân dẫn Tô Thức và Tô Triệt lai kinh ứng thí, trên đường đi ngang qua huyện Mãnh Trì, đêm trọ lại cư thất của Phụng Nhàn Hòa Thượng, có đề thơ trên vách chùa.

         Năm Gia Hựu thứ 6, Tô Thức ( Tự là Tử Chiêm, Hiệu là Đông Pha Cư Sĩ ) đến nhậm chức quan ở Phụng Tường, trên đường đi, lại đi ngang qua huyện Mãnh Trì, được em là Tô Triệt ( tự là Tử Do ) gởi cho bài thơ " Hoài Mãnh Trì kí Tử Chiêm Huynh Thi "  懷澠池寄子瞻兄, nên mới làm bài thơ nầy để họa lại.

      3. GÓP Ý :
      a) Về chữ thứ tư của câu đầu : Bạn Hùynh Hữu Đức ghi chữ NGOẠI
là vì bạn nhầm với chữ Giản Thể của chữ Xứ được viết như thế nầy : . Nên câu đầu căn cứ theo nguyên tác phải là :
        Nhân sanh đáo XỨ tri hà tự.
      b) Chữ đầu của câu thứ 2 phải đọc là ƯNG.
        Chữ
đọc là ƯNG là Phó từ, có nghĩa : PHẢI, NÊN. Ví dụ : Ưng Thị, Ưng tự ( Phải là ).
        Đọc là ỨNG là Động Từ, có nghĩa : LÊN TIẾNG. Ví dụ : Đồng Thanh Tương Ứng, Hưởng Ứng.
      c) Chữ
, ở đây phải đọc là NẢ, vì đúng ra chữ nầy phải được viết như thế nầy : , là Nghi vấn từ dùng để hỏi, có nghĩa là NÀO?, là SAO?.
      d) Câu chót phải là :
         LỘ TRƯỜNG NHÂN KHỔN kiển lư tê.
         Lộ Trường Nhân Khổn là Đường dài người mõi. Chữ nầy
đọc là KHỐN, có nghĩa là KHÓ, ta có từ Khốn Khó. Còn đọc là KHỔN thì có nghĩa là Mõi Mệt.

         4. DIỄN NÔM :

        HỌA BÀI MÃNH TRÌ HOÀI CỰU Của TỬ DO.

  
             Cuộc sống người đời chẳng biết sao?
             Tựa chân nhạn đạp tuyết hôm nào.
             Ngẫu nhiên dấu ấn lưu trên tuyết,
             Bình thản cánh hồng bay đến đâu?
             Tháp mới sư già vừa viên tịch,
             Tường hư thơ mất mới hôm nao !
             Chông gai ngày cũ quên hay nhớ ?
             Người mõi đường xa lừa hí đau !
                                                    Đỗ Chiêu Đức.

           Bài thơ nầy còn ẩn Ý THIỀN ở bên trong !

 

DANH HỮU dịch & góp ý:

.

Nhân dịp đầu năm, góp vài ý với các bạn yêu thơ Đường.

 

和子由澠池懷舊    HỌA TỬ DO MÃNH TRÌ HOÀI CỰU

 人生到處知何似,   Nhân sinh đáo xử, tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。   Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪,   Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。   Hồng phi na phục kế đông tê.
老僧已死成新塔,   Lão tăng dĩ tử, thành tân tháp
壞壁無由見舊題。   Hoại bích, vô do kiến cựu đề.
往日埼嶇還記否       Vãng nhật kỳ khu, hoàn ký bĩ
路長人困蹇驢嘶。   Lộ trường nhân, khốn kiển lư đề.
                     
蘇軾 

 

 họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của Tử Do

Chuyện xử thế của con người, ta biết theo ai !

Bắt chước con chim hồng lướt trên bùn tuyết ư ?

Bùn tuyết chỉ tình cờ ghi lại dấu vết của nó.

Kế sách "Hồng bay" cũng đâu giải quyết được gì trước nay

Hay như Lão tăng vừa viên tịch để lại ngôi tháp mới xây.

Vì bức tường đã hỏng, bài thơ của ông đề không còn thấy nữa

Ngày trước thật uổng cái kỳ công, vì lời ghi không hay .

Đi đường dài gặp cơn khốn đốn chỉ vì sự thua kém nên chỉ biết kêu lên.

 

Vài từ ngữ

 

Đáo xử : đến chuyện xử thế

Ưng tự : nên theo cái nào

Na phục : đâu giải quyết được

Kế đông tây : kế sách xưa nay

Tân tháp : tháp xây dùng đựng cốt nhà sư mới viên tịch

Hoàn ký bĩ : chỉ vì lời ghi không hay (ám chỉ lời chê lúc trước của ông về thơ Vương An Thạch).

Kiển lư : ngựa què từ ngữ chỉ sự thua kém

 

Bài thơ này, theo tôi nghĩ, là ông than vì chuyện xử thế vụng của mình mà bị đày đi xa (chuyện ông sửa thơ của Vương An Thạch và bị Thạch để tâm, khi hắn lên làm Thừa tướng, hắn đã trả thù bằng cách đày ông đến nhiệm sở mới nơi mà trước đây đã hình thành bài thơ của Thạch, cũng giống chuyện nhạc sĩ Văn Cao, hồi trước có lần Tố Hữu rủ ông lại nhà để khoe mấy bài thơ ông ta mới làm, Văn Cao trả lời : thơ cậu thì có gì mà phải đọc. Tố Hữu để tâm thù, khi nắm quyền đã đày ải Văn Cao suốt đời không ngóc đàu lên nổi, nhờ Văn Cao là tác giả bài Quốc ca nên mới không bị đi tù như các bạn hữu của ông).

 Nội dung bài này rất khó dịch cho lọn nghĩa mà không làm sai lạc ý thơ. Nhân đầu năm, thôi thì cũng xin góp lời kẽo bạn Lộc lại hỏi : sao dạo này anh còn dịch thơ Đường nữa không ?

 Họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của Tử Do

Đường đời xử thế, biết chi nêu

Bắt chước chim hồng, vượt tuyết rêu ?

Rêu tuyết tình cờ in dấu vết

Hồng phi há dễ giải nan điều !

Lão tăng vừa tịch, tháp còn đấy,

Tường nát, khó tìm, thơ đã tiêu.

Công uổng trước kia, phê hạ sách

Đường dài, tài mọn, chỉ đành kêu.

Danh Hữu dịch

 Chúc quý bạn một năm mới 2014 thi tứ dồi dào, sức khỏe hanh thông

 

 

___________________________________________________________________

 

 

 

 

Túc Vương Xương Linh ẩn cư

Cùng Bạn .

Xin Chuyển đến các bạn một bài thơ của Thường Kiến , đọc giải khuây thư xã cho tâm hồn trong ngày cuối tuần và cũng mong bạn thơ mình góp vần cho vui với góc đường thi nhé .

Thân mến 

Mailoc

Túc Vương Xương Linh ẩn cư

Nguyên tác: Thường Kiến

宿王昌齡隱居 

常建 

清溪深不測,隱處唯孤雲。 
松際露微月,清光猶為君。 
茅亭宿花影,藥院滋苔紋。 
余亦謝時去,西山鸞鶴群。 

Túc Vương Xương Linh ẩn cư 

Thường Kiến 

Thanh khê thâm bất trắc, 
Ẩn xứ duy cô vân. 
Tùng tế lộ vi nguyệt, 
Thanh quang do vị quân. 
Mao đình túc hoa ảnh, 
Dược viện tư đài văn. 
Dư diệc tạ thời khứ, 
Tây sơn loan hạc quần. 

--Dịch nghĩa: 

Trọ đêm nơi ở ẩn của Vương Xương Linh 

Suối trong sâu thăm thẳm, 
Nơi ở ẩn chỉ có đám mây lẻ loi. 
Trăng lấp ló trong lùm thông, 
Ánh sáng trong mát vẫn dành cho bác. 
Nếp đình tranh lúc nào cũng có bóng hoa, 
Vết rêu lan dài bên viện thuốc. 
Ta nay cũng từ giã việc đời, 
Về làm bạn với bầy loan, hạc ở non Tây. 

-- Bản dịch của  MaiLộc : -- 

 Suối trong ngần đáy sâu khó đoán ,

Nơi ẩn cư một đám mây cô .

Lùm thông thấp thoáng trăng nhô ,

Ánh trăng trông vắt mơ hồ chờ anh .

Túp lều tranh hoa cành ôm ấp

Phòng thuốc nhà lấm tấm rêu xanh  .

Từ nay thế sự thôi đành ,

Non tây , loan , hạc , bạn lành bên nhau .

Ở Lại Nơi Ẩn Cư Của Vương Xương Linh

1

Thăm thẳm suối trong mát  
Lẻ loi mây chốn thanh        
Cành thông che bóng nguyệt  

Trăng sáng thú riêng anh     
Hoa nở tươi lều cỏ              
Dược phòng rêu phủ xanh   
Bao giờ rời thế sự              
Dạo núi Tây yên lành  

                 2
Xa khuất xuôi dòng con suối trong
Áng mây cô lẻ chốn giai không
M
ờ mờ sau cội tùng trăng hiện
Sáng sáng ánh ngà ngắm chỉ Ông
Rực rỡ lều tranh hoa rộ sắc
Âm u gian thuốc phủ rêu phong

Việc đời đến lúc khi ngưng được
Oanh Hạc Tây Sơn thoả thích lòng
Quên Đi

CHỐN ẨN CƯ

Suối sâu thăm thẳm một dòng

Đám mây đơn lẻ âm thầm cùng ta

Ánh trăng nấp bóng thông già

Một vầng trong mát thiết tha chờ người

Lều tranh hoa điểm hiên ngoài

Dược phòng u ám lan dài vết rêu

Việc đời gác lại đi thôi

Hạc loan làm bạn bên trời non tây.

                      Lộc Mai

________________________________________________

 

 

Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng Nhân

Cùng Bạn ,

Xin chuyển đến Bạn một bài thơ Đường của Hoàng phủ Tăng , bài thơ thoát lên cái vẻ thâm nghiêm 

trầm mặc của cảnh chùa chiều Thu khiến lòng tôi vô cùng cảm khái . Xin chuyển đến các bạn thơ để chia sẻ và cũng mong bạn góp vần cho vui ngày cuối tuần .

Thân mến 

Mailoc

Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng Nhân

 
Nguyên tác: Hoàng Phủ Tăng

 

槿  
 
 
 
 
 
 
 

 


Thu Tịch Ký Hoài Tố Thượng Nhân 

Dĩ kiến cẩn hoa triêu ủy lộ 
Độc bi cô hạc tại nhân quần 
Chân tăng xuất thế tâm vô sự 
Tĩnh dạ danh hương thủ tự phần 
Song lâm tuyệt giản văn lưu thủy 
Khách chí cô phong tảo bạch vân 
Cánh tưởng thanh thần tụng kinh xứ 
Độc khan tùng thượng vũ phân phân 

Hoàng Phủ Tăng 

Dịch Nghĩa:

Chiều Thu Viết Gửi Sư Thày Hoài Tố 
 
(đã thấy hoa dâm bụt bị phó mặc cho móc buổi sáng) 
(riêng thương cho con hạc lẻ loi giữa đám người ta) 
(người tu chân chính khác người đời, lòng không thiết sự vật) 
(trong đêm yên tĩnh, tự tay đốt nén nhang thơm có tiếng) 
(cửa sổ trông ra khe suối đẹp, nghe tiếng nước róc rách) 
(khách tới đỉnh núi chơ vơ quét mây trắng) 
(lại nghĩ tới nơi tụng kinh buổi sáng trong lành) 
(một mình nhìn mưa bay lất phất trên ngọn thông) 

-- Bản dịch của MaiL ộc – 

 Đóa dâm bụt dầm mình sương sớm ,

Thương hạc buồn gữa chốn nhân gian  .

Đại tăng sự thế không màng ,

Đêm yên tay thấp nén nhang hương trầm .

Suối bên song rì rầm nước chảy ,

Núi trơ vơ , khách trẩy mây xây ,

Lắng lòng kinh sớm chuông mai ,

Một mình dõi mắt mưa lay ngọn tùng .

.

Bản dịch SONG QUANG: 

Hoa dâm bụt đẩm mình  trong sương sớm

Thương hạc buồn lẻ bạn giữa nhân gian

 Kẻ chân tu thế sự chẳng mơ màng

 Đêm  tỉnh lặng thấp hương trầm khấn nguyện

 Bên song cửa ,tiếng suối ngàn rung chuyển

 Đỉnh núi cao, khách viếng thấy tầng mây

 Tụng công phu kinh sớm với chuông mai

 Mưa lất phất nhìn ngọn thông đơn độc.

 SONG  QUANG

 

Bản dịch Quên Đi:

.

Chiều Thu Gởi Sư Hoài Tố

Cánh dâm bụt mặc sương ban sớm
Hạc một mình hoà giữa thế gian
Chuyện tục nhân không lay ý đạo
Khói trầm hương toả ngát đêm tàn
Tựa song vẳng nước khe sâu chảy
Khách lặng theo mây quét núi ngàn
Nhớ lại sáng nơi phòng tụng niệm
Tùng trầm mưa lạnh chẳng
bi quan

                                            Quên Đi

 

 

GIANG TUYẾT                                                                        

Liễu Tông Nguyên

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Tản Đà, Mailoc, HKKM

Chỗ tôi ở , mấy  hôm nay trở lạnh ,như trời đã vào đông. Nhớ lại bài Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên đời Đường. Một nét tĩnh đặc thù trong thi họa đông phương. Một bức tranh thủy mạc đẹp. Lung linh hình ảnh một lão ông ,nón lá, áo tơi , ngồi câu trên một con thuyền nhỏ , cô đơn giữa sông lạnh, trong lúc tuyết trời đang rơi mù mịt , chung quanh đồng không non quạnh , không một bóng chim bay , không một bóng dáng người. Nhớ nhau,  tôi ngồi chuyển dịch lại gửi đi, thay lời thăm hỏi và cũng mong nhau cảm nhận được ít nhiều ấm áp tình tôi. PKT 11/23/2013.  

Giang Tuyết
Liễu Tông Nguyên (774 - 819)

Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu soa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết

Dịch Xuôi : Tuyết Sông
PKT 11/23/2013

Ngàn non trông mờ mịt, không một bóng chim bay qua
Vạn lối đều trắng xóa, không còn dấu vết chân người đi
Một lão ông đội nón lá , khoác áo tơi, trên một chiếc thuyền nhỏ lẻ loi
Một mình , lặng lẽ,  ngồi câu cá trên con sông lạnh , giữa trời tuyết đổ

Giang Tuyết
PKT 11/23/2013

Non ngàn mờ mịt, vắng chim bay ,
Vạn nẻo đường không, tuyệt bóng người.
Nón lá ,áo tơi, chờ cá động ,
Thuyền trên sông tuyết , lạnh đâu hay.

River Snow
Innes Herdan

In a thousand hills birds have ceased to fly
On countless tracks footprints have disappeared
A solitary boatman in bamboo cape and hat
Is fishing the icy river in the snow

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Kính Thầy cùng các Bạn,

Đọc lại bài Giang Tuyết của LTN và bài dịch của Thầy , lòng cảm thấy bùi ngùi bên tách càphê buổi sáng , trong khi bên ngoài trời đà trở  lạnh .Nếu so sánh với bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến , tôi thấy bài Giang Tuyết có hồn hơn nhiều mặc dù chỉ võn vẹn 4 câu thôi, ngắn gọn nhủ ngôn. Qua bài thơ ta thấy ngoài cái cảnh thê lương hoang vắng trên đường trên núi , ngoài cái giá lạnh của tuyết rơi , chúng ta còn thấy sự lẻ loi cùng cực lạnh lẽo của ngư ông trên sông vắng , buông cần , chiến đấu với lạnh với đói để tìm miếng ăn cho chiều tối nay , khiến ai cùng cao xuyến thương tâm . Đúng như Thầy nói , đây là một bức tranh thuỷ mạc vừa đẹp vừa rung động lòng người . Nếu bài Thu Điếu ta thấy cảnh an nhàn của thi nhân ngồi câu để thưởng thức cảnh hồ thu tuyệt đẹp , được cá hay không được cá cũng không sao , nhưng trong Giang Tuyết ta thây ngư ông chịu đựng hoàn cảnh khắc nghiệt cuả Trời Đật đê kiêm miếng ăn , kiêm sống . Bài thơ thật đẹp , thật não lòng lòng . Cũng vì thế biêt bao nhà thơ đã phỏng dịch Giang Tuyết . Nhân đây Mailoc xin kính chuyển đến Thầy và các bạn thơ một số bài dịch của nhiều người đọc cho vui cuối tuần .Cám ơn Thầy

Nay Kính

Mailoc

THU ĐIẾU

                                 Nguyễn Khuyến

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo 
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo 
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí 
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo 
Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt 
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo 
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

 

Các bản dịch GIANG TUYẾT:

-Bản dịch của Trần Trọng Kim: 

Nghìn non chim hết vẫy-vùng, 
Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không bóng người. 
Áo tơi, nón lá, ông chài, 
Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu. 
 
-Bản dịch của Trần Trọng San:

Ngàn ngọn núi, chim bay đi hết, 
Muôn con đường nhạt vết chân người. 
Ông già nón lá áo tơi, 
Đậu thuyền sông tuyết, riêng ngồi buông câu.

 
-Bản dịch của Tản Đà :

Nghìn non mất bóng chim bay, 
Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không. 
Kìa ai câu tuyết bên sông, 
Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.

 - Bản dịch của Mailoc :

1) 
 
Nghìn non khuất dạng dấu chim bay , 
Vạn dặm đường dài chẳng bóng ai . 
Ngư lão áo tơi , thuyền một chiếc , 

Ôm cần , sông lạnh, tuyết rơi đầy . 

(2) 

Dấu chim bay ngàn non khuất dạng
Vạn dặm đường hoang vắng bóng người . 
Lão già nón lá áo tơi , 
Thuyền đơn sông lạnh , tuyết rơi ôm cần . 
(3) 

Thiên Sơn chim khuất dạng 
Dặm đường chẳng bóng người 
Thuyền đơn lão tơi nón , 
Ngồi câu sông tuyết rơi

Mailoc

-Bản dịch của HKKM :

Hôm nay trời ở chỗ tôi ở cũng rất lạnh . Bèn có ngẩu hứng chạy theo anh  .

Trộm nghĩ rằng : 

Nếu không đến Mỹ thì chắc không biết tuyết như thế nào . Bằng như đã ở xứ lạnh gần 40 nâm thí khi tuyết phủ để núi vắng bóng chim, đường không có vết chân người , thì sông  đóng băng (có thể ice skating được) . Khi sông đóng băng làm sao có thuyền đậu ?????

Người Pháp nói rằng traduire c'est trahir . 

Từ Hán ra Việt, chắc nhà thơ PKT đă qua đà đi hơi xa, rồi từ Việt qua Anh núi non trở thành đồi hehehe 

Mạo muội đóng góp bài thơ theo ý của tôi  

Sông băng

Ngàn non biệt cánh chim

Vạn nẻo không bóng người

Mình ông cùng tơi nón

Ngâm khóc dòng sông  băng 

HKKM

___________________________________________________________

 

 

Chinh Nguyệt Sùng Nhượng Trạch
 
Cùng Bạn 

Gởi bạn một bài thơ của Lý thương Ẩn , phảng phất một chút rợn người nhân Halloween sắp đến 

 Thân 

Mailoc

Chinh Nguyệt Sùng Nhượng Trạch

Nguyên tác: Lý Thương Ẩn

正月崇讓宅

李商隱


密鎖重關掩綠苔
,
廊深閣迥此徘徊
.
先知風起月含暈
,
尚自露寒花未開
.
蝙拂帘旌終展轉
,
鼠翻窗網小驚猜
.
背燈獨共余香語
,
不覺猶歌\"起夜來
\".

Chinh Nguyệt Sùng Nhượng Trạch


Lý Thương Ẩn

Mật tỏa trùng môn yểm lục đài,
Lang thâm các huýnh thử bồi hồi.
Tiên tri phong khởi nguyệt hàm vựng,
Thượng tự lộ hàn hoa vị khai.
Biển phất liêm tinh cung triển chuyển,
Thử phiên song võng tiểu kinh sai.
Bội đăng độc cộng dư hương ngữ,
Bất giác do ca “Khởi Dạ Lai”

Chú thích: Sùng nhượng trạch, là ngôi nhà ở phường Sùng nhượng ở Đông đô Lạc Dương (nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam). Đây là nhà cha vợ của tác giả LTA. Ông cùng vợ con sống tại đây một thời gian. Khi vợ mất (năm 851), ông dọn ra ở riêng. Sáu năm sau có dịp trở lại thăm ngôi nhà xưa thì…

--Dịch nghĩa:--

Tháng Giêng Nơi Nhà Cũ Phường Sùng Nhượng

Cửa ngõ khóa kín, rêu phong xanh um,
ta đi đi lại lại trên hành lang dài thăm thẳm và căn gác vắng lặng.
Biết trước gió nổi trăng lên,
vì móc lạnh nên hoa chưa nở.
Dơi bay chạm vào rèm cửa làm ta trằn trọc không ngủ được.
Tiếng chuột leo nơi lưới cửa sổ làm ta chợt hơi sợ [vì tưởng hồn em về].
Một đèn một bóng ta nói chuyện với hương thừa của em,
còn hát bài “Khởi Dạ Lai” [em ưa thích] nữa. 
 
--Bản dịch của MaiLộc

 

Rêu phong xanh , ngỏ cài kín mít

Bước tới lui , tĩnh  mịch hành lang .

Gió hiu khơi mảnh trăng tàn

Cỏ hoa chưa nở  sương lam lạnh tràn .

Rèm phất phơ dơi làm khó ngủ ,

Chuột leo song , sợ ngỡ hồn ma .

Bên đèn thu thỉ hương xa ,

Bài ca “Khởi Dạ” anh ca nhớ về .

( Bài ca em thích , anh ca nhớ về)

 

Bản dịch: Quên Đi:

.

Cửa vào khóa kín rêu xanh phủ
Lầu vắng ngõ sâu dạ xốn xang
Trăng biết gió lên quầng xám hiện
Hoa chưa nở vội ngại sương lan
Dơi bay rèm động khôn an giấc
Chuột chạy khua song thoáng ngỡ ngàng
Chiếc bóng bên đèn hương cũ thoảng
Khúc ca " Khởi Dạ" nhớ vô vàng

                                  Quên Đi   


Bản dịch: Song Quang:

  Cửa đã khoá,tường rêu xanh phủ kín

  Hành lang dài,vắng lặng một mình ên

  Lát nữa đây,gió nổi với trăng lên

 Sương mốc lạnh nên hoa chưa kịp nở

 

 Dơi bay đụng rèm thưa khôn thẳng giấc

 Chuột leo khua song cửa ngở hồn về

 Ngọn đèn tàn bên hương cũ  như mê

Ta hát khúc "Khởi Dạ Lai" em thích.

SONG QUANG

 

 

_______________________________________________________________

 

DẠ  ẨM

 

Cùng Bạn ,

Hơi khá lâu chắc hẳn chúng ta cũng nhớ giây phút về "Góc Đường Thi " . Đọc Dạ Ẩm lòng tôi bỗng nhiên man mác buồn đồng cảm với người ly  hương , giải sầu bên chén rượu . Phải chăng đó cũng là tâm trạng chúng ta ? Mời Bạn chia sẻ và góp vần chơi . Cám ơn .

Thân mến 

Mailoc

 

 Dạ Ẩm

Nguyên tác: Lý Thương Ẩn

夜飲
李商隱

卜夜容衰鬢,
開筵屬異方。
燭分歌扇淚,
兩送酒船香。
江海三年客,
乾坤百戰場。
誰能醉酩酊,
淹臥劇清漳。

Dạ Ẩm

Lý Thương Ẩn

Bốc dạ dung suy mấn,
Khai diên thuộc dị phương.
Chúc phận ca phiến lệ,
Lưỡng tống tửu thuyền hương.
Giang hải tam niên khách,
Càn khôn bách chiến truờng.
Thùy năng túy mính đính,
Yêm ngọa kịch Thanh Chương

Chú thích: 1/ bốc dạ, lấy ý từ thành ngữ “bốc trú bốc dạ”, nghĩa là uống rượu ban đêm. 2/ Thanh Chương, tên ngòi, nay ở phía đông tỉnh Sơn Tây, là một chi nhánh của sông Chương. 3/ Tác giả LTA có tài (đậu tiến sĩ, thơ để lại 3 quyển gồm 571 bài), nhưng công danh lận đận, làm toàn chức nhỏ và đổi chỗ liền liền, ông chết khi tuổi mới 46.

--Dịch nghĩa:--

Uống Rượu Ban Đêm

Ban đêm uống rượu dung nhan tiều tụy ;
vì rượu uống nơi xứ người.
Lời ca (của ai đó) làm ta cùng nến đều rơi lệ ;
đôi bên khóc với nhau qua hơi rượu trên thuyền.
Là khách lưu lạc sông hồ đã ba năm ;
trong trời đất đã uống say cả trăm trận.
Có ai say túy lúy như ta ;
nằm gục bên bờ ngòi Thanh Chương.

--Bản dịch của MaiLộc

Mặt hao gầy rượu đêm uống mãi ,

Rượu tha hương tê tái say say .

Cùng ta nến khóc lệ dài

Đôi bên tấm tức men say trên thuyền .

Khách ba năm triền miên sông nước ,

Giữa dất trời say khướt trăm khi .

Có ai ngất ngưởng li bì

Như ta sóng sượt bên bờ Thanh Chương .

__________________________________________________________________

 

Mộ Quy - Đỗ Phủ

Mấy hôm nay đang đọc bài Mộ Quy của Đỗ Phủ. Một bài thơ Đường 8 câu 7 chữ , phá cách ,không niêm luật. Âm ngữ , nghe như lục đục phá phách , muốn vượt thoát,  nhưng cuối cùng cũng đành chịu yên bề. Thú vị lắm. Mời đọc cho vui. Thân quí. PKT 10/03/2013

Mộ Quy
 
DCD_Oct6_2013_DoPhu.jpgĐỗ Phủ (712 - 770)

Sương hoàng bích ngô bạch hạc thê
Thành thượng kích thác phục ô đề
Khách tử nhập môn nguyệt kiểu kiểu
Thùy gia đảo luyện phong thê thê
Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp
Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề
Niên quá bán bách bất xứng ý
Minh nhật khán vân hoàn trượng lê 

Dịch Xuôi : Trở Về Lúc Chiều Tối
PKT 10/03/2013

Con hạc trắng đậu trên cành ngô xanh biếc, lá đã úa vàng vì sương thu
Trên thành , tiếng mõ điểm canh, lại thêm có tiếng quạ kêu
Khách trở về , bước vào cửa , trăng sáng vằng vặc
Nghe trong gió ,tiếng chày đập lụa nhà ai , buồn lê thê
Muốn đi xuống miền Nam, qua  Quế Thủy , ngại  sông ít có thuyền bè chở qua
Tính đi lên miền Bắc,  vượt Tần Xuyên,  sợ vùng nhiều trống trận, giặc giã
Tuổi quá nửa trăm rồi mà chuyện đời có được vừa ý đâu
Sáng mai lại , chống gậy lê , đứng nhìn mây trời bay về

Mộ Quy 
PKT 10/03/2013

Hạc trắng sương thu vàng lá rụng ,
Thành chiều mõ điểm quạ kêu vang .
Người về cửa khách, trăng vằng vặc ,
Lụa đập nhà ai , gió ngỡ ngàng.
Ngược Bắc Tần Xuyên, nhiều giặc giã,
Xuôi Nam Quế Thủy , thiếu đò ngang .
Đời người quá nửa ,  tri thiên mạng ,
Mai sáng , đứng nhìn mây kéo sang.

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Hạc đậu cành ngô, lá úa vàng

Trên thành mõ giục ,qua kêu vang

Khách về mở cửa,trăng vằng vặc

Lụa đập nhà ai tiếng rộn ràng

Quế Thủy xuôi Nam ,đò thiếu vắng

Tần Xuyên ngược Bắc giặc tràn lan

Tuổi đời quá nửa lòng chưa toại

Chống gậy nhìn trời mây phủ ngang

SONG  QUANG 

 (1)

TRỞ VỀ LÚC CHIỀU TỐI

Cành ngô xanh hạc trắng sương vàng ,

Qụa rộn trên thành tiếng mõ canh .

Người tới cửa trăng đà sáng quắc ,

Chày nhà ai não nuột đêm thanh .

Xuôi Nam sông Quế khan thuyền khách ,

Ngược Bắc dòng Tần rộn chiến tranh .

Thấm thoát nửa đời tay vẫn trắng ,

Ngày mai lê gậy ngắm mây xanh .(*)

                                                      Mailoc phỏng dịch

(*) chỉ là thơ 7 chử  xin miễn "đối "

(2)

Cành ngô xanh sương vàng hạc trắng ,

Tiếng qụa đêm , mõ vẳng thành đêm .
Tới nhà trăng sáng mông mênh

Chày ai gió lạnh càng thêm não nề .

Xuôi sông Quế thuyền thuê rất khó ,

Ngược dòng Tần lại có chiến tranh .

Nửa đời sự nghiệp chẳng thành ,

Sáng mai lê gậy nhìn quanh mây trời .

                                                Mailoc phỏng dịch

 Thân gởi anh Hữu Đức,

Cám ơn anh đã có hứng thú với thơ Ngô Thể. Sự thật thì Ngô Thể không phải dùng để chỉ một thể thơ chính quy trong thi ca, mà dùng để chỉ một Phong Cách Sáng Tác văn học đặc thù do Đỗ Phủ đề xướng mà thôi.

Người đời Tống gọi là " Ảo Tự Thi " 拗字詩, hoặc "Ảo Thể " 拗體 ( chữ ẢO có nghĩa là Trúc trắc, trẹo lưỡi khó đọc ). Đến đời Thanh, thì Quế Phức gọi là " Ngô Quân Thể ", căn cứ vào thi nhân Ngô Quân đời Lương ( một nước trong thời Lục Triều trước đời Đường ), lúc bấy giờ Luật Thơ chưa thành hình, nhưng ông đã chú ý đến Bằng Trắc trong thơ Ngũ Ngôn, mặc dù chưa có Niêm Luật như đời Đường sau nầy, nhưng lời thơ đã thanh thoát suông sẽ mỹ lệ, nên được mọi người hưởng ứng mô phỏng, gọi là Ngô Quân Thể. Nhưng Quế Phức đã nhầm, vì lúc bấy giờ Luật Thi chưa được thành hình, và vì nếu mô phỏng Ngô Quân, thì Đỗ Phủ đã chú là " Ngô Quân Thể " rồi, tại sao chỉ nói gọn là " Ngô Thể " ?!

Khi ở Quỳ Châu, vì  có ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên  Đỗ Phủ mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Như ta đã biết 2 bài " SẦU " và " MỘ QUY ", mặc dù bức phá Niêm Luật, nhưng 2 cặp Thực và Luận đều công đối rất tề chỉnh, như :

.........   

 客子入門月皎皎,  Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,   

誰家搗練風淒淒。  Thùy gia đão luyện phong thê thê.

南渡桂水闕舟楫,  Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp,   

北歸秦川多鼓鼙。  Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.   

..............................

 và... câu chú thích trong bài đầu tiên " Cưởng hí vi Ngô Thể "( Cưởng là Gượng ép, nên Cưởng Hí có nghĩa là Đùa chơi, Đùa Dai, là thơ làm theo thể Ngô ).   

Chữ NGÔ là Họ Ngô, nước Ngô, đồng âm với chữ NGÔ là Tôi. Nên, NGÔ THỂ 吾體 còn có nghĩa là Thể Thơ Của TÔI. và theo âm Quan Thoại, chữ NGÔ còn đồng âm với chữ VÔ , nên NGÔ THỂ cũng là VÔ THỂ 無體, tức là Không Theo Thể Thơ Nào Cả ! Đây có thể là một cách CHƠI CHỮ của Đỗ Phủ mà thôi :

" Cưởng hí vi Ngô Thể " là " Làm chơi theo thể của Tôi ", hoặc " Làm chơi không theo thể nào cả "....  Nhưng vì tiếng tăm của Đỗ Phủ rất lớn, nên trước sau đã có đến  6 nhà thơ hưởng ứng làm theo " Ngô Thể " nầy, gồm có Bì Nhựt Hưu, Lục Quy Mông đời Đường, Hoàng Đình Kiên, Hồ Đạm Yêm và Lục Du đời Tống, cuối cùng là Biên Liên Bảo đời Thanh.

Ta thử đọc một bài của Lục Quy Mông theo Ngô Thể nhé !

陸龜蒙: 新秋月夕客有自遠相尋者作吳體二首以贈
Lục Quy Mông : TÂN THU NGUYỆT TỊCH KHÁCH HỮU TỰ VIỄN TƯƠNG TẦM GIẢ Tác Ngô Thể Nhị Thủ Dĩ Tặng.

   其一                                 Kỳ Nhất
風初寥寥月乍滿,
   Phong sơ liêu liêu nguyệt sạ mãn,
杉篁左右供餘清。
   Sam hoàng tả hữu cung dư thanh.
因君一話故山事,
   Nhân quân nhất thoại cố sơn sự,
憶鶴互應深溪聲。
   Ức hạc hỗ ưng thâm khê thinh.
雲門老森定未起,
   Vân môn lão sâm định vị khởi,
白閣道士遙相迎。
   Bạch các đạo sĩ dao tương nghinh.
日聞羽檄日夜急,
   Nhựt văn vũ hịch nhựt dạ cấp,
掉臂欲歸岩下行。
   Điếu(trạo) bích dục quy nham hạ hành.
       
其二
                                 Kỳ Nhị
驚聞遠客訪良夜,
   Kinh văn viễn khách phỏng lương dạ,
扶病起坐綸巾攲。
   Phù bệnh khởi tọa luân cân khi.
清談白紵思悄悄,
   Thanh đàm bạch trữ tư tiểu tiểu,
玉繩銀漢光離離。
   Ngọc thằng Ngân hán quang ly ly.
吳煙霧且如此,
   Tam Ngô yên vụ thả như thử,
百越琛賮來何時。
   Bách Việt thâm tận lai hà thì.
林端片月落未落,
   Lâm đoan phiến nguyệt lạc vị lạc,
強慰別情言後期。   Cưởng ủy biệt tình ngôn hậu kỳ.

Đã đến giờ đi làm, hẹn thơ sau nói tiếp.
                                                           Thân mến,
                                                        Đỗ Chiêu Đức

Công Nguyên 768 ( Năm Đại Lịch thứ 3 vua Đường Đại Tông ), lúc bấy giờ Đỗ Phủ đã 57 tuổi, đang ở Hồ Bắc. Trước đó, khi ở Quỳ Châu ông rất chú trọng đến Luật thơ và đã làm rất nhiều bài thơ Niêm Luật thật nghiêm cẩn, như 8 bài Thu Hứng....Đồng thời cũng trong thời gian nầy, ông có ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Một hôm, ông làm ra một bài thơ Phi Cổ Phi Luật ( không phải Cổ Thi mà cũng không phải Luật Thi ) có tựa là " SẦU " , phía dưới ghi chú là " Cường hí vi Ngô Thể " ( Đùa rằng đây là thơ NGÔ THỂ ). Tiếp đó , ông lại làm thêm 17, 18 bài như thế nữa, và vì thế mà trong Đường Thi lại thêm một thể loại : Thơ NGÔ THỂ.
         " MỘ QUY "
《暮歸》
chính là thơ Ngô Thể được Đỗ Phủ làm khi đang ở Hồ Bắc .
                     
暮歸
                            MỘ QUY
                      
杜甫
                                    Đỗ Phủ.
   
霜黄碧梧白鶴棲,
  Sương hoàng bích ngô bạch hạc thê,
   
城上擊柝複烏啼。
  Thành thượng kích thác phục ô đề.
 客子入門月皎皎,
  Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,
   
誰家搗練風淒淒。
  Thùy gia đão luyện phong thê thê.
 南渡桂水闕舟楫,
  Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp,
   
北歸秦川多鼓鼙。
  Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.
 年過半百不稱意,
  Niên quá bán bách bất xứng ý,
   
明日看雲還杖藜。  Minh nhựt khan vân hoàn trượng lê.

 Chú Thích :
         Hoàng : Còn đọc là HUỲNH, màu vàng, ở đây là Động Từ, nê có nghĩa là Làm Cho Vàng, Nhuộm Vàng.
     Thác : là Cái Mõ Canh, nên Kích Thác : Gõ Mõ Canh .
        Nguyệt Giảo Giảo : là Trăng sáng vằng vặc.
        Đão Luyện : Dùng chày để đập cho tơ mềm ra để giặt cho thành lụa, chuẩn bị may áo mùa đông.
         Phong Thê Thê : Gió hắt hiu.
         Tiếp : là Mái Chèo. Khuyết Chu Tiếp : là Thiếu Mái Chèo của Thuyền. Không phải là thuyền không có mái chèo, mà là không có TIỀN để thuê một thuyền chèo.
         Cổ Bề : là Trống trận. Đa Cổ Bề : Nhiều trống trận. Có nghĩa : Có nhiều trận đánh nhau với quân Thổ Phồn.
         Trượng Lê : Chống gậy Lê. Lê là một loại thảo mộc, có thân cứng và dẽo như Cây Mây, nên dùng làm gậy cho chắc và nhẹ.

 Dịch Nghĩa :

  CHIỀU VỀ  ( Nhà Trọ )
         Bạch Hạc đậu trên cành ngô đồng đã vàng lá vì sương thu lạnh lẽo, trên thành tiếng mõ đã bắt đầu điểm canh lẫn với tiếng quạ kêu sương. Khách trở về nhà trọ, vào cửa trong lúc ánh trăng đã vằng vặc ngoài trời, trong khi đó tiếng chày giặc lụa của nhà ai còn vang vang trong gió thu hiu hắt. Ta muốn xuôi Nam qua dòng Quế Thủy nhưng lại không đủ sức thuê thuyền, muốn trở về đất Bắc ở Tần Xuyên thì giặc giã chiến tranh, trống trận nổi lên liên miên không dứt. Quá nửa đời người không có chuyện gì xứng ý toại lòng cả ! Thôi thì, ngày mai lại phải chống gậy mà ngắm mây trời xa xa để thương nhớ về cố hương mà thôi !

Diễn Nôm :

                  CHIỀU VỀ
                  Hạc trắng đậu cành ngô vàng sương lạnh,
                  Quạ đen kêu tiếng mõ báo canh tàn.
                  Khách vào nhà đón trăng sáng miên mang
                  Tiếng chày giặt lẫn gió buồn thê thiết.
                  Muốn về nam không tiền xuôi Quế Thủy,
                  Bắc Tần Xuyên giục giã trống quân vang.
                  Quá năm mươi còn lưu lạc chưa an ,     
                  Ngày mai lại gậy lê nhìn mây trắng !
                                                                  Đỗ Chiêu Đức.

  Sầu - Cưỡng hí vi Ngô thể    

 Sầu - Cưỡng hí vi Ngô thể - 愁-強戲為
của Đỗ Phủ, người dịch: Nhượng Tống
  
 

 

 

Nguyên văn chữ Hán

Phiên âm Hán-Việt

Bản dịch của Nhượng Tống

愁-強戲為吳體

江草日日喚愁生,
巫峽泠泠非世情。
盤渦鷺浴底心性,
獨樹花發自分明。
十年戎馬暗萬國,
異域賓客老孤城。
渭水秦山得見否,
人經罷病虎縱橫。

Sầu - Cưỡng hí vi Ngô thể

Giang thảo nhật nhật hoán sầu sinh,
Vu Giáp linh linh phi thế tình.
Bàn oa lộ dục để tâm tính,
Độc thụ hoa phát tự phân minh.
Thập niên nhung mã âm vạn quốc,
Dị vực tân khách lão cô thành.
Vị thuỷ Tần sơn đắc kiến phủ,
Nhân kinh bãi bệnh hổ tung hoành.

Sầu - Đùa làm theo thể Ngô

Cỏ sông ngày ngày khéo gọi sầu
Non Vu lạnh ngắt muốn trêu nhau
Cây một hoa nở ra rực rỡ
Nước xoáy cò lội thấy đục ngầu
Mười năm muôn nước loạn dài mãi
Đất lạ thân già ốm bấy lâu
Sông Vị núi Tần về chẳng được
Người thì mệt lử, hùm nhâu nhâu.

 

CHIỀU TRỞ VỀ NHÀ

Hạc đậu cành ngô lá úa sương

Quạ kêu xen tiếng mõ canh trường

Khách về, cửa mở, trăng vằng vặc

Lụa đập, gió đưa, nỗi cảm thương

Lên Bắc- Tần Xuyên- nhiều trống giặc

Xuống Nam - Quế Thủy- ít đò thương

Đời người quá nửa , chưa như ý

Sáng đến nhìn mây dạ vấn vương.

Lộc Mai

 

Buồn- Đành Đến Với Thể Song thất Lục Bát
 
Cỏ sông buồn ngày ngày réo gọi

Hẻm Vu Sơn tối tối trêu ai

Sóng cuồng cò tắm mê say

Kia rồi một đóa hoa khai trên cành

Mười năm loạn muôn dân nặng gánh

Khổ thân già ốm lạnh tha phương

Núi Tần sông Vị nhớ thương

Một mai thoát bệnh cọp dương danh hùng

Quên Đi

________________________________________________

 

THU TỨ                                                     

  TL_AutumnForest.jpg

Cùng Bạn

Trời đã thật sự vào thu ! Cali buổi sáng mây giăng mờ ,buổi trưa nắng cũng  nghiêng nghiêng  ui ui ,yếu ớt , buổi chiều  hơi thu lành lạnh , với gió heo may , buồn buồn khó tả . Bài thơ ý thu dưới đây của Bạch cư Dị chỉ võn vẹn 8 câu mà diển tả đủ thứ , từ trời trăng mây nước , tiếng động mùa thu ... kể cả nỗi lòng mình ; đọc xong tôi thật ngẩn ngơ , xin mời Bạn cùng chia xẻ.

Thu Tứ 
Nguyên tác: Bạch Cư Dị








滿





Thu Tứ

Tịch chiếu hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất nhất
Cung thế nguyệt sơ tam
Nhạn tứ lai thiên bắc
Châm sầu mãn thủy nam
Tiêu điều thu khí vị
Vị lão dĩ thâm am

Bạch Cư Dị

--Dịch Nghĩa--

(ý thu)

(nắng chiều chiếu ánh đỏ như thiêu đốt)
(bầu trời tạnh ráo sắc xanh nhiều hơn sắc lam)
(mây đổi thay hình dạng các thú vật)
(trăng mùng ba có hình cánh cung)
(ý nhạn muốn bay lên mạn bắc)
(tiếng chầy làm buồn bã vùng sông phía nam)
(khí vị mùa thu thực là buồn bã)
(chưa già nhưng đã hiểu biết nhiều)

--Bản dịch của MaiLộc--

Ý Thu

Nắng chiều hồng mặt trời đỏ thắm

Xanh biếc trời vương vấn chút lam .

Trong mây hình thú hợp tan

Mồng ba , liềm mỏng trăng đang tượng hình .

Ngóng về bắc viễn chinh cánh nhạn

Tiếng chày buồn lãng đãng sông Nam .

Hơi thu sầu thảm không gian

Chưa già mà đã mênh mang hiểu đời .

Mailoc phỏng dịch

Cali 9-22-13 

Ý  THU (xin phỏng dịch)

Nắng chiều thiêu đốt bóng ngày tan

Trời ửng màu xanh ẩn chút lam

Mây đổi dạng hình muôn vạn thú

Trời thay lưỡi hái mồng ba trăng.

Nhạn tung cánh mỏi về phương Bắc

Chày vọng sông buồn vẳng phía Nam

Cảnh vật mùa thu hiu quạnh quá

Chưa già mà hiểu biết mênh mang.

Quang Tuấn 22/9/13

Cảm Nhận Mùa Thu

Nắng chiều như lửa đỏ
Xanh biếc khoảng trời trong
Mây biến hình muôn thú
Mùng Ba dáng nguyệt cong
Nhạn mơ về mạn bắc
Chày nhịp buồn nam sông
Xơ Xác tình thu úa
Trẻ nhưng trí chẳng nông

                          Quên Đi

  HƠI THU

Đỏ rực ráng ngời như lửa thiêu

Bầu trời xanh loãng sắc lam chiều

Mây mang dạng thú muôn hình vẻ

Trăng uốn liềm cong một bóng xiêu

Chầy nhịp sông Nam âm khắc khoải

Nhạn về phương Bắc dáng cô liêu

Hơi thu ảm đạm sầu giăng ngập

Chưa lão, lòng đầy nỗi tịch liêu.

Lộc Mai

                                         Ý  THU

Nắng vàng rực đỏ lúc chiều buông !

Xanh biếc da trới điểm sắc trong

Mây đổi hình thù muôn vạn thú

Trăng mùng ba ló dạng cung cong

Nhạn bay về bắc dang đôi cánh

Chày nhịp phương nam vọng bên sông

Cảnh vật  hơi thu sầu quạnh quẻ

Đâu già sự việc hiểu càng thông ! 

SONG  QUANG

Kính Thầy,

   " Thu Tứ " của Bạch Cư Dị mà Thầy nêu lên là bài 2. Sau đây em xin " trình làng " cả 2 bài tìm thấy trên mạng như sau :

                   秋思                     THU TỨ
                 白居易
                  Bạch Cư Dị
 
其一:           Bài 1 :

  病眠夜少夢,      Bệnh miên dạ thiểu mộng,
       
閑立秋多思。
      Nhàn lập thu đa tứ.
  寂寞馀雨晴,
      Tịch mịch dư vũ tình,
        
蕭條早寒至。
      Tiêu điều tảo hàn chí.
  鳥棲紅葉樹,
      Điểu thê hồng diệp thụ,
        
月照青苔地。
      Nguyệt chiếu thanh đài địa.
  何況鏡中年,
      Hà huống kính trung niên,
        
又過三十二。      Hựu quá tam thập nhị.

  其二:           Bài 2 :

  夕照紅於燒,      Tịch chiếu hồng ư thiêu,
       
晴空碧勝藍。
      Tình không bích thắng lam.
  獸形雲不一,
      Thú hình vân bất nhất,
        
弓勢月初三。
      Cung thế nguyệt sơ tam.
  雁思來天北,
      Nhạn tứ lai thiên bắc,
       
砧愁滿水南。
      Châm sầu mãn thủy nam.
  蕭條秋氣味,
      Tiêu điều thu khí vị,
        
未老已深諳。      Vị lão dĩ thâm am.

 Dịch nghĩa :
                                  
TỨ THU
        Bài 1 : 

  Vì bệnh hoạn nên đêm ngủ mê man ít mộng mị, đứng một mình trong cảnh thu nên nhiều ưu tư. Sau cơn mưa, nắng lên trong trong hoang vắng tịch liêu, cảnh trí tiêu điều trong cái hơi lạnh đến sớm. Chim chóc đậu trên những cây lá đã trở màu đỏ, và ánh trăng chiếu lên những mảng rêu xanh trên mặt đất. Huống gì tuổi tác trong gương cũng đã qua tuổi trung niên  ( tuổi đã vào thu, lúc bấy giờ tuổi thọ của người đời chỉ khoảng 45 ), giờ lại qua tuổi 32 rồi !       
 
 
     Bài 2 :
                     Ráng chiều làm cho phía trời tây đỏ rang như cháy, Trời quang mây tạnh nên bầu trời xanh biếc hơn lam. Ngàn đám mây nổi muôn hình dạng trạng như muôn thú thay đổi bất nhất, Trăng mùng 3 treo nghiêng nghiêng thế tựa cánh cung. Nhạn đã bay xuống nam còn nhớ về trời bắc. Tiếng chày giặt áo bên sông buồn buồn vang lên bên sông nước tràn đầy bờ phía nam. Trong cảnh tiêu điều buồn bã nầy đã có chút gì hơi hám của mùa thu phảng phất, Chưa già nhưng đã âm thầm thấu hiểu một cách sâu xa cái ý vị của mùa thu !  

 Diễn Nôm :
                                
Ý  THU
                   Bệnh hoạn mê mang không mộng,
                   Nhàn trông nên lắm ý thu.
                   Tịch mịch sau mưa nắng chiếu,
                   Tiêu điều sớm lạnh gió ru.
                   Chim hót trên cành lá đỏ,
                   Trăng soi mặt đất rêu đầy.
                   Trông gương tuổi đời đã luống,
                   Qua rồi tam thập nhị đây.
                                 ..........
                   Ráng chiều đỏ rang như cháy,
                   Xanh lơ trời thẳm hơn lam.
                   Vạn trạng thú hình mây nổi,
                   Như cung trăng đã sơ tam.
                   Nhạn nam mơ về đất bắc,
                   Chày buồn nước ngập sông nam.
                   Tiêu điều hơi thu hiu hắt,
                   Chưa già cảm xúc sớm am !
                                                       Đỗ Chiêu Đức.      

       

 

Lữ Dạ Thư Hoài - Đỗ Phủ

Miên man trong dòng thơ Đỗ Phủ , bài Lữ Dạ Thư Hoài , những gì dành trọn cả một thời xuân theo đuổi,  không thành , bỗng dưng nay lại trở nên vô nghĩa . Chỉ còn là trước mặt một khoảng trống mênh mang và trong lòng, một nỗi cô đơn cùng cực của một đời người lúc về già. Như Tô Đông Pha (1037 - 1101) trong một từ khúc : " Phiếu điểu cô hồng ảnh ...Tịch mịch sa châu lãnh ". Một bóng chim hồng lẻ loi trong vùng trời phiêu lãng ...Cồn sông cát lạnh im lìm.  PKT 09/24/2013

Lữ Dạ Thư Hoài
Đỗ Phủ (712 - 770)

Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu
Tinh thùy bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất sa âu

Dịch Xuôi :

Đôi Dòng Tâm Sự Trong Một Đêm Ở Nơi Đất Khách
PKT
09/24/2013

Bờ cỏ xanh non trong làn gió thoảng nhẹ
Một con thuyền với chiếc cột buồm cao lẻ loi giữa đêm vắng
Sao trời rũ chùm , trông như muốn rụng xuống cánh đồng hoang bát ngát
Ánh trăng tan tràn lan trên dòng sông lớn đang cuồn cuộn trôi
Ta há cầu danh bằng trước tác văn chương sao
Còn làm quan mà già yếu bệnh hoạn thế này thì cũng nên về nghỉ cho rồi
Thân phận lênh đênh , thật tình ta  giống như cái gì đây nhỉ
Một con chim âu, lạc bầy, đứng chơ vơ trên cồn cát lạnh, giữa đất trời

Lữ Dạ Thư Hoài
PKT 09/24/2013

Bờ cỏ non phất phơ làn gió nhẹ ,
Cột buồm cao lạc lõng giữa đêm thâu.
Vòm sao rụng ngập đầy cánh đồng vắng,
Sóng trăng tan cuồn cuộn trôi về đâu ?
Há cầu chút danh văn chương phù phiếm  ,
Thôi ,già yếu rồi ,từ quan cho xong.
Cái thân long đong ,nửa đời phiêu bạt ,
Con âu bóng lẻ , trời đất mênh mông !

Recording My Thoughts While Traveling At Night
Translated By Red Pine - Poems Of The Masters
 
A shore of thin reeds in light wind ,
a tall boat alone at night ,
stars hang over the barren land ,
the moon rises out of the Yangtze .
How could writing ever lead to fame ,
I quit my post due to illness and age ,
drifting along what am I like ,
a solitairy gull between Heaven and Earth ,
 
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Nỗi Niềm Đêm Đất Khách
(1)

Ven bờ cỏ dợn , gió hiu hiu

Thuyền lẽ , buồm đêm lướt sóng triều .

Đồng vắng , trời cao sao lấp lánh ,

Trăng rơi , sông rộng nước cuồn lưu .

Văn chương siêu thoát danh lừng lẫy ?

Bệnh hoạn tuổi già  phải cáo hưu .

Bỗng thấy phiêu phiêu vòng tục lụy ,

Mênh mông trời đất cánh chim chiều .
                                          Mailoc phỏng dịch

  (2)

Bờ cỏ non , vờn theo gió nhẹ

Cánh buồm đêm lặng lẽ trời đêm .

Đồng hoang sao rụng mông mênh ,

Ánh trăng loang loáng cuộn trên sông dài .

Danh tiếng hẳn văn tài lừng lẫy ,

Tuổi về chiều bệnh phải cáo hưu .

Chơi vơi giữa chốn hoang liêu ,

Bao la trời đất cánh diều cô đon .

                                     ML

BUỒN THU ĐÊM XA XĂM

              Cỏ xác xơ bờ vắng
              Buông thuyền đêm dài ghê
              Ngàn sao buồn rơi rụng
              Trăng trôi sông lạnh tê
              Văn chương danh suông hão
              Lão bệnh cũng nên về
              Chơi vơi đi đâu nữa
              Cánh chim âu mỏi mê

                        C.D.M.

Đêm Đất khách

Cỏ non phơ phất gió đưa

Lẻ loi buồm gió chèo khua đêm dài

Đồng hoang sao rụng u hoài

Ánh trăng tan giữa sông ngài ngại trôi

Lợi danh phù phiếm trong đời

Tháng năm già yếu thật rồi từ quan

Nửa đời phiêu bạt lang thang

Một con chim lẻ lạc đàn về đâu ?

 Trầm Vân

 Tháng Tư Vĩnh Thái nguyên niên ( 765 ), Nghiêm Võ tạ thế, Đỗ Phủ mất nơi nương tựa. Tháng 5, Mới dắt díu gia quyến xuống thuyền rời khỏi Thành Đô sau 5 năm định cư nơi đất Thục, xuôi về đông, phiêu bạc trên Miên Giang Trường Giang một giải. Khoảng sau Trung Thu năm đó, lại tiếp tục đi xuống Vân An ( Nay là Vân Dương ). Chính trên đường đi nầy, ông sáng tác bài " Lữ Dạ Thư Hoài " (  Viết về những hoài cảm của mình trên bước lữ hành ), để nói lên cái cảm khái của một đời phiêu bạc, có tài nhưng lại chẳng gặp thời !

  旅夜書懷           LỮ DẠ THƯ HOÀI

細草微風岸,    Tế thảo vi phong ngạn,
危檣獨夜舟。
    Nguy tường độc dạ chu.
星垂平野闊,
    Tinh thùy bình dã khoát,
月湧大江流。
    Nguyệt dũng đại giang lưu.
名豈文章著?
    Danh khởi văn chương trứ ?
官應老病休。
    Quan ưng lão bệnh hưu.
飄飄何所似?
    Phiêu phiêu hà sở tự ?
天地一沙鷗。
    Thiên địa nhất sa âu.
      
杜甫                     Đỗ Phủ.

Dịch Nghĩa :

                    HOÀI CẢM ĐÊM LỮ HÀNH.  

        Gió hiu hiu thổi lên đám cỏ non bên bờ sông, đêm xuống, thuyền đậu bến, ta ngồi dưới cột buồm cao cao nhìn bầu trời đầy sao lắp lánh, nên cảm thấy cánh đồng trước mắt như mênh mông hơn. Bóng trăng dường như từ trong nước chiếu ra lắp lánh theo dòng. Văn chương có phải làm nên được tiếng tăm chăng? Quan trường thì vì bệnh tật mà phải cáo hưu. Một đời phiêu bạc khắp nơi với mục đích gì đây ? Chỉ còn lại cảm giác cô đơn như cánh hãi âu cô độc trong trời đất mênh mông mà thôi !

  Lấy cột buồm cao cao so sánh với thân lẻ loi cô độc của mình, lấy bầu trời cao với trăng sao để thấy sự nhỏ nhoi của con người, lại lấy cánh đồng mênh mông để giải bày uẩn khúc ở nội tâm. 4 câu đầu là " LỮ DẠ ", lấy cảnh để ngụ tình. 4 câu sau là " THƯ HOÀI ", nói lên cái hoài bảo và cảm xúc của mình, không ngờ là nhờ văn chương mà được nổi tiếng, trong khi chính trường thì vì bệnh tật, già cả mà phải bị từ quan, thương cảm cho tấm thân phải phiêu bạc khắp nơi không nơi nương tựa, lời thơ bi thiết như tiếng thở dài !...

 Diễn Nôm :
                    Vi vút gió đùa cỏ dại,
                    Cao cao buồm trống cột không.
                    Sao trời như chùn xuống thấp,
                    Nước trăng lắp lánh về đông.
                    Văn chương làm nên danh giá ?
                    Lão bệnh quan trường hết mong,
                    Phiêu bạt phương trời ai biết ?
                    Hải âu, trời biển mênh mông !
                                                        Đỗ Chiêu Đức

 ĐÊM THU BUỒN LỮ QUÁN

Gió nhẹ thổi phất phơ đấu ngọn cỏ

Cột buồm cao trơ trọi giữa đêm sương

Có chùm sao rơi rung xuống đồng hoang

Trăng loang loáng trên dòng sông cuộn chảy

Mưu danh lợi bằng văn chương sao phải ??

Thân đã già nên cáo bệnh từ quan

Sống lênh đênh, đời lữ khách lang thang

Như trong bão có chim âu lạc bạn.

SONG  QUANG

________________________________________________________________

 

Phong vũ vãn bạc


 

Cùng Bạn ,

Chiều thứ bảy buồn , đọc bài thơ nầy lòng tôi vô cùng cảm khái ,phỏng dịch gởi đến bạn thân đọc chơi . Qua cảnh vật nên thơ của Đất Trời  , thi nhân cảm xúc gởi lòng mình qua vài câu thơ nhưng nghe thấm thía vô cùng .

Thân mến

Mailoc

 

Phong vũ vãn bạc

Nguyên tác: Bạch Cư Dị

風雨晚泊

白居易


苦竹林邊蘆葦叢
,
停舟一望思無窮
.
青苔撲地連春雨
,
白浪掀天盡日風
.
忽忽百年行欲半
,
茫茫萬事坐成空
.
此生飄蕩何時定
?
一縷鴻毛天地中.


Phong vũ vãn bạc

Bạch Cư Dị


khổ trúc lâm biên lô vi tùng,
đình chu nhất vọng tư vô cùng .
thanh đài phác địa liên xuân vũ,
bạch lãng hiên thiên tận nhật phong.
hốt hốt bách niên hành dục bán,
mang mang vạn sự toạ thành không.
thử sinh phiêu đãng hà thì định?
nhất lũ hồng mao thiên địa trung.

-Bản dịch của Tản Đà

Rừng tre khóm sậy thú bên sông
Đỗ lại con thuyền bát ngát trông
Mưa cữ, rêu xuân xanh đất giải
Ngày thâu, sóng gió bạc trời
tung
Trăm năm phút chốc toàn non nửa
Muôn việc trần gian có hoá không
Xiêu giạt bao giờ yên chốn nhỉ ?
Sống trong trời đất một lông hông

--Bản dịch của MaiLộc—

Bên bờ lau , trúc tre xào xạc ,

Buộc con thuyền , bát ngát vời trông .

Mưa xuân đất phủ rêu phong

Suốt ngày sóng gió bọt tung trắng trời .

Tuổi trăm năm nửa đời chớp nhoáng ,

Muôn việc trần thấp thoáng có không .

Bao giờ thôi hết bềnh bồng ?

Giữa trời lơ lửng lông hồng nhẹ tênh .

              ĐẬU THUYỀN CHIỀU MƯA GIÓ

          Bụi lau khóm trúc giữa mênh mông
          Thuyền nhỏ xa mờ lãng đãng trông
          Mưa suốt mùa xuân rêu xanh sắc
          Ngày dài gió lộng sóng không cùng
          Trăm năm chớp mắt qua già nửa
          Muôn việc rồi ra cũng hoá không
          Rốt lại đời ta lang thang mãi
          Như lông hồng lơ lửng từng không

                               C.D.M.
 
 
SQ cũng xin mua vui cùng các bạn "vườn thơ thẩn"

Để không vượt qua ý người xưa,SQ cũng chỉ lượm lặt ghép lại mà thôi.Mong lượng thứ.SQ

  GIÓ MƯA TỰ VẤN

 Ven bờ lau sậy mọc thong dong

Một chiếc thuyền con dõi mắt trông

Mưa đổ tiết Xuân rêu sắc thắm

Gió lay ngày cuối sóng lung tung

Trăm năm mấy chốc, giờ hơn nữa

Vạn sự rồi qua , có tựa không

Phiêu lãng bao giờ ta cố định ???

Đất trời nhẹ thể một lông hồng !!

  SONG QUANG

風雨晚泊                PHONG VŨ VÃN BẠC
               
白居易
                                    Bạch Cư Dị
苦竹林邊蘆葦叢,
    Khổ trúc lâm biên lô vi tùng,
停舟一望思無窮。
    Đình chu nhất vọng tứ vô cùng.
青苔撲地連春雨,
    Thanh đài phác địa liên xuân vũ,
白浪掀天盡日風。
    Bạch lãng hiên thiên tận nhật phong.
忽忽百年行欲半,
    Hốt hốt bách niên hành dục bán,
茫茫萬事坐成空。
    Mang mang vạn sự tọa thành không.
此生飄蕩何時定?
    Thử sanh phiêu đãng hà thời định ?
一縷鴻毛天地中.        Nhất lũ hồng mao thiên địa trung.

 Chú Thích :
       Khổ Trúc : Tên một loại tre, như cây lồ ồ của ta.
       Phác địa : Phủ đấy đất.
       Hiên Thiên : Cuốn lên trời.
       Hốt Hốt : Bổng chốc, Vội vả.
       Mang Mang : Mênh mông , Mờ Mịt, Mơ hồ.
       Nhất Lũ Hồng Mao : Một sợi lông hồng.

Dịch Nghĩa :
                   ĐẬU THUYỀN ĐÊM MƯA GIÓ.
          Bên rừng tre sát ven bờ lao sậy, ta dừng thuyền bên bến nhìn cảnh vật mà tâm tư xúc động vô cùng. Rêu xanh phủ đầy đất trong bầu trời lấm tấm mưa xuân, ngoài khơi sống bạc đầu như cuốn đến tận chân trời trong cơn gió lộng suốt ngày. Cuộc đời trăm năm thoáng chốc mà đã qua hết phân nửa rồi, và muôn sự ở đời như mênh mông mờ mịt chẳng có thành đạt gì. Cuộc sống phiêu bạc nổi trôi nầy phải đến lúc nào mới ổn định được đây ? Ôi thân ta khác nào sợi lông hồng đang lãng đãng phiêu bồng trong trời đất.
 
  Diễn Nôm :
                         Rừng trúc xạt xào khua lao sậy,
                         Dừng thuyền cảm xúc cảnh vô cùng.
                         Rêu xanh phủ đất mưa xuân ướt.
                         Sóng bạc ngất trời gió lộng tung.
                         Thoáng chốc trăm năm đà quá nửa,
                         Mơ hồ vạn sự cũng thành không.
                         Kiếp nầy phiêu bạc khi nào nghỉ ?
                         Một sợi tơ trời lãng đãng trông. 
                                                           Đỗ Chiêu Đức.           

 Thưa quí Thi hữu
 
Tôi xin cố gắng nương theo ý tác giả được  gần chừng nào hay chừng nấy mà dich bài này để cùng nhau góp vui với qui bạn

Thân chào
 Quang Tuấn
 
 
NEO THUYỀN TRÊN BẾN MƯA
 
Lau trúc mọc đầy khắp dải sông
Cho thuyền đỗ bến xa vời trông.
Mưa Xuân dầm đất rêu xanh biếc
Gió lộng tung trời sóng trắng trong.
Thấm thoát trăm năm qua quá nửa
Miên man vạn sự trở thành không.
Bao giờ yên ổn đời phiêu lãng?
Nhẹ bổng chiếc lông cõi mịt mùng .
 
Quang Tuấn
  

 Quên Đi xin góp đôi dòng:

Đường hoạn lộ của Bạch Cư Dị cũng lắm gian nan. Đang tước trọng quyền cao ở triều đình, từ từ bị giáng xuống làm một viên quan coi việc quân ở tận huyện Giang Châu. Có phải đây lả tâm trạng của Ông trong bài "Phong Vũ Vãn Bạc"?

     
風雨晚泊                Phong vũ vãn bạc

              白居易                               Bạch Cư Dị

苦竹林邊蘆葦叢,
Khổ trúc lâm biên lô vĩ tùng
停舟一望思無窮。
Đình chu nhất vọng tứ vô cùng
青苔撲地連春雨,
Thanh đài phác địa liên xuân vũ
白浪掀天盡日風。
Bạch lãng hiên thiên tận nhật phong
忽忽百年行欲半,
Hốt hốt bách niên hành dục bán
茫茫萬事坐成空。
Mang mang vạn sự tọa thành không
此生飄蕩何時定,
Thử sinh phiêu đãng hà thời định
一縷鴻毛天地中
    Nhất lũ hồng mao thiên địa trung

Dịch Nghĩa : Neo Thuyền Đêm Mưa Gió
              
Đám sậy cạnh bên rừng tre
Thuyền đã dừng lại, bồi hồi nhìn về chốn xa xăm
Mưa xuân liên tiếp khiến rêu xanh phủ đầy mặt đất
Sóng bạc đầu như được gió nâng lên trời lúc cuối ngày
Thoáng chốc trăm năm đi qua muốn nửa
Tràn ngập muôn việc trên đời lại phải ngồi không
Cuộc sống trôi giạt bao giờ mới ổn định
Hay như những chiếc lông hồng giữa đất trời.

Dịch Thơ :

    
Neo Thuyền Đêm Mưa Gió

Bên cạnh rừng tre chen chúc sậy
Dừng thuyền xao xuyến vợi vời trông

Mưa xuân ẩm đất rêu xanh phủ
Sóng gió nước đùa trắng cả sông
Thoáng chốc trăm năm đà được nửa
Ngập tràn muôn việc lại ngồi không
Bao giờ ổn định thân trôi giạt
Hay mãi lưng trời tựa chiếc lông

                                                Quên Đi

 NEO THUYỀN ĐÊM MƯA

 

Neo thuyền bên đám sậy chen dầy

Ngơ ngẩn nhìn về chốn cuối mây

Thấm đẫm mưa xuân, rêu phủ đất

Tung trào sóng bạc, gió đưa ngày

Nửa đời thấm thoát, chưa yên phận

Mọi việc bời bời, vẫn bó tay

Như chiếc lông hồng trong vũ trụ

Đời ta ổn định lúc nào đây?

                       Lộc Mai

 

Tam Quốc Diễn Nghĩa Đề Từ

Nguyên tác: Dương Thận

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Quên Đi, Chân Diện Mục, Mỹ Hồng

_____________________________________________

 

Được sự đồng cảm trong thơ xưa là một niềm vui. Tôi ngồi chép lại một bài thơ xưa để thay lời cám ơn.Cầu chúc an lành.

PKT 08/22/2013

Tam Quốc Diễn Nghĩa Đề Từ
Dương Thận (1488 - 1559
)

Cổn cổn Trường giang đông thệ thủy
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu không
Thanh sơn y cựu tại
Kỷ độ tịch dương hồng

Bạch phát ngư tiều giang chử thượng
Quán khan thu nguyệt xuân phong
Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng
Cổ kim đa thiểu sự
Đô phó tiếu đàm trung

Ca Từ Mở Đầu Truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa
(Theo điệu Lâm Giang Tiên - Mây Tần- PKT)

Trường Giang cuồn cuộn đổ ra biển
Sóng nổi dìm hết anh hùng
Chính tà thành bại thoắt thành không
Non xanh xưa còn đó
Bao độ nắng chiều hồng !

Đôi bạn ngư tiều trên sông nước
Trăng thanh gió mát rong chơi
Hồ rượu tương phùng chừng đã vơi
Cổ kim thiên hạ sự
Khề khà cười vui thôi !   

PKT

 

Trọc Thanh

Trường Giang nước cuộn đổ về đông

Sóng dập biết bao anh hùng
 
Phải quấy hơn thua tựa bằng không

Non xanh vẫn thế đấy

Mấy lượt ánh ráng hồng

Trọn kiếp ngư tiều trên bãi vắng

Ngắm thời gian chảy theo dòng

Khi gặp cùng vui bên bầu rượu

Sự thế há bận lòng

Cứ tự tại thong dong.

Quên Đi

ĐỀ TỪ TRUYỆN TAM QUỐC
 

 
                            Trường Giang sóng cuộn về Đông
                          Anh hùng lớp lớp sập giòng thời gian
                                    Chẳng còn ai thắng bại 
                                    Như nắm đuốc lụi tàn
                                  Vầng dương sáng rồi tắt
                                    Núi xanh như thi gan
                            Kiếm củi giăng câu bên bến vắng
                            Bạc đầu trơ mặt gió xuân sang
                              Rượu đục một bầu vui gặp gỡ
                                Chuyện xưa nay lan man
                                      Bỏ mặc nhân gian
                                      Nâng chén cười tràn

                                                        C.D.M.

Lãng Quên

Sông dài đổ tận biển khơi

Sóng thời gian cuộn dập vùi hùng anh

Thắng thua, thành hoại tan tành

Núi cao duy vẫn trơ xanh giữa trời

Khi vần dương khuất sau đồi   

Ngư tiều đôi bạn rượu mời nhau vui

Bồng bềnh sóng nước chơi vơi

Trăng thanh gió mát sự đời lãng quên.

 Mỹ-Hồng

 24/08/13

 

 

 

KHUÊ TÌNH

Thơ Lý Bạch

Bản dịch: Mailoc, Chân Diện Mục, Lộc Mai, Quên Đi, VHKT, Danh Hữu, Đỗ Chiêu Đức

Cùng Bạn.

Đã khá lâu thấy vắng bóng góc Đường Thi , nay xin mạn phép gởi đến các Thầy và Bạn một bài thơ của Lý Bach mà tôi vừa phỏng dịch xong để cùng nhau hâm nóng lại mấy vần thơ dịch cho vui .

Kính mến

Mailoc

Khuê tình
Nguyên
tác: Lý Bạch

閨情

流水去絕國。浮雲辭故關。
水或戀前浦。雲猶歸舊山。
恨君流沙去。棄妾漁陽間。
玉箸夜垂流。雙雙落朱顏。
黃鳥坐相悲。綠楊誰更攀。
織錦心草草。挑燈淚斑斑。
窺鏡不自識。況乃狂夫還。

Khuê tình
Lý Bạch 
Lưu thủy khứ tuyệt quốc,
Phù vân từ cố quan.
Thủy hoặc luyến tiền phố,
Vân do quy cựu san.
Hận quân Lưu Sa khứ
Khí thiếp Ngư Dương gian.
Ngọc trợ dạ thùy lưu,
Song song lạc châu nhan.
Hoàng điểu tọa tương bi.
Lục dương thùy cánh phan?
Chức cẩm tâm thảo thảo,
Khiêu đăng lệ ban ban.
Khuy kính bất tự thức,
Huống nãi cuồng phu hoàn.

--Dịch nghĩa:-- 
Tình trong khuê phòng 
Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh
kia còn ai vin nhánh?

Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan!
Soi gương
không còn nhận ra mình nữa,

Huống chi lúc chàng trở về.

 

--Bản dịch của MaiLộc--
Nước trôi mãi về nơi xa vắng ,

Biên thùy xưa mây trắng lưa thưa .

Nước còn lưu luyến bến xưa ,

Mây về núi cũ tình chưa xóa nhòa .

Hận chàng đi Lưu Sa lòng chạnh ,

Thiếp Ngư Dương cô quạnh sầu thương .

Châu sa đũa ngọc đêm trường  ,

Hai dòng lệ thắm vương vương má hồng .

Tiếng oanh hót khiến lòng xao xuyến ,

Liễu tơ xanh chẳng luyến vin cành .

Vẩn vơ , gấm dệt chẳng thành ,

Khêu đèn , thổn thức , long lanh lệ tình .

 

Soi gương không nhận ra mình ,

Chàng về có lẽ càng nhìn càng đau

Mailoc

 

ĐỢI CHÀNG

        Ôi nước lan man xa tít
        Mây ngoài quan ải bơ vơ
        Nước ngoái nhìn mãi bến bờ
        Mây còn tương tư núi xưa
        Chàng dứt áo ra quan ải
        Có còn nghĩ thiếp bơ vơ
        Đêm đêm lệ rơi không dứt
        Chảy tràn trên mặt hoa tàn
        Chim ơi thương ta chăng chớ
        Buồn chuyền cành liễu khóc than
        Cầm thoi tay đưa rời rã
        Sợi rối sợi đứt khôn hàn
        Gương ơi sao mi hiểm thế
        Lòng ta thảng thốt đợi chàng

                        C.D.M.

 

Xin cám ơn anh Mai Lộc đã cho thưởng thức bài thơ KHUÊ TÌNH của thi hào Lý Bạch và bản dịch rất hay của anh. Dựa theo ý của bài thơ, Lộc Mai xin có bài đường luật cảm tác sau đây:

 

LỜI NGƯỜI CÔ PHỤ

 

Nước chảy miên man vẫn giữ nguồn

Mây xa núi cũ bóng còn vương

Giận chàng biền biệt nơi biên ải

Thương thiếp âm thầm chốn cố hương

Khắc khoải thâu đêm, sầu chất ngất

Mỏi mòn suốt sáng, lệ dầm tuôn

Soi gương, thảng thốt nhìn hoa úa

Ôi, buổi người về biết có thương ?

 

Lộc Mai

Khuê Tình

Nước chảy đi cuối xứ
Mây trôi từ ải xưa
Nước chẳng quên bến cũ
Mây sẽ lại non nhà
Giận chàng đến Lưu Sa
Ngư Dương bỏ thiếp lại
Hằng đêm lệ tuôn dài
Dung nhan dần héo úa
Than thở cùng chim oanh
Liễu biếc ai vin cành
Dệt gấm buồn mang mang
Thắp nến lệ hàng hàng
Soi gương tìm dáng cũ
Chàng về thiếp
chẳng an.
Quên Đi

Nước lạnh lùng trôi về bất tận.

Mây hững hờ che lấp ải quan.

Bến cũ, nước vẫn lan man.

Núi xưa, mây phủ mênh mang, là đà.

Hận chàng đến Lưu Sa hoang vắng.

Ở Ngư Dương cay đắng thiếp mong.

Đũa ngọc đêm chảy dòng dòng.

Hai hàng lệ thắm má hồng, ai đang?

Đem đau thương, chim vàng chia sẻ.

Cành dương xanh, ai bẻ cùng ai?

Dệt gấm, lòng mãi u hoài.

Khêu đèn, lệ lại chảy dài đẫm khăn.

Soi gương thấy, da nhăn đã khác.

Huống chi ngày chàng vác cung về.

VHKT

 

 Tình đàn bà

Dòng nước trôi cuối xứ,

Đám mây rời cố quan.

Nước còn yêu nguồn cũ

Mây cũng về cựu san.

Lưu Sa, giận chàng đến;

Ngư Dương, mặc thiếp hàn.

Đêm đêm, lệ ngọc chảy

Hàng hàng, mặt châu lan.

Chim vàng, cũng buồn đậu;

Dương xanh, đâu mơn man.

Gấm dệt, lòng rối rắm,

Đèn khêu, lệ hoen tràn.

Soi gương, ta đâu nhỉ ?

Chàng về, luống mừng ran.

  Danh Hữu dịch

 

Đỗ Chiêu Đức: Góp ý & bản dịch Khuê Tình

          Kính thưa Quý Tiền Bối và Thân Hữu,
              Đến hôm nay Đỗ Chiêu Đức mới có rảnh để tham gia cùng Quý vị về bài thơ KHUÊ TÌNH của Lý Bạch. Xin được góp ý như sau...
              Về câu11 : " Chức cẩm tâm THẢO THẢO ". Ta tìm hiểu về chữ THẢO nhé...
             THẢO
là CỎ, thuộc Bộ Thảo , chỉ chung các loại Thảo Mộc. Cỏ là Cỏ rác, vật không được xem trọng, nên có những nghĩa phát sinh như sau : THẢO là Cái gì đó... rất Sơ Sài, Hời Hợt...
 Ví dụ :
             Bản Thảo : Là Văn bản chưa được sửa chửa và chỉnh trang.
             THẢO một bức thơ, là chưa phải thơ Chính Thức, bức thơ nầy còn phải được viết lại cho đàng hoàng.
             Khi được ghép 2 chữ THẢO thành : Thảo Thảo
草草, thì có nghĩa : Chuyện gì đó chỉ Làm Lấy Có, làm Dối Trá, làm Phức Cho Xong, làm Quấy làm Quá.... Ví dụ :
             Người Hoa có Thành Ngữ : Thảo Thảo Liễu Sự
草草了事, có nghĩa : Làm Sơ Sài cho xong việc. Nên...
             " Chức Cẩm Tâm THẢO THẢO "
織錦心草草
 có nghĩa...
               Ngồi dệt gấm mà lòng Lơ Đễnh để ở đâu đâu. Vì nhớ thương chồng nên ra vào không có việc gì làm, ngồi dệt gấm là dệt cho có, chớ thực tâm không có muốn dệt gấm !...
             Còn một câu cuối nữa...
             Câu 14 :" Huống nãi Cuồng Phu hoàn."
況乃狂夫還。
       CUỒNG
là Mạnh Bạo, Khùng Điên... Vậy...
            CUỒNG PHU
狂夫 là Anh chồng Khùng sao ?! Thưa, không phải ! Đây chỉ là cách Nói Lẫy của bà vợ nhớ chồng quá rồi hóa... Lẫy ! Ta xét thêm nghĩa của câu 13 nữa nhé...
             Khuy kính bất tự thức,
窺鏡不自識 là " Nhìn vào gương mà mình cũng không biết là mình " Vì nhớ chồng quá nên dung nhan tiều tụy võ vàng, ngay cả mình cũng không nhận ra mình, nên mới...
            " Huống nãi Cuồng Phu hoàn."
況乃狂夫還。
       ......Sợ " thằng chồng Gàn Dỡ của mình cũng không chịu nhìn ra mình nữa ! Chính mình còn không nhận ra mình, Huống Hồ thằng chồng Cà Chớn của mình khi về, biết Nó có chịu nhìn mình hay không ?! Rõ khổ !!!...Đây chỉ là một kiểu MẮNG YÊU mà thôi !
           Bây giờ thì Đỗ Chiêu Đức xin được góp bài dịch như sau :

 

                           TÌNH KẺ PHÒNG KHUÊ


                              Nước trôi trôi biền biệt,
                              Mây bay khuất ải quan.
                              Nước còn mơ bến cũ,
                              Mây vẫn nhớ núi ngàn.
                              Hận chàng Lưu Sa biệt,
                              Bỏ thiếp giữa Ngư Dương.
                              Đêm nhỏ hai hàng lệ,
                              Song song ướt má hường.
                              Oanh vàng buồn thôi hót,
                              Liễu xanh chẳng kẻ màng.
                              Khung gấm lòng lơ đễnh,
                              Chong đèn lệ chứa chan.
                              Soi gương không nhận bóng,
                              Huống chi anh chồng gàn !!!
           Lục bát :
                              Nước trôi cố quốc xa rồi,
                              Mây bay biền biệt bồi hồi ải xa.
                              Nước kia còn luyến bến nhà,
                              Mây ngàn nhớ núi la cà về thăm.
                              Lưu Sa chàng mất biệt tăm,
                              Ngư Dương bỏ thiếp âm thầm xót thương.
                              Đêm đêm nhỏ lệ đoạn trường,
                              Hai hàng châu ngọc má hường ủ ê.
                              Oanh vàng cất tiếng thảm thê,
                              Liễu xanh ai bẻ, ai về, hỏi ai ?!
                              Bên khung dệt gấm ai hoài,
                              Chong đèn giọt vắn giọt dài thở than.
                              Soi gương khôn xiết ngỡ ngàng,
                              Dung nhan tiều tụy sợ chàng về chê !!!

Đỗ Chiêu Đức

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhàn Cư Tặng Bạn

Nguyên tác: Vương Duy

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Chân Diện Mục, Trầm Vân

_________________________________________________

Quả thực là "nhàn cư vi bất thiện " , ngồi nhàn làm điều chẳng lành , học lóm được đôi ba chữ thánh hiền , cuối tuần thơ thẩn chọc phá chữ nghĩa ,và mọi người thân quí cho vui thôi. Cầu chúc an lành.

PKT 07/27/2013*

Võng Xuyên Nhàn Cư Tặng Tú Tài Bùi Địch
Vương Duy (699 -759)

Hàn sơn chuyển thương thúy
Thu thủy nhật sàn viên
Ý trượng sài môn ngoại
Lâm phong thính mộ thiền
Độ đầu dư lạc nhật
Khư lý thượng cô yên
Phục trị Tiếp Dư túy
Cuồng ca ngũ liễu tiền

Dịch Xuôi : Sống Nhàn Ở Võng Xuyên Làm Bài Thơ Tặng Tú Tài Bùi Địch
PKT 07/27/2013

Núi trời lạnh ,đã đổi sang màu xanh thẫm
Nước tiết thu , ngày vẫn chảy miệt mài
Đứng chống gậy ở ngoài cửa gỗ mục
Nghe trong gió lộng tiếng ve chiều kêu
Đầu bến đò chìm ngập trong bóng hoàng hôn
Ngoài gò xóm lửng lơ ngọn khói lẻ loi
Ước tưởng mình là gã Sở Cuồng say
Đang nghêu ngao hát trước nhà ông Ngũ Liễu

Chú Thích

(1) Tiệp Dư là tên tự của Lục Thông , người nước Sở , đời Xuân Thu , thấy việc nước suy đồi , giả dại , không chịu ra làm quan , người đời gọi là gã Sở Cuồng.

(2) Đào Tiềm , cuối đời nhà Tấn , không chịu cảnh luồn cúi chốn quan trường , từ quan , lui về ẩn dật , trước nhà có trồng 5 cây liễu , nên còn được người đời gọi là ông Ngũ Liễu .

Nhàn Cư Tặng Bạn
PKT 07/27/2013

Núi trời lạnh đổi sang màu xanh biếc ,
Nước ngày thu sao vội chảy miệt mài.
Chống gậy đứng ngoài cửa sài hiu quạnh ,
Trong gió chiều , ve ra rả ru ai.
Đầu bến vắng chở hoàng hôn sang muộn ,
Khói lam thưa vương vấn xóm gò xa.
Hồn thả về trước nhà năm cây liễu ,
Thấy người điên đang hát khúc cuồng ca .

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Nhàn cư ở Võng Xuyên

(1)

Núi hoang lạnh trở màu xanh ngọc biếc
Nước sông thu cứ mải miết đêm ngày

Chống gậy tre lững thững trước cổng sài .

Ve sầu thảm , gió hây hây , chiều xuống.

Trên bến vắng còn vài tia nắng muộn .

Làn khói thôn cô quạnh lượn mơ màng.

Như Tiếp Dư đang túy lúy làng quàng .

Nghêu ngao hát dưới tàn cây năm liễu .

ML

(2)

Núi đang lạnh chuyẻn màu xanh biếc ,

Nước sông thu chảy siết đêm ngày .

Gậy tre lững thững cổng ngoài ,

Gió chiểu hây hẩy u hoài tiếng ve .

Đầu bến sông nắng hoe lấp lánh ,

Làn khói lam cô quạnh thôn chiều .

Tiếp Dư say khướt liêu xiêu

Bên hàng năm liễu hát nghêu quên đời .

ML

MUỐN UỐNG RƯỢU SAY HÁT
TRƯỚC NHÀ NGŨ LIỄU TIÊN SINH

Xanh xanh thương núi lạnh ngả mầu
Nước biếc Thu về chảy lũng sâu
Cổng trúc lão buồn chống gậy ngắm
Gió chiều lấp lửng tiếng ve sầu
Bến sông vầng ác lang thang mãi
Sợi khói trên gò lơ đãng đâu
Muốn học Sở Cuồng ca ngất ngưởng
Trước nhà Bành Trạch liễu xanh mầu

C.D.M.

Nhàn Cư Tặng Bạn

Lạnh trời núi sẫm màu xanh

Ngày thu nước vẫn chảy quanh miệt mài

Tay cầm gậy chống cửa ngoài

Gió lồng lộng tiếng gọi ai ve chiều

Hoàng hôn ngập bến đò xiêu

Gò xa ngọn khói đăm chiêu lướt ngày

Ngỡ mình gã Sở cuồng say

Trước nhà năm liễu lất lây hát cuồng

Trầm Vân

Đăng Tân Bình Lâu

Lý Bạch

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Mailoc, Quên Đi, C.D.M

_____________________________________________________

Nhàn nhã vô tích sự (!) bên tách cà phê starbucks sáng nay. Vốn biết bản chuyển dịch đã không giữ được "phong cách Lý Bạch" (những nào :khứ quốc , hoài qui , thiên trường , thủy tĩnh , Tần vân , Hồ nhạn , thương thương , mục cực) nhưng vẫn cứ gửi đi để mọi người đọc cho vui với chữ nghĩa cuối tuần thôi. Cầu chúc an lành. Thân quí . PKT- 07/20/2013


Đăng Tân Bình Lâu
Lý Bạch
(701 - 762)

TL_LyBach.jpgKhứ quốc đăng tư lâu
Hoài qui thương mộ thu
Thiên trường lạc nhật viễn
Thủy tĩnh hàn ba lưu
Tần vân khởi lĩnh thụ
Hồ nhạn phi sa châu
Thương thương kỷ vạn lý
Mục cực lệnh nhân sầu

Dịch Xuôi :

Lên Chơi Trên Lầu Tân Bình
PKT 07/20/2013

Xa xứ , bước lên lầu này
Trời cuối thu buồn , nhớ về nhà
Trời dài , mặt trời lặn ngoài xa
Sông lặng, sóng nước lạnh trôi xuôi
Mây Tần nổi lên ở rặng cây trên núi
Nhạn Hồ bay xuống đậu trên bãi cát bên sông
Xanh xanh mấy vạn dặm
Vời trông mòn mắt, trạnh buồn

Chú Thích:

Lầu Tân Bình ở huyện Vu Sơn , tỉnh Tứ Xuyên , bên Tàu.

Đăng Tân Bình Lâu
PKT 07/20/2013

Xa xứ , trên lầu vắng ,
Tiết thu muộn nhạt nhòa.
Cuối trời bóng ác lặn ,
Sông lạnh , sóng trôi xa.

Mây nổi trắng non cao ,
Nhạn bay về bãi nào.
Xanh xanh mấy vạn dặm ,
Mòn mắt, dạ nao nao.



Lên Chơi Lầu Tân Bình

Xa quê lâu , lầu cao đứng ngắm ,

Trời cuối thu sầu lắng quê nhà .

Chân trời bảng lảng chiều tà ,

Sông yên sóng lạnh nhẩn nha xuôi dòng .

Áng mây Tần chập chùng rừng núi ,

Cồn cát sông rong ruổi nhạn Hồ .

Dặm ngàn xanh ngắt lô nhô ,

Trông càng thấm thía , ngẩn ngơ se sầu .

Mailoc

Cali 7-20-13

Dịch Thơ : Lên Lầu Tân Bình

Xa xứ lên lầu vắng

Cuối thu thêm nhớ nhà

Trời cao chiều xuống chậm

Sóng lạnh nước trôi xa

Cổ thụ mây Tần đến(*)

Nhạn Hồ bãi cát sa(**)

Rừng xanh hàng vạn dậm

Dõi mắt lệ chan hoà

Quên Đi


(*) Có người cho rằng hai chữ Tần Vân trong bài thơ trên xuất phát từ bài thơ của Hàn Dũ: "Tả Thiên Chí Lam Quan Thị Điệt Tôn Tương"
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
(Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu)

Nhưng nếu xét kỹ về năm sanh của Lý Bạch : 701 - 162. Còn Hàn Dũ thì mãi đến 768 - 824. Như thế chữ Tần Vân này, Lý Bạch không thể dựa theo bài thơ của Hàn Dũ được.
-Cũng có quan điểm "Tần Mây" dùng để đối với"Mưa Sở". Điều này lại hoàn toàn vô lý. Vì Câu thơ của Lý Bạch ẩn ý nhớ quê nhà.

(**) Theo tích Chiêu Quân Cống Hồ

Khi Chiêu Quân đi ngang sa mạc, lòng nàng buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Lúc ngồi lưng ngựa liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con nhạn bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc nhạc liền sa xuống vùng cát hoang vu.

BÓNG MÂY , CHIM XA XĂM

Kẻ bỏ nước lên lầu
Chiều xanh nhớ nước quá
Mặt trời xa buồn rầu
Nước lạnh chân sóng lạ
Mây Tần cây lạnh mầu
Nhạn Hồ bay sa châu
Vạn dặm sầu xa cách
Càng nhìn xa càng đau

C.D.M.

LÊN LẦU KHÁCH NGẨN NGƠ

Nhớ quê lên lầu buồn
Quê xanh mầu chiều thu
Mặt trời xa cuối bãi
Nước lạnh buồn âm u
Cây xưa u sầu góc núi
Chim Việt lạc giọng giòng sâu
Chiều thêm thêm mầu tối
Khách ngẩn ngơ nhìn đâu đâu

C.D.M.

TL_bonsai2.jpgĐỀ            

Lý Thương Ẩn 

Bản dịch: Danh Hu, Đ Chiêu Đc, Quang Tun, Mailoc, Lc Mai, Phm Khc Trí, Nguyễn Hồng Ẩn 

_______________________________________________________________

Góp vui cuối tuần                                                                                                 

Mấy lúc sau này mình không có góp dịch thơ Đường với các bạn yêu thích thể loại thơ này, vì mình tuổi vốn quá đát (date) rồi nên không thích các bài thơ quá buồn (các bạn thứ cho nhé !). Sáng nay tình cờ lục lại chồng sách cũ, thấy có câu thơ của Lý Thương Ẩn do ông Đông Hồ múa bút trên cánh thiếp : Tương kiến thời nan, biệt diệc nan, nên mình lục lại bài thơ nầy và cao hứng dịch để góp vui với các bạn tuần này. Cũng nhân dịp gởi lời cảm tạ anh Lộc đã chúc sức khỏe vợ chồng mình hôm trước, xin gởi tới anh lời chúc tương tự và cầu xin tất cả chúng ta đều khỏe mạnh mãi để vui cùng nàng thơ. Luôn tiện nhờ anh bạn Chiêu Đức có rảnh giúp diễn xuôi (hoặc chú thích) giùm.

無題

相見時難別亦難

東風無力百花殘

春蠶到死絲方盡

蠟炬成灰淚始乾

曉鏡但愁雲鬢改

夜吟應覺月光寒

蓬萊此去無多路

青鳥殷勤為探看

李商隱

Vô Đề

Tương kiến thời nan, biệc diệc nan;

Đông phong vô lực, bách hoa tàn.

Xuân tàm đáo tử, ti phương tận;

Lạp cự thành hôi, lệ thủy can.

Hiểu kính đản sầu, vân mấn cải,

Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.

Bồn Lai thử khứ, vô đa lộ

Thanh điểu ân cần vị thám khan.

Lý Thương Ẩn

Bài thơ không đề

Gặp đã khó, xa nhau khó thêm !

Gió đông đâu khiến rụng hoa thềm.

Thân tằm đến chết, tơ vừa cạn;

Nến sáp thành tro, lệ mới kềm.

Gương ngắm, buồn cho mầu tóc bạc

Khuya ngâm, cảm thấy lạnh trăng đêm.

Bồng Lai mấy nẽo, rày đi thử

Hẹn với chim xanh đoán hộ xem.

Danh Hữu dịch

Paris 12.7.2013

Kính Tiền Bối,

Lâu quá mới thấy Tiền Bối tái xuất giang hồ, rất hân hạnh được Tiền Bối giao cho trách nhiệm Diễn xuôi và chú thích bài thơ VÔ ĐỀ nổi tiếng nhất trong số hơn chục bài thơ đều cùng tên Vô Đề của Lý Thương Ẩn.


無題 VÔ ĐỀ
相見時難別亦難
Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
東風無力百花殘
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
春蠶到死絲方盡
Xuân tầm đáo tử ty phương tận,
蠟炬成灰淚始乾
Lạp cự thành hôi lệ thủy can.
曉鏡但愁雲鬢改
Hiểu kính đản sầu vân mấn cải,
夜吟應覺月光寒
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
蓬萊此去無多路
Bồng lai thử khứ vô đa lộ,
青鳥殷勤為探看
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
李商隱 Lý Thương Ẩn.


Dịch nghĩa:

Khi gặp được nhau đã khó rồi, chia tay nhau lại càng khó hơn.
Gió xuân bất lực không đủ sức, để trăm hoa phải tàn héo.
Con tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ lòng.
Ngọn nến tàn thành tro mới khô hết những giọt lệ nến.
Sáng sớm soi gương, mới buồn là tóc mai đã đổi trắng như mây.
Ban đêm ngâm nga mới chợt thấy ánh trăng sao mà lạnh lẽo.
Từ đây không có nhiều lối để đến được Bồng Lai. Nên...
mới ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm đường đi nước bước.

Chú Thích :
Lý Thương Ẩn ( 812-858 ), tự là Nghĩa Sơn, nên thường đựơc gọi thân mật là Lý Nghĩa Sơn. Ông sống vào thời Vãn Đường (836-907), nhà Đường xuống dốc và sụp đổ nhanh chóng. Nông dân bị bóc lột, sưu cao thuế nặng, quan lại hà hiếp, sự xa hoa trụy lạc của bọn quí tộc quan liêu. Lời hịch khởi nghĩa truyền nhau đã dẫn dắt đến nhiều cuộc nổi dậy để đòi quyền sống, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Trong cảnh xã hội nhiễu nhương, đất nước loạn ly phân tán, nền văn học Trung Hoa cũng đột nhiên chuyển biến mang tính chất lãng mạn, phóng khoáng, hiện thực, trữ tình, đem tình yêu nam nữ vào thi ca, và những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ nầy có thể nói là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Tào Đường, Ôn Đình Quân, Đỗ Tuân Hạc …
Lý Thương Ẩn nổi tiếng qua những bài thơ VÔ ĐỀ vì có ẩn tình riêng. Cuộc đời tình ái của ông vô cùng lãng mạn như thanh niên nam nữa hiện nay, ông yêu cả 2 chị em nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương, yêu cả người Thị thiếp của Lệnh Hồ Sở là Cẩm Sắc, yêu cả một Thiên kim tiểu thơ tên Liễu Chi....nên thơ của ông như tình của ông dàn trãi mênh mông, cuồng nhiệt, say mê đắm đuối mà... mơ hồ không rõ đối tượng, vì thế mà có tựa là VÔ ĐỀ, trong khi mọi người đều làm thơ HỮU ĐỀ, và ông lại nổi tiếng nhờ vào những bài thơ Vô Đề đó cho mãi đến hiện nay, và... Mọi người đều tôn xưng ông là ông Tổ của thơ VÔ ĐỀ.

Bài thơ trên là một trong những bài VÔ ĐỀ nổi tiếng nhứt của ông đã ảnh hưởng rất nhiều đến văn học, như câu :
Xuân tầm đáo tử ty phương tận,
Cụ Nguyễn Du đã mượn ý câu trên cho lời của Thúc Sinh nói với Kiều là :
Dù cho sông cạn đá mòn,
CON TẦM ĐẾN THÁC VẪN CÒN VƯƠNG TƠ !


và hình ảnh của con chim xanh chuyên dọ đường và đưa thơ của bà Tây Vương Mẫu...
Thanh điểu ân cần vị thám khan
mà Cụ Nguyễn Du đã vận dụng rất tài tình vào lúc chàng Kim đi dò la chỗ của cô Kiều ở :
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm DỨT ĐƯỜNG CHIM XANH !


Cũng như câu :
Lạp cự thành hôi lệ thủy can,
... mà Ngân Giang Nữ Sĩ ( thơ Tiền Chiến ) đã mượn ý cho câu :
Đêm nay lệ nến rơi thành chữ !
.............................................

Thưa Tiền Bối,
Đ C Đ biết bấy nhiêu thì góp ý bấy nhiêu thôi, mong Tiền Bối tiếu nạp ( vui vẻ mà nhận cho ) !
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.

Bây giờ thì ĐC Đ xin được tham gia với bài Diễn Nôm sau đây :

VÔ ĐỀ.
Khó gặp được nhau khó cách xa,
Gió xuân bất lực héo ngàn hoa.
Tầm kia đến thác tơ còn vướng,
Nến nọ tàn canh lệ chửa nhòa.
Trước kính sầu sao làn tóc trắng,
Thâu đêm ngâm mãi ánh trăng lòa.
Bồng Lai chẳng phải đường La Mã,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Đỗ Chiêu Đức

.

VÔ ĐỀ
Dễ gặp nhưng mà khó cách xa

Gió Đông đâu khiến úa ngàn hoa.
Tằm dù đến thác tơ còn vướng
Nến dẫu sắp tàn lệ vẫn sa.
Ngày ngắm mây vương làn tóc trắng
Đêm ngâm thơ vọng bóng trăng tà.

Đâu là nẻo đến Bồng Lai cảnh
Nhờ cánh chim xanh hỏi giúp ta.
QUANG TUẤN

.

VÔ ĐỀ

Gặp chẳng dễ , khó thay ly biệt

Thoảng đông phong , rũ riệt ngàn hoa .

Tơ tằm trọn kiếp xót xa

Nến thành tro bụi ,sáp đà lệ khô .

Sáng soi gương sầu tô tóc trắng

Đêm ngâm thơ lạnh mảnh trăng tà .

Bồng Lai muốn tới không xa ,

Chim xanh dẫn lối giúp ta thăm dò.

Mailoc

Cali 7-12-13

.

VÔ ĐỀ

Khó gặp, lại càng khôn cách xa

Gió xuân chẳng đủ thắm muôn hoa

Lực mòn, tằm hết tơ - đời dứt

Giọt cạn, nến tàn tro - kiếp qua

Ngơ ngẩn soi gương, sầu tóc trắng

Thẫn thờ vịnh cảnh, xót trăng tà

Đường nào đến chốn Bồng Lai ấy

Ơi hỡi chim xanh chỉ giúp ta !

Lộc Mai

Vô Đề
(Mây Tần - PKT)

Tan hợp , hợp tan , những đoạn trường ,
Trăm hoa tàn úa ,gió xuân vương.
Thân tằm đến thác , tơ còn vướng ,
Phận nến hồ tàn , lệ vẫn tuôn.
Gương sáng ngậm ngùi râu tóc bạc ,
Đêm khuya thơ thẩn bóng trăng suông.
Bồng lai đâu đó, không nhiều lối ,
Ngóng đợi chim xanh đến dẫn đường.

Tri Khac Pham

Phamid1934@gmail.com

.

KHÔNG ĐỀ

Khó gặp thì càng khó biệt nhau

Gió đông thiếu ấm giữ hoa lâu

Sợi tơ ngưng nhả khi tằm chết

Ngọn nến lụn tàn ngưng lệ lau

Sáng sớm soi gương buồn tóc bạc

Đêm khuya ngâm phú lạnh trăng sầu

Bồng Lai đường đến không nhiều nẽo

Chỉ lối chim xanh giúp giùm mau.

NGUYỄN HỒNG ẨN

January 7, 2013

TL_moonOnMt.jpgQuan San Nguyệt ( Lý Bạch )

 .

Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Lộc Mai, Phạm Khắc Trí, Chân Diện Mục

.

關 山 月 QUAN SAN NGUYỆT
李白
Lý Bạch.

明月出天山, Minh nguyệt xuất Thiên San,
蒼茫雲海間。
Thương mang vân hải gian.
長風幾萬里,
Trường phong kỷ vạn lý,
吹度玉門關。
Xuy độ Ngọc Môn Quan.
漢下白登道,
Hán hạ Bạch Đăng đạo,
胡窺青海灣。
Hồ khuy Thanh Hải loan.
由來征戰地,
Do lai chinh chiến địa,
不見有人還。
Bất kiến hữu nhân hoàn.
戍客望邊色,
Thú khách vọng biên sắc,
思歸多苦顏。
Tư quy đa khổ nhan,
高樓當此夜,
Cao lâu đương thử dạ,
歎息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn

Chú Thích :
1.
「天山」Thiên Sơn,即祁連山,在今甘肅省境內。Tức là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay.

2.「白登」Bạch Đăng,山名,在今山西大同東。漢高祖曾被匈奴圍困於此, tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô dây khổn ở đây.

3.「窺」Khuy,窺伺。là dòm ngó.
4.
「青海灣」Thanh Hải loan,即青海湖,在今青海省境內。Tức Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay.

5.「高樓」Cao Lâu,這裡指征夫住在家中的妻子。Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà. Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú.

Nghĩa của Bài thơ :
皎潔的月亮從祁連山升起,輕輕漂浮在迷茫的雲海裏。長風掀起塵沙席捲幾萬里,玉門關早被風沙層層封閉。白登道那裏漢軍旌旗林立,青海灣卻是胡人窺視之地。自古來這征戰廝殺的場所,參戰者從來不見有生還的。守衛邊陲的征夫面對現實,哪個不愁眉苦臉思歸故里?今夜高樓上思夫的妻子們,又該是當窗不眠歎息不已。

Vầng trăng sáng vằng vặc đang mọc lên từ Kỳ Liên Sơn, nhẹ nhàng lẩn khuất trong rung mây mờ mịt. Gió lốc thổi dài từng cơn suốt mấy vạn dặm, phủ lắp cả Ngọc Môn Quan là ải địa đầu. Cờ xí và Hán binh đóng rợp cả Bạch Đăng đạo, còn binh Hồ thì đang dòm dỏ Thanh Hải Loan. Từ xưa đến nay, những người ra đi chính chiến nơi chiến địa, chẳng thấy có mấy ai được về quê. Những người lính thú đang trấn giữ biên thùy, ai là không mặt ủ mày ê mơ ước ngày được về quê. Đêm nay, những nàng chinh phụ trên lầu cao mong nhớ chồng, chắc cũng đang thở vắn than dài khôn nguôi.

DIỄN NÔM :

TRĂNG LÊN ẢI NÚI.
Trăng lên đỉnh Thiên San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than !
Đỗ Chiêu Đức.

Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ là :

高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,

嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn.

1. Ý thứ nhất :

Cho người lính thú.

Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc, nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa !

2. Ý thứ hai :

Cho người cô phụ ở nhà.

Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa !

và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ là :

Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !

Làm ta lại nhớ đến 2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau :

Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên San....

và... lại và...2 câu :

漢下白登道, 胡窺青海灣。

Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan.

Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu :

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.


Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !

Bận bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu !

Đỗ Chiêu Đức.

TRĂNG BIÊN ẢI

Trăng soi đỉnh núi Thiên San

Ánh vàng lẩn khuất bạt ngàn rừng mây

Gió xa thổi thốc dặm dài

Ngọc Môn Quan Ài mờ phai bụi đường

Binh đao, cờ xí một phương

Hán , Hồ dàn trận trùng trùng lửa, quân

Thương người chinh chiến xa xăm

Mấy ai lành lặn mà mong trở về

Lính biên tấc dạ ủ ê

Niềm riêng canh cánh nhớ quê, nghẹn lời

Lòng người chinh phụ rối bời

Lầu cao quạnh quẽ, lệ rơi mấy hàng....

Lộc Mai

QUAN SAN NGUYỆT
Lý Bạch (701 -762)

Minh nguyệt xuất Thiên San
Thương mang vân hải gian
Trường phong kỷ vạn lý
Xuy độ Ngọc Môn Quan

Hán hạ Bạch Đăng đạo
Hồ khuy Thanh Hải loan
Do lai chinh chiến địa
Bất kiến hữu nhân hoàn

Thú khách vọng biên sắc
Tư quy đa khổ nhan
Cao lâu đương thử dạ
Thán tức vị ưng nhàn

Quan San Nguyệt
(Mây Tần - PKT)

Trăng mọc đỉnh Thiên San,
Biển mây sáng mênh mang.
Gió dặm dài thê thiết ,
Kéo qua Ngọc Môn quan .

Quân Hán xuống Bạch Đăng ,
Rợ Hồ nhòm Thanh Hải.
Xưa nay từ chiến địa ,
Mấy người về hay chăng?

Biên tái lộng sao trời ,
Nhớ nhà dạ bồi hồi.
Đêm nay trên lầu vắng ,
Vầng trăng ai xẻ đôi !

Phụ Chú : Trong Truyện Kiều - Nguyễn Du có câu : "Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường".

.Tôi nhớ đã dịch bài này rồi ( không biết do ai đăng lên ) . Nay xin dịch thêm bài nữa :

TRĂNG NGOÀI XA KIA

Trăng bước ra triền núi Tuyết
Mờ mờ ngàn dặm mây trôi
Gió thổi điệp trùng quyết liệt
Rét buốt vào đất ta rồi
Quân ta ra trấn biên giới
Giặc Hồ há dám trêu ngươi
Chiến tranh hẳn là việc dữ
Thương người lính thú xa xôi
Một đi nghĩ gì trở lại
Thái Sơn nhẹ tựa lông thôi
Lầu cao ngồi ngóng hoà bình
Than than thở thở khôn nguôi

C.D.M.

bản dịch cũ :
TRĂNG BIÊN ĐỊA

Trăng đã ló sau rèm biếc
Núi và mây bên biển xanh
Gió lao xao tràn muôn dặm
Vượt biên cương nhiễu cửa thành
Quân giặc dòm đất ta
Quân ta ra trọng trấn
Anh hùng phải như thế
Kể chi niềm vương vấn
Hỡi ôi ! Từ xưa ai ca tụng
Hỡi ôi ! Từ xưa ai khóc than
Đêm nay lên cao nhìn trận địa
Trăng đẹp lung linh sáng quan san

C.D.M.

Chương Đài d t

Cùng Bạn ,

Xin chuyển đến Bạn Thơ bài thơ " Đêm ở Chương Đài " cuả Vi Trang để cùng góp vần chơi cho qua ngày thứ bảy cuối tuần .

Chúc sức khỏe , an vui .

Thân

ML

Chương Đài dạ tứ

Nguyên tác: Vi Trang



五言律詩

韋莊


章臺夜思


清瑟怨遙夜, 繞絃風雨哀。

孤燈聞楚角, 殘月下章臺。

芳草已云暮, 故人殊未來。

鄉書不可寄, 秋雁又南迴。


Chương Đài dạ tứ

Thanh sắt oán dao dạ
Nhiễu huyền phong vũ ai
Cô đăng văn Sở giác
Tàn nguyệt há Chương Đài
Phương thảo dĩ nhân mộ
Cố nhân thù vị lai
Hương thư bất khả ký
Thu nhạn hựu nam hồi.

Dịch Nghĩa

Tiếng đàn lảnh lót oán hận đêm dài
Dây đàn run rẩy niềm xót xa trong mưa gió
Dưới ngọn đèn cô đơn nghe điệu kèn nước Sở
ánh trăng nhạt soi xuống Chương Đài.
Cỏ thơm đã dần dần tàn úa
Bạn cũ chưa có ai về.
Thư nhà không thể gửi được
Vì nhạn mùa thu đã lại xuôi nam.

.

-Bản dịch của Trần Trọng Kim--
Đêm xa vắng, nhặt thưa thanh sắt,
Nắn đường tơ, réo-rắt gió mưa.
Tiếng còi Sở, ngọn đèn mờ,
Đường Chương-đài dưới bóng nga tiI mù.
Cỏ thơm sắp hết mùa tươi tốt,
Bạn cố tri trông hút thấy đâu.
Thư nhà dễ gửi được nào,
Gió thu đưa nhạn ào ào về nam.



--Bản dịch của MaiLộc

Đàn ai oán đêm trường réo rắt ,

Gió mưa ngoài se sắt dây cung .

Đèn đơn, còi Sở não nùng ,

Trăng tàn rơi rụng mông lung Chương Đài .

Cỏ thơm đã dần phai hương sắc ,

Bạn cũ đâu ! vắng ngắt người về .

Thư nhà muốn gửi khó bề ,

Xuôi Nam thu nhạn lê thê cuối trời

.

BẢN DỊCH QUANG TUẤN

Đàn ai não nuột đêm thâu

Tiếng tơ run lạnh giọt sầu gió mưa

Dưới đèn, điệu Sở xa đưa

Ánh trăng tà rụng gọi mơ Chương Đài.

Cỏ thơm hương sắc tàn phai

Bạn xưa mong nhớ, chẳng ai trở về

Thư nhà mong gởi khó ghê

Nhạn Thu ôi đã bay về phương Nam.

.

CHƯƠNG ĐÀI ĐÊM MONG NHỚ
Réo rắt xa đưa đêm vắng ,
Tiếng đàn theo gió u hoài.
Đèn lụn đâu đây còi Sở,
Trăng tàn lấp ló Chương Đài.
Cỏ non đâu còn mơn mởn,
Người xưa nào thấy vãng lai.
Thơ nhà sầu không thể gởi,
Nhạn thu mõi cánh đường dài.
Đỗ Chiêu Đức.

.

ĐÊM CHƯƠNG ĐÀI

Đàn ai run rẩy giữa đêm trường

Trong gió mưa gào như oán thương

Hiu hắt đèn đơn, kèn nức nở

Ảo mờ trăng khuyết, lối mờ sương

Cỏ thơm nay đã phai màu lá

Bạn cũ lâu rồi biệt cố hương

Lỡ cánh thư nhà không kịp gởi

Nhìn theo cánh nhạn vút lên đường.

Lộc Mai

Chương Đài Dạ Tứ
(Mây Tần - PKT)

Đêm dài, đàn se sắt ,
Tơ chùng nỗi bi ai.
Đèn khuya vẳng tiếng ốc ,
Trăng lạc nẻo Chương Đài.
Cỏ hương đà tàn úa ,
Người xưa bặt tăm hơi.
Thư nhà không gửi được ,
Trời đã vào Thu rồi.

PKT

Đêm Chương Đài

Tiếng đàn ai oán đêm trường

Dây run rẩy buốt giọt buồn mưa nghiêng

Điệu kèn Sở thổi mờ đèn

Ánh trăng mờ nhạt bóng đêm Chương Đài

Cỏ thơm dần úa tàn phai

Bạn xưa chờ mãi chẳng ai trở về

Thơ nhà nào dễ gửi đi

Xuôi nam thu nhạn tái tê lòng này

Trầm Vân

Quan san nguyệt

Cùng Bạn ,

Cuối tuần lại sắp hết , thời gian trôi mau một cách lạnh lùng . Tôi xin gởi đến các bạn một bài thơ của Lý Bạch mà đọc lên tôi cảm thấy man mác buồn cho chinh chiến xưa nay .

Thân mến

Mailoc

Quan san nguyệt
Nguyên tác: Lý Bạch


李白

關山月

明月出天山, 蒼茫雲海間;
長風幾萬里, 吹度玉門關。
漢下白登道, 胡窺青海灣。
由來征戰地, 不見有人還。
戍客望邊色, 思歸多苦顏;
高樓當此夜, 歎息未應閑。

Quan san nguyệt

Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải
loan.

Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.

-- Bản dịch của Tản Đà --

TRĂNG QUAN SAN

Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vụng*
kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người ?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
_____________________
* Có sách ghi là Vùng

--Bản dịch của MaiLộc—

Trăng Thiên San đầu non thấp thoáng ,

Mây biển xanh loang loáng mênh mang .

Gió từ vạn dặm gào ngàn ,

Đưa trăng tới tận Ngọc Quan biên ngoài .

Bạch Đăng thành ca cài quân Hán ,

Vùng Thanh Hải , Hồ mán dòm qua .

Xưa nay chinh chiến trường sa ,

Mấy ngưòi trở lại quê nhà mà mong .

Người lính thú vời trông cảnh sắc ,

Nỗi nhớ nhà se thắt lòng ai .

Lầu cao đêm vắng canh dài ,

Đêm nay trăn trở , u hoài khôn khuây .

Mailoc phỏng dịch

關山月

李白

明月出天山,
蒼茫雲海間。

長風幾萬里,

吹度玉門關。

漢下白登道,

胡窺青海灣。

由來征戰地,

不見有人還。

戍客望邊色,

思歸多苦顏。

高樓當此夜,

嘆息未應閒。

Quan San Nguyệt

Lý Bạch

Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn

Dịch Nghĩa:Trăng Miền Biên Ải


Trăng sáng vừa nhô lên khỏi núi Thiên Sơn,
Giữa vùng mây biển xám mênh mông.
Gió từ ngoài muôn dặm,
Thổi đến ải Ngọc Môn.
Quân Hán xuống đóng quân nơi con đường dẫn tới thành Bạch Đăng.
Quân Hồ dòm ngó vùng vịnh Thanh Hải.
Từ trước đến giờ đi chinh chiến
Không thấy có người trở về.
Người lính thú nhìn quang cảnh nơi biên cương,
Nghĩ đến ngày trở về khiến vẻ mặt hiện nhiều nét đau khổ.
Đêm nay nơi lầu cao
Than thở mãi không yên

Dịch Thơ : Trăng Biên Ải


Thiên Sơn trăng ló dạng
Giữa biển xanh mây ngàn
Gió từ ngoài muôn dậm
Tràn đến Ngọc Môn quan
Bạch Đăng quân Hán đóng
Thanh Hải Hồ nhìn sang
Xưa nay đi chinh chiến
Mấy kẻ về bình an
Lặng nhìn vùng quan tái
Nghĩ khó trở về làng
Đêm nay nơi lầu vắng
Dạ buồn mãi thở than


Quên Đi

TRĂNG BIÊN ĐỊA

Trăng đã ló sau rèm biếc

Núi và mây bên biển xanh

Gió lao xao tràn muôn dặm

Vượt biên cương nhiễu cửa thành

Quân giặc dòm đất ta

Quân ta ra trọng trấn

Anh hùng phải như thế

Kể chi niềm vương vấn

Hỡi ôi ! Từ xưa ai ca tụng

Hỡi ôi ! Từ xưa ai khóc than

Đêm nay lên cao nhìn trận địa

Trăng đẹp lung linh sáng quan san

C.D.M.

TRĂNG LÊN ẢI NÚI

.
Trăng lên đỉnh Thiên San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than !
Đỗ Chiêu Đức.

Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ là : 高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ, 嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn. 1. Ý thứ nhất : Cho người lính thú. Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc, nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa ! 2. Ý thứ hai : Cho người cô phụ ở nhà. Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa ! và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ là :

Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !

Làm ta lại nhớ đến 2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau : Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên San....

và... lại và...2 câu : 漢下白登道, 胡窺青海灣。 Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan. Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu :

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.


Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !

Bận bịu đi làm, Hè lại phải làm ban ngày, nên không có thời gian, chỉ tranh thủ và lạm bàn được bao nhiêu hay bấy nhiêu !

Nay kính,

Đỗ Chiêu Đức.

Thu tịch lữ hoài

Cùng Bn ,

Chuyn đến các bn mt bài thơ ca Lý Bch đc chơi cui tun và xin bn thơ chúng mình góp vn gii khuây .

Thân mến

Mailoc

Thu tịch lữ hoài

Nguyên
tác: Lý Bạch

秋夕旅懷

涼風度秋海。
吹我鄉思飛。
連山去無際。
流水何時歸。
目極浮云色。
心斷明月暉。
芳草歇柔艷。
白露催寒衣。
夢長銀漢落。
覺罷天星稀。
含悲想舊國。
泣下誰能揮。

Thu tịch lữ hoài

Lương phong độ thu hải
Xuy ngã hương tứ phi
Liên sơn khứ vô tế
Lưu thủy hà thời quy
Mục cực phù vân sắc
Tâm đoạn minh nguyệt huy
Phương thảo yết nhu diệm
Bạch lộ thôi hàn y
Mộng trường Ngân Hán lạc
Giác bãi thiên tinh hy
Hàm bi tưởng cựu quốc
Khấp hạ thùy năng huy

-- Dịch nghĩa --

Gió lạnh thổi qua bể mùa thu
Thổi theo lòng nhớ quê nhà của tôi
Núi liền nhau như chạy dài vô cùng tận
Nước trôi mãi hỏi có khi nào trở về chăng?
Sắc mây nổi xa cùng cực khỏi tầm mắt,
Trăng sáng soi tỏ làm đứt tươm
khúc ruột.
Cỏ thơm hết đẹp mướt,
Sương bạc giục người mặc áo
rét
Giấc mơ dài tưởng rơi dải Ngân hà
Tỉnh dậy sao trên trời chỉ còn lác đác
Ôm mối sầu tưởng nhớ đến nước cũ
Khóc rơi nước mắt ai lau cho được.

-- Bản dịch của Tản Đà --

Lạnh lùng gió vượt bể thu
Hồn quê theo gió như vù vù bay
Chạy dài dãy núi liền mây
Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấc mơ rơi dải Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắt trời
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi
Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?

-- Bản dịch của MaiLộc—

Gió thu qua biển khơi lạnh ngắt ,

Mang nhớ nhung héo hắt tình quê .

Ngút ngàn đồi núi lê thê ,

Nước trôi, trôi mãi có về hay chăng ?

Áng mây sầu dung dăng heo hút ,

Ngắm trăng ngà bức rức lòng ta .

Cỏ thơm thôi hết mượt mà ,

Áo hàn , khẽ lạnh , sương sa trắng ngần .

Lòng mải mê sông Ngân , hồn lạc ,

Sao thưa dần mờ nhạt , tỉnh ra .

Ôm lòng sầu tưởng quê nhà ,

Ai người mắt lệ xót xa khôn cầm .

CHIỀU THU TRÊN ĐƯỜNG

Gió qua biển lạnh lướt về

Tri âm cùng tớ nhớ quê hỡi mình

Chập trùng ờ núi xanh xanh

Nước trôi có gửi tâm tình cho nhau

Sắc mây dụ ta nhìn theo

Kìa trăng sáng quá như trêu dạ này

Cỏ thơm quyến khách cô liêu

Sương rơi áo lạnh thấm nhiều nỗi quê

Mộng bay lên cạnh sao Khuê

Tỉnh ra khuya khoắt bốn bề sao thưa

Đất nước tôi đến bao giờ .....

Đưa tay lau lệ mà mơ thanh bình

C.D.M.

ĐÊM THU NHỚ NHÀ

(phỏng dịch "Thu tịch lữ hoài của Lý Bạch)

Gió Thu thổi lạnh thoáng vèo qua

Nổi nhớ tình quê cảm đậm đà

Dãy núi chạy dài như bất tận

Nước trôi về lại được chăng là ??

Mây cao vút mắt khuất tầm xa

Trăng sáng thấu soi rỏ ruột ta ?

Đám cỏ thơm đâu tươi mượt nữa

Áo hàn mặc lạnh lúc sương sa.

Giấc mơ rơi tưởng dãy Ngân hà

Lác đác sao trời lúc tỉnh ra

Nước củ ngậm ngùi khi đoái tưởng

Hỏi ai mắt khóc lệ không nhòa ??!

SONG QUANG

Kính Thầy,
Đỗ Chiêu Đức xin được bổ sung tài liệu sau đây :


Năm Công nguyên 756, tức là năm thứ hai sau loan An Lộc Sơn, Lý Bạch vì bi phẩn trước thời cuộc, nên tham gia dưới trướng của Vĩnh Vương Lý Lân. Chẳng may, Vĩnh Vương vì tranh đoạt đế vị với Túc Tôn thất bại, Lý vì liên lụy nên bị đày xuống Dạ Lang ( tỉnh Quý Châu hiện nay ), nhưng dọc đường lại được lệnh ân xá, vì thế mà phiêu bạc tha hương....
Bài thơ " Thu Tịch Lữ Hoài " có thể được làm vào mùa thu năm 758 ( năm Càn Nguyên Nguyên niên cùa Đường Túc Tôn ). Lúc bấy giờ Lý vừa được tha, tấm thân lưu lạc xứ người, lòng nhớ quê hương cố quốc, nên lời thơ bi thiết thê lương là thế !....


Xin phép được góp dịch bằng lời thơ 6 chữ sau đây :

NỖI LÒNG ĐẤT KHÁCH ĐÊM THU.
Biển thu gió vàng se sắt,
Nhớ quê lòng muốn bay về.
Ngàn trùng núi non mút mắt,
Bao giờ nước chảy đến quê ?
Ngút ngàn mây trời giăng mắc,
Lòng đau trăng lạnh tái tê.
Cỏ non đâu còn mơn mởn,
Sương thu thấm áo não nề.
Ngân Hà mờ theo mộng ảo,
Sao thưa trời sáng ủ ê.
Nén sầu vời trông cố quốc,
Lệ rơi thấm áo mơ về....
Đỗ Chiêu Đức.


Dưới đây là bài diễn nôm của Thi sĩ Tản Đà :


Tối mùa thu nhớ nhà.

Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Chạy dài dãy núi liền mây,
Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng ?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấc mơ rơi dải Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi
Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai ?
Tản Đà.

NỖI NHỚ ĐÊM THU

Biền trời thu lạnh, gió lê thê

Se sắt trong lòng nỗi nhớ quê

Núi thẳm chập chùng xa hút mắt

Sông dài trôi mãi. có quay về?

Mây bay chầm chậm mờ xa khuất

Trăng sáng khơi sầu, dạ ủ ê

Cỏ thơm cũng kém màu nhung mượt

Áo ấm mặc rồi vẫn rét tê

Mơ hồ tưởng giải ngân hà rụng

Giật mình: lác đác ánh sao khuya

Trông vời cố quốc, lòng tê tái

Nước mắt tuôn tràn, ai xẻ chia ?

Lộc Mai

.

Trên Đường Thu Buồn

Gió thu biển lạnh thổi qua

Thổi theo cả nỗi nhớ nhà long đong

Núi liền núi biếc điệp trùng

Nước trôi trôi mãi có không ngày về ?

Mây xa tầm mắt bay đi

Đứt tươm khúc ruột bốn bề trăng soi

Cỏ thơm thôi đẹp mướt rồi

Giục người mặc áo lạnh trời sương giăng

Dải Ngân hà giấc mơ nằm

Tỉnh ra, lác đác sao ngâm bầu trời

Nhớ non nước cũ sầu rơi

Khóc rơi nước mắt ai chùi ai lau ?

Trầm Vân

VoHiep_Jun3.jpg

Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ                         

Nguyên tác: Vi Ứng Vật

Bản dịch: Trần Trọng Kim, Mailoc, Lộc Mai, Trầm Vân, Song Quang, Đỗ Chiêu Đức

______________________________________________________

Cùng Bạn,

Sáng nay nhận được liên tiếp mấy bài họa của bạn thơ từ khắp nơi khiến lòng tôi vô cùng cảm khái vì bài nào ý cũng hay , hồn thơ cũng dạt dào .Nhân đây , xin chuyển đến các bạn một bài thơ của Vi ứng Vật , đọc lên tôi cảm thấy bùi ngùi , thương cảm nhiều. Đã cuối tuần rồi xin mời các bạn thơ góp vần cho vui nhé .

Thân mến

ML

Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ

Nguyên tác: Vi Ứng Vật

寄全椒山中道士
韋應物


今朝郡宅冷,

忽念山中客。

澗底束荊薪,

歸來煮白石。

欲持一瓢酒,

遠慰風雨夕。

落葉滿空山,

何處尋行蹟?


Ký Toàn Tiêu sơn trung đạo sĩ

Vi Ứng Vật

Kim triêu quận trạch lãnh,
Hốt niệm sơn trung khách.
Giản để thúc kinh tân,
Quy lai chử bạch thạch.
Dục trì nhất biều tửu,
Viễn uỷ phong vũ tịch.
Lạc diệp mãn không sơn,
Hà xứ tầm hành tích?

--Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Thư gửi cho đạo sĩ ở trong núi Toàn Tiêu

Sáng nay quận thự lạnh lùng,
Trạnh niềm nhớ khách ở trong núi
rừng.
Dưới khe nhặt củi lăng nhăng,
Đem về bên đá nhì nhằng nấu đun.
Muốn đem tặng hủ rượu ngon,
Để khi mưa gió giải buồn hôm nay.
Rừng không lá rụng đầy nơi,
Biết đâu hành tích mà sai người tìm.

--Bản dịch của MaiLộc:

Sáng nay quận đường trời giá lạnh ,

Chạnh nhớ người cô quạnh rừng sâu .

Dưới khe nhặt củi , dãi dầu ,

Lò kê trên đá vùi đầu thổi cơm .

Ta muốn mang rượu ngon một hủ ,

Chút hương nồng ấp ủ đêm mưa .

Ngập rừng lá đổ gió lùa ,

Nơi nao biết dấu mà đưa đến ngưòi ?

-Bản dịch của Lộc Mai:

THƯƠNG NGƯỜI ĐẠO SĨ GIỮA RỪNG

Sớm mai lạnh giá hơi sương

Thương người vò võ núi rừng xa xôi

Củi khô nhặt một bó vơi

Loay hoay nhóm bếp tạm thời nấu đun

Động lòng, muốn tặng rươu ngon

Để người ấm bụng những hôm mưa dầm

Mênh mông rừng thẳm, lá tuôn

Biết đâu tung tích mà mong gặp người !

Lộc Mai

-Bản dịch của Trầm Vân:

Lạnh về quận thự sáng nay

Chạnh lòng nhớ khách từng ngày rừng sâu

Dưới khe nhặt củi dãi dầu

Đem về góc đá vùi đầu nấu đun

Muốn đem tặng hũ rượu ngon

Phòng khi mưa gió giải buồn đầy vơi

Núi non dày đặc lá rơi

Biết đâu chỗ ở tìm người không ra

Trầm Vân

-Bản dịch của Song Quang:

THƠ GỞI ĐẠO HUYNH TRÊN NÚI

Trời lạnh thư trai buổi sớm mai

Nhớ người chợt nghỉ Đạo Huynh này

Xuống khe tìm củi về nhum bếp

Ra gốc đá vùi nấu bửa chay

Quảy rượu ngon theo mời một hủ

Giải buồn,mưa gió bỏ ngoài tai

Lá rơi dày đặc đầy non thẩm

Biết nẻo mô tìm dấu vết đây ??!

SONG QUANG

-Bản dịch của Đỗ Chiêu Đức:

Đây là một dị bản nữa của bài thơ, chỉ khác một chữ ở câu đầu :
Kim triêu quận TRAI lãnh.
và Kim triêu quận TRẠCH lãnh,
TRAI : là Cái Trại. THƯ TRAI : là cái trại cất riêng để đọc sách, khác với THƯ PHÒNG : là cái phòng đọc sách nằm trong nhà.
QUẬN TRAI : là Phòng sách ở trong quận, một cách nói của nơi Quan Quận làm việc. QUÂN TRẠCH : Trạch cũng là Nhà, nên Quân Trạch cũng là nhà làm việc trong Quận. Hai cách nói giống nhau thôi, chỉ phân tích để nghe chơi thôi !
CHỮ BẠCH THẠCH : là Nấu đá trắng. Theo tích Thần Tiên Truyện thì Đạo sĩ tu tiên ở trong núi không có ăn cơm gạo, chỉ nấu đá trắng làm lương thực mà thôi, ăn để thành tiên mà ! Nên có thành ngữ là " Chữ Thạch vi lương "( nấu đá làm lương thực ) là thế !
Xin tham gia với bài diễn nôm sau đây :

寄全椒山中道士 GỞI ĐẠO SĨ TOÀN TIÊU TRONG NÚI

今朝郡齋冷, Thư trai sáng se lạnh,
忽念山中客。
Chợt nhớ đến đạo huynh.
澗底束荊薪,
Dưới khe tìm nhúm củi,
歸來煮白石。
Mang về nấu đá xanh.
欲持一瓢酒,
Ta quảy theo bầu rượu,
遠慰風雨夕。
Mưa gió ấm chút tình.
落葉滿空山,
Lá rơi đầy núi vắng,
何處尋行跡。 Biết đâu mà tìm anh !?

.
韋應物
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.

Túc nghiệp sư sơn phòng đãi Đinh Đại, bất chí                                  

Cùng Bạn

Xin chuyển đến bạn một bài thơ của Mạnh hạo Nhiên , xin mời bạn thơ góp vần tìm vui một chút cuối tuần .

Thân

Mailoc

Túc nghiệp sư sơn phòng đãi Đinh Đại, bất chí

Nguyên tác: Mạnh Hạo Nhiên

宿業師山房待丁大不至

孟浩然

夕陽度西嶺,
群壑倏已暝。
松月生夜涼,
風泉滿清聽。
樵人歸欲盡,
煙鳥棲初定。
之子期宿來,
孤琴候蘿逕。


Túc nghiệp sư sơn phòng đãi Đinh Đại, bất chí

Mạnh Hạo Nhiên

Tịch dương độ tây lĩnh,
Quần hác thúc dĩ mính.
Tùng nguyệt sinh dạ lương,
Phong tuyền mãn thanh thính.
Tiều nhân quy dục tận,
Yên điểu thê sơ định.
Chi tử kỳ túc lai,
Cô cầm hậu la kính.

--Dịch nghĩa:--

Đêm ngủ ở sơn phòng của nghiệp sư,

chờ Đinh Đại, không đến

Qua tây lĩnh lúc chiều xuống

Các hang hóc bỗng chốc chìm trong bóng tối
Hàng tùng và ánh trăng làm đêm lạnh thêm
Nghe rõ tiếng gió vang và tiếng suối reo
Tiều phu đã về hết
Chim sương bắt đầu tìm chỗ trú
Người (bạn) ấy hẹn đến ở lại qua đêm
Mình ta ôm đàn đợi nơi con đường nhỏ.

DỊCH THƠ :

(1)

Qua Tây Lĩnh nắng chiều ngả bóng ,

Bóng tối tràn hang động thật nhanh .

Trời đêm trăng lạnh thông xanh ,

Gió vang suối nhạc âm thanh trong ngần .

Tiều phu đã dần dần về hết ,

Trong khói sương khuất vết chim trời .

Đêm nay bạn hẹn đến chơi ,

Ôm đàn đường nhỏ đợi người mình ta .

Mailoc phỏng dịch

(2)

Tây lĩnh chiều dần tàn ,

Hố hang tối ngập tràn .
Trăng , tùng , đêm lạnh giá ,

Trong gió suối reo vang .

Vội vã tiều về hết ,

Chim sương trú núi ngàn .

Bạn cùng đêm ước hẹn ,

Đường nhỏ , đợi ôm đàn .

ML phỏng dịch

Qua Tây Lĩnh ngả bóng chiều

Đêm sa hang động chìm liêu xiêu chìm

Tùng chen trăng rải lạnh thêm

Gió vang tiếng suối reo mềm bờ sương

Bóng tiều phu khuất nẻo đường

Chim tìm nơi đậu cành vương tơ trời

Đêm nay bạn hẹn đến chơi

Ôm đàn lối nhỏ chờ người tri âm

Trầm Vân

TÂY LĨNH ĐỢI NGƯỜI

Đường qua Tây Lĩnh nắng chiều buông

Hang động lặng chìm khuất ánh dương

Trăng lạnh vén màn mây lấp ló

Gió vang suối nhạc suốt đêm trường

Tiều phu vội vả về dần hết

Chim chóc tìm nơi trú tránh sương

Bạn hởi ! tôi chờ giây ước hẹn

Ôm đàn ngồi khảy đợi bên đường

SONG QUANG

Đỗ Chiêu Đức xin được tham gia bài dịch bằng thơ 6 chữ...


Nắng chiều xuyên qua tây lãnh,
Ngàn non khuất bóng hôn hoàng.
Trăng chiếu đầu thông đêm xuống,
Suối reo gió rít miên mang ,
Vắng bóng tiều phu xuống núi,
Muôn chim yên tổ trên ngàn.
Người hẹn cùng ta qua tối,
Đường rêu đợi bạn khúc đàn.
Đỗ Chiêu Đức.

Lộc Mai xin được góp bài phỏng dich:

ĐỢI BẠN

Tây Lĩnh chiều buông nắng cuối ngày

Hang động tỏ mờ trong khói mây

Hàng thông lặng lẽ, trăng khuya lạnh

Suối reo, gió thoảng, nhạc xa bay...

Hối hả, tiều phu về cuối nẻo

Vội vã, chim trời khuất bóng cây

Hẹn bạn đêm nay cùng đối ẩm

Ôm đàn, ta đợi dưới trăng say...

Lộc Mai

HẺM NÚI CHIỀU ĐỢI BẠN

Bóng chiều đã ngả phía non tây

Hang hốc chìm trong bóng tối dày

Bóng nguyệt rải tùng thêm lạnh lẽo

Suối reo dưới gió tiếng đầy tai

Tiều phu gánh củi đà về hết

Lác đác chim về đậu khói cây

Bạn hẹn với mình đêm nay tới

Hẻm núi ôm đàn ta đợi đây

C.D.M.

TL_autumnRoad.jpgSÁNG THU SOI GƯƠNG

Nguyên tác: Tiết Tắc

Bản dịch: Phạm Khắc Trí, Song Quang, Mailoc, Đỗ Chiêu Đức, Danh Hữu

___________________________________________________________________

Đi xa về , mãi đến đêm qua mới đọc được ĐS 17. Thật cảm động. Tôi ngồi chuyển dịch lại bài Thu Triêu Lãm Kính của Tiết Tắc trong Thu Xưa (trang 209) để thay lời cám ơn muộn đến quí anh chị em trong gia đình PTG-ĐTĐ , và riêng đến ban tổ chức ĐH 16 và ban biên tập ĐS 17. Cầu chúc an lành.Thân kính . PKT 04/19/2013


THU TRIÊU LÃM KÍNH
Tiết Tắc (649 - 713)

Khách tâm kinh lạc mộc
Dạ tọa thính thu phong
Triêu nhật khan dung mấn
Sinh nhai tại kiến trung

LOOKING AT MY FACE IN THE MIRROR
Translated by PKT 04/18/2013

Away from home , I feel uncomfortably to see the falling leaves

sitting all night to hear the sound of autumn wind
in the morning looking at my face in the mirror
I wonder who that person is but not me

SÁNG THU SOI GƯƠNG
PKT 04/18/2013

Thu về ngại lá rụng ,
Đêm gió lộng canh dài.
Sáng lấy gương soi mặt ,
Ngấn ngơ nhìn tưởng ai .

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com



SÁNG THU SOI GƯƠNG

Mỗi độ Thu về ngại lá bay !

Đêm khuya gió lộng suốt canh dài

Sáng ra lấy kiến nhìn khuôn mặt

Ngơ ngẩn thấy mình lại tưởng ai ?

SONG QUANG

.

Sáng thu soi gương

(1)

Lá rơi khách bàng-hoàng ,

Đêm , gió thu vang vang .

Sáng sớm dung nhan ngắm ,

Trong gương thấy bẻ-bàng .

Mailoc

(2)

Tiếng lá rơi làm khách rụng rời .

Đêm thu nghe gió rít ngàn khơi .

Sớm mai thức dậy , dung nhan ngắm ,

Ngao-ngán trong gương một cuộc đời .

Mailoc

(3)

Tiếng lá rơi làm khách kinh động ,

Đêm thu nghe gió lộng trên ngàn .

Sớm mai ngắm lại dung nhan ,

Cuộc đời vất vả rõ ràng trong gương !

Mailoc

_______________

Đỗ Chiêu Đức:

.

THU TRIÊU LÃM KÍNH

Đỗ Chiêu Đức cũng xin được tham gia bằng bảng viết tay và 2 bản dịch của 40 năm trước ( 1972 ) :


1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :


dcd_apr20_1.jpg秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木,
Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。
Dạ tọa thính thu phong.
朝日看容鬢,
Triêu nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。
Sinh nhai tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.

 Ảnh bên: Bản vitế tay của ĐCĐ (1972)
2. Tiểu sử TIẾT TẮC :
薛稷(649713),中国唐代画家,书法家。字嗣通,蒲州汾阴(今山西万荣)人。曾任黄门侍郎、参知机务、太子少保、礼部尚书,后被赐死狱中。工书法,师承褚遂良,与虞世南、欧阳询、褚遂良并列初唐四大书法家。善绘画,长于人物、佛像、树石、花鸟,尤精于画鹤,能准确生动地表现出鹤的形貌神情。无作品传世。
TIẾT TẮC ( 649-713 ), Ông là nhà thư pháp, họa sĩ và thi sĩ đời Đường. Tự là Tự Thông, người đất Bồ Châu thuộc Phần Dương ( thuộc Vạn Vinh Sơn Tây ngày nay ). Từng giữ chức Hoàng Môn Thị Lang, Tham Tri Cơ Vụ, Thái Tử Thiếu Bảo, Lễ Bộ Thượng Thư. Sau bị vua xử chết trong ngục. Ông giỏi về thư pháp, thầy học là Chữ Toại Lương, cùng với Ngu Thế Nam, Âu Dương Tuân hợp xưng là Sơ Đường tứ đại Thư Pháp Gia. Lại giỏi về vẽ, chuyên về vẽ người, Phật, Cây đá, Hoa chim, đăc biệt giỏi về vẽ Hạc, có thể biểu hiện một cách sinh động chuẩn xác hình dáng và điệu bộ của Hạc, nhưng không có tác phẩm để lại đời sau (?!).


3. Chú Thích :
KINH : là Sợ, nhưng ở đây có nghĩa là Giật Mình.
LẠC MỘC : là Loại cây có thân cao lớn và là rụng vào mùa thu.
TRIÊU : là Buổi. Vd : Dưỡng quân thiên nhật, Dụng tại nhất TRIÊU là Nuôi quân ngàn ngày, dùng trong một BUỔI. TRIÊU còn có nghĩa là Buổi Sáng : Vd: Triêu Vân : Mây Buổi Sáng. Trong bài thơ TRIÊU NHẬT : là Sáng ngày.
DUNG MẤN : Dung là Nét Mặt, Mấn là Tóc Mai. Khi nhìn vào gương, ta sẽ thấy gương mặt và tóc mai hiện lên trước nhất.
SINH NHAI : là Cách Sinh Sống, ở đây dùng với nghĩa bóng, chỉ sự vật vả, bon chen trong cuộc sống đều hiện lên trên nét mặt với những nếp nhăn với những sợi tóc mai sớm bạc...


4. Diễn Nôm :
SÁNG THU SOI GƯƠNG
Lá rụng kinh lòng khách,
Đêm nghe tiếng thu reo.
Sáng ra trông gương thấy,
Tóc mai cũng bạc theo.
Lục bát :
Bàng hoàng lòng khách lá rơi,
Đêm ngồi nghe gió thu bồi hồi thương.
Sáng ra nhìn bóng trong gương,
Tóc râu mặt mũi pha sương mất rồi !
Đỗ Chiêu Đức.
1972.

.

 Danh Hữu:

Góp vui cùng các bạn !

Gửi các anh vài dòng thơ cảm hứng dịch sáng chủ nhật.

秋朝覽鏡 THU TRIÊU LÃM KÍNH
客心驚落木,
Khách tâm kinh lạc mộc,
夜坐聽秋風。
Dạ tọa thính thu phong.
朝日看容鬢,
Triêu nhật khan dung mấn,
生涯在鏡中。
Sinh nhai tại kính trung.
薛稷 Tiết Tắc.

Soi gương buổi sáng thu

Khách vốn sợ lá rơi,

Đêm qua, gió tơi bời;

Tóc tai, sáng ra ngắm :

Trong gương hiện rõ đời.

Danh Hữu dịch

____________________________________________________

Khuyết nguyệt quải sơ đồng

Ai tri âm đó , mặn mà với ai?
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
PKT 03/09/2013


Bốc Toán Tử
Tô Đông Pha (1037 -1101)

Khuyết nguyệt quải sơ đồng
Lậu đoạn nhân sơ tĩnh
Thùy kiến u nhân độc vãng lai
Phiếu điểu cô hồng ảnh
Kinh khởi khước hồi đầu
Hữu hận vô nhân tỉnh
Giản tận hà chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu lãnh

Dịch Xuôi : Khuyết Nguyệt Quải Sơ Đồng (Theo Điệu Bốc Toán Tử)
PKT 03/09/2013

Vầng trăng khuyết treo trên cành ngô đồng trơ lá ,
Lậu đoạn canh tàn ,
Đâu có ai thấy người ở ẩn, chiếc thân tha thẩn trong đêm thanh vắng.
Một bóng chim hồng cô đơn trên vùng trời phiêu lãng ,
Giật mình bay hoảng lên cao ,còn ngoái đầu nhìn xuống ,
Ai thấu cho lòng mang nỗi hận này ,
Không chọn được một cành cây khô nào ngủ đậu qua đêm ,
Bờ sông im lìm cát lạnh !

Phụ Chú : Lậu đoạn = đêm khuya ,đồng hồ nước ngưng nhỏ giọt.

Đêm Trăng Khuyết

Cành ngô trơ lá trăng treo

Đồng hồ ngưng nhỏ nước theo đêm dài

Một mình thơ thẩn ai hay

Chim cô đơn giữa trời bay một mình

Lên cao xuống thấp lặng thinh

Ai hay nỗi hận gập ghềnh niềm riêng

Cây khô nào đậu qua đêm

Bên sông cát trắng im lìm vô thanh

Trầm Vân

Khuyết Nguyệt Quải Sơ Đồng

Cành ngô đồng ,trăng non hiu hắt

Trong đêm thanh tí tách tiếng đồng .

Tới lui ẩn sĩ se lòng ,

Lơ mơ một bóng chim hồng đêm thâu

Bỗng kinh hoàng quay đầu nhìn lại ,

Người vùi say , cảm khái riêng mình .

Đắn đo chng chu đậu cành ,

Bơ vơ cn cát lnh tanh bn b .

Mailoc phng dch

Nhân Gian Như Mộng

Nguyên tác Tô Đông Pha - Bản dịch Phạm Khắc Trí, Trầm Vân - Cảm tác Song Quang

___________________________________________________________________

Ngày Xuân , chút cảm hứng từ một nét đẹp trong thơ xưa ghi vội, gửi người thân quí, để đọc cho vui và để ...thương nhau hơn ở những ngày tháng còn lại trong cõi nhân gian như mộng này .PKT 02/25/2013.

Nhân Gian Như Mộng
Tô Đông Pha (1037 - 1101)

Cố quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát
Nhân gian như mộng
Nhất tôn hoàn lỗi giang nguyệt

Dịch Xuôi : Cõi Người Như Mộng
PKT 02/25/2013

Chốn cũ ngao du
Mặc ai cười ta đa tình
Tóc đã sớm bạc
Cõi người như mộng
Đổ chén rượu xuống sông mời vầng trăng đáy nước

Nhân Gian Như Mộng
PKT 02/25/2013

Ngược xuôi gió bụi,
Chốn cũ về thăm,
Tóc xanh sớm bạc,
Thấm thoắt bao năm .
*
* *
Lung linh thiên cổ ,
Cười gã đa tình ,
Chén rượu đổ sông ,
Thức ai đáy nước ,
Nằm ôm trăng ngủ ,
Gối vạn cổ sầu.
*
* *
Nhân gian như mộng ,
Chút tình gửi đâu ?

Chú Thích :

1 - Nhân Gian Như Mộng ,(tựa đề này do tôi tự đặt) , là 5 câu cuối trong một bài từ Niệm Nô Kiều "Xích Bích Hoài Cổ " của Tô Đông Pha (1037 -1101).
2- Truyền thuyết , Lý Bạch (701 - 762), cuối đời thành tiên , uống rượu say ,nằm ôm trăng ngủ dưới đáy nước trong lòng sông Thái Thạch bên Tàu .

Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com

Bản dịch Trầm Vân:

Nhân Gian Như Mộng

Lại về chốn cũ ngao du

Mặc ai cười cợt ta mơ đa tình

Tóc nay sợi bạc mỏng manh

Cuộc đời như mộng thoáng thành lão ông

Tay cầm chén rượu đổ sông

Mời vầng trăng nước bềnh bồng cơn say

Trầm Vân

Cảm tác Song Quang:

SQ xin có bài thơ "Cảm tác" theo ý thơ "Nhân Gian như mộng" chứ không dám là bài dịch vì câu dài hơn nguyên tác và có thêm những ý phụ.Xin Thầy và quý thi huynh miển chấp.Đa ta. Song Quang

CÕI NGƯỜI NHƯ MỘNG

Đi loanh quanh cũng về chốn củ

Vốn đa tình,mặc thế cợt cười !

Tóc nay đã sớm bạc rồi

Xem như giấc mộng cuộc đời thế nhân.

Cầm chén rượu đỗ sông mời mọc

Cùng vầng trăng đáy nước uống say

Đời sao biết được ngày mai ??

"Cỏi người như mộng" u hoài mà chi !

SONG QUANG

KÝ NỘI

Phan Thanh Giản, Trầm Vân, Mailoc, Song Quang, C.D.M.

Xướng:

Ký Nội

Từ buổi vương se mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây cười tớ ham rong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
Ân nước nợ trai đành lỗi phận
Cha già nhà khó cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn lâm biệt
Rằng nhớ rằng quên lòng hỡi lòng.

Phan Thanh Giản

Họa:

Tâm Sự

Từ lúc tình se dệt sợi hồng

Đời như con nước chảy về sông

Cơm rau đạm bạc thương mòn mõi

Ánh mắt hân hoan nhớ lạ lùng

Vai địu nợ trai hồn khắc mãi

Dạ mang ơn nước gió theo cùng

Việc nhà trông cậy vào nương tử

Nghĩa nặng ân sâu ngập cõi lõng

Trầm Vân ( họa )

Nỗi Lòng.

Sắc thắm trời tây nhuộm ráng hồng ,

Thành Nam hiu quạnh máu thành sông .

Bóng chim biền biệt tin mòn mõi ,

Tiếng cuốc bi ai , nước lạnh lùng.

Quyết chiến , thương dân , lòng chẳng nỡ ,

Cam tâm hàng phục , nhục vô cùng .

Lòng ta tan nát , non sông hỡi !

Chén đắng nầy đây chẳng thẹn lòng .

Mailoc ( cựu học sinh trường PTG)

Cali 02-23-13

CẠN NỖI LÒNG

Sợi chỉ Ông Tơ buộc má hồng

Tình nầy trót nợ núi cùng sông

Nước non ghi tạc câu chung thủy

Nghĩa vợ thương em để lạnh lùng

Lục tỉnh Nam Kỳ :trung muốn giử

Hại dân,lực yếu :bại khôn cùng

Thôi đành thuốc độc :lời ly biệt

Cái chết thay cho cạn nổi lòng.

SONG QUANG

KHÔNG BIẾT GỬI AI

Biền biệt phương nao cánh nhạn hồng

Bờ nào ngăn cách những giòng sông

Nhớ về quê cũ khôn vơi lệ

Người hỡi đêm thâu có lạnh lùng

Ước hẹn sẽ về trao tâm sự

Mà sao ngăn cách đến không cùng

Một nước một non người đâu tá

Nỡ để cho nhau luống thẹn lòng

C.D.M.

MONG NHẠN

Tin nhạn ngồi mong dưới nắng hồng

Thẹn cùng người trước , với non sông

Nhìn quanh dáo dác hồn tê dại

Chỉ thấy mây bay mãi lạnh lùng

Lác đác bên đường người bương trải

Mình ta ngóng đợi kẻ đi cùng

Danh lợi nhử người ta chẳng ngó

Gửi thơ nhắn với bạn chung lòng

C.D.M.

 

___________________________________________________

Xuân đề hồ thượng
Mailoc_feb14_TayHo.jpg

Cùng Bạn

Mấy năm trước , tới Hàng Châu , tôi có dịp du ngoạn thưởng thức cảnh đẹp Tây Hồ. Cảnh tuyệt đẹp

say đắm , thật khó quên .Xin chuyển đến bạn mấy dòng thớ của BCD tả cảnh hồ về Xuân tuyệt vời .

Mời các bạn thơ mình tham gia góp vần cho vui lúc Xuân về

Thân

ML

Xuân đề hồ thượng

Nguyên tác: Bạch Cư Dị



题湖上

白居易

湖上春来似画图,乱峰围绕水平铺。
松排山面千重翠,月点波心一颗珠。
碧毯线头抽早稻,青罗裙带展新蒲。
未能抛得杭州去,一半句留是此湖。

Xuân đề hồ thượng

Bạch Cư Dị

Hồ thượng xuân lai tự họa đồ
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy
Nguyệt điểm ba tâm nhất khỏa châu
Bích thảm tuyến đầu trừu tảo đạo
Thanh la quần đái triển tân bồ
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ
Nhất bán câu lưu thị thử hồ

Dịch nghiã

Xuân về trên hồ , cảnh đẹp như tranh vẽ

Núi lô nhô bao quanh mặt nước phẳng lặng

Thông bày ra nghìn lớp xanh biếc trên sườn núi

Trăng dọi vào sóng nước lấp lánh như hạt ngọc

Luá nếp sớm như những sợi tơ trên tấm thảm biếc

Lớp cỏ bồ mới nảy lộc như dải lụa xanh

Ta chưa bỏ Hàng Châu đi ngay được

Một nửa vì cảnh hồ này níu kéo lại

-- Bản dịch cuả Mailoc

Xuân về hồ đẹp tựa tranh tô,

Phẳng lặng mặt hồ núi nhấp nhô .

Xanh biếc ngàn thông đồi núi lặng ,
Long lanh châu ngọc nước trăng xô .

Thảm xanh lúa sớm khoe mầm nõn ,

Dãi biếc cỏ bồ nhú lụa tơ .

Chưa bỏ Hàng Châu ngang dứt được ,

Cũng vì bịn rịn cảnh sông hồ .

Mailoc phỏng dịch


Bản dịch Song Quang:

XUÂN VỀ TRÊN HỒ

Cảnh đẹp, Xuân về tựa bức tranh

Mặt hồ phẳng lặng núi bao quanh

Ngàn thông xanh ngắt trên đồi dốc

Trăng dọi nước hồ chiếu lóng lanh

Lúa sớm khoe mầm như thảm biếc

Cỏ bồ nảy lộc giống đồng xanh

Hàn Châu chưa thể rời đi được

Bịn rịn cảnh hồ, níu bước chân.

SONG QUANG

.

Bản dịch Đỗ Chiêu Đức:

Xin được góp ý và tham gia với các phần sau :


1. Về ý nghĩa của câu thứ 6 :
" Thanh la quần đái triển tân bồ "
* THANH LA : Thanh là màu Xanh. LA là LÀ, Lụa Là. nên Thanh la là Giải lụa màu xanh.
* QUẦN ĐÁI : Quần là Cái Quần mà ta mặc. Đái là Cái Thắt lưng, là Dây nịt. Nên Quần Đái là Dây thắt lưng quần.
THANH LA QUẦN ĐÁI : là Giải lụa xanh dùng để thắt lưng của mấy bà mấy cô thời xưa. thường rất dài, cho nên thắt xong, dây còn thừa buông xõa một bên, khi gió thổi thì phất phơ cho thêm phần yểu điệu... thục nữ !.
Bạch Cư Dị đã ví các cọng cỏ Bồ mới mọc ở ven hồ phất phơ trước gió giống như là những dãi lụa thắt lưng xanh phất phới của các nàng giai nhân, mỹ nữ ở Hàng Châu. Tô Châu, Hàng Châu nổi tiếng là nơi có Cảnh đẹp, Người đẹp và Món ăn ngon với câu xưng tụng sau đây : " Thượng hữu Thiên Đàng, Hạ hữu Tô Hàng ". Có nghĩa : " Trên trời thì có Thiên Đàng, còn dưới đất thì có Tô Châu và Hàng Châu " !.


2. Diễn nôm :


CẢM ĐỀ XUÂN TRÊN HỒ TÂY


Xuân đến Tây Hồ đẹp tựa tranh,
Nhấp nhô núi biếc nước xây thành.
Thông reo lớp lớp cành xanh mướt,
Trăng chiếu long lanh sóng bủa quanh.
Thảm lúa chập chờn oằn hạt mới,
Cỏ bồ phất phới thắt lưng xanh.
Hàng Châu lưu luyến rời không nở,
Nửa bởi Hồ kia, bước chẳng đành !


Đỗ Chiêu Đức.

.

Bản dịch Trầm Vân:

Hồ Xuân

Hồ xuân cảnh đẹp như tranh

Lô nhô bóng núi bao quanh chập chờn

Ngàn thông xanh biếc núi non

Ánh trăng ngà ngọc soi hồn long lanh

Thảm tơ lúa sớm mong manh

Cỏ bồ kết dải lụa xanh lững lờ

Hàng Châu cảnh đẹp như mơ

Níu chân ta biết bao giờ mới xa

Trầm Vân

 

______________________________________________________________________________

XUÂN VỌNG   

Đỗ Phủ.

Bản dịch: Đỗ Chiêu Đức, Mailoc             

Kính mời chư liệt vị Tiền Bối, Bằng Hữu cùng dịch bài thơ " XUÂN VỌNG " của Đỗ Phủ. Bài thơ tuy cũ và đã dược rất nhiều người dịch, nhưng ý nghĩa sâu xa của nó cũng còn rất đa dạng..... Trân trọng kính mời !....

杜甫

杜甫(712—770),字子美,自号少陵野老,唐代大诗人

Đỗ Phủ ( 712-770 ) , tự là Tử Mỹ , Tự hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão, thi nhân đời Đường.

春望

dcd_Jan21_XuanVong.jpg

Ảnh trên: Bài thơ XUÂN VỌNG được viết bằng chữ Thảo

XUÂN VỌNG Đỗ Phủ


Năm Chí Đức thứ 2 ( 757 ) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Thi nhân nhìn cảnh xuân với tâm tình của một con dân mất nước, núi sông vẫn như cũ, nhưng nước đã mất nhà đã tan, xuân về nhưng cả thành Tràng An đều đượm vẻ thê lương, xúc cảnh sanh tình tạo nên lời thơ cảm khái và bi thương qua bài Ngũ ngôn Luật Thi sau đây...

DCD_Jan21_DoPhu.jpg XUÂN VỌNG
Đỗ Phủ

國破山河在 Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。
Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚,
Cảm thời hoa tiễn lê,
恨別鳥驚心
Hận biệt điểu kinh tâm.
烽火連三月
Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。
Gia thư để vạn kim.
白頭搔更短,
Bach. đầu tao cánh đoản,
渾欲不勝簪 Hồn dục bất thắng trâm.

CHÚ THÍCH :
1. Quốc Phá : trong Thành ngữ " Quốc Phá Gia Vong ", tương đương với câu nói " Nước mất nhà tan " của ta.
2. Thâm : là Sâu, là Đậm, Ở đây nghĩa là Xanh om tươi tốt.
3. Tiễn : là Ép cho tuôn trào ra. Tiễn Lệ là ứa lệ, là rơi lệ.
4. Phong Hỏa : Đài cao dùng đốt lửa để báo hiệu quân địch tấn công. Ở đây chỉ Chiến Tranh.
5. Để : là Đáng giá, Có giá trị như...
6. Tao : là gãi. Ở đây có nghĩa là dùng các ngón tay để gom tóc lại.
7. Hồn Dục : là Gần như, là Hầu như.
8. Bất Thắng : Ở đây không có nghĩa là Thua ( không thắng ), mà là Không Thể.
9. Trâm : Danh Từ là Cây Trâm. Ở đây là Động Từ, nên có nghĩa là Cài Trâm.
10. Vọng : là Hy Vọng. Ở đây là Trông Ngóng, Mong chờ.

DỊCH NGHĨA :

XUÂN MONG CHỜ
Nước đã mất, nhưng núi sông thì hãy còn trơ đó , thành Trường An vào xuân cây cỏ vẫn xanh om tươi tốt ( vì cỏ cây đâu biết hờn mất nước ). Lòng đầy xúc cảm vì thời cuộc, nên trông hoa nở cũng khiến lệ rơi,Hận vì chiến tranh cách biệt, nên nghe tiếng chim kêu cũng kinh hãi trong lòng. Chinh chiến tràn lan suốt ba tháng nay, tin nhà đều bặt, nên nhận được thơ nhà thấy quý giá như được ngàn vàng. Tuổi già tóc bạc, vuốt thấy đã rụng và ngắn lại nhiều, hầu như không còn búi được để cài trâm nữa !

DIỄN NÔM :


Nước mất núi sông còn đó,
Vào xuân hoa cỏ xanh rì.
Đau xót hoa còn rướm lệ,
Kinh hoàng chim sợ phân ly.
Khói lửa mịt mờ ba tháng,
Thư nhà khoắc khoải người đi.
Tóc bạc bơ phờ năm tháng,
Trâm cài chẳng được còn chi !

Đỗ Chiêu Đức.


. . Riêng câu 3 và 4 có thể giải là :


Cảm thương về thời cuộc đão điên, nên hoa cũng ứa lệ.
Ly hận của sự biệt ly, làm cho chim cũng cảm thấy kinh hoàng....


Hiểu như trên , lại làm cho ta nhớ đến bài thơ " GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG " của Nhà thơ THẾ LỮ...


" Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ rang.
Rủ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang !
và....
Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,

Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : " HOA KIA KHÓC HỘ NGƯỜI ! "


Đỗ Chiêu Đức .

.

Mailoc phỏng dịch:

Ngóng Xuân

Nước tan tành , núi sông còn đó ,

Thành vào Xuân cây cỏ xanh tươi .

Hoa buồn thế sự lệ rơi ,

Biệt ly , khắc khoải chim trờì chơi vơi .

Ba tháng rồi , ngất trời hiệu lửa ,

Tin tức nhà qúi tựa tiền muôn .

Vò đầu tóc trắng cứ tuôn ,

Dường như ngắn ngủn khó luồn trâm qua .

Mailoc phỏng dịch

TRỪ DẠ HỮU HOÀI Thôi Đỗ

NỖI NHỚ ĐÊM CUỐI NĂM. Đỗ Chiêu Đức, Quên Đi, MaiLoc, Song Quang_______________________________

1.Đỗ Chiêu Đức

Cũng TRỪ DẠ HỮU HOÀI, cũng tấm thân phiêu lãng, lữ thứ tha hương, nhưng tâm sự của THÔI ĐỒ xót xa thảm hại hơn Mạnh Hạo Nhiên rất nhiều. Ta hãy cùng chia xẽ với tác giả tâm sự qua bài thơ sau đây :

除夜有懷 TRỪ DẠ HỮU HOÀI

迢遞三巴路,
Điều đệ tam ba lộ,
羈危萬里身。
Ký nguy vạn lý thân.
  亂山殘雪夜,
Loạn sơn tàn nguyệt dạ,
孤燭異鄉人。
Cô chúc dị hương nhân.
  漸與骨肉遠,
Tiệm dữ cốt nhục viễn,
轉於奴僕親。
Chuyển ư nô bộc thân.
  那堪正飄泊,
Na kham chánh phiêu bạc,
來日歲華新。
Lai nhật tuế hoa tân.
崔涂 Thôi Đồ

CHÚ THÍCH :
1. Điều Đệ : Xa xôi diệu dợi.
2. Tam Ba : Chỉ xứ Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, nay thuộc đông bộ của tỉnh Tứ Xuyên.
3. Ký Nguy : Chỉ Trong nguy nan mà thân lại ở xứ người.
4. Câu số 4 : Có bản chép là : " Cô độc dị hương xuân "
孤獨異鄉春
. Có nghĩa : Mùa xuân đến mà chỉ có một thân một mình nơi đất khách tha hương. CHÚC : Là Đuốc. Hoa Chúc : là Đuốc Hoa. Cô Chúc : là Cây đuốc cô đọc lẻ loi.
5. Đồng Bộc Thân : Đồng là Tiểu đồng, Thư đồng. Bộc là Nô bộc. Thân là Thân thiết . Đồng Bộc Thân có nghĩa : Cả thư đồng nô bộc cũng thấy thân thiết như người thân.

崔涂 854?)字礼山,今浙江富春江一带人。唐僖宗光启四年(888进士。终生飘泊,漫游巴蜀、吴楚、河南,秦陇等地,故其诗多以飘泊生活为题材,情调苍凉。《全唐诗》存其诗1卷。
THÔI ĐỒ ( 854-? ) , tự là Lễ Sơn, là người ở dãi Phú Xuân Giang, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay. Ông đậu Tiến Sĩ năm Quang Khải thứ 4, đời Đường Hi Tông. Cả đời phiêu bạc, lãng du các xứ Ba Thục, Ngô Sở, Hà Nam, Tần Lũng... , nên thơ của ông phần nhiều lấy đề tài tả cảnh sống phiêu bạc giang hồ, tình tiết âm điệu thê lương. " Toàn Đường Thi " còn giữ được một tập thơ của ông.

DỊCH NGHĨA :
Diệu vợi trên đường đi gập ghềnh khúc khủy của xứ Tam Ba, Tấm thân ngoài ngàn dặm nầy đang tạm dung ở xứ người an nguy khó định. Đêm lạc lỏng trong cảnh tuyết tan giữa núi non chập chùng , người tha hương cô đọc với ngọn đuốc lẻ loi, và ... càng đi thì lại càng xa những người thâm tình cốt nhục, nên tình cảm chuyển sang cho thư đồng nô bộc xem họ như những người thân. Không sao kham nỗi với nỗi phiêu bạc giang hồ, trong khi ngày mai nầy đã lại bước sang năm mới rồi !


DIỄN NÔM :
Ba sơn diệu vợi đường dài,
Lẻ loi cô độc ai hoài một thân.
Tuyết tan non núi chập chùng,
Đuốc đơn người lẻ ngại ngùng bước chân.
Tính thân chuyển cả thư đồng bộc nô.
Tấm thân phiêu bạc giang hồ,
Mai ngày năm mới thân cô một mình !
Đỗ Chiêu Đức.

2.Quên Đi

Đêm Trừ Tịch Nhớ.

Diệu vợi đường Tam Ba
Chốn nguy chẳng nệ hà
Ngàn non đêm tuyết chảy
Xuân khách một mình ta
Thân tộc giờ ngăn cách
Người hầu kề chẳng xa
Đành thôi thân lãng tử
Thêm một mùa xuân qua

Quên Đi

3.Mailoc

Nỗi Nhớ Đêm Cuối Năm

Đường Ba Tam xa-xôi diệu vợi ,

Bao hiểm nguy chờ đợi một thân .

Tuyết đêm đồi núi tan dần ,

Quê người dưới ánh đèn dầu mình ta .

Thân bằng hữu rồi ra mất biệt ,

Chỉ tiểu đồng thân thiết nghiã cao .

Nổi trôi há chịu mãi sao ?

Ngày mai năm mới đượm màu xuân tươi .

Mailoc phỏng dịch

01-02-13

.

4.Song Quang:

NỔI LÒNG ĐÊM TRỪ TỊCH

Đường đi diệu vợi chốn Tam Ba

Dung tạm xứ người ở rất xa

Như lạc trong đêm tan tuyết núi

Tha hương đất khách một mình ta

Thân nhân bạn hữu nào hay biết !

Nô bộc xem như trẻ ở nhà

Phiêu bạc giang hồ kham nổi tá ??

Ngày mai năm mới chắc đơm hoa ?

SONG QUANG

_________________________________________

Enter supporting content here