|
|
|
THƠ & TRUYỆN Lê Cần Thơ - Huyền Vân Thanh - Lê Hoàng Viện ____________________________________________________________
CHÂU LÊ
"HÙM CHẾT ĐỂ DA
NGƯỜI TA CHẾT
ĐỂ TIẾNG"
Có lẽ ai trong cuộc sống nầy, ít nhất
đã một lần nghe câu nói của người xưa "hùm
chết để da, người ta chết để tiếng", nhằm để
nhắc nhở về đạo lý ở đời, cố làm điều tốt,
điều thiện, tránh xa cái xấu, cái ác... Chẳng hạn, vị
vua cuối cùng nhà Hậu Lê là Lê Duy Khiêm (B. tuất 1766 - Q. sửu
1793) miếu hiệu Mẫn đế, vì hiệu năm là Chiêu Thống nên
cũng gọi là vua Lê Chiêu Thống. Năm M. thân 1788, Tây Sơn ra Thăng
Long lần II, ông bỏ ngôi chạy trốn quanh quất trong hai miền Kinh Bắc
và Sơn Nam. Rồi vì ông cầu cứu với nhà Thanh, dẫn đường
cho Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh xâm lược nước ta. Đến tháng
giêng năm K. dậu 1789, Tây Sơn đánh tan quân Thanh, Chiêu Thống
và đám quần thần lưu vong ở Trung Quốc, bị bạc đãi,
hắt hủi, vua tôi ông xiết bao tủi nhục. Bọn quan lại nhà Thanh
bắt một số tòng thần cho lên xe trâu đày ra xa ngoài 300 dặm.
Tình thế ngày càng tuyệt vọng, Chiêu Thống bịnh nặng, đến
ngày 16 tháng 10-1793 chết tại Yên Kinh (*). Cuộc đời Lê Chiêu
Thống là một bài học xấu muôn đời trong lịch sử. Còn
Trần Ích Tắc là con thứ của vua Trần Thái tông, tước Chiêu
Quốc vương, khi quân Mông Nguyên sang xâm lược (Â. dậu 1285),
ông ta đầu hàng quân Nguyên rồi theo chúng về Trung Quốc, ngụ
ở Hán Dương (thuộc tỉnh Hồ bắc). Lúc đầu, vua Nguyên
phong ông ta làm An Nam Quốc vương, định dùng ông ta làm chiêu
bài để thi hành mưu chước xâm lược lần nữa, nhưng
thất bại, sau chỉ làm Bình chương ở Hồ Quảng. Khi Nguyễn
Đại Pháp đi sứ sang Trung Quốc có gặp Trần Ích Tắc nhưng
không chào hỏi. Ông ta ngạo mạn bảo Đại Pháp: "Nhà
ngươi là gia đồng của Chiêu Đạo vương ngày trước
phải không?". Đại Pháp đáp: "Việc đời thay đổi,
Đại Pháp tôi ngày trước là tên hầu trà của
Chiêu Đạo vương, mà nay là sứ thần. Cũng như
ngài, trước là con vua mà nay là tên hàng thần
nước người!". (*) Câu trả lời của vị sứ thần là
cái tát vào mặt Trần Ích Tắc để đời trong lịch sử.
Nhắc lại hai sự kiện trên trong lịch sử
trên đây, tôi lại nhớ đến những chuyện, dù xảy ra mới
hơn nửa thế kỷ mà tôi được nghe và biết liên quan đến
số phận dân tộc Việt Nam ta. Tôi xin đề cập một nhân vật
đi vào lịch sử, biết rằng những người thân tính, có
thể gia tộc hoặc người thân của ông ấy hiện còn có
mặt trong cõi nhân sinh nầy, nhưng tôi vẫn phải nói lên cảm
nhận của mình: đó là tướng Dương Văn Minh. Tôi biết
tên ông là một trong những quân nhân cầm đầu cuộc đảo
chánh lật đổ vị Tổng thống Đệ nhất cộng hoà Ngô
Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, nhưng khi Tổng thống Ngô Đình
Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết chết (rạng sáng
ngày mùng 2 tháng 11-1963), ông chẳng làm nên thành tích nào
để đời cả. Nền đệ nhị cộng hoà, do những phức
tạp khác mà dẫn đến hệ lụy năm 1975, tôi xin nhắc đến
những ngày cuối cùng có sự xuất hiện của ông lần hai
(xin được giao quyền Tổng Thống) rồi để đời câu nói
lịch sử "buông súng đầu hàng vô điều kiện!".
Sau Hiệp định Paris ký ngày 27 tháng giêng 1973, Mỹ lần lượt
rút quân ra khỏi Việt Nam, viện trợ của Hoa Kỳ đã cắt giảm
nhiều, trong đó vũ khí đạn dược trang bị cho quân lực
ngày càng cạn kiệt, trong khi miền Bắc Việt Nam, Nga Sô và Trung
Cộng tăng cường viện trợ, trang bị vũ khí đạn dược
tối tân cho bộ đội để ào ạt chuyển quân vào đánh
cướp miền Nam. Trên chính trường miền Nam, những thành phần
chủ hoà, thân cộng... đã gây áp lực buộc Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức, Cụ Trần Văn Hương - Phó
Tổng Thống theo Hiến pháp - lên thay chức Tổng Thống. Tôi xin nhắc
lại chi tiết nầy, vì nghĩ rằng ai trong chúng ta cũng xem và nghe được
trên đài truyền hình Sài Gòn. Cụ Trần Văn Hương kể:
"Đại tướng Dương Văn Minh nói với tôi: "Thưa
Thày, suốt cuộc đời Thày đã hy sanh vì dân vì nước
nhiều rồi. Bây giờ thày hy sanh một lần nữa cũng chẳng sao. Thày
giao chức Tổng Thống lại cho tôi". Cụ Hương trả lời:
"Xin lỗi Đại Tướng, chức Tổng Thống do dân bầu ra chớ
không phải là cái khăn mu-soa, một tờ giấy bạc trong tay tôi
móc ra muốn trao ai thì trao nghe Đại tướng!". Dù nói
khẳng khái như vậy, nhưng do áp lực của những người làm
chánh trị trong Lưỡng Viện Quốc Hội, lúc 5 giờ chiều ngày
28 tháng 4 năm 1975 tại Hội trường Diên Hồng trong Dinh Độc Lập,
với sự hiện diện của khoảng 200 người gồm đại diện Thượng
và Hạ Viện, Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện và một
số tổng bộ trưởng trong chánh phủ Nguyễn Bá Cẩn, và hàng
trăm ký giả chứng kiến buổi lễ "trao quyền". Cụ Tổng
Thống Trần Văn Hương đọc bài diễn văn cuối cùng "trao
quyền" cho ông Dương Văn Minh, để rồi chỉ trong một thời
gian ngắn ngủi, ông đã tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện. Hãy nghe nhân chứng có mặt trong Dinh Độc Lập kể:
"Sau khi cựu TT Trần Văn Hương trở
về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống trơn. Dương Văn
Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một người lính
tiến vào dưới hàng đèn phản chiếu và gỡ hai lá
cờ đem ra khỏi phòng. Sau đó anh ta trở lại tháo gỡ
quốc huy cũ của Việt Nam Cộng Hoà gắn trước bục diễn
đàn rồi một người lính khác mang đến gắn huy hiệu
mới của Dương Văn Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm
trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa, tượng trưng
cho hai yếu tố đối nghịch tạo thành sự đồng nhất trong vũ
trụ". Ông Dương Văn Minh chỉ đọc diễn văn mà không
hề tuyên thệ. Như vậy, cho tháo gỡ hai lá quốc kỳ trước
khi đọc diễn văn và không thèm tuyên thệ khi nhậm chức Tổng
Thống VNCH, phải chăng ông Dương Văn Minh muốn gián tiếp nói
với phe Cộng sản rằng ông ta đã xé bỏ bản Hiến Pháp
năm 1967 của Việt Nam Cộng Hoà, không còn liên hệ gì đến
chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà nói riêng và cả lịch
sử ba mươi năm chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam để
bảo vệ tự do cho những người Việt Nam không chịu sống chung với
Cộng sản từ miền Bắc cho đến miền Nam sau này nói chung?"(**).
Vào lúc 10 giờ 24 phút sáng
ngày 30 tháng 4 năm 1975, "Tổng Thống" Dương Văn Minh đã
đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh cho
tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng
đầu hàng. Ông Dương Văn Minh tuyên bố như sau: "Đường lối, chủ trương của chúng
tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh
mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải
giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của
người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các
anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà hãy bình tĩnh ngưng nổ súng
và ở đâu thì ở đó. "Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách
Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì
chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận
lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ
máu vô ích cho đồng bào".(**). Lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30-4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ
Đoàn Thiết Giáp 203 của quân đội Cộng sản Bắc Việt
ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, "Tổng
Thống" Dương Văn Minh thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy
sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của
Quân đội Nhân Dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang
đứng trước một tướng lãnh cao cấp: "Thưa Quan Sáu,
tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông".
Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa nầy là Thượng
Tá Bùi Tùng đã dùng danh từ "mày, tao" xẳng giọng
hách dịch và đanh đá lên tiếng: "Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một
kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày làm gì có
quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền
đó bằng khẩu súng này đây. Ngoài ra tao xác nhận với
mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá
ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ
bây giờ tao cấm mày không được ngồi xuống!" (**).
[Đoạn trích trên đây được Trần Đông Phong tác giả
cuốn VNCH Mười Ngày Cuối Cùng ghi chú ở cuối trang 362: "Dương
Hiếu Nghĩa: "Hồi Ký Dang Dở", kể lại theo lời của
Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng Gò Vấp, cựu dân
biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4
năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn. Xuân Thời Luận, California
2004, trang 141 - CL ghi thêm]. Thế
nhưng, chiều hôm đó bọn chúng không cho phép Dương Văn
Minh đọc lời đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ
Tổng Thống VNCH mà áp giải đến đài phát thanh Sài Gòn
để đọc lời kêu gọi như sau: "Tổng Thống chính
quyền Sài Gòn kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hoà hạ vũ
khí, đầu hàng vô điều kiện Quân Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương
đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương
đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam". Khác với hình ảnh và tư cách của ông Minh,
tôi lại muốn đem so sánh đến hành xử và tư cách của
một vị tướng khác mà tôi vừa đọc được bài
viết của tác giả Lê Văn Hưởng. [xin mở ngoặc nhắc chi tiết:
Sở dĩ tôi để ý đến vị tướng nầy, vì thời
ông làm Tỉnh Trưởng Phong Dinh thì tôi là học sinh trường
trung học Phan Thanh Giản, từng được lãnh thưởng danh sự của
Tổng thống Ngô Đình Diệm và của Tỉnh trưởng tặng mỗi
cuối năm học. Khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm thì ông
là Thiếu Tướng, còn tôi chỉ là Trung Úy biệt phái ngoại
ngạch, cùng lúc ra trình diện tại Quân trấn Cần Thơ trên
đường Ngô Quyền (đối diện trường Nữ tiểu học). Tôi
nhớ khoảng hơn 9 giờ sáng ngày 5 tháng 5 năm 1975, những quân
nhân chúng tôi gồm Thiếu tướng Trần Bá Di (vừa mới chết
tại Florida), Đại Tá Bùi Quang Hiền (phụ tá Tư lệnh Quân
đoàn - đặc trách Nhân Dân Tự Vệ QĐ IV - quân khu 4 - đã
chết), Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lựu (phụ tá Tỉnh Thị Trưởng
- đặc trách Nhân Dân Tự Vệ tỉnh Phong Dinh và thị xã Cần
Thơ - đã chết), Đại Úy Huỳnh Quang Toản (Trưởng Ty Nhân
Dân Tự Vệ tỉnh Phong Dinh - ông là anh em bạn rể với hai tướng
Đặng Văn Quang và Nguyễn Xuân Trang - đã chết trong trại tù
ở Cù lao Dung), Trung Úy Huỳnh Long Nhựt (Trưởng Ban Kế hoạch phòng
NDTV thị xã Cần Thơ - không biết tin), Trung Úy Lư Hinh (Trưởng
Ban Tuyên Huấn phòng NDTV thị xã Cần Thơ - Calgary Canada) và tôi
- Trung Úy biệt phái ngoại ngạch - phụ trách Trưởng Ban Tuyên
Huấn kiêm Kế Hoạch ty NDTV tỉnh Phong Dinh. Đóng ngoặc]. Xin phép tác giả Lê Văn Hưởng cho tôi
đưa trọn bài viết ngắn "Ông Lão Bán Kem"
được ghi chú thời gian năm 1994 tại địa điểm khu giải
trí Splendid China, Orlando để giới thiệu cùng bạn đọc trang sổ
tay kỳ nầy. "Trời nắng chang chang, với cái nóng
nung người của tiểu bang Florida vào mùa hè lối 90 độ F (32 độ
C). Trước cửa tiệm bán hàng lưu niệm (Gift Shop) đông người,
một ông lão người Việt Nam đứng bán kem cho du khách. Xe bán
kem có hình dáng như cái thùng vuông dài, bên ngoài có
sơn chữ và hình vẽ mấy bịch kem đông lạnh. Khách khá
đông, ông tươi cười với mọi người. Cách đó
không xa, một du khách Việt Nam khác, đứng tuổi, nhìn ông bán
kem một cách chăm chú, nghĩ mình đang gặp lại một người
quen biết từ khi còn ở quê nhà mấy mươi năm về trước.
Khách lạ bước đến gần xe kem trong khi ông bán hàng đang
bận rộn với khách. Nhìn bảng tên gắn trên áo ông lão
bán kem, khách lạ mừng thầm vì đúng tên người mình
quen biết. - Chà! "Tha hương ngộ cố tri", còn gì quý cho
bằng? - ông suy nghĩ. Đợi đến khi xe kem vắng khách, người
khách lạ lên tiếng: - Xin lỗi ông, có phải khi xưa ông làm
tỉnh trưởng tỉnh Cần Thơ không? Ông bán kem giật mình, phản
ứng ngay: - Không phải đâu, chắc ông lầm người rồi! Người
khách lạ "cụt hứng" rồi tự trách: - Mình hấp tấp
quá, không lẽ khi xưa ông làm tỉnh trưởng, giờ nầy lại
đứng ở đây? Suy tới suy lui, khách lạ chưa chịu thua, nghĩ
thầm: - Rõ ràng tên ông trên thẻ trước ngực, sao lầm được?
Dáng vóc cũng cao ráo như xưa, nét mặt, cũng vậy, tuy phong trần
hơn trước? Khách lạ trở lại ông lão bán kem: - Thưa ông,
tôi không lầm đâu, tôi nhớ ơn ông lắm, nhờ ông mà
anh em nhà thầu chúng tôi làm ăn rất thoải mái dưới thời
ông về làm đầu tỉnh Cần Thơ. Thấy người khách lạ
quả quyết, ông bán kem mỉm cười: - Đúng là tôi, nhưng
đó là chuyện xa xưa rồi, nhắc làm gì? Từ đó, người
khách lạ kết thân với ông bán kem, vì thương mến một
công bộc liêm chính mà giờ này sa cơ thất thế. Trong mấy
lần gặp gỡ sau đó tại tiệm ăn ngoài Splendid China, khách lạ
tâm tình với ông bán kem: - Em thường đấu thầu xây cất
cho tỉnh, đời mấy ông tỉnh trước, tụi em gặp khó khăn
nhiều, nhưng từ khi ông về làm tỉnh trưởng mấy năm 63 tới
65, tụi em dễ thở hơn nhiều, người nào làm đúng luật
lệ thì được trúng thầu, tụi em làm ăn thoải mái,
bởi vậy, tụi em nhớ ơn ông hoài... Gặp người tri kỷ, ông
lão bán kem thổ lộ: - Tôi có giúp gì ông đâu, đó
chẳng qua là nhiệm vụ của tôi thôi. Tổng Thống tín nhiệm
tôi, giao chức vụ tỉnh trưởng là để tôi lo an ninh cho người
dân, công tác chánh của tôi là về mặt quân sự, dẹp
CS quấy rối đồng bào. Dưới quyền tôi, có ông phó
tỉnh trưởng dân sự, mọi việc về hành chánh, tôi giao cho
ông phó làm hết, nhưng tôi có đặt tiêu chuẩn làm
việc, là phải hết sức liêm chánh, không được ăn lối
lộ hay có hành vi tham nhũng, v. v... thì ta mới được lòng dân.
Trong thời gian ông bán kem tại khu giải trí SC, cũng có một số
du khách người Việt Nam nhận ra ông, tỏ lòng thương mến,
"tội nghiệp" ông. Ông khẳng khái trả lời: - Cám ơn
quý vị đã còn nhớ tới tôi, có cảm tình với tôi
nhưng xin quý vị đừng tỏ ra tội nghiệp cho tôi, tôi không
thích như thế. Có gì đáng phải tội nghiệp đâu? cộng
sản nhốt tôi, giam cầm mấy mươi năm tù, ra được xứ
tự do, làm nghề gì đi nữa, miễn chính đáng, vẫn còn
sướng hơn ở với CS mà! Nhắc đến việc CS giam cầm, ông
nhấn mạnh: - Không nên dùng chữ "tù cải tạo" đối
với chúng tôi, nhà tù CS là nơi chúng hành hạ, trả
thù, hạ nhục người Quốc Gia, tù là tù chớ không có
"cải tạo" gì hết. Ông bán kem trong khu giải trí Splendid
China nói trên là cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di. Vinh danh một
bậc đàn anh gương mẫu. Bài
viết ngắn hôm nay chỉ nêu vài sự kiện nổi bật, chớ không
thể nói lên hết sự nghiệp to lớn của ông trên chiến trường.
Lúc còn là tỉnh trưởng Cần Thơ, cấp bực ông là Thiếu
Tá, sau lên Trung Tá. Ông nổi tiếng trong các trận đánh như
sau: - Giải tỏa tỉnh Vĩnh Long trong Tết Mậu Thân 1968. Sự việc diễn
tiến như dưới đây: Gần Tết Mậu Thân, (tháng 1/1968), hai ông
đầu tỉnh là Trung Tá Nguyễn Ngọc Diệp và Phụ Tá đi
hành quân. Trên đường về, hai ông bị VC phục kích và
bị thương, phải chở vào bệnh viện điều trị. Tỉnh Vĩnh
Long như rắn không đầu. Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Sư
Đoàn 9, chỉ định Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tạm thời
phòng thủ Vĩnh Long. Khi tiếng súng Tết Mậu Thân bùng nổ, Thiếu
Tá Nghĩa đã về Sài Gòn thăm gia đình và bị kẹt
lại đó. Tướng Thi chỉ thị Đại Tá Trần Bá Di, đang
là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, vào Vĩnh Long để nghiên cứu
tình hình và đối phó với Việt Cộng. Vào chiều tối,
một mình với máy truyền tin trên lưng, ông được trực
thăng chở đi, dự định đáp vào khuôn viên của tỉnh,
nhưng trực thăng bị VC bắn rát quá, phải thả ông tại cầu
tàu, rồi từ đó, ông chạy bộ vài chục bước vào
được dinh tỉnh trưởng. Tại đây, ông bắt đầu liên
lạc với các đơn vị chiến đấu để lo việc phòng
thủ, chỉ dẫn trực thăng, pháo binh... bắn vào các điểm
tập trung của VC. Nhưng VC vẫn cầm cự, quyết tâm đánh úp
tỉnh lỵ, ông phải xin tướng Thi cho tăng viện, nhờ vậy, mấy
ngày sau, một Trung Đoàn của ta mở đường tiến vào căn
cứ của tỉnh. Sau cùng, ông chỉ huy phá tan lực lượng VC, chúng
bị giết hay đầu hàng gần hết. - Trận đánh vào đất
Miên, danh ông càng nổi lên năm 1970, khi ông làm Tư Lệnh Sư
Đoàn 9 Bộ Binh đánh vào mật khu Ba Thu của VC trên đất Miên
(tỉnh Tà Keo), phá hủy cơ sở của chúng, tịch thu vô số
chiến lợi phẩm... Ngoài ra, quân ta còn tìm thấy nhiều nhà
in và máy in tiền của Mặt Trận Giải Phóng, tiền này chúng
tính đem ra thay thế tiền VNCH nếu chúng thắng Miền Nam năm 1968. Ông
được thăng cấp đặc biệt tại mặt trận này. Anh hùng
sa cơ. Đến năm 1975, khi VC vào chiếm miền Nam, chúng bắt ông và
đày ải vào các trại tù trong hơn 17 năm trời. Hai năm sau
khi VC thả, ông qua Mỹ năm 1993 theo diện HO (Humanitarian Operation: Chương trình
định cư tại Mỹ dành cho người bị CS giam cầm sau 1975). Ba tháng
sau khi hoàn tất thủ tục nhập cư, y tế, bằng lái xe, ông bắt
đầu đi làm tại hãng Dobbs, hãng chuyên cung cấp thức ăn
cho hành khách trên máy bay. Làm việc tại đây hơn 6 tháng,
ông qua khu du lịch Splendid China như có nói trên. Thời gian sau, ông xin
vào làm tại Disney World với nhiệm vụ "trưng bày hàng lên
kệ" (floor stacker). Ông làm việc tại đây trong 12 năm trời, từ
1999 đến 2011, chỉ thôi việc vì bị đau nhức vào tuổi 80.
Tổng cộng thời gian làm việc tại Dobbs, Splendid China và Disney World, ông
đã đóng thuế Liên Bang Hoa Kỳ 18 năm, quá tiêu chuẩn 10
năm để được tiền hưu. Có lần, một giám thị ở
Disney World khuyên ông: - "You" lớn tuổi rồi, sao "you" không ở
nhà nghỉ cho khỏe? - Tuy tuổi đã cao nhưng sức khỏe còn tốt
là tôi không nghỉ!- ông đáp ngay. Cũng có người thấy
ông cao tuổi, hỏi ông: - Cụ đi làm chi cho khổ, ở nhà lãnh
tiền trợ cấp có sướng hơn không? Câu trả lời: - Tôi
không "chơi" mấy thứ đó. Tôi rất tự hào không
"ăn" một ngày tiền an sinh xã hội, tiền già, tiền tàn
tật... Đối với anh em chúng tôi ở tù CS, người Mỹ dành
một chương trình đặc biệt để đem chúng tôi đến
xứ tự do, hưởng được cuộc sống an toàn trong công bằng,
chừng đó thôi đủ để mình biết ơn chính phủ và
nhân dân Hoa kỳ rồi, vì lẽ đó, tôi không muốn ngồi
chơi để lãnh tiền cấp dưỡng, tạo thêm gánh nặng xã
hội cho đất nước này trong khi tay chân còn lành lặn, còn
đủ sức khỏe để đi làm. Theo trên, tướng Trần Bá Di là một người rất
đặc biệt. Khi còn trong Quân Đội, ông là một công bộc
liêm chính, một cấp chỉ huy tài ba, gan dạ, bình dân, yêu thương
lính. Đến tuổi cao niên, ông vẫn giữ khí phách của một
người hùng. Thiếu Tá Nguyễn Kim Sơn, cựu Chỉ Huy Trưởng
Pháo Binh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, từng làm việc dưới quyền của
tướng Trần Bá Di, có viết trong tuyển tập "Cái Chết Của
Một Dòng Sông" như sau: "Thiếu Tướng Trần Bá Di có
tấm lòng hiền hòa đức độ nên được thuộc cấp
kính trọng và thương mến. Ngày ông rời khỏi Sư Đoàn
9 Bộ Binh, quân dân tỉnh Vĩnh Long đã giăng biểu ngữ khắp
đường phố trong tỉnh lỵ để tỏ lòng thương mến và
luyến tiếc ông". Mặt khác, trong phúc trình 6 trang giấy gởi
về chánh phủ Hòa Kỳ ngày 5 tháng 12 năm 1973, Đại Sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam, Graham Martin, có ca ngợi cuộc đời và binh nghiệp
của tướng Trần Bá Di trải qua mấy mươi năm chỉ huy các
đơn vị tác chiến trên chiến trường miền Nam, từ cấp
Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, đến Sư
Đoàn... Nhắc đến sự liêm chính của tướng Di, phúc
trình của Đại Sứ Martin có ghi một đoạn như sau: "Gia
đình có 4 con, ba trai một gái từ 17 đến 8 tuổi. Báo cáo
cho biết là gia đình ông sống bằng lương bổng nhà binh
của ông và không có ghi nhận hành vi tham nhũng nào của ông
hay của phu nhân ông". Nguyên văn Anh văn như sau: "They have
four children, three boys and a girl from 17 to 8. The Di's reportedly live on his military income and there has been no mention
of corrupt activities on his or his wife part". Tài liệu trên được chánh
phủ Hoa Kỳ giải mật ngày 13 tháng 8, năm 2009. Thiếu Tướng Trần
Bá Di mất ngày 23 tháng Ba, năm 2018, tại Orlando, Florida, hưởng thọ
87 tuổi. Người đời có câu: "Hùm chết để da,
người ta chết để tiếng", Tướng Trần Bá Di ra đi
để lại danh thơm muôn đời! Tôi đã dài dòng như trên để muốn gợi
lại một chi tiết quan trọng khác, mà một nhân vật cũng là
tướng lãnh quân lực VNCH, theo tôi thật xứng đáng được
đời đời nhắc nhở và thương kính (dù biết rằng
cũng có nhiều người chỉ trích ông), đó là cố Trung
Tướng - cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Câu nói để
đời trong lịch sử: "Đừng tin đừng ghe những gì
Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản
làm". Với riêng tôi, tôi rất tâm đắc câu
nói nầy, và rất kính phục khi đọc lại, nghe lại bài nói
chuyện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 24 tháng 10 năm 1972,
trước khi Việt Nam Cộng Hoà bị áp lực buộc phải ký vào
Hiệp định Paris 1973. Xin trích như sau: "Tôi thiết tha kêu gọi những
ai, ở miền Nam này, đang ăn cơm miền Nam, đang thở không khí
miền Nam, đang được sự che chở của xương máu Dân Quân
miền Nam, mà đến ngày nay, còn âm thầm tiếp tay với Cộng
sản, còn lén lút đi đêm với Thực dân, Ngụy hòa,
còn tính đâm sau lưng chiến sĩ đồng bào... Tôi kêu
gọi lương tri của mấy người, vì đất nước, vì dân
tộc, hãy dừng chân lại, hãy dừng tay lại, hãy từ bỏ ý
định đó đi mà cùng với 17 triệu rưỡi Dân Quân
miền Nam chiến đấu chống kẻ thù Cộng sản. Tôi kêu gọi
mấy người hãy suy nghĩ, nếu thích Cộng sản thì hãy có
can đảm ra ngoài Bắc ở với Cộng sản, như vậy Cộng sản
còn ít khinh rẻ mấy người hơn là làm tay sai cho chúng ở
miền Nam này.
Có thể không ai ở miền Nam tự do này giết mấy người đâu,
nhưng chính Cộng sản sẽ giết mấy người. Mấy người nếu
muốn có tên trong lịch sử, thì cũng có hai lối có tên
trong lịch sử. Một đàng khi nhắc đến, thì toàn dân cúi
đầu khâm phục, con cháu lại ngẩng đầu lên hãnh diện.
Một đàng khác, khi nhắc đến, thì toàn dân ngẩng đầu
lên nguyền rủa, còn con cháu mấy người lại cúi đầu
tủi nhục. Tôi chắc mấy người sẽ được lịch sử
ghi tên vào hạng thứ hai này. Nếu mấy người không cầm súng
xông pha lửa đạn để chiến đấu, nếu không làm được
một việc gì hữu ích cho hậu phương thì mấy người đừng
làm gì hại dân bán nước. Một hành động ngu xuẩn, phản
bội Tổ Quốc, Chiến Sĩ và Nhân Dân, dù có gạt được
ai 5, 3 tháng, 5, 3 năm, rồi cũng sẽ bị lịch sử lôi ra chứng minh
và cũng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Họ là
những kẻ góp phần lớn vào sự sụp đổ của Việt Nam
Cộng Hòa. Họ không ngừng cực lực lên án chính phủ Quốc
gia và không ngừng xuống đường liên tục với đủ sắc
áo màu cờ nhân danh phản chiến và hòa bình. Những chiến
sĩ VNCH hy sinh biết bao xương máu ngoài mặt trận trong suốt 21 năm
trời để bảo vệ hậu phương cho họ tự do lợi dụng và
khai thác thể chế dân chủ và tự do để gây rối loạn
ở hậu phương. Vô tình hay hữu ý hay thơ ngây, họ trở
thành ngọn giáo nối dài của Cộng sản đâm vào hậu
phương từng nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ họ và
gia đình. Họ là những sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ,
chính trị gia, tu sĩ, và thành phần thứ ba ở miền Nam.
Những kẻ
phản chiến và ngụy hòa này, tức những kẻ đối lập
cửa trước rước giặc cửa sau vì, xét cho cùng, trung lập
trong chiến tranh chính là bạn của kẻ thù. Nhưng cuối cùng
khi cuộc chiến tàn, họ bị Cộng sản bỏ rơi, coi thường, hay
cả bị tù đày. Họ chính là những kẻ mà Lenin đặt
tên là "những kẻ ngu xuẩn có ích" cho cộng sản. Họ
hiện diện thường xuyên trên các đường phố ở miền
Nam và Mỹ kêu gọi hòa bình mà thực tế mở đường
cho cuộc chiến tranh mới không tiếng súng nhưng tàn ác gấp bội
lần". Cựu Tổng Thống từ chức Nguyễn Văn Thiệu đã
ra người thiên cổ, nhưng qua lời phát biểu trên rất hay và
chính xác; câu nói để đời của ông nhân định
về cộng sản với cái nhìn cùng sự hiểu biết rất đáng
khâm phục, nghĩ rằng những người viết lịch sử chân chính
không nên bỏ qua. Cũng như tác giả Lê Văn Hưởng đã
viết: Người đời có câu: "Hùm chết để da,
người ta chết để tiếng", Tướng Trần Bá Di ra đi
để lại danh thơm muôn đời! Tôi nghĩ, cựu Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu và các vị tướng lãnh, quân nhân các
cấp dũng cảm tuẫn tiết khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng, dù chết đi cũng đã để lại danh thơm muôn đời.
CHÂU LÊ [(*) Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của Nguyễn
Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thế - NXB Khoa Học Xã Hội 1992, bản in lần
thứ 2, tr 330 và tr 866) (**) Việt Nam Cộng
Hoà, Mười Ngày Cuối Cùng của Trần Đông Phong - S Nam Việt
2006
THƠ HUYỀN
VÂN THANH BÓNG THỜI GIAN
* kính nhớ Thầy Cô và bạn học năm xưa
* riêng tặng học trò già HTT với "bộ
tự điển kỷ niệm vô giá" Đầu năm lục lại chồng ảnh cũ Chợt thấy lòng nghe nỗi ngậm ngùi
Những bạn, những Thầy Cô buổi trước
Dậy lên thương cảm nhớ khôn nguôi.
Có
thể giờ nầy nơi chụp ảnh Còn
ai chạnh nhớ chỗ ngồi xưa Còn
ai điểm lại người bên cạnh Để
nhắc nhau kỷ niệm sớm trưa.
Nhớ mặt quên tên sao tránh khỏi
Thời gian mòn xoáy trí con người
Nếu chưa lẫn lộn quanh cuộc sống
Diễm phúc nào hơn một kiếp đời.
Bao nhiêu
chuyện cũ về trong trí Thoáng hiện...
dường như mới thuở nào Cái
tuổi học trò nhiều mộng mị Xa
vời như một giấc chiêm bao.
Ảnh cũ người xưa nhoà sắc nét
Thầy Cô đứng giữa học trò yêu
Bạn bè hoan hỉ vui ra mặt Đọng lại niềm thương đẹp mỹ miều.
Nhớ
lắm một thời thơ mộng cũ Giờ
đây khép chặt bóng thời gian Kẻ
còn người mất đời rêu phủ Muôn kiếp mờ phai giữa dặm ngàn. 10-15-2013 HUYỀN VÂN THANH (Về Nguồn - Tây Đô)
Nhân
1 bạn đồng lớp vừa mới ra đi, cùng nhìn lại những
người Đệ Thất D 60-61: LẠI NHỚ
BẠN LỚP ĐỆ THẤT
"D" NĂM XƯA
Lê Hoàng Viện (CHS PTG (1960 - 1968) Hôm nay là ngày 31 tháng 12 năm 2006, thời hạn
cuối nhận bài cho đặc san 12 PTG & ĐTĐ, nhìn số bài gởi
về tôi rất vui, vì thầy cô và đồng môn đã dành
nhiều tình cảm cho BBT. Nhưng có một bao thư của đồng môn
ở Watertown MA gởi, tôi nhớ có 12 tấm ảnh mà bị thất lạc
không có trong số bài nầy, bởi chị gởi rất sớm, gởi ngay
sau khi dự đại hội X ở Hoa Thịnh Đốn về. Gần cả ngày
bỏ công tìm kiếm, sau cùng mới nhớ ra là vì sợ bị mất
số ảnh quý báu đó nên tôi đã cất vào hồ sơ
riêng của gia đình để mang theo khi phòng chống bão lụt. Nhờ
lục tìm như vậy mà chợt nhiên trong tâm trí tôi lại hiện
lên hình ảnh bạn bè cùng trường rồi cùng lớp của
thời Trung học Phan Thanh Giản trong một ký ức thật xa vời. Tôi nhớ
Kiều Tâm Khánh Lê Công Sinh với bài thơ 16, 17, 18, 19 đăng
trong giai phẩm Phan Thanh Giản số đầu tiên năm Giáp Thìn 1964 mà
trong số báo đó tôi có bài viết ngắn "Nếu Tôi
Còn" ký tên Huyền Vân Thanh và bài thơ Bâng
Khuâng ký tên Trang Yến Linh. Anh Lê Công Sinh đã chết rồi!.
Tôi nhớ Hồ Trung Thành với bài viết vui "Tự điển
bỏ túi" cũng trên giai phẩm đó, rất "ăn khách"
nên năm sau anh viết "Lá Số Tử Vi", để rồi
anh rời trường, tôi phải mở mục "Gỡ Rối Tơ Lòng...
Thòng" với tên Bác Tú Dại để các bạn "giới
thiệu" khi dẫn các đoàn đi bán giai phẩm ở trường bạn.
Tôi nhớ bạn Nguyên Thy, bây giờ là BS Đặng Hiếu Nghĩa ở
California lúc cùng làm nguyệt san Triều Sống Xanh của trường; nhớ
Phương Mai Yên với bài thơ "Lời tỏ bày của nhân
chứng" bây giờ là Hàn Văn Lâm Văn Yến ở Bắc
Cali; nhớ Ngô Hiếu Chí lúc cùng viết bài "Chất Dương"
trong giai phẩm xuân năm Đệ Nhất B1 (1966-1967) mang tên chung là "Nhóm
Đại Khoa Học Gia"; nhớ Đoàn Ngọc Tấn với bút hiệu Đoàn
Kim Sắc lúc mới vô Phan Thanh Giản, chúng tôi tập tễnh làm
thơ trong nhóm Ái Hữu của Lại Minh Tâm; nhớ Dương Huỳnh Long
và nhóm bạn nửa đêm tụ lại "chòm mả" trong hẻm
2A Pasteur để chơi "cầu cơ" mà cầu hoài chẳng thấy tăm
hơi gì! (dù đã tìm cách làm cơ bằng "ván hòm
tại nghĩa địa mà người ta vừa lấy cốt".... Nhớ đủ
thứ lúc ngồi soạn tìm bao thư đựng ảnh cho đặc san chẳng
có lớp lang gì giống như trong một giấc mơ chập chờn. Chợt
nhiên tôi lại nhớ cả nguyên một lớp Đệ Thất D niên
học 1960-1961, năm đó lớp học bên khu Đệ Nhất cấp (Trường
Đoàn Thị Điểm sau nầy), từ ngoài cổng nhìn vào là
dãy lầu nằm ngang, bước lên nhiều bậc cầu thang bằng gỗ
phía nhà vệ sinh, tới lầu rẽ phải phòng số 4. Rồi tôi
lại "lẩn thẩn" làm thơ theo cách của anh Cao Thanh Tùng. Tôi
viết TÊN, HỌ và CHỮ LÓT của các bạn nhưng chẳng hiểu
có đầy đủ chưa đây? Bài thơ không phải đường
luật, mà bài thơ có tới 12 câu như sau: NHỚ
BẠN LỚP ĐỆ THẤT "D" NĂM XƯA * gởi các bạn thân mến của tôi
Ẩn Bảo Bằng Bình Bảy Chí (1,
2) Dung Điền
Hai Lập Nghiệp Hiếu Tăng Nhung Nguyên Thành Tuấn Nghĩa Sanh Tâm
(1)Trạng Viện
Tiếp Vinh Môn Hiệp (1, 2) Phúc Trung Tỷ Tấn Tư Thanh Tây Trí
Tỏ Viễn
Long (1) Thịnh Thiệt Thạnh Sơn Hùng (1) Phước Long (2)
Phú Lợi Tâm (2) Măng Tiễng
Ngọc Thái Quan Công
Đức Hữu Trung Minh Tấn Huỳnh Thiên Hoàng Hồng Việt Hồng Thanh Thành Phước Hiếu
Lê Hùng (2) Lại Trương Đào Đặng
Tô Huỳnh Phạm Dương
Nguyễn Trần Ngô Lý Đỗ Ung. Xin chú thích:
- Các chữ viết Hoa đậm nét là
TÊN (51 bạn, hình như còn thiếu hai hay bốn bạn mà tôi
cố nhớ mãi không ra).
- Các
chữ viết xiên là CHỮ LÓT (trong số 51 bạn trên đây
chỉ có 19 chữ lót)
- Các
chữ viết Hoa thường là HỌ (trong 51 bạn lớp Đệ Thất
D có 18 họ)
- Số trong ngoặc đơn
(..) là chỉ các bạn trùng tên khác họ.
CÂU
1: Nguyễn Ngọc Ẩn
(ở Cần Thơ) Nguyễn Thái Bảo
(bán tạp hoá ở Cần Thơ) Nguyễn
Văn Bằng (ở Bình Minh) Nguyễn
Trung Bình (không biết tin) Đổ
Văn Bảy (ở Cần Thơ) Ngô
Hiếu Chí (1) (ở San Jose) Phạm
Văn Chí (2) (làm ruộng ở Mỹ Khánh Cần Thơ)
Huỳnh Trung Dung (ở Canada) [ vừa
qua đời 8:00 sáng ngày 9 tháng 3-2018] CÂU 2: Nguyễn Hữu Điền
(Cầu Trắng - Phụng Hiệp) Nguyễn
Văn Hai (không biết tin) Nguyễn
Thành Lập (không biết tin) Đào
Công Nghiệp (trường Đại học Cần Thơ) Nguyễn Văn Hiếu (Thợ May ở Rạch
Gòi Cần Thơ) [đã qua đời năm 2016] Huỳnh Phước Tăng (đi lính Quân Cảnh
- chết) Nguyễn Văn Nhung (ở
chợ Ô Môn Cần Thơ) CÂU
3: Huỳnh Ngọc Nguyên
(ở Chicago USA) Nguyễn Văn Thành
(tu ở chùa Nam Nhã ở Bình Thủy CT) Dương Anh Tuấn (đã chết trước
1975 ở Cần Thơ) Nguyễn Văn Nghĩa
(không biết tin) Đặng Thái Sanh
(bỏ lớp Đệ Lục D theo VC - chết) Nguyễn Văn Tâm (1) (không biết tin) Trần Trung Trạng (tu sĩ ở Sa Đéc)
CÂU 4: Lê Hoàng Viện (ở Houston Texas) Trần Thanh Tiếp (ở Virgina) Lý Vinh (không biết tin) Nguyễn Văn Môn (chết) Nguyễn Đức Hiệp (1) (chết); Tô
Thái Hiệp (2) (bỏ lớp Đệ lục D theo VC - chết)
Lại Hồng Phúc (ở
Cầu Trắng Cần Thơ) Trần Thanh Trung
(ở Melbourne VIC - Úc Châu) CÂU
5: Trần Tỷ (ở Canberra
ACT - Úc Châu) Đoàn Ngọc
Tấn (ở San Jose California) Trương
Quan Tư (Con thầy Trương Quan Liêm ở Cần Thơ ?)
Lê Văn Thanh (không biết tin)
Đỗ Thành Tây (tự sát
sau năn 1975) Nguyễn Hữu Trí (không
biết tin) Trương Văn Tỏ
(ở Thới Lai Cần Thơ) CÂU
6: Lương Minh Viễn (ở
Louisiana) Dương Huỳnh Long (1)
(ở Vancouver Canada) Trương Văn Thịnh
(không biết tin) Lê Văn Thiệt
(không biết tin) Ung Tấn Thạnh
(San Jose) Nguyễn Văn Sơn
(ở Hawaii) Hồng Việt Hùng
(thương phế binh cụt chân, ở VN) [chết] CÂU 7: Nguyễn Hữu
Phước (không biết tin) Nguyễn
Minh Long (2) (chết) Đặng
Thiên Phú (ở Nam California) Lý
Lợi (không biết tin) Nguyễn
Thành Tâm (2) (không biết tin) Huỳnh Văn Măng (ở Cần Thơ, có
lúc vấn thuốc lá lẻ vô bao để bán) Nguyễn Thành Tiễng (chết) CÂU
8: Chữ lót Ngọc
Chữ lót Thái Chữ lót Quan Chữ
lót Công Chữ lót Đức
Chữ lót Hữu Chữ lót Trung CÂU 9: Chữ lót Minh
Chữ lót Tấn Chữ lót Huỳnh Chữ
lót Thiên Chữ lót Hoàng
Chữ lót Hồng Chữ lót Việt CÂU 10: Họ Hồng
Chữ lót Thanh Chữ lót Thành Chữ lót Phước Chữ
lót Hiếu Họ Lê
Lê Văn Hùng (chạy
xe lôi ở Cần Thơ) CÂU 11:
Họ Lại Họ
Trương Họ Đào Họ Đặng Họ
Tô Họ Huỳnh Họ Phạm CÂU
12: Họ Dương Họ Nguyễn Họ Trần
Họ Ngô Họ
Lý Họ Đỗ Họ Ung (thiếu 1 chữ
lót Văn trong bài thơ, là chữ lót nhiều nhất trong lớp,
và chữ lót Anh chỉ có 1. Mong các bạn có chữ lót nầy
thông cảm tác giả, vì bài thơ chỉ có 84 chữ mà thôi.
Chữ Văn, chữ Anh nếu dùng thì nó là chữ thứ 86.)
Houston,
ngày 31 tháng 12 năm 2006 Cập nhật
và sửa chi tiết ngày 11 tháng 3 năm 2018 LHV ___________________________________________________________________________
LÊ CẦN THƠ (Houston - Texas) THẦY
ƠI... XIN GỞI "LỜI XIN LỖI MUỘN"
Tôi lặng người
nghe điện thoại báo tin "Mười
lăm phút nữa... Thầy Trường sẽ được rút ống"
Mười lăm phút nữa Thầy
sẽ giã từ cuộc sống (*) Sẽ xa rời mọi vướng bận kiếp nhân sinh...
Vừa đậu xe vào driveway chưa kịp tắt máy thì điện
thoại reo. Bên kia đầu dây anh Trần Bang Thạch hỏi tôi "có
biết tin gì chưa?". Tôi hỏi anh "tin gì?". "Mười
lăm phút nữa Thầy Trường sẽ được rút ống".
Tôi lặng người ngồi yên hằng mấy phút, thoáng trong đầu
mấy câu chữ trên đây... rồi tắt máy xe và lầm lủi
bước vào nhà định viết tiếp những dòng chữ về người
Thầy (dù tôi chưa học một giờ nào trong trường học với
Thầy) mà tôi hằng thương kính khi tiếp xúc ngoài đời
ở hải ngoại - cụ thể từ khi được gặp Thầy trong sinh hoạt
gia đình Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm tại Houston Texas khởi
đầu từ những ngày gần cuối năm 1995 cho đến bây giờ.
Vậy mà từ khi được tin cho đến suốt ngày hôm đó
(3 tháng 01-2018) tôi không viết thêm được dòng chữ nào,
bởi ngồi trước máy, trong đầu cứ dồn dập thoáng hiện
hình ảnh của Thầy, hết lần họp mặt nầy đến lần họp
mặt khác suốt hơn hai mươi hai năm qua, đan xen không lớp lang, không
trật tự nào hết. Khi thì trong buổi họp một nhóm anh chị cựu
học sinh tại nhà hàng Mekong hay nhà riêng của anh chị Lương
Minh Khóa, nhà hàng Kim Sơn, Ocean Palace, tiệm ăn trong khu chợ Lê Lai,
tại nhà Thầy Cô, tại nhà anh chị Đạt - Bích, anh chị Danh
- Nguyệt, anh chị Trang - Hoa, anh chị Nghi - Thơ, anh chị Tuấn - Thu Nguyệt, GS Đặng
Xiếu, anh chị Tước - Hương, anh chị Hạnh - Phước, anh chị Thoại
- Sương v.v..., tại địa điểm họp mặt đông đảo Club
House 9600 Keegan wood vùng South west Houston..., tại điểm sinh hoạt Duy Thành 8 trong
khu Downtown, trong các lần đại hội thế giới khắp nơi ở hải
ngoại. Đại hội lần đầu năm 1997 tại tửu lầu Kim Sơn Downtown
Houston, chợt nhiên tôi nhớ rất rõ Thầy đã được Ban
Tổ Chức và nhóm thực hiện giai phẩm số 2 kỷ niệm 80 năm
thành lập Trường, mời lên giới thiệu phát hành cuốn báo
một cách bất ngờ... khiến Thầy xúc động, vui cười giơ
cao cuốn giai phẩm mà đôi mắt Thầy long lanh ngấn lệ!. Rồi có
lúc nhớ hình ảnh của Thầy và Thầy Hồ Văn Chiếu phát
hành đặc san số 9 trong Đại hội thứ VIII-2004 tại Phoenix Arizona và
hình ảnh Thầy đang ngắm thắng cảnh du ngoạn Grand Cayon. Thấp thoáng
thấy hình ảnh Thầy, đôi khi cùng Cô dự các bữa cơm
hàng tháng của gia đình PTGĐTĐ Houston, lần nào không thấy
hiền thê tôi, Thầy đều hỏi "Sao chị không đi? Kỳ
rồi đọc bài Diễm Phượng trong Văn Hoá Việt Nam, nhà tôi
nhắc chị hoài!." Mới đây hình ảnh Thầy sừng sững
lên diễn đàn đọc lời chào mừng trước 756 Thầy Cô
và đồng môn về tham dự Đại hội XXI-2017 tại Houston Texas... Các lần
sinh hoạt của Hội Giáo Chức Houston mà tôi có dịp may tham dự,
nghe Thầy thuyết trình đề tài chọn lọc cũng thoáng hiện
lên trong tâm trí mình. Ảnh:
"Thầy xúc động, vui cười giơ cao cuốn giai phẩm mà đôi
mắt Thầy long lanh ngấn lệ!" Thầy
Nguyễn Văn Trường cũng là một trong ba người cộng tác
đặc biệt từ ban đầu với tạp chí VĂN HOÁ VIỆT
NAM tại Houston Texas phát hành số đầu tiên mùa Hè 1998 cho đến
hôm nay, là nhà văn Hương Giang Thái Văn Kiểm ở Pháp, BS
Nguyễn Lưu Viên ở Virginia (đều đã qua đời). Tạp chí
VHVN số 80 - mùa Xuân 2018 với bài viết mà tôi đã dàn
trang xong trong lúc Thầy còn khoẻ mạnh, Thầy nói với tôi "bài
viết nầy đã sửa chữa bổ sung đầy đủ hơn lúc nói
chuyện buổi họp mặt tưởng nhớ anh Võ Văn Nghi do chị Thơ tổ
chức hôm đó:"AI ĐIẾU TƯỞNG NHƠ BA NGƯỜI BẠN... ".
Không ngờ đây là bài viết sau cùng mà Thầy Trường
đã trao cho tôi để in trong VHVN. Có thể tôi sẽ sưu tập các
bài viết mà Thầy đã đưa lên trang nhà ptgdtdusa.com trước
đây để giới thiệu và gìn giữ những gì mà Thầy
đã bõ công sức viết ra để lần lượt giới thiệu
tiếp cùng bạn đọc trên tạp chí những số sau nầy.
Tôi biết rằng, sẽ có
nhiều bài viết tưởng niệm Thầy, viết về Thầy với sự
tôn kính, tiếc thương, với cái nhìn rất riêng biệt của
từng cây viết về Thầy. Phần tôi, chỉ xin nhắc lại chút
kỷ niệm mà mãi đến hôm nay, tôi lấy làm tiếc là...
đã không trả lời sự thật một chuyện mà hơn hai mươi
năm qua tôi đã "chưa nói thật" với Thầy, một
câu hỏi thật đơn giản. Năm đó... lần sinh hoạt gia đình
PTG & ĐTĐ Houston tại Club House 9600 Keegan wood, Thầy có nói đại ý
(không nhớ đầy đủ nguyên lời của Thầy): "Tôi
là Thầy giáo dạy môn TOÁN, từ thời đi học cho đến
đi dạy và mãi sau nầy, tôi vốn KHÔNG ĐỌC THƠ bởi KHÔNG
THÍCH THƠ. Nhưng vừa qua khi đọc cuốn giai phẩm số đầu tiên
mùa Hè 1996 do nhóm thân hữu cựu học sinh trung học Phan Thanh Giản
& Đoàn Thị Điểm tại Houston Texas Hoa Kỳ thực hiện, thấy trang
thơ "lục bát lê thị minh trang, mang tựa NGƯỜI DƯNG"rất
hay của một người con gái, tự nhiên tôi RẤT THÍCH THƠ.
Các bạn chịu khó về lật trang 109 của cuốn giai phẩm số đầu
tiên, sẽ thấy mấy bài thơ nầy, rất hay các bạn ơi".
Sau đó, Thầy có hỏi riêng tôi "anh biết tác giả
là ai không?". Tôi trả lời: "Thưa Thầy... đó
là một nữ sinh đang học lớp 12 còn ở Cần Thơ".
Trả lời với Thầy như vậy là tôi có lỗi rất nhiều,
vì tôi đã không nói thật với thầy. Sự nói dối
nầy khiến tôi bị "ray rứt" hoài, định tìm dịp để
thố lộ... nhưng lần lữa cho đến khi Thầy qua đời mà tôi
vẫn chưa "giải toả", khiến bây giờ tôi hối hận. Thà
cứ nói thật "có sao đâu?", vậy mà tôi vẫn không
làm được. Chi tiết nầy tôi đã có ghi trong tập thơ
đã in "NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG THƠ" - Bản Thảo Lưu Lại
- ký bút hiệu HUYỀN VÂN THANH, do Thư Ấn Quán của anh Trần Hoài
Thư giúp thực hiện năm 2007. Tập thơ dầy 264 trang mà từ trang
235 đến trang 254 tôi có tiết lộ việc nầy. Bởi số lượng
in không nhiều, nên tôi không phổ biến rộng rãi và chắc
Thầy cũng không có dịp đọc tập thơ nầy. Nơi trang 235, tôi có viết: CHÙM
THƠ KÝ TÊN LÊ THỊ MINH TRANG "Đây là chùm bài
rất đặc biệt, tôi đã viết và đã phổ biến với
tên LÊ THỊ MINH TRANG (là tên thật của một đứa cháu) suốt
nhiều năm. Tôi cố giữ kín chi tiết nầy, nhưng đây là
BẢN THẢO LƯU LẠI của một đời người, tôi buộc phải
đưa vào để lưu giữ lại chút kỷ niệm trong những ngày
tôi cho là "rong chơi trong rừng chữ nghĩa". Xin nói thêm đôi
điều như vậy, trước là để "minh oan" và xin lỗi
cháu tôi vốn chẳng làm thơ... và dịp nầy mời quý bạn
đi vào tâm sự của cô nữ sinh LÊ THỊ MINH TRANG".[sau những
dòng nầy là 24 bài thơ (trong đó có 6 bài in trong cuốn giai
phẩm mà Thầy đã đọc và thích), thêm một đoạn
văn ngắn CHỌN LẤY NIỀM VUI thay lời bạt cho chùm thơ Lê Thị
Minh Trang].
Bây giờ Thầy Nguyễn Văn
Trường đã vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng. Thầy ơi...,
một lần nữa, xin thầy tha thứ cho đứa học trò nầy "đã
dối Thầy một sự thật" khi trả lời câu hỏi của Thầy
về tác giả trang thơ NGƯỜI DƯNG mà Thầy nói là RẤT
THÍCH THƠ. Em đã thắp hương quỳ lạy khi viếng linh cữu Thầy
hôm qua tại nhà quàn Forest Park East Funeral Home. Và khi nhìn
mặt Thầy lần sau cuối hôm nay, em có thầm nói riêng "LỜI
XIN LỖI MUỘN' khi chắp tay xá vĩnh biệt Thầy với đôi mắt
rưng lệ của em, hy vọng bên kia cuộc đời mới, hương
linh Thầy sớm an nhiên tự tại và buông xả điều không nói
thật về tác giả mấy bài thơ mà Thầy nói là RẤT
THÍCH THƠ, khi biết được lời xin lỗi muộn của em,...
THẦY ƠI...
LÊ CẦN THƠ
07 tháng 01-2018
(*) theo
tin chánh thức của gia đình: rút ống trợ sinh đúng 12 giờ
30 trưa ngày 3 tháng 01-2018, và BS bệnh viện xác nhận tim Thầy ngừng
đập lúc 1giờ 45 phút, là ngày giờ Thầy đã vĩnh biệt
cõi nhân sinh. (LCT) _____________________________________________________________________________________________________________________
NHỚ CẦN THƠ (CHÀO MỪNG CẦN THƠ
HỌP MẶT ĐỒNG
HƯƠNG)
* Tặng đồng hương Cần Thơ
và những thân hữu có tấm lòng với Cần Thơ quê hương
tôi.
Dẫu xa đất nước quê nhà
Dù không
máu thịt ruột rà, vẫn thân
Đồng hương từ
khắp xa gần
Về đây họp mặt mừng Xuân ấm lòng.
Kể nhau
nghe nỗi hoài mong
Kể nhau chia sẽ tấc lòng đa đoan
Kể nhau
kỷ niệm vàng son
Kể nhau thành tựu cháu con mang về
Kể nhau
tình nghĩa phu thê
Kể nhau bao nỗi cận kề gian truân
Kể nhau,
kể mãi... tình thân
Phút giây họp mặt vạn lần...
bên nhau!
Quê hương - một thoáng xa lâu
Con đường,
góc phố, cây cầu, dòng sông
Làng quê, chợ quận...
nằm lòng
Vườn cây ươm trái, tràn đồng lúa
khoai.
Cái Răng, Bình Thủy, Xóm Chài,
Ô Môn,
Cờ Đỏ, Thới Lai, Bảy Ngàn
Ba Se, Bông Giếng, Kinh
Ngang,
Vàm Nhon, Ba Mít, Cả Lang, Trà Niềng
Xà
No, Cầu Nhiếm, Trường Tiền
Rạch Vông, Cầu Trắng,
Ba Ngàn, Xẻo Môn
Bà Vèn, Bang Thạch, Cái Muồng
Búng
Tàu, Lái Hiếu, Cây Dương, Lầu Bà
Cái
Sâu, Phú Hữu, Cái Da
Ngã Tư Giồng Đá, Xuân
Hoà, Rọc Ngay
Vàm Bi, Chệt Thợ, Hàng Xoài
Bà
Đầm, Thác Lác, Thầy Cai, Hàng Bàng
Lò Đường,
Kinh Dậy, Tổng Cang
Bằng Tăng, Trà Nóc, Thới An, Mái
Dầm
Bảy Thưa, Xáng Bộ, Cái Trâm
Rạch
Gòi, Cái Tắc, Láng Hầm, Bàu Hang
Thầy Cầu, Rạch
Ngổng, Cồn Khương
Ninh Kiều, Đầu Sấu, Lò Tương,
Rạch Bần
Đàn Tiên, Cầu Củi, Sáu Thanh
Rau Râm,
Ba Láng, Rạch Chanh, Long Tuyền...
Châu Thành, Phụng Hiệp,
Phong Điền
Thuận Trung, Phong Phú, dịu
hiền
Thuận Nhơn
Nghĩa tình Phong Thuận... (*)
mênh mang
Cái Côn nằm dọc Hậu Giang
hiền hoà
Cù lao Phong Nẫm (**) xa xa
Bần xanh
toả bóng nhập nhoà lung linh.
Câu hò sông nước
hữu tình
Chợt thương chợt nhớ bóng hình ngày
thơ...
Về Cần Thơ nhớ trường
xưa
Phan Thanh Giản mái rêu mờ bủa giăng
Nam
Hưng, Bassac, Hậu Giang
Đoàn Thị Điểm
nở muôn vàn hoa thơm
Đồng Tâm, Khải Trí, Trinh
Vương,
La San, Ngọc Phú, Thọ Nhơn, Bồ Đề
Saint
Paul - Văn Thanh cận kề
Võ Văn, Đức Trí,
nhớ về Hưng Văn.
An Thôn Trang, Thủ Khoa Huân,
Văn Hoá Quân Đội, Tân Văn
lặng thầm
Dạy nghề Tân Tiến chuyên cần
Nông
Lâm Súc đã ươm mầm xanh tươi
Cần
Thơ Đại Học vươn đời
Quê Hương
- Đất Nước - Con Người thăng hoa
Bỗng dưng oan trái
xót xa
Khiến người biệt xứ cách chia thâm tình...
"Ninh
Kiều bến nước đẹp xinh
Xa lâu mới thấy
Phong Dinh tuyệt vời
Dẫu đi cuối đất cùng
trời
Cũng không quên được tình người Cần
Thơ"
(khai bút đầu năm dương
lịch 01-01-2009)
LÊ CẦN THƠ
(Huyền
Vân Thanh)
[Thi văn VỀ NGUỒN - Tây Đô]
_____________
(*) Những
chữ viết Hoa in xanh đậm là tên 7 quận của tỉnh Phong
Dinh (màu xanh dương đậm) và tên các trường
học (màu xanh lá cây).
(**) Những chữ viết
xiên (màu đỏ đậm) là tên địa danh thường
gọi trong dân gian, có thể không có ghi trong bản đồ.
thơ
HUYỀN
VÂN THANH
(Về Nguồn - Tây Đô)
VIẾT
GIỮA MÙA XUÂN
1.HOA
TẾT AN BÌNH (*)
Ðất màu
mỡ thêm sức người vun bón
Hoa năm nay khoe sắc
thắm đẹp xinh
Giữa rừng hoa Tết nghe xao xuyến
Thương
đất quê hương đượm nghĩa tình.
2.GÓC
CHỢ HÀNG DƯƠNG
TRƯA HĂM CHÍN
Người
người hối hả lo mua sắm
Vai lấn chen vai chật phố
phường
Trưa nắng Cần Thơ đâu toả hết
Niềm
thương trong giếng mắt người thương.
3.GIAO
THỪA KHAI BÚT
Râm ran pháo nổ
giữa giao thừa
Mừng đón đầu năm rộn phố
khuya
Ngồi viết mấy dòng thơ khai bút
Mà
nghe lòng rộn nỗi sau xưa.
4.Ý
NGHĨ ÐẦU NĂM
Sáng nay đường
phố người thư thả
Ði giữa rừng hoa thắm sắc
màu
Ðất nước nghìn năm đang hiển hiện
Chợt
nghe thời khắc chớp qua mau!
Cần Thơ, Tết
Ðinh Mùi 1967
những ngày hưu chiến
________
(*) Ở Cần
Thơ, hằng năm vào dịp Tết, hoa tươi từ Sa Ðéc chở sang
bán rất nnhiều; tuy nhiên, người dân xã An Bình ven thành phố
Cần Thơ cũng trồng bông và cây kiểng mang ra Bến Ninh Kiều để
bán vào mỗi dịp Tết Nguyên đán.
HUYỀN
VÂN THANH
Về Nguồn - Tây Đô
NHỮNG SUY NGHĨ BAN ĐẦU KHI THEO DÕI XUYÊN SUỐT GIAI PHẨM
PHAN THANH GIẢN &
ĐOÀN THỊ ĐIỂM CẦN THƠ
HÈ 1998 SẼ RA MẮT TẠI
TORONTO CANADA NGÀY 4 THÁNG 7 NĂM 1998 VÀ TẠI HOUSTON TEXAS HOA KỲ VÀO ĐẦU THÁNG 8-1998.
LÊ CẦN THƠ (Lê Hoàng Viện) CHS. PTG 1960-1968 BBT:
Dưới đây là những suy nghĩ của tác giả Lê Cần Thơ
về Giai Phẩm số 3 PTGĐTĐ nhân ĐH II tổ chức
tại Toronto tháng 7/1998. ĐH XIX-Toronto 2015 cũng vừa chấm dứt tuần trước. Chúng tôi được biết bài viết nầy
đã đăng trên bán nguyệt san Dân Ta xuất bản tại Houston tháng
6/1998, nhưng chưa đăng trên ĐS PTGĐTĐ nên trong chuyên mục về
ĐH XIX của Trang Nhà tháng 7 nầy, chúng tôi xin trân trọng gởi
đến Quý đoc giả Trang Nhà bài viết nầy nhằm nhắc nhớ
lại giai đoạn đầu của bước đường thực hiện ấn
phẩm cần thiết cho mỗi lần Đại Hội. TBT 108 bài viết của 72
tác giả là Giáo Sư và cựu học sinh đồng môn trường
trung học Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ, do cựu học
sinh hai địa phương Houston Texas USA và Toronto Canada phối hợp thực hiện
nhân kỷ niệm ngày hợp mặt Hè 1998 tại Toronto Canada, là
một trường hợp đặc biệt mà người ta cho rằng đó
là con số "hên", con số cộng lại đúng "chín
nút" thật là hi hữu. Số tác giả, số bài viết,
số năm 1998... tự cộng hoặc cộng chung lại đều rơi
vào đúng con số 9, phải chăng đó là "điềm
hên" cho lần gặp gỡ nầy tại xứ lạnh tình nồng như
Canada? Giai
phẩm Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm năm nay là năm thứ
III tại Hải Ngoại, cựu học sinh hai trường đã kết hợp ngày
càng đông đồng môn, cùng chia sẻ những tâm tư tình
cảm của mình đối với trường lớp, Thầy Cô, bạn hữu
có chung dòng suy nghĩ về một mái trường - xem như một tổ
ấm tâm hồn của đời người trong thời niên thiếu, mà
bây giờ khó tìm thấy được trong cuộc sống. Những bài
viết đậm đà màu sắc "học trò" dù tuổi đời
đã cao, nhiều thế hệ nối tiếp nhau bước vào rồi lặng
lẽ đi ra cổng trường với nhiều cảnh ngộ khác nhau. Bây giờ
cựu học sinh ngày xưa có người đã thành danh, tên tuổi
lẫy lừng, có người cũng âm thầm sống bình lặng chẳng
ai nghe tên biết tiếng... Vậy mà, vì hai chữ "đồng môn"
mà đến với nhau, xích lại gần nhau thật đậm đà mật
thiết, xoá tan đi lằn ranh cách biệt của cuộc sống bon chen ngoài
xã hội - mà xã hội thì quá nhiều dị biệt về quan điểm,
xu hướng, lập trường v.v... kể cả hành xử trong giao tiếp hàng
ngày!
Có lẽ thấy được nhiều dị biệt và nhiều trạng huống
cứ hàng ngày diễn ra quanh cuộc sống, mà trang KHÉP NGÕ của
giai phẩm tôi đã viết: "Được kết quả như vậy,
trước tiên phải nói đến mọi tấm lòng của đồng
môn chúng ta - dù đôi khi va chạm quan điểm, ý kiến, nhưng
sau cùng vẫn thống nhất với nhau một điểm: vì trường
cũ, Thầy Cô và bạn hữu chung trường, chung lớp, vì tình
đồng môn cao quý, mỗi người lúc nào cũng mong được
xích lại gần nhau, cùng chia sẻ tình cảm yêu thương trong sáng,
bất vụ lợi. Chúng ta, đồng môn Phan Thanh Giản & Đoàn
Thị Điểm bước ra ngoài xã hội có quá nhiều dị biệt
về đoàn thể, quan điểm, chính kiến và phương cách
thể hiện cuộc sống, nhưng có chung một tấm lòng của người
Việt quốc gia chọn cuộc sống Tự Do làm căn bản, nghĩ rằng,
đồng môn chúng ta không nên biến tập thể mình thành một
đoàn thể riêng để ngã theo một xu hướng chính kiến
riêng nào, có thể sẽ sứt mẻ tình đồng môn và sẽ
phải đổ vỡ ý niệm chung mà mỗi cựu học sinh chúng ta mong
muốn vun bồi". Và gần cuối bài nầy, cũng đã bày
tỏ ý nguyện: "Hy vọng từ những năm tới, các địa
phương có đông đồng môn như California, các tiểu bang vùng
Đông Bắc Hoa Kỳ, các nước Pháp và Âu Châu, Úc Châu...
sẽ tiếp tục tổ chức họp mặt, tiếp tục xuất bản Giai Phẩm
như Houston Texas USA đã làm trong mấy năm qua. Dĩ nhiên mỗi nơi
có một sáng kiến riêng, một phương cách riêng, nhưng chúng
ta nghĩ, tất cả như một dòng chảy không ngừng, liên tục và
cùng hướng về một cội nguồn, một tổ ấm: "Mái
trường mang tên Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ
thân yêu của chúng ta".
Giai phẩm số đầu tiên xuất bản mùa hè 1996 được khởi
động trong sự dè dặt của nhóm thực hiện, vì chưa thể
ước tính được "tấm lòng" của đồng môn đối
với vùng kỷ niệm thời còn mài đũng ghế nhà trường,
bởi chưa bắc được nhịp cầu với nhiều nơi, nên tôi
đã nhờ họa sĩ Phạm Thông vẽ giúp mẩu bìa theo yêu
cầu - dù hoạ sĩ không phải là cựu học sinh của trường,
nhưng rất cảm thông với tấm lòng của chúng ta đối với
ngôi trường sắp bước vào tuổi 80 ở thời điểm đó.
Bây giờ, một lần nữa, tôi xin trang trọng biết ơn tài năng
và tấm lòng mà họa sĩ Phạm Thông đã thể hiện từ
giai phẩm đầu tiên của chúng ta.
Giai phẩm số 2 kỷ niệm 80 năm thành lập trường... đã thực
sự sử dụng "cây nhà lá vườn", họa sĩ nguyên là
cựu học sinh của trường thập niên 1950 là anh Nguyễn Đồng
từ California đã dành nhiều thời gian phác thảo và thực hiện
mẫu bìa, (vì số đầu hoạ sĩ Phạm Thông đã vẽ
cổng trường nên họa sĩ Nguyễn Đồng xoay qua sân trường
với tượng Cụ Phan). Năm nay cũng chính họa sĩ Nguyễn Đồng
thực hiện mẩu bìa là vẽ cổng trường Đoàn Thị Điểm,
là một tìm tòi độc đáo để phục vụ cho một trong
những chủ đề của giai phẩm năm nay. * Một là, vinh danh các cựu học
sinh đã hy sinh trọn đời hay một phần cuộc đời mình cho quê
hương, cho dân tộc; các nữ sinh cả hai trường thuộc nhiều
thế hệ đã trăm đắng nghìn cay khổ cực nuôi con, thăm
chồng, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của gia đình trong và
sau cơn quốc nạn 30 tháng 4 năm 1975. * Hai là, xin dành một phần sáng
tác để giới thiệu về "CANADA, đất nước, con người"...
trong đó có "con người" đồng môn của chúng ta đang
sinh sống và nhất là đang tất bật chuẩn bị tổ chức họp
mặt đại gia đình Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần
Thơ tại hải ngoại Hè 1998.
Do vậy, giai phẩm III đã thể hiện qua các cụm bài: VINH DANH NHỮNG
BÀ VỢ CHÚNG TA, TẤM LÒNG CANADA, TRƯỜNG TÔI TRONG TRÍ NHỚ,
AI MẤT CÒN AI GIỮA LẶNG THẦM, CẦN THƠ ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI,
NGHỆ SĨ CỦA CHÚNG TA... và SINH HOẠT GIA ĐÌNH CHÚNG TA.
Đề tài
liên quan đến "tên trường" là một sự
xuyên suốt của những giai phẩm qua, chứng tỏ việc mong muốn hoàn
trả lại tên trường Phan Thanh Giản mà một đòi hỏi xác
thực, là tâm nguyện không những của cựu học sinh hải ngoại
mà ngay cả trong nước, đồng môn chúng ta cũng đang mong mỏi
sớm được thực hiện. "Cái gì của Césa phải trả
lại cho Césa"! Cho nên, nhìn bức ảnh từ trong nước gởi
ra in nơi trang 73, ai trong chúng ta cũng bùi ngùi xúc động và sung
sướng. Biểu ngữ "BUỔI HỌP MẶT CỰU HỌC SINH TRUNG HỌC PHAN
THANH GIẢN LẦN THỨ 7 -1998" đã treo ngay cổng trường ngày trước,
che mất cả tên trường hiện hữu hôm nay, mà dòng chú thích
của ảnh, chúng tôi dùng các chữ "đã nằm đúng
chỗ tại cổng chánh năm xưa của trường chúng ta".
Đề
tài Vinh Danh Những Bà Vợ Chúng Ta được thể hiện
đậm nét trong bài viết cùng tựa của tác giả Phạm Bá
Hoa, bên cạnh có truyện ngắn Bên Bờ Vực Thẳm của
tác giả Nguyễn Thị Nhung, hay chùm thơ diễn tả tâm trạng phụ
nữ trong cuộc sống và tình cảm của Diễm Phượng, có trang
ảnh "Chia Sẻ Niềm Vui" và bài thơ viết tặng vợ...
đều tập trung cho mảng đề tài nầy. Canada tổ chức họp mặt, đề
tài dành cho miền "đất lạnh tình nồng" nầy
đã nêu bật với các bài Bông Hồng cho Canada, Một thoáng
Canada, Mời em lên kiệu, Thiền trong lớp học, Niềm nhớ, Nỗi lòng
v,v... Viết thế nào Cần Thơ vẫn là đề tài gần gũi
với mọi tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước.
Chúng ta có Xóm Cái Khế và Cầu Bac, Cần Thơ
có Bến Ninh Kiều, Cần Thơ của bạn của tôi,
Cần Thơ là xứ ăn chơi..., và bài viết bổ sung
tư liệu quý báu về việc trùng tu mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu
Nghĩa do chính Giáo sư Phan Thông Hảo (trong cuộc) kể lại qua bài
viết Những Bàn Tay Nhỏ Bị Lãng Quên, kèm hình ảnh
thật sinh động. Từ đó, trang bài NGHỆ SĨ CỦA CHÚNG TA,
anh Cao Nghi Bình đã viết về cựu học sinh Hoạ sĩ Nguyễn
Đồng và tác phẩm Quê Nhà Nơi Đất Lạ, và
có bài đọc sách GIỮ LẠI CHO ĐỜI MỘT CHÚT HƯƠNG
tập truyện của Diễm Phượng thuộc gia đình Phan Thanh Giản &
Đoàn Thị Điểm vừa mới được NXB Đại Học Đông
Nam phát hành tại hải ngoại, là bài viết của một niên
trưởng trong nhóm thực hiện giai phẩm. Sinh, Lão, Bệnh, Tử là một vòng
xoay của cuộc sống. Thế nhưng đối với mỗi chúng ta, sự ra
đi vĩnh viễn nào cũng có niềm đau và nỗi buồn đong đầy
trong tâm khảm. Giai phẩm số 1 chúng ta có gợi lại cái chết
của cựu học Mai Huỳnh Văn; giai phẩm số 2 chúng ta có
đề cập đến cái chết của chị Đinh Thị Quỳnh Lan
và anh Lê Công Sinh (tức nhà thơ Kiều Tâm Khánh)
và tất cả đều mất ở trong nước. Giai phẩm số 3, xúc
động hơn, bàng hoàng, chúng ta vĩnh viễn mất một niên trưởng
mà chỉ mấy tháng trước đây đã làm trưởng nhóm
lo tổ chức Đại Hội kỷ niệm 80 năm thành lập trường,
đó là cựu học sinh, Cựu Đại Tá Huỳnh Vĩnh Lại
[(anh mất lúc 2 giờ 10 phút sáng ngày 19 tháng 3 năm 1998, nhằm
ngày 21 tháng 2 năm Mậu dần tại Houston Texas Hoa Kỳ, hưởng thọ
66 tuổi)]. Bởi vậy, có bài viết Vĩnh Biệt Anh, Anh Lại,
có bài Gởi Theo Anh và bài Tình Khúc Cuối Cho
Em... xem như biểu lộ những tấm lòng dành cho nhau. Trước đó
chúng ta đã mất các anh niên trưởng Trung Tướng Trần
Văn Minh (tư lệnh Không Quân), Đại Tá Võ Văn Sĩ
(không đoàn 63 Chiến Thuật) v.v... Thầy Võ Văn Lợi
(Cựu GS Lý Hoá PTG & ĐTĐ 1960- 1963) đã được nhiều anh
chị cựu học sinh hai trường thương mến cũng đã vĩnh viễn
ra đi ở tuổi 62 vào ngày 17 tháng 4-1998 tại California Hoa Kỳ. Khi trang
bản thảo giai phẩm đã giao cho nhà in thì hay tin Giáo sư
Phạm Minh Đức dạy Sử Địa đã qua đời tại Pháp,
nhưng không thể bổ sung được là điều đáng tiếc
cho nhóm thực hiện.
Nổi bật nhất vẫn là đề tài TRƯỜNG TÔI TRONG TRÍ
NHỚ. Nhiều cựu học sinh đã cố lục tìm trong tâm trí
mình những thiết thân, gần gũi, những kỷ niệm hằn sâu mà
mấy mươi năm qua đã chìm trong quên lãng, nay vực dậy như
mới xảy ra hôm nào! Càng đọc càng thấy thương, thấy
nhớ, thấy tiếc nuối, ngậm ngùi... để rồi, bất chợt từ
trong sâu thẳm tâm hồn, đã hỏi AI MẤT, CÒN AI GIỮA LẶNG
THẦM? Vâng, câu hỏi đó đã đáp lại bằng 17 trang
ảnh xưa cũ (mà hai cuốn giai phẩm trước chỉ có 7 trang, rồi
12 trang). Rải rác suốt tập giai phẩm, những hình ảnh sinh hoạt cũ
mới được đưa lên như để nhắc trong chúng ta những
tình cảm yêu thương, sâu đậm, dù sao cũng khó mà nhạt
phai, khó mà quên đi, dù cuộc sống có nhiều đổi thay,
biến động - đôi khi cảm tưởng như vĩnh viễn xa rời trong
cả cuộc đời mình!
Dĩ nhiên, giai phẩm số 3 nầy cũng đạt kỷ lục về... hình
thức lẫn nội dung. Giai phẩm số 1 dầy 256 trang, trong đó có 212 trang
bài viết; thì giai phẩm số 2 dầy 328 trang với 280 trang bài. Giai phẩm
số 3 vượt lên 356 trang, mà bài viết đã chiếm 316 trang... Từng
câu văn, dòng chữ, đoạn thơ, hay từng ý, từng lời biểu
hiện của mỗi bài, mỗi tác giả có khác nhau, nhưng chung quy
đều hướng về một điểm: tấm lòng sáng trong, chân
thật của cựu học sinh đối với trường cũ, thầy cô và
bạn hữu ngày xưa, về quê hương, đất nước, con người
nơi mình được sinh ra, lớn lên, và nơi mình đang sống
trong những ngày cuối đời. Dù tâm tư tình cảm mỗi
tác giả có khác nhau, nhưng đâu ai buộc phải đi theo một
quỹ đạo sáo mòn để khi đọc lên phải nhàm chám?
Là một thành
viên trong nhóm thực hiện giai phẩm lần nầy, với suy nghĩ bước
đầu khi đọc xuyên suốt bản thảo giai phẩm số III, tôi rất
vui mừng, vì phần nào hiểu được, ít ra trong cuộc sống
nầy, dù ai cũng bận rộn lo cơm áo gạo tiền, lo thoả mãn
những nhu cầu cuộc sống, nhưng... hễ khi có dịp gợi lên những
kỷ niệm êm đềm của một thời áo trắng, là ai cũng sẵn
sàng dành hẳn một góc để cùng sẻ chia. Và nhờ vậy
mà tình đồng môn thắm đượm, lòng tôn
sư trọng đạo được trang trọng tôn thờ. Tôi vô
cùng thắm thía những câu ca dao, tục ngữ đã kẻ lên tường
của ngôi trường ngày xưa, những câu đó đã in sâu
trong tâm khảm khó thể phai mờ. "Không Thầy đó mầy làm
nên", "Trọng Thầy mới được làm Thầy, Những phường
bội bạc sau nầy ra chi"...
Để kết thúc những dòng suy nghĩ nầy, tôi xin phép anh Trần
Bang Thạch được trích lại ở đây bài thơ của anh đã
chọn đăng nơi trang 53 của giai phẩm, giới thiệu cùng bạn đọc:
BỐN MƯƠI NĂM ĐỌNG LẠI NƠI ĐÂY cho đêm Hội Ngộ
PTG & ĐTĐ 8-2-97 Đâu có ngờ gặp
em đêm nay
Sân cỏ mượt rộn ràng tiếng dế Mái ngói rêu phong cũng thành
tuổi trẻ
Gốc cổ thụ bên nhà bỗng hoá thanh xuân.
Em mượt mà như thuở mười lăm Thuở nữ sinh trâm cài lược
giắt
Tôi cũng thấy mình chàng trai Đệ Nhất Áo trắng quần xanh rộn
rã sân trường.
Có chút
gì như chút yêu thương
Còn sót lại từ đây bốn mươi năm trước
Em thuở đó
làm sao hiểu được
Em làm sao hiểu được tình yêu.
Nên tôi cứ làm người lẽo đẽo theo sau Cứ ra vẻ thật thà đứng
đắn
Em bước nhỏ chim khuyên liến thoắng Có bao giờ em rảnh đọc tim
tôi. Nên hồn nhiên em cứ nói
cười
Cứ chao lượn tung tăng cánh mỏng Cứ theo gió theo mây vào những vùng
trời cao rộng
Tôi vẫn thật thà nên để lạc đường bay.
Rồi bốn mươi năm đọng lại nơi đây Tôi muốn đêm
nay đêm dài thêm một chút Để được nghe em nói cười
như trước
Để bù trừ tôi đã mất bốn mươi năm.
TRẦN BANG THẠCH
Houston,
đầu tháng 6-1998 (đã đăng
trên BNS DÂN TA tại Houston TX đầu tháng 6-1998) LÊ CẦN
THƠ __________________________________________________________________________________________________
. SUY NGHĨ RIÊNG TÔI VỀ ĐẠI HỘI XII GIA ĐÌNH PHAN THANH GIẢN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM CẦN THƠ HẢI NGOẠI 2008 TẠI
CALGARY – TỈNH BANG ALBERTA CANADA bài và ảnh
của LÊ HOÀNG VIỆN (Houston, Texas – USA) . Bài dưới đây viết
về ĐH PTGĐTĐ Hải Ngoại lần XII tổ chức tại Calgary, Alberta, Canada
năm 2008. Đúng ra thời điểm thích hợp nhất để bài này
xuất hiện là ngay sau Đại Hội XII, nên Tác giả đã gởi
cho BBT Đặc San 14 của ĐH XIII tại Nam Cali để giới thiệu 1 ĐH được
dư luận xem như là một trong những ĐH thành công nhất. Một
ĐH với nhiều giọt nước mắt trong niềm xúc động ngọt
ngào của tình nghĩa Thầy Trò nồng ấm. Tiếc thay vì lý
do nào đó mà bài này không có mặt. ĐH XVII tại Hawaii kết thúc vài tháng
nay với nhiều âm vang và ĐH XVIII tại Phoenix, AZ, sắp khai mạc trung
tuần tháng 10/2014. Cho nên vào thời điểm này, BBT Trang Nhà
xin giới thiệu bài viết để hy vọng góp phần nhỏ cho nội
dung chương trình trong việc tổ chức 1 ĐH: Vui họp mặt theo
truyền thống Tôn Sư Trọng Đạo và Tình Nghĩa Đồng Môn
để mỗi ĐH là 1 Kỷ Niệm Đẹp. TBT T
ôi không tường thuật chi tiết Đại Hội
XII – 2008 đã diễn ra trong ba ngày 18 – 19 và 20 tháng 7 năm 2008
tại Calgary thuộc tỉnh bang Alberta CANADA vì nghĩ rằng có nhiều
đồng môn tham dự sẽ thực hiện và phổ biến diễn tiến
đó trong điều kiện có được của mình. Ở đây
tôi chỉ nêu lên những suy nghĩ riêng tôi về một đại
hội, có thể do cảm nhận khách quan của mình, cho là “nhiều đổi mới, nêu bật lòng “Tôn Sư
Trọng Đạo” và “thật sự sum họp - ấm cúng trong một
đại gia đình PTG & ĐTĐ” đúng như lòng mong ước
của mình suốt 12 lần tham dự đại hội đã qua. Dĩ
nhiên cảm nhận đó có thể không được sự đồng
nhất của nhiều người, nhưng nếu tôi không nói hôm nay...
để một thời gian sau mọi sự đã rơi vào quên lãng là
điều đáng tiếc. Tôi xin đề cập thẳng các điểm
đặc biệt đó, có khi phải dài dòng để diễn đạt
ý mình.
1. Trước hết là
nghi thức khai mạc. Phần đông trước
khi vào nội dung chính của chương trình là phần chào quốc kỳ và hát quốc ca (Canada và
VNCH) đến phút mặc niệm là
xong. Nhưng ở đại hội lần nầy, trước khi nhạc mặc niệm
gần chấm dứt là tiếng sáo đưa theo âm thanh từ nhỏ đến
lớn dần để một giọng nữ ngâm bốn câu thơ trích trong
các giai phẩm, đặc san từ số đầu tiên đến số 13 được
sử dụng cho chuyên mục giới thiệu TRANG ẢNH LƯU NIỆM: “Xa tắp rồi em những tháng năm. Sân trường lớp
học đã mù tăm. Bạn bè ngày cũ giờ trôi giạt. AI MẤT,
CÒN AI GIỮA LẶNG THẦM?”... đã minh hoạ thêm cho
giây phút thiêng liêng mặc niệm tưởng nhớ đến Thầy
Cô và đồng môn quá vãng thật xúc động trong không
khí nghiêm trang, sâu lắng. Được biết, đây là sáng
kiến của một thành viên trẻ trong ban tổ chức, nhưng để được
chấp nhận đưa vô chương trình không phải là chuyện dễ
dàng. Qua những lần ráp nối, tập thử từ lúc không có
đệm sáo đến khi âm thanh của tiếng sáo được hoà
quyện vào giọng ngâm ở những lần tập sau cuối, đã gây
được sự đồng thuận của toàn ban tổ chức mới chính
thức xuất hiện trong đại hội lần nầy.
2. Phần trao
Plaque luân lưu. Thông lệ thì Trưởng Ban Tổ Chức đại hội năm trước
2007 (CHS Võ Lê Thơ) được mời lên để trao Plaque luân lưu
cho Trưởng Ban Tổ Chức năm nay 2008 (CHS Lư Hinh). Nhận được Plaque
luân lưu xem như chính thức nhận lãnh trách nhiệm và Trưởng
Ban Tổ Chức sẽ đọc diễn văn tuyên bố khai mạc đại hội;
địa phương nầy sẽ lưu giữ Plaque cho đến đại hội năm
sau lại tiếp tục bàn giao qua nghi thức trao plaque như vậy. Nhưng sáng kiến mới của BTC Calgary là, khi đồng môn Trưởng
Ban nhận được Plaque, không đọc diễn văn khai mạc, lần lượt
chuyền tay cho tất cả thành viên trong BTC với lời giới thiệu tên
từng người khi được cầm tấm Plaque giơ cao trong niềm hân hoan
cho đến người sau cuối (được sắp xếp di chuyển
đến đứng xen chính giữa giơ cao lên) rồi tất
cả đồng hô to bốn chữ “KHAI MẠC ĐẠI HỘI” vang cả
hội trường. Công việc thật sự
đã diễn ra rồi xem như đơn giản, nhưng suốt mười một
lần đại hội trước, chưa có ai nghĩ ra được sự tổng
hợp vai trò tổ chức nầy. Để có được
hình ảnh biểu hiện sự đồng nhất như thế, tôi nghĩ chắc
BTC đã phải hội họp, bàn bạc tranh cãi nhiều lắm mới thông
qua được. Bởi vì không riêng người Trưởng Ban Tổ Chức
phải đọc lời phát biểu với bài viết sẵn, mà với
sự tuyên bố ngắn gọn trên đã chứng minh được giây
phút hân hoan nhất khi toàn ban tổ chức cùng tuyên bố, xem như
chính mình đã long trọng nhận lãnh trách nhiệm chớ không
riêng một người. Điểm nổi bật qua sáng kiến mới chính
là ở chỗ nầy – niềm vui và hãnh diện ở chỗ nầy. Chú thích ảnh 1&2: CHS Võ Lê Thơ (trưởng ban tổ chức XI-2007) trao Plaque
luân lưu cho CHS Lư Hinh (trưởng ban tổ chức ĐH XII – 2008) và các
thành viên lần lượt nhận để sau đó tất cả đồng
hô to 4 chữ KHAI MẠC ĐẠI HỘI vang cả hội trường.
3. Lòng “Tôn Sư Trọng Đạo” gây xúc động đến
rơi nước mắt. Tôi từng là thành viên trong BTC hai lần đại
hội tại Houston, và cũng đã tham dự tất cả 12 lần đại
hội toàn thế giới (kể cả lần nầy), mới khám phá ra lòng
“Tôn Sư Trọng Đạo” được tô đậm nét ở
kỳ Đại Hội XII – 2008 tại Calgary.
Làm sao không dằn được nước
mắt khi thấy trên sân khấu quý Thầy Cô được trân trọng
mời lên ngồi trên những chiếc ghế có chỗ dựa, nhìn xuống
hội trường, mà tất cả bên dưới là môn sinh và gia
đình, không có nhiều quan khách hay thân hữu bên ngoài gia
đình PTG & ĐTĐ như các năm trước. Có thể nói thành
phần tham dự Đại Hội lần nầy đúng là họp mặt gia đình
cựu học sinh trung học PTG & ĐTĐ Cần Thơ từ khắp nơi trên
thế giới về đây sum họp – nói rõ hơn là vui “XUÂN
TRONG NẮNG HẠ”, vì trước khi mời quý Thầy Cô lên sân
khấu, với tiếng trống thúc giục đoàn lân từ ngoài cửa
vào, gợi nhớ những cái Tết năm xưa nơi quê nhà. Ba đầu lân đã múa chào Thầy Cô và đồng
môn rồi một lên sân khấu, một bên góc phải và một
ở giữa hội trường tiếp tục múa. Trước khi kết thúc,
mỗi đầu lân đã phun ra một tấm biểu ngữ mang dòng chữ:
“CHÀO MỪNG THẦY CÔ”. “ĐỒNG MÔN THÂN HỮU”.
“THAM DỰ ĐẠI HỘI”... trong tiếng vỗ tay cả hội trường.
Chú
thích ảnh 3: Múa
lân chào mừng Đại Hội. Ba đầu lân đã “phun” ra
3 tờ liễn: CHÀO MỪNG THẦY CÔ (Nguyễn Kim Long – bìa phải), ĐỒNG
MÔN THÂN HỮU (Lê Tuấn Khải – bìa trái), THAM DỰ ĐẠI
HỘI (Lư Hinh – giữa, cầm). Đồng môn Diệp Tấn Thông bước ra cúi chào
Thầy Cô và anh đã phát biểu (xin lược ghi đầy đủ
lời phát biểu nầy):
Kính thưa Thầy.
Kính thưa Cô, Lẽ ra hàng năm –
mỗi độ Xuân về – chúng con phải đến tận nhà
Thầy để thăm viếng, để chúc THỌ, để TỎ LÒNG HIẾU
ĐẠO – Công Thầy Ơn Cô đã chăm lo dạy dỗ chúng
con trở thành những người có tri thức, có đạo nghĩa để
phụng sự cho quê hương đất nước.
Nhưng vì thời cuộc, vận nước đổi thay, Thầy trò chúng
ta mỗi người phải xa quê đi mỗi ngã. Mùa Xuân cũng biền
biệt mù tăm. Có chăng là những ngày Đông lạnh, Thu buồn,
ngồi hẩm hiu nhớ về ngôi trường cũ, đếm lại bạn cũ
trò xưa, nhẩm lại xem Ai mất còn ai giữa lặng thầm! Kính thưa Thầy, Kính thưa
Cô,
Dù mùa Xuân không còn trên đất khách;
dù hoàn cảnh chúng con ly hương tản mạn, vất
vả khó khăn. Cho dù ... và dù lý do gì đi nữa,
chúng con luôn cảm thấy mình thật có lỗi vì
phải để Thầy Cô tuổi đã già, sức đã yếu mà
còn phải vất vả lặn lội ngàn trùng về dự Đại Hội
hàng năm, để thăm lại những đứa học trò một thời
ngỗ nghịch của mình.
Chú thích ảnh 4: Mời quý Thầy, quý
Cô lên ngồi hàng ghế đặt trên sân khấu nhìn xuống,
CHS Diệp Tấn Thông bày tỏ lòng “tôn sư trọng đạo”,
BTC đã mang dâng “trà Hiếu Đạo” và khoát lên vai
Thầy Cô chiếc “áo Nghĩa Tình”. Xin kể từ trái sang phải:
GS Nguyễn Trường Hải, GS Phan Thanh Thư (hai GS đã bị khuất sau Diệp
Tấn Thông), GS Chung Phước Khánh, GS Nguyễn Trung Quân, GS Phạm Văn Đàm,
Thầy Hồ Văn Chiếu, GS Lưu Khôn, GS Nguyễn Văn Bằng, Cô Trương
Thị Bích Thủy (phu nhân cố GS Trương Quang Minh), GS Huỳnh Thị Hoàng
Mai, GS Nguyễn Thị Hường và GS Phan Thoại Cúc. Dù
vẫn biết rằng, Thầy không BUỒN, Cô không TRÁCH,
nhưng chúng con luôn cảm thấy mình thật BẤT ĐẠO;
và hôm nay xin được dâng chén TRÀ HIẾU ĐẠO
nầy để tạ lỗi cùng Thầy Cô...
Các bạn trong ban tổ chức
đã bưng các tách trà ra mời từng Thầy Cô với lòng
cung kính khiến mọi người bên dưới chứng kiến hình ảnh
tuyệt vời của “Tôn Sư Trọng Đạo” mà đồng môn
Thông vừa nói “xin được dâng chén trà hiếu đạo
để tạ lỗi cùng Thầy Cô”. Bạn Thông rưng rưng nước
mắt, tiếp:
Kính thưa Thầy, kính thưa Cô,
Trải dài trong đời sống đã qua và ngay cả trong tương
lai, chắc hẳn Thầy Cô có nhiều lúc rất vui, rất hãnh
diện, rất mãn nguyện khi nhìn thấy HỌC TRÒ mình, con
cháu mình đã được THÀNH DANH, HIỂN ĐẠT.
Bên cạnh đó, chắc không sao tránh khỏi những tháng ngày
CÔ ĐƠN, QUẠNH QUẼ, thậm chí đôi khi lại
âm thầm chịu đựng một cơn đau nào đó đang hoành
hành trong thân thể của mình. Thầy Cô không muốn thố lộ cùng
ai, vì sợ con cháu, học trò của mình thêm bận tâm lo lắng. Chú thích ảnh 5: Dòng chữ thêu trên chiếc “áo Tình Nghĩa”.
Để được chia xẻ
cùng Thầy Cô trong những tháng ngày CÔ ĐƠN, LẶNG LẼ
đó, chúng con xin được khoát lên vai Thầy Cô chiếc áo
NGHĨA TÌNH, chất chứa tất cả tấm lòng TÔN
SƯ TRONG ĐẠO của chúng con, và mong Thầy Cô cảm nhận
được: Chúng con luôn ĐANG Ở BÊN THẦY CÔ
và MÃI MÃI NHỚ ƠN THẦY CÔ. Khi bạn Thông phát biểu gần cuối,
các thành viên trong BTC đã lần lượt
bước lên bên phải sân khấu, rồi đi hàng dọc
đứng phía sau mỗi Thầy Cô. Mọi động tác rất đều
đặn và cân xứng, để khi bạn Thông nói “Chúng con xin được khoát lên vai Thầy Cô chiếc áo
NGHĨA TÌNH... thì các chiếc áo đó
được cung kính quàng lên vai Thầy Cô. Chiếc áo phía trước
có thêu hiệu đoàn Thanh Thanh Giản,
hai bên có chữ PTG & ĐTĐ và dòng
chữ Đại Hội XII – 2008 Calgary –
Alberta – Canada bên cạnh lá cờ đất nước Canada. Nếu bạn có
máy quay phim ghi được hình ảnh đầy xúc động nầy, và
máy được “lia” qua từng bàn sẽ nhìn thấy được
những giọt nước mắt làm nhoà đi những đôi kính lão
trong khắp hội trường. Chính tôi cũng ràn rụa nước mắt
trước hình ảnh vô cùng xúc động và quý hiếm nầy
trong một phòng của nhà hàng chứa trên 250 người thật sự
trong gia đình PTG & ĐTĐ mà không có thân hữu bên ngoài.
Đây cũng là điểm son mà BTC đã tạo được nét
mới cho đại hội lần nầy. 4. Phát hành Đặc san 13. Đặc
san để trên bàn đặt giữa sân khấu, có đậy bằng
lá cờ hiệu đoàn PTG & ĐTĐ màu xanh dương đậm. Khi
giới thiệu ra mắt mới được giở ra và đưa lên trình
diện trước hội trường. Cũng không chuyển đặc san đến
từng bàn như các đại hội trước đã làm, BTC nêu
lý do không phát tại chỗ ngại bị thức ăn trên bàn có
thể làm dính dơ, mời tất cả khi kết thúc đại hội,
khi ra cửa sẽ được nhận tận tay để mang về lưu niệm. Đây
cũng là một ý kiến cần trân trọng, bởi vì, tôi nghĩ rằng BTC muốn mọi người cùng theo dõi
diễn tiến phần còn lại của chương trình, nếu có cuốn
báo trên tay sẽ bị phân tâm và làm cho không khí họp
mặt trong hội trường sau khi phát hành báo sẽ ồn ào và
loãng dần đi. Đó là không đề cập tới
việc người tham dự ra về trước khi kết thúc đại hội. N hư ban đầu tôi có nêu, “tôi không tường
thuật chi tiết Đại Hội...”, nên không dám lạm bàn
đến nhiều vấn đề “gai góc” khác. Tôi chợt Chú thích ảnh 6: Bìa Đặc san 13 phát
hành tại Đại Hội 2008 tại Calgary Canada. nhớ đến ý kiến của đồng môn Phan Thị
Thu Mai, một thành viên trong BTC đã viết trong LÁ THƯ THÁNG BA đăng
trên trang nhà ptgdtdcanada.com, sau đó trang nhà ptgdtdusa.com đã giới
thiệu lại trên mục HƯỚNG VỀ ĐẠI HỘI 2008. Kết thúc
lá thư nầy Thu Mai viết: “những thành viên
“trẻ trẻ” trong BTC đều bận đi làm toàn thời gian, không
thể cáng đáng phần ẩm thực cho ngày Tiền hội, nên đành
liều mà đặt mấy trăm phần ăn buffet tại nhà hàng chứ
không phải giàu có chi cả” và “Nỗi
ưu tư của quý Thầy Cô và Niên trưởng là làm sao có
được “những thế hệ tiếp nối” để Đại hội
hằng năm của trường chúng ta mãi còn tiếp tục và tiếp
tục tổ chức, cho nên nhóm người “trẻ trẻ” Calgary chúng
em đã can đảm tiên phong đứng lên, ước mong Đại gia đình
PTG-ĐTĐ hải ngoại dang tay đón đỡ, xin hãy ủng hộ và
giúp đỡ chúng em: ỦNG HỘ TUYỆT ĐỐI và GIÚP ĐỠ
TỐI ĐA để những kỳ Đại hội sau sẽ còn thêm những
đôi vai dám đứng ra gánh vác”. Lời “trần tình” đó, qua 3 ngày Đại Hội
đã chứng minh được sự trung thực của nó. Ngoài các
anh Lư Hinh, chị Lê Ngọc Bạch và anh Ngô Minh Hoàng, anh Nguyễn Kim
Long... là thế hệ rời trường giữa thập niên 1960 về trước...,
còn lại đều rời trường vào thập niên 1970 như Diệp
Tấn Thông, Phan Thị Thu Mai, Nguyễn Ngọc Thạch, Thái Thị Danh, La Mỹ
Yến, Lê Tuấn Kiệt, Đặng Thành Tài,... thậm chí Lê Tuấn
Khải rời trường năm 1980. Có già có trẻ cùng nhau chung lo tổ
chức Đại Hội là một yếu tố cần thiết, quan trọng... để
mang lại hiệu quả, bởi tôi bắt gặp ở đó từng vụ việc
đưa ra bàn bạc đều có sự đắn đo cân nhắc của
người lớn tuổi và tính năng động tháo vát của thế
hệ trẻ. Mọi người ai cũng “hy sinh” điều kiện và thời
gian của riêng mình để lo cho Đại Hội. Chẳng hạn vợ chồng
Nguyễn Ngọc Thạch – Thái Thị Danh đã hai lần về lại Cần
Thơ để chạy lo đủ điều, từ hình ảnh, tài liệu
đặc biệt, đến phông màn trang trí sân khấu, tiếp xúc
và thực hiện Video clif (đáng lý có một công trình to lớn
khác để trình chiếu trước đại hội, nhưng không thành
vì nhiều vấn đề tế nhị và cũng để an toàn cho
Chú thích ảnh 7: Toàn BTC Đại Hội (từ trái sang phải): Lư Hinh, Lê Tuấn
Kiệt, Đặng Thành Tài, Lê Tuấn Khải, Thẩm Khang, Trương Thị
Mỹ Nhung, Lê Thị Thanh Thủy, Lê Ngọc Bạch, Phan Thị Thu Mai, Thái Thị
Danh, La Mỹ Yến, Nguyễn Thị Anh Phụng, Nguyễn Kim Long, Diệp Tấn
Thông, [(trong ảnh thiếu Ngô Minh Hoàng (đứng bên phải Lư Hinh
và Nguyễn Ngọc Thạch đứng bìa bên trái Diệp Tấn Thông
chỉ thấy nửa mặt, máy ảnh không ghi được, thành thật
xin lỗi)]. quý Thầy Cô còn
đang ở quê nhà), lại còn túc trực tại phòng 911 của khách
sạn Delta để trực tiếp giải quyết suốt thời gian Đại Hội.
Anh Nguyễn Kim Long và hiền thê là Nguyễn Thị Anh Phụng đã phải
“vật lộn” với từng trang bài và in ấn đặc san, còn
phải lo phần đổi mới văn nghệ tập trung đi vào chủ đề
nhằm đáp ứng tâm tư tình cảm của người dân đồng
bằng miền Nam khi dự đại hội. Lê Tuấn Kiệt & Lê Thị Thanh
Thủy và La Mỹ Yến & Thẩm Khang lo việc tiếp xúc khách sạn
và du ngoạn; trong khi Đặng Thành Tài, Lê Tuấn Khải và Lư
Hinh, Ngọc Bạch, Minh Hoàng v.v... lo việc đưa rước lui tới như con
thoi. Tất cả đều mệt nhọc vất vả với ước mong Đại
Hội tại thành phố Chân Đồi “XUÂN TRONG NẮNG HẠ” mang
lại cho quý Thầy Cô, quý đồng môn những ngày họp mặt
sum vầy trong tình gia đình thắm đượm yêu thương. Và,
theo tôi ước mong đó đã thành sự thật. Tổ chức nào cũng có những
điều khó khăn vượt ra ngoài ý muốn; có những vấn
đề gây nên ray rứt trong lòng không sao tránh khỏi. Nhưng tôi
nhớ, chị Võ Lê Thơ trong bài phát biểu trong đại hội lần
thứ VIII năm 2004 tại Phoenix – Arizona – Hoa Kỳ, đại ý: “trong
bàn bạc tranh luận nhau để tìm một sự thống nhất chung, có
thể bất đồng nhưng không nên để bất hoà. Những điều
nào đã thống nhất ý kiến với nhau thì cùng thực hiện
và phổ biến rộng rãi để nhiều người cùng chia sẻ.
Điều nào tranh luận chưa kết thúc hoặc không đi đến
kết quả thì khi ra khỏi phòng họp nên bỏ lại bên trong, đừng
nên tiết lộ ra ngoài, vì chẳng mang lợi chút nào mà còn
có thể bị luồng thông tin nhiễu gây mất đoàn kết”.
Tôi xin muợn ý kiến trên để kết thúc bài viết nầy.
Chân thành cảm ơn toàn thể BTC đại hội XII Calgary đã tạo
nên môt đại hội mà tôi nghĩ rằng thật sự thành công
như mong ước và đã để lại trong lòng người tham dự
một dấu ấn đậm sâu. Xin lặp lại 4 câu thơ tôi viết cách
đây 21 năm, thời gian bài thơ ra đời cách đây bằng với
cuộc nội chiến Bắc Nam của quê hương chúng ta (1954 – 1975) đã
in trang 107 tập thơ NHỮNG CHẶNG ĐƯƠNG THƠ - bản thảo lưu lại
của tôi, mà khi ngồi trên chuyến xe du ngoạn trở về tôi đã
đọc sau khi nghe nhiều lời cảm ơn, chia biệt nhau đến rơi nước
mắt: “Có sáo mòn khi nói tiếng cảm ơn? Nhưng ngôn
ngữ khó tìm lời thay thế. Bởi tình người muôn đời
vẫn trẻ. Cảm ơn nhau. Xưa cũ. Mãi thâm sâu!” (tháng
10/1987) Xin cảm ơn
quý Thầy Cô và quý đồng môn, quý bạn đọc đã
dành thời gian quý báu đọc những dòng ghi vội về suy nghĩ
của riêng tôi nhân đại hội XII – 2008 năm nay đã diễn
ra và kết thúc. Houston, 24 tháng 7 năm 2008 LÊ HOÀNG VIỆN (CHS. PTG 1960-1968) Ảnh sưu tầm: Trong
tà áo dài trắng quen thân, các Nữ sinh hân hoan trước cổng
trường nhân ngày đầu tiên treo băng vải mang tên Nữ trung
học ĐOÀN THỊ ĐIỂM năm 1964 T H Ơ QUA TRƯỜNG CŨ MÙA KHAI HỌC
* tặng các bạn cựu học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ có
chung kỷ niệm thời gian chung trường (1960-1968)
* đặc biệt tặng các chị đã hỏi xin bài thơ trong
Đại Hội XII... Xa tắp rồi em những tháng năm Sân trường,
lớp học đã mù tăm Bạn bè ngày cũ giờ
trôi giạt Ai mất, còn ai giữa lặng thầm? Có lẽ
hành lang dẫm bước chân Mặt bàn in khắc vết tình
thân
Bảng đen, phấn trắng, khung trời hẹp Mãi hoá
tình xa xích lại gần? Để nhớ về nhau tuổi học trò Ngày ngày
sách vở - nỗi buồn lo Những năm thi cử không thành đạt Kẻ ở,
người đi lỗi hẹn hò! Thoáng chốc - chừng như mới
thuở nào Muôn vàn kỷ niệm chớp qua mau Soi gương
chợt thấy chùng tâm sự Nhăn nếp thời gian tóc ngã
màu. Sáng nay len
giữa khoảng đường vui Áo trắng vờn bay rộn tiếng
cười (*)
Mới biết mình qua trường lớp cũ Đang mùa
khai học - nhớ khôn nguôi... Cần Thơ, mùa khai trường 1991
(*) Nói thêm về lý do viết bài thơ
nầy: Trường PTG đã bị mất tên từ sau ngày
30-4-1975, và mang tên Phổ Thông Trung Học Cần Thơ suốt 10 năm. Đến
năm học 1985 về sau trường mang tên Châu Văn Liêm. Suốt thời
gian từ tháng 4/75 đến năm 1991, các nữ sinh học tại ngôi trường
nầy mặc quần áo tự do, không có đồng phục. Đặc biệt
mùa khai trường năm học 1991-1992 về sau, nữ sinh trường nầy
được mặc đồng phục ÁO DÀI TRẮNG như ngày xưa nữ
sinh trườngPTG & ĐTĐ đã mặc. Nhìn các
em nữ sinh trong tà áo dài giống năm xưa nên tôi đã xúc
động viết bài thơ nầy, dù lúc đó tôi đang chạy
xe đạp ôm. Xin cảm ơn nhiều chị CHS tham
dự Đại Hội XII Calgary sau khi nghe Cựu Nữ sinh ĐTĐ Phạm Thu Nguyệt
diễn ngâm bài nầy đến gặp tôi và xin trọn bài thơ
nầy, nhưng tôi không có thời gian để đáp lại mong ước
đó. Nay xin phép BBT đặc san 14 giúp đăng lại để tỏ
lòng tri ân các chị Niên trưởng, đồng môn đã ưu
ái muốn xin bài thơ nầy kỷ niệm.
HUYỀN VÂN THANH (Về guồn – Tây Đô)
NĂM THÁNG QUA MAU truyện
ngắn LÊ CẦN THƠ (Houston, Texas, Hoa Kỳ)
* Kính dâng MÁ
tôi đang sống mòn mỏi với tuổi già xế bóng ở quê
nhà * Viếng hương linh em trai Lê Hoàng
Tâm nhân ngày giỗ thứ 17 (năm 2000)
1
Houston, ngày 30 tháng 4 năm 1983 MÁ kính yêu
Vậy
là con đã rời xa Má vừa tròn hai năm. Hai năm mà con cứ
ngỡ như như hằng bao nhiêu năm cách ngăn dịu vợi. Trong khi con ở
trên đất nước hoàn toàn tự do, cơm ăn áo mặc đủ
đầy, đời sống vật chất thật là thần tiên so với quê
mình nghèo khổ nhục nhằn thì Má phải nhận chịu bao nhiêu
cay đắng tủi buồn. Nhớ lần con vượt biên đầu tiên bị
bắt và nằm ở trại giam Cái Nước (Cà Mau) thì Ba ở quê
nhà lâm trọng bệnh rồi mất. Ngày con được thả ra thì
gia đình ta đã cúng tuần 21 ngày cho Ba. Má ôm chầm con mà
khóc. Lúc đó con thương Má vô cùng, bởi vì con hiểu
rằng từ đây cuộc đời Má bắt đầu cô độc và
buồn khổ cho đến cuối đời. Con không còn ý định bỏ
nước ra đi, thì Má lại trách con: “Vì
tương lai của vợ chồng con và hai đứa nhỏ, hãy tìm cách
ra nước ngoài, đừng bận bịu Má, hãy nghe lời Má. Trước
khi nhắm mắt, Ba con cũng thường căn dặn Má hãy can đảm gạt
lệ cho con yên dạ ra đi tạo lập cuộc đời”. Má
ơi... nay chốn quê người, con đang tìm cho mình một cuộc sống
mới đúng nghĩa của nó, nhưng sao con cảm thấy quanh mình như
có những nẻo chông gai, phải chăng mỗi người có một số
phận, khó mà cưỡng lại được. Con phải quyết làm sao
không tủi vong linh của Ba và không phụ lời căn dặn của Má.
Bởi phải cuốn hút theo dòng đời nghiệt ngã, nên nếu vắng
bặt tin con, xin Má đừng buồn. Dù gặp phải bất trắc nào,
con cũng thương nhớ về Má, vì Má là nguồn sống của
đời con... Kèm theo thư nầy, con có gởi chút ít tiền nhờ
anh chị Bảy mua cho Má những thứ cần thiết trong sinh hoạt thường
ngày. Má thích ăn xoài chín, con có dặn anh ấy thường
xuyên mua cho Má ăn. Má ăn ngon là con vui rồi. Kính thăm và
chúc sức khoẻ Má. Con của Má. Út TÂM. Galveston, Texas, ngày 30 tháng 4 năm 1984 MÁ kính yêu, Con
nhớ Má có chứng bệnh ho. Lúc còn ở nhà con thường đưa
Má đi Bác sĩ khám bệnh và chụp hình phổi. Bác sĩ
bảo phổi Má tốt, ho chỉ vì Má bị viêm họng hạt (?). Bác
sĩ cho toa mua thuốc uống. Bớt đôi ba ngày rồi ho vẫn tiếp tục.
Nhiều đêm nghe Má ho mà con nóng ruột. Nhưng biết làm sao bây
giờ! Con gởi tiền và dặn anh chị Bảy mua thuốc ho cho Má. Má
hãy nghe lời chỉ dẫn của anh chị Bảy, uống thường xuyên,
vì ho để lâu không tốt đâu. Mùa xoài năm nay Má thèm
thì cứ mua ăn, đừng hà tiện tiền bạc nghe Má. Một
năm con mới rảnh ngồi viết thư thăm, chắc Má trông và trách
con nhiều lắm phải không? Biết Má buồn, nhưng như thư viết
năm trước, con phải bươn chải đó đây để lo cho cuộc
sống gia đình tụi con, mới chân ướt chân ráo nơi xứ
lạ quê người, hầu như mọi chuyện phải làm lại từ đầu.
Quên báo tin với Má, khi sang tới trại Songkla Thái Lan, vợ con sanh một
bé trai, con đặt tên là Nhựt, hai đứa cháu gái của Má
thì khỏi phải nói, bé Thúy càng lớn càng giống Bà
Nội lắm. Bé Thanh thì lanh lợi hơn lúc còn ở quê nhà.
Con có bảo vợ con thỉnh thoảng thay con gởi tiền về cho anh chị Bảy
cất giữ mà lo cho Má, Má hãy an tâm. Phần con, đã theo nghề
cào tôm biển nên ở ngoài biển nhiều hơn đất liền.
Lý do đó mà con ít viết thư thăm Má. Không ngờ bây
giờ con lại theo nghề “hạ bạc” của Ba năm xưa mà con nhớ
có lần anh Bảy làm bài thơ “ghe đăng” có mong ước:
“Nếu phải non sông ngừng chiến trận. Yên
vui thôn xóm rộn hoan ca. Con về bên chiếc ghe đăng cá. Sưởi
ấm lòng Ba lúc tuổi già” mà dù ở xa xôi
cách mấy con cũng còn nhớ! Năm nay sức khoẻ Má vẫn tốt phải không?
Con mừng và cầu nguyện hương linh ba lúc nào cũng phù hộ
cho Má. Con của Má. Út TÂM. Florida, ngày 30 tháng 4 năm 1985 MÁ kính yêu, Con biết Má trông
thư và tin tức của con nhiều lắm. Nhưng, thưa Má, do công việc
làm ăn, con đã để ba đứa nhỏ với vợ con ở lại
Houston, con đi Florida với ông bà chủ cũng bận rộn quanh năm. Bải
biển ở Miami đẹp lắm Má ơi. Ước chi có Má bên nầy,
con sẽ lái xe đưa Má đi ra biển chơi vào mỗi cuối tuần,
để Má được đổi không khí trong lành của biển
cả. Má nhớ dặn anh chị Bảy, vào dịp cúng giỗ Ba là ngày
mùng 8 tháng 8 âm lịch, gần Tết Trung Thu, mua bánh Trung Thu cúng Ba
nghe Má. Ngày trước con nhớ cứ mỗi mùa Trung Thu, Ba mua rất nhiều
bánh cho tụi con, mỗi đứa thích một loại khác nhau mà ba vẫn
cố mua đầy đủ. Phần Ba, Ba nói chỉ thích bánh nhưn khoai
cau mà thôi. Vậy khi mua cúng ba, má dặn anh chị Bảy mua bánh nhưn
khoai cau nghe Má. Riêng Má thì con vẫn không thể nào quên: Má
thích ăn bánh Trung Thu nhưn đậu xanh hột vịt. Còn trái cây
thì Má thích ăn xoài chín nhứt phải không? Bên Mỹ nầy,
trong các chợ, hầu như lúc nào cũng có bán xoài, nhưng
xoài bên Mỹ sao không ngon bằng xoài ở quê mình. Phải chi có
Má bên nầy, con sẽ mua xoài cho Má ăn quanh năm. Ðang viết cho
Má thì ông bà chủ đến tìm và gọi con đi làm. Xin
phép Má con tạm dừng ở đây. Chúc sức khoẻ Má. Con của
Má. Út TÂM. California, ngày 30 tháng 4 năm 1986 MÁ
kính yêu,
Các trung tâm
đông người Việt bên nầy bây giờ có nhiều tiệm bán
băng nhạc lắm. Chả bù ở quê mình ngày xưa, thuở con mới
vào bậc trung học, ở đường hàng dừa có một tiệm bán
radio và dàn hát máy mà thôi. Con nhớ, Má rất thích nghe
hát máy với những vở cải lương tuồng cổ như Lưu Kim
Ðính Giải Giá Thọ Châu, Tiết Ðinh San Cầu Phàn Lê Huê,
Bao Công Tra Án Quách Hoè... Vọng cổ thì Má thích nghe Út
Trà Ôn ca Sầu Vương Biên Ải, Văn Hường ca Vợ Tôi Nói
Tiếng Tây, Minh Cảnh ca Em Bé Ðánh Giày, Thanh Hải ca Trái Khổ
Qua, Thanh Hương ca Em Bán Ðèn Hoa Giấy, Hùng Minh ca Hoa Xưa Bướm
Cũ, Hữu Phước ca Tần Quỳnh Khóc Bạn, Đội Gạo Đường
Xa... Nhà mình ở trong quê, lâu lâu mới có dịp ra thăm con trọ
học tại Cần Thơ một lần, Má thường đi với chị Tám
của con, bơi xuồng chở đầy lá sen, bông súng để bán.
Nhà mình quá nghèo sau khi đình chiến, nhưng Ba Má vẫn ráng
lo cho con được ăn học đàng hoàng. Biết vậy nên vừa
thi đậu vào Ðệ Thất trường Phan Thanh Giản, con đã tự
lo cho mình trong việc học hành: con nhận dạy kèm trẻ em tại tư
gia vào buổi chiều và buổi tối để lấy tiền đóng tiền
ăn và nhà trọ; sách vở thì con chỉ mượn của Thư viện
trường mà không mua sắm như bạn bè có tiền khác. Má
ở quê chịu khó chống xuồng ra đồng cắt lá sen, nhổ bông
súng chở ra chợ Phong Ðiền bán để độ nhật qua ngày
lúc mùa nước nổi, vì mùa nầy Ba con không thể đi đăng
cá dưới sông được nữa. Mỗi lần thăm con, Má cứ
đưa tiền bảo “cất để dành xài,
mua thêm sách vở”. Con không
nhận, Má giận. Bởi đồng tiền chắt mót cực khổ của
Má, làm sao con lại đành lòng tiêu xài cho riêng mình? Con
chợt nghĩ, thôi cứ nhận cho Má vui, rồi đi mua những dĩa hát
máy nào hay tìm cách gởi về cho Má nghe. Những dĩa hát của
hãng ASIA, Hồng Hoa ngày càng nhiều trong nhà mình, phần đông
là tiền của Má cho con... bây giờ nghĩ lại con thật xấu hổ.
Phải chi chính con trích khoản tiền mình kiếm được mà
mua những món quà Má thích thì ý nghĩa biết bao nhiêu. Còn
tiền Má cho, con cứ cất giữ hay gởi tiết kiệm để dành cho
Má phòng khi thắt ngặt sẽ hay biết chừng nào. Nhưng thôi, chuyện
đã qua rồi, nhắc lại càng thêm buồn. Vậy là
con đã xa Má sáu năm rồi phải không? Tóc Má năm nay bạc
nhiều chưa? Má cố gắng giữ gìn sức khoẻ, nhớ uống thuốc
đừng để ho dai dẳng nghe Má. Mùa xoài con có dặn anh chị
Bảy thường xuyên mua xoài ngon cho Má ăn. Má ăn ngon miệng là
con mừng. Lúc nào con cũng thương và nhớ Má. Con của Má.
Út TÂM. Arizona,
ngày 30 tháng 4 năm 1987 MÁ kính
yêu, Hôm gia đình
tụi con sắp vượt biên lần sau, Má gặp con đang trốn để
chờ chuyến ra khơi tại nhà thằng Phước ở trong lộ 19 gần
ngã ba Mây Tường, có nói: “Má dốt
không biết đọc chữ, nhưng qua bển được rồi, nhớ viết
thơ về thăm Má. Gởi về chỗ anh chị Bảy con đọc cho Má
nghe. Má đêm đêm cầu Trời khẩn Phật và van vái vong hồn
Ba con phù hộ cho chuyến đi nầy của con thành công, để đời
tụi con bớt khổ”. Má ơi, con rất
hiểu nỗi lòng của Má khi biết mình sắp mất vĩnh viễn thằng
con trai Út mà Má thương yêu nhứt trong đời... chỉ vì tai
trời ách nước, hoàn cảnh đổi đời biết phải làm
sao hơn là cắn răng nuốt hận riêng mình! Nhớ lời Má dặn,
nên con cố gắng viết thư để nhờ anh chị Bảy đọc cho Má
nghe đây. Tiểu bang nầy nóng quá. Con viết thư thăm
Má lúc con có dịp sang đây thăm chị Chín – Má còn
nhớ chị Chín con của Mợ Bảy ở Cầu Nhiếm không? Hồi đó
chị ra trọ nhà mình bên Xóm Chài đi học trường Phan Thanh
Giản mấy năm? Bà con với mình, con nhắc vậy chắc Má nhớ
rồi. Gia đình chị Chín sang đây từ năm 1975 nên cuộc sống
đã ổn định. Chị chỉ có năm người con gái mà
con chợt nghĩ đến ngày xưa ông bà mình thường trầm
trồ khen tặng hoàn cảnh gia đình như vầy là có “ngũ
long công chúa”! Anh chị Chín có chuyển lời kính thăm Má
và chúc mừng sức khoẻ của Má. Chị có nhờ con chuyển
về cho Má một ít tiền để mua trầu cau và chi xài. Con sẽ
gởi cho anh chị Bảy nhận và trao lại cho Má. Nếu Má thấy giữ
tiền nhiều bất tiện thì nói với anh chị Bảy gởi vào trương
mục tiết kiệm để khi cần Má rút ra xài, phòng khi bên
nầy con thay đổi chỗ làm không thể gởi về giúp Má thêm
được. Má hãy bảo trọng. Con của Má. Út TÂM. Louisiana, ngày 30 tháng 4 năm 1988 MÁ kính yêu, Nhiều đêm con suy nghĩ, phải chi lúc vượt
biên Má cùng đi với tụi con thì bây giờ ở đất nước
tự do nầy, đời Má sẽ bớt khổ vì lo buồn thương nhớ
thằng con trai Út của mình. Con từng nghe Má nói: “Tội nghiệp Út Tâm, nó còn bé bỏng lắm, cần phải
có sự che chở dắt dìu của của Má mới không bị ai bắt
nạt, ăn hiếp!”. Câu nói đó
là lúc con còn ấu thơ, nhưng sao cứ đeo đẳng hoài cho đến
bây giờ? Má ơi, chuyến ra biển kỳ rồi con bị tai nạn, khi khiêng
bao tôm nặng lên bờ, một đuôi con tôm đâm trúng chân
phải của con gây đau nhức. Ông bà chủ cho con đi bác sĩ khám
bệnh, chụp hình nhưng không thấy gì, chỉ cho thuốc uống trị
đau nhức thôi. Bây giờ chân con vẫn còn đau nhức, và được
ông bà chủ cho nghỉ ở nhà dưỡng bệnh. Con được người
bạn chở đi qua tiểu bang kế cận để chơi cho biết. Con thấy
được cây cầu bắc qua sông Mississippi lớn nhứt nước Mỹ
mà hồi còn đi học con có nghe nói. Cầu lớn và đẹp
thật Má ơi. Buổi chiều ngồi tại bờ sông chỗ khu phố cổ
rộn rịp người đi chơi, nhìn sang chiếc cầu, với ánh nắng
vàng trải rộng, chợt nhiên con nhớ quê nhà vô cùng. Nhớ
những chuyến phà muộn qua sông Hậu dưới ánh nắng yếu ớt
còn sót lại, mà con đang đậu xe đạp chờ rước khách
đi bộ để chở vào thành phố. Nhớ những cuốc xe chở
khách ngồi phía sau, sức nặng gần gấp đôi sức nặng thân
con, phải gò lưng chở họ để sau đó nhận mấy đồng
bạc ít ỏi, là một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí
con. Xe đạp mình mua, đạp xe bằng chính sức mình, mà hằng
ngày phải đóng tiền bến đậu, phải “đăng ký”
để có bảng số được phép chạy xe đạp ôm, và...
phải chịu đóng thuế cho địa phương gọi là “tổ
lao động hợp tác”... Chuyện dài, nói hoài không hết phải
không Má? Thôi con xin dừng ở đây. Chúc sức khoẻ đến
Má. Con của Má. Út TÂM. Houston, ngày 30 tháng 4 năm 1989 MÁ kính yêu, Chợt
nhiên cái chân bị đuôi tôm đâm năm trước lại trở
nhức lạ lùng. Bác sĩ khám và trị bệnh cho con trước năm
1975 có phòng mạch trong Lộ 19, nói tên chắc Má không biết
đâu. Ông trị cho con liên tiếp mấy tháng, thấy bệnh không
thuyên giảm và ngại gia đình không đủ khả năng chi trả
nên đã giới thiệu con vào bệnh viện chánh phủ. Ở đây
họ khám đủ cách, cố tìm ra nguồn gốc bệnh để chữa
trị. Viết thư thăm Má trong lúc con đang ở trong bệnh viện, nên
không viết dài được. Má và các anh chị ở quê nhà
đừng lo gì cho con, bởi vì con người sinh ra trên cõi đời
nầy ai cũng có số mạng, và Trời kêu ai nấy dạ, lo chi cho mệt
trí. Con sẽ thư cho Má và các anh chị khi hết bệnh và trở
lại làm việc. Chúc sức khoẻ Má. Má hãy bảo trọng. Con
của Má. Út TÂM.
Houston, ngày 30 tháng
4 năm 1990 MÁ kính yêu,
Bệnh con vừa bình phục thì
con lại tiếp tục theo tàu ra biển, cứ lênh đênh với sóng
nước mênh mông. Nghề cào tôm biển mà con đeo đuổi ngay
từ khi đặt chân lên đất Mỹ đã trở nên cái nghiệp
như ngày xưa lúc sinh thời, Ba con đã làm nghề đăng cá
suốt hai mươi bốn năm vậy. Con nghĩ, ở đời nghề nào cũng
được, miễn mình làm ăn lương thiện thì thế nào
cũng được ơn trên che chở lúc hoạn nạn, tai ương. Má năm nay đã 76 tuổi Tây, 77 tuổi ta rồi. Tóc Má chắc
bạc trắng phải không? Hồi xưa lúc còn đi học, con thích
đọc thơ của thi sĩ Kiên Giang viết về hình ảnh người
Mẹ, bài thơ Xe Trâu của Kiên Giang con cho là hay vì diễn tả
hình ảnh cuộc đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ của một
người con gái miền quê Việt Nam rất sống động và tinh tế.
Mẹ của nhà thơ Kiên Giang đã được thi tài của ông
đưa vào thi ca và lưu lại đời sau, là niềm hãnh diện.
Chẳng bù con của Má, không có tài năng thiên phú nên
không đưa được hình ảnh Má vào trang viết nào để
lại đời sau. Nghĩ rằng đó là nỗi bất hạnh của Má
và sự bất hiếu của con. Xin Má hãy thương xót cho những
non kém của thằng con trai Út của Má - chỉ duy nhứt một điều
Má hãy tin con là, dù bất cứ hoàn cảnh nào, con cũng nguyện
sống xứng đáng là con của Má, người đã mang nặng
đẻ đau và nuôi con nên vóc nên hình. Nếu sau nầy chẳng
may Má khám phá ra điều sai trái của con, là chuyện chẳng
đặng đừng, Má trót thương con thì hãy thứ tha cho con nghe
Má. Má nhớ uống thuốc ho, và mùa xoài nhớ
ăn xoài chín. Con muốn anh chị Bảy phải thay con mua xoài thật ngon
cho Má. Kính chúc Má vạn an. Con của Má, Út TÂM.
Houston, ngày 30 tháng 4 năm 1991 MÁ kính yêu,
Cái
tuổi của con sao mà lận đận quá. Nghe người lớn nói lề
là “Ba mươi mốt bước qua, ba mươi
ba bước lại” là tuổi xấu. Năm nay con mới có
hai mươi chín tuổi thôi, đâu vướng vào cái vòng oan
nghiệt đó, mà vận xui cứ đến không lường trước
được. Chỉ bị một đuôi con tôm đâm trúng vào chân,
mấy năm nay cứ hành đi hành lại hoài. Bây giờ con bị đau
nhức trở lại khó chịu quá. Ði bác sĩ tư ở ngoài thì
không đủ tiền chữa trị. Nhập viện thì không có bảo
hiểm sức khoẻ. Một người bạn chạy xin được cho con một
“Thẻ Vàng”, họ mới cho nhập viện. Vì mức thu nhập của
con còn thấp nên được miễn trả tiền bệnh viện. Con vái
trời cho bệnh của mình chóng hết, để trở lại làm việc
mà lo cho vợ con. Trên đất Mỹ nầy, giàu nghèo khó phân
biệt. Con người ai cũng có sỉ diện và tự ái, không muốn
để phải mang tiếng “ăn bám” người khác. Con đã
dặn vợ con, nếu không cần thiết lắm đừng nên làm phiền
lòng gia đình bên vợ con, sau nầy khó xử! “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”, câu nói đó của tiền nhân ngẫm
lại thật là đúng. Ví dụ một ngày nào đó con có
chết đi – nói thí dụ thôi – ở quê nhà Má đừng
buồn thương làm gì, mà hãy bình thản sống cho đến
suốt cuộc đời, sống trong hãnh diện vì con của Má đã
không làm điều gì sai quấy cả. Má hãy tin con. Về phần Má, con nghĩ năm nay anh chị Bảy cũng đã thường
xuyên lo cho Má đủ đầy như mong ước của con, phải không?
Má ơi, cuộc đời sao có chuyện tre già khóc măng đau lòng
đến vậy – à không, con quên kể Má nghe, ở trong chung cư
với con, có một gia đình nọ sang định cư ở đây chỉ
có hai mẹ con, thằng con vừa bị tai nạn chết trẻ, bà mẹ vật
vã khóc đến tội nghiệp. Nhưng biết làm sao hơn, khi mà
thực tế cuộc sống đã diễn ra như vậy. Con muốn Má đừng
bao giờ sống trong tâm trạng đau buồn như thế đó, ít nhứt
là mười năm sau ngày con của Má thật sự về với tro bụi
cuộc đời! Thôi, nhìn thấy cảnh quan xung quanh, gợi cho tâm
trí con hình ảnh chẳng vui chút nào. Má nghe qua rồi bỏ. Con luôn
mong Má vẫn khoẻ mạnh và vui sống cùng cháu con. Con thích nhìn
màu tóc bạc trắng của Má như màu mây bông gòn đang
chao nghiêng bên khung cửa sổ hiên nhà vào buổi chiều nhạt nắng.
Nguyện cầu Má mãi yên bình. Con của Má, Út TÂM.
Houston, ngày 30 tháng 4 năm 1992. MÁ kính yêu,
Ðây là lá
thư thứ mười con gởi về Má. Mười năm đằng đẳng
trôi qua, mười hai năm con lìa xa Má để đi tìm bến bờ
tự do. Mười năm con làm cái việc chẳng đặng đừng, mà
trong những lá thư trước con thỉnh thoảng có đề cập đến,
đó là con đã “không thật”
với Má một chuyện quá đỗi đau lòng con, nhưng con buộc phải
làm vậy vì con nghĩ, khi nghe đọc lá thư thứ mười nầy,
Má cũng gần tuổi tám mươi, cái tuổi phần đông nhớ
và quên hay lẫn lộn nhau: việc buồn thương, trách móc cũng
không phân ranh rõ ràng. Như vậy, tâm hồn của Má cũng bớt
khổ, mà chính lòng con cũng không bao giờ muốn thấy Má phải
khổ vì con! Má ơi, con xin nói thật điều
nầy: Mười lá thư con viết để anh chị Bảy đọc cho Má
nghe suốt mười năm qua, chỉ đề duy nhứt có một ngày, một
tháng và khác năm. Ngày tháng đó chính là cái ngày
chia biệt của con với Má, khi con bước chân lên chuyến xe đò
xuống Phụng Hiệp rồi đi ghe ra biển, làm chuyến vượt biên
thứ hai trong đời. Lênh đênh trên biển mười mấy ngày,
với năm lần bị cướp, tàu của con đi đã tắp vào
địa phận Thái Lan, rồi dòng đời đưa đẩy, con sang học
Anh Văn tại Philippine chưa đầy sáu tháng thì gia đình bên
vợ con bảo lãnh cho tụi con vào định cư ở Mỹ. Tưởng
mình đã đến bến bờ tự do thì mọi chuyện đã
an bài, ngờ đâu... chỉ sống tại Houston vừa đúng một năm
thì con của Má đã phải vào bệnh viện và con biết, không
đầy mấy tháng sau cái ngày con viết liên tiếp mười bức
thư nầy, là con sẽ vĩnh viễn không còn hiện diện trên cõi
đời nầy. Ở quê nhà, anh chị Bảy là người theo
dõi liên tục diễn tiến bệnh của con. Con cũng đã đề
nghị được anh chị Bảy chấp thuận là giấu Má ít nhứt
mười năm, đừng bao giờ cho Má biết là con trai Út của Má
đã nhắm mắt xuôi tay trên đất lạ quê người. Con đã
gởi cho anh chị Bảy cùng lúc mười lá thư, mà con nhiều
đêm nằm trong bệnh viện, bị đau nhức ngủ không được,
thao thức rồi viết, tập trung gởi về và dặn anh chị Bảy hãy
theo thời gian mà đọc cho Má nghe những lời thăm hỏi, dặn dò
của con, dù lúc Má nghe đọc thư, thân xác con đã mục
rã giữa lòng đất lạnh! Con nghĩ, mười năm sau – mười
năm đối với một đời người không phải là dài, nhưng
cũng chẳng phải là ngắn để duy trì một lời ước hẹn
thiêng liêng, đừng bao giờ để cho Mẹ của
chúng con sống trong nỗi khổ đau của một người mang tâm trạng
“tre già khóc măng”. Con tin anh chị Bảy sẽ làm
được chuyện đó, và con tin là Má vẫn còn mạnh khoẻ
để mà đón nhận lá thư sau cùng thứ mười của
con. Khi viết thư nầy
thì con vẫn còn nằm trên giường bệnh, và thú thật, chính
vợ và những đứa em vợ của con hay bạn bè tới lui thắm viếng
cũng chưa hề biết chuyện con đã biết trước cái chết
và đã viết liên tiếp nhiều thư thế nầy (mọi người
đều giấu con căn bệnh ngặt nghèo!). Con cũng đã viết sẵn
một lời dặn dò vợ con rất kỹ, gồm năm điều, mà chắc
chắn sau nầy vợ con sẽ có dịp công bố với gia đình bên
chồng. Con biết Má thương bé Thúy và bé Thanh; và con tin
Má cũng sẽ thương bé Nhựt – dù Má chưa một lần
biết mặt nó –, nên trong một điều con đã căn dặn vợ,
vì con biết vợ con tuổi hãy còn quá trẻ, không thể sống
mãi như vậy để tiếc thương con, cô ấy cần phải có
chồng khác để lo cho tương lai lâu dài, cho nên con đã dặn:
“Nếu em bước thêm một bước nữa,
hãy giao con của anh lại cho Ngoại chúng nuôi, vì anh không muốn
bất cứ ai hành hạ con anh”. Nếu số phần của con
đã kết thúc vào đúng cái tuổi 30 như có lần vợ
con nghe ai đồn, đã đến xác Cậu Chín Kiên Giang cầu hồn.
Nghe vợ con kể lại rằng, xác Cậu Chín nói tiền kiếp của
con là một vị tiên trẻ trên trời có tính háo thắng,
một hôm đi chơi đã đánh vị tiên bạn đến hộc
máu dở sống dở chết nên bị Ngọc Hoàng phạt xuống trần
gian. Vị tiên kia ôm mối hận quyết phải trả, ông ta trốn thiên
đình xuống trần gian tìm suốt ba mươi năm mới gặp và
quyết rửa mối thù xưa. Bởi vậy nếu tin có số mạng và
những điều huyền bí mầu nhiệm thì năm nay con phải trả món
nợ vay trong tiền kiếp, âu đó cũng là “trời kêu ai nấy
dạ”, con không tiếc rẻ gì đâu. Mỗi
lần thay mặt vào thăm Má tôi, đứa cháu thường mang thuốc ho, xoài và bánh bao cho bà.
Những
khoản tiền trước đây con gởi về, anh chị Bảy đã gởi
vào quỹ tiết kiệm, mỗi khi cần mua sắm gì thì anh chị ấy
rút ra để lo cho Má, Má hãy an tâm. Anh chị Bảy con nghèo,
con biết, nhưng anh chị là người trực tính, chân thực, con tin
là sẽ đóng trọn vai trò mà con đã ký thác trước
khi nhắm mắt xuôi tay. Con có dặn anh chị Bảy, nếu hoàn cảnh
đưa đẩy, gia đình anh chị được xuất cảnh ra nước
ngoài, thì giao tiếp phần lo cho Má (nếu lúc đó Má hãy
còn sống bên cạnh cháu con), cho anh chị Năm (là anh cả của
tụi con), kể cả quỹ tiết kiệm nữa. Chắc chắn anh chị Bảy
sẽ làm tròn ước nguyện đó của con. Những điều trăng
trối và chia biệt tình anh chị em của con, con đã gởi riêng
cho anh chị Bảy, để anh chị ấy thông báo riêng với các
anh chị Năm, anh chị Sáu và anh chị Tám của con rồi. Con đã
tha thiết yêu cầu mọi người, thương con thì hãy giữ kín
giùm, để anh chị Bảy hằng năm làm cái công việc đọc
thư của con cho Má nghe. Má đã hiểu lòng con trai Út của Má
chưa?
Vậy đây là những dòng cuối cùng
con trai Út của Má viết cho Má. Xin phép Má cho con căn dặn vợ
con, là khi con từ giã cõi đời, hãy chít lên đầu con
một vành khăn tang trắng, xem như con là đứa con bất hiếu đối
với mẹ già phải chịu cảnh tre già khóc măng! Ðời nầy,
kiếp nầy, Mẹ con ta mãi mãi chia lìa nhau. Hôn Má và vĩnh
biệt Má thương kính nhứt đời con. Hãy tha thứ những gì
không phải của con đối với Má suốt ba mươi năm qua, từ
khi con mở mắt chào đời và trong vòng tay chở che dắt dìu của
Má. Một lần sau cuối, con xin lạy Má hai lạy để tạ ơn sâu
và vĩnh biệt. Con bất hiếu của Má. Út TÂM. 2 Trời Houston bây
giờ đã sang thu. Thời tiết ở đây bất thường quá. Nóng
đó rồi lạnh đó. Trung thu đã trôi qua. Tôi sang định
cư tại Hoa Kỳ giữa năm 1993, nghĩa là sau khi làm tròn lời ký
thác của em trai tôi – Út Tâm, là liên tiếp mười năm,
vào đúng cái ngày cúng giỗ của chú ấy, tức ngày
13 tháng 7 âm lịch hằng năm, tôi mang thư ra đọc cho Má tôi
nghe. Tôi không dám nói là mình đã cúng ai, mà chỉ
nói là cúng rằm tháng bảy cho yên nhà yên cửa. Má
tôi nghe đọc thư thì sụt sùi khóc và trách “Thằng Út Tâm đã quên mất Má nó rồi.
Ði gì mà biền biệt hổng chịu dìa thăm. Má có chết
đi chắc không thấy mặt nó”. Mỗi lần nghe câu
đó, tôi xốn xang nước mắt trào ra, nhưng tôi vẫn cố
đóng kịch, dù rằng trong lòng đã đẫm ướt lệ
thầm. Ðến khi đọc lá thư thứ mười, Má tôi chẳng
khóc mà lại cười. Bà nói rằng, “Thằng
Út Tâm giỡn gì mà kỳ cục vậy, Má mà đi qua tới
bển thì nó chết với Má!”.
Và chuyện Út Tâm đã chết, từ đó đến mãi sau
nầy, Má tôi xem như nửa đùa nửa thật – bán tín bán
nghi – , gặp ai bà cũng hỏi “Thằng Út
Tâm sao lâu quá không về thăm Má? Nó có gởi thơ từ
dià nữa không?”.
Có lần Má nói: “Tao qua Xóm Chài
gặp vợ Bảy Hữu nói có nghe tin thằng Út Tâm chết, tao la bả
quá chừng. Ðừng có nói bậy!”. Chúng tôi
mới nói với Má là “Dì Bảy nói
đúng Má à, Út Tâm đã chết thật rồi, nó bệnh,
Má vẫn không tin sao?”. “Tin”. Sau đó bà
lại cười... Những lúc đó tôi như bị hụt hẫng trong
một cõi hư vô nào đó. Tôi vẫn nhớ lời căn dặn
của Út Tâm, thường xuyên mua thuốc ho, mua xoài cho Má tôi ăn,
kể cả bánh bao mà Má tôi thích. Má tôi vẫn sống trong
quê với anh chị Năm của tôi, cách một vài tuần vợ chồng
tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp ôm của tôi vượt hơn
hai mươi cây số để về thăm Má, mua đồ cho Má ăn,
đưa tiền cho Má bỏ túi xài... Cho đến một ngày giữa
năm 1993, tôi phải bịn rịn chia tay Má tôi một lần nữa để
chính thức ra đi theo diện HO. Ban đầu tôi nói: “Con được đi qua Mỹ, sẽ tìm thăm mộ của Út Tâm”. Má tôi cười: “Út Tâm ở đâu mà con đi thăm mộ nó?”.
“Út Tâm chết ở Mỹ, Má không nhớ sao?. “Nhớ chớ!
Mà con lại bỏ Má nữa sao? Con không còn thương Má nữa
sao?”. Nghe câu hỏi đó, tôi chợt cảm
nhận khoé mắt mình nóng lên bởi hai dòng lệ tự nhiên
chảy dài xuống má. Tôi nghẹn ngào không nói được
lời nào, ôm vai Má hồi lâu mới nói vỏn vẹn mấy chữ:
“Con thương Má lắm, nhưng hoàn cảnh con
phải đi. Má thương con hãy vui lên cho con được yên tâm
ra đi”. Má không khóc mà lấy tay vò đầu
tôi tỏ vẻ âu yếm khiến tôi càng chạnh lòng hơn. Năm
đó, Má tôi tròn 80 tuổi. Tôi ra đi xem như vĩnh viễn không
còn gặp lại người mẹ hiền thương kính của mình, nếu
như hoàn cảnh chưa cho phép tôi trở về quê hương thăm
Mẹ. Bây
giờ tôi vẫn thường xuyên làm công việc của em tôi –
Út Tâm – là liên lạc thư từ về một đứa cháu
ở thành phố Cần Thơ, để mỗi tháng hai ba lần vào Trường
Long thăm Má tôi đang chung sống với gia đình anh chị Năm của
tôi. Tôi không viết thư để đọc cho Má nghe nữa, vì
dù sao Út Tâm đã nghĩ ra một cách làm hết sức thiêng
liêng của một con người đối với Mẹ kính yêu, chưa chắc
gì đã có một trường hợp thứ hai tương tự. Tôi
rất trân trọng lòng hiếu thảo của một đứa em, biết mình
sắp vĩnh viễn từ giã cõi đời, mà vẫn muốn tấm lòng
chăm lo săn sóc Mẹ tiếp tục cho đến mười năm sau mới chính
thức kết thúc. Tuổi đời 30 của em tôi hiện diện trong cuộc
sống nầy, cộng với mười năm sau đó vô cùng ý nghĩa.
Năm tháng qua mau, nhưng việc làm cao đẹp của
một con người mãi mãi hằn sâu ít nhứt trong lòng của
những người trong cuộc. Cảm ơn Út Tâm – em tôi – đã
cho tôi thắm thía lòng hiếu thảo đặc biệt của một con người
trong cõi nhân sinh nầy. 13 tháng
7 âm lịch năm Canh thìn 2000 cúng giỗ thứ 17 của em tôi.
LÊ CẦN THƠ
|
|
|