NỖI NHỚ VÀO XUÂN
(tặng bạn tôi, ghi lại một chuyện tình
chôn kín tại quê nhà sau cuộc chiến tang thương)
truyện
LÊ CẦN THƠ
Cánh đồng Trường Long không
lớn lắm, nhưng vào thời tuổi trẻ, Ba Hoanh cảm thấy nó quá
rộng lớn, mênh mông và bát ngát vô cùng. Từ bờ vườn
của dòng Sông Cái thuộc ấp Trường Thuận, nhìn sang phía
bờ rạch Cai Cẩm thuộc ấp Trường Khương, có lằn ranh
đất chạy dài từ hướng vàm rạch vô tới cuối rạch
giáp với Xẻo Lá, đã thấy xa vời vợi. Những giồng cỏ
chia ranh các thửa ruộng của hai phía đan thành những ô đất
hình chữ nhật, nếu đứng trên cao nhìn xuống như bàn cờ.
Có những con kinh, con mương xẻ ngang, xẻ dọc để dẫn nước
từ Sông Cái, từ rạch Cai Cẩm vào đất ruộng, lúc nước
lớn lên có thể chống xuồng để đi sâu vào các thửa
ruộng, đây cũng là phương tiện dẫn nước phù sa để
bồi đắp chất màu mỡ lên mặt ruộng đồng, nên những
năm 1950 - 1960 của thế kỷ trước, cánh đồng nầy năm nào
ruộng lúa cũng trúng mùa, bà con nông dân không cần sử
dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu. Mỗi công ruộng
có thể cho năng suất hai ba chục giạ lúa mà sau nầy dù phương
tiện kỹ thuật tân tiến cũng chưa đạt được như vậy.
Mỗi năm người dân chỉ làm một mùa lúa theo chu kỳ: tháng
năm gieo mạ, tháng bảy cấy giâm, tháng chín cấy liền và
tháng chạp, tháng giêng gặt lúa. Sau khi gặt lúa, đất ruộng
để trống "nghỉ ngơi" chờ những cơn mưa đầu mùa
đổ xuống, tháng năm âm lịch mới bắt đầu vào mùa.
Khoảng thời gian trống nầy, người dân thường dành một hai
công đất biền để tỉa đậu, bắp, hay lên giồng trồng
khoai lang, khoai mì... Năm nào cũng vậy, dù miền quê nầy thời
đó không có điện, nhà nhà phải xài đèn dầu,
nhà nào khá giả thì mua đèn măng-sông để thắp trong
các đêm có khách hay chuẩn bị cúng giỗ quy tụ con cháu
khắp nơi về.
Ba Hoanh là con trai thứ hai trong gia đình. Người anh cả thời kháng
chiến chống Pháp đã theo thanh niên tiền phong và đã đi
tập kết ra Bắc năm 1954, gia đình không còn tin tức gì hết.
Hai đứa em gái thứ Tư và thứ Năm, ba thằng em trai là Sáu
Già, Bảy Đoàn và Út Kết còn nhỏ sống với cha làm
nghề hớt tóc. Mẹ của Ba Hoanh đã mất sau khi sanh ra thằng Út
Kết được mấy tháng do bạo bệnh. Những năm sau đình chiến
1954, gia đình quây quần sống với bao nhiêu nhân sự đó trong
một căn nhà lá ba gian hai chái khá ngăn nắp dưới sự chăm
sóc của người cha "gà trống nuôi con", mà Ba Hoanh bây giờ
trở thành cánh tay "trụ cột" bên cạnh ba mình.
Mười lăm công
đất ruộng thuê mướn của chủ điền Tư Quản do chính
bàn tay của Ba Hoanh chăm lo thay cho ba, bởi vì ba hằng ngày còn phải
xách tông-đơ đi hớt tóc dạo cho người lớn và trẻ
em trong xóm, khi không có ai kêu hớt tóc, ba mới ra đồng tiếp
con lo việc ruộng nương. Người ta nói tuổi "mười bảy bẻ
gảy sừng trâu", nhưng Ba Hoanh đã hai mươi mốt vẫn chưa
tính chuyện lập gia đình bởi đàn em nhỏ dại như vậy.
Những cô bạn gái cùng trang lứa với Ba Hoanh như cô Láng, cô
Dung, cô Thu, cô Mười, cô Út... đều thường xuyên gặp
gỡ nhau trên cánh đồng vào mùa cấy, gặt. Họ đều vui
vẻ, chuyện trò thân thiện với nhau, trong đó Ba Hoanh có để
ý đến một cô mà chưa dám mở lời. Chuyện tình cảm
trai gái vào thời đó không phải như bây giờ, kín đáo,
dè dặt và ngại sợ người lớn biết được sẽ cản
ngăn, bởi quan niệm "môn đăng hộ đối", hay tư tưởng
"nam nữ bất tương thân". Dù vậy, tình cảm riêng tư
khó mà che giấu nhau, nhất là với các bạn nam nữ cùng gặp
gỡ nhau trong công việc đồng áng.
Một hôm, từ con đường đất
nhỏ hẹp dẫn ra đám ruộng của mình, Ba Hoanh đã "bị"
Tám Sơn gạn hỏi:
- Chuyện mầy với con Láng tới đâu rồi?
- Tới đâu là sao?
- Là... hai người
có gì với nhau chưa?
- Đừng nghĩ bậy. Chưa ai nói với ai câu nào hết. Đồn
rùm beng lên, chết cả đám!
- Đồn cái gì. Hai đứa thương nhau thì nói thương chớ
đồn cái gì?
- Ba má cô Láng khó tính lắm. Nghe nói, gia đình của cô
Láng là gốc người Tàu, không gả con cho người Việt...
- Ai nói?
- Thì tao nghe vậy!
- Để tao dọ
hỏi cho...
- Đừng có tào lao nghe mậy! Cô Láng mà nghe được thì
mầy bị "chửi tắt bếp" à nghen!
- Nhưng tao hỏi thiệt, mầy có
thương con Láng không?
- Mầy hỏi để làm gì?
- Để mừng cho mầy. Tao thấy hai đứa xứng đôi lắm...
- Xạo hoài.
Chỉ đối
đáp tới đó là đã thu gần khoảng cách với đám
ruộng sẽ cấy vào ngày mai của Ba Hoanh. Hôm nay, Tám Sơn tiếp
Ba Hoanh dọn xong phần đất để buổi chiều hai người gánh mạ
ra bỏ khắp mấy công đất cho khuya sớm nhóm bạn trong tổ vần
công đổi công cùng nhau cấy hết phần đất của Ba Hoanh. Cứ
theo cách sắp xếp như vậy, chỉ trong vòng nửa tháng, tất cả
phần đất ruộng của ấp Trường Thuận sẽ cấy xong, màu
mạ non rồi sẽ bén rễ và vươn xanh lên cả cánh đồng
để tạo nên mầm sống truyền đời của người dân nơi
đây.
Khi tiếng gà gáy rộ cũng là
giờ báo thức cho bà con trong ấp Trường Thuận thức dậy chuẩn
bị ra đồng. Ba Hoanh có dặn Ba đừng thức sớm, để anh lo "xôi"
nồi cơm nếp và "chưn" tô mắm cá trê trắng cho tổ
vần công ăn sáng sớm trước khi xuống ruộng cấy là được.
Bởi vậy, buổi tối trước khi đi ngủ, Ba Hoanh đã ngâm nếp
trong cái thau lớn; cắt lá chuối lót cái xửng đặt lên
trên cái nồi lớn đổ đầy nước để nấu "xôi".
Củi cũng được chuẩn bị sẵn, để nửa khuya anh thức dậy
làm việc bếp núc mà không gây tiếng động cho cả nhà
ngủ. Anh cũng đã giở khạp gắp mấy con mắm trê để vô
cái tô lớn, xắt củ hành phủ lên mặt, chế một chút
mỡ heo, thêm chút đường và rắc tiêu hột lên sẵn, đặt
trong cái nồi để chưn cách thủy tô mắm nầy ăn với xôi.
Vô mùng giăng trên chiếc chõng tre, Ba Hoanh chun vô nằm cố ngủ
một giấc khi nghe tiếng gà gáy canh hai là anh thức dậy cuốn mùng,
xếp chiếu cẩn thận rồi vào chái nhà bếp.
Đang lui cui nhóm bếp, chợt
Ba Hoanh nghe tiếng gọi nho nhỏ ngoài hè:
- Anh Ba, anh Ba...
- Ai vậy?
- Tui, Láng nè...
- Trời, sao cô đến sớm
vậy?
-
Mở cửa đi, tui vô nấu nướng tiếp cho. Anh làm "mình ên"
sao kịp...
Ba Hoanh bước lại cửa rút cây "xông hồng" gài chận
ngang cánh cửa, giở lên cho cô Láng bước vô. Anh lúng túng
nhìn Láng, muốn hỏi điều gì thì Láng cười:
- Đừng có
nhìn tui như vậy. Hôm trước, tui có nghe nói anh định cho mấy
Cô Chú, mấy anh chị em ăn xôi nếp với mắm chưn, tui mới đi
sớm qua tiếp với anh cho mau. Tui biết, trong nhà chỉ có "mình ên"
anh lo mọi chuyện, phụ giúp anh hổng được sao?
- Phiền cô quá. Cô còn
phải đi cấy nữa, thức sớm ra đồng buồn ngủ làm sao cấy
được.
- Được chớ sao không? Thôi, chuyện nấu bếp anh để tui lo. Vô
nằm ngủ thêm một chút đi. Cần gì thì tui kêu...
- Bỏ cô nấu
bếp, tôi đi ngủ coi sao được.
- Bây giờ hổng nghe lời tui phải không?
Ba Hoanh chống chế:
- Đâu phải không nghe.
Nhưng tôi với cô cùng nấu, để cô một mình buồn chết.
- Bảo không là
không. Anh không nghe, tui dìa liền bây giờ.
Ba Hoanh đành phải bước nằm
lên chiếc võng giăng giữa hai cây cột ngăn qua chái nhà bếp,
cứ thao thức không sao nhắm mắt được.
Láng nhóm bếp xong, một
bếp nấu xôi, một bếp chưn mắm. Cô lấy cái ghế đẩu
đặt chỗ bếp, ngồi chụm củi và chờ cho xôi chín. Cô
lan man suy nghĩ đủ điều. Chuyện mình qua nhà của anh Ba Hoanh để
phụ cho anh ấy nấu bữa ăn sáng cho tổ vần công đổi công
là cô đã có xin phép mẹ, với lý do là hoàn cảnh
gia đình anh Ba Hoanh đơn chiếc, sang giúp đỡ chớ không có
tình ý gì. Mẹ của cô nghe thấy vậy cũng không ngăn cấm,
nhưng bà dặn, "con gái, làm gì làm nhưng phải giữ
gìn, đừng làm điều gì không tốt mang tiếng cả đời
nghe con!". Thật tình, mẹ của cô cũng thấy được con gái
mình có cảm tình với Ba Hoanh, bà cũng mong cho con có được
tấm chồng để an phận sau nầy, nhưng trong lòng bà cũng lo là
không biết chồng bà gốc người Quảng Đông có chấp nhận
hay không? Bởi vì, dù bà là người Việt, con gái mình
là con Việt lai Tàu, bà con nói nó là người "minh hương",
không lẽ duyên nợ bị trớ trêu do chủng tộc như vậy? Ba của
cô Láng có phần đất ruộng phía sau nhà nhưng mọi việc
ông để cho con gái chăm lo. Phần ông hàng ngày trông coi bán
đồ tạp hoá cho bà con trong xóm xài. Một cái chòi cất
góc trái phía trước nhà gie ra, ba bề dừng kín bằng lá,
trước mặt nhìn ra sông bên dưới đóng bằng thiếc mỏng,
bên trên đóng mặt cáo ô vuông cho ánh sáng rọi vào.
Dọc theo vách là các kệ hai ba tầng, bên trên để đủ
loại hàng hoá để nấu ăn, có đường, đậu, muối
bọt, muối cục, tương hột, các keo chao, tôm khô, cá khô;
có các loại thuốc cao đơn huờn tán, dầu gió. Phía dưới
đất có dầu lửa, nước mắm, nước tương... Có các
loại bánh kẹo cho con nít thích ăn. "Chệt Hai" là tên mà
bà con ở đây gọi ba của Láng. Còn mẹ Láng, bà con cũng
gọi thân mật là "Bà Chệt Hai", gọi theo chồng chớ bà
là người Việt chánh tông, tên bà là Nguyễn Thị Thân.
Chệt Hai và cô Thân ăn ở với nhau có 4 mặt con, thằng con trai
lớn chết sớm sau cơn bệnh ngặt nghèo lúc mới lên năm tuổi,
nếu còn sống cũng đã 23 tuổi. Láng là con gái kế tiếp,
năm nay vừa tròn 18 tuổi. Hai đứa sau cùng là thằng Hối 12 tuổi
và con Muối 8 tuổi đang đi học tại lớp của thầy giáo Thuật.
Bà Thân phụ lo buôn bán với chồng, nhưng cũng thường ra đồng
tiếp với con gái chăm lo mười công ruộng thuê mướn của
chủ điền từ trước khi Chệt Hai mở tiệm tạp hoá. Cuộc
sống gia đình tương đối, không phải chật vật như một
số gia đình nghèo khó khác trong ấp.
Cô Láng ngồi chụm củi nồi
xôi và nồi mắm chưn, suy nghĩ đủ điều, vá víu hết
chuyện nầy đến chuyện khác nên không thấy buồn ngủ. Thỉnh
thoảng cô quay lại nhìn Ba Hoanh đang đong đưa trên chiếc võng
mắc giữa hai cây cột nhà, chẳng biết có ngủ được hay
không. Việc cô Láng xin phép mẹ qua lo phần ăn của đội vần
công cấy trên phần đất Ba Hoanh là một việc tự nguyện, thành
thật chớ cô không có tình ý gì riêng. Ba Hoanh cũng chẳng
nghi ngờ, nhưng có lẽ anh ngại bạn bè biết được thì
đồn đại bất lợi cho việc giao tiếp lối xóm. Bất ngờ,
Ba Hoanh ngồi nhỏm dậy, nhìn quanh quất một chút, anh rón rén bước
lại đứng sau lưng cô Láng:
- Buồn ngủ lắm không? Bước lại nằm đỡ trên võng một
chút, khi gà gáy rộ tôi kêu.
- Được rồi, tui ngồi đây cũng được. Gà sắp gáy
rồi...
- Thiệt, tôi cám ơn cô nhiều lắm. Nhưng tôi thấy ái ngại.
Biết trả công cô cách nào đây?
- Công cán gì. Tui tiếp anh cũng
như làm việc gia đình hàng ngày chớ có khó khăn gì...
- Cô Láng nè...
- Gì vậy anh
Ba?
- Tôi
muốn hỏi cô điều nầy?
- Điều gì?
- Bác... Hai trai có "khó" lắm không?
- Khó chuyện gì?
- Tôi nghe người
lớn nói...
- Nói Ba tui không gả con gái cho người Việt chớ gì!
- Sao cô biết?
- Ai cũng "đồn"
như vậy. Nhưng hổng có đâu, Ba tui ổng dễ lắm. Má tui cũng
dễ nữa...
- Vậy à!
Khi gà gáy rộ trong xóm thì nồi xôi đã chín. Ba Hoanh và
cô Láng chỉ nói chuyện tới đó thì ông Bá Hộ thức
giấc, từ trong buồng bước ra chỗ bàn thờ bật quẹt cháy
ngọn đèn ống khói, chiếu sáng cả gian phòng. Ông hỏi
vọng vô chái nhà bếp:
- Hoanh à, con thức rồi hả?
- Dạ! Con đã nấu xôi và chưn mắm xong rồi Tía. Sao Tía
không ngủ, thức chi sớm vậy.
- Bữa nay cấy phần đất của mình, Tía phải ra ngoải tiếp
với con chớ.
- Không cần đâu Tía. Với lại, hồi khuya tới giờ, có cô
Láng lại làm bếp tiếp với con nên mọi việc xong xuôi hết
rồi.
-
Ủa, có cháu Láng đến sớm vậy hả?
- Thưa Bác, cháu qua làm
bếp tiếp anh Ba.
- Cảm ơn cháu nghe Láng.
Ông Bá Hộ vói tay lấy ba cây nhang, đưa vô ống khói mồi
rồi xá ba xá, cắm lên 3 cái lư hương trên bàn thờ
gia tiên theo thói quen mỗi khuya thức sớm.
- Bác uống trà để con nấu.
Nghe Láng hỏi,
ông Ba cảm động.
- Được rồi cháu, để một chút nữa Bác nấu.
- Lẹ lắm Bác.
Cháu nấu liền cho Bác đây...
Từ trong chái bếp, Ba Hoanh và Láng
đã lo dỡ xôi vô thúng và tô mắm chưn với muỗng, đũa
đem theo, chờ các anh chị, cô chú trong đội vần công đến
thì cùng ra đồng cấy lúa và hừng đông sáng sẽ cùng
ăn. Ông Bá Hộ ngồi hút thuốc, uống trà, hỏi han Ba Hoanh với
cô Láng việc đồng áng, về nhiều chuyện linh tinh khác. Ông
cũng hỏi han việc bán buôn của tiệm tạp hoá nhà Láng,
về việc chuẩn bị dọn đất để cấy sắp tới. Tuyệt
nhiên, ông tế nhị không tỏ vẻ gì thắc mắc sự có
mặt của cô Láng qua nhà giúp thằng con trai mình lo nấu phần
ăn cho đội vần công.
Chiến
tranh càng lúc càng khốc liệt. Làng quê của nhóm bạn trong
đội vần công bị bom đạn cày xới khắp nơi. Nhà thờ
Ông Hào thuộc ấp Trường Thọ bên kia sông bị bom B52 san bằng
vì Tiểu Đoàn Tây Đô của VC đặt khẩu súng phòng
không chỗ tháp chuông để bắn máy bay. Sau trận nầy, bà
con trong hai ấp Trường Thọ và Trường Thuận đã tản cư
đi khắp nơi. Ông Bá Hộ đã cho Ba Hoanh lên chợ Kỳ Son thuộc
tỉnh Tân An để ở với gia đình bà con bên vợ và nhờ
lo việc giấy tờ lính tráng vì ngại ở đây bị bọn
du kích "rù quến" theo chúng. Trước hôm ông Bá Hộ
đưa Ba Hoanh đi Tân An, cô Láng và Ba Hoanh có gặp nhau và hai
người nói lời chia tay trong ngậm ngùi.
- Anh Ba đi mạnh giỏi...
- Ờ, cô cũng vậy
nghe. Dù đi xa, nhưng lúc nào tôi cũng nhớ tới cô.
- Nhớ thiệt hông?
- Thiệt mà!
Tại hoàn cảnh tôi phải đi. Nếu tình hình an ninh ở đây
không tốt, cô với Hai Bác cùng mấy đứa em cũng phải tản
cư nghe. Đi tới đâu cũng nhớ tìm cách nhắn tin cho tôi biết...
- Anh Ba...
Láng như muốn nói
điều gì nhưng ngập ngừng. Ba Hoanh nhìn thẳng vào mặt cô
Láng, chợt nhiên nghe lòng xao xuyến lạ lùng. Muốn nói lời
yêu thương nhưng không dám nói. Hứa hẹn gì đây? Bày
tỏ gì đây? Hình như trong lòng hai người có sự đồng
cảm nào đó? Bất chợt, Ba Hoanh nói trước:
- Cô Láng, tôi nói câu
nầy, nếu cô không đồng ý thì đừng giận nghe!
- Chuyện gì
vậy anh Ba?
- Tôi... thương cô nhiều lắm!
- Anh Ba, đừng nói, tui sợ... !
- Sợ gì?
- Sợ chuyện mình không thành...
- Môn đăng hộ đối?
- Không! Sợ chiến tranh ác nghiệt!
- Đừng sợ. Nhưng cô hứa với tôi, chờ tôi...
- Anh Ba cũng hứa với
tui như vậy nghe...
Nói xong, cô Láng đâm đầu bỏ chạy như sợ có người
nghe được chuyện hứa hẹn của hai người. Ba Hoanh nhìn theo mà
nghe trong tim rộn ràng khó tả. Vậy là từ bấy lâu nay, cô Láng
cũng đã ngầm yêu mình cũng như mình thầm thương trộm
cô gái láng giềng, mà Tám Sơn đã có lần nói như
vậy.
Sáng
hôm sau, khi chiếc tàu đò của cậu Mười Lố chạy chậm
và quay mũi ghé vào cặp bến nhà ông Bá Hộ, Ba Hoanh tay xách
cái rương cây trong đựng mấy bộ quần áo, đi theo ba bước
xuống đò, trong khi các đứa em chạy theo, đứng trên bờ vẫy
tay. Ông Bá Hộ quay lại bảo mấy đứa con trở vô nhà và
dặn tối ngủ nhớ gài cửa cẩn thận. "Hai bữa nữa Tía
về!". Ba Hoanh cố nhìn về phía nhà Chệt Hai, anh thấy dáng
cô Láng đứng nhìn chăm chăm chiếc tàu đò, anh thầm
nghĩ, chắc cô buồn nhiều lắm và đang chảy nước mắt cũng
nên!.
Ngồi
trên tàu, Ba Hoanh mới thì thầm với ba:
- Tía ơi, con với cô Láng
thương nhau. Hoàn cảnh con phải đi. Ở nhà nếu có gì xảy
ra cho gia đình cô Láng, Tía giúp đỡ giùm. Nếu có gặp
riêng cô Láng, tía cũng an ủi cô ấy, tội nghiệp.
- Tía cũng đoán
biết chuyện hai đứa. Giữ gìn nhau như vậy là tốt lắm. Qua
tới Kỳ Son, cậu mợ Năm lo giúp giấy tờ xong, một thời gian trở
về, tiá sẽ lo làm lễ hỏi cưới cho hai đứa.
Nhưng, thời chiến
tranh đâu ai lường trước được những biến cố xảy ra
quanh cuộc sống. Chưa đầy sáu tháng thì lại có chiến trận
lớn xảy ra. Cả làng Trường Long phải bỏ làng quê chèo
chống đi tản cư để tránh bom đạn. Một số gia đình
chạy ra tạm trú ngoài Cần Thơ như rạch Đầu Sấu, Bình
Thủy, Xóm Chài, hoặc xuống Cái Tắc, Rạch Gòi. Gia đình
ông Bá Hộ cùng nhiều gia đình chạy xuống tới miệt Thứ
hay Chắc Băng, Cạnh Đền bằng chiếc ghe muôi với mấy đứa
con nhỏ dại. Gia đình Chệt Hai cũng chèo chống vô miệt Bà
Đầm Thác Lác gì đó. Những gia đình từng sống thân
thiết nhau nay đã đi tứ tán bởi tránh bom đạn chiến tranh.
Đâu ai nghĩ rằng cuộc chiến kéo dài, sự chia cách thân
tình thôn xóm dài đằng đẵng những năm sau đó.
Ba Hoanh sang chợ Kỳ
Son, cậu mợ Năm đã nhờ người lo hồ sơ hộ tịch mà
trước đây anh không hợp lệ tuổi tác đi quân dịch. Rồi
cuộc sống ở đây đã cuốn hút mọi sinh hoạt thường
ngày, Ba Hoanh mất đường dây liên lạc với gia đình, nên
đã không biết tin "tản cư" lớn tại quê nhà Trường
Long. Ba Hoanh đã vào làm lính Dân Vệ (sau nầy là Nghĩa Quân)
đóng đồn cách chợ Kỳ Son gần một cây số, nhưng không
làm sao liên lạc được với gia đình ở quê nhà. Cậu
mợ Năm có dọ hỏi thì được biết dân làng nầy
phần đông tản cư từ lâu lắm chưa trở lại. Số người
trở về thì không có gia đình ông Bá Hộ cũng như gia
đình ông Chệc Hai.
Khi Ba Hoanh bị thương trong một trận bị VC tấn công đồn, anh bị
cụt một chân trái và được xuất ngũ, Ba Hoanh quyết định
về lại làng xưa vào sau Tết Mậu Thân năm 1968. Làm một
thương binh với chiếc nạng chống đi khập khiễng chỗ bến đò
Phong Điền, Ba Hoanh cố hình dung lại ngôi chợ xã ngày xưa, bây
giờ đã trở thành Quận lỵ tấp nập ghe xuồng, anh xuống một
chiếc "võ lãi" để về vàm Ông Hào với hy vọng
gặp lại gia đình. May mắn Ba Hoanh đã gặp lại người bạn
cũ, anh Tám Sơn là người lái chiếc võ lãi đưa khách.
Rồi chuyện
quê nhà, chuyện những người thân của Ba Hoanh được Tám
Sơn kể chi tiết lúc hai người uống cà phê trong quán bà
Tư Ựng để chờ khách. Ông Bá Hộ đã về lại nền
nhà cũ và đang ở với hai đứa con trai út là thằng Bảy
Đoàn và thằng Út Kết. Hai người em gái Ba Hoanh đã có
gia đình, cô Tư Hướng và chồng ở trong Trà Ếch; cô
Năm Lầu và chồng ở trong ngọn rạch Cai Cẩm. Thằng Sáu Già
đã chết vì cãi cha theo du kích. Gia đình ông bà Chệc
Hai, cô Láng và mấy đứa em nghe nói khi tản cư đã qua vùng
Bà Đầm Thác Lác tạm ở dưới ghe một thời gian thì
bị tai nạn; một đêm có một trái đạn pháo binh từ
hướng Thới Lai bắn vào vùng Bà Đầm, rớt gần chiếc
ghe và giết chết cả gia đình cô Láng. Ba Hoanh lắng nghe mà
hai hàng nước mắt ràn rụa. Thảm nạn chiến tranh đã đổ
ập lên những người thân yêu nhất của mình. Sự trở
về của một thương binh với nỗi buồn thảm như thế đó.
Biến cố Tết Mậu Thân khắp nhiều đô tỉnh thị miền Nam
do bọn Cộng Sản đã gây nhiều thương tích lớn trong lòng
mọi người. Ba Hoanh về lại gặp người cha ốm đau còm cõi
với hai đứa em trai út trong nỗi bùi ngùi xúc động. Cánh
đồng Trường Long cũng đã vào mùa gặt, nhưng cảnh trí
ngoài đồng đã khác lạ hơn xưa. Đồng cỏ bỏ hoang
nhiều, những thửa ruộng có người trồng cấy lúa lỏm bỏm
trông thật buồn bã. Ba Hoanh đã theo hai đứa em trai ra đồng, nhìn
cảnh cắt gom lúa chín đã gợi hình ảnh ngày xưa của
tổ vần công đổi công mà chính Ba Hoanh đã có mặt
nơi đó. Những hình ảnh của Hai Phát, Tư Em, Năm Vu, Năm Nghĩa,
Bảy Có, Mười Lùn, hay của cô Láng, cô Dung, cô Thu, cô
Mười, cô Út, ... bây giờ đâu còn nữa. Chỉ còn Tám
Sơn thì bỏ ruộng để làm lái đò đưa rước
khách, Ba Hoanh là thương phế binh không còn năng động được
như xưa. Ba Hoanh nhớ và nhớ quay quắt hình ảnh hiền lành, thơ
mộng của một thời tuổi trẻ trên một miền quê những năm
đầu của thập niên 1960. Ba Hoanh nhớ quay quắt đến những cử
chỉ rụt rè, e ấp chuyện tình yêu của chính mình với
cô Láng, yêu thương nhau, gần gũi nhau thường ngày mà không
ai dám nói với ai dù một lời thật đơn giản. Khi ấp úng
hứa hẹn nhau chưa tròn vẹn thì đã cách chia và mãi mãi
đi vào cõi vĩnh hằng. Cuộc đời có bất công và cay
nghiệt lắm không đối với thân phận của mỗi con người?
Bây giờ một nách tay trái chống gậy, một chân phải đứng
nhìn mấy công đất cũ năm xưa, lúa đã chín vàng
lã ngọn, anh nghĩ đến công sức vun bón của hai đứa em trai
cũng như ngày xưa anh cùng các bạn trong tổ vần công đổi
công đã thân thiết bên nhau của một thuở thanh bình thời
đệ nhất cộng hoà. Bây giờ Ba Hoanh không còn khả năng làm
gì được bởi thương tích chiến tranh đã gây cho mình
nghiệt ngã quá. Tình yêu đầu đời trên cánh đồng
quê hương cũng đã mù tăm theo dòng thời gian nhiều đổi
thay đau xót. Có lẽ quãng đời còn lại của một thương
binh, Ba Hoanh thắm thía với tâm trạng của một con người mãi
mãi sống hoài niệm và mang nỗi nhớ vào xuân mà thôi.
Houston,
tháng 01-2011
15 tháng 10-2011
LÊ
CẦN THƠ
(tặng bạn tôi,
ghi lại chuyện tình chôn kín tại quê nhà sau cuộc chiến tang
thương)
[trích tập NỐI SỢI
DÂY DÀI, tr. 123-136, Bản Thảo Lưu Lại - Thư Ấn Quán 2012]
* truyện in trong đặc san PTGĐTĐ Úc Châu
12 - 2012
____________________________________________________________________________________________________-
Nhân tròn 4
năm Nhạc sĩ Anh Việt TRẦN VĂN TRỌNG từ trần (15 tháng 3 -2008 –
15 tháng 3-2012), xin giới thiệu lại bài viết để tưởng niệm
và thương tiếc một nhạc sĩ quê hương Rạch
Giá - miền Nam, tên tuổi sáng giá một thời:
VĨNH BIỆT
NIÊN
TRƯỞNG
Nhạc
sĩ ANH VIỆT
TRẦN VĂN TRỌNG
bài
của
LÊ CẦN THƠ
Tôi bàng hoàng và sửng sốt khi đọc
được thông báo TIN BUỒN do đồng môn Lâm Hầu Sáng, phó
Hội trưởng Nội vụ/Trưởng ban Báo chí của Hội Ái Hữu
PTG-ĐTĐ Bắc Cali chuyển đi lúc 11:21PM ngày Thứ bảy 3/15/2008: “Chúng tôi rất đau buồn và xin thông báo cùng
đại gia đình Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ
khắp nơi, Nhạc sĩ tác giả hai bài Lưu Danh Trường Phan và
Nữ Sinh Trường Đoàn (Nguyên Đại Tá QL. VNCH) là: niên trưởng
Anh Việt TRẦN VĂN TRỌNG, sinh tại Rạch Giá, Kiên Giang, từ trần
vào lúc 11 giờ đêm ngày 14 tháng 3 năm 2008 (nhằm ngày mùng
7 tháng 2 năm Mậu Tý) tại San Jose California, hưởng thọ 81 tuổi. Linh
cữu hiện đang quàn tại nhà quàn Oakhill, 300 Curtner Dr, San Jose, CA 95125, ĐT:
408-297-2447...”. Bởi suốt ngày bận nhiều việc
tôi không có dịp sử dụng máy, nên mãi quá nửa đêm
khi lên máy dự định xoá bỏ các tên tuổi chuyên viết
những lời hằn hộc, chửi bới thô tục, kém văn hoá dẫy
đầy mỗi ngày cho bớt trong hộp thơ Email, những tên tuổi mà
tôi không thể ngờ được họ đã tự xưng là có
trình độ mà lại viết như vậy cứ liên tục xuất hiện,
nếu không xoá một vài hôm thì máy bị đứng (!), tôi
đọc được nội dung trên thì đã bước sang ngày Chủ
nhật, tôi vội sang trang nhà ptgdtd.com thì anh Nguyễn Công Danh đã
đưa TIN BUỒN & PHÂN ƯU xong. Đóng máy đi ngủ, tôi cứ
trằn trọc nghĩ về vị Niên trưởng vừa mới vĩnh biệt chúng
ta.
Tôi
nhớ, cuối tháng 8 năm 1968 sau khi học xong giai đoạn I “Tân Khoá
Sinh Dự Bị Sĩ Quan” tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, được
chuyển sang Trường Bộ Binh Thủ Đức học tiếp giai đoạn II, tôi
đã mua được bản nhạc TÊN EM của nhạc sĩ Anh Việt gởi
về tặng người yêu tại Cần Thơ (là hiền nội của tôi
bây giờ). Tôi không biết tác giả là ai nhưng nghe nói ông
hiện đang phục vụ trong trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường
và lăn lộn trên chiến trường suốt những năm chiến tranh với
mìn bẫy, chết chóc, tôi không còn dịp mơ mộng như lúc
mới vào học ở quân trường, bản nhạc TÊN EM vẫn còn
cất giữ lưu niệm trong chồng lưu bút cũ của vợ tôi. Rồi
sang định cư ở Hoa Kỳ, khi sinh hoạt gia đình PTG & ĐTĐ, tôi
bắt gặp tên CHS TRẦN VĂN TRỌNG ở San Jose California, là bạn của
niên trưởng Nguyễn Phước Trang, tôi mới biết đó là
nhạc sĩ Anh Việt mà cuối năm 1968 tôi đã mua bản nhạc TÊN
EM của ông, lại là cựu Đại Tá, CHS Phan Thanh Giản thuộc hàng
Niên trưởng của tôi.
Năm 1999 khi sang dự Đại Hội lần thứ III tại San Jose( 3, 4 và
5 tháng 7/1999), có hai điều ngạc nhiên là, tôi được niên
trưởng Nguyễn Phước Trang giới thiệu trực tiếp với niên trưởng
Anh Việt Trần Văn Trọng, niên trưởng bắt tay rồi vỗ vai tôi
thật thân mật. Ông nói: “Biết em bỏ công
sức ra làm các cuốn giai phẩm trường mình, tôi khâm phục
lắm”. “Thưa niên trưởng, đây là công sức chung của
nhiều người, chớ không phải riêng em đâu!”. “Nhưng anh
Trang nói, công ban đầu làm cuốn giai phẩm số 1 là của em mà!,
nếu không có cuốn 1 làm sao có cuốn 2, 3, 4...”.
Ảnh niên trưởng Anh Việt TRẦN VĂN
TRỌNG (trái)
và
niên trưởng Nguyễn Phước Trang (phải)
Dịp
nầy tôi đã chụp một bức ảnh lưu niệm hai niên
trưởng Trần Văn Trọng - Nguyễn Phước Trang. Điều ngạc nhiên
thứ hai là, Ban Tổ Chức Đại Hội III đã nhận được
hai bản nhạc viết về Trường mà lần đầu tiên Đại
Hội nầy đã trình bày ngay trong Đại Hội, nhạc phẩm “Lưu Danh Trường Phan” và “Nữ Sinh Trường Đoàn” của nhạc sĩ Anh Việt
Trần Văn Trọng (*). Từ sau đại hội nầy, hai nhạc phẩm nầy
được xem như “hành khúc” dành cho sinh hoạt
gia đình PTG & ĐTĐ hải ngoại, đặc biệt gia đình PTG &
ĐTĐ Houston, các anh chị trong ban văn nghệ soạn hoà âm và tập
dượt để các lần đại hội sau tham dự và trình bày
hai bản nhạc nầy chánh thức trong chương trình.
Năm 2000 tôi xuất bản cuốn bút ký Quê Hương Xa Mãi
Ngút Ngàn và đã gởi tặng niên trưởng Anh Việt Trần
Văn Trọng một cuốn. Sau đó tôi nhận được một phong bì
trong đó có một CD nhạc BẾN CŨ gồm những bản nhạc chọn
lọc của nhạc sĩ Anh Việt gởi tặng lại lưu niệm. Qua CD nầy
tôi mới thấy được cả quãng đời của niên trưởng
đã dành cho sáng tác nghệ thuật bằng cả nhiệt tâm và
năng khiếu đặc biệt không phải ai muốn cũng được. Mãi
sau nầy, dù ở vào tuổi “cổ lai hy”, niên trưởng vẫn
dành trái tim và khối óc của mình khi viết hai bản nhạc mà
gia đình PTG & ĐTĐ hải ngoại dùng làm “hành khúc”
để hát trong những lần Đại Hội hàng năm kể từ sau lần
Đại Hội III tại San Jose California được trình bày lần đầu
tiên và đã thu vào CD hai bản nhạc nầy gởi tặng các ban
đại diện nhóm tại các địa phương. Gia đình PTG &
ĐTĐ Houston, các anh chị trong ban nhạc đã soạn
hoà âm và đã tập dượt để mỗi kỳ tham dự
Đại Hội đều trình bày với sự dàn dựng đặc biệt
suốt mấy năm liền. “Hành khúc” “Lưu Danh Trường
Phan” và “Nữ Sinh Trường Đoàn” cùng
tên tuổi “Anh Việt TRẦN VĂN TRỌNG” tôi tin sẽ sống mãi với thời gian, dù hôm
nay niên trưởng đã vĩnh viễn ra đi.
Làm sao không xúc động mỗi khi hát “Nay từ trên khắp
năm châu. Môn sinh của ngôi trường xưa. Quyết tâm phục hồi
danh xưng. Vị anh hùng trời Nam Phan Thanh Giản. Vị anh hùng trời Nam còn
lưu danh”. Làm sao không xao xuyến
khi hát “Ghi tạc nầy Ơn Thầy. Nặng nghĩa tình đồng môn.
Quyết tâm làm rạng giống Tiên Long. Vang danh muôn thuở Đoàn
Thị Điểm. Trường xưa mến yêu. Trường xưa mến yêu”...
Ảnh nhóm Houston trình bày hai bản nhạc tại ĐH 2004 Phoenix
AZ
Giáo sư Trầm Vân VÕ VĂN VẠN từ Sài Gòn
khi đọc tin buồn, đã nhanh chóng ghi vội những lời chia buồn cùng
tang quyến và cầu mong linh hồn niên trưởng sớm tiêu diêu nơi
cõi vĩnh hằng (qua Email lúc 12:00AM ngày 16 tháng 3/2008):
“Lưu
Danh Trường Phan”, “Nữ Sinh Trường Đoàn”
Câu
ca tiếng nhạc lời vẫn còn tha thiết
Người
ra đi Cần Thơ buồn da diết
San Jose mây trắng dải khăn tang”.
Xin vĩnh biệt Niên trưởng Nhạc sĩ Anh Việt TRẦN
VĂN TRỌNG. Xin chia buồn cùng niên trưởng phu nhân và toàn tang
quyến.
(*) Dịp nầy, xin giới thiệu lại hai bản nhạc Lưu
Danh Trường PHAN và Nữ Sinh Trường ĐOÀN của niên trưởng,
và cũng mượn trang viết nầy, một lần nữa xin gởi theo vong linh
Niên trưởng lời cảm ơn chân thành, tôi nghĩ không riêng
cá nhân tôi mà còn là của đại gia đình PTG & ĐTĐ
Cần Thơ hải ngoại đối với một tài năng âm nhạc đã
gắn bó với trường và đã vĩnh viễn ra đi.
Houston, ngày 16 tháng 3 năm 2008
.
LÊ CẦN THƠ