Diệp Minh Tâm
VÀI HỒI ỨC…RỜI RẠC
.
Dẫn nhập: Tôi theo học trường Phan Thanh Giản
trong các niên học 1961-62 (Đệ Ngũ) cho đến 1965-66 (Đệ Nhị).
Những hiệu trưởng hồi đó tôi còn nhớ là thầy Đàm
và thầy Quân. Để tôi viết lại đôi điều tôi còn
ghi trong ký ức, có sót mảng nào các đồng môn giúp
bổ túc nhé!
Lớp Đệ Tam A, ngày ăn
Tất Niên 1964, chụp với thầy Trực (mang kính đứng giữa). Áo đen góc
trái: Nhã. Cách một người, chỉ ló đầu ra: Xinh làm trưởng
lớp. Kế tiếp đầu hơi thấp xuống: Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình*
(sức học có lẽ hạng 2 trong lớp). Phía trên Bình, lộ nửa
khuôn mặt: Trung (?). Cách 3 người bên tay trái thầy Trực, mặt
bị tối: Phước (sức học cỡ hạng 4-5). Kế tiếp là Nghĩa
(sức học cỡ hạng 4-5) và Trinh (sức học cỡ hạng 3) cùng học
y khoa. Dưới Phước, đang nhìn nghiêng là Diệp Minh Tâm. Hàng ngồi từ trái: Bích (đi Sĩ quan Hải
quân khoảng 1970), kế tiếp là một anh học rất giỏi (có lẽ
hạng 1 trong lớp), kế đến là con người tài hoa Nguyễn Văn
Sáu*, Thái Khi* cầm chai, cách 1 người là Hoàng Oanh mang kiếng
hay quậy. Những
người đánh dấu * còn ở Việt Nam, người giữ ảnh này
có gặp lại. Xin bạn vui lòng bổ
túc ghi những người bạn còn nhớ! tam_diep@hotmail.com |
Bắt
đầu năm học Đệ Ngũ 1961-62, giáo sư dạy âm nhạc lớp
tôi là thầy Thư, còn khá trẻ, có một buổi mở đầu
khá chi tiết về việc học sinh phải học nhạc cho rành để
khi chơi guitare sẽ biết đổi "gam" (Pháp ngữ: gamme hay "tông"),
tức là cung nhạc, chẳng hạn mi thứ hay đô trưởng. Thầy nói
lên giọng xuống giọng để cố thuyết phục tên học trò
nào chưa biết thưởng thức nghệ thuật: "Mấy đứa muốn
đệm đờn thì phải biết cách đổi gam, tới đoạn nào
phải biết đổi qua gam nào, nếu không người nghe sẽ chê cười,
nói mầy đờn hoài một gam nghe chán quá! Có biết đổi
từ gam nọ chuyển qua gam kia thì thiên hạ mới phục..." Ông nói
đi nói lại về điều cần thiết phải đổi "gam" cho
đúng làm tôi chắc mẩm là giờ mình đã gặp được
"sư phụ chân truyền", vì tôi cũng như nhiều học sinh khác
tha thiết muốn học guitare mà chưa có cơ hội. Qua sự dẫn nhập
của thầy Thư mà năm đó tôi bắt đầu học guitar!
Thầy
dạy vẽ lớp tôi (mà tôi quên tên) mở đầu một cách
khá đặc biệt. Buổi giảng đầu tiên, sau ít lời mở đầu
ông hỏi học trò mỗi đứa nghĩ xem mình thích mầu gì
nhất, và cho biết tại sao. Tôi cho là mình thích mầu cẩm thạch,
nhưng không thể giải thích tại sao mình thích mầu này. Sau
cùng, thầy cho biết thầy thích mầu xám, vì đó là pha
trộn của hai sự tương phản là mầu trắng và mầu đen.
Rồi thầy móc từ trong túi áo của thầy cây viết mầu xám,
và chỉ rằng đó là mầu thầy thích. Tôi nghe mà phục
lô-gíc ông thầy hết mức! Rõ ràng là thấy có chính
kiến, mà còn có thể minh họa!
Ở lớp Đệ Ngũ này tôi
học Việt văn với thầy Lộc mà tôi thích nhất trong số các
giáo sư dạy Việt văn suốt quãng đời trung học của mình.
Ông giảng rất hay, với tất cả sự hùng hồn nồng nàn của
người yêu thơ văn. Ông lại giảng giải rất nhiều điển
tích bằng lời kể chuyện hấp dẫn, nên giờ dạy của ông
là cả sự hào hứng lôi cuốn. Tôi còn nhớ thầy kể
nguyên cuộc đời của Bách Lý Hề (có sách gọi là
Bá Lý Hề) từ những lúc trôi nổi lận đận đây
đó tuy có tài nhưng không được ai biết để tin dùng,
cho đến tuổi khoảng 70 mới được chức Tể Tướng. Thầy
Lộc thường cho câu hỏi để học sinh về nhà làm, kỳ
sau thầy có thể gọi đứng lên đọc cho cả lớp nghe, rồi
cho điểm. Có lần tôi được điểm 14 là số điểm
cao hiếm có thời bấy giờ, được bạn bè cùng lớp trầm
trồ, vì xu hướng điểm Việt văn cho trong các kỳ thi hay trong lớp
rất thấp. Tôi luận về sự ám ảnh trong tâm tư, lấy ví
dụ của câu chuyện một người bị ám ảnh cứ thấy mặt
trời chói chang đi theo mình, đi đâu cũng thấy mặt trời đi
theo. Chuyện này ngay lúc đó tôi cũng không nhớ đọc ở
đâu, sách nào, nhưng thầy gật đầu khen thí dụ hay, hẳn
là từ một tác phẩm nổi tiếng nào đó. Tôi có tật
mang trong đầu nhiều mẩu truyện, lời thơ, câu phát biểu... nhưng
không còn nhớ xuất xứ hay tác giả. Nhiều khi bị thất lợi
vì lộ vẻ như có "kiến thức nửa mùa", nhưng có
người nói như thế mới là kiến thức của riêng mình
sau khi đã được hấp thụ và tổng hợp! Khi tôi bị bắt
phải đi học quân sự học đường năm thứ hai đại học
(6 năm sau), thì thầy Lộc, lúc đó đã là Chuẩn Úy,
là một trong những giảng viên. Lớp nghe giảng quá đông (tập
họp từ các trường khác nhau), tôi chưa có cơ hội đến
chào thầy, lại nghĩ chắc thầy đâu nhớ đến mình. Nhưng
thầy lại nhớ, gọi tôi đến, kêu đúng tên tôi mà
hỏi chuyện!
Một giáo sư đặc biệt khác là
ông Sửu dạy toán. (Tôi còn nhớ mãi tên thầy) Trước
khi vào học, tôi có nghe qua danh tiếng ông Sửu dạy toán rất
hay. Quả nhiên danh bất hư truyền: ông giảng ngắn, gọn nhưng rành
rẽ, khiến tôi tuy yếu về toán vẫn lãnh hội được. Có
điều ông dạy hay quá nên mỗi kỳ cho bài, phần lớn học
sinh trong lớp đều làm được. Để phân biệt ai hơn ai kém,
thầy Sửu ra điều lệ: chỉ cho điểm cao cho một số học sinh
đem nộp bài trước. Ai nộp sau dù làm bài hoàn toàn phải
chịu điểm ít hơn một chút theo thứ tự nộp bài. Thế
là sau khi được cho đề, học sinh làm bài thật nhanh rồi
chạy nhanh lên bàn thầy nộp bài, nhiều khi chen lấn nhau khá xô
bồ. Ai lên trước để vở mình xuống dưới, người lên
sau để vở mình chồng lên trên. Sau đó thầy chỉ việc
lật ngược chồng vở lại, bắt đầu cho điểm cao nhất từ
vở trên xuống vở dưới. Tôi ganh đua với chúng bạn cũng
khá trong màn "chụp giựt" này.
Trong lớp này
thầy dạy địa lý (tôi lại quên tên!) có dạy một phương
pháp vẽ bản đồ Việt Nam rất hay. Học sinh bắt đầu vẽ
những hình vuông và chữ nhật, rồi thêm các đường
chéo ngang dọc đây đó, nối các góc này góc nọ,
rốt cuộc chỉ trong vòng vài ba phút đã có một bản đồ
từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đúng theo hình thể cân đối.
Trong kỳ thi lục cá nguyệt, thầy dạy địa lý chấm điểm
tôi đứng đồng hạng nhất với một anh. Thầy muốn có sự
quyết định ai nhì ai nhất nên kêu cả hai lên bảo vẽ bản
đồ Việt Nam theo phương pháp nói trên, ai vẽ xong trước sẽ
được thêm chút điểm để đứng nhất. Tôi đã
tập vẽ rành rọt, nhưng khi lên bảng có phần khớp nên lúng
túng vẽ chậm hơn tuy vẫn vẽ đúng, đành phải chịu đứng
hạng nhì! Sau này tôi quên mất phương pháp đó, muốn
tìm học lại nhưng không biết cách nào. Bạn nào còn
nhớ xin cho biết!
Vào năm tôi học Đệ Ngũ, trường
Phan Thanh Giản tổ chức nhiều hoạt động xã hội, và tiếp
tục trong hai năm tôi học Đệ Tứ và Đệ Tam. Mấy năm thời
đó có mấy trận lụt lớn ở miền Tây (vùng Đồng
Tháp, An Giang...) và miền Trung, gây thiệt hại nặng, nhiều người
mất cả nhà cửa sản nghiệp. Học trò tham gia tình nguyện vào
các việc đi quyên tiền hay tặng vật như quần áo cũ. Mỗi
nhóm 2-3 đứa được chia một vùng hoạt động riêng. Học
trò chỉ việc mang một cái thùng niêm phong kỹ lưỡng chỉ
chừa một khe hẹp để bỏ tiền vào, đi vào từng nhà
trong vùng mình thỏ thẻ trình bày việc lạc quyên. Nhà nhà
thấy học trò còn nhỏ mà đã biết tình nguyện ra công
nên sẵn lòng đóng góp.
Trường còn hay mời các đoàn
cải lương hoặc ca kịnh đến trình diễn lấy thù lao nhẹ,
trường tổ chức ở mọi việc từ quãng cáo, bán vé
đến sắp xếp các việc khác. Học trò tham gia vào các
việc bán vé hát: cầm một xấp vé đi từng nhà nói
rõ lý do và mời mua. Đến buổi trình diễn, đám học
sinh tình nguyện được phân công: nhóm lo giữ gìn trật tư,
nhóm cầm đèn bấm hướng dẫn từng khán giả vào đúng
ghế ngồi theo số ghế ghi trên vé (tôi làm việc này, đã
được chỉ dẫn cách thức trước đó), nhóm khác
chạy lăng xăng được sai bảo việc này nọ. Vào giờ trình
diễn, hết việc làm thì học sinh được phép đứng hay
ngồi ở góc nào đó trong rạp, xem hát miễn phí gọi là
thưởng công. Nhờ tham gia các hoạt động này mà tôi được
xem những vở cải lương nổi tiếng thời đó như Tuyệt tình
ca và Ông Cò Quận Chín do đoàn Dạ Lý Hương trình
diễn với Út Trà Ôn, Bạch Tuyết và Thanh Sang, Hoa Mộc Lan do đoàn
Thanh Minh Thanh Nga với Thanh Nga và Hữu Phước, hay kịch với các danh hề
Tùng Lâm và Thanh Việt...
Cần nói một chút về anh Thanh
Việt này vì anh quả là một danh hề độc đáo: lối
hài của anh không nhí nhô loạn xạ như nhiều người khác.
Anh hay dùng dáng vẻ điệu bộ để hài hước, và chỉ
cần làm bộ ria mép của anh rung rinh một chút là đủ để
gây cười. Sau này khi lên đại học, có lúc tôi đi một
chuyến công tác văn nghệ của sinh viên với anh. Suốt cả cuộc
hành trình trong mấy ngày anh cứ khôi hài, vẫn với vẻ ý
nhị dí dỏm làm ai cũng phải cười khúc khích từng hồi.
Có lúc tôi xem vở kịch về tướng cướp Bạch Hải Đường
trên T.V. Trong một đoạn bi thương đối với cô Kim Cương,
anh đóng vai ngây ngô rất dí dỏm khiến khán giả thấy rõ
ràng Kim Cương cũng phải mỉm cười, nhưng cô cố giấu nụ
cười bằng cách tạo vẻ mặt nhăn nhó hay cúi mặt xuống.
Khởi đầu Thanh Việt cùng với Tùng Lâm diễn với nhau trong những
màn hài hước rất hay. Khi hai người tách ra nhau thì không còn
đôi diễn viên nào diễn hài đạt như thế.
Trở
lại hoạt động xã hội. Có lần (khoảng 1963-64) một đám
cháy to xảy ra trong tỉnh lỵ làm nhiều nhà trong một khu dân nghèo
bị thiêu rụi. Học trò Phan Thanh Giản được huy động tham dự
vào việc giúp dọn dẹp tàn tích đống ngạch ngói đổ
nát, quyên tiền và phẩm vật, phân phát các món cứu
trợ cho nạn nhân... Đó là lần đầu tiên tôi làm công
tác xã hội phục vụ trực tiếp đồng bào tỉnh mình.
Sau đó qua những công tác khác tôi tham dự khá nhiều vào
các công trình phát triển trong tỉnh.
Lúc đi làm trại công
tác, tôi thường làm việc với anh Mạch Kỳ Châu, học trên
tôi một lớp. Tình cờ đánh tên anh tìm trên Yahoo thì
thấy tin tức từ Houston ngày 5 tháng 8 năm 2007 ghi “CHS/GS
Mạch Kỳ Châu (CThơ)” bị bệnh nặng. Chắc đây là
anh Mạch Kỳ Châu mà tôi đã từng làm công tác xã
hội với anh chứ không ai khác, vì tên anh quá đặc biệt!
Tôi muốn bắt lại liên lạc với anh mà website không cho địa
chỉ e-mail những người được nhắc đến.
Một
năm nào đó (khoảng 1962-63), sau một trận mưa to hàng đàn
cà cuống bay vào thành phố, đậu la liệt trên mặt đường
và vỉa hè. Dân miền Nam vốn không biết dùng cà cuống
nên không ai để ý đến hiện tượng này. Chỉ có
người cô của tôi trên Saigon nhằm lúc xuống Cần Thơ chơi
nên cả nhà thu lượm cà cuống về và cô chỉ dẫn cách
thức rút tinh dầu cà cuống từ cái bọng tinh dầu dài và
trong suốt như sợi bún tàu. Sau đó nhà luộc thân cà cuống
để ăn, hương vị thịt cà cuống khá là lạ và thơm
ngon. Đó là lần duy nhất trong đời tôi thấy cà cuống thiên
nhiên xuất hiện tại miền Nam, một hiện tượng đặc biệt
và hiếm có.
Sau đó
thì xảy ra vụ đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm
năm 1963. Trong trường Phan Thanh Giản từ trước đến giờ không
thấy rục rịch gì về chống độc tài, nhưng sau đó ít
lâu một nhóm học sinh trong trường lên tiếng đả đảo
các ông Hiệu trưởng và Tổng Giám thị trường, cho họ
là "tàn tích của chế độ cũ" phải bị cách chức.
Các học sinh này không gây bạo động gì, chỉ làm huyên
náo, hô hào các bạn tham gia, viết khẩu hiệu lên bảng, và
đòi bãi khoá đến khi yêu sách được thỏa mãn.
Rãi rác các trường các nơi khác có những vụ náo
loạn tương tự. Sau đó thì vài ông trong cấp lãnh đạo
trường chuyển đi nơi khác (hình như thầy Khôn lúc đó
chuyển lên Saigon?), người mới vào thay, và tình hình dần dần
trở lại êm thấm. Sau đó ít lâu thì học sinh mới nhận
ra là nhà nước chỉ hoán chuyển những ông lãnh đạo
từ trường này qua trường khác chứ không giáng chức chế
tài ai. Nhưng học sinh một phần do sôi nổi nhất thời chứ không
phải có tinh thần "cách mạng" gì, phần cũng tự biết
những thầy cô mình cũng chỉ vì miếng cơm manh áo nên êm
xuôi chấp nhận.
Khi vào lớp Đệ Tứ (1963-64), tôi bắt
đầu chơi vũ cầu đều đặn với nhóm tuyển thủ của
trường do thầy Trực (dạy vạn vật lớp tôi) làm thủ lãnh.
Các "cao thủ" vũ cầu trường Phan Thanh Giản thuộc loại có
hạng ở miền Tây lúc bấy giờ, thường đoạt các giải
đây đó (nhưng có năm thua đội Long Xuyên) nên chơi với
họ tôi tiến khá nhanh. Có điều vì so với cả đội tôi
vẫn chơi kém nên chưa bao giờ vào đội truyển, chỉ chơi
để vận động cơ thể thôi.
Từ năm học này, tôi có một
anh bạn thân là Nguyễn văn Sáu, khá nổi tiếng trong trường.
Anh lớn hơn tôi 2 tuổi, sau trở nên người bạn thân nhất trong
cả đời học sinh của tôi. Anh rất hiền, tuy có nhiều tài
này nọ nhưng không kiêu căng, tuy con nhà khá giả (nhà buôn
bán) nhưng không cao kỳ. Tôi với anh này có nhiều kỷ niệm,
nhiều khi đẹp, có khi buồn cười. Một lần, anh Sáu được
tuyển trong đoàn lực sĩ trường đi dự vận động hội
học sinh liên tỉnh ở Vĩnh Long. Tôi không có tiêu chuẩn gì
nhưng muốn đi theo. Anh Sáu can thiệp để tôi được đi theo,
cùng sống trong khách sạn của đám lực sĩ trường. Để
khỏi gây thắc mắc cho những người khác, tôi phải tham dự
vào cuộc diễn hành trong đoàn lực sĩ trường trong buổi lễ
khai mạc vận động hội. Tôi lúc đó vẫn ốm yếu, lại
vận bộ đồng phục lực sĩ với cái quần đùi ngắn
ngủn để lộ cặp giò khẳng khiu và cái áo cánh (maillot)
không có tay áo để lộ 2 cánh tay cũng ốm yếu. Nếu có
quần dài và áo tay dài như nhiều loại đồng phục khác
thì không đến nỗi, đàng này tôi bị lộ cả hình
dạng không thấy có bắp thịt nào cả. Tôi thấy kỳ quá,
nhưng đã lỡ rồi. Cũng có anh thắc mắc, hỏi tôi tham dự
môn thể thao gì thì tôi đáp là chơi bóng bàn. Tôi
đã chuẩn bị câu trả lời này, vì biết môn chơi bóng
bàn không cần vai u thịt bắp! Câu trả lời có sự thực phần
nào, vì tôi cũng hay chơi bóng bàn với anh Sáu, tuy chơi rất
kém.
Anh Sáu năm đó không được huy chương
gì, nhưng 2 năm sau khi hai đứa đã xa nhau anh được huy chương
bạc về nhảy cao trong một vận động hội học sinh liên tỉnh
khác. Lúc gặp lại, nghe anh kể thành tích và nhìn thấy cái
huy chương, tôi nài nỉ xin. Anh ngần ngừ, nhưng tôi nài nỉ
mãi nên cuối cùng anh chịu cho tuy có ý tiếc rẻ. Sau này
không rõ chiếc huy chương này thất lạc ở đâu. Tôi nghĩ
lại việc nài nỉ của mình là quá đáng. Tôi muốn
tìm cái huy chương đó để đem trả lại anh nhưng tìm
không ra, và cũng không thể gặp lại anh vì nghe nói anh đã
về quê cày cấy, đường đi về quê anh lại quá khó
khăn.
Anh Sáu là đệ tử một ông thầy võ
Thiếu lâm, người tàn tật nhưng vẫn dạy võ. Có lúc
tôi xem anh biểu diễn một bài quyền Thiếu lâm cho những người
học võ xem, nhưng chưa hề thấy anh song đấu, và cũng chưa nghe
việc anh "ra tay" với ai. Thấy lạ, tôi xin học Thiếu lâm với
anh. Anh đồng ý dạy võ mà không qua nghi thức "nhập môn"
gì cả. Được ít lâu thì tôi đâm chán với mấy
thức múa may này, nên không học nữa.
Cuối năm Đệ Tứ,
học trò phải thi Trung học Đệ Nhất cấp. Kỳ thi này không
thiết yếu lắm vì ai thi rớt vẫn được lên lớp Đệ
Tam (nhưng phải thi đậu sau đó để được dự thi Tú
tài 1). Bằng Trung học này cần thiết cho những ai muốn thôi trung
học để thi vào các trường trung đẳng như cán sự y tế
(trợ y), cán sự kỹ thuật... (Nhưng mấy năm sau các trường
cán sự đòi hỏi bằng Tú tài 1).
Việc thi thể
thao cho kỳ thi Trung học Đệ Nhất cấp thời đó là cả những
màn kịch. Không có trường nào có chương trình huấn
luyện gì về thể thao; ai tự nhiên có năng khiếu môn thể
thao gì thì cứ tự mình chơi và tập luyện môn đó.
Nhưng chương trình thi Trung học lại cho thi thể thao gồm các phần
chạy 80m, chạy 2 vòng sân vận động (khoảng 800m), nhảy xa, và
nhảy cao. Khi chạy 2 vòng sân vận động, học sinh nhiều đứa
thay nhau chạy giúp: mỗi đứa chạy lúc khởi đầu và lúc
về mức đến, nơi có giám khảo cầm đồng hồ bấm
đo thời gian. Còn đoạn giữa lúc chạy bên kia sân vận động
thì không có ai giám hộ, và giám khảo bên này sân
không thể nhìn rõ ai chạy bên kia sân. Nên vào đoạn này
học sinh có thể nhờ một anh bạn đứng sẵn đó thế vào
chạy giúp, khi anh này chạy qua vòng thứ hai vào thay lại để
tự mình về mức đến.
Vì không hề có tập luyện
trước nên dù có bạn chạy dùm đoạn giữa, tôi vẫn
cảm thấy mệt như đứt hơi khi đến mức cuối. Nhất là
sau đó lại phải ra chạy dùm người bạn đã chạy giúp
mình. Các môn chạy 80m và nhảy xa tôi tự trổ tài, có
thành tích khá trong môn 80m. Nhưng đến môn nhảy cao thì tôi
chịu, vì tôi không biết phương pháp nhảy ra sao. Thế là
anh bạn thân Sáu của tôi ra tay cứu giúp: anh thi nhảy dùm tôi!
Anh ăn ý sao đó với ông thầy giám khảo, nên khi ông kêu
tên tôi thì anh từ trong đám đông học trò xông ra, chạy
thật nhanh đến sà ngang và nhảy qua rồi lủi đi mất trong đám
đông, diễn tiến nhanh gọn ít ai thấy kịp. Sân vận động
lại lu bu náo nhiệt vì có nhiều hoạt động thi xảy ra cùng
một lúc nên ít ai để ý. Vì nhà trường xem nhẹ thể
thao, đã không tập tành gì cho học sinh mà lại bắt thi, thầy
cô thấy điểm vô lý đó nên tuy biết có mấy màn
gian lận như thế nhưng vẫn làm lơ, phần xem như để giúp
học sinh có thêm điểm thi! Học sinh lại không làm gì lộ
liễu, mà vẫn phải kín đáo, ra vẻ tranh tài đàng hoàng
cho đúng không khí thi cử. Anh Sáu vốn giỏi đồng đều
các môn vận động nên anh được điểm thể thao 18/20, tôi
được 16. Sau đó cả hai nghĩ về việc này mà thấy buồn
cười mãi!
Các hạng trong các kỳ thi Trung học, Tú
tài 1 và Tú tài 2 gồm: Tối Ưu với điểm trung bình từ
18 trở lên, Ưu với điểm từ 16 trở lên, Bình từ 14, Bình
Thứ từ 12, và phải được điểm từ 10 mới được
đỗ (hạng Thứ). Tôi nghe các thầy cô nói chưa hề có
ai được hạng Tối Ưu cả. Năm đó cả trung tâm khảo
thí Cần Thơ (quy tụ thí sinh từ Cần Thơ và vài tỉnh lân
cận) chỉ có 1 học sinh đỗ Ưu. Anh này là con của một ông
giáo trung học (ông Liêu) đã về hưu, nên cả đám học
sinh kháo nhau chắc ông cha "kềm" con ghê lắm, đêm ngày bắt
con phải học, không cho đi chơi hay giải trí gì cả!
Khi đi
xem danh sách học sinh thi đỗ, tôi đọc từ trang này qua trang kia thỉnh
thoảng mới thấy tên một người đỗ Bình, Bình Thứ thì
chỉ có khoảng 2, 3 người cho mỗi trang trong danh sách. Tính phỏng
chừng tỷ lệ đỗ khoảng 40%, tỷ lệ ở các trường công
cao hơn, số thí sinh tự do hay người đã bỏ học thi lại thì
đỗ kém hơn nhiều. Lúc đó tỉ lệ đỗ Bình Thứ
có lẽ vào khoảng 4-5% của tổng số thí sinh, số đỗ Bình
khoảng 1% hay ít hơn nữa. Dăm bảy năm sau, chế độ thi cử ra
bài theo lối trắc nghiệm, cho thí sinh đọc từng câu hỏi ngắn
rồi đánh dấu một trong các câu trả lời cho sẵn, điểm
thi là điểm tổng cộng các câu trả lời đúng, thì
tỷ lệ đỗ các hạng cao trở lên rất cao, Ưu và Bình
nhan nhản.
Lên đến lớp Đệ Tam (bắt đầu Đệ
Nhị cấp, 1964-65), học sinh phải chọn ban chuyên môn. Các ban thời
đó là: A nặng về vạn vật, B nặng về toán, C về văn
chương và triết học, còn D về cổ ngữ (Hán văn). "Vạn
vật" là tiếng chỉ chung các môn khoa học thiên nhiên (sciences
naturelles). Vào thời tôi, ban A lớp Đệ Tam học về địa chất
học và thiên văn học, Đệ Nhị về thực vật học, và
Đệ Nhứt về cơ thể con người. Các lớp dưới cũng có
các môn này nhưng giản lược hơn. Lúc đó cả hai trường
trung học nam và nữ tại Cần Thơ không có lớp ban D, nên không
rõ nếu ai cắc cớ chọn môn này thì sẽ học ở đâu,
có lẽ phải vào một trường nào đó ở Sài Gòn.
Ban C có ít học sinh chọn nhất, nên các cô bên trường
nữ Đoàn Thị Điểm chọn ban C phải học trong một lớp gộp
chung lại cả nam lẫn nữ ở trường Phan Thanh Giản, tạo thêm một
không khí đặc biệt cho các lớp đệ nhị cấp ban C.
Lớp Đệ
Tam là lớp có sắc thái đặc biệt trong các trường trung
học thời bấy giờ: học sinh vừa trải qua một năm lo học thi, và
hai năm kế tiếp lại có hai kỳ thi Tú tài 1 và Tú tài
2 đều gay go, nên học sinh nào cũng cho năm Đệ Tam là năm xả
hơi, dưỡng sức! Do vậy mà nói chung học sinh các lớp này
đều có phần lười học và ham chơi, kỷ luật có phần
lôi thôi hơn các năm khác. Đến lớp này thì đa số
học sinh đã đỗ bằng Trung học, mang danh là học sinh đệ nhị
cấp, lại thêm với tuổi gần thành niên 15-17 cho là mình đã
lớn, không còn sợ sệt khúm núm với thầy cô nữa. Mặt
khác, tuổi này lại chưa đến mức trưởng thành chững
chạc, có trách nhiệm và hiểu biết. Vì các yếu tố này
mà giáo sư nào cũng ớn dạy lớp Đệ Tam! Tuy vậy một
số thầy cô lại thông cảm với học trò phải lo thi cử quá
nhiều (chính như họ đã trải qua!) nên có phần dễ dãi
dung thứ.
Phần tôi năm rồi hăng học quá nhưng vẫn
hụt phần thưởng vì bị bệnh bỏ thi, nên không còn muốn
học chăm nữa: tôi dời xuống ngồi ở bàn gần cuối lớp
để dễ a tòng với đám lè phè! Nhưng thầy Trực (tiếp
tục dạy môn vạn vật năm Đệ Tam và rất mến tôi vì
tôi hay có điểm cao trong môn ông dạy ở lớp Đệ Tứ)
thấy thế đã đoán ngay ra "ý đồ" của tên học
trò: ông mắng yêu tôi ít tiếng rồi kêu tôi lên ngồi
ở bàn trên như năm trước!
Điển hình cho học sinh Đệ Tam
lúc đó là một anh học sinh chung lớp với tôi tên là Hoàng
Oanh (đã qua đời). Anh này hay có tính nghịch phá ngầm, thích
tếu tếu nói bông đùa nhưng nét mặt dáng vẻ lại thản
nhiên, nhiều lúc còn ra vẻ hiền từ chất phác! Vì cá
tính đặc biệt này mà cả lớp đều vui thích theo với
những nghịch phá của anh, và thầy cô cũng khá mệt óc
vì khó viện cớ gì để la mắng trừng phạt anh được.
Nên đám học sinh lè phè khoái anh vì anh hay chọc phá nhưng
vẫn thoát khỏi lưới trừng phạt! Một lần nhà trường
đưa đến một bản thông báo để anh đại diện lớp
đọc cho cả lớp nghe. Thông cáo đại ý nói không cho phép
nam sinh mặc quần may bằng hàng ny lông. Lúc đó trường trung
học chỉ cho phép con trai mặc quần may bằng vải ka-ki ý chừng để
không tạo cảnh khác biệt giầu nghèo, nhưng nhiều học sinh đệ
nhị cấp phá lệ mặc quần may bằng hàng tổng hợp. Có điều
là thông báo đáng lẽ nên dùng từ "hàng tổng hợp"
thì đúng hơn; đàng này dùng từ "hàng ny lông"
nghe quá khôi hài, vì từ này hay được dùng để gọi
hàng của nữ giới may mặc! Nên cả lớp cười khúc khích.
Hoàng Oanh cất tiếng nói nho nhỏ nhưng vừa đủ mọi người
nghe: "như vậy nhà trường có cấm con trai mặc quần lãnh
không?" Thế là cả lớp cười phá lên, ông thầy có
vẻ cố nhịn cười, đưa mắt nhìn Hoàng Oanh mà bậm môi,
nhíu mày, chắt lưỡi ra hiệu bảo anh ta phải thôi!
Riêng
một anh tên Đức cũng hay có tính cợt đùa trong năm Đệ
Tam này. Câu anh hay nói với thầy cô, một cách lễ độ trang
nghiêm, là "Để em về xin phép má em trước" mỗi khi
thầy cô chuyển đạt lời nhà trường kêu gọi học sinh
làm một việc gì đó như là tham gia công tác học đường.
Mỗi khi như thế, cả lớp phá lên cười mà thầy cô không
trách cứ gì Anh Năm được dù biết mười mươi là
anh bông đùa! Có lúc cô Sen dạy Việt văn nghe thế vui vẻ
nói "Chà! Em ngoan ngoãn với má em quá hả?!" khiến cả
lớp được một phen vui vẻ tiếp.
Trong năm Đệ Tam, ông thầy dạy
Anh văn (còn trẻ, khá dễ thương) bắt đầu mở cho tôi
một chân trời mới mẻ của ngôn ngữ này. Ông cũng là
người dạy cả lớp hát bài Silent Night gần dịp Giáng
Sinh. Đó là bài hát Giáng Sinh đầu đời mà tôi được
biết, vì có điểm lạ lùng là tuy chế độ ông Diệm
theo Thiên chúa giáo một cách cuồng tín nhưng vào các mùa
Giáng sinh bao năm trước đó đài phát thanh không hề phát
nhạc Giáng Sinh!
Trong lớp Đệ Tam, thầy Nguyễn Văn Sáu
có cách dạy Pháp văn một cách đặc biệt. Chẳng hạn,
thầy vẽ hình một con voi gồm các pronom le, la, lui, en... để theo hình
vẽ đó học sinh nhớ dùng từ nào trước sau trong câu văn.
Nhà thầy cách nhà tôi vài căn, nên tôi hay nghe nhạc thầy
mở. Có lẽ vì yêu thích nhạc nên thầy hay lấy ví dụ
các câu Pháp văn thầy dịch từ các tựa bài hát, như
là "Tôi vẫn yêu hoa màu tím". Khi anh Sáu, có cùng nguyên
họ tên với thầy, bị kêu lên sát hạch nhưng không trả
lời được, thầy nói: "Tại sao là giáo sư Pháp văn
mà kém vậy!"
Một giáo sư có phần khác biệt
với những người khác là thầy Minh, dạy lý hoá. Anh Minh chỉ
lớn hơn học sinh anh dạy 4-5 tuổi, vì lúc đó anh đang là
sinh viên Đại học Khoa học khoảng năm thứ ba. Chắc vì lý
do này nên anh muốn học sinh kêu anh bằng "anh", thay vì bằng
"thầy". Trong khi các giáo sư khác đều là công chức
chính ngạch vì đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm, anh
chỉ mới nhận chân dạy ngoại ngạch lãnh tiền theo giờ thôi.
Vì tuổi tác ít chênh lệch với học sinh và vì còn đang
đi học, anh gần gũi thân thiện với học sinh nhiều hơn so với
các thầy cô khác.
Anh Minh hay rủ một nhóm nhỏ học sinh anh mến,
trong đó có anh Sáu và tôi, đi chơi đây đó, thường
là vào các vườn cây trái ở các vùng đồng quê
để đi dạo, ngắm cảnh và chụp ảnh. Bình thường tôi
thấy tỉnh Cần Thơ không có gì đặc sắc, có tự mình
muốn đi chơi cũng không biết đi đâu. Nhưng trong đám có
mấy bạn là "thổ địa" dẫn cả nhóm đi thăm viếng
những cảnh xa lạ khá đẹp với cây cảnh, hoa lá, sông nước...,
xa lạ đến nỗi chỉ ít năm sau tôi không còn nhớ đường
đi đến các nơi đó.
Nhân các buổi đi chơi với nhau
này, anh Minh hay đề cập đến nhiều chuyện còn khá mới lạ
với tôi lúc đó. Anh hay nói nhiều về chính trị, và tỏ
ý khâm phục Fidel Castro (anh kể việc Castro đọc một bài diễn
văn kéo dài 5-6 tiếng đồng hồ trong một buổi lễ gì đó)
và Mao Trạch Đông (anh kể về cuộc vạn lý trường chinh và
việc Mao tuy lớn tuổi nhưng còn khỏe, có thể xuống sông bơi
lội...). Mấy việc này thì tôi nghe nhưng không để ý quan
tâm, vì bản tính không thích chính trị. Nhưng anh cũng bàn
luận nhiều về thơ văn, nhất là thơ văn tiền chiến. Tôi
còn nhớ anh hay đọc cho bọn học sinh thân cận với anh nghe những
câu thơ của Tế Hanh (bài “Vu vơ”, có phần nào
trùng hợp với tâm tư tôi lúc đó), hay “Lời kỹ nữ”
(có lẽ là bài anh thích nhất), với hai câu đầu anh thường
đọc:
Khách ngồi
lại cùng em trong chốc nữa
Vội
vàng chi, trăng sáng quá khách ơi!
và câu cuối:
Du
khách đi, du khách đã đi rồi!
Nghe qua có vẻ như anh Minh
hơi quá đáng khi bàn luận thơ văn một cách "táo bạo"
như vậy với học sinh lứa tuổi 15, 16; nhưng thật ra anh chỉ chú
trọng đến những tình cảm nồng nàn lãng mạn chứ không
phải có ý nói đến chuyện ăn chơi trụy lạc. Hơn nữa,
anh chỉ bàn luận các chuyện "bên lề" này với một
nhóm nhỏ học sinh thân cận với anh những khi đi chơi đây đó;
vào lớp thì anh dạy nghiêm chỉnh môn lý hóa của anh. Dầu
sao đi nữa, qua anh tôi thích vài bài thơ và không thích vài
bài khác.
Ngoài thơ tiền chiến, anh Minh còn đọc
cho bọn học trò nghe một số bài thơ đương thời, mỗi
khi đọc anh đều tấm tắc khen hay và giảng giải hay như thế
nào. Có 4 câu anh đọc nhưng nói không nhớ tựa đề và
tên tác giả:
Tôi
hút điếu thuốc nữa
Đốt
dần thêm tháng năm
Chiếc
bac xa rời bến
Đời
xa dần tuổi xanh
Xem ra nhờ vào sức "bình thơ" nồng
nhiệt của anh Minh mà tôi vẫn nhớ mãi các câu thơ này,
nếu không, tự mình không thấm thía bao nhiêu: lúc đó
chưa hút thuốc và không cảm thấy "xa dần tuổi xanh", duy
có bac Cần Thơ thì cách nơi anh đọc thơ chỉ vài km!
Thế
là qua anh Minh mà lần đầu tiên tôi biết nhiều về loại
văn học thời tiền chiến, chứ trước đó và mãi khi lên
đến lớp Đệ Nhất học sinh được học rất ít về
loại văn thơ này, có lẽ vì chính quyền cho là quá lãng
mạn. Tôi chỉ nhớ thơ tiền chiến mình học trong trường là
bài “Tình già” vì đó là bài thơ đầu tiên
của thi ca Việt Nam được viết theo thể tự do nên có ý nghĩa
văn học sử hơn là thi ca.
Năm này học trò Phan Thanh Giản có thêm
những hoạt động mới. Việc trước nhất là tập nhu đạo
(judo) do trường tổ chức. Bãi tập võ là một tấm vải bố
dầy (giống như loại dùng để căng lều) trải trên thảm
cỏ trong sân trường. Võ đường do thầy Chơi phụ trách
(sau 1975 thầy dạy Judo cho đội tuyển quốc gia). Buổi đầu tiên,
sau khi nghe võ sư giảng qua về việc nhập môn, võ sinh mới phải
chịu cho các "sư huynh" và "sư tỉ" vật té! Võ
sư dặn các môn đồ mới là chỉ cần đứng yên để
bị vật, đừng cử động gì hết. Thế là từng cặp
một võ sinh cũ đứng đối diện với một võ sinh mới. Đối
diện tôi là một chị học sinh lớn hơn tôi chỉ khoảng 1-2
tuổi mà tôi đã thấy đôi lần tuy chưa quen nhau. Chị tiến
đến nắm lấy vạt áo của tôi, rồi trong một chớp mắt
tôi thấy trời và đất đảo lộn một vòng và tôi
té xuống một cái "phịch" khá nặng, nằm dài trên
tấm thảm, hoàn toàn không theo kịp các diễn tiến việc gì
đã xảy ra! Cảm giác thật lạ lùng khó tả. Lúc đó
tôi mới tin là những tin báo chí hay đăng thời bấy giờ
về các cô gái ra đường bị thanh niên chòng ghẹo, giở
ngón nhu đạo vật cho mấy anh này nằm dài là có thật.
Có
một chuyển biến khá sâu sắc đến với tâm tư và tầm
nhìn của tôi. Nguyên năm đó có một nhóm sinh viên từ
Sài Gòn tự gọi là "Phong trào Du ca" do ông Phạm Duy dẫn
xuống trường Phan Thanh Giản trình diễn. Từ ngữ "du ca" được
dịch từ tiếng Pháp là "troubadour", tức là những người
thời xưa ở Châu Âu hay đi đây đó, góp nhặt những
mẩu chuyện xa lạ từ một nơi rồi viết thành bài hát hay
câu thơ để đi đến nơi khác hát hay ngâm tại các
chợ búa hay các lâu đài, vừa vui với đời sống phiêu
bạt vừa có phương tiện sinh nhai.
Nhóm Du ca viên này kết hợp với
Ban Hoa Sim chủ yếu gồm các chị sinh viên Trường Quốc gia Âm nhạc
và Kịch nghệ Sài Gòn tình nguyện đi trình diễn đây
đó, không thu tiền. Trưởng nhóm là chị Thúy Hoan, tính
tình trang nghiêm, đúng vẻ “sư tỷ”, nên đám sư
đệ ít khi trò chuyện, không dám đùa cợt. Kế đến
là chị Phương Oanh, vui vẻ, ăn nói nhiều hơn, nên đám
sư đệ cảm thoải thoái mái trao đổi với chị. Anh Nguyễn
Đức Quang cầm đầu nhóm Du ca, sau này thành lập Phong trào Du
ca Việt Nam. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe qua các
điệu dân ca ba miền Bắc (hát quan họ, hát ví, ả đào,
Qua cầu gió bay, Cái trống cơm, Cây trúc xinh....), Trung (Lý tình
tang...), và Nam (Lý ngựa ô, Lý con sáo...), hoà với các tiếng
đàn thuần tuý dân tộc như đàn bầu và lục huyền
do Ban Hoa Sim trình diễn. Trước những điệu hát, nhóm này đều
giải thích xuất xứ và ý nghĩa điệu đó, nên vừa
giúp khán giả mở mang sự hiểu biết ngoài việc thưởng thức
nghệ thuật. Tất cả đều có cách trình diễn trẻ trung, lúc
thì khôi hài vui nhộn gây hứng thú, lúc thì êm đềm
sâu sắc. Nhóm này có trình độ trình diễn khá cao, ai
nấy đều có giọng hát hay, diễn tả đúng âm hưởng
và tình tự dân tộc mỗi miền của đất nước. Các
du ca viên thì trình diễn những bài hát do họ sáng tác và
một số bài dân ca các nước họ dịch ra lời Việt: Clementine,
Green sleeves...
Tôi lấy làm ngạc nhiên nhận ra rằng từ trước
đến giờ mình không hề biết gì về các bản đàn,
điệu hát mang đầy dân tộc tính này, mặc dù cả ba
năm học từ Đệ Thất lên Đệ Ngũ đều có giờ âm
nhạc trong chương trình học! Và tôi chưa hề nghe qua đài
phát thanh loại nghệ thuật dân tộc này, nhưng nhà nước
mỗi năm đều có tổ chức lễ kỷ niệm Khổng Tử! Trong khi
bao thanh niên thiếu nữ bị ảnh hưởng bởi các bài hát thương
mại trữ tình, ủy mị hay bi quan, việc bảo tồn và phát huy những
hay đẹp của nghệ thuật dân tộc chỉ do một nhóm sinh viên
nhỏ nhoi "ăn cơm nhà vác ngà voi" phụ trách!
Trong
năm học Đệ Tam, tôi nhờ anh bạn thân Nguyễn Văn Sáu dạy
mình đàn 6 câu vọng cổ! Thời gian này, tôi và anh bạn
thân hay lấy xe đạp đi ra vùng ngoại ô vào những đêm
trăng sáng. Các khu này lúc đó chưa có điện, cả
vùng mênh mông chỉ có ánh trăng vằng vặc êm đềm.
Đây đó người người trải chiếu ra trước sân nhà,
bày đồ nhắm với ít rượu bia, vài tay đàn cổ nhạc,
vài giọng ca nam nữ cùng xúm xít quây quần. Tiếng đàn
tiếng hát trong khoảng không gian vắng lặng, tách biệt khỏi khung
cảnh phồn hoa văn minh nghe thật hay. Hai đứa thỉnh thoảng dừng xe lại
thưởng thức nghe một nhóm nào đó, rồi được mời
vào chung vui. Khi họ hỏi ra là anh bạn tôi cũng biết đàn, họ
mời anh trổ tài, anh không từ chối. Tình thân thiện vì thế
mà đến nhanh dù hai bên trước đó chưa hề quen biết.
tôi nghe anh đàn các điệu vọng cổ, khốc hoàng thiên, nam
ai, nam xuân... đệm cho một giọng nam hay nữ nào đó hát trong
khung cảnh mộc mạc giản dị, với tình người tự nhiên... thấy
sao mà thích quá!
Có lúc nhóm học sinh Phan Thanh Giản mời được
thầy Trực làm trại trưởng cho một trại ở Cần Thơ do nhóm
quán xuyến (tôi có chân trong ban quản trại), tuy thầy không dự
trại đầu tiên do Sài Gòn tổ chức. Xem ra trong số các giáo
sư dạy tôi ở trường, thầy Trực là người có liên
hệ với tôi mật thiết nhất: thầy vừa dạy vạn vật trong suốt
cả 3 năm học, vừa là "ông bầu" đội vũ cầu, vừa
là người lãnh đạo về hoạt động xã hội. Tôi có
về thăm thầy năm 2003 – lúc đó thầy trông còn khỏe.
Cũng vào năm
tôi học Đệ Tam (1964-65) và Đệ Nhị (1965-66), đôi lúc nhà
trường tự tổ chức trình diễn văn nghệ bán vé để
gây quỹ cứu trợ. Chương trình này khá hay, với nhiều học
sinh và giáo sư đóng góp vào các tiết mục. Nhân dịp
này mà có vài tài năng trước giờ không ai biết đến
được khám phá, chả hạn một cô nữ sinh (tên là Lộc)
có giọng hát rất hay, không thua kém gì các ca sĩ chuyên nghiệp,
sau trở nên nổi tiếng cả tỉnh. Đó cũng là lúc tôi
quen Xuân-Mai, học bên Đoàn Thị Điểm dưới tôi 2 lớp,
có giọng hát hay nhưng nhịp điệu chưa vững nên tôi đến
nhà cô vài lần đệm đàn cho cô tập hát rồi cùng
nhau đi đàn hát đây đó. Sau này cô trở thành một
ca sĩ khá nổi tiếng lấy biệt hiệu là Băng Châu, có lúc
đóng phim nhưng không mấy thành công.
Năm Đệ Nhị
(1965-66), học trò phải lo thi lấy bằng Tú tài 1; phải có bằng
này để được lên học lớp Đệ Nhứt. Cách tổ
chức thi hàng năm lúc đó khá rắc rối: có hai kỳ thi cách
nhau 1-2 tháng, kỳ 1 chia ra loạt 1, loạt 2 và thi vấn đáp; kỳ 2 không
có loạt 1, chỉ có loạt 2 và vấn đáp. (Ít năm sau nhà
nước đơn giản hoá, cho thi mỗi năm 1 kỳ gồm cả 2 loạt,
bãi bỏ thi vấn đáp). Trong kỳ 1, thí sinh phải thi đỗ cả
2 loạt mới được vào vấn đáp. Sau khi thi cả 2 loạt thì
trung tâm khảo thí công bố hai bảng kết quả: một bảng ghi tên
những người đỗ loạt 1 nhưng trượt loạt 2 và do đó
không được vào vấn đáp, và bảng kia ghi tên các thí
sinh đỗ cả 2 loạt sẽ được thi vấn đáp. Ai trượt
ngay loạt 1 thì xem như năm đó công lao đèn sách đi đong
vì phải chờ năm sau thi lại, còn ai chỉ đỗ loạt 1 thì được
thi lại loạt 2 trong kỳ 2. Nhóm thứ hai này là cực nhất vì
phải lo học thêm vào mùa hè (tuy còn có chút hy vọng sẽ
lấy được mảnh bằng trong năm) trong khi người đã đỗ
thông suốt kỳ 1 có thể nghỉ xả hơi.
Hai loạt thi Tú
tài 1 mỗi năm là thêm một chặng gạn lọc khá gay gắt vì
tỉ lệ đỗ tổng cộng có lẽ chỉ vào khoảng 50%; số khá
đông còn lại bỏ hẳn việc học hành, con trai chờ ngày bị
bắt đi lính. Sau mỗi mùa thi báo chí đăng tải thường
xuyên các tin học sinh thi trượt tự tử, nên đây cũng là
một vấn nạn khá nặng nề trong xã hội thời đó.
Quay
về hiện tại
Thầy Sửu ở Mỹ (tôi rất vui thấy tên thầy
trên mạng). Bạn nào biết thầy Lộc dạy Việt văn ở đâu,
xin cho tôi biết địa chỉ của thầy.
Tôi về Cần Thơ năm
2002. Có gặp lại thầy Trực. Dĩ nhiên là thầy già rồi,
nhưng trông còn khỏe.
Nguyễn Văn Sáu hiện sống tại Thành phố Cần
Thơ, lai rai bán điện thoại di động và đánh bóng bàn.
Nguyễn Thanh Bình
làm đại diện cho một công ty sản xuất thuốc trừ sâu, làm
đúng nghề, lương khá.
Thái
Khi, Nguyễn Tấn Đức hiện cũng sống tại Thành phố Cần Thơ,
có cháu nội/ngoại rồi.
Nghe nói về vài bạn cũ: Phước làm
bác sĩ ở Bệnh viện Vĩnh Long, Nghĩa làm bác sĩ ở Mỹ,
Hoàng-Oanh đã mất (xin lỗi nếu nghe thông tin sai)
Diệp Minh Tâm
lấy quốc tịch Canada, mấy năm gần đây về làm việc ở
Tp HCM trong các dự án quốc tế về môi trường và thoát
nước
Những người liên hệ xa gần: Chị Phương Oanh ở bên
Pháp, anh Đức Quang bên Mỹ, chị Thúy Hoan ở Việt Nam, có con
gái nối nghiệp khá thành công. Ông Phạm Duy tổ chức các
đêm nhạc Phạm Duy đều ăn khách, gần đây nhất ở
rạp Hòa Bình giá vé hạng nhất lên đến nửa triệu
đồng!
Lời kết
Trong thâm tâm tôi vẫn nhớ ơn những thầy
cô ngày xưa đã cho môn đồ kiến thức đi kèm những
gương sáng về tư cách con người – là điều trở
nên hiếm bây giờ ở Việt Nam!
Tôi xin các bạn cũ ghi lại, trao đổi thêm
thông tin và hình ảnh. Chúng ta già rồi, chẳng mấy chốc e
rằng mỗi ngày trôi qua càng quên nhiều chi tiết. Cần ghi lại
bây giờ!
Diệp Minh Tâm
tam_diep@hotmail.com