TIẾNG HÁN CỔ
với ông đồ
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
CHS Phan Thanh Giản
Nguyên GS Trung Học Tân Hưng (Cái Răng)
Nguyên
Giảng Viên Hán Văn ĐH KHXHNV (SG)
__________________________________________________________________________
Điển Tích Văn Học 25:
Ả
Ả
vừa là Danh Từ, vừa là Phiếm chỉ Đại từ để chỉ
phái yếu, như những câu thơ mà Nguyễn Trãi đã bỡn
cợt khi gặp Thị Lộ :
Ả ở đâu mà bán
chiếu gon,
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn,
Xuân
xanh phỏng độ chừng bao tuổi,
Đã có chồng
chưa được mấy con ?
Đôi khi Ả được
dùng để chỉ sự xem thường, như "Mấy ả bạn hàng",
hay tỏ vẻ khinh miệt như "Những Ả gái điếm"... Nhưng trong
đàm thoại bình thường thì Ả là từ dùng để
chỉ Các Bà, Các Cô, như :
Tại
anh tại Ả, tại cả hai đàng.
Trong Văn học Cổ thì sau từ Ả
thường có thêm những Bổ túc từ như : Ả Chức, Ả Hằng,
Ả Lý, Ả Tạ ... Ta sẽ lần lược tìm hiểu các Ả
sau đây :
* Ả CHỨC : Hay đi với Chàng Ngưu, nên Ả
Chức tức là Chưa Nữ đó. CHỨC NỮ 織女 vốn
là tên một ngôi sao nằm ở phía bắc sông Ngân Hà, đối
diện với sao KHIÊN NGƯU 牽牛 ( dắt trâu ). Chức Nữ và
Khiên Ngưu (còn gọi là Ngưu Lang) lại là tên của hai
nhân vật thần thoại theo điển tích sau đây :
Theo
"Kinh Sở Tuế Thời Ký 荊楚歲時記"
: Chức Nữ là cháu của
Ngọc Đế, rất giỏi nghề
dệt vải. Trốn xuống trần
kết duyên cùng Ngưu Lang,
Sanh được một trai một gái.
Tây Vương Mẫu giận, xuống
trần bắt Chức Nữ về
trời, Ngưu Lang dắt con đuổi theo. Tây Vương
Mẫu rút trâm vạch thành dải Ngân Hà ngăn cách hai người,
mỗi năm phải nhờ chim ô thước (Qụa đen, Chim khách) bắt cầu
mới gặp mặt được một lần. Đó chính là đêm
mùng 7 tháng 7 Âm lịch, nên còn gọi là đêm Thất Tịch
七夕. Vợ chồng gặp nhau, vui mừng
than khóc, nước mắt đổ xuống trần gian thành mưa. Nhân gian
gọi đó là "Mưa Ngâu tháng bảy" hay " Tháng bảy
mưa Ngâu" cũng thế.
Ngưu Lang Chức Nữ
Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu có câu :
Chữ đồng
lấy đấy làm ghi,
Mượn điều Thất Tịch
mà thề bách niên.
Trong Lục Vân Tiên của Nguyễ
Đình Chiểu cũng có câu :
Hữu tình chi bấy Ngưu lang,
Tấm
lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc khi tả tâm
sự của của ngàng chinh phụ thương nhớ chồng, nữ sĩ Đoàn
Thị Điểm cũng đã hạ câu :
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt, cung
trăng chốc mòng.
Chị Hằng ở trong câu
thơ trên, còn được gọi là ...
* Ả HẰNG tức là
Hằng Nga 姮娥, hay Thường Nga 嫦娥, có tích như sau :
Theo sách Hoài Nam Tử 淮南子,
Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ, rất đẹp nhưng có tật
đảng trí. Nghệ xin được thuốc trường sinh của bà Tây
Vương Mẫu, Hằng Nga trộm thuốc uống vào, cơ thể bèn nhẹ
nhõm bay tuốt lên cung trăng, ở trong cung Quảng Hàn một mình lạnh
lẽo, như hai câu thơ của Lý Thương Ẩn 李商隱 đã
viết trong bài Thất ngôn Tứ tuyệt có tên là Thường
Nga :
Thường
Nga ưng hối thâu linh dược, 嫦娥應悔偷靈藥,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm. 碧海青天夜夜心.
Có nghĩa :
Hằng Nga chừng
cũng tiếc hoài,
Trót đà trộm thuốc ai hoài đêm
đêm !
Thường Nga ưng hối thâu linh dược
Trong truyện
thơ Nôm khuyết danh của ta ở thế kỷ thứ 18 là Phạm Tải Ngọc
Hoa 范載玉花 cũng mượn hình ảnh Hằng Nga để chỉ
Mặt Trăng, như :
Có
đêm lặng ngắm Hằng Nga,
Tưởng người quân tử dật dờ
phương nao !
Hay mượn hình ảnh Hằng Nga để chỉ
người đàn bà đẹp, như trong truyện Lâm Tuyền Kỳ Ngộ
林泉奇遇 (Bạch Viên Tôn Các) có câu :
Từ về qua tới chốn thạch tuyền,
Xảy gặp Hằng Nga mới kết duyên.
Trong truyện
Nôm lục bát khuyết danh là Phan Trần Truyện 藩陳傳 cũng
có câu :
Bây
giờ e lệ chưa tường,
Lâu lâu lại lắp lánh gương
Ả Hằng.
* Ả LÝ : là nàng Lý Ký 李寄 trong
truyền thuyết Sưu Thần Ký 搜神记 đời Đông Tấn
như sau :
Nước Đông
Việt ở vùng Mân nam (Quảng Đông, Phúc Kiến hiện nay) có
nàng Lý Ký là con gái út thứ sau của gia đình. Nhà
nghèo không có con trai, trong nước lại có nạn yêu rắn hoành
hành, mỗi năm đều phải tế một cô gái trẻ cho rắn ăn
thịt. Lý Ký bèn quyết định bán thân mình cho rắn ăn
thịt, lấy tiền để nuôi cha mẹ và các chị. Mặc dù
cha mẹ can ngăn, Lý Ký cũng lén đi, nàng yêu cầu nhà vua
cấp cho mình một thanh bảo kiếm và một con chó săn, rồi đi
thẳng đến động rắn. Sau một đêm chiến đấu quyết
liệt với sự hỗ trợ của con chó săn thiện nghệ, nàng đã
chém chết con yêu rắn. Quốc vương nước Đông Việt cảm
phục trước sự dũng cảm của nàng , nên đã cưới
nàng về làm hoàng hậu.
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho cô Kiều cân nhắc
trước khi quyết định bán mình chuộc tôi cho cha là :
Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua Ả Lý bán mình hay sao ?!
Lý Ký chém rắn
* Ả TẠ : là
TẠ ĐẠO UẨN 謝道韞, con của tướng quân Tạ Diệc,
cháu của thừa tướng Tạ An, là vợ của Vương Ngưng Chi
con trai thứ của nhà thư Pháp nổi tiếng đời Đông Tấn
là Vương Hi Chi.
Tạ Đạo Uẩn rất giỏi về văn thơ, ngay từ nhỏ đã
nổi tiếng thông minh, sắc sảo. Khi Tạ An hỏi các cháu lúc đang
ngắm cảnh tuyết rơi là : Có thể lấy gì để ví với
tuyết rơi ? Một cháu trai là Tạ Lãng trả lời rằng : Sái
viêm không trung sai khả nghỉ 撒盐空中差可拟
(Có thể nói là như
rắc muối giữa không trung).
Tạ Đạo Uẩn nói rằng
: Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi 未若柳絮因风起
!(Chẳng bằng nói là hoa
liễu bay đầy trời khi có
gió thổi lên). Tạ An khen
hay, Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng
từ đấy.
Trong tác phẩm Sãi Vãi của
cụ Nguyễn Cư Trinh, khi cho bà Vãi luận về tài trí của phái
nữ có câu :
Gái như
Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ,
Gái
như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc...
Trong Lục Vân Tiên, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã khen
tài làm văn thơ của Kiều Nguyệt Nga bằng câu :
Đã mau mà lại thêm
hay,
Chẳng phen Tạ Nữ cũng tài Từ Phi.
Còn
trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du đã cho Kim Trọng khen tài làm
thơ của Thúy Kiều là :
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban Ả Tạ cũng đâu
thế nầy !
Tạ Đạo Uẩn 謝道韞
Cũng trong Tuyện
Kiều của cụ Nguyễn Du ta lại được gặp thêm một "Ả"
nữa, đó là ...
* Ả Tố Nga : Tố Nga 素娥 tức là Thường
Nga 嫦娥, là Hằng Nga 姮娥 mà ta đã biết ở phần
trên, thường dùng để chỉ Mặt Trăng hay Gái Đẹp. Vì
mặt trăng có màu trắng (TỐ 素) nên mới gọi là Tố
Nga 素娥, theo như lời chú giải của Lý Chu Hàn cho bài Nguyệt
Phú của Tạ Trang đời Tống là : Thường Nga thiết dược
bôn nguyệt, nguyệt sắc bạch, cố vân TỐ NGA 嫦娥竊藥奔月,月色白,故云素娥.
Có nghĩa : Thường Nga trộm thuốc bay lên cung trăng, trăng lại có
màu trắng, nên còn gọi là TỐ NGA.
Khi tả
hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân đều là "người đẹp",
cụ Nguyễn Du đã hạ câu :
Đầu lòng hai Ả TỐ NGA,
Thúy Kiều
là chị, em là Thúy Vân.
Xin được kết
thúc bài viết với từ "Ả ĐÀO 妸陶" hay Cô Đào
姑姚 hoặc Đào Nương 陶娘, còn được gọi là
Ca Nương 歌娘, là thuật ngữ của Việt Nam ta thường dùng
để gọi một dạng kỹ nữ 妓女 trong thời đại cổ.
Theo Từ điển tiếng Việt, Cô Đầu là một danh từ thuộc
loại từ cũ, khẩu ngữ để chỉ các Ả đào. Ả ĐÀO
còn chỉ thể Hát Nói mà các Đào Nương hay hát,
ở Hà Nội khi xưa hay gọi là "đi hát Ả Đào".
Hẹn gặp lại trong bài viết tới.
Đỗ Chiêu Đức
CON CUỐC GỌI
HÈ
Ai xui
con cuốc gọi vào hè,
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Con Cuốc, ta
còn gọi là Con Chim Quấc, đồng âm với chữ Quốc là
Nước; tên chữ Nho là Chim Đỗ Quyên với thành ngữ Đỗ
Quyên Đề Huyết như sau :
ĐỖ QUYÊN ĐỀ HUYẾT 杜鵑啼血:
là Chim Đỗ Quyên kêu đến mửa máu miệng ra vì nhớ
nước thương dân. Chim Đỗ Quyên còn có tên là Đỗ
Vũ, Tử Quy, Tử Quyên, giới bình dân Miền Bắc gọi là Con
Quốc, Miền Nam gọi là con Cuốc. Đỗ Quyên kêu suốt ngày
đêm từ đầu xuân cho đến cuối hạ, sang thu thì tắt
tiếng. Tiếng cuốc kêu đều đều trầm buồn gợi nhiều cảm
xúc trong những đêm hè và khi há miệng ra kêu thì da bên
trong miệng toàn một màu đỏ, nên mọi người lầm tưởng
là chim kêu đến thổ huyết mà chết. Khoảng thời gian chim cuốc
kêu lại nhằm lúc có một loại hoa đỏ thắm nở rất đẹp
khắp núi đồi, nên dân gian lại truyền tụng rằng : Hoa có
màu đỏ thắm là do nhuộm máu của chim Cuốc thổ ra, vì
thế mà gọi loài hoa đẹp đó là Hoa Đỗ Quyên. Theo
như bài thơ Ngũ Ngôn của Thành Ngạn Hùng 成彦雄 đời Đường
như sau :
杜鵑花與鳥, Đỗ Quyên hoa dữ điểu,
怨艷两何賒, Oán
diễm lưỡng hà xa.
疑是口中血, Nghi
thị khẩu trung huyết,
滴成枝上花.
Trích thành chi thượng hoa !
Có
nghĩa :
* Đỗ
Quyên là tên của hoa và của cả chim,
* Một bên là oán hờn, một bên
là đẹp rực rỡ, hai bên cũng
không xa cách là mấy, nên...
* Ngờ là máu ở trong miệng ( của
con chim ) đã...
* Nhỏ
xuống nở thành hoa đẹp ở trên cành !
Diễn Nôm :
Đỗ Quyên chim với hoa,
Oán đẹp có nào
xa.
Ngờ là máu trong miệng,
Nhỏ xuống
cành nở hoa !
Tích ĐỖ QUYÊN ĐỀ HUYẾT 杜鵑啼血 theo
câu truyện về truyền thuyết sau đây :
Theo sách Sưu Thần Ký thì Đỗ
Vũ là tên một vị vua nước Thục ( tỉnh Tứ Xuyên ngày
nay ) thời Chiến Quốc, ông có tính hoang dâm vô độ nên
dưới thời ông làm vua chính sự nước Thục không
ổn định. Đỗ Vũ nhân nhà Chu suy yếu bèn tự xưng đế
hiệu là Vọng Đế (望帝), vì là vua nước
Thục, nên còn gọi là Thục Đế. Ông từng thông dâm
với phu nhân của vị tướng quốc lúc bấy giờ là Biết
Linh (鳖灵), sau chuyện bị lộ, nên Đỗ Vũ thẹn
quá bèn nhường ngôi cho vị tướng quốc này, và vì
trước đó Biết Linh cũng đã có công trị thủy, cứu
nước Thục khỏi cảnh lũ lục thiên tai. Tuy nhiên sau khi nắm
trong tay quyền lực thì Biết Linh ngược đãi Đỗ Vũ, cấp
lương thực không đầy đủ khiến ông phải hậm hực mà
bỏ nước ra đi, sau khi ông chết linh hồn hóa thành một loài
chim suốt ngày chỉ kêu "quốc, quốc" (cuốc cuốc). Người
ta bảo đấy là Thục Đế nhớ nước nên mới kêu như
vậy, và dân gian đặt tên cho giống chim đó là chim Cuốc.
Trong văn học cổ
điển người ta thường dùng tích Thục Đế, Vọng Đế, Đỗ
Vũ hoặc Đỗ Quyên để nói lên việc nhớ nhung quê hương
đất nước khi phải đi phiêu bạt nơi đất khách quê
người. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều đờn
cho Kim Trọng nghe khi Kim Kiều tái hợp có câu:
Khúc đâu
êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế
hay mình Đỗ Quyên ?
....là lấy điển tích
từ vị vua nước Thục này qua câu thơ trong bài thơ Cẩm Sắt 錦瑟 của
Lý Thương Ẩn đời Đường là :
Thục Đế xuân tâm
hóa Đỗ Quyên, 蜀帝春心化杜鵑。
Trong
thơ Nôm "Tứ Thời Khúc Vịnh" của Hoàng Sĩ Khải cũng
nhắc đến Chim Đỗ Vũ kêu vào đầu mùa xuân đến
cuối mùa hạ như sau :
Cớ chi mày, hỡi con Đỗ Vũ,
Quyến xuân về lại rủ hè sang.
Và như trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
cũng nhắc đến Chim Đỗ Quyên bằng tên Chim Quyên với Điệu
Thương Xuân khi nàng cung nữ thất sủng nghe tiếng cuốc kêu :
Ai ngờ
tiếng Quyên kêu ra rả,
Điệu Thương Xuân
khóc ả sương khuê !
.....và trong bài
Qua Đèo Ngang bà Huyện Thanh Quan cũng đã hạ một đôi Luận
để đời là :
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mõi miệng cái gia gia.
......và đến bài Nghe Cuốc Kêu của cụ Nguyễn Khuyến
thì tiếng cuốc kêu mới thật sự bâng khuâng, khoắc khoải
làm ngơ ngẩn lòng người nhất là những ai đang xa quê hương
lưu lạc gởi thân nơi xứ lạ quê người như chúng ta hiện
nay :
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục
Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng
nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm
mơ?
Ban
đêm róng rã kêu ai đó?
Giục
khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Đỗ Quyên cũng là con chim Quyên đã
đi sâu vào ca dao của dân Nam bộ với :
Trồng trầu thì phải khai
mương,
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.
Chim Quyên ăn trái nhãn lồng,
Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi !
... và đã được
phổ thành bản nhạc Tân cổ Giao Duyên với lời ca Lý Chim Quyên
rặc mùi Nam bộ :
Chim Quyên quầy, ăn trái quay... nhãn lồng này
Nhãn lồng, ơi anh bạn mình ơi...
Ơi anh bạn
mình ơi...!
Trái nhãn lồng Nam bộ mọc đầy cả đồng
cỏ
Trở lại với hai
câu thơ mở đầu bài viết nầy là :
Ai xui con cuốc gọi vào hè,
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Có
người cho hai câu thơ trong bài VÀO HÈ nầy là Thơ Cổ, có
người lại ngờ rằng đây là bài thơ của cụ Tam Nguyên
Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nhưng lại có tài liệu cho rằng, đây
là bài thơ của cụ Dương bá Trạc. Toàn bài thơ như
sau :
VÀO HÈ
Ai xui con cuốc gọi vào hè,
Cái
nóng nung người, nóng nóng ghê!
Ngõ
trước, vườn sau um những cỏ,
Vàng phai,
thắm nhạt ngán cho huê.
Đầu cành kiếm
bạn, oanh xao xác,
Trong tối đua bay, đóm
lập loè.
May được nồm nam cơn gió thổi,
Đàn ta ta gảy khúc Nam nghe.
Nguồn:
1. Sách Quốc văn giáo khoa thư
(Trần Trọng Kim, Nha Học Chánh Đông Pháp xuất bản, 1935) ghi bài
này là thơ cổ, có lẽ thơ thời Nguyễn chứ không phải
thời cổ đại.
2. Thiếu Sử trong bài Ai Là Tác
Giả Bài "Vào Hè" đăng trên tạp chí Kiến Thức
Ngày Nay số 740, ngày 1-3-2011, mục Trà Dư Tửu Hậu (tr. 45, 46, 133), thì
bài này là của Dương Bá Trạc, in trong tập thơ Nét Mực
Tình (NXB Đông Tây, Hà Nội, 1937). Cũng theo bài viết này thì
hai câu 4 và 5 của bài thơ như sau:
Hồng rơi thắm rụng tiếc cho huê.
Trên cành gọi bạn chim xao xác,
Phần trên đây trích
trong THI VIỆN trên internet để người đọc rộng đường dư
luận.
Đỗ Chiêu Đức
Mùa Xuân xa quê, mời đọc lại bài XUÂN
VỌNG của Đỗ Phủ .
XUÂN VỌNG
Đỗ Phủ
Năm Chí Đức thứ 2 ( 757 ) đời
Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã
lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Thi nhân nhìn cảnh xuân
với tâm tình của một con dân mất nước, núi sông vẫn
như cũ, nhưng nước đã mất nhà đã tan, xuân về nhưng
cả thành Tràng An đều đượm vẻ thê lương, xúc cảnh
sanh tình tạo nên lời thơ cảm khái và bi thương qua bài
Ngũ ngôn Luật Thi sau đây...
春望
XUÂN VỌNG
杜甫
Đỗ Phủ
國破山河在,
Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。
Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚,
Cảm thời hoa tiễn lê,
恨別鳥驚心。
Hận biệt điểu kinh tâm.
烽火連三月,
Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。
Gia thư để vạn kim.
白頭搔更短,
Bach. đầu tao cánh đoản,
渾欲不勝簪。
Hồn dục bất thắng trâm.
CHÚ THÍCH :
1. Quốc Phá : trong Thành ngữ "
Quốc Phá Gia Vong ", tương đương với câu nói " Nước
mất nhà tan " của ta.
2. Thâm
: là Sâu, là Đậm, Ở đây nghĩa là Xanh om tươi tốt.
3. Tiễn : là Ép cho tuôn trào
ra. Tiễn Lệ là ứa lệ, là rơi lệ.
4. Phong Hỏa : Đài cao dùng đốt lửa để báo hiệu quân
địch tấn công. Ở đây chỉ Chiến Tranh.
5. Để : là Đáng giá, Có giá trị như...
6. Tao : là gãi. Ở đây có nghĩa là dùng các ngón tay
để gom tóc lại.
7. Hồn Dục
: là Gần như, là Hầu như.
8. Bất Thắng : Ở đây không có nghĩa là Thua ( không thắng
), mà là Không Thể.
9.
Trâm : Danh Từ là Cây Trâm. Ở đây là Động Từ, nên
có nghĩa là Cài Trâm.
10. Vọng
: là Hy Vọng. Ở đây là Trông Ngóng, Mong chờ.
DỊCH NGHĨA :
XUÂN MONG CHỜ
Nước đã mất, nhưng núi sông thì hãy còn trơ đó
, thành Trường An vào xuân cây cỏ vẫn xanh om tươi tốt (
vì cỏ cây đâu biết hờn mất nước ). Lòng đầy xúc
cảm vì thời cuộc, nên trông hoa nở cũng khiến lệ rơi,Hận
vì chiến tranh cách biệt, nên nghe tiếng chim kêu cũng kinh hãi trong
lòng. Chinh chiến tràn lan suốt ba tháng nay, tin nhà đều bặt, nên
nhận được thơ nhà thấy quý giá như được ngàn
vàng. Tuổi già tóc bạc, vuốt thấy đã rụng và ngắn
lại nhiều, hầu như không còn búi được để cài
trâm nữa !
... Riêng câu 3 và 4 có thể giải là :
Cảm thương về thời cuộc đão điên, nên hoa cũng ứa
lệ.
Ly hận của sự biệt ly, làm cho chim cũng cảm thấy kinh hoàng....
Hiểu như trên , lại làm cho ta nhớ đến bài thơ " GIÂY
PHÚT CHẠNH LÒNG " của Nhà thơ THẾ LỮ...
" Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ rang.
Rủ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang !
và....
Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : " HOA KIA KHÓC HỘ NGƯỜI ! "
.........................................
DIỄN NÔM :
Nước mất núi sông còn đó,
Vào xuân hoa cỏ xanh rì.
Đau xót hoa còn rướm lệ,
Kinh hoàng chim sợ phân ly.
Khói lửa mịt mờ ba tháng,
Thư nhà khoắc khoải người đi.
Tóc bạc bơ phờ năm tháng,
Trâm cài chẳng được còn chi !
Lục bát :
Nước
mất nhưng núi sông còn,
Thành
xuân cây cỏ xanh rờn khắp nơi.
Khi
buồn hoa cũng lệ rơi,
Kinh
hoàng ly biệt chim trời bay cao.
Lửa
binh ba tháng lao đao,
Thư
nhà nhận được mừng nào cho cân.
Bạc
đầu tóc lại rụng dần,
Lưa
thưa khó búi chẳng cần cài trâm !
Đỗ Chiêu Đức
TỐNG TÁO THI
Hằng năm cứ đến ngày
23 tháng Chạp, thì dân Việt Nam ta có tục lệ cúng tiễn đưa
Ông Táo về trời, người Hoa thì cúng vào đêm 24. Theo câu
nói của dân gian là " Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ ", có
nghĩa là : Làm quan thì đưa ông Táo ngày 23, dân thì
đưa ngày 24, còn những người đi ghe theo cuộc sống thương
hồ thì đưa ông Táo ngày 25.
Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần
cúng tế. Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường
cúng tiễn Táo Quân bằng " thèo lèo ", bánh mức, chè
Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm
theo các hình cò bay ngựa chạy. Ý là để cho ông Táo
cởi ngựa cởi cò về trời (trong văn học thì cho là cởi
cá Chép ), còn " thèo lèo " bánh mức.... là để
ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc
Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông
Táo đang cư ngụ....
Nhớ lúc nhỏ,
khi gần Tết , tôi đã đọc được một bài thơ "
Tống Táo Thi " 送 竈 詩 trên báo để tiễn đưa
ông Táo như sau :
送 竈 詩
TỐNG TÁO THI
麥芽糖餅餞行蹤,
Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。
Bái chúc dương si thả tác lung.
只有一般應開口,
Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。
Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
CHÚ THÍCH :
1. Đường Bỉnh : là Kẹo bánh. Đường là Đường,
mà cũng có nghĩa là Kẹo nữa.
2. Dương :
là Giả đò.Tác : là Làm, ở đây có nghĩa là
Làm bộ.
3. Si : là Ngây, là Dại. Lung : là Điếc.
4. Nhất ban : là Mạo từ ( Article )chỉ : Một Điều, Một
Cái.
5. Nhất niên : là Cả năm, suốt năm, chớ
không phải MỘT NĂM.
DỊCH NGHĨA :
Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái
kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc
dùm cho ( đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi ).
Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm
phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt
cả năm vậy ?!
DIỄN
NÔM :
THƠ TIỄN
ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo bánh tiễn
chân ông,
Lên đó giả ngây
giả điếc dùm.
Chỉ có một
điều nên mở miệng,
Rằng ta
nghèo suốt một năm ròng !
Đỗ Chiêu Đức.
TÁI BÚT :
Xin được nói thêm về 2
chữ THÈO LÈO.
THÈO LÈO là phát theo âm
Triều Châu của 2 chữ TRÀ LIỆU 茶料 : là Những Vật Liệu
dùng để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây là chỉ những
món đồ ngọt như : Kẹo Đậu Phọng, Kẹo mè đen, mè
trắng, cốm, và những viên đậu phọng được áo một
lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là " Cứt Chuột
".
" Thèo Lèo Cứt Chuột " là món ngon
dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng
ông Táo ở quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...
Nhân nói đến thơ đưa Ông Táo,
ta không thể không nhắc đến bài " Tống Táo Thi " của
Lữ Mông Chính, người mà trong " Hàn Nho Phong Vị Phú "
Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy:
.... Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cởi
dù che. ...
Sau đây, ta thử
tìm hiểu cuộc đời nghèo khó và bài thơ đưa ông
Táo nổi tiếng của ông nhé !...
LỮ MÔNG CHÍNH ( 944 & 946- 1011 ), Tự là Thánh Công, người đất
Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời
Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã
từng giữ các chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác
Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể
Tướng. Bệnh mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng
thọ 67 tuổi.
Sau khi cha mất, gia cảnh ngày
một suy vi . Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một
lò gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt những
người, chen chút nhau rất náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để
xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt
đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng
là Lưu Nguyệt Nga đang gieo tú cầu để tìm người hôn
phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu
tiểu thơ ném từ trên lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông bà
Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn sự nầy, nhưng tiểu
thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp nhận từ bỏ tất cả
để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng cho đây
là duyên trời định và hơn nữa không thể bội tín được.
Cuối năm đó, đến ngày đưa
ông Táo, không hiểu là Lữ Mông Chính đã năn nỉ như
thế nào mà ông hàng thịt bán chịu cho một miếng thịt
đem về luộc để cúng ông Táo. Nhưng khi bà hàng thịt
biết được việc nầy bèn mắng cho ông chồng một trận
nên thân : " Nó nghèo kiết xác, làm sao có tiền trả
mà bán chịu ?!". Bà ta tức tốc chạy đến lò gạch,
thấy miếng thịt đang luộc dở dang trên bếp, bèn hứ một tiếng
rồi vớt lấy miếng thịt đem về !. Đến nước nầy, Lữ
chỉ còn biết đổ nước luộc thịt vào tô mà đưa
tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp hương để cúng ông Táo,
vì cảm khái trước cái nghèo khó của mình và cũng
cảm khái trước cái nhân tình thế thái, Lữ Mông Chính
đã làm bài thơ tiễn Ông Táo sau đây :
一柱清香一縷煙,
Nhất trụ thanh hương nhất lũ yên,
灶君今日上朝天;
Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
玉皇若問人間事,
Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。
Vị đạo văn chương bất trị tiền !
DỊCH NGHĨA :
Một nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn khói nhẹ, hôm nay ta đưa
tiễn Táo Quân về để chầu Trời. Nếu như Ngọc Hoàng
có hỏi đến chuyện của dân gian, thì xin ông hãy vì ta
mà đáp rằng, văn chương không đáng giá đồng xu
cắc bạc nào cả !
DIỄN NÔM :
Một nén nhang thanh làn khói nhẹ,
Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Đỗ Chiêu Đức.
Câu chót của bài thơ làm ta nhớ
đến câu thơ lên Hầu Trời của Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu :
" Văn chương hạ giới rẻ như bèo ! "....
Trở lại chuyện
của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
....Năm đó, sau khi Táo của các
nhà đã báo cáo xong, mà đợi mãi vẫn không thấy
Táo của lò gạch nơi Lữ cư ngụ. Mọi người đang nóng
ruột, thì thấy Táo của Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè,
đi cà lếch cà lếch vào chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại
sao, thì được trả lời rằng : " Thần chỉ uống có một
tô nước thịt luộc dở dang chưa chín, đã đói lại
còn bị... chột bụng nên đi không nổi. ", đoạn trình
bài thơ của Lữ lên cho Ngọc Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng,
số của Lữ sẽ đậu Trạng Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng
quá ! Thần Táo mới năn nỉ rằng : " Anh ta đói quá, sợ
sống không nổi đến khoa sau đâu, thôi thì trước sau gì
cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương tình. Ngọc Hoàng bèn
sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ đậu ngay khoa nầy, vì thế
mà Lữ Mông Chính mới đậu được Trạng Nguyên của
khoa Đinh Sửu 977 là vậy !
... Trên đây là theo truyền Thuyết
dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của
người đàn ông, thường có bóng dáng của một người
đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của
Lữ Mông Chính, có tới bóng dáng của 2 người đàn
bà lận : một là Lưu tiểu thơ, 2 là bà Tể Tướng phu
nhân, vì thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ vật
chất cho con và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà
dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức mà
học hành để đậu Trạng Nguyên cho được !
Đây là ông Tể Tướng xuất thân từ khất cái ( Ăn
mày ) duy nhất của lịch sử Trung Hoa : Lữ Mông Chính.
Nói đến thơ đưa tiễn Ông Táo thì cũng không thể
không nhắc tới...
LA ẨN 羅隱(833-909 ),Tự là
Chiêu Gián, người đất Tân Thành ( thuộc trấn Tân Đăng,
thành phố Phú Dương, tỉnh Chiết Giang ngày nay ). Ông vốn tên
là HOÀNH 橫, vì từ năm 20 tuổi bắt đầu đi thi Tiến
Sĩ, nhưng 10 lần vẫn không đậu, nên mới đổi tên là
LA ẨN và đi tu theo đạo Lão, là một học giả thuộc Đạo
Gia ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại. Thơ
ông thường mang tính hiện thực, bất cần đời, nổi tiếng
với các câu như :
今朝有酒今朝醉,
Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明日愁來明日憂。 Minh nhựt sầu lai minh nhựt
ưu.
Có nghĩa :
Hôm nay có rượu thì hôm nay say,
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy ưu sầu !
Ông cũng có một bài Tống Táo Thi giống như là của LÃ
MÔNG CHÍNH đã nêu ở trên, như sau:
一盞清茶一縷煙,
Nhất trản thanh trà nhất lũ yên,
灶君皇帝上青天。 Táo
quân hoàng đế thượng thanh thiên.
玉皇若問人間事, Ngọc
Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。 Vị
đạo văn chương bất trị tiền !
CHÚ THÍCH :
NHẤT TRẢN
: là Một Chung. TRẢN là Ly, Chén nhỏ.
TÁO
QUÂN HOÀNG ĐẾ : Là Ông Hoàng Đế ở trong Bếp mà ta
quen gọi là VUA BẾP.( Xuất xứ của từ VUA BẾP là do câu thơ
nầy mà ra ).
DIỄN NÔM :
Một chén trà thơm làn khói nhẹ,
Chầu Trời Vua Bếp đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Ta thấy, chỉ có 2 câu đầu là hơi khác, còn 2 câu
sau của bài thơ thì giống y chang như là bài Tống Táo Thi của
Lữ Mông Chính, và không cần phải nói ta cũng biết là
Lữ đã mượn thơ của La Ẩn để cảm khái cho hoàn
cảnh của mình, vì LA lớn hơn LỮ đến 111 tuổi lận, LA ở
cuối đời Đường còn LỮ ở đầu đời Tống.
TỐNG TÁO THI - LỖ TẤN
LỖ
TẤN ( 25-9-1881--19-10-1936 ), người huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang. Vốn
tên là Châu Thọ Nhân, tự là Dự Sơn, Dự Đình,
Sau đổi thành Dự Tài. Ông thường mặc một chiếc áo
dài giản dị theo truyền thống Trung Hoa. Đầu để trần
tóc dựng đứng như bàn chải, râu mép đậm như
hình chữ NHẤT viết theo theo kiểu Lệ Thư. Ông là nhà Văn
học, nhà Tư Tưởng vĩ đại và là chủ tướng
của nền văn hóa Trung Hoa cận đại.
Sau đây là bài Tống Táo Thi ông làm năm Canh Tí 1901
lúc gia cảnh đang sa sút phải cầm cố đồ đạc để
sống qua ngày.
庚子送灶即事
CANH TÝ TỐNG TÁO TỨC SỰ
1901年
năm
1901
只雞膠牙糖,
Chỉ
kê giao nha đường,
典衣供瓣香。
Điển y cung biện hương.
家中無長物,
Gia trung
vô trưởng vật,
豈獨少黃羊。
Khởi độc thiểu hoàng dương.
魯迅
Lỗ
Tấn
CHÚ THÍCH :
* GIAO 膠 là chất Keo, chất Nhựa. nên...
Giao Nha Đường
là Kẹo Mạch Nha.
* ĐIỂN 典 là Cầm Cố. Điển Y là Cầm cái Áo.
* TRƯỞNG
VẬT 長物 : Đồ vật có giá trị, Đồ Quý giá !
* HOÀNG DƯƠNG
黃羊 : là con Dê màu Vàng. Theo sách " Hậu Hán Thư "
quyển 62 có " Âm Thức Truyện《後漢書》卷62《陰識傳》kể
rằng : Đời Tuyên Đế, có người tên Âm Tử Phương,
rất có hiếu lại có lòng nhân từ. Tháng Chạp hăm ba, nhà
chỉ có một con dê màu vàng cũng làm thịt để cúng
Táo. Từ đó về sau bỗng phát tích thành cự phú.
Vì thế sau này đến ngày tế Táo, mọi người đều
làm dê vàng để cúng theo, lâu dần thành lệ.
NGHĨA BÀI
THƠ :
BÀI THƠ
LÀM LÚC CÚNG ÔNG TÁO NĂM
CANH TÝ 1901
Chỉ vỏn vẹn có một
con gà và chút đỉnh kẹo mạch nha, đó là do vừa đi
cầm cái áo mà mua nhang về để cúng đó. Nhà đã
không còn vật gì đáng giá nữa, chẳng phải chỉ thiếu
có con dê vàng thôi không đâu ! ( Ý muốn nói là còn
thiếu nhiều món để cúng nữa ! )
Chắc vì không
có được dê vàng để cúng, nên Lỗ Tấn chịu nghèo
suốt cuộc đời mình !
DIỄN NÔM :
TIỄN TÁO
NĂM CANH TÝ 1901
Mạch nha kẹo với gà,
Cầm áo cúng hoa loa.
Nhà không còn gì quý,
Lấy đâu chú dê già
!?
Lục bát :
Con gà
với kẹo mạch nha,
Nén nhang cầm áo hoa loa cúng
Ngài,
Hết đồ quý giá trong ngoài,
Dê vàng
đừng nhắc thêm hoài công thôi !
Đỗ Chiêu Đức
Để kết thúc bài
viết nầy, xin mời cùng đọc câu đối hay và nổi tiếng
thường thấy dán cho bàn thờ TÁO QUÂN như sau :
有德能司火, Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có
nghĩa :
Có ĐỨC thì mới
có thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời
( để trình tấu mọi việc ).
Như vậy là
cái TIÊU CHUẨN để được làm ông Táo đâu phải
dễ !. Năm mới vui xuân, mong rằng mọi người rán tích đức
để tương lai đều được lên CHẦU TRỜI như ông TÁO
vậy !
Đỗ Chiêu Đức
__________________________________________________________________________________
Phiếm :
Năm Hợi nói chuyện... Trư Bát Giới
Đọc truyện Tây Du Ký, không ai là không biết đến Trư
Bát Giới 豬八戒, nhân vật có cái đầu heo và mình
mẩy phốp pháp ú lù như ... Trư Bát Giới ! Vốn dĩ là
Thiên Bồng Nguyên Soái 天蓬元帥 ở trên trời, cai quản
tám vạn thủy binh ở Thiên Hà, nhưng vì uống rượu
say đi lạc vào cung Quảng Hàn, buông lời chọc ghẹo Hằng Nga nên
mới bị Ngọc Hoàng Thượng Đế đày phải đầu thay
xuống thế gian. Vốn tính hời hợt, lại đang buồn lòng, ù
ù cạc cạc chui nhằm vào bụng của con heo nái đang chuyển dạ
nên khi chào đời mới có cái hình dạng quái dị mình
người mà đầu heo như thế !
Năm Hợi 亥 nói chuyện ... Trư Bát Giới
là nói chuyện bao đồng quanh quẩn chung quanh cái con heo ham ăn ham ngủ
mà háo sắc nầy để nghe chơi cho đở buồn khi trà dư
tửu hậu.
Trư 豬 là Heo, thuộc bộ
Thỉ 豕 cũng có nghĩa là Heo, Thỉ là một trong 214 bộ của
CHỮ NHO ... DỄ HỌC, thuộc dạng chữ Tượng Hình theo diễn tiến
của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Đại
Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy
:
Từ Giáp Cốt Văn cho đến
Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của con heo, với cái
mỏ nhọn, bụng bự, lưng cong cong, có 4 chân và đuôi hẵn
hoi. THỈ 豕 chỉ chung các loại heo rừng hoang dã. Còn Trư 豬
là con heo đã được thuần hóa nuôi trong nhà, cùng với
trâu, dê, chó, gà và ngựa họp thành Lục súc 六畜
là 6 con vật mà ta thường nuôi, nên mới có tác phẩm Lục
Súc Tranh Công 六畜爭功 mà ta học ở chương trình
cổ văn lớp Đệ Lục khi xưa.
Trư
là heo, Thỉ cũng là heo, nhưng Hợi không phải là heo. Vì HỢI
亥 là Ngôi thứ 12, ngôi cuối cùng của Thập nhị Địa
Chi : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất,
HỢI. Hợi không phải là heo, nhưng biểu tượng của Hợi là
Con Heo, nên người ta cứ tưởng Hợi là Heo và hễ nhắc đến
Hợi là người ta nghĩ ngay đến con heo. Nhất là bà con ở
nông thôn hay nói chơi với nhau :
- Nhà hôm nay ăn cơm với thịt "Hợi".
- Bà Ba mới bán
con "Hợi" được một tạ !...và câu ca dao dân gian về :
Tuổi
Hợi là con heo ăn hèm,
Ở dơ ở dáy mình
lem lắm sình !
Hèm là
chất bã của gạo sau khi đã cất lên để lấy rượu,
trộn thêm cám vào để cho heo ăn thì heo sẽ rất mau lớn.
Ở nông thôn Nam kỳ Lục tỉnh, vì khí hậu nóng nực, bà
con nuôi heo hay thả rong ngoài vườn, nên heo hay tìm những vũng nước,
vũng sình để vùi mình vào đó cho mát. Vì thế mới
có câu : " Ở dơ ở dáy mình lem lắm sình !".
Theo
truyện cổ dân gian kể về Trạng Quỳnh, thì một hôm ông Tú
Cát nghe đồn Quỳnh thông minh, nên muốn thử tài, mới ra cho vế
đối là :
Lợn cấn ăn cám tốn, Có
nghĩa :
Lợn
Cấn là con lợn đã được thiến để nuôi nâng cho
mau lớn, nên ăn rất nhiều rất tốn cám. Nhưng vế ra hóc búa
ở chỗ CẤN 艮 và TỐN 巽 là 2 quẻ trong Bát
Quái là : Càn 乾、Khảm 坎、Cấn 艮、Chấn
震、Tốn 巽、Ly 離、Khôn 坤、Đoài 兌.
Nhưng Quỳnh đã
rất nhanh nhẩu đối lại ngay :
Chó khôn chớ
cắn càn. Có nghĩa : Con chó khôn ngoan thì không
cắn càn cắn bậy. Mà KHÔN 坤 và CÀN
乾 cũng là 2 quẻ trong Bát Quái nữa, thế mới tài !
2019 là năm Kỷ Hợi 己亥. Thiên
Can KỶ 己 thuộc Thổ, màu vàng. Địa Chi HỢI 亥 thuộc
Thủy, màu đen. Con heo màu đen là con heo đi vùi sình;
còn con heo màu vàng là con heo đã được quay xong.
Người Hoa gọi con heo quay là Kim Trư 金豬, dùng để tế lễ
thần thánh, cúng trả lễ hoặc cúng bình an cuối năm. Còn
dân ta thì trình làng cũng quay heo, đám cưới cũng quay heo,
đám ma theo lệ xưa thì chàng rể phải cúng con heo quay, vợ chồng
gấu ó ra làng hòa giải cũng phải khiêng heo ... cho nên
con heo trong Lục Súc Tranh Công đã kể lể là :
Kìa những việc hôn nhân giá thú.
Không heo ra, tính
đặng việc chi?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng.
Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
Thấy
mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.
Làng xã tới lao đao, láu đáu,
Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
Khiêng
heo ra để lại giữa dòng,
Mọi việc rối liền xong trơn trải.
Phải chăng, chăng
phải,
Nghĩ lại mà coi,
Việc quan, hôn, tang, tế,
vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước !
...và quan trọng hơn nữa
là nhà vua tế Nam Giao hàng năm để cầu cho phong điều
vũ thuận 風調雨順, quốc thái dân an 國泰民安
cũng phải có con heo mới thành " Tam Sên ", nên con heo lại lên
mặt :
... Ai sánh
đặng mình heo béo tốt ?
Vua
ngự lễ Nam giao đại đột,
Phải
có heo mới gọi tam sanh ...
Tam Sanh 三牲, phát theo âm Tiều Châu thành
"Tam Sên". TAM SANH 三牲 là ba loại súc sanh, ba loài súc vật
tượng trưng cho Tam giới : Thiên giới, Địa giới và Thủy
giới. Nên ta thường thấy trên mâm cúng có con gà là phi
cầm, tượng trưng cho Thiên giới. Một con heo. Heo là Tẩu thú,
tượng trưng cho Địa giới và một con cá tượng trưng cho
Thủy giới. Giới bình dân quê tôi cúng "Tam Sên" rất
gọn gồm : Một miếng thịt heo, một con gà con và vài con tép
cũng đủ để tượng trưng cho Tam Giới như thường. Dĩ nhiên,
nhà giàu có hay quan quyền, vua chúa thì thường cúng bằng
nguyên con heo quay cho trịnh trọng.
Tam Sên : Gà Heo Cá
Tép Heo Trứng
Tam
sanh 三牲 thường dùng để cúng TAM THANH 三清, là 3 ông
thánh cao nhất của Đạo Giáo : Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn
玉清元始天尊、Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn 上清靈寶天尊、và
Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn ( tức Thái Thượng Lão
Quân ) 太清道德天尊 (太上老君). Thái Thượng
Lão Quân là Lão Tử, người viết ra quyển Đạo Đức
Kinh, chủ trương thuyết Thanh Tịnh Vô Vi 清淨無為 ... Nói
theo giới bình dân, tu theo Đạo giáo thì thành Đạo sĩ,
Đạo cô, Chân Nhân và cảnh giới cao nhất là thành Thần,
thành Tiên, biết phép thuật và trường sinh bất tử. Đạo
giáo sang đến Việt Nam ta là các Thầy cúng, Thầy bùa, Thầy
Pháp ... chuyên trừ bịnh tà, giải nạn, bắt yêu bắt quỷ
...
Còn "Tam sên" ở vùng "Cái
răng, Bá láng, Vàm xáng, Phong điền" quê tôi, thường
dùng để cúng Thần Tài, Thổ Địa, Đất Đai... là
chỉ cần có một lát thịt ba-rọi, một cái trứng luộc và
một con khô mực là đủ để tượng trưng cho Tam giới rồi
!... và Con heo hay thịt heo là món ăn không thể thiếu trong những
ngày giỗ quãy lễ tết, cả những ngày thường nữa, nên
các từ thịt nạc, thịt đùi, thịt sườn, ba rọi ... không
cần phải có chữ "heo" đi kèm, mọi người vẫn biết
đó là thịt heo như thường ! Nhà nghèo nhưng phải cúng
trả lễ, không có tiền quay nguyên con heo để cúng thì có
thể cúng tượng trưng bằng cái Thủ Vĩ ...
THỦ 首 là cái Đầu; VĨ 尾 là cái
Đuôi; nên THỦ VĨ 首尾 là Đầu Đuôi, là cái
Đầu và cái Đuôi của con heo, nhưng thường thì có kèm
theo 4 cái Móng Heo và một miếng mỡ chài nữa để tượng
trưng cho đủ nguyên con heo. Nhưng vì cái đuôi và bốn cái
móng nhỏ qúa để bên cạnh cái đầu heo đã được chẻ đôi ở
giữa và lận ra cho lớn để cúng, người ngoài
nhìn chỉ thấy có cái đầu heo, nên lầm tưởng THỦ VĨ
có nghĩa là Cái ĐẦU HEO, mới có các câu nói :
- Cái mặt như cái Thủ
Vĩ.
- Giận
ai mà cái mặt như cái Thủ Vĩ vậy ?
- Thằng đó nó buồn cái gì mà
suốt ngày cái mặt của nó giống như là cái Thủ Vĩ
Lận vậy ? ( ý nói : Cái mặt chằm dằm).
Cái Thủ Vĩ
Cúng Thủ Vĩ trả lễ sông nước
Trư 豬 là Heo, còn Bát Giới 八戒 là tám giới cấm
theo Giới luật Thanh quy của nhà Phật là : không sát sinh, không
trộm cắp, không dâm dục, không nói bậy, không uống rượu,
không trang điểm, không sống xa hoa và phải ăn chay. Bát
Giới là tên mà sư phụ Đường Tăng đã đặt
nhằm nhắc nhở cho cái tính tham ăn tham ngủ mà lại lười
biếng làm việc của Trư Bát Giới. Đây là nhân vật
tiêu biểu cho cái nhân bản của con người nhất của tác phẩm
Tây Du Ký. Bản chất con người vốn dĩ thích ăn biếng làm,
nếu đã có đủ cái để ăn, thì không ai muốn làm
gì cả! Con Heo là con vật được chủ ưu tiên cho ăn no rồi
... ngủ cho mau lớn mau mập để gả bán cho chú lái heo. Nên thành
ngữ dành cho lão trư là Cao Chẩm Vô Ưu 高枕無憂.
Có nghĩa là : Gối đầu cao cao mà ngủ không lo lắng gì
cả, giống như câu "Ăn No Ngủ Kỷ" của ta vậy !
Ta thường nghe câu Tam Quy Ngũ Giới 三皈五戒,
Tam Quy là Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ngũ Giới là : Sát sanh, Trộm
đạo, Dâm dục, Vọng ngôn và Uống Rượu. Năm giới cấm
nầy chưa đủ làm cho con người trở nên trong sạch, cho nên
phải thêm 3 giới cấm nữa là : Không trang sức, Không sống xa
hoa phú quý và Không được ăn mặn. Tổng cộng là Bát
Giới thì mới dễ dàng giúp cho người tu hành dễ tu tâm
dưỡng tánh hơn, nhất là với bản chất đầy đủ
cả tham sân si và sắc dục như Trư Bát Giới. Hằng năm
viết liễn, thư pháp để gây quỹ cho chùa Tịnh Luật, ở
hai bên chữ PHẬT phía sau lưng, tôi đã viết đôi câu
đối sau :
TỊNH
độ thập phương mê chúng, đồng đăng bỉ ngạn;
淨 渡 十
方 迷 眾, 同 登
彼 岸;
LUẬT hành bát giới thanh quy, tốc xả
mê đồ !
律 行 八 戒
清 規, 速 捨
迷 途 。
Có nghĩa :
*
TỊNH là Sạch, nên Tịnh Độ là Độ sạch sẽ,
là ĐỘ HẾT cho chúng sinh mê muội ở khắp mười
phương. Đồng đăng bỉ ngạn là : Cùng qua được
bến bờ bên kia, vì chúng sinh đang chìm trong bể khổ, nên
qua được bến bờ bên kia là đã vượt qua bể
khổ để đến được niết bàn rồi.
* LUẬT là Giới luật, Hành là Thực hành, Thực
hành tám cái giới luật và những quy tắc làm cho con người
trở nên trong sáng trong sạch hơn của nhà Phật. Tốc xả mê
đồ là : Nhanh chóng rời bỏ con đường mê muội mà
về với chính giác.
Trư Bát Giới đã
không thể "Luật hành bát giới", cho nên mặc dù có
công phò Đường Tăng đến tận Tây Phương chầu Phật
Tổ để thỉnh kinh, vẫn không thể thành Phật hay La Hán được.
Khi thấy Phật Tổ chỉ phong mình làm "Tịnh Đàn Sứ Giả"
để làm sạch các bàn thờ, Bát Giới đã khiếu nại
và được Phật Tổ giải thích là:
" Tại
nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp
bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo
ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm
tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống,
sao lại không tốt ?".( theo Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân
).
Cái tật ăn tạp
và háo ăn của Trư Bát Giới còn hình thành một câu
thành ngữ mà ai đã đọc qua truyện Tây Du Ký đều biết,
đó là câu : "Trư Bát Giới thực nhân sâm qủa,( toàn
bất tri kỳ vị) 猪八戒食人参果 (全不知其味)".
Có nghĩa : Trư Bát Giới ăn qủa nhân sâm, (ý nói Ăn
mà không biết được mùi vị gì cả !)". Theo Tây
Du Ký :
Hồi
thứ 24, 25, 26 : Trên đường thỉnh kinh, khi đi ngang qua đạo quan Ngũ
Trang của Vạn Thọ Sơn, nơi vị Tổ sư của Địa Tiên là
Trấn Nguyên Tử tu hành. Nơi đây có một cây Nhân Sâm
Qủa, ba ngàn năm mới ra hoa, ba ngàn năm mới kết trái và ba
ngàn năm trái mới chín, ăn một qủa có thể sống đến
mười ngàn năm, ngửi một cái thôi cũng có thể sống đến
ba trăm năm. Vì bận việc đi xa Trấn Nguyên Tử dặn dò
hai đệ tử là Thanh Phong và Minh Nguyệt bẻ hai trái Nhân Sâm
thết đãi Đường Tăng. Tam Tạng thấy loại trái hình
thù như đứa bé, không dám ăn. Bát Giới thấy thèm
mà không được ăn, mới xúi sư huynh Tôn Ngộ Không hái
trộm. Khi đã hái trộm về 3 qủa, Tôn Ngộ Không kêu cả
Sa Tăng đến để chia nhau 3 sư Huynh đệ cùng ăn. Bát Giới
vì thèm qúa cầm trái nhân sâm thơm phức bỏ vào miệng,
ngoạp một cái là nuốt trọng luôn, nhìn lại thấy Tôn Ngộ
Không và Sa Tăng từ từ nhai từ từ thưởng thức, mùi thơm
của qủa nhân sâm bay ngào ngạt lại bắt thèm, năn nỉ hai
người cho cắn thêm một miếng để thưởng thức từ từ,
vì không ai chịu cho nên Bát Giới đâm ra cằn nhằn cưởi
nhưởi mãi khiến cho Thanh Phong Minh Nguyệt nghe thấy, mắng cho một trận
và mách với sư phụ, tạo thêm một tai nạn rắc rối nữa
trên đường đi thỉnh kinh ...
Vì sự việc
trên mà sau nầy hễ ăn một cách vội vả cái gì đó,
cứ ăn lấy ăn để mà chưa kịp thưởng thức
mùi vị của thức ăn, thì mọi người đều bảo là
: Ăn như Trư Bát Giới ăn nhân sâm vậy!
Trư Bát Giới
còn được Phật Bà Quan Âm đặt cho pháp danh là
Trư Ngộ Năng 豬悟能, Ngộ Năng là giác ngộ ra được
cái bản năng của con người, của chính mình để mà
tu tập sao cho thành chánh giác. Chính vì cái bản tánh của
Trư bát Giới thể hiện đầy đủ cả tam độc
là Tham Sân Si của con người, nên Quan Thế Âm Bồ Tát mới đặt
cho pháp hiệu Ngộ Năng để nhắc nhở, nhưng cố tật tham
tài tham sắc vẫn không bỏ được, hễ có dịp là
lại thể hiện ra ngay, như hồi thứ 54 qua Nữ Nhi Quốc 女兒國
hay hồi thứ 72 khi đến Bàn Tơ Động 盤絲洞 gặp
bảy con yêu nhền nhện cái, Bát Giới đều là người
dễ bị mê hoặc, dễ bị dẫn dụ và dễ sa ngã nhất. Bản
tánh háo sắc của Trư Bát Giới nổi tiếng đến nỗi làm
cho "con heo" cũng bị mang tiếng lây. Bà con bình dân hễ nhắc
đến những hành động dâm dục thì đều nói là
: Giở trò "con heo". Mắng những người dâm dục hay quan hệ tình
dục lăng nhăng thì nói là : Thứ cái đồ "heo nọc"!
và phim ảnh khiêu dâm thì gọi là : Phim "con heo"!
Nhưng "Phim con
Heo" ở Mỹ lại là một bộ phim hoạt hình rất dễ thương
của gia đình chú heo Peppa Pig mà trẻ em rất thích, kể cả trẻ
em Việt Nam. Kể từ lần đầu tiên ra mắt khán giả truyền hình
năm 2004 tại Anh, Peppa Pig - con heo hoạt hình mặc váy đỏ 4 tuổi không
chỉ khiến các nhóc tì mà cả phụ Huynh cũng thích thú.
Việt Nam ta cũng có phim hoạt hình Ba Chú Heo con ...
Trư
Bát Giới cũng luôn đẩy những người đồng hành với
mình vào những tình huống rắc rối bởi sự lười biếng,
thói ham ăn và bản tính háo sắc trước những cô gái
đẹp của mình. Bát Giới cũng luôn tỏ ra ghen tị với sư
Huynh Tôn Ngộ Không của mình và lúc nào cũng muốn tìm
cách hạ bệ Ngộ Không xuống. Tại hồi thứ 27, khi Tôn Ngộ
Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, Bát Giới đã gièm xiễm
rằng Tôn Ngộ Không đã có ác ý giết chết ba
mạng người lương thiện để cho Ðường Tăng nổi giận
niêm chú khẩn cô trừng phạt sư huynh, rồi quyết định đuổi
luôn về Hoa Quả sơn để đến nổi thầy trò đều lâm
nạn lớn. Cái tánh ghét ghen ganh tị đó bị người đời
thóa mạ là "Cẩu Trệ Bất Như 狗彘不如". Có
nghĩa là : Không bằng Chó Lợn hay "Hành Đồng Cẩu Trệ
行同狗彘" là : Hành động giống như là chó là
heo vậy.
Tam đả Bạch Cốt Tinh
TRỆ 彘
: là con heo nái; miền Bắc gọi là Con Lợn Sề. Nên cũng có
câu mắng để nhục mạ người khác khi có hành vi không
đứng đắn, đàng hoàng là : Quân Cẩu Trệ, là Đồ
Chó Lợn, mà miền Nam chưởi là: "Thứ cái đồ heo, đồ
chó !".
Như vậy là ngoài
Trư 豬 và Thỉ 豕 ra, ta còn có Trệ 彘 cũng là Heo nữa. Năm
con Heo là năm Hợi 亥, đứng hàng thứ mười hai, là
ngôi chót của Thập Nhị Địa Chi xếp sau năm Tuất; Tháng
Hợi là tháng Mười âm lịch; Ngày Hợi là ngày đứng
trước ngày Tý và Giờ Hợi là từ 9 đến 11
giờ đêm (pm), tức ở cuối canh hai gần sang canh ba. Vì thế
mà ta mới có giai thoại văn chương sau đây :
Khi
hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng trong đêm rộn
rịp vui mừng, Bà Đoàn Thị Điểm đã đùa với anh
rằng:
Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
半
夜 生 孩, 亥 子 二 時
未 定 .
Có nghĩa là :
Nửa
đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định, ý muốn nói không
biết là sanh vào giờ Tý hay giờ Hợi.
Ông
anh là Đoàn Viết Luân liền đối lại:
Lưỡng
tình tương phối, Tỵ Dậu song hợp nãi thành.
两
情 相 配, 巳 酉
双 合 乃 成 .
Có nghĩa là
:
Hai tình phối hợp lại với nhau, Tỵ
Dậu 2 tuổi hợp lại mà thành.
Với lối chơi chữ, 2 chữ Hợi 亥 và Tý 子 ghép lại
thành chữ Hài 孩; chữ Tỵ 巳 và chữ Dậu 酉
ghép lại thành chữ Phối 配. Ta còn gọi đây là lối
đối chiết tự. Nói thêm ...
Đúng
ra chữ PHỐI 配 là do 2 chữ Dậu 酉 và Kỷ 己 họp lại
mà thành, nhưng nếu đối là "Kỷ Dậu song hợp nãi
thành" thì KỶ 己 là ngôi thứ 6 của Thiên Can, nên Kỷ
Dậu là " Một Can một Chi" sẽ không ăn với " Hợi
Tý " ở câu trên đều là 2 ngôi của Địa
Chi. Cho nên mới dựa vào tự dạng của 2 chữ KỶ 己 và TỴ
巳 giống nhau mà "Mập mờ đánh lận con đen" đổi
KỶ 己 thành TỴ 巳, để cho "TỴ DẬU song hợp nãi
thành" ( Vì theo Tử Vi : Tỵ Dậu Sửu là Tam Hợp ). Và như
thế thì 2 Địa Chi "HỢI TÝ" sẽ đối với 2 Địa
Chi "TỴ DẬU" rất ăn và rất chỉnh!
Trong
văn chương Trung Hoa cũng có giai thoại sau đây :
Tương truyền, vào giữa những năm Hoằng Trị triều Minh, ở đất
Quỳnh Sơn tỉnh Quảng Đông có một học giả tên là
KHƯU TUẤN 丘濬( 1421-1495 ), tự là Trong Thâm 仲深,
đậu Tiến Sĩ năm Cảnh Thái thứ 5, làm quan đến chức Lễ
Bộ Thượng Thơ, Văn Uyên Các Đại Học Sĩ. Thế mà
xém chút nữa đã bị thua một cô gái nhà quê con chủ
quán. Truyện kể ...
Một đêm, khi Khưu Tuấn
đang ở trong một quán trọ. Chủ quán có một cô con gái
rất thông minh, lại giỏi văn chương, nghe tin có Văn Các Đại
Học Sĩ đến, bèn xin ra mắt. Sau khi đàm luận có ra cho ông
một câu đố như thế nầy :
二人並坐,
Nhị nhân tịnh tọa,
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh
tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。
Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.Có nghĩa :
Hai
người cùng ngồi ngang với nhau,
Ngồi cho đến canh hai ba hồi trống đổ,
Một
người sợ mèo, một người sợ hổ !
Khưu Tuấn nghĩ ngợi hèn lâu, ông
đang cân nhắc giữa câu " hai người ngồi ngang nhau " có
thể là 2 chữ " Nhân 人 " mà lại một người sợ
mèo một người sợ cọp, thì không phải là " 2 người
" nữa, mà là 2 con vật gì đó. Con gì sợ mèo ?! Là
... CÁ là NGƯ 魚. Con gì sợ cọp ?! Là ... DÊ là DƯƠNG
羊. NGƯ 魚 và DƯƠNG 羊 ghép lại cho " ngồi ngang " với
nhau thành chữ TIÊN 鮮 : Có nghĩa là Tươi Ngon. Chắc ăn
như bắp, suy nghĩ xong, ông bèn vuốt râu mĩm cười nói ra đáp
án.
Nào ngờ, cô gái cũng mĩm cười
lắc đầu bảo : " Sai rồi !". Ông ngạc nhiên hỏi : " Sao
lại sai ? ". Cô gái đáp : " Thế thì ông giải thích
thế nào về câu : Tọa đáo nhị canh tam cổ ? ( Ngồi cho đến
canh hai ba hồi trống đổ ). Khưu Tuấn xịu mặt trầm tư, chợt
ông tỉnh ngộ ra, vổ đùi đánh đét một tiếng bảo
rằng : " Phải rồi ! Canh hai là giờ HỢI 亥, còn Ba hồi trống
đổ là Canh ba giờ TÝ 子. Ghép chữ TÝ 子 với chữ
HỢI 亥 lại với nhau, ta có chữ HÀI 孩 là Hài Nhi phải
không ?! Cô gái gật đầu cười đáp : " Đúng
vậy ! TÝ là Chuột sợ mèo; HỢI là Heo sợ Cọp !".
Khưu Tuấn khen lấy khen để, cho đây là câu đố thật tuyệt
vời !
Tượng đài
và khu mộ chí của Khưu Tuấn
Tuổi
Hợi là tuổi con Heo, trong đề 36, sau nầy là đề 40, thì
con heo mang số 7, có tên chữ là Chánh Thuận 正順, nằm trong
Ngũ Hổ Tướng gồm có :
- Số
5 là Chí Cao con Trùng.
- Số 6 là Khôn Sơn con Cọp.
- Số 7 là CHÁNH THUẬN con Heo.
- Số 8 là Nguyệt Bửu con Thỏ.
- Số 9 là Hán Vân con Trâu.
Con
heo Chánh Thuận làm cho ta nhớ đến lò heo Chánh Hưng, bên kia
Cầu Chữ Y Quận Tám ngày xưa, nơi chuyên mỗ và cung cấp
thịt heo cho toàn đô thành Sài Gòn Chợ Lớn. Giới bình
dân ghiền số đề hiện nay đánh đề theo vé số Kiến
Thiết xổ hằng ngày từ 00 đến 99 lại phải thua thêm 2 số
nữa; ngoài số 7 là con heo con ra còn có con heo sồn sồn số 47,
và một con heo già, lớn cở ... Trư Bát Giới nữa là con số
87. Giới thua đề thường than với nhau :
Chánh
Thuận chẳng thuận chút nào,
Thua hoài thua
huỷ quơ quào khắp nơi !
Xã hội còn dân
nghèo, còn bất công, tham nhũng, thì nạn đánh đề và
vé số còn hoành hành và còn làm khổ dân đen mãi
mãi. Vì đâu có làm ăn gì bằng được với trúng
số, trúng đề :
Phải thời một vốn bỗng liền bảy mươi
!có nhiều chủ thầu còn cho 1 đồng trúng tới 72, thậm
chí 75 nữa là đằng khác. Cho nên dân ghiền số đề
cứ cắm đầu vô đó mà chết ! Chánh Thuận 正順
có nghĩa là : Chính trực đàng hoàng thì sẽ được
thuận lợi suông sẻ, nhưng Chánh Thuận là con heo của số đề
thì không suông sẻ chút nào cả. Vướng vào rồi thì
là từ chết đến bị thương mà thôi !
Xét ra thì cũng tội
nghiệp cho con heo hiền lành dễ bị thuần hóa bởi con người, nhưng
lại bị số đề và hình tượng đầy tính tham sân
si của Trư Bát Giới làm cho xấu đi; con heo ục ịch dễ thương,
ủn ỉn như lợn ăn khoai thành con heo dâm dật háo sắc, thấy đàn
bàđẹp thì thèm rõ dãi như Trư Bát Giới thì
qủa thật là tội nghiệp cho con ... " heo đồng cỏ nội "
quá đi thôi !
Thịt heo lại là món ăn
hiền lành nhất, phổ thông nhất trong dân gian, người ta cử ăn
thịt trâu thịt bò thịt chó ... chớ không ai cử ăn thịt
heo cả ! Trong dân gian ta đầy rẫy những món ngon được chế
biến từ thịt heo, như : Giò, chả, nem, lạp xưởng, thịt khô,
thịt đông ... Nhà có tiệc đãi khách, hoặc ngày
lễ ngày Tết ... là không thể thiếu thịt heo được, ta hãy
đọc một bài thơ rất nổi tiếng của Lục Phóng Ông (
tức Lục Du ) đời Nam Tống tả cảnh xóm tây mời khách ăn
Tết trong một cuối năm được mùa như sau :
遊
山 西 村
Du Sơn Tây Thôn
莫 笑 農 家 臘 酒 渾,
Mạc tiếu nông gia lạp tửu hồn,
豐 年 留 客 足 雞
豚。
Phong niên lưu khách
túc kê đồn
山
重 水 復 疑 無 路,
Sơn trùng thuỷ phục nghi vô lộ
柳 暗 花 明 又 一 村。
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
簫 鼓 追 隨 春 社
近,
Tiêu cổ truy tuỳ
xuân xã cận
衣 冠
簡 樸 古 風 存。
Y
quan giản phác cổ phong tồn
從 今 若 許 閑 乘 月,
Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt
拄 杖 無 時
夜 叩 門。
Trụ trượng
vô thì dạ khấu môn.
陸 游
Lục Du
Đừng cười
nhà nông chúng tôi uống rượu Tết không trong, vì rượu
chỉ ủ thôi chớ không có cất nấu, và vì được
mùa nên mời khách ở lại mà thường thức các món
ăn do gà heo làm ra ...
DẠO NÚI XÓM TÂY
Thôn dã chớ cười rượu nhạt phèo,
Cuối năm đãi khách
sẵn gà heo.
Núi liền sông nước ngờ vô lối,
Liễu
rũ đường hoa đến xóm nghèo.
Tiêu trống rộn
ràng Xuân Xã đến,
Áo xiêm giản dị cổ phong theo.
Từ nay
nếu rảnh đêm trăng sáng,
Gỏ cửa cùng vui gậy khẳng kheo.
Bài thơ trên cho
ta biết thêm một từ chỉ Con Heo nữa, đó là từ ĐỒN
豚. Kê Đồn 雞 豚 : là Gà và Heo. Trong Tăng Quảng Hiền
Văn có dạy :
貪 他 一 斗 米, 失 卻 半 年
糧;
Tham tha nhất
đấu mễ, thất khước bán niên lương;
爭 他
一 腳 豚, 反 失 一 肘 羊。
Tranh tha Nhất Cước Đồn, phản thất nhất
trửu dương.
Có nghĩa :
Tham
của người ta một đấu gạo, mình lại bị mất hết nửa
năm lương thực;( ăn gian chỉ có một đấu, bị phạt đến
nửa năm lương );
Tranh với người ta Một Cái Giò Heo,
ngược lại mình bị mất đi một cái đùi dê ! ( tranh
nhau cái nhỏ để mất đi cái lớn hơn, ngon hơn !).
Ở đời, hễ tham thì thâm là thế !
Trở lại với nhân vật Trư Bát Giới
trong Tây Du Ký, ngoài những thói hư tật xấu đã kể trên,
Trư Bát Giới tuy đã xuất gia, nhưng vẫn còn rất nặng nợ
với ... gia đình vợ con. Thật vậy, cứ mỗi lần Đường
Tăng gặp nạn, bị yêu quái bắt đi hay bị Nữ Vương của
Nữ Nhi Quốc giữ lại thì y như là Trư Bát Giới đòi
" phân chia tài sản " rồi ai về quê nấy. Tôn Ngộ Không
và Sa Tăng thì đâu có "quê" đâu mà về, nhưng
Trư Bát Giới thì lại khác, trong lòng y luôn canh cánh nhớ
tới Cao Tiểu Thơ của Cao Lão Trang, người vợ mà y thương yêu
rất mực và làm việc cật lực hết lòng để làm giàu
cho Cao lão Viên Ngoại. Khi đi theo Đường Tăng y cũng có dặn
lại rằng : ... Khi nào không thỉnh được kinh thì con sẽ về
lại nhà để làm ăn sinh sống như xưa. Cho nên, hễ có
dịp là y lại thừa cơ bàn ra và luôn luôn muốn cho tan đàn
xẻ nghé !
Trư Bát Giới và Cao Tiểu Thơ
Nhưng bên cạnh nhiều nhược điểm như trên, Trư Bát Giới
còn là một nhân vật với rất nhiều đức tính tích
cực. Đó là, không bao giờ chịu khuất phục trước bất
cứ một yêu quái nào dù là loại hung dữ nhất hay
gặp phải những hoàn cảnh khủng khiếp nhất, bị yêu quái
bắt để ăn thịt chẳng hạn, mặc dù ngoài miệng y
luôn cằn nhằn cưởi nhưởi, nhưng lại là một trợ thủ
đắc lực của Tôn Ngộ Không trên con đường thiên
lý đi Tây Thiên thỉnh kinh. Nhân vật Trư Bát Giới trong suốt
chặng đường đi đã luôn gây cho người xem các trận
cười thoải mái cũng như sự hồi hộp, lòng cảm mến trước
những đức tính đáng yêu. Đó là hình tượng một
anh nông dân thật thà với những cách nghĩ, cách làm rất...
chất phác, dù dưới cái lốp hòa thượng, và y cũng
một lòng một dạ đi đến tận Tây phương Lôi Âm Tự
để diện kiến đức Thế Tôn : Phật Tổ Như Lai.
Tóm lại, trong Tây Du Ký nhân vật Trư Bát Giới là nhân
vật có lý lịch và tâm lý phức tạp nhất và do vậy,
y cũng là nhân vật có nhiều tính chất " nhân bản "
nhất, kể cả tính tốt lẫn tật xấu và là nhân vật
sinh động nhất trong tác phẩm.
Năm Hợi, mong rằng tất cả mọi người đều
cùng vượt qua được tham sân si như Trư Bát Giới để
xây dựng nên một gia đình hạnh phúc, một sự nghiệp thành
công, một cuộc sống đầy từ bi bác ái tình người và
ấm no đầy đủ như là Tịnh Đàn Sứ Giả vậy !
Đỗ Chiêu Đức
Vịnh Trư Bát Giới
Nguyên Soái Thiên Bồng ấy lão Trư,
Ba mươi sáu phép lộng huyền hư.
Tiểu thơ Cao Lão Trang ... là nợ,
Sư phụ Đường Tam Tạng ... phải
tu.
Bát Giới tĩnh tâm
thôi vướng bận,
Ngộ
Năng dưỡng tánh hóa ôn nhu.
Tây phương Phật Tổ công phong thưởng,
Sứ Giả Tịnh Đàn ấy lão
Trư !
Đỗ Chiêu
Đức
Câu
đối cho năm Con Heo KỶ HỢI 2019 :
- Gâu gâu chó đã
vượt rào, Vui vẻ chào Xuân nghinh phúc lộc;
- Ủn ỉn lợn đà chạm
máng, No nê đón Tết chúc
an lành !
Đỗ Chiêu Đức
_________________________________________
GIẤC NAM KHA
GIẤC NAM KHA khéo
bất bình, Bừng con mắt dậy thấy
mình tay không !
Hai câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn
Như Hầu Nguyễn Gia Thiều nói lên cuộc đời nầy như là
một giấc mộng lớn : Phú quý vinh hoa, công danh lợi lộc, nhà
cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn... bỗng chốc hóa thành hư
không, không còn gì cả. Quá khứ vàng son huy hoàng rực rỡ
chỉ thoáng qua như là một ... giấc Nam Kha ! Theo như Điển Tích
sau đây :
Tháng Tám năm Trinh nguyên thứ
18 đời Đường. Lý công Tá đi thuyền từ Ngô Quận
đến Lạc Dương, khi thuyền đậu bên bến sông Hoài, đã
nghe kể về chuyện của Thuần Vu Phần, nên về viết lại thành
NAM KHA THÁI THÚ TRUYỆN 南柯太守傳 như sau :
Nam Kha
nhất mộng
Thuần Vu Phần 淳于棼, người đất
đông bình, thích giao du, trọng nghĩa khí, hay cứu khổn phò
nguy. Nhưng tánh tình nóng nảy, bộc trực, thích uống rượu.
Gia đình khá giả nên giao du với rất nhiều hào kiệt hiệp
nghĩa, lại giỏi võ nghệ, đã từng giữ chức phó tướng
đất Hoài Nam.
Nhà Thuần Vu Phần ở phía
đông quận Quảng Lăng, ở mé nam nhà có một cây Hòe
xưa, tàn lá rậm rạp, bóng mát che cả một góc vườn.
Năm Đường Trinh Nguyên thứ 7, ngày 9 tháng 7. Thuần Vu Phần cùng
các hiệp khách uống rượu dưới gốc cây, vì vui nên
quá chén. Hai người bạn bèn đỡ vào nằm ngủ ở phía
đông lang. Trong mơ mơ màng màng thấy có hai sứ giả áo
tía đi vào, quỳ xuống mà thưa rằng :" Chúng tôi phụng
mệnh vua xứ Hòe An, kính thỉnh tiên sinh đến nước chúng
tôi du ngoạn một chuyến ". Thuần Vu Phần bèn chỉnh đốn khăn
áo chỉnh tề, theo hai sứ giả ra cửa thì đã thấy có sẵn
một xe tứ mã và bảy tám tùy tùng hầu cận.. Xe ra khỏi
cửa chạy thẳng về phía hang động dưới gốc cây
Hòe và chui thẳng vào đó. Thuần Vu Phần giựt mình nhìn
lại thì thấy cây cỏ cảnh trí hai bên đường đều
thay đổi cả. Xe chạy một lúc đến một cửa thành lớn,
tấp nập người qua kẻ lại. Trên thành có một tấm bảng
thật to với các chữ vàng lắp lánh : "Đại Hòe An Quốc".
Quan thủ thành trông thấy, bèn cho người vào trong thông báo.
Một khoái mã chạy đến hô to :" Hoàng thượng có chỉ,
phò mã đi đường xa lao nhọc, hãy tạm vào Đông Hoa
Quán nghỉ ngơi ". Tướng quân giữ thành bèn đưa Thuần
Vu Phần vào một dịch quán vô cùng hoa lệ để nghỉ ngơi.
Lại có người đến báo là Hữu Thứ Tướng sắp đến
viếng. Thừa Tướng đến nói với Thuần Vu Phần rằng :"
Hoàng đế bệ hạ nước tôi không hiềm nước nhỏ xa
xôi, mời ngài đến để chiêu ngài làm Phò Mã đó
". Thuần vu Phần đáp rằng :" Tôi là một ti chức thấp
hèn, lại là kẻ thất phu võ biền, đâu dám trèo cao như
thế !" Đọan cùng thừa tường đến bái kiến nhà
vua.
Trên đường đi vào cung,Thuần Vu Phần
thấy hai bên lầu các trùng trùng điệp điệp, nguy nga tráng
lệ khác với đời thường. Đến một cửa cung lớn, sơn
son thếp vàng với các võ sĩ búa việt cờ mao đứng gát
uy nghi. Bá quan văn võ đứng chầu hai bên, trong đó có cả
một bạn rượu thường ngày là Châu Biền, Thuần Vu Phần
mừng quá nhưng không dám kêu, đi theo thừa tướng lên chánh
điện, thấy trên ngôi là một ông vua cao lớn uy vũ, đầu
đội mũ đỏ, mình mặc áo bào trắng trông bề thế
hiên ngang. Thuần cúi lạy ra mắt không dám ngẩn đầu lên.
Nhà vua phán :"Ta tuân theo sự gởi gắm của lệnh tôn, không
nề hà mình là tiểu quốc, đồng ý chiêu ngươi làm
phò mã cho công chúa thứ hai của ta là Dao Phương, người
thấy thế nào?" Thuần vui mừng khôn xiết, chỉ còn đồng
ý chứ còn biết nói sao. Nhà vua cho về dịch quán để
đợi ngày cử hành hôn lễ.
Đêm
cử hành hôn lễ, hoàng cung trang hoàng lộng lẫy rực rỡ vô
cùng, với đầy đủ lễ nghi tiết nhạc. Có ba quan viên trẻ
ăn mặc thật đẹp đến bái kiến Thuần Vu Phần bảo là
nhà vua phái đến làm phù rể, trong đó lại có một
người là bạn cũ. Thuần Vu Phần mừng quá hỏi : " Bạn
có phải là Điền Tử Hoa không, sao lại ở đây ? Có
biết là Châu Biền cũng ở đây không ?" Điền Tử Hoa
đáp : " Tôi du sơn ngoạn thủy, lạc đến nơi nầy, hữu
thứa tướng thấy tôi có tài nên lưu tôi lại đây
làm một quan võ, còn Châu Biền có tài hơn tôi, hiện
đang giữ chức Tư Lệ của triều đình. Hai người bạn cũ
gặp nhau cười nói thỏa tình. Tử Hoa cũng nhắn nhủ Thuần
nhớ cất nhắc mình sau nầy. Đang lúc nói cười vui
vẻ thì thấy một toán nữ nhạc đẹp như tiên
kéo đến, tấu lên những khúc hát rất lạ tai, rồi cung phi
mỹ nữ cùng dẫn đường đưa phò mã vào động
phòng hoa chúc. Khi đến Tu Nghi Cung của công chúa, lại thấy có
hoàng thân quốc thích đến chúc mừng dự tiệc. Kịp đến
khi vào được loan phòng thì đà nửa đêm rồi, và
khi giở tấm nhiễu điều che mặt công chúa ra thì Thuần muốn
bay bổng lên mây. Công chúa chỉ khoảng mười lăm mười
sáu tuổi và đẹp như tiên nga giáng thế.
Từ đó Thuần Vu Phần đắm say trong hạnh
phúc như từ trời rơi xuống. Một hôm, công chúa hỏi Thuần
có muốn làm quan không. Thuần bảo mình chỉ là một võ
phu, đâu có biết việc an bang tế thế. Công chúa hứa sẽ
hỗ trợ cho Thuần làm việc quan cho thật tốt. Nhân có quận Nam
Kha đang thiếu người cai quản, công chúa bèn xin cho Thuần đến
trấn nhậm nơi đó. Nhà vua bèn phong cho Thuần làm Thái Thú
quận Nam Kha. Thuần cung kính nhận lệnh, nhưng lại xin với vua cho hai người
bạn của mình là Châu Biền và Điền Tử Hoa theo làm phụ
tá giúp đỡ cho mình trong các việc quan. Nhà vua chuẩn thuận.
Hoàng hậu còn căn dặn công chúa là :" Phò mã tính
khí cương trực lại thích uống rượu, con phải tùy lúc
khuyên răn và giúp đỡ chồng con làm tốt chức trách của
phụ mẫu chi dân, làm một ông quan tốt ". Công chúa bái
biệt vua và hoàng hậu rồi cùng chồng lên đường.
NAM KHA THÁI THÚ TRUYỆN
Một đoàn người ngựa với
khí thế hiên ngang cùng tiến thẳng về quận Nam Kha. Nghe có Thái
Thú mới đến trấn nhậm tất cả quan viên và những bậc
đức cao vọng trọng cùng dân chúng đều kéo ra thành để
nghinh tiếp thật là long trọng rình rang. Sau khi nhậm chức, Thuần Vu Phần
rất chăm chỉ việc quan, xem xét nhân tình phong hóa của địa
phương, chăm lo đến đời sống của nhân dân trong quận, lại
được sự hỗ trợ khuyến khích của công chúa bên trong,
còn bên ngoài thì có Châu Biền và Điền Tử Hoa giúp
đỡ, nên chẳng bao lâu, đời sống của dân chúng được
nâng cao hẵn lên. Mọi người dân đều ca tụng công đức
của Thái Thú, tiếng đồn đến kinh đô, nhà vua và hoàng
hậu cũng rất vui lòng. Vua lại ban hàm phong cho Thuần Vu Phần được
ngang hàng với Tam Công Tể Tướng trong triều.
Cứ thế, hai mươi năm trôi qua,
Thuần Vu Phần và công chúa sanh được năm trai hai gái, tất
cả đều khôn lớn và nên người. Nhờ có phụ ấm,
nên con trai cũng hiễn đạt làm quan và con gái thì cũng gả
về cho các bậc vương hầu quyền quý. Quả là "Một cây
cù mộc một sân quế hòe !" như cụ Nguyễn Du đã tả
trong Truyện kiều. Năm đó, có quân
của Đàn La Quốc đến xâm lược. Thuần Vu Phần phái Châu
Biền cầm quân chống cự. Châu Biền tuy già nhưng dũng mãnh
phi thường dẫn quân tiến sâu vào lòng địch, chẳng may bị
địch phục kích. Bại trận bị thương, về dinh mấy hôm
thì mất. Công chúa lo buồn nên cũng nhuốm bệnh, ít lâu
sau cũng qua đời. Nhờ có Điền Tử Hoa đẩy lui được
quân địch. Nhưng trước cảnh chiến tranh điêu tàn, công
chúa lại mất. Thuần Vu Phần giao quận Nam Kha lại cho Điền Tử
Hoa rồi từ chức đưa linh cửu của công chúa về kinh. Nhà
vua thương con, phong thụy là Thuận Nghi Công Chúa, nhưng lại lạnh
nhạt với Thuần, nên cả triều bá quan văn võ qua lại hai mươi
năm nay rất thân thiết đều tỏ ra tẻ nhạt với Thuần. Buồn
tình nên Thuần tối ngày chỉ biết uống rượu tiêu sầu.
Nhà vua cũng đâm ra bực mình nên truyền lệnh đuổi chàng
về quê cũ. Thuần Vu Phần mới giật mình suy nghĩ đây là
nhà của mình rồi còn về quê cũ nào nữa ?!...
Khi xe tứ mã đưa Thuần Vu
Phần ra khỏi hang động dưới gốc cây hòe, thì chàng ta mới
mơ mơ hồ hồ lúc đầu cũng từ hang động nầy đi vào
Đại Hòe An Quốc. Còn đang ngơ ngơ ngẩn ngẩn thì nghe tiếng
gọi giật ngược bên tai của hai gia nhân đang quét dọn trong sân.
Bừng tỉnh mở mắt ra thì thấy hai người bạn nhậu vẫn còn
ngồi đó rửa chân, trên bàn đồ ăn và rượu thừa
vẫn còn rơi vải đầy ra đó. Ánh nắng buổi ban chiều
còn chưa tắt hẵn, vài tia nắng yếu ớt còn len lỏi qua tàn
lá của cây hòe rậm rạp ở góc sân. Cảm khái trước
giấc mơ dằng dặc hiếm có như sống cả một đời của
mình chỉ diễn ra trong một hai thời khắc của nhân sinh, Thuần bèn
kể lại cho hai người bạn nghe. Tất cả đều cùng ngạc nhiên
và cùng đi đến gốc của cây hòe to lớn thì thấy có
một hốc cây thật to bên có mấy con kiến bò qua bò lại.
Thuần bèn cho gia nhân đào sâu vào, thì lại thấy có
một ổ kiến thật to, có con kiến vương đầu đỏ mình
trắng giống như là nhà vua trong giấc mơ, đào về phía nam
lại thấy có một ổ kiến nhỏ, giống như là quận Nam Kha của
mình trấn nhậm trong mơ, xa xa xéo một bên lại có một ổ
kiến đen đã bỏ đi chỉ còn xót lại vài con, giống
như là Đàn La Quốc đã đem binh xâm lược quận Nam Kha
trong mơ vậy. Thuần Vu Phần vô cùng cảm khái, cho gia nhân lấp
ổ kiến lại một cách cẩn thận như cũ mà không cho phá
đi.
Thuần Vu Phần lại
chợt nhớ đến hai người bạn mà mình đã gặp trong mơ,
bèn cho người đến thăm nom thì mới biết rằng Châu Biền
đã nhuốm bệnh mà chết còn Điền Tử Hoa thì đang nằm
thoi thóp trên giường bệnh chưa biết sống chết ra sao. Thuần Vu
Phần cảm khái cho cuộc đời hư ảo tựa khói tựa mây,
phú quý vinh hoa như một giấc mộng dài. Cho nên, tự đó
về sau chỉ chuyên tâm tu đạo, không uống rượu, không gần
nữ sắc, theo thuyết thanh tịnh vô vi. Ba năm sau thì mất khi tuổi mới
vừa 47, là tuổi trung bình của người đời lúc bấy giờ.
NAM KHA THÁI THÚ TRUYỆN
Vì trong giấc mộng Thuần Vu Phần thấy mình được
làm Thái Thú của quận Nam Kha, nên người đời thường
gọi là " GIẤC NAM KHA ", và vì nằm ngủ gần gốc cây
Hòe, nên còn gọi là GIẤC HÒE, như trong Truyện Kiều của
cụ Nguyễn Du, khi tả Thúy Kiều " Xăm xăm băng lối vườn
khuya một mình " để qua thăm Kim Trọng :
Gót sen sẻ động GIẤC HÒE,
Bóng trăng đã
xế hoa lê lại gần.
hay như
trong Bích câu kỳ Ngộ, anh chàng Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều
trở về đã mang bệnh tương tư :
Lầu trăng ngơ ngẩn
ra về,
Đèn thông khêu cạn GIẤC HÒE chưa nên
!
hay còn gọi là GIẤC HÒE AN
vì Thuần Vu Phần mơ thấy mình lạc đến Hòe An Quốc, như
trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của ông vua Lê Thánh Tông:
Phú
quý bao nhiêu người thế gian,
Mơ mơ bằng
thuở GIẤC HÒE AN.
Sau Giấc Nam Kha, Giấc Hòe, Giấc
Hòe An... ta còn có Giấc kê vàng, Giấc Hoàng Lương, Giấc
Bướm, Giấc Mai, Giấc Xuân... Mời đọc tiếp trong bài viết
tới cho đủ... GIẤC !
Đỗ
Chiêu Đức
___________________________________________________________________________________________________
Cuối năm mời đọc một bài thơ Xuân
:
KÝ LÝ ĐÃM NGUYÊN TÍCH
寄李儋元錫 KÝ
LÝ ĐÃM NGUYÊN TÍCH
去年花裡逢君別, Khứ
niên hoa lý phùng quân biệt,
今日花開又一年。 Kim
nhựt hoa khai hựu nhất niên.
世事茫茫難自料, Thế
sự mang mang nan tự liệu,
春愁黯黯獨成眠。 Xuân
sầu ảm ảm độc thành miên.
身多疾病思田里, Thân
đa tật bệnh tư điền lý,
邑有流亡愧俸錢。 Ấp
hữu lưu vong quý bổng tiền.
聞道欲來相問訊, Văn
đạo dục lai tương vấn tín,
西樓望月幾回圓。 Tây
lầu vọng nguyệt kỷ hồi viên !
韋應物 Vi
Ứng Vật
*CHÚ THÍCH :
- LÝ
ĐÃM NGUYÊN TÍCH : là bạn của Vi Ứng Vật, Họ LÝ tên
ĐÃM, tự là Nguyên Tích, đang giữ chức Điện Trung Thị
Ngự Sử ở Trường an.
-
Mang Mang : là Mờ mịt, mông lung.
-
Ảm Ảm : là Vẻ sầu thương buồn bã.
- Điền Lý 田里 : Điền là
Ruộng, Lý là Làng. Ruộng Làng ở đây chỉ Quê Hương,
Xứ sở.
- Ấp : ở đây
chỉ cái địa phận cai quản của quan chức địa phương.
- Lưu Vong : là Những người
lưu lạc vì loạn lạc đói kém.
- Quỹ : là Tàm Quỹ, là Thẹn thùng, là
Lấy làm thẹn về việc gì đó ...
- Quý Bổng Tiền : Thẹn vì lãnh lương bổng
mà làm không được việc.
-
Văn Đạo : Nghe nói rằng ...
*NGHĨA
BÀI THƠ :
Gởi
cho Lý Đãm Nguyên Tích
Năm
ngoái khi gặp anh rồi thì lại phải chia tay. Ngày hôm nay hoa lại
nở mới biết rằng đã lại qua một năm nữa rồi ! Chuyện
đời mờ mịt không biết đâu mà liệu định cho được.
Mùa xuân buồn bã ta ngủ đi một mình trong sầu thương áo
não. Tấm thân già nua nhiều bệnh tật lại luôn tưởng nhớ
đến quê hương. Trong thôn ấp có nhiều người lưu vong lại
càng cảm thấy thẹn thùng vì hưởng bổng lộc mà làm
quan không trọn. Nghe nói bạn muốn đến đây để thăm hỏi
nhau, nên ta lên lầu tây mà trông ngóng mãi suốt mấy con trăng
tròn rồi !( Không biết tới chừng nào mới gặp được
bạn đây ?!).
Câu " Ấp hữu lưu vong quỹ bổng tiền 邑有流亡愧俸錢 "
Vi Ứng Vật được khen là ông quan thanh liêm, có lương tâm,
tự thẹn vì không làm tròn bổn phận của một quan phụ mẫu,
để cho dân chúng phải sống lưu vong lang thang mà mình vẫn hưởng
đầy đủ bổng lộc của triều đình, không như những
tham quan của thời buổi ngày nay, dân chết mặc dân, chỉ lo cho mình
vinh thân phì gia là trên hết ! Vi Ứng Vật lại buồn vì già
nua bệnh tật và nhớ quê nữa.
Làm
quan xa nhà đã buồn rầu áo não là thế, huống hồ với
thân phận lưu vong tha phương cầu thực như chúng ta hiện nay, gởi
thân nơi xứ lạ quê người, có về lại làng quê thì
cũng không tìm đâu ra người xưa cảnh cũ ! Quê hương
thì vẫn còn là quê hương, tỉnh thành vẫn là tỉnh
thành, làng quê thì vẫn là làng quê, nhưng tất cả đều
như xa lạ, ngỡ ngàng ... đâu rồi những tháng ngày qua với
người xưa cảnh cũ !!!
*DIỄN NÔM :
Chia tay năm trước mùa hoa thắm,
Hoa
nở năm nay lại một năm.
Mờ
mịt chuyện đời khôn định liệu,
Ngổn
ngang thế sự khó đi nằm.
Thân
nhiều bệnh tật mơ quê cũ,
Ấp
lắm lưu vong thẹn chẳng chăm.
Nghe
bạn đến thăm mừng xiết kể,
Lầu
tây trông ngóng biết bao rằm !
Lục
bát :
Mùa
hoa năm trước chia tay
Nay
hoa lại nở cho dài một năm.
Chuyện
đời mờ mịt xa xăm,
Sầu
xuân khó ngủ buồn nằm riêng ta.
Thân
nhiều tật bệnh la đà,
Dân
lưu vong mãi lòng ta thẹn thầm.
Nghe
tin bạn đến viếng thăm,
Lầu
tây ngóng đợi mấy rằm trăng qua !
Đỗ
Chiêu Đức
ĐIỂN TÍCH VĂN
HỌC:
CẦU LAM
CẦU LAM là cây
cầu màu xanh lam, mà cây cầu mà màu xanh lam là cây cầu đẹp
và nên thơ vô cùng, vì nơi đó là chỗ ở của
người đẹp, của các nàng tiên, của người trong mộng...
nên khi muốn nghe Thúy Kiều đờn, Kim Trọng đã phải rào
đón trước :
Sinh rằng : Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
Chày sương chưa nện CẦU LAM,
Sợ lần khần qúa ra sởm sỡ chăng ?
Hay như trong Lâm Tuyền
Kỳ Ngộ :
CẦU LAM hội ấy đành khôn hẹn,
Con tạo trời kia bỗng khéo xây.
Cầu Lam
là LAM KIỀU, là nơi ở của người đẹp mà ta hằng ao
ước. Nên khi dò la tìm chỗ ở của Thúy Kiều, cụ Nguyễn
Du đã viết về chàng Kim Trọng như sau :
Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo LAM KIỀU lần sang.
Ngay cả
Mã Giám Sinh khi đến trả giá để mua Thúy Kiều cũng phải
làm ra vẻ cao qúy nho nhã lịch sự :
Rằng
mua ngọc đến LAM KIỀU,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
Lam Kiều hay Cầu Lam còn có liên quan đến CHÀY SƯƠNG
là cái Chày dùng để giả thuốc trường sinh làm sính
lễ cưới vợ, như Kim Trọng đã nói ở trên :
CHÀY
SƯƠNG chưa nện CẦU LAM,
Có nghĩa là : Chưa trình
sính lễ để hỏi cưới, để hợp thức hóa mối duyên
của đôi lứa yêu nhau.
Lam Kiều cũng làm
cho người ta nghĩ đến QUỲNH TƯƠNG, là thứ rượu được
ướp bằng trái cây, như rượu cocktail của ta bây giờ, nhưng
ngày xưa Quỳnh Tương là rượu qúy chỉ dùng để
đãi khách qúy mà thôi. Nên để trân trọng cho lần
đầu tiên gặp gỡ, Kim Trọng đã dùng chén HÀ là chén
có hoa văn như mây ở trên trời, rót rượu Quỳnh Tương
vào để đãi Thúy Kiều :
Chén HÀ sánh giọng QUỲNH TƯƠNG,
Dải là hương lộn bình gương bong lồng !
Để tìm hiểu một cách thấu đáo, chính xác sự
liên quan giữa các điển tích Lam Kiều, Cầu Lam, Chày Sương,
Quỳnh Tương ... như thế nào, mời tất cả cùng đọc và
tìm hiểu xuất xứ sau đây :
Thật
ra LAM KIỀU không phải là Cây cầu màu xanh lam, mà là LAM KIỂU
DỊCH 藍橋驛, là Dịch
quán Lam Kiều, nằm ở
đông nam của xứ Lam Khê( Dòng sông xanh ) thuộc huyện Lam Điền
tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Nơi nổi tiếng là đường cái
quan ra vào kinh thành Trường An của đời Đường. Lam Kiều còn
nổi tiếng với câu chuyện của Bùi Hàng cưới được
vợ đẹp là Vân Anh và vợ chồng đều lên tiên theo tích
sau đây...
Theo sách Thái Bình Quảng
Ký, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường
Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng
thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi
du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến
bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang
chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù
có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền,
lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng
cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt
ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên
giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng
nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị
nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng
bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi
nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :
同舟胡越猶懷想, Đồng chu Hồ Việt do hoài
tưởng.
況遇天仙隔錦屏。
Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
倘若玉京朝會去, Thảng nhược Ngọc kinh
triều hội khứ,
願隨鸞鶴入青雲。 Nguyện tùy loan hạc nhập
thanh vân.
Có nghĩa :
Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
Huống gặp người tiên cách sáo rào.
Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !
Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình,
rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn
lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :
一飲瓊漿百感生,
Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh,
玄霜搗盡見雲英。 Huyền sương đão tận
kiến Vân Anh.
藍橋便是神仙窟, Lam Kiều tiện thị thần
tiên quật.
何必崎嶇上玉京?
Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
Có nghĩa :
Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!
Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân
muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai,
sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng
cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc
gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã
lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi
mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an
định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy
có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước
chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão
đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào
trong nhà : " Vân Anh, bưng nước ra mời khách !". Bùi Hàng
ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc
đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả
nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi
đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn
ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên
trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng
lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn
ná ở lại nghỉ ngơi.
Sau khi làm
quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới
khẩn khoản ngỏ ý muốn xin cưới Vân Anh, thì bà lão bảo
rằng :" Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống
nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp
lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên
ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm
ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến
đây giả thuốc cho ta , thì ta sẽ gả nó cho chàng ". Bùi
Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm
chày ngọc cối ngọc.
Chàng lang thang
suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm
chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả.
Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc
cối ngọc mà thôi. Một
hôm đang lang thang để hỏi thăm tin
tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc
cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc,
nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành
phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo
hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều
cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để
giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa.
Khi thuốc đã giã
xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra
đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa
xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây
mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều
nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão
không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão
Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với "
Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng " được thị tì hai bên
đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây
ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp
như ... tiên !
Sau khi cử hành hôn lễ, bà
lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương
chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật
mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình
lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước
mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồì,
mà trước đây mình đâu có biết.
Sau những năm tháng
sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng
đắc đạo thành tiên cả.
Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa
đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà
một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp
vừa có cuộc sồng thoải mái như ... tiên. Không bị ràng
buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ
với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân
trong quan trường đầy hiễm họa.
Đỗ Chiêu Đức
________________________________
Bài thơ Đường có tựa dài nhất
trong đời Đường :
自河南經亂,關內阻飢,兄弟離散,各在一處。因望月有感,聊書所懷,寄上浮樑大兄、於潛七兄、烏江十五兄,兼示符離及下邽弟妹。 TỰ
HÀ NAM KINH LOẠN, QUAN NỘI TRỞ CƠ, HUYNH ĐỆ LY TÁN, CÁC TẠI NHẤT
XỨ. NHÂN VỌNG NGUYỆT HỮU CẢM, LIÊU THƯ SỞ HOÀI, KÝ THƯỢNG
PHÙ LƯƠNG ĐẠI HUYNH, Ư TIỀM THẤT HUYNH, Ô GIANG THẬP NGŨ HUYNH,
KIÊM THỊ PHÙ LY CẬP HẠ QUẾ ĐỆ MUỘI. ( 50 chữ )
時難年荒世業空, Thời
nạn niên hoang thế nghiệp không, 弟兄羈旅各西東。 Đệ
huynh ký lữ các tây đông.
田園寥落干戈後, Điền
viên lieu lạc can qua hậu,
骨肉流離道路中。 Cốt nhục lưu
ly đạo lộ trung.
弔影分爲千里雁, Điếu
ảnh phân vi thiên lý nhạn,
辭根散作九秋蓬。 Tứ căn
tán tác cửu thu bồng.
共看明月應垂淚, Cộng
khan minh nguyệt ưng thùy lệ,
一夜鄉心五處同。 Nhất dạ
hương tâm ngũ xứ đồng !
Từ
Hà Nam sau loạn trong Quan Nội, anh em đói kém ly tán mỗi người
một nơi. Nhân ngắm trăng mà hoài cảm viết nên những dòng
tâm tình nầy gởi lên anh cả ở Phù Lương, anh bảy ở
Ư Tiềm, anh mười lăm ở Ô Giang, cùng gởi đến em trai và
em gái ở Phù Ly và Hạ Quế. (63 chữ)
*CHÚ THÍCH : -
Tựa của bài thơ có thể viết gọn lại thành VỌNG NGUYỆT
HỮU CẢM là : Cảm Xúc Khi Ngắm Trăng.
- Thời Nạn Niên Hoang : Thời buổi hoạn nạn
lại nhằm năm mất mùa.
- Thế Nghiệp : Cơ nghiệp của ông cha để lại. Không:
là Trống lỏng, Tiêu Tan.
- Ký Lữ : là gởi thân ở nơi đất khách xa
nhà.
- Can Qua
: Can là cái Mộc, cái Thuẫn để đở. Qua là Giáo Mác
để đâm để chém. Nên Can Qua là Đánh nhau, là
Chiến tranh. CAN QUA HẬU là Sau Cuộc Chiến, Sau Chiến tranh.
CAN QUA là Biểu tượng của Chiến Tranh
- Lưu Ly : là Lưu lạc phân
ly. - Điếu Ảnh : Tự so sánh hình bóng của mình.
- Từ Căn : Từ biệt căn nguyên,
là Rời xa gốc rễ.
- Hương Tâm : là Tấm lòng thương nhớ quê hương.
*NGHĨA BÀI THƠ :
Thời
buổi hoạn nạn loạn ly lại nhằm năm mất mùa, cơ nghiệp
của cha ông để lại cũng tan hoang. Anh em ly tán kẻ đông người
tây mỗi người một nơi. Ruộng vườn sau chiến tranh thì hoang
sơ tiêu điều, anh em ruột thịt thì lưu lạc trên đường
chạy loạn. Thân nhân như hình với bóng giờ cũng phải phân
ly như chim nhạn bay ngoài ngàn dặm, bay tản mác khắp nơi như
cỏ bồng khô trong ba tháng mùa thu. Cùng ngắm trăng thu trong
sáng mà chắc cũng cùng rơi lệ, cũng trong một đêm nhưng
lòng thương nhớ quê hương ở năm nơi chắc cũng giống
như nhau mà thôi.
Hoàn cảnh
thật giống như sau chiến tranh Việt Nam 1975, gia đình ly tán, anh em cha
mẹ vợ chồng con cái kẻ cải tạo, người vượt biên ...
phân ly thất tán mỗi người một nơi, tha phương cầu thực,
định cư rải rác khắp các nơi trên thế giới. Câu "
Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng " của Bạch Cư Dị
chỉ 5 nơi mà anh em lưu lạc là : Phù Lương, Ư Tiềm, Ô
Giang, Phù ly và Hạ Quế; còn bây giờ " Ngũ Xứ " của
anh em VN trước mắt có thể là : Mỹ, Úc, Pháp, Đức, Canada
hay cùng trên nước Mỹ như : Cali, Texas, Phi la, Newyork, Washington DC ... Từ đó
cho ta thấy rằng, chiến tranh luôn luôn gieo rắc đau thương tang tóc,
chết chóc, ly tan cho dân lành, cho dù " Nó " đã chấm
dứt gần nửa thế kỷ rồi mà những hệ lụy của NÓ mang
đến vẫn còn ray rức mãi trong lòng những người tha hương
dị quốc !
*DIỄN NÔM :
NGẮM
TRĂNG HOÀI CẢM
Thời
loạn mất mùa sản nghiệp không, Anh em tứ tán khắp tây đông.
Ruộng vườn
hoang phế sau chinh chiến,
Cốt nhục chia lìa những ngóng trông.
Bốn hướng bay đi như
cánh nhạn,
Ba thu phơ phất tựa bồng bông.
Ngắm trăng cùng đổ đôi dòng lệ,
Năm xứ
một đêm thổn thức đồng !
Lục
bát :
Loạn ly tổ nghiệp tiêu vong,
Anh em thất tán tây đông khắp
cùng.
Ruộng
vườn hoang phế bỏ không,
Chia lìa cốt nhục hết mong sum vầy.
Bóng hình như nhạn cao bay,
Phất phơ
tựa cỏ thu ngoài đồng không.
Ngắm trăng lệ nhỏ đôi dòng,
Một đêm
năm xứ chung lòng nhớ quê !
Đỗ
Chiêu Đức
diễn Nôm
DU SƠN TÂY THÔN
Sơn
cùng thuỷ tận nghi vô lộ, 山窮水盡疑無路,
Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn ! 柳暗花明又一村!
Có nghĩa :
Núi đã cùng, nước đã tận,
ngỡ là đã cùng đường rồi, không ngờ phía
trước lại có ... Liễu xanh om hoa rực rỡ lại đưa ta đến
một thôn làng khác nữa !
Câu nầy còn dùng để chỉ : Những việc tưởng đâu
đã hết hi vọng rồi, nào ngờ lại mở ra được hướng
giải quyết mới còn tốt hơn là cơ hội cũ nữa ! Ta hay đọc
thấy câu nầy trong các truyện xưa, nhất là trong các truyện
võ hiệp kỳ tình Trung Hoa :
Non cùng nước cạn ngờ vô lối,
Liễu
biếc hoa hương lại một thôn !
Thực ra đó
là 2 câu Thực trong bài Du Sơn Tây Thôn của Lục Du đời
Tống. Hai câu thơ đó nguyên là :
山重水復疑無路, Sơn
trùng thuỷ phục nghi vô lộ,
柳暗花明又一村。 Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn.
Nhưng trong THIÊN GIA THI 千家詩 đã chép sai " Sơn Trùng
Thủy Phục 山重水復 " thành " Sơn Cùng Thủy
Tận 山窮水盡 " là câu nói quen miệng của dân
gian. Hai cách nói nầy khác nhau rất xa, nếu ta phân tích theo văn
chương, còn đối với giới bình dân thì cho là "
Ý nghĩa của NÓ cũng tương đương với nhau " mà thôi
!
* SƠN TRÙNG THUỶ PHỤC 山 重 水 復 : SƠN TRÙNG là Núi
trùng trùng điệp điệp, hết núi nầy đến núi khác,
nên ở xa nhìn thì thấy toàn núi là núi. THỦY PHỤC
là Hết dòng nước nầy đến dòng nước khác, nên
nhìn thấy toàn nước là nước.
Vì NÚI và NƯỚC trùng
phục ở trước mặt, cho nên mới NGHI VÔ LỘ 疑 無 路 :
là " Ngỡ là đã hết đường đi rồi ". Nên mở
ra câu sau rất thú vị không ngờ là :
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
! 柳暗花明又一村!
Còn nếu là ...
* SƠN CÙNG THỦY TẬN 山窮水盡 : là Núi đã
Cùng đường rồi, Nước cũng đã tận cùng rồi,
là ở nơi Cuối Đất Cùng Trời rồi, thì đâu
có NGHI VÔ LỘ nữa, mà là CHUNG VÔ LỘ 終無路 là
Rốt cuộc đã " Hết Đường Đi Thật rồi !"
thì làm sao còn có câu sau là : Liễu ám hoa minh hựu
nhất thôn 柳暗花明又一村 cho được !
Bây giờ thì ta hãy đọc toàn bài thơ của bài Du Sơn
Tây Thôn này nhé :
遊 山 西 村
Du Sơn Tây Thôn
莫 笑 農
家 臘 酒 渾, Mạc tiếu nông gia lạp tửu
hồn,
豐 年 留 客 足 雞 豚。 Phong niên
lưu khách túc kê đồn
山 重 水 復 疑 無 路, Sơn
trùng thuỷ phúc nghi vô lộ
柳 暗 花 明 又 一 村。 Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn
簫 鼓 追 隨 春 社 近, Tiêu
cổ truy tuỳ xuân xã cận
衣 冠 簡 樸 古 風 存。 Y quan giản phác
cổ phong tồn
從 今 若 許 閑 乘 月, Tòng
kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt
拄 杖 無 時 夜 叩 門。 Trụ
trượng vô thì dạ khấu môn.
陸 游
Lục Du
CHÚ THÍCH :
* LẠP TỬU
: Lạp là Tháng Mười Hai Âm Lịch, ta đọc trại thành Thánh
CHẠP, nên Lạp Tửu là rượu của tháng Chạp, rượu được
ủ để uống vào dịp Tết Âm Lịch.
* PHONG NIÊN 豐 年 : là Năm Được
Mùa.
* KÊ ĐỒN : Kê
là Gà, Đồn là Heo.
*
XUÂN XÃ 春 社 : là Ngày Mậu Nhựt thứ 5 sau tiết Lập
Xuân làm ngày XUÂN XÃ để cúng tế Thần Làng, như
ta cúng Đình Làng vậy, để cầu cho sang năm lại được
trúng mùa. Vì thế mà có thổi tiêu đánh trống ...
* 從 今 若 許 閑 乘
月 Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt : là Từ nay về
sau nếu như có rảnh rổi thì hay thừa lúc trăng sáng ...
* 拄 杖 無 時 夜 叩
門 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn : là Hãy chống
gậy mà đến gỏ cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm
( cũng hổng sao !). VÔ THÌ : là Bất cứ lúc nào.
NGHĨA BÀI
THƠ :
Dạo Chơi Thôn Xóm Núi Tây
Xin đừng cười chê thứ rượu tế lễ không được
trong của nhà nông trong tháng Chạp. Năm nay được mùa, nên
giữ khách lại, đủ cả heo gà để đãi khách.
Đừng vì núi liền với núi sông liền với sông mà ngỡ
rằng đã không còn đường để đi tới, vì thấp
thoáng trong bóng râm rặng liễu và khóm hoa tươi đẹp rực
rỡ phía trước sẽ lại mở ra một thôn làng mới.
Trống tiêu như giục giã vì ngày tế lễ đầu xuân đang
gần kề. Áo mũ giản dị nhưng vẫn theo tục lệ cũ còn
giữ lại. Từ nay về sau nếu như có rảnh rổi thì cứ
thừa lúc trăng sáng ... Hãy chống gậy mà đến gỏ cửa
nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao, vì ta luôn
luôn sẵn sàng đón tiếp ! )
Đây là cảnh
nông dân ăn Tết ở Tây Thôn là một làng miền núi
của một năm được mùa, chất phác chân thật mà nhiệt
tình của đời sống thôn dã sau một năm cày sâu cuốc
bẫm.
DIỄN NÔM :
DẠO
NÚI XÓM TÂY
Thôn
dã chớ cười rượu nhạt phèo,
Cuối năm đãi
khách sẵn gà heo.
Núi liền sông nước ngờ vô lối,
Liễu rũ đường
hoa đến xóm nghèo.
Tiêu trống rộn ràng Xuân Xã đến,
Áo
xiêm giản dị cổ phong theo.
Từ nay nếu rảnh đêm trăng sáng,
Gỏ cửa
cùng vui gậy khẳng kheo.
Lục bát
:
Chớ cười rượu lễ nhạt phèo,
Được mùa
đãi khách gà heo sẵn sàng.
Non
liền nước ngỡ hết đàng,
Hoa chào liễu đón thôn làng lại sang.
Trống
tiêu xuân xã rộn ràng,
Tục xưa áo mão nghiêm trang chỉnh tề.
Từ nay trăng
sáng đi về,
Thăm nhau gỏ cửa chẳng nề đêm thâu.
Đỗ Chiêu Đức
Lục Du 陸 游 (1125─1210), tự là Vụ
Quan 務觀, hiệu là Phóng Ông 放翁, là nhà thơ rất
nổi tiếng thời Nam Tống. Hoạn lộ thăng trầm, tình duyên trắc
trở. Ông chủ trương kháng Kim đến cùng, chống đối
lại với phái hòa Kim, vì thế mà bị bãi quan lúc mới
có 42 tuổi, nên có nhiều bài thơ mang tâm trạng ưu thời
mẫn thế như Đỗ Phủ hay tình cảm phóng túng lãng mạn
như Lý Bạch. Ông có bài Từ "Vịnh Mai" rất sâu sắc,
tỏ chí khí quật cường. Du Sơn Tây Thôn là một trong những
bài thơ hay để đời của ông trong số 9300 bài vừa từ
vừa thơ mà ông còn để lại.
Đỗ Chiêu Đức
DU SƠN TÂY THÔN
Sơn
cùng thuỷ tận nghi vô lộ, 山窮水盡疑無路,
Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn ! 柳暗花明又一村!
Có nghĩa :
Núi đã cùng, nước đã tận,
ngỡ là đã cùng đường rồi, không ngờ phía
trước lại có ... Liễu xanh om hoa rực rỡ lại đưa ta đến
một thôn làng khác nữa !
Câu nầy còn dùng để chỉ : Những việc tưởng đâu
đã hết hi vọng rồi, nào ngờ lại mở ra được hướng
giải quyết mới còn tốt hơn là cơ hội cũ nữa ! Ta hay đọc
thấy câu nầy trong các truyện xưa, nhất là trong các truyện
võ hiệp kỳ tình Trung Hoa :
Non cùng nước cạn ngờ vô lối,
Liễu
biếc hoa hương lại một thôn !
Thực ra đó
là 2 câu Thực trong bài Du Sơn Tây Thôn của Lục Du đời
Tống. Hai câu thơ đó nguyên là :
山重水復疑無路, Sơn
trùng thuỷ phục nghi vô lộ,
柳暗花明又一村。 Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn.
Nhưng trong THIÊN GIA THI 千家詩 đã chép sai " Sơn Trùng
Thủy Phục 山重水復 " thành " Sơn Cùng Thủy
Tận 山窮水盡 " là câu nói quen miệng của dân
gian. Hai cách nói nầy khác nhau rất xa, nếu ta phân tích theo văn
chương, còn đối với giới bình dân thì cho là "
Ý nghĩa của NÓ cũng tương đương với nhau " mà thôi
!
* SƠN TRÙNG THUỶ PHỤC 山 重 水 復 : SƠN TRÙNG là Núi
trùng trùng điệp điệp, hết núi nầy đến núi khác,
nên ở xa nhìn thì thấy toàn núi là núi. THỦY PHỤC
là Hết dòng nước nầy đến dòng nước khác, nên
nhìn thấy toàn nước là nước.
Vì NÚI và NƯỚC trùng
phục ở trước mặt, cho nên mới NGHI VÔ LỘ 疑 無 路 :
là " Ngỡ là đã hết đường đi rồi ". Nên mở
ra câu sau rất thú vị không ngờ là :
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
! 柳暗花明又一村!
Còn nếu là ...
* SƠN CÙNG THỦY TẬN 山窮水盡 : là Núi đã
Cùng đường rồi, Nước cũng đã tận cùng rồi,
là ở nơi Cuối Đất Cùng Trời rồi, thì đâu
có NGHI VÔ LỘ nữa, mà là CHUNG VÔ LỘ 終無路 là
Rốt cuộc đã " Hết Đường Đi Thật rồi !"
thì làm sao còn có câu sau là : Liễu ám hoa minh hựu
nhất thôn 柳暗花明又一村 cho được !
Bây giờ thì ta hãy đọc toàn bài thơ của bài Du Sơn
Tây Thôn này nhé :
遊 山 西 村
Du Sơn Tây Thôn
莫 笑 農
家 臘 酒 渾, Mạc tiếu nông gia lạp tửu
hồn,
豐 年 留 客 足 雞 豚。 Phong niên
lưu khách túc kê đồn
山 重 水 復 疑 無 路, Sơn
trùng thuỷ phúc nghi vô lộ
柳 暗 花 明 又 一 村。 Liễu
ám hoa minh hựu nhất thôn
簫 鼓 追 隨 春 社 近, Tiêu
cổ truy tuỳ xuân xã cận
衣 冠 簡 樸 古 風 存。 Y quan giản phác
cổ phong tồn
從 今 若 許 閑 乘 月, Tòng
kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt
拄 杖 無 時 夜 叩 門。 Trụ
trượng vô thì dạ khấu môn.
陸 游
Lục Du
CHÚ THÍCH :
* LẠP TỬU : Lạp là Tháng Mười Hai
Âm Lịch, ta đọc trại thành Thánh CHẠP, nên Lạp Tửu là
rượu của tháng Chạp, rượu được ủ để uống vào
dịp Tết Âm Lịch.
*
PHONG NIÊN 豐 年 : là Năm Được Mùa.
* KÊ ĐỒN : Kê là Gà, Đồn là
Heo.
* XUÂN XÃ 春
社 : là Ngày Mậu Nhựt thứ 5 sau tiết Lập Xuân làm ngày
XUÂN XÃ để cúng tế Thần Làng, như ta cúng Đình Làng
vậy, để cầu cho sang năm lại được trúng mùa. Vì thế
mà có thổi tiêu đánh trống ...
* 從 今 若 許 閑 乘 月 Tòng kim nhược
hứa nhàn thừa nguyệt : là Từ nay về sau nếu như có rảnh
rổi thì hay thừa lúc trăng sáng ...
* 拄 杖 無 時 夜 叩 門 Trụ trượng
vô thì dạ khấu môn : là Hãy chống gậy mà đến gỏ
cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao !). VÔ
THÌ : là Bất cứ lúc nào.
NGHĨA BÀI THƠ :
Dạo Chơi Thôn Xóm Núi Tây
Xin đừng cười chê thứ rượu tế lễ không được
trong của nhà nông trong tháng Chạp. Năm nay được mùa, nên
giữ khách lại, đủ cả heo gà để đãi khách.
Đừng vì núi liền với núi sông liền với sông mà ngỡ
rằng đã không còn đường để đi tới, vì thấp
thoáng trong bóng râm rặng liễu và khóm hoa tươi đẹp rực
rỡ phía trước sẽ lại mở ra một thôn làng mới.
Trống tiêu như giục giã vì ngày tế lễ đầu xuân đang
gần kề. Áo mũ giản dị nhưng vẫn theo tục lệ cũ còn
giữ lại. Từ nay về sau nếu như có rảnh rổi thì cứ
thừa lúc trăng sáng ... Hãy chống gậy mà đến gỏ cửa
nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao, vì ta luôn
luôn sẵn sàng đón tiếp ! )
Đây là cảnh
nông dân ăn Tết ở Tây Thôn là một làng miền núi
của một năm được mùa, chất phác chân thật mà nhiệt
tình của đời sống thôn dã sau một năm cày sâu cuốc
bẫm.
DIỄN NÔM :
DẠO
NÚI XÓM TÂY
Thôn
dã chớ cười rượu nhạt phèo,
Cuối năm đãi
khách sẵn gà heo.
Núi liền sông nước ngờ vô lối,
Liễu rũ đường
hoa đến xóm nghèo.
Tiêu trống rộn ràng Xuân Xã đến,
Áo
xiêm giản dị cổ phong theo.
Từ nay nếu rảnh đêm trăng sáng,
Gỏ cửa
cùng vui gậy khẳng kheo.
Lục bát
:
Chớ cười rượu lễ nhạt phèo,
Được mùa
đãi khách gà heo sẵn sàng.
Non
liền nước ngỡ hết đàng,
Hoa chào liễu đón thôn làng lại sang.
Trống
tiêu xuân xã rộn ràng,
Tục xưa áo mão nghiêm trang chỉnh tề.
Từ nay trăng
sáng đi về,
Thăm nhau gỏ cửa chẳng nề đêm thâu.
Đỗ Chiêu Đức
Lục
Du 陸 游 (1125─1210), tự là Vụ Quan 務觀, hiệu là Phóng
Ông 放翁, là nhà thơ rất nổi tiếng thời Nam Tống. Hoạn
lộ thăng trầm, tình duyên trắc trở. Ông chủ trương kháng
Kim đến cùng, chống đối lại với phái hòa Kim,
vì thế mà bị bãi quan lúc mới có 42 tuổi, nên có nhiều
bài thơ mang tâm trạng ưu thời mẫn thế như Đỗ Phủ hay
tình cảm phóng túng lãng mạn như Lý Bạch. Ông có bài
Từ "Vịnh Mai" rất sâu sắc, tỏ chí khí quật cường.
Du Sơn Tây Thôn là một trong những bài thơ hay để đời
của ông trong số 9300 bài vừa từ vừa thơ mà ông còn để
lại.
Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________________________________________________
Mấy
Vần Thơ Thẩn Đầu Thu
Cảm Thu
Trời trong gió
nhẹ sớm mai,
Một mình thức giấc
rèm ngoài nhìn ra.
Ô , nàng
thu đã thướt tha,
Một trời
thu đẹp la đà quanh đây !
Vì Đâu ?
Ri rỉ vì ai dế rỉ sầu ?
Vì ai én liệng bởi vì đâu ?
Vì đâu bướm mãi vờn hoa rụng
?
Hoa rụng vì ai vẫn mãi sầu !!
Nắng Chiều
Hoa lá buồn thiu dưới nắng chiều,
Lạnh lùng giọt nắng ngã xiêu xiêu.
Không hồn chân bước nghe xa vắng,
Mây trắng ngừng trôi giữa nắng chiều
!
Chiều Lên Đồi
Bóng chiều bảng lảng sầu dâng,
Lên cao lặng ngắm mênh mông núi đồi.
Chiều thu đẹp muốn chết người,
Hoàng hôn quê cũ ngậm ngùi hoàng
hôn !
Vườn Thu
Vườn thu hoa lá trăng soi,
Im lìm ghế đá hiên ngoài nằm trơ.
Tóc xanh giờ đã bạc phơ,
Nghẹn ngào xao xuyến hồn thơ lạnh lùng
!
Một Tuần
Lịch bay như lá vàng bay,
Một tuần theo lá lịch dày mỏng đi.
Lịch bay mấy vạn qua thì,
Qua thì thì qúa qúa thì vẫn yêu !
Bóng Thời Gian
Nắng sáng lóe lên chiều lại tắt,
Thứ Hai qua lật đật cuối tuần.
Thu tàn đông hết lại xuân,
Hè qua thu đến bâng khuâng mắt già
!
Gặp Người
Người xưa giờ đã da mồi,
Đâu rồi ánh mắt bồi hồi nhìn
nhau.
Má hồng xưa thẹn đỏ au,
Giờ đà nhăn nhíu theo màu thời
gian !
Nhật Tụng
Ngồi nhàn ôn lại chuyện xưa,
Thị phi thành bại như vừa xảy ra.
Khoan dung từ ái vị tha,
Thứ người mà cũng thứ ta khác gì !
Tuổi Thu
Đường đời sau bảy mươi thu,
Tòng tâm sở dục ôn nhu thuận hòa.
Giờ thì đã hết bôn ba,
An nhàn tùy cảnh ấy là thần tiên !
Đỗ
Chiêu Đức
( Houston thu 2018)
VÔ
NGÔN THÔNG ( 無言通 ), 759?-826, là một vị Thiền sư Trung
Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài
Hải.
Sư
họ Trịnh 鄭, quê ở Quảng Châu 廣州, xuất gia tại chùa
Song Lâm 雙林寺, Vụ Châu 務州. Tính tình sư điềm
đạm ít nói, nhưng thông minh nên người đời gọi là
Vô Ngôn Thông 無言通 (Cảnh Đức Truyền đăng lục
ghi là Bất Ngôn Thông 不言通).
Một hôm, sư lễ Phật, có
một thiền khách hỏi: "Toạ chủ lễ đó là ai?", sư
thưa: "Là Phật." Khách liền chỉ tượng Phật hỏi: "Đây
là Phật gì?", sư không trả lời được. Đến tối,
sư y phục chỉnh tề đến lễ vị khách, vị này chỉ đến
Mã Tổ. Sư lên đường đến Mã Đại sư nhưng nghe
tin Tổ đã viên tịch bèn đến Bách Trượng. Nhân nghe
Bách Trượng trả lời một vị tăng khác là " Nếu giữ
bản tâm ta được tịnh không, thì mặt trời trí huệ tự
nhiên sẽ chiếu đến " (tâm địa nhược không, huệ nhật
tự chiếu 心地若空惠日自照) sư bỗng triệt ngộ
( giác ngộ một cách triệt đễ ).
Năm 820 ( Canh Tí ), niên
hiệu Nguyên Hoà đời nhà Đường, Sư sang An Nam ở chùa
Kiến Sơ làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ở đây
mấy năm liền Sư chỉ quay mặt vào vách toạ thiền và không
ai biết tông tích của Sư. Vị trụ trì nơi đây là Cảm
Thành thầm biết Sư là Cao tăng đắc đạo nên hết sức
kính trọng. Sắp sửa tịch, Sư gọi Cảm Thành đến đọc
bài kệ này. Đọc xong Sư chắp tay viên tịch. Cảm Thành
thiêu lấy hài cốt và xây tháp thờ trên núi Tiên Du.
Sư thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông, mất năm 826, và
phái thiền của sư kéo dài được 17 thế hệ.
Bài kệ có tên
là THỊ TỊCH 示寂 là " Lời bày tỏ trước
khi Viên tịch " thuộc Thiền phái VÔ NGÔN THÔNG ( không cần
phải dùng lời mà thông suốt tất cả ). Nguyên văn như sau
:
示寂
THỊ TỊCH
一切諸法皆從心生
Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh,
心無所生法無所住 Tâm
vô sở sinh pháp vô sở trụ.
若達心地所住無礙
Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại,
非遇上根慎勿輕許
Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.
Nghĩa của bài
kệ :
Câu 1. NHẤT
THIẾT là Tất cả; CHƯ PHÁP là Mọi ý niệm kể
cả thiện ác; GIAI là Đều. TÒNG là từ ... Nên Câu 1 có
nghĩa :
" Tất
cả mọi PHÁP đều từ lòng ta sinh ra "
Câu 2. VÔ SỞ SINH là Không có cái
được sinh ra; VÔ SỞ TRỤ là Không có cái được
giữ lại. nên Câu 2 có nghĩa :
" Nếu
lòng không có cái gì được sinh ra, thì Pháp cũng không
có cái gì để giữ lại " Câu nầy nghe có
vẻ " huề vốn ", nhưng chính những cái nghe như đơn giản
nhất là những cái mà người ta sơ hốt lơ là nhất mà
không buồn nghĩ đến cái huyền vi của nó : Ta có luôn
luôn giữ được cho lòng mình " không có cái gì
được sinh ra không ?". Rất khó ! Vì lòng người
luôn luôn chuyển động !.
Câu 3. NHƯỢC là Nếu như; TÂM ĐỊA là Lòng dạ ( chớ
không phải " lòng đạt đất " gì gì cả !); SỞ TRỤ
là Cái mà được giữ lại; VÔ NGẠI là Không
có trở ngại, không có vấn đề rắc rối nào cả. Nên
Câu 3 có nghĩa :
" Nhược
bằng lòng dạ đạt đến mức có thể giữ lại được
tất cả những cái phát sinh mà không có trở ngại gì
cả ".
Câu
4. PHI là Trừ phi; NGỘ là gặp được; THƯỢNG CĂN là người
có căn cơ thượng thừa, ta nói là " Người có căn
cơ tốt ". THẬN là Thận trọng, cẩn thận; VẬT là Đừng
, là Không nên; KHINH là nhẹ, là khinh suất, là tùy tiện;
HỨA là Hứa hẹn, là Đồng ý, là Chấp nhận. Nên Câu
4 có nghĩa :
" Trừ
phi đó là người có căn cơ tốt và phải rất
thận trọng không dễ dàng mà chấp nhận cái gì đó
hoặc ai đó cả !".
Có nghĩa :
Vạn pháp đều do lòng sinh ra,
Lòng không sinh pháp giữ chi mà ?
Nếu lòng chứa được muôn điều phát,
Là đấng thượng căn chớ lở qua !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Thiền
phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh thuyết Đốn Ngộ 頓悟,
chủ trương con người ai cũng có sẵn Phật tánh, nên đều
có thể trong một phút giây nào đó bỗng nhiên giác ngộ,
mà khỏi cần đi qua nhiều giai đoạn tiệm tiến tu tập lâu dài.
Vô Ngôn Thông, ngay từ buổi đầu tại pháp hội của Bách
Trượng, đã nghe một câu hỏi về vấn đề đốn ngộ
do một vị thiền giả hỏi Bách Trượng rằng : "Pháp môn
đại thừa nào có thể giúp ta đạt được giác ngộ
tức khắc" ( 如何是大承頓悟法門?Như hà
thị đại thừa đốn ngộ pháp môn?). Chính câu trả lời
của Bách Trượng đã làm cho Vô Ngôn Thông bừng tỉnh:"
Nếu giữ bản tâm ta được tịnh không, thì mặt trời trí
huệ tự nhiên sẽ chiếu đến " (tâm địa nhược không,
huệ nhật tự chiếu 心地若空惠日自照).
Đốn Ngộ 頓悟
cũng có nghĩa như câu :" Phóng hạ đồ đao lập địa
thành Phật 放下屠刀立地成佛, có nghĩa : Buông
con dao đồ tể (vừa sát hại sinh linh) xuống, (rồi do một cơ duyên
nào đó đưa đến) là có thể thành Phật ngay tức
khắc.
Ở
Việt Nam ta, những Thiền sư quan trọng của dòng thiền Vô Ngôn
Thông này là Khuông Việt (?-1011), Thông Biện (?-1134), Mãn Giác
(?-1096), Minh Không (mất 1141) và Giác Hải. Thế hệ cuối cùng là
khoảng cuối thế kỷ 13. Phái Vô Ngôn Thông theo đúng dòng
Thiền của Huệ Năng, chủ trương đốn ngộ (giác ngộ nhanh
chóng). Các vị thiền sư dòng Vô Ngôn Thông đều có
tâm hồn thi sĩ. Riêng thiền sư Không Lộ vừa được cho là
thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, nhưng cũng thuộc thiền phái
Thảo Đường.
Đáp lời
thầy Nguyễn Văn Trường hỏi về Đốn Ngộ ...
Thưa Thầy,
Câu
hỏi của Thầy nằm trong Phật Môn Đại Thừa Thiền Tông
ĐỐN NGỘ MÔN của Đại Châu Tuệ Hải Thiền Sư lấy
TÔNG, CHỈ, THỂ, DỤNG làm lý luận nhập môn. Theo Vấn Đáp
sau đây :
问:此顿悟门以何为宗。以何为旨。以何为体。以何为用?
Vấn : Thử Đốn Ngộ Môn dĩ hà
vi TÔNG, dĩ hà vi CHỈ, dĩ hà vi THỂ,
dĩ hà vi DỤNG ?
Hỏi : ĐỐN NGỘ MÔN nầy lấy gì làm
TÔNG, lấy gì làm CHỈ, lấy gì
làm THỂ, lấy gì làm DỤNG
?
答:以無念为宗。妄心不起为旨。以清净为体。以智为用。
Đáp
: Dĩ VÔ NIỆM vi TÔNG, VỌNG TÂM BẤT KHỞI vi CHỈ, dĩ
THANH TỊNH vi THỂ,
dĩ TRÍ vi DỤNG.
Đáp : Lấy VÔ
NIỆM làm TÔNG, VỌNG TÂM BẤT KHỞI làm CHỈ, lấy THANH
TỊNH làm THỂ, lấy TRÍ làm DỤNG.
Bây
giờ thì ta tìm hiểu từng Từ, từng Vế một :
1. Lấy
VÔ NIỆM làm TÔNG :
TÔNG 宗 còn được đọc là TÔN, là cái Ý Đồ,
cái Mục Đích mà ta nhắm tới, là cái Tôn Chỉ.
VÔ NIỆM 無念
là không còn ý niệm, tạp niệm,không còn những suy nghĩ
vẩn vơ. Nên ...
"
Lấy VÔ NIỆM làm TÔNG " là " Giữ lòng cho không còn
những tạp niệm vẩn vơ khác mà chỉ hướng tới mục tiêu
chính ( TÔNG ) mà thôi.
2. VỌNG TÂM BẤT KHỞI làm
CHỈ :
CHỈ 旨
là Chiếu Chỉ, là Chỉ Thị, ở đây có nghĩa là Cách
Thực Hiện, Cách Làm.
VỌNG
TÂM 妄心 là cái Lòng suy nghĩ vượt qúa lẽ thường,
đòi hỏi, yêu cầu qúa đáng. BẤT KHỞI là Không trổi
dậy. Nên ...
"VỌNG
TÂM BẤT KHỞI làm CHỈ " là Khi Thực Hiện tu tập phải giữ
sao cho cái Vọng Tâm đừng có trổi dậy.
3. Lấy THANH
TỊNH làm THỂ :
THỂ là cái Bản Thể, là cái Thực Thể Vốn Có của
con người, đó chính là Phật Tánh của mỗi người.
THANH TỊNH 清净 THANH
là Trong, TỊNH là Sạch, là Yên Lành. THANH TỊNH là Rất Trong
Sạch An Lành, không chút vẩn đục nào cả ! Nên ...
" Lấy THANH TỊNH làn
THỂ " là giữ cho cái Bản Thể, Cái Phật Tánh vốn
có luôn luôn trong sạch không chút vẩn đục nào cả !.
4.
Lấy TRÍ làm DỤNG :
DỤNG 用 là Dùng, ở đây là Cái Trí Tuệ, cái
Bát Nhã mà ta có được.
TRÍ 智 là Trí Tuệ, là Trí lực. Nên ...
" Lấy TRÍ làm DỤNG
" là Những cái Trí Tuệ có được do cái Tâm Thanh
Tịnh tác dụng sinh ra chớ không phải do Vọng Tưởng sinh ra.
Nói tóm lại :
ĐỐN NGỘ lấy TÔNG,
CHỈ, THỂ, DỤNG làm lý luận nhập môn cũng giống như là
ta muốn xây một Căn Nhà vậy :
1. TÔNG là Cái Ý
Định, Cái Mục Tiêu là XÂY 1 CĂN NHÀ. ( Lấy
Vô Niệm làm TÔNG
là Xây nhà thì chỉ lo xây nhà thôi đừng
nghĩ đến xây
... cái khác nữa ! ).
2.
CHỈ là Cái Bản Vẽ chỉ CÁCH XÂY CĂN NHÀ. ( lấy Vọng
Tâm
Vô
Khởi làm CHỈ là đừng nổi hứng sảng đổi cách xây
nhà
cho khác
thường thì coi chừng nhà sẽ bị ...xập!).
3. THỂ là Gạch Ngói Vật liệu vốn
có để XÂY NHÀ. ( Lấy Thanh
Tịnh
làm THỂ là dùng vật liệu vốn có để xây nhà chớ
khỏi
phải
tìm đâu xa nữa !).
4. DỤNG là Công dụng của CĂN NHÀ khi đã xây xong. ( lấy
TRÍ
làm
DỤNG là Tiện nghi của căn nhà như cái Trí tuệ được
sinh ra từ tác
dụng của sự tu tập vậy !).
Thưa Thầy,
Trên
đây chỉ là Ví dụ ngô nghê của em, so sánh tạm cho dễ
hiểu, chớ lý luận Phật Môn về Đốn Ngộ rất cao siêu,
càng dùng từ cầu kỳ thì lại càng dễ làm " rối
loạn " tư duy và càng dễ " Tẩu hỏa nhập ma " hơn.
Mong
Thầy châm chước mà hiểu cho !
Nay
kính,
Đỗ
Chiêu Đức
_________________________________________________________________________________________________________
Bài
thơ
CẨM SẮT
của
Lý Thương Ẩn
Bài thơ CẨM SẮT nổi tiếng của Lý Thương
Ẩn đời Đường như sau :
錦瑟
CẨM SẮT
錦瑟無端五十弦,
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
一弦一柱思華年.
Nhất huyền nhất trụ tư hoa niên.
莊生曉夢迷蝴蝶,
Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp
蜀帝春心托杜鵑.
Thục Đế xuân tâm thác đổ quyên.
滄海月明珠有淚,
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
藍田日暖玉生煙.
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
此情可待成追憶,
Thử tình khả đãi thành truy ức,
只是當時已惘然.
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.
李商隐
Lý Thương Ẩn
CHÚ THÍCH :
* Cẩm Sắt : Cẩm là
Gấm, Sắt là Đàn, nên Cẩm Sắt là Cây Đàn Gấm.
Ý chỉ Cây Đàn có hoa văn đẹp như gấm. Nói thêm
về chữ SẮT 瑟: là cây đờn có 36 hoặc 50 dây được
gỏ bằng 2 cây phím mà ta thường thấy trong các gánh hát
Tiều hoắc hát Dù-Kê của Miên còn có tên là Tam thập
Lục huyền cầm hay Ngũ thập huyền cầm. Trong bài thơ nầy là
Ngũ Thập Huyền Cầm.
* Vô Đoan : là Khi khổng khi không, là
Bỗng dưng... chỉ những điều không ngờ được, không tính
trước được. Trong bài thơ có nghĩa Sao mà lại...
*
Huyền là Dây đàn; Trụ là Trục đàn.
* Hoa Niên
華年 : Hoa là Tươi đẹp rực rỡ, nên Hoa Niên là Những
năm tháng tươi đẹp rực rỡ, tức là chỉ Khoảng thời
gian còn trẻ. Tuổi Hoa Niên là Tuổi lúc còn trẻ. (chớ không
phải chữ Hoa 花 là Bông).
* Trang Sinh là Trang Chu tức là Trang
Tử trong Đạo giáo, đạo tu để thành Tiên đó.
*
Hiểu Mộng là Tỉnh Mộng, thức dậy sau một cơn mơ. Mê Hồ Điệp
: là còn mơ màng tưởng mình là bướm.
* Thục
Đế là ông Vua nước Thục, còn được gọi là Vọng
Đế. Người bị mất nước rồi hoá thành chim Đỗ Quyên
là con chim Quốc ( con Cuốc ) của ta thường rống cổ kêu mãi suốt
mùa hè rồi mửa máu mà chết.. Như bà huyện Thanh Quan đã
tả : Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc
... hay cụ thể hơn như trong thơ của Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn
Khuyến :
Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ,
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng ngụyêt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ ?
Ban đêm róng rả kêu ai đó ?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ !
* Châu Hữu Lệ : là những hạt châu có những
giọt lệ trong đó. Theo Thần Tiên Truyện, giao nhân( người cá
) trong đêm trăng sáng ngước nhìn vào bờ mà rơi hai hàng
lệ, và mỗi giọt nước mắt đều là những hạt châu
rơi xuống biển xanh.
* Ngọc Sanh Yên : Theo tích xưa ở hụyên
Lam Điền chuyên nuôi trồng và sản xuất ngọc. Vì tránh
sự tranh giành của sai nha và quan lại địa phương, thần tiên
đã mách bảo cho dân nghèo là nơi nào có khói bốc
hơi nhè nhẹ trong núi là nơi đó có thể trồng ngọc
được.
* Võng Nhiên : Không có để tâm đến,
phớt lờ cho qua.
NGHĨA BÀI THƠ :
Đàn Gấm
Cây đàn gấm sao khi không
lại có tới năm mươi dây. Mỗi một dây mỗi một trục
đều làm cho người ta nhớ lại tuổi hoa niên. Như Trang Tử sau
khi thức giấc cứ mơ màng hoài không biết là mình mơ được
hóa bướm hay là bướm đã hóa ra mình. Cũng như Thục
Đế lòng xuân chưa dứt nên hóa thành chim Đỗ Quyên
kêu khóc suốt đêm thâu. Hay như Giao nhân ngắm trăng sáng
mà rơi thành châu lệ, hay như Lam Điền nắng ấm nên ngọc
mới bốc khói mờ. Trong tình huống, tình cảnh nầy đáng
lẽ phải được người ta nhớ đến, tiếc thương đến,
nhưng không biết vì sao trong lúc đó người ta lại phớt lờ
và quên khuấy nó đi !
Bài thơ nầy đã đươc Nguyễn Du mượn ý để tả
lại tiếng đờn của cô Kiều đờn khi Kim Kiều tái hợp
:
... Khúc đâu
đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đổ Quyên ?
Trong
sao châu rỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đong !
DIỄN NÔM :
CẨM SẮT
Năm chục dây
đàn gấm tuyệt vời,
Mỗi dây mỗi trục nhớ xuân thời.
Trang Chu tỉnh mộng còn ngờ bướm,
Thục Đế lòng xuân cuốc gọi trời.
Trăng sáng biển xanh châu rướm lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc thành hơi.
Tình nầy ý ấy hoài ghi nhớ,
Sao lúc bấy giờ lại để lơi ?!
Lục bát :
Đàn gấm có năm mươi dây,
Mỗi dây mỗi trục chứa đầy tuổi xuân,
Trang Sinh ngỡ bướm hóa thân,
Cuốc kêu Thục Đế âm thầm xót xa.
Lệ rơi thương hải châu sa,
Lam Điền nắng ấm ngọc đà bay hơi.
Tình nầy dằng dặc khôn nguôi,
Chỉ vì lúc ấy không người cảm thông !
Đỗ Chiêu Đức
________________________________________________
Nhân đọc bài thơ "Giáo Già Tự Tình" của thầy
Phạm Khắc Trí, ĐCĐ tôi cũng muốn nói lên Đôi Điều
Tâm Sự sau đây...
Giáo Già Tự Tình
PKT
09/12/2014
Cõi đời gió
bụi bao gian khổ,
Suốt kiếp phong sương lắm đoạn trường.
Lòng đỏ khôn nguôi niềm biệt xứ,
Trời xanh khéo bỡn
khách tha phương.
Ba chìm bảy nổi còn ngơ ngác ,
Chín
ghét mười thương những vấn vương.
Năm tháng tuổI
già quay ngó lại ,
Tội
nhau khôn dại chốn vô thường.
PKT
09/12/2014
Kính Thưa Thầy,
Bạn,
Hổm
rày đọc hết Giáo Già tự trào, tự bạch, tự trách
, tự thán , tự vịnh , nay lại tự tình. Làm Đỗ Chiêu Đức
tôi cũng xúc động với nghề Thầy Giáo nầy. Theo tôi biết
thì ngoài Thầy Lộc, Thầy Trí, Thầy Vạn ( Trầm Vân ), Thầy
Trường, Thầy Chân Diện Mục ... thì anh HUỲNH HỮU ĐỨC, anh
CAO LINH TỬ, Niên Trưởng SONG QUANG, niên Trưởng mà cũng là người
giữ vườn của trang mạng PTG&ĐTĐ USA là Nhà Văn Trần Bang
Thạch cũng là Nhà Giáo, và cuối cùng là người mang tiếng
là Thầy Đồ là tôi đây cũng là... một Thầy Giáo
Già, vì ai trẻ nhất cũng trên 60 và gần 70 tuổi cả rồi
!!!
Không biết chị PHƯƠNG HÀ ( LỘC
MAI ), Cô KIM OANH, KIM PHƯỢNG... có phải là Cô Giáo hay không ?
chớ Cô KIM QUANG thì là Hiệu Trưởng TTH TÂN HƯNG Cái Răng
ngày xưa của tôi đó !
Riêng tôi, xuất thân con nhà nghèo,
thất học sớm, mà lại mơ ước làm Thầy giáo ( nghèo
mà ham ! ) , trong khi chữ Hoa chỉ học có Tiểu Học, chữ Việt thì
mới học hết lớp Đệ Lục là... tốt nghiệp rồi. May nhờ
có quới nhân phù trợ giới thiệu cho vào một trường dạy
tiếng Hoa ở tuốt tận Ban Mê Thuộc cho vừa học vừa dạy vừa...
run, nên chỉ có 18 tuổi đã trở thành Thầy Giáo dạy lớp
Hai Tiểu Học rồi, rồi cứ cái đà vừa học vừa dạy vừa...
đi lính, lại được lên dạy Trung học ở các lớp đêm
Chợ Lớn của các trường Quảng Nhã, Phước Đức.... Sau
1975, cũng vừa học vừa dạy ở các Trung Tâm Ngoại Ngữ của
các Đại Học ở Sài Gòn và Trời xui Đất khiến lại
được Thỉnh giảng vào Khoa Trung của Đại Học Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn ( Đại Học Văn Khoa ngày trước ở
12 Đinh Tiên Hoàng Quận I ) đến năm 1998 thì định cư ở
HOA KỲ !
Dạy
học và Tự Học mấy chục năm, học trò cũng nhiều mà
Thầy học thì cũng lắm, chẳng những học ở Thầy , ở bạn,
mà gần đây còn phải Học Ở Các Học Trò Cũ của
mình nữa, về Máy Tính, về Computer..... Cho nên lại càng thắm
thía hơn với lời dạy của Đức Khổng Phu Tử là " Tam
nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên 三人同行必有我師焉
"( Trong 3 người cùng đi, thế nào cũng có một người
là Thầy của ta đó ! ). Trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, kỳ
bất thiện giả nhi cải chi 擇其善者而從之,其不善者而改之
( chọn người giỏi mà học theo cái giỏi của họ và người
dở thì biết cái dở đó mà tránh ).
Bây giờ ngồi đây nghĩ
lại, ai đó than van oán trách cho nghề giáo là nghề nghèo
nàn bạc bẽo, riêng tôi, thì tôi rất thỏa mãn với cái
nghề giáo của mình : Thứ nhất, là thỏa mãn được
ước mơ làm Thầy Giáo của mình từ nhỏ. Thứ hai, là
nhờ dạy học mà bắt buộc phải tự học, nên kiến thức
ngày càng phong phú hơn. Thứ ba, là trước mắt, Thầy học,bạn
học, học trò ở khắp Năm Châu Bốn Bể. Đi đâu cũng
có người quen hết. Thứ tư, là được dạy cả 3 bậc
học, từ Tiểu Học, Trung Hoc, cho đến Đại Học.( Đụng "
La Phong " rồi còn gì ! ). Chẳng những thỏa mãn ước mơ được
làm thầy giáo của mình, mà tôi còn vươn đến đỉnh
cao nhất của nghề Thầy Giáo, nhất là được đứng trên
bục giảng của trường Đại Học Văn Khoa ngày xưa để
giảng cho sinh viên. Thú thật, trước đây dù có nằm mơ
tôi cũng không dám mơ được như thế ! Và ......
Niềm VUI lớn
nhất là cho đến trước mắt thì Thầy cũng như là bạn,
bạn cũng như là Thầy, học trò mà cũng là bạn, và
cũng là THẦY nữa ! Đâu có nghề nào được như nghề
nầy, đâu có nghề nào Vui hơn nghề nầy nữa đâu ?!
Trong niềm VUI đó,
xin được HỌA VẬN bài GIÁO GIÀ TỰ TÌNH của Thầy PHẠM
KHẮC TRÍ kính mến sau đây :
GIÁO GIÀ TỰ TÌNH
Bụi
phấn suốt đời dù có khổ,
Niềm vui chan chứa khắp bao trường.
Tiểu Trung Đại học luôn ba cấp,
Âu Á Mỹ Châu khắp bốn phương.
Đồng học bạn bè tình mãi thắm,
Thầy Cô anh chị nghĩa còn vương.
Học Thầy, học Bạn, học...Trò nữa !
Cầu học " Tam Nhân " ấy lẽ thường !!!
Đỗ Chiêu Đức.
2014
Phiếm
về
KIM
là VÀNG
Kim 金 là Vàng,
là kim loại qúy có ký hiệu hóa học là Au (L. aurum) và
số nguyên tử là 79. Nhưng người đời chỉ biết đến
vàng 24K hoặc vàng 4 số 9 mà thôi. Vàng 24K, giới bình dân
quen gọi là Vàng ròng, nghĩa là vàng không có pha thêm tạp
chất nào cả, là Vàng thứ thiệt !
Kim 金 cũng là một trong 214 bộ của CHỮ NHO
... DỄ HỌC, thuộc dạng chữ Hội Ý theo diễn tiến của chữ
viết như sau :
Chung Đỉnh Văn Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Chung Đỉnh Văn và Đại Triện đều
được ghép bởi chữ Nhân 人 ở trên, tượng trưng cho
sự che đậy như hình ngọn núi; chữ Thổ 土 là đất
và chữ Nhị 二 là số 2 ở phía dưới; hàm ý là
thứ vật thể được vùi chôn dưới 2 lớp đất của
một ngọn núi, đó chính là Khoáng vật kim loại nói chung,
mà Vàng là tiêu biểu nhất cho các kim loại đó. Đến
Tiểu Triện và chữ Lệ thì đã thành hình chữ viết
như ngày hôm nay KIM 金 là Vàng. Nên ta có từ...
Ngũ Kim 五金 để chỉ chung cho tất cả kim loại mà vàng
được xếp đầu tiên là : Kim, Ngân, Đồng, Thiết, Tích
金、銀、銅、鐵、錫 là Vàng, Bạc, Đồng,
Sắt, Nhôm. Ta thấy các chữ Ngân, Đồng, Thiết, Tích 銀、銅、鐵、錫
đều có Bộ KIM 金 đi bên trái và có tất cả 694 chữ
có bộ Kim để chỉ tất cả những gì có liên quan đến
Kim Loại .
Kim 金 là Vàng, là kim loại
qúy nhất trong các kim loại, có màu vàng óng ánh và không
sợ lửa, lửa có đốt như thế nào cũng không sao làm
phai đi màu vàng của ...kim được . Nên ông bà ta thường
nói " Vàng thật không sợ lửa " là thế ! Từ ngàn
xưa vàng đã được tôn vinh cho sự cao sang quyền qúy, nhà
của người giàu luôn được sơn son thếp vàng, nhà để
cho người đẹp ở thì phải là nhà vàng, nhất là những
người đẹp lại tài hoa như Thúy Kiều, khiến cho Hoạn Thư
cũng phải buộc miệng :
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc Nhà Vàng cũng nên!
Vàng chẳng những Phú mà còn Qúy nữa, cái bảng đề
tên các sĩ tử thi đậu ngày xưa được gọi là Bảng
Vàng, như các cụ đồ Nho thường kháo nhau về Tứ Khoái
của người đời là :
Cữu hạn phùng cam võ, 久旱逢甘雨,
Tha hương ngộ
cố tri . 他鄉遇故知.
Động phòng hoa chúc dạ, 洞房花燭夜,
Kim Bảng quải danh thì ! 金榜掛名時
!
Có nghĩa :
Hạn lâu mưa
như trút,
Xứ lạ gặp người
quen,
Đêm động phòng hoa chúc,
Bảng Vàng thấy đề tên !
Ngày xưa đâu
còn có gì hơn là thi đậu sau những tháng năm đèn
sách dùi mài kinh sử : " Thập niên song hạ vô nhân thức,
nhất cử thành danh thiên hạ tri ! 十年窗下無人識,一舉成名天下知!"
là : Mười năm dùi mài dưới song cửa không người biết
đến, nhưng hễ thi đậu một cái là cả thiên hạ đều
biết tên. Cho nên Trần Tế Xương mới ngông nghênh khi thấy
tên mình trên bảng vàng :
Ông
trông lên bảng thấy tên ông,
Ông tợp rượu vào ông nói ngông !...
... Ý là chỉ mới đậu có Tú
Tài thôi đó, chớ đậu cao hơn nữa thì ai chịu đời
cho thấu với ông Tú Vị Xuyên đây ?!
Nhà quyền qúy thì vào sân chầu đeo ngọc như ý, nhà
giàu sang thì cửa sơn son thếp vàng, nên khi gặp Kim, Kiều đã
xem tướng mạo của chàng và bi quan cho số phận của mình như
sau :
Nàng rằng trộm liếc dung quang ,
Chẳng sân Ngọc Bội cũng phường
Kim Môn.
Nghĩ
mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn
duyên biết có vuông tròn mà hay !?
Ngày xưa,
nam thì trông công danh thi cử, nữ thì chỉ mơ ước được
một tấm chồng có tình có nghĩa, mười hai bến nước
trong nhờ đục chịu, nên khi bán mình và sau khi trối trăn với
Thúy Vân xong, thì Kiều đã kêu lên trước khi ngất xỉu
:
Ôi Kim lang, hỡi Kim lang,
Thôi
thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Phận gái khi xưa, rất khó tìm được
người thương mình thật sự, nên khi gặp gia biến phải bán
thân và phải rời xa Kim Trọng, cô Kiều mới đau xót đến
thế. Người xưa cũng thường nói :
Dị
cầu vô giá bảo, 易求無價寶,
Nan
đắc hữu tình lang. 難得有情郎。
Có nghĩa
:
Vật
báu dù vô giá cũng dễ cầu để mà có được, còn
...
Đàn
ông thì khó mà tìm được một người có tình
nghĩa lắm !
Đàn
ông xưa nay vốn nổi tiếng là "bạc tình" mà ! Nhất
là đàn ông Á Đông với truyền thống năm thê bảy
thiếp, thì làm sao có thể chung tình cho được.
Kim Lang 金郎 là Chàng Kim,
là chàng Kim Trọng 金重, mà chữ Kim 金 ghép với chữ
Trọng 重 là chữ CHUNG 鍾, nên khi thất thân với Mã Giám
Sinh, cô Kiều đã than rằng :
Biết
thân đến bước lạc loài,
Nhụy đào thà bẻ cho người tình CHUNG.
Sao cô không nói :
Nhụy đào thà bẻ cho người
tình LANG.
hay ...
Nhụy đào thà bẻ cho người tình
XA ...v.v. và...v.v. mà phải là "người tình CHUNG" ? À, thì
ra cụ Nguyễn Du nhà ta đang chơi chữ một cách rất tài tình,
vì "người tình CHUNG 鍾" là " người tình tên
KIM TRỌNG 金重 ! Không phải là tôi cố bới lông tìm vết
để ... bóc thơm cụ Nguyễn Du, cũng không phải cụ Nguyễn
Du ngáp phải ruồi mà sử dụng đúng từ CHUNG 鍾 là tên
của KIM TRỌNG 金重, mà nói có sách mách có chứng đàng
hoàng :
Cuối đời nhà Minh, có
một thư sinh họ Cổ tên Tấn, ở đảo Hải Nam lai kinh ứng thí.
Khi đi đến Quế Lâm, nơi nổi tiếng với bún gạo thật ngon,
vì là thư sinh nghèo phải ở trọ trong chùa, nên chỉ ăn
ké được có bửa ngọ trai. Buổi chiều dạo ngang qua hàng
bún gạo Quế Lâm thơm phức nhưng chỉ dám đứng nhìn
mà thôi. Bất ngờ ông lão chủ quán thấy điệu bộ thèm
thuồng của anh ta, bèn cất tiếng hỏi : "Này anh thư sinh, lão
có một vế đối tả lại công việc hàng ngày của
lão, nếu anh đối được, lão sẽ mời anh một tô bún
khỏi trả tiền !" Cổ Sinh khẩn khoản xin vế đối, Ông lão
chủ quán bèn đọc là :
Bát đao
phân mễ phấn, 八刀分米粉,
Mễ Phấn 米粉 là Bột Gạo,
mà cũng có nghĩa là Bún Gạo nữa, nên vế đối
trên có nghĩa : Xắt tám dao để chia bún gạo ra thành từng
sợi. Câu đối mới nghe tưởng dễ, chừng nhẫm đọc
lại anh chàng Cổ sinh mới tá hỏa, vì chữ Bát 八
chồng lên chữ Đao 刀 thành chữ Phân 分, mà chữ Phân
分 ghép với chữ Mễ 米 thì thành chữ Phấn 粉 là
Bột. Vế ra qúa hay và qúa hóc búa . Còn đang ngồi
thừ ra đó để suy nghĩ, thì ông lão chủ quán đã
nấu xong tô bún gạo thơm phức mang tới và cười bảo : " Ăn
trước cho no bụng đi, rồi thủng thẳng hãy đối cũng
chưa muộn, không sao đâu !". Vừa thẹn vừa ngỡ ngàng nhưng
bụng đói qúa, anh chàng thư sinh đành cắm đầu ăn hết
tô bún, nói lời cám ơn rồi đi riết về chùa. Nằm
bên mái hiên chùa trằn trọc mãi không sao ngủ được.
Trăn trở đến nửa đêm bỗng nghe trên chánh điện vang lên
một tiếng "Boong" thật lớn, chạy lên xem, thì ra một chú
mèo ăn đêm làm rơi một miếng ngói rớt trúng qủa chuông
vàng trên chánh điện. Cổ Sinh như chợt tỉnh ngộ ra, mình
từ ngàn dặm đi thi mới đến được đây để nghe
tiếng chuông vàng nầy, bèn ứng khẩu đọc ra vế đối
: Thiên lý trọng kim chung 千里重金鍾, có nghĩa
: "Ngàn dặm đến đây để trân trọng tiếng chuông
vàng nầy". Hôm sau, vừa sáng sớm, Cổ Sinh bèn tươi cười
ra gặp ông lão chủ quán mà đọc rằng:
Bát đao phân mễ phấn,
八刀分米粉,
Thiên lý trọng kim chung. 千里重金鍾.
Ông lão nghe
xong vế đối, bèn nấu bưng ra một tô bún gạo Quế Lâm
thơm phức để đãi chàng thư sinh tài hoa, vì vế đối
qúa hay : Chữ Thiên 千 chồng lên trên chữ Lý 里 thành
chữ Trọng 重, chữ Trọng 重 ghép với chữ Kim 金 thành chữ
Chung 鍾 là Cái Chuông. Và cũng vì thế mà ta mới có
được 2 câu thơ tuyệt vời của cụ Nguyễn Du để cho cô
Kiều nuối tiếc khi phải thất thân với Mã Giám Sinh :
Biết
thân đến bước lạc loài,
Nhụy đào thà bẻ cho người tình CHUNG.
Bún gạo Quế Lâm
Để
kể chuyện cho có hậu, kính mời đọc tiếp phần cuối của
câu truyện trên ...
... Sau khi ăn xong tô bún thưởng, ông chủ quán
còn cho tiền lộ phí để Cổ Tấn lai kinh ứng thí. Khoa đó
chàng đậu ngay Tiến Sĩ cập đệ, khi vinh quy bái tổ trở về
ngang Quế Lâm, chàng ghé lại thăm và tạ ơn ông chủ quán,
mới biết ông cụ họ Trịnh, mấy đời đều sinh nhai bằng
nghề làm và nấu bún gạo bán. Thấy hoàn cảnh ông cụ
cũng neo đơn, Cổ Tiến bèn nhận ông làm nghĩa phụ và
phụng dưỡng ông cụ suốt đời.
Theo âm dương ngũ
hành thì Tây phương Canh Tân Kim, nên Vàng thuộc hướng Tây,
gió hướng tây là gió mùa thu, nên còn được gọi
là Kim Phong là Gió Vàng, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã
mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng 2 câu :
Trải
vách quế Gió Vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y
lạnh ngắt như đồng.
Kim là Vàng, nhưng Kim Ngư 金魚 không phải là Cá Vàng,
mà là Cá Thia Thia Tàu. Kim Ô 金烏 không phải là con quạ
Vàng, mà là chỉ Mặt Trời, Ta thường nghe nói "Vầng Kim
Ô vừa ló dạng", có nghĩa là "Mặt trời vừa mới
mọc". Kim Kinh 金經 không phải là quyển sách vàng, mà
là chỉ chung các quyển kinh Phật ( có thể là do từ Kim Cang Kinh
mà ra). Kim Liên 金蓮 không phải là hoa sen vàng, mà là chỉ
các gót sen nhỏ nhắn dễ thương của các bà các cô
ngày xưa với : Tam thốn Kim Liên tứ thốn yêu 三寸金蓮四寸腰,
có nghĩa là : "Ba tấc gót sen bốn tấc eo" mà thôi. Trong
Kiều tả lúc cô Kiều đi tìm Kim Trọng sau khi "Thời trân
thức thức sẵn bày" là :
Gót
sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường....
và khi tả hồn ma Đạm Tiên đến báo mộng cho Kiều,
cụ Nguyễn Du cũng viết :
Sương in mặt tuyết
pha thân,
Sen vàng lãng đãng như
gần như xa !...
Kim
Hầu 金猴 Không phải là con khỉ vàng, mà là con khỉ mặt
xanh có bộ lông vàng lắp lánh. Kim Khẩu 金口 Không phải
là cái miệng bằng vàng, mà là chỉ cái miệng của những
người quyền quý, ngày xưa dùng để chỉ cái miệng của
ông vua, còn trong văn thơ Tiền Chiến nhà thơ Xuân Diệu dùng để
chỉ cái miệng của những người đẹp :
Mở miệng
vàng... và hãy nói yêu tôi...
Dẫu
chỉ là trong một phút mà thôi...
Kim Lan 金蘭 Không phải chỉ hoa lan bằng
vàng, mà chỉ tình bạn bè gắn bó, có xuất xứ từ
kinh "Chu Dịch-Hệ Từ thượng" : Nhị nhân đồng tâm, kỳ
lợi đoạn KIM; Đồng tâm chi ngôn, kỳ khứu như LAN《周易·系辞上》:"二人同心,其利断金;同心之言,其嗅如兰"。
Có nghĩa :
Theo Hệ Từ thượng của kinh
Chu Dịch có câu : Hai người cùng đồng lòng thì cái lợi
(sự bén nhọn) có thể làm đứt KIM loại; Những lời
nói đồng lòng thì có mùi thơm như hoa LAN. Nên ... Kết
nghĩa Kim Lan 結義金蘭 là hai người bạn thề cùng đồng
tâm hiệp lực, sống chết có nhau như anh em ruột thịt. Ta có thành
ngữ Kim Lan Chi Giao 金蘭之交 cũng đồng nghĩa với ...
Kim Thạch Chi Giao 金石之交
: Kim là Kim loại rắn chắc không đổi màu; Thạch là Đá,
cứng ngắt và bền vững. Nên Kim Thạch Chi Giao là sự giao tình
bền vững và rắn chắc như vàng như đá vậy. Tương
tự ta có thành ngữ ...
Kim Thạch Chi Ngôn 金石之言 : là lời nói hoặc
lời hứa chắc chắn như vàng như đá không hề thay đổi.
Ta nói là Những lời vàng đá hoặc đá vàng, là
những lời nói " Chắc như đá, vững như vàng", của
trai gái dùng để hứa hẹn thề thốt khi yêu nhau, như khi Kim Trọng
tỏ tình trong cảnh "Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng"
thì cô Kiều cũng nhận lời bằng câu đổ thừa rằng :
Đã
lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc ĐÁ VÀNG thủy chung !
... và kịp đến khi " Trên hai đường
với cùng là hai em, Tưng bừng sắm sửa áo xiêm" để
mừng sinh nhật ngoại gia, để lại có một mình Thúy Kiều
ở nhà, nên nàng mới hẹn ước để gặp chàng. Trai đơn
gái chiếc trong đêm thanh vắng, nên khi " Sóng tình dường
đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi" Nàng
mới stop chàng lại bằng chuyện tình dưới Mái Tây :
Ngẫm duyên kỳ
ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai lại
đẹp tày Thôi Trương,
Mây mưa đánh đổ ĐÁ VÀNG,
Qúa chìu nên đã chán chường yến anh !
... khi Thúc Sinh muốn chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh,
cô kiều lo cho thân phải làm lẽ mọn của mình, lại sợ Thúc
Ông chê mình là " liễu ngõ hoa tường" rồi " lầu
xanh lại bỏ ra phường lầu xanh", thì chàng Thúc đã
vổ ngực nói là : Đường
xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta .
Đã gần chi có điều xa ?
ĐÁ VÀNG đã quyết phong ba cũng liều !
... và khi Kim Trọng
trở lại vườn Thúy để tìm Kiều, chàng cũng đã
nói với Vương Ông là :
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều VÀNG ĐÁ phải
điều nói không!
Đá Vàng là Vàng Đá là Kim Thạch, là biểu tượng
của Rắn chắc và Bền vững. Nhưng nhắc đến Kim Thạch lại
làm cho ta nhớ đến vở tuồng KIM THẠCH KỲ DUYÊN của Thủ Khoa
Bùi Hữu Nghĩa kể lại chuyện tình của 2 họ Kim và họ Thạch
nhằm đề cao Trung hiếu tiết nghĩa của người đời.
Ngoài Duyên Kim Thạch, ta còn có
Duyên Kim Cải do thành ngữ Châm Giới Tương Đầu 針芥相投,
có xuất xứ từ câu nói trong Tam Quốc Chí là " Từ
thạch dẫn châm, Hổ phách thập giới 磁石引针,琥珀拾芥"。Có
nghĩa : Đá nam châm hút kim loại, cón hổ phách thì hút
hạt cải; Ý chỉ thứ nào thì hút theo thứ đó, tình
đầu thì ý hợp, như trai gái, vợ chồng gắn bó khắng
khít với nhau vậy. Trong truyện Nôm Quan Âm Thị Kính tả lại
mong ước của Thị Kính khi lấy chồng là Thiện Sĩ có câu
:
Kể từ
Kim Cải duyên ưa,.
Đằng leo cây bách mong chờ về sau.
Trong Kiều tả lúc Kiều bán mình chuộc cha, Vương Viên Ngoại
cũng vì nàng mà than oán :
Vì ai rụng Cải rơi Kim,
Để
con bèo nổi mây chìm vì ai ?!
...
và lúc Kim Kiều tái hợp, trong buổi tiệc đoàn viên, khi "
Tàng tàng chén cúc dở say" Thúy Vân cũng đã
nói lẫy :
Gặp cơn
bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị
buộc vào duyên em.
Cũng là phận Cải
duyên Kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm
chớ sao !...
Nhưng, trong Phật Giáo thành
ngữ Châm Giới Tương Đầu 針芥相投, là Duyên kim
cải theo kinh Phật, ý nói hột cải ném ra ghim trúng đầu
mũi kim, là một chuyện khó xảy ra. Nhà thiền mượn cụm từ
này để chỉ thầy trò nhân duyên tương hợp, ăn khớp
với nhau thật đặc biệt hiếm thấy. Tiểu truyện Thiền Sư Tĩnh
Lực trong kinh TUTA ghi : Du học thì, ngộ Tiên Du Đạo Huệ, châm
giới tương đầu, thê tâm Phật địa 遊學時遇仙遊道惠針芥相投棲心佛地。Có
nghĩa : Khi du học, sư được gặp thiền sư Đạo Huệ ở
Tiên Du, thầy trò nhân duyên tương hợp một cách thật
đặc biệt hiếm thấy, bèn dốc lòng nương nhờ đất
Phật.
Kim là
Hoàng Kim 黃金, là Vàng ròng mà người đời trân
qúy nhất, nên Thời Đại Hoàng Kim 黃金時代 là khoảng
thời gian rực rỡ nhất thành công nhất trong đời của một
người, trong sự nghiệp tiến hóa của một dân tộc, trong một
giai đoạn lịch sử huy hoàng nhất của bất cứ quốc gia dân
tộc nào trên thế giới nầy. Thời đại hoàng kim là vang
bóng một thời của dĩ vãng, là rực rỡ huy hoàng của hiện
tại, là kỳ vọng vươn tới của tương lai. Mỗi người
đều có thời đại hoàng kim của riêng mình, nên phải
biết trân trọng, lợi dụng và kiến tạo riêng cho mình một
thời đại hoàng kim mà người khác không sao có được
!
Kim còn là Tiền, Hiện Kim 現金 là
Tiền mặt. Nguyệt Kim hay Tân Kim 薪金 là Tiền lương hàng
tháng. Chức Kim 職金 là Tiền trả cho chức vụ đảm nhiệm.
Dưỡng Kim 養金 là Tiền cấp dưỡng nuôi nấng. Bảo
Kim 保金 là Tiền Bảo trợ hay Bảo đãm việc gì đó.
Tư Kim 私金 là Tiền của riêng tư. Mỹ Kim 美金 là tiền
"Đô", tiền của nước Mỹ mà ai cũng thích cả ...
Kim là Vàng, là tượng trưng cho những gì cao qúy, hiếm
hoi hay được mọi người chiêm ngưỡng trọng vọng như
Kim Thân 金身của đức Phật, là tượng Phật được
thếp vàng. Kim Bài 金牌 là cái Huy chương Vàng cho
hạng Nhất; Kim Bài còn là những khuôn có chữ vàng lộng
kiếng để mừng sinh nhật, tân gia ... Ngày xưa, Kim Bài còn
là những lệnh bài của vua ban ra, nhất là những tấm Miễn Tử
Kim Bài 免死金牌 dành cho những người có công to với
triều đình thì vừa qúy giá vừa hãnh diện biết bao. Kim
Hôn 金婚 là chỉ những cặp vợ chồng kết hôn và chung
sống với nhau 50 năm mà vẫn còn đủ cả 2 người, còn
được gọi là Kim Khánh 金慶 hay Kim Giai Ngẫu 金佳偶
là Cặp Đôi Vàng. Kim Long 金龍 là Rồng Vàng, con vật
thần thoại tượng trưng cho vua chúa thời phong kiến, chỉ có vua
mới được mặc áo thêu hình Kim Long mà thôi. Ở cạnh
cố đô Huế, không ai không biết đến bến đò Kim
Long qua câu dân ca nổi tiếng :
Thuyền
về Đại Lược,
Duyên
ngược Kim Long.
Đến đây là ngã
rẽ của lòng,
Gặp nhau còn biết trên
sông bến nào ?
... các cô
gái Huế dễ thương đã đổi lại 2 câu chót như sau
:
Đến đây là ngã rẽ của lòng,
Biết
nơi mô bến đục, bến trong cho em nhờ !
Kim Qui 金龜 là Rùa
Vàng, tượng trưng cho sự phú qúy. Theo Tân Đường Thư-Xa
phục chí 新唐書·車服志 có ghi lại :
Đời sơ Đường, nội ngoại quan viên từ ngũ
phẩm trở lên đều phải đeo túi thêu hình cá, gọi là
Ngư Đại 魚袋. Đến đời Võ Tắc Thiên mới
đổi hình cá thành hình rùa, gọi là Qui Đại 龜袋.
Từ tam phẩm trở lên thì thêu bằng chỉ màu vàng kim, tứ
phẩm màu bạc và ngũ phẩm màu đồng. Nên Kim Qui tượng
trưng cho quan quyền phú qúi, từ Kim Qui Tế 金龜婿 còn
dùng để chỉ chàng rể hoặc chồng có thân phận
cao qúi giàu sang. Như trong bài thơ Vị Hữu 爲有 của Lý
Thương Ẩn 李商隱 sau đây :
Vị hữu vân bình vô hạn kiều , 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân
tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc Kim Qui tế ,
無端嫁得金亀婿,
Cô phụ
hương khâm sự tảo triều . 辜負香衾事早朝.
Có nghĩa
:
Vì có bức bình phong
vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn, nên ở đất Kinh thành
nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại thấy lo sợ cho những đêm
xuân, vì khi khổng khi không lại lấy phải ông chồng làm
quan lớn thế nầy, nên chi sáng xuân ( là thời khắc mặn nồng
nhất của đôi lứa ) ông ta lại phụ rãi bỏ mặc nệm ấm
chăn êm thơm phức để đi chầu Vua mỗi buổi sáng sớm !
Diễn
Nôm :
Bình
phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng
thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối
chăn bỏ hết mặc ai,... đi chầu !
Kim Qui Tế của thời buổi hiện nay là các chàng kỹ sư, bác
sĩ, các thương gia, đại gia ... lắm tiền nhiều của!
Còn ở Việt Nam ta thì Kim Qui là vị thần khả kính trên hồ
Hoàn Kiếm, đã tặng gươm thần cho Lê Lợi đứng lên
khởi nghĩa ở Lam Sơn, dựng nên nhà Hậu Lê. Trong bài thơ
Nước Tôi của nhà thơ Nguyễn Văn Cổn thời tiền chiến
có câu hỏi ví von như sau :
Rùa
thiêng nổi trước thuyền rồng,
Trên
hồ Hoàn Kiếm anh hùng là ai ?
...
và trong một vế thơ sau, ông đã xác định là :
Gươm thần Lê Lợi
ghi thiên anh hùng !
Kim
Tháp 金塔 là cái tháp bằng vàng, mà cũng là tên
riêng của thành phố Phnom-Penh, còn được gọi là Kim Biên
金邊, Nam- Vang thủ đô của nước Cambodia mà ta quen gọi là
xứ Chùa Tháp, vì các tháp chùa ở đây thường
được dát vàng nên mới có tên là Kim Tháp. Nếu thêm
vào giữa từ Kim Tháp một chữ Tự, thì ta sẽ có ...
Kim Tự Tháp 金字塔
là những cái tháp khổng lồ đầy bí ẩn của Ai Cập
có hình dáng giống như chữ Kim 金 mà thành tên. Đến
năm 2008, có tất cả 138 Kim Tự Tháp được khám phá, hầu
hết là các lăng mộ của các vua (Pharaon) và hoàng hậu Ai Cập,
trong hai thời kỳ Cổ Vương Quốc và Trung Vương Quốc ( từ 2630-2611 trước
Công Nguyên).
Các thành ngữ có liên quan đến
chữ Kim thì rất nhiều, ta chỉ điểm qua các thành ngữ thường
thấy mà thôi. Nhớ hồi nhỏ đọc các Truyện Tàu như
Tiết Nhân Qúi Chinh Đông, Tiết Đinh San Chinh Tây, La Thông Tảo
Bắc, Thuyết Đường Diễn Nghĩa ... hay gặp thành ngữ "Minh Kim
Thu Binh 鳴金收兵" mà không hiểu là nghĩa gì. Sau học
lõm bõm chữ Nho mới biết Minh Kim 鳴金 là "Làm cho kim loại
kêu lên", có nghĩa Gỏ kẻng, gỏ chiêng hay gỏ phèng-la để
thâu binh về. Nghề võ thì có thế Kim Kê Độc Lập 金雞獨立,
một chiêu thức võ công độc đáo, đứng thẳng một
chân với nhiều tư thế, hai tay cung ra hai bên với nhiều điệu bộ
khác nhau. Đây cũng là một chiêu thức của môn Thái
Cực Quyền, đồng thời cũng là một phương pháp dưỡng
sinh độc đáo có một không hai để phòng ngừa các bệnh
như Tiểu đường, Cao huyết áp, Mất trí nhớ ...
Cuối Truyện
Kiều được kết thúc bằng một thành ngữ có từ
KIM rất có hậu, đó là khi Kim Trọng thi đậu làm quan đã
nhớ đến Thúy Kiều :
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai ?!
KIM
MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂, thành ngữ có xuất xứ
từ đời Hán. KIM MÃ là KIM MÃ MÔN, là Cửa Kim Mã, nơi
mà các Học Sĩ đợi chiếu chỉ của nhà vua ban xuống. NGỌC
ĐƯỜNG là NGỌC ĐƯỜNG ĐIỆN, nơi nghị sự của các
Học Sĩ, là Hàn Lâm Viện của các Hàn Lâm Học Sĩ. Thành
ngữ Kim Mã Ngọc Đường dùng để chỉ sự đổ đạt
vinh hiển làm quan, đắc ý vì công thành danh toại.
Nhất Tiếu Thiên Kim 一笑千金, cười một cái giá
đáng ngàn vàng. Có xuất xứ ở đời Hán, từ câu
nói "Thôi Nhân -Thất Y": Hồi cố bách vạn, nhất tiếu
thiên kim 回顾百万,一笑千金. Có nghĩa : Quay nhìn
một cái giá đáng trăm vạn, Mĩn cười một cái giá
đáng ngàn vàng. Trong Truyện Kiều, khi đã rước được
cô Kiều về đến "trú phường", Mã Giám Sinh đã
ngầm đánh giá nàng Kiều :
Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một
Cười này hẵn Ngàn Vàng chẳng ngoa.
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn qúi khách ắt là đua nhau !...
... Qủa nhiên gặp phải Thúc Sinh là tay ăn
chơi bạt mạng :
Thúc Sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một
trận cười như không !
Nhất Khắc Thiên Kim 一刻千金, là Một khắc giá đáng
ngàn vàng. Có xuất xứ từ câu thơ đầu tiên trong bài
thơ Xuân Dạ 春夜 (Đêm Xuân) của Tô Đông Pha đời
Tống như sau :
春宵一刻值千金
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim
Có nghĩa :
Đêm xuân
một khắc giá đáng ngàn vàng.
Ý của
Tô Đông Pha là đêm xuân khí trời êm ả
trong mát, thanh tịnh, khiến con người cảm thấy thoải mái dễ
chịu ... Nhưng sau nầy người ta thường hiểu nghĩa của câu nói
với một ý khác hẵn ý của Tô Đông Pha lúc
ban đầu.
Kim Ngọc Mãn Đường
金玉滿堂 là Vàng ngọc đầy nhà, là câu nói
chúc phúc thường được dán trên các bàn thờ
vào dịp Tết Nguyên Đán để cầu mong cho năm mới giàu
sang sung túc. Ai cũng ao ước có được thật nhiều vàng,
nên ta còn có thành ngữ ...
Điểm
Thạch Vi Kim 點石為金 là chỉ đá hóa vàng, theo như
tích sau đây :
Xưa có
một người rất nghèo khổ, nhưng lại rất tin tưởng và
thờ phượng Lữ Tổ 呂祖, tức là Lữ Thuần Dương
Tổ Sư 呂純陽祖師 Lữ Động Tân 呂洞賓,
là một trong những tổ sư của Đạo Giáo. Cảm vì lòng
thành của anh ta, nên một hôm, Lữ Tổ hiện ra, thấy cảnh nhà
tiêu điều nghèo khổ, động lòng thương xót, mới chỉ
vào tảng đá trước sân nhà, trong một thoáng, tảng đá
bỗng hóa thành vàng rực rỡ, đoạn quay sang hỏi anh ta : " Cho
anh tảng vàng này, anh có thích không ?". Người kia lạy
phục dưới đất đáp rằng :" Không thích !". Lữ Tổ
rất cảm động bảo rằng :" Khá lắm, anh không có lòng
tham lam, thật qúy hóa vô cùng, ta sẽ truyền đạo pháp cho anh
tu tập !" Người kia đáp : " Không phải thế, tôi chỉ muốn
xin ông cho tôi cái ngón tay chỉ đá hoá vàng của ông
mà thôi !". Lữ Tổ nghe xong, giật mình biến mất.
Lòng tham của con người qủa là không
đáy, khiến thần tiên cũng phải hoảng sợ. Tảng vàng tuy to
lớn nhưng xài lâu thì cũng hết, chỉ có "ngón tay chỉ
đá hóa vàng" là không bao giờ hết vàng được
mà thôi ! Vì tích nầy mà ngạn ngữ lại có câu : Chỉ
thạch hóa vi kim, nhân tâm do vị túc 指石化為金,人心猶未足。Có
nghĩa : Chỉ đá hóa ra vàng mà lòng người còn chưa
thấy đủ !".
Kim Thiền Thoát Xác 金蟬脫殼,
là Ve sầu lột xác, là kế thứ 21 trong 36 kế theo binh pháp ngày
xưa : Để nguyên doanh trại, để nguyên cờ xí rực
rỡ, rồi âm thầm rút lui. Đến lúc quân địch
biết được thì quân ta đã đi xa rồi, như ve sầu đã
lột xác, chỉ để lại cái xác không mà thôi. 36 kế
còn gọi là 36 chước, mà chước cuối cùng là bỏ trốn,
như Sở Khanh đã dụ cô Kiều :
Thừa cơ lẻn bước
ra đi,
Ba mươi sáu chước chước
gì là hơn ?!
Kim Cốc Tửu Số 金谷酒數
là số rượu ở Kim Cốc, có xuất xứ từ bài Tự
của Lý Bạch : Xuân Dạ Yến Đào Lý Viên Tự 春夜宴桃李園序,
câu cuối của bài tự là : Như thi bất thành, phạt y Kim cốc
tửu số 如詩不成,罰依金谷酒數. có nghĩa
: Nếu thơ làm không xong, thì sẽ bị phạt theo số rượu ở
Kim Cốc. Kim Cốc Viên là vườn nhà của cự phú Thạch Sùng đời
Tấn, luôn có yến tiệc chiêu đãi tao nhân mặc khách.
Nếu trong tiệc, ai không làm được thơ thì sẽ bị
phạt uống ba đấu rượu. Cho nên Kim Cốc Tửu Số là 3 đấu
rượu, 3 chung rượu hay 3 ly rượu như ngày nay trong tiệc rượu
ta hay phạt những người đến trễ vậy !Các bợm nhậu quê
tôi thường phạt nhau bằng câu thiệu sau đây : Vô cửa
"bửa" một ly; ngồi xuống "uống" một ly và gắp mồi
"bồi" một ly nữa là đúng 3 ly, như Lý Bạch đã
nói :
三杯通大道,
Tam bôi thông đại đạo,
一斗合自然。 Nhất đấu hợp tự nhiên.
但得酒中趣,
Đản đắc tửu trung thú,
勿為醒者傳。
Vật vi tỉnh giả truyền ! Có nghĩa :
Ba ly khai thông đạo lớn,
Một đấu
hợp lẽ tự nhiên.
Muốn được vui say
trong rượu,
Đừng làm kẻ tỉnh
huyên thuyên !
Vàng qúy giá thật, nhưng có những thứ còn qúy giá
hơn vàng, đó chính là đàn ông, mà là đàn
ông ... hư biết quay đầu trở lại . Các cụ Đồ Nho thường
nhắc câu : Lãng tử hồi đầu kim bất hoán 浪子回頭金不換!Có
nghĩa : Các chàng lãng tử giang hồ ăn chơi mút mùa, nếu
chịu quay đầu làm lại cuộc đời thì ... vàng cũng không
thể đổi được ! Tại sao ? Thưa, vì các chàng đó
đã quá rành qúa chán và qúa ngán với cảnh ăn
chơi trác tang rồi, bây giờ chịu chí thú làm ăn sẽ không
còn sợ bị cám dỗ và sa ngã nữa, sẽ dễ dàng làm
nên sự nghiệp một cách vững chắc không sợ lung lay ! Nhưng dù
sao thì bà con ta vẫn còn ngại câu "Ngựa quen đường cũ"...
Chỉ có một thứ chắc chắn là vàng
24K hoặc vàng 4 số 9 cũng không mua nổi, đó chính là thời
gian, như câu nói Nho sau đây :
Nhất thốn
quang âm nhất thốn kim, 一寸光陰一寸金,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm ! 寸金難買寸光陰。
Có nghĩa :
Một
tấc thời gian là một tấc vàng, nhưng ...
Tấc vàng không thể mua được tấc thời gian !
Quang là Sáng, Âm là Tối; Sáng là Ban ngày, Tối là Ban
đêm; hết sáng đến tối, hết ngày tới đêm. Nên
Quang Âm là Ngày đêm là thời gian, mà thời gian đã qua
đi rồi thì không bao giờ còn có thể trở lại được.
Ta chỉ có thể quay ngược được kim đồng hồ, chớ không
thể quay ngược được thời gian trở về với qúa vãng.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu khuyên rằng :
Thiếu tráng bất nổ lực, 少壯不努力,
Lão đại đồ bi
thường ! 老大徒悲傷。
Có nghĩa
:
Còn trẻ còn khoẻ mà không biết
cố gắng, đến ...
Khi lớn khi già rồi
có tiếc thương thì cũng vô ích mà thôi !
Mong rằng tất cả các bạn trẻ, bạn già ... đều phải nên
trân trọng cái "thời gian" mà ta "còn" có được,
vì "nó" qúy hơn VÀNG !
Đỗ Chiêu Đức
Phiếm về
VÂN là MÂY
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương
Hai câu thơ trên trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn
Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, lấy ý từ hai câu thơ trong bài
Khả Thán Thi 可嘆詩của Thi Thánh Đỗ Phủ :
Thiên thượng phù vân
như bạch y, 天上浮雲如白衣,
Tư
tu cải biến như thương cẩu . 斯須改變如蒼狗。
Có
nghĩa :
Mây nổi trên trời như áo trắng,
Phút giây chợt tựa
chó xanh lơ.
Từ hai câu thơ trên
cho ta thấy, Phù Vân 浮雲 là mây nổi bay trên trời có
thiên hình vạn trạng và biến đổi vô thường, mới thấy
như tà áo trắng đó, mà trong phút chốc đã thành
như một chú chó màu xanh. Vì ...
Vân 雲 là mây, mà mây là hơi nước, là những hạt
nước nhỏ li ti ngưng tụ lại mà thành, nên hình dáng
không ổn định, khi tụ khi tán, khi bay nhanh khi lơ lửng, và mang đủ
cả các màu sắc tùy theo thời điểm và thời tiết, ta thường
nghe câu ca dao miền Bắc :
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng
chung quanh mây vàng.
Ước gì anh
lấy được nàng ...
Mây Vàng
黃雲, mây thường xuất hiện sau cơn mưa lớn, nhất là
sau một trận tuyết lớn, khi trời quang mây tạnh, do sự phản chiếu
của ánh nắng mặt trời hắt ngược từ mặt đầt trở
lên, nên mây mang màu vàng cả một vùng rộng lớn như bài
thơ Biệt Đổng Đại của Cao Thích đời Đường
:
千里黃雲白日曛,
Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân,
北風吹雁雪紛紛。 Bắc phong xuy nhạn tuyết phân
phân.
莫愁前路無知己,
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
天下誰人不識君。 Thiên hạ hà nhân bất
thức quân.Diễn nôm :
Ngàn
dặm mây vàng nắng úa hanh,
Tuyết
rơi gió cuốn nhạn bay nhanh
Đừng
sầu trước mặt không tri kỷ,
Thiên hạ ai người chả biết anh !
Vân 雲 thuộc dạng chữ Hội Ý Chỉ Sự, theo diễn tiến
của chữ viết như sau :
Giáp
Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ
Thư
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện
đều là hình tượng của hơi nước bóc lên cuộn thành
những cuộn mây, đến Tiểu Triện thì được chồng thêm
bộ Vũ 雨 là Mưa lên phía trên thành hình chữ Vân
雲 là Mây như chữ Lệ hiện nay. nên từ ghép đầu tiên
của Vân là ...
Vân Vũ 雲雨 : là Mây Mưa, có mây mới có
mưa và mưa xuống là nhờ có mây, nên mây và mưa không
thể tách rời ra được. Từ Mây Mưa còn chỉ sự ân ái
giữa nam nữ với nhau do tích Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女
như sau:
Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là
Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn
phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú
của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở
Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến
cùng ân ái, khi chia tay còn nói là "Đản vi triêu vân,
mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨"(
Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều ). Theo
quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm
cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa : Mưa thuận
gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không
chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và
Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến " Mây mưa ân ái giữa
trai gái " mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần
Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ là người ta nghĩ ngay đến
một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến Kéo mây
làm mưa, hay nói gọn thành Mây Mưa, là người ta lại nghĩ
ngay đến việc ái ân trai gái. Như cô Kiều đã
ngăn Kim Trọng lại trong đêm gặp gỡ khi "Sóng tình
dường đã xiêu xiêu", mà kể lể rằng :
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.
Mây Mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chìu nên đã chán chường yến anh...
Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女
Hay như trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã
diễn tả nàng cung nữ tài sắc vẹn toàn, vừa đẹp vừa
giỏi và cũng vừa ... gợi tình nữa, nàng hấp dẫn đến
nỗi :
Bóng gương lấp ló dưới mành,
Cỏ
cây cũng muốn nổi tình Mây Mưa !
Trong bài Thanh Bình Điệu
thứ hai, khi tả về nhan sắc và sức quyến rũ gợi cảm của
Dương Quý Phi, Lý Bạch cũng đã nhờ tới Vu Sơn Thần
Nữ :
一枝紅豔露凝香, Nhất chi
hồng diễm lộ ngưng hương,
雲雨巫山枉斷腸.
Vân Vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
借問漢宮誰得似,
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự,
可憐飛燕倚新妝.
Khả lân Phi Yến ỷ tân trang.
Diễn Nôm :
Một cành hoa đẹp ngậm sương thơm,
Mưa móc Vu Sơn cũng dỗi hờn.
Dám hỏi Hán cung ai dám sánh,
Thương nàng Phi Yến mới soi gương.
Dương
Thái Chân đẹp đến nỗi Thần Nữ cũng phải hờn dỗi
đoạn trường và Triệu Phi Yến mới soi gương để tân
trang lại nhan sắc cũng phải chào thua ! Vì thế mà mở đầu
cho bài Thanh Bình Điệu thứ nhất, thi tiên Lý Bạch đã
phải hạ câu :
雲想衣裳花想容,
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,
春風拂檻露華濃。
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.
Có nghĩa :
Mây ngỡ xiêm y hoa ngỡ dung,
Gió
xuân phe phẩy đẹp vô cùng !
Mây
buổi sáng thì gọi là Triêu Vân 朝雲, là những mảng
mây màu vàng màu bạc rực rỡ ở phía trời đông
khi mặt trời vừa mọc, nhưng buổi chiều thì lại gọi là Vãn
Hà 晚霞, mà ta quen gọi là Ráng Chiều, là những áng
mây màu rực rỡ phía trời tây khi mặt trời sắp chen lặn.
Hà 霞 là Mây đủ màu đẹp đẽ, nên Hà Y 霞衣
là áo có thêu hình chim phượng hoàng và mây màu ngũ
sắc rất đẹp cho hoàng hậu và các qúy phi mặc. Trong Truyện
Kiều, Khi đã "nghênh ngang một cỏi biên thùy"
rồi, thì Từ Hải cho mười vị tướng quân và
cung nga thể nữ đi đón Thúy Kiều với :
Sẵn
sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan chấp chới HÀ Y rỡ ràng !
Trên thực tế,
ta chỉ thấy mây đủ màu sắc khi hoàng hôn xuống ở phía
trời tây, nhưng trong hội họa hay điện ảnh thì mây ngũ sắc
xuất hiện ở dưới chân hoặc sau lưng của các Thần Thánh
Tiên Phật, và những đám mây đó được gọi là
Tường Vân 祥雲, là Mây Lành rực rỡ để tôn tạo
thêm hình tượng thiêng liêng khả kính của các vị Bồ
Tát đó mà thôi. Chớ ban ngày ban mặt làm sao có được
mây ngũ sắc để mà thấy ! Ta chỉ thấy mây với ba màu
thường xuyên là : Xanh, Trắng và Đen .
Mây xanh là Thanh Vân 青雲 : Có thể đây chỉ là ảo
giác và lầm tưởng của " người trần mắt thịt ",
vì Mây Xanh mà ta thường nhìn thấy chính là bầu khí
quyển dày trên 100 cây số bao bọc quanh địa cầu. Nên ta cũng
thường hay nghe câu : Cao vút tận mây xanh ! Thanh Vân ngày xưa vốn
dùng để chỉ chí hướng của những người quân tử
đức cao vọng trọng, sau mới dùng để chỉ những người
hiển đạt làm quan, và vì thế mà người xưa ví
với việc thi đậu Tiến sĩ, Trạng Nguyên là Nhẹ bước Thanh
Vân, là lên tận mây xanh rồi đó. Nên ta lại có các
thành ngữ như : Thanh Vân Đắc Chí 青雲得志, hay Bình
Bộ Thanh Vân 平步青雲, mà trong tiếng Nôm ta gọi là Nhẹ
Bước Thang Mây, hay nói như cụ Nguyễn Công Trứ trong bài Chí
Làm Trai là :
Đường Mây rộng thênh thang cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vổ
tay reo.
Hay
như cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều khi viết tiếp " Vương
Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày " để diễn tả
Kim Trọng và Vương Quan thi đậu cùng khoa là :
Cửa trời rộng mở Đường Mây,
Hoa
chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Và cụ thể hơn
là tâm trạng rất có hậu của Kim Trọng khi thi đậu là
nhớ ngay đến nàng Kiều :
Kim
từ nhẹ bước Thanh Vân
Nỗi
nàng càng nghĩ xa gần càng thương
Thanh Vân
không chỉ chỉ thi đậu, mà còn chỉ chung cho tất cả bá
quan văn võ khi đạt đến đĩnh hiễn vinh, như khi cô Kiều
khuyên Từ Hải quy hàng, vì : " Nghĩ mình mặt nước
cánh bèo,Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân ",
nếu quy thuận triều đình vẫn hơn suốt đời làm một loạn
tướng :
Bằng
nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thang đường cái Thanh Vân hẹp gì !
Sau mây xanh là mây trắng, là Bạch Vân 白雲.
Đây mới là mây thật sự mà bất cứ lúc nào ngước
nhìn lên bầu trời ta cũng thấy được. Nhắc đến mây
trắng, ta cũng nhớ ngay đến câu : " Bạch vân thiên tải không
du du 白雲千載空悠悠 " trong bài Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu, mà cụ Tản Đà đã thoát dịch rất hay là
:
Nghìn
năm mây trắng bây giờ còn bay ...
Hay như trong bài Ức Đông Sơn
憶東山 của Thi tiên Lý Bạch :
不向東山久, Bất hướng Đông
sơn cữu,
薔薇幾度花? Tường
vi kỷ độ hoa ?
白雲還自散, Bạch vân hoàn tự
tán,
明月落誰家? Minh
nguyệt lạc thùy gia ?Diễn Nôm :
Đông
Sơn lâu quá không qua,
Tường vi mấy độ hoa đà phôi phai ?
Ngẩn ngơ mây trắng còn bay,
Trăng
vàng rụng xuống nhà ai đêm này ?!
... và
như mây trắng quyện lấy núi xanh trong bài " Ỷ Hồ 欹湖 "
của Thi Phật Vương Duy :
吹簫凌極浦, Xuy tiêu lăng cực phố,
日暮送夫君。
Nhựt mộ tống phu quân.
湖上一回首, Hồ thượng nhất hồi thủ,
山青卷白雲。
Sơn thanh quyển bạch vân.
Diễn Nôm :
Thổi
tiêu ra tận bờ,
Tiễn chàng chiều ngẩn ngơ.
Bên hồ quay nhìn lại,
Núi xanh mây trắng mờ !
Lục Bát :
Thổi
tiêu vẳng tận bến bờ,
Trời
chiều lòng thiếp ngẩn ngơ tiễn chồng.
Quay
đầu lòng những bâng khuâng,
Núi xanh quyện
lấy bạch vân ngỡ ngàng !
" Ôi, cảnh
biệt ly sao mà buồn vậy !" Thổi tiêu ra tận bờ hồ để
tiễn chàng đi, nhưng khi người đà khuất bóng vẫn còn
lưu luyến nhìn theo để chỉ còn thấy " Núi xanh quyện lấy
bạch vân ngỡ ngàng " mà thôi!
Nhìn mây trắng bay còn làm cho kẻ
ở miền xa nhớ nhung về quê cũ, vì tự ngàn xưa đã có
biết bao nhiêu là thơ văn tả cảnh nhìn mây trắng bay mà
nhớ thương về cố quốc. Như tâm trạng của Thúy Kiều
khi hầu hạ Hoạn Thư :
Bốn
phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Nhìn
mây trắng bay mà nhớ nhà, có xuất xứ từ điển tích
ghi trong Toàn Ðường Thư : Ðịch Nhân Kiệt 狄仁傑
(630-700) đời Ðường khi bị biếm làm quan tham quận ở Tinh Châu,
nhưng cha mẹ ông cư ngụ ở Hà-Dương. Một hôm, lên
núi Thái Hàng ngắm nhìn mây trắng bay nơi chân trời, ông
nói với thuộc hạ rằng : "nhà cha mẹ ta ở dưới đám
mây trắng kia kìa !". Từ đó văn học cổ lấy hình tượng
mây trắng để nói lên nỗi nhớ thương cha mẹ, và
nơi chôn nhau cắt rốn đã sản sinh ra mình.
Nhìn
mây nhớ nhà còn là tích của Hàn Dũ (768-824), sau khi " Nhất
phong triêu tấu cửu trùng thiên, Mộ biếm Triêu Dương lộ
bát thiên 一封朝奏九重天 夕貶潮陽路八千
" ( Một phong tấu sớ buổi sáng dâng lên vua, thì buổi chiều đã
bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường
). Khi đi đến Lam Quan thì trời đổ tuyết lớn, nên ông
lại viết thêm hai câu thơ bất hủ là :
雲橫秦嶺家何在, Vân hoành Tần Lĩnh gia
hà tại ?
雪擁藍關馬不前。 Tuyết
ủng Lam Quan mã bất tiền.
Có nghĩa :
Mây ngang Tần Lĩnh nhà đâu tá ?
Tuyết
phủ Lam Quan ngựa khó đi !
Mây vắt ngang Tần Lĩnh, gọi tắt
là Mây Tần, như lòng của cô Kiều nhớ nhà sau mười
mấy năm lưu lạc :
Đoái
thương muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn Mây
Tần xa xa !
Hay
như Nguyễn Bính, một thi nhân Tiền Chiến khi đi theo kháng chiến,
lưu lạc vào Nam đã nhớ về đất Bắc mà kể lể với
"Chị Trúc" là :
Em ra bến nước trông
về Bắc
Chỉ thấy Mây Trôi chẳng thấy làng !
Hay như Quang Dũng, nôỉ tiếng là nhà thơ tài hoa của xứ
Đoài mây trắng. Thơ ông hào sảng mà kiêu hùng, đầy
thi vị như hai câu thơ sau đây :
...Tôi nhớ xứ Đoài
mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương ?
Trong
ca dao dân gian, hình ảnh mây trắng cũng rất nên thơ gợi cảm
với các câu :
Trên trời mây trắng như bông,
Ở dưới
cánh đồng bông trắng như mây.
Cô kia má đỏ hây hây,
Đội
bông như thể đội mây về làng !
Hết mây trắng thì đến mây
đen. Mây Đen là Hắc Vân 黑雲 mà còn gọi là
Ô Vân 烏雲 nữa. Ta có thành ngữ Ô Vân Mật Bố 烏雲密布
là Mây đen dày đặc, là mây đen mù mịt như bài
học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng ấu :
Ác vàng
đang lúc tỏ trời,
Bỗng đâu mây kéo khắp
nơi mịt mù.
Giông giục giục, gió
vù vù,
Cây run lá đổ lao xao chật đường.
Bộ hành gặp cảnh thê lương,
Tiểu thương buôn bán tìm phương ẩn mình.
Trên không sấm nổ liên thinh,
Bên
trời lửa nháng đầu ghềnh sóng xao.
Mưa tuôn xối xả ào ào,
Giọt dài giọt vắn phủ
bao mịt trời ...
Lần đầu tiên xa nhà, lại
phải theo cái tên Mã Giám Sinh còn chưa biết rõ lai lịch ra
sao, lại ra đi một cách vội vã tất bật với " Đùng
đùng gió giục mây vần, một xe trong cỏi hồng trần như bay ",
cụ Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng Thuý Kiều với :
Nàng thì dặm khách xa xăm, Bạc phau cầu
giá Đen Rầm Ngàn Mây.
Vi
lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng
ai một người !
Một điều thú vị nữa là Ô Vân 烏雲 còn
có nghĩa các lọn tóc được bới cao có hình thù
như là những vần mây đen trên trời của các giai nhân
cổ điển, như một câu trong bài từ của Hoa Nhạc 華岳đời
Tống :
金钗不整烏雲侧 Kim thoa bất chỉnh ô
vân trắc
Có nghĩa :
Thoa vàng không chỉnh
tóc mây nghiêng.
Cái búi
tóc trên đầu của các người đẹp, còn gọi
là Vân Kế 雲髻, Vân Mấn 雲鬢, như trong Trường Hận
Ca của Bạch Cư Dị tả lúc Dương Qúy Phi tiếp sứ giả
của Đường Minh Hoàng :
雲髻半偏新睡覺, Vân kế bán thiên tân
thụy giác,
花冠不整下堂來.
Hoa quan bất chỉnh hạ đường lai.
Có nghĩa :
Tóc
mây nghiêng lệch vừa tan mộng,
Hoa miện nghiêng chao bước xuống giường .
Tóc mây dã dượi cũng là một nét
hấp dẫn của người đẹp !
Ô Vân, Vân Mấn hay Vân Kế, là
Búi Tóc của các giai nhân xưa
Khi mới tấn cung, mới được
nhà vua yêu dấu, thì Dương Quý Phi đã đủng đỉnh
nũng nịu làm dáng với:
雲鬢花顏金步搖
Vân Mấn hoa nhan kim bộ diêu
Có nghĩa :
Tóc mai buông xõa như mây khi mới tắm xong với nét
mặt đẹp như hoa và cành trâm vàng "kim bộ diêu"
lắc lư trên mái tóc.
Các bà các cô ngày xưa làm đẹp với làn tóc
Mây, thề thốt với làn tóc Mây, như cô Kiều đã
cắt tóc ăn thề với Kim Trọng : " Tóc Mây một
món dao vàng chia đôi, Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh
ninh hai mặt một lời song song ... ". Vợ chồng lấy nhau thì
gọi là Kết tóc xe tơ, như Hoạn Thư với Thúc Sinh đã
" Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày, Ở ăn
thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
..." Đến khi chán đời thì cắt tóc đi
tu, như Thuý Kiều ở Quan Âm Các : " Tam quy ngũ giới
cho nàng xuất gia, Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi
tên ra Trạc Tuyền... ". Khi về với Thúc Sinh và khi khuyên
Thúc về thăm Hoạn Thư, thì Kiều cũng nhớ đến Kim Trọng
với : " Tóc thề đã chấm ngang vai, nào lời non
nước nào lời sắc son ...". Đến khi được
sư Giác Duyên cứu về thảo lư thì lại sống với cuộc
sống của Thiền môn : " Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau "....
Các giai nhân hồng nhan tạ thế còn được
ví như Mây tan, hoa tàn, trăng khuyết ... như giai thoại văn chương
lý thú sau đây:
Mạc Đĩnh Chi (1284 - 1361) tự là Tiết Phu, người làng Lan
Khê huyện Bàng Hà lộ Lạng Giang. Ông tướng mạo xấu xí,
nhưng trí tuệ cực kỳ thông minh mẫn tiệp.
Năm Hưng Long thứ 12 (1304) đời Trần Anh tông, ông đỗ trạng
nguyên, làm Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung Nội thư gia, sau thăng
đến Tả Bộc Xạ dưới thời Trần Hiến Tông (1329-1341). Ông
học rộng thông minh, tính liêm khiết, thẳng thắn, làm quan nhưng
vẫn nghèo. Năm 1308 phụng mệnh Trần Anh tông đi sứ Nguyên, nhiều
lần bị thử tài nhưng đều ứng đối trôi chảy, tỏ
ra rất nhanh trí, tài năng và phẩm chất thông minh của ông khiến
Nguyên triều trên dưới đều phải nể phục, nên được
phong là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên.
Truyện kể
rằng công chúa nhà Nguyên mất, sứ thần An Nam vào tế lễ,
vua Nguyên đưa cho chánh sứ ta bài điếu văn viết sẵn, bảo
đọc lên cho mọi người cùng nghe. Mạc Đĩnh Chi mở ra thì
chỉ thấy viết có một chữ Nhất 一, biết rằng đó
là cách vua Nguyên thử tài, ông bèn lấy chữ "Nhất"
đó làm đề văn, ung dung ứng khẩu đọc luôn:
青天一朵雲,
Thanh thiên nhất đóa vân
烘爐一點雪,
Hồng lô nhất điểm tuyết
上苑一枝花, Thượng uyển nhất chi hoa
瑤池一片月,
Dao trì nhất phiến nguyệt
噫! 雲散 雪消 花殘 月缺. Y! Vân tán, tuyết
tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
Có
nghĩa :
Trời
xanh một đóa mây,
Lò
hồng một điểm tuyết,
Thượng uyển một cành hoa,
Dao trì trăng một mảnh,
Ôi
! Mây rả, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết !
Qủa là một bài điếu văn thương tiếc cho một giai nhân
cành vàng lá ngọc một cách ngắn gọn mà vô cùng thương
cảm với lẽ vô thường : Mây rả, tuyết tan, hoa tàn,
trăng khuyết !
Đỗ Chiêu Đức
Phiếm về
THIÊN là TRỜI
Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn,
Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây,
ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không
gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học",
ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy
人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản
nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng
xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự
Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。(
TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một
thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên
cái thế giới nầy !Nên ...
Khi cần
diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối
CHỈ SỰ 指事 ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to
lớn gọi là Chỉ Sự ) thành chữ ĐẠI 大 , theo diễn
tiến của chữ viết sau đây :
Giáp Cốt Văn
Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Nên...
ĐẠI
là To, là Lớn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng phát sinh : là
Vĩ Đại, là Trưởng thành ... Nhưng ...
Con người dù cho có cao lớn đến đâu cũng không thể cao
lớn bằng Trời được, cho nên thêm một nét ngang tượng
trưng cho bầu trời lên phía trên chữ Đại 大, thì ta có
chữ THIÊN 天 là TRỜI, được hình thành theo lối HỘI
Ý 會意 , theo diễn tiến của chữ viết như sau đây :
Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện
Chữ Lệ
Theo như Giáp cốt văn
và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người
có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân
Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地
" như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :
ĐỘI
TRỜI đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Nên ...
Chữ Thiên 天 chỉ phần cao
nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đĩnh đầu
cao vòi vọi, đó là Trời.
Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời,
lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có
những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm
nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天
mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời
thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn
mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của
chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Nên ...
PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ,
hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành
người hôn phối của mình, nên ...
PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm
tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng
夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ
Hải chia tay với Kiều để lên đường lập nghiệp ....
Nửa năm hương lửa đang nồng,
TRƯỢNG
PHU thoát đã động lòng bốn phương.
Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ....
... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ
sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là
:
Duyên THIÊN
chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!
Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú
và lí lắt như sau :
Duyên THIÊN 天
là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa
thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy
nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ
thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :
Duyên
trời nào thấy đâu run rủi,
Phận gái sao đà đã có con ?
Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng quê tôi,
lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng :
Không
chồng có chửa mới ngoan,
Có chồng có chửa thế gian sự thường !
Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm
với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu
dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương
đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để
đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu
là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy"
?!
Thiên 天 là Trời, chữ đầu
tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn
Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :
天
Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn,
子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà,
國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...
Thiên 天 là Trời, là phần
không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng
của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích
Đạo, thì Trời là thế giới của cỏi trên, có đủ
các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và
có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là
Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và
ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của
cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu :
- Vui qúa Trời !
- Buồn
qúa Trời !
- Sướng qúa Trời !
- Khổ qúa Trời !....
Vui buồn
sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích
dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần
ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ
động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa
Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa
Trời ! Nhỏng nhẻo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi
!... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc ...
qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa
mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên
thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương
trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều,
khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên
:
Trời
làm chi cực bấy Trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan !?
hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của
Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :
Vương Bà nghe bấy nhiêu lời,
Nỗi
oan đã muốn vạch Trời kêu lên.
hay khi bị
Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã
kêu trời :
Nàng
rằng : Trời nhé có hay !
Quyến anh
rủ yến sự này tại ai ?
Đem người đẩy xuống
giếng khơi,
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay !
Thiên 天
là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng
Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách
tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần
giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía
trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên
Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì
phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên
người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : " Coi chừng tao cú
cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác
đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành
"cứng đầu cứng cổ"!.
Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn
tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc
cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện
Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ
của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử
Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang
Tử Thử Vợ", thì Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái
đầu với nội dung câu truyện như sau :
Trang
Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休,
người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ
là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm,
trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt
để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ
bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì
khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn
nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô
rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu,
mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô ! Trang Tử
nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển
pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà,
đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị
vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng : " Trung
thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫".
Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng
lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu
niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn
của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến
để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện
thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và
để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì
cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão
bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai
người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát
bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là
nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa
quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì
khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang
Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn.. Không
ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền
Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày,
nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu
tang rồi cảm khái ngâm rằng :
從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan
gia trái,
你愛之時我不愛。
Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố
phu thê,
怕你斧劈天靈蓋。
Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.
Có nghĩa :
Từ
nay đã hết nợ oan gia,
Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.
Ngâm
xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi
Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được
hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà
thôi.
"Phủ phách Thiên Linh
Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện
"Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ",
của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những
người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ
con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang
như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để
thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế !?
Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN
天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理
là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự
nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô
thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của
nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ
như : -Thiên Lương 天良: là Tấm lòng
lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương
Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là
phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong
lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu
Trời " để nói thác :
Trời rằng : " Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc "thiên lương" của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay"...
- Thiên
Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch
về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý
ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có
2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ,
một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên
đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là
sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không
thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Biểu
tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người
đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời
!
- Thiên Võng 天網:
là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới
có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo
vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ
bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu
nói sau đây:
Chủng
qua đắc qua, 種瓜得瓜,
Chủng đậu đắc đậu. 種豆得豆,
Thiên võng khôi
khôi, 天網恢恢,
Sơ nhi bất lậu ! 疏而不漏。
Có nghĩa
:
Trồng dưa thì
được dưa,
Trồng
đậu thì được đậu.
Lưới trời lồng lộng,
Tuy thưa nhưng không lọt !
Ý muốn nói, gieo
nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm
ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà
thôi !
Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢,
Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người
lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :
Nhân
hữu thiện nguyện, 人有善願,
Thiên tất hựu chi ! 天必祐之!
Có nghĩa :
Người mà
có những ước nguyện tốt lành, thì...
Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !
- Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời
ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho
mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là
phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải
biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...
- Thiên Bẩm 天禀,
Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều
là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người
nào đó mà người khác không thể có được. Như
cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :
Thông
minh vốn sẵn Tư Trời,
Pha
nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Tư
Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !
Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho
Trời, và được gọi là Thiên Nhiên 天然, ví
dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những
thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều
được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc,
đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì
Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những
người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó
chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất
mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng
thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều
là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :
Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, 天有四時春在首,
Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên.
人生百行孝為先。
Có nghĩa :
Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu,
còn...
Người thì có cả
trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.
Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người
cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói :
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Bỉ
sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì
cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái
lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước,
rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm
năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên
lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :
Trời
còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !
Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !
Còn giới bình dân thì không khách sáo
gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm
một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường
tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất
lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :
- Trời sanh trời nuôi.
-
Trời sanh voi sanh cỏ !
Tội nghiệp cho ông trời, cứ
đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng...
nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn
lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả
giàu có nữa là đằng khác! Các Thầy Đồ ta ngày
xưa thường nói :
Hữu nhi bần bất cửu, 有兒貧不久,
Vô tử
phú bất trường. 無子富不長。
Có
nghĩa :
Có con thì
nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải..
Còn ... Không có con thì giàu không bền, vì không
có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ
thả giàn !
Thiên 天 là
Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là
núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mở
của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm
phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có
đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ
nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下,
có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ
sau đây :
Trục Lộc
Thiên Hạ 逐鹿天下
Theo "Sử Ký
Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳":
Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị
tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên
hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc
yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。Có
nghĩa :
" Giềng mối của nhà Tần đã hết
nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác
đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm
sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì
thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...
Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối
cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến
vòng chung kết vậy ! Nên...
Thiên Hạ
là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm
Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mở với dân cư đông
đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục
Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc
mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con
Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có
nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của
Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người
xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !
Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại
Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng
Đại Quần Chúng...như :
- "Thiên hạ"
đồn rằng...
- Đó là chuyện của "thiên
hạ", đâu phải chuyện của mình.
-
Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...
Ông tú
Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc"
cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng :
Nằm
nghe tiếng trống, trống canh ba,
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta ?!
Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cỏi Ta-Bà, là bể khổ
trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái
Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa
hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu
: Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊,
có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn
qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我,
là Pháp Thân 法身thường trụ, không bao giờ hoại, bao
trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA
đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để
giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ
của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy! Chính cái Phật Tánh đó
là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự
cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ.
Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp
nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một
nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ,nhưng
lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta
cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ
lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của
bà ta răm rắp .
Còn Thiên
Hạ của Đạo Giáo 道教 ( Lão Giáo ) là Cỏi Hồng Trần
紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những
cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc
là :
Cái
quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !
nên con người
phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống
thực ở trên trời, tức là thành Tiên để về nơi Thượng
Giới !
Thiên Hạ của ngày nay là Năm
Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là
cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp
Đồng Ấu:
... Người
bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!
Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày,
nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜
là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim
Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là
ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai...
Thiên còn
có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨
là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương
tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天
là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm
chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :
Tứ thời vô xuân hạ, 四時無春夏,
Nhất
vũ tiện thành thu. 一雨便成秋。
Có nghĩa
:
Bốn mùa không có
xuân hạ gì cả, hễ...
Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !
Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như
câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân
vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天.
Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao
nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."
Ý nói : Vua thì coi dân là cần
thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ?
Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có
cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay
bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先,
có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà
không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng
ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN
天 là Cao nhất, là Cần thiết nhất.
Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên
trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là
Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được
về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu
Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới
18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho
thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người
tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa
! Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天,
ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được
dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ
mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt
tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn
Dũ đời Đường :
Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên, 一封朝奏九重天,
Tịch biếm Triều Dương
lộ bát thiên. 夕貶潮陽路八千 .
Có nghĩa :
Buổi sáng
trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.
Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua,
còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà
trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn
mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
diễn Nôm :
Trống
Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời
tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ
của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào
đó, như Thúy Vân đã phân bua :
Cơ
Trời dâu bễ đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình !
Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên
thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa
天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa
: Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái
lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp
của con người. Ví dụ như : Fifa World-cup 2018 kỳ rồi tổ chức
ở Russia, nên đội bóng Nga có lợi thế về THIÊN THỜI là
đã quen với thời tiết giá lạnh của xứ mình; ĐỊA LỢI
vì được đá ở sân nhà; NHÂN HÒA vì có cổ
động viên đông nhất so với các đội bóng khác. Nên
đội Nga đã thắng đậm ngay trận đầu 5-0 trước Saudi
Arabia và đi một lèo đến Tứ Kết, trở thành 8 đội
bóng mạnh nhất hành tinh!
Thiên thời 天時, Địa lợi 地利,
Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường
天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :
* Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành
của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là
Thiên Thời đó.
* Địa Nghi 地宜 : là
cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm
hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó.
* Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được
suông sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là
Nhân Hòa đó.
Nhưng đối với bà
con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương
Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện
mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :
"Thiên tường
tác biệt hựu thu sương ". Có nghĩa là :" Thương tiền,
Tiếc bạc lại Thương xu ".
Có một câu chuyện vui kể rằng : Có
ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục
tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách
có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt
khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà
tiện tới mặt không !".
Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên
Lý đã được đề cập ở phần đầu bài viết
nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời,
như câu :
Tử sinh hữu mệnh, 死生有命,
Phú
quý tại thiên. 富貴在天.
Có nghĩa
:
Chết sống
đều có số mạng,
Giàu sang là do trời ban.
... và không phải ai cũng được
trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được,
như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của
Khổng Minh Gia Cát Lượng là :
Mưu sự tại nhân,
謀事在人,
Thành sự tại thiên.
成事在天,
Nhân nguyện như thử như thử, 人願如此,如此,
Thiên lý vị nhiên
vị nhiên ! 天理未然,未然!
Có nghĩa :
Mưu tính công việc là ở người, còn...
Thành công hay thất bại là do trời,
Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây,
nhưng...
Cái lẽ
trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được
!
Gia Cát Khổng Minh là người giỏi
cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa
lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất
nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập
nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại,
cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ
là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã
nêu trên.
Con người khi còn nằm trong bụng
mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên
Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy
trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày
phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm
sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc
sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc
sống thì gọi là Bi Thiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay
rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những
năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年.
Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong
cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được
vui hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời trong cuộc
sống!
Đỗ Chiêu Đức
Phiếm
về
ĐỊA
cũng là ĐẤT
Thổ 土 là Đất, Địa 地 cũng
là Đất, là Địa Cầu 地球 , là qủa đất mà
chúng ta đang cư trú. Theo bài học thuộc lòng của lớp Đồng
Ấu ngày xưa :
Đi
cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
Kìa
thế giới năm châu quanh quất,
Đường bao nhiêu thì đất bấy nhiêu,
Sông to núi lớn cũng nhiều,
Đường đi lối lại trăm chiều ngổn ngang...
Thế giới có Năm Châu Bốn Biển.
Năm Châu
là :
Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu
Mỹ và Châu Úc ( còn gọi là Châu Đại Dương ).
Nhưng theo quy ước của đa số các nước trên thế giới thì
có đến 6 Châu, vì sau nầy người ta còn khám phá ra một
vùng đất mới ở Nam Cực, gọi là Châu Nam Cực. Nhưng... lại
nhưng, theo Mỹ thì Châu Mỹ gồm 2 châu lục là Nam Mỹ Châu
và Bắc Mỹ Châu. Nên Thế Giới của người Mỹ có đến
7 châu lục, chớ không còn là 5 châu nữa ! Còn ...
Bốn Bể là bốn Đại Dương gồm có : Thái Bình Dương,
Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương.
Ngày trước còn có thêm một Nam Băng Dương nữa, vì
người ta cứ ngỡ là nếu băng tan chảy hết thì sẽ là
một đại dương như ở vùng Bắc Cực, nhưng nay đã biết
rằng nó là một châu lục : Châu Nam Cực chớ không phải
là một băng dương nữa !
Bốn Biển là do từ Tứ
Hải 四海 của người Hoa mà ra. Khi xưa, khoa học địa lý
chưa phát triển, người Hoa cứ tưởng Thiên Hạ là đất
Trung Nguyên, và mảnh đất nầy được bao quanh bởi 4 biển Đông
Tây Nam Bắc. Theo cái Thế Giới Quan nầy, Bốn Biển tức là Thiên
Hạ đó, cho nên trong thi từ ca phú của văn học xưa hay nhắc
đến câu : Tứ Hải giai Huynh đệ 四海皆兄弟 là
" Bốn bể đều là anh em ". Vân du tứ hải 雲遊四海
là : Lang bạt khắp nơi, và để chứng tỏ có chí hơn
người còn lớn giọng mà ngâm rằng : Đại trượng
phu tứ hải vi gia 大丈夫四海為家 là : Đấng
đại trượng phu thì lấy bốn biển làm nhà, để tỏ
ra ta đây có chí lớn !
Trở lại với từ Địa Cầu 地球 là
Trái Đất, là hành tinh xanh trong Thái dương hệ có sự
sống của trên hàng triệu sinh vật, trong đó có con người,
có chúng ta. Chữ Địa 地 vốn nghĩa là "Mảnh đất"
thuộc bộ Thổ 土 là Đất theo diễn tiến của chữ viết
như sau :
Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Cách tính
năm theo Tử Vi Đẩu Số thì trên có Thiên Can 天干 là
: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Qúy 甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸,
gọi là Thập vị Thiên Can; còn dưới thì có Địa Chi
地支 là: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân
Dậu Tuất Hợi 子、丑、寅、卯、辰、巳、午、未、申、酉、戌、亥",
gọi là Thập Nhị Địa Chi. Cứ một Thiên Can thì ghép với
một Địa Chi, như :
Giáp
ghép với Tý là Giáp Tý 甲子.
Ất ghép
với Sửu là Ất Sửu 乙丑.
Bính ghép với Dần là Bính Dần 丙寅
...cứ thế mà ghép... Nhưng vì Thiên Can chỉ có 10 mà Địa
Chi đế 12, cho nên ghép đến khi giáp một vòng trở lại Giáp
Tý là 60 năm. Nói cho dễ hiểu : Đứa bé nào sanh ra trong
năm nay là năm Mậu Tuất 2018 ( 1 tuổi ), thì đến năm 61 tuổi
ta cũng sẽ là năm Mậu Tuất ( 2078).
Thập Nhị Địa Chi còn dùng
để tính giờ theo Tử Vi Đẩu Số, như :
* Giờ Tý là từ 11 giờ đêm
hôm trước cho đến 01 giờ sáng của ngày hôm sau. Cho nên
ta mới thường nghe câu :
Nửa
đêm, giờ Tý, canh ba,
Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi !
... tất cả đều "sem-sem" như nhau !
* Giờ
Sửu là từ 01 giờ đến 03 giờ sáng.
* Giờ
Dần là từ 03 giờ đến 05 giờ sáng. Nên ta mới có câu
: " Trời sáng giờ Dần, Nắng lên giờ Mão ". Vì...
* Giờ Mão là từ 05 đến 07 giờ sáng. Nên các cụ
Đồ xưa lại có câu :
Mạc ẩm Mão thời tửu, 莫飲卯時酒,
Hôn
hôn túy đáo Dậu. 昏昏醉到酉。
Có nghĩa
:
Đừng bao giờ uống rượu vào
giờ Mão, vì sẽ...
Say say xỉn xỉn
cho đến giờ Dậu (là 05 giờ chiều đến 07 giờ tối).
Vậy là suốt ngày sẽ say xỉn mà không làm ăn
gì được cả !, Và vì ...
* Giờ Dậu
là từ 05 giờ chiều cho đến 07 giờ tối, nên lại có câu
:
Mạc
mạ Dậu thời thê, 莫罵酉時妻,
Nhất dạ thụ cô thê. 一夜受孤悽。
Có nghĩa :
Đừng mắng vợ vào
giờ Dậu, vì mắng vào giờ nầy thì...
Suốt đêm phải chịu cô đơn lạnh lẽo một mình !(
Vợ chồng cải lộn vào buổi chiều tối thì suốt đêm
cũng sẽ chẳng "làm ăn" gì được cả !). Ông bà
ngày xưa cũng "tâm lý" chán !
Địa
地 là Đất, cho ta các từ Địa Cầu 地球 là Trái
đất; Địa Xác 地壳 là Vỏ trái đất, Địa Chất
地質 là Chất cấu tạo và giá trị lịch sử của các
lớp đất, Địa Tâm 地心 là Lòng đất, Địa tâm
dẫn lực 地心引力 là Sức hút của lòng trái đất
tạo nên trọng lượng trên mặt đất ... Nếu bỏ chữ Tâm
ra phía trước ta sẽ có từ ...
* Tâm Địa
心地 : Chỉ lòng dạ sâu kín của con người, như Tâm
Địa Thiện Lương 心地善良 là Lòng dạ hiền lành;
Tâm Địa Hiễm Độc 心地險毒 là Lòng dạ nham hiễm
ác độc, như cô Kiều đánh giá Sở Khanh :
Nàng
rằng thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiễm sâu.
hay như cụ
Nguyễn Du nói về Hoạn Thư :
Bề
ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiễm giết người không dao !
Trong tiếng
Nôm ta cũng có từ " Độc Địa " vốn để chỉ "
Tâm địa độc ác ", nhưng sau dùng rộng ra để chỉ
tất cả những thứ gì có hại, không có lợi, như : Món
ăn đó độc địa lắm; lời nói đó thật độc
địa....
Mặt đất bằng phẵng thì
gọi là Bình Địa 平地, nên thành ngữ Bình Địa
Ba Đào 平地波濤 là Đất bằng dậy sóng, như khi
về nhà thấy Thúc Sinh đã chuộc Thúy Kiều là một cô
gái lầu xanh về chung sống, Thúc Ông đã " sốt gan ông
mới cáo quỳ cửa công ", gây nên cảnh :
Đất Bằng Nổi Sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
.... và như
trong bửa tiệc đoàn viên, sau khi đã " Tàng tàng chén
cúc dở say " Thúy Vân mới đứng dậy phân bua :
Rằng : Trong tác hợp cơ trời,
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
Gặp
cơn Bình Địa Ba Đào,
Vậy
đem duyên chị buộc vào duyên em...
Bỏ hết đi phần ao hồ, sông ngòi,
biển cả, thì một phần ba còn lại của qủa địa cầu
nầy là Lục Địa 陸地, là phần Đất Liền mà chúng
ta đang ở. Lục 陸là Bờ bến, là đất liền, nên Đăng
Lục 登陸 là Đổ Bộ, như Đăng Lục Nguyệt Cầu 登陸月球
là Đổ Bộ lên mặt trăng; ; Thuỷ quân lục chiến 水軍陸戰
là Lính Thủy đánh bộ, Lục Quân 陸軍 là Lính tác
chiến trên bộ để phân biệt với Hải quân 海軍 là
Lính đánh nhau dưới biển và Không quân 空軍 là Lính
bay trên trời bỏ bom xuống !
Tất cả
đất đai trên bề mặt địa cầu đều gọi là Thổ
nhưỡng 土壤 hay Thổ Địa 土地. Đất để canh tác
ruộng nương là Điền Địa 田地, đất để ở
là Cư Địa 居地, ta gọi là Địa Cư. Cơ quan trông
coi và quản lý đất đai gọi là Địa Chính 地政.
Người sỡ hữu đất đai gọi là Địa Chủ 地主.
Hình thể của miếng đất là Địa Hình 地形, Cái
thế cao thấp hiễm trở hay thuận lợi của đất là Địa
Thế 地勢...
Địa 地 còn là
từ chỉ nơi chốn, như Địa Điểm 地點, Địa Chỉ
地址, Địa Phận 地份, Địa Khu 地區, Địa Bàn
地盤, Địa Đầu 地頭 ... Ta có thành ngữ :
* Địa Đầu Giới Tuyến 地頭界線 là nơi giáp ranh
biên giới với nước láng giềng, nơi mà các anh lính thú
ngày xưa trấn thủ lưu đồn, hay các anh lính chiến VNCH gát
giặc ở tiền đồn hiu hắt.
* Thử Địa
此地 là Đất nầy, là Nơi đây, như bài thơ ngũ
ngôn tứ tuyệt rất hay của Sầm Tham đời Đường như sau :
此地曾居住,
Thử địa tằng cư trú,
今來宛似歸。 Kim lai oản tự quy.
可憐汾上柳, Khả lân Phần thượng liễu,
相見也依依。
Tương kiến dã y y !
Có nghĩa :
Nơi
nầy trọ những năm qua,
Nay về thăm lại như là người thân.
Thương
thay hàng liễu sông Phần,
Gặp nhau quyến luyến như không nở rời !
Bề
mặt của Địa Cầu là Mặt Đất, Nơi sinh sôi nẩy nở
của các nguồn sống, kể cả động vật và thực vật, mà
cũng là nơi an nghỉ cuối cùng cho muôn loài vạn vật. Vui từ
đất mà ra, buồn cũng từ đất mà ra và oán hận thì
lại tìm về với đất. Ta hãy nghe lời thơ của Vi Thừa Khánh
韋承慶 với bài Nam Hành Biệt Đệ 南行別弟 (
Giả biệt em trai xuôi về Nam ):
澹澹長江水,
Đạm đạm Trường
giang thủy,
悠悠遠客情。 Du du viễn
khách tình.
落花相與恨,
Lạc hoa tương dữ hận,
到地一無聲。 Đáo địa nhất vô
thinh!
Nghĩa bài thơ :
Nước sông Trường Giang lửng lờ nhạt nhẻo trôi một cách
vô vị ( đạm đạm ), cũng như cái tình của kẻ xa quê
hương dài dằng dặc và dai dẵng kia ( du du ). Cánh hoa rụng cũng
tựa như cái hận sầu của kẻ xa quê, âm thầm rơi trên
mặt đất mà chẳng buồn gây nên một tiếng động nào
cả !
Ví hoa rụng như lòng kẻ lưu
vong, oán hận mà âm thầm không bày tỏ cùng ai được
!
DIỄN NÔM :
Lơ lửng nước Trường Giang,
Mênh mang tình viễn khách.
Hoa rụng hận chứa chan,
Im lìm không oán trách !
Lục bát :
Lửng lơ giòng nước Trường Giang,
Như tình viễn khách mênh mang bời bời.
Hận cùng như cánh hoa rơi,
Âm thầm trên mặt đất rồi lặng yên !
Bản viết tay của ĐCĐ năm 1972
Bề mặt
địa cầu còn có những cơn động đất làm sập đổ
lâu đài, chôn vùi thành phố, tạo nên những đợt sóng
thần cuốn trôi nhà cửa, hoa màu súc vật... mà ta gọi là
những cơn Địa Chấn 地震, tác hại lắm khi còn hơn cả
chiến tranh. Trong chiến tranh thì ta có các từ về Địa như :
- Địa Lôi 地雷: Ta quen gọi là mìm, chôn dưới đất.
- Địa Đạo 地道 hay Địa Huyệt 地穴 là những
con đường hay hang hầm được đào ở dưới đất nhằm
phục vụ cho chiến tranh du kích.
- Địa Cần 地勤 : là
những chuyên viên kỹ thuật của Không Quân phục vụ ở sân
bay dưới đất.
- Chiến Địa 戰地: là Nơi mà
hai bên dàn quân để đánh nhau, như trong Chinh Phụ Ngâm của
nữ sĩ Đoàn Thị Điểm :
Xưa nay chiến địa dường
bao.
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Chiến Địa còn
gọi là Chiến Trường 戰場 hay Chiến Tuyến 戰線. Nhắc
đến từ chiến tuyến lại làm ta nhớ đến lời hát của
bài hát "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" của nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông :
... Dù
nơi chiến tuyến ... mịt mờ mưa bay, Lòng anh vẫn nhớ
... tình người hôm nay...
Nói đến chữ Địa, ta không
thể không nhắc đến Địa Lý 地理, Địa Lý là
cái Lý của Đất, là môn học chuyên nghiên cứu về
các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng
trên mặt Đất. Từ xa xưa đã có môn học nầy rồi,
nên ta hay nghe các cụ khen những tướng cầm quân tài giỏi như
Khổng Minh Gia Cát Lượng là " Trên thông Thiên Văn, dưới
thông Địa Lý ", biết lúc nào thì trời có mưa gió
sương mù, biết nơi nào có địa thế núi non hiễm trở
mà điều binh khiển tướng...
Địa
Lý còn là những địa hình phong thủy có liên quan mật
thiết đến đời sống con người mà các thầy Địa Lý
phong thủy đã bày vẽ thêm để hù dọa và ăn tiền
của những người cả tin nhẹ dạ. Ví vụ như nói " Nhà
ở phải Bối Sơn Diện Thủy 背山面水 ". Có nghĩa
là : Nhà ở phải cất xây mặt về hướng có nước
và phía sau nhà phải dựa vào núi cho vững chãi. Điều
nầy rất hợp với thực tế của cuộc sống mà không cần
phải có thầy Địa Lý nói ta cũng thấy được : Nhà
cất xây mặt về hướng sông nước sẽ dễ dàng cho việc
lấy nước uống, chài lưới và tiện lợi cho việc giao thông
bằng đường thủy... Sau nhà có núi sẽ dễ dàng cho việc
tìm củi, hái rau trái, săn chim muông, thú rừng... Nên dân
gian mới có câu nói mĩa mai rằng :
Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy Địa Lý hàm răng chẳng còn !
Địa Lý thế giới
Địa Trung Hải
Học Địa Lý
thế giới còn để mở rộng thêm kiến thức, biết thêm
nhiều Địa Phương 地方 và Địa Danh 地名 của những
nước khác, đồng thời cũng biết được thêm nhiều phong
tục tập quán của tất cả các dân tộc trên thế giới
nầy. Học Địa Lý để biết được rằng trong một phần
ba đất liền nhỏ bé của Địa Cầu còn có một cái
biển mà mấy năm nay đã nhấn chìm và chôn xác biết
bao người Libya, Syria, Irak, châu Phi ... tìm cách vượt biên sang Châu
Âu để tìm đất sống mới. Đó chính là Địa
Trung Hải 地中海, phần biển cả ở giữa châu Á châu
Phi và châu Âu.
Học Địa Lý
để còn biết được cái Địa Vị 地位, cái chỗ
đứng của nước ta trong Đông Nam Á và trên trường quốc
tế quan trọng đến cở nào, tác động đến những nước
chung quanh ra sao, để còn biết tự hào mà đóng góp công
sức nhỏ nhoi của mình để xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Địa Vị 地位 là cái
Vị trí địa lý được đặt để bởi thiên nhiên
cho một nơi, một địa phương hay một nước. Dùng rộng ra
Địa Vị còn chỉ vị trí, chức vụ, quyền hạn của một
người nào đó trong công ty, trong xã hội... Nhưng ở đời
hễ " Càng cao danh vọng thì càng dày gian nan ". Biết
thế nhưng mọi người đều muốn với cao hơn để có một
địa vị xã hội mà mình hằng mong ước, cho dù " gian
nan" cũng mặc !
Địa là đất, đất
linh thiêng sẽ sản sinh ra người tài giỏi, như đất Hoa Lư sản
sinh ra Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh , đất Lam Sơn sản sinh ra Bình
Định Vương Lê Lợi, đất Bình Định sản sinh ra vua Quang
Trung Nguyễn Huệ... Nên ta có thành ngữ Địa Linh Nhân Kiệt 地靈人傑
: Cuộc đất linh thiêng sẽ tạo nên những anh hùng hào kiệt.
Thành ngữ này có xuất xứ từ bài " Đằng Vương
Các tự 滕王閣序 " của Vương Bột 王勃, một
trong Tứ kiệt đời sơ Đường :
Vương Bột 王勃 (650-676), tự
là Tử An 子安, người đất Giáng Châu, Long Môn (tỉnh
Sơn Tây ngày nay) cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Châu
Hoan. Giao Chỉ. Lên sáu tuổi đã nổi tiếng thần đồng, thuộc
làu kinh sử. 14 tuổi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của
triều đình. Năm 16 tuổi trên đường đi thăm cha, hay tin Đô
Đốc Diêm Bá Dư trấn nhậm Hồng Châu trùng tu Đằng Vương
Các mở cuộc thi thơ văn và khoản đãi tân khách bốn
phương. Chủ ý muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương,
nên đã cho Chương trau chuốt sẵn một bài phú thật
hay để ngày hôm đó viết lại. Bột hay tin muộn, thời may
có cụ già mách cho Bột rẻ thuyền vào Chương Giang sẽ có
gió giúp đưa đến Đằng Vương Các. Bột nghe theo lời,
đến đêm quả có gió lớn nổi lên chỉ trong một đêm
mà vượt qua 800 dặm đường ( có thể là nhờ gió của
đêm Trùng Cửu mùng 9 tháng 9 ). Kịp lúc Đằng Vương
Các vừa phát giấy bút chiêu đãi khách làng văn. Thấy
Bột chỉ là một thằng bé con, Đô Đốc Diêm Bá Dư
không muốn cấp giấy bút, nhưng Bột kiên quyết muốn làm
văn. Diêm bèn cho người đứng phía sau lưng Bột, hễ Bột
viết được câu nào thì chép lấy dâng đến cho Diêm
xem, hễ thấy không xong là tống cổ ra khỏi buổi tiệc ngay. Khi Bột
mở đầu bài văn bằng câu : Nam Xương cố quận, Hồng Đô
tân phủ 南昌故郡,洪都新府 ( Xưa là quận
Nam Xương, nay là phủ Hồng Đô ), thì Diêm cười và bảo
: Cũng là sáo ngữ của các thầy Đồ Nho mà thôi. Đến
câu : Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hành Lư 星分翼軫,地接衡廬
( chỉ địa thế của Đằng Vương Các : Phân chia giữa sao
Dực và sao Chẩn, còn đất thì nối tiếp giữa Hành Sơn
và Lư Sơn ) thì Diêm lặng thinh. Lại đến câu
: Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu đẩu chi Khư. Nhân kiệt địa
linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 物華天寶,龍光射牛斗之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻
( Của đẹp báu trời, ánh long quang chiếu sao Ngưu sao Đẩu; Đất
linh người giỏi, cao nhân Từ Trĩ hạ giường Trần Phồn ) thì
Diêm lại tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Kịp đến câu : Lạc hà
dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色
( Ráng chiều cò trắng cùng bay, Long lanh thu thủy nước mây một
màu ) thì ông không còn dằn được cảm xúc, vỗ bàn
đứng dậy khen là tuyệt cú ! Rồi giấu nhẹm luôn bài phú
làm sẵn của con rể không dám trình làng. Vương Bột nổi
tiếng luôn từ đấy và bài Tự của Vương Bột cũng
được lưu truyền thiên cổ với các câu trở thành Thành
Ngữ như :
* Lão Đương Ích Tráng 老當益壯 : Già mà
còn mạnh khỏe.
*
Cùng Thả Ích Kiên 窮且益堅 : Nghèo mà biết kiên
trì phấn đấu.
* Thiên Cao Địa Quýnh 天高地迥
: Trời cao đất rộng.
* Hứng Tận Bi Lai 興盡悲來 :
Hết vui tới buồn.
* Quan San Nan Việt 關山難越
: Núi non khó vượt.
* Bình Thủy Tương Phùng
萍水相逢 : Bèo nước gặp nhau .....
Vì tích của Vương Bột,
nên ta lại có câu :
Thời
lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣
Có nghĩa :
Khi thời đã đến rồi
thì sẽ có gió đưa đến Đằng Vương Các ngay. Trong
Truyện Kiều để tả tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư
với Thúc Sinh, cụ Nguyễn Du cũng mượn tích nầy :
Duyên
Đằng thuận nẽo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày. ... và như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca
của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, bài thứ 8 tả
lại mối tình giữa Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử
có câu :
Tiên-dung gặp buổi đi chơi,
Gió đưa Đằng-Các, buồm xuôi Nhị-Hà,
Hay như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả lại mối tình tiên
tục giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cũng có câu :
Gác Đằng Vương mấy dặm khơi,
Có duyên đành đã gió trời thổi đưa.
Trên trời thì có Thiên Đàng, tương
tự dưới đất cũng có Địa Đàng. Nhưng Vườn Địa
Đàng trong Kinh Thánh là câu chuyện thường được sử
dụng để giải thích nguồn gốc của tội lỗi và sai phạm
của con người. Theo quan niệm Á Đông thì đối chiếu với
Thiên Đàng 天堂 nơi dành cho những người tốt, là Địa
Ngục 地獄, nơi mà những người xấu xa tội lỗi phải bị
đày đọa trừng trị. Phật Giáo thì gọi là Địa
Ngục A Tỳ 地獄阿鼻, Tiếng Phạn là Avīci Naraka. A Tỳ là
Không gián đoạn, nên A Tỳ Địa Ngục là nơi những người
ác phải chịu khổ nhục liên tục không gián đoạn. Theo Đạo
Giáo thì 18 Tầng Địa Ngục do Thập Điện Diêm Vương cai
quản, và A Tỳ Địa Ngục nằm ở tầng thứ 18 nầy, dùng
để chứa những người làm ác nhất thiên hạ !
Địa Tạng Vương Bồ-tát 地臟王菩薩 là
vị Bồ tát giàu lòng nhân ái, được biết đến
bởi lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo
luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn
cho đến khi Bồ-tát Di Lặc hạ sanh, và nguyện không chứng Phật
quả nếu địa ngục chưa trống rỗng. Ngài qủa là vị Bồ-tát
của chúng sinh dưới địa ngục. Hình tượng trên các
bàn thờ Phật của Ngài trong các đám tang, đội mũ thất
phật và mặc cà-sa màu đỏ, có tạo dáng giống như
là Đường Tăng trong Tây Du Ký vậy.
Địa Tạng Vương Bồ-tát 地臟王菩薩
Con người sống giữa
trời đất, hợp với trời đất thành TAM TÀI 三才 : THIÊN
ĐỊA NHÂN 天地人, nên hễ có bất cứ sự cố vui
buồn gì xảy ra là cứ lôi cả trời đất vào trong cuộc
sống của con người, vì thế mà ta có rất nhiều thành ngữ,
khẩu ngữ liên quan đến Trời Đất như :
1. Đĩnh
Thiên Lập Địa 頂天立地 : Ta nói là Đội trời
đạp đất.
2. Kinh Thiên Động Địa 驚天動地
: Ta nói là Động trời động đất.
3. Hôn
Thiên Ám Địa 昏天黯地 : Ta nói là Tối trời tối
đất.
4. Phiên Thiên Phúc Địa 翻天覆地
: Ta nói là Nghiêng trời lở đất.
5. Mai Thiên Oán
Địa 埋天怨地 : Ta nói là Than trời trách đất.
6. Đàm Thiên Thuyết Địa 談天說地 : Ta nói
là Nói trời nói đất.
Nói đủ
thứ chuyện trên trời dưới đất.
7. Hoa Thiên Tửu
Địa 花天酒地 : Hoa trời rượu đất, ý nói là
:
Ăn chơi đàn điếm mút mùa. Ăn chơi lu bù trời
đất.
8. Hồ Thiên Hồ
Địa 胡天胡地 : Quậy trời quậy đất, ý nói là
: Quậy cho tới bến. Quậy đến nỗi không còn biết trời đất
gì cả!
9. Hoan Thiên Hỉ Địa 歡天喜地 :
Mừng trời vui đất, ý nói là : Vui mừng qúa đỗi.
Vui qúa trời qúa đất !
10. Tạ Thiên Tạ Địa 謝天謝地
: Ta nói là Tạ trời tạ đất, là : Cám ơn trời cám
ơn đất, là Cám ơn Trời Đất! Mười
thành ngữ trên, lúc còn đi học, chúng tôi gọi cho vui là
" Thập Đại Thiên Địa 十大天地 ". Mười cái
TRỜI ĐẤT lớn nhất mà ta thường thấy trong cuộc sống hàng
ngày !
Từ Địa cuối cùng của bài viết nầy
là từ Nghĩa Địa 義地 : Vốn là nơi công cộng để
chôn cất người nghèo; sau nầy là những nơi của tư nhân
mua để cho người trong dòng họ chôn cất hay của đoàn thể,
đồng hương mua để an táng người qúa cố. Ở Việt
Nam ta thì thường là của người Quảng Đông hay Triều Châu
lập nên để chôn cất đồng hương. Nghĩa Địa 義地
âm Quảng Đông là " Dì tì "; âm Triều Châu là
" Nghì tỳ ", nên người Việt ta đọc trại thành "
Nhị Tì ", và vì vậy mà ta có kiểu nói để chỉ
cái chết là " Hui Nhị Tì nhập thổ ", hay đơn giản hơn
là: " Nó đã Hui Nhị Tì rồi !"
Từ Nhị
Tì lại làm cho ta nhớ đến bài hát " Nủa Đêm Ngoài
Phố " của Trúc Phương là :
... Buồn vào hồn không tên. Thức giấc nửa đêm nhớ
chuyện xưa vào đời. Đường phố vắng đêm nao quen một người. Mà yêu thương
trót trao nhau trọn đời.... đã được các
danh hài Tùng Lâm, Phi Thoàng sửa lại thành : ... Buồn vào hồn
Ma-ri, tôi nhớ cái đêm nàng đi dưới ánh đèn bên
Nhị Tì, nàng bước tới... trao tôi...khúc bánh mì, và
đưa luôn cho con gà rô-ti ...
Xin được
kết thúc bài viết nầy, không phải với " Thâp Đại Thiên
Địa ", mà với... khúc bánh mì , và... con
gà rô-ti, nhưng không có Nhị Tì. Ở Mỹ nầy chỉ
có Funeral home ( nhà Tang lễ ) và nhà Hỏa táng mà thôi ( Đất
chôn người chết mắc quá không kể !)..
Đỗ
Chiêu Đức
Chân
dung Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn
Văn Siêu 阮文超 (1798-1872)
tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜班, hiệu Phương
Đình 方亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽昌居士,
thuỵ Chí Đạo 志道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì,
tỉnh Hà Đông. Đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh.
Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi
tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là "thần
Siêu thánh Quát". Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức án
sát, có sang sứ Trung Hoa.
Nguyễn Văn Siêu
sáng tác rất mạnh, các tác phẩm của ông khá đồ
sộ. Về thơ ca, cơ bản ông có các tập thơ:
- Anh ngôn
thi tập 英言詩集 (2 quyển, 141+162 bài) gồm các bài
thơ sáng tác khi ông ở Thăng Long
- Lưu lãm tập 流覽集 (2
quyển, 177+128 bài) gồm các bài thơ sáng tác khi ông ở Huế
- Mạn hứng thi tập 漫興詩集 (187 bài) gồm các bài
thơ sáng tác khi ông rời Huế về Thăng Long
- Vạn lý tập ...
( nguồn : Thiviennet )
Vua Tự Đức đã từng
khen :
Văn
như SIÊU QUÁT vô Tiền Hán,
để chỉ văn tài siêu việt của Nguyễn Văn Siêu và
Cao Bá Quát, nhưng có biết đâu rằng Nguyễn Văn Siêu cũng
giỏi thơ không thua TÙNG TUY chút nào cả !
Mời đọc các bài thơ
sau của Nguyễn Văn Siêu sẽ rõ !...
1. Bản chữ Hán cổ
của bài Xuân Nhật Hiểu Khởi :
春日曉起 XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI
t
宿火明書牖,
Túc hỏa minh thư dũ,
曉鍾聞佛臺。 Hiểu
chung văn Phật đài.
主人催被起, Chủ
nhân thôi bị khởi,
小子報花開。 Tiểu
tử báo hoa khai.
夜氣融孤竹, Dạ khí
dung cô trúc,
晴光弄小梅。 Tình quang lộng
tiểu mai.
流鶯囀不已, Lưu oanh chuyển bất
dĩ,
應有故人來。 Ưng hữu cố nhân lai
!
阮文超 Nguyễn
Văn Siêu
* Chú Thích :
- Túc
Hỏa : Đèn hoặc nến ban đêm để thắp sáng.
- Thư
Dũ : Cửa sổ bên bàn học.
- Hiểu Chung : Chuông chùa công
phu buổi sáng.
- Thôi Bị Khởi : Đẩy cái mền ra ngồi
dậy, ý chỉ thức giấc.
- Tiểu Tử : Ở đây không
có nghĩa là CON NHỎ mà là Tiểu Đồng, Thư Đồng
để đối với chữ CHỦ NHÂN ở trên.
- Dung : là
Hòa, Tan, lẫn vào.
- Tình Quang : là Ánh Nắng.
-
Chuyển : là Uyển Chuyển, là tiếng hót véo von, líu lo.
- Ưng Hữu : Chắc có, Có thể có.
* Nghĩa Bài Thơ :
SÁNG XUÂN THỨC GIẤC
Đèn
đêm còn chiếu sáng song cửa sổ, đã nghe tiếng chuông công
phu buổi sáng ở Phật đài. Chủ nhân vừa tung chăn thức giấc
thì tiểu đồng đã báo cho biết là hoa sáng đã nở
rồi. (Mở cửa ra thì thấy) Hơi đêm còn như đang tan vào
bụi trúc cô đơn trước ngõ và ánh nắng ban mai le lói
như đang ghẹo cành mai nhỏ trước sân, tiếng chim oanh bay lượn
không ngừng hót líu lo, như báo trước chắc là có bạn
cũ đến chơi.
* Diễn Nôm :
Đèn
đêm còn soi song cửa,
Đã nghe chuông sớm ngân nga.
Chủ nhân tung chăn thức giấc,
Tiểu đồng báo sáng nở hoa.
Hơi đêm tan vào tre lạnh,
Nắng sớm ghẹo cội mai già.
Tiếng oanh líu lo không ngớt,
Chắc là bạn đến thăm ta !
Lục bát :
Đèn còn hắt sáng cửa song,
Phật đài đã vẳng chuông ngân đầu ngày.
Chủ nhân thức giấc vươn vai,
Thư đồng đã báo nở vài cành hoa.
Hơi đêm nhành trúc la đà,
Vài tia nắng sớm ghẹo hoa mai vàng.
Chim oanh ríu rít rộn ràng,
Chắc là có bạn thuận đàng ghé chơi !
Đỗ
Chiêu Đức
2. Bản chữ Hán cổ bài
Hiểu Tọa :
曉坐
t HIỂU TỌA
曉坐對茶甌,
Hiểu tọa đối trá âu,
空心懶應接。
Không tâm lãn ứng tiếp.
雞鳥聲復聲,
Kê điểu thanh phục thanh,
晴雲布亂蝶。 Tình
vân bố loan điệp.
阮文超
Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích
:
- Trà Âu : Bình sành, chén sành dùng để uống
trà.
- Lãn : là Lười biếng.
- Tình Vân
: là Mây tạnh, là Trời quang mây tạnh.
- Bố : là Phân
tán, rải khắp.
* Nghĩa Bài
Thơ :
Ngồi Chơi Buổi Sáng
Buổi
sáng ta ngồi đối diện với bộ đồ trà mà trong lòng
cảm thấy trống trải, lười biếng không muốn ứng tiếp với
ai cả. Hết tiếng gà gáy rồi tiếng chim kêu nối tiếp nhau, trời
quang mây tạnh nên đàn bướm đổ xô ra bay loạn khắp nơi (
thật là bực mình hết sức !).
Qủa là, người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ ! Ngồi uống trà buổi sáng, trời quang mây tạnh,
có gà gáy, có chim hót, có bươm bướm lượn bay, cảnh
đẹp là thế, nhưng vì tâm lý của tác giả không vui,
nên mới đâm ra uể hoải lười biếng chẳng muốn giao tiếp
với ai và bực mình cả với tiếng gà gáy chim kêu bướm
lượn !
* Diễn Nôm :
Sáng ngồi trước ấm trà,
Lòng
buồn chẳng thiết tha.
Gà gáy rồi chim hót,
Mây tạnh bướm nhởn nha
Lục bát :
Sáng buồn ngồi trước bình trà
Cỏi lòng trống trải chẳng tha thiết gì
Chim kêu gà gáy liền khi,
Trời
quang lũ bướm loạn phi khắp cùng !
Đỗ Chiêu Đức
3. Bản chữ Hán cổ của bài thơ
Tĩnh Tọa :
靜坐
t
TĨNH TỌA
書永午雞辰一叫,
Thư vĩnh ngọ kê thần nhất khiếu
簾垂到地人過少。
Liêm thùy đáo địa nhân qua thiểu.
無風半樹微微搖,
Vô phong bán thụ vi vi diêu,
葉裡打蟲穿出鳥。
Diệp lý đả trùng xuyên xuất điểu.
阮文超
Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích
:
- Tĩnh Tọa : còn được đọc là Tịnh Tọa, là
Ngồi yên một chỗ.
- Thư : là Động từ, có nghĩa
là Đọc sách.
- Ngọ Thần : là Giờ Ngọ; Ngọ Kê
Thần : là Con gà gáy vào giờ Ngọ.
- Đả Trùng
: Không phải Đánh Sâu, mà là Bắt Sâu.
- Xuyên Xuất
: là Chui ra.
* Nghĩa Bài Thơ :
Lặng Ngồi
Đọc sách
cho đến lúc gà gáy trưa gáy lên, Ta lặng ngồi trong phòng
có rèm phủ đến mặt đất và rất ít người qua
lại mà ngắm cảnh bên ngoài. Trời không có gió lớn nên
nửa thân cây chỉ hơi giao động, ta thấy một con chim bắt sâu
chui ra khỏi đám lá xanh !
* Diễn Nôm :
Lặng Ngồi
Đọc
sách đến trưa gà gáy nắng,
Buông rèm tới đất người qua vắng.
Gió yên cây lặng lá lay lay,
Trong lá bắt sâu chim một móng !
Lục bát :
Đọc
sách đến gà gáy trưa,
Rèm
buông sát đất đường thưa vắng người,
Gió yên cây lặng êm trời,
Chui ra trong lá chim loài bắt sâu !
Đỗ Chiêu Đức
4. Bản chữ Hán cổ của bài thơ Đình Tiền Bộ Nguyệt
:
庭前步月
ĐÌNH TIỀN BỘ NGUYỆT
掃地焚香坐, Tảo địa phần hương tọa,
空心待月生。 Không tâm đãi nguyệt sanh.
清影移梅至,
Thanh ảnh di mai chí
西廂遶竹行。 Tây sương nhiễu
trúc hành.
阮文超
Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích
:
- Đình : là Sân nhỏ ở trong khuôn viên nhà; ĐÌNH
TIỀN là Trước sân.
- Phần Hương : là Đốt nhang,
thắp hương.
- Đãi Nguyệt Sanh : là Đợi trăng mọc.
- Tây Sương : là Mái nhà mé tây.
- Nhiễu :
là Vòng quanh
* Nghĩa Bài Thơ :
Đi Bách Bộ Ngắm Trăng Trong Sân Nhà
Quét sạch đất, thắp nhang rồi ngồi đó, giữ cho lòng
thanh thản để đợi trăng lên. Cái bóng của cây mai thanh thanh
đang di chuyển đến gần ta, thì ra trăng đã lên rồi, ta theo
hướng mái tây mà đi vòng theo những hàng tre bên đó.
Từ TÂY SƯƠNG ( Mái
Tây ) làm cho ta nhớ đến bài thơ trong Tây Sương Ký của
Nguyên Chẩn đời Đường :
待月西廂下,
Đãi nguyệt Tây sương hạ,
迎風戶半開。 Nghinh phong hộ bán khai.
拂墻花影動,
Phất tường hoa ảnh động,
疑是玉人來。
Nghi thị ngọc nhân lai.
Có nghĩa :
Đợi trăng dưới mái tây,
Cửa hé gió hây hây.
Bên tường hoa lay động,
Phải người ngọc tới đây ?!
Đỗ Chiêu Đức
* Diễn
Nôm :
Quét đất thắp hương ngồi,
Thảnh thơi chờ trăng mọc.
Bóng mai đã di dời,
Mái tây vòng tre trúc !
Lụcbát :
Thắp
hương quét đất ta ngồi,
Thảnh thơi đợi giữa lưng trời trăng lên.
Bóng mai đã xế kề bên,
Vòng theo bờ trúc bên thềm mái tây !
Đỗ
Chiêu Đức
5. Bản chữ Hán cổ của bài thơ Thu Dạ Thính Vũ :
秋夜聽雨
THU DẠ THÍNH VŨ
海國三秋半,
Hải quốc tam thu bán,
山城一雨初。 Sơn thành
nhất vũ sơ.
寂寥群動息, Tịch liêu quần
động tức,
涓滴夜聲疏。 Quyên trích dạ
thanh sơ.
隨葉空庭際, Tùy diệp không đình
tế,
敲金萬瓦餘。 Xao kim vạn ngõa dư.
還家此夕夢,
Hoàn gia thử tịch mộng,
不畏路沮洳。 Bất uý
lộ tự như.
阮文超
Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích :
- Hải Quốc : Tỉnh thành
ở gần biển hay Các nước ở sát bờ biển như VN ta vậy.
- Tịch Liêu : Tịch mịch cô liêu là Buồn bã vắng
vẻ.
- Quyên Trích : Tiếng mưa dột lộp độp, tí
tách.
- Xao Kim : là Gỏ vào kim loại.
- Ngõa
: là Ngói lợp nhà.
- Tự Như : là Bùn sình lầy
lội.
* Nghĩa Bài Thơ :
Đêm Thu Nghe Mưa
Ở gần vùng biển đã
hơn ba mùa thu rồi, cái thành ở trên núi cao nầy bắt đầu
vào mùa mưa. Mọi hoạt động đều ngưng trệ trong vắng
lặng buồn bã, tiếng mưa cứ thánh thót rơi đều suốt
đêm, tiếng lá cây cứ xào xạt trong sân và hạt mưa
đập lên muôn vạn tấm ngói trên mái nhà như tiếng
kim loại chạm vào nhau. Đêm nay nếu như mơ được về nhà
thì không phải sợ đường xa trơn trợt lầy lội nữa !
* Diễn
Nôm :
Hơn
ba thu gần biển,
Thành cao mưa vào mùa.
Buồn thiu ngày vắng lặng,
Rả rít đêm gió lùa.
Lá xạc xào sân vắng,
Ngói tí tách nước khua.
Mộng về đêm nay sẽ,
Chẳng sợ đường lầy mưa !
Lục Bát :
Gần
biển hơn ba năm nay,
Thành cao trên núi mưa ray rức buồn.
Im
lìm vắng lặng mưa tuôn,
Tí ta tí tách mưa luồn suốt đêm.
Xạc xào sân vắng bên thềm,
Ngói khua chí chát như kim loại hòa.
Đêm nay nếu mộng về nhà,
Sẽ không phải sợ mưa sa bùn lầy !
Đỗ Chiêu Đức
6. Bản chữ Hán cổ
của bài thơ Dã Khê Độ :
野溪渡 DÃ
KHÊ ĐỘ
細雨埋前路, Tế vũ mai tiền
lộ,
飛花斷野橋。 Phi hoa đoạn dã kiều.
小童簑笠宿, Tiểu đồng toa lập túc,
孤艇隔鸂招。 Cô đĩnh cách khê chiêu.
阮文超
Nguyễn Văn Siêu
* Chú
Thích :
- DÃ KHÊ Độ : là Bến đò Dã Khê.
- Tế Vũ : Mưa bụi, mưa lất
phất.
- Mai : là Chôn, ở đây có nghĩa là Che lắp.
- Đoạn : là Đứt, là Gãy, ở đây có nghĩa
là Làm cho bít lối.
- Toa Lạp 簑笠 : Còn đọc
là Thoa Lạp, là Áo tơi nón lá.
- Cô Đĩnh
: Chiếc xuồng con nho nhỏ đơn độc.
- Chiêu : là (đưa
tay) Ngoắt, gọi.
* Nghĩa Bài Thơ :
Bến Đò DÃ KHÊ
Mưa lất
phất rơi làm mờ mịt cả con đường trước mắt, hoa rụng
bay khắp lối che khuất cả chiếc cầu ngoài đồng nội. Một
chú bé con chèo đò nho nhỏ với nón lá áo tơi đang
ngủ trên chiếc xuồng con, mặc cho khách ở bên kia bờ sông đang
vẩy tay réo gọi !
* Diễn Nôm :
Trước mặt mưa che lối,
Cầu khuất trong hoa rơi.
Tiểu đồng say giấc bướm,
Mặc khách gọi ới ơi !
Lục bát :
Mưa
rơi che khuất đường dài,
Hoa bay phủ kín cầu ngoài đồng không.
Áo tơi nón lá giấc nồng,
Đưa đò say ngủ... mặc lòng khách kêu !
Đỗ Chiêu Đức
Tháng 6
năm 2018.
_____________________________________________________________________
Biên Khảo
CÁC CÂU ĐỐI HIỆP THIÊN CUNG CÁI RĂNG
Bước
vào vòng rào của Hiệp Thiên Cung, ta thấy ngay đôi câu đối
chữ vàng viết trên đôi cột to màu đỏ như sau :
聖
駕 賁 臨, 欣 蒙 到 處 即
福 地,
Thánh giá bí lâm, hân mông đáo xứ tức phước địa,
神
恩 戾 止, 且 觀 這 裡 樂
春 光。
Thần ân lệ chỉ, thả quan giá lý lạc xuân quang.
Chú thích :
* Thánh Giá : Từ
gọi chung Thần Thánh hoặc Vua Chúa.
* Bí Lâm : là ăn
mặc đẹp đẽ tề chỉnh để đến đâu đó.
* Hân Mông : Vui mừng mà mang ơn.
* Đáo Xứ : là
Khắp nơi, là nơi mà thần ngự đến.
* Lệ Chỉ
: là Đến nơi, là soi rọi đến.
* Thả Quan : là Hãy
xem, chờ mà xem.
* Xuân Quang : là Quang cảnh của mùa xuân.
Có nghĩa :
Thần thánh ngự đến nơi đâu, thì nơi đó đó
nên mừng là vùng đất phước.( Ý nói sẽ sống yên
ổn là làm ăn phát đạt ).
Ơn của thần thánh ban đến nơi nào, thì hãy chờ mà
xem, nơi đó dân chúng sẽ vui sống trong quang cảnh của mùa xuân.
Diễn Nôm :
Thánh
ngự đến nơi, mừng đội ơn trên là đất phước,
Thần ân
ban phát, hãy xem khắp chốn thảy vui xuân.
Hai bên cửa ra vào chính có hình
của Thần Đồ Uất Luỹ 神荼鬱壘, cũng có đôi
câu đối ở phía dưới 4 chữ Tam Dương Khải Thái 三陽啟泰
là :
元旦參神添百福,
Nguyên đán tham thần thiêm bách phước,
新年入廟納千祥。
Tân niên nhập miếu nạp thiên tường.
Có nghĩa :
Tết Nguyên Đán(
ngày đầu của một năm ) mà đến đây để tham kiến
thần linh, thì sẽ thêm được trăm điều phước.
Năm mới mà vào chùa ( miếu ) để cúng bái, thì
sẽ nhận được ngàn điều lành.
Diễn Nôm :
Nguyên Đán lạy thần thêm trăm phước,
Đầu năm vào miếu nhận ngàn lành.
Ngoài ra, hai bên vách của cổng chính
cũng có vẽ các bức tranh về sự tích Đào Viên Tam Kết
Nghĩa 桃園三結義 giữa Lưu Bị, Quan Công và Trương
Phi, như hình của Lưu Quan Trương thử binh khí 劉關張試兵器
(Lưu Quan Trương thí binh khí), Quan Công Xá Tào Tháo 關公赦曹操
(Tích Quan Công tha cho Tào Tháo ở Huê Dung Đạo),Lưu Quan Trương
theo kế của Khổng Minh, Hình của Châu Thương và Quan Bình
hai người con nuôi đứng hầu hai bên của Quan Công, một người
cầm cây Thanh Long yễm Nguyệt Đao, một người bưng cái ấn Hán
Thọ Đình Hầu của Quan Công....
Hai bên vách nơi nhô ra còn có
2 bài thơ của Thi Tiên Lý Bạch, bên trái là bài " Sơn
Trung Vấn Đáp":
山中問答 SƠN
TRUNG VẤN ĐÁP
問余何意棲碧山,
Vấn dư hà ý thê bích sơn,
笑而不答心自閒。 Tiếu nhi bất đáp
tâm tự nhàn.
桃花流水窅然去,
Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ,
別有天地非人間。 Biệt hữu thiên
địa phi nhân gian.
李白
Lý Bạch
CHÚ THÍCH :
*
Dư : Nhân xưng Đại từ ngôi thứ nhất, là Tôi, Ta, Tao...
* Thê : là Đậu trên cây, ở đây có nghĩa là
Ở, là Cư ngụ.
* Bích Sơn : tên núi ở TP An Lục tỉnh
Hồ Bắc, dưới núi có Đào Hoa Động là nơi Lý
Bạch ăn ở và học tập.
*
Đào Hoa Lưu Thủy : Theo Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm
có ghi : Vào đời Đông Tấn, ở đất Võ Lăng, có
người đánh cá đi lạc vào rừng hoa đào, cuối rừng
có núi, trong núi có con đường nhỏ dẫn vào Đào
hoa Nguyên, trong đó dân chúng sống thanh bình an cư lạc nghiệp
như trong tiên cảnh.
* Yểu Nhiên : chỉ Âm thầm, Lặng lẽ.
* Biệt Hữu Thiên Địa : là Có trời đất riêng biệt.
NGHĨA BÀI THƠ :
Bạn hỏi tôi sao tôi lại chọn nơi Bích Sơn mà ở, là
có ý gì ? Tôi chỉ cười mà không trả lời câu hỏi
của bạn, vì trong lòng tôi tự cảm thấy nhàn nhã là
được rồi. Hãy xem kìa, dòng nước cuốn những cánh
hoa đào lặng lẽ trôi đi như ở xứ Đào Nguyên tiên
cảnh, có trời đất riêng biệt chớ không phải như ở chốn
nhân gian nầy !
DIỄN NÔM :
HỎI ĐÁP NHAU TRONG NÚI
Bạn hỏi ý
gì chọn Bích Sơn ?
Cười thôi chẳng đáp nhàn là hơn.
Hoa
đào nước cuốn trôi êm ả,
Là cảnh Đào Nguyên há phải thường !
Lục bát
:
Bích
Sơn bạn hỏi ý chi ?
Cười mà không đáp lòng thì thảnh thơi.
Hoa đào rụng, nước cuốn trôi,
Đào Nguyên há phải cảnh đời nhân gian !
Đỗ Chiêu Đức
Bên trái là bài thơ LỤC THỦY
KHÚC :
淥水曲 Lục
Thủy Khúc
淥水明秋月, Lục Thủy minh thu nguyệt
南湖採白蘋。
Nam hồ thái bạch tần.
荷花嬌欲語,
Hà hoa kiều dục ngữ,
愁殺盪舟人。
Sầu sát đãng chu nhân.
李白
Lý Bạch
CHÚ THÍCH
:
* Lục Thủy Khúc :Là Tên của một khúc hát xưa,
có nghĩa là Khúc hát về Dòng Nước Trong.
* Nam Hồ
: là Phía nam của Động Đình Hồ.
* Bạch Tần : Một
loại rau nổi trên mặt nước có hoa màu trắng như rau muống,
rau ngổ vậy.
* Hà Hoa : là Hoa Sen, tức là Liên Hoa 蓮花
đó.
* Sầu Sát : chữ SÁT 殺 đứng sau Động từ
là Trạng từ chỉ Mức độ, có nghĩa như Rất, Rất là.
Nên Sầu Sát có nghĩa là Rất buồn, là Buồn muốn chết
!
* Đãng Chu Nhân : là Người
chèo thuyền, người bơi xuồng.
NGHĨA
BÀI THƠ :
Dòng nước trong trẻo
làm cho trăng thu như sáng hơn lên, ta thả thuyền ở phía nam Hồ
Động Đình để hái rau bạch tần. Nhìn thấy bông sen
nở trên hồ thật đẹp thật sống động như muốn nói
chuyện cùng ta, làm cho ta cảm thấy buồn muốn chết đi được
vì ta không thể nào đối thoại được với hoa.
DIỄN NÔM :
LỤC
THỦY KHÚC
Nước
trong sáng trăng thu,
Bạch tần hồ nam hái,
Sen đẹp như muốn nói,
Sầu chết người đãng chu !
Lục bát :
Nước trong làm sáng trăng thu,
Rau
tần tìm hái bên hồ phía nam.
Lá xanh bông trắng nhị vàng,
Tựa
như muốn nói sầu sang người chèo !
Đỗ Chiêu Đức
Đứng từ ngoài nhìn vào chùa,
ta còn thấy hai bên có hai dãy Nghi Trượng. (NGHI TRƯỢNG là
những cờ xí binh khí giàn giá khi các quan ngày xưa đi ra
ngoài hoặc thăng đường xử án). Nghi Trượng Sự Thần 儀仗事神
là các giàn giá để thờ thần linh, với các tấm bảng
Nghi Trượng hai bên như sau :
* 協天大帝 Hiệp Thiên Đại Đế : Tước hàm
được phong của Quan Công.
* 天后元君 Thiên Hậu
Nguyên Quân : Tước hàm của bà Thiên Hậu.
* 肅靜迴避
Túc tĩnh Hồi tỵ : là Giữ Nghiêm túc yên lặng và
Tránh sang một bên.
* 污穢勿近 Ô uế Vật cận
: Những gì dơ dáy không sạch sẽ thì tránh sang một bên
(đừng đến gần).
Ngoài cửa chánh
vào chùa ra, ta còn thấy có 2 cửa hông hai bên, cửa hông
bên phải cũng có đôi câu đối :
入是門必恭敬止,
Nhập thị môn tất cung kính chỉ,
由斯道惟孝友于。 Do tư đạo duy hiếu
hữu vu.
* Thị Môn : là
Cánh cửa nầy, là lối vào nầy.
* Tư Đạo
: là Con đường nầy, là Lối đi nầy.
Có nghĩa :
Đi vào cửa
nầy, phải có thái độ cung kính ( để nhớ đến các
bậc tiền nhân đã tạo ra nó ).
Do đường
nầy( tư đạo ) mà vào, duy chỉ có những người hiếu
thảo ( với cha mẹ anh em ).
Cửa hông bên trái, nơi có treo bảng
Ban Quản Lý Chùa 協天宮理事會, cũng có đôi
câu đối :
出入禮門咸迪吉,
Xuất nhập lễ môn hàm địch kiết,
往來義路盡亨通。 Vãng lai nghĩa lộ
tận hanh thong.
Có nghĩa :
Ra vào cửa lễ đều lành tốt,
Vãng
lai đường nghĩa thảy hanh thông.
Ý nói :
Đi ra đi vào ở cánh cửa lễ nghi nầy thì mọi việc
đều được tốt lành. Và...
Qua lại ở con đường có nghĩa nầy, thì mọi việc đều
được suông sẻ.
Nói thêm về 4 chữ
Tam Dương Khải Thái 三陽啟泰. Khải là Mở ra, mà Khai
開 cũng là Mở ra, nên 4 chữ nầy còn được viết là
TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰...
Theo sách Chu Dịch. Sau tiết Đông
Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí
dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các Thầy
Bói gọi là Âm Tiêu Dương Trưởng, đêm sẽ ngắn dần,
ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng
Tý, thuộc quẻ Phục 復 là Nhất Dương Sanh, Tháng Mười
Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là Nhị Dương Sanh, và
Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ Thái 泰 là Tam Dương
Sanh. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng
câu Tam Dương Khai Thái 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm
mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ Thái là Lớn, là
Thông, như trong tiếng Việt ta thường nói "Hết vận Bỉ rồi
thời lại Thái", hoặc "Bỉ cực thì Thái lai" và "Hết
cơn Bỉ Cực, đến hồi Thái lai". Có nghĩa: Hết lúc Bế
tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả !
Vì
2 chữ Dương 陽 và 羊 Dương đồng âm, nên ta thường
gặp những bức tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí dương của
trời đất mà chúc nhau bằng câu Tam Dương Khai Thái như ta
thường trông thấy!
Bước
vào cửa chánh, bên trong là một cái sân lộ thiên rồi
mới đến chánh điện với 4 chữ hoành phi trên cao :
丹心貫日 ĐAN TÂM QUÁN
NHẬT
Có nghĩa :
Một
tấm lòng son ngang bằng với mặt Trời.( để chỉ lòng trung thành
bền vững của Quan Thánh Đế Quân ).
Dưới 4 chữ trên trên hoành
phi là 2 cặp câu đối, cặp bên ngoài là :
九天日月開新運, Cửu thiên
nhật nguyệt khai tân vận,
萬國笙歌樂太平。 Vạn quốc
sanh ca lạc thái bình.
Có nghĩa
:
Trên chín từng trời,
mặt trăng mặt trời đang mở ra vận hội mới, và ở dưới
đất...
Muôn nước muôn
nhà đều ca hát mà vui cảnh thái bình.
Theo
quan niệm xưa thì : Trời có 9 từng, gọi là Chín Từng Trời,
còn Địa Ngục thì có 18 từng, nên gọi là Mười Tám
Từng Địa Ngục
Cặp câu đối bên trong là :
萬古桃園生秀色,
Vạn cổ Đào viên sanh tú sắc,
千秋義武見英風。 Thiên thu nghĩa vũ
kiến anh phong.
Có nghĩa :
Chuyện
Đào viên kết nghĩa thì muôn năm sau vẫn còn mang màu sắc
đẹp đẽ, và...
Cái vũ
dũng nghĩa khí đó thì đến ngàn năm sau vẫn còn thấy
được là phong cách của anh hùng.
Kế
đến, là đôi cột thứ nhì của chính điện, và
đây có thể là câu đối hay nhất,có ý nghĩa nhất,
sát sao nhất với cuộc sống của toàn thể cư dân Quận Cái
Răng :
被聖澤,本市匹民安樂業, Bị
thánh trạch, bổn thị thất dân an lạc nghiệp,
謝神恩,周城合境保平安。 Tạ
thần ân, châu thành hợp cảnh bảo bình an.
* Bị : Danh từ là cái Mền đắp. Động từ
là Phủ kín, là Mang, là Đội. Nên BỊ THÁNH TRẠCH là
Chịu ơn của thần thánh.
*
Thất Dân : là Dân chúng bình thường.
* Châu Thành
: là Khắp cả Thành phố, Thị Trấn.
* Hợp Cảnh : là
Toàn cảnh, ý chỉ cả cái khuôn viên của nơi ta ở.
Có nghĩa :
Mang ơn mưa móc của ông Thánh, mà dân thường trong bổn
chợ của ta đều được an cư lạc nghiệp,
Tạ
ơn phù hộ của Thần, mà toàn thể khuôn viên của quận
ta đều giữ được bình yên.
Và đôi câu đối trên
bảng đỏ chữ đen của hàng cột tiếp là :
擎天一柱,鐵石為心是漢室,
Kình thiên nhất trụ, thiết thạch vi tâm thị Hán thất,
拔地齊峰,春秋得力與尼山。
Bạt địa tề phong, Xuân thu đắc lực dữ Nê sơn.
Có
nghĩa :
Như một cây
cột trụ chống trời, sắt đá quyết lòng phò nhà Hán,
Vượt khỏi mặt đất
để lên bằng ngọn núi, Xuân Thu đắc lực cùng với Nê
Sơn.( NÊ SƠN là nơi sanh của Khổng Tử. Khổng Tử soạn ra sách
Xuân Thu, còn Quan Công thì đọc sách Xuân Thu để noi theo những
cái gương trong đó. Ở đây có ý đề cao Quan Công
một cách quá đáng, so sánh Quan Công ngang bằng với Khổng Tử
vì cả 2 đều được phong Thánh ).
Hàng cột kế tiếp là đôi câu đối ca ngợi công đức
của Quan Thánh Đế Quân một cách văn chương thi vị :
清 夜 讀 春 秋, 半 朵 燭
花 籠 月 色,
Thanh
dạ độc Xuân Thu, bán đóa chúc quang lung nguyệt sắc,
赤 心 伸 討 伐, 一 鞘 劍
氣 繞 星 寒。
Xích tâm thân thảo phạt, nhất sao kiếm khí nhiễu tinh hàn.
Có nghĩa :
Đêm thanh vắng
ngồi đọc sách Xuân Thu, Nửa đóm lửa từ ngọn nến lay
động làm lung linh cả ánh trăng,
Một tấm lòng thành giúp vua thảo phạt( đánh giặc), một
làn kiếm khí vút cao làm lạnh lẽo cả các vì sao.
Qủa là một câu đối đầy tính văn chương và thi
vị.
Câu đối ở hàng cột áp chót
là :
萬古勳名垂竹帛, Vạn cổ huân danh thùy
trúc bạch,
千秋義勇壯山河。 Thiên thu nghĩa dũng tráng
sơn hà.
Có nghĩa :
Muôn đời
sau chiến công ( của Quan Công ) vẫn còn ghi lại trên tre, trên vải.(
vì ngày xưa chưa có giấy, nên sử sách đều được
khắc trên các thanh tre cuốn tròn lại như quyển sách, ta thường
gọi là Thanh Sử 青史, hay Sử Xanh. Sau nầy còn được chép
lên Vải, lên Lụa. BẠCH 帛 là Vải là Lụa.)
Ngàn thu sau cái nghĩa khí và cái dũng cảm ( của Ngài ) vẫn
còn làm cho núi sông trở nên hùng tráng hơn.
Hai bên hông chánh điện còn có các
bức hoành phi như :
* 義貫千秋
Nghĩa quán thiên thu
Có nghĩa :
Cái nghĩa của Quan Thánh xuyên suốt từ ngàn
thu đến nay và về sau nữa.
* 千古一人 Thiên cổ nhất nhân
Có nghĩa :
Ngàn xưa đến nay chỉ
có một người ( trung nghĩa như là Quan Công vậy !).
Cuối cùng là đôi câu đối ở 2 bên kham
thờ của Quan Thánh Đế Quân là :
聖德無疆沾萬古,
Thánh đức vô cương triêm vạn cổ,
帝恩靡極頌千秋。 Đế ân mĩ cực
tụng thiên thu.
Có nghĩa :
Cái đức của
bậc thánh nhân ( ở đây chỉ Quan Công ) còn thấm nhuần đến
muôn đời sau,
Ơn vua thì vô cùng, còn
ca tụng mãi đến ngàn thu sau.
Quay ngược ra phía trước, đứng từ
trong nhìn ra ngoài, ta thấy mặt trong phía trước có một hoành
phi với 3 chữ HIỆP THIÊN CUNG bằng chữ Quốc Ngữ, bên dưới
là đôi câu đối 4 chữ :
廣種福田, Quảng
chủng phước điền,
為善最樂。 Vi thiện tối lạc.
Có nghĩa
:
Cố gắng mà trồng cho rộng ra
cái mảnh ruộng phước đức, và nên hiểu rằng...
Làm
việc thiện là điều vui vẻ nhất trên đời.
Và đôi câu đối 2 bên
là :
帝錫龍章開泰運, Đế tích long chương
khai thái vận,
千秋神武見英風。 Thiên thu thần võ kiến
anh phong.
Có nghĩa :
Cờ
của vua ban cho các Đại tướng đi chinh phạt ( Đế tích
long chương : ở đây chỉ cờ của Quan Thánh Đế Quân ) mở
ra thời vận lớn,
Cái
thần uy và võ dũng của Ngài, ngàn thu sau vẫn còn mang phong
độ anh hùng.
Ở
sát mặt trong của cửa ra vào, còn có một hoành phi với 4
chữ :
萬物並育
Vạn vật tịnh dục
Có nghĩa :
Muôn vật muôn loài cùng nhau phát triển mà không xâm
hại lẫn nhau.
Ngoài ra,ta còn thấy rải rác các hoành
phi trong chính điện như :
與天地參 Dữ thiên địa tham
Có nghĩa
:
Bất cứ việc
gì cũng phải kết hợp giữa Trời Đất và Con Người, thì
mới thuận lý tự nhiên, như ta thường nói phải có "
Thiên thời địa lợi và nhân hòa vậy !".
義炳乾坤 Nghĩa bỉnh càn khôn
Có nghĩa
:
Cái nghĩa khí
tràn đầy cả vũ trụ, trời đất (càn khôn).
浩氣配天
Hạo khí phối thiên
Có nghĩa
:
Cái chí khí
to lớn đến có thể phối xứng ngang bằng với trời.
氣壯山河 Khí tráng sơn hà
Có nghĩa :
Cái hào khí
có thể làm cho núi sông trở nên hùng tráng hơn.
Phía bên trái thờ Phước
Đức Chánh Thần, còn có các hoành phi sau :
* 人民福地 Nhân dân phước địa
Có
nghĩa :
Đây chính
là nơi đất Phước của nhân dân.
*
大義聯光 Đại nghĩa liên quang
Có nghĩa :
Cái nghĩa lớn sáng
cả các thần có liên quan với nhau ( chỉ cả Quan Thánh Đế
Quân, Phước Đức Chánh Thần và Thiên Hậu Nguyên Quân
).
Phía bên phải của chánh điện thờ bà
Thiên Hậu với các Hoành phi :
* 聖德如天 Thánh đức như thiên
Có nghĩa
:
Cái đức của
ông Quan Thánh ngang bằng như là Trời vậy !
* 至大至剛 Chí Đại Chí Cương
Có
nghĩa :
CHÍ : là Đến cùng, là hết mức.
ĐẠI : là Chính Đại quang minh.
CƯƠNG : là Cương Trực ngay thẳng. Nên...
CHÍ
ĐẠI CHÍ CƯƠNG là Quang minh chính đại tới cùng, Cương
trực ngay thẳng tới cùng !
Chí Đại Chí Cương Thánh đức như thiên
Dười đây là hai hình ảnh,
một ban ngày một ban đêm của Hiệp Thiên Cung được trang hoàng
rực rỡ để đón Tết Mậu Tuất 2018.
Mặt tiền Hiệp
Thiên Cung tết Mậu Tuất 2018
Cảnh đêm : Mặt
tiền Hiệp Thiên Cung tết Mậu Tuất 2018
Trên đây là tất cả các câu đối, hoành
phi đã đọc thấy được trong Chùa HIỆP THIÊN CUNG Quận
CÁI RĂNG, Phường LÊ BÌNH, Thành phố CẦN THƠ. Chép ra đây
để cùng tìm hiểu, chiêm nghiệm và đọc chơi tiêu khiển
khi trà dư tửu hậu.
Đỗ Chiêu Đức
kính bút
Xuân
Mậu Tuất 2018
THỔ là ĐẤT
THỔ 土
là ĐẤT, đất là ĐỊA 地, trong chữ Địa có
Bộ Thổ, nên Địa cũng là Đất. Ta có từ kép Thổ
Địa 土地 là Đất Đai. Thổ cũng thuộc một trong
214 bộ của CHỮ NHO... DỄ HỌC, theo diễn tiến của chữ viết như
sau :
Giáp Cốt Văn Kim Văn
Đại Triện Tiểu Triện
Lệ Thư
Ta thấy :
Từ
Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện đều là hình tượng
của một mô đất trên mặt đất, nên Thổ vừa là chữ
Tượng Hình vừa là chữ Chỉ Sự, chỉ một đống đất
trên mặt đất, đến Tiểu Triện thì các nét mới được
kéo thẳng ra thành biểu tượng của chữ viết, cho đến Chữ
Lệ thì mới hoàn chỉnh như chữ viết hiện nay THỔ 土 là
ĐẤT.
Có tất cả 463 chữ được
ghép bởi bộ Thổ nầy để chỉ những gì có liên quan
đến Thổ là Đất. Ta có các từ về Thổ là Đất
rất lý thú và cũng không kém phần rắc rối như sau :
- Thổ Địa 土地 : là Đất
Đai, chỉ tất cả các loại đất trên đời nầy.
- Thổ Nhưỡng 土壤 : cũng là Đất Đai, chỉ tất cả
các loại đất dùng để trồng trọt.
- Thổ Cư 土居
: chỉ tất cả các loại đất dùng để ở.
- Thổ
Canh 土耕 : là tất cả các loại Đất dùng để
canh tác, làm ruộng.
- Thổ Trạch 土宅 : là tất
cả các loại Đất dùng để cất nhà ở, biệt thự.
- Thổ Mộ 土墓 : là tất cả các loại Đất
dùng để chôn cất người trong gia tộc, còn gọi là Đất
Hương Hỏa, là đất dùng để lo nhang đèn hương khói
cho người thân đã chết.
Theo Tử Vi đẩu số ta còn có 6 loại đất sau đây :
* Lộ Bàng Thổ 路旁土 :
Đất bên đường.
* Thành Đầu Thổ 城頭土
: Đất đầu thành.
* Ốc Thượng Thổ 屋上土
: Đất trên mái nhà.
* Bích Thượng Thổ 壁上土
: Đất trên vách.
* Đại Trạch Thổ 大澤 土
: Đất trong đầm lầy lớn.
* Sa Trung Thổ 沙中土
: Đất trong cát.
và...
Mặc dù Mộc khắc Thổ, cây cối mọc lên hút
hết chất bổ của đất làm cho đất trở nên cằn cỗi,
và cây gỗ để ở dưới đất lâu ngày sẽ
bị đất làm cho mục nát hết. Cái nầy kêu bằng tương
khắc với nhau, nhưng...
Lộ
Bàng Thổ (đất ven đường), Đại Trạch Thổ
(Đất trong đầm lầy lớn) và Sa Trung Thổ (Đất pha
cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường
cái quan hay trên bãi cát, đầm lầy. Cả ba hành Thổ
này nếu gặp Mộc không khắc dù Mộc khắc
Thổ, trái lại còn có đường công danh, tài lộc
thăng tiến không ngừng.
Thành Đầu Thổ (Đất đầu thành), Bích Thượng
Thổ (Đất trên vách) và Ốc Thượng Thổ (Đất
mái nhà) đều sợ Mộc, nhất là Tang Đố
Mộc, Thạch Lựu Mộc, như thân tự chôn xuống
mộ. Ba hành Thổ này tuy không sợ Bình Địa Mộc,
Đại Lâm Mộc, Tùng Bách Mộc nhưng không bền vững
vì hình kỵ.
Thổ là Đất,
giá trị của đất tăng theo tỉ lệ thuận với số lượng
của đất, chưa có một vật chất nào có giá trị từ
số không, rồi sau đó cứ tăng dần đến vô tận như
đất cả ! Hốt một nắm đất cho không, không ai thèm lấy
cả, mặc dù họ không có đất để cắm dùi, nhưng
nếu cho một vuông đất để che chòi ở, để cất nhà,
thì không ai nở... từ chối cả ! Và cứ thế tăng dần, một
công đất để trồng rẩy, một mẫu đất để cày
ruộng... cho đến một xã, một làng, một huyện, một tỉnh,
một nước... giá trị của đất cứ tăng mãi đến vô
cực là... Trái Đất, là cả Quả Địa Cầu nầy !
Ông bà ta nói:
Tiền tài như phân thổ, 錢財如糞土,
Nhân
nghĩa trị thiên kim. 仁義值千金。
Có nghĩa
:
Tiền của tài sản như
phân như đất,
Nhân nghĩa
mới đáng giá ngàn vàng.
là ý ông bà muốn đề
cao nhân nghĩa mà xem nhẹ tiền tài, tiền tài chỉ như phân
như đất mà thôi, cũng như lời cô Kiều đã nói với
Kim Trọng khi biết Kim đã nhặt được chiếc kim thoa của mình
:
Chiếc thoa là của mấy mươi,
Mà lòng trượng nghĩa khinh tài xiết bao !
Nhưng người đời thường xem trọng kim tiền hơn nhơn nghĩa,
nên câu nói trên còn được sửa lại một cách mĩa
mai như sau :
Tiền
tài như... ông tiên tổ,
Nhơn nghĩa tợ... cục cứt khô !
Ông bà ta lại dạy rằng
: " Tấc đất là tấc vàng " để con cháu biết quý
trọng cái cuộc đất mà ta đang sở hữu, nếu biết sử
dụng đất một cách thích đáng, biết bỏ công sức lao
động canh tác trồng trot, thì " tấc đất sẽ cho một tấc
vàng " như chơi mà thôi !
Nhớ khi xưa cái miếu Thổ Địa ở
đầu làng quê tôi có đôi câu đối như sau :
THỔ
năng sanh bạch ngọc, 土能生白玉,
ĐỊA
khả xuất hoàng kim. 地可出黃金。
Có nghĩa :
Đất
có thể sanh ra ngọc trắng, và
Đất cũng có thể cho ra vàng ròng !
Hạt ngọc trắng ở đây chính
là hạt gạo trắng ngần đã nuôi sống chúng ta hàng ngày,
còn vàng ròng sẽ có được nếu chúng ta chịu cày
sâu cuốc bẫm. Đất chẳng những cho ta chỗ ở, cho ta việc làm,
còn cho ta cái ăn cái mặc nữa, nên ông bà ta rất coi trọng
đất và luôn quan niệm rằng : " Đất có Thổ Công, sông
có Hà Bá ". Thổ Công là ông thần đất, còn được
gọi là Thổ Thần, nên khắp cả các thôn làng, nơi nào
cũng có Thổ Công của nơi đó, và ông thần đất
nầy cũng luôn luôn được cúng tế đầy đủ ở bất
cứ lễ lạc nào. Trong Truyện Kiều tả lúc Bạc Hạnh thành
thân với cô Kiều, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :
Bạc sinh qùy xuống vội vàng,
Qúa lời nguyện hết Thành Hoàng Thổ Công.
Câu đối
thường thấy nhất của các miếu Thổ Thần ở vùng Nam Kỳ
Lục Tỉnh quê tôi là :
土旺人從旺,
Thổ vượng nhân tòng vượng,
神安宅自安。 Thần an trạch tự an.
Có nghĩa :
Đất có
vượng thì người cũng sẽ vượng theo, và...
Thần có được yên ổn, thì nhà cũng sẽ tự nhiên
được yên ổn mà thôi !
Thổ ngoài nghĩa là
Đất ra, còn có nghĩa là : Cái gì đó thuộc về bản
xứ, bản địa. Ta quen miệng gọi là đồ lô-can (local). Bây
giờ thì Thổ được sử dụng như là một Hình Dung Từ
(Tính Từ), như :
- Thổ Dân
土民 : Dân cố hữu của một địa phương hay của một
vùng nào đó. Ví dụ : Thổ Dân của Châu Mỹ là những
Bộ tộc mọi Da Đỏ chẳng hạn...
- Thổ Sản 土產
: là Đặc sản riêng của một vùng nào đó , Như Thổ
Sản của Lái Thiêu là Sầu Riêng chẳng hạn...
- Thổ Cẩm 土錦 : là Gấm được dệt
ở địa phương, là Gấm nội hóa.
- Thổ Âm 土音
: là Tiếng nói và Âm sắc riêng của địa phương nào
đó. Như Giọng Bắc, Giọng Huế, Giọng Nam của ta vậy...
- Thổ Hào 土豪 : là Cường hào ác bá ở địa
phương.
- Thổ Phỉ 土匪 : là các phe nhóm băng đảng
cướp bóc ở địa phương.
- Thổ Công 土公 :
là Ông Thần Đất của địa phương nào đó như
ta đã nói ở trên...
-
Thổ Quan 土官 : là Ông quan ở địa phương, như Trưởng
thôn, Trưởng Làng, hay cao hơn là Tri Châu, Tri Huyện... Như trong Truyện
Kiều, Hồ Tôn Hiến sau khi ngủ với cô Kiều một đêm rồi
sợ mang tiếng " Quan trên ngó xuống người ta trông vào ",
nên sáng ngày mới ép nàng lấy Thổ Quan :
Lệnh
quan ai dám cãi lời,
Ép tình mới gán cho người Thổ Quan.
Thổ còn là cái Phong Thổ 風土, là phong thủy thổ
nhưỡng, phong tục tập quán, là nếp sống của một địa
phương nào đó, mà người ta thường gọi là Phong Thổ
Nhân Tình 風土人情, Đi đến đâu, ta cũng phải tìm
hiểu cái phong thổ nhân tình của nơi đó để dễ dàng
hòa nhập vào nếp sống của địa phương đó.
Ngoài Phong Thổ, ta còn
có Thủy Thổ 水土, là Nước và Đất của một nơi
nào đó kể cả khí hậu thời tiết nắng mưa của nơi
đó luôn. Nếu không hợp với Thủy Thổ của nơi đó
sẽ làm cho con người sanh ra bệnh hoạn, súc vật thì gầy còm,
cây cỏ thì èo ọt... như câu chuyện ứng đối lý thú
của Tướng quốc nước Tề với vua nước Sở thời Xuân
Thu Chiến Quốc như sau :
Yến Anh 晏嬰, còn
được gọi là Án
Anh, người đời sau tôn trọng
ông, nên còn gọi là
Án Tử, ông sinh năm 578 TCN
ở Sơn Đông, mất năm
501 TCN ở Truy Bác, tự Bình
Trọng là một nhân vật
lịch sử nổi tiếng, sống
và làm quan ở hai triều
vua Tề Trang Công và Tề Cảnh
Công thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông có dáng thấp nhỏ như
đứa bé, nhưng có trí tuệ thông minh và là một vị
quan có tài ứng đối giỏi của nước Tề.
Một lần Án Tử vâng
lệnh vua Tề đi sứ sang nước Sở. Vua Sở định làm nhục
để thử tài của Án Tử, nên sau khi ban rượu, thì cho lính
dẫn một người bị trói đi ngang qua. Vua Sở mới hỏi là người
đó phạm tội gì ? Lính đáp, đó là một người
ở nước Tề, phạm tội ăn trộm ngựa. Vua Sở bèn cười
mà quay sang hỏi Án Tử là : " Người nước Tề hay ăn
trộm lắm hay sao ? ". Án Tử mới đứng dậy chắp tay thưa rằng
: " Thần nghe nói, cây quít trồng ở phương bắc thì cho trái
to và ngọt, nhưng khi đem trồng ở phương nam thì lại cho trái
nhỏ và chua, là bởi vì đâu ? Đó là đều do Thủy
Thổ mà ra cả ! Nay người nước Tề ở nước Tề thì
không trộm cắp, sang qua ở nước Sở lại sinh ra trộm cắp, thần
nghĩ chắc cũng do cái Thuỷ Thổ bất đồng mà sinh ra như thế
chăng ?! ". Vua Sở cười rằng : " Ta vì muốn nói chơi mà
bị nhục ! ". Thế mới biết kẻ cả không nên nói chơi
bao giờ !
Thổ là Đất, mà đất
còn là quê hương đất nước. Cố Thổ 故土 là
Cố Hương 故鄉, là quê cũ, quê xưa, quê nhà , là
Cố Quốc 故國, là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi mà
ta được sinh ra và lớn lên, như trong bài Độ Long Vĩ Giang
渡龍尾江 của cụ Nguyễn Du :
故國回頭淚,
Cố quốc hồi đầu lệ,
西風一路塵。 Tây phong nhất lộ trần.
Có
nghĩa :
Ngoảnh đầu quê cũ lệ rơi,
Dọc đường cát bụi tơi bời gió tây.
Ngoảnh đầu
trông lại quê hương mà khôn ngăn hai hàng lệ nhỏ. Lại
thêm gió tây thổi suốt dọc đường gió bụi. Vừa qua
khỏi sông Long Vĩ thì thân ta đã là người tha hương
rồi... Trong Truyện Kiều, tả lúc Hoạn Thư bắt Kiều về làm
nô tì, nguyễn Du đã viết :
Lâm truy chút nghĩa đèo bòng,
Nước
non để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời Cố Quốc biết đâu là nhà.
... và như lời than của một cung nhân đời
Đường qua lời thơ của Trương Hỗ 張祜 là :
Cố
quốc tam thiên lý, 故國三千里,
Thâm
cung nhị thập niên. 深宮二十年.
Có nghĩa
:
Quê
cũ ba ngàn dặm,
Thâm cung hai mươi năm !
Cách xa quê hương ba ngàn dặm và bị nhốt trong cung hai mươi
năm thì còn gì là tuổi xuân nữa ! Trông người lại
ngẫm đến ta, chúng ta đã lưu vong ở Mỹ trên bốn mươi
năm và cách xa quê hương trên hai mươi ngàn dặm, chỉ
còn đợi gởi nắm xương tàn nơi " Ngoại Thổ 外土"
mà thôi !
Theo Ngũ hành Sinh khắc thì
Thổ khắc Thủy, có nghĩa là Đất khắc chế được Nước.
Nói theo binh pháp ngày xưa là Binh đến thì Tướng ngăn,
Nước đến thì Đất ngăn như cụ Đào Duy Từ đã
khuyên Chúa Sãi không nhận sắc phong của vua Lê do Chúa Trịnh
áp đặt, với diễn tiến câu chuyện như sau :
Năm 1627, chúa Trịnh Tráng muốn lấn vào Nam bèn sai Nguyễn Khắc
Minh đi sứ, mang tiếng là phong tước cho chúa Nguyễn nhưng đồng
thời cũng để dò xét tình hình đàng trong. Lúc bấy
giờ Đào Duy Từ là Tham Tán bèn khuyên chúa Nguyễn che giấu
lực lượng và tạm nhận phong để hòa hoãn với chúa
Trịnh. Chúa Trịnh cũng đồng thời đòi chúa Nguyễn cho con
ra Bắc chầu, nộp 30 voi đực và 30 chiến thuyền để đi cống
nhà Minh bên Trung Quốc, Duy Từ khuyên là không thực hiện rồi
bày kế cho chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục để phòng
thủ, với ý là Binh đến thì Tướng ngăn, Nước
đến thì Đất ngăn . Chúa Nguyễn nghe theo và thực hiện
ngay.
Về
việc sắc phong, vào năm 1630 Duy Từ cho người làm một cái mâm
đồng hai đáy bên trong đựng sắc của chúa Trịnh, trên
phủ lụa vàng rồi sai Trần Văn Khuông đi sứ. Trần Văn Khuông
theo lời Duy Từ dặn dò, đối đáp, dâng mâm cho chúa Trịnh,
rồi kiếm cớ trốn về. Chúa Trịnh thấy sứ đoàn vội
vã đi về, sinh nghi, bèn cho lục mâm đồng thì thấy tờ sắc
của mình trước đó còn có kèm theo một bài thơ như
sau :
Mâu
nhi vô dịch, 矛而無剔,
Mịch
phi kiến tích. 覔非見迹.
Ái lạc tâm trường, 愛落心腸,
Lực
lai tương địch! 力來相敵 !
Có nghĩa :
Cây
mâu mà không đâm, không khều.
Tìm mãi
mà không thấy tung tích gì cả.
Thương đến
nỗi rớt cả lòng dạ ruột gan.
Nếu dùng
sức mạnh đến đây, thì sẽ đối địch với
nhau mà thôi !
Cả triều không ai hiểu là ý muốn nói gì ?!. Giai thoại kể
rằng :
Chúa Trịnh cho mời Phùng Khắc Khoan (1528 -1613, trong khi sự kiện này
xảy ra năm 1630 nên không chính xác) đến hỏi thì mới vỡ
lẽ, trong chữ Hán cổ, chữ MÂU 矛 viết
không có dấu phết thì thành chữ DƯ 予, nghĩa
là ta; Chữ MỊCH 覔 mà bỏ chữ KIẾN 見 chỉ
còn lại chữ BẤT 不 nghĩa là không.
Chữ ÁI 愛 nếu viết thiếu chữ TÂM 心 thì
ra chữ THỤ 受nghĩa là nhận. Chữ LỰC 力 ghép
với chữ LAI 來 sẽ thành chữ SẮC 勑
là sắc phong. Ghép 4 chữ của bốn câu trên lại ta
có câu :
Dư
Bất Thụ Sắc 予 不 受 勑 ( Có nghĩa là : Ta không
nhận sắc phong ). Chúa Trịnh hiểu ý là Chúa Nguyễn trả
lại sắc phong, nổi giận, cho người đuổi theo sứ đoàn của
Chúa Nguyễn, thì cả sứ đoàn của Trần Văn Khuông đã
đi xa rồi !
Chuá
Trịnh cả giận cử binh hỏi tội, nhưng đụng phải lũy Trường
Dục của Đào Duy Từ, nên bị Chúa Nguyễn đánh cho thua chạy
tơi bời !
Đào Duy Từ được tiếng là nhà
chính trị quân sự, vừa là thầy giáo, vừa là bậc khai
quốc công thần lớn nhất của 9 đời Chúa Nguyễn và 13 đời
vua nhà Nguyễn, trong khi Gia Cát Lượng chỉ phò trợ có 2 đời
Thục Hán mà thôi !
Thổ là
Đất, mà Đất còn là Nước, ta có từ kép Đất
Nước để chỉ Lãnh thổ 領土 của một quốc gia, còn
được gọi là Quốc Thổ 國土, Cương Thổ 疆土
là phần đất ở sát biên cương với nước láng giềng
mà ta có được, nói theo lịch sử của thời phong kiến, thì
đó là Hoàng Triều Cương Thổ 皇朝疆土 là đất
của vua , đất của triều đình. Hoàng Triều Cương Thổ
lớn nhất, mở mang nhất nước ta là dưới thời vua Minh Mạng,
tiêu diệt và đồng hóa Chàm (Champa), lấn chiếm Chân Lạp
(Campuchia), sát nhập đất Phù Nam (Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau) để có
được bản đồ hình cong chữ S như hiện nay. Nên, không
có Đất là không có Nước, dân không có đất là
dân vong quốc, chính quyền không có đất là chính quyền
lưu vong, sẽ không làm nên trò trống gì cả ! Từ đó
cho thấy ĐẤT quan trọng biết chừng nào ! Nhưng, nếu chính
quyền lưu vong mà lập quốc được như dân Do Thái, thì
chữ Nho gọi là "Quyển thổ trùng lai 卷土重來" Có
nghĩa là : Cuốn đất mà trở lại, theo như ý của bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt "Đề Ô Giang Đình 題烏江亭"
của Đỗ Mục khi đến bến Ô Giang nơi mà Hạng Võ Sở
Bá Vương đã tự sát :
勝敗兵家事不期,
Thắng bại binh gia sự bấtkỳ
包羞忍恥是男兒. Bao tu nhẫn sĩ
thị nam nhi
江東子弟多才俊,
Giang Đông tử đệ đa tài tuấn
捲土重來未可知。 Quyển thổ trùng
lai vị khả tri !
Có nghĩa :
Thắng
bại chuyện binh ai biết trước ,
Làm trai nhịn nhục cứ dửng dưng.
Giang Đông tuấn kiệt còn đầy rẫy,
Cuốn đất làm nên chửa biết chừng !
Ý của Đỗ Mục là : Nếu như Hạng Võ cố
chịu nhục mà về Giang Đông chiêu mộ thêm anh tài
còn đầy rẫy nơi đó
mà phất cờ đánh lại Lưu Bang, thì chưa biết chừng đã
làm nên cơ nghiệp lớn ! Cũng như Nhà nước Israel hiện đại
đã được hoàn thành năm 1948 sau hơn 60 năm nỗ lực của
các nhà lãnh đạo phái Zion (Chủ nghĩa lập quốc Do Thái)
nhằm thiết lập chủ quyền và quyền tự quyết trên một Tổ
quốc Quốc gia Do Thái vậy.
Thổ
là Đất, Nhất Phầu Hoàng Thổ 一抔黃土 là Một
nấm đất vàng, thường dùng để chỉ một nấm mộ,
nhất là những nấm mộ hoang như của Đạm Tiên :
Xè xè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Còn sống thì
phong lưu tiêu sái, hương trời sắc nước, nguyệt thẹn hoa nhường
hay sự nghiệp lẫy lừng, danh vang bốn bể, anh hùng cái thế ... Nhưng
khi chết đi rồi thì tất cả cũng đều vùi chôn dưới
một nấm đất vàng ô trọc mà thôi ! Nên chi, Tào Tuyết
Cần mới cho người đẹp u sầu muôn thuở Lâm Đại Ngọc
chôn xác hoa rơi với " Nhất Phầu Tịnh Thổ 一抔淨土
" là một nấm đất tinh khiết không ô nhiễm bụi trần
:
Người
đẹp Lâm Đại Ngọc 林黛玉 trong Hồng
Lâu Mộng 紅樓夢 của
Tào Tuyết Cần 曹雪芹,
là người đẹp đa
sầu đa cảm đa tài,
rất giỏi về văn thơ
đã thương khóc cho những
cánh hoa rơi như thương
cho thân phận của chính mình,
rồi chôn hoa, rồi ngâm thơ
điếu hoa hẵn hoi với bài
TÁNG HOA NGÂM 葬花吟 với những
lời thơ thật đẹp như
sau :
... 願儂此日生雙翼﹐ Nguyện
nông thử nhật sanh song dực,
隨花飛到天盡頭 Tùy
hoa phi đáo thiên tận đầu.
天盡頭!何處有香丘﹖Thiên tận đầu
! Hà xứ hữu hương khâu ?
未若錦囊收艷骨 Vị nhược
cẩm nang thu diễm cốt,
一抔淨土掩風流﹐
Nhất phầu tịnh thổ yễm phong lưu !...
Có nghĩa :
Ước gì hôm
nay ta chắp được đôi cánh, để cùng với các cánh
hoa rơi bay đến tận cuối chân trời. Ở nơi cuối chân trời
kia, không biết là nơi đâu có mồ hoa thơm đẹp. Ta chưa
kịp may túi gấm để thâu táng thân xác đẹp đẽ
của hoa, thôi thì đành mượn một nắm tịnh thổ để
vùi chôn một kiếp phong lưu diễm lệ !...
Lục bát :
.... Theo hoa bay đến cuối trời,
Chắp đôi cánh đẹp rạng ngời như hoa.
Cuối trời xa, cuối trời xa !...
Tìm hương mộ đẹp la đà xác thơm.
Chưa may túi gấm chiều hôm,
Vùi nông một nắm tủi hờn phong lưu !...
Người xưa để lại một
câu nói ý vị sâu xa để khuyên răn người đời là
:
Đản tồn phương thốn thổ, 但存方寸土,
Lưu dữ tử tôn canh.
留與子孫耕。
Có nghĩa :
Làm sao cũng phải chừa lại một tấc đất nào đó, để
cho con cháu sau nầy có đất mà canh tác.
Một tấc Ta ngày xưa chưa bằng
được ba phân Tây bây giờ, thế thì một tấc đất
làm sao mà canh tác ?! À, thì ra câu nói còn có " ý
tại ngôn ngoại ". Đất là một thực thể chứng minh cho
sự sở hữu ngày xưa, ai chiếm hữu đất nhiều thì người
đó sẽ giàu có, sẽ là chủ đất đầy quyền uy.
Nên đất được mượn để chỉ mọi vật chất qúy
giá và khi dùng rộng ra thì chỉ cả những giá trị tinh thần
nữa. Như câu "Quảng chủng phước điền 廣種福田"
có nghĩa : Trồng cho rộng ra mảnh ruộng phước đức. Ruộng Phước
đức không phải là mảnh ruộng có thật, mà là muốn
khuyên ta nên làm nhiều chuyện phước để "để đức"
lại cho con cháu. Nên câu nói " Đản tồn phương thốn
thổ, lưu dữ tử tôn canh " có ý khuyên ta :
- Làm việc gì đó, đừng qúa
cạn tàu ráo máng, đừng qúa tuyệt tình, hãy chừa một
chút gì đó để lại cho con cháu về sau. Như đừng qúa
cậy thế hiếp người, đừng ví người khác vào bước
đường cùng, hãy chừa cho người ta một con đường sống,
biết đâu sau nầy cũng vì thế mà con cháu ta cũng được
người khác niệm tình mà tha cho con đường sống như thế.
- Đừng sử dụng hết những uy tín, tín dụng mà mình có
được, phải biết chừa lại cho con cháu. Ví dụ như : Ta dùng
uy tín và sự tín dụng của mình để lừa hết người
nầy đến người khác để thủ lợi, thì con cháu sau nầy
sẽ bị mang tiếng là "Con cháu của tên lừa đão", chẳng
những mọi người không chịu kết giao giúp đỡ, mà
còn không tin tưởng để giao phó công việc nữa. Con cháu
sẽ không còn "chút đất nào để cày bừa" nữa cả
!
Nói theo trào
lưu trước mắt là :
- Phải biết yêu qúi và
bảo vệ môi trường sống trước mắt, đừng quá phung phí
không khí trong lành mà phải biết tiết chế để chừa lại
phần nào môi trường và không khí trong sạch cho con cháu sau
nầy !
Nói theo bình
dân mà ông bà ta thường nhắn nhủ : "Làm việc gì
đó phải cho có hậu". Đừng làm việc đoản hậu,
mà phải biết chừa cái hậu cho con cháu sau nầy. Đó là
tất cả những gì mà cổ nhân đã gói ghém trong câu
: " Đản tồn phương thốn thổ, lưu dữ tử tôn canh "
là thế !
Bà con vùng đồng bằng sông Cửu
Long thường hay nói chơi với nhau rằng : " Làm cho lắm tắm cũng
ở truồng !". Ý muốn nói dù cho thị phi thành bại gì
hễ nhắm mắt buông xuôi thì đều "Nhập thổ vi an 入土為安"
mà không thể mang theo thứ gì cả, như "tắm" thì làm
sao mà "mặc đồ" cho được ! Bôn ba vất vả một đời,
cuối cùng thì cũng đành chịu vùi sâu dưới ba tấc
đất. Con người sống nhờ đất, chết lại về với đất,
và cứ thế mà luân hồi mãi như Nguyễn Gia Thiều đã
nói trong Cung Oán Ngâm Khúc:
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm
năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì !
Xin được kết thúc bài
phiếm luận " Thổ là Đất " ở nơi đây, và để
thực hiện câu :
Đản
tồn phương thốn thổ, 但存方寸土,
Lưu
dữ tử tôn canh. 留與子孫耕。
xin mọi người hãy
hỏa thiêu thân xác sau khi chết, để chừa lại tấc đất
và môi trường sạch cho con cháu sau nầy!
Mong lắm thay !
Đỗ Chiêu Đức
HỎA là LỬA
Theo Phật giáo, cơ
thể con người là do Tứ Đại : Phong Thủy Hỏa Thổ, tức là
Đất Nước Gió Lửa kết hợp lại mà thành, nên bản
thân con người đã có một phần tư là lửa ở trong đó
rồi, ngọn lửa đó cứ âm ỉ mãi trong ngũ tạng lục phủ
tạo nên sự ham muốn mãnh liệt mà ta gọi là Lửa Dục Vọng.
Trong văn chương Phật giáo thì gọi nhẹ nhàng hơn : Lửa Lòng.
Như cụ Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều
khi tu ở Quan Âm Các :
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa
Lòng tưới tắt mọi đường trần duyên ...
và như lời của Thúy Kiều đã
phân bua với Vương Viên Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư
Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ :
Sự đời đã tắt Lửa Lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!
"
Tắt Lửa Lòng " còn là một tiểu thuyết tình cảm lãng
mạn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, được giới
thiệu lần đầu tiên vào năm 1933. Tác phẩm này nhanh chóng
trở nên phổ biến, và rất nhiều người chuyển thể thành
các vở kịch nói, phổ nhạc... trong số đó phải kể đến
Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể
thành vở cải lương năm 1936 với tên của 2 nhân vật đi
vào huyền thoại kịch nghệ Việt Nam là " Lan và Điệp ". Chuyện
tình " Lan và Điệp "của Việt Nam ta có thể sánh ngang với
chuyện tình " Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài " của
Trung Hoa xưa, và còn có phần vượt trội hơn về mặt bình
dân, được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp quần
chúng nhân dân. Nhớ khi xưa, yêu một cô bạn cùng trường,
tôi cũng lấy chuyện tình Lan và Điệp để ví dụ :
Anh
với em như Điệp với Lan,
Thanh
mai trúc mã đẹp muôn vàn.
Vỏ vẻ thơ Đường anh đọc thấy,
Chuyện mình sao giống khúc Trường Can...
Chả trách mối tình đầu học
sinh tan vỡ theo khói mây như bao mối tình đầu khác !
Trong Cung Oán Ngâm Khúc Nguyễn
Gia Thiều cũng đã gọi ngọn lửa âm ỉ đốt trong lòng
người cung nữ là Tâm Hỏa với các câu :
Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi !
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng mượn chữ Tâm Hỏa nói
thành "Lửa Tâm" để tả ngọn lửa ghen tuông trong lòng
của Hoạn Thư là:
Lửa Tâm càng dập càng nồng,
Trách
người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng
dung kẻ dưới mới là lượng trên !
Hỏa là Lửa, và là
chữ Tượng Hình của một trong 214 bộ của Chữ Nho... Dễ Học,
theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt văn Đại
Triện Tiểu Triện
Lệ Thư
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một ngọn lửa được
vẽ cách điệu để tượng trưng cho lửa, qua Đại Triện,
Tiểu Triện dần dần diễn tiến thành chữ viết, cho đến Chữ
Lệ thì đã định hình giống như chữ viết hiện nay HỎA
火 là LỬA. Có tất cả 407 chữ được ghép bởi bộ
Hỏa nầy để chỉ những gì có liên quan tới Lửa như đèn
đóm đuốc nến, nóng nực sáng sủa, nấu nướng chiên
xào ... đều thuộc bộ Hỏa cả , Cho thấy là Lửa quan trọng
biết bao trong đời sống của chúng ta.
Lửa cháy đỏ rực, hừng
hực với ngọn lửa đỏ bốc cao là Dương Hỏa, còn lửa
cháy âm ỉ với ngọn lửa xanh dịu dàng chập choạng là
Âm Hỏa. Nhưng dù âm dù dương thì lửa vẫn cho ánh
sáng và sức nóng có thể thiêu đốt hoặc làm thay đổi
hình dạng của những vật chất khác, kể cả Vàng cũng bị
chảy thành chất lỏng, mặc dù ông bà ta nói " Vàng thật
không sợ lửa ", cũng là để chỉ màu sắc của vàng
không hề bị suy suyển mà thôi.
Thiên
Thượng Hỏa Tích Lịch Hỏa
Theo Tử Vi đẩu số thì có 6 hình thức lửa, đó
là : Thiên Thượng Hỏa 天上火 là Lửa trên trời là
Lửa của Mặt Trời, Tích Lịch Hỏa 霹靂火 là Lửa Sấm
sét là Lửa của điện chớp, Sơn Đầu Hỏa 山頭火
là Lửa đầu núi là Núi lửa, Sơn Hạ Hỏa 山下火
là Lửa dưới núi là Lửa cháy rừng, Lô Trung Hỏa 爐中火
là Lửa trong lò là Lửa nấu ăn và Phúc Đăng Hỏa 覆燈火
là Lửa của cây đèn dầu là Lửa dùng để thắp
sáng. Nên được chia làm hai nhóm :
*
Thiên Thượng Hỏa 天上火, Tích Lịch Hỏa 霹靂火,
Sơn Đầu Hỏa 山頭火 thì không kỵ thủy, không sợ
nước, có nước lại càng nổ lớn cháy lớn hơn.
* Sơn Hạ Hỏa 山下火, Lô Trung Hỏa 爐中火,
Phúc Đăng Hỏa 覆燈火 thì gặp nước, gặp mưa đổ
xuống là tắt queo ngay !
Theo thần thọai
xưa thì Lửa có 2 nguồn gốc như sau :
* Toại Nhân 燧人, hay Toại
Nhân thị 燧人氏, là người sáng tạo ra lửa trong Thần
thoại Trung Hoa cổ đại, có thuyết xưng ông là một trong Tam
Hoàng Ngũ Đế. Theo Cao Đài từ điển, Toại là khoan gỗ
lấy lửa, còn Nhân là người.
Theo
Sách Hàn Phi tử - Ngũ Đố chép rằng: " Thời thượng cổ,
dân ăn quả, củ, thịt sống nên bị đau bụng, bệnh tật
rất nhiều. Có thánh nhân bổ củi để lấy lửa nấu chín
thức ăn, dân ca ngợi tôn làm vua trong thiên hạ, hiệu là Toại
Nhân thị ". Nhờ có Toại Nhân, loài người có lửa,
không còn đứng ngang hàng với cầm thú như trước nữa.
* Chúc
Dung 祝融, vốn tên là Trọng Lê 重黎, sáng tạo ra cách
nấu qua vật cách nhiệt như: nồi đất, ấm đất, niêu đất;
khiến món ăn có mùi vị và thơm ngon hơn, ông lại nghiên
cứu ra các chất để khi cần là có lửa ngay mà khỏi phải
dùi cây hay mài đá nữa. Ví dụ như ông ép dầu lạc (dầu
phọng) tích trữ làm chất cháy, hoặc chế ra ngọn đuốc
để có thể giữ lửa và di chuyển được trong bóng tối.
Ông giữ chức Hỏa Chính cai quản về việc chế tạo và sản
xuất lửa trong thiên hạ với danh hiệu là Chúc Dung 祝融, được
dân gian truyền tụng như là một ông Thần Lửa sau Toại Nhân.
Từ sau khi La
Quán Trung viết quyển Tam Quốc Chí có nhân vật Chúc Dung Phu Nhân
là vợ của Man Vương Mạnh Hoạch, thì lại có thuyết cho thần
lửa Chúc Dung là phái nữ, và có lẽ vì thế mà ta có từ "
Bà Hỏa " để chỉ lửa củi hỏa hoạn chăng ?! Sau PHONG DI
là " Dì Gió ", ta còn có CHÚC DUNG là " Bà Hỏa
" nữa, cho thấy từ ngàn xưa Phái Nữ đã không phải
là phái yếu đuối tầm thường !
Toại
Nhân thị 燧人氏 Chúc Dung 祝融 Bà
Hỏa Chúc Dung
Theo Dịch Lý Bát Quái về âm dương ngũ hành thì NAM
PHƯƠNG BÍNH ĐINH HỎA. Bính là Dương hỏa, Đinh là Âm
hỏa và đều thuộc Phương Nam, ăn với mùa hè là mùa
nóng nực nhất trong năm, mùa của " Lựu phun lửa hạ..." thích
hợp với các loài hoa màu đỏ rực như Hoa Phượng, Hoa
Đỗ quyên, hoa Thạch lựu... và như cụ Nguyễn Du đã chuyển
mùa trong Truyện Kiều khi ông cho cô Kiều đi tắm :
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu
tường lửa lựu lặp lòe đâm bông.
Buồng
the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
Hỏa là lửa, lửa chẳng những mang lại sự ấm áp, mang lại
ánh sáng cho con người, mà còn đưa con người ra khỏi cảnh
sống hoang sơ ăn lông ở lổ lúc ban đầu nữa. Lửa còn
mang lại những niềm vui, hạnh phúc cho con người khi trời đông
gía rét mà được quây quần bên bếp lửa hồng ấm
cúng của gia đình như lời ca trong bài "Về Dưới Mái
Nhà" của Y Vân và Xuân Tiên :
"...Người ơi, mau về đây,
về bên bếp hồng tay cầm tay...
Cười
lên chan chứa tươi làn môi ...
nhớ phút vui đêm nay !
và...
...Nhà ai trong chiều nay
Lửa
đêm đốt hồng vai kề vai
Và nghe câu hát yêu đời ai
Hát mãi sao không nguôi..."
... và cái " bếp hồng " ấm áp hạnh phúc kia theo mãi
trong tâm thức của những con người tha phương cầu thực như chúng
ta mãi mãi cho đến trọn đời :
Ơi,... nỗi lòng
chan chứa,
Hỡi
người ơi ... biết sao cho vừa... tình thương... của bếp hồng
soi !
và bâng khuâng ray rức thiết
tha hơn với ...
...Chiều nay mưa còn rơi
Chiều nay bếp hồng đang còn say
Chiều nay vui sống trong tình yêu.
Nhớ phút vui không nguôi.
Nào ai xa ngàn
nơi.
Kìa bao
mái nhà đang chờ ai
Kìa
bao bếp hồng đang còn tươi
Thương nhớ lên đầy vơi..."
Ôi, qủa là những lời ca ray
rức, não nuột làm xúc động lòng người xa xứ !... Bài
hát " Về Dưới Mái Nhà " đã ăn sâu vào tâm
thức của tôi khi tôi vừa mới lớn, khoảng cuối thập niên
năm mươi của Thế Kỷ trước, lúc Tổng Thống Ngô Đình
Diệm mới về nước chấp chánh, nên... đến bây giờ định
cư trên đất Mỹ nầy, lời của bài hát càng âm ỉ
râm rang hơn làm ray rức mãi lòng người viễn xứ như tôi,
nhất là vào những ngày cận Tết với trời đông gía
lạnh.....
Trong thi ca cổ cũng vẽ nên một
bức tranh ấm áp của những người bạn xa quê tìm đến
với nhau trong những đêm xuân cận Tết với các nét chấm
phá thật nên thơ như trong bài Hàn Dạ ( đêm lạnh ) của
Đỗ Tiểu Sơn đời Tống :
寒夜客來茶當酒,
Hàn dạ khách lai trà đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất
hỏa sơ hồng.
尋常一樣窗前月, Tầm thường nhất
dạng song tiền nguyệt,
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện
bất đồng.
Có nghĩa :
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Quanh bếp than hồng nước mới pha.
Bên cửa thường ngày trăng vẫn chiếu,
Thêm cành mai nữa, nhớ quê xa !...
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Hỏa là Lửa, ngoài nghĩa Bếp Lửa ra, Hoả còn có nghĩa là
Đèn Đóm, đèn đuốc thắp lên ban đêm để vui
chơi trong cung như nàng cung nữ thất sủng nhìn về nơi có ánh
đèn lửa tiệc tùng mà tủi thân tủi phận :
火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri
dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo
phụng ân thì.
(
Tây Cung Thu Oán )
Có nghĩa :
Lửa chiếu Tây cung đang dạ tiệc,
Rõ ràng nơi đó hưởng ơn vua !
...và buồn như nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm
Khúc của Ôn Như Hầu :
Hóa
công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
... cũng là đèn lửa nhưng buồn vui
có khác, và không chỉ có buồn vui, có những ánh đèn
còn rất nên thơ, như đèn của lửa chài trong Phong Kiều Dạ
Bạc của Trương Kế :
江楓漁火對愁眠 Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
mà Tản
Đà đã diễn Nôm rất nên thơ là :
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ...
... hay như hai ba đóm
lửa lặp lòe của một bến đò xa xa trong đêm tối trong bài
Đề Kim Lăng Độ của Trương Hỗ đời Đường :
金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ
tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁。 Nhất túc hành nhân
tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡,
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
兩三星火是瓜州。 Lưỡng tam tinh hỏa thị
Qua Châu
Có nghĩa :
Kim Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ
khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều
xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp
lòe đóm lửa ấy Qua Châu !
Trong cảnh đêm khi nước thủy triều
đang xuống dưới ánh trăng nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng
hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những vì sao lạc kia, chính
là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy ! Qủa là
một bức tranh chấm phá với cảnh đèn đóm trong đêm
vô cùng nên thơ và thi vị !
Lửa dịu dàng là thế,
ấm áp là thế, nên thơ là thế... nhưng khi nổi " tam bành
" thì " Bà Hỏa " hoạn đến không buông tha cho ai cả,
không buông tha cho vật chất nào cả, mà thiêu rụi sạch sành
sanh. Bão tố giật xập nhà cửa, nước lụt cuốn trôi nhà
cửa, nhấn chìm ghe xuồng... nhưng cũng còn vớt vát lại được
chút đồ đạc còn trôi nổi trên sông, chớ sau một cơn
hỏa hoạn thì tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn
của dĩ vãng mà thôi !
Lửa còn đi liền với chiến tranh với các từ Binh Lửa, Khói
Lửa, Tên lửa, Đạn lửa hay Lửa Đạn là vùng lửa cháy
đạn bay, là nơi tuyến đầu, nơi mà người ta bắn giết
lẫn nhau, là các vùng Hỏa Tuyến 火線, nơi mà ban đêm
luôn có " Những đóm mắt Hỏa Châu 火珠 "
soi sáng chiến trường . Tội nghiệp cho tuổi trẻ Miền Nam,
tội nghiệp cho các anh lính trẻ Việt Nam Cộng Hòa như tôi "
xếp bút nghiên theo việc binh đao " để đêm đêm phải
tâm sự cùng " Những ánh mắt Hỏa Châu " như trong bài
hát của Nhạc sĩ Hàn Châu :
Có những đêm dài ... anh ngồi ...nhìn hỏa châu rơi ...
Nghe
vùng tâm tư ... cháy đỏ ...xoay ngang lưng trời ...
Những đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối ,
Như
mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối ...
Những đêm không ngủ... anh ngồi tâm sự ...cùng hỏa ...châu
rơi.....
Qủa là tội nghiệp cho tuổi trẻ
của Miền Nam khoảng thập niên 60-70 thế kỷ trước , tuổi
trẻ của Việt Nam nói chung đã bị cuốn vào vòng chiến
tranh ý thức hệ một cách oan uổng...
Ngày xưa, gọi chiến tranh là
Phong Hỏa 烽火, là những lửa khói bốc lên do chiến loạn,
mà cũng là những lửa khói được đốt lên để
báo hiệu chiến tranh đang diễn tiến đến nơi nào, là những
Phong Hỏa Đài 烽火台 dùng để cảnh báo cho dân chúng
hậu phương biết trước mà tránh xa và nhất là để
cho quan binh hậu phương biết đường mà ứng phó. Nên Phong
Hỏa là chiến tranh như Đỗ Phủ đã viết về chiến loạn do
An Lộc Sơn gây ra :
Phong
Hỏa liên tam nguyệt 烽火連三月
là Chiến tranh kéo dài suốt ba tháng
liền... đã gây ra rất nhiều chết chóc khổ đau tang thương
khắp chốn, huống chi cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam kéo dài những
ba mươi năm, nhân dân cả nước phải hứng chịu biết bao
nhiêu là đau thương đồ thán do bom đạn gây ra !
Hỏa là Lửa, là Đèn đuốc là Đăng Hỏa 燈火.
Hỏa là Tinh Hỏa 星火 là những vì sao lắp lánh trên trời,
là Hỏa Tinh 火星 một trong 4 hành tinh của Thái Dương Hệ,
có tên la-tinh là Mars. Theo khoa học giả tưởng trên Hỏa tinh có
Người Hỏa Tinh và có sự sống như trên Trái đất. Hoả
Tiển 火箭 là Tên Lửa, vừa là vũ khí sát thương,
vừa là phương tiện chuyên chở trong và ngoài không gian. Hỏa
Thạch 火石 là Đá lửa, đá dùng để đánh
lửa. Hỏa Sơn 火山 là núi lửa, là Hỏa Diệm Sơn 火焰山.
Hỏa Khanh 火坑 là Cái Hầm Lửa, từ dùng để chỉ các
cô gái điếm sống cuộc sống đày đọa đồi trụy
ngột ngạt như bị nhốt trong hầm lửa vậy, nên cụ
Nguyễn Du đã gọi là "Lửa Nồng" khi cho cô Kiều phân
tách để Thúc Sinh hiểu được là sống cảnh lẻ mọn
bị vợ lớn ghen tuông hành hạ (giấm chua) còn tội nghiệp hơn
là sống đời kỹ nữ nữa :
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm Chua lại tội bằng ba Lửa Nồng !
Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như
từ Hỏa Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥
là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí
quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻
là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa Thiêu 火燒
đốt cháy quân địch, như trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁
của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân
của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích vậy. Cuối cùng
để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu
Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa gọi
là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi
là Anh Nuôi.
Ngoài trận hỏa công để đời nổi tiếng trong lịch sử
thời Tam Quốc ra , còn một trận hỏa công rất đặc sắc nữa
ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, đó chính là Hỏa Ngưu Trận
火牛陣. Theo Sử Ký Điền Đan Liệt Truyện...
Đời Yên
Chiêu Vương, tướng Yên là Nhạc Nghị đem binh đánh Tề.
Tướng Tề là Điền Đan cố giữ thành Tức Mặc. Năm
279 trước Công Nguyên, Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan
dung kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp thay
cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp
không phòng bị, rồi đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò
trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu, đuôi trâu
buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị
nóng cắm đầu cắm cổ phóng về phiá quân Yên, lại
cho 5000 lính cảm tử xung phong giết tới. Quân Yên đại bại, Kỵ
Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm
lại hơn 70 thành đã bị mất.
Vì
tích Hỏa Ngưu Trận ở trên mà trong văn học Việt Nam có
một bài thơ vịnh Con Trâu Già rất hay như sau :
Một
nắm xương khô, một nắm da
Bao
nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng quế thở nghi nga
Có
người toan giết tô chuông mới
Ơn đức vua Tề, lại được tha.
Bài thơ trên có người
cho là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, có người cho là của
Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhưng dù của ai thì đây
vẫn là một bài thơ hay.
Hỏa Thiêu Xích Bích
Hỏa Ngưu Trận
Hỏa là Lửa,
nhưng Hỏa Kê 火雞 không phải là Con Gà Lửa mà là
con Gà Tây, bình dân gọi là con Gà Lôi, ở Mỹ gọi là
Turkey. Lễ Gà Lôi là Lễ Tạ Ơn của Mỹ (ngày Thứ Năm
của tuần thứ 3 trong tháng 11), hằng năm dân Mỹ phải "hỏa
thiêu" đến mấy triệu con Hỏa Kê nầy để ăn mừng.
Hỏa Trùng còn gọi là Huỳnh Hỏa Trùng 螢火蟲, không
phải là con sâu lửa mà là con Đom Đóm với ánh đèn
lân tinh chớp sáng phía sau đuôi trên các ngọn cây bần
ở quê tôi. Cũng như Hỏa Hầu 火候 không phải là con
Khỉ Lửa, mà là chỉ cái tiêu chuẩn mức độ đạt
đến cở nào. Như hấp bánh còn thiếu hỏa hầu nên bánh
chưa thật chín thật ngon, Công phu luyện chưa tới hỏa hầu nên
chặt cục gạch còn chưa bể hai... Hỏa Hầu cũng không phải
là Tề Thiên Đại Thánh 齊天大聖, vì Tôn Ngộ
Không 孫悟空 là con Thạch Hầu 石猴, con khỉ từ trong đá
nứt ra, chứ không phải là con khỉ lửa; chỉ sau khi bị Thái Thượng
Lão Quân đốt trong lò Bát quái bảy bảy bốn mươi chín
ngày ra, thì Tôn Ngộ Không mới có được Hỏa nhãn
Kim tinh 火眼金睛, có nghĩa : Con mắt rực như lửa và tròng
mắt sáng như vàng có thể nhìn thấu mọi sự vật do yêu
quái biến hình. Nhưng Hỏa Xa là Xe Lửa, Hỏa Long 火龍 thì
lại là con rồng lửa chính hiệu có màu đỏ rực như
lửa. Gần đây, người Hoa lại dùng từ Hỏa Oa 火鍋 là
Cái Nồi Lửa để chỉ Cái Lẩu (cái Cù Lao) mà ta thường
ăn khi có tiệc.
Theo phép tạo chữ Nho ngày
xưa, một chữ Hỏa 火 là Lửa; 2 chữ Hỏa chồng lên nhau là
Viêm 炎 là Nóng, ta có từ kép Viêm Nhiệt 炎熱 là
Nóng nực; 3 chữ Hỏa ghép lại thành chữ Diễm 焱 là Lửa
cháy rực rỡ, đọc là Diệm thì đồng âm với từ
Hỏa Diệm Sơn 火焰山 là Núi Lửa, HỎA DIỆM SƠN còn
là từ dùng để chỉ các bà các cô có thân hình
với 3 vòng thật "nóng", thật gợi cảm, thật bốc
lửa !
Những thành ngữ có chữ Hỏa 火 mà Hoa Việt đều
thông dụng là :
* Hỏa thượng
gia dầu 火上加油 : Ta nói là "Lửa cháy thêm dầu"
hay là "Đổ thêm dầu vào lửa", ý nói đã không
chửa cháy mà còn làm cho nó cháy lớn thêm hơn !
* Hỏa hải đao sơn 火海刀山
: Ta nói là "Núi đao biển lửa" để chỉ những nơi
vô cùng nguy hiểm, những chỗ mất mạng như chơi !
* Can sài liệt hỏa 乾柴烈火
: là Củi khô lửa mạnh, ta nói là "Lửa gần rơm" lâu
ngày cũng bén.
* Sấn hỏa
đả kiếp 趁火打劫 : Thừa lúc lửa cháy để cướp
đồ của người khác, ta nói là " Thừa nước đục
thả câu".
* Phong hỏa liên
niên 烽火連年 : Chiến tranh năm nầy liền năm khác, ta nói
là " Chiến tranh dai dẳng" như cuộc nội chiến của Việt Nam
ta ngày xưa làm cho quân dân đều chán ngán.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có những câu ngạn ngữ rất thực
tế như :
Viễn thủy nan cứu cận hỏa, 遠水難救近火,
Viễn
thân bất như cận lân. 遠親不如近鄰。
Có nghĩa :
Nước xa không thể cứu được lửa gần ,
Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Hay như câu
:
Thành môn thất hỏa, 城門失火,
Ương
cập trì ngư. 殃及池魚。
Có nghĩa :
Cửa
thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở
trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì... người ta sẽ vét
hết nước ở trong ao để chửa lửa, nên cá sẽ không còn
nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là : "bị
văng miểng", bị họa lan can !
Hỏa là Lửa
cũng như Mộc là Cây là 2 nhân tố không thể thiếu trong đời
sống con người. Hỏa là Đăng Hỏa 燈火 là Đèn đóm
để thắp sáng; là Hỏa Lô 火爐 là cái Lò lửa
để nấu ăn. Trong thời đại văn minh hiện nay ta còn có Điện
Lô 電爐 là Lò điện, Mai Lô 煤爐 là Lò Gas... Lửa
còn dùng để sưởi ấm, nấu nướng chiên xào, chế
biến thức ăn, xúc tác phản ứng hóa học trong phòng thí
nghiệm, để luyện kim... kể cả những hoạt động vui chơi
như Bắn pháo bông, Đốt lửa trại... đều không thể xa
rời được lửa. Thử nghĩ nếu một ngày không có lửa
thì cuộc sống sẽ ra sao và thế giới nầy sẽ ra sao ?!
Những
đêm nguyện cầu, những đêm thắp nến, đều nhờ vào
ngọn lửa của ánh nến để thắt chặc thêm tình đoàn
kết, để ung đúc thêm ý chí đấu tranh, để càng
hạ quyết tâm phấn đấu hơn để đạt mục đích
cuối cùng. Ta hãy nghe lại lời của bài hát Nhạc Rừng Khuya
mà nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác khi ông còn chưa
đầy 20 tuổi :
...
Bập bùng bấp bung ...đêm khuya thêm não nùng...
Lửa càng bừng cháy, siết tay nhau... chúng ta cùng múa
quanh
lửa hồng... cháy trong rừng khuya
và...
... Lửa
cháy, hăng lửa giục lòng dân ...đoàn kết
Lửa reo, vang lửa gào lòng ta ...nguồn sống
Lửa Tự Do ...muôn năm vẫn reo ...rừng ơi !
Trở
lại với đề tài lúc ban đầu, theo quan niệm của Phật Giáo,
cơ thể con người là do TỨ ĐẠI : Đất Nước Gió
Lửa khi đã đủ cơ duyên thì kết hợp lại mà thành,
nên khi chết đi thì thân Tứ Đại sẽ trả về cho Tứ Đại.
Nhớ năm 1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu xong
thì còn lại ... trái tim vẫn không chịu cháy trong lò thiêu
lên đến 4000 độ C tại Đài hỏa táng An dưỡng địa
ở Phú Lâm (Sài Gòn). Thì ra, vẫn có những cái mà
lửa không thể thiêu rụi được, đó là Trái Tim của
đấu tranh, tức là Ý Chí Đấu Tranh thì không có ngọn
lửa nào thiêu rụi được cả ! Xin được mượn 2 câu
thơ sau đây trong bài thơ ca ngợi Hoà thượng Thích Quảng
Đức để kết thúc cho bài phiếm luận nầy :
Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại,
Tim của ngài tồn tại thế gian !
Lửa là Hỏa và Hỏa là Lửa. Lửa thiêu
rụi tất cả, nhưng không thể thiêu rụi được Tinh thần
đoàn kết và ý chí đấu tranh !
Đỗ Chiêu Đức
Nên gọi
QUAN ÂM hay QUÁN ÂM
Những năm gần đây, hầu như tất cả các chùa
chiền, tăng ni, cư sĩ, Phật tử ... kể cả trong nước lẫn ngoài
nước, đều có thói quen gọi QUAN Thế Âm Bồ Tát thành
QUÁN (có dấu SẮC) thế Âm Bồ Tát ?!
Mới nghe một hai lần đầu,
tôi cứ ngỡ là người ta đọc sai, đọc lộn âm, nhưng
chẳng những tín đồ Phật tử, cư sĩ tăng ni mà ngay cả
các Tỳ kheo Đại đức, Thượng tọa Cao tăng khi tụng kinh hay
đăng đàn thuyết giảng, hễ có dịp nhắc đến QUAN Âm
Bồ Tát thì đều đọc là QUÁN Âm Bồ Tát cả !
Tôi vô
cùng ngạc nhiên, ngạc nhiên hết sức... Không biết tại sao Phật
hiệu Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ
TÁT nghe hiền hòa là thế, từ bi là thế, êm tai là thế,
bỗng dưng lại bị bỏ thêm cái Dấu Sắc vô duyên nghe chói
tai muốn chết ! Ấy thế, mà tại sao mọi người đều nghe theo
và đọc theo cái Phật hiệu chói tai có dấu sắc kia ?!
Theo
"Chữ Nho...Dễ Học" thì chữ Quan 觀 là chữ thuộc dạng
Hình Thanh theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Chung Đỉnh Văn Đại Triện Tiểu Triện
Lệ Thư
Ta thấy :
Từ
Chung đình văn cho đến Đại triện, Tiểu triện diễn tiến
cho đến Lệ Thư đều do chữ QUÁN 雚 (một loại Lát để
dệt chiếu, đệm) dùng làm ÂM kết hợp với Bộ KIẾN 見
là Thấy, là Gặp để chỉ Ý đúng theo phép tạo chữ
của HÀI THANH (còn gọi là HÌNH THANH). Nên chữ 觀 được
đọc là :
* QUAN thì có
nghĩa là Nhìn Ngắm, Xem Xét, như Tham quan 參觀, Quan sát 觀察...
là Cách nhìn, như Quan Niệm 觀念, Quan Điểm 觀點...
Nếu đọc là :
* QUÁN thì có nghĩa là Cái chùa của các đạo sĩ
ở và tu, như Bạch Vân Quán 白雲觀, Tử Dương Quán
紫陽觀...
Nhưng để truy nguyên
tìm hiểu nguyên nhân của cái "dấu sắc" vô duyên kia,
tôi còn tìm lật các Tự điển, Từ điển... À,
thì ra chữ QUAN 觀 là Xem xét còn được đọc
là QUÁN với nghĩa Xét thấu theo các tài liệu sau
đây (chỉ trích những phần có liên quan) :
* Từ điển
Hán Nôm :
QUAN 觀
là...
- xem, quan sát.
1. (Động) Xem xét,
thẩm thị, Ngắm nhìn, thưởng thức.
2. (Danh) Cảnh tượng,
quang cảnh, Cách nhìn, quan điểm, quan niệm.
3. Một âm là
"Quán". (Động) Xét thấu, nghĩ thấu. ◇Bát-nhã ba-la
mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: "Quán Tự
Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách" 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時,
照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự
Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm
hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi
khổ ách.
* Từ điển Thiều Chửu :
Giải
thích âm QUÁN như sau :
QUÁN : là Xét
thấu, nghĩ kĩ thấu tới đạo chính gọi là quán. Như Chỉ
Quán 止觀 yên định rồi xét thấu chân tâm, như Kinh
Dịch 易經 nói Quán ngã sinh vô cữu 觀我生無咎
xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào
tội lỗi. Đạo Phật có phép tu dùng tai mà xem xét cõi
lòng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng,
nên gọi là phép quán 觀. Như Quan âm bồ tát 觀音菩薩,
vì ngài tu bằng phép này, sáu căn dùng lẫn với nhau được,
mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán thế âm 觀世音.
À, thì ra QUAN 觀 là Xem Xét, là Nhìn Ngắm... Nếu đọc
là QUÁN thì có nghĩa là Xét Thấu, Nghĩ Thấu... Nhưng
suy cho cùng thì Xét Thấu Nghĩ Thấu đều là nghĩa phát
sinh của Xem Xét Nhìn Ngắm ra mà thôi ! Và QUÁN còn
là một phép tu tập về lục căn như có thể dùng tai để
nhìn và dùng mắt để nghe được... Như trong "Bát-nhã
ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經 "..vv.. và..vv...
Nhưng,
Ở đây tôi không nói
về phép tu tập (Vì tôi có biết gì đâu mà nói
), tôi chỉ thắc mắc, ray rức không hiểu vì sao một Phật hiệu
của một Bồ Tát khả kính đọc lên nghe êm ái nhẹ nhàng
là QUAN THẾ ÂM Bồ Tát lại bị ai đó hô hào rồi thô
bạo thêm dấu sắc vào thành QUÁN THẾ ÂM nghe thật trúc
trắc chói tai. Nếu bảo là gọi cho đúng cái con đường
tu tập của Bồ Tát thì càng sai hơn, vì Phật hiệu là
cái tên gọi, còn con đường tu tập là cái việc làm.
Hơn nữa cái Phật hiệu đại từ đại bi Cứu khổ Cứu
nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát mà mọi người còn gọi một
cách thân mật gần gũi với cuộc sống hơn là Mẹ Hiền
Quan Âm đã có từ hơn một ngàn năm trăm năm nay, từ thời
Bắc Chu của Nam Bắc Triều ( 420-589 ) đời vua Diệu Trang Vương với
Quan Âm Diệu Thiện và trên hai trăm năm với truyện nôm Quan
Âm Thị Kính của ta dưới triều nhà Nguyễn (1802---). Phật
hiệu QUAN ÂM BỒ TÁT đã đi sâu vào lòng quần chúng
nhân dân, đã ăn sâu vào tâm khảm của muôn vạn tín
đồ Phật tử, thì tại sao lại phải vì một lý do nào
đó mà thêm vào "Dấu Sắc" cho trúc trắc khó đọc
và nghe không êm ái chút nào cả !
Xin
được lạm bàn về Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Như
các Từ điển nêu trên...
QUAN 觀 là Quan sát, là Xem xét. THẾ
世 là Thế giới, là Cuộc đời nầy. ÂM 音 là Âm
tín, Âm hao. Vậy thì...
QUAN THẾ ÂM BỒ
TÁT 觀世音菩薩 là vị Bồ Tát quan sát xem xét
hết những âm tín âm hao của cuộc đời nầy, của cả thế
giới nầy, để cứu khổ cứu nạn với tấm lòng đại
từ đại bi của mình cho tất cả chúng sinh. Vì thế mà
ta thường nghe mọi người niệm câu " Nam mô Đại từ Đại
bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát " với một tấm
lòng thuần thành và lắng lòng với Mẹ Hiền QUAN ÂM nhẹ
nhàng êm ái. Nhưng nếu đọc là QUÁN ÂM thì vừa khó
nghe, vừa chói tai lại vừa có vẻ Bá Đạo nữa, vì ...
Âm
QUÁN dễ làm cho người ta liên tưởng và hiểu lầm thành...
* QUÁN 冠 : là Bao trùm,
Phủ trùm, như từ Quán Quân 冠軍 là Bao trùm cả Tam quân,
là Hạng Nhất. Ngày xưa chỉ có những cuộc thi đua so tài
trong quân đội, nên từ Quán Quân là Hạng Nhất được
sử dụng thông dụng cho đến hiện nay. Nếu hiểu nhầm QUÁN
THẾ ÂM là chữ QUÁN 冠 nầy, thì QUÁN THẾ 冠世 có
nghĩa là Bao trùm cả thế giới, là Hạng Nhất ở trên đời
nầy ! Nên tôi nói có vẻ Bá Đạo là thế, không thích
hợp với Mẹ Hiền Quan Âm chút nào cả ! Còn như hiểu nghĩa...
*
QUÁN 貫 là Quán Triệt 貫徹, Quán Xuyến 貫穿, là
Xuyên suốt, thì QUÁN THẾ 貫世 là Xuyên suốt lo toan cho cả
thế giới, nên có vẻ ôm đồm hết mọi việc của người
đời. Mẹ Hiền Quan Âm chỉ Cứu khổ cứu nạn để giúp
cho con người thoát khỏi bể khổ bến mê, chớ không phải ôm
đồm làm hết mọi việc cho người đời. Còn nếu phát
âm theo dân Nam Kỳ Lục Tỉnh chúng tôi không phân bịêt có
"g" hay không "g" mà đọc là QUÁNG thành QUÁNG
ÂM thì lại càng tội lỗi hơn ! Cho nên...
Thiết nghĩ, QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT
là tên gọi của Phật Bà Quan Âm đã hơn ngàn năm nay,
đã thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là thói quen của tiếng nói,
đã ăn sâu vào tâm thức của mọi người kể cả những
người không phải là tín đồ Phật Giáo thuần túy như
tôi, nhưng trong đời sống ở làng quê thôn xóm với ngôi
chùa ở đầu thôn hay cuối làng, mọi người đã quen rồi
với từ Quan Âm Bồ Tát, nay bỗng dưng lại đổi thành Quán
Âm Bồ Tát; Mẹ Hiền Quan Âm thành Mẹ Hiền Quán Âm, nghe
chua xót và ngỡ ngàng làm sao ấy ! Đã là thói quen của
TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, sao ta không duy trì giữ nguyên mà lại thay
đổi một cách không cần thiết như thế ? Vì mọi người,
mọi tín đồ bình dân đâu cần biết đến cái phép
tu tập, cái lối tu tập hay cái con đường tu tập của các
bậc cao tăng chính giác mà chi, họ chỉ biết Quan Âm Bồ Tát
là Mẹ Hiền Quan Âm cứu khổ cứu nạn mà thôi !
Nhớ...
Khoảng
giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng
trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ,
Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành
Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn (Vốn là Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn cũ), nội dung bài báo đề cập đến
việc nên dùng từ "CHÚNG CƯ 眾居" thay thế cho từ
" CHUNG CƯ " với lý do CHUNG CƯ là từ kép được thành
lập theo văn phạm Hán Việt, vì Tính Từ đứng trước
Danh Từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà
từ CHUNG 終 Hán việt không có nghĩa là Chung chạ mà
có nghĩa là Cuối cùng. Nên CHUNG CƯ 終居 không phải
là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở Cuối Cùng,
tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ CHUNG
CƯ 終居 thành CHÚNG CƯ 衆居 thì mới ổn.Vì
CHÚNG 衆 là Quần Chúng 群眾, nên CHÚNG CƯ 衆居 mới
là nơi Nhiều người cùng ở chung. Sau đó, các báo, đài
đều hưởng ứng dùng từ CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng
, chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn
20 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng
nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG
CƯ ! Tại sao ? Vì CHUNG CƯ là từ viết tắt của nhóm từ 4
chữ "CÙNG CHUNG CƯ NGỤ", hơn nữa từ CHÚNG CƯ nghe nó
chỏi cái lổ tai làm sao ấy !. Nên, trước mắt tất cả báo
đài đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, chớ không phải
CHÚNG CƯ nữa, như CHUNG CƯ CAO CẤP Phú Mỹ Hưng chẳng hạn !
Trở
lại với Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, thiết nghĩ giới Phật
tử quần chúng bình dân đã quen miệng với các cách gọi
thân thương là :
- Quan Âm Bồt Tát,
- Phật Bà Quan Âm,
- Mẹ Hiền Quan Âm....
đã
thành một Tập Quán Ngôn Ngữ rồi, nếu bây giờ phải gọi
Bà Quan Âm là Bà QUÁN Âm thì nghe rất chướng tai và...
không giống ai cả ! Nên, theo thiển ý thì...
Khi
tu tập hay khi nghiên cứu về giáo lý cao siêu của Phật Giáo
thông qua các phép, các cách hay các con đường tu tập thì
qúy Tỳ Kheo Đại Đức Thượng Tọa hay Hòa Thượng ... muốn
gọi sao thì gọi, nhưng khi thuyết giảng giáo pháp trước quần
chúng nhân dân thì nên giữ theo lối gọi truyền thống trước
đây là QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, chứ đừng cho máy phóng
thanh cứ oang oang là " QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT" như chọc vào
tai của muôn vạn người nghe một cách bá đạo và khó
chịu vô cùng !
Trên
đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân của người viết thông
qua những phản ánh của bạn bè thân hữu chung quanh, xin chân thành
gởi đến các vị chức sắc trong Giáo Hội Phật Giáo và
quảng đại thiện nam tín nữ trong và ngoài nước để
cùng nhau trao đổi và góp ý về tên gọi của một vị
Bồ Tát rất gần gũi thân thương với tất cả chúng sinh
còn chìm đắm trong biển khổ !
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ
ÂM Bồ Tát Ma Ha Tát !
Đỗ Chiêu Đức
Tùng Thiện Vương
và các thi nhân đời Đường
VƯƠNG DUY TÙNG THIỆN VƯƠNG
LÝ BẠCH
Tùng Thiện vương
là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão
(tức 11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Mẹ
ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏寶), người Bình
Chương, Gia Định, con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu (阮克紹),
rất giỏi chữ nghĩa.
Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Hiện
(晛). Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được
cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (阮福绵审).
Ông nội
ông là Gia Long rất vui mừng, thưởng liền 10 lạng vàng. Khi còn
nhỏ, tính hay khóc, Thục tần rất lo mà không biết thế nào.
Bỗng có đạo sĩ nói rằng: "Đây là sao Thái Bạch
Kim Tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi.". Sau làm lễ, quả
nhiên khỏi hẳn.
Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc công (從國公),
mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế.
Năm 1854, ông
được gia phong Tùng Thiện công (從善公). Năm 1858, ông mua
12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương
Thốn thảo đường.
Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy
ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả
con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở
làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm
cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Tự Đức. Việc thất bại,
Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước
đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với
mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ,
Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng
sớ xin chịu tội.
Tự Đức không kết tội chỉ nói ông: "Chọn rể không
cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm". Suốt
những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ
Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con
phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái
ăn hàng ngày.
Ông
mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51
tuổi. Thụy là Văn Nhã (文雅). Năm 1878, ông được Tự
Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận vương (從善郡王).
Năm 1936, Bảo Đại
mới truy phong ông là Tùng Thiện vương (從善王), tước
vị mà ngày nay người ta quen gọi.
Tùng Thiện Vương là bạn thơ chí
tình của Cao Bá Quát
( Nguồn gốc : Wikipedia VN )
Vua Tự Đức, ông
vua rất có văn tài đã từng khen :
"Văn
như Siêu, Quát vô tiền Hán
文如超适無前漢,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường" 詩到從绥失盛唐。
Sau đây ta hãy thử
so sánh thơ của Tùng Thiện Vương với các nhà thơ lớn
của các đời Đường, để thấy được cái hay của
mỗi bên và để thấm thía hơn với lời bình phẩm nhận
xét của ông vua tài hoa văn nghệ : " Thi đáo Tùng,Tuy thất
thịnh Đường !".
1.
柳 LIỄU
去歲春殘黃鳥歸,
Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy,
秋容憔悴月明知.
Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri.
東風昨夜吹何處,
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ?
更惹新愁上曉眉.
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my.
Tùng
Thiện Vương
CHÚ THÍCH :
* Khứ Tuế : là Năm Ngoái, năm trước, giống như chữ Khứ
Niên vậy.
* Hoàng Điểu : là Con chim vàng, chỉ chim Hoàng
Oanh.
* Nhạ : là Vây đến, Đụng đến, Ghẹo đến...
cũng có nghĩa là Nhuốm lấy, Rước lấy...
* Hiểu My
: là Chân mày buổi sáng( chưa kịp vẽ )
Diễn Nôm :
LIỄU
Năm ngoái xuân tàn
oanh vội bay,
Dáng thu tiều tụy mảnh
trăng soi.
Đêm qua gió cuốn về đâu
nhỉ ?
Lại rước thêm sầu liễu
sáng nay !
Lục bát :
Xuân tàn oanh vội bay về,
Nét thu tiều
tụy não nề trăng soi.
Đêm qua gió
thổi nhà ai,
Sáng nay sầu đượm
nét ngài ủ ê !
Đỗ
Chiêu Đức
* Sau đây
là bài " Mộ xuân quy cố sơn thảo đường 暮春歸故山草堂
của Tiền Khởi 錢起 đời Đường :
谷口春殘黃鳥稀,
Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi,
辛夷花盡杏花飛。 Tân di hoa tận hạnh
hoa phi.
始憐幽竹山窗下,
Thủy lân u trúc sơn song hạ,
不改清陰待我歸。
Bất cải thanh âm đãi ngã quy.
CHÚ THÍCH :
* Cốc : là Sơn Cốc, là Thung lủng núi.
Nên Cốc Khẩu là Đường đi vào thung lủng núi.
* Hoàng Điểu : chỉ Chim Hoàng oanh.
* Tân Di Hoa : là Hoa của
cây Mộc lan, còn gọi là Vọng Xuân Hoa 望春花, nở trước
hoa Hạnh.
* Lân : ở đây không có nghĩa là Tội nghiệp,
mà là Thương, là Thích.
* Thanh Âm : là Hình dung từ,
chỉ Cây cối xanh tươi mát mẻ.
DIỄN NÔM :
Cửa
núi xuân tàn oanh biếng ca,
Tân Di
hoa rụng hạnh la đà.
Thương thay
song cửa rừng tre trúc,
Mát mẻ như
xưa đợi đón ta.
Lục Bát :
Xuân tàn núi vắng oanh ca,
Mộc lan
rụng hết hạnh hoa bay đầy.
Trước
song rừng trúc phủ dày,
Thanh u mát
mẻ đợi ngày đón ta !
Đỗ Chiêu Đức
Cũng
là chim hoàng oanh, nhưng khi xuân tàn chim hoàng oanh của Tùng Thiện
Vương bay về tổ chỉ còn lại nét thu tiều tụy dưới bóng
trăng soi, lại không biết gió xuân tối đêm qua thổi về đâu,
nên sáng nay lại rước thêm nổi sầu bâng quơ lên mi mắt
! Còn Tiền Khởi đời Đường thì khi xuân tàn đã
vắng tiếng chim hoàng oanh thì ông quay về bên song cửa sổ giữa
rừng tre trúc mát mẻ luôn luôn sẵn sàng chào đón ông
về khi ngoài trời hoa Mộc Lan đã tàn và hoa hạnh đang la đà
bay theo gió !
Mỗi người mỗi vẻ
đều nên thơ và có nét thi vị riêng của mình.
2.
淥水 LỤC
THỦY
淥水青山常在,
Lục thủy thanh sơn thường tại,
孤雲野鶴同飛。
Cô vân dã hạc đồng phi.
短艇柳邊客釣,
Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,
小橋月下僧歸。
Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.
Tùng
Thiện Vương
CHÚ THÍCH :
* Lục Thủy : là Dòng nước
trong. Chữ LỤC 淥 có 3 chấm thủy 氵, có nghĩa là Trong
trẻo. Chữ LỤC 綠 có bộ Mịch 糸 là sợi tơ mới có
nghĩa là Màu Xanh.
* Đoản Đĩnh : là chiếc xuồng
con.
DIỄN NÔM :
Nước biếc núi xanh còn đó,
Mây đơn hạc lẻ cùng bay.
Xuồng con thả câu bờ liễu,
Sư về cầu nhỏ trăng lay !
Lục Bát :
Núi xanh nước biếc còn đây,
Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.
Xuồng con bờ liễu câu hời,
Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn.
Đỗ
Chiêu Đức
Thi Tiên
Lý Bạch đời Đường cũng có một bài LỤC THỦY KHÚC,
nhưng mượt mà ướt át hơn của Tùng Thiện Vương nhiều.
Mời xem bên dưới :
* Sau đây là bài LỤC THỦY
KHÚC của Lý Bạch đời Đường :
淥水曲
Lục Thủy Khúc
淥水明秋月, Lục Thủy minh thu nguyệt
南湖採白蘋。
Nam hồ thái bạch tần.
荷花嬌欲語,
Hà hoa kiều dục ngữ,
愁殺盪舟人。
Sầu sát đãng chu nhân.
李白
Lý Bạch
CHÚ THÍCH
:
* Lục Thủy Khúc :Là Tên của một khúc hát xưa,
có nghĩa là Khúc hát về Dòng Nước Trong.
* Nam Hồ
: là Phía nam của Động Đình Hồ.
* Bạch Tần : Một
loại rau nổi trên mặt nước có hoa màu trắng như rau muống,
rau ngổ vậy.
* Hà Hoa : là Hoa Sen, tức là Liên Hoa 蓮花
đó.
* Sầu Sát : chữ SÁT 殺 đứng sau Động từ
là Trạng từ chỉ Mức độ, có nghĩa như Rất, Rất là.
Nên Sầu Sát có nghĩa là Rất buồn, là Buồn muốn chết
!
* Đãng Chu Nhân : là Người
chèo thuyền, người bơi xuồng.
NGHĨA
BÀI THƠ :
Dòng nước trong trẻo
làm cho trăng thu như sáng hơn lên, ta thả thuyền ở phía nam Hồ
Động Đình để hái rau bạch tần. Nhìn thấy bông sen
nở trên hồ thật đẹp thật sống động như muốn nói
chuyện cùng ta, làm cho ta cảm thấy buồn muốn chết đi được
vì ta không thể nào đối thoại được với hoa.
DIỄN NÔM :
LỤC
THỦY KHÚC
Nước
trong sáng trăng thu,
Bạch tần hồ nam hái,
Sen đẹp như muốn nói,
Sầu chết người đãng chu !
Lục bát :
Nước trong làm sáng trăng thu,
Rau
tần tìm hái bên hồ phía nam.
Lá xanh bông trắng nhị vàng,
Tựa
như muốn nói sầu sang người chèo !
Đỗ Chiêu Đức
Nhưng
bài thơ của Tùng Thiện Vương là bài thơ 6 chữ, lại
làm cho ta nhớ đến bài "Quy Sơn Tác 歸山作" của
Cố Huống 顧況 đời Đường :
心事數莖白髮,
Tâm sự sổ kinh bạch phát,
生涯一片青山。 Sanh nhai nhất phiến thanh sơn
空林有雪相待,
Không lâm hữu tuyết tương đãi,
古道無人獨還。 Cổ đạo vô nhân độc
hoàn.
CHÚ THÍCH :
* Quy
Sơn : là Về núi, ý nói đi ở ẩn.
* Kinh : là Sợi.
Sổ Kinh : là Mấy sợi.
* Sanh Nhai : là Mưu sinh để sinh sống.
DIỄN
NÔM :
Tâm
sự, lơ thơ tóc bạc,
Sinh nhai, một dãy núi xanh.
Bầu bạn, núi không tuyết trắng,
Đường về, một bóng vắng tanh.
Âm điệu của thơ 6 chữ vừa
dứt khoát vừa khẳng định một cách mạnh mẽ, chính xác,
cứng rắn nhưng cũng không kém phần thi vị.
3.
金井怨 KIM
TỈNH OÁN
美人照金井,
Mỹ nhân chiếu kim tỉnh,
井底華顏冷。 Tỉnh
để hoa nhan lãnh..
空房夜不歸, Không phòng
dạ bất quy,
月轉梧桐影。 Nguyệt chuyển ngô
đồng ảnh.
Tùng
Thiện Vương
CHÚ THÍCH :
* Kim Tỉnh : Giếng vàng, là giếng của các nhà quyền qúy,
trên mặt miệng giếng có dát vàng. Trong Kiều khi chuyển mùa
Nguyễn Du cũng đã viết :
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô.
* Hoa Nhan : là dung
nhan của tuổi hoa niên, chỉ nét mặt son trẻ.
DIỄN NÔM :
Người
đẹp soi giếng vàng,
Dưới giếng dung nhan lạnh.
Phòng không cũng chẳng màng,
Trăng soi ngô đồng ảnh.
Lục Bát :
Săm soi người đẹp giếng vàng,
Lạnh lùng nhan cắc ngỡ ngàng tái tê.
Phòng không đêm chẳng buồn về,
Ánh trăng lay động đã xê ngô đồng !
Đỗ
Chiêu Đức
* Sau đây là bài KIM TỈNH
OÁN 金井怨 của Tào Nghiệp 曹鄴 đời Đường
:
西風吹急景, Tây phong xuy cấp cảnh,
美人照金井。 Mỹ nhân chiếu kim tỉnh.
不見面上花, Bất kiến diện thượng hoa,
卻恨井中影。
Khước hận tỉnh trung ảnh !
DIỄN NÔM :
Gió
tây thổi bàng hoàng,
Người đẹp soi giếng vàng.
Chẳng thấy hoa trên mặt,
Chỉ hận ảnh ngỡ ngàng !
Lục
Bát :
Gió
tây vi vút lạnh tràn,
Bâng khuâng người đẹp giếng vàng săm soi.
Nét hoa đâu chẳng thấy cười,
Âu sầu lại hận ảnh người giếng kia !
Đỗ
Chiêu Đức
Một người đẹp soi bóng xuống giếng
nước xong, thấy dung nhan mình lạnh lẽo buồn bã nên không muốn
về phòng, thơ thẩn để nhìn bóng ngô đồng đang lay chuyển
như tâm sự của mình đang lay chuyển vậy; còn một người
đẹp soi xuống giếng xong lại hận cho dung nhan của mình đã tàn
phai đã già nua theo năm tháng trong lúc gió tây đang giục vù
thổi mạnh.
Mỗi bài đều nêu
lên một trạng thái tâm lý độc đáo và rất nhân
bản thực tế của phái đẹp.
Âu sầu lại hận ảnh người giếng kia
4.
南溪 V
NAM KHÊ
亂山深處一溪橫,
Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,
十二年前駐馬情。
Thập nhị niên tiền trú mã tình
流水自知人事異,
Lưu thủy tự tri nhân sự dị,
潺湲不作昔來聲。
Sàn viên bất tác tích lai thinh
Tùng
Thiện Vương
CHÚ THÍCH :
* Khê : Ta nói là Khe, là dòng
nước từ trong núi chảy ra, là con sông nhỏ được hình
thành bởi các dòng suối, mà ta quen gọi là SƠN KHÊ 山溪.
* TRÚ : là Trú đóng, là dừng lại để nghỉ ngơi,
ăn uống, cắm trại... khác với Đình Mã 停馬 là chỉ
dừng chân một chút rồi đi.
* Sàn Viên : từ Tượng Thanh, chỉ tiếng Róc ra róc rách
của nước chảy.
DIỄN NÔM :
Khe Suối Nam
Ngổn
ngang ngàn núi dòng khe cũ,
Dừng ngựa mười năm tình ấp ủ.
Nước chảy như tình người đổi thay,
Róc ra róc rách không như cũ !
Lục Bát :
Vắt
ngang trong suối dòng khe,
Mười hai năm trước ấp e hàm tình.
Nước trôi nhân sự điêu linh,
Chẳng còn róc rách hàm tình như xưa !
Đỗ Chiêu Đức
* Sau đây là bài Di Gia Biệt Hồ Thượng
Đình 移家别湖上亭 của Nhung Dục 戎昱 đời
Đường :
好是春風湖上亭, Hảo thị xuân phong
hồ thượng đình,
柳條藤蔓系離情。
Liễu điều đằng mạn hệ ly tình.
黃鶯久住渾相識, Hoang oanh trú cửu hồn
tương thức,
欲別頻啼四五聲。
Dục biệt tần đề tứ ngũ thinh.
CHÚ THÍCH :
DI GIA : là Dời nhà, dọn nhà, đổi chỗ ở.
BIỆT HỒ THƯỢNG ĐÌNH : Chia tay với cái đình ở trên
hồ.
ĐẰNG MẠN : là dây leo, dây chùm gởi.
HỆ : là Trói, buộc, ràng buộc.
HỒN 浑 : HỒN có 3 chấm Thủy, nghĩa gốc là NƯỚC ĐỤC.
Nghĩa bóng là ĐẦN ĐỘN. Ở đây HỒN là TRẠNG TỪ
nên có nghĩa là : Rất, cả thảy.
HỒN
TƯƠNG THỨC : Rất là quen biết nhau.
TẦN 频 :
là Thường, là Liên Tục.
TẦN ĐỀ : Hót
liên tục.
DIỄN
NÔM :
Gió xuân
hây hẩy trước hồ đình,
Cành liễu dây leo buộc lấy tình.
Oanh vàng quen biết nên ly biệt,
Hót liền mấy tiếng đoạn làm thinh !
Lục bát :
Gió Xuân mát mẻ
hồ đình,
Dây
leo nhành liễu buộc tình biệt ly !
Oanh vàng quen biết từ khi...
Chia tay hót tặng người đi mấy hồi !
Đỗ
Chiêu Đức
Cả hai bài
thơ, cuối câu 2 và cuối câu 4 đều cùng gieo vần TÌNH 情
và THINH 聲 giống nhau, cùng sử dụng thủ pháp Nhân Cách Hoá
sự vật giống nhau, cùng tả tình như nhau, nhưng mỗi bài lại
nêu lên một tình huống trái ngược lẫn nhau; Tùng Thiện
Vương cho là nước biết được nhân sự thay đổi cho
nên cũng thay đổi tiếng róc rách khi chảy, còn Nhung Dục thì
bảo là con chim oanh vì ở lâu nên như là rất thân thiết,
cho nên khi sắp chia tay lại hót liên hồi như để tiễn biệt.
5.
聞蟬 Văn thiền
送君曾此地, Tống
quân tằng thử địa,
一別忽經年。 Nhất
biệt hốt kinh niên.
愁殺長亭柳, Sầu sát
trường đình liễu,
秋風起暮蟬。 Thu
phong khởi mộ thiền.
Tùng
Thiện Vương - Miên Thẩm
CHÚ
THÍCH :
* Văn Thiền : Nghe tiếng Ve kêu.
* Tằng : Từng,
đã từng.
* Sầu Sát : là Buồn thúi ruột, buồn muốn
chết.
* Mộ Thiền : Tiếng ve kêu trong buổi chiều tà.
DIỄN NÔM :
Nghe Tiếng Ve Kêu
Nơi
nầy từng đưa bạn,
Bỗng chốc đã tròn năm.
Buồn sao bờ dương liễu,
Ve sầu gió thu căm !
Lục Bát :
Tiễn người đi ở nơi đây,
Biệt
ly thoáng chốc đã đầy một năm.
Gió thu nổi lạnh căm căm,
Trường đình vẳng tiếng ve ngâm chiều tà !
Đỗ
Chiêu Đức
Bài
" Văn Thiền " của Tùng Thiện Vương lại là cho ta
nhớ đến bài " Ỷ Hồ " của Thi Phật Vương Duy...
*
Sau đây là bài "Ỷ Hồ 欹湖" của Thi Phật Vương
Duy 王維 đời Đường :
吹簫凌極浦,
Xuy tiêu lăng cực phố,
日暮送夫君。 Nhựt mộ tống phu quân.
湖上一回首,
Hồ thượng nhất hồi thủ,
山青卷白雲。 Thanh sơn quyển bạch vân.
CHÚ THÍCH :
* Lăng : là Lướt,
là Vượt lên trên.
* Cực Phố : Ở cuối bờ, cuối
bãi.
DIỄN NÔM :
Thổi tiêu cuối tận bờ,
Tiễn chàng chiều ngẩn ngơ.
Bên
hồ quay nhìn lại,
Núi xanh mây trắng mờ !
Lục Bát :
Thổi tiêu vẳng tận bến bờ,
Trời chiều
lòng thiếp ngẩn ngơ tiễn chồng.
Quay đầu lòng những bâng khuâng,
Núi xanh quyện lấy bạch vân ngỡ ngàng !
Đỗ Chiêu Đức
" Ôi, cảnh biệt ly
sao mà buồn vậy !" Cả 2 bài thơ đều tả cảnh ly biệt
của người vợ tiễn chồng. Một nàng đến nơi tiễn chồng
hồi năm trước để chỉ còn thấy những cành liễu buồn
nơi trường đình năm cũ và tiếng ve cuối mùa đang rít
tàn hơi trong gió thu hiu hắt; còn một nàng thì thổi tiêu
ra tận bờ hồ để tiễn chàng đi, nhưng khi người đà
khuất bóng vẫn còn lưu luyến nhìn theo để chỉ còn thấy
" Núi xanh quyện lấy bạch vân ngỡ ngàng " mà thôi !
6.
夜泊月瓢
Dạ bạc Nguyệt Biều
竹陰涼處夜停船, Trúc âm lương xứ
dạ đình thuyền,
水月江風未忍眠。
Thuỷ nguyệt, giang phong, vị nhẫn miên,
隔岸鐘樓天姥寺,
Cách ngạn chung lâu Thiên Mụ tự,
聲聲捎破遠汀煙。
Thanh thanh sao phá viễn đinh yên.
Tùng Thiện Vương
CHÚ THÍCH :
* Nguyệt Biều
: là một làng cổ thuộc phường Thuỷ Biều, nằm ở cửa
ngõ phía Tây Nam của thành phố Huế, cách trung tâm thành
phố Huế 7km. Phường Thuỷ Biều có ba mặt giáp sông Hương.
Làng Nguyệt Biều xưa nổi tiếng về thi ca khoa bảng.
NGHĨA BÀI THƠ :
Đêm
Đậu Thuyền ở Bến NGUYỆT BIỀU
Dưới bóng tre yên lặng, ở nơi mát mẻ, chiếc thuyền đậu
lúc ban đêm, Trăng dưới nước, gió trên sông, chưa đành
ngủ, Bờ bên kia, có lầu chuông Thiên Mụ, Dội vang từng tiếng,
phá tan làn khói ngoài xa, trên mặt sông.
DIỄN NÔM :
Dưới
bóng mát tre đêm đậu
thuyền,
Gió trăng sông nước ngủ nào
yên.
Cách bờ Thiên Mụ lầu
chuông vọng,
Văng vẳng xua tan khói sóng thuyền
!
Lục Bát :
Dưới bóng tre, đêm đậu
thuyền,
Trăng soi sông nước ngủ yên được
nào.
Cách bờ Thiên Mụ chuông
cao,
Ngân
nga khói sóng tan vào hư không.
Đỗ Chiêu Đức
Cách
bờ Thiên Mụ chuông cao,
* Bài thơ nầy của Tùng Thiện Vương
lại làm ta nhớ đến bài "Phong Kiều Dạ Bạc" 楓橋夜泊
của Trương Kế 張繼 đời Đường :
月落烏啼霜滿天,
Nguyệt lạc Ô đề sương mãn thiên
江楓漁火對愁眠。 Giang phong ngư hỏa đối
sầu miên.
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại Hàn
San Tự,
夜半鐘聲到客船。
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.
DIỄN NÔM :
Trăng
tà lạnh, tiếng quạ kêu sương xuống
Giấc sầu miên, sông vắng, đối lửa chài
Chùa Hàn San ngoại thành Cô Tô ấy
Nửa đêm buồn, chuông vẳng đến thuyền ai !
Đỗ Chiêu Đức
Lục Bát :
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Tản Đà
Một người vì thuyền đậu dưới bóng tre, có trăng thanh
gió mát mà không đành lòng ngủ đi trước cảnh trí
hữu tình. Thức để ngắm nhìn và để đắm mình
vào cảnh đẹp khi thêm vào đó là tiếng chuông của
chùa Thiên Mụ bên kia sông ngân nga vang động làm lung linh và
tan biến những làn khói sóng trên sông Hương thơ mộng...
Còn một người vì ưu thời mẫn thế, nằm nhìn cây bến
lửa chài mà sầu không chợp mắt để rồi lại chìm đắm
vào tiếng chuông văng vẳng vọng từ chùa Hàn San ở ngoại
thành Cô Tô mà viết nên một bài thơ tuyệt tác...
Cả 2 bài thơ đều đề cập
đến tiếng chuông một cách mầu nhiệm nên thơ, đã điểm
xuyết chấm phá cho một bức tranh đêm êm ả tuyệt đẹp
trên bến sông với những làn khói sóng tan biến theo tiếng chuông
chùa Thiên Mụ. Còn tiếng chuông kia vẳng đến lúc nửa đêm
như vuốt ve như khuyên lơn an ủi giữa cảnh lửa chài hiu hắt,
lúc trăng lặn qụa kêu sương xuống đầy trời dưới
hàng phong lặng lẽ, xoa dịu thêm lòng người lữ thứ trong
một đêm dài không sao chợp mắt....
Lời Kết :
Qua các so
sánh nêu trên, ta thấy thi tài của Tùng Thiện Vương Miên
Thẩm qủa không thua sút với các thi nhân nổi tiếng như Lý
Bạch, Vương Duy, Trương Kế...dưới đời nhà Đường,
chả trách vua Tự Đức đã dám cả quyết mà phê rằng
:
"Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
文如超适無前漢,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường" 詩到從绥失盛唐。
Xin được nghiêng mình trước các bậc tiền nhân lỗi lạc
trong đất nước có bốn ngàn năm văn hiến. Thiết nghĩ,
nếu biết phát huy hết cái sức mạnh tiềm ẩn của dân tộc
thì Việt Nam sẽ không thua một đất nước nào trên thế
giới nầy cả !
Đỗ Chiêu Đức
Xuân
2018
__________________________________________________________________________________________________________________________________________________
MỘC là CÂY
Theo âm dương ngũ hành thì Đông
phương Giáp Ất Mộc. Nên hành Mộc thuộc hướng đông.
Mộc 木 là tên gọi chung của tất cả cây cỏ lá hoa, nên
ta lại có từ Thảo Mộc 草木 để chỉ chung cho các loài
thực vật. Cỏ cây hoa lá sinh sôi nẩy nở được là nhờ
ánh nắng của ba tháng mùa xuân, nên ông bà ta lại có
câu :
Hướng
dương hoa mộc tảo phùng xuân 向陽花木早逢春
Có nghĩa :
Hoa cỏ nào
hướng về ánh nắng mặt trời thì sẽ đón nhận mùa
xuân sớm ngay từ ánh nắng ban đầu của mùa xuân !
Mộc là Cây cỏ thực
vật có hình dáng hẵn hoi, nên chữ Mộc cũng thuộc dạng
chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Kim
Văn Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn và
Đại Triện đều là hình vẽ của một cây con có hai lá
mầm đưa lên trên và hai nhánh rể ăn xuống dưới; cho
đến Tiểu Triện thì các nét vẽ được nối lại cho
liền lạc và khi đến chữ Lệ thì các nét đã được
kéo thẳng ra thành các biểu tượng của chữ viết như ngày
hôm nay : MỘC 木 là Cây Cối.
MỘC 木 còn là Kiều Mộc 喬木 là loại
cây có thân cao to thẳng đứng. Chương Chu Nam trong Kinh Thi có bài
:
南有乔木, Nam hữu kiều mộc,
不可休思.
Bất khả hưu tư.
Có nghĩa :
Phía nam có cây kiều mộc, mà...
Ta không thể nghỉ ngơi dưới cây nầy được !
Kiều
Mộc là cây cao bóng cả, tại sao lại không thể hóng mát
dưới cây được ? À thì ra còn hai câu sau nữa :
漢有游女, Hán hữu du nữ,
不可求思。 Bất khả cầu tư.
Có
nghĩa :
Bên dòng sông Hán
có cô gái đang bơi lội trên đó, mà ta không thể cầu
xin nhớ nhung được ( Ý nói : Không thể tỏ tình để
yêu nàng được ).
Xin được diễn Nôm bài Kinh Thi đó theo Ca dao của ta như sau
:
Phía nam cao ngất có cây,
Ta không thể hóng mát ngay dưới tàn.
Bên
sông Hán thủy có nàng,
Thầm thương trộm nhớ ai màng đến ta !
Người mà chàng
yêu dấu, có thể gặp mà không thể cầu. Đối tượng
mà chàng trai theo đuổi chẳng ở đâu xa, chỉ ở bên kia sông
thôi, có thể nhìn thấy nàng nhưng không thể tiếp cận với
nàng được, chỉ mãi mãi tương tư tưởng nhớ về
nàng và biết sẽ mãi mãi không bao giờ có được nàng.
Vì sao ? thì người đọc tự suy diễn và tự hiểu lấy
!
Ngoài Kiều
Mộc 喬木 ra, ta còn có từ Cù Mộc 樛木, cũng là
một loại cây to nhưng thân uốn lượn bên dưới thẳng bên
trên, cành lá xum xuê như cây sồi, cây da... Chương Chu Nam Quốc
Phong trong Kinh Thi cũng có bài :
南有樛木, Nam hữu cù mộc,
葛藟累之。 Cát lũy luy chi.
乐只君子, Lạc chỉ quân tử,
福履绥之。 Phúc lý tuy chi.
Có nghĩa :
Phương
nam cù mộc một cây,
Kóc kèn bìm bịp mọc đầy leo quanh.
Vui
thay quân tử chí thành,
Trên
hòa dưới thuận yên lành tề gia.
Cù Mộc cũng là cây cao bóng cả,
chỉ người chồng và vợ lớn, còn Cát Lũy 葛藟 là
Dây sắn, dây bìm bịp, kóc kèn leo quanh cây Cù Mộc, được
ví như vợ bé vợ mọn. Cô Kiều đã mượn ý nầy
để ví với thân phận lẻ mọn của mình khi về với Thúc
Sinh là :
Sắn
Bìm chút phận con con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
và...
Khi khuyên Thúc Sinh về thăm
Hoạn Thư là vợ cả, cô Kiều cũng đã biết thân biết
phận của mình mà nói với Thúc đừng có :
Mặn
tình Cát Lũy, nhạt tình tào khang.
Trong đoạn kết của Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du lại mượn hình
tượng của cây Cù Mộc để ví với cái gia đình
vinh hiển của Kim Trọng là :
Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây Cù-Mộc, một sân quế hòe,
Một sân Quế Hòe chỉ
Thúy Vân sanh nhiều con trai và đều thành đạt.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn
Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng cho nàng cung nữ ngao ngán cho cái thân
phận phải chờ đợi của mình là :
Ngán
thay cái én ba nghìn,
Một cây Cù-Mộc biết chen cành nào ?
Mộc 木 là Cây, nhưng song mộc liền nhau thì không
phải là Cây nữa mà là LÂM 林 là Rừng, theo như câu
nói của các ông Đồ Nho ngày xưa :
Song
mộc thành lâm 雙木成林
và...
Tam
mộc thành sâm 三木成森
Có nghĩa :
Ba cây chồng
lên nhau là Rừng Rậm.
Nên...
Độc
mộc bất thành lâm 獨木不成林
Có
nghĩa :
Một cây thì
không thành rừng được.
như ông bà ta đã nói :
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên... hòn núi cao.
Nhưng
trong chữ Nho thì có tới.. 5 cây lận, 5 chữ Mộc ghép lại thành
một Từ. Đó là từ :
SÂM LÂM 森林 : có nghĩa
là Rừng Rậm âm u che khuất cả ánh sáng mặt trời, như câu
hát mở đầu bài " Chiều Trong Rừng Thẳm " của tác giả
Anh Việt :
Trong rừng xa vắng âm u nhuộm ánh sương mờ...
Tiếng
gió rít lên . . . ngàn cây xác xơ...
làm cho tôi nhớ lại hồi nhỏ hay nghe các cô
chú lớn tuổi hơn sửa lời hát lại thành :
Cô mười cô chín hai cô anh muốn cô nào?
Lén
lén dắt đi... đừng cho má nó hay !...
Mộc
木 là Cây, Nhưng nếu ghép với bộ Nhân 亻 là Người
ở bên trái thì đọc là HƯU 休 theo phép Hội Ý là
Người đứng hay ngồi dựa vào cây, nên có nghĩa là Nghỉ
Ngơi. Từ đó ta có các nghĩa phát sinh là Hưu Trí, về
Hưu, nghỉ Hưu ...
Mộc 木 là Cây, Nhưng nếu thêm một nét ngang ngắn
phía trên để chỉ phần ngọn, thì đọc là VỊ 未,
có nghĩa là CHƯA, chỉ phần cây còn chưa lớn. Vị Ngộ
未遇 là Chưa gặp, ý chỉ Chưa gặp thời, như một câu
trong bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ là :
Lúc
Vị Ngộ hối tàng nơi bồng tất
có nghĩa là :
Khi chưa gặp thời còn ở ẩn trong gian nhà cỏ. Và ta lại nhớ
đến câu thơ của La Ẩn là :
Ngã Vị công
thành khanh Vị giá 我未功成卿未嫁
là....
Ta
Chưa đậu đạt nàng Chưa gả !
Nhưng nếu nét ngang ngắn nằm ở phía
dưới nét ngang dài, thì ta có chữ MẠT 末, có nghĩa là
Cuối, là Tận Cùng. Như Mạt Lộ 末路 là Cuối đường,
là cùng đường. Anh Hùng Mạt Lộ 英雄末路 là
Anh hùng đã đến bước đường cùng. Từ đó ta
có các từ như Lê Mạt là Cuối đời Lê; Mạt Vận
là Vận cùng, là Hết Thời rồi....
Và...
Nếu trên đầu chữ MỘC
木 có thêm một nét phẩy về phía bên trái như một
bông lúa trổ nặng oằn đầu xuống 禾, thì đọc là
HÒA, có nghĩa là Cây Lúa, như ông bà xưa đã dạy
:
Học giả như HÒA như đạo, 學者如禾如稻,
Bất học
giả như cảo như thảo. 不學者如稿如草,
có nghĩa :
Người có học thì như Cây
Lúa, hạt lúa, còn...
Người không có học
thì như cọng rơm cọng cỏ.
Cây lúa hạt lúa nuôi sống con người thì giá
trị cao hơn là cọng cỏ cọng rơm chỉ nuôi sống có trâu
bò mà thôi !
VỊ là Chưa MẠT là Cuối
HÒA là Cây Lúa
Ngoài ra, nếu phía dưới phần rể của Mộc 木 là
Cây có thêm một nét ngang ngắn nữa, thì đọc là BỔN
本, có nghĩa là Cái Gốc cây, cái Cội Cây, như ông
cha ta đã dạy :
MỘC
BỔN Thủy Nguyên 木本水源
là...
Cây có cội, nước có nguồn.
Nên BỔN hiểu rộng ra là cái nguồn
gốc, cái Vốn Liếng lúc ban đầu. BỔN là Tiền vốn, nên
khi khai trương buôn bán hay khi Tết nhứt, giới thương buôn hay chúc
nhau câu :
Nhứt BỔN vạn lợi
一本萬利
có nghĩa :
Một đồng
vốn, một muôn ( mười ngàn ) đồng lời ! Quả là tham lam quá
độ, trong khi người Việt Nam ta chỉ chúc nhau có :
Một
đồng Vốn Bốn đồng lời ... mà thôi !
BỔN
本 là Vốn, cả đến khi dùng làm Phó Từ Bổn Lai 本來
cũng có nghĩa Vốn Dĩ, Vốn Là, như trong thành ngữ Bổn Lai
Diện Mục 本來面目 : là Mặt Mũi Vốn Có, là Mặt
mũi gốc, là Bộ mặt thật. Hai câu chót trong bài kệ : Bồ
Đề bổn vô thọ, Minh kính diệc phi đài 菩提本無樹,明鏡亦非臺
của Lục Tổ Huệ Năng là:
BỔN
LAI vô nhất vật, 本來無一物,
Hà
xứ nhạ trần ai ? 何處惹塵埃
?
Có nghĩa :
Vốn dĩ không có vật gì cả, thì chỗ nào để
mà nhuốm bụi trần đây ?
Mộc là cây, nhưng Mộc Nhĩ 木耳 không
phải là Lổ Tai Cây, mà là Nấm Mèo, một loại nấm có
hình dạng giống như là Lổ Tai của con mèo. Cũng như Mộc
Ngư 木魚 không phải là Con cá bằng cây, mà là cái
Mỏ của các nhà sư dùng để gỏ lốc cốc khi tụng kinh
niệm Phật. Và Mộc Kê 木雞 không phải là Con gà gỗ,
mà là Hình Dung Từ chỉ sự Ngẩn Ngơ như con gà bằng gỗ,
đứng Đực ra một chỗ. MỘC NGẪU 木偶 : là Hình Cây,
là con rối, có nghĩa như là Bù Nhìn, thường dùng để
chỉ người không linh động, phải giựt dây mới nhúc nhích
! Còn đối với dân bợm nhậu thì ta có từ Mộc Tồn.
Mộc Tồn 木存 không phải chỉ Cây Còn mà là chỉ...
Con Cầy, một loại chó nhỏ như con chồn thịt rất ngon, nhậu rất
bắt.
Mộc là Cây,
nhưng cây cũng dùng để xẻ thành ván, nên Mộc cũng có
nghĩa là Ván, như trong thành ngữ Mộc Dĩ Thành Chu 木已成舟.
Ta nói là Ván Đã Đóng Thuyền, như trong lời nói của
Vương Viên Ngoại an ủi Kim Trọng khi chàng trở lại Vườn Thúy
tìm Kiều :
Bây giờ Ván Đã Đóng Thuyền,
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung.
Nhưng cũng có những chiếc
thuyền không cần phải đóng, chỉ khoét bọng thân cây lớn
là ta đã có ngay một chiếc Thuyền Độc Mộc. Còn Cầu
Độc Mộc thì chỉ cần một thân cây bắt ngang qua mương
rạch là ta đã có ngay một Độc Mộc Kiều 獨木橋, với
câu tục ngữ : " Anh đi đường cái quan của anh, còn tôi
qua cầu độc mộc của tôi ".Ý chỉ việc ai nấy làm, không
nên chen vào việc làm của người khác . Người Hoa nói là
: Nễ tẩu nễ đích dương quan đạo, ngã qúa ngã đích
độc mộc kiều 你走你的陽關道,我過我的獨木橋 !
Và như câu thơ đầu tiên của Thế Lữ trong bài Giây Phút
Chạnh Lòng :
Anh
đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi !...
Mộc còn
là tên gọi chung cho Hoa Thảo Thọ Mộc 花草樹木, ta nói
là Cỏ Cây Hoa Lá, là những thực vật khô héo úa tàn
trong mùa đông lạnh lẽo, chỉ hồi sinh và sống lại trong ánh
nắng ấm áp của mùa xuân mà thôi. Nên ông bà ta cũng
thường nhắc nhở con cháu bằng câu :
Khô
mộc phùng xuân do tái phát, 枯木逢春猶再發,
Nhân vô lưỡng
độ tái thiếu niên. 人無兩度再少年。
Có nghĩa :
Cây khô khi gặp mùa
xuân còn tái phát để xanh tươi trở lại, chớ...
Con người thì không có hai lần được trẻ lại bao giờ.
Cho nên phải cố gắng mà trân trọng lấy tuổi xuân của mình
để phát huy hết những ưu thế của tuổi hoa niên như bài
thơ Vãn Xuân 晚春 của Hàn Dũ 韓愈 sau đây :
草木知春不久歸,
Thảo mộc tri xuân bất cửu quy,
百般紅紫鬥芳菲。 Bách ban hồng
phấn đấu phương phi.
楊花榆莢無才思,
Dương hoa du giáp vô tài tứ,
惟解漫天作雪飛。 Duy giải mạn thiên
tác tuyết phi.
Có nghĩa :
Cây
cỏ biết xuân sắp " bái bai "(bye-bye).
Muôn hồng ngàn tía trổ khoe hay.
Vô tài nở trắng hoa dương liễu,
Chỉ biết đầy trời giả tuyết bay !
Vãn Xuân 晚春 là
xuân sắp tàn, nàng xuân sắp từ biệt để ra đi, nên
tất cả các loài hoa đều cố gắng nở bung ra để khoe hết
cái đẹp của mình trong mùa xuân; chỉ có du giáp ( như
hoa lau của ta ) và dương liễu không có hương sắc gì đặc
biệt, chỉ biết nở hoa trắng xóa để giả làm tuyết bay mỗi
khi có cơn gió xuân thổi đến mà thôi ! Mùa xuân mà
giả làm tuyết bay thật không hợp thời chút nào cả, nhưng
khả năng chỉ có thế, và chỉ biết làm hết sức của
mình mà thôi. Hàn Dũ muốn khuyên ta hãy cố gắng thi thố
hết khả năng của mình để đừng uổng phí tuổi xuân,
mặc dù cái năng lực của mình không bằng được người,
không đáp ứng được thực tế trước mắt, nhưng ít
ra cũng tạo được một cảm giác đẹp như hoa dương liễu
giả tuyết bay trắng cả trời xuân. Còn hơn không có gì
cả !
Vô
tài nở trắng hoa dương liễu,
Chỉ biết đầy trời giả tuyết bay !
Mộc là Thảo Mộc 草木, là cây cỏ, tuy vô tri vô giác,
mềm mại hiền lành, nhưng nếu ta biết khéo lợi dụng thì
Cây Cỏ sẽ có sức mạnh còn hơn là thiên binh vạn mã
nữa ! Xin mời đọc về tích của thành ngữ Thảo Mộc Giai Binh
草木皆兵 sau đây sẽ rõ :
Công Nguyên năm 383, Tiền
Tần Vương Phù Kiên sau khi thống nhất một dãy ven sông Hoàng
Hà, định tập trung đủ 90 vạn quân sẽ đem quân đánh
ụp tiêu diệt nước Đông Tấn, bèn phái em là Phù Dung
làm tiên phong chiếm lấy thành Thọ Dương. Phù Dung đánh
lấy thành một cách dễ dàng, biết Đông Tấn binh yếu lại
thiếu lương thực, mới đề nghị với Phù Kiên nhanh chóng
đánh chiếm Đông Tấn. Phù kiên không đợi binh lực
tập trung đầy đủ, lập tức đem quân tấn công Đông
Tấn ngay.
Tướng Đông Tấn là Tạ Thạch
biết được binh lực của Tần chưa tập trung đầy đủ,
bèn dùng kế khích tướng thách Phù Kiên nếu muốn
phân cao thấp thì hãy lui binh một dặm, mình sẽ đem binh qua sông
Phì Thủy quyết một trận hơn thua, bằng nếu sợ thua thì hãy
đầu hàng ngay đi. Phù Kiên cả giận, định giả vờ lui
binh, đợi cho binh Tấn qua sông nửa chừng sẽ quay lại đón đánh
một trận cho tan tác binh nhung. Nào ngờ, lòng binh Tần đã chán
nản vì chinh chiến lâu ngày, nay thấy sứ giả quân địch
vừa rời trại thì chủ tướng bèn ra lịnh lui binh, nên lòng
càng hoảng sợ mạnh ai nấy chạy người ngựa ngổn ngang dẫm
đạp lên nhau hổn loạn thành một khối. Phù Kiên ra lệnh
dừng lại thì đã không còn kịp nữa. Bên kia sông Tạ
Thạch thấy thế bèn thừa cơ hạ lịnh quân sĩ cấp tốc
sang sông truy sát. Quân Tần thấy quân Tấn qua sông ráo riết
càng hoảng sợ hơn dẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, đến
nỗi nghe cơn gió thổi qua cây cỏ lào xào cũng tưởng là
quân Tấn đã đuổi đến nơi rồi. Sự kiện nầy
đưa đến câu thành ngữ THẢO MỘC GIAI BINH 草木皆兵,
có nghĩa : Cỏ cây cũng
đều là binh lính cả ! Điều nầy làm
ta nhớ lại đầu tháng 4 năm 1975 với DI TẢN CHIẾN THUẬT của
Miền Nam, dân quân của Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật chỉ biết
cắm đầu cắm cổ chạy trối chết, làm hỗn loạn cả Miền
Trung, Cộng Sản Bắc Việt bất chiến tự nhiên thành, chiếm trọn
Miền Trung một cách dễ dàng và uy hiếp Sài Gòn trong chớp
mắt...
Còn trận đánh trên quân
Tần cũng đại bại. Phù Dung chết trong đám loạn quân, còn
Phù Kiên trúng tên bị thương may mà chạy thoát được.
Sử gọi trận đánh nầy là PHÌ THỦY CHI CHIẾN 淝水之戰.
Tạ Thạch cũng như Cộng Sản Bắc
Việt đã biết lợi dụng cái nhược điểm của kẻ địch
để làm cái thuận lợi cho sự chiến thắng của mình, cũng
như biết lợi dụng thời cơ biến cỏ cây hoa lá của núi
rừng Tây Nguyên có sức mạnh như là thiên binh vạn mã vậy
! Âu cũng là cái khí số của quân dân Miền Nam đã
đến hồi mạt vận, nên mới dẫn đến cái chiến thuật
sai lầm làm cho Miền Nam chết một cách tức tưởi, và ngay cả
cấp chỉ huy của Bắc Việt cũng không ngờ được là chiến
thắng đến một cách nhanh chóng như thế.
Sang qua sử VN, chữ Mộc 木 còn làm cho ta nghĩ đến
chữ LÊ 梨 là Cây Lê là Trái Lê, là chữ đồng
âm với chữ Lê là họ LÊ 黎 trong bài Sấm trên cây
Gạo làng Diên Uẩn như sau :
Tương truyền, năm 1009, sau 73 năm tồn
tại, cây gạo làng Diên Uẩn bị sét đánh nhưng không
chết. Theo ghi chép của sử sách ( Việt Sử lược, Đại Việt
Sử Ký toàn thư, Việt Sử tiêu án, Khâm định Việt Sử
Thông Giám cương mục ), tại chỗ sét đánh trên thân
cây có bài thơ sấm mà có ý kiến cho rằng tác giả
chính là sư Vạn Hạnh. Bài sấm như sau :
樹根杳杳 Thụ căn diểu diểu
木表青青 Mộc biểu thanh thanh
禾刀木落 Hòa đao mộc lạc
十八子成 Thập bát tử thành
東阿入地 Đông a nhập địa
木異再生 Mộc dị tái sinh
震宮見日 Chấn cung kiến nhật
兑宮隠星 Đoài cung ẩn tinh
六七年間 Lục thất niên gian
天下太平 Thiên hạ thái bình
Có nghĩa :
"Thụ căn diểu diểu", chữ căn 根 nghĩa
là gốc, gốc tức là
vua, chữ diểu 杳 đồng
âm với yểu 夭 là
Non nớt, nên hiểu là yếu.
"Mộc biểu thanh thanh", chữ biểu
表 là bề ngoài, nghĩa
là ngọn, ngọn tức là bề tôi,
chữ thanh 青 là Màu xanh, âm
gần giống với chữ thạnh
盛 nghĩa là thịnh; Hòa,
đao, mộc, ghép lại là
chữ Lê 梨; Thập, bát,
tử là chữ Lý 李;
Đông A là chữ Trần 陳;
nhập địa là phương
Bắc vào cướp: "Mộc
dị tái sinh" là họ
Lê khác lại sinh ra. "Chấn
cung kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến là mọc ra;
nhật là thiên tử. "Đoài cung ẩn tinh", "đoài" là
phương tây, "ẩn" cũng như lặn, "tinh" là sao, nghĩa
là thứ dân. Mấy câu này ý nói là vua thì non yếu,
bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên,
thiên tử ở phương đông mọc ra thì thứ nhân ở phương
tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình.
Cách CHIẾT TỰ chơi chữ của bài
thơ :
Câu 3: chữ
Hòa (禾) + bộ Đao (刂 ) + chữ Mộc (木) bên dưới, ghép
lại thành chữ Lê (梨) là Trái Lê, đồng âm với chữ
(黎) là họ LÊ. Câu 3 tiên đoán : Lưỡi đao mỏng như
lá lúa đốn ngã cây, có nghĩa nhà Tiền Lê ( Lê Đại
Hành ) sẽ mất.
Câu 4: chữ Thập (十) + chữ Bát (八) thành chữ Mộc 木,
+ chữ Tử (子) bên dưới thành chữ Lý (李). Câu 4 tiên
đoán nhà Lý sẽ lên thay nhà Lê.
Câu 5: chữ Đông (東) ghép với chữ
A (阿) thành chữ Trần (陳). Câu 5 tiên đoán họ Trần vào
nước Việt làm vua.
Câu 6: cây khác lại sinh. Sấm ra đời thời Lê. Cây lê khác
lại sinh, tiên đoán nhà Hậu Lê ( Lê Lợi ) kế tục nhà
Trần.
Câu 7: phương
Đông có mặt trời, ứng vào nhà Mạc khởi xuất từ phía
Đông (Hải Dương) thay nhà Hậu Lê.
Câu 8: sao ẩn mình phía tây. Có các
ý kiến khác nhau về câu này. Có ý kiến cho rằng câu
này chỉ chúa Trịnh đóng phủ ở phía Tây kinh thành Thăng
Long, " ẩn mình " là không ra mặt xưng vua nhưng lại nắm thực
quyền hơn vua. Có ý kiến cho rằng " phía Tây " trong câu
8 là ám chỉ nhà Tây Sơn.
Câu 9 và câu 10: Có ý kiến cho rằng " lục thất " chỉ
nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của Việt Nam. Nhưng cũng
có ý kiến cho rằng chưa có lời giải đáp cụ thể cho
2 câu này.
Tổng quát, bài thơ được giải mã mang nội dung tiên đoán
việc nhà Lý nối nghiệp nhà Tiền Lê, cũng như tên các
triều đại kế tục tiếp theo trong lịch sử Việt Nam suốt từ
thế kỷ 11 đến thế kỷ 20, từ khi nhà nước Phong kiến trung
ương tập quyền ở Việt Nam hình thành ổn định tới khi
kết thúc thời phong kiến.
Điều đáng lưu ý là Việt sử lược ra đời thời
Trần nhưng không chép 2 câu: "Đông a nhập địa, Mộc dị
tái sinh" liên quan tới chính nhà Trần và nhà Hậu Lê.
Các nhà nghiên cứu căn cứ vào đây mà cho rằng :
Bài sấm này được Vạn Hạnh
Thiền Sư làm ra để tạo dư luận cho Lý Công Uẩn lên
ngôi một cách thuận lợi theo ý trời.
Hai câu này do người đời
sau (Trần, Hậu Lê) sáng tác xen thêm vào cho đủ các đời
vua từ Ngô, Đinh, rồi đến LÊ ( tiền ), LÝ, TRẦN, LÊ ( hậu
), còn Tây Sơn và Nguyễn thì hãy còn mơ hồ.
Mộc 木 là một trong Ngũ hành 五行 : Kim, MỘC, Thủy, Hỏa,
Thổ, theo Kinh Dịch là 5 tố chất tạo nên tất cả mọi sự
vật trong vũ trụ nầy. Như Mộc Vương 木王 là Vua Cây,
ý chỉ trong mùa Xuân thì lấy cây cỏ làm chủ tể tượng
trưng cho sức sống đang hồi sinh một cách mãnh liệt. Mộc Hành
木行, ta nói là Hành Mộc, chỉ Mộc Đức là cái đức
của mùa xuân, của trời đất cho cây cối đâm chồi nẩy
lộc. Mộc Khí 木气 là cái hơi hám, mùi hương của
cỏ cây hoa lá, là cái Can Khí 肝气 điều hòa trong lá
gan của con người. Mộc Tinh 木星 là Sao Mộc, theo chiêm tinh học
thì đây là vì sao may mắn cho ai có lưu tinh là Mộc Tinh trong
năm. Bài vị cúng sao trong ngày vía Ngọc Hoàng của mồng 9
Tết hằng năm ghi : Đông phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh quân
chi vị 東方甲乙木德星君之位. Khác với...
Mộc Tinh trong Thái Dương
Hệ hiện nay là Jupiter, đứng ngôi thứ 5 và là một hành
tinh lớn nhất trong Thái Dương Hệ, lớn hơn cả Địa Cầu
có màu xanh của cây cỏ.
Mộc Tinh 木星 trong Thái Dương
Hệ là Jupiter
Ngoài nghĩa là cây, Mộc
木 còn có nghĩa là LÁ, như trong thành ngữ Mộc Lạc Quy
Bổn 木落歸本. Có nghĩa như là Diệp Lạc Quy Căn 葉落歸根,
ta nói là Lá Rụng Về Cội. Hay như 2 câu trong bài thơ Đăng
Cao của Đỗ Phủ là :
無邊落木蕭蕭下,
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
不盡長江滾滾來。 Bất tận Trường
Giang cổn cổn lai.
Có nghĩa :
Rạt
rào lá đổ bên trời thẳm,
Cuồn cuộn Trường Giang nước chảy dài !
Hay
như 2 câu đầu trong bài Tảo Hàn Giang Thượng Hữu Hoài của
Mạnh Hạo Nhiên :
木落雁南渡, Mộc
lạc nhạn nam độ,
北風江上寒. Bắc
phong giang thượng hàn.
Có nghĩa
:
Lá
rụng nhạn xuôi nam,
Trên
sông gió bấc tràn.
Mộc là Cây, mà cây hiện
diện trong tất cả các mặt của đời sống, từ cây ngô,
cây khoai, cây lúa cho gạo thóc để nuôi sống con người
, cho đến nhà cửa vật dụng chung quanh đời sống nhất nhất
đều bằng... Mộc, như muổng, đủa, bàn, ghế, tủ, giường, phòng ôc
... kể cả cỏ cây hoa lá để điểm tô làm đẹp thêm
cho đời sống con người đngều có gốc... Mộc cả ! Ngạn
ngữ Trung Hoa xưa có câu :
Nhất
niên thọ đạo, 一年樹稻,
Thập niên thọ mộc, 十年樹木,
Bách niên thọ nhơn. 百年樹人!
Có
nghĩa :
- Vì lợi ích
trong một năm thì trồng lúa,
- Vì lợi ích của mười năm thì trồng cây,
- Vì lợi ích của trăm năm thì phải đào tạo con người
!
Đời sống của con người
không thể rời xa chữ Mộc được, kể cả khi chết đi rồi
vẫn còn phải nằm trong Quan Mộc 棺木, mà ta quen gọi là Quan
Tài 棺材, là cái hòm đựng thây người chết ! Nhớ
khi xưa, các danh hài Tùng Lâm và Phi Thoàng đã từng đố
nhau : Trên Mộc dưới Thổ là ... Cái Quan tài chưa chôn,
trên Thổ dưới Mộc là ... Cái quan tài đã chôn rồi
và câu đố hóc búa là : Trên Thổ giữa Mộc dưới
Thổ là... " Thằng Thổ mang guốc " !
Người xưa để lại 4 chữ " Cái Quan Luận Định 蓋棺論定
" ý nói : Khi nắp quan tài đã đóng lại rồi thì
mới biết chắc chắn con người đó là như thế nào, mới
luận định một cách chính xác thị, phi, thành, bại, hơn
thua, anh hùng hay tiểu nhân, có công hay có tội... Nắp quan tài
chưa đóng thì còn chưa biết ai như thế nào và ai đã
hơn ai !?
Xin được khép lại bài phiếm "
Mộc là Cây " ở đây khi... nắp quan tài còn chưa khép
lại và mùa xuân chỉ mới bắt đầu mang sức sống mới
đến với tất cả hoa lá cỏ cây !
Đỗ Chiêu Đức____________________________
Phiếm về...
TUẤT CHÓ
CẨU KHUYỂN
Tuất
là ngôi thứ mười một của Địa Chi, cầm tinh con Chó, mà
chó thì chữ Nho gọi là Cẩu, mà chữ cẩu lại nằm trong
bộ Khuyển, và năm khuyển lại là năm Tuất. Cứ thế, vòng
vòng trở lại cắn đuôi con ... khuyển. Năm Tuất nói chuyên
con CHÓ, con CẨU, con KHUYỂN là nói chuyện bao đồng về con vật
bốn chân nầy để nghe chơi đỡ buồn khi trà dư tửu hậu.
KHUYỂN là một
trong 214 bộ của CHỮ NHO ... DỄ HỌC theo diễn tiến của chữ viết
như sau :
Giáp
Cốt Văn Kim Văn Đại Triện Tiểu
Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của
con chó được nhìn từ góc độ sau ra trước, đuôi
chó cong lên đang cất cao đầu vểnh hai tai như đang sủa trăng,
đến Kim Văn ( Chung Đỉnh Văn ) thì mình chó được đơn
giản hóa bằng một nét vẽ hót vào như ... bụng chó,
đến Đại Triện thì các nét được viết bằng
nhau. Tiểu Triện thì nét chữ đã thành hình bằng các
nét biểu tượng và đến chữ Lệ ở cuối đời Tần
thì các nét chữ đã được kéo thẳng ra như chữ
viết hiện tại 犬.
KHUYỂN 犬 là Chó nói chung, con vật bốn chân được thuần
hóa rất sớm, cùng với con ngựa thành một cặp Khuyển Mã
犬馬, cùng sống chung và cùng tiến hóa với con người.
Bộ Khuyển 犬 khi ghép
với các bộ khác để tạo chữ mới (18 chữ), thường
được đặt nằm bên tay phải, như chữ THÚ 獸
là từ chỉ chung các con vật bốn chân. Ta có thành ngữ Phi
Cầm Tẩu Thú 飛禽走獸 có nghĩa : Loài chim thì bay loài
thú thì chạy. Nhưng ...
Thường thì bộ Khuyển 犬 được đặt nằm bên phía
trái của chữ ( khoảng 198 chữ ) và được viết cách điệu 犬 thành 犭để
viết cho nhanh và chữ được ghép sẽ đẹp hơn, tiêu biểu
là chữ CẨU 狗.
CẨU 狗 nguyên nghĩa là Con Chó Nhỏ, thường dùng trong văn
nói, sau thông dụng với KHUYỂN, rồi tùy theo tập quán của
từng vùng quen sử dụng CẨU hay KHUYỂN mà ta có các từ
như : Liệp Cẩu 獵狗 là Chó Săn, Tẩu Cẩu 走狗 là
Làm Tay Sai cho ai đó, Cảnh Khuyển警犬 là Chó Cảnh Sát,
Quân Khuyển 軍犬 là Chó Quân Đội ...
Năm nay 2018, Thiên Can nhằm ngôi
thứ 5 là chữ Mậu, hợp với Địa Chi ngôi thứ 11 là Tuất,
nên ta có năm MẬU TUẤT 戊戌. Mậu Kỷ thuộc Thổ, biểu
tượng là màu Vàng. Con chó mà màu vàng dân Nam Kỳ
Lục Tỉnh chúng tôi gọi nó là con Phèn, có thể là do
những vùng đất mới khai phá khi nước rút đi còn để
lại một lớp bùn màu vàng đậm, bà con ta gọi là đất
phèn. Phải qua vài mùa nước chắc cho sạch phèn thì đất
mới trồng tỉa được. Đời sống của dân miệt vườn
miệt ruộng luôn gắn liền với các con Phèn, con Mực, con Vện,
con Vá ... mà người nước ngoài học nói tiếng Việt luôn
đau đầu vì các tên gọi nầy ...
Con chó màu vàng thì gọi là con Phèn,
màu đen thì gọi là con Mực, có sọc vằn vện đen trắng
lẫn lộn thì gọi là con Vện, có đốm đen đốm trắng
thì gọi là con Vá, và nếu toàn một màu trắng thì
gọi là con Chó Cò như các câu vè về 12 con giáp :
Tuổi
Tuất là con Chó Cò,
Nằm khoanh trong lò lổ mũi lọ lem.
Theo Tử vi Đẩu số thì
con chó hợp với con ngựa con cọp thành một bộ Dần Ngọ Tuất
tam hạp. Chó và Ngựa hợp nhau vì cùng tiến hóa với con người,
chớ Cọp thì làm sao mà hợp cho được. Chúa sơn lâm
chỉ cần gầm lên một tiếng là chó và ngựa qụy xuống
không còn chạy nổi nữa ! Trừ phi nó là con cọp ... lạc
đường đi xuống đồng bằng như câu ông bà ta thường
nói :
Hổ
lạc bình dương bị khuyển khi 虎落平陽被犬欺
Có nghĩa :
Cọp mà đi lạc xuống đồng bằng
thì cũng bị chó khinh khi, dễ ngươi, như anh hùng thất thế
bị kẻ tiểu nhân khi dễ vậy.
Tứ Hành Xung thì có Thìn Tuất Sửu Mùi, bốn cung nầy
đều thuộc thổ và đều ở trung ương. Mậu Kỷ cũng thuộc
thổ ở trung ương, nên Năm Mậu Tuất 2018 nầy là con chó hoàn
toàn bằng đất, đất cả Thiên can lẫn Địa chi. Bản thân
con chó đất đã khó bảo toàn còn mong gì phù hộ
giúp đỡ cho ai được nữa ! Tháng Tuất là Tháng 9 âm
lịch trong năm, người Quảng Đông phát âm Cửu và Cẩu
giống nhau, nên họ gọi tháng 9 là tháng Chó, là tháng bắt
đầu ăn thịt chó cho ấm vì trời đã cuối thu sắp sang
đông. Nhớ khi xưa trên đường Nhân Vị ( sau 1963 đổi
thành Trần Hoàng Quân, sau 1975 đổi thành Nguyễn Chí Thanh ) đoạn
bên hông nhà thương Chợ Rẩy bên kia đường Quận 11 là
các quán lề đường bán thịt chó ngon nổi tiếng Sài
Gòn Chợ Lớn với chiêu bày " Hương Nhục 香肉 "
là Thịt Thơm. Theo giới ăn nhậu thì thịt chó dính
răng của đêm trước, sáng hôm sau xiả ra miếng thịt vẫn
còn thơm ! Thật vậy, hễ đèn đường nổi lên là
cả khu vực nầy bát ngát mùi Hương Nhục mà không cần
phải có :
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng... gì cả !
Còn
giờ Tuất là từ 7 đến 9 giờ tối, giờ của cuối canh một,
là giờ của anh chàng họ Sở hẹn với Thúy Kiều " Ba
mươi sáu chước chước gì là hơn ? " để
bỏ trốn khỏi lầu xanh bằng một bức tiên mai, với rành
rành TÍCH VIỆT có hai chữ đề. Cô Kiều đã qúa
thông minh nên mắc bẫy :
Lấy trong ý tứ mà suy.
Ngày hai mươi mốt Tuất Thì phải chăng ?
Vì 2 chữ TÍCH VIỆT 昔越 chiết tự ra thành
廿一日走戌 trấp nhất nhựt tẩu tuất. Có nghĩa : Ngày
hai mươi mốt sẽ bỏ trốn vào giờ Tuất.
Trong " Lục Súc Tranh Công
" giữa trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn thì con chó cũng
đã kể lể rằng :
.... Đêm
năm canh, con mắt như chong,
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày
kỵ lạp tiên sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.
Bao quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, lòn hang....
Rất
thực tế, toàn là những việc tầm thường chung quanh cuộc
sống với con người : Canh nhà giữ cửa, đề phòng kẻ
gian trôm cắp, chui gai lướt góc, đuổi sóc săn chồn ... không
có thành tích chiến công to lớn như những con vật khác, nhưng
con chó rất thân mật. sát sao và gần guĩ với con người,
nhất là lòng trung thành của chó với chủ nhà thì không
có con vật nào dám so bì cả, kể cả con ... người, có
lắm người lòng trung thành cũng không bằng được chó
! Thế nên, thành ngữ đầu tiên ca ngợi chó là bốn
chữ Trung Trinh Bất Nhị 忠貞不二, Có nghĩa là Lòng trung
thành của chó luôn luôn bền vững, không có hai lòng, dù
cho có xa cách bao nhiêu năm trường, khi gặp lại chủ cũ, con chó
vẫn còn nhớ để vẩy đuôi chào mừng như thường.
Có rất nhiều truyện kể cả Đông lẫn Tây, khi chủ chết
đi, chỉ có con chó là còn quanh quẩn chung quanh mộ của chủ,
và lắm con còn nằm chết luôn bên mộ chủ nữa mới thật
là cảm động !
Trung Trinh Bất Nhị
Một lòng với chủ, theo chủ hết lòng, nên ta còn có thành
ngữ : Kiệt Khuyển Phệ Nghiêu 桀犬吠堯. Có nghĩa : Con chó
của vua Kiệt sủa vua Nghiêu. Kiệt là hôn quân bạo chúa của
đời nhà Hạ; Nghiêu là một minh quân nhân đức của đời
cổ đại. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Chiến Quốc Sách,
chỉ nêu lên lòng trung thành của chó luôn luôn hết lòng
vì chủ, không cần biết đến việc chủ tốt hay là xấu,
chỉ biết một mực trung thành với chủ, cũng như những người
luôn đi theo ca ngợi Tổng thống Donald Trump vậy, chỉ biết có ông
Trump là số một mà thôi ! Theo Chiến Quốc Sách ...
Vào thời vua
Cảnh Đế đời Tây Hán, có danh sĩ giỏi mưu lược
là Trâu Dương, theo về và làm việc dưới trướng của
Ngô Vương Lưu Tị. Sau Lưu Tị định làm phản, Trâu Dương
nhiều lần can gián, nhưng Tị vẫn không nghe, Dương bèn bỏ
Tị theo về với Lương Hiếu Vương Lưu Võ. Mưu thần tâm
phúc của Lưu Võ là Công Tôn Ngụy có lòng đố kỵ
Trâu Dương, bèn đem việc trước đây Dương theo Ngô
Vương định làm phản nói cho Hiếu Vương nghe. Vương giận,
nên bắt Trâu Dương giam vào ngục, định sẽ xử tử
hình. Trong ngục, Trâu Dương viết một bức thơ nổi tiếng để
lại trong văn học, đó là " NGỤC TRUNG THƯỢNG LƯƠNG VƯƠNG
THƯ 獄中上梁王書 " Có nghĩa : Thơ viết
trong ngục gởi đến Lương Vương. Nôi dung bức thơ nêu ra
rất nhiều nhân vật lịch sử bị nghi oan, thậm chí bị bức
hại đến chết trong ngục tối, thực ra họ đều là những
trung thần liệt sĩ. Cuối thơ, ông nêu lên câu " Kiệt Khuyển
Phệ Nghiêu 桀犬吠堯 " với hàm ý : Ai vì
chúa nấy, lúc đó tôi đang theo phò Ngô Vương, nên
phải hết lòng với Ngô Vương mà bài bác ông, bây
giờ tôi theo về với ông rồi thì tôi cũng sẽ hết lòng
với ông mà thôi ! Trước đây tôi " sủa " ông,
bây giờ tôi sẽ " sủa " người khác. OK !
Kiệt Khuyển Phệ Nghiêu
Một
con chó nữa rất nổi tiếng trong văn chương, đó là con chó
xanh trong thành ngữ BẠCH Y THƯƠNG CẨU 白衣蒼狗. Có nghĩa
là Áo Trắng Chó Xanh. Theo tích sau đây :
Thư sinh Vương Qúy Hữu đời
Đường , có vợ là Liễu Thị, gia cảnh cơ hàn, nên vợ
chồng rau cháo có nhau. Sau vì qúa nghèo túng bửa đói
bửa no, nên Liễu Thị mới bỏ chồng mà đi. Bà con lối xóm
đều không biết nội tình, ngỡ là Vương Qúy Hữu đuổi
vợ đi, nên xúm nhau trách móc chàng. Nhà thơ Đỗ Phủ
thấy vậy mới làm một bài Thất ngôn trường thiên minh oan
cho Vương, gọi là " Khả Thán Thi 可嘆詩, có
nghĩa : Bài thơ đáng Than Thở , nói lên sự đời,
tình đời hay đổi thay, biến ảo khôn lường. Mở
đầu bài thơ là 4 câu :
天上浮云似白衣,
Thiên thượng phù vân tự bạch y,
斯须改变如苍狗。 Tư
tu cải biến như thương cẩu.
古往今来共一时, Cổ vãng kim lai cộng nhất
thì,
人生万事无不有 ! Nhân sinh vạn sự vô bất hữu
!
Có nghĩa :
Đám mây nổi ở trên
trời tựa như là tà áo trắng,
Chỉ trong phút chốc đã biến
thành con chó màu xanh.
Từ xưa đến nay cũng đều giống như thế cả,
Muôn việc trên đời
không có gì là không có cả !
Hai câu thơ
đầu đã được Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mượn
để diễn ý trong Cung Oán Ngâm Khúc rất hay là :
Lò
cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương !
Thành
ngữ trên có thể nói trại đi thành BẠCH VÂN THƯƠNG
CẨU hay Thương Cẩu Bạch Y gì cũng được.
Trong văn chương
ta còn thấy một cái ... đuôi chó nữa, đó là câu
Cẩu Vĩ Tục Điêu 狗尾續貂. Có nghĩa là lấy đuôi
của con chó nối thay cho đuôi của con điêu. Điêu 貂 là
một loài chồn sóc, to như con rái cá, lông đuôi dài
màu vàng có khoan đen rất đẹp. Xưa kiểu phục
sức của nhà Hán, mũ của các quan Thị-trung thường-thị hầu
cạnh bên vua đều cắm đuôi con điêu, đúc con ve vàng
đeo vào cho đẹp, vì thế gọi các kẻ quyền quý là
"nhị điêu" 珥貂, hoạn quan gọi là "điêu đang" 貂璫. Thành ngữ Cẩu Vĩ Tục Điêu 狗尾續貂 có tích
như sau :
Sau khi Tấn Võ Đế Tư Mã Viêm chết, con trai là Tư Mã
Trung nối ngôi là Tấn Huệ Đế. Huệ Đế bất tài, lại
không rành việc triều chính, nên tất cả quyền hành đều
lọt vào tay của Giả Hậu. Giả Hậu lại tính tình rất
hung ác nham hiễm, nên Triệu Vương Tư Mã Luân mượn cớ
nầy đem quân vào cung giết Giả Hậu, rồi tự phong mình làm
tướng quốc. Vì muốn mua chuộc triều thần để mở rộng
thế lực của mình, cho nên Tư Mã Luân phong quan tước bừa
bãi, cả những đứa trẻ 12, 13 tuổi cũng được
phong Hầu Tước. Khi vây cánh đã vững, bèn phế Huệ
Đế đi để xoán ngôi vua. Theo quy định lúc bấy giờ, các
vương công đại thần đội mão đều được trang
sức bằng đuôi của con điêu. Nhưng vì Tư Mã Luân phong
quan tước quá nhiều, nên không đủ đuôi điêu để
làm mão, phải dùng đở đuôi chó để thêm vào,
nên dân gian mới có câu vè nhạo rằng :" Điêu bất túc,
cẩu vĩ tục 貂不足,狗尾续 ". Có
nghĩa : Đuôi điêu không đủ, nên lấy đuôi chó nối
vào. Vì thế thành ngữ Cẩu Vĩ Tục Điêu 狗尾續貂 có
nghĩa là lấy tạm đồ dõm,đồ hạng hai để thay cho đồ
tốt, đồ hạng nhất. Dùng rộng ra là đem cái dở mà
nối liền với cái hay, như cô Kiều đã rất khiêm nhường
nói với Thúc Sinh, khi Thúc sinh làm thơ vịnh cô đang tắm là
:
Hay hèn ví cũng nối ĐIÊU,
Nỗi
quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
và
vì ...
Lòng còn gởi áng mây vàng,
nên ... Họa vần xin hãy chịu
chàng hôm nay !
Còn một con chó nổi
tiếng trong Truyện Phong Thần là con HẠO THIÊN KHUYỂN 昊天犬
của Nhị Lang Thần Dương Tiễn. Theo sách Sưu Thần Ký 搜神记 thì ...
Hạo Thiên Khuyển là một con chó nhỏ truyền kỳ của dân
gian, lang thang kiếm ăn, bửa đói bửa no, chẳng những bị người
đời đánh đuổi, mà còn lo sợ bị chó sói xé
thịt. May sao mỗi lần gặp nạn đều được Nhị Lang Thần
Dương Tiễn lúc bấy giờ là một tiểu đạo đang tu tập
cứu giúp. Nói cũng lạ qua ba lần gặp nạn, con chó nhỏ nầy
đều được Dương Tiễn cứu giúp kịp thời, nên Dương
nghĩ rằng chắc nó có duyên với mình, mới dạy cho nó cách
tu luyện và dẫn theo bên mình. Đến khi viên mãn thì
cả chó lẫn người đều tu thành chánh qủa. Chiến công
hiển hách của Hạo Thiên Khuyển được nhắc đến
2 lần trong Tây Du Ký, Lần thứ nhất là Hồi thứ Sáu khi
Tôn Ngộ Không đại náo Thiên cung đánh với Nhị Lang
Thần, Hạo Thiên Khuyển đã nhảy đến cắn vào bắp chuối
làm cho con khỉ đá phải té nhào. Lần thứ hai là Hồi
thứ 36 khi đánh với Cửu Đầu Trùng. Khi Cửu Đầu
Trùng bay đến, áp sát mình Nhị Lang Thần, bên hông bỗng
nhiên lại mọc ra thêm một cái đầu nữa định cắn Dương
Tiễn. Hạo Thiên Khuyển vội vàng nhanh nhẹn phóng lên, sủa "
Gâu " một tiếng, cắn đầu của con quái thú rơi xuống
đất.
Tượng
Dương Tiễn và Tạo hình trong Điện Ảnh
Cũng
cái con Hạo Thiên Khuyển nầy không chịu yên phận ở trên
trời, nên có một lần trốn xuống trần gian để tác yêu
tác quái. Lúc đó Lữ Động Tân, một trong Bát
Tiên ở núi Bồng Lai, chỉ mới bắt đầu tu đạo,
phụng mệnh dùng pháp bảo Bố Họa hồ lô đi thu phục.
Khi Hạo Thiên Khuyển đã bị nhốt trong hồ lô rồi, Lữ Động
Tân lại động lòng nhân đạo, sợ con chó trong hồ
lô sẽ bị đốt thành tro bụi tội nghiệp, nên mới thiện
tiện mở nút hồ lô thả nó ra. Không ngờ, vừa ra khỏi
hồ lô, Hạo Thiên Khuyển quay đầu cắn cho Lữ Động
Tân một phát rồi chạy tuốt. Vì vậy, nên ta lại có thêm
một thành ngữ còn thông dụng đến hiện nay Là : CẨU GIẢO
LỮ ĐỘNG TÂN, BẤT THỨC HẢO NHÂN TÂM 狗咬呂洞賓,
不識好人心。Có nghĩa : Chó cắn Lữ Động
Tân, không biết là người có lòng tốt. Câu nầy thường
chỉ được sử dụng có một vế đầu là Cẩu
Giảo Lữ Đông Tân, có nghĩa giống như là " Làm
ơn mắc oán " của ta vậy !
Tích trên có xuất xứ từ Hồi 83 & 84 trong quyển truyện Thần
thoại Trung Hoa " Bát Tiên Đắc Đạo Truyện 八仙得道傳
" hoặc Đông Du Bát Tiên 東遊八仙 ".
Cẩu giảo Lữ Động Tân, bất
thức hảo nhân tâm
Chó hay sủa và hay cắn
người. Mặc dù người dân Lục Tỉnh có câu " Chó
sủa chó cắn ai !", ý nói : Chó chỉ sủa để " hù
" người ta mà thôi chớ ít khi cắn ai lắm. Nói
thì nói thế, chớ khi thấy con chó sủa quấu quấu, chòm tới
nhe nanh múa vút thì ai cũng ... ớn cả, lở mà nó cắn
cho một phát thì phải chích ... 60 mũi thuốc ngừa chó dại vào
bụng. Nên đi đường mà gặp chó thì ai cũng "
ngán " cả, nhất là giới ăn xin ăn mày, chẳng những sợ
chó cắn mà còn sợ chó dành cả những thức ăn mà
mình xin được trong ... miểng vùa. Vì thế mà trong tất
cả những truyện võ hiệp của Kim Dung, ta thấy giới Cái Bang thường
có cây gậy đánh chó, gọi là Đả Cẩu Bổng
và Đả Cẩu Bổng Pháp là một môn võ công thượng
thừa của Bang chủ Hồng Thất Công, một trong Võ Lâm Ngũ Bá,
chẳng những dùng để đánh chó mà còn dùng để đánh
cả những người xấu ... hơn chó nữa, lại có cả một Đả
Cẩu Trận Pháp hẵn hoi. Các chiêu thức của Đả Cẩu Bổng
Pháp thường đều có kèm theo một chữ Cẩu hay chữ Khuyển,
như :
* Ác cẩu lan lộ
惡狗攔路 : là Chó dữ chặn đường.
*
Bổng đả song khuyển 棒打雙犬 : là Gậy đánh hai con
chó.
* Bổng đả cẩu thủ 棒打狗首 : là
Dùng gậy đánh vào đầu chó.
* Tà đả
cẩu bối 斜打狗背 : là Đánh xéo vào vai chó.
* Thiên hạ vô cẩu
天下無狗 : là Thiên hạ không còn chó nữa.
v.v... và... v.v.... Tất cả
gồm 36 đường, xin tham khảo thêm trên web : CLB Vovinam Nguyễn Văn Cưng. Những Tuyệt Chiêu Của Đả Cẩu Bổng Pháp.
Nữ hiệp Hoàng Dung với Đả
Cẩu Bổng
Thành
ngữ tục ngữ về chó thì thật nhiều, như năm con Gà vừa
qua, ta đã biết qua thành ngữ Kê Minh Cẩu Đạo 雞鳴狗盜
là Gà gáy chó trộm để chỉ những tên " Đầu
trộm đuôi cướp ". Thành ngữ liên quan tới chó mà
Hoa Việt gì đều thông dụng cả là :
* Đả cẩu khán chủ 打狗看主 ta nói là : Đánh chó kiên chủ nhà.
* Cẩu trệ bất như 狗彘不如 ta nói
là : Không bằng heo chó, người Miền Bắc nói là : Không
bằng chó lợn. Trệ 彘 là con heo nái, người Miền Bắc
gọi là con Lợn Xề.
*
Lang tâm cẩu phế 狼心狗肺 là Lòng lang phổi chó, ta nói
là : " Lòng lang dạ sói ".
*
Đả kê mạ cẩu 打雞罵狗 là Đánh gà
chưởi chó, ta nói là " Chưởi chó mắng mèo ".
* Quải dương đầu mãi cẩu
nhục 掛羊頭賣狗肉 : Ta nói là " Treo đầu
dê bán thịt chó ". Chỉ các con buôn làm ăn gian dối.
* Cẩu chủy lý trưởng bất
xuất tượng nha 狗嘴裡長不出象牙 : Ta nói là
: " Miệng chó không mọc ra được ngà voi ".
* Họa hổ bất thành phản loại
khuyển 畫虎不成反類犬 : Ta nói là " Vẽ cọp
không xong lại giống chó ", Chỉ sự vụng về, không khéo
léo về mọi mặt. Trong Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu,
dân làng đã khuyên Vân Tiên khi chàng định đi đánh
tướng cướp Phong Lai :
E khi họa hổ bất thành,
Khi không mình lại xô mình xuống hang.
* Cẩu bất thực phân 狗不吃屎 là Chó
không ăn cứt, ta nói là " Chó chê cứt " để
chỉ sức khỏe không tốt, vì Cứt là món khoái khẩu của
chó mà lại chê, chứng tỏ là khẩu vị hoặc sức khỏe
có vấn đề. Nếu không thì là " làm bộ chó ".
Vì ca dao của ta có câu :
Thân
em như cục cứt trôi sông,
Phận anh như con chó đói chạy rông trên bờ !
còn gì đau khổ hơn là thấy đồ ăn
mà mình yêu thích lại không thể " quằm " được
! Như chàng trai thấy cô gái mà mình thương hơ hớ
ra đó mà không sao " thương " được, vì môn đang
hộ đối, vì thân phận nghèo hèn ... Thật đau khổ và
tội nghiệp vô cùng, khi :
Mây trôi nước chảy hững hờ,
Cứt trôi chó chạy biết bao giờ gặp nhau ?
Nên đâm ra mơ ước vẩn vơ ...
Ước
chi cứt dạt vào bờ,
Để cho con chó đói hết chờ hết mong.
Nhưng ...
Qua đến đất Mỹ thì con chó... lên ngôi, về thứ tự
ưu tiên trong xã hội Mỹ thì thứ nhất là Đàn bà
Lady first mà, thứ nhì là Trẻ em, thứ ba là con Chó và thứ
tư mới tới phiên Đàn ông !
Nuôi chó phải có nhà ở cho chó hẵn hoi, phải nuôi bằng
thực phẩm chó đàng hoàng, phải được chích ngừa, phải
có bảo hiễm và phải có bác sĩ chó khám bệnh chăm
sóc sức khỏe. Phải được tắm rửa làm đẹp như
hớt tóc, cắt móng chân ... Khi thiến phải gắn dịch hoàn
giả cho chó để khi đi ra ngoài chó khỏi mắc cở. Chưa kể
mỗi buổi sáng phải dẫn chó ra đường cho đi đái đi
ỉa, rồi phải dùng bao rác hốt sạch những cái mà chó
thải ra, chăm sóc chó còn hơn là chăm sóc cho cha mẹ, con cái
nữa !
Thức
ăn của chó là dog food, thức ăn của người là hot dog, một
loại xúc xích trông giống như bộ phận sinh dục của con chó
đực, người Anh gọi là saveloy, mằn mặn ăn không ngon lành
gì cả, thua xa lạp xưởng của ta. Các quyển sách cũ lật
tới lật lui lâu ngày, các góc sách bị cuốn kèn lại,
người Mỹ gọi là tai chó : dog eared. Ghét ai ta mắng là : Đồ
chó đẻ ! thì Mỹ lại nói là : Con của con chó cái "
Son of a bitch " hay " son of a gun ". Chỉ tánh tham lam bo bo giữ của thì
ta nói như Chó Già Giữ Xương, còn Mỹ thì nói Dog in the
manger. Nhưng dù đông dù tây gì thì chó vẫn là bạn
thân với người Man's best friend, nhưng con chó ở Mỹ thì lại được
các cô chủ của nó nâng lên thêm một bậc nữa : Love me,
love my dog, có nghĩa : Nếu có yêu tôi thì hãy yêu luôn con
chó của tôi nữa ! Cái nầy thì hơi "căng" một chút,
chả lẽ mỗi lần hôn em phải hôn luôn con chó của em nữa
sao ?!
Không nói chuyện chó tây chó Mỹ
nữa, trở lại với con chó tội nghiệp của Việt Nam ta, hễ ghét
ai là cứ lấy con chó ra làm đối tượng để chưởi
xéo người đó. Ngoài tiếng " Đồ chó đẻ "
ra, còn có " Đồ chó chết, Quân chó má, Cái thằng
chó, Cái con đĩ chó ..." Có " văn hoá " một chút
thì mắng người ta là " Thứ cẩu đầu, Quân Cẩu
Trệ " ... Chỉ những kẻ chuyên làm tay sai cho người ác thì
là " Thứ cái đồ khuyển ưng, ưng khuyển " như trong Truyện
Kiều lúc Hoạn Thư cho người đi bắt Thúy Kiều, 2 câu
1623-1624 là :
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển
Ưng, lại chọn một bầy côn quang.
Để chỉ những thằng con không ra gì thì bảo là : Hổ phụ
sanh khuyển tử 虎父生犬子, có nghĩa : Cha thì hùng dũng
oai phong như cọp, còn con thì nhu nhược cụp đuôi như chó
! Nhưng từ " khuyển tử 犬子 " lại là từ khiêm nhường để
chỉ " Con của Mình " khi giới thiệu với người khác, như
: Đây là khuyển tử, có nghĩa như " Đây là
thằng chó con của tôi !". Ngoài ra, ta cũng có từ Khuyển Mã
犬馬 cũng là từ khiêm nhường của các bề tôi nói
với vua chúa hoặc chủ cả ngày xưa
: Nguyện làm thân Khuyển Mã để đáp đền, ý
nói làm Chó làm Ngựa để báo đáp, nhưng ta lại
nói là Làm thân Trâu Ngựa để báo đáp, như cô
Kiều trước đêm phải đi theo Mã Giám Sinh đã trối lại
với Thuý Vân rằng :
Tái
sinh chưa dứt hương thề
Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
(
câu 707-708 )
Nhân
năm chó, lại nhớ đến một chuyện cười dân gian thuở
xưa, chuyện kể ...
Xưa có một nhà nho thanh liêm, rất được dân làng trong
vọng, thấy các quan lớn quan nhỏ từ Hương quản, Hương
tuần, Lý trưởng đến Tri huyện, Tri Châu đều giở
trò tham nhũng, hạch sách dân đen, nên ... Một hôm, ông
làm một tiệc lớn, mời cả phủ huyện, hương chức hội
tề đến dự. Nào tiết canh, dồi chả, thui nướng ... món
ngon thơm phức dọn lên, các quan được một bửa chén no say.
Có người đứng lên đáp tạ nhà chủ và hỏi các
món ăn làm bằng thịt gì ? Nhà Nho thủng thỉnh đứng lên
cười đáp : Chó, mâm trên mâm dưới, mâm trong mâm ngoài,
tất cả đều là CHÓ cả !
Chuyện nầy làm ta lại nhớ đến ...
Nghe tiếng rao bán thịt chó ngoài đường. Có người trong
nhà lớn tiếng gọi : CHÓ ! CHÓ ! Người bán thịt chó cũng
không phải tay vừa, cao giọng hỏi lại : Ai CHÓ đó ?! Quả là
tám lạng nữa cân, ăn miếng trả miếng.
Cao cấp hơn là chuyện của Cao Bá
Quát ...
ĐẤU
鬥 là Đánh nhau, nhưng Đấu Khẩu 鬥口 là Cãi lộn
nhau, Chưởi lộn nhau như Cao Bá Quát đã diễn tả lại cho
vua nghe cuộc cãi cọ rồi ẩu đả nhau giữa hai vị quan trong triều
là Phan Văn Nhã và Võ Văn Khải đánh nhau vì chuyện văn
chương. Ông Khải xem bài ông Nhã chê kém và nói Văn
như thế Chó nó cũng làm được. Thế là sinh sự đánh
nhau đến sứt đầu mẻ trán, khi vua hỏi, Cao Bá Quát đã
tường thuật lại như thế nầy :
Bất tri hà sự,
不知何事,
Lưỡng tương đấu khẩu.
兩相鬥口。
Bỉ viết Cẩu,
彼曰狗,
Thử diệc viết Cẩu.
此亦曰狗。
Bỉ thử giai Cẩu.
彼此皆狗。
Dĩ trí đấu ẩu,
以致鬥毆,
Thần kiến thế nguy thần tẩu ! 臣見勢危臣走!
Có nghĩa :
Chẳng biết
việc chi,
Hai người cùng Đấu Khẩu với nhau.
Người nầy
nói Chó,
Người kia cũng nói Chó.
Cả hai đều Chó.
Đến nỗi ẩu đả nhau,
Thần thấy thế nguy nên thần chạy !
Cũng Cao
Bá Quát, trước khi khởi nghĩa, bị thất sủng, triều đình
đưa đi làm Giáo Thụ ở Quốc Oai, vùng đất thuộc Sơn
Tây, xa chốn kinh đô thành thị. Học trò ít, cảnh sinh hoạt
tiêu điều. Ông đã viết đôi câu đối dán ngoài
nhà học như sau :
Nhà
trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái.
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười
ươi.
Câu đối hắc búa, tương
truyền là của ông Tú Cát ra cho Trạng Quỳnh là :
Lợn
Cấn ăn cám Tốn,
Có nghĩa
con lợn đang cấn thai thì ăn thật nhiều, nên phải tốn thêm
nhiều cám. Nhưng Cấn 艮 và Tốn 巽 là hai quẻ trong Bát
Quái.
Quỳnh
đã ứng khẩu đối ngay là :
Chó
Khôn chớ cắn Càn.
Có nghĩa
con chó khôn ngoan thì không cắn càn cắn bậy, mà Khôn 坤 và
Càn 乾 cũng là hai quẻ trong Bát Quái. Thế mới tài ! ( Bát
Quái là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài 八卦是:乾,坎,艮,震,巽,離,坤,兌")。
Chuyện " Chó Đá Quẩy Đuôi " tuy có vẻ hoang đường,
nhưng cũng nói lên được cái tinh thần đề cao và kính
trọng nhân tài đất nước của dân tộc ta. Đó là truyện
của Trạng Lường ...
Lương
Thế Vinh 梁世榮 (1441 - 1496), tục gọi là Trạng Lường, tên
tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, là một nhà
toán học, Phật học, nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ. Ông đỗ
trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại
viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn
Nhị Thập Bát Tú 騷壇二十八宿 do vua Lê Thánh Tông
sáng lập năm 1495. Tương truyền ...
Khi Vinh lên 7-8 tuổi đi học ở làng bên, bên đường có
con chó đá, hễ Vinh đi qua là nó vẫy đuôi mừng. Lấy
làm lạ, Vinh về nhà kể cho cha nghe. Cha Vinh nói: "Nó đã biết
mừng thì ắt biết nói, con thử hỏi nó xem vì cớ gì
mà nó mừng". Hôm sau, khi chó quẩy đuôi mừng, Vinh bèn
hỏi, con chó đá đáp bằng tiếng người, rằng: "Vì
ông sẽ là Trạng nguyên, nên tôi mừng ông".
Lại kể ...
Theo
" Tam khôi bị lục 三魁備錄 "... có ghi lại
: Bà mẹ vua Lê Thánh Tông là Thái hậu Quang Thục có
lần nằm mơ, thấy đi tới chỗ Thượng Đế. Thượng Đế
ban cho bà một tiên đồng làm con, và một tiên đồng để
giúp đỡ. Lúc tỉnh dậy, bà có mang Lê Tư Thành (tức
vua Lê Thánh Tông). Sau Lương Thế Vinh thi đỗ, Thái hậu xem hình
dáng, giống hệt tiên đồng đã thấy trong mộng, bèn kể
lại cho vua Thánh Tông hay. Từ đấy, Lương Thế Vinh trở thành
một lương thần đắc dụng dưới thời Hồng Đức. Và
...
Lê Thánh
Tông chẳng những là một minh quân mà còn là một nhà
thơ có khẩu khí của bậc đế vương, ông làm thơ
vừa ca tụng mình vừa nhắc nhở triều thần phải hết lòng
phò vua báo quốc. Cái hay của các bài thơ ông làm là
không nói thẳng mà mượn một sự việc hay sự vật nào
đó để nói lên cái ý muốn của mình. Ta hãy đọc
2 bài thơ CHÓ ĐÁ của ông sau đây sẽ rõ.
Bài 1.
Quyền
trọng ơn trên trấn cõi ngoài,
Cửa nghiêm chem chẻm một mình ngồi.
Quản bao xương tuyết nào chi kể,
Khéo giữ cao lương cũng chẳng nài.
Mặc khách thị phi giương tráo mắt,
Những
lời trần tục biếng vào tai.
Một lòng thờ chúa, nghìn cân nặng,
Bền vững ai lay cũng chẳng dời.
Bài
2.
Lần kể xuân thu biết mấy mươi,
Cửa nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Đêm thanh nguyệt dãi màng trông nguyệt,
Ngày vắng ruồi bâu biếng ngáp ruồi.
Cắn kẻ tiểu nhân, nào đoái miệng ?
Chào
người quân tử, chẳng phe đuôi.
Phỏng trong sức có ngàn cân nặng,
Dầu
nhẫn ai lay cũng chẳng dời.
Qủa là giọng
điệu khẩu khí của một vì vua có khác !
Trở
lại với Đề 36 của hai sòng bài lớn Kim Chung ở Sài Gòn
và Đại Thế Giới ở Chợ Lớn trước khi bị Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đóng cửa (1954). Con CHÓ thuộc nhóm
Thất Sanh Ý, là bảy người làm nghề buôn bán, từ
số 10 đến số 16 có tên như sau :
Số 10 là Giang Từ
: con Rồng bay,
Số 11 là Phước Tôn : con CHÓ.
Số
12 là Quang Minh : con Ngựa.
Số 13 là Hữu Lợi : con Voi.
Số 14 là Chỉ Đắc : con Mèo Rừng.
Số 15 là Tất Đắc : con Chuột.
Số 16 là Mậu
Lâm : con Ong.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên rất hợp với dân đánh
đề, con chó tên chữ là Phước Tôn mang số 11, lại
là ngôi thứ 11 trong Địa Chi, nên hễ nằm chiêm bao hay đi
đâu, hoặc tình cờ gặp được người tuổi Tuất là
mua ngay số 11. Sau nầy áp dụng vào xổ số kiến thiết từ 00 đến
99, dân thua đề lại phải thua thêm 2 con nữa là : Con Chó sồn
sồn 51 và con Chó già 91 nữa, vì bây giờ 11 đã trở thành
con Chó nhỏ rồi. Nhớ bài Vè Thua Đề 36 của thầy giáo
Kiến ở ấp Yên Thượng Trị trấn Cái Răng, huyện Châu
Thành tỉnh Phong Dinh ngày xưa, có câu :
Cầm
quần mà đánh Thượng Chiêu,
Sổ
ra Bản Quế mất tiêu cái quần !
Thượng Chiêu là
con chim én, một trong Tứ Phu Nhân, số 21.
Bản Quế là con Ốc, một trong Tứ Trạng Nguyên, số 2.
Có một ông
câu, ban đêm hay đi giăng câu và hò hát trên vàm Ba Láng,
không biết là buồn tình vì thua đề hay vì vợ quá mê
đánh đề mà sửa lại câu vè của thầy giáo Kiến
thành :
Cầm
quần mà đánh Phước Tôn,
Sổ ra
Bản Quế để l... chê hê !
Dân
chúng mê đánh số đề, không phải chỉ cầm quần, cầm
áo, mà cầm cả xe cộ, ghe xuồng, nhà cửa, đất đai ... và
bất cứ thứ gì cầm cố được. Số đề mê hoặc
dân nghèo như một câu trong bài vè của thầy giáo Kiến
:
Phải
thời một vốn bỗng liền ba mươi.
Sau nầy
đánh theo xổ số Kiến Thiết thì càng mê hoặc lòng tham
của con người hơn với : Một đồng trúng bảy mươi ! Trước
mắt, dân nghèo trong nước cũng đang vật vả, sống dở chết
dở với vé số và số đề được xổ hằng ngày,
mỗi ngày nhiều khi đến 2 hay 3 đài xổ nữa là đằng
khác !
Song song với
số đề là tệ nạn ăn nhậu, lớn nhậu theo lớn, nhỏ nhậu
theo nhỏ, sang thì nhậu nhà hàng, hèn thì nhậu lề đường.
Hễ đỏ đèn là các quán nhậu lại trở nên nhộn
nhịp, nhất là các quán lẫu dê, thịt chó bình dân. Dân ăn
thịt chó thường kháo nhau về thịt chó là : Nhất bạch
nhì hoàng tam khoang tứ đốm. Có nghĩa : Thịt ngon nhất là chó
lông trắng, chó Cò. Thứ nhì là lông vàng, chó Phèn.
Thứ ba là lông có khoang, chó Vện. Thứ tư là lông có
đốm, chó Vá. Thịt chó bổ dương lại thêm vào ba xị
đế, nên cảnh " Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tại thị
酒入心如狗逛在市 ". Có nghĩa : Uống ba hột rượu
vào rồi thì con người dễ mất kiểm soát mà chạy lòng
vòng ngoài chợ như con chó hoang, vừa khuấy rối trật tự công
cộng vừa cản trở xe cộ giao thông là việc thường xảy ra
với dân nhậu nhẹt.
Chó là Cẩu, ngày xưa đọc
đồng âm với âm cửu là số 9. nên ta lại có một câu
chuyện dân gian về Chỉ Sự thay cho chữ viết sau đây :
Ngày xưa, có một
anh lính thú ở xa, nhân có bạn được phép về thăm
nhà, mới nhờ bạn đem về cho vợ ở nhà trăm quan tiền và
một bức thư.
Giữa đường,
anh bạn tò mò giở thư ra xem, không thấy ghi số tiền gửi
là bao nhiêu cả, chỉ thấy vẽ bốn con chó, một hình bát
quái, hai con dê và một cái chũm chọe, nên nảy ra cái ý
ăn bớt. Về đến nơi, anh ta chỉ giao cho vợ bạn bức thư và
bốn chục quan thôi.
Người
vợ xem thư biết thiếu tiền, lên quan nhờ phân xử. Quan hỏi
:
- Chồng chị gửi người ta bốn mươi quan tiền,
người ta mang về đưa tận tay cho, còn kiện cáo nỗi gì?
Người vợ đáp :
- Bẩm quan lớn, anh ta ăn
bớt ạ! Chồng con gửi cho con tới một trăm quan kia ạ!
-
Sao chị biết?
- Bẩm quan lớn, thư chồng con viết rành
rành ra đấy xin quan xem thư, sẽ rõ!
Quan giở bức thư quái gở kia ra xem, không hiểu gì cả liền hỏi:
- Thế là thế nào? Bức thư không có chữ nghĩa gì
cả, sao chị lại biết chồng chị gửi một trăm quan?
-
Bẩm quan lớn, chồng con vẽ rõ ràng ra đấy. Bốn con chó là
tứ cẩu, cẩu là cửu, tứ cửu là tam thập lục, là ba mươi
sáu ( 36 ). Bát quái có tám cạnh, bát bát là tám lần
tám vị chi là lục thập tứ, là sáu mươi tư ( 64 ). Sáu
mươi tư với ba mươi sáu chả là một trăm quan đó
sao?
Quan cho là phải, bắt anh kia phải
trả đủ số tiền. Nhưng ngài còn thắc mắc hỏi chị kia:
- Thế còn hai con dê và cái chũm choẹ là ý thế
nào?
Chị ta sượng sùng không nói.
Quan hỏi mãi mới thưa:
- Ðấy là nhà con vẽ đùa
thôi ạ !.
- Ðùa thế là có ý gì, phải
nói ra cho rõ ràng.
- Bẩm quan lớn, hai con dê và cái
chũm chọe là nhà con muốn hẹn con rằng, đến Tết Trùng Dương
( ngày 9 tháng 9, còn gọi là Trùng Cửu ) thì nhà con sẽ
về thăm cái chũm chọe, ơ... không, thăm con... đấy ạ!
Đó, ta thấy CHỈ SỰ hay là thế, thú vị là thế, ngày
xưa nước ta cũng đã có vô vàn cách Chỉ Sự để
truyền đạt ý nghĩa và sự việc một cách độc đáo
của riêng mình rồi !
Xin được kết thúc
bài phiếm về năm TUẤT là năm con CHÓ, mà chó chữ Nho
là CẨU, cẩu lại thuộc bộ KHUYỂN nầy ở đây.
À, mà còn quên,
để vui Xuân đón Tết, mời tất cả cùng giải đáp
câu đố nghe rất trái tai sau đây, đó là câu :
Chó đậu, chuồn chuồn sủa !
( đố là Trái gì ? )
Cầu chúc cho tất
cả mọi người đều có được một mùa xuân Mậu
Tuất 2018 Như Ý, An Khang và Thịnh Vượng !
Đỗ Chiêu Đức
Thơ Vịnh :
Mậu Tuất
2018
Mậu Tuất là con chó đất quèn,
An thân khuyển mã chẳng bon chen.
Đen thui đen thủi là con Mực,
Vàng khẻ vàng khè ấy chú Phèn.
Trắng nỏn chó Cò co cẳng chạy,
Sặc rằng con Vện vẩy đuôi quen.
Lốm đa lốm đốm ồ em Vá.
Nhà cẩu trung thành nức tiếng khen !
Đỗ Chiêu Đức
Câu đối cho năm Mậu Tuất
2018 :
Đinh Dậu gà đi qua, Gát
hết thiên tai cùng đón Tết;
Mậu Tuất chó chạy đến, Mừng thêm
phúc lộc thảy vui Xuân.
__________________________________________________________________________________________________________________
KHÓC THẦY
Mới vừa hai tám chớm xuân
Sao thầy nở vội
bỏ trần lên tiên !
Ngỡ ngàng làm sao khi nghe tin thầy mất,
Lòng bàng hoàng không
nén nổi bi ai.
Tin như sét đánh ngang mày,
Thôi rồi một
kiếp trần ai đi về !
Ngày mười lăm tháng rồi thầy còn nhắn,
Ý
đẹp lời hay phổ biến đến trang nhà.
Tiếng thầy vọng
bên tai còn chưa dứt,
Bóng hình đà lẫn khuất tựa
sát-na.
Nhàn, vô, bất,
không, nhớ khi cùng phiếm,
Tĩnh lặng thầy trò trãi nghiệm
nhân sinh.
Quy y Phật, Pháp, Tăng cùng bát giới,
An trụ rồi
tâm mới hết linh đinh.
Chân và Vọng theo nhau lòng vô trụ,
Chứng Đạo
Ca vang vọng cỏi mênh mông.
Hoàng Giác Đại Sư cùng
thầy bầu bạn,
Tứ đại trả về sắc sắc không
không !
Vô minh thực tánh trả về,
Mong thầy siêu thoát
an bề qui chơn.
Niết bàn chẳng
nệ thiệt hơn,
Hữu duyên, hữu đức, bảo sơn
hữu phần !
Đỗ Chiêu Đức
Khấp điếu
HAI NỮ THI SĨ ĐỜI ĐƯỜNG
A. KÝ PHU của Trần
Ngọc Lan.
1. Bản chữ Hán cổ của bài thơ :
寄夫
KÝ PHU
陳玉蘭
Trần Ngọc Lan
夫戍邊關妾在吳,
Phu thú biên quan thiếp tại Ngô,
西風吹妾妾憂夫。
Tây phong xuy thiếp thiếp ưu phu.
一行書信千行淚,
Nhất hàng thư tín thiên hàng lệ,
寒到君邊衣到無? Hàn đáo
quân biên y đáo vô ?
CHÚ THÍCH :
* Thú : Đi lính xa. Thú Biên Quan : là
Đi lính đóng đồn ở ngoài biên ải.
* Ngô : Đất Ngô, nước Ngô xưa, chỉ
một dãy của tỉnh Giang Tô ngày nay.
* Tây Phong : là Gió tây, chỉ Gió mùa thu hiu hắt.
NGHĨA
BÀI THƠ :
GỞI CHỒNG
Chồng đi lính xa tận ngoài biên ải, còn thiếp thì ở lại
đất Ngô của xứ Giang Nam. Khi gió tây thổi đến thiếp lại
càng lo lắng cho chồng, nên viết thư thăm hỏi, mỗi một hàng
thư là cả một ngàn hàng lệ nhỏ, chỉ lo sợ rằng khi cái
lạnh của mùa đông ập đến bên chàng thì không biết
chiếc áo ngự hàn của thiếp gởi đã đến kịp lúc
bên chàng chưa ?
Tình cảm thật da diết thiết tha. Toàn bài thơ là những tiểu
đối khéo léo nêu bật nỗi lòng của người chinh phụ
vọng phu : Chàng phải đi ngoài biên ải xa xôi, còn
thiếp thì được ở lại quê nhà. Khi gió tây thổi, thiếp
thấy lạnh, nên lại lo cho chàng. Một hàng thơ viết cho chàng
là cả ngàn hàng lệ của thiếp đã nhỏ ra. Cuối cùng,
là cái lo đáng lo nhất : Khi cái lạnh đến bên chàng thì áo
của thiếp gởi có đến kịp lúc hay không ?
Cả bài thơ bốn câu,
câu nào cũng nêu lên tình ý của một CHÀNG một
THIẾP, nhưng không phải là "Tình chàng Ý thiếp ai sầu
hơn ai" nữa, mà là sự ưu tư lo lắng khoắc khoải
của người cô phụ hết dạ thương chồng đang xông pha ngoài
biên ải ! Hai điệp từ PHU, ba điệp từ THIẾP càng làm cho
bài thơ tha thiết và gần gũi với người đọc hơn,
nhất là câu : " Tây phong xuy thiếp thiếp ưu phu " vừa
chơn chất vừa thật thà dễ đi vào lòng người. Câu " Nhất
hàng thư tín thiên hàng lệ " càng nhấn mạnh thêm
sự thương cảm xót xa của người chinh phụ trông chồng.
Trần Ngọc Lan là nữ
thi sĩ đời Đường, không rõ năm sanh năm mất, bà là
thê tử của thi nhân Vương Giá 王驾. Giá đậu tiến
sĩ năm Đại Thuận nguyên niên 大顺元年, làm quan đến
chưc Lễ Bộ Viên Ngoại Lang, mà ta đã biết ông qua bài Xuân
Tình 春晴 với 2 câu thơ bất hũ :
蜂蝶紛紛過牆去, Phong điệp phân phân quá
tường khứ,
卻疑春色在邻家 . Khước nghi xuân sắc
tại lân gia.
... mà nhà thơ Tiến Chiến Jean. Leiba đã
phỏng dịch rất hay là :
Tơi bời ong bướm bay qua ngỏ,
Những
tưởng màu xuân ở xóm ngoài !
DIỄN
NÔM :
Thiếp
ở quê nhà chàng lính thú,
Nhớ chàng gió lạnh nói sao vừa.
Một
hàng thơ viết ngàn hàng lệ,
Lạnh đến bên chàng áo đến chưa ?
Lục bát :
Chàng biên tái, thiếp quê nhà,
Gió tây thổi thiếp thiết tha nhớ chàng.
Một
hàng thư, lệ ngàn hàng,
Áo
len thiếp gởi kịp chàng mặc chăng ?!
Bản viết tay 2011
B. KIM LŨ
Y của Đỗ Thu Nương.
1. Bản chữ Hán cổ của bài thơ
:
金縷衣
KIM LŨ Y
杜秋娘 Đỗ
Thu Nương
勸君莫惜金縷衣, Khuyến
quân mạc tích kim lũ y,
勸君惜取少年時. Khuyến
quân tích thủ thiếu niên thì.
花開堪折直須折, Hoa
khai kham chiết trực tu chiết,
莫待無花空折枝! Mạc
đãi vô hoa không chiết chi !
2.
Chú thích :
* Kim Lũ Y :
là áo được dệt bằng những sợi tơ vàng óng. Ý
chỉ quần áo hoa lệ đẹp đẽ.
* Tích : là Tiếc, là thương, là xót, là
Tiếc rẻ.
* Kham : là Nên,
là Được, là Đúng lúc.
* Trực : là Ngay, là Thẳng, là Tức khắc.
* Đãi : là Đợi, là
Lần lừa.
3. Nghĩa bài thơ :
ÁO TƠ VÀNG
Khuyên chàng đừng tiếc rẻ những chiếc áo tơ lụa vàng
qúi giá, mà hãy nên tiếc nuối lấy tuổi thanh xuân của
mình. Cũng như khi hoa đang nở đẹp thì hãy kịp lúc
mà bẻ lấy ngay, đừng để cho đến khi hoa rụng rồi thì
chỉ bẻ được cái cành không mà thôi !
Khéo mà ví von khuyên
nhủ những chàng công tử phong lưu chỉ biết ăn ngon mặc đẹp,
mà không biết tranh thủ lấy tuổi thanh xuân của mình để
trao dồi kiến thức, cố gắng học hành để mong có ngày tiến
thủ, lập chữ công danh ... Cứ mãi miết ăn chơi trác táng
ở lầu xanh, ở các nơi trà đình tửu điếm, để đến
khi ăn năn thì đã qúa muộn màng
3.
Tác giả :
ĐỖ
THU NƯƠNG 杜秋娘 ( cuối Thế kỷ 8 ) tên thật là Đỗ
Thu, người đất Kim Lăng đời Đường. Bà là
một ca kỹ múa giỏi hát hay và giỏi cả thi ca, 15 tuổi đã
được Tiết Độ Sứ Lý Kỹ 李錡 mua về làm tì
thiếp. Sau Lý Kỹ tạo phản thất bại, bà bị biếm vào cung.
Khi Đường Mục Tông 唐穆宗 (821-826) lên ngôi, phong bà
làm Phó Mẫu là giáo tập ở trong cung nuôi dạy Thái Tử. Mục
Tông mất, Thái tử bị phế, bà bị thải về quê. Khi Đỗ
Mục đi ngang qua Kim Lăng, trông thấy hoàn cảnh của bà vừa
già vừa nghèo khổ, ông đã làm bài Đỗ Thu
Nương Thi 杜秋娘詩 để kể lại thân thế của
bà.
4. Diễn Nôm :
Khuyên
chàng chớ tiếc áo tơ vàng,
Hãy
tiếc tuổi xuân chớ để tàn.
Hoa nở đúng kỳ tua bẻ lấy,
Đừng đợi
cành không bẻ muộn màng !
Lục
bát :
Tiếc chi chiếc áo chỉ vàng,
Khuyên chàng
trân trọng tuổi đang xuân thì.
Hoa đang độ, hãy bẻ đi,
Đợi
khi hoa rụng bẻ gì cành không ?!
Bản viết tay năm 2011
KIM OANH Phỏng dịch:
Gởi Chồng (Ký Phu - Trần Ngọc Lan)
Thiếp ở khuê phòng chàng ngoài
biên ải
Gió Tây lạnh thổi
lòng mãi nhớ lo
Viết một hàng
thư ngàn hàng lệ nhỏ
Đan
áo gởi đến chàng kịp mặc cho.
Kim Oanh
----------------------------
Áo Tơ Vàng
(Kim Ly -
Thu Nương)
Tiếc gì chiếc áo tơ vàng
Xin chàng đừng để xuân tàn qua nhanh
Hái hoa đúng độ tươi xanh
Kẻo khi cánh rụng trơ cành còn chi
Kim Oanh
___________________________________________________________________________________________________________________
TIẾT TRÙNG CỬU
Lễ
Ông Bà ngày xưa của ta
Sau Tết Trung Thu
là Tết Trùng Cửu,
chữ Tết do chữ Tiết đọc trại ra mà thành. TIẾT 節 là
Thời Tiết 時節 chỉ Khí hậu có liên quan đến mùa
màng. TIẾT cũng có nghiã là ngày Lễ Tết trong năm. Một
năm có mấy cái Tết lớn. Nguyên Đán là cái Tết lớn
nhất mở đầu cho một năm nằm trong tháng Giêng, Thanh Minh là Tết
nằm trong tháng 3, Đoan Ngọ là Tết của tháng 5, Tháng 8 thì có
Tết Trung Thu và Tháng 9 thì ta có Tết Trùng Cửu.
Trùng Cửu, Trùng là Trùng lắp, là
lặp lại. Cửu là số 9. Nên Trùng Cửu 重九 là
2 số 9 được lặp lại, tức là ngày mùng 9 tháng 9 Âm
lịch. Theo Kinh Dịch thì số 9 thuộc Dương, nên Trùng Cửu còn
được gọi là Trùng Dương 重陽. Đây là cái
Lễ tiết cuối cùng sau mùa thu hoạch, rồi trời sẽ trở lạnh
để vào đông cho đến Tiết Đông Chí về, sẽ lại
chuẩn bị để đón mừng năm mới !
Ngoài việc được gọi là Tiết
Trùng Dương 重陽節 ra, Trùng Cửu còn được gọi là Tiết
Đạp Thu 踏秋節, có nghĩa là Đạp lên lá vàng
khô của mùa Thu, tức là Đi dạo chơi trong mùa Thu trước
khi trời trở lạnh. Trong dân gian xưa còn gọi ngày này là Ngày
Của Người Già : LÃO NHÂN TIẾT 老人節 hoặc KÍNH LÃO
TIẾT 敬老節. Có thể là do sau khi mùa màng được
thu hoạch vào mùa Thu, con cháu có nhiều món ngon vật quý để
dâng hiến cho Ông Bà, hoặc đã có tiền để chăm lo săn
sóc đến đời sống của Ông Bà hơn. Khi ông bà cha mẹ
già đã quá cố, thì con cháu cũng nhân dịp Đạp Thu
mà kéo nhau lên núi để Tảo Mộ ( Ở những nơi có
đồi núi thì người chết được chôn cất ở trên
cao, vùng đồng bằng để trồng trọt canh tác. Cho nên ta thấy
Cụ Nguyễn Du tả cảnh Tảo mộ của Tiết Thanh Minh là : " Ngổn ngang gò đống kéo
lên, Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay, là thế ! ). Vì vậy, mà Tiết Trùng Cửu
còn được gọi là Tiết ĐĂNG CAO 登高節. Ngoài ra,
Tiết Trùng Cửu cón được gọi là Tiết THÙ DU 茱萸節,
Tiết CÚC HOA 菊花節....
Cây
lá và trái Thù Du ( trái cherry ở Mỹ )
THÙ DU là loại cây ăn trái được thu hoạch vào
khoảng cuối tháng 6. Cây lá có tính sát trùng tiêu độc,
ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ Trùng Cửu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt
bên mình để " trừ tà ", để được bình
an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là
Tiết Thù Du là vì thế.
Hoa Cúc và tục lệ
uống rượu Cúc trong ngày Trùng Cửu
Trong bài thơ " Bốn
mùa ăn chơi " của người xưa thì câu thứ 3 là "
Thu ẩm Hoàng Hoa tữu ". Hoàng Hoa tức là Hoa Cúc đó, loại
hoa có màu vàng và nở vào mùa thu, nên được dùng
để ủ rượu uống cho ấm vào những ngày cuối thu lạnh
lẽo nầy, để ngừa cảm cúm, như ta chích " flu shot " vào
mùa nầy ở Mỹ vậy ! Nên Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Tiết Cúc
Hoa là vì thế !
Theo truyền thuyết thì ...
Vào
thời Nam Bắc Triều, người của Nam Triều là Ngô Quân Chi thuộc
nước Lương, ghi trong " Tục Tề Hài Ký " rằng :
Đời Đông Hán, ở huyện
Nhữ Nam có một người tên là Hoàn Cảnh, cha mẹ đều
chết vì bệnh ôn dịch ở cuối thu, nên anh ta quyết định
lên núi tầm sư học đạo để trừ ôn dịch ôn
thần. Đạo nhân Phí Trường Phòng dạy cho phép tiên
dưỡng sinh và y học. Một năm, sau Trung Thu, đạo nhân gọi Hoàn
Cảnh đến mà bảo rằng : Mùng 9 tháng 9 năm nay, ôn thần
lại đến gieo rắc bệnh dịch, con hãy về quê mà cứu nhân độ thế.
Nói đoạn bèn trao cho anh ta một cây Thanh Long Kiếm, một bao lá Thù
Du và một bình Rượu Cúc, căn dặn mọi người phải lên
cao mà tránh nạn.
Đến
hôm mùng 9 tháng 9, Hoàn Cảnh gọi hết bà con lối xóm cùng đăng
cao lên núi, giắt cho mỗi người một lá Thù Du và
uống một ly rượu Cúc, rồi đơn thân độc mã đứng
chặn ở sườn núi, chiến đấu và tiêu diệt ôn
thần. Từ đó về sau không ai còn bị chết về bịnh
dịch nữa, và cũng từ đó về sau mới có tục Đăng
Cao, cài lá Thù Du lên áo và uống rượu Cúc trong ngày Tiết
Trùng Cửu cho đến hiện nay.
Trùng
Cửu xưa
Trùng Cửu nay
Trong văn học, nhất là trong Đường
Thi, ngày Trùng Cửu luôn
luôn được nhắc đến một cách thân thiết gần
gũi qua các thi nhân nổi tiếng như Lưu Trường Khanh với ...
九日登李明府北樓 CỬU NHẬT ĐĂNG LÝ MINH PHỦ BẮC
LÂU
九月登高望, Cửu nguyệt đăng cao vọng,
蒼蒼遠樹低。
Thương thương viễn thọ đê.
人煙湖草裡,
Nhân yên hồ thảo lý,
山翠現樓西。
Sơn thuý hiện lầu tê. ( tây )
劉長卿 Lưu
Trường Khanh
Diễn nôm :
NGÀY
CHÍN LÊN BẮC LÂU CỦA LÝ MINH PHỦ
Tháng
chín lên cao ngắm,
Xanh
xanh cây cỏ xa.
Hồ
mờ sương người vắng,
Lầu tây núi biếc nhòa !
Đỗ
Chiêu Đức diễn nôm
Còn Thi
tiên Lý Bạch với ...
九月十日即事
CỬU NGUYỆT THẬP NHẬT
TỨC SỰ
昨日登高罷,
Tạc nhật đăng cao bãi
今朝再舉觴。 Kim triêu
tái cử trường.
菊花何太苦, Cúc hoa
hà thái khổ,
遭此兩重陽。
Tao thử lưỡng Trùng Dương .
李白
Lý Bạch
Chú Thích :
Mùng 9 tháng 9
gọi là Tiết Trùng Dương, hái hoa cúc, uống rượu cúc,
nhưng...
Mùng 10 tháng 9 gọi là Tiểu Trùng Dương, lại hái hoa cúc,
lại uống rượu cúc.
Chỉ trong hai ngày, hoa cúc BỊ HÁI, BỊ VÙI DẬP đến 2 lần.
Lý Bạch ví thân phận đi đày của mình giống như là
hoa cúc liên tiếp bị vùi dập vậy, nên mới hạ 2 câu cuối
là : " Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng Trùng Dương
". Có nghĩa : Hoa Cúc sao mà lại khổ thế, phải gặp cái
nạn của 2 lễ Trùng Dương nầy !
KHỔ 苦 là Khổ sở, Cực
khổ. KHỔ cũng có nghĩa là ĐẮNG nữa ! Tân là Cay, nên
Tân Khổ là Cay Đắng, Đắng Cay!
Diễn nôm :
Chuyện
của ngày mười tháng chín
Hôm qua sau leo núi,
Sáng nay lại nâng ly.
Hoa
Cúc sao mà khổ,
Trùng Dương đến nhị kỳ !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Nhưng nổi tiếng
và tiêu biểu nhất cho lễ Trùng Cửu là bài thơ của Thi Phật Vương Duy....
CỬU NGUYỆT CỮU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
Đôc
tại dị hương vi dị khách,
Mỗi
phùng giai tiết bội tư thân.
Diêu tri Huynh đệ đăng cao xứ,
Thiên tháp thù du thiểu
nhất nhân !
Vương Duy
Chú Thích :
Khi làm bài thơ nầy
Vương Duy chỉ mới 17 tuổi, đang xa nhà đến Trường An để
mưu cầu công danh. Nhà ông ở Bồ Châu, phía đông của
núi Hoa Sơn, nên mới đề tựa là " Ức Sơn Đông Huynh
Đệ ". Bài thơ nổi tiếng với 2 câu đầu mà không
có người du tử nào không trầm trồ với 2 từ " dị hương,
dị khách ".
Nghĩa bài thơ :
Mùng chín tháng chín nhớ anh em ở phía đông núi.
Ta một mình
ở nơi đất lạ làm người khách lạ, nên mỗĩ lần
gặp Lễ Tết là lại nhớ người thân thêm bội phần. Ta
biết rằng ở nơi xa xôi kia, anh em ta đang đăng cao trong ngày lễ
nầy, và mỗi người đều có giắt một lá Thù Du lên
áo, chỉ thiếu có một người không được giắt là
ta mà thôi !
Diễn nôm :
Xứ lạ quê người làm khách lạ,
Mỗi
lần lễ tết nhớ khôn nguôi.
Anh
em mùng chín đăng cao đó,
Đều
giắt thù du thiếu một người !
Lục bát :
Đơn
thân xứ lạ quê người,
Mỗi khi lễ tiết ngậm ngùi nhớ nhau.
Quê
xa huynh đệ đăng cao,
Thù du giắt áo nghẹn ngào riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức biên khảo.
______________________________________________________________________________________________________
Cuối tuần kể chuyện vui.
VƯƠNG AN THẠCH và Chữ SONG
HỈ
Sau đây, xin kính mời Quý Thầy Cô, Quý đồng môn Cựu
Học Sinh Trung học PTG & ĐTĐ, các bạn Vườn Thơ Thẩn và
Các Em học sinh trường TÂN HƯNG cũ, cùng nghe lai lịch của chữ
SONG HỈ 囍 rực rỡ đỏ tươi trong các Hôn Lễ Trung Hoa xưa
và mãi cho đến ngày nay, bất cứ nơi nào trên thế giới
có Lễ cưới của người Hoa, người Việt thì ta sẽ thấy
chữ SONG HỈ vui tươi rực rỡ nầy xuất hiện. Nó được
viết bằng 2 chữ HỈ 喜 liền nhau, nên gọi là SONG HỈ 囍,
ý chỉ đây là ngày vui của 2 HỌ. Nhưng, lúc đầu nó
là 2 niềm vui đến cùng một lúc với Văn, Thi Hào và là
Tể Tướng VƯƠNG AN THẠCH đời Tống. Xin kính mời Quý vị
cùng tiêu khiển với câu chuyện Văn chương lý thú sau đây....
Vương An Thạch ( 18-02-1021-- 21-05-1086
), Tự là Giới Phủ, hiệu là Bán Sơn, được phong là
Kinh Quốc Công, nên người đời còn gọi là Kinh Công. Người
đất Lâm Xuyên thuộc Vũ Châu đời Bắc Tống. Ông là
Thừa Tướng của triều Bắc Tống, lãnh tụ của Tân Đảng
( Đảng Cải Cách ). Âu Dương Tu đã ca ngợi ông như sau
:
Hàn lâm phong nguyệt tam thiên thủ, 翰林風月三千首,
Lại bộ
văn chương nhị bách niên. 吏部文章二百年。
Lão khứ
tự lân tâm thượng tại, 老去自憐心尚在,
Hậu lai
thùy dữ tử tranh tiên. 后來誰與子爭先。
Có nghĩa :
Ba
ngàn bài gió trăng phong nguyệt,
Hai
trăm năm Lại bộ văn chương.
Già
đi tự cảm thương thân phận
Hậu
thế ai người dám sánh ông ?!
Tác phẩm gồm có " Vương
Lâm Xuyên tập, Lâm Xuyên tập Thập di,... ". Ông còn giỏi
về thi, từ. Lưu truyền nổi tiếng nhất trong dân gian là 2 câu
thơ trong bài " Bạc thuyền Qua Châu ( Thuyền ghé bến Qua Châu
) là :
Xuân phong hựu LỤC Giang
nam ngạn, 春風又綠江南岸,
Minh
nguyệt hà thời chiếu ngã hoàn ? 明月何時照我還。
Có nghĩa :
Gió xuân lại thổi
làm cho bờ Giang nam XANH biếc,
Trăng
bao giờ mới soi sáng trên đường ta về quê ?!
Chữ
LỤC 綠 là Hình Dung Từ, có nghĩa là : Màu xanh lá cây.
Ở đây được tác giả sử dụng làm Động Từ một
cách thật khéo léo và thật gợi hình :
" Gió
xuân lại làm cho XANH cả bờ bãi của xứ Giang Nam."
Có nghĩa :
Khi gió xuân về tức là mùa
xuân cũng đã về làm cho cây cỏ đâm chồi nẩy lộc
mang đến màu xanh cho xứ Giang Nam, chớ bản thân gió xuân không
thể làm cho xứ Giang Nam xanh lên được. Nên...
Chỉ
một chữ XANH ( Lục ) thôi đã mang lại đầy đủ sức sống
của hoa cỏ mùa xuân và như chiếc đủa thần của tạo
hóa : Gió xuân thổi tới đâu là mang màu xanh đến nơi
đó ngay !
" 囍 " 的来历
LAI LỊCH CỦA CHỮ SONG HỈ
Chữ SONG HỈ lớn màu đỏ, treo ở trước cửa phòng Hoa
chúc, chẳng những tạo thêm không khí vui tươi mà còn tượng
trưng cho SONH HỈ LÂM MÔN ( Hai niềm vui đến nhà cùng một lúc
). Căn cứ theo ghi nhận của Sử liệu, thì lai lịch của chữ SONG
HỈ nầy xuất phát từ Tể Tướng Vương An Thạch đời
Bắc Tống, Câu chuyện như sau.....
Tương
truyền năm 20 tuổi, khi từ Lâm Xuyên Vũ Châu đến kinh đô
Lạc Dương để ứng thí, khi nghỉ ở khách sạn Mã gia
trấn để chờ dự thi. Một hôm, sau buổi cơm tối, ông thả
bộ ra phố, khi đi ngang qua nhà Mã viên ngoại, thấy phía trước
cửa nhà treo 2 cái lồng đèn kéo quân, bên cạnh có
đôi câu đối như sau :
Tẩu mã đăng, đăng
tẩu mã, đăng tức mã đình bộ.
走 馬
燈, 燈 走 馬, 燈
熄 馬 停 步。
Có nghĩa :
Tẩu Mã Đăng là Đèn Chạy Ngựa, ta gọi là Đèn
Kéo Quân.
Nên câu trên có nghĩa :
Đèn
chạy ngựa, ngựa chạy trên đèn, đèn tắt ngựa ngừng
chạy.
Theo nghĩa của ta thì là :
Đèn
kéo quân, quân kéo đèn, đèn tắt quân ngừng kéo.
2 loại Đèn Kéo Quân
Vương
An Thạch xem xong trầm ngâm giây lát, bỗng vỗ tay đánh đét
một tiếng khen : " Câu đối hay tuyệt, nhưng rất tiếc là không
có vế đối lại ! ". Người quản gia nghe thấy vội vàng
chạy vào bẩm báo với Mã viên ngoại, nhưng khi Mã viên
ngoại ra tới cửa thì Vương An Thạch đã đi xa rồi.
Sự đời cũng lắm việc trùng
hợp ngẫu nhiên, hôm sau khi đi thi, vì văn tài mẫn tiệp,làm
bài nhanh nộp quyển sớm, nên được quan chủ khảo chú ý
ngợi khen và gọi lên hạch miệng. Ông chỉ ra cột cờ trước
sân, nơi có treo lá cờ thêu hình một com hổ bay với đôi
cánh vươn ra và đọc :
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.
飛
虎 旗, 旗 飛 虎,旗 捲
虎 藏 身。
Có nghĩa :
Cờ cọp bay, cọp bay trên cờ, cờ cuốn cọp ẩn mình.
Phi
Hổ kỳ
Vương An Thạch buộc
miệng đọc ngay câu đối của Mã viên ngoại :" Tẩu mã
đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ ", để
đối lại. Quan chủ khảo vô cùng tán thưởng và kinh
ngạc trước tài ứng đối mau lẹ và chính xác của Vương
An Thạch, và không ngớt lời ngợi khen.
Rời
khỏi trường thi, Vương vô cùng đắc ý, trong lúc hớn
hở đi về nhà trọ, thì người Quản gia nhà họ Mã nhận
ra Vương và mời về phủ ra mắt viên ngoại. Khi vào đến
phòng khách thì đã thấy trên bàn bày sẵn văn phòng
tứ bảo, giấy mực hẳn hoi. Mã Viên ngoại đọc ngay câu đối
" Tẩu mã đăng..." cho chàng đối . Vương An Thạch chẳng
ngần ngừ chút nào cả, hưu bút viết ngay câu đối mà
Quan chủ khảo đã ra cho chàng là " Phi hổ kỳ..." để
đối lại. Viên Ngoại vô cùng đẹp dạ, kinh ngạc trước
tài ứng đối mau lẹ của Vương và rất vui vẻ mà cho
Vương biết rằng, ông ra câu đối nầy là để kén
rể, nay mến tài mẫn tiệp của Vương nên quyết định gả
con cho chàng. Chọn ngày lành tháng tốt và làm lễ thành
hôn ngay tại Mã phủ.
Trong lúc
cô dâu chú rễ sắp làm lễ bái đường, thì có
sứ đến tuyên đọc kết quả kỳ thi vừa qua, và cho biết
Vương An Thạch vừa đậu Tiến sĩ cập đệ, ngày mai được
mời vào cung Quỳnh Lâm dự yến. Mã Viên ngoại vô cùng
mừng rỡ, truyền bày thêm tiệc rượu để khoản đãi
quan khách. Riêng Vương An Thạch cũng vui mừng vô hạn, đang cơn
hứng chí bèn sẵn giấy bút viết ngay HAI chữ Hỉ sát vào
nhau dán lên cửa để mừng cho Hai niềm Vui lớn đến cùng một
lúc, Hỉ thượng gia Hỉ, Đại tiểu Đăng Khoa cùng một lúc.
Các
kiểu chữ SONG HỈ
Từ
đó dân gian mới có lệ, chú rể được mặc áo Trạng
Nguyên Tiến Sĩ trong ngày cưới và dán chữ SONG HỈ ở khắp
nơi trong nhà khi làm lễ Thành hôn cho đến hiện nay. Ngay cả
ở nước Mỹ nầy, trước mắt các nhà hàng đều có
sẵn chữ SONG HỈ và hình rồng phụng hai bên trong các phòng
ăn rộng dành riêng cho cô dâu chú rể đãi khách trong ngày
lễ Tân Hôn.
Đỗ Chiêu Đức
____________________________________________________________________________________________
TRỌN BỘ: CHỮ
NHO... DỄ HỌC
Click hàng chữ dưới đây để đọc trọn bộ:
Chữ Nho Dễ Học - TÂN HƯNG CÁI RĂNG
Xin hân hạnh giới thiệu quyển " Chữ
Nho... Dễ Học " của Thầy Đỗ Chiêu Đức với quý Thầy
Cô và anh chị em bà con gần xa .
Với tấm lòng của một Thầy giáo dạy văn muốn ghi lại
những hiểu biết về chữ nho bằng lời cắt nghĩa tỉ mỉ
dễ hiểu ,giọng văn đơn sơ chân chất của người nam kỳ
lục tỉnh , gây nhiều thích thú khi đọc được những
điển tích xa xưa mà thuở nhỏ mình chưa hề biết hoặc
đã hiểu không chính xác nên làm lệch lạc ý tưởng
ngoài ý muốn , thí dụ như ý nghĩa khác nhau của "bàn
hoàn "và " bàng hoàng" hay tại sao mình viết " cầm
sắt " bằng chữ t .
Quyển sách
được chia thành 38 bài , người đọc không nhứt thiết
phải đọc theo số bài thứ tự mà vẫn hiểu được
tường tận vấn đề ,và bằng lời viết nhẹ nhàng, tự
nhiên mà dí dõm gây cho người đọc cảm giác gần
gũi thân tình .
" Chữ nho ... dễ
học " như quyển tự điển lôi cuốn với nhiều hình minh
họa được sưu tầm đẹp mắt, càng đọc càng thấy
mình nhỏ bé trước sự hiểu biết uyên thâm mà Thầy
đã rất công phu ghi chép lại cho những ai thích tìm hiểu chữ
Việt chữ Hoa và chữ Nho.
Xin trân
trọng cám ơn Thầy Đỗ Chiêu Đức đã lưu lại
cho chúng em một kho tàng quý giá .!
Học trò THCR
_________________________________________________________________________________________________
TẢI NGUYỆT MINH QUY
Thơ Thiền
______________________________________________________________________________
Bài thơ nầy vốn có tựa là " THUYỀN
TỬ HÒA THƯỢNG KỆ " 船子和尚偈, vì Đức Thành
Thiền Sư, người gốc Tứ Xuyên, là một cao tăng ở cuối
đời Đường, thọ pháp với Dược Sơn Duy Nghiêm Thiền
Sư. Ngày thường ẩn cư ở Tú Châu Hoa Đình, làm nghề
đưa đò ở bến đò Ngô Giang, thường thả một lá
thuyền con trôi theo dòng nước, tùy duyên mà độ nhật, nên
người đời mới gọi là THUYỀN TỬ HÒA THƯỢNG 船子和尚
( là Hòa thượng Chèo thuyền ), còn có hiệu là Hoa Đình
Hòa Thượng 華亭和尚. Sư soạn 39 bài PHẤT TRẠO CA 撥棹歌
( Bài ca Chèo Thuyền ) ca ngợi đời sống của Ngư dân
nhưng lại ngụ Thiền lý trong các lời ca đó.
Dưới
đây là bài thứ nhất trong 3 bài Thất Ngôn tuyệt cú,
là bài kệ có ý Thiền được nhiều người biết
đến nhất :
千尺絲綸直下垂,
一波才動萬波隨;
夜靜水寒魚不食,
滿船空載月明歸。
Thiên xích ty luân trực hạ thùy,
Nhất
ba tài động vạn ba tùy .
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn
thuyền không tải nguyệt minh qui !
NGHĨA BÀI THƠ :
BÀI KỆ của HÒA THƯỢNG CHÈO ĐÒ
Sợi tơ nhợ câu cá ngàn thước buông thẳng xuống dưới
nước, nước bèn nổi lên một dợn sóng, và dợn sóng
nầy lan tỏa thành muôn vạn dợn sóng khác tỏa rộng ra. Đêm
yên ắng, nước lạnh căm, nên không có cá cắn câu, đành
chở đầy một thuyền trăng trống không mà về !
CHÚ
THÍCH :
TY LUÂN
: Dây tơ, dây nhợ, là sợi chỉ. Chữ TY là Tơ. LUÂN là
Chỉ dùng để may bìa vải lại cho đừng xút xổ , mà
bây giờ ta gọi là chỉ " Vắt Xổ " đó, nên LUÂN
THƯỜNG là cái GIỀNG MỐI mà ta phải giữ cho cuộc sống có
nề nếp.
3 chữ
cuối của câu 1 là TRỰC HẠ THÙY, nghĩa là BUÔNG THẲNG XUỐNG,
THÙY 垂 là rũ xuống.
TẢI
: là Chở, VẬN TẢI là Chuyên chở.
Ý BÀI KỆ
:
2 Câu đầu lấy ĐỘNG để tả TĨNH, động tác buông
câu là động tác thật nhẹ nhàng, dây câu chạm mặt
nước cũng là động tác thật nhẹ nhàng, gợn sóng phát
sinh lại càng nhẹ nhàng hơn, tuy nhẹ nhàng nhưng lại lan tỏa
ra thành muôn vạn dợn sóng khác, Nhất ba động, vạn ba tùy.
Một Ý niệm nảy sinh, gây mầm cho muôn vạn Ý niệm khác
nảy sinh, đây chính là Ý THIỀN của 2 câu thơ đầu.
2 câu thơ cuối đều qui về một chữ
KHÔNG. Đêm vắng lặng, nước lạnh lẽo, cá chẳng cắn câu,
tất cả là nhân tố của cái kết quả : " Chở đầy
một thuyền toàn là ánh trăng mà về ! ". Thuyền đầy
ánh trăng là " Sắc tức thị Không ". Ánh trăng huyền
ảo mông lung đẹp đẽ nhưng lại " Không có gì cả
! ", là "Không tức thị Sắc" đó!
DIỄN NÔM :
BÀI KỆ CỦA HÒA THƯỢNG CHÈO THUYỀN
Ngàn thước dây câu vừa thả xuống,
Muôn ngàn dợn sóng gợn li ti.
Đêm thanh nước lạnh không tăm cá,
Chở một thuyền trăng chẳng có chi !
LẠI DIỄN :
Ngàn thước nhợ câu thả xuống sông,
Một dợn muôn ngàn sóng lăn tăn,
Đêm yên nước lạnh im hơi cá,
Chở một thuyền về chỉ ánh trăng !
Đỗ
Chiêu Đức.
Mailoc
phỏng dịch:
Chở Trăng Về
Tơ nghìn thước dây câu sông
thả,
Một sóng đầu lan toả
vạn sau.
Đêm yên nước
lạnh cá đâu!
Thuyền không
đầy ấp trăng thâu người về.
Mailoc phỏng dịch
Bản dịch Phạm Khắc Trí:
Tải Nguyệt Minh Quy
PKT 07/07/2014
Ngàn
thước dây câu buông thẳng xuống ,
Sóng lan thành vạn sóng lăn tăn ̣
Đêm thanh , nước lạnh , không tăm cá
,
Thuyền trống , đường
về , đầy ánh trăng ̣
PKT
Mai
Xuân Thanh:
Theo Bản Dịch & Diễn Nôm Ý Bài Kệ
- ĐCĐ :
1) : Sắc Sắc Không Không
Chỉ
tơ nghìn thướt thả buông sông
Sóng tỏa một lan nối vạn vòng
Nước lạnh đêm thanh đâu thấy cá
Thuyền đầy, chở ngập ánh trăng không...
Mai Xuân
Thanh
Ngày 13 tháng 08 năm 2017
2) : Bài
kệ : Chỉ chở Trăng không, thấy ngập thuyền
Nghìn thước
dây, sông thả xuống ngang
Sóng
xao cứ một tỏa lan ngàn
Đêm
thâu lạnh lẽo nào đâu cá
Thuyền
vớt trăng không, ngập ánh vàng
Mai Xuân Thanh
Ngày
13 tháng 08 năm 2017
Phương Hà:
Chở ánh trăng về
Sợi tơ
ngàn thước thẳng buông sông
Sóng
một vòng lan tỏa vạn vòng
Nước
lạnh trời đêm không gợn cá
Thuyền
về chở ngập ánh trăng trong.
Phương Hà phỏng dịch
_______________________________________
Bốn bài NGŨ NGÔN TỨ TUYỆT
1. TƯ QUY của VƯƠNG BỘT.
VƯƠNG BỘT ( 650-676 ), tự là Tử An. Người
đất Giáng Châu Long Môn ( thụộc Hà Tân Sơn Tây hiện
nay ). Ông nội là Vương Thông, hiệu là Văn Trung Tử, học
giả nổi tiếng cuối đời nhà Tùy. Cha là Vương Phước
Chỉ, giữ chức Thái Thường Bác Sĩ, Ung Châu Tư Công đời
Đường.
VƯƠNG BỘT cùng với Dương
Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương văn tài thi tài ngang
nhau, người đời xưng là " Sơ Đường Tứ Kiệt ".
Bột đứng đầu Tứ Kiệt, nổi tiếng bất hủ với bài
" Đằng Vương Các Tự ", để lại một giai thoại văn
chương về câu nói " Thời lai phong tống Đằng Vương Các
", và còn để lại rất nhiều ảnh hưởng cho văn học
đời sau bằng các thành ngữ còn thông dụng đến hiện
nay.
Sau đây là một bài Ngũ Ngôn Tứ
Tuyệt nổi tiếng của ông.
思歸
TƯ QUY
長江悲已滯, Trường Giang
bi dĩ trệ,
萬里念將歸。 Vạn lí niệm
tương quy.
況屬高風晚, Huống
thuộc cao phong vãn,
山山紅葉飛。 Sơn
sơn hồng diệp phi.
王勃
Vương Bột
CHÚ THÍCH :
Câu 3 & 4 của bài nầy
còn có dị bản là :
Huống
PHỤC cao SƠN VIỄN, 況復高山遠,
Sơn sơn HOÀNG diệp phi. 山山黃葉飛。
HUỐNG THUỘC hay HUỐNG PHỤC gì đều có nghĩa là
: Hơn nữa, Vả lại...
CAO PHONG VÃN : là Gió thu trên
cao thổi vi vút vào buổi chiều tối, còn ...
CAO SƠN
VIỄN : là Núi cao chập chùng xa xăm diệu dợi.
BI
DĨ TRỆ : là Nỗi sầu cô đọng lại như nước Trường
Giang lửng lờ ( như không trôi chảy ).
NIỆM TƯƠNG
QUY : là Chỉ mới có Ý niệm sẽ quay trở về mà thôi. (
Ý nói: Muốn về mà không về được!)
HỒNG
DIỆP hay HOÀNG DIỆP gì cũng đều là lá mùa thu, và cũng
đều nên thơ cả ! Có điều, người Việt ta thì hay dùng
" Lá Vàng " để chỉ mùa thu, còn người Hoa thì hay
dùng " Lá Đỏ ", vì họ có nhiều rừng phong đỏ
thắm lúc thu về, còn ta thì lại có :
"
Lá VÀNG trước gió sẻ đưa vèo ! "...
hoặc thi
vị hơn như Tản Đà :
" Trận gió thu phong cuốn lá VÀNG,
Lá bay hàng xóm lá bay sang....
để
rồi...
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng ! "
DIỄN NÔM :
MUỐN
VỀ
Trường Giang sầu nước
lửng,
Muôn dặm muốn về ngang.
Núi cao ngăn quê cũ ,
Non non rụng lá vàng !
Lục bát :
Trường Giang nước đọng lòng sầu,
Xa nhà muôn dặm mấy thâu muốn về.
Núi cao ngăn cách làng quê,
Muôn chiều lá đổ ủ ê lòng sầu !
Đỗ Chiêu Đức
2. TUYỆT CÚ của ĐỖ PHỦ :
Bài thơ nầy được
làm vào cuối xuân năm Quảng Đức thứ 2 đời Đường
Đại Tôn ( 764 ), lúc bấy giờ, Thi Thánh Đỗ Phủ đang ở
Thành Đô ( Tứ Xuyên ), mặc dù tha hương nhưng cuộc sống
đã tạm ổn định, nhớ quê nhưng tâm lý đã khá
thoải mái.
絕句 TUYỆT
CÚ
江碧鳥逾白, Giang
bích thủy du bạch,
山青花欲燃。
Sơn thanh hoa dục nhiên.
今春看又過,
Kim xuân khan hựu quá,
何日是歸年.
Hà nhật thị qui niên ?!
杜甫
Đỗ Phủ
CHÚ
THÍCH :
Bài thơ
nầy được Thi Thánh Đỗ Phủ làm vào mùa xuân năm
Quảng Đức thứ hai đời Đường Đại Tôn. Lúc nầy
ông đang tạm cư ở Thành Đô, cuộc sống tạm ổn định,
mặc dù xa quê nhưng trong lòng cũng tạm thoải mái bớt day dứt,
nên lời thơ cũng nhẹ nhàng gợi cảm hơn.
BÍCH
碧 : là BIẾC. Ta thường hiểu là XANH thì mới BIẾC. Thật
sự BÍCH là chỉ cái sắc ÓNG ÁNH, như Cẩm Thạch
" Lên Nước " thì gọi là BÍCH, bất cứ nó ửng
lên màu gì đều là " BÍCH " cả !.
DU 逾 :là Càng hơn, là Vượt quá.
DỤC 欲 :là Muốn, là Giống Như.
NHIÊN 燃
:là Cháy, Ở đây có nghĩa là Rực Rỡ.
QUÁ 過 :là Qua, là Đi Qua.
HÀ 何 :Nghi
Vấn Từ, có nghĩa là GÌ, NÀO, SAO... Như : HÀ SỰ là Việc
gì ?, HÀ NHÂN là Người Nào?, HÀ CỐ là Cớ Sao ?. Trong
câu thơ HÀ NHẬT là Ngày Nào ?
DỊCH NGHĨA :
Nước của dòng sông càng xanh biếc thì những cánh chim bay lượn
trên sông càng trắng hơn thêm, núi càng xanh hơn thì muôn
hoa càng như rực rở hơn lên như muốn bốc cháy. Trước
mắt ta mùa xuân lại sắp đi qua nữa rồi, không biết là đến
năm nào mới có được ngày quay trở lại quê hương
đây ?!.
DIỄN NÔM :
TUYỆT CÚ
Nước biếc
chim càng trắng,
Núi xanh hoa
rực hương.
Nay nhìn
xuân lại hết,
Biết
thuở nào hồi hương ?!
Thất
ngôn :
Trắng xóa cánh chim
làn nước biếc,
Hoa như
rực lửa núi càng xanh.
Mắt trông xuân lại qua lần nữa,
Quê cũ năm nào lại gặp anh ?!
Đỗ
Chiêu Đức
3. KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN
của SẦM THAM .
SẦM THAM 岑參 ( 715-770 ), người gốc Nam Dương ( thuộc Tân Dã,
tỉnh Hà Nam hiện nay ), sau thuyên cư về Giang Lăng ( Tỉnh Hồ Bắc
hiện nay ), đậu Tiến Sĩ năm Thiên Bảo thứ ba năm 30 tuổi. Ông
là thi nhân nổi tiếng đời Đường, chuyên về thơ biên
tái 7 chữ, giọng thơ hào hùng, sức tưởng tượng phong phú,
đầy màu sắc lãng mạn. Ông mất lúc 56 tuổi.
見渭水思秦川 KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN
XUYÊN
渭水東流去, Vị
Thủy đông lưu khứ,
何時到雍州。
Hà thời đáo Ung Châu ?
憑添兩行淚,
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
寄向故園流。
Kí hướng cố viên lưu !
岑參 Sầm
Tham
CHÚ THÍCH :
VỊ THỦY 渭水:Còn
gọi là Vị Hà, từ Cam Túc chảy qua Thiểm Tây đổ vào
sông Hoàng Hà ra biển.
TẦN XUYÊN 秦川:Địa
danh xưa, tức tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Trong thơ chỉ đất Quan Trung,
là một dãi đất ở trung bộ tỉnh Thiểm Tây.
UNG CHÂU 雍州:Một trong chín Châu ngày xưa, bao gồm một
phần của tỉnh Cam Túc và một dãi của tình Thiểm Tây
ngày nay.
CỐ VIÊN 故园:Vườn Cũ,
chỉ Cố Hương, nơi được sanh ra và lớn lên.
DỊCH NGHĨA :
THẤY DÒNG SÔNG VỊ MÀ NHỚ TẦN XUYÊN
Dòng
sông Vị chảy về đông, không biết bao giờ mới đến được
xứ Ung Châu quê ta.( Nay ta thương nhớ quê hương mà không về
được, nên...) chỉ còn có nước nhỏ thêm hai hàng lệ
nhớ quê xuống sông, nhờ nước sông mang hai hàng lệ nhớ thương
nầy về với cố hương quê ta mà thôi !
DIỄN NÔM :
TRÔNG SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN
Xuôi
đông sông Vị chảy,
Ung châu ngang quê nhà.
Ta thêm hai hàng lệ,
Về tận cố hương xa !
Gián
Cách :
Sông Vị chảy về đông,
Uông Châu bao giờ đến ?
Ta thêm lệ đôi dòng,
Gởi cố hương yêu mến !
Lục Bát :
Về đông sông Vị chảy mau,
Bao giờ mới đến Ung Châu quê nhà ?
Nhỏ
hai hàng lệ thiết tha,
Gởi
về tận chốn quê xa mịt mùng !
Đỗ Chiêu Đức
4. TĨNH DẠ TƯ của LÝ BẠCH :
Bài thơ TĨNH
DẠ TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH với lời lẽ mộc mạc, giản
dị, nhưng lại rất thực tế, nhân bản, dễ đi sâu vào
lòng những người tha hương cô thân chiếc bóng, lòng nhớ
quê luôn canh cánh khôn nguôi !
靜夜思
TĨNH DẠ TƯ
床前明月光,
Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。
Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月,
Cử đầu vọng minh nguyệt,
低頭思故鄉。
Đê đầu tư cố hương !
李白
LÝ BẠCH
CHÚ THÍCH :
Chữ 靜 được phát bằng
2 âm TỊNH và TĨNH, nhưng nghĩa thì lại như nhau. TĨNH DẠ 靜夜
: là Trong đêm thanh vắng. Đêm vắng lặng.
NGHI 疑
: là Nghi Ngờ. Ở đây có nghĩa là NGỠ là , Tưởng là.
CỬ ĐẦU : là ngước đầu, là ngẩn đầu
lên.
ĐÊ ĐẦU : là Cúi đầu xuống.
NGHĨA
BÀI THƠ :
NỖI NHỚ NHUNG TRONG ĐÊM VẮNG VẺ
Trước
giừơng ta nằm, ánh trăng sáng vằng vặc đang chiếu rọi, ánh
trăng huyền ảo mơ màng như có một làn sương mỏng phủ
trùm cả đất trời. Trong đêm vắng lặng nầy, ta không sao chợp
mắt được. Ngước đầu nhìn lên vầng trăng sáng như
thuở nào, nên khi cúi đầu nhìn xuống lại tưởng nhớ
đến quê hương !
Tình cảm mộc mạc mà chân thật biết bao, nên chi bài thơ
với những từ rất giản dị lại cũng rất dễ đi vào lòng
người suốt trên ngàn năm nay !
DIỄN NÔM :
NHỚ
QUÊ ĐÊM VẮNG
Trước
giừơng nhìn trăng sáng,
Mông lung ngỡ sương đêm.
Ngữa trông vầng trăng bạc,
Nhớ quê dạ buồn thêm !
Lục bát :
Trước giừơng nhìn ánh trăng trong,
Mông lung cứ ngỡ sương lồng bóng mây.
Ngữa trông trăng sáng đêm nay,
Cúi đầu lòng những ai hoài nhớ quê !
Đỗ Chiêu Đức
____________________________________________________________________________________________________________________
THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM
Nhân Hội Cao Niên của Trung Tâm VIỆT MỸ
Houston TX tổ chức wedding Anniversary cho các cặp đôi Cao
Niên. Đỗ Chiêu Đức có làm một bài thơ tặng cho
" Bà Xã " để kỉ niệm 43 năm ngày cưới.
Thương hoài mãi ngàn năm,
Trót
nên duyên sắt cầm.
Vấn vít tình sinh nghĩa,
Vợ
chồng : Nghĩa trăm năm !
Một nửa đây rồi một nửa ơi !
Bốn
mươi năm lẻ mấy xa vời ?
Đồng
cam cộng khổ bao năm tháng,
Thoáng chốc tuổi
già đã đến nơi !!!
Nhớ hồi son giá mắt em cười,
Xao xuyến lòng anh biết mấy mươi.
Đôi lứa chung lưng tìm hạnh phúc,
Con thơ từng đứa điểm tô đời !
Rồi những tháng ngày khói
lửa,
Lên đường nhập ngũ phận trai,
Nuôi dạy con thơ, cha mẹ,
Thân cò lặn lội đêm ngày !
Thương
em vất vả lòng luôn nhớ,
Tiếng mẹ hát ru vẳng đáy lòng...
Ầu ơ...Con cò lặn lội bờ sông,
Tuổi
xuân mòn mõi má hồng phôi pha !...
Em
là hiền phụ,
Quán xuyến trong
ngoài.
Thờ cha kính mẹ,
Chẳng chút đơn sai !
Tào khang là tấm mẵn,
Cùng chịu cảnh cơ hàn.
Mong một ngày lại sáng,
Hết cơ cực lầm than !
................................
Qua rồi những tháng ngày cay nghiệt,
Sống chết cận kề thật mỏng manh.
Hết cơn vận bỉ thời lại thái,
Đoàn viên dệt lại mộng ngày xanh !
Quê người xây dựng lại,
Cuộc sống lứa
đôi mình.
Bốn mươi năm kỉ niệm,
Hạnh phúc lại hồi sinh !
Nay thì...
Trưởng thành con cái nên danh,
Yên bề gia thất cho đành lòng nhau.
" Trải qua một cuộc bể dâu ",
Giờ là hạnh phúc còn cầu gì hơn ?!
An bày
hiện hữu vuông tròn,
An cư lạc nghiệp không còn bôn ba.
Đoàn viên sum họp một nhà,
Hấp Hôn VIỆT MỸ ông bà đều vui.
Tào khang nghĩa nặng ai ơi
!
Răng long đầu bạc chẳng rời xa
nhau.
Nội ngoại con cháu lao xao,
Vui nầy còn có vui nào vui hơn ?!
Bền lòng một dạ sắt son,
Thong dong đi hết đường trần chông gai.
Phu thê đã biết bao ngày,
Ngàn năm gắn bó, THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM !!!
Đỗ Chiêu Đức
Xin chúc mừng
43 năm ngày cưới của anh chị Đỗ Chiêu Đức- Lương
Tố Quyên
bằng hai câu thơ tiếp vần với hai câu trong bài Thương Hoài
Ngàn Năm:
" Một nửa đây rồi một
nửa ơi!
Bốn mươi
năm lẻ mấy xa vời? " ( ĐCĐ )
Thêm ngàn năm tới luôn kề
cận
Gắn bó yêu thương
mãi chẳng rời. (PH )
Dù cho vật đổi sao dời,
Đôi ta kiếp kiếp đời đời bên nhau (QĐ)
Bốn ba năm trãi
ngọt ngào
Hôn nhân, đằm thắm
biết bao ân tình (MXT)
Dẫu đã biết ba sinh hương lửa
nhưng nào ai chọn lựa cơ trời
Bốn ba năm nặng nợ rồi
thì xin giữ lấy trọn đời bên nhau (TBT)
Hương ba sinh biết bao thử thách,
Nghĩa tào khang son sắt sáng ngời.
Em là một nửa của tôi,
Bốn mươi năm lẻ tuyệt vời tình
ta. (ML)
Mái ấm gia
đình chung cảnh ngộ
Vượt qua bao gian khổ mới an
Thương chồng chia xẻ với chàng
Bách niên giai lão tào khang mặn nồng (MXT)
Đời đẹp
mảng sương pha màu tóc
Lòng
thủy chung hái lộc ân tình
Thời
gian ấp bóng ôm hình
Nàng ơi
thương gọi là mình với ta. (Mai Thắng)
Duyên nợ ba sinh tròn đạo
nghĩa
Bốn ba năm hương lửa bền
lâu
Xin gìn giữ lấy bên nhau
Răng long tóc bạc nghìn sau vững vàng.(Song
Quang)
Sách Tăng Quảng ngày xưa có dạy,
Vợ chồng là kim cải nhân duyên :
" Bách thế tu lai đồng thuyền độ,
Thiên thế tu lai cộng chẩm miên." ( Đỗ
Chiêu Đức )
GHI CHÚ :
百 世 修 來 同 船 渡, Bách thế tu lai đồng thuyền
độ,
千
世 修 來 共 枕 眠. Thiên thế tu lai cộng chẩm
miên.
Chú Thích :
THẾ : là Đời, Kiếp. BÁCH THẾ : là Trăm đời, Trăm
kiếp. THIÊN THẾ : là Ngàn đời, ngàn kiếp. VẠN THẾ : là
Muôn đời, Muôn kiếp. Khổng Tử được xưng tụng là
" VẠN THẾ SƯ BIỂU " : là Người Thầy tiêu biểu của
Muôn đời.
ĐỘ : có 3 chấm thủy,
nên có nghĩa là : Đi ngang qua Sông Hồ Ao Biển. Đồng Thuyền
Độ : là Cùng đi chung một thuyền.
CHẨM : là Cái Gối để nằm. Cộng Chẩm Miên : là Cùng
nằm chung Gối để ngủ.
NGHĨA
2 CÂU trên :
Cùng tu với nhau một trăm kiếp, mới có cái duyên được
đi chung thuyền với nhau. ( đồng hội đồng thuyền ). Cùng tu với
nhau một ngàn kiếp mới ngủ chung gối với nhau được !
Dù nói cách nào, cũng cho thấy là phải khó khăn vất
vả lắm mới thành vợ thành chồng với nhau được, và
quan hệ vợ chồng là cái gì đó thiêng liêng cao cả lắm,
được gởi gắm vào 2 chữ Nhân Duyên do nơi tiền định,
thiên định, chớ không phải sức người mà làm nên được.
Nên ta phải biết trân trọng tình nghĩa vợ chồng , không thể
động một chút là ly thân, ly dị.... mà phải biết gắn bó
nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình. Quan hệ vợ chồng là
một trong ba cái giềng mối của xã hội phong kiến ngày xưa :
Quân Thần, Phụ Tử, Phu Phụ. Nên không thể xem thường được,
cho dù trong xã hội ngày nay, đơn vị Gia Đình vẫn là nền
tảng chủ yếu của bất cứ xã hội hay quốc gia nào, mà
trong Gia Đình thì không thể vắng bóng cặp đôi nồng cốt
là Vợ Chồng cho được.
CHÚC MỪNG! CHÚC
MỪNG
Đức Khổng Tử Nói Về Mình
.
Mùng 5 tháng 8 Âm lịch là ngày sanh của Đức Khổng
Phu Tử. Năm nay nhằm ngày Thứ Năm 17 tháng 9 Dương lịch. Cuộc
đời của ông Thánh nầy cũng lắm gian truân chìm nổi cũng
như cuộc đời của bao người khác, Ông mất lúc 73 tuổi,
là tuổi thượng thọ lúc bấy giờ, và để lại một
câu nói bất hủ thu tóm toàn bộ cuộc đời của ông
như sau...
《論語
· 為政第二》講要.
◎子曰:吾,十有五,而志于學,三十而立,四十而不惑,五十而知天命,六十而耳順,七十而從心所欲,不踰矩。
[Luận Ngữ. Vi Chính đệ
nhị] Giảng Yếu.
Tử viết:
Ngô, thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi
bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất
thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.
Chú thích:
* Tử Viết: là Khổng
Tử Nói rằng.
* Ngô: là Đại Danh từ
Ngôi thứ Nhất: Tôi, Ta, Tao...
*Nhi: là Thì,
Là (Verbe Auxilière).
*Vu: là Về.. cái gì
đó. Ở... việc gì đó.
*Lập: là
Lập Thân, là Đứng vững được trong cuộc sống, là Thành
Tài rồi. Có sự nghiệp, có công ăn việc làm rồi.
*Bất Hoặc: là Không còn Nghi Hoặc, Ngờ Vực
gì nữa. Chỉ Kiến thức đã chín chắn, ổn định.
*Tri Thiên Mệnh: là biết được cái Mệnh
Trời, An phận theo cái mình đã có, theo khả năng của mình
, mà không đòi hỏi, so bì, bon chen nữa!.
*Nhĩ Thuận: là Lỗ Tai Xuôi, có nghĩa là đã biết phân
biệt một cách rõ ràng, nghe điều gì đó là biết
ngay điều đó tốt hay xấu, thiện hay ác, đúng hay sai....
*Tòng Tâm Sở Dục: Tòng tâm là Theo Lòng
Mình. Sở dục là Cái mà Mình Muốn. Tòng Tâm Sở
Dục là Làm những cái mà lòng mình muốn làm, có
nghĩa Muốn gì thì cứ làm nấy!
*Bất
Du Củ: Du 踰 có bộ Túc là Cái Chân ở bên Trái, nên
Du có nghĩa là Trèo qua. Trong Truyện Kiều giảng tích "Tường
đông ong bướm đi về mặc ai "bằng câu" Du đông lân
nhi lâu kì xứ nữ", tức là "Trèo qua bức tường phía
đông để ôm lấy cô gái bên đó.". Nhưng...
... trong câu nói trên Du có nghĩa là Vượt
qua. Còn...
*Củ 矩: là Cái Khuôn dùng
để kẻ Hình Vuông, là Cái Ê-Ke. Nghĩa bóng là Cái
Khuôn Phép. Nên...
Bất du củ là: Không
vượt qua cái khuôn phép đúng đắn bình thường trong
cuộc sống. Sẵn nhắc lại chữ...
*Quy 規:
là Dụng cụ dùng để kẻ đường tròn, là Cái Com-pa
đó. Nên...
Không có Quy thì Kẻ không
Tròn, không có Củ thì Vẽ không Vuông. Nên Quy củ là
cái khuôn phép mà ta phải tuân theo. Nội quy là những điều
khoản Quy định của một Tổ chức, Cơ quan... nào đó mà
tất cả thành viên trong đó phải tuân hành. Nên câu nói
của Đức Khổng Tử...
Có thể hiểu nghĩa một cách đơn giản như thế nầy:
Khổng Tử nói rằng:
Ta, lúc 15 tuổi, thì chí ở học hành, 30 tuổi thì đã
lập thân được, 40 tuổi thì không còn nghi hoặc điều
gì nữa, 50 tuổi thì biết đến mạng trời, 60 tuổi thì nghe
đã biết điều phải trái, 70 thì có thể làm theo những
gì mà trong lòng mình muốn, vì nó không có đi quá
lố ngoài khuôn phép nữa .
Đây là câu nói của Đức Khổng Tử nói về bản
thân Ngài, nhưng thường được người đời đem ví
với bản thân mình, thậm chí đem... áp dụng chung cho tất cả
mọi người, cho nên ta thường nghe nói...
... Ba chục tuổi là tuổi Lập Thân, Năm chục tuổi là
tuổi Tri Thiên Mệnh... thậm chí nói Tam Thập Nhi Lập là... Đàn
Ông con trai tới tuổi ba mươi là phải lấy vợ, phải lập gia
đình, thì mới lập thân được, nhưng vì điều nầy
cũng hợp lí và thực tế , cho nên mọi người đều noi
theo. Tôi còn nhớ một câu Nho mà Ba tôi thường nói khi... ép
tôi cưới vợ là:
Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương. 男大不婚如烈馬無韁
Có nghĩa:
Con trai lớn mà không kết hôn
thì giống như con ngựa chứng (Liệt mã là con ngựa xấu, ngựa
chứng!) mà không có dây cương vậy (sẽ phóng càn, phóng
ẩu, phóng... túng, vì không có ai kềm chế, cưới cho con vợ
để có người "cằn nhằn" và xì-tóp bớt lại,
thì mới Trụ và mới làm nên sự nghiệp được!). Nên
ông bà ta cứ nghĩ...
Tam thập nhi lập là 30 tuổi thì phải Lập Gia Đình, không lập
gia đình thì... Nó sẽ nổi máu "giang hồ" rồi không
làm nên cơm cháo gì cả!. Còn
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh, là đến tuổi
50 nên an phận mà không còn muốn bon chen nữa, vì số trời đã
định như thế rồi ! Sự thật thì ở Mỹ hiện nay, tuổi
50 là tuổi đã chín chắn về mọi mặt, kiến thức đã
phong phú, kinh nghiệm sống dồi dào, nghề nghiệp đã vững chắc
ổn định, tiềm năng về kinh tế cũng đã có cơ sở,
credit đầy đủ... chính là cái tuổi phát triển sự nghiệp
tốt nhất của con người.... chớ không phải Tri Thiên Mệnh mà
buông xuôi tất cả!!!. Khổng Tử chỉ muốn nói về mình, khi
đến 50 tuổi thì biết được mệnh trời, tức là biết
được cái hoàn cảnh xã hội chung quanh mình đang sống, biết
được cái khả năng và cái tài năng của mình như
thế nào, để không đòi hỏi đua đòi những điều
quá đáng mà phải biết an phận với cái mà mình đang
có trước mắt hợp với sở năng của mình, chớ không phải
mê tín buông xuôi cho số phận!. Về...
Tứ thập nhi bất hoặc: 40 tuổi
thì không còn Nghi hoặc gì nữa, Ý nói, tuổi 40 thì sự
hiểu biết đã Chính chắn, gặp chuyện gì đó đã
biết và dám đưa ra quyết định theo nhận thức của mình,
chớ không còn Nghi hoặc chần chừ không biết phải quyết định
như thế nào của tuổi 30 nữa! Bất hoặc là thế!
Lục thập nhi
nhĩ thuận là: 60 tuổi thì tai đã xuôi, đã thông. Có
nghĩa: Khi nghe điều gì đó thì đã biết ngay là điều
đó đúng hay sai, phải hay không phải, nên hay không nên nghe theo,
cũng có nghĩa là sự nhận xét phán đoán đã nhuần
nhuyễn. Trái với Nhĩ thuận là Nhĩ nghịch là Trái Tai Gai Mắt!
Thất thập
nhi tòng tâm sở dục, Bất du củ là: 70 tuổi thì có thể
làm theo những điều gì mà mình đã nghĩ đã muốn
làm, vì những điều đó không có vượt quá qua khuôn
phép đâu! Ý muốn nói, trong phép tu thân thì đến tuổi
70 đã hoàn hảo lắm rồi, có thể làm theo những gì mình
muốn mà không sợ quá đáng! Đây là câu nói hướng
thiện, luôn luôn theo hướng phấn đấu tốt mà vươn lên,
chớ không phải câu nói Tự hào là mình đã Hoàn
thiện không còn sai sót nữa! Và cũng không có nghĩa là
hễ đến 70 tuổi là làm việc gì cũng đúng cả như
người đời thường lầm tưởng!
Vì là câu nói của ông Thánh,
cho nên người đời hay lấy đó làm chuẩn mực để
phân định tuổi tác của mọi người, mặc dù cái chuẩn
mực đó đã bị lệch nghĩa so với Ý chính của câu
nói ở lúc ban đầu, như...
Tuổi 30 thì gọi là " Tuổi Nhi lập ", và hiểu là đã
đến tuổi phải Lập Gia Đình, phải Thành Gia Lập Thất, phải
Cưới Vợ, phải Ổn Định Sự Nghiệp...
Tuổi 40 thì gọi là " Tuổi
Bất hoặc ", và gọi thì gọi thế, nhưng rất nhiều người
không hiểu Bất Hoặc là gì, chỉ nghe người ta gọi thì gọi
theo mà thôi! Hoặc chỉ hiểu nghĩa lờ mờ, Bất Hoặc là không
còn nghi hoặc gì nữa, mà không biết tại sao lại không còn
nghi hoặc, và tại sao lại gọi thế ?!.
Thông dụng nhất là tuổi 50, được
gọi là " Tuổi Tri thiên mệnh ", và thường hay có tâm
lí an phận và buông xuôi mà không muốn phấn đấu để
vươn lên nữa! Và cũng thường dùng để tự an ủi khi
thất bại hoặc trắc trở về mặt sự nghiệp trong độ tuổi
nầy!.
Sáu mươi
tuổi thì gọi là " Tuổi Nhĩ Thuận ", Nhĩ thuận là
xuôi tai, nhưng lại nghe rất lạ tai, mà không hiểu tại sao gọi
thế, cũng như...
Tuổi 70, thì gọi là " Tuổi Tòng tâm sở dục, Bất du
củ! " Rất nhiều người không hiểu câu nói nầy có nghĩa
gì cả! Khác với dân gian hay gọi 70 tuổi là tuổi Cổ lai hy,
theo Ý của 2 câu thơ trong bài Khúc Giang của Thi Thánh Đỗ Phủ
đời Đường là:
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu, 酒債尋常行處有,
Nhân sanh thất thập Cổ lai hy. 人生七十古來稀.
.... nghe thi vị và hay hơn nhiều!
Nhưng...
Vì là câu nói của ông
Thánh Khổng nên mọi người đều muốn nhái theo xem có được
như... Thánh hay không? Âu cũng là việc tốt mà thôi!
Theo tài liệu thống
kê dân số đời Đường, thì tuổi thọ của con người
ta lúc bấy giờ chỉ trên dưới 45 tuổi mà thôi, nên mới
bảo là "Thất thập Cổ Lai Hy", chớ bây giờ, nhất là
ở nước Mỹ nầy thì 70 tuổi hễ ra đường là thấy
liền ngay mấy cụ...
Càng ngày tuổi thọ con người càng cao, nên ngày Lễ Ông
bà càng cần thiết và càng có Ý nghĩa hơn lên!
Đỗ Chiêu Đức
TỪ đời Minh :
LÂM GIANG TIÊN
DƯƠNG THẬN
DƯƠNG THẬN 楊慎 ( 1488-1559 Tương đương
thời kỳ Văn Hoá Phục Hưng của Phương Tây ). Ông là Văn
Học gia đời Minh, tự là Dụng Tu 用修, hiệu là Thăng Am 升庵.
Người đất Thành Đô. Đậu Tiến Sĩ hạng nhất năm
Chánh Đức thứ 6 đời Minh Võ Tông. Ông là người đất
Thục ( tỉnh Tứ Xuyên ) duy nhất đậu Trạng Nguyên dưới triều
nhà Minh. Dương Thận tính tình cương trực, gặp việc thì
nói thẳng, nên vào đời Minh Thế Tông năm Gia Tĩnh thứ 3 bị
biếm đến Vân Nam và mất ở nơi nầy sau hơn ba mươi
năm đi đày. Đến năm Thiên Khải đời Minh Hi Tông ( 1621-1627
) mới được truy phong " Văn Hiến ". Trứ tác của ông còn
để lại trong " Thăng Am Tập ".
Dương Thận là người học rộng biết nhiều, Minh Sử ghi ông
là người trứ tác phong phú. Trong " Nhị Thập Nhất Sử Đàn
Từ " kể lại lịch sử từ đời Tam Đại cho đến
đời Nguyên và cuối đời Minh, văn phong lưu loát, được
truyền tụng rộng rãi trong dân gian.
LÂM
GIANG TIÊN là bài từ của ông viết để mở đầu khai quyển
cho TAM QUỐC DIỄN NGHĨA của La Quán Trung đã làm tăng thêm sức
thu hút của quyển truyện nầy.
LÂM GIANG TIÊN 臨江仙 là " Tiên trên bến sông ", là
TÊN của một THỂ LOẠI " Từ " chuyên tả Thủy
Tiên mà thành tên. Với nhịp đôi gồm 58 hoặc 60 chữ, đều
gieo thành vần Bằng.
Bài " Lâm Giang Tiên " của Dương Thận viết để đề
từ cho quyển Tam Quốc Chí rất nổi tiếng, gồm có 60 chữ
và được gieo vần Bằng như sau :
臨江仙.
LÂM GIANG TIÊN
楊慎
Dương Thận
滾滾長江東逝水, Cổn cổn
Trường Giang đông thệ thủy,
浪花淘盡英雄。 Lãng
hoa đào tận anh hùng.
是非成敗轉頭空。 Thị
phi thành bại chuyển đầu không.
青山依舊在, Thanh
sơn y cựu tại,
幾度夕陽紅。
Kỷ độ tịch dương hồng.
白髮漁樵江渚上, Bạch
phát ngư tiều giang chử thượng,
慣看秋月春風。 Quán
khan thu nguyệt xuân phong.
一壺濁酒喜相逢。 Nhất hồ
trọc tửu hỉ tương phùng.
古今多少事, Cổ
kim đa thiểu sự,
都付笑談中. Đô
phó tiếu đàm trung !
CHÚ THÍCH :
1. ĐÔNG THỆ THỦY : THỆ là Mất, là Chết.
THỆ THẾ 逝世 là Từ trần. Nên Đông Thệ Thủy 東逝水
là Nước chảy mất hút về hướng đông không trở
lại.
2. ĐÀO TẬN : là
Đào thãi hết, đào thãi sạch sẽ không chừa ai cả.
3. CHUYỂN ĐẦU : là Quay đầu
nhìn lại, chỉ thời gian rất nhanh.
4. BẠCH PHÁT : Tóc trắng, chỉ người gìa.
5. NGƯ TIỀU : là Ngư Ông và Tiều Phu, nhưng
ở đây là Động Từ, có nghĩa là : Bắt cá và
đốn củi.
6. CHỬ : là
Bãi nước, là Bến nước , là Cồn ở giữa sông.
7. QUÁN KHAN : đã quen nhìn, đã
thường thấy.
8. THU NGUYỆT
XUÂN PHONG : chỉ Thời gian lần lựa, hết thu nguyệt thì tới xuân
phong và ngược lại.
9. TRỌC
TỬU : không phải là rượu dơ, mà là rượu thường
của giới bình dân uống thường ngày, chưa được tinh chế
chắc lọc.
10. PHÓ : là Phó
mặc, là mặc cho.
NGHĨA BÀI TỪ :
Sông
Trường Giang sóng xô nước cuốn cuồn cuộn chảy về biển đông
rồi không bao giờ còn trở lại nữa; cũng như biết bao anh hùng
hào kiệt đều như hoa sóng kia tan biến biệt tăm và chịu
đào thải theo dòng lịch sử. Bất luận là thị hay phi, là
đúng hay sai, là thành hay bại, trong chớp mắt quay đầu nhìn
lại thì đã không còn gì nữa. Chỉ có núi xanh vẫn
như cũ đứng trơ gan cùng tuế nguyệt và nắng chiều vẫn
biết bao lần hồng lên rồi chợt tắt. Những ông lão đốn
củi và đánh bắt cá trên bến nước, họ đã
quen rồi với thu nguyệt rồi lại xuân phong, thời gian cứ thế trôi đi.
Nên khi gặp nhau thì cứ cùng vui với nhau bên chung rượu lạt.
Biết bao nhiêu là chuyện lớn chuyện nhỏ trên đời nầy
từ xưa đến nay, chẳng qua cũng chỉ là những chuyện nói
cười trong lúc nhậu, là chuyện phiếm chuyện gẫu khi trà
dư tửu hậu của người đời mà thôi !
Thật là cảm khái ! Tam Quốc Chí
chẳng những viết lại lịch sử, mà còn viết lại những cuộc
đời anh hùng, sự chìm nổi hưng suy của anh hùng, cái khí
thế và khí phách của anh hùng, cái thành công và thất
bại của anh hùng, cuối cùng đều phải chịu chung sự đào
thải vô tình của thời gian và lịch sử. Lịch sử đã
sang trang, thời gian đà biền biệt, rốt cuộc họ còn được
gì ? Chẳng qua chỉ là những câu chuyện khề khà với nhau khi
trà dư tửu hậu của hậu thế mà thôi ! Tất cả đều
qui về một chữ KHÔNG to lớn !.
Bài Từ rất thực tế và sát sao với cuộc sống, nên có
những từ Hán Việt cũng rất sát sao với cuộc sống thực tế,
không cần phải diễn Nôm mà ai cũng đã hiểu nghĩa cả
rồi. Như : Thị Phi Thành Bại, Thu Nguyệt Xuân Phong ...
DIỄN NÔM :
LÂM GIANG TIÊN
Trường giang cuồn cuộn
nước về đông,
Sóng
xô đào thải hết anh hùng.
Thị phi thành bại quay đầu : hết
!
Núi
xanh vẫn còn đó,
Bao lượt nắng chiều hồng.
Ngư
tiều đầu bạc trên sông nước,
Đã quen rồi thu nguyệt với
xuân phong,
Một bầu rượu lạt thắm tình nồng,
Xưa nay bao thế sự,
Cười nói
cũng như không !
Lục bát :
Trường Giang cuồn cuộn về đông,
Anh hùng như sóng theo dòng
trôi xuôi.
Thị phi thành bại trên đời,
Quay đầu là hết núi đồi
còn đây.
Núi xanh sừng sửng tháng ngày,
Hoàng hôn mấy lượt thêm dài
hoàng hôn.
Ngư
tiều đầu bạc ven thôn,
Trên
dòng sông nước vùi chôn tháng ngày.
Một bầu rượu
lạt ngà say,
Cổ
kim thế sự nào ai có lòng ?
Nói cười nhấp rượu như không !
Đỗ Chiêu Đức.
MAI XUÂN THANH:
Tiên Trên Bến Sông
Trường Giang sóng dữ cuộn xuôi đông,
Chiến sĩ anh hùng thác mạng vong.
Thành bại thị phi ai có biết,
Non xanh nước biếc nắng chiều hồng.
Tiều phu đốn
củi nay đầu bạc,
Bắt
cá ngư ông tóc trắng bông
Mấy độ xuân phong thu tuế nguyệt,
Bạn già cạn chén rượu ngon nồng.
Hàn
huyên thế sự ngoài tai bỏ,
Say khướt cười khà rốt cuộc không !
Tam
quốc ngày xưa nhiều dũng tướng,
Khổng Minh, Mã Ý thuộc nằm lòng...
Mai Xuân Thanh
Phiếm:
NƯỚC LÀ THỦY
Nước là chất lỏng có ký hiệu là H₂O, từ
Hán Việt là Thủy 水, thuộc dạng chữ Tượng Hình trong CHỮ
NHO ... DỄ HỌC, được hình thành theo diễn tiến của chữ
viết như sau :
Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại
Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy:
Từ Giáp Cốt Văn
cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của một
dòng nước, 4 chấm 2 bên là tượng trưng cho dòng nước đang
chảy. cho nên, có nước là có dòng nước chảy, như
suối, khe, sông, biển ... và nơi nào có suối, khe, sông, biển
là nơi đó có nguồn sống, có dân cư. Cái quần thể
dân cư nầy sinh sống phát triển là nhờ dựa vào nguồn nước.
Cho nên ông bà ta có câu " Uống nước phải nhớ nguồn
", và có phải vì thế mà dân ta gọi một Quốc Gia là
Một Nước ? Không có nước sẽ không có người sinh sống
và cũng sẽ không có quốc gia nào hình thành được cả
!
Nước mất
thì nhà tan, quốc phá thì gia vong ! Không có nước sẽ không
có nhà, mà không có Nhà thì cũng không thành ... Nước
! Cho nên, ta lại có từ Nhà Nước để chỉ Chính Quyền
của một Quốc Gia.
Nước là thủy, thủy
là nước. Bên dòng nước là bên dòng sông, nên thủy
cũng là sông, như Hương Giang còn gọi là dòng Hương
Thủy; tương tự, Tương Giang cũng gọi là Tương Thủy như
trong bài thơ " Tảo hàn giang thượng hữu hoài " của Mạnh
Hạo Nhiên đời Đường :
我家襄水曲, Ngã gia Tương Thủy khúc,
遥隔楚云端. Dao cách Sở vân đoan.
Có nghĩa :
Sông
Tương quê cũ vời trông,
Ngẩn ngơ mây Sở cách ngăn mấy lần.
H₂O
là phân tử nước do 2 nguyên tử Hidro và 1 nguyên tử oxy kết
hợp mà thành, đó là theo công thức Hóa học. Còn theo
Âm Dương Ngũ Hành của Kinh Dịch thì Kim sanh Thủy. Nước là
do ... vàng sinh ra, và theo một câu trong sách Thiên Tự Văn 千字文
là KIM SANH LỆ THỦY 金生麗水. Có nghĩa: Khi vàng bị
nung chảy thì trở thành một chất lỏng lắp lánh đẹp đẽ.
Nhưng căn cứ vào thực tế thì không phải như thế, vì
chất lỏng lóng lánh của vàng sẽ rất nhanh đong cứng lại
thành chất rắn của kim loại. Nên ...
KIM SANH LỆ THỦY ở đây là chỉ dòng
sông Kim Sa Giang ở tỉnh Vân Nam thuộc nước Sở thời Chiến Quốc.
Vì có rất nhiều cát vàng ở trong lòng sông, nên nước
sông lắp lánh rất đẹp, vì thế mà dân chúng
mới gọi Kim Sa Giang là LỆ GIANG 麗江 hay là dòng LỆ THỦY 麗水,
là dòng nước đẹp ! Đẹp vì cái Thần của con sông
là vàng là Kim, nên chi vị Thủ Tướng đầu tiên của
nước Việt Nam ta là cụ Trần Trọng KIM mới lấy hiệu là LỆ
THẦN, là cái THẦN của dòng sông LỆ, chính là KIM đó
vậy !
Nội các của Thủ
Tướng Lệ Thần Trần Trọng Kim
Trong mùa
xuân thì nước gọi là Xuân Thủy. Từ những băng tuyết
trên nguồn tuôn chảy thành những khe suối trong veo vào mùa
xuân, rồi chảy thành những dòng sông len lỏi qua thôn xóm mang
lại nguồn sống cho dân cư, như trong thơ của Đổ Phủ :
一徑野花落, Nhất kính dã hoa lạc,
孤村春水生. Cô thôn xuân thủy sinh.
Có nghĩa :
Bên đường
hoa dại rụng đầy,
Nước
xuân trong vắt đâu đây xóm nghèo.
Nước xuân trong vắt như ánh
mắt của các cô thôn nữ mộc mạc ngây thơ như lời thơ
của Thôi Ngọc trong Đường Thi :
两臉夭桃從镜發,
Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát,
一眸春水照人寒。
Nhất mâu xuân thủy chiếu nhân hàn.
Có nghĩa :
Má đào ửng đỏ trong gương
Một
làn xuân thủy vấn vương lòng người.
Xuân thủy là ánh mắt xuân
của các cô gái ngây thơ trong trắng, khác với thu thủy là ánh
mắt gợn buồn đa sầu đa cảm của các giai nhân tài
hoa bạc mệnh như Thúy Kiều :
Làn
Thu Thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh !
Thu Thủy là nước mùa thu, trong veo, lạnh lùng mà se sắt dễ
làm rung động và cũng dễ làm tê tái lòng người.
Theo
Âm Dương Ngũ Hành, thủy thuộc cung Hợi và Tý, có màu
đen và nằm ở phương bắc. Bắc phương Nhâm Qúy Thủy
mà ! Nên, ở Bắc bán cầu nầy, thường các dòng sông
đều phát nguyên từ vùng Tây Bắc và chảy về hướng
Đông Nam mà đổ ra biển theo như một câu nói xưa :
世間無水不朝東. Thế gian vô thủy bất triều
đông.
Có nghĩa :
Trên đời nầy không có
dòng nước nào mà không chảy về hướng Đông cả
!
Hãy nghe Lý
Bạch mở đầu bài Tương Tiến Tửu bằng câu :
君不見
黃河之水天上來,奔流到海不復回?
Quân bất kiến
Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai bôn lưu đáo hải
bất
phục hồi ?
Có nghĩa :
Bộ bạn không thấy sao, nước
sông Hoàng Hà như từ trên trời đổ xuống, chảy
cuồn cuộn về biển rồi không quay trở lại nữa ?
Nước chảy cuồn
cuộn mất hút vào biển đông, cũng như thời gian cứ vùn
vụt mất hút về qúa khứ, cho nên ông viết tiếp :
人生得意須盡歡, Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
莫使金樽空對月。 Mạc sử kim tôn không đối
nguyệt !
Có nghĩa :
Đời
người đắc ý nên vui thích,
Chớ để chai vàng hết dưới trăng !
Có dịp vui chơi đắc ý thì
hãy vui cho đến cùng, đừng để cho cụt hứng nửa chừng
mà hết rượu dưới ánh trăng còn đang vằng vặc !
Khác với Tản Đà trong " Thề Non Nước " vì không phải
" Nước đi đi mãi không về cùng non ", mà
...
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn,
để cho ...
Nước
non hội ngộ luôn luôn.
và ...
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề !
" Thề Non Nước "
là Hải thệ sơn minh, là " Thề non hẹn biển ". Biển và
Non cũng là thế thân của Non và Nước. Nhưng Non và Nước
sống động hơn, khắng khít hơn với cái vòng tròn hóa
thân của nước, nước chảy ra bể bốc hơi rồi lại mưa
về nguồn với non xanh đang mõi mòn chờ đợi !
Nước là nguồn tươi mát mang lại sức sống cho con người
và vạn vật. Không có nước con người sẽ khô cằn, cỏ
cây sẽ héo úa. Nước đem sinh khí đến cho muôn loài.
Nên trong ca dao dân gian của ta mới ví :
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra !
Nước trong nguồn chảy ra thì không
bao giờ cạn kiệt, cũng như tình mẹ bao la không bờ không bến
vậy. Sự mát mẻ của nước còn được ví như trong
đêm thanh vắng, êm ả dịu dàng như câu thơ của Đỗ
Mục trong bài Thu Tịch :
Thiên giai dạ sắc lương như thủy 天街夜色涼如水
Có nghĩa :
Đường phố trong Kinh thành lúc
về đêm cũng mát mẻ như nước vậy.
Trong đêm thanh vắng, nước
là những giọt sương khuya mờ ảo mát lạnh mà nên thơ,
làm cho lòng người lâng lâng như 2 câu thơ toàn là
thanh bằng trong bài Nhị Hồ của Xuân Diệu :
Sương ngưng theo trăng ngừng lưng trời,
Tương
tư nâng lòng lên chơi vơi !...
Nước
được ví như những tình cảm nhe nhàng, tình yêu nồng
thắm làm mát dịu tâm hồn với thành ngữ NHU TÌNH TỰ THỦY
柔情似水 êm ái mát mẻ như nước hồ thu làm say
đắm lòng người, nhẹ nhàng trôi chảy như những dòng
sông dài êm đềm về tận chốn xa xăm :
Sông
dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên phu phụ ngàn năm em cũng chờ ...
Nhưng lắm khi ...
Lạc
hoa hữu ý mà lưu thủy lại vô tình, làm cho lỡ vỡ mộng
ngày xanh, lỡ làng duyên cá nước ! Như lời than thở của
cô gái xóm đông :
Cây da tróc gốc, thợ mộc đang cưa,
Đôi đứa ta ra đi cũng xứng mà ...
Đứng
lại cũng vừa.
Tại
cha với mẹ còn kén lừa suôi gia !
" Kén lừa suôi gia " nên để
lỡ làng " duyên cá nước !"
Nhắc đến duyên
cá nước lại nhớ đến câu NHƯ NGƯ ĐẮC THỦY
如魚得水 với tích của Lưu Bị trong Thục Thư thời
Tam Quốc :
Lúc
bấy giờ, Lưu Bị đang nương nhờ vào Lưu Biểu ở
Kinh Châu, đóng quân ở Tân Dã để cầm cự với
quân Tào Tháo. Nhờ sự tiến cử của Từ Thứ và lòng
thành của Lưu Bị phải Tam cố thảo lư 三顧草廬
( 3 lần đến cầu cạnh
ở gian nhà cỏ nơi Ngọa
Long Tiên Sinh ở ) mới gặp được mặt Khổng Minh Gia Cát Lượng,
bất chấp sự phản đối quyết liệt của Quan Vũ và
Trương Phi. Lưu Bị nói rằng : " Cô chi hữu Khổng Minh,
do ngư chi hữu thủy dã 孤之有孔明,猶鱼之有水也
". Có nghĩa : " Ta mà có được Khổng Minh, thì
như là cá mà gặp được nước vậy !". Khiến
cho Quan Trương 2 người đành im hơi, không dám phản đối
nữa !
Tam
cố thảo lư
Còn " Cá Nước " bây giờ thường được dùng để
chỉ về duyên đôi lứa, tình yêu trai gái khi gặp được
đối tượng xứng ý vừa lòng :
Đôi
ta như lúa đòng đòng,
Như cá
gặp nước thỏa lòng mẹ cha.
hoặc ...
Tình anh như nước lên cao,
Tình
em như cá lội vào nước anh ...
Nước
là Thủy, đi với Sơn thì thành SƠN THỦY 山水, mà
Sơn Thủy là ... Phong cảnh. Nhớ hồi nhỏ đến rạp hát
xem các họa sĩ vườn vẽ phong cho gánh hát, bà con cứ nói
là : " Đi coi cái thằng cha đó vẽ SƠN THỦY
!". Thực tế thì phong cảnh cũng phải có sơn có thủy có
núi có nước thì mới đẹp, và ít nhất thì
cũng phải có nước, phải có những dòng sông con rạch với
những ngọn dừa lả bóng như đồng bằng sông Cửu Long thì
mới là cảnh đẹp được ! Trong văn chương cổ
điển thì ca ngợi cảnh đẹp bằng Sơn Minh Thủy Tú 山明水秀,
Thanh Sơn Lục Thủy 青山綠水, là non xanh nước biếc như
trong ca dao của ta :
Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai
vô xứ Nghệ thì vô !
Khi Dương
Qúy Phi bị bức tử ở Mã Ngôi Pha rồi, Đường
Minh Hoàng chỉ còn lại một mình chạy vào đất Thục,
mà lòng vẫn không nguôi thương nhớ đến Dương
Phi. Bạch Cư Dị đã viết trong Trường Hận Ca là :
Thục giang thủy bích Thục sơn thanh, 蜀江水碧蜀山青,
Thánh
chúa triêu triêu mộ mộ tình ! 聖主朝朝暮暮情。
Có nghĩa :
Sông
Thục kia nước xanh biêng biếc,
Núi
Thục kia biêng biếc non xanh.
Ngày sầu đêm thức năm canh,
Não
lòng thánh chúa tình thành chiêm bao !
Nước ướt át là thế, tình tứ là thế, dịu
dàng là thế. Thế nhưng, khi gặp phải phong ba bão tố thì nước
lại trở nên cuồng nộ hung hăng, nhấn chìm tất cả xuống
lòng sông, lòng biển, lòng đại dương một cách vô
tình không thương xót.
Người con gái chết đuối đầu tiên thời thượng
cổ là con gái của Viêm Đế : Nữ Oa ( Trung Hoa cổ xưa
gọi các cô gái chưa chồng là Nữ Oa, như ta gọi các
cô gái con của vua Hùng là Mỵ Nương vậy ). Trong một lần đi
chơi ở biển đông, Nữ Oa đã bị chết bởi một
trận ba đào cuồng nộ. Ức lòng vì chết trẻ, hồn
Nữ Oa đã hóa thành con chim Tinh Vệ, hàng ngày tha sỏi đá
cỏ cây để lắp bằng biển đông cho hả giận.
Trong Truyện
Kiều lúc lập đàn tế Thúy Kiều trên sông Tiền Đường,
cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy để tả nổi oan
khiên của cô Kiều :
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn
Tinh Vệ biết theo chốn nào ?
Trong truyện Sãi Vãi, khi bàn về chữ MUỐN, cụ Nguyễn Cư Trinh
cũng cho ông Sãi nói rằng :
Đá Tinh Vệ muốn lắp sao cho cạn biển,
Đất
nghỉ phù muốn đắp để nên non ...
Đá
Tinh Vệ muốn lắp sao cho cạn biển,
Không phải chỉ riêng
chim Tinh Vệ, mà những người Việt Nam vượt biên tìm tự do sau
1975 cũng muốn lắp cho cạn biển Đông, cũng như những người Syria
tị nạn hiện nay muốn lắp cho cạn Địa Trung Hải vậy.
Nước đã nhấn chìm biết bao sinh linh, biết bao là hy vọng, biết
bao niềm mơ ước để đến được bến bờ
tự do, để đến được miền đất hứa, để
xây dựng một cuộc sống mới trong hòa bình thịnh vượng.
Hết ý thức hệ rồi lại đến chiến tranh khủng bố
làm rối loạn, xáo trộn cuộc sống yên bình của cư
dân địa cầu, và ... để cho nước lại có dịp
dìm chết những dân thường vô tội, vì chẳng đặng đừng
mới phải bỏ quê Cha đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn để
ra đi !
Hơn 2000 năm trước, Tuân Tử đã
ghi lại lời nói giữa Khổng Tử và Lổ Ai Công là : Quân
dã, chu dã; thứ nhân dã, thủy dã. Thủy tắc tải chu, thủy
tắc phúc chu. 君者,舟也;庶人者,水也。水则载舟,水则覆舟. Có nghĩa : " Vua là thuyền, dân là nước. Nước
có thể chở thuyền thì nước cũng có thể lật thuyền
". Đó là 2 mặt của nước, khi bình thường trôi
chảy thì nước có thể chở thuyền đi muôn ngàn dặm;
còn lúc ba đào dậy sóng thì nước sẽ nhấn chìm
thuyền trong chớp mắt mà thôi. Nếu biết lợi dụng cái ưu
thế " Nước " của mình, thì tất cả những dân tị
nạn sẽ không phải bỏ đi đâu cả, cứ nhấn chìm
cái " Thuyền " mình đang chở là được ngay !
Nhưng, thực
tế cũng đâu phải dễ, vì muốn cho thuyền chìm thì nước
cần phải có cuồng phong yễm trợ, không có gió to thì nước
làm sao có thể dậy sóng để nhấn chìm thuyền cho được
!
Nước có thể chở
thuyền, cũng có thể lật thuyền.
Nước mang đến cái
lợi mà cũng mang đến tai họa nữa. Cái lợi do nước
mang đến cho con người gọi là THỦY LỢI 水利. Trước tiên,
nước là thức uống không thể thiếu trong đời sống hàng
ngày. Ta có thể ba ngày không ăn chớ không thể 3 ngày
không uống nước. Nước dùng để tưới tiêu, nước
dùng để tắm gội, nước dùng để giặt giũ, nước
dùng để nấu ăn ... Cái LỢI của nước thật to lớn
vô cùng, nhưng người đời thường chỉ biết THỦY
LỢI là dẫn thủy nhập điền, là đưa nước vào
với ruộng đồng cho tiện việc tưới tiêu, tăng gia sản xuất
mà thôi ... Thậm chí sau 1975, hễ nhắc đến từ THỦY
LỢI là thanh niên ở thành thị đều xanh mặt, vì đi
làm công tác Thủy Lợi là đi ... Đào Đất !
Còn tai họa lớn nhất
do nước đem đến là Lũ Lụt, là THỦY HỌA 水禍.
Nước lụt cuốn trôi tất cả nhà cửa, đồ đạc,
xe cộ, trâu bò, gia súc... Ruộng đồng tan hoang, vườn tược
xơ xác, nhà cửa điêu tàn... như đồng bào miền
Trung của ta hằng năm phải gánh chiụ :
Trời
rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm,
Khiến đau thương
thấm tràn ngập Thuận An...
Còn đồng bào Nam Kỳ Lục Tỉnh vùng An Giang Châu Đốc thì
lạc quan hơn. Bà con gọi mùa lũ lụt hằng năm bằng " Mùa
Nước Nổi ". Mùa nước nổi cũng là mùa len trâu ( đọc
truyện của nhà văn Sơn Nam ) bà con xoay qua đánh bắt thủy
sản, mọi người đều hối hả đua nhau đặt dớn, bơi xuồng
giăng câu, thả lưới... ai cũng vui đón mùa nước nổi về
để được thưởng thức các món ngon như : Lẩu cá
linh, canh chua nấu bằng bông điên điển, cá lóc bọc lá
sen nướng hay chuột đồng nướng trui là những món đặc
sản ngon nổi tiếng của Đồng Tháp trong mùa nước nổi.
Đặt
dớn bắt cá Đặt trúm bắt chuột, lươn.
Cơn lụt lớn nhất của nhân loại là cơn Đại Hồng
Thủy trong Thánh Kinh Cơ Đốc, nhưng cơn lụt để
lại nhiều huyền thoại nhất là cơn Đại Hồng Thủy do sông
Hoàng Hà gây nên, khiến Cổn phải bị tội vì suốt
9 năm mà không trị được thủy. Con ông Cổn là Hạ Vũ
phải mất thêm mười ba năm đôn đốc toàn dân
phá núi khai kinh dẫn nước từ cao xuống thấp, lại mở rộng
thêm cửa song cho nước chảy ra biển, mới chấm dứt được
cơn hồng thủy, nên cửa biển mới được gọi là
Vũ Môn, nơi mà theo tương truyền cá chép nào vượt
qua được sẽ hóa thành rồng (nên còn gọi là Long Môn)
Nhưng không phải con cá nào cũng muốn hóa rồng cả. Ta hãy
nghe cô gái Nam Bộ hát trên sông nước như sau :
Khá
khen con cá hóa long,
Hóa long không hóa, hóa lòng thương anh !
...qủa là
tình nghĩa thắm thiết biết bao nhiêu !
Trở
lại chuyện Hạ Vũ trị thủy, trong qúa trình làm cái công
việc của một Công Trình Sư thủy lợi, tương truyền ông đã
sáng chế ra Viên Quy 圓規 ( compasses ), Phương Củ 方矩
là Thước vuông góc ( Rectangular ) ta quen gọi là cái " Ê-Ke
" ( Không có QUY thì vẽ không TRÒN, không có CỦ thì kẻ
không VUÔNG. Nên QUY CỦ 規矩 là cái nguyên tắc phải tuân
theo để làm việc, không có QUY CỦ 規矩 sẽ bị méo
mó mà chẳng làm nên cơm cháo gì cả !) và ông cũng
quy định lại thước tấc để đo đạc và
vẽ đường cho ... nước chảy ! Trong Tây Du Ký, Ngô
Thứa Ân đã huyền thoại hóa cây thước nầy thành
Cây Định Hải Thần Châm của Đông Hải Long Vương để
dằn dưới rốn biển cho biển đừng dao động, bị Tề
Thiên Đại Thánh Tôn Hành Giả lấy làm binh khí và
gọi nó là Như Ý Kim Cô Bổng mà ta quen gọi là cây
Thiết Bản của Tề Thiên, chính là cây thước đo đạc
dùng để trị thủy của Hạ Vũ ngày xưa đó. Vì
trị thủy mang lại cuộc sống ổn định cho dân chúng,
nên mọi người tôn xưng ông là ĐẠI VŨ 大禹
( là ông VŨ vĩ ĐẠI : xin đừng nói lái ) và vua Thuấn
nhường ngôi cho ông để lập nên nhà HẠ. Nhà
Hạ truyền được 471 năm, qua 17 đời vua, đến vua Kiệt 桀
vì si mê Muội Hỉ, hoang dâm vô độ, dân tình khốn khổ,
nên bị Thành Thang tiêu diệt, lập nên nhà Thương.
Vua VŨ vì
giúp dân trị thủy, thoát khỏi thãm họa do lũ lụt gây nên
mà được nhường ngôi vua. Còn vua KIỆT 桀 vì ham mê
nữ sắc mà mất ngôi vua. nên sử sách ví cái họa của
nữ sắc như là cái họa do nước mang đến. Vì thế mà
có thành ngữ HỒNG NHAN HỌA THỦY 紅顏禍水. Và cái
HỌA THỦY của HỒNG NHAN nầy còn được chứng minh dài dài
qua các triều đại kế tiếp, như ...
Nhà Thương truyền được 526 năm,
đến đời vua Trụ, vì si mê Đắc Kỷ giết hại công
thần, mà bị Châu Võ Vương tiêu diệt, lập nên nhà
Châu. Nhà Châu truyền 803 năm, đến đời U Vương lại vì
si mê Bao Tự muốn cho nàng cười mà phải đốt Phong Hỏa Đài
để gạt chư hầu rồi ... bị mất vào tay nước Tần sau đó.
Đến thời Chiến Quốc, Ngô vương Phù Sai cũng bị mất nước
vì mê Tây Thi, Hạng Võ Sở Bá Vương cùng Ly Cơ tự
vẫn trên bến Ô Giang, Đường Minh Hoàng vì Dương
Qúy Phi mà phải chạy loan An Lộc Sơn ẩn mình nơi đất
Thục ... Nên sử sách đều cho là Muôi Hỉ, Đắc
Kỷ, Bao Tự, Tây Thi, Ly Cơ, Dương Qúy Phi ... đều là Hồng
Nhan Họa Thủy, mà không biết rằng tại các hôn quân đó
qúa ... mê gái rồi tự làm cho mình mất nước, mắc cở
và quê qúa nên mới đổ thừa cho HỒNG NHAN là HỌA THỦY
! Nhưng ...
Họa Thủy thì họa thủy, thi sĩ thì vẫn cứ yêu người
đẹp như thường, gần ba ngàn năm sau, Xuân Diệu đã viết
:
Tôi
yêu Bao Tự mặt sầu bi,
Tôi
mê Ly Cơ hình nhịp nhàng,
Tôi
muốn tôi là Đường Minh Hoàng,
Trong
cung nhớ nàng Dương Qúy Phi !
Muội
Hỉ Đắc Kỷ
Bao Tự Tây Thi
Sự thật thì " Đằng sau sự thất bại của người đàn
ông, lúc nào cũng có bóng dáng của một người đàn
bà !". Đây gần như là sự thật hiễn nhiên, không sai
bao giờ !.
Nhưng
dù cho thánh hiền, vua chúa, hiền nhân quân tử hay anh hùng hảo
hán ... gì gì đi nữa, thì cũng phải chịu chung cái quy
luật của thời gian. Thời gian sẽ cuốn trôi và xóa nhòa tất
cả như bài đề từ của Hứa Thận đời Minh cho quyển
Tam Quốc Chí của La Quán Trung như sau :
滾滾長江東逝水, Cổn
cổn Trường Giang đông thệ thủy,
浪花淘盡英雄。 Lãng
hoa đào tận anh hùng.
是非成敗轉頭空。 Thị
phi thành bại chuyển đầu không.
青山依舊在, Thanh
sơn y cựu tại,
幾度夕陽紅。 Kỷ độ
tịch dương hồng.
白髮漁樵江渚上, Bạch
phát ngư tiều giang chử thượng,
慣看秋月春風。 Quán
khan thu nguyệt xuân phong.
一壺濁酒喜相逢。 Nhất hồ
trọc tửu hỉ tương phùng.
古今多少事, Cổ
kim đa thiểu sự,
都付笑談中. Đô phó
tiếu đàm trung !
NGHĨA BÀI TỪ :
Sông Trường Giang sóng xô nước
cuốn cuồn cuộn chảy về biển đông rồi không bao giờ còn
trở lại nữa; cũng như biết bao anh hùng hào kiệt đều
như hoa sóng kia tan biến biệt tăm và chịu đào thải theo
dòng lịch sử. Bất luận là thị hay phi, là đúng hay sai, là
thành hay bại, trong chớp mắt quay đầu nhìn lại thì đã
không còn gì nữa. Chỉ có núi xanh vẫn như cũ đứng
trơ gan cùng tuế nguyệt và nắng chiều vẫn biết bao lần hồng
lên rồi chợt tắt. Những ông lão đốn củi và đánh
bắt cá trên bến nước, họ đã quen rồi với thu nguyệt
rồi lại xuân phong, thời gian cứ thế trôi đi. Nên khi gặp
nhau thì cứ cùng vui với nhau bên chung rượu lạt. Biết bao nhiêu
là chuyện lớn chuyện nhỏ trên đời nầy từ xưa đến
nay, chẳng qua cũng chỉ là những chuyện nói cười trong lúc nhậu,
là chuyện phiếm chuyện gẫu khi trà dư tửu hậu mà thôi
!
Thật là cảm
khái ! Tam Quốc Chí chẳng những viết lại lịch sử, mà còn
viết lại những cuộc đời anh hùng, sự chìm nổi hưng suy của
anh hùng, cái khí thế và khí phách của anh hùng, cái thành
công và thất bại của anh hùng, cuối cùng đều phải
chịu chung sự đào thải vô tình của thời gian và lịch
sử. Lịch sử đã sang trang, thời gian đà biền biệt, rốt
cuộc họ còn được gì ? Chẳng qua chỉ là những câu
chuyện khề khà với nhau khi trà dư tửu hậu của hậu thế
mà thôi ! Tất cả đều qui về một chữ KHÔNG to lớn
!.
DIỄN NÔM :
Trường giang cuồn cuộn
nước về đông,
Sóng
xô đào thải hết anh hùng.
Thị phi thành bại quay đầu : hết
!
Núi
xanh vẫn còn đó,
Bao lượt nắng chiều hồng.
Ngư
tiều đầu bạc trên sông nước,
Đã quen rồi thu nguyệt với
xuân phong,
Một bầu rượu lạt thắm tình nồng,
Xưa nay bao thế sự,
Cười nói
cũng như không !
Lục bát :
Trường Giang cuồn cuộn về đông,
Anh hùng như sóng theo dòng
trôi xuôi.
Thị phi thành bại trên đời,
Quay đầu là hết núi đồi
còn đây.
Núi xanh sừng sửng tháng ngày,
Hoàng hôn mấy lượt thêm dài
hoàng hôn.
Ngư
tiều đầu bạc ven thôn,
Trên
dòng sông nước vùi chôn tháng ngày.
Một bầu rượu
lạt ngà say,
Cổ
kim thế sự nào ai có lòng ?
Nói cười nhấp rượu như không !
Xin
được kết thúc bài Phiếm luận về NƯỚC theo dòng đào
thải của thời gian ở nơi đây !
ÔB Đồ Đỗ Chiêu Đức - Tố
Quyên & ÔB GS Mailoc tại Đại Hội
PTGĐTĐ XXI-Houston Texas May 2017
Đỗ Chiêu Đức.
MAO ỐC VỊ THU PHONG SỞ PHÁ CA
ĐỖ
PHỦ
ĐỖ PHỦ 杜甫 ( 712-770 ) tự là Tử Mỹ 子美, thường tự xưng là
Thiếu Lăng Dã Lão 少陵野老( Ông già ở vùng hoang dã của đất Thiếu Lăng ). Thi Tiến
Sĩ mãi không đậu. Từng đãm nhận chức Kiểm Hiệu Công
Bộ Viên Ngoại Lang, nên người đời thường gọi ông là
Đỗ Công Bộ. Ông là nhà thơ hiện thực vĩ đại
của đời Đường, hợp cùng với Lý Bạch thành
một cặp Lý Đỗ của thời Thịnh Đường. Từ đời
Tống về sau mọi người đều xưng tụng ông là Thi Thánh. Thơ
của ông vạch trần mâu thuẫn của xã hội đương thời,
tỏ nỗi cảm thông sâu sắc với đời sống cơ cực của
dân nghèo trong chiến tranh loan lạc ( loạn An Lộc Sơn ). Ông để
lại nhiều bài thơ tuyệt tác, nhất là luật thi của ông
luôn luôn rất nghiêm cẩn thâm thúy với một kỹ thuật siêu
việt tự nhiên và rất đa dạng. Ông để lại " Đỗ
Công Bộ Tập ", gồm hơn 1400 bài thơ.
Sau đây là một bài thơ
tiêu biểu của ông khi chạy loạn An Lộc Sơn ...
茅屋為秋風所破歌
MAO ỐC VỊ THU PHONG SỞ PHÁ CA
八月秋高風怒號, Bát
nguyệt thu cao phong nộ hào,
卷我屋上三重茅。 Quyển
ngã ốc thượng tam trùng mao.
茅飛度江灑江郊, Mao
phi độ giang sái giang giao.
高者掛罥長林梢, Cao
giả quải quyến trường lâm sao,
下者飄轉沈塘坳。 Hạ
giả phiêu chuyển trầm đường ao.
南村群童欺我老無力, Nam
thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
忍能對面為盜賊。 Nhẫn
năng đối diện vi đạo tặc.
公然抱茅入竹去, Công
nhiên bão mao nhập trúc khứ,
脣焦口燥呼不得, Thần
tiều khẩu táo hô bất đắc.
歸來倚杖自歎息。 Qui
lai ỷ trượng tự thán tức.
俄頃風定雲墨色, Nga
khoảnh phong định vân mặc sắc,
秋天漠漠向昏黑。 Thu
thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
布衾多年冷似鐵, Bố
khâm đa niên lãnh tự thiết.
嬌兒惡臥踏裏裂。 Kiều
nhi ác ngọa đạp lý liệt.
床頭屋漏無乾處, Sàng
đầu ốc lậu vô can xứ,
雨腳如麻未斷絕。 Vũ
cước như ma vị đoạn tuyệt.
自經喪亂少睡眠, Tự
kinh táng loạn thiểu thụy miên
長夜霑溼何由徹! Trường
dạ chiêm thấp hà do triệt.
安得廣廈千萬間, An
đắc quảng hạ thiên vạn gian,
大庇天下寒士俱歡顏, Ðại
tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
風雨不動安如山! Phong
vũ bất động an như san.
嗚呼! Ô
hô !
何時眼前突兀見此屋, Hà
thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
吾廬獨破受凍死亦足! Ngô
lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
杜甫 Đỗ
Phủ
1. CHÚ THÍCH :
* THU CAO 秋高 : Không phải mùa thu ở trên cao, mà là gần cuối
thu. Tháng 7 là SƠ THU 初秋 là Đầu thu. Tháng 8 là TRUNG THU
中秋 là Giữa mùa thu. Tháng 9 là THÂM THU 深秋 là Tàn
thu. Ở đây THU CAO chỉ thời gian cuối Tháng 8 là gần Cuối Thu
rồi.
* NỘ HÀO 怒號
: là Gào Thét. Chỉ gió rít như thét gào.
* TAM TRÙNG MAO 三重茅 : là 3 lớp
cỏ tranh. Chữ TAM ở đây là phiếm chỉ, có nghĩa là NHIỀU,
chứ không nhất thiết phải là 3.
* QUẢI QUYẾN 掛罥 : Bị cuốn dính treo tòn ten.
* LÂM SAO 林梢 : là Ngọn cây. Chữ
LÂM ở đây là Cây, chớ không phải chỉ Rừng.
* ĐƯỜNG AO 塘坳 : là những
ao chuôm nước đọng.
* NHẬP TRÚC KHỨ 入竹去 : là Chạy vào trong khóm tre, rừng
tre.
* THẦN TIÊU KHẨU TÁO 脣焦口燥
: là Môi khô miệng khản. Ta còn nói là Miệng đắng môi
khô.
* NGA KHOẢNH 俄頃
: là Trong khoảnh khắc.
* BỐ KHÂM 布衾 : là Cái mền bang vải thô.
* ÁC NGỌA 惡臥 : là Cái
tật ngủ xấu ( hay đạp lung tung ).
* SÀNG ĐẦU ỐC LẬU 床頭屋漏 : là Đầu giường
mưa dột, ở đây chỉ cả nhà bị mưa dột, vì
VÔ CAN XỨ 無乾處 : là không nơi nào khô cả.
* VŨ CƯỚC NHƯ MA 雨腳如麻
: Những giọt mưa như là những sợi tơ sợi gai, VỊ ĐOẠN
TUYỆT 未斷絕 : là chưa chịu dứt hẵn.
* TÁNG LOẠN 喪亂 : Chỉ Chạy loan An Lộc
Sơn.
* TRIÊM THẤP 霑溼
: là Ướt át, là Thấm ướt.
* QUẢNG HẠ 廣廈 : là Nhà cao cửa rộng.
* ĐẠI TÍ THIÊN HẠ 大庇天下
: là Che chở hết khắp thiên hạ ...
* ĐỘT NGỘT 突兀 : là Bỗng nhiên, là Bất
chợt.
* THỤ ĐỐNG TỬ 受凍死
: Chịu lạnh mà chết.
2. NGHĨA BÀI THƠ :
BÀI
CA GIÓ THU THỔI TỐC MÁI NHÀ TRANH
Cuối tháng
tám gần tàn thu, gió thu thét gào cuốn đi mấy lớp cỏ
tranh trên mái nhà của ta. Cỏ tranh bay cả sang Hoán Hoa Khê rơi rớt
cả trên bờ phía bên kia, những cọng bay cao thì vắt vẻo trên đầu
cành cây, những cọng bay thấp thì rơi rớt trên ao chuôm gần đó.
Mấy đứa
trẻ ớ xóm nam khinh khi ta gìa yếu không làm gì được chúng,
nên nở nhẫn tâm làm giặc trước mặt ta, chúng chẳng uý
kỵ gì cả ôm lấy cỏ tranh của ta chạy vào trong rừng trúc.
Ta lại miệng đắng môi khô không nạt nỗi để ngăn cản
chúng lại, đành than thở một mình mà chống gậy trở về
nhà.
Một
lát sau gió ngừng mây tạnh, mây trên bầu trời chuyển đen
như mực. Trời cuối thu ảm đạm dần dần tối đen xuống theo
bóng đêm. Tấm vải thô làm mền đắp lâu năm vừa
lạnh vừa cứng như sắt, cũng bị đứa con thơ xấu tánh
khi ngủ đạp rách tả tơi. Khi mưa xuống thì từ đầu giường
đến cuối giường, cả nhà đều không có chỗ nào
là khô ráo cả, từng sợi mưa lất phất vẫn không ngừng
rơi xuống. Từ lúc có loạn An Lộc Sơn đến giờ, ta luôn
ngủ rất ít, đêm dài dằng dặc, nhà dột cột xiêu làm
sao chịu được tới sáng đây.
Làm sao để có được ngàn
vạn căn nhà cao cửa rộng, để kẻ sĩ khắp nơi trong thiên
hạ được che chở yên thân, để họ được vui khi ngoài
trời mưa gió mà trong nhà vẫn vững như bàn thạch ? Ôi
! Biết đến bao giờ trước mắt bỗng nhiên có được
những ngôi nhà như thế. Khi đó thì dù cho căn nhà tranh
nầy của ta có bị gió thu thổi cho tơi tả và ta có bị
lạnh cóng mà chết thì ta vẫn cam lòng !
3. BỐI CẢNH SÁNG
TÁC :
Bài
thơ được sáng tác năm 761 ( Năm thứ 2 Thượng Nguyên đời
Đường Túc Tôn ). Mùa thu năm 759, Đỗ Phủ từ quan đến
Tần Châu ( Cam Túc ), rồi lần lừa lưu lạc đến Đồng Cốc
( Thành Huyện ), Ba Lăng. Mùa xuân năm 760, nhờ bạn bè thân hữu
giúp đỡ mới cất được một mái nhà tranh ở Hoán
Hoa Khê ( Thành Đô, Tứ Xuyên ), tạm gọi được là đã
có chỗ yên thân. Nào ngờ đến cuối thu tháng tám của
năm 761, giông gió nổi lên làm tốc mái nhà, lại phải
chịu đựng cơn mưa đêm ập đến, ướt át suốt đêm
không ngủ được, đêm dài khoắc khoải, cảm khái
muôn vàn mà viết nên bài thơ hiện thực được nhiều
người biết đến nầy.
4. BỐ CỤC CỦA BÀI THƠ :
Đây là
bài thơ Trường thiên Thất ngôn Cổ phong, câu dài ngắn tùy
tình tiết, nhưng chủ yếu là thơ 7 chữ, gieo vần tự do cả
trắc lẫn bằng theo diễn tiến và ý thơ của tác giả.
Toàn bài
thơ đi một mạch từ câu đầu đến câu cuối, nhưng ta
cũng thấy được 4 ý chính sau đây :
A. Từ câu đầu đến câu thứ 5 : Nỗi
thống khổ của người nghèo trong cơn mưa bão ban đêm.
B. Từ câu 6 đến câu 10 :
Sự bất lực của tuổi gìa trước lũ trẻ nghịch ngợm vô
tri.
C. Từ câu 11 đến
câu 18 : Nỗi vất vả khổ cực của những người nghèo phải
chiụ cảnh mưa bão trong đêm.
D. Từ câu 19 đền câu 24 : Cái ước mơ kỳ vọng cho mình
và cho tất cả mọi người cùng khổ.
Ba đoạn đầu là tự sự,
miêu tả thực tế và kể lể nỗi niềm của những người
nghèo khổ trong đêm mưa giông bão với nhà dột cột xiêu;
đoạn cuối nêu lên cái ước mơ lý tưởng hóa cuộc
đời, muốn thăng hoa cuộc sống của kẻ sĩ nghèo khó.
5. NHẬN
XÉT :
Bài
thơ kể lại cảnh nghèo khó trong cơn giông bão cuối thu,
mấy gian nhà tranh bị gió cuốn tốc cả nóc, lại thêm cơn
mưa đêm ập xuống làm ướt át cả nhà không
sao ngủ được . Từ đó, Đỗ Phủ đã
nói lên cái cảm khái và bất lực trước cái nghèo,
cái gìa của mình rồi liên hệ đến những kẻ sĩ
cơ hàn như mình, những dân chúng phải lưu lạc thất tán
trong cơn binh biến do An Lộc Sơn gây nên còn đang âm ỉ chưa
thôi. Rồi ước mơ sao cho có được một nơi chốn yên
thân cho tất cả mọi người nghèo khó. Đây chính là
cái ưu thời mẫn thế, còn nghĩ đến dân đến nước
của nhà thơ. Không phải đương không mà mọi người
tôn xưng ông là Thi Thánh, thơ của ông luôn luôn diễn tả
và phản ánh trung thực của cuộc sống thực tế trước mắt,
như những câu :
Chu môn tửu nhục xú, 朱門酒肉臭,
Lộ
hữu đồng tử cốt. 路有童子骨。
Có nghĩa :
Trong cửa son của nhà giàu thì rượu
thịt thừa mứa đến thối rữa; còn ở ngoài đường
thì xương của những đứa trẻ bị chết đói rẫy đầy.
Trong khi cảm khái
trước cảnh nhà dột cột xiêu lại gặp phải mưa đêm
của mình, ông cũng nghĩ đến những người cùng cảnh ngộ,
những người cùng khổ. Vì cái cái khổ của mình cũng
là cái khổ chung của dân của nước trước cảnh chiến
tranh loan lạc do An Lộc Sơn gây nên. Không phải chỉ riêng căn
nhà tranh của ông bị tốc nóc mà tất cả những căn nhà
tranh của " thiên hạ hàn sĩ " đều tốc nóc cả !
... và cảm khái làm sao
khi trong bài Xuân Vọng ông đã hạ một câu mở đầu bất
hũ là :
Quốc phá sơn hà tại, 國破山河在,
Có nghĩa là :
Nước tuy mất nhưng núi
sông vẫn còn đó !
6. DIỄN NÔM :
GIÓ
THU TỐC MÁI NHÀ TRANH
Tháng
tám tàn thu gió thét gào,
Cuốn
phăng mấy lớp mái tranh cao.
Tranh
bay tơi tả trên sông vắng,
Vắt vẻo trên cành cây trước ao.
Rải rác
bên bờ chuôm nước đọng,
Bất
lực thân già đành trơ mắt,
Lặng nhìn
lũ trẻ ngang nhiên cướp,
Ôm tranh lủi mất xóm tre xa,
Môi khô giọng khản thét không ra,
Chống gậy
về nhà ngồi than thở.
Cơn gió trở, phút giây mây xám,
Phủ
đầy trời hắc ám tối đen,
Nhà nghèo
xót cảnh mưa đêm,
Con thơ mền rách càng thêm nỗi niềm.
Giường
ướt dột khắp nơi tơi tả,
Mưa từng cơn
vẫn rả rít rơi,
Từ ngày loan lạc đến nay,
Đêm đêm khó ngủ ai hoài thở than.
Mong ước được ngàn gian nhà trống,
Chở
che cho hàn sĩ bốn phương,
Vững như bàn thạch mưa tuôn,
Yên lòng
nghèo khó những luôn ước thầm.
Bao giờ bỗng
được như lòng,
Nhà
tranh ta đổ cũng không tiếc gì.
Thân này
lạnh chết có chi !
Đỗ Chiêu Đức
diễn nôm
CHỮ NHO DỄ HỌc....bài 37
Vị trí của các bộ
thủ
Click hàng chữ dưới đây:
Sau khi trang
bài hiện ra, double left click để đọc toàn bài
NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ TIỀN CHIẾN
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi !
Xuân Diệu
NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ TIỀN CHIẾN là chỉ nói cho " xôm
tụ " thôi, chẳng lẽ đọc Thơ Đường mãi, thay đổi
không khí, ta đọc thơ Thời Tiền Chiến. Nhưng nói là đọc
thơ Thời Tiền Chiến cho oai thôi, chớ chỉ điểm qua vài bài
có vẻ Xuân và hoa Đào hoa Mai của Nguyễn Bính và Jean Leiba
mà thôi !
Nào,
bạn đã thấy Xuân về như thế nào chưa ? Nếu chưa, hãy
nghe Nguyễn Bính nói đây :
Đã
thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên
hiên hàng xóm cô hàng xóm,
Ngước
mắt nhìn trời đôi mắt trong !
Gợi cảm và làm
xao xuyến rạo rực lòng người biết bao với " Gió đông,
với màu má gái chưa chồng, và với đôi mắt trong của
nàng thiếu nữ !", Mùa xuân như hiển hiện ở màu má
màu mắt của cô Xuân nữ tràn đầy nhựa sống của lứa
tuổi hoa niên. Mùa xuân mang lại sức sống mới cho tuổi trẻ, mùa
xuân cũng mang lại những kỷ niệm khó quên của tuổi xuân
thì, khơi lại tình tự mộng mơ của quá khứ làm não
nuột lòng người :
Xuân
đã đem mong nhớ trở về,
Lòng cô lái ở bến sông kia.
Cô
hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã hẹn thề !...
Nhưng
rồi ... Người khách tình quân ấy,
Đi biệt chẳng về với nước sông,
Đã mấy lần xuân trôi... trôi mãi ...
Mấy lần cô lái mõi mòn trông !
( Cô lái đò )
Não nùng thay, đáng thương thay cho tâm sự của
" nàng xuân " trên bến nước ! Thơ Nguyễn Bính thường
đi vào lòng ta bằng những hình ảnh thật nhẹ nhàng gợi
cảm, tế nhị mà làm xao xuyến lòng người ! Ta hãy nghe ông
ví von :
Ai đi chắp lại cánh hoa rơi,
Bắt
bóng chim xa tận cuối trời.
Có
lẽ ngày mai đò ngược sớm,
Thôi
nàng ở lại để ... quên tôi !
( Thôi nàng ở lại )
Rất nhẹ nhàng nhưng cũng có pha chút gì chua xót ! Chua xót
như những cánh hoa đào rơi rụng :
Hoa
đào từng cánh rơi như tưới,
Xuống mặt sân rêu những giọt buồn.
Như mảnh tim tình tan vỡ ấy,
Nhện
già giăng mắc sợi tơ đơn !....
Cuối năm, đọc
những câu thơ tình của Nguyễn Bính làm cho lòng ta chùn
xuống, xót cho từng cánh hoa đào rơi như những mảnh tim tình
tan vỡ, khéo mà ví von làm thương cảm lòng người ! Sau
này, khi lưu lạc vào Nam, lúc xuân về Tết đến, Nguyễn Bính
vẫn khoắc khoải day dức băn khoăn tự nhủ :
Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ,
Đào có hây hây ? Cúc có vàng ?
Câu đối có còn ôm đỏ cột,
Nêu
dài tiếng khánh có khua vang ?
... và não lòng người
làm sao với :
Em
ra bến nước trông về Bắc
Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng !
Nguyễn Bính
xưng " em " chắc có lẽ thi sĩ đang nhớ đến người chị
mà tác giả thường hay nhắc trong thơ :
...
Cho đến một hôm em mới nhớ:
"Lòng người...." Chị Trúc nhớ hay quên?
( Khăn Hồng )
... Chị
Trúc là chị TRÚC ĐƯỜNG, một người chị trong thơ, trong
mơ, mà Nguyễn Bính không bao giờ với tới, cũng không dám
với tới, chỉ nhớ, chỉ mơ rồi ... thơ thẩn, thế thôi ! Mà
như thế lại nên thơ hơn, da diết hơn và gợi cảm mơ mộng
hơn nhiều ! Và nhờ thế mà ta mới có được những vầng
thơ tuyệt diệu của " Lỡ Bước Sang Ngang ". Sau này khi lưu lạc
giang hồ, trong "Xuân tha hương" và "Xuân vẫn tha hương", Nguyễn
Bính đều gửi tâm sự về quê nhà, kể lể nỗi niềm
cùng chị Trúc:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi
chị một em, em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông ...
và ...
Rượu say nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng...
Đêm ba mươi Tết quê người cũng
Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương
.................................
Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ
Ôi nhà, ôi chị.. ôi quê hương !
Khá thương thay tâm sự của kẻ tha hương
và cũng ngạc nhiên thay, ngạc nhiên đến thú vị !... Ai đời
nhớ quê hương, nhớ nhà lại đi kèm với " nhớ Chị
", hẵn người Chị nầy phải vô cùng đặc biệt, đặc
biệt đến trở thành ... tự nhiên trong thơ của Nguyễn Bính
!
Hoa Đào là biểu tượng cho hoa xuân ngoài Đất Bắc, còn
hoa Mai là biểu tượng của hoa xuân Miền Nam. Ta thường nghe nói
Đào Bắc Mai Nam, nhưng hoa mai lại thích ứng cả 2 miền Nam Bắc,
ta đã từng biết qua 2 câu thơ của nhà sư Tề Kỷ ở
cuối đời Đường đầu đời Tống là :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裡,
Tạc
dạ sổ chi khai. 昨夜數枝開。
Có nghĩa :
Đêm trước
hôm qua trong tuyết lạnh,
Xóm
trên lấm tấm mấy cành mai.
Bây giờ, thì ta hãy điểm
qua bài thơ Mai Rụng của Jean Leiba thời Tiến Chiến nhé :
Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai,
Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài,
Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ,
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai...
" Thiếu nữ khóc
hoa mai " như khóc cho thân phận của mình, khóc vì nuối tiếc
cho ngày vui đã qua mau, nuối tiếc cho những ngày xuân mà tim hồng
rộn rã, khi :
Tường đông, xuân ấy gặp tình lang,
Chàng nhủ cùng em nỗi nhớ thương.
Ngơ
ngẩn em về, sầu chẳng mối:
Ngây
thơ, em mới biết yêu chàng.
Ôi, đẹp biết
bao khi lòng người xuân nữ vừa chớm hương yêu trong lứa tuổi
xuân thì !... Nàng e ngại thẹn thùng bắt đầu làm đẹp,
làm dáng và thấy mùa xuân càng đẹp hơn lên khi con tim
yêu đang rạo rực :
Yêu chàng, em cố chuốt hình dong,
Tô cặp môi son, điểm má hồng.
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,
Cảm tình Thanh đế, tạ đông phong !
Hạnh phúc biết
bao trong mùa xuân..." hoa nở đẹp ". Thực ra thì xuân nào
mà hoa chẳng nở đẹp ?! Nhưng khi đang ngây ngất trong men yêu thì
đâu có xuân nào đẹp hơn được nữa ! Nàng Cảm
ơn Chúa Xuân, cảm ơn gió Xuân, cảm ơn hết những gì
mà mùa xuân mang đến ... Nhưng rồi, ngày vui qua mau, mùa xuân
cũng chóng tàn, khi :
Hoa tặng vừa tàn bông thược dược,
Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa...
... Và từ đó,
cuối xuân sang hạ, hết thu lại đông, nàng sống trong âm
thầm chờ đợi mõi mòn, mong ngóng bóng ai kia ở cuối
nẽo chân trời ...
Xuân
tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu,
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau.
Xuân tới cành đào hoa lại nở,
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu ?!
Ủ rủ
não nề như người cô phụ trông chồng " Thẩn thờ trâm
lệch lỏng vòng lưng eo " đến đổi không còn nhận
ra mình trong gương nữa ...
Sầu đối gương loan, bóng lạ người,
Chàng
không lại nữa, đẹp cùng ai?
Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch,
Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai !
Qủa
là thương cảm cho nàng thiếu nữ khi đã vuột khỏi tầm
tay, đánh mất một tình yêu nồng thắm của tuổi xuân
thì. Xuân chửa đi qua mà tình yêu đà biền biệt,
nên mơ hồ nghi ngại là nàng xuân vẫn còn lẫn khuất đâu
đây :
Xuân hết, đào phai, lý rụng rồi,
Hoa đình tịch mịch vẻ xuân phai.
Tơi bời ong bướm bay qua ngõ,
Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.
Đọc những câu thơ trên lại
làm cho ta nhớ đến 2 câu cuối trong bài XUÂN TÌNH của Vương
Giá
蜂蝶紛紛過牆去, Phong điệp phân phân qúa
tường khứ,
卻疑春色在鄰家。 Khước nghi xuân sắc tại
lân gia.
Có nghĩa :
Lũ lượt bướm
ong bay hết qua tường hàng xóm, nên ...
Ngờ rằng hương sắc
của mùa xuân còn ở nhà kế bên !!!
Tơi bời
ong bướm bay qua ngõ,
Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.
Tình
yêu bao giờ cũng là đề tài muôn thuở của nhân sinh, là
đề tài không bao giờ cạn kiệt của văn nhân thi sĩ. Tình
yêu mang lại sức sống yêu đời, tình yêu nhuộm hồng cuộc
sống nhân sinh, mang lại sức sống vui tươi cho mọi lứa tuổi, mọi
lứa đôi ... Nhưng tình yêu cũng mang lại sầu thương buồn
thảm, đố kỵ ghét ghen, ưu phiền chán nản, làm nhục chí
anh hùng, khiến cho bao người không còn thiết tha với cuộc sống,
muốn buông xuôi tất cả như Jean Leiba lúc cuối đời, mặc dù
ông chỉ mới có 29 tuổi đầu mà thôi :
Phù
thế đã nhiều duyên nghiệp quá !
Lệ lòng mong cạn chốn am không.
Cửa
thiền một đóng duyên trần dứt,
Quên hết người quen chốn bụi hồng !
Xin
được khép lại bài viết về mùa xuân nhưng không được
vui như xuân nầy !
Đỗ Chiêu Đức
06-01-2017
VÕ TRẮC VÃNG NAM CÔ
Trước khi nghe Giai Thoại Văn Chương Việt
Nam nầy, Xin mời tất cả cùng đọc một bài thơ Đường
rất ư là mượt mà tình tứ của một cô dâu mới
về nhà chồng của Châu Khánh Dư như sau :
近試上張水部 CẬN
THÍ THƯỢNG TRƯƠNG THỦY BỘ
洞房昨夜停紅燭,
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc,
待曉堂前拜舅姑。 Đãi
hiểu đường tiền bái cựu cô.
妝罷低聲問夫婿: Trang
bãi đê thanh vấn phu tế,
「畫眉深淺入時無?」 "
Họa mi thâm thiển nhập thời vô ?!"
朱慶餘
Châu Khánh Dư
Chú Thích :
Châu
Khánh Dư 朱慶餘, không rõ năm sanh năm mất, tên
là Khả, người đất Đường Châu, đậu Tiến sĩ giữa
năm Bảo Khánh, là môn đệ của Trương Tịch. Ông giỏi
về thơ, còn để lại một Thi Tập.
CẬN THÍ : Gần đến ngày đi thi.
TRƯƠNG THỦY BỘ : là Trương
Tịch 張籍 (766─830 ), tự là Văn Xương, người đời
thường gọi là Trương Tư Ngiệp hay Trương Thủy Bộ; thơ
nhạc phủ của ông thường phản ánh hiện thực của xã
hội đương thời. Nổi tiếng ngang hàng với Vương Kiến, người
đời xưng tụng là " Trương Vương ". Tác phẩm để
lại : Trương Tư Nghiệp Tập.
ĐÃI HIỂU : là Chờ sáng, là Đợi đến sáng ngày.
CỰU CÔ : CỰU 舅 là
Cậu, là Anh Em trai của mẹ. CÔ 姑 là Chị Em gái của cha. Nhưng
theo Tập quán Ngôn ngữ của người Hoa xưa, CỰU CÔ 舅姑
là Ông Già Chồng và Bà Già Chồng. Trong bài thơ :
BÁI CỰU CÔ 拜舅姑
là Ra mắt Ông Bà già Chồng.
TRANG BÃI : là Trang điểm xong xuôi.
PHU TẾ : là Chàng rễ, là tiếng gọi Chồng một cách thân
mật.
NHẬP THỜI : là
Hợp thời trang, đúng trào lưu, nói một cách bình dân
là : Đúng "Gu", đúng "Mốt" ( à la mode ) hiện tại.
Nghĩa
Bài Thơ :
GẦN THI DÂNG LÊN TRƯƠNG THỦY BỘ
Động phòng đêm hôm qua, đuốc hoa
cũng đã ngừng cháy rồi. Đợi đến sáng ngày để
lạy ra mắt cha mẹ chồng. Sau khi trang điểm xong, nàng mới kề tai hỏi
nhỏ chàng rằng : " Đôi mày của thiếp kẽ như thế nầy,
đậm nhạt kiểu dáng có hợp thời hay không ?". Ý muốn
hỏi : có làm đẹp lòng của cha mẹ chồng không ?!
Diễn
Nôm :
Đêm qua hoa chúc động phòng xong,
Chờ
sáng ngày ra mắt mẹ chồng.
Trang điểm xong hỏi chàng nho nhỏ :
" Mày ngài đậm nhạt hợp thời không ?"
Lục bát :
Động phòng hoa chúc vừa ngưng,
Sáng ra trang điểm lạy mừng thầy me.
Kề tai hỏi
nhỏ e dè :
" Mày ngài đâm nhạt còn e ... chăng chàng !?"
Đây là bài thơ của Châu Khánh Dư làm trước ngày
ứng thi Tiến sĩ, gởi cho Trương Tịch bình phẩm; vì lúc ấy
Trương đang là Thủy Bộ Lang Trung ở kinh thành, nổi tiếng về
văn thơ và có thể sẽ là phó chủ khảo của khoa thi. Châu
Khánh Dư tự ví mình như là cô dâu mới về nhà chồng,
còn Trương Tịch là chàng rể, quan chủ khảo là cha mẹ chồng,
còn mày ngài đậm nhạt như là phong cách thơ văn của
mình. Châu hỏi Trương xem NÓ có hợp với ý của quan chủ
khảo chăng để còn biết mà uyển chuyển điều chỉnh lại.
Trương đã ca ngợi và biểu dương cái ý chân thành
nầy của Châu, nên khoa đó Châu đã đậu ngay Tiến Sĩ
Cập Đệ.
Bây giờ thì ta trở lại
với Giai Thoại Văn Chương Việt Nam " VÕ TRẮC VÃNG NAM CÔ "
của một Thủ Khoa đất Bình Thủy Cần Thơ : Ông Thủ Khoa
Bùi Hữu Nghĩa nhé !
Ông sinh năm Đinh Mão (1807) tại làng Long Tuyền, tổng Định Thới,
huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc phường
An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ). Cha ông tên Bùi
Hữu Vị, làm nghề chài lưới.
Năm
1835 ông đỗ Giải nguyên (thủ khoa) kỳ thi Hương ở Gia Định,
vì thế ông được gọi là Thủ Khoa Nghĩa.
Khi
thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, năm 1862,
Bùi Hữu Nghĩa xin từ quan về quê dạy học, bốc thuốc chữa
bệnh cho dân và làm thơ (lúc này ông lấy hiệu là "Liễu
Lâm chủ nhân"). Nhà ông là nơi các sĩ phu yêu nước
gặp gỡ, bàn bạc việc chống Pháp cứu nước. Ông lâm
bệnh và mất ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65
tuổi.
Sinh
thời, Thủ Khoa Nghĩa nổi tiếng với vở tuồng " Kim Thạch Kỳ
Duyên " được nhà vua khen ngợi. Nghe nói khi soạn vở tuồng
nầy có sự giúp sức và góp ý của ông Huỳnh Mẫn
Đạt, nên mới có câu chuyện sau đây ...
Tương truyền, ở xứ Gia Định
có Tú Tài VĂN BÌNH, văn hay chữ tốt, nhưng thi cử lận đận,
thi mãi mà vẫn chỉ đậu có ...Tú Tài ! Nghe đồn Thủ
Khoa Nghĩa soạn tuồng Kim Thach Kỳ Duyên được vua khen, thì trong lòng
không phục, lại nghe nói có sự góp sức của cụ Huỳnh Mẫn
Đạt nên lại càng không phục hơn. Một hôm Tú ta quyết
định " Đem chuông đi đấm xứ người ", mới khăn
gói mò xuống đất Bình Thủy tìm gặp Thủ Khoa Nghĩa để
thử tài một chuyến xem lời đồn có đúng hay không ?...
Khi đến Bình
Thủy, đang đi lang thang để hỏi thăm nhà Thủ Khoa Nghĩa thì
gặp phải một ông già dáng vẻ nhà quê ngồi hóng mát
trước cửa, anh ta bèn ghé lại hỏi thăm :
- Thưa bác, bác có biết nhà ông
Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa ở đâu không ạ ? Ông già nhướng
mắt lên hỏi lại :
- Cậu là ai, kiếm ông Thủ Khoa có việc gì không ?
- Dạ, cháu là Tú
tài Văn Bình ở Gia định, nghe đồn ông Thủ Khoa rất giỏi
về văn thơ, nên tìm đến hỏi thăm cho biết vậy mà ! Ông
già nghe xong rất sốt sắn :
- Vậy hả, Tú tài Văn Bình hả, mời vào nhà ngồi chơi,
uống ly nước, rồi tôi sẽ biểu sấp nhỏ dẫn tới
nhà ông Thủ Khoa cho !
Sau khi vào nhà ngồi yên chỗ xong, ông già mới rót hai ly nước
trà mời khách. Tú tài Văn Bình ngó quanh thấy trong nhà
có treo mấy câu đối nên lẩm nhẩm đọc. Ông già
bèn cười nói rằng :
-
Đó là mấy câu đối của ông Thủ Khoa làm đó.
Còn tụi tôi thì học ít, hổng biết làm câu đối dài
tới vậy, chỉ biết đối từng chữ một mà thôi. Nếu
cậu không chê thì mình đối chơi với nhau một vài chữ
cho vui ! Thấy ông già tử tế và vui tính, nên Văn Bình cũng
rất vui vẻ nhà nhận lời. Ông già bưng ly trà lên nhấp
nhấp đọc :
- VÕ
武. Văn Bình đối lại :
- VĂN 文. Ông già lại đọc :
- TRẮC 仄. Văn Bình đối là :
- BÌNH 平. Ông già
lại tiếp :
- VÃNG 往.
Văn Bình đối ngay :
- LAI 來. Ông già lại ra :
-
NAM 南. Văn Bình lại đối :
- BẮC 北. Ông già lại đọc :
- CÔ. Văn Bình lại đối là :
- CỤ. Tất cả các chữ đều
đối với nhau chan chát. Đến đây, thì ông già ngưng
lại đề nghị :
- Bây giờ thì mình ghép các chữ đã đối với
nhau lại nghen. Câu của tui là : VÕ TRẮC VÃNG NAM CÔ ! Văn Bình
cũng đọc to các chữ mà mình đã đối là :
- VĂN BÌNH LAI BẮC CỤ !
Vừa đọc xong, anh ta chợt giật mình, đứng dậy bẽn lẽn chấp
tay xá ông già một cái mà nói rằng :
- Ông ơi, Ông chính là ông Thủ
Khoa rồi, tú tài này xin bội phục !
Ông già cũng đứng lên cười xòa,
nắm tay Văn Bình bảo anh ta ngồi xuống; đoạn 2 người cùng
nhau đàm luận văn chương rất ư là tương đắc. Thì
ra ...
Câu VÕ
TRẮC VÃNG NAM CÔ của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa không có nghĩa
gì cả; nhưng câu VĂN BÌNH LAI " BẮC CỤ " của Tú Tài
Văn Bình thì thật ... khó chơi, mà lại do chính miệng
mình nói ra ... cái mới chết chớ !
Lúc nhỏ,
khi đọc xong giai thoại nầy, tôi cứ thắc mắc mãi : VÕ 武
đối với VĂN 文; TRẮC 仄 đối với BÌNH 平; VÃNG
往 đối với 來; NAM 南 đối với 北; đối nhau
chan chát không có gì để nói, nhưng bảo CÔ với CỤ
cũng " đối nhau chan chat ", thì tôi không phục chút nào
cả ! CÔ là CÔ nào ? là CÔ ĐƠN 孤單 hay CÔ 姑
là Chi Em Gái của Cha ? Còn CỤ là CỤ nào ? là CÔNG CỤ
工具 hay CỤ 懼 là Sợ ? Nhưng theo các nghĩa trên thì CÔ
và CỤ không thể đối nhau được, đừng nói tới chuyện
" đối nhau chan chát "! Còn bảo CÔ là Bà Cô, CỤ là
Ông CỤ thì càng sai hơn nữa, vì Ông CỤ chữ CỤ nầy
là tiếng Nôm, không thể đối với CÔ là từ Hán Việt
được ! Muốn đối được với chữ CÔ 姑 là Chị
em gái của cha thì có THÚC 叔 là Chú, BÁ 伯 là Bác
hay CỰU là Cậu mà thôi ! Nhưng nếu như thế thì cái giai
thoại văn chương nầy bị " hỏng " mất, vì Tú Tài
Văn Bình có thể dùng từ THÚC hoặc BÁ để đối
với từ CÔ, và câu đối sẽ là :
" VĂN
BÌNH LAI BẮC THÚC hay BẮC BÁ "
thì
cũng hỏng bét, vì không nói lên được cái " thâm
ý " của Ông Thủ Khoa. Nhưng tại sao Ông lại ra chữ CÔ và
tại sao Văn Bình lại buộc phải đối là CỤ ? Tôi đem
thắc mắc nầy hỏi rất nhiều thầy dạy chữ Hán, nhưng đều
không được giải đáp thỏa đáng !... Đến sau nầy,
khi tôi đã trở thành thầy dạy chữ Nho, tôi cũng không dám
kể giai thoại nầy cho bạn bè nghe, vì sợ họ thắc mắc như
tôi, nếu họ hỏi thì làm sao mà trả lời đây ?!...
Mãi cho đến
hơn ba mươi năm sau, khi tôi đang mò mẫm để dịch thơ Đường,
lúc dịch đến bài " CẬN THÍ THƯỢNG TRƯƠNG THỦY
BỘ " của Châu Khánh Dư, khi đến câu " Đãi hiểu
đường tiền bái CỰU CÔ 待曉堂前拜舅姑 "
tôi mới chợt " Ngộ " ra rằng :
CỰU là Ông già Chồng đối
với CÔ là Bà già Chồng.
CƯU
là Anh em trai của Mẹ đối với CÔ là Chị em gái của
Cha.
Nên ...
Khi ông Thủ Khoa Nghĩa ra
chữ CÔ 姑 thì Tú Tài Văn Bình mới đối ngay là
CỰU 舅. CÔ đối với CẬU thì không còn gì chỉnh hơn
được nữa; và " Ông già Chồng " đối với " Bà
già Chồng " thì qủa là " đối nhau chan chát " thật
sự !
Nhưng... "
VĂN BÌNH LAI BẮC CỰU " thì vẫn chưa " đạt yêu
cầu " của ông Thủ Khoa. Đây chính là điểm chính
yếu, là cái mấu chốt của giai thoại nầy. Ông Thủ Khoa đã
khéo lợi dụng lời ăn nói và cách phát âm giản dị,
tùy tiện của dân Nam Kỳ Lục Tỉnh như " uống rượu "
thì nói là " uống gụ ", " đời cô Lựu " thì
nói là " đời cô Lụ ", " Quốc Cựu " thì nói
là " Quốc Cụ " ... nên mới khiến cho Tú Tài Văn Bình
là người Gia Định tự mình ... LAI BẮC CỤ !
Xin được kết thúc " Võ Trắc Vãng Nam Cô " ở đây.
Mong tất cả đều có được một giây phút ... thư giản
và vui tươi trong " ba ngày Xưng con Gà " !
Đỗ Chiêu Đức
NĂM GÀ NÓI CHUYỆN ... CON KÊ !
KÊ 鷄 là từ Hán Việt chỉ
Con Gà, Gà là Kê, Kê là Gà, là ... Gà Kê Dê
Ngỗng. Bà con ta thường nói thành " Cà Kê Dê Ngỗng ".
Năm Gà nói chuyện...con Kê là nói chuyện phiếm, chuyện tào lao,
chuyện bao đồng về con gà để nghe chơi khi trà dư tửu hậu.
GÀ được
xếp hàng thứ Mười, thuôc chi DẬU trong Thập Nhị Địa
Chi. Năm nay Thiên Can nhằm chữ Đinh, nên năm 2017 là năm ĐINH DẬU.
Nam phương Bính Đinh thuộc Hỏa là Lửa, hợp với chi Dậu là
Con Gà. Nên ĐINH DẬU là Con Gà Lửa ... mà con gà bỏ vô
lửa thì thành ... Con Gà Quay. Vậy là năm 2017 nầy bà con ta tha
hồ mà hưởng lộc " Gà Quay " nhé ! Không sợ bị đói
như năm ẤT DẬU 1945. Vì Đông Phương Giáp Ất thuộc Mộc,
nên ẤT DẬU là con gà bằng ...Mộc, bằng Cây, mà gà bằng
Cây thì làm sao ăn cho được, không đói mới là lạ
!
GÀ là KÊ
鷄, KÊ là chữ Tượng Hình trong Lục Thư, là cách đầu
tiên trong 6 cách tạo hình của Chữ Nho ... dễ học, theo diễn
tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của con gà trống hiên ngang
với cái mỏ hướng về bên trái và cái vương miện
vươn cao ở trên đầu, hai cánh bên dưới xòe ra như đang
đập cánh chuẩn bị cất cao tiếng gáy vào buổi sáng. Nhưng
qua Đại Triện và Tiểu Triện do sự biến thiên của chữ viết
qua các thời đại, chữ KÊ 鷄 được hình thành bởi
Hình Thanh ( Cách tạo chữ thứ 4 của Chữ NHO ... dễ học ) với
chữ HỀ 奚 bên trái chỉ Âm và chữ ĐIỂU 鳥 bên
phải chỉ Ý, nên chữ KÊ hiện tại được viết như
thế nầy 鷄, chữ Điểu bên phải có thể thay bằng bộ
CHUY 隹 là Loài chim đuôi ngắn, nên chữ KÊ cũng được
viết như sau 雞. Ta có 4 hình thức của chữ KÊ :
Giản thể
Phồn thể
鸡 鳮
雞 鷄
7
nét 13 nét 18 nét
21 nét
Vì đến 2 hình thức chữ Phồn
Thể, mà chữ phức tạp nhất có đến những 21 nét, nên
KÊ thuộc dạng chữ khó nhớ ngày xưa khi học chữ Nho, cho
nên mới có câu chuyện vui " Tam Đại của Con Gà "
sau đây về ông Thầy Đồ...dốt. Truyện kể :
Xưa, có anh học
trò học hành dốt nát, nhưng trò đời " Xấu hay làm
tốt, dốt hay ... xổ Nho ", đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ
tốt.
Có người tưởng
anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.
Một hôm, đang dạy sách
Tam Thiên Tự 三千字, sau chữ " Tước 雀
" là chim sẻ, đến chữ " KÊ 鷄 " là gà,
thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì,
học trò lại hỏi gấp, thầy quýnh qúa, nói đại nói
càn : " Dủ dỉ là con dù dì ". Thầy cũng khôn,
sợ lỡ sai người nào biết thì mắc cở, mới bảo học
trò đọc nhỏ thôi, tuy vậy, trong lòng thầy vẫn lo âu thấp
thỏm.
Nhân
trong nhà có bàn thờ Thổ Địa Thần Tài, thầy mới đến
khấn thầm xin ba keo âm dương để xem chữ đó có phải
thật là " dù dì " không. Thổ công cho ba keo đều được
cả ba.
Thấy vậy, thầy lấy làm đắc ý lắm, hôm sau bệ vệ
ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy,
gân cổ lên gào:
- Dủ dỉ là con dù dì ! Dủ dỉ là con dù dì...
Ông cha của
sấp nhỏ đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng con học,
ngạc nhiên mới bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, rồi hỏi
thầy :
- Thầy ơi
! Chữ " KÊ 鷄 " là gà, sao thầy lại dạy thành
" dủ dỉ " là con " dù dì " ?
Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm
: " Mình đã dốt, Thổ Địa Thần Tài nhà nó còn
dốt hơn mình nữa ", nhưng Thầy cũng lanh trí, nên vội
nói đỡ là :
- Tôi cũng biết chữ đó là chữ " kê 鷄 ",
mà " kê " nghĩa là " gà ", nhưng tôi dạy cháu
như thế là dạy cho chúng nó biết tận Tam Đại 三代
của con gà kia !
Chủ nhà càng không hiểu ất giáp gì cả, hỏi :
- Tam Đại 三代
của con gà là nghĩa ra làm sao?
- Là ba đời của con gà đó ! Này nhé,"
Dủ dỉ là chị con Công, con Công là ông con Gà." Thế, chả
phải Tam Đại của con gà là gì ?!
DẬU đứng hàng thứ Mười trong Địa Chi, nhưng lại
là Tháng Tám Âm lịch. Ngày Dậu là ngày được
xếp sau ngày Thân và trước ngày Tuất. Giờ Dậu là từ 5
đến 7 giờ chiều tối, nên ông bà ta ngày xưa có để
lại mấy câu nói sau đây :
Mạc ẩm Mão thời tửu, 莫飲卯時酒,
Hôn
hôn túy đáo Dậu. 昏昏醉到酉.
Mạc
mạ Dậu thời thê, 莫罵酉時妻,
Nhất
dạ thụ cô thê. 一夜受孤凄.
Có nghĩa :
* Đừng
uống rượu vào giờ Mão ( từ 5 đến 7 giờ sáng ). Vì
sẽ bị...
Say sưa
mơ màng cho đến giờ Dậu ( từ 5 đến 7 giờ tối ). Vậy
là
suốt
ngày sẽ không làm ăn gì được cả !
* Đừng mắng vợ vào giờ Dậu, vì
chiều tối mà vợ chồng giận nhau
thì suốt đêm sẽ chịu lạnh lẽo cô đơn có một mình,
cũng sẽ
không " làm ăn " gì được cả !
Tâm lý qúa cở " thợ
mộc "! Ai bảo là ông bà ngày xưa không biết tâm lý
tình cảm và bảo vệ hạnh phúc gia đình đâu !?
DẬU kết hợp với TỴ và SỬU
thành Tam Hạp. Trâu Bò hợp với Gà thì còn được,
chớ Trăn Rắn làm sao mà hợp với gà cho được, thấy
gà là chúng quấn cho nát xương rồi nuốt trửng nguyên con
như chơi. Không biết mấy thầy Tử Vi tướng số ngày xưa
căn cứ vào cái gì mà xếp cho con Gà và con Rắn hợp
nhau ? Rắn thì chắc OK rồi, nhưng gà mà gặp rắn là chạy
" tét ghèn " luôn, làm sao mà hợp cho được !
DẬU lại cùng với
TÝ, NGỌ và MÃO, ta gọi là Tý Ngọ Mẹo Dậu thành một
bộ Tứ Hành Xung. Ba lần bốn mười hai, cho nên hễ vợ chồng
cách nhau 3, 6 hoặc 9 tuổi là lọt vào Tứ Hành Xung ngay ! Nên ngày
xưa đi cưới vợ phải coi tuổi là vì thế ! Tuyệt đối
kỵ 3, 6, 9, nhất là cách nhau 6 tuổi sẽ lọt vào số Chánh
Xung, như : Dần và Thân, Tỵ và Hợi, Tý và Ngọ, Mẹo và
Dậu, Thìn và Tuất, Sửu và Mùi đều cách nhau 6 tuổi,
bảo đãm không xung không lấy tiền !
Trong thần thoại,
GÀ là MÃO NHẬT KÊ 昴日雞, là ngôi thứ tư trong
Bạch Hổ Thất Tinh, thuộc 7 vì sao nằm ở phương Tây của Nhị
Thập Bát Tú 二十八宿, hướng Tây thuộc mùa Thu,
cũng là mùa thu hoạch nông phẩm xong, cửa nhà đã đóng.
Nên Mão Nhật Tinh thuộc nhóm Hung Tinh ( Sao dữ ), thường mang đến
tai ương bất lợi, hung đa kiết thiểu ( cho những người chưa
thu hoạch hay bị mất mùa thất thu : Chắc chắn sẽ bị đói
!).
Mão Nhật
Kê được tạo hình trong phim Tây Du Ký
GÀ là một trong
lục súc sống cùng với con người qua mấy ngàn năm lịch sử.
Dựa theo các giả định Cổ Khí Hậu Học, có làm một
nghiên cứu vào năm 1988 cho rằng gà được thuần hóa ở
vùng Hoa Nam vào năm 6000 trước Công nguyên. Nhưng, một nghiên
cứu khác vào năm 2007 cho rằng Gà xuất xứ từ Văn minh lưu
vực sông Ấn (2500-2100 trước Công nguyên), nơi mà ngày nay thuộc
lãnh thổ của Pakistan, có thể là nguồn chính cho sự lan truyền
của các giống gà trên toàn thế giới.
Trong Lục Súc Tranh Công, một
tác phẩm văn học dân gian của ta, trước đây được
xếp trong chương trình Cổ Văn của lớp Đệ Thất, đã
cho con Gà nói về mình như sau :
................................
Này này! gà ngũ đức thẳm sâu:
Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm đủ.
Trên
đầu đội văn quan một mũ;
Dưới chân đeo
hai cựa thần thương.
Đã ghe phen đến chốn chiến
trường.
Lập công trận vang tai, lói óc,
Thủa Tây Lũng tam canh trống thúc;
Gà gáy đầu
ba tiếng đêm khuya,
Một tiếng rằng: thiên nhật tác
thì;
Hai tiếng rằng: quốc tộ tác xương,
Ba tiếng rằng: nhân gian tác lạc,
Đã cứu
nạn Mạnh Thường đặng thoát;
Lại khuyên người
Tấn sĩ năm canh.
Hễ ai toan cải dữ về lành,
Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc điệp.
Coi giò
gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu
y,
Cất tiếng gáy, toại lòng người đãi đán,
...............................................
Ta thấy bài kể công trên, Gà có nhắc đến "...cứu
nạn Mạnh Thường ...". Mạnh Thường đó là Mạnh Thường
Quân của nước Tề, một trong Chiến Quốc TỨ CÔNG TỬ 戰國四公子,
là bốn Vương Tôn hào hiệp, chiêu hiền đãi sĩ thời
Chiến Quốc, đó là :
齐国孟尝君田文 Mạnh Thường Quân ĐIỀN VĂN của nước Tề.
赵国平原君赵胜 Bình Nguyên Quân TRIỆU THẮNG của nước Triệu. 魏国信陵君魏无忌 Tín Lăng Quân NGỤY VÔ KỴ của nước Ngụy.
楚国春申君黄歇 Xuân Thân Quân HOÀNG YẾT của nước Sở.
Tứ
Công Tử qua Minh họa và qua Điện ảnh
Không
phải đương không mà Tứ Công Tử nầy bỏ tiền của
ra để nuôi ba ngàn thực khách trong nhà, mục đích chiêu
hiền đãi sĩ của những vị nầy là để chiêu mộ tất
cả nhân tài trong thiên hạ để chống lại nước Tần lớn
mạnh đang lăm le thôn tính Thất Hùng....
Trở lại với MẠNH THƯỜNG QUÂN,
người nổi tiếng nhất trong Tứ Công Tử và ... con Gà
đã cứu ông ta :
Tần Chiêu Tương Vương nghe nói Mạnh Thường Quân tài giỏi,
nên mời đến nước Tần, định phong làm Tể Tướng,
nhưng lại lo ông ta là người nước Tề chỉ lo cho quyền lợi
của nước Tề. Không dùng, lại định giết đi. Mạnh
Thường Quân biết tin lo sợ, mới tìm người sủng thiếp của
Tần Vương mà cầu cứu. Người thiếp nầy thấy trước đây
Mạnh Thường Quân có tặng cho Tần Vương một chiếc áo
hồ cừu rất đẹp nên cũng muốn có một chiếc mới chịu
giúp. Bí lối, vì chỉ có một chiếc duy nhất. Cũng may trong
đám môn khách đi theo có một người chuyên đào tường
khoét vách, đã lẻn vào cung vua Tần trộm chiếc áo hồ
cừu đó ra để ông đem tặng cho người sủng thiếp. Nghe
lời ỏn ẻn của người thiếp khi đầu gối tay ấp, Tần Vương
thả Mạnh Thường Quân về nước. Không kịp đợi trời
sáng, cả đoàn người ngựa kéo nhau lên đường. Tần
Vương thả người xong thì hối hận, bèn cho binh lính đuổi
theo bắt lại. Khi đoàn người của Mạnh Thường Quân chạy
đến cửa thành thì trời chưa sáng, cửa thành chưa mở.
Lại một
môn khách đi theo
có người giỏi nhái tiếng gà gáy, khi ông ta cất tiếng
gáy lên thì tất cả gà trong thành đều cất tiếng gáy
theo. Lính canh thành tưởng trời đã sáng bèn mở toang cửa
thành ra. Thế là cả đoàn người của Mạnh Thường Quân
ra thành... chạy tuốt ! Khi quân Tần đuổi tới thì đoàn
người đã đi xa lắc xa lơ rồi !
Con Gà cứu Mạnh Thường Quân
là con Gà...trong ba ngàn thực khách của ông ta, còn bầy Gà
chỉ hùa theo tiếng gáy mà thôi ! Con Gà trong Lục Súc Tranh Công
không biết thấu đáo mà cho là công lao của mình. Nhưng
xét cho cùng, không có bầy gà cùng gáy thì chưa chắc
lính canh đã chịu mở cửa thành ! Và ... cũng vì tích
nầy mà ta có được thành ngữ :
KÊ MINH CẨU ĐẠO 雞鳴狗盜
: là Gà gáy Chó trộm. Ý chỉ hai thực khách của Mạnh
Thường Quân, một người chui lổ chó vào cung trộm áo; một
người giả làm gà gáy sáng. Ý muốn nói những người
tầm thường du thủ du thực nhiều khi cũng đắc dụng, cũng làm
nên việc có ích hoặc cứu giúp lúc lâm nguy, chớ không
phải hoàn toàn vô dụng. Nhưng thành ngữ nầy hiện nay thường
dùng để chỉ hạng đầu trộm đuôi cướp, ba que xỏ
lá, trộm gà bắt chó... mà đã mất đi ý nghĩa tốt
đẹp của lúc ban đầu !
Kê Minh Cẩu Đạo
Con Gà của Lục Súc
Tranh Công còn kể lể :
Lại
khuyên người Tấn sĩ năm canh.
TẤN
SĨ 晉士 : là Kẻ sĩ của nước Tấn; ở đây chỉ
TỔ ĐỊCH 祖逖 ( 266-321 ) và LƯU CÔN 劉 琨 ( 271-318 ) của
thời Đông Tấn và Tây Tấn theo tích sau đây :
Tổ Địch tự là
Sĩ Nhã, người đất Yên Sơn. Ông là một Đại Tướng
đầu đời Đông Tấn, có chí muốn khôi phục Trung Nguyên
nên ra sức bắc phạt, từng lập được nhiều chiến công.
Ông cùng với người bạn trẻ là Lưu Côn, tự là Việt
Thạch, người đất Hà Bắc, là danh tướng đời Tây
Tấn, là hậu duệ của Hán Trung Sơn Tịnh Vương. Lúc nhỏ
cùng với Tổ Địch kết giao. Hai người thường bàn luận
về chính sự, quốc sự đều tỏ ra rất tâm đắc, tuổi
trẻ lòng đầy nhiệt huyết đều muốn cống hiến sức lực
của mình cho Tổ quốc, nên mỗi đêm về sáng khi nghe được
tiếng gà gáy là cùng nhau thức dậy để múa gươm
luyện võ, trao dồi thể lực để mong có cơ hội ra giúp nước.
Đêm đêm như thế, chẳng hề chểnh mảng đơn sai.
Vì thế mà
hình thành được thành ngữ VĂN KÊ KHỞI VŨ 聞雞起舞
: là Nghe tiếng Gà gáy thì dậy mà múa. Múa ở đây
là Múa Gươm, vừa rèn luyện thân thể, vừa ôn tập võ
nghệ. Thành ngữ nầy còn dùng để chỉ những người có
chí muốn phục vụ cho quốc gia dân tộc, sẵn sàng cống hiến
sức lực và tài năng của mình kịp thời và đúng
lúc để đáp lời sông núi. VĂN KÊ sẽ KHỞI VŨ ngay
!
Văn Kê Khởi Vũ
Tiếng gà gáy sáng khi màn trời còn
phủ sương đêm, làm ta chợt nhớ đến cô Kiều " Đêm
khuya thân gái dặm trường, Phần e đường xá phần thương
dãi dầu !" khi trốn khỏi Quan Âm Các của Hoạn Thư một
thân một mình với cảnh :
Mịt
mù dặm cát đồi cây,
Tiếng
gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
" Tiếng
gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương " là lấy
ý và thoát dịch một cách tuyệt vời 2 câu thơ trong bài
THƯƠNG SƠN TẢO HÀNH 商山早行 của Ôn Đình Quân
溫庭筠 đời Đường là :
Kê thanh mao điếm nguyệt,
雞聲茅店月,
Nhân
tích bản kiều sương. 人跡板橋霜.
Có nghĩa :
Tiếng gà xao xác
gáy ở quán lá ven đường khi trăng còn chênh chếch bên
trời, và...
Trên chiếc cầu ván nhỏ bắt ngang qua lạch
nước còn đẫm sương đêm đã có một vài dấu
chân người đi qua.
Cảnh vắng vẻ lạnh lùng của
buổi sớm mai càng làm tăng thêm nỗi cô đơn thấp thỏm
của người đang tìm đường tị nạn !...
Tiếng
gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Con GÀ
của Lục Súc Tranh Công còn tự hào về hình dáng của
mình :
Trên
đầu đội văn quan một mũ;
Dưới
chân đeo hai cựa thần thương.
Qủa là
Văn Võ Song Toàn với " văn quan một mũ " và "
hai cựa thần thương ". Hình dáng của con gà trống thì
qủa thật không chê vào đâu được. Mỏ vàng mồng
đỏ, lông cánh lông đuôi màu sậm, lông mình sặc sở
đỏ vàng xanh, bước đi bệ vệ, vỗ cánh phần phật làm
cát bụi tung bay đầy trời trước khi cất cao tiếng gáy : "
Ò Ó O Ò O ... " đó là Gà Việt Nam; còn
Gà Tàu thì gáy : " wu wu ti 喔喔啼 ... ". Hồi xưa khi mới
đậu Đệ Thất, tới giờ học Pháp Văn mới lần đầu
tiên nghe tiếng gà Tây gáy : " Cocorici, co-co-ri-co ...". Bây giờ định
cư ở Mỹ, nghe mấy đứa cháu nội cháu ngoại cho gà gáy
bằng tiếng Anh : " Cock-a-doodle-doo, cock-a-doodle-doo ... !". Thật cảm khái
vô cùng !!!
Gà
oai phong là thế, đẹp rực rỡ là thế, nhưng khi có một con
Hạc lạc vào thì lại trở nên tầm thường nhỏ bé, nên
ta lại có thành ngữ : HẠC LẬP KÊ QUẦN 鶴立雞群 có
nghĩa là " Hạc đứng giữa bầy gà ". Đương nhiên
Hạc trông cao ráo thanh thoát hơn hẵn bầy gà thấp lè tè
bên dưới. Tiếng Việt ta còn nâng lên một cấp nữa, ta nói
là " PHỤNG LỘN VỚI GÀ " Phụng chẳng những cao lớn hơn
mà còn đẹp rực rỡ hơn gà nhiều ! Câu " Hạc lập
Kê Quần " có xuất xứ từ điển tích " Trúc
Lâm Thất Hiền luận " của Đái Mục đời Tấn như sau
:
KÊ THIỆU
làm quan Thị Trung cho Tấn Huệ Đế, người khôi ngô cao lớn
thông minh anh tuấn, văn võ song toàn. Lúc bấy giờ hoàng tộc
nhà Tấn đang tranh quyền đoạt vị, giết hại lẫn nhau, mạnh
ai nấy xưng vương, sử gọi là " Bát Vương Chi Loạn ".
Kê Thiệu vẫn một mực trung thành với Tấn Huệ Đế. Lúc
kinh thành có loạn Kê Thiệu đứng chặn trước cửa cung, loạn
quân thấy vẻ hiên ngang hùng dũng của Kê Thiệu khiếp đãm
đến không dám xạ tiễn. Khi Tấn Huệ Đế thua chạy ở Thang
Dương, tướng sĩ chết vô số, Kê Thiệu vẫn theo sát để
bảo vệ Huệ Đế đến nỗi thân mình trúng mấy mũi
tên, máu nhỏ cả lên long bào của Huệ Đế và ông đã
hy sinh trong trận chiến nầy. Sau đó, những người tùy tùng
định tẩy giặt những vết máu trên long bào, Huệ Đế
đã ngăn lại bảo đó là máu của Thị Trung Kê Thiệu
không được giặt đi. Khi Kê Thiệu lần đầu đến Lạc
Dương, đi trong đám đông người, thân hình cao lớn, khí
vũ hiên ngang, như là con Hạc đứng giữa bầy Gà vậy, từ
đó mà hình thành thành ngữ HẠC LẬP KÊ QUẦN 鶴立雞群
để chỉ những người vượt trội hơn người khác
chẳng những về sức vóc mà cả về tài năng nữa !
KÊ THIỆU là
con của KÊ KHANG, một trong TRÚC LÂM THẤT HIỀN:Gồm có
Nguyễn Tịch 阮籍、Kê Khang 嵇康、Sơn Đào 山涛、刘伶 Lưu Linh、阮咸 Nguyễn Hàm、向秀 Hướng Tú、王戎 Vương Nhung; Họ sống và ở ẩn giữa đời Ngụy và đời
Tấn. KÊ KHANG chẳng những là Nhà Tư Tưởng, nhà Văn Học
mà còn là Nhà Âm Nhạc nổi tiếng lúc bấy giờ với
bản đàn Quảng Lăng Tán 廣陵散, mà cụ Nguyễn Du đã
mượn NÓ để khen tài đờn của Thuý Kiều, khi cô đờn
cho Kim Trọng nghe lần đầu tiên là :
Kê Khang nầy khúc Quảng Lăng,
Một
rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Hạc Lập Kê Quần Trúc
Lâm Thất Hiền
YAO MING 姚明 : là Diêu Minh
( người mặc áo đỏ trong hình trên ), cầu thủ bóng rổ
của Trung Quốc được Hội Bóng Rổ nhà nghề Rocket của
thành phố Houston ký hợp đồng từ năm 2003 đến
2008 để tranh Giải Bóng Rổ Toàn Quốc Hoa Kỳ NBA. Yao Ming có
thân hình cao 7'6" ( 226cm )= 2 mét 26, nên khi đứng giữa các
cầu thủ khác thì như là HẠC LẬP KÊ QUẦN 鶴立雞群
vậy !
Con GÀ
trống oai vệ mạnh mẽ là thế, nên có những con người yếu
đuối không thể khống chế nỗi con gà, ngay khi cả con gà đã
bị kềm chế ... thúc thủ chịu trói rồi mà còn trói không
chặc, để đến đỗi mang tiếng là THỦ VÔ PHƯỢC KÊ
CHI LỰC 手無縛雞之力 là Tay không đủ sức để
trói gà. Thành ngữ nầy thường dùng để chỉ những
chàng thư sinh ngày xưa, tối ngày chỉ biết ôm lấy quyển
sách, miệng luôn đọc câu THI VÂN 詩云 ...TỬ VIẾT 子曰
... ( Kinh Thi nói rằng... Khổng Tử dạy rằng ... ) mà không chịu
rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh để đến nỗi không có
sức trói nỗi con gà, ta nói là " Thứ cái đồ thư
sinh trói gà không chặc !".
Nhưng
dù " Trói gà không chặc " nhưng các bà các cô ngày
xưa cũng vẫn cứ ... xáp vào ! Và còn biện bạch là :
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ !
Khéo mà nói xạo ! Chẳng là
vì " Cái bút cái nghiên " của anh đồ, một khi "
ảnh " Kim Bảng Đề Danh thì sẽ có được " Ruộng cả
Ao liền " như chơi mà thôi ! Nên khi còn hàn vi thì đành
bóp bụng mà GIÁ KÊ TÙY KÊ, GIÁ CẨU TÙY CẨU 嫁雞隨雞,嫁狗隨狗
Là Gả cho Gà thì theo Gà, Gả cho Chó thì theo Chó, mười
hai bến nước, trong thì nhờ, đục thì ... chịu khó
" lóng phèn " mà thôi !
Con Gà rất gần gũi với người nông dân Việt Nam, là gia cầm
quen thuộc và gắn bó mật thiết với đời sống hàng
ngày của dân nước nông nghiệp, nó còn xuất hiện rất
nhiều trong ca dao, tục ngữ để khuyên nhủ, nhắc nhở hay chê trách
một điều gì đó trong cuộc sống, đôi khi lại cảm thông
tưởng thưởng, như những người góa vợ mà chịu khó
" Gà trống nuôi con "; những người biết nhẫn nhịn, không
như " Con gà tức nhau vì tiếng gáy ". Khi chê trách thì
không thiên vị người nào, kể cả các bậc vua chúa như
Lê Chiêu Thống cũng bị quở là " Cõng rắn cắn gà nhà
"!. Anh em trong nhà thì luôn được nhắc nhở là " Anh em như
thể tay chân ", nên :
Khôn
ngoan đá đáp người ngoài,
Gà
cùng một mẹ chớ hoài đá nhau !
Khuyên thì khuyên vậy, chớ đôi
khi vì quyền lợi, tài sản, thậm chí chỉ vì miếng cơm
manh áo vẫn có thể " Gà nhà bôi mặt đá nhau như
thường !". Có được đứa " Con gái rượu " lấy
chồng giàu sang quyền quý, thậm chí được làm Thiếp làm
Phi của vua, như Dương Qúy Phi ngày xưa, hoặc như cô Giả Nghinh
Xuân trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần thì cả nhà
đều được vinh hoa phú qúy như có được " Con Gà
đẻ trứng vàng " vậy ! Trước mắt, các cô lấy chồng
ngoại quốc, hay Việt Kiều Mỹ, Úc, Canada ... thường xuyên gởi
" đồ tiên " ( là Tiền Đô ) về cho gia đình
chi dụng, cũng gọi được là có " Con Gà đẻ trứng
vàng ", hay mĩa mai hơn thì nói là " Gia đình đó có
được miếng đất xéo ở bên Mỹ đó !".
Gà trống
nuôi con " Đồ Tiên " Gà đẻ
trứng vàng
Con GÀ đi liền
với con người từ bé đến lớn, từ nhỏ đến già.
Hình ảnh đàn gà con tíu tít bên gà mẹ, hay hình ảnh
gà mẹ dang rộng đôi cánh ra để che chở cho con mình, luôn
là hình ảnh đẹp trong hội họa, trong nhiếp ảnh ... Không buồn
như cảnh :
MẸ GÀ CON VỊT chít chiu,
Mấy
đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng !
Nhắc đến " Mẹ Gà
Con Vịt " lại nhớ đến bốn chữ " Đầu Gà Đít
Vịt " của dân miệt Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu ... để
chỉ các cô gái người Hoa lai ... Miên. Các cô em nầy có
nước da ngâm ngâm... bánh it, với đôi mắt to đen lay láy,
đặc biệt là hai hàng lông nheo dài cong vút thường hay chớp
chớp như để hớp hồn người đối diện. Nhất là các
cô người Tiều Châu. Trong truyện ngắn " Đầu Gà Đít
Vịt " của nhà văn Bình Nguyên Lộc, ông đã viết
như thế nầy :....
...
Người đàn bà cha Tàu mẹ Miên vừa có sắc đẹp,
lại vừa ngây thơ, chân thật, dễ yêu lắm !
Trứng gà, thịt gà với đủ
các món như Ốp la, Ốp lết, Xé phay, Luộc, Nướng, Quay,
Chiên, nấu Cà-Ri ... luôn hiện diện hằng ngày trong các bửa
ăn gia đình. Định cư ở Mỹ rồi thì lại càng " gần
gũi " với thịt gà hơn, vì đây là món thịt rẻ
nhất nước Mỹ, với 10 pounds ( khoảng 4 ký Rưởi ) Leg quarters ( Phần
tư gà có luôn đùi ) lắm khi hạ gía chỉ còn có
một đồng 99 xu mà thôi. Bửa ăn tiện lợi và nhanh nhất
cho những ngày bận rộn là Fry chicken ( Gà lăn bột chiên ). Bảo
đãm rất ngon miệng, rất no nê và sẽ ... rất mau lên cân,
rất mau lên máu ! Và cũng sẽ rất mau ... " quáng gà ",
" Trông gà hóa cuốc ", đưa đến cảnh " Ông nói
gà bà nói vịt " : Đi chưa tới chợ mà mua tương cái nổi gì !
Bà con miền Bắc
nói : " Con gà cục tác lá chanh ", tôi không biết là
họ đang làm món gì, chắc họ đang ăn gà luộc ?! Tôi
là dân Nam Kỳ lục Tỉnh chỉ biết " Rau răm nó hại con gà
chết tươi !" Thịt gà " xé phay " thì không thể nào
thiếu rau răm cho được. Thịt gà ngoài việc xào gừng, xào
xã ớt, còn một món xào thật đặc sắc mà không dân
nhậu nào không thích cả, đó chính là " Gà xào
bún nấm củ hành !", nhậu cũng " bắt " mà ăn cơm
cũng " hết xẩy " luôn ! Rất thực tế chân thật, không
mĩa mai như miền ngoài :
Gà tơ xào với mướp già,
Vợ
hai mươi mốt chồng đà sáu mươi.
Nói đến đây, lại nhớ
đến một câu chuyện dân gian về " ăn chia " thịt gà trong
gia đình; để thay đổi không khí, xin được kể theo kiểu
phóng tác của ông Ly Cu Tê ở CANADA, vừa có phong thái cổ
điển lại vừa có hơi hám thời sự của hiện tình đất
nước .... Trích :
Xưa bên nước
Vệ có ông nọ làm quan đến chức Tể Tướng. Hơn thập
niên nắm quyền sinh sát trong triều đình, của cải ngân lượng
ở bá tánh thuộc về ông không biết cơ man nào mà kể.
Ngày kia, biết mình đã sắp đến lúc bị cho về vườn
giăng câu đặt trúm, chích thuốc dạo, Tể Tướng bèn
sai gia nhân làm thịt một con gà mái dầu luộc chín bày lên
dĩa, sau đó ông gọi các con lại mà rằng:
- Các con nghe đây, tuổi cha
nay đã cao, sức nhai sắp hết mà sức bú cũng chẳng còn,
thời khắc giã từ mũ mão áo gấm không còn xa nữa.
Hôm nay ta có con gà luộc, các con hãy tới chọn một bộ phận
trên mình gà, rồi làm câu thơ ứng với thứ mình chọn.
Để ta biết chí hướng của từng đứa mà lo đường
công danh sự nghiệp mai sau cho !
Bốn người con đồng thanh dạ ran. Chàng trưởng nam giơ tay xin ứng
khẩu trước, anh bước tới đĩa ngắt lấy cái đầu gà
bỏ vào chén mình, rồi dõng dạc ngâm:
- Trai thời trung hiếu làm ĐẦU
!
Ông quan nghe vậy khoái chí
phán:
- Chọn đầu
gà chứng tỏ con là người thao lược, lắm mưu nhiều kế.
Để ta cho con làm quan ở bộ Xây, mỗi năm xây chừng mười
cái tượng đài và tháp tàng hình thì mặc sức mà
đếm ngân lượng !
Đến phiên người chị cả bước lại bàn bẻ cặp đùi,
hai cánh và chiếc phao câu, rồi thong thả ứng khẩu:
- Gái thời tiết hạnh PHAO CÂU,
CÁNH, ĐÙI !
Tể tướng
nghe xong vuốt tóc con gái tấm tắc khen:
- Giỏi lắm con gái rượu của ta, chọn đùi
cánh là số phải đi xa, chọn phao câu là người đảm
đang có hậu. Được, ta cho con qua xứ Cờ Hoa du học, rồi kiếm
thằng Vệ kiều liu vong nào bên ấy mà kết tình phu phụ đặng
yên bề gia thất nghe chưa !
Người thứ ba là cô con dâu, nàng rón rén bước lại
đĩa gà bê nguyên bộ lòng e thẹn ngâm nga:
- Phần con một DẠ một LÒNG
!
Thấy con
dâu xinh đẹp mặt hoa da phấn chọn bộ lòng gà, Tể tướng
gật gù:
- Lòng
mẹ bao la như biển Thái Bình, con đã chứng minh lòng hiếu thảo
với gia đình ta, sau này con sẽ là đệ nhất phu nhân xứ
Vệ !
Người
cuối cùng là chàng út có dung mạo giống cha mình hồi trẻ
như đúc, anh nhanh nhảu bước lại đĩa rinh hết cái mình
gà, rồi hí hửng đọc:
- Công cha nghĩa mẹ hết MÌNH vì con !
Ông quan vỗ đùi đánh đét một phát,
rồi đưa tay vuốt vuốt chiếc cằm nhẵn thín, mặt ngửa lên
trời cười ha hả ý chừng vô cùng khoái lạc:
- Kha khá khá. Đúng là
hổ phụ sanh hổ tử, chọn mình gà chứng tỏ biết bao quát
nhìn xa trông rộng giống ta, nay ta cho con về cai quản vùng đất Trung
phần, ở đấy rất thuận lợi cho việc thăng quan tiến chức của
con sau này !
Bốn người con cúi đầu vâng mệnh ai về chỗ nấy. Bắt
đầu từ hôm đó cô chị cả được ông cho qua xứ
Cờ Hoa du học, rồi yên bề gia thất với một chàng Vệ kiều
lưu vong. Người con trai thứ được ông cho về bộ Xây, nghe đâu
mới được thăng lên quan đầu tỉnh thuộc miền Tây giang
thuỷ. Chàng út cùng cô dâu xinh đẹp giờ đang cai quản miền
Trung nắng gió đầy sản vật, chuyện đến đây không có
gì đáng nói.
Nhiều năm sau, câu chuyện chia gà của ông quan Tể Tướng bị
lũ dân đen bần nông vàng vẩu đất Vệ đồn đãi
khắp hang cùng ngõ hẻm nên người trong thiên hạ mới có
thơ rằng:
Con vua thì cứ làm vua,
Con sãi ở chùa vẫn quét lá đa,
Còn lâu dân mới dám... nổi can qua,
Nên
con vua cứ thế mà... làm cha dài dài !
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm quyết định xóa số
2 sòng bạc lớn nhất Sài Gòn Chợ Lớn là Kim Chung và Đại
Thế Giới, thì đề 36 không còn nữa . Nhưng nhóm quân đội
người Nùng giúp Tổng Thống dẹp loạn Bình Xuyên vẫn còn
xổ đề ở vùng Cây Da Xà Phú Lâm Chợ Lớn,
và họ đã thêm vào 4 con nữa cho đủ 40. Bốn con thêm
vào là 37 Thiên Công ( Ông Trời ), 38 Địa Chủ ( Đất Đai
), 39 Thần Tài và 40 là Táo Quân ( Ông Táo ). Theo đề
36, thì CON GÀ tên chữ là NHỰT SƠN, đứng đầu trong nhóm
TỨ HÒA THƯỢNG mang số 28, nếu đánh theo Xổ số Kiến Thiết
từ 00 đến 99, thì phải thêm một con 68 nữa là Con Gà Lớn,
theo như ...
Đêm qua mơ thấy con gà,
Sáng ra 28 cứ đà ghi ngay.
Số lớn 68 chẳng sai,
Ai
dè nó xổ ...con Nai ... hết tiền !
Nạn đánh đề
càng trầm trọng khi xã hội càng phân biệt giàu nghèo. Dân
càng nghèo càng phải chạy theo cuộc sống và càng mê số đề
hơn, và... càng thua nhiều hơn nữa, rồi càng phát sinh nhiều
tệ nạn xã hội hơn và cuối cùng là xã hội càng
băng hoại hơn ! Đến nỗi phát sinh thêm một loại gà mới
: " Gà Móng Đỏ " ! Nghe mà đau lòng, vì đây không
phải là Gà thật, mà là tiếng lóng dùng để gọi
các cô gái ăn sương, bán trôn nuôi miệng, sống lang thang
vất vưởng mà người đời miệt thị là hạng
" Mèo mả Gà đồng ", như Hoạn Bà, mẹ của Hoạn
Thư đã hạ nhục Thúy Kiều :
Con
này chẳng phải thiện nhân,
Chẳng
phường trốn chúa thì quân lộn chồng
Ra
tuồng MÈO MẢ GÀ ĐỒNG,
Ra tuồng
lúng túng chẳng xong bề nào !
Buồn
thay số đề ! Con Gà là NHỰT SƠN 日山, là Trời đã
về chiều, Mặt trời sắp lặn xuống núi. Theo số đề hoài
thì đời sẽ sớm ... về chiều và sẽ ... lặn xuống núi
luôn ! Thua đề hết tiền thì đi vay nguội, vay nóng, vay "
xã hội đen " ký giấy nợ với mức lời cắt cổ "
Xanh xít đít đui ( cinq six dix douze : Mượn 500 thì cuối tháng
trả 600; mượn 1000 thì cuối tháng phải trả 1200 )." Bút
đã lỡ sa, thì Gà cũng chết ngắt !". Ông bà ta dạy
:
Nhất tự nhập công môn, 一字入公門,
Cửu
ngưu đà bất xuất. 九牛拖不出。
Có nghĩa :
Một chữ đã " lỡ " vào đến công
đường rồi, thì ...
Sức mạnh của chín con trâu cũng kéo ra không nỗi !
" Bút đã lở sa, thì
Gà phải chết " mà thôi ! Như nhắc đến câu " Cỏng
rắn cắn gà nhà, Rước voi giày mả Tổ " là bàng
dân thiên hạ sẽ nghĩ ngay đến ông vua cuối cùng của triều
Hậu Lê :
Lê Chiêu Thống !
Bút sa gà chết
Gà chết vì là món ăn khoái
khẩu của người đời, nên hễ có dịp là mỗ gà,
là giết gà, là làm thịt gà để đãi nhau
khi gặp bạn, để ăn nhậu lúc hội hè. Thề thốt
nghiêm trang thì vặn cổ gà, Tế thần tế thánh cũng cắt
cổ gà, cúng quải ông bà cũng luộc con gà ... Hễ
có dịp là sẽ mượn cớ để giết gà, giết gà để
dọa khỉ, mất đồ mất đạc thì vái cúng con gà ...
Con gà được dùng để trả lễ cho thần thánh, dùng để
trả ơn, như ở Mỹ hiện nay, mỗi năm trong ngày Lễ TẠ ƠN
( Thanksgiving ) hơn 50 triệu con Gà Tây được đưa lên bàn ăn
để làm lễ " Tạ Ơn "...
Lễ Tạ Ơn ở xứ Mỹ nầy
được cho là bắt nguồn từ lễ kỷ niệm tại Plymouth, Massachusetts,
nơi những người hành hương tị nạn tôn giáo Anh đã
mời người da đỏ bản địa đến dự một bữa tiệc
thu hoạch sau một vụ mùa bội thu để tỏ lòng biết ơn.
Vụ thu hoạch
của năm trước bị thất bát là vào mùa đông năm
1620, một nửa số người hành hương bị chết đói. Những
người sống sót may mắn được các thành viên của bộ
lạc Wampanoag địa phương dạy cách trồng ngô, đậu, bí
đỏ và đánh bắt cá hải sản, săn gà rừng....
Bữa tiệc
được tổ chức kéo dài trong 3 ngày, gồm các món như
gà Tây, ngỗng, tôm hùm, cá tuyết và nai.
Đặc biệt là mỗi năm,
ít nhất có một con gà tây sẽ được Tổng thống Hoa
Kỳ " ân xá ". Ân xá cho gà tây chính thức trở thành
nghi lễ của Nhà Trắng dưới thời Tổng thống George H.W. Bush ( Bush cha
) vào năm 1989 khi ông " miễn tội " cho một con gà tây tại
Vườn hoa hồng trong Nhà Trắng.
Năm
rồi, Tổng thống Obama đã ân xá cho một trong hai con gà tây
tại Nhà Trắng vào ngày 23/11.
Năm
nay, Tổng thống tân cử Donald Trump sẽ quyết định có tiếp tục
nghi lễ này không, hoặc ông sẽ chọn một hình thức khác
? Chúng ta hãy chống mắt chờ xem !
Sang qua Pháp thì con Gà Trống trở thành
thần vật, là biểu tượng của nước Pháp với danh xưng
" Con Gà Trống Gô-loa ". Thực ra đây chỉ là một cách
chơi chữ, rồi lộng giả thành chơn. Vì Tổ Tiên của Pháp
là người Gô-loa ( Gaulois ),tiếng La-tinh viết là Gallus, mà Gallus còn
có nghĩa là " gà trống ".
Nhận thấy con Gà Trống có nhiều ưu
điểm hơn người, từ hình dáng cho đến đi đứng tính
cách đều có điểm ưu việt, như " Nó " sở hữu
một ngoại hình đẹp đẽ : oai vệ với mào đỏ rực,
đuôi dài màu xám xanh cong lên như những đoản kiếm. Mỗi
buổi sáng đều gáy vang báo thức đúng giờ, rồi hiên
ngang đi vòng quanh trang trại để bảo vệ bầy đàn. Sự cảnh
giác và lòng dũng cảm của những chú gà trống đã
trở thành lý do khiến nó trở thành biểu tượng của người
Pháp.
Thời trung cổ, gà
trống Gô-loa được người Pháp sử dụng như một biểu
tượng tôn giáo, thể hiện niềm hy vọng và đức tin. Hình
ảnh những con gà trống thường xuất hiện trên các tháp
chuông nhà thờ, tháp canh.
Vào
thời kỳ Văn Hóa Phục Hưng, hình ảnh những con gà trống
được gắn liền với sự hình thành của nước Pháp.
Dưới các vương triều ở thời kỳ này, các bản chạm
khắc và đồng tiền đều mang hình ảnh gà trống. Nó
cũng xuất hiện trên lá cờ trong cuộc Cách mạng Pháp 1789 và
tượng trưng cho sự kiên cường, lòng dũng cảm của người
dân nước này trong Thế Chiến Thứ Hai. Ngoài ra, phần lớn người
Pháp đến bây giờ vẫn coi gà trống Gô-loa là biểu tượng
của sự chân thành và tươi sáng.
Khi các đội tuyển Thể Thao của
quốc gia Pháp đi giao đấu, mọi người trên thế giới đều
gọi họ với biệt danh " Những chú gà trống Gô-loa " là
vì thế !
Biểu
tượng của nước Pháp : Con Gà Trống Gô-Loa.
Trở lại với phong trào THƠ MỚI của ta thời Tiền Chiến, ngoài
những thơ tình ướt át làm rung động lòng người, như
những bài thơ tình của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Đông Hồ,
Tương Phố, TTKH.... Ta còn nghe được tiếng Gà Gáy của miền
quê thôn dã vang vang cả sáng trưa chiều tối vọng mãi trong
tâm hồn người dân Việt, nhất là những người dân
Việt sống lưu vong nơi xứ lạ quê người như chúng ta hiện
nay. Nào hãy nghe ...
Tiếng gà gáy ơi! gà gáy ơi!
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời.
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp,
Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi.
..........................................
Gà gáy đầu thôn, gáy giữa thôn,
Mưa tinh sương mát tận tâm hồn.
Đó là tiếng gà gáy
trong buổi ban mai vang lên từ đầu bếp đến đầu thôn,
giữa thôn của Huy Cận, Ông còn cho gà gáy hòa âm trên
biển sóng :
Tiếng gà trên biển hạ cung trầm,
Tiếng sóng hòa theo chẳng tạp âm.
Tiếng sóng làm nền cho tiếng gáy,
Trầm bao nhiêu, lại bấy xa xăm !...
Và
tiếng
Gà gáy trong mưa khi được mùa :
Gà
gáy trong mưa tiếng vẫn trong,
Giọng kim giọng thổ rộn vang đồng.
Được mùa giống mới, gà no bữa,
Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông.
.... Và không
riêng gì Huy Cận, ta còn nghe thấy tiếng gà gáy trong ký ức
tuổi thơ của Chế Lan Viên :
Nhớ
biển miền Trung tiếng sóng đùa
Nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...
Nhớ chao ôi nhớ ! Trời xanh thế !
Gà lại dồn thêm tiếng gáy trưa !
Nhắc
đến gà gáy trưa thì không thể nào thiếu được
tiếng gà gáy trong Nắng Mới của Lưu Trọng Lư :
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Bỏ văn sang võ : Võ Gà, đương
nhiên phải là Võ Gà Trống, là HÙNG KÊ QUYỀN 雄雞拳
!...
Vào
thời Tây Sơn, tương truyền Nguyễn Lữ là người đã
sáng tạo ra môn võ Hùng Kê Quyền (quyền gà chọi) hay Hồng
Kê Quyền, là bài quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà
chọi, một trong 10 bài danh võ được Liên đoàn võ thuật
cổ truyền Việt Nam lựa chọn qua các kỳ hội nghị chuyên môn
toàn quốc ( sau 1975 ). Đặc trưng của bài quyền là những động
tác dũng mãnh của con gà chọi nhỏ bé mà nhanh nhạy trước
đối thủ, bài Hùng Kê Quyền sử dụng ngón tay trỏ để
đâm mô phỏng hình mỏ gà, và các ngón còn lại
co vào như chiếc cựa gà. Thủ pháp độc đáo như vậy
lại nhằm vào những mục tiêu hiểm của đối thủ, như các
huyệt đạo, ngực, hầu v.v. Bộ pháp của bài quyền hết sức
linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ
trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách kiến hiệu, khiến đối
thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát
thương.
Còn ai mê đọc tiểu
thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung thì không thể nào không
biết đến chiêu thức KIM KÊ ĐỘC LẬP 金雞獨立, một
chiêu thức võ công độc đáo, đứng thẳng một chân
với nhiều tư thế, hai tay cung ra hai bên với nhiều điệu bộ khác
nhau. Đây cũng là một chiêu thức của môn Thái Cực
Quyền, đồng thời cũng là một phương pháp dưỡng sinh độc
đáo có một không hai để phòng ngừa các bệnh như Tiểu
đường, Cao huyết áp, Mất trí nhớ ...
Các tư thế của chiêu thức Kim Kê Độc Lập
Ta thấy, CON GÀ gần gũi thân thiết với con người là thế,
NÓ hiện diện trong sinh hoạt, thực phẩm, giải trí và cả phương
pháp dưỡng sinh nữa, lại mang những đức tính tốt đẹp
như duy trì kỷ luật, đúng giờ, có tinh thần trách nhiệm,
"ga-lăng" với phái yếu và bảo vệ bầy đàn ... Nên
các Thầy Đồ Nho xưa thường hay khuyên học trò là :
" NINH VI KÊ THỦ, BẤT VI NGƯU HẬU "
寧 為 雞 首, 不 為
牛 後。
Có nghĩa
:
Thà làm
đầu gà, ( chớ ) hổng thèm làm đít trâu !
Đầu gà tuy NHỎ
nhưng mồng mỏ đẹp đẽ hiên ngang, còn đít trâu tuy LỚN
mà là nơi thải ra những thứ ... thối không chịu được
!
Trở lại với sấm Trạng Trình của 500
năm trước : " Mã đề Dương cước anh hùng tận, Thân
Dậu niên lai kiến thái bình !" . Thêm một " anh hùng hay anh
khùng " Fidel Castro vừa mới " tận " cuối năm 2016 đây, chú
khỉ THÂN thì đã đi qua rồi, liệu con gà DẬU có mang
đến Thái Bình được hay không ? Dân Chợ Lớn nói "
DẬU 有 là CÓ " . Trong khi tổng thống đắc cử của nước
Mỹ là tỉ phú ĐỖ NAM TRUNG ( Donald Trump : Báo chí trong nước
dịch âm là Đỗ Nam Trung !) chỉ muốn rút vào cái vỏ
sò MỸ xinh đẹp của mình mà không màng đến thế giới
nữa. Điệu nầy chắc phải cầu cứu với CHỊ DẬU người
mẫu mặc rất ít đồ là Melania Trump thúc vào hông của
ông ta xem sao !?
Mong rằng trong năm ĐINH DẬU 2017 nầy,
thế giới sẽ KIẾN THÁI BÌNH trong phép lạ !!!
Đỗ Chiêu Đức
Thơ Vịnh Năm Gà 2017 :
CHUYỆN GÀ NĂM DẬU
Thứ
mười chi Dậu thuộc con Kê,
Gặp
phải thiên Đinh trở lộn về.
Đinh Dậu gà nòi đang tạo dáng,
Bính Thân
khỉ đột đã về quê.
"Văn
kê khởi vũ" tua cần mẫn,
"Độc
lập kim kê" thỏa mọi bề.
"Cỏng rắn cắn gà" gương lịch sử,
"Bút
sa gà chết" tội vua Lê !
Đỗ Chiêu Đức
Câu đối cho năm Đinh
Dậu 2017 :
Bính Thân khỉ đã về non,
Thân
hữu bốn phương cùng đón Tết.
Đinh Dậu gà đang tạo dáng,
Đồng hương khắp chốn thảy mừng xuân !
Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
THẨN
THƠ 12 THÁNG
Tháng Chạp cứ hằng năm,
Trong gió rét căm căm.
Xuyến xao đời lữ thứ,
Nhớ " Giây Phút Chạnh Lòng " !
Hôm
nay tạm nghĩ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran.
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang !
( Thế Lữ )
Mười một quạnh
thu đông,
Sau " Giấy Phút Chạnh
Lòng ".
Nhớ hoài anh Thứ Lễ,
Mai khóc, hạt sương đong !
Em
đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
Vin cành sương đọng lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : " Hoa kia khóc hộ người ! ".
( Thế Lữ )
Tháng Mười gió
thu sang,
Hờ hững cuốn lá vàng.
Vàng bay đầy muôn lối,
Ai xui thiếp phụ chàng ?!
Trận
gió thu phong rụng lá vàng,
Lá bay hàng xóm lá bay sang.
Vàng bay mấy lá năm già nữa,
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng ?!
(
Tản Đà )
Tháng chín lễ
Đăng Cao,
Rừng thu lá xạc xào.
Nhạn từng bầy nam độ,
Ngơ ngác chú hươu sao.
Em
không nghe rừng thu,
Lá
thu kêu xào xạc,
Con
nai vàng ngơ ngác,
Đạp lên lá vàng khô !
( Lưu Trọng Lư )
Tháng tám
ước đoàn viên,
Trăng sao cùng
Thơ Thẩn.
Nội ngoại khắp mọi
miền,
Thoả tình lòng hoài
vọng !
Hẽm
rộng thênh thang bỗng nở hoa,
Hân hoan đón bạn nắng chan hòa.
Hôm nay họp mặt Vườn Thơ Thẩn,
Trả lại hồn thơ tuổi ngọc ngà !
( Vương thủy Tùng )
Tháng
bảy ướt mưa Ngâu,
Đôi lứa
ngẩn ngơ sầu.
Hai phương trời
cách biệt,
Chờ Ô thước bắt
cầu !
Từ
đó thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ !!!
(
T T KH )
Tháng sáu hè đỏ
lửa,
Phượng hồng phủ lối đi.
Tiếng ve sầu ra rả,
Não nề thay, chia ly !
Rồi
chiều nay hè trở về đây...
Phượng
thắm ơi phượng thắm rơi đầy ...
Lại cách xa nhau chín mươi ngày,
Hay
là một thế kỷ dài,
Mà
lòng ai đang khóc ai !....
( Mùa Chia Tay - Duy Khánh )
Tháng năm ngày
mùng năm,
Cùng chào Đoan Ngọ
lại.
Văn học cổ nhớ hoài,
Tích xưa Nhị Độ Mai.
Nụ
hồng rãi lối liễu tơ phai,
Vườn cũ rêu lan cỏ mọc dài.
Bên gốc mai già xuân vắng vẻ,
Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai.
( Jean Leiba )
Tháng tư ngày dài
thế,
" Phù Dung " nở trong ao.
Ngó sen non mới nhú,
Gió đưa hương ngạt ngào !
Trong
đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy
vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn !
( Ca dao )
Tháng ba đào mai úa,
Hoa nở cuối Trà Mi.
Âu sầu nàng thôn nữ,
Lặng lẽ mối tình si.
Danh
lợi như mây nổi giữa trời,
Hồng nhan phải giống mãi trên đời.
Đợi
anh áo gấm xuân sau lại,
Chỉ sợ nghiêng giành hốt qủa mai !
(
Jean Leiba )
Tháng hai xuân thắm tươi,
Gieo sức sống bao người.
Kỷ niệm hồng êm ái,
Chan hòa khắp nơi nơi !
Xuân
đã đem mong nhớ trở về,
Lòng cô lái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên
bến cùng ai đã hẹn thề.
( Nguyễn Bính )
Tháng giêng Tết
thong dong,
Vạn vật như bừng sống.
Pháo đỏ với liễn hồng,
Niềm vui cao lồng lộng !
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với
trên màu má gái chưa chồng.
Bên
hiên hàng xóm cô hàng xóm,
Ngước
mắt nhìn trời đôi mắt trong !
(
nguyễn Bính )
.......................................
Xuân đến xuân đi xuân lại qua,
Thời gian vùn vụt khéo ru mà.
Vui xuân vui cả Ngày Năm Tháng,
Chớ để xuân qua phí tuổi già !
Đỗ Chiêu Đức
Hò hơ....
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền,
Đừng
cho lúa gạo ...ờ ... hò hơ ...
Đừng
cho lúa gạo...ờ... Xóm giềng họ cười chê !
Tôi sinh ra ở
xã Thường Thạnh, Ba Láng, tức là ấp Yên Thượng của
Thị Trấn Cái Răng, huyện Châu Thành, tỉnh Phong Dinh, nên nghe
thuộc lòng câu hò trên từ lúc còn chưa vào lớp Đồng
Ấu. BA LÁNG quê tôi, nơi đây lúc tôi còn nhỏ, trong
làng xóm còn có những vị tiền bối chức sắc của
tổ chức xã hội trước kia, như : Hương Quản, Hương Sư...
Đặc biệt nhất là ông Ba Hương Sư, tác phong nghiêm chỉnh,
đạo mạo. Theo nghĩa của chữ Sư, thì chắc hồi xưa ông
Ba là Thầy dạy chữ Nho trong làng.
Khi
tôi khoảng 11, 12 tuổi gì đó, thì ông Ba làm nghề
thầy thuốc, bắt mạch cho toa rất nổi tiếng, có thể là lúc
bấy giờ đã không còn có người học chữ Nho nữa, nên
ông xoay sang nghề làm thầy thuốc chăng ?! Bây giờ thì không
nói về những vị Hương Thân đạo mạo khả kính nữa,
tôi xin kể về một ông Hương Thân rất vui tính ở
trong làng để các bạn nghe chơi tiêu khiển trong những ngày
cuối năm chờ Tết đến !...
Hương
Chức Hội Tề Hương
Sư
Không biết xưa kia giữ chức
vụ gì trong Hương Chức Hội Tề, ÔNG SÁU rất được
mọi người trong xóm kính trọng, giỏi chữ Nho, am tường về
phong tục tập quán cổ truyền, tính tình vui vẻ thích nói
chơi, nên rất được thanh thiếu niên trong xóm yêu mến...
Cũng không biết ưu
thời mẫn thế như thế nào, Ông Sáu hay nói ngược lại
những câu chữ Nho của người xưa. Ví dụ như câu :
Tiền
tài như phân thổ, 錢
財 如 糞 土,
Nhơn nghĩa trị thiên kim. 仁 義 值
千 金。
Nghĩa là :
Tiền của tài
sản thì như là đất là phân, không đáng quí trọng.
Nhân
nghĩa ở đời mới đáng giá ngàn vàng !
thì ông Sáu cũng nhại lại cái âm của
câu nói mà nói ngược lại là :
Tiền tài như ...ông Tiên Tổ,
Nhân nghĩa tợ... cục cức khô !
để mĩa mai thói đời
xem trọng kim tiền mà coi nhẹ nghĩa nhân. Hoặc như câu :
Nhất ngôn ký xuất, 一
言 既 出,
Tứ mã nan truy.
四 馬 難 追。
Nghĩa là
:
Một
lời đã nói ra thì Xe bốn ngựa ( phương tiện giao thông nhanh
nhất
ngày xưa ) cũng không thể rượt theo mà lấy lại lời nói
đó
cho được !
thì ông nói thành :
Nhất ngôn ký xuất,
一 言 既 出,
TỬ ... mã nan truy . 死
...馬 難 追。
hàm Ý con ngựa Chết thì làm sao rượt
theo mà lấy lại lời nói cho được, cho nên cứ nói càn
!...
Nhiều khi Ông chỉ sửa những câu chữ Nho để nói chơi cho vui
mà thôi. Ví dụ như câu :
Bần cư náo thị vô nhân vấn, 貧 居
鬧 市 無 人 問,
Phú tại thâm sơn hữu viễn thân. 富 在 深 山 有
遠 親。
Có nghĩa :
Nghèo mà ở
nơi chợ búa náo nhiệt cũng không có ai thèm hỏi tới, còn...
Giàu mà ở nơi
núi sâu rừng thẳm, cũng có bà con xa tìm đến thăm !
thì Ông nói thành :
Bần cưa ván ngựa đen như sắn,
Cú tại màng tang đứng chết trân !
hoặc như câu
:
Đạo cao long hổ phục, 道 高 龍 虎
伏,
Đức trọng quỉ thần kinh. 德 重 鬼 神
驚。
Nghĩa là :
Đạo pháp mà cao cường thì rồng cọp cũng phải phủ
phục mà chịu phép. Cái đức của con người mà cao trọng
thì quỉ thần cũng phải kinh sợ ( mà không dám làm hại
).
Đạo cao long hổ phục, Đào
ao lên đất cục,
thì Ông
nói lại cho vui là :
Đào ao lên đất cục,
Đứt họng cổ lòi gân !
Nghe Ông nói, lúc đó tôi
bèn quay sang nói nhỏ với thằng bạn là : " Đạo cao long hổ
phục, mà ổng nói thành Đào ao lên đất cục kìa !".
Nhè đâu ông Sáu nghe thấy, mới quay lại nói với tôi
là : " Cái thằng nầy, Đào ao không lên đất cục thì
lên cái gì mậy ? Mà nầy, mầy học chữ Nho mà mầy có
biết " TAM CANG " là gì không ? ". Tôi được dịp, bèn
đáp một cách hãnh diện :
- Thưa Ông
Sáu, TAM CANG là Quân thần cang, Phụ tử cang và Phu thê cang. Bà
con ta hay nói tắt TAM CANG là : Quân thần, Phụ Tử, Phu Phụ.
Ông Sáu cười
cười gằn giọng :
- Mầy giỏi quá há !
Vậy tao hỏi mầy, mầy có biết TỨ CANG không ?
Tôi há hốc, ngạc nhiên
quá hỏi lại :
- Sao có Tứ Cang nữa ông
Sáu ?. Ông Sáu cười lớn nói :
- Cái
thằng nầy không biết gì hết, TỨ CANG là cái lớn nhất
không thể CAN được !. Tôi càng ngạc nhiên hơn , hỏi :
- Cái gì mà hổng CAN được ông Sáu
? Ông Sáu nghiêm mặt lại nói :
- TAM CANG
là Quân thần Cang, Vua đánh tôi, có người CAN được.
Phụ Tử Cang, Cha đánh con, cũng CAN được. Phu Thê Cang, Chồng đánh
Vợ, cũng còn CAN được. Nhưng , Ông đánh thì vô phương
CAN !... Tôi làm tài khôn nhanh nhẩu chen vào :
- Ông đánh thì cũng CAN được chớ sao không ?. Ông Sáu
phá lên cười lớn :
- Thằng nầy, Ong Vò
Vẻ đánh làm sao ai dám CAN. Ong đánh là TỨ CAN đó biết
không ?!...
Vừa lúc đó
anh Ba từ ngoài vườn chạy vào, hai tay che đầu miệng la oai oái,
có mấy con ONG bay theo phía sau... Ông Sáu cười ngất nói :
- Đó, đó ! Thằng Ba nó bị TỨ CANG đó,
mầy giỏi mầy vô CAN đi !
Thì
ra ...
Gần Tết, anh Ba ra vườn sửa sang lại
vườn tược cho gọn ghẽ sáng sủa để Ăn Tết, kéo
nhằm ổ ONG BẦN, nên bị NÓ rượt chạy vào...
Thì
ra, ONG ĐÁNH là TỨ CANG. Ong đánh thì không ai dám CAN cả !!!
Từ đó,
Tôi và các bạn trong xóm gọi ông Sáu là ÔNG GIÀ TỨ
CANG !
Ảnh Minh Họa : Ông Già Tứ
Cang
Đây là chuyện có thật, tên cúng
cơm của Ông Sáu là ĐỰC. Mọi người trong xóm đều
gọi là Ông Sáu Đực. Bà con bên ngoại của Má tôi,
nên Má tôi gọi ông là Cậu Sáu.
Vì là dân Nam Kỳ Luc Tỉnh,
nên nói chuyện phát âm không có phân biệt giữa CAN và
CANG hay ONG và ÔNG gì cả !
Bây giờ, đã
hơn 60 năm qua, ông Sáu đã không còn nữa. Gần Tết, tha hương
đất khách, ngồi đây nhớ lại chuyện xưa, lòng bồi hồi
xúc động. Đâu rồi thời gian thơ ấu, đâu rồi những
phong hóa cũ, đâu rồi những tập tục của ngàn xưa, đâu
rồi ÔNG SÁU của dạo nào ?!... đành ngậm ngùi đọc
lại 2 câu thơ cuối của Vũ Đình Liên trong bài thơ Ông
Đồ là :
Những người muôn năm cũ,
Hồn
ở đâu bây giờ ?!!! ..........
Đỗ Chiêu Đức
Viết
lại cuối năm Bính Thân 2016.
___________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
CHỮ NHO DỄ HỌC MÀ...HỌC KHÔNG
DỄ:
bài 21 đến
bài 25
PHIẾM LUẬN :
GIÓ là PHONG
GIÓ
từ Hán Việt là PHONG 風, thuộc dạng chữ Hình Thanh, gồm chữ
PHÀM 凡 ở phía trên và bên ngoài chỉ ÂM, bộ TRÙNG
虫 là Sâu Bọ ở dưới bên trong chỉ Ý, theo diễn tiến
hình thành của chữ viết như sau đây :
目前所在的位置:风的甲骨文、金文、小篆在线转换
|
甲骨文 Giáp
Cốt Văn | 金文
| 金文大篆Kim văn
Đại Triện | 小篆
| 繁体隶书Chữ
Lệ phồn thể |
| | | |
|
|
| | |
| | |
目前所在的位置:風的甲骨文、金文、小篆在线转换
|
甲骨文
| 金文 |
金文大篆 |
小篆 Tiểu Triện |
繁体隶书
|
| | |
| |
| | |
| | |
|
Chữ viết giản thể
của chữ PHONG như sau :
基本解释 Giải thích cơ bản,
nét bút và phiên âm. |
风 | 拼音:
| fèng,fěng,fēng,
| 笔划:
| 4 |
部首: | 风 | 五笔输入法: |
mqi | |
| | |
|
Với
hàm Ý : Phong động Trùng sinh 风动虫生 ( Gió chuyển động
thì côn trùng sinh sôi nẩy nở ). Nên PHONG là GIÓ, mà...
GIÓ là Hiện tượng tự nhiên của không
khí lưu thông từ chỗ nầy sang chỗ khác, từ cao xuống thấp,
từ lạnh sang nóng, từ đông sang tây... là sự vận động
tự nhiên của bề mặt Trái Đất.
PHONG chỉ sự di chuyển, thay đổi, lan truyền
nhanh chóng, như : Phong ba ( sóng gió ), Phong trào ( sóng nước ), Phong
vũ ( gió mưa ) ...
PHONG chỉ những thói
quen được hình thành trong đời sống xã hội, như : Phong Tục,
Phong dao, Phong hóa ...
PHONG chỉ sự lan truyền tin tức,
như : Phong thanh ( Ta hay nói trại thành " Phong Phanh "), Phong Truyền...
PHONG chỉ Cảnh trí,Thái độ, cử chỉ,
như : Phong Cảnh, Phong độ, Phong cách, Tác Phong...
PHONG LƯU là chỉ sự lưu
chuyển như dòng chảy của gió, nên rất thoải mái dễ chịu.
Cuộc sống Phong Lưu là cuộc sống dư dã giàu có. Con người
Phong Lưu là con người Phóng khoáng Rộng rãi... chịu chơi !
Nhưng... Chịu chơi quá
thì rất dễ bị bệnh Phong Thấp ( thấp khớp, nhức xương
), thậm chí bị bệnh Phong Tình, và bây giờ thì chữ PHONG 瘋
phải đội thêm một cái mão nữa là Bộ TẬT 疒, có
nghĩa là ngồi dựa vào khi Bệnh Hoạn. Trong tiếng Việt ta
có 2 từ Phong Tình cần phân biệt :
* Từ Hán
Việt : Phong Tình 風情 là Tình cảm dồi dào ướt át,
nên Chuyện Phong Tình là chuyện Tình yêu lãng mạn, ủy mị,
thậm chí khiêu dâm tục tiểu..... Mở đầu Truyện Kiều, Cụ
Nguyễn Du viết :
Cảo thơm lần giở trước đèn,
PHONG TÌNH cổ lục còn truyền sử xanh.
Chuyện
PHONG TÌNH ở đây là Chuyện tình trai gái của cuộc đời
cô Kiều với các chàng trai Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải... thì
làm sao mà truyền SỬ XANH cho được ?! Nên có Ý kiến cho
là chữ " CỔ LỤC "( Ghi chép từ xưa để lại, chỉ
Sách Xưa ) của bản Nôm có thể đọc thành " CÓ LÚC
", và câu thơ sẽ là :
PHONG TÌNH CÓ LÚC còn truyền sử xanh.
chỉ CÓ LÚC mà
thôi, phải đặc biệt như cô Kiều mới được truyền
sử xanh, chớ không phải chuyện Phong Tình nào cũng được
truyền sử xanh cả !
* Từ thuần Nôm : PHONG TÌNH là Bệnh Phong do quan hệ tình dục, chơi
bời phóng đảng gây ra. Nói theo bình dân : Bệnh Phong Tình
tức là Bệnh Cùi, bệnh Mắc Tiêm La đó vậy ! Người
Hoa thì không gọi thế, họ gọi bệnh Cùi bằng từ MA PHONG 痲瘋,
còn người miền Bắc thì gọi là Bệnh Hủi !
PHONG
là gió, GIÓ là phong, Gió thổi suốt ngày , từ sáng tới
tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng
nọ, từ năm nọ tới năm kia, nên...
Mùa Xuân thì ta có gió từ hướng
Đông thổi đến. Đông phương Giáp Ất thuộc Mộc, nên
cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa đua nở, muôn hồng ngàn
tía, ta nhớ lại 2 câu thơ cuối trong bài Đề Tích Sở Kiến
Xứ 題昔所見處 của Thôi Hộ 崔護 đời Đường
là :
Nhân diện bất tri hà xứ khứ, 人面不知何處去,
Đào hoa y cựu tiếu ĐÔNG PHONG.
桃花依舊笑東風。
mà cụ Nguyễn Du đã mượn ý thoát dịch trong Truyện
Kiều rất hay là :
Trước sau nào thấy mặt người,
Hoa đào năm ngoái còn cười GIÓ ĐÔNG.
Gió
Đông là Đông Phong, là gió của mùa Xuân từ hướng
Đông thổi tới, nên cũng còn được gọi là Xuân Phong.
Rất nhiều người cứ lầm tưởng Đông
Phong là gió của mùa Đông, kể cả người Hoa ở Chợ
Lớn hồi xưa, nên đã sửa câu thơ của Thôi Hộ thành
:
Đào hoa y
cựu tiếu XUÂN PHONG.
桃
花 依 舊 笑 春 風。
mà không biết rằng mình đã làm tài khôn sửa
bậy thơ của cổ nhân !
Trở
lại phong trào Thơ Mới thời Tiền chiến với bài MAI RỤNG của
Jean Leiba có các câu :
Yêu chàng em cố chuốc hình dong,
Tô cặp
môi son điểm má hồng.
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,
Cảm
tình Thanh Đế tạ ĐÔNG PHONG !
Thanh Đế là ông vua của mùa xuân, là Chúa Xuân, còn
Đông Phong là Gió Xuân ấm áp thổi đến cho muôn hoa nở
rộ !
ĐÔNG
PHONG là gió của Mùa XUÂN, còn gió của mùa Đông thì
gọi là BẮC PHONG, Bắc Phương Nhâm Quí thuộc Thủy, Thủy ở
đây là băng giá của vùng Bắc Cực, là gió từ phương
Bắc khô khan lạnh lẽo thổi đến. Gió Bắc được bà
con ta gọi trại thành Gió Bấc, nên có những câu Ca Dao trong dân
gian Nam Bộ như sau :
Gió Bấc non thổi lòn hang chuột,
Thấy chị hai mầy tao đứt ruột đứt gan !
hoặc ...
Gió bấc non thổi lòn hang dế,
Thấy chị hai mầy tao bế hế băng hăng !
Hướng
Bắc còn gọi là hướng Sóc, nên Bắc Phong còn gọi là
Sóc Phong, như trong bài Tòng Quân Hành 從軍行 của Lệnh
Hồ Sở 令狐楚 :
Sóc phong thiên lý kinh,
朔風千里驚,
Hán nguyệt ngũ canh thanh. 漢月五更清。
Túng hữu hoàn gia mộng, 縱有還家夢,
Do văn xuất tái thanh !
猶聞出塞聲。
Tạm dịch :
Ngàn dặm gió bấc thổi,
Năm canh trăng quê nhà.
Dẫu có mộng hoàn gia,
Còn nghe lời xuất tái !
Song
thất Lục bát :
Gió bấc thổi làm kinh lính thú,
Trăng Hán gia vằng vặc canh tà.
Dẫu cho mộng được về nhà,
Bên tai còn vẳng tiếng ra ải ngoài !
Ngược với gió
Bắc là gió Nam, luôn luôn dịu dàng mát mẻ. Nam Phương
Bính Đinh thuộc hỏa, gió của mùa hè oi bức, xoa dịu cái
nóng cho vạn vật chúng sinh.
Trong Khổng
Tử Gia Ngữ, có dẫn bài ca của Đế Thuấn là : " Nam phong
chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề. 南風之薰兮,可以解吾民之愠兮。
"... Có nghĩa : Cái mát mẻ ấm áp của gió Nam, có thể
giải tỏa được nỗi lòng u uẩn ẩn ức của dân Nam ta !
Và... với thâm Ý nầy, ông Phạm Qùynh đã lập ra Nam Phong
Tạp Chí với Ý đồ mở mang dân trí và xoa dịu lòng
dân để ẩn nhẫn đợi thời !
Gió Nam thường hây hẩy vào các buổi trưa hè oi bức làm
dịu đi cái nắng hạ chói chan gay gắt, nên theo các thầy Phong
Thủy thì nhà nên cất xây mặt về hướng Đông Nam, để
buổi sáng hứng lấy ánh mặt trời và buổi trưa thì đón
gió Nam cho mát mẻ ! Điều nầy cũng hợp với sự tự nhiên
của cuộc sống mà không cần đến thầy Địa Lý chỉ
vẻ ta vẫn có thể thấy được !
Gió Nam dễ chịu là thế, cho
nên dân Nam Bộ hay mượn gió Nam để chỉ những việc vui vẻ
hoặc để nói chơi : " Thằng đó nó đi hứng gió
Nam rồi !. Con đó không chồng mà có chửa, bộ hứng gió
Nam sao vậy ?!...."
Nói đến cái mát mẻ của gió, ta nhớ đến câu
" Khoái tai phong dã ! 快哉風也 ! trong bài Hát Nói của
Tản Đà :
HỎI GIÓ
Cát đâu
ai bốc tung trời ?
Sóng sông ai vỗ ? Cây đồi ai rung ?
Phải rằng Dì Gió hay không ?
Phong
tình đem thói lạ lùng trêu ai ?
À,
Thì ra Thần Gió là phái nữ, là DÌ GIÓ, là PHONG DI 風姨.
Thảo nào, khi thì mát mẻ, dịu dàng, mơn trớn êm ái hết
chỗ chê, khi thì nổi tam bành cuồng nộ, xô xập nhà cửa,
làm gãy đổ cây cối, nhấn chìm thuyền bè cũng... hết
chỗ nói ! Đúng ra thì ....
Theo
truyền thuyết cổ đại Trung Hoa xưa, sách " Bắc Đường
Thư Sao ", quyển 144 ghi : " 风伯 名 姨 .此"风姨"之所本.
Phong Bá danh Di. Thử Phong Di chi sở bổn ". Có nghĩa : Ông thần gió
tên là DI, đó là cái lý do tại sao gọi là PHONG DI. Nhưng
vì chữ DI 姨 có nghĩa là DÌ ( chị em gái của mẹ ) nên
mọi người cứ lầm tưởng PHONG DI là DÌ GIÓ, hay cố ý
tưởng là DÌ GIÓ cho nó... thi vị hơn ! Không phải chỉ
riêng Tản Đà mà trong Liêu Trai Chí Dị Bồ Tùng Linh cũng
có hẵn một bài viết về câu truyện giữa Dì Gió và
các loại hoa hẵn hoi !
Bây giờ thì đến 4 chữ " Khoái tai phong dã 快哉風也
!"
KHOÁI 快 :
Chữ có bộ Tâm đứng 忄bên trái, nên nghĩa gốc là
Vui Vẻ ( trong lòng ), như Khoái Lạc, Khoái cảm.
Nghĩa phát sinh là Nhanh nhẹn, mau
mắn, như Khoái Mã.
Chỉ Mát Mẻ như Lương Khoái.
Chỉ tánh tình thoải mái, dễ chịu, như
Sảng Khoái, Thống Khoái ... Nên ...
Khoái tai Phong Dã ! có nghĩa :
* Nhanh thay
là gió !
* Mát mẻ thay là gió !
* Vui vẻ thay là gió !
* Sảng
khoái thay là gió ! ....
Bây giờ thì ta đọc phần còn lại của bài " Hỏi
Gió " nhé !
Khoái
tai phong dã !
快 哉 風 也
!
Giống vô
tình cây đá cũng mê tơi
Gặp gió đây hỏi một đôi lời
Ta hỏi gió quen ai mà phảng phất?
Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích,
此
是 沱 江
非 赤 壁,
Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang.
也 無
諸 葛 與 周
郎。
Ai cầu phong mà gió tự đâu sang!
Hay mải khách văn chương tìm kết bạn?
Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán
Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong
Nên chăng gió cũng chiều lòng !
Nghĩa của 2 câu thơ chữ Hán :
* Nơi đây là sông Đà Giang chớ không
phải sông Xích Bích,
* Chẳng có Gia Các Lượng mà cũng chẳng có Chu Du !
Ý muốn nói : Ở đây không
có ai đánh nhau và cũng không có ai cầu phong cầu gió gì
cả !
Còn ...
Gió
Tây là gió thổi đến từ hướng Tây. Tây phương Canh
Tân thuộc Kim, nên gió Tây còn gọi là Gió Vàng là
Kim Phong, là ngọn gió thổi se sắt lạnh lùng như Ôn Như Hầu
Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng câu
:
Trải
vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh
vũ Y lạnh ngắt như đồng !
Gió Tây, gió
Vàng hay Kim phong là gió của mùa Thu, ta thường gọi là
Thu Phong như bài thơ nổi tiếng của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
:
Trận gió THU PHONG cuốn lá vàng,
Lá
bay hàng xóm lá bay sang,
Vàng bay mấy lá năm già nữa,
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng !
***
Trận
gió THU PHONG rụng lá hồng,
Lá bay tường bắc lá sang đông.
Hồng bay mấy lá năm hồ hết,
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông !
Gió
Thu hiu hắt, se sắt, lạnh lùng cộng với bầu trời thu bao la xanh biếc
với :
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo,
và ...
Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo !
làm cho ta lại nhớ đến Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu với bài thơ Cảm Thu, Tiễn Thu làm hồi tháng chín
năm Canh Thân - 1920 :
Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi rụng đầu nghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
..............................
Gió thu hiu hắt luôn là nguyên nhân khơi dậy " bao ngành biệt
ly ", khơi dậy mối sầu cô đơn của người lữ khách
xa nhà như bài Thu Phong Dẫn 秋風引 của Lưu Vũ Tích 劉禹錫
đời Đường :
何處秋風至? Hà xứ thu phong chí ?
蕭蕭送雁群。 Tiêu tiêu tống nhạn quần.
朝來入庭樹,
Triêu lai nhập đình thọ,
孤客最先聞。
Cô khách tối tiên văn.
Có
nghĩa :
Gió thu từ đâu thổi đến ?
Hắt
hiu đưa tiễn nhạn bầy,
Sáng
nay luồn vào cây lá,
Lữ
khách hay trước hơn ai !
Lục
bát :
Từ
đâu thổi đến gió thu ?
Hắt hiu đưa nhạn mịt mù bay cao.
Sáng nay cây lá lao xao,
Cô
đơn lòng khách nao nao trước người !
Ở gần đường Xích Đạo, vùng Nhiệt Đới như Miền
Nam của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, khi gió Tây thổi cũng vẫn cảm
nhận được cái hiu hắt lạnh lùng, nên trong Ca dao Dân gian vẫn
có câu hát :
Anh
về để áo lại đây,
Để khuya em đắp Gió Tây lạnh lùng !
-
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả
áo anh về đi học kẻo trưa !
Nhớ hồi còn nhỏ, trong giờ học môn Khoa Học Thường
Thức trên lớp, thầy giáo giảng rằng : " Gió là sự chuyển
động của không khí trên bề mặt trái đất, không màu
sắc, không mùi vị .... " Một anh bạn giơ tay phát biểu : "
Thưa thầy, gió có màu chứ thầy." Thầy hỏi : " Màu
gì ? "- " Thưa thầy, màu đỏ bầm. Hôm qua anh của em trúng
gió, má em cạo trên lưng 2 đường đỏ bầm và nói
là : Gió nhiều quá ! " . Cả lớp cười ồ, có tiếng
ai đó nói : " Đồ trúng gió !".
Đó là cách ăn nói
lịch sự, còn bình thường mắng nhau thì là " Đồ
Khỉ Gió !", " Đồ... Cái thằng mắc gió !"... Viết đến đây,
tôi chợt nhớ đến " Thằng Phải Gió " của Miền
Bắc, xin được nhắc lại để đoc chơi tiêu khiển
!
Về cô gái hái chè
gặp " Thằng Phải Gió " dưới đây, diễn tả một câu
chuyện xảy ra trên một đồi chè ngoài ý muốn của cô
gái, thế nhưng cô ta lại tỏ ra rất... hài lòng. Đây là
cái hay của đoạn ca dao đã lột trần được cái tương
phản của tâm lý con người !
CÔ GÁI HÁI CHÈ - Chính Bản
Hôm qua em đi hái chè
Gặp
thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
Nó đem đút cái mả cha nó vào
Bấy giờ em biết làm sao ?
Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu
Cái gì như thể củ nâu
Cái gì như cái cần câu vật vờ
Đọc bài thơ,
ta thấy được sự phản kháng yếu ớt, chiếu lệ của cô
gái, và cuối cùng thì ... nằm im chịu trận, vì ...
Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu !
Chính vì cái tâm
lý tương phản của cô gái mà ta còn tìm thấy thêm
được ở trên mạng nhiều Hậu Bản của bài thơ nữa.
Mời đọc một Hậu Bản sau đây :
Cô Gái Hái Chè
- Hậu Bản
Mấy hôm sau đến vườn chè,
Kiếm thằng phải gió em đè nó ra.
Nó
lạy em, nó xin tha,
Nhưng em cứ đút mả cha
nó vào.
Bây giờ mới sướng làm sao,
Nên em càng giẩy cho vào thêm sâu.
Giẩy
sao cho dập củ nâu,
Giẩy sao cho gẩy cần câu vật
vờ !
Vô danh
Lại một Hậu Bản nữa
!
Cô Gái
Hái Chè - Mười Năm Tái Ngộ
Mười
năm thắm thoát trôi qua
Gặp lại phải gió nó già hơn xưa
Mừng như nắng hạn gặp mưa
Em đè nó xuống em lùa chim ra
Nó nằm nó khóc xin tha
Em ngồi em bóp mả cha ngày nào
Khi xưa củ cứng cần cao
Ngày nay củ xẹp cần dâu cần xìu
Vô danh
Để viết tiếp đoạn kết cho có hậu, Ông ccNN trên mạng
đã cho "Thằng Phải Gío" vượt biên,vinh quy bái tổ về
làng, tay lủng lẳng bị đô la, túi đầy thuốc Viagra...
Thằng Phải Gió là Việt Kiều
"Phải Gió" mang mã Việt kiều,
Viagra đầy túi làm liều kiếm em.
Tủm tỉm nó nốc hai viên,
Mả cha nó đứng chỉ thiên lên liền.
Cả giờ nó lắc như điên,
Ối giời ! sao sướng như tiên thế này
Mười năm nắn bóp rã tay
Nó lắc cho bõ những ngày xuội lơ !
ccNN
Chuyện Thằng Phải Gió
khép lại để kết thúc cho bài phiếm luận " Phải Gió
" nầy !
Đỗ Chiêu Đức
CHỮ
NHO DỄ HỌC
MÀ...HỌC KHÔNG DỄ
BÀI 16 ĐẾN BÀI 20
https://drive.google.com/file/d/0B6-GwvjUy0dHcEFYWXpHbWJlXzA/view?usp=sharing
BÀI 11 đến bài 15
https://mail.google.com/mail/u/0/?ui=2&ik=e1081c2087&view=lg&msg=155facf4b345ac06
https://mail.google.com/mail/u/0/?ui=2&ik=e1081c2087&view=lg&msg=155facf4b345ac06
BÀI
1 ĐẾN BÀI 5:
Click link dưới
đây để đọc
(Download hơi lâu vì
cả 5 bài dài 78 trang. Sẽ đăng các bài kế tiếp)
đ https://drive.google.com/file/d/0B6-GwvjUy0dHc0hvU0I3UzY2a1E/view?usp=sharing
BÀI 6 ĐẾN BÀI 10:
https://drive.google.com/file/d/0B6-GwvjUy0dHTjdFXzBoVWNwUlE/view?usp=sharing
(Còn tiếp)_____________________________________________________________________
-
PHIẾM LUẬN :
LẠM BÀN VỀ THIỆN ÁC và DỤC
Câu đầu tiên
của Huấn Mông TAM TỰ KINH 訓蒙 三字經 là : " Nhân
chi sơ, Tánh bản thiện 人之初、性本善 ". Ý muốn
nói : " Con người lúc ban sơ khi mới được sanh ra, thì bản
tính vốn hiền lành lương thiện ". Điều nầy gần như
là hiển nhiên mà mọi người đều thấy rõ, đứa
bé mới sinh vô tư hiền lành như tờ giấy trắng. Mọi khả
năng, mọi tình huống, mọi biến chuyển về sau của đứa bé
đều do một chữ THIỆN của lúc ban đầu nầy mà ra !
Vậy, THIỆN là gì
? Lần theo từ nguyên ta sẽ thấy ...
甲骨文 |
金文 Kim Văn | 金文大篆 Đại Triện
| 小篆 Tiểu Triện
| 繁体隶书 Lệ Thư
|
|
| | | |
Ta thấy ...
Theo Kim Văn ( Chung đĩnh Văn)
và Đại Triện, chữ THIỆN gồm có chữ DƯƠNG 羊 là Con
Dê là Điềm Lành ở giữa, hai bên là hai chữ NGÔN
言 là Lời Nói, đến Tiểu Triện thì hai chữ NGÔN 言
được nhập làm một, cho đến chữ LỆ, thì chữ NGÔN
lại được rút ngắn lên như chữ viết hiện nay 善.
Nên ...
THIỆN
善 là Hiền, Lành, là trái với ÁC, như từ kép Thiện
Lương 善良 là Hiền Lành, Thiện Tâm Thiện Ý 善心善意
là Lòng Dạ hiền Lành. Ta hay nghe câu :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người THIỆN TÂM.
Ngoài nghĩa HIỀN ra, THIỆN còn
có nghĩa là Thân Mật, như Thân Thiện 親善, Hòa Thiện
和善.
THIỆN
là Giỏi Giắn, Chuyên về việc gì đó là Thiện nghệ
善藝.
THIỆN
KỴ 善騎 : Giỏi về Cởi Ngựa.
THIỆN XẠ 善射 : Giỏi về Bắn Cung, bắn Súng.
THIỆN CHIẾN : Giỏi về Đánh
Trận, Đánh Giặc.....
THIỆN
còn có nghĩa là TÔT, như :
THIỆN
HẬU 善後 : là Hậu Vận Tốt, Già có nơi nương tựa.
THIỆN CHUNG 善終 :
là Chết Tốt, là Chết An Lành.
THIỆN ĐỨC 善德 : thì không tốt tí nào, nói lái
lại sẽ biết !
THIỆN còn có nghĩa
là DỄ, như :
THIỆN BIẾN 善變 : Dễ Thay đổi.
THIỆN VONG 善忘 : Dễ Quên.
ĐA SẦU THIỆN CẢM 多愁善感
: là Đa sầu và Dễ Cảm xúc !
Cuối cùng THIỆN là một trong Bách Gia Tính : Họ THIỆN.
Kết Luận :....
THIỆN là Dễ,
Hiền, Lành, Tốt, Giỏi . Nên nói theo học thuyết của Manh Tử
孟子 ( 372-289 trước công nguyên ):"Nhân chi sơ, Tính bổn Thiện " là " Cái tính ban
sơ của con người vốn Hiền Lành, nên Dễ Giỏi, Dễ trở
nên Tốt Lành. Và " Cẩu bất giáo, Tính nãi thiên
苟不教,性乃遷 " Nếu không được dạy dỗ
thì cái tánh đó sẽ bị thay đổi ( Xấu đi chẳng hạn
!).
Nói theo đạo
Phật, con người sanh ra là đã có sẵn cái THIỆN DUYÊN 善緣
rồi, phải biết vun bồi và phát huy cái Thiện Duyên đó.
Đó chính là cái THIỆN NGUYỆN 善願 để kết nên
cái Thiện Duyên đã có sẵn trong mỗi con người. Tăng Quảng
Hiền Văn của Nho Gia cũng nói rằng :
Nhân hữu
THIỆN NGUYỆN, 人有善願,
Thiên
Tất hựu chi.
天必祐之。
Có nghĩa :
Người mà có cái Thiện
Nguyện, thì Trời sẽ giúp đỡ phù hộ cho ( được toại
nguyện !).
Nhưng theo TUÂN TỬ 荀子
( 313 TCN - 238 TCN), cũng là một nhà tư tưởng của thời Chiến
Quốc, thì " Nhân chi sơ, Tính bản ÁC 惡 " Con người
mới sinh ra đã cất tiếng khóc cùng quằn với cuộc sống, đòi ăn đòi
bú, quơ được tờ giấy thì muốn nhào nát hoặc
xé rách nó đi ... Cái tính bản ÁC 惡 đó cần
phải được uốn nắn dạy dỗ, giáo duc thì mới trở nên
tốt lành được.
Bây giờ thì ta truy nguyên tận nguồn gốc của chữ ÁC 惡 nầy
nhé !
Ta thấy...
ÁC 惡 là chữ thuộc
dạng Hài Thanh, gồm chữ Á 亞 ở trên chỉ ÂM, và chữ
TÂM 心 ở dưới chỉ Ý. Nên, ÁC là một sự biểu
hiện tình cảm ở trong lòng. Nếu cố giảng theo Hội Ý thì
...Á 亞 chỉ sự thua sút, kém cỏi ( như Á quân, Á Hậu,
Á Thánh...), còn TÂM 心 là Tâm lý, là Tình cảm trong
lòng. Tình Cảm thì Một là TỐT, Hai là XẤU mà thôi.
Nên Á ghép với TÂM là Tình Cảm hạng 2, là Tình Cảm
Xấu. Vì vậy nghiã trước tiên của chữ ÁC là XẤU
! Như ...
ÁC
CẢM 惡感 : là Có Cảm giác Xấu về ai đó.
ÁC DANH 惡名
: là Tiếng Xấu, Tiếng Không Tốt.
ÁC
TẬP 惡習 : là Tập quán Xấu, tức là chỉ Thói Xấu
...
ÁC ĐỨC
惡德 : là Cái Đức Xấu. Hành Vi Xấu Xa.
ÁC là HUNG DỮ, như :
ÁC ĐỘC 惡毒 : Ta nói là Độc
Ác !
ÁC BÁ
惡霸 : là Người Hung Ác, Dữ Dằng.
ÁC PHỤ 惡婦 : là Người Đàn
bà Hung dữ. Tương tự, ta cũng
có từ ÁC PHU 惡夫. Bạn bè thường hay nói chơi là
:
Hiền Phụ đánh Ác Phu : là Vợ Hiền đánh Chồng dữ
!
HUNG ÁC 兇惡
: là Hung Dữ và Tàn Ác.
HIỄM ÁC 險惡 : la Hung Hiễm và Ác Độc.
ÁC là Động Từ thì đọc là Ố, có
nghĩa là GHÉT, như :
KHẢ Ố 可惡 : là Đáng Ghét !
HỈ NỘ ÁI Ố 喜怒愛惡
: là Mừng Giận Yêu Ghét !
Trong Tiểu thuyết võ hiệp Thiên Long Bát Bộ, Kim Dung đã đặt
tên rất hay cho Tứ Ác Nhân của mình, bằng cách xem chữ
ÁC nằm ở vị trí nào trong Ngoại Hiệu để biết được
vai vế của người đó trong Tứ Ác như sau :
* Lão đại, Ác nhất, nên
chữ ÁC đứng đầu, hiệu là ÁC QUÁN MÃN DOANH 惡貫滿盈
: là Tội ÁC đã đầy ăm ắp, hết chỗ chứa luôn
! Chính là Thái Tử Đoàn Diên Khánh.
* Lão Nhị, Ác nhì, nên chữ ÁC
đứng ở vị trí thứ 2 là : VÔ ÁC BẤT TÁC 無惡不作
: Có nghĩa là Không Có Cái ÁC Nào Mà Không làm, là
Diệp Nhị Nương, mẹ của nhà sư Hư Trúc.
* Lão Tam, Ác thứ 3, nên chữ ÁC
cũng ở vị trí thứ 3 là : HUNG THẦN ÁC SÁT 兇神惡煞
: là Dữ dằng sát khí như một Hung Thần, chính là Nam Hải
Ngạc Thần.
* Lão
Tứ, Ác thứ Tư, nên chữ ÁC ở vị trí cuối cùng
là : CÙNG HUNG CỰC ÁC 窮兇極惡 : là Hung dữ vô
cùng và Ác hết chỗ nói, đó chính là Vân Trung Hạc.
Kết luận ...
ÁC là Xấu
Xa, Dữ Dằng, Đáng Ghét ! Nên theo Tuân Tử thì vì con người
" Tính bản Ác " nên cũng cần phải được chú trọng
giáo dục đào tạo thì mởi trở nên người tốt được.
Ta thấy
...
Dù cho con
người tính bản THIỆN hay tính bản ÁC, dù là học
thuyết của Mạnh Tử hay Tuân Tử gì ... đều phải chú
trọng đến giáo dục. " Ngọc bất trác, bất thành khí.
Nhân bất học, bất tri lý " mà ! Tăng Quảng Hiền Văn
có câu :
Sự
tuy tiểu bất tác bất thành, 事雖小不作不成,
Tử
tuy hiền bất giáo bất minh. 子雖賢不教不明。
Có nghĩa :
- Việc tuy nhỏ, nhưng không làm thì sẽ không
xong,
- Con tuy hiền, nhưng
nếu không dạy thì sẽ không sáng suốt.
Tuân Tử thì bảo rằng :" :君子曰:学不可以已。
青,取之于蓝而青于蓝;冰,水为之而寒于水。"
Quân tử viết : Học bất khả dĩ dĩ. Thanh, thủ chi vu lam nhi thanh vu lam.
Băng, thuỷ vi chi nhi hàn vu thuỷ ". Có nghĩa :
" Người quân tử nói
rằng : Sự HỌC không thể ngừng nghỉ được. Màu xanh được
lấy từ cây chàm, nhưng lại xanh hơn chàm. Băng được đong
lại bởi nước, nhưng lại lạnh hơn nước ". Nếu chiụ
học thì sóng sau sẽ dồn sóng trước, người càng về
sau sẽ giỏi hơn người đi trước !
Mạnh Tử thì cho là :" 學而不思則罔,思而不學則殆。Học
nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi.". Có nghĩa
:
" Học
mà không biết suy luận thì cũng uổng cho sư học. Biết suy luận
mà không chiụ học thì cũng như không ! ".
Nói chung, là con người
thì luôn luôn phải cầu học mới tiến bộ, mới hoàn thiện
bản thân và mới giúp ích cho xã hội nhân quần được
!
Về phần
chữ DỤC, xin mời đọc lại bài viết về GIÁO DỤC dưới
đây :
GIÁO DỤC
Giáo Dục luôn luôn là đề
tài muôn thuở gắn liền với đời sống con người. Bất
cứ nơi đâu trên trái đất, bất cứ màu da nào, dân
tộc nào đều cũng có một nền giáo dục riêng biệt,
đặc trưng của mình. Ngay cả trong mỗi gia đình đều có
một nề nếp riêng của gia đình đó, mà người chủ
gia đình là đầu tàu dẫn dắt theo cái hướng đi của
gia đình mình và của cái xã hội mà gia đình mình
đang hiện hữu. Nên từ ngàn xưa ông bà ta cũng đã cảnh
báo là :" Dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Giáo bất nghiêm,
sư chi đọa " 養不教,父之過。教不嚴,師之惰。Có
nghĩa : " Nuôi mà không dạy là lỗi của người cha. Dạy
mà không nghiêm, là do sự biếng nhác của người Thầy."
Vậy nên ...
Muốn
Giáo Dục có hiệu qủa tốt, thì cần phải kết hợp chặc
chẽ giữa người dạy, người học và người theo dõi đôn
đốc nữa ! Tức là phải kết hợp giữa Học Đường và
Gia Đình, phải điều phối hợp lý chặc chẽ giữa Học
Sinh, Thầy Cô Giáo và Phụ Huynh ! GIÁO DỤC luôn là vấn đề
bức xúc, tế nhị và lâu dài, không phải trong một ngày
một buổi mà đem lại hiệu qủa trông thấy được.
Bây
giờ thì ta hãy thử Chiết Tự để tìm hiểu một cách
thấu đáo hơn về 2 chữ GIÁO DỤC nhé !
* GIÁO 教 là chữ Hội Ý,
theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn
Kim Văn Đại Triện
Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy các chữ trên ...
Bên Trái phía trên là
2 dấu chéo chỉ SỰ KIỆN, phía dưới là hình chữ Tử
子 là NGƯỜI, là Thằng Nhỏ. Bên Phải là hình của
một Người hai tay dang ra, tay phía trên có cầm một cây Roi giơ
cao như đang chỉ huy. HỘI Ý những hình trên lại : Trong xã hội
nô lệ, thường thì chủ nô lệ phải cầm roi để chỉ
huy, ra lệnh, dạy bảo đám người nô lệ. Nên ...
GIÁO 教 đầu tiên
có nghĩa là Chỉ Bảo, Ra Lệnh. Như :
- GIÁO HUẤN 教訓 : là Dạy Dỗ, chỉ bảo,
bắt buộc phải làm theo. Huấn còn có nghĩa là Huấn Tập,
Huấn luyện cho thành thạo. Nghĩa phát sinh hiện nay thì Giáo
Huấn có nghĩa là : Dạy cho một bài học cho nên thân !.
- GIÁO ĐẠO 教導 : Chữ
ĐẠO 導 nầy có bộ THỐN 寸 là Tấc ở dưới, Ý
chỉ dò dẵm từng tấc đất một. Nên ĐẠO là Chỉ
Dẫn để đi cho đúng Đường là Hướng Đạo đó.
Nên GIÁO ĐẠO là Dạy dỗ và Hướng dẫn để đi
cho đúng với con đường phải đi.
- GIÁO DƯỠNG 教養 : Chữ DƯỠNG có bộ
THỰC 食 bên dưới, nên Dưỡng là Cho Ăn, là NUÔI. Nên
GIÁO DƯỠNG là Nuôi Dạy.
Nuôi
dạy là phạm vi của Gia đình, của Cha mẹ đối với Con cái.
nhưng nghĩa rộng của Giáo Dưỡng là Giáo dục và Bồi
Dưỡng. Có nghĩa dạy xong rồi, còn phải củng cố bồi dưỡng
cho kiến thức được vững chắc lâu dài !
- GIÁO HỌC 教學 : là DẠY và
HỌC, nên Giáo Học là Dạy Học. Công Việc Giáo Học là
Công việc truyền thụ kiến thức cho người khác, nhưng GIÁO
HỌC cũng có nghĩa Dạy tức là Học đó. Càng DẠY thì
lại càng HỌC được nhiều kiến thức hơn, càng Giỏi hơn
ra.
Đó là chung
quanh các chữ GIÁO mà có liên quan đến DỤC. Vậy DỤC là
gì ? Ta hãy xem nguồn gốc của chữ DỤC dưới đây :
Đại Triện Tiểu Triện
Lệ Thư
Ta thấy :
* Chữ Đại Triện : Có
bộ MẪU 母 là Mẹ bên trái, bên phải là chữ Tử 子
là Con lật ngược đầu xuống, dưới cùng là chữ
Tiểu 小 là Nhỏ. Ý chữ là : Bà mẹ đang sanh ra đứa
con nhỏ, nên chữ Tử 子 mới để ngược đầu trở
xuống. Và chữ DỤC 育 ở đây có nghĩa là SANH RA.
Như :
- Sinh
Dục 生育 nghĩa như Sinh Sản.
- Tiết Dục 節育 là Hạn chế Sinh đẻ.
- Đoạn Dục 斷育 là
Nghỉ đẻ luôn !
*
Chữ Tiểu Triện : Phần trên là chữ TỬ 子 trở ngược đầu,
phần dưới là bộ NHỤC 肉 là THỊT,( được viết cách
điệu như chữ Nguyệt 月 là Trăng ). Ý chữ là : Đang
đút cho đứa bé ăn thịt, nên DỤC 育 có nghĩa là
NUÔI NẤNG. Như :
- Dưỡng Dục 養育 : là từ kép của Nuôi, là Nuôi Nấng.
- Đức Dục 德育
: Nuôi Nấng về mặt Đạo Đức.
- Trí Dục 智育 : Nuôi Nấng về
mặt Trí Thức.
-
Thể Dục 體育 : Nuôi Nấng cho cơ thể Khỏe Mạnh.
- Mỹ Dục 美育 :
Nuôi Nấng về khiếu Thẩm Mỹ.
.... và cuối cùng là ...
- GIÁO DỤC 教育 : Là Nuôi Nấng về mặt Dạy Dỗ.
Nhưng, Nuôi
như thế nào ? Nuôi bằng cách rèn luyện cho người được
nuôi có được Phẩm Chất Đạo Đức Tốt ( Đức Dục
). Nuôi bằng cách truyền thụ cho người được nuôi mở
mang trí hóa với các kiến thức căn bản ( Trí Dục ). Nuôi
cho người được nuôi có được một cơ thể cường
tráng ( Thể Dục ) và có được cái năng khiếu về
thẩm mỹ mỹ thuật, biết thưởng thức được những cái
đẹp của cuộc sống chung quanh ta ( Mỹ Dục ). Còn ...
DẠY thì phải
ra sao ? Dạy cho nắm bắt được kiến thức cơ bản của
xã hội mà ta đang sống, có được một kỹ năng kiếm
sống và biết sống cho đáng sống ( Giáo Huấn ). Dạy cho
biết bồi dưỡng cập nhật và thích ứng với xã hội
luôn luôn phát triển không ngừng ( Giáo Dưỡng ). Dạy cho biết
phải đi đúng đường đúng hướng của đạo làm
người trong tập thể mà ta đang sống ( Giáo Đạo ) và cuối
cùng là Dạy cho ta biết phải luôn luôn học hỏi và không
ngừng cầu tiến để thăng hoa hơn con người của bản thân
ta ( Giáo Học ). Cho nên ...
Giáo mà không Huấn sẽ không tinh, không giỏi được. Giáo
mà không Dưỡng sẽ không lâu dài bền vững được.
Giáo mà thiếu chỉ
Đạo sẽ dễ bị chệch hướng, " Tẩu hỏa nhập ma ", lầm đường
lạc lối, còn Giáo mà không chịu trao dồi Học hỏi
thêm sẽ bị lạc hậu ngay, như câu nói :
Học như nghịch thuỷ
hành chu, 學如逆水行舟,
Bất tiến tắc
thoái dã !
不進則退也!
Có nghĩa :
- Chuyện học hành như là đang
đi thuyền nước ngược vậy,
- Nếu không cố gắng tiến lên, thì sẽ bị nước đẩy
cho lùi trở xuống ! ( chớ không thể đứng một chỗ được
!).
Hai chữ GIÁO DỤC thấy như đơn
giản, nhưng lại bao hàm đầy đủ các mặt NUÔI DẠY cần
thiết để đào tạo con người. Cho nên, Công Tác Giáo
Dục cũng là Công Tác vô cùng phức tạp và hết sức
thiêng liêng và Hiệu Qủa Giáo Dục thì không phải là
chuyện một ngày một buổi mà có được. Ngạn ngữ Trung
hoa xưa có câu :
Nhất niên thọ đạo, 一年樹木,
Thập niên thọ mộc, 十年樹稻,
Bách
niên thọ nhơn. 百年樹人!
Có nghĩa :
-
Vì lợi ích trong một năm thì trồng lúa,
- Vì lợi ích của mười
năm thì trồng cây,
- Vì lợi ích của trăm năm thì phải đào tạo con người
!
Mong rằng những người
làm Công Tác Giáo Dục phải biết cân nhắc, châm chước
và trân trọng !
Đỗ Chiêu Đức
_________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
THI THIÊN TỬ
Những người nghiên cứu và say mê thơ
Đường, thường hay kháo nhau về những giai thoại xoay quanh các
thi nhân của thời đại nầy. Trong số các giai thoại đó, chuyện
thường được nhắc đến nhiều nhất là danh xưng của
các thi nhân, như Thi Tiên là Lý Bạch, Thi Thánh là Đỗ
Phủ và Vương Duy là Thi Phật, còn một danh hiệu cao quý
thường gây tranh cải là Thi Thiên Tử. Vậy, ai là Thi Thiên Tử
của thời đại hoàng kim của thi ca nầy ?. Chính là Vương
Xương Linh đó, có giai thoại cho rằng Thi Thiên Tử là Vương
Chi Hoán, vì trong một lần cá cược, Vương Xương Linh bị
thua, cho nên mới nhường chức Thi Thiên Tử lại cho Vương Chi Hoán,
nhưng đây chỉ là chuyện các thi sĩ vui đùa với nhau mà
thôi, xin mời nghe giai thoại mà dân gian thường truyền khẩu sau
đây.....
Trong thời Khai Nguyên đời
Đường, các thi nhân Vương Xương Linh, Cao Thích, Vương Chi
Hoán đồng nổi danh ngang nhau. Lúc bấy giờ tuy đời sống, hoàn
cảnh của mỗi người mỗi khác, nhưng họ vẫn thường hay
đi chơi chung với nhau.
Một ngày kia, trời lạnh, tuyết rơi nhẹ, ba vị thi nhân cùng đến
uống rượu tại Kỳ đình. Bỗng nhiên có các linh quan (con
hát) ở Lê viên, độ hơn mười người, cũng lên lầu
dự tiệc. Nhân đó, ba vị thi nhân đồng hẹn nhau tránh khỏi
bàn ngồi, đến bên lò sưởi trong góc để nghe ngóng.
Trong chốc lát,
có bốn cô ca kỹ lần lượt kéo đến. Các cô đều
rất xa hoa diễm lệ, yêu kiều khả ái. Tất cả mọi người
cùng tấu nhạc và bắt đầu hát, các bài hát đều
là những tác phẩm nổi danh đương thời.
Vương Xương Linh cùng
các bạn ước hẹn với nhau rằng: "Bọn chúng ta hiện nay đều
là những người có tiếng trên thi đàn, nhưng việc hơn
kém chưa định được. Nay cứ lặng nghe các linh quan ngâm thơ
và hát những bài thơ thuộc Nhạc Phủ, xem thơ của ai được
ngâm và hát nhiều nhất thì người ấy sẽ là Thi Thiên
Tử nhé ! ".
Một lúc sau, các linh quan cử nhạc, một cô đào gỏ nhịp
hát lên rằng:
Hàn vũ liên giang dạ nhập
Ngô 寒雨連江夜入吴,
Bình minh tống
khách Sở sơn cô 平明送客楚山孤.
Lạc Dương
thân hữu như tương vấn, 洛楊親友如相問,
Nhất phiến
băng tâm tại ngọc hồ. 一片冰心在玉壶!
Ban đêm đi thuyền
vào đất Ngô trong khi mưa lạnh giăng giăng ngang sông. Sáng
sớm mai tiễn khách chỉ có mỗi ngọn núi Sở cô quạnh. Nếu
bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm, (thì xin
anh đáp rằng ) Lòng tôi như một mảnh băng trong trắng ở
trong bình ngọc vậy.
Đó chính là bài " Phù Dung
Lâu Tống Tân Tiệm " của Vương Xương Linh, nên khi ...
Nghe xong, Vương Xương
Linh mỉm cười, đưa tay lên vẽ trên tường một dấu hiệu,
nói: "Nhất tuyệt cú!". Lại một cô khác ngâm rằng:
Khai khiếp lệ triêm ức 開箧淚沾臆
Kiến
quân tiền nhật thư 見君前日書
Dạ đài hà tịch mịch 夜台何寂寞
Do thị Tử Vân cư. 猶似子雲居
Mở hộp ra mà nước mắt ướt đầm
trên ngực, vì nhìn thấy bức thư của chàng ngày trước.
Chốn dạ đài hiu quạnh biết bao nhiêu, nhưng nơi đó vẫn
là chỗ ở của chàng Tử Vân (tức Dương Hùng ) đã
mất .
Đó chính là bài " Khốc Đơn Phụ Lương Cửu Thiếu
Phủ " của Cao Thích. Nên khi nghe xong...
Cao Thích đưa tay lên vách vẽ
một vòng, nói: "Nhất tuyệt cú!"
Tiếp đến một cô khác
cũng gõ nhịp ngâm rằng:
Phụng trửu bình
minh kim điện khai 奉帚平明金殿開
Tạm tương đoàn phiến
cộng bồi hồi 暫将團扇共徘徊
Ngọc nhan bất
cập hàn nha sắc 玉颜不及寒鸦色
Do đới Chiêu
Dương nhật ảnh lai. 犹带昭陽日影來!
Buổi sáng cầm chổi
quét khi cửa điện vàng vừa mở ra, tay mân mê cây quạt
mà trong dạ lại bồi hồi. Mặt ngọc còn không bằng cả nhan
sắc của con quạ lạnh, (vì quạ) còn được hưởng ánh
nắng mặt trời ở điện Chiêu Dương mà bay đến đây
! Đó là bài " Trường Tín Thu Từ " cũng của Vương
Xương Linh ...
Nghe xong, Vương Xương Linh lại đưa tay lên vẽ lên tường,
nói: "Nhị tuyệt cú!". Lại một cô khác đứng lên
gỏ nhịp cất tiếng ngâm :
千里黃雲白日曛, Thiên
lý hoàng vân bạch nhật huân,
北風吹雁雪紛紛. Bắc phong xuy nhạn tuyết phân
phân.
莫愁前路無知己,
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
天下誰人不識君。 Thiên hạ hà nhân bất
thức quân ?!
Ngàn dặm mây
ngã màu vàng che mờ cả mặt nhựt. Gió bấc thổi cho chim nhạn
bay về nam và tuyết rơi phơi phới. Thôi bạn hãy lên đường
đi đi, đừng buồn là phía trước mặt không có người
tri kỷ. Vì trong thiên hạ nầy ai là người không biết đến
bạn đâu !? Đó là bài " Biệt Đổng Đại
" của Cao Thích, nên anh ta lại giơ tay lên ra dấu và điểm
: " nhị Tuyệt cú !".
Bốn cô đã ngâm bốn bài, toàn là tác phẩm của
Vương Xương Linh và Cao Thích.
Vương Chi Hoán thẹn quá, nhưng tự nghĩ rằng thơ của mình
nổi danh đã lâu, bèn nói với hai người kia rằng: "Bọn
này đều là những nhạc quan không theo kịp thời điểm, những
bài họ hát đều là ngôn từ quê mùa của vùng Ba
Thục. Còn những khúc hát như Dương xuân Bạch tuyết thì
bọn phàm phu tục tử này có dám nói đến đâu
?" Bèn chỉ vào một trong những ca kỹ đẹp nhất bọn, nói:
"Đến lượt cô này hát, nếu như không phải là thơ
của ta, ta nhất định không tranh đua với các anh nữa. Còn nếu
như đúng là thơ của ta, thì các anh phải tôn ta làm Thi
THIÊN TỬ nhé !". Nói xong cả bọn vui vẻ cười đợi. Phút
chốc, đến lượt cô đào đẹp nhất bọn, búi tóc
song hoàn, cất tiếng ca réo rắt :
Hoàng Hà viễn thướng
bạch vân gian 黄河逺上白雲間
Nhất phiến cô thành vạn nhận
san 一片孤城萬仞山
Khương địch hà tu
oán dương liễu 姜笛何須怨楊柳
Xuân phong bất độ
Ngọc Môn Quan. 春風不度玉門関
Sông Hoàng Hà chảy từ
nơi xa tít trong khoảng mây trắng. Một mảnh thành trơ trọi giữa
núi cao muôn nhận (đơn vị đo lường thời xưa, ba thước
là một nhận). Sáo Khương đừng thổi bài "Oán dương
liễu" nữa, vì gió xuân kia cũng không đưa (tiếng sáo)
qua được Ngọc Môn Quan đâu. Đúng là bài " Lương
Châu Từ " nổi tiếng của Vương Chi Hoán, nên khi cô đào
vừa dứt tiếng hát thì ...
Vương
Chi Hoán bèn vỗ tay cả cười nói với hai bạn rằng : "
Các anh thấy đấy, ta nói có sai đâu, ta quả là chơn mạng
Thi THIÊN TỬ đó nhé !". Cả bọn cùng cả cười chuốc
rượu uống mừng.
Các linh quan không
rõ đầu đuôi câu chuyện, đều hỏi: "Chẳng hay chư
vị vui cười chuyện gì thế?" Vương Xương Linh và các
bạn liền thuật rõ mọi việc. Các linh quan đồng thưa rằng:
"Bọn tục nhân chúng tôi không nhận ra được những bậc
cao nhã, xin được muôn vàn ngưỡng mộ!" Xong tất cả đều
ngồi vào bàn tiệc cùng vui vẻ uống say đến sáng.
Nhân chuyện
nầy, mới có giai thoại cho rằng Vương Chi Hoán cũng là Thi Thiên
Tử là vì vậy !.....
Kính mời
Quý Vị xem thêm tài liệu bổ sung sau đây :
詩天子指诗坛的领袖。
唐 诗人 王昌龄 、 王维 和 李白 都有此誉称。
清 陆凤藻 《小知录·文学》:" 王昌龄
集, 王维 诗天子, 杜甫 诗宰相。"
清 宋荦 《漫堂说诗》:"大抵各体有‘初'、‘盛'、‘中'、‘晚'之别,而三
唐 七絶,并堪不朽。 太白 、 龙标 (
王昌龄 )更有‘诗天子'之号。" 郑振铎
《插图本中国文学史》第二五章八:"
王昌龄 字 少伯 , 京兆 人,与 高适 、
王之涣 齐名,而 昌龄 独有‘诗天子'的称号。"
Thi Thiên Tử ( Vua trong thơ ) chỉ
lãnh tụ trên Thi Đàn. Các thi nhân Vương Xương Linh, Vương
Duy và Lý Bạch đều có cái danh xưng danh dự nầy. Theo Lục
Phụng Tảo đời Thanh " Văn học- Tiểu tri lục " thì : "
Theo Vương Xương Linh tập, Vương Duy là Thi Thiên Tử, Đỗ
Phủ là Thi Tể Tướng. "Trong " Mãn đường thuyết thi "
đời Thanh thì : " Đại đễ các thể đều phân biệt
SƠ, THỊNH, TRUNG, VÃN, mà tam Đường thất Tuyệt, đều có
thể nói là bất hủ hết được. Thái Bạch, Long Tiêu
( Vương Xương Linh ) lại có danh hiệu là "Thi Thiên Tử ".
Theo điều thứ 25 chương 8 trong " Tháp đồ bổn TRUNG QUỐC VĂN
HỌC SỬ " của Trịnh Chấn Đạc viết : " Vương Xương
Linh tự Thiếu Bá, người đất Kinh Triệu , nổi danh ngang hàng với
Cao Thích, Vương Chi Hoán, nhưng Vương lại có danh xưng độc
hữu là " THI THIÊN TỬ ".
1. 詩仙/詩俠:李白 Thi
Tiên, còn gọi là Thi Hiệp : Lý Bạch.
2. 詩聖/詩史:杜甫 Thi Thánh hay
Thi Sử : Đỗ Phủ.
3. 詩豪:劉禹錫
Thi Hào : Lưu Vũ Tích.
4. 詩魔:白居易
Thi Ma : Bạch Cư Dị.
5. 詩鬼/鬼才:李賀 Thi
Quỷ hay Quỷ Tài : Lý Hạ.
6. 詩佛:王維
Thi Phật : Vương Duy.
7. 詩囚:孟郊
Thi Tù : Mạnh Giao.
8. 詩奴:賈島
Thi Nô : Giả Đảo.
9. 詩骨:陳子昂
Thi Cốt : Trần Tử Ngang.
10.詩狂:賀知章
Thi Cuồng : HạTri Chương.
11.詩傑:王勃
Thi Kiệt : Vương Bột.
12.詩天子:王昌齡
Thi Thiên Tử : Vương Xương Linh.
13.詩腸:張籍
Thi Trường : Trương Tịch.
15.詩囊 : 齊己
Thi Nang : Tề Kỷ.
1、詩骨 THI CỐT
| 陳子昂Trần
Tử Ngang | 其詩詞意激昂,風格高峻,大有"漢魏風骨",被譽為"詩骨"
Có Cốt cách của thời Hán Ngụy. Nên gọi là Thi Cốt.
|
2、詩傑
THI KIỆT | 王勃
Vương Bột | 其詩流利婉暢,宏放渾厚,獨具一格,人稱"詩傑"Là
Hào Kiệt trong làng thơ. |
3、詩狂THI CUỒNG |
賀知章Hạ Tri Chương |
秉性放達,自號"四明狂客"。因其詩豪放曠放,人稱"詩狂"Phóng
túng cuồng ngạo,là Tứ Minh Cuồng Khách. |
4、詩家天子七絕聖手
| 王昌齡Vương
Xương Linh | 其七絕寫的"深情幽怨,音旨微茫",因而舉為"詩家天子"Thi
THIÊN TỬ, Thất Ngôn Thánh Thủ. |
5、詩仙 THI TIÊN | 李白 Lý Bạch |
詩想像豐富奇特,風格雄渾奔放,色彩絢麗,語言清新自然,被譽為"詩仙"Ông
Tiên trong thơ. |
6、詩聖 THI THÁNH | 杜甫 Đỗ Phủ | 其詩緊密結合時事,思想深厚。境界廣闊,人稱為"詩聖"Ông
Thánh trong thơ |
7、詩囚 THI TÙ | 孟郊 Mạnh Giao | 作詩苦心孤詣,慘澹經營,無好問,曾稱之為為詩所困,苦吟詩人"詩囚"Người
bị Cầm Tù trong thơ. |
8、詩奴 THI NÔ |
賈島 Giả Đảo | 一生以作詩為命,好刻意苦吟,人稱其為為寫詩而寫詩的"詩奴"Nô
lệ của thơ. |
9、詩豪 THI HÀO | 劉禹錫 Lưu Vũ Tích |
其詩沉穩凝重,格調自然格律粗切,白居易贈他"詩豪"的美譽Hào
kiệt trong thơ |
10、詩佛 THI PHẬT | -王維 Vương Duy | 這種稱謂除了有王維詩歌中的佛教意味和王維的宗教傾向之外,也表達了後人對王維在唐代詩壇崇高地位的肯定Thơ
có ý niệm về Phật Giáo. |
11. 詩魔 THI MA |
白居易 Bạch Cư Dị |
白居易寫詩非常刻苦,正如他自己所說:"酒狂又引詩魔發,日午悲吟到日西。" 過份的誦讀和書寫,竟到了口舌生瘡、手指成胝的地步。所以人稱詩風怪癖的詩人"詩魔"Mê
thơ như bị Ma nhập. |
12、五言長城Ngũngôn Trường Thành
| 劉長卿 Lưu
Trường Khanh | 擅長五言詩,他的五言詩作是全部詩作的十分之七八,人稱其為"五言長城Chuyên
vềthơ Ngũ Ngôn. 7-80%thơ của ông đều là thơ Ngũ Ngôn.
|
13、詩鬼
THI QUỶ | 李賀
Lý Hạ | 其詩善於熔鑄詞采,馳騁想像,運用神話傳說創造出璀璨多彩的鮮明形象,故稱其為"詩鬼"Thơ
có hơi hám của Ma Quỷ. Tài
cũng thế ! |
14、杜紫薇 Đỗ Tử Vi |
杜牧 Đỗ Mục | 曾寫過《紫薇花》詠物抒情,借花自譽,人稱其為"杜紫薇"。
|
15、溫八叉
Ôn Bát Thoa | 溫庭筠
Ôn Đình Quân | 才思敏捷,每次入試,八叉手即成八韻,人稱他為"溫八叉"Xoa
tay 8 lần thành 8 vận, chỉ làm thơ rất nhanh. |
16.詩神 THI THẦN
| 蘇軾 Tô Thức
( Đông Pha ) | 蘇軾詩,揮灑自如,清新剛健,一幟獨樹,人稱詩神。Ý
thơ mẫn tiệp, tứ thơ thanh tân, Làm thơ trôi chảy như là
ông Thần của Thơ vậy ! |
Đỗ Chiêu Đức ____________________
NHẤT TỰ SƯ
Như tất cả mọi người đều biết,
trong trời đông giá rét, thậm chí tuyết phủ ngập trời,
hoa mai vẫn cứ ngạo nghễ vương lên, kết nụ trổ hoa bất chấp
sương rơi tuyết phủ. Cùng với Tùng Trúc hợp thành : TÙNG
TRÚC MAI TUẾ HÀN TAM HỮU 松竹梅歲寒三友, là ba
người bạn trong mùa đông hàn lạnh lẽo ! Không mạnh mẽ
cao lớn chửng chạc như Tùng, không xanh tốt dẽo dai vươn dài
như Trúc, Mai ẻo lả khẳng khiu với những cành nhánh mảnh mai,
nhưng những đọt xanh vẫn manh nha, nụ non vẫn đâm chồi nẩy
lộc ... Xin mời nghe một câu chuyện mai nở sớm trong trời đông
tuyết gía sau đây ...
Theo sách " Đường Tài
Tử Truyện"《唐才子传》ghi chép:
Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ
齊己 (863-937) , người ở cuối đời Đường,
đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó,
phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu
học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng
trâu. Sư Cụ trong chùa thương tình cho vào chùa tu để có
thời gian học hành và nghiên cứu Kinh Phật.
Một hôm gần cuối năm,
như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công
phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa
ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng
bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái
tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức
sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh
mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO
MAI 早 梅 " để tán thán cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài
thơ có 2 câu rất hay là :
Tiền
thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc
dạ SỔ chi khai. 昨夜數枝開。
Có nghĩa :
- Trong rừng tuyết của xóm
phía trước xa xa...
- Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở
!
Tề Kỷ
rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với
Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một
thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ
Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy
được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi
lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được
cái SỚM của Hoa Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát
đất, bèn sửa lại thành :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc dạ NHẤT chi khai. 昨夜一枝開。
... và từ đó về sau gọi Trịnh
Cốc là " NHẤT TỰ SƯ 一字师 ", vừa có nghĩa
là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa
là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !
Toàn bài thơ TẢO MAI của sư
Tề Kỷ như sau :
早 梅
TẢO MAI
萬木凍欲折,
Vạn mộc đống dục chiết,
孤根暖獨回。
Cô căn noãn độc hồi.
前村深雪裏, Tiền thôn thâm tuyết
lý,
昨夜一枝開。
Tạc dạ nhất chi khai.
風遞幽香出, Phong đệ u hương
xuất,
禽窺素豔來。
Cầm khuy tố diễm lai.
明年如應律, Minh niên như ứng luật,
先發望春臺。
Tiên phát Vọng Xuân Đài !
齊己
Tề Kỷ
CHÚ THÍCH :
TẢO MAI : là Mai nở sớm,
cũng có nghĩa là : Mai nở sớm hơn tất cả các loài hoa trong
trời đông giá lạnh.
ĐỐNG DỤC CHIẾT : Đống là Đong đá, Dục là Muốn,
Chiết là Gãy. Có nghĩa là : Đong đá dòn đến muốn
gãy luôn.
NOÃN
là Ấm. HỒI là Hồi Sinh. Nên Noãn Độc Hồi là : Nhờ
Hơi ấm mà đơn độc hồi sinh .
ĐỆ 遞 là Đệ Trình. Ở đây
có nghĩa là Truyền đạt. Nên Phong Đệ là : Gió Đưa,
gió đẩy.
CẦM
là Chim muông. KHUY là Nhìn ngắm.
TỐ DIỄM là Trong Trắng đẹp đẽ. Ở đây chỉ Bạch
Mai.
ỨNG LUẬT : là
Theo Quy Luật Tự Nhiên.
VỌNG XUÂN ĐÀI : là Cái Đài Ngóng Xuân, lên đó
để đợi mùa xuân tới. Đứng trên đài cao, có thể
nhìn thấy mặt trời mọc trước, có thể đón tia đầu
tiên của ánh nắng mùa xuân trứơc hơn là những người
ở dưới thấp.
NGHĨA BÀI THƠ :
Muôn ngàn thảo mộc đều
lạnh cóng đến muốn gãy ra. Chỉ riêng có rể của hoa
mai là biết hút hơi ấm trong đất mà đơn độc hồi
sinh. Cho nên, trong nền tuyết trắng xóa mênh mông của xóm trước
xa xa, đêm qua một cành mai đã vươn lên nở hoa trong trời
đông giá rét. Gió đã đưa cái hương thơm nhè
nhẹ thoảng đi và chim cũng đã ngạc nhiên nhìn ngắm cành
bạch mai thanh khiết trắng trong đẹp đẽ mà bay đến. Nếu sang
năm lại theo cái quy luật Nở Sớm tự nhiên nầy, thì hoa mai ơi,
hãy nở trước ở Vọng Xuân Đài để cho nhiều người
nhìn ngắm, chớ ở nơi hoang sơ lạnh lẽo vắng vẻ nầy, có
ai biết đến mà thưởng thức nhìn ngắm đâu !
Như trên đã
nói, Sư Tề Kỷ đi tu chỉ vì nghèo, bất đắc dĩ và
bất đắc chí không thi thố được tài năng, nên còn
nặng nợ với công danh, ông ví mình như cành mai nở sớm
kia, vượt lên trên trăm hoa để khoe sắc, nhưng lại khoe sắc
trong vùng tuyết lạnh không người.... cũng như tài năng của
ông bị mai một ở trong chùa không người biết đến vậy
! Cho nên, ông đã khuyên mai nên nở ở Vọng Xuân Đài
cho mọi người nhìn ngắm để biểu lộ cái ao ước thầm
kín trong lòng... Nếu đi thi ta cũng sẽ toả sáng như mai sớm tỏa
hương cho mọi người ngưỡng mộ vậy !
DIỄN
NÔM :
TẢO MAI
Muôn
cỏ hoa đong cứng,
Rể
truyền hơi ấm xanh.
Xóm ngoài trong tuyết lạnh,
Đêm
qua nở một cành.
Gió đưa hương thoang thoảng,
Chim
ngắm vẻ đẹp xinh.
Nếu
sang năm lại sớm,
Vọng
Xuân Đài nở quanh.
Lục bát :
Cỏ hoa lạnh cứng trời đông,
Riêng
mai hơi ấm vẫn không phai tàn.
Xóm
ngoài trong tuyết mênh mang,
Đêm qua nở trắng một cành bạch mai.
Gió
đưa hương thoảng ra ngoài,
Chim nhìn ngắm vẻ thanh bai trong lành.
Sang năm lại sớm nở xanh,
Vọng Xuân Đài đó chung quanh lắm người.
Đỗ Chiêu Đức
Đọc bài thơ
nầy, lại làm ta nhớ đến 2 câu cuối của bài " Cáo
Tật Thị Chúng 告疾示眾 " của Mãn Giác Thiền
Sư (1052-1096) là một Thiền sư của Việt Nam ta là :
莫謂春殘花落尽, Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận,
庭前昨夜一枝梅 ! Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Có nghĩa :
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!
Khi viết 2 câu trên, hẵn Mãn Giác Thiền Sư cũng đã đọc
qua bài thơ của nhà sư Tề Kỷ rồi.
Hẹn bài viết sau sẽ giới thiệu về TRỊNH CỐC, một thi sĩ
của cuối đời Đường, đầu đời Ngũ Đại.
Đỗ Chiêu Đức
________________________________________________________________________
Trịnh Cốc. HOÀI THƯỢNG DỮ HỮU NHÂN BIỆT
Đây
là bài viết riêng tặng cho Anh Suôi HUỲNH THANH SƠN, người đã
có chung cảm xúc hoài cổ bồi hồi, man mác, bâng khuâng...
khi đọc câu :
... Sổ thanh phong địch ly đình vãn,...
và...
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần !.
.............................................................................................
Thơ Tuyệt cú từ
sau Đỗ Mục và LÝ Thương Ẩn của thời Vãn Đường
thì dần dần chuyển sang phong cách nghị luận mà giảm dần đi
tính cách du dương trữ tình. Trịnh Cốc là người còn
giữ được vẻ mượt mà tình tứ với âm điệu
thiết tha đầy hình tượng của thuở Thịnh Đường....
Bây giờ là " Mùa Chia Tay ". Sau Tết,
Việt kiều về nước định cư, còn Việt Nam thì ở
lại ... Xin mời tất cả cùng đọc một bài thơ tả cảnh
chia tay giữa 2 người bạn thân với nhau nhé !
Chân dung TRỊNH CỐC và Bút pháp
bài HOÀI THỦY BIỆT HỮU.
淮上與友人別 HOÀI
THƯỢNG DỮ HỮU NHÂN BIỆT
揚子江頭楊柳春, Dương
Tử Giang đầu dương liễu xuân,
楊花愁殺渡江人。 Dương
hoa sầu sát độ giang nhân.
數聲風笛離亭晚,
Sổ thanh phong địch ly đình vãn,
君向瀟湘我向秦。 Quân
hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.
鄭 谷
Trịnh Cốc.
CHÚ THÍCH :
1. HOÀI : là đất Dương Châu. HOÀI THỦY là
tên con sông chảy qua thành Dương Châu. Bài thơ nầy còn
có một tên khác gọn hơn là : HOÀI THỦY BIỆT HỮU ( Giã
từ bạn trên dòng sông Hoài ).
2. DƯƠNG TỬ GIANG
: Một nhánh của sông Trường Giang từ Trấn Giang đến Dương
Châu của tỉnh Giang Tô, xưa gọi là Dương Tử Giang.
3. SẦU SÁT : Cái Sầu làm chết người ! Chỉ nỗi sầu ray
rức, ta nói là " Buồn Thúi Ruột !"
4. LY ĐÌNH
: ĐÌNH là cái mái che không có vách, cất theo dọc đường
ngày xưa để cho người đi đường ngồi nghỉ chân. Cứ
5 dặm thì có một Tiểu Đình và 10 dặm thì có một
Trường Đình. Đọc trong Kiều ta cũng thấy :
Bề
ngoài mười dặm TRƯỜNG ĐÌNH,
Vương
ông đặc tiệc tiễn hành đưa theo.
vì thường dùng
làm nơi đưa tiễn, cho nên còn gọi là LY ĐÌNH, là
nơi chia tay ly biệt.
5. TIÊU TƯƠNG : chỉ vùng đất ở tỉnh
Hồ Nam hiện nay.
6. DƯƠNG HOA : Hoa của Dương liễu, còn
gọi là Liễu Nhự thường tung bay theo gió, phất phơ trắng xóa
một vùng. Thơ Á Nam Trần Tuấn Khải có câu :
" Liễu rơi trước gió ngỡ là bướm bay ! "...
7. TẦN : Chỉ Đô Thành Trường
An thuở xưa, thuộc tỉnh Thiểm Tây hiện nay.
8. PHONG ĐỊCH
: Tiếng sáo chập chờn đưa theo gió.
DỊCH NGHĨA :
GIÃ
BIỆT BẠN TRÊN DÒNG SÔNG HOÀI
Vẻ xanh tươi của dương liễu trên
dòng sông Dương Tử với hoa dương liễu cuốn bay theo gió phất
phơ khiến lòng người qua sông buồn muốn thúi ruột ! Văng
vẳng đâu đây mấy tiếng sáo thiết tha réo rắc quyện
đưa theo gió trong buổi chiều bên ly đình vắng vẻ , thôi
thì đất Tiêu Tương bạn cứ đến còn tôi, tôi sẽ
đi về đất Tần của xứ Trường An ngàn năm văn vật
!
Bài thơ gợi
cảm với cảnh chia tay mỗi người mỗi ngả, những từ Dương
Tử Giang, Dương Liễu, Ly Đình, Phong địch... nhất là từ Tiêu
Tương khiến người đọc dễ cảm xúc ngẩn ngơ vì những
câu thơ trong tiểm thức đã biết được trong Chinh Phụ Ngâm
Khúc :
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.!!!...
Lúc còn trẻ, tôi cứ ngẩn ngơ mãi khi đọc 2 câu cuối
của bài thơ :
Sổ thanh phong địch ly đình vãn,
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần !
nhất là câu cuối cùng âm điệu cứ
như còn quyện mãi ở trong lòng người đọc : " Quân hướng
Tiêu Tương ngã hướng Tần ! ". Ôi, sao mà buồn và nên
thơ quá thế ?!!!
DIỄN NÔM :
Dương liễu xanh xanh Dương Tử Giang,
Liễu bay sầu chết khách sang ngang.
Sáo ai réo rắc chiều ly biệt,
Bạn đến Tiêu Tương tớ đến Tần.
Lục Bát :
Vẻ xuân dương liễu
giang đầu,
Qua sông
lòng khách nghe sầu chứa chan.
Sáo ai réo rắc ly tan,
Tiêu Tương bạn đến, tôi sang đất Tần !
Đỗ Chiêu Đức.
TIỂU SỬ TÁC GIẢ :
TRỊNH CỐC (
851-910 ), tự Thủ Ngu, người đất Viên Châu Nghi Xuân ( nay là Huyện
Nghi Xuân tỉnh Giang Tây ). Thi nhân của cuối đời Đường ( đầu
đời Ngũ Đại ), tự nhỏ nổi tiếng thông minh, ở tuổi
cởi ngựa trúc đã biết Phú Thi. Đậu Tiến Sĩ năm Khải
Quang, từng giữ các chức Tham Quân xứ Kinh Triệu, Hữu Thập Di, sau
chuyển sang chức Đô Quản Lang Trung, nên người đời thường
xưng là Trịnh Đô Quản. Trịnh Cốc thường hay xướng họa
với Tiết Năng, LÝ Tần, Trương Kiều, Hứa Đường... mười
người, được người đời xưng tụng là " Hàm Thông
Thập Triết ". Sau cùng xướng họa với nhà sư TỀ KỶ,
được TỀ KỶ tôn là " Nhất Tự Sư " ( ông thầy
một chữ, đúng ra là ÔNG THẦY CHỮ NHẤT ) theo tích sau đây
:
五代著名诗僧齐己一次在下了一夜大雪的早上,发现有几枝梅花已经开了,觉得开得很早,为了突出一个「早」字,便写了一首《早梅》诗,其中有两句是:「前村深雪里,昨夜数枝开。」他对这两句诗很满意,便高兴地拿着这首诗去请教诗友郑谷。郑谷看了几遍后评点说:「数枝梅花开已经相当繁盛了,不足以说明『早』,不如把『数枝』改为『一枝』更贴切。」齐己听了,认为改得很好,欣然接受,并向郑谷拜谢,后人便称郑谷为齐己的「一字师」。
TỀ KỶ là nhà sư nổi tiếng về thơ cuối đời Đường,
đầu đời Ngũ Đại. Một lần vào cuối Đông, sau một
đêm tuyết lớn, sáng ra phát hiện có mấy đóa mai đà
hé nở ở đầu thôn, bèn làm một bài thơ " TẢO
MAI " để ca ngợi hoa mai nở sớm, trong đó có 2 câu :
Tiền thôn thâm tuyết lí,
前村深雪里,
Tạc dạ sổ chi khai. 昨夜数枝开.
Có
nghĩa : Trong bãi tuyết trắng mịt mùng ở đầu thôn, Đêm
hôm qua có mấy đóa mai đà nở rộ.
Nhà sư rất đắc Ý với
2 câu thơ trên, mới đem bài thơ của mình ra khoe với Trịnh
Cốc. Không ngờ sau khi đọc tới đọc lui một hồi, Trinh Cốc
bèn góp Ý rằng : " Mấy đóa mai nở đã nhiều và
phồn thịnh lắm rồi, không nêu bật được cái Ý "
SỚM " nữa, sao không đổi lại là " Nhất Chi Khai " ( chỉ
có một đóa nở thôi ! ) có phải SỚM hơn không ?!. Nhà
Sư TỀ KỶ chợt tỉnh ra và khen hay luôn miệng, bèn đổi chữ
" SỔ " trong câu thơ thành chữ " NHẤT " và bái tạ
Trịnh Cốc đã điểm hóa cho mình. Người đời sau bèn
gọi Trịnh Cốc là " Nhất Tự Sư " của nhà sư TỀ
KỶ là vì thế.
Nhân chuyện
này làm ta nhớ đến bài CÁO TẬT THỊ CHÚNG của Mãn
Giác Thiền Sư Việt Nam ta, trong đó có 2 câu :
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận,
莫謂春殘花落尽,
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai. 庭前昨夜一枝梅.
Có nghĩa :
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai !
Một nhà sư tả cảnh Mai Sớm,
một nhà sư tả cảnh Mai Muộn, một nhà sư ở miền Bắc,
một nhà sư ở miền Nam, một nhà sư ở đời Ngũ Đại
( 907-979 ) bên Trung Hoa, một nhà sư ở đời LÝ ( 1009-1225 ) của Việt
Nam,một bên chuyên chú về văn chương, một bên chuyên chú
về thiền : Mãn Giác (滿覺), 1052-1096, là một Thiền sư Việt
Nam thuộc đời thứ 8 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Nhưng
cả 2 cùng có một cái CHUNG là cùng gặp nhau trong Ý NIỆM
về văn chương, cùng một cảm xúc trước một cành mai,
một loại hoa tượng trưng cho sự thanh cao liêm khiết trong cảnh thiên
nhiên bao la vô cùng tận....
Đỗ Chiêu Đức
____________________________________
NĂM KHỈ NÓI CHUYỆN ... TỀ THIÊN.
Chuyện Tề Thiên... là chuyện hoang đường
trong Tây Du Ký cuả Ngô Thừa Ân, nói về một con khỉ đá
lanh lợi thông minh, học được phép tiên, làm loạn cả long
cung, âm tào địa phủ và làm náo loạn cả thiên đình.
Cuối cùng Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng phải chịu thua mà
phong cho chức " Ông Thánh lớn ngang bằng trời " là : TỀ
THIÊN ĐẠI THÁNH !
Năm
con khỉ nói chuyện Tề Thiên là nói chuyện phiếm, chuyện tạp
nhạp bao đồng về loài khỉ để nghe chơi khi trà dư
tửu hậu ...
Xếp
thứ 9 trong bảng thứ tự 12 con giáp, thuộc chi THÂN trong Thập nhị
Địa Chi. Khỉ là động vật cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn, đồng
hành phát triển cùng với đời sống con người từ
thời bàn cổ đến nay . Còn có thuyết cho KHỈ là thuỷ tổ
cuả loài người nữa !. Loài Khỉ có đặc tính giống
như loài người, thuộc loài có vú, sanh con, thường ở trong
rừng, ưa nhảy nhót, đu chuyền từ cây này sang cây khác,
sống tập thể thành từng đoàn, thông minh hơn các thú vật
khác, cho nên thường bắt chước loài người qua các động
tác sinh hoạt thường ngày. Khỉ đi vào đời sống văn
hóa người Trung Hoa và Việt Nam qua 12 con giáp : Năm
Thân, như năm nay 2016 là năm Bính Thân, tháng Thân là
tháng 7 Âm lịch, ngày Thân là ngày được xếp sau ngày
Mùi và trước ngày Dậu, giờ Thân là từ 3 đến 5 giờ
chiều.
Giòng họ của khỉ thì rất nhiều, nói theo tập quán dân
gian, ta có : Khỉ, Vượn, Đười Ươi, Lọ Nồi, Dã Nhân
... Gọi theo chữ Nho thì là Hầu Tử 猴子, Hồ Tôn 猢猻,
Sơn Viên 山猿, Tinh Tinh 猩猩 ...
HẦU 猴 là chữ Hài
Thanh 諧聲 ( còn gọi là Hình Thanh 形聲 ), được ghép
bởi bộ Khuyển 犭(犬) là loài Chó bên trái chỉ Ý
( chỉ loài vật có 4 chân ) và chữ Hầu 侯 là Hầu Tước
bên phải chỉ Âm, theo diễn tiến như sau :
目前所在的位置:猴的甲骨文、金文、小篆在线转换
|
甲骨文
| 金文 |
金文大篆 |
小篆 | 繁体隶书 |
| |
| | |
|
| | |
| | |
Giáp Cốt Văn Kim
văn Đại Triện Tiểu
Triện Chữ Lệ
Chữ HẦU
trong phần Đại Triện, bên trái là hình con thú có 4 chân
có đuôi, bên phải là hình người đứng đang giương
cung, mũi tên nhắm về phía trước có một vạch ngang là cái
bia để tên bắn vào.
Trong thời Xuân Thu ( 770 - 476 TCN ), người ta không gọi khỉ, mà có
tên chính thức trang nghiêm dành cho loài vật có chức vị Hầu
Tước 侯爵 này : ( Hóu ) HẦU 侯 là Tước
Hầu, đứng sau tước Công và đứng trên tước
Bá, đồng âm với Hầu là Khỉ. Từ đó về sau, khỉ
chính là tượng trưng cho sự tốt lành, hanh thông, may mắn. Hình
ảnh của khỉ thường được điêu khắc hoặc dán trên
các bức tường và cửa ra vào với mục đích kêu gọi phước
lành, quan lộc và niềm vui.
Trong văn học cổ, nhắc đến khỉ là người ta nghĩ ngay đến
câu : " Sát kê cảnh hầu 殺雞儆猴 " hoặc " Sát
kê giáo hầu 殺雞教猴 " cũng thế . Có nghĩa : Giết
gà để cảnh cáo khỉ hay giết gà để dạy khỉ, theo truyện
kể sau đây :
Trong
một gánh xiệc Sơn Đông bán thuốc, người bầu gánh có
nuôi 3 con khỉ và đều dạy cho chúng biết làm trò xiếc
như : Đi bằng 2 chân, mặc quần áo, đi dây, nhào lộn ... Nhưng
một hôm, 3 chú khỉ đều đồng lòng " đình công
" không thèm làm trò xiếc nữa, mặc cho người bầu xiếc
gỏ kẻng, thúc phèng la như thế nào, 3 con khỉ vẫn trơ trơ.
Hết cách, chẳng lẻ bó tay, người bầu xiếc bèn nghĩ ra một
cách, ông ta đem một con gà trống đến giữa sân, rồi gỏ
kẻng, gỏ phèng la lên, dĩ nhiên là con gà trống vẫn trơ
trơ. Ông ta bèn hươu đao chém bay đầu con gà máu tuôn
xối xả . Đoạn, ông cho dắt 3 con khỉ ra sân, tay vẫn còn lăm
lăm cây đao, ông ra lệnh cho gỏ kẻng, gỏ phèng la lên, 3 con khỉ
sợ bị chém như gà, bèn ngoan ngoản diễn đủ trò theo yêu
cầu cuả ông bầu xiếc.
Vì
tích trên mà ta có câu Thành ngữ " Sát Kê Cảnh Hầu
" tương đương trong tiếng Nôm ta là : " Giết gà dọa
khỉ, Giết gà dạy khỉ hay Giết gà răn khỉ " gì cũng
thế. Ý nghĩa của câu thành ngữ nầy cũng tương đương
như câu : " Giết một răn mười ", phạt một người để
làm gương răn đe cho trăm ngàn người khác !
Cũng như con ngựa,
con khỉ cũng đồng hành với con người từ ngàn xưa đến
nay, nên ta cũng có một thành ngữ liên quan đến 2 con vật
nầy, đó là câu " Tâm Viên Ý Mã 心猿意馬 ", để
chỉ TÂM và Ý không đồng bộ, không ăn khớp
với nhau, vừa muốn làm việc nầy, vừa muốn làm việc nọ,
tâm ý hoang mang không quyết định được. Thành ngữ
nầy có xuất xứ từ đời Hán, Ngụy Bá Dương trong
Tham Đồng Khế có phần chú như sau : " Tâm viên bất định, Ý
mã tứ trì ". Có nghĩa : Lòng thì không ổn định
như lòng con vượn, còn ý thì như con ngựa muốn chạy bốn
phương ". 漢·魏伯陽《參同契》注:"心猿不定,意馬四馳。"
Thơ của Hứa Hồn đời Đường, trong bài Đề Đỗ
Cư Sĩ Thi có câu : " Cơ tận Tâm Viên phục, Thần nhàn Ý
Mã hành " 唐·許渾《題杜居士》詩:"機盡心猿伏,神閑意馬行。" Có
nghĩa : " Thời cơ đã hết nên lòng cũng lắng xuống
như tâm con vượn, Tinh thần nhàn nhã thì ý cũng phóng
túng như ngựa chạy vậy ".
Nhưng, theo kinh văn Duy Ma Cật, thì Phật Giáo cho là lòng của chúng
sinh không có ổn định, như lòng của con vượn và ý
của con ngựa vậy, luôn luôn động đậy và hướng ngoại,
khó mà an trụ cho được ! Nên, phải khắc chế được
cỏi lòng cho đừng có " Tâm Viên Ý Mã " thì
tâm mới định mà tu hành mới có kết qủa và mới đắc
đạo được.
Để thay đổỉ không khí,
và để cho Đông Tây được đề huề, Xin được
giới thiệu thành ngữ " Lấy Dẽ Trong Lò ". Thành ngữ
này dùng để chỉ bị người lợi dụng, làm những việc
mạo hiễm để cho người khác được hưởng lợi, ngồi
mát ăn bát vàng.
Thành ngữ nầy lấy từ thơ Ngụ Ngôn cuả đại thi hào
Pháp cuả thế kỷ 17 là Jean de La Fontaine (1621-1695). La Fontaine được các
nhà văn thời Tiền Chiến của ta nhại âm dịch tên là Lã
Phụng Tiên, giống như tên của Lã Bố thời Tam Quốc vậy. Bài
thơ Ngụ Ngôn có tựa là KHỈ và MÈO. Nội dung tả lại
việc Khỉ dụ Mèo khều lấy hạt dẽ đang được
nướng ở trong lò. Khỉ ăn hạt dẽ còn Mèo thì
bị cháy cả lông chân. Bài thơ Ngụ Ngôn nầy được diễn
nôm như sau :
KHỈ và MÈO
Khỉ và Mèo
cùng chung một chủ
Chung một nhà, thức ngủ có
đôi
Phá hại thì nhất hạng rồi
Lại không kiêng nể một ai bao giờ
Đã
biết vậy, đừng ngờ xóm ngõ
Nếu trong nhà
đổ vỡ vật chi
Khỉ thì trộm cắp quá đi
Mèo thì chuột bọ để gì ý đâu
Nhưng phó mát cất đâu cũng biết
Ăn
vụng thì hạng nhất trần gian
Một hôm hai đứa
lưu manh
Trông thấy hạt dẻ nướng quanh bếp lò
Cùng rỏ dãi, nhỏ to bàn mãi
Một việc
thôi, mà lợi hai đường
Trước là thích
khẩu no lòng
Sau thì để khổ cho ông hỏa đầu
Khỉ cất tiếng yêu cầu chú Mão:
"Việc
làm này ông bạn mới xong
Nếu tôi mà được
như ông
Bẩm sinh bạo lửa thì không phải nhờ
Hạt dẻ nướng đương chờ ta đó
Bạn
lấy ra chẳng khó khăn gì!"
Mèo nghe hành động
tức thì
Gạt tro cẩn thận ra rìa bếp than
Hai chân nó mấy phen thò thụt
Rốt cuộc
rồi lấy được hạt đầu
Rồi hai ba hạt
tiếp sau
Khỉ trong lúc đó cúi đầu bóc
ăn
Bỗng con sen ngoài sân đi tới
Khỉ
và Mèo cùng vội lẩn chuồn
Riêng Mèo vừa
tức vừa buồn
Có nhiều hầu bá giống
trường hợp trên
Nghe phỉnh nịnh, lửa tên liều
mạng
Chiếm đất đai dâng hiến cho vua
Sánh Mèo cái dại chẳng thua !
Bản dịch của Đô Khắc Siêm, Hà Khắc Nguy
Trở lại Ấn Độ với thần khỉ Hanuman là một nhân vật trong thần thoại Hindu được kể lại
trong sử thi Ramayana. Trong sử thi, Hanuman đã giúp đỡ cho người
anh hùng Rama trong cuộc chiến chống lại vua quỷ Ravana. Thần khỉ Hanuman
là nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại và lừng
danh của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata. Các đền thờ khắp
nước Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị thần khỉ
nổi tiếng với vũ khí là quả chùy ( gada ), biểu tượng của
lòng dũng cảm. Thần rất sùng bái người bạn của mình
là Rama ( vị Vua anh hùng được kể trong sử thi Ramayana ), và cũng
được Rama thương yêu nhất, nên có khi người ta vẽ Hanuman
với hình Rama xăm trên ngực. Rama được coi là hóa thân của
Vishnu, là Đấng bảo tồn trong quan niệm Trimurti của Ấn giáo. Trong
cuộc chiến đấu giữa vua Rama anh hùng và quỷ Ravana, thì Hanuman là
người giúp đỡ vua đắc lực nhất, trung thành với
vua nhất.
Sang qua châu Mỹ với chú King Kong khổng
lồ nhưng lại si tình vào bậc nhất cổ kim với câu nói bất
hủ của phương Đông là : " Anh hùng nan qúa mỹ nhân
quan !", đằng nầy quái thú cũng không thể thoát khỏỉ
lưới tình !
King Kong là tên một con ác thú khổng lồ (giống loài khỉ đột)
được hư cấu trong nhiều loại tác phẩm, đặc biệt là
điện ảnh. King Kong nổi tiếng khắp thế giới từ bộ phim cùng
tên năm 1933, và tiếp tục được làm lại vào 1976 và
2005.
King Kong sinh
sống trên Đảo Đầu Lâu (Skull Island), ở đâu đó trên
Ấn Độ Dương và được cư dân nơi đây thờ
cúng như một quái vật ăn thịt linh thiêng. Một đoàn làm
phim từ New York lặn lội đường xa đến đây vì nghe nói
có nhiều sinh vật huyền bí trên đảo này, do đó sẽ
có cơ hội tạo những cảnh quay ngoạn mục.
Cô diễn viên Ann Darrow xinh đẹp
bị bắt cóc và đem ra tế Kong. Con khỉ đột chẳng những không
ăn thịt Ann mà còn thích thú và yêu mến nàng. Mọi người
trên tàu đi giải cứu Ann, trong đó hăng hái nhất là nhà
viết kịch bản Jack Discroll, người yêu của cô. Đoàn người
mắc kẹt trong rừng sâu và phải đối mặt với bao sinh vật
nguy hiểm, như côn trùng khổng lồ, rắn rết, khủng long... Rồi
lại bị Kong tấn công, bao nhiêu người bỏ mạng. Những kẻ sống
sót vội vàng bỏ cuộc, trở về New York. Jack vẫn quyết tâm tìm
Ann. Khi cứu được thì con khỉ đuổi theo. Đạo diễn Carl Denham
nhân cơ hội đó bẫy nó đem về New York. Ông ta gọi nó
"Kong- vị vua (King) của thế giới".
King Kong được đem ra trình diễn cho khán giả có máu mặt
ở Manhattan ( Mã Nhật Tân, một khu phố lớn nổi tiếng ở New York
) như là một "Kỳ quan thứ tám của thế giới". Ann lại
không đến dự vì phản đối hành động tàn ác đó.
Kong phá tan nhà hát trình diễn, thoát ra tìm Ann. Nó đại
náo toàn bộ khu đô thị lộng lẫy xa hoa, khiến xe cộ, nhà
cửa đổ bể tan hoang. Ann xuất hiện kịp thời, Kong lại bị mê
hoặc bởi sắc đẹp của nàng, giống như trong truyện Giai nhân
và Quái thú (Beauty and the Beast). Nhưng quân đội ập đến, Kong
bế Ann bỏ chạy lên tòa nhà Empire State cao nhất thời đó (trong
phim năm 1976 là tòa WTC). Các phi cơ chiến đấu liên tục bắn
nó, mặc cho Ann gào khóc ngăn cản. Cuối cùng Kong gục ngã
và rớt xuống đất, chết một cách đau đớn. Carl Denham lặng
lẽ thốt lên "Con Quái thú không chết vì bị bắn, mà
chết vì Giai nhân".
Trở về với con khỉ đá đòi
lớn ngang bằng trời là " Tề Thiên Đại Thánh ". Được
nứt ra từ một tảng đá thụ khí âm dương cuả trời
đất ở Đông Thắng Thần Châu. Con thạch hầu nầy được
đồng loại tôn xưng là Mỹ Hầu Vương 美猴王. Vì
không muốn luân hồi sinh tử như muôn loài, nên Mỹ Hầu
Vương ra đi tìm học phép trường sinh. Bái Bồ Đề Tổ
Sư làm sư phụ, được đặt tên là Tôn Ngộ
Không 孫悟空. Tôn là Hồ Tôn 猢猻, cách gọi riêng
về loài khỉ. Ở đây Tôn Ngộ Không học được
72 phép biến hóa gọi là Thất thập nhị Huyền công và có
thể bay lộn trên mây ( Cân đẩu vân ), lộn một vòng bay được
10 vạn 8 ngàn ( 108.000 ) dặm ( khoảng 54000 kilometers ) và có một cây
gậy "Như ý Kim Cô bổng" ( là Định Hải Thần Châm
dưới Đông Hải ) có thể thay đổi kích thước, được
đặt sau tai, dùng làm vũ khí để đánh yêu quái. Ở
Hoa Qủa Sơn Tôn Ngộ Không tập hợp các động yêu ma làm
mưa là gió. Náo Long cung, phá Âm Tào, đại náo Thiên
Cung, Ngọc Hoàng phong cho chức Bật Mã Ôn 弼馬溫 là quan giữ
ngựa. ( Từ chức vụ nầy ta thấy trong thực tế Ngựa rất sợ
Khỉ ). Biết được chức vụ giữ ngựa là chức quan nhỏ
nhoi, lại đại náo thiên đình đòi phong làm : Tề Thiên
Đại Thánh 齊天大聖, nhưng vẫn chưa chịu yên thân,
rảnh rang lại đại náo Đại hội Bàn Đào, và
bị Phật Tổ đè xuống Ngũ Hành Sơn 500 năm. Được Đường
Tam Tạng cứu ra để cùng đi Tây Phương thỉnh kinh với tên
gọi Tôn Hành Gỉa 孫行者, bị khống chế bởỉ vòng
Kim Cô 金箍 của Phật Tổ Như Lai do Quan Thế Âm Bồ Tác
trao, kịp đến khi thành chánh qủa là Đấu Chiến Thắng
Phật 鬪戰勝佛 thì vòng Kim Cô mới tự nhiên biến
mất.
Hình Lục Tiểu Linh Đồng, người vào vai Tề
Thiên Đại Thánh ấn tượng nhất, đẹp nhất trong bộ phim
Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết, do Trung Quốc sản xuất
năm 1982.
Một
số học giả cho rằng nhân vật Tôn Ngộ Không được phỏng
theo Hanuman, " thần khỉ " trong Ấn Độ giáo được thuật
lại trong một quyển kinh sách do Trần Huyền Trang từ Tây Phương
thỉnh về.
Các nhà khảo cổ Trung Quốc gần đây lại phát hiện ra một
nguồn gốc khác của Tôn Ngộ Không từ những bức bích họa
có niên đại hơn 1.000 năm. Những bức vẽ này được
tìm thấy trong Động Thiên Phật, cách huyện Tây An, tỉnh Cam Túc
khoảng 90 km. Các bức hình có cảnh một vị hòa thượng
và " Hầu hình nhân 猴形人 " ( khỉ hình người
) đang trang nghiêm chắp tay hành lễ, hướng mặt về phía Phật
Bà Quan Âm trên đài Kim Cương bảo thạch. Bốn bức hình
khác khắc họa chi tiết thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh
kinh, tương tự như câu chuyện trong " Tây Du Ký " của Ngô
Thừa Ân sau này vậy.
Nhớ hồi xưa, khi tạo mẫu thêu
cho má tôi thêu mặt gối hình 12 con giáp. Tới năm THÂN, tôi đã
phải mượn hình tượng cuả Tề Thiên Đại Thánh
được vẽ theo kiểu hoạt họa ở trên và thêm vào
4 chữ THÔNG MINH DĨNH NHỘ 聰明穎悟 cho các em bé tuổi
THÂN nằm, để cho các em không cảm thấy " Tủi Thân "
như dân gian đã hát :
Người
ta tuổi Ngọ tuổi Mùi,
Còn
tôi riêng chịu một đời " tủi thân " !
Viết đến đây, lại nhớ đế lần họp
mặt của Vườn Thơ Thẩn trong năm qua, anh Huỳnh Hữu Đức đã
làm một đôi câu đối để tặng cho chị Phương Hà
là người tuổi Thân như sau :
Năm Mão là năm mèo. Mèo
đội mão
Tuổi
Thân là tuổi khỉ. Khỉ " tủi thân ".
Tội nghiệp, làm
chị Phương Hà buồn 5 phút !
Trở
lại với cây nhà lá vườn, khỉ có mặt ở khắp nơi
trên đất nước Việt Nam, chả thế mà nông thôn Việt Nam
nơi nào cũng có " Cầu Khỉ ", và cây cầu khỉ đã
trở thành " top ten " trong 10 cây cầu đáng sợ nhất thế
giới ...
Tên gọi
cầu khỉ không phải vì cầu dành riêng cho khỉ, mà là
tư thế lom khom của người khi qua cầu trông giống như con khỉ. Những
cây cầu nổi tiếng ở các miền quê Việt Nam này làm bằng
tre và dây dừa, bắt qua những con sông, rạch, dòng kênh nhỏ.
Cầu rất hẹp và lắc lư mỗi khi có người đi qua.
Các
vùng quê hẽo lánh it người qua lại hoặc các vùng rừng
đước rừng tràm ... được gọi là các vùng " Khỉ
ho Cò gáy ". Hù dọa ai một cách vô ích thì gọi là
" Rung cây nhát Khỉ ", làm những chuyện vô bổ không cần
thiết thì nói là " Dạy Khỉ leo cây ", gặp chuyện gì
cũng nhăn nhó thì mắng nhau " Cái tù mặt mầy như là
Khỉ ăn ớt vậy ", hoặc nói nặng hơn " Thứ cái đồ
mặt nhăn như Khỉ ". Gặp đứa phản trắc, ăn cơm tui mà
hại tao, thì bảo là " Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà
". Ghét ai thì mắng " Thứ đồ Khỉ gió !". Muốn phủ
định việc gì thì nói là : " Khỉ khô, khỉ mốc, khỉ
dọc "!... Con khỉ xấu vậy sao ? Nhưng lúc thấy vui thì cũng
sẵn sàng " làm trò Khỉ ", con nít rắng mắt thì gọi
là " Liếng Khỉ ", tuổi con khỉ thì dân gian có câu hát
rằng :
Tuổi Thân con khỉ ở lùm,
Trèo qua trèo lại té ùm xuống sông !
Thương cảm và thân thiết hơn với hình tượng :
Con
khỉ bồng con lên non hái trái,
Anh cảm thương
nàng phận gái mồ côi !
Viết đến đây,
làm ta nhớ lại một chuyện tình giữa khỉ vượn và người
rất nôỉ tiếng trong văn học dân gian Việt Nam, đó là
truyện LÂM TUYỀN KỲ NGỘ mà giới bình dân gọi là
" BẠCH VIÊN TÔN CÁC " với câu hát :
Bạch Viên Tôn Các xa trông,
Bồng con ôm gói thẳng xông lên đàng.
" Lâm tuyền kỳ ngộ
" 林泉奇遇 là " Cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa suối
rừng ", là một truyện dài bằng thơ, gồm 146 bài thơ thất
ngôn bát cú Đường luật, một bài thơ tứ tuyệt và
một bài " Thạch tuyền ca khúc " theo thể Hát Nói ( hai
bài này đều ở cuối tác phẩm ). Hoàng Xuân Hãn trong
" Thi văn Việt Nam " cho rằng tác phẩm này gồm 150 bài thơ
Đường luật.
Tác phẩm này hiện vẫn chưa ai tìm ra được tên tác
giả, có một số giả định là tác phẩm được viết
vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Còn có nơi cho rằng tác giả
là hoàng giáp Nguyễn Ðăng, một nho sĩ tài hoa ở Ðại
Toán, Bắc Ninh khoảng thời Trịnh Tạc (1657-1682), từng được cử
đi sứ nhà Minh năm 1673.
Nội dung tác phẩm dựa vào " Viên thị truyện " 猿氏傳
của Cố Quýnh đời Đường, Trung Quốc, gắn liền với chùa
Phi Lai. Truyện miêu tả cuộc tình duyên giữa một nho sinh và một
con vượn trắng đã hoá thành người ( con vượn vốn là
tiên giáng trần ). Tính chất lãng mạn, tinh thần nhân đạo
chủ nghĩa, chống những hạn chế của tôn giáo, mạnh dạn biểu
lộ những yêu cầu hạnh phúc của con người, của tình
yêu nam nữ, đã làm nên giá trị chủ yếu của tác
phẩm.
Bản Nôm của QH Huế Vở Cải
Lương BVTC
Ngoài việc viết
lại bằng thơ Lục Bát để dân gian nói thơ theo kiểu thơ
Vân Tiên, Bạch Viên Tôn Các còn được sọạn thành
tuồng Cải Lương với các vai diễn nổi tiếng như nghệ sĩ
Thanh Sang vai Tôn Các và kiều nữ Thanh Nga vai Bạch Viên rất ăn
khách trong thập niên 70 của Thế kỷ trước.
Nhân nhắc đến vượn, ta lại nhớ đến một thành ngữ
có liên quan là VIÊN TRƯỜNG THỐN ĐOẠN 猿腸寸斷
( Ruột của con vượn đứt ra từng tấc một ), Ta nói là "
Ruột thắt từng cơn " hay " Đứt từng khúc ruột "
theo tích sau đây :
Sách Sưu Thần Ký đời Tấn, Quyển 22 ghi : Xứ Đông Hưng đất
Lỗ, thuộc Quận Lâm Xuyên, có ngưới vào núi bắt được
một vượn con mang về. Vượn mẹ chạy theo đến nhà. Người
nầy trói vượn con trên cây trong sân. Vượn mẹ trông thấy,
quỳ xuống van xin, giơ tay tự tát vào má mình. Người đó
chẳng những không tha còn giết chết vượn con. Vượn mẹ trông
thấy, kêu khóc thảm thương, rồi lộn đầu xuống đất
mà chết. Người đó bèn mỗ bụng vượn mẹ ra, thì
thấy ruột đã bị đứt từng khúc một. Nên, thành ngữ
nầy dùng để chỉ sự nhớ thương bi thiết, hoặc qúa mức
đau lòng mà " Đứt từng đoạn ruột "! Thơ Lý Bạch
trong bài " Tặng Võ Thập Thất Ngạc " có câu :
Ái
tử cách Đông Lỗ,
爱子隔东鲁,
Không bi đoạn trường viên. 空悲断肠猿 .
Có nghĩa :
Thương con như
bị chia cắt ở đất Đông Lỗ,
Buồn thương đứt
ruột như con vượn kia cũng hoài công thôi !
Quả là một thành
ngữ đánh động lòng người, và là một câu chuyện
luân lý đề cao tình mẹ thương con muôn vàn bi thiết.
Vượn còn thế, huống hồ là người ? Ai là con mà lại
nở bỏ mẹ, nở quên mất tình thương bao la cuả mẹ bao giờ ?!
Cô gái quê cuả vùng sông nước Nam Bộ ngày xưa cũng
đã mượn hình tượng cuả con vượn để nhắn nhủ
với mẹ rằng :
Má ơi, đừng gả con xa,
Chim
kêu vượn hú biết nhà má đâu ?!
Trong số Đề 36 con, thì Khỉ đứng đầu trong
nhóm Ngũ Khất Thực ( 5 người ăn mày ), mang số 23 và
có tên chữ là Tam Hòe với lời vè như sau :
Tam Hòe con khỉ hăm ba,
Thua hoài đến nổi bán nhà không hay !
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình
Diệm quyết định xóa số 2 sòng bạc lớn nhất Sài Gòn
Chợ Lớn là Kim Chung và Đại Thế Giới, thì đề
36 không còn nữa . Nhưng nhóm quân đội người Nùng giúp
Tổng Thống dẹp loạn Bình Xuyên vẫn còn xổ đề ở
vùng Cây Da Xà Phú Lâm Chợ Lớn, và họ đã thêm
vào 4 con nữa cho đủ 40. Bốn con thêm vào là 37 Thiên Công
( Ông Trời ), 38 Địa Chủ ( Đất Đai ), 39 Thần
Tài và 40 là Táo Quân ( Ông Táo ). Nên khi áp dụng
vào Xổ Số Kiến Thiết thì ta có tới 2 con khỉ lận : Con khỉ
nhỏ là 23, còn con khỉ lớn là 63 ( cộng thêm 40 nữa )! Thế
là các tay ghiền đánh số đề từ 00 đến 99
mỗi ngày ít nhất phải thua thêm một con số đề nữa !
Nạn đánh đề
càng trầm trọng khi xã hội càng phân biệt giàu nghèo. Dân
càng nghèo càng phải chạy theo cuộc sống và càng mê số đề
hơn, và càng thua nhiều hơn nữa, rồi càng phát sinh nhiều
tệ nạn xã hội hơn và cuối cùng là xã hội càng
băng hoại hơn !... Rồi đến một ngày nào đó thì
...
Thọ
đão hồ tôn tán ! 樹倒猢猻散 !
Có nghĩa :
Cây đã
ngã rồi thì lũ khỉ cũng sẽ tan hàng !
Theo tích sau
đây :
Trong sách Thuyết Phù được biên soạn bởi Đào Tông
Nghi, trong đó có một câu truyện như sau :
Vào thời Nam Tống
, có người tên là Tào Vịnh, vì có quan hệ mật thiết
với Thừa Tướng lúc bấy giờ là Tần Cối nên được
phong làm quan lớn. Mọi người đều a dua theo ông ta để được
phong quan, duy chỉ có em vợ cuả ông ta là Lệ Đức Tân, người
rất chính nghĩa, không thích a dua, thà chịu giữ chức thư
lại nhỏ nhoi ở địa phương chứ không về hùa với ông
anh rễ. Tào Vịnh rất giận, ra lệnh cho quan huyện địa phương
gây áp lực và làm khó ông em vợ cứng đầu
nầy, nhưng Lệ Đức Tân vẫn không khuất phục.
Sau khi Tần
Cối chết, những người theo hùa với ông ta đều bị
rơi đài. Tào Vịnh cũng bị biếm đến đất
Tân Châu của vùng Quảng Đông. Lúc nầy, Lệ Đức
Tân mới làm một bài phú có tựa là " Thọ Đão
Hồ Tôn Tán Phú 樹倒猢猻散賦 ". Nội dung châm
biếm những người a dua với Tần Cối như là lũ khỉ, dựa
hơi Thừa Tướng để tác oai tác phúc. Nay cây đã
ngã rồi thì lũ khỉ nhóc cũng phải tan hàng mà thôi. Tào
Vịnh đọc bài phú tức đến ói máu, nhưng cũng
không làm gì được cái ông em vợ chính trực kia
!!!
Trông
người lại ngẫm đến ta ...
Không biết chừng nào cái cây lớn Trung Quốc mới ngã, để
cho lũ hồ tôn tan hàng thất tán, hết tác oai tác phúc làm
giàu trên xương máu của dân nghèo. Mong rằng câu cuối của
bài sấm Trạng Trình được linh nghiệm để cho ...
...
Thân Dậu niên lai kiến thái bình !
Mong lắm thay !!!
Đỗ
Chiêu Đức
Vịnh Bính Thân 2016
Đứng hàng
thứ chín thuộc chi Thân,
Đại
Thánh Tề Thiên giáng xuống trần.
Ấn
Độ khỉ thần phò thánh đế,
Hoa
Kỳ vượn chúa lụy giai nhân.
Tâm
viên ý mã khôn an trụ,
Ruột
đứt lòng sầu khó giải phân.
Cây
ngã hồ tôn đi tứ tán,
Thái
bình vui hưởng lấy chi cân !
Đỗ
Chiêu Đức
TỐNG TÁO THI - LỖ TẤN
魯迅(1881.9.25~1936.10.19),浙江紹興人,原名周樹人,字豫山、豫亭,後改名為豫才。他時常穿一件樸素的中式長衫,頭發像刷子一樣直豎著,濃密的胡須形成了一個隸書的"一"字。他是偉大的文學家、思想家,是中國文化的主將。
LỖ TẤN ( 25-9-1881--19-10-1936 ), người huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang.
Vốn tên là Châu Thọ Nhân, tự là Dự Sơn, Dự Đình,
Sau đổi thành Dự Tài. Ông thường mặc một chiếc áo
dài giản dị theo truyền thống Trung Hoa. Đầu để trần
tóc dựng đứng như bàn chải, râu mép đậm như
hình chữ NHẤT viết theo theo kiểu Lệ Thư. Ông là nhà Văn
học, nhà Tư Tưởng vĩ đại và là chủ tướng
của nền văn hóa Trung Hoa cận đại.
Sau đây là bài Tống Táo Thi ông làm năm Canh Tí 1901
lúc gia cảnh đang sa sút phải cầm cố đồ đạc để
sống qua ngày.
庚子送灶即事 CANH
TÝ TỐNG TÁO TỨC SỰ
1901年
năm 1901
只雞膠牙糖,
Chỉ kê giao nha đường,
典衣供瓣香。 Điển y cung
biện hương.
家中無長物, Gia trung vô
trưởng vật,
豈獨少黃羊。
Khởi độc thiểu hoàng dương.
魯迅
Lỗ Tấn
CHÚ THÍCH :
* GIAO 膠 là chất Keo, chất Nhựa.
nên...
Giao Nha
Đường là Kẹo Mạch Nha.
* ĐIỂN 典 là Cầm Cố. Điển Y là Cầm cái Áo.
* TRƯỞNG VẬT 長物 :
Đồ vật có giá trị, Đồ Quý giá !
* HOÀNG DƯƠNG 黃羊 : là con Dê màu
Vàng. Theo sách " Hậu Hán Thư " quyển 62 có " Âm Thức
Truyện《後漢書》卷62《陰識傳》kể
rằng : Đời Tuyên Đế, có người tên Âm Tử Phương,
rất có hiếu lại có lòng nhân từ. Tháng Chạp hăm ba, nhà
chỉ có một con dê màu vàng cũng làm thịt để cúng
Táo. Từ đó về sau bỗng phát tích thành cự phú.
Vì thế sau này đến ngày tế Táo, mọi người đều
làm dê vàng để cúng theo, lâu dần thành lệ.
NGHĨA BÀI
THƠ :
BÀI
THƠ LÀM LÚC CÚNG ÔNG TÁO NĂM
CANH TÝ 1901
Chỉ vỏn vẹn có một con gà và chút đỉnh kẹo mạch
nha, đó là do vừa đi cầm cái áo mà mua nhang về để
cúng đó. Nhà đã không còn vật gì đáng giá
nữa, chẳng phải chỉ thiếu có con dê vàng thôi không đâu
! ( Ý muốn nói là còn thiếu nhiều món để cúng nữa
! )
Chắc
vì không có được dê vàng để cúng, nên Lỗ Tấn
chịu nghèo suốt cuộc đời mình !
DIỄN NÔM :
TIỄN
TÁO NĂM CANH TÝ 1901
Mạch nha kẹo với gà,
Cầm
áo cúng hoa loa.
Nhà không còn gì quý,
Lấy đâu chú dê già !?
Lục bát :
Con
gà với kẹo mạch nha,
Nén
nhang cầm áo hoa loa cúng Ngài,
Hết
đồ quý giá trong ngoài,
Dê vàng đừng nhắc thêm hoài công thôi !
Đỗ Chiêu Đức
TỐNG TÁO THI
Hằng năm
cứ đến ngày 23 tháng Chạp, thì dân Việt Nam ta có tục
lệ cúng tiễn đưa Ông Táo về trời, người Hoa thì cúng
vào đêm 24. Theo câu nói của dân gian là " Quan tam, dân tứ,
thuyền gia ngũ ", có nghĩa là : Làm quan thì đưa ông Táo
ngày 23, dân thì đưa ngày 24, còn những người đi ghe theo
cuộc sống thương hồ thì đưa ông Táo ngày 25.
Bỏ qua về
xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần cúng tế.
Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường cúng tiễn
Táo Quân bằng " thèo lèo ", bánh mức, chè Ỷ... hương
hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm theo các hình
cò bay ngựa chạy. Ý là để cho ông Táo cởi ngựa cởi
cò về trời ( trong văn học thì cho là cởi cá Chép ), còn
" thèo lèo " bánh mức... là để ăn cho ngọt miệng đặng
báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc Hoàng Thượng Đế về
tình trạng gia đình nơi mà ông Táo đang cư ngụ....
Nhớ
lúc nhỏ, khi gần Tết , tôi đã đọc được một bài
thơ " Tống Táo Thi " 送 竈 詩 trên báo để tiễn
đưa ông Táo như sau :
送 竈 詩
TỐNG TÁO THI
麥芽糖餅餞行蹤,
Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。
Bái chúc dương si thả tác lung.
只有一般應開口,
Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。
Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
CHÚ THÍCH :
1. Đường Bỉnh : là Kẹo bánh. Đường là Đường,
mà cũng có
nghĩa là Kẹo nữa.
2. Dương : là Giả đò.Tác
: là Làm, ở đây có nghĩa là Làm bộ.
3. Si : là Ngây, là Dại. Lung : là Điếc.
4. Nhất
ban : là Mạo từ ( Article )chỉ : Một Điều, Một Cái.
5. Nhất niên : là Cả năm, suốt năm, chớ không phải MỘT
NĂM.
DỊCH
NGHĨA :
Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn
bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng
Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho ( đừng nói lung
tung những chuyện không tốt của tôi ). Chỉ có một điều ông
nên mở miệng nói là.... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng
là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy ?!
DIỄN NÔM :
THƠ TIỄN ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo
bánh tiễn chân ông,
Lên đó
giả ngây giả điếc dùm.
Chỉ
có một điều nên mở miệng,
Rằng ta nghèo suốt một năm ròng !
Đỗ Chiêu Đức.
TÁI
BÚT :
Xin được nói thêm về
2 chữ THÈO LÈO.
THÈO LÈO là phát theo âm
Triều Châu của 2 chữ TRÀ LIỆU 茶料 : là Những Vật Liệu
dùng để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây là chỉ những
món đồ ngọt như : Kẹo Đậu Phọng, Kẹo mè đen, mè
trắng, cốm, và những viên đậu phọng được áo một
lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là " Cứt Chuột
".
" Thèo Lèo Cứt Chuột " là món ngon
dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng
ông Táo ở quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...
Nhân nói đến
thơ đưa Ông Táo, ta không thể không nhắc đến bài "
Tống Táo Thi " của Lữ Mông Chính, người mà trong " Hàn
Nho Phong Vị Phú " Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy
:
.... Khó
ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa
cởi
dù che. ...
Sau đây, ta thử tìm
hiểu cuộc đời nghèo khó và bài thơ đưa ông Táo
nổi tiếng của ông nhé !...
呂蒙正(944或946-1011),字聖功,河南洛陽人,977年宋太宗丁丑科狀元。呂蒙正中狀元後,曾任將作監丞、通判、著作郎、左補闕、參知政事等官銜。988年,呂蒙正出任宰相,病逝於大中祥符四年(1011年),享年67歲
.
LỮ MÔNG CHÍNH ( 944 & 946- 1011 ), Tự
là Thánh Công, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu
Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi
đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ các chức vụ
Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính
Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại
Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng thọ 67 tuổi.
Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi . Lữ Mông Chính cùng mẹ
phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin
độ nhật.
Một hôm, thấy trước
cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất
náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì
đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì
ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga đang
gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng
Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên
lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn
sự nầy, nhưng tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp
nhận từ bỏ tất cả để đi theo Lữ về sống ở lò
gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn
nữa không thể bội tín được.
Cuối năm đó, đến ngày đưa ông Táo, không hiểu
là Lữ Mông Chính đã năn nỉ như thế nào mà ông
hàng thịt bán chịu cho một miếng thịt đem về luộc để
cúng ông Táo. Nhưng khi bà hàng thịt biết được việc
nầy bèn mắng cho ông chồng một trận nên thân : " Nó nghèo
kiết xác, làm sao có tiền trả mà bán chịu ?!". Bà ta
tức tốc chạy đến lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc
dở dang trên bếp, bèn hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt
đem về !. Đến nước nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước
luộc thịt vào tô mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp hương
để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái nghèo khó
của mình và cũng cảm khái trước cái nhân tình thế
thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn Ông Táo
sau đây :
一柱清香一縷煙,
Nhất trụ thanh hương nhất lũ yên,
灶君今日上朝天;
Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
玉皇若問人間事,
Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。
Vị đạo văn chương bất trị tiền !
DỊCH NGHĨA :
Một
nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn khói nhẹ, hôm nay ta đưa tiễn
Táo Quân về để chầu Trời. Nếu như Ngọc Hoàng có hỏi
đến chuyện của dân gian, thì xin ông hãy vì ta mà đáp
rằng, văn chương không đáng giá đồng xu cắc bạc nào
cả !
DIỄN NÔM :
Một nén nhang thanh làn khói nhẹ,
Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Đỗ Chiêu Đức.
Câu chót của bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu
Trời của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu :
" Văn chương hạ giới rẻ như bèo ! "....
Trở lại chuyện của Lữ
Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
....Năm
đó, sau khi Táo của các nhà đã báo cáo xong, mà đợi
mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch nơi Lữ cư ngụ.
Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo của Lữ Mông
Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch vào chầu.
Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả lời rằng
: " Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc dở dang
chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng nên đi
không nổi. ", đoạn trình bài thơ của Lữ lên cho Ngọc
Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu Trạng
Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá ! Thần Táo mới năn nỉ
rằng : " Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa sau đâu,
thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương
tình. Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ
đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính mới đậu
được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 là vậy !
... Trên đây là theo truyền Thuyết
dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của
người đàn ông, thường có bóng dáng của một người
đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của
Lữ Mông Chính, có tới bóng dáng của 2 người đàn
bà lận : một là Lưu tiểu thơ, 2 là bà Tể Tướng phu
nhân, vì thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ vật
chất cho con và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà
dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức mà
học hành để đậu Trạng Nguyên cho được !
Đây là ông
Tể Tướng xuất thân từ khất cái ( Ăn mày ) duy
nhất của lịch sử Trung Hoa : Lữ Mông Chính.
Nói đến thơ đưa tiễn
Ông Táo thì cũng không thể không nhắc tới...
LA ẨN 羅隱(833-909 ),Tự
là Chiêu Gián, người đất Tân Thành ( thuộc trấn Tân
Đăng, thành phố Phú Dương, tỉnh Chiết Giang ngày nay ). Ông
vốn tên là HOÀNH 橫, vì từ năm 20 tuổi bắt đầu đi
thi Tiến Sĩ, nhưng 10 lần vẫn không đậu, nên mới đổi tên
là LA ẨN và đi tu theo đạo Lão, là một học giả thuộc
Đạo Gia ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại.
Thơ ông thường mang tính hiện thực, bất cần đời, nổi
tiếng với các câu như :
今朝有酒今朝醉,
Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明日愁來明日憂。 Minh nhựt sầu lai minh nhựt
ưu.
Có nghĩa :
Hôm nay có rượu thì hôm nay say,
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy ưu sầu !
Ông cũng có một bài
Tống Táo Thi giống như là của LÃ MÔNG CHÍNH đã nêu
ở trên, như sau :
一盞清茶一縷煙,
Nhất trản thanh trà nhất lũ yên,
灶君皇帝上青天。 Táo
quân hoàng đế thượng thanh thiên.
玉皇若問人間事, Ngọc
Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。 Vị
đạo văn chương bất trị tiền !
CHÚ THÍCH :
NHẤT TRẢN : là
Một Chung. TRẢN là Ly, Chén nhỏ.
TÁO QUÂN
HOÀNG ĐẾ : Là Ông Hoàng Đế ở trong Bếp mà ta quen gọi
là VUA BẾP.( Xuất xứ của từ VUA BẾP là do câu thơ nầy mà
ra ).
DIỄN NÔM :
Một chén trà thơm làn khói nhẹ,
Chầu Trời Vua Bếp đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Ta thấy, chỉ có 2 câu đầu
là hơi khác, còn 2 câu sau của bài thơ thì giống y chang như
là bài Tống Táo Thi của Lữ Mông Chính, và không cần
phải nói ta cũng biết là Lữ đã mượn thơ của La Ẩn
để cảm khái cho hoàn cảnh của mình, vì LA lớn hơn LỮ
đến 111 tuổi lận, LA ở cuối đời Đường còn LỮ ở
đầu đời Tống.
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời cùng đọc câu đối
hay và nổi tiếng thường thấy dán cho bàn thờ TÁO QUÂN
như sau :
有德能司火,
Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp
nút được.
Phải CHÍ
CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời ( để trình
tấu mọi việc ).
Như vậy là cái TIÊU CHUẨN để
được làm ông Táo đâu phải dễ !. Năm mới vui xuân,
mong rằng mọi người rán tích đức để tương lai đều
được lên CHẦU TRỜI như ông TÁO vậy !
Đỗ Chiêu Đức
GIÁO DỤC
Giáo Dục luôn luôn là đề tài muôn thuở
gắn liền với đời sống con người. Bất cứ nơi đâu
trên trái đất, bất cứ màu da nào, dân tộc nào đều
cũng có một nền giáo dục riêng biệt, đặc trưng của
mình. Ngay cả trong mỗi gia đình đều có một nề nếp riêng
của gia đình đó, mà người chủ gia đình là đầu
tàu dẫn dắt theo cái hướng đi của gia đình mình và
của cái xã hội mà gia đình mình đang hiện hữu. Nên
từ ngàn xưa ông bà ta cũng đã cảnh báo là :" Dưỡng
bất giáo, phụ chi quá. Giáo bất nghiêm, sư chi đọa " 養不教,父之過。教不嚴,師之惰。Có
nghĩa : " Nuôi mà không dạy là lỗi của người cha. Dạy
mà không nghiêm, là do sự biếng nhác của người Thầy."
Vậy nên ...
Muốn
Giáo Dục có hiệu qủa tốt, thì cần phải kết hợp chặc
chẽ giữa người dạy, người học và người theo dõi đôn
đốc nữa ! Tức là phải kết hợp giữa Học Đường và
Gia Đình, phải điều phối hợp lý chặc chẽ giữa Học
Sinh, Thầy Cô Giáo và Phụ Huynh ! GIÁO DỤC luôn là vấn đề
bức xúc, tế nhị và lâu dài, không phải trong một ngày
một buổi mà đem lại hiệu qủa trông thấy được.
Bây
giờ thì ta hãy thử Chiết Tự để tìm hiểu một cách
thấu đáo hơn về 2 chữ GIÁO DỤC nhé !
* GIÁO 教 là chữ Hội Ý,
theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại
Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy các chữ trên ...
Bên Trái phía trên là 2 dấu chéo chỉ SỰ KIỆN, phía
dưới là hình chữ Tử 子 là NGƯỜI, là Thằng Nhỏ.
Bên Phải là hình của một Người hai tay dang ra, tay phía trên
có cầm một cây Roi giơ cao như đang chỉ huy. HỘI Ý những
hình trên lại : Trong xã hội nô lệ, thường thì chủ nô
lệ phải cầm roi để chỉ huy, ra lệnh, dạy bảo đám người
nô lệ. Nên ...
GIÁO 教 đầu tiên có nghĩa là Chỉ Bảo, Ra Lệnh. Như
:
- GIÁO HUẤN 教訓
: là Dạy Dỗ, chỉ bảo, bắt buộc phải làm theo. Huấn còn
có nghĩa là Huấn Tập, Huấn luyện cho thành thạo. Nghĩa phát
sinh hiện nay thì Giáo Huấn có nghĩa là : Dạy cho một bài
học cho nên thân !.
-
GIÁO ĐẠO 教導 : Chữ ĐẠO 導 nầy có bộ THỐN 寸
là Tấc ở dưới, Ý chỉ dò dẵm từng tấc đất một.
Nên ĐẠO là Chỉ Dẫn để đi cho đúng Đường là
Hướng Đạo đó. Nên GIÁO ĐẠO là Dạy dỗ và
Hướng dẫn để đi cho đúng với con đường phải đi.
- GIÁO DƯỠNG 教養 :
Chữ DƯỠNG có bộ THỰC 食 bên dưới, nên Dưỡng là
Cho Ăn, là NUÔI. Nên GIÁO DƯỠNG là Nuôi Dạy.
Nuôi dạy là phạm vi của Gia đình,
của Cha mẹ đối với Con cái. nhưng nghĩa rộng của Giáo Dưỡng
là Giáo dục và Bồi Dưỡng. Có nghĩa dạy xong rồi, còn
phải củng cố bồi dưỡng cho kiến thức được vững chắc
lâu dài !
- GIÁO HỌC
教學 : là DẠY và HỌC, nên Giáo Học là Dạy Học.
Công Việc Giáo Học là Công việc truyền thụ kiến thức cho
người khác, nhưng GIÁO HỌC cũng có nghĩa Dạy tức là
Học đó. Càng DẠY thì lại càng HỌC được nhiều
kiến thức hơn, càng Giỏi hơn ra.
Đó là chung quanh các chữ GIÁO mà có liên quan đến DỤC.
Vậy DỤC là gì ? Ta hãy xem nguồn gốc của chữ DỤC dưới đây
:
Đại Triện Tiểu Triện
Lệ Thư
Ta
thấy :
* Chữ Đại
Triện : Có bộ MẪU 母 là Mẹ bên trái, bên phải là
chữ Tử 子 là Con lật ngược đầu xuống, dưới cùng
là chữ Tiểu 小 là Nhỏ. Ý chữ là : Bà mẹ đang sanh
ra đứa con nhỏ, nên chữ Tử 子 mới để ngược
đầu trở xuống. Và chữ DỤC 育 ở đây có nghĩa
là SANH RA. Như :
-
Sinh Dục 生育 nghĩa như Sinh Sản.
- Tiết Dục 節育 là Hạn chế Sinh đẻ.
- Đoạn Dục 斷育 là
Nghỉ đẻ luôn !
*
Chữ Tiểu Triện : Phần trên là chữ TỬ 子 trở ngược đầu,
phần dưới là bộ NHỤC 肉 là THỊT,( được viết cách
điệu như chữ Nguyệt 月 là Trăng ). Ý chữ là : Đang
đút cho đứa bé ăn thịt, nên DỤC 育 có nghĩa là
NUÔI NẤNG. Như :
- Dưỡng Dục 養育 : là từ kép của Nuôi, là Nuôi Nấng.
- Đức Dục 德育
: Nuôi Nấng về mặt Đạo Đức.
- Trí Dục 智育 : Nuôi Nấng về
mặt Trí Thức.
-
Thể Dục 體育 : Nuôi Nấng cho cơ thể Khỏe Mạnh.
- Mỹ Dục 美育 :
Nuôi Nấng về khiếu Thẩm Mỹ.
.... và cuối cùng là ...
- GIÁO DỤC 教育 : Là Nuôi Nấng về mặt Dạy Dỗ.
Nhưng, Nuôi
như thế nào ? Nuôi bằng cách rèn luyện cho người được
nuôi có được Phẩm Chất Đạo Đức Tốt ( Đức Dục
). Nuôi bằng cách truyền thụ cho người được nuôi mở
mang trí hóa với các kiến thức căn bản ( Trí Dục ). Nuôi
cho người được nuôi có được một cơ thể cường
tráng ( Thể Dục ) và có được cái năng khiếu về
thẩm mỹ mỹ thuật, biết thưởng thức được những cái
đẹp của cuộc sống chung quanh ta ( Mỹ Dục ). Còn ...
DẠY thì phải
ra sao ? Dạy cho nắm bắt được kiến thức cơ bản của
xã hội mà ta đang sống, có được một kỹ năng kiếm
sống và biết sống cho đáng sống ( Giáo Huấn ). Dạy cho
biết bồi dưỡng cập nhật và thích ứng với xã hội
luôn luôn phát triển không ngừng ( Giáo Dưỡng ). Dạy cho biết
phải đi đúng đường đúng hướng của đạo làm
người trong tập thể mà ta đang sống ( Giáo Đạo ) và cuối
cùng là Dạy cho ta biết phải luôn luôn học hỏi và không
ngừng cầu tiến để thăng hoa hơn con người của bản thân
ta ( Giáo Học ). Cho nên ...
Giáo mà không Huấn sẽ không tinh, không giỏi được. Giáo
mà không Dưỡng sẽ không lâu dài bền vững được.
Giáo
mà thiếu chỉ Đạo sẽ
dễ bị chệch hướng, " Tẩu hỏa nhập ma ", lầm đường
lạc lối, còn Giáo mà không chịu trao dồi Học hỏi
thêm sẽ bị lạc hậu ngay, như câu nói :
Học như
nghịch thuỷ hành chu, 學如逆水行舟,
Bất
tiến tắc thoái dã !
不進則退也!
Có nghĩa
:
- Chuyện
học hành như là đang đi thuyền nước ngược vậy,
- Nếu không cố gắng
tiến lên, thì sẽ bị nước đẩy cho lùi trở xuống ! (
chớ không thể đứng một chỗ được !).
Hai chữ GIÁO DỤC thấy như đơn giản, nhưng lại bao hàm
đầy đủ các mặt NUÔI DẠY cần thiết để đào
tạo con người. Cho nên, Công Tác Giáo Dục cũng là Công
Tác vô cùng phức tạp và hết sức thiêng liêng và Hiệu
Qủa Giáo Dục thì không phải là chuyện một ngày một buổi
mà có được. Ngạn ngữ Trung hoa xưa có câu :
Nhất niên thọ đạo, 一年樹稻,
Thập niên thọ mộc, 十年樹木,
Bách
niên thọ nhơn. 百年樹人!
Có nghĩa :
-
Vì lợi ích trong một năm thì trồng lúa,
- Vì lợi ích của mười
năm thì trồng cây,
- Vì lợi ích của trăm năm thì phải đào tạo con người
!
Mong rằng những người
làm Công Tác Giáo Dục phải biết cân nhắc, châm chước
và trân trọng !
Đỗ Chiêu Đức
LIỄN DÁN TỪ CỔNG ĐẾN ... CẦU TIÊU !
Để
mở đầu cho đề tài " không giống ai " nầy, xin kể hầu
Quý Vị một câu chuyện vui về " Liễn dán trước cổng
".
GIẢI TẤN 解缙, người ở
Trấn Văn Phong, huyện Cát Thủy, tỉnh Giang Tây, là một văn tài
đời nhà Minh. Tương truyền, trước khi đậu Tiến sĩ, ông
còn là một bạch diện thư sinh, nhà ở đối diện với
một khu vườn trúc ( Trúc 竹 là từ Hán Việt, có
nghĩa là cây Tre ). Vì là một thư sinh áo vải nhà nghèo,
nên chiều ba mươi Tết, ông chỉ viết một đôi liễn dán
lên trước cổng để đón giao thừa mà thôi, đôi liễn
như thế nầy :
Môn đối thiên can trúc, 門對千竿竹,
Gia
tàng vạn quyển thư. 家藏萬卷書。
Có nghĩa :
- Đối diện trước cửa là
ngàn cây trúc, và ...
-
Trong nhà cất giữ hàng vạn quyển sách.
Ý của ông là muốn tỏ
rõ cho mọi người biết mình là một thư sinh quân tử thanh
cao như là vườn Trúc trước nhà, và là một thư
sinh hiếu học với cả vạn quyển sách chứa trong nhà.
Ngày xưa, Trúc được
xem như là biểu tượng của người quân tử, được phong
tặng là " Tiết trực tâm hư 節直心虛 ". TIẾT là
các mắt, các lóng tre, TRỰC là thẳng, TÂM là cái Ruột
tre, HƯ là trống không. Nên TIẾT TRỰC TÂM HƯ có nghĩa là
: Các mắt tre thì thẳng tuột mà ruột tre thì bọng không, như
biểu tượng của người quân tử : Thẳng thắn mà không
vụ lợi. Nhất là khi đã xuất sĩ để làm quan. Ta nhớ
lại, lúc về Việt Nam chấp chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đã dùng cả một bụi tre để làm biểu tượng cho chính
quyền của mình, tất cả những con dấu từ Trung Ương đến địa
phương đều có hình bụi tre ở giữa với ý nghĩa Chính
trực thanh liêm không vụ lợi !
Trở lại với...
Câu
đối của Giải Tấn. Sáng mùng một Tết, tên địa chủ
của vườn trúc thấy đôi câu đối của ông, bèn nổi
giận nghĩ rằng : Vườn trúc của ta để cho nó tự ví
mình là người cao cả học rộng, thật đáng ghét ! Bèn
cho gia nhân đốn hết vườn trúc xuống, xem mi còn viết được
liễn hay không ?! Đến chiều khi Giải Tấn ra cửa, thấy trúc đã
bị đốn sạch, nhưng còn khúc gốc ngăn ngắn, ông chỉ
mĩm cười chẳng nói chẳng rằng. Đêm đó, ông viết
thêm 2 chữ nối vào đôi liễn trên như sau :
Môn đối thiên can trúc ĐOẢN, 門對千竿竹短,
Gia
tàng vạn quyển thư TRƯỜNG. 家藏萬卷書長。
Có nghĩa :
- Cửa đối ngàn cây
trúc NGẮN,
-
Nhà còn muôn quyển sách DÀI.
Ý càng mĩa mai hơn, Trúc của ông đã ngắn rồi, nhưng
sách của nhà ta thì lại dài thêm ra.
Sáng mùng 2 Tết, tên địa chủ
nhìn thấy 2 chữ mới thêm vào của Giải Tấn càng nổi máu
hơn, ông ta ra lệnh cho đám gia nhân đào hết cả các gốc
tre lên, thử xem " mầy " có gở đôi liễn xuống không
cho biết ! Giải Tấn trông thấy việc làm của ông ta, chỉ cười
thầm. Tối đêm đó, ông lại thêm vào mỗi bên một
chữ nữa như sau :
Môn đối thiên can trúc đoản VÔ, 門對千竿竹短無,
Gia tàng
vạn quyển thư trường HỮU. 家藏萬卷書長有。
Có nghĩa :
- Cửa đối ngàn cây trúc tạm
không ( đoản vô : chỉ một thời gian ngắn không có, có nghĩa
Tạm thời không có, trúc sẽ mọc lại mà thôi ! )
- Nhà giữ muôn
quyển sách dài dài ( trường hữu : Có một cách lâu dài
trường cữu, là Có dài dài ! ).
Ý muốn nói, Tre của ông có
thể không có, chớ sách của ta thì luôn có dài dài
trong nhà !
Sáng sớm mùng 3 Tết, tên địa chủ đọc được 2 chữ
mới thêm vào của Giải Tấn, tức muốn ói máu, nhưng lại
không làm gì được anh ta, mà vườn trúc nhà mình
đã bị mình ra lệnh cho đốn sạch cả rồi !.....
Chữ nghĩa lắm lúc
cũng mạnh mẽ, hay ho, lý thú là thế ! Nên ngày xưa, người
ta có lệ dán liễn từ ngoài cổng cho đến... sau hè !
Ta sẽ bắt đầu từ cổng nhé !...
Cổng là cửa chính của
nhà lớn, hoặc là cửa rào của trang trại nhìn ra đường
cái hoặc sông hồ ao biển... Nên câu đối phải bao quát
cả thiên nhiên, vũ trụ, đất trời hoặc dòng thời sự
chính của xã hội, nên thường ngắn, gọn và bao quát.
Ví dụ như câu đã được đề cập trong bài Chữ
Nho ...Dễ học là :
Nhất
nguyên phục thuỷ, 一元復始,
Vạn tượng canh tân. 萬象更新。
Có nghĩa :
- Một dòng nguyên khí
của trời đất trở lại lúc ban đầu.
- Muôn vàn hiện
tượng ( bao gồm người, vật, sự vật )
đều đổỉ
mới.
Câu đối 5 chữ như :
Xuân huy doanh thiên địa, 春輝盈天地,
Thọai khí mãn càn khôn. 瑞氣滿乾坤。
Có nghĩa :
- Ánh sáng của mùa xuân phủ
trùm cả trời đất,
-
Luồn khí tốt lành đầy rẫy cả càn khôn.
Mang
tính chính trị như :
Chính thông thiên gia phước, 政通千家福,
Dân an vạn hộ xuân.
民安萬戶春。
Có nghĩa
:
- Chính
trị được đả thông là cái phước của ngàn
nhà,
-
Dân được an lành thì muôn nhà đều đón
xuân vui vẻ.
Thường
những câu như thế nầy là dùng để dán ở các
cơ quan nhà nước để nhắc nhở các quan chú ý đến
đời sống của dân đen.
Nhưng
câu hay nhất để dán cổng hoặc cửa cái vẫn là câu
:
Hữu thiên giai lệ nhật, 有天皆麗日,
Vô
địa bất xuân phong. 無地不春風。
Có nghĩa :
- Hễ nơi nào có trời là
nơi đó có nắng đẹp chiếu tới.
- Không nơi nào trên mặt đất
là không có gió xuân.
Bây giờ
thì ta bước vào cửa chính để vào nhà, ngoài câu đối
truyền thống là :
Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng
thọ 天增歲月人增壽,
Xuân mãn càn khôn phước mãn
đường 春满乾坤福满堂.
Có nghĩa :
1. Trời thì thêm năm thêm tháng, người thì thêm tuổi
thọ.
2. Xuân về đầy
cả đất trời, phước lộc đầy cả nhà.
Hai câu nầy bao gồm cả trời đất, cả bầu trời đều
chìm ngập trong không khí của mùa Xuân, người thì thêm
phước thêm thọ... nên được cả người Việt lẫn người
Hoa ưa chuộng. Có một điều hơi khác là chữ cuối cùng
của Câu đối, chữ ĐƯỜNG, là cái phòng rộng ở
trong nhà, tiếng Anh là HALL, tiếng Việt không có từ tương đương
để gọi. Cái phòng rộng nầy là nơi thờ phượng
Ông Bà Tổ Tiên (Từ Đường), cũng là nơi Cha Mẹ hay ngồi
để cho con cháu hằng ngày đến vấn an, ra mắt, nhất là vào
các dịp lễ hội, Tết nhứt (Cho nên gọi cha là Xuân Đường,
gọi mẹ là Huyên Đường là vì thế). Dĩ nhiên, nhà
giàu mới có được cái "ĐƯỜNG" nầy, cho nên
nhà nghèo thì đổi chữ ĐƯỜNG thành chữ MÔN 門,
là cái Cửa, cũng có nghĩa là cái NHÀ, (Từ kép của
ta gọi là NHÀ CỬA mà)...
Xuân mãn càn khôn phước mãn MÔN là: Xuân về đầy
cả đất trời và phước cũng tràn ngập cả nhà. Sự
thật thì ĐƯỜNG hay MÔN gì thì cũng là một bộ phân
tiêu biểu cho CÁI NHÀ mà thôi. Tôi nói để mọi người khỏi
thắc mắc là tại sao có người viết là ĐƯỜNG, mà
có người lại viết là MÔN.
Bây giờ thì tất cả
chúng ta đều trên 6 bó cả rồi, có người đã gần
9 bó nữa là khác, câu đối không còn xoay quanh phát tài
phát lộc nữa, ( còn tài lộc đâu mà phát !). Sau đây,
xin giới thiệu một câu đối Tết cho tuổi già để dán
ngay cửa ra vào :
Đản
cầu tuế tuế bình an nhật, 但求歲歲平安日,
Nguyện đắc
niên niên như ý xuân. 願得年年如意春。
Có nghĩa :
- Chỉ cầu cho mỗi một tuổi đều
có được những ngày tháng bình an.
-
Chỉ nguyện rằng mỗi năm đều có được những mùa xuân như ý.
Phòng khách
ngày xưa gọi là Khách Đường hay Khách Thính là nơi
cha mẹ hay ngồi nơi đó để con cháu quây quần ra mắt vấn
an. Nên câu đối truyền thống của Việt Nam ta ở phòng khách
nầy là :
Thiên
hữu tứ thời xuân tại thủ, 天有四時春在首,
Nhân
sanh bách hạnh hiếu vi tiên. 人生百行孝為先。
Có nghĩa :
- Trời thì có 4 mùa, mùa
xuân là mùa đứng đầu.
-
Người thì có cả trăm đức hạnh, hiếu là đức
hạnh
trước tiên.
Còn người Hoa thì họ nói " Bách THIỆN hiếu
vi tiên " như 2 tấm bảng minh họa nêu trên. Nghĩa cũng như nhau
mà thôi !
Nếu có
hoành phi thì thường thấy có 4 chữ HÒA KHÍ SANH TÀI 和氣生財,
có nghĩa : Không khí hòa thuận của gia đình sẽ phát sinh
tài lộc, hoặc 5 chữ như : GIA HÒA VẠN SỰ HANH 家和萬事亨。Có
nghĩa : Gia đình có hòa thuân thì muôn việc mới hanh thông.
Câu nầy thường bị viết sai thành : GIA HÒA VẠN SỰ HƯNG 家和萬事興。Cả
người Hoa cũng viết sai như thế, nhưng lâu dần, NÓ trở thành
thói quen, rồi... được thông dụng luôn, vì nghĩa của nó
cũng " same same ": Gia đình hòa thuận thì muôn việc đều
Hưng Vượng. Cũng tốt thôi !
Vào đến phòng đọc sách, tức là phòng học, phòng
để computer hiện nay, còn gọi là study room, thì câu đối mà
ta thường gặp nhất là :
Tàng cổ kim học thuật, 藏古今學術,
Tụ
thiên hạ tinh hoa . 聚天下精華。
Có nghĩa :
- Tàng trữ học thuật từ xưa
tới nay.
- Tích tụ những tinh hoa của thiên hạ.
Với những phát minh của khoa học
kỹ thuật hiện nay, thông qua google, youtube, Skype ... Chỉ cần ngồi ở nhà "
chịu khó mở máy " là ta sẽ biết hết chuyện thiên
hạ thế giới... Nên sau đây là câu đối của thầy đồ
dỏm ĐCĐ :
Tọa thất tự thông
thiên hạ sự, 坐室自通天下事,
Bế môn
biến thức cổ kim tình. 閉門遍識古今情。
Có nghĩa :
- Ngồi ở trong nhà, trong phòng tự
mình cũng thông suốt được
chuyện xảy ra trong thiên hạ.
- Đóng cửa lại ở trong nhà, cũng biết hết các sự tình
của xưa nay.
Bây giờ thì ta bước vào...phòng ngủ của vợ chồng nhé,
đây là câu đối thích hợp nhứt :
Đồng
sàng kiêm đồng mộng, 同床兼同夢,
Hợp ý diệc hợp tâm.
合意亦合心。
Có nghĩa
:
- Chung giường cùng
chung mộng.
-
Hợp ý cũng hợp lòng .
Một câu đối nữa
để chỉ sự hòa hợp giữa vợ chồng với nhau :
Gia đình hạnh
phúc chơn viên mãn, 家庭幸福真圓滿,
Cầm sắc hòa
hài lạc tự do.
琴瑟和諧樂自由.
Có
nghĩa :
- Gia
đình hạnh phúc thật là viên mãn, đầy đủ.
- Hòa hợp với
nhau như cầm với sắc, vui hưởng tự do.
Cuối cùng là nhà bếp, nơi cung cấp thức ăn và nuôi
sống gia đình. Theo sách " Hán Thư. Lệ thực kỳ truyện
: 漢書 ·郦食其传:"王者以民为天,而民以食为天。"
Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên ". Có
nghĩa : Bậc vương giả thì lấy dân làm trời, còn dân
thì lấy cái ăn làm trời "( TRỜI : ở đây chỉ Cái
Quan Trọng nhất, Cao Nhất !). Câu nầy cũng thường hay bị nói sai
thành : " Dĩ thực vi TIÊN 以食為先 " ( Cái ăn là
trước hết cả !), nhưng, nghĩa thì vẫn đúng như thường,
nên cũng không kể là nói sai được, trong cuộc sống thực
tế có rất nhiều câu như thế. Trở lại với câu đối
của nhà bếp, ta có :
Phanh
điều ưng cần kiệm, 烹調應勤儉,
Ẩm
thực mạc qúa lường . 飲食莫過量。
Có nghĩa :
- Nấu nướng phải
biết cần kiệm ( đừng phung phí ).
-
Ăn uống đừng qúa độ. ( phải biết chừng mực, vừa no thì
thôi !).
Và ...
Tầm thường vô dị vị, 尋常無異味,
Tiên
khiết tức giai trân. 鮮潔即佳珍。
Có nghĩa :
- Bình thường không mùi lạ,
( tanh hôi thiêu thúi ).
- Tươi sạch ấy món ngon. ( Còn tươi và sạch sẽ vệ sinh
thì là món ngon rồi !).
Ăn uống
no say rồi, bây giờ đến ... cái tứ khoái cuối cùng cuả
con người nhé !
Ngày xưa không có Toilet hay restroom như bây giờ, Nhà Xí được
cất ở phía sau khá xa nhà để tránh mùi hôi thúi. Đối
với những gia đình giàu sang khá giả thì cũng được
lợp mái và có cửa nẻo hẵn hoi và ... dĩ nhiên cũng được
dán đôi liễn như những nơi khác. Sau đây là một đôi
liễn độc đáo nhất được dán ở ... Cầu Tiêu Công
Cộng :
Lai thời thập phân cấp, 來時十分急,
Khứ hậu nhất thân khinh. 去後一身輕。
Có nghĩa :
- Khi đến vội vả mười phần,
( lính qua lính quính ).
- Lúc đi nhẹ nhỏm một thân. ( đã trút được bầu
tâm sự ).
Tin
rằng trong đời chắc ai cũng có một lần lính qua lính quính
qưính quáng tìm chỗ giải quyết vấn đề... sinh lý nầy
!
Nhớ trước 1975, khi nhà còn ở trên Ba Láng ( Ba Láng của
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền đó !), phiá sau nhà
tôi có một cái Cầu tiêu Cá Vồ với 2 dãy đâu lưng
nhau ( để khỏi nhìn mặt nhau lúc làm... công việc thiêng liêng
đó !). Lối xóm, có một nàng nữ sinh Trung học Đoàn Thị
Điểm thường sử dụng cây cầu có cá nầy. Một hôm,
có anh bạn cùng lớp ở Cần Thơ đạp xe đạp vào
thăm nàng, nhằm lúc nàng đang... kẹt cầu, nên đứng ở
bên hông nhà tôi đợi, chớ không dám đi đến cầu.
Là bạn học cùng trường Phan Thanh Giản với nhau, tôi thấy vậy,
bèn mời anh bạn vào nhà, không biết tức cảnh sinh tình như
thế nào mà anh bạn chỉ đưa cho tôi tờ giấy có ghi...
bài thơ, nhờ trao lại cho nàng, rồi đạp xe về Cần Thơ.
Tôi còn nhớ bài thơ như thế nầy :
Anh đến thăm em một buổi chiều,
Em
ngồi em ỉ ... ở cầu tiêu.
Xót
xa anh đợi lâu... lâu lắm,
Mới
biết rằng em ỉ ... thật nhiều !
Xin được
kết thúc bài viết " không giống ai " nầy !
Đỗ Chiêu Đức
________________________________________________________________________________________________
THƠ CUNG OÁN ĐỜI MINH
Tạ Triệu Chiết
TẠ TRIỆU CHIẾT 謝肇淛(1567-1624)tự
là Tại Hàng, người Trường Lạc tỉnh Phước Kiến. Đậu
Tiến Sĩ khoa Nhâm Thìn, tức năm Vạn Lịch thứ 20 ( 1592 ).
Làm Thôi quan ở Hồ Châu, Đông Xương, Chủ sự Hình
bộ ở Nam Kinh, Binh Bộ Lang Trung, Công Bộ Đồn Điền. Thiên
Khải nguyên niên nhậm chức Án Sát Sứ Quãng Tây, sau thăng
Bố Chánh Sứ. Ông là nhà văn nhà thơ nổi tiếng của
triều Minh. Hiện mộ phần của ông còn ở tỉnh Phước
Kiến, thuôc đơn vị Bảo tồn di tích Văn hoá Lịch sử
Tỉnh.
Sau
đây là 2 bài Cung Oán Ngũ ngôn Tứ tuyệt của ông.
1. 春怨
XUÂN OÁN
長信多春草,
Trường Tín đa xuân thảo,
愁中次第生. Sầu
trung thứ đệ sinh.
君王行不到,
Quân vương hành bất đáo,
漸與玉階平.
Tiệm dữ ngọc giai bình.
謝肇淛
Tạ Triệu Chiết
CHÚ THÍCH :
Chiết
淛 : là một dị bản của chữ 浙 Chiết. Chữ Chiết 淛
nầy hay bị đọc
nhầm thành chữ CHẾ 制, nên tên TẠ TRIỆU CHIẾT hay bị đọc nhầm thành TẠ
TRIỆN CHẾ lắm !
Thứ Đệ : là Lần
Lượt, hết lớp nầy tới lớp khác.
Tiệm : là Dần Dà, là Dần dần,
Lần lần.
Ngọc
Giai : là Thềm ngọc, chỉ cái thềm phòng của các bà các
cô ở. Mặt thì Mặt Ngọc, gót thì Gót Ngọc, Tay thì Tay
Ngọc ( Tay Ngọc bên bếp hồng ), Thân Mình thì là Mình
Ngọc, còn ăn nói thì Hoa Cười Ngọc Thốt, cho nên cả con
người thì gọi là NGƯỜI NGỌC !
Có đàn ông Tây phương
nào " ga-lăng " bằng các thư sinh châu Á cuả ta ngày
xưa đâu ?!
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI HỜN OÁN TRONG MÙA XUÂN
Quanh cung Trường Tín mọc đầy cả cỏ xuân, trong nỗi sầu của
nàng cung nữ cỏ xuân cứ lần lượt mọc thêm mãi, và
vì quân vương đi không đến nơi nầy, cho nên cỏ đã
dần dà mọc cao lên bằng cả thềm ngọc rồi !
Cỏ là sức sống của
mùa xuân, của tuổi thanh xuân, lẽ ra phải sống vui và phải vươn
lên thật mạnh mẽ, nhưng trong nỗi buồn của người cung nữ trong
lãnh cung thì cỏ lại mọc tràn lan, hết lớp nầy đến lớp
khác một cách hoang vu. Vì ...quân vương đi không đến nơi
nầy, cho nên cỏ đã lên cao đến thềm ngọc rồi, Cỏ càng
cao thì nỗi sầu của nàng cũng cao như cỏ dại, và chỉ có
cỏ mới hiểu được mối sầu của nàng như thế nào
mà thối ! Cũng là cỏ, Cụ Nguyễn Du đã mượn để
tả cảnh phòng không của cô Kiều lúc Từ Hải đi tìm
công danh :
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
CỎ
CAO HƠN THƯỚC liễu gầy vài phân.
DIỄN NÔM
:
XUÂN
OÁN
Cỏ xuân đầy Trường Tín,
Trong
sầu lại mọc thêm.
Quân vương đi chẳng đến,
Đã
vượt cao ngang thềm !
Lục
bát :
Phủ đầy Trường
Tín cỏ xuân,
Sầu
nên lại mọc quanh cung hàng hàng.
Quân vương chẳng đoái chẳng màng,
Quanh thềm
cỏ đã vượt tràn lối đi !
Đỗ
Chiêu Đức
2. THU OÁN
:
秋怨
THU OÁN
|
|
明月憐團扇,
Minh nguyệt lân đoàn phiến, 西風怯綺羅。
Tây phong khiếp ỷ la. 低垂雲母帳,
Đê thuỳ vân mẫu trướng, 不忍見銀河。
Bất nhẫn kiến ngân hà. |
CHÚ THÍCH :
Tây Phong : là Gió
thổi từ hướng Tây tới, là gió của mùa Thu, lạnh se sắt,còn
gọi là Kim phong : Gió Vàng, như Ôn Như Hầu đã viết trong
Cung Oán Ngâm Khúc :
Trãi vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng !
Trong dân gian thì có câu Ca Dao của vùng Nam Bộ như sau :
Anh về để áo lại đây,
Để
khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng !
Lân
: là Thương xót. Khiếp : là Sợ hãi.
Ỷ La : là Miếng Vải
The đẹp. Cũng như chữ Đoàn Phiến, Ở đây, đều
chỉ Cây Quạt bọc bằng vải the vải lụa mà các bà các
cô ngày xưa hay cầm trên tay để quạt cho mát.
Đê Thùy : Đê là Thấp,
Thùy là Rũ xuống. Nên ...
Đê
Thùy : là Buông rũ xuống.
Vân Mẫu : là một loại đá quý có vân như cẩm thạch.
Vân Mẫu Trướng : là
Bức Trướng, bức rèm có cẩn đá Vân Mẫu cho đẹp.
Bất Nhẫn : là Không
Nhẫn tâm, ở đây có nghĩa là : Không Đành Lòng, Không
Muốn.
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI OÁN HẬN TRONG MÙA THU
Trăng thu mát mẻ như cũng thương xót cho cây quạt tròn có
hình dáng giống mình, ( nhưng đã trở nên vô dụng vào
mùa thu.) Cũng như gió Tây se sắt thổi làm cho những cây quạt
bọc bằng lụa là đẹp đẽ cảm thấy sợ hãi vì sẽ
không còn tác dụng nữa. Nên chi đành buông thấp rèm Vân
Mẫu xuống mà không muốn nhìn thấy Ngân Hà ( hoặc biểu
tượng nào của mùa thu ) nữa cả !
Trăng thu, gió thu, sông Ngân Hà tất
cả những cái biểu tượng của mùa thu làm vô hiệu hóa
cây quạt cầm trên tay của nàng cung nữ, vũ khí duy nhất để
quạt mát lấy lòng vua bị mùa thu làm cho héo hắt, tắt lịm
luôn hy vọng theo gió thu !
Đọc
bài này làm ta nhớ lại 2 câu trong bài Trường Tín Cung
của Lưu Phương Bình đời Đường là :
Thu phong năng tái nhiệt,
Đoàn phiến bất từ lao !
(
Gió thu ví có thể nóng lại được, thì cây đoàn
phiến nầy sẽ chẳng từ lao nhọc mà quạt mát cho vua ngay ! ).
DIỄN NÔM :
THU OÁN
Trăng sáng thương quạt lụa,
Gió Tây sợ quạt là.
Rũ
bức rèm Vân Mẫu,
Chẳng
muốn thấy Ngân Hà !
Lục
bát :
Trăng
thu thương cánh quạt tròn,
Gió
thu hiu hắt quạt còn sợ hơn.
Buông rèm Vân Mẫu tủi hờn,
Lòng
không muốn ngắm sầu hơn Ngân Hà !
Đỗ Chiêu Đức
_______________________________
BỐN BÀI CUNG OÁN Ngũ ngôn tứ Tuyệt
1. TRƯỜNG
TÍN CUNG
Lưu Phương Bình
Hầu hết
thơ Cung Oán đời Đường đều xoay quanh đề tài của
nàng Ban Tiệp Dư, Cung Trường Tín, Điện Chiêu Dương... đời
Hán. Ít có bài thơ nào dám nói thẳng vào hậu
cung nhà Đường lắm. Âu cũng là thường tình. Ta đã
đọc các bài Thất Ngôn Tứ Tuyệt rồi, bây giờ thì
ta đọc Ngũ ngôn Tứ Tuyệt nhé !
長信宮 TRƯỜNG
TÍN CUNG
夢裏君王近, Mộng
lý quân vương cận,
宮中河漢高。 Cung trung hà
hán cao.
秋風能再熱,
Thu phong năng tái nhiệt,
團扇不辭勞。 Đoàn phiến
bất từ lao !
劉方平 Lưu
Phương Bình
CHÚ THÍCH :
Hà
Hán : Còn gọi là Ngân Hà, Thiên Hà.
Từ Lao : là Chối từ lao nhoc, Không
chịu được sự lao nhọc.
Bất Từ Lao : là Không chối từ sự lao nhọc. Có nghĩa : Sẵn
sàng chịu lao nhọc.
NGHĨA BÀI THƠ :
Trong mơ thấy mình được thân cận
với quân vương. Trong cung bây giờ đã vào thu nên dãi
Ngân Hà nhìn thấy trên cao. Nếu như gió thu có thể làm
cho nóng nực trở lại, thì cây quạt lụa tròn nầy rất
sẵn sàng không từ sự lao nhọc mà quạt mát cho vua ngay !
Qủa
thật đáng thương và tội nghiệp vô cùng ! Vua thì ở
trên cao như giải Ngân Hà, có thể ngắm được mà
không thể với tới được. Và ... Ao ước một điều
mà không hề có được, gió thu hiu hắt làm sao có thể
nóng lại cho được ?! Cho nên ao ước như không, đành chịu
cảnh lẻ loi ở lãnh cung mà không có cơ hội nào thân cận
quân vương như trong mộng cho được !
DIỄN NÔM :
Trong mơ vua thân cận,
Vào
thu Ngân Hà cao.
Gió
thu như nóng lại,
Quạt
lụa chẳng từ lao !
Lục bát
:
Trong
mơ gần gũi quân vương,
Lãnh
cung cao ngắm xót thương Ngân Hà.
Gió
thu ví nóng lại mà,
Không
từ lao nhọc quạt là sẵn đây !
Đỗ
Chiêu Đức
Bản viết tay bài TRƯỜNG TÍN OÁN của Lưu Phương
Bình năm 1972
ĐCĐ.
2.
TIỆP DƯ OÁN
Hoàng Phủ Nhiễm
婕妤怨
TIỆP DƯ OÁN
花枝出建章, Hoa chi xuất
Kiến Chương,
鳳管發昭陽。
Phụng quản phát Chiêu Dương.
借問承恩者, Tá vấn
thừa ân giả,
雙蛾幾許長? Song nga kỷ hứa
trường ?
皇甫冉
Hoàng Phủ Nhiễm
CHÚ THÍCH :
Hoa Chi : là Cành Hoa, Ở đây chỉ các người đẹp.
Kiến Chương : Tên
một cung điện đời Hán.
Phụng Quản
: Chỉ Ống Tiêu có hình con chim phụng.
Chiêu Dương : Tên của cung vua ở đời
Hán.
Tá
Vấn : là Ướm Hỏi, là Dám Hỏi.
Thừa Ân Giả : là Người đang
nhận ơn vua.
Song Nga : chỉ Cặp Chơn mày. Ở đây chỉ Sắc đẹp.
Kỷ Hứa : là Bao nhiêu
?.
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI
OÁN HẬN CỦA NÀNG BAN TIỆP DƯ
Những
người đẹp như những cành hoa đẹp phát xuất từ
cung Kiến Chương. Tiếng tiêu tiếng sáo phụng dìu dặt trổi
lên từ điện Chiêu Dương ( Nơi mà nhà vua đang yến
ẩm vui chơi ). Dám hỏi những kẻ đang được vua ân sủng,
đôi mày nga kia dài được bao nhiêu ?
Đôi Nga My ( Mày Nga hoặc Mày
Ngài ) tượng trưng cho sắc đẹp của người phụ nữ. Trong
Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu cũng đã viết :
Đóa
lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy
mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu !
Nàng cung nữ ở lãnh cung đã
mĩa mai những cung nhân đang được vua yêu là : Để xem mày
ngài của các nàng dài được bao nhiêu, ý muốn nói,
để xem các nàng còn đẹp được bao lâu, còn được
vua yêu thêm bao lâu nữa ? Trước kia, ta cũng đã từng được
vua yêu như các nàng đó các nàng ơi !
DIỄN NÔM :
TIỆP
DƯ OÁN
Kiến
Chương hoa nở đẹp,
Chiêu
Dương nhạc rộn ràng.
Dám hỏi người vua mến,
Mày
dài mấy hai hàng ?!
Lục bát :
Hoa
xinh đẹp xuất Kiến Chương,
Phụng
tiêu nhạc trổi Chiêu Dương rộn ràng.
Hỏi
người yêu dấu điện vàng,
Đã
dài được mấy hai hàng mày nga ?!
Đỗ
Chiêu Đức
Bản viết tay bài TIỆP DƯ OÁN
của Hoàng Phủ Nhiễm năm 1972
ĐCĐ
3.
BAN TIỆP DƯ
Vương Duy
班婕妤 BAN
TIỆP DƯ
怪來妝閣閉,
Quái lai trang các bế,
朝下不相迎。 Triều hạ bất tương
nghinh.
總向春園裡, Tổng hướng
xuân viên lý,
花間笑語聲。 Hoa gian tiếu ngữ thanh.
王維
Vương Duy
CHÚ THÍCH :
Quái Lai : Quái lạ ! Sao lạ Vậy !
Trang Các : Cái Gác trang Điểm, Chỉ cái lầu cái gác cuả
các bà các cô ở, chữ nầy cũng như chữ Trang Đài vậy.
Triều Hạ : là Tan Triều,là
Bãi Triều.
Bất
Tương Nghinh : là Không Nginh đón nhau.
Tổng Hướng : là Đều Hướng Về.
Tất cả đều hướng về.
NGHĨA BÀI THƠ :
Lạ nhỉ, sao gác ngọc của
nàng lại đóng im ỉm thế kia, tan chầu rồi cũng không ra nghêng
đón đức vua. Ôi, Tất cả cũng chỉ để hướng về
bên trong vườn xuân ấy, há chẳng nghe thấy tiếng cười nói
trong hoa đó hay sao ?! ( Nếu ta cũng lẫn vào trong đó, thì cũng
chỉ thêm một tiếng cười nói tầm thường vô nghĩa mà
thôi ! ).
Nỗi oán hận âm ỉ trở nên bất bạo động, thay vì phải
mở cửa để giả lả chào đón vua khi tan chầu, để mong
có may mắn được nhà vua dòm dõ tới hay chăng. Đằng
nầy nàng đóng kín cửa không thèm chào đón vua, vì
nàng biết rằng chào đón cũng chẳng hề được vua đoái
hoài, và như tất cả những cung nữ mơ mộng được vua thương
đổ về nói nói cười cười trong vườn Thượng Uyển
cũng vô ích mà thôi ! Nàng cao ngạo hờn lẫy âm thầm đóng
kín cửa chịu đựng với số phận hẩm hiu của mình, chớ
không " Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra " như nàng
cung nữ của Ôn Như Hầu.
DIỄN NÔM :
BAN TIỆP DƯ
Quái lạ, sao đóng cửa,
Tan chầu chẳng tiếp nghinh.
Trong đám
xuân viên đó,
Thêm chi một chút tình !
Lục bát :
Lạ
lùng sao cửa đóng im,
Tan
chầu nàng cũng chẳng thèm tiếp nghinh.
Hướng
về vườn Ngự hoa xinh,
Trong
hoa cười nói chút tình như không !
Đỗ
Chiêu Đức
Bản viết tay bài BAN TIỆP DƯ của
Vương Duy năm 1972.
ĐCĐ.
4.
TƯ QUÂN ÂN
Lệnh Hồ Sở
思君恩
TƯ QUÂN ÂN
小苑鶯歌歇, Tiểu uyển
oanh ca yết,
長門蝶舞多。 Trường
Môn Điệp vũ đa.
眼看春又去, Nhỡn khan
xuân hựu khứ,
翠輦不曾過。 Thúy liễn
bất tằng qua.
令狐楚
Lệnh Hồ Sở
CHÚ THÍCH :
Tiểu Uyển : là Vườn Hoa nhỏ. Thượng Uyển là Vườn Hoa
lớn của vua chúa dạo chơi ngắm hoa.
Yết : là Nghỉ ngơi, là Hết, là Chấm
dứt.
Trường Môn
: là Cung Trường Môn, nơi Trần Hoàng Hậu đời Tây Hán
ở khi bị thất sủng.
Thúy Liễn : là Xe màu xanh biếc của Vua đi do dê kéo.
NGHĨA
BÀI THƠ :
NHỚ
LÚC ĐƯỢC HƯỞNG ƠN VUA
Trong vườn hoa nhỏ nhoi nầy chim oanh đã ngừng hót, nhưng ở cung
Trường Môn thì bướm lại bay lượn rất nhiều. Mắt trông
mùa xuân lại đi qua rồi mà xe vua thì vẫn bằn bặc chẳng
thấy tăm dạng đâu cả !
Cô
đơn chiếc bóng mòn mõi đợi chờ, uổng phí cả thanh
xuân !.... Bướn chỉ lượn ở cung Trường Môn, còn oanh thì
đã ngừng hót, một mùa xuân nữa lại đi qua, một lần
nữa lại đánh mất tuổi xuân một cách oan uổng trong
lãnh cung buồn thảm ! Càng trông đợi vua thì càng chẳng thấy
dấu xe vua. Tình ý thiết tha mà kín đáo, không trắng trợn
lộ liễu như nàng cung nữ của Ôn Như Hầu :
Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục,
Chốn
phòng không như giục mây mưa !
DIỄN NÔM :
NHỚ ƠN VUA
Vườn nhỏ oanh đà ngừng hót,
Trường Môn bướm lại lượn đua.
Xuân tàn đi qua trước mắt,
Vẫn
nào thấy bóng xe vua !
Lục bát :
Oanh đà
ngưng hót trong vườn,
Bướm
còn bay lượn Trường Môn dập dìu.
Mắt
trông xuân đã tiêu điều,
Xe vua nào thấy nghe nhiều đợi mong !
Đỗ
Chiêu Đức
Bản viết
tay bài TƯ QUÂN ÂN của Lệnh Hồ Sở năm 1972 .
Đỗ
Chiêu Đức
_______________________________________________________________________________________________________
TRƯỜNG TÍN CUNG
Mạnh Trì
MẠNH TRÌ 孟遲, Tự là Trì Chi. Trong Toàn
Đường Thi Tập gọi là Thăng Chi. Theo Văn Hiến Thông Khảo thì
tên là MẠNH ĐẠT 孟達, tự là Thúc Chi. Không rõ
năm sanh và mất, chỉ biết ông là người sống dưới thời
vua Đường Tuyên Tôn ( khoảng trước sau những năm 859 ), ở
xứ Bình Xương. Ông nổi tiếng về thơ Tuyệt Cú, là bạn
thơ mà cũng là bạn cùng khoa Tiến Sĩ với Cố Phi Hùng năm
Hội Xương thứ 5 ( 845 ), rất thân với Đỗ Mục. Khi ông
đến Trì Châu, Đỗ Mục có làm thơ đưa tiễn.
Sau đây
là một bài thơ Cung Oán tuyệt cú của ông.
長信宫 TRƯỜNG
TÍN CUNG
君恩已盡欲何歸
? Quân ân dĩ tận dục hà qui ?
猶有殘香在舞衣。
Do hữu tàn hương tại vũ y.
卻恨身輕不如燕, Khước
hận thân khinh bất như yến,
春来還繞御簾飛。 Xuân lai hoàn
nhiễu ngự liêm phi.
孟遲
Mạnh Trì
CHÚ THÍCH :
Tàn Hương : là Hương Tàn, là Hương Thừa còn sót
lại.
Khước Hận
: là Lại hận rằng, là Chỉ hận.
Thân Khinh Bất Như Yến : Cái thân mình
nhẹ không bằng chim én, Ý muốn nói là Mình không giống
được như chim én.
Nhiễu
: là Vòng quanh, là Lượn quanh.
Ngự Liêm : là Rèm Vua, là Tấm rèm nơi vua ở.
NGHĨA BÀI
THƠ :
Ơn
vua đã cạn hết rồi, bây giờ biết phải về đâu đây
? Chỉ còn lại chút hương thừa trong vũ y mà thôi. Chỉ tự
hận rằng thân mình không được nhẹ như chim én để
sang xuân lại bay vòng vào rèm của vua đang ngự.
Trong Trường Tín
Oán của Vương Xương Linh thì nàng cung nữ than là " Ngọc
nhan bất cập hàn nha sắc " ( Vẻ ngọc không bằng con qụa lạnh
!). Còn trong bài nầy thì nàng cung nữ của Mạnh Trì than là
" Khước hận thân khinh bất như yến " ( Hận thân mình
chẳng nhẹ như chim én !). Chỉ có một chút nắng ở điện
Chiêu Dương thôi mà cũng ước ao có được. Một con
én không làm nên mùa xuân, mà cũng ước ao được
như én, để khi xuân đến bay vào rèm vua để... thấy
mặt vua mà thôi, chứ vua có yêu ..." chim én " bao giờ đâu
?! Vua chỉ biết yêu người đẹp mà thôi !
Rõ ngớ ngẩn và
tội nghiệp cho các nàng cung nữ trong cung bị thất sủng vô cùng
!!!
Một
mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.
và...
Khi
trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong.
Cung Oán Ngâm Khúc
DIỄN NÔM :
CUNG
TRƯỜNG TÍN
Ơn vua thôi hết biết về đâu ?
Còn
chút hương thừa áo vũ sầu.
Chỉ
hận thân mình không giống én,
Đến xuân rèm ngự lại bay chầu !
Lục bát :
Ơn
vua đã hết về đâu ?
Tàn
hương còn lại thêm sầu áo xiêm.
Hận
thân chẳng nhẹ như chim,
Xuân về bay trở lại rèm chầu vua !
Đỗ Chiêu Đức
TIẾT TRÙNG CỮU
Lễ
Ông Bà ngày xưa của ta
Sau Tết Trung Thu là Tết Trùng Cữu, chữ
Tết do chữ Tiết đọc trại ra mà thành. TIẾT 節 là Thời
Tiết 時節 chỉ Khí hậu có liên quan đến mùa màng.
TIẾT cũng có nghiã là ngày Lễ Tết trong năm. Một năm
có mấy cái Tết lớn. Nguyên Đán là cái
Tết lớn nhất mở đầu cho một
năm nằm trong tháng Giêng, Thanh Minh là Tết nằm trong tháng 3, Đoan
Ngọ là Tết của tháng 5, Tháng 8 thì có Tết Trung Thu và
Tháng 9 thì ta có Tết Trùng Cữu.
Trùng Cữu, Trùng là Trùng lắp,
là lặp lại. Cữu là số 9. Nên Trùng Cữu 重九 là
2 số 9 được lặp lại, tức là ngày mùng 9 tháng 9 Âm
lịch. Theo Kinh Dịch thì số 9 thuộc Dương, nên Trùng Cữu còn
được gọi là Trùng Dương 重陽. Đây là cái
Lễ tiết cuối cùng sau mùa thu hoạch, rồi trời sẽ trở lạnh
để vào đông cho đến Tiết Đông Chí về, sẽ lại
chuẩn bị để đón mừng năm mới !
Ngoài việc được gọi là Tiết Trùng Dương 重陽節
ra, Trùng Cữu còn được gọi là Tiết Đạp Thu 踏秋節,
có nghĩa là Đạp lên lá vàng khô của mùa Thu, tức
là Đi dạo chơi trong mùa Thu trước khi trời trở lạnh. Trong dân
gian xưa còn gọi ngày này là Ngày Của Người Già : LÃO
NHÂN TIẾT 老人節 hoặc KÍNH LÃO TIẾT 敬老節. Có
thể là do sau khi mùa màng được thu hoạch vào mùa Thu, con
cháu có nhiều món ngon vật quý để dâng hiến cho Ông Bà,
hoặc đã có tiền để chăm lo săn sóc đến đời
sống của Ông Bà hơn. Khi ông bà cha mẹ già đã quá
cố, thì con cháu cũng nhân dịp Đạp Thu mà kéo nhau lên
núi để Tảo Mộ ( Ở những nơi có đồi núi thì
người chết được chôn cất ở trên cao, vùng đồng
bằng để trồng trọt canh tác. Cho nên ta thấy Cụ Nguyễn Du tả
cảnh Tảo mộ của Tiết Thanh Minh là : " Ngổn ngang gò đống
kéo lên, Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay, là thế ! ). Vì
vậy, mà Tiết Trùng Cữu còn được gọi là Tiết ĐĂNG
CAO 登高節. Ngoài ra, Tiết Trùng Cữu cón được gọi
là Tiết THÙ DU 茱萸節, Tiết CÚC HOA 菊花節....
Cây lá và trái
Thù Du ( trái cherry ở Mỹ )
THÙ DU là loại cây ăn
trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây lá
có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió,
nên trong ngày Lễ Trùng Cữu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ
giắt bên mình để " trừ tà ", để được
bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi
là Tiết Thù Du là vì thế.
Hoa Cúc và tục
lệ uống rượu Cúc trong ngày Trùng Cữu
Trong bài thơ " Bốn mùa ăn chơi " của người xưa thì
câu thứ 3 là " Thu ẩm Hoàng Hoa tữu ". Hoàng Hoa tức là
Hoa Cúc đó, loại hoa có màu vàng và nở vào mùa thu,
nên được dùng để ủ rượu uống cho ấm vào những
ngày cuối thu lạnh lẽo nầy, để ngừa cảm cúm, như ta chích
" flu shot " vào mùa nầy ở Mỹ vậy ! Nên Tiết Trùng Cữu
còn được gọi là Tiết Cúc Hoa là vì thế !
Theo truyền thuyết
thì ...
Vào
thời Nam Bắc Triều, người của Nam Triều là Ngô Quân Chi thuộc
nước Lương, ghi trong " Tục Tề Hài Ký " rằng :
Đời Đông Hán, ở huyện
Nhữ Nam có một người tên là Hoàn Cảnh, cha mẹ đều
chết vì bệnh ôn dịch ở cuối thu, nên anh ta quyết định
lên núi tầm sư học đạo để trừ ôn dịch ôn
thần. Đạo nhân Phí Trường Phòng dạy cho phép tiên
dưỡng sinh và y học. Một năm, sau Trung Thu, đạo nhân gọi Hoàn
Cảnh đến mà bảo rằng : mùng 9 tháng 9 năm nay, ôn thần
lại đến gieo rắc bệnh dịch, con hãy về quê mà cứu nhân độ thế.
Nói đoạn bèn trao cho anh ta một cây Thanh Long Kiếm, một bao lá Thù
Du và một bình Rượu Cúc, căn dặn mọi người phải lên
cao mà tránh nạn.
Đến
hôm mùng 9 tháng 9, Hoàn Cảnh gọi hết bà con lối xóm cùng đăng
cao lên núi, giắt cho mỗi người một lá Thù Du và
uống một ly rượu Cúc, rồi đơn thân độc mã đứng
chặn ở sườn núi, chiến đấu và tiêu diệt ôn
thần. Từ đó về sau không ai còn bị chết về bịnh
dịch nữa, và cũng từ đó về sau mới có tục Đăng
Cao, cài lá Thù Du lên áo và uống rượu Cúc trong ngày Tiết
Trùng Cữu cho đến hiện nay.
Trùng Cữu xưa
Trùng Cữu nay
Trong văn học, nhất là trong Đường
Thi, ngày Trùng Cữu luôn luôn được nhắc đến một
cách thân thiết gần gũi qua các thi nhân nổi tiếng như Lưu
Trường Khanh với ...
九日登李明府北樓 CỮU
NHẬT ĐĂNG LÝ MINH PHỦ BẮC LÂU
九月登高望,
Cữu nguyệt đăng cao vọng,
蒼蒼遠樹低。
Thương thương viễn thọ đê.
人煙湖草裡,
Nhân yên hồ thảo lý,
山翠現樓西。
Sơn thuý hiện lầu tê. ( tây )
劉長卿 Lưu
Trường Khanh
Diễn nôm :
NGÀY
CHÍN LÊN BẮC LÂU CỦA LÝ MINH PHỦ
Tháng
chín lên cao ngắm,
Xanh
xanh cây cỏ xa.
Hồ
mờ sương người vắng,
Lầu tây núi biếc nhòa !
Đỗ
Chiêu Đức diễn nôm
Còn Thi tiên Lý Bạch với
...
九月十日即事
CỮU NGUYỆT THẬP NHẬT TỨC SỰ
昨日登高罷, Tạc nhật
đăng cao bãi
今朝再舉觴。 Kim triêu
tái cử trường.
菊花何太苦, Cúc hoa
hà thái khổ,
遭此兩重陽。 Tao thử
lưỡng Trùng Dương . 李白
Lý Bạch
Chú Thích :
Mùng 9 tháng 9
gọi là Tiết Trùng Dương, hái hoa cúc, uống rượu cúc,
nhưng...
Mùng 10 tháng 9 gọi là Tiểu Trùng Dương, lại hái hoa cúc,
lại uống rượu cúc.
Chỉ trong hai ngày, hoa cúc BỊ HÁI, BỊ VÙI DẬP đến 2 lần.
Lý Bạch ví thân phận đi đày của mình giống như là
hoa cúc liên tiếp bị vùi dập vậy, nên mới hạ 2 câu cuối
là : " Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng Trùng Dương
". Có nghĩa : Hoa Cúc sao mà lại khổ thế, phải gặp cái
nạn của 2 lễ Trùng Dương nầy !
KHỔ 苦 là Khổ sở, Cực
khổ. KHỔ cũng có nghĩa là ĐẮNG nữa ! Tân là Cay, nên
Tân Khổ là Cay Đắng, Đắng Cay!
Diễn nôm :
Chuyện
của ngày mười tháng chín
Hôm qua sau leo núi,
Sáng nay lại nâng ly.
Hoa
Cúc sao mà khổ,
Trùng Dương đến nhị kỳ !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Nhưng nổi tiếng
và tiêu biểu nhất cho lễ Trùng Cữu là bài thơ của Thi
Phật Vương Duy....
CỮU
NGUYỆT CỮU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
Đôc tại dị
hương vi dị khách,
Mỗi
phùng giai tiết bội tư thân.
Diêu tri Huynh đệ đăng cao xứ,
Thiên tháp thù du thiểu
nhất nhân !
Vương Duy
Chú Thích :
Khi làm bài thơ nầy
Vương Duy chỉ mới 17 tuổi, đang xa nhà đến Trường An để
mưu cầu công danh. Nhà ông ở Bồ Châu, phía đông của
núi Hoa Sơn, nên mới đề tựa là " Ức Sơn Đông Huynh
Đệ ". Bài thơ nổi tiếng với 2 câu đầu mà không
có người du tử nào không trầm trồ với 2 từ " dị hương,
dị khách ".
Nghĩa bài thơ :
Mùng chín tháng chín nhớ anh em ở phía đông núi.
Ta một mình
ở nơi đất lạ làm người khách lạ, nên mỗĩ lần
gặp Lễ Tết là lại nhớ người thân thêm bội phần. Ta
biết rằng ở nơi xa xôi kia, anh em ta đang đăng cao trong ngày lễ
nầy, và mỗi người đều có giắt một lá Thù Du lên
áo, chỉ thiếu có một người không được giắt là
ta mà thôi !
Diễn nôm :
Xứ lạ quê người làm khách lạ,
Mỗi
lần lễ tết nhớ khôn nguôi.
Anh
em mùng chín đăng cao đó,
Đều
giắt thù du thiếu một người !
Lục bát :
Đơn
thân xứ lạ quê người,
Mỗi khi lễ tiết ngậm ngùi nhớ nhau.
Quê
xa huynh đệ đăng cao,
Thù du giắt áo nghẹn ngào riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức biên khảo.
______________________________________________________________________________________________________
KHÁCH TRUNG HÀNH
Chưa về đến Việt Nam nhưng mùi rượu Đinh Lăng của
bạn Huỳnh Hữu Đức đã nồng nặc khắp các website, khi về
đến VN rồi và khi đặt chân đến Vĩnh Long trong ngày họp
mặt cuả Vườn Thơ Thẩn thì mùi rượu Đinh Lăng càng
ngạt ngào đậm đà hơn, thêm vào đó lại có mùi
rượu mít của Cao Linh Tử bay thơm như ... múi mít !
Cảm vì
mùi rượu mít và nồng nặc vì mùi rượu Đinh Lăng
làm cho Đỗ Chiêu Đức tôi chợt nhớ tới Lệnh Hồ Xung
trong Tiếu Ngạo Giang Hồ khi gặp Tổ Thiên Thu bàn về phép uống
rượu sao cho sành điệu. Tổ Thiên Thu đã thao thao bất tuyệt
nào là rượu Bồ Đào thì phải uống bằng chén Dạ
Quang như câu thơ cuả Vương Hàn là : " Bồ Đào mỹ
tửu Dạ Quang bôi ", và rượu Lan Lăng thì phải uống bằng
chén Ngọc như câu thơ của Lý Bạch : " Lan Lăng mỹ tửu
uất kim hương, Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang " ....
Bây giờ
ngồi đây, bỗng chợt thấy lòng bồi hồi xao xuyến nhớ lại
buổi hội ngộ hãn hữu ngẫu nhiên của tháng qua với những
người ... rất thân, nhưng ... chưa từng quen biết ! Cám ơn " Chủ
Nhân " Huỳnh Hữu Đức đã rất biết ... " Năng túy
khách " như bài thơ KHÁCH TRUNG HÀNH cuả Lý Bạch dưới
đây :
李白《客中行》Lý
Bạch "Khách Trung Hành" |
|
蘭陵美酒鬱金香,Lan
lăng mỹ tửu uất kim hương,
玉碗盛來琥珀光。Ngọc uyển thịnh lai hổ phách
quang 但使主人能醉客,Đản sử
chủ nhân năng tuý khách,
不知何處是他鄉。Bất tri hà xứ thị tha hương
! |
XUẤT XỨ :
Bài thơ nầy
còn có tựa là KHÁCH TRUNG TÁC 客中作 . KHÁCH TRUNG là
chỉ thân ở nơi đất khách . Bài thơ được làm ra
khi đang ở nơi đất khách . HÀNH 行 là một thể loại
thi ca có thể phổ nhạc để hát được .
Bài thơ nầy được
Lý Bạch làm ra khoảng giữa năm Thiên Bảo đời Đường
Huyền Tông ( 742-756 ), khi ông di cư sang ở đất Lan Lăng cuả xứ
Đông Lỗ ( Tỉnh Sơn Đông hiện nay ). Khi ấy xã hội rất
phồn vinh thịnh vượng, dân cư an hưởng thái bình . Lý lại
là người thích giao du rộng rãi, thích rượu, thích giang hồ
lang bạc, nên cảnh trí núi sông gấm vóc cuả quê hương
ở trong lòng ông nơi nào cũng đẹp đẽ cả !
CHÚ THÍCH
:
LAN LĂNG : là
Trấn Lan Lăng, huyện Thương Sơn, Thành phố Lâm Kỳ thuộc
tỉnh Sơn Đông hiện nay.
UẤT KIM HƯƠNG : Tên của một loại cỏ thơm dùng để ngâm
rượu cho thơm mà lại cho rượu có màu vàng lóng lánh.
NGỌC UYỂN : là
Chén làm bằng ngọc, ý chỉ chén quý.
HỔ PHÁCH : Một loại nhựa
cây hóa đá, có màu vàng hoặc màu nâu óng ánh
với những vân vằn vịt rất đẹp.
ĐẢN SỬ : là Chỉ cần .
DỊCH
NGHĨA :
Rượu ngon của xứ Lan Lăng mang màu vàng
và mùi thơm của Uất Kim Hương, được rót
vào chén làm bằng ngọc ửng màu hổ phách lóng
lánh ( Rượu ngon tuyệt, mùi thơm tuyệt, chén đựng đẹp
tuyệt, màu sắc cũng đẹp tuyệt ! ). Nên ... Chỉ cần chủ
nhân nhiệt tình biết làm say lòng khách nữa, thì khách sẽ
không còn cảm thấy nơi nào là tha hương nữa cả
! ( sẽ thân thiết như là đang ở nơi quê hương
của mình vậy ! ).
DIỄN NÔM :
KHÁCH
TRUNG HÀNH
Lan
Lăng hổ phách uất kim hương,
Chén ngọc rót đầy lóng lánh gương.
Chủ nhân nếu biết say lòng khách,
Non
nước đâu mà chẳng cố hương !
Lục bát :
Lan
lăng ủ uất kim hương,
Ly
màu hổ phách như gương sáng ngời.
Chủ nhân ví biết rót mời,
Khách
xa quên mất là người tha hương !
Đỗ
Chiêu Đức
________________________________________________________________________________________________________
ĐỨC KHỔNG TỬ NÓI VỀ MÌNH
Mùng 5 tháng 8 Âm
lịch là ngày sanh của Đức Khổng Phu Tử. Năm nay nhằm ngày
Thứ Năm 17 tháng 9 Dương lịch. Cuộc đời của ông
Thánh nầy cũng lắm gian truân chìm nổi cũng như cuộc đời
của bao người khác, Ông mất lúc 73 tuổi, là tuổi thượng
thọ lúc bấy giờ, và để lại một câu nói bất hủ
thu tóm toàn bộ cuộc đời của ông như sau...
《論語 · 為政第二》講要.
◎子曰:吾,十有五,而志于學,三十而立,四十而不惑,五十而知天命,六十而耳順,七十而從心所欲,不踰矩。
[ LUẬN NGỮ. VI CHÍNH
đệ nhị ] Giảng Yếu.
@
TỬ viết : Ngô, thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập,
tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi
nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.
CHÚ THÍCH :
TỬ VIẾT : là
Khổng Tử Nói rằng.
NGÔ : là Đại
Danh từ Ngôi thứ Nhất : Tôi, Ta, Tao...
NHI : là
Thì, Là ( Verbe Auxilière ).
VU : là Về.. cái
gì đó. Ở... việc gì đó.
LẬP
: là Lập Thân, là Đứng vững được trong cuộc sống, là
Thành Tài rồi. Có sự nghiệp, có công ăn việc làm rồi.
BẤT HOẶC : là Không còn Nghi Hoặc, Ngờ
Vực gì nữa. Chỉ Kiến thức đã chín chắn, ổn định.
TRI THIÊN MỆNH : là biết được cái
Mệnh Trời, An phận theo cái mình đã có, theo khả năng của
mình , mà không đòi hỏi, so bì, bon chen nữa !.
NHĨ THUẬN : là Lổ Tai Xuôi, có nghĩa là đã biết phân
biệt một cách rõ ràng, nghe điều gì đó là biết
ngay điều đó tốt hay xấu, thiện hay ác, đúng hay sai....
TÒNG TÂM SỞ DỤC : TÒNG TÂM là Theo Lòng
Mình. SỞ DỤC là Cái mà Mình Muốn. TÒNG TÂM SỞ DỤC
là Làm những cái mà lòng mình muốn làm, có nghĩa
Muốn gì thì cứ làm nấy !
BẤT DU CỦ
: DU 踰 có bộ TÚC là Cái Chân ở bên Trái, nên Du có
nghĩa là TRÈO QUA. Trong TRUYỆN KIỀU giảng tích " TƯỜNG ĐÔNG
ong bướm đi về mặc ai " bằng câu " DU đông lân nhi lâu
kì xứ nữ ", tức là " TRÈO QUA bức tường phía đông
để ôm lấy cô gái bên đó.". Nhưng...
... trong câu nói trên DU có nghĩa là VƯỢT QUA. Còn...
CỦ 矩 : là Cái Khuôn dùng để kẻ Hình Vuông, là
Cái Ê-Ke. Nghĩa bóng là Cái Khuôn Phép. Nên ...
BẤT DU CỦ là : Không
vượt qua cái khuôn phép đúng đắn bình thường trong
cuộc sống. Sẵn nhắc lại chữ ...
QUY 規
: là Dụng cụ dùng để kẻ đường tròn, là Cái
COM-PA đó. Nên...
Không có QUY thì Kẻ
không Tròn, không có CỦ thì Vẽ không Vuông. Nên QUY CỦ
là cái khuôn phép mà ta phải tuân theo. NỘI QUY là những
điều khoản QUY ĐỊNH của một Tổ chức, Cơ quan... nào đó
mà tất cả thành viên trong đó phải tuân hành. Nên câu
nói của Đức Khổng Tử...
Có thể hiểu nghĩa
một cách đơn giản như thế nầy :
Khổng Tử nói rằng : Ta, lúc 15 tuổi,
thì chí ở học hành, 30 tuổi thì đã lập thân được,
40 tuổi thì không còn nghi hoặc điều gì nữa, 50 tuổi thì
biết đến mạng trời, 60 tuổi thì nghe đã biết điều phải
trái, 70 thì có thể làm theo những gì mà trong lòng mình
muốn, vì nó không có đi quá lố ngoài khuôn phép nữa
.
Đây là câu nói của Đức Khổng Tử nói về bản
thân Ngài, nhưng thường được người đời đem ví
với bản thân mình, thậm chí đem... áp dụng chung cho tất cả
mọi người, cho nên ta thường nghe nói...
... Ba chục tuổi là tuổi Lập Thân, Năm chục tuổi
là tuổi Tri Thiên Mệnh... thậm chí nói Tam Thập Nhi Lập là...
Đàn Ông con trai tới tuổi ba mươi là phải lấy vợ, phải
lập gia đình, thì mới lập thân được, nhưng vì điều
nầy cũng hợp lí và thực tế , cho nên mọi người đều
noi theo. Tôi còn nhớ một câu Nho mà Ba tôi thường nói khi...
ép tôi cưới vợ là :
Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương.
Có nghĩa :
Con trai lớn mà không kết hôn
thì giống như con ngựa chứng ( LIỆT MÃ là con ngựa xấu,
ngựa chứng ! ) mà không có giây cương vậy ( sẽ phóng càn,
phóng ẩu, phóng... túng, vì không có ai kềm chế, cưới
cho con vợ để có người " cằn nhằn " và xì-tóp
bớt lại, thì mới TRỤ và mới làm nên sự nghiệp được
! ). Nên ông bà ta cứ nghĩ...
TAM THẬP NHI
LẬP là 30 tuổi thì phải Lập Gia Đình, không lập gia đình
thì... Nó sẽ nổi máu " giang hồ " rồi không làm nên
cơm cháo gì cả ! . Còn
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh, là đến tuổi 50 nên an phận mà
không còn muốn bon chen nữa, vì số trời đã định như
thế rồi ! Sự thật thì ở MỸ hiện nay, tuổi 50 là tuổi
đã chín chắn về mọi mặt, kiến thức đã phong phú,
kinh nghiệm sống dồi dào, nghề nghiệp đã vững chắc ổn định,
tiềm năng về kinh tế cũng đã có cơ sở, credit đầy đủ
... chính là cái tuổi phát triển sự nghiệp tốt nhất của
con người.... chớ không phải Tri Thiên Mệnh mà buông xuôi tất
cả !!! . Khổng Tử chỉ muốn nói về mình, khi đến 50 tuổi
thì biết được mệnh trời, tức là biết được cái
hoàn cảnh xã hội chung quanh mình đang sống, biết được cái
khả năng và cái tài năng của mình như thế nào, để
không đòi hỏi đua đòi những điều quá đáng mà
phải biết an phận với cái mà mình đang có trước mắt
hợp với sở năng của mình, chớ không phải mê tín buông
xuôi cho số phận ! . Về ...
TỨ
THẬP NHI BẤT HOẶC : 40 tuổi thì không còn NGHI HOẶC gì nữa,
Ý nói, tuổi 40 thì sự hiểu biết đã CHÍNH CHẮN, gặp
chuyện gì đó đã biết và dám đưa ra quyết định
theo nhận thức của mình, chớ không còn NGHI HOẶC chần chừ không
biết phải quyết định như thế nào của tuổi 30 nữa ! BẤT
HOẶC là thế !
LỤC THẬP NHI NHĨ
THUẬN là : 60 tuổi thì tai đã xuôi, đã thông. Có nghĩa
: Khi nghe điều gì đó thì đã biết ngay là điều đó
đúng hay sai, phải hay không phải, nên hay không nên nghe theo, cũng
có nghĩa là sự nhận xét phán đoán đã nhuần nhuyễn.
Trái với NHĨ THUẬN là NHĨ NGHỊCH là Trái Tai Gai Mắt !
THẤT
THẬP NHI TÒNG TÂM SỞ DỤC, BẤT DU CỦ là : 70 tuổi thì có
thể làm theo những điều gì mà mình đã nghĩ đã
muốn làm, vì những điều đó không có vượt quá
qua khuôn phép đâu ! Ý muốn nói, trong phép tu thân thì
đến tuổi 70 đã hoàn hảo lắm rồi, có thể làm theo
những gì mình muốn mà không sợ quá đáng ! Đây là
câu nói hướng thiện, luôn luôn theo hướng phấn đấu tốt
mà vươn lên, chớ không phải câu nói TỰ HÀO là mình
đã HOÀN THIỆN không còn sai sót nữa ! Và cũng không
có nghĩa là hễ đến 70 tuổi là làm việc gì cũng đúng
cả như người đời thường lầm tưởng !
Vì là câu nói của ông Thánh, cho nên người đời
hay lấy đó làm chuẩn mực để phân định tuổi tác
của mọi người, mặc dù cái chuẩn mực đó đã bị
lệch nghĩa so với Ý chính của câu nói ở lúc ban đầu,
như...
Tuổi
30 thì gọi là Tuổi NHI LẬP, và hiểu là đã đến tuổi
phải Lập Gia Đình, phải Thành Gia Lập Thất, phải Cưới Vợ,
phải Ổn Định Sự Nghiệp...
Tuổi 40 thì gọi là tuổi BẤT HOẶC, và
gọi thì gọi thế, nhưng rất nhiều người không hiểu Bất
Hoặc là gì, chỉ nghe người ta gọi thì gọi theo mà thôi
! Hoặc chỉ hiểu nghĩa lờ mờ, Bất Hoặc là không còn nghi
hoặc gì nữa, mà không biết tại sao lại không còn nghi hoặc,
và tại sao lại gọi thế ?!.
Thông dụng nhất
là tuổi 50, được gọi là Tuổi TRI THIÊN MỆNH, và thường
hay có tâm lí an phận và buông xuôi mà không muốn phấn
đấu để vươn lên nữa ! Và cũng thường dùng để
tự an ủi khi thất bại hoặc trắc trở về mặt sự nghiệp trong
độ tuổi nầy !.
Sáu mươi tuổi thì gọi là Tuổi Nhĩ Thuận, NHĨ THUẬN
là xuôi tai, nhưng lại nghe rất lạ tai, mà không hiểu tại sao
gọi thế, cũng như...
Tuổi 70, thì gọi là Tuổi TÒNG TÂM SỞ DỤC, BẤT DU CỦ !
Rất nhiều người không hiểu câu nói nầy có nghĩa gì
cả ! Khác với dân gian hay gọi 70 tuổi là tuổi CỔ LAI HY, theo Ý
của 2 câu thơ trong bài KHÚC GIANG của Thi Thánh ĐỖ PHỦ đời
Đường là :
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sanh thất thập CỔ LAI HY.
....nghe thi vị và hay hơn nhiều !
Nhưng...
Vì là câu nói của ông Thánh Khổng nên mọi người
đều muốn nhái theo xem có được như... Thánh hay không ? Âu
cũng là việc tốt mà thôi !
Theo tài
liệu thống kê dân số đời Đường, thì tuổi thọ của
con người ta lúc bấy giờ chỉ trên dưới 45 tuổi mà thôi,
nên mới bảo là " Thất thập Cổ Lai HY ", chớ bây giờ,
nhất là ở nước MỸ nầy thì 70 tuổi hễ ra đường
là thấy liền ngay mấy cụ...
Càng ngày tuổi thọ con người càng
cao, nên ngày Lễ ÔNG BÀ càng cần thiết và càng có
Ý nghĩa hơn lên !
Đỗ Chiêu Đức
THU TỊCH:
ĐÊM THU
...... Thu năm nay, tôi lại đi trên
con đường vắng nầy nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ,
những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời
xưa, và thấp thoáng trong vườn nhà ai hoa phù dung buổi sáng
nở trắng như một tâm hồn con trẻ. Nắng ở đây vẫn là
nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi
năm trước...
Đó là đoản văn
của Thanh Tịnh nhớ về một buổi sáng mùa Thu, viết theo văn phong
của văn học Âu Tây đầu thế kỷ 20. Bây giờ thì
ta hãy đọc bài Đêm Thu của Đỗ Mục làm ở thế
kỷ thứ 10 , mang đầy đủ tính chất dân gian và truyèn thống của
văn hóa Á Đông....
杜牧《秋夕》
THU TỊCH Đỗ Mục
銀燭秋光冷畫屏,
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình
輕羅小扇撲流螢。
Khinh la tiểu phiến phốc lưu huỳnh
天街夜色涼如水,
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
臥看牽牛織女星。
Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .
CHÚ THÍCH:
1. Ngân Chúc :
Ngân là Bạc, ở đây là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc
là đuốc. Hoa Chúc là Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây
Đèn Cầy, Cây Nến. Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu
trắng bạc.
2. Họa Bình : là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà
quyền quý thời xưa.
3. Khinh
La : Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là Vải The. Khinh La : là
loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài " Khinh La Tiểu Phiến
" : Là chiếc quạt con làm bằng lụa là của các tiểu thơ
xưa thường cầm trên tay.
4. Phốc : Là chụp bắt.
5.
Lưu Huỳnh : Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu Tinh : là Sao xẹt.
Huỳnh : là con Đom đóm.
6. Thiên Giai : Giai là con đường. Thiên Giai : không phải là đường
ở trên trời, mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.
7. Lương Như Thủy : là Mát như nước.
DỊCH NGHĨA :
Ánh
sáng lung linh từ ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho
tấm bình phong đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng
phe phẩy chiếc quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang
lặp lòe bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con
đường của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm
thanh vắng lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao
Chức Nữ và Ngưu Lang.
DIỄN NÔM
:
Lung linh nến trắng bình phong lạnh,
Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.
Lấp lánh sao trời trong như nước,
Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu .
Lục bát :
Bình phong thu lạnh se se,
Quạt là nến trắng lặp lòe đóm bay
Trời thu như nước mát thay,
Ngưu Lang Chức Nữ đêm nay tương phùng !
Đỗ Chiêu Đức.
Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay lượn
lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.... Rất bình
dị và rất nên thơ ! . Có ai ngờ được đây lại
là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé
... Ngọn bạch
lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực
rỡ, rõ ràng là cuộc sống của nhà quyền quý vương
hầu, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường
trong Kinh thành , trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời
?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh
cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm
lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với
tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam
mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và
ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm
chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không
!. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được
vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả thanh xuân,
cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu
Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới
ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng
Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có
ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ? ! ... Duy
chỉ có nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu
Nguyễn Gia Thiều mới ...
Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên .... mà
thôi !
" Bách
niên " mà chỉ gặp nhau vào đêm " Thất Tịch " hằng
năm, thì có ai ao ước mà làm gì !!!
Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái " Oán "
trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị.
Phải chăng cái oán đeo đẳng dai dẵng miên man lâu dần nên
đã hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một
sự tự nhiên tội nghiệp ! Nhưng ... nàng cung nữ của Ôn Như
Hầu đã :
..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !...
Khi ..... Cái oán đã lên đến cực điểm và trở thành
bạo động !
Đỗ Chiêu Đức.
Xin góp
vần cùng Anh Chiêu Đức
ĐÊM THU
(1)
Đêm
thu nến chiếu lung linh mành ,
Quạt lụa xua bầy đóm liệng quanh .
Đêm mát sắc trời dường nước
lạnh ,
Nằm nhìn
Ngưu-Chức khóc thương mang .
Mailoc
(2)
Nến thu soi bình phong lạnh ngắt ,
Quạt lụa mềm xua bắt đóm
bay .
Trời trong như
nước đêm dài ,
Nằm nhìn Ngưu-Chức thương thay cuộc tình .
Mailoc
THƠ MỪNG VU LAN :
CÔNG CHA
NGHĨA MẸ
Dạt dào tựa sóng Thái Bình,
Bao la lòng mẹ như tình đại dương.
Ngọt ngào luôn tựa suối nguồn,
Vi vu an ủi gió luồn bên tai.
Vỗ về âu yếm đêm ngày,
Dịu dàng tựa ánh trăng ngoài
trời cao.
Cha thì nghiêm
cẩn biết bao,
Những lời nghiêm
huấn con nào dám sai. *
Làm
người Hiếu Nghĩa hòa hai,
Kính trên Nhường dưới Thảo Ngay mới đành.
Lập thân chữ Tín chữ Thành,
Chữ Liêm chữ Sĩ chữ Danh sau cùng !
Lời cha ghi tạc hung trung, **
Tình mẹ luôn vẫn thắm trong
lòng này.
Công cha nghĩa
mẹ cao dày,
Sanh thành dưỡng
dục mấy ai sánh bằng ?
Kinh Thi
sách có dạy rằng :
Hạo
thiên võng cực, ví bằng trời cao.
Ai ai phụ mẫu cù lao ! ***
Đỗ Chiêu Đức
CHÚ THÍCH :
* NGHIÊM HUẤN : Lời dạy của cha. Trong Truyện Kiều tả
lúc Thúc Ông bắt Thúc Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ Nguyễn
Du đã viết :
Thấy
lời NGHIÊM HUẤN rành rành,
Đánh liều sinh mới lấy
tình nài kêu ...
**
HUNG TRUNG : là Trong lồng ngực, là trong cỏi lòng.
*** 《詩‧小雅‧蓼莪》 : Bài
LẠO NGA, chương TIỂU NHÃ trong KINH THI
蓼蓼者莪,匪莪伊蒿。哀哀父母,生我劬勞。...
Lạo lạo giả nga, Phi nga y cao . Ai ai phụ mẫu,
sanh ngã cù lao. Có nghĩa : Cha mẹ mong ta xanh tốt như rau nga ( giống
như rau ngỗ của ta ), nhưng ta lại giống như rau cao ( giống như rau
đắng của ta. Ý muốn nói là không giống được
như cha mẹ mong mõi ). Thương thay cha mẹ ta, sanh ra ta thật là vất
vả khó nhọc.
父兮生我,母兮鞠我。拊我畜我,長我育我。顧我復我,出入腹我。欲報之德,昊天罔極。
Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã. Phũ ngã xúc ngã,
Trưởng ngã dục ngã. Cố ngã phục ngã, xuất nhập phúc
ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực . Có nghĩa :
Cha sanh ra ta, mẹ thì mang nặng ta, vuốt
ve ta nâng niu ta, nuôi ta khôn lớn. Chăm sóc chiếu cố ta, ra vào bồng
ẵm ta . Muốn báo cái ơn đức đó của cha mẹ. thì như
trời cao lồng lộng vô cùng tận. ( Ý chỉ không báo nổi
ơn của cha mẹ đâu ).
_________________________________________________________________________________________________________________________________________
THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM
Nhân Trung Tâm VIỆT MỸ tổ chức ngày "
HẤP HÔN " WEDDING ANNIVERSARY cho những cặp đôi đã kết hôn
từ 30 năm trở lên, Đỗ Chiêu Đức có làm một bài
thơ tặng cho " Bà Xã " để kỉ niệm 41 năm ngày cưới.
Nghĩ rằng đây cũng là tâm tình chung của những cặp đôi
tha phương cầu thực, lưu lạc xứ lạ quê người, nên xin
được chia xẻ cùng tất cả để cùng cảm thông nhau trong
tuổi già bóng xế !...
THƯƠNG
HOÀI NGÀN NĂM
Thương
hoài mãi ngàn năm,
Trót
nên duyên sắt cầm.
Vấn vít tình sinh nghĩa,
Vợ
chồng : Nghĩa trăm năm !
Một nửa đâu rồi một nửa ơi !
Bốn
mươi năm cũ mấy xa vời ?
Đồng cam cộng
khổ bao năm tháng,
Thoáng chốc tuổi già
đã đến nơi !!!
Nhớ hồi son giá mắt em cười,
Xao xuyến lòng anh biết mấy mươi.
Đôi lứa chung lưng tìm hạnh phúc,
Con thơ từng đứa điểm tô đời !
Rồi những tháng ngày khói
lửa,
Lên đường nhập ngũ phận trai,
Nuôi dạy con thơ, cha mẹ,
Thân cò lặn lội đêm ngày !
Thương
em vất vả lòng luôn nhớ,
Tiếng mẹ hát ru vẳng đáy lòng...
Ầu ơ...Con cò lặn lội bờ sông,
Tuổi
xuân mòn mõi má hồng phôi pha !...
Em
là hiền phụ,
Quán xuyến trong
ngoài.
Thờ cha kính mẹ,
Chẳng chút đơn sai !
Tào khang là tấm mẵn,
Cùng chịu cảnh cơ hàn.
Mong một ngày lại sáng,
Hết cơ cực lầm than !
................................
Qua rồi những tháng ngày cay nghiệt,
Sống chết cận kề thật mỏng manh.
Hết cơn vận bỉ thời lại thái,
Đoàn viên dệt lại mộng ngày xanh !
Quê người xây dựng lại,
Cuộc sống lứa đôi mình.
Bốn mươi năm kỉ niệm,
Hạnh phúc lại hồi sinh !
Nay thì...
Trưởng thành con cái nên danh,
Yên bề gia thất cho đành lòng nhau.
" Trải qua một cuộc bể dâu ",
Giờ là hạnh phúc còn cầu gì hơn ?!
An bày
hiện hữu vuông tròn,
An cư lạc nghiệp không còn bôn ba.
Đoàn viên sum họp một nhà,
Hấp Hôn VIỆT MỸ ông bà đều vui.
Tào khang nghĩa nặng ai ơi
!
Răng long đầu bạc chẳng rời xa
nhau.
Nội ngoại con cháu lao xao,
Vui nầy còn có vui nào vui hơn ?!
Bền lòng một dạ sắt son,
Thong dong đi hết đường trần chông gai.
Phu thê đã biết bao ngày,
Ngàn năm gắn bó, THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM !!!
Đỗ Chiêu Đức
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO là truyền thống
văn hóa Trung Hoa, mà cũng là truyền thống văn hóa tốt đẹp
chung cho rất nhiều nước Đông Nam Á chịu ảnh hưởng giáo
lí Khổng Mạnh, trong đó có Việt Nam ta, luôn luôn nêu cao cứu
cánh hàng đầu của giáo dục là " TIÊN HỌC LỄ, HẬU
HỌC VĂN ". " LỄ " là phải biết Kính trên Nhường
dưới, ngoài việc phải Hiếu Kính với Tổ Tiên Ông Bà
Cha Mẹ ra, còn phải biết " TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO ". Vậy " Tôn
Sư Trong Đạo " là gì ? Sau đây ta hãy thử...
Chiết tự để
tìm hiểu Ý NGHĨA gốc của 4 chữ TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO 尊師重道
:
1. TÔN 尊 : Là
chữ thuộc dạng Hội Ý. Hình dạng Tượng Hình Hội Ý
lúc ban đầu như thế nầy :
Ta thấy chữ đầu tiên là chữ KIM VĂN ĐẠI
TRIỆN ( KIM VĂN 金文 là Văn tự được khắc trên Kim
Loại, Kim Loại là chỉ những Chung và Đĩnh ngày xưa, nên
KIM VĂN 金文 còn được gọi là CHUNG ĐĨNH VĂN 鍾鼎文
), thì chữ TÔN gồm có 2 cái tay bên dưới nâng cái LY
hình cái ĐĨNH nho nhỏ ở phía trên, đó là Ly Rượu,
nâng lên để tế thần thánh hoặc để kính rượu cho
những bậc bề trên, trưởng thượng. Nên...
TÔN 尊 : Nghĩa gốc là Cái
Ly đựng rượu, sau dùng chung để chỉ Các Dụng Cụ đựng
rượu. Bây giờ cái CHAI đựng rượu cũng được gọi
là Tữu Tôn 酒樽 ( 罇 ).( Chữ TÔN là Cái Chai, được
ghép thêm bộ MỘC là Cây hoặc bộ PHẪU 缶 là Đồ
Gốm vào bên trái như trên 罇 ).
Nghĩa
phát sinh của chữ TÔN gồm :
TÔN 尊 :
Danh Từ : Chỉ người có địa vị hoặc vai vế cao, như TÔN
TRƯỞNG, THẾ TÔN...
Hình Dung Từ : TÔN
QUÝ, TÔN TI ...
Động Từ : SUY TÔN, TÔN
TRỌNG, TÔN KÍNH, TÔN THỜ...
Kính Từ
: Gọi nhà của người ta là TÔN PHỦ ( Nhà mình thì là
TỆ XÁ hoặc " HÀN GIA ở mái tây thiên, Dưới dòng
nước chảy bên trên có cầu " là lời của Đạm Tiên
nói với Kiều trong mộng ).
Gọi cha của người
ta là LỆNH TÔN ( Cha của mình là GIA PHỤ ).
Gọi Vợ của người ta là TÔN PHU NHÂN ( Vợ của mình là
CHUYẾT KINH hoặc CHUYẾT THÊ hay " Má bầy trẻ ở nhà " )....
Mạo Từ ( Article ) : NHẤT TÔN là Một Pho. Vd
: NHẤT TÔN Phật Tượng 一尊佛像 là MỘT PHO tượng
Phật.
Chữ
TÔN trong TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO là Động từ TÔN KÍNH.
2.
SƯ 師 : Chữ Hội Ý, gồm chữ Đoái 垖 bên trái, có
nghĩa rất nhiều gò đất cao. Bên phải là chữ Táp 帀
có nghĩa là Bao Bọc. Hội Ý là Có rất nhiều gò đất
bao bọc xung quanh, Ý chỉ Rất Nhiều, cũng có Ý chỉ Quân Lính
đông. Theo diễn tiến Văn Tự như sau :
SƯ TRỌNG
ĐẠO
Nghĩa của chữ SƯ hiện
nay là :
* Người dạy dỗ chỉ bảo cho người
khác : GIÁO SƯ, LÃO SƯ, SƯ PHỤ ( Thầy dạy ). SƯ ĐỒ là
Thầy Trò.
* Người giỏi về một kỸ thuật,
nghệ nghiệp nào đó, như : LUẬT SƯ, KỸ SƯ, Y SƯ, KIẾN
TRÚC SƯ...
* Những từ gọi có liên quan đến
Thầy Trò, như : SƯ MẪU, SƯ HUYNH, SƯ ĐỆ, SƯ MUỘI...
* Từ dùng gọi Thầy Chùa và Thầy Pháp, như : THIỀN SƯ,
PHÁP SƯ, ĐẠO SƯ...
* Từ dùng cho quân đội,
như : HỘI SƯ, XUẤT SƯ ( Xuất Quân ), SƯ ĐOÀN...
* Từ dùng gọi Thủ đô của một nước, như KINH SƯ ( Kinh
Đô ).
* Một họ trong Bách Gia Tính : Họ SƯ.
Chữ SƯ trong TÔN SƯ
TRỌNG ĐẠO có nghĩa là THẦY DẠY ( Bất cứ DẠY về cái
gì ).
3. Chữ TRỌNG 重
: Gồm chữ THIÊN 千 là Ngàn, chồng lên trên bộ LÝ 里
là Dặm. NGÀN DẶM là cái Dặm được lặp đi lặp
lại nhiều lần, nên chữ 重 vốn đọc là TRÙNG, có nghĩa
là TRÙNG LẮP. Ở đây ta chỉ xét cách phát âm là
TRỌNG có nghĩa là NẶNG mà thôi. Về mặt diễn biến của
chữ TRỌNG từ xưa đến nay như sau :
Các nghĩa của chữ TRỌNG 重 gồm :
* Hình Dung Từ : TRỌNG là Nặng, trái với
KHINH là Nhẹ, như : TRỌNG LƯỢNG, TRỌNG LỰC...
Chỉ Mức độ : như TRỌNG BỆNH, TRỌNG ÁN...
Chỉ Số Lượng : như TRỌNG BINH, TRỌNG GIÁ...
Chỉ Chủ Yếu : như TRỌNG ĐIỂM, TRỌNG TÂM...
Cẩn thận, không khinh suất, như : THẬN
TRỌNG, TỰ TRỌNG ...
* Động Từ : Xem Nặng cái gì
đó, như TRỌNG SẮC là chỉ xem trọng Sắc Đẹp. TRỌNG LỢI
là chỉ xem trọng Lợi Lộc. TRỌNG ĐẠO là chỉ xem trọng Đạo
Lý, Đạo Nghĩa.... Đây chính là Ý nghĩa của chữ
TRỌNG trong 4 chữ " TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO ".
4. chữ
ĐẠO 道 : Chữ Hội Ý, gồm bộ Xước 辶 bên trái
dưới, có nghĩa là Bước Đi, bên phải trên là chữ
THỦ 首, có nghĩa là Đầu. Gom 2 Ý lại có nghĩa : Mở
đầu cho những bước đi, đưa đến nghĩa ĐẠO là Con
Đường. Chữ Đạo theo diễn tiến của văn tự như sau :
Nghĩa của chữ ĐẠO :
* ĐẠO là Con Đường, là Đường
đi cụ thể, như ĐẠO LỘ, QUAN ĐẠO là Đường Cái
Quan.
* ĐẠO cũng là con đường đi của Tâm linh,
như ĐẠO GIÁO, ĐẠO HẠNH, TU ĐẠO, HÀNH ĐẠO.....
* ĐẠO là chuẩn mưc, phép tắc qui củ ở đời : ĐẠO
ĐỨC, ĐẠO LÝ, ĐẠO NGHĨA... Đây chính là cái ĐẠO
phải được xem trọng trong Thành ngữ : TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO.
* ĐẠO GIÁO là một ĐẠO tu tiên có nguồn gốc
từ ĐẠO LÃO của Trung Hoa, với các từ : ĐẠO SĨ, ĐẠO
CÔ, ĐẠO QUAN là Chùa của Đao sĩ và Đạo cô tu.....
* ĐẠO là Nói Rằng. VĂN ĐẠO là Nghe nói rằng
.
Đạo Đức
Kinh của Lão Tử mở đầu bằng câu : " ĐẠO khả ĐẠO
phi thường ĐẠO 道可道非常道。Có nghĩa là
: Cái ĐẠO mà có thể thuyết giảng được thì không
phải là cái ĐẠO thường. Chữ ĐẠO vừa có nghĩa
là Đạo Giáo vừa có nghĩa là Thuyết Giảng (nói).
Trở lại với thành ngữ TÔN SƯ TRONG ĐẠO 尊師重道,
thành ngữ nầy có xuất xứ từ 後漢書·孔僖傳
:"臣聞明王聖主,莫不尊師重道。"
Hậu Hán Thư. Khổng Hi Truyện : " Thần văn minh vương thánh
chúa, mạc bất tôn sư trọng đạo "( Thần nghe nói rằng
những bậc minh vương thánh chúa, không ai là không Tôn Sư
Trọng Đạo cả ! ). Vậy TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO là gì ?
Trước
tiên ta thấy thành ngữ nầy được thành lập bởi 2 Động
từ là TÔN và TRỌNG, hợp cùng với 2 Danh từ làm Túc
từ là SƯ và ĐẠO. Cho nên nghĩa đã khá rõ ràng
rồi :
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO là " Tôn kính
người thầy đã dạy ta học, và Trân trọng cái đạo
lí mà thầy đã dạy cho ta ". ĐẠO LÝ ở đây bao
gồm cả Kiến Thức, Đạo Đức và cả Đạo Nghĩa làm
người nữa !
Một điều cần đề cập nữa là : Muốn cho người học
trò biết Tôn Sư Trọng Đạo, thì Ông thầy phải cho ra thầy,
phải sống mẫu mực và phải biết Tôn Sư Trọng Đạo trước
đã, nghĩa là phải Dĩ Thân Tác Tắc 以身作則,
tức là phải lấy bản thân mình làm gương cho học trò
noi theo. Cái nếp sống mẫu mực của người thầy gọi là nếp
sống Sư Phạm đó vậy !
Đỗ Chiêu Đức
________________________________________________________________________________________________
LỄ CHA : YẾN THI
Chúa Nhật thứ ba của Tháng
Sáu hằng năm, là ngày LỄ CHA ( Father's Day ) của nước MỸ.
Ngày LỄ CHA năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 21 tháng 6 năm 2015.
Ta thường gọi ngày LỄ MẸ
là NGÀY HIỀN MẪU, nên khi đến ngày LỄ CHA thì rất nhiều
người theo thói quen, thay chữ MẪU bằng chữ PHỤ, và gọi ngày
Lễ Cha bằng NGÀY HIỀN PHỤ ??!!...
Ngày Lễ Cha, Father's Day, không thể
gọi là ngày HIỀN PHỤ được, vì Hiền Phụ 賢婦
là VỢ HIỀN, chớ không phải CHA HIỀN. Muốn nói Cha Hiền thì
phải gọi là TỪ PHỤ 慈父, lấy trong thành ngữ " Phụ
Từ Tử Hiếu 父慈子孝 ", tương đương trong tiếng
Nôm ta là " Cha Hiền Con Thảo." Trong gia đình Phong Kiến ngày
xưa, người Cha luôn luôn nghiêm khắc và nghiêm cẩn trong mọi
hành vi cũng như sinh hoạt của gia đình, nên còn được
gọi là NGHIÊM ĐƯỜNG, NGHIÊM PHỤ. Lời dạy của Cha thì
gọi là NGHIÊM HUẤN, như trong Truyện Kiều, khi Thúc Ông bắt Thúc
Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ NGUYỄN DU đã viết :
Thấy
lời NGHIÊM HUẤN rành rành,
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
Nhưng bây giờ
mà ta gọi như thế thì nghe nghiêm khắc và xa rời con cháu quá!
Còn một từ dùng để gọi cha ngày xưa nữa là XUÂN
ĐƯỜNG (còn đọc là THUNG ĐƯỜNG) 椿堂. Theo sách
Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng
cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám
trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với
người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình.
Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, thì chàng mới...
Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.
Sẵn trình bày luôn
về từ dùng để chỉ Mẹ, đó là từ HUYÊN ĐƯỜNG
萱堂. HUYÊN 萱 là một loài thảo mộc được trồng
trong nhà như cây Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng
và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi
là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người
mẹ nên ta có từ gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN. Khi hay tin
Kiều đã bán mình chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc
than đến nỗi " Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao ",
khiến cho :
XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
Hóa ra khi đến thế nào mà hay !
Xin được trở lại
và nói thêm về từ HIỀN PHỤ 賢婦 là VỢ HIỀN;
HIỀN 賢: Ngoài nghĩa trái với Dữ là Hiền Thục ra, Hiền
còn có nghĩa là GIỎI GIANG. Ví dụ: Hiền Thần là Bề
tôi giỏi để phò Vua giúp nước. Hiền Tài là người
có Tài Giỏi và đây cũng là một chức sắc Giỏi Giang
trong Cao Đài Giáo. Còn...
PHỤ
婦: Đây là kiểu chữ HỘI Ý, được ghép bởi
bộ NỮ 女 bên trái là Cô Gái, và chữ TRỮU 帚 bên
phải là Cây Chổi hàm ý là cô gái mà cầm cây
chổi (để quét dọn nhà cửa) là đã trở thành người
chủ của gia đình rồi, đã kết hôn rồi, nên PHỤ là
Đàn Bà, là Người Vợ. Vì thế mà HIỀN PHỤ là
VỢ HIỀN. PHỤ NỮ là chỉ chung tất cả CÁC BÀ CÁC
CÔ có chồng hoặc " chổng chừa !". PHU PHỤ là Vợ Chồng.
Hồi nhỏ thường hay nghe Má tôi hát ru em như thế nầy:
Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên PHU PHỤ ngàn năm em cũng chờ!
Nên...
HIỀN PHỤ 賢婦 : Chẳng những
chỉ người đàn bà hiền thục, mà còn chỉ người
đàn bà giỏi giang " Tướng phu giáo tử " ( Giúp đỡ
chồng và nuôi dạy con cái ).
Ca dao của Việt Nam ta có câu :
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra !
Nhưng...
Trong văn
chương không thiếu những áng văn, những bài thơ ca tụng mẹ
hiền, mà lại rất hiếm, rất khó kiếm được một bài
thơ, một áng văn hay ca ngợi công cha, có thể sự dịu dàng
hòa ái của bà mẹ gần gũi với con cái hơn là bộ
mặt lúc nào cũng "Lập nghiêm" của ông cha. Cha thì
lo việc lớn hơn, ngoài việc duy trì và nuôi sống gia đình,
lắm ông còn phải chăm lo việc nước, việc ngoài xã hội...
Nhưng cũng có những người cha có máu "giang hồ" thích
lang bạt rày đây mai đó... Ta hãy cùng đọc một bài
Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt của Đỗ Mục đời Đường để
thắm thía hơn với cái máu "giang hồ" của các ông
cha ngày trước...
歸家
QUY GIA
稚子牽衣問,
Trỉ tử khiên y vấn
歸來何太遲。
Quy lai hà thái trì ?
共誰爭歲月,
Cộng thùy tranh tuế nguyệt
贏得鬢如絲。
Doanh đắc mấn như ti
杜牧
Đỗ Mục
Thích nghĩa :
QUY là về, GIA là nhà, QUY GIA là
Về Lại Nhà.
1. Câu 1: Trỉ là non, Tử là Con. TRỈ
TỬ: không phải là con non mà là Con Thơ. Khiên: là nắm,
là níu, là dắt. Y là Áo, Vấn là Hỏi. Nghĩa toàn
câu là :
"Con thơ níu áo hỏi"
2. Câu 2: Quy là Về, LAI là
Xu hướng Động từ, chỉ sự di chuyển gần đến người
viết hoặc nói. QUY LAI là Về lại, là Về "đây."
QUY KHỨ là Về "đi " (KHỨ chỉ di chuyển Xa người nói
hoặc viết). Hà là Sao? Thái là Quá. Trì là Trễ,
muộn. Nghĩa cả câu:
"Sao muộn quá mới về lại nhà?"
3. Câu 3: Cộng là cùng, chung. Thùy là Ai?
Tranh là dành, giựt. Tuế là Tuổi, là Năm. Nguyệt là
Tháng.
Nghĩa cả câu :
Cùng
với ai dành giựt năm tháng, ý nói: "Cùng với ai sống
đua chen trong những năm tháng đó?"
4. Câu 4: Doanh là Lời, thắng, Ăn, thu hoạch. Đắc
là được. Mấn là Tóc mai. Như là giống, giống như.
Ti là Tơ.
Nghĩa cả câu :
(chỉ) lời được hai bên tóc mai trắng như tơ.
Diễn nôm :
Về Lại Nhà
Con thơ trì áo hỏi
Sao đi
mãi đến giờ ?
Cùng
ai ngày tháng ấy
Mà tóc
đã bạc phơ!
Lục bát :
Con thơ níu
áo hỏi cha
Đi sao lâu quá,
bỏ nhà bỏ con!
Cùng ai ngày tháng mõi mòn?
Sương pha tóc trắng chẳng còn như xưa!
Hai câu đầu là lời chất vấn, thắc mắc, thơ ngây nhưng
lắc léo của con thơ. Nhưng hai câu sau... hình như là lời
than van, oán trách, khúc mắc, thở than của bà... nội tướng
đã biết bao ngày khoắc khoải, mòn mỏi đợi chàng về!
Trong ngày LỄ CHA, mong rằng các ông cha luôn luôn trân quý
sự sum họp và tình cảm gia đình để gắn bó hơn với
con cái và các thành viên trong đó, nhất là với người
đầu gối tay ấp, sao cho...
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông!
( Truyện Kiều )
Năm nay là năm Mùi, năm con DÊ, trong bài viết hồi đầu năm
về " Năm Mùi nói chuyện dê " tôi có nhắc một câu
trong " Tăng Quảng Hiền Văn " là :
羊 有
跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,
Dương hữu qụy
nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,
你 及
他 未 及 ?
Nễ cập tha vị cập?
Chú Thích:
Quỵ Nhũ: Quỵ là Quỳ, Nhũ là Vú.
Động từ có nghĩa là Bú. Quỵ Nhũ là Quỳ xuống để
bú.
Bộ: là Mớm mồi cho ăn. Bộ
nhũ: cũng có nghĩa là cho bú.
Phản
Bộ: là Mớm ngược lại cho ăn.
Cập:
là Bằng. Vị Cập là Chưa Bằng. Bất Cập là Không Bằng.
Nghĩa Câu:
Con dê vì biết ơn của mẹ nên quỳ
xuống mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi mẹ già thì
nó đi kiếm mồi mớm ngược lại cho mẹ ăn. Bạn có bằng
được chúng chưa hay là không bằng?
Quả là một bài học
luân lý và là một câu hỏi hóc búa khó trả lời
! Mong rằng những ai còn Cha còn Mẹ hãy ráng mà trân trọng
!
Câu nói trên cho ta biết Quạ và Dê là một CẦM một THÚ
rất có hiếu với Cha Mẹ, nhưng trong đám Phi Cầm Tẩu Thú
đó cũng có những con rất " bất hiếu ". Ví dụ như
con Chim Én chẳng hạn .... Thường thì một đôi chim én sanh được
2 hoặc 4 trứng, nở ra 1 hoặc 2 cặp chim trống mái. Đôi chim cha
mẹ rất tích cực, vất vả tìm mồi nuôi con cho khôn lớn,
líu lo dạy hót dạy kêu, rỉa lông rỉa cánh. Khoảng 30 đến
40 ngày sau, khi chim con đã đủ lông đủ cánh, chim cha mẹ mới
đưa lên cành tập bay. Sau vài vòng bay thử, thấy đã cứng
cáp, đôi chim con bèn bay thẳng mất hút luôn để tự tìm
tự do cho mình. Bỏ lại đôi chim cha mẹ chít chiu buồn bã gọi
mãi mà con nào có về lại tổ cũ nữa đâu ! Đôi
chim én nầy đã quên rằng, ngày xưa mình cũng đã bỏ
cha mẹ mà bay đi như thế ! Thế mới hay...
Sinh dưỡng
đạo đồng, ơn Cha nghĩa Mẹ to lớn ngang bằng nhau, làm con phải
hiếu thảo với cả Cha lẫn Mẹ. Có lắm người chỉ muốn
con cái có hiếu với mình mà quên là mình cũng phải
có hiếu với Cha Mẹ mình nữa, như đôi chim én nêu trên
chẳng hạn !... Mời tất cả cùng đọc bài Ngũ ngôn trường
thiên YẾN THI của Bạch Cư Dị đời Đường sau đây
...
燕詩
YẾN THI
白居易
Bạch Cư Dị
梁上有雙燕。
Lương thượng hữu song yến,
翩翩雄與雌。
Phiên phiên hùng dữ thư.
啣坭兩椽間。
Hàm nê lưỡng triện gian,
一巢生四兒。
Nhất sào sinh tứ nhi.
四兒日夜長。
Tứ nhi nhựt dạ trưởng,
索食聲孜孜。
Sách thực thanh tư tư.
青蟲不易捕。
Thanh trùng bất dị bổ,
黃口無飽期。
Hoàng khẩu vô bảo kì.
嘴爪雖欲弊。
Chủy trảo tuy dục tệ,
心力不知疲。
Tâm lực bất tri bì.
須臾十來往。
Tu du thập lai vãng,
猶恐巢中饑。
Do khủng sào trung ki ( cơ ).
辛勤三十日。
Tân cần tam thập nhật,
母瘦雛漸肥。
Mẫu sú sồ tiệm phì.
喃喃教言語。
Nam nam giáo ngôn ngữ,
一一刷毛衣。
Nhất nhất loát mao Y.
一旦羽翼成。
Nhất đán vũ dực thành,
引上庭樹枝。
Dẫn thượng đình thọ chi.
舉翅不回顧。
Cử xí bất hồi cố,
隨風四散飛。
Tùy phong tứ tán phi.
雌雄空中鳴。
Thư hùng không trung minh,
聲盡呼不歸。
Thanh tận hô bất qui.
却入空巢裹。
Khước nhập không sào lí,
啁啾終夜悲。
Chu thu chung dạ bi.
燕燕爾勿悲。 Yến,
Yến nhĩ vật bi,
爾當反自思。 Nhĩ
đương phản tự tư.
思爾為雛日。
Tư nhĩ vi sồ nhật,
高飛背母時。
Cao phi bội mẫu thì.
當時父母念。
Đương thì phụ mẫu niệm,
今日爾應知。
Kim nhật nhĩ ưng tri !
DIỄN NÔM :
BÀI
THƠ CHIM ÉN
Trên rường nhà nỉ non đôi én,
Bay song song sớm tối có nhau.
Ngậm bùn
kết cỏ trên cao,
Bốn con mới nở
lao xao đêm ngày.
Bốn con nhỏ chít chiu trong tổ,
Miệng
đòi ăn chim chíp không thôi,
Sâu xanh mẹ bắt mớm mồi,
Bốn
con luôn đói cha thời mõi mê.
Miệng mỏ đã tái tê hết
cả,
Cố tìm mồi nên chả thấy
chi.
Thoắt đi, thoắt lại, lại đi.
Sợ e con đói quản gì tấm thân.
Ba mươi ngày ân cần nuôi nấng,
Mẹ ốm dần con lớn thêm ra,
Líu
lo dạy nói dạy ca,
Rỉa lông rỉa
cánh bay qua bay vòng.
Đến một hôm cánh lông đầy đủ,
Đưa bốn con bay thử trên cây,
Cất cao bay vút lên mây,
Bốn
phương theo gió lần này... bay luôn !
Trống mái buồn kêu luôn
luôn miệng,
Kêu hết hơi con vẫn
bặt tăm,
Đành thôi về tổ
âm thầm,
Chiu chiu chít chit buồn lòng
suốt đêm.
.....................................
Én ơi én,
chớ nên buồn nữa,
Hãy nhớ
ngày xưa xửa chưa nhòa,
Cái
ngày én tập bay xa,
Cao bay bỏ mẹ
bỏ cha chẳng về.
Lúc đó mẹ cha se sắt ruột,
Dạ nhớ con não nuột ủ ê,
Bây giờ én cũng một bề,
Nhân
nào quả nấy tái tê lòng nào ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.
_____________________________________________________________________________________
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
Hạ Tri Chương
Trường An " ẨM
TRUNG BÁT TIÊN ", tám ông tiên trong rượu luôn say xỉn và
cho ra những vần thơ bất hủ lưu lại đời sau. Trong số đó,
ngoài LÝ Trích Tiên LÝ BẠCH ra, còn có HẠ TRI CHƯƠNG
người bạn tri kỉ của LÝ, người đã đưa LÝ vào
cung diện kiến Thiên Tử để thảo Hách Man Thư, để lại
cho đời sau một giai thoại tuyệt vời về Thi Tiên LÝ BẠCH... Riêng
HẠ TRI CHƯƠNG, nhắc đến ông tức là nhắc đến 2 bài
thơ bất hủ mà người yêu thơ Đường không ai là không
biết đến : HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ, tâm trạng và cảm xúc
của một kẻ đi xa lâu ngày tìm về quê cũ ! Mời tất
cả cùng đọc để thắm thía hơn với nỗi niềm của
những kẻ tha hương dị quốc, sẽ rất ngỡ ngàng khi về thăm
lại quê hương cố thổ !...
回鄉偶書 Hồi
Hương Ngẫu Thư
其一
Kì Nhất
少小離家老大回,
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
鄉音無改鬢毛衰。
Hương âm vô cải mấn mao suy.
兒童相見不相識,
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
笑問客從何處來?
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?
回鄉偶書
Hồi Hương Ngẫu Thư
其二
Kì Nhị
離別家鄉歲月多,
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,
近來人事半消磨。
Cận lai nhân sự bán tiêu ma.
唯有門前鏡湖水,
Duy hữu môn tiền kính hồ thủy ,
春風不改就時波。
Xuân phong bất cải cựu thời ba !
賀知章
Hạ Tri Chương
HẠ TRI CHƯƠNG ( 659-744 )
Ông tự là Quí Chân, về già tự xưng hiệu là " Tứ
Minh Cuồng Khách ", là thi nhân lại vừa là nhà Thư Pháp
nổi tiếng đời Thịnh Đường. Ông người đất Vĩnh
Hưng thuộc Việt Châu ( Huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang hiện nay
), đậu Trạng Nguyên khoa Ất Mùi ( 695 ), được phong là Quốc
Tử Tứ Môn Bác Sĩ, Thiên Thái Thường Bác Sĩ. Ông tuần
tự giữ các chức vụ Lễ Bộ Thị Lang, Bí Thư Giám, Thái
Tử Tân Khách... Ông tính tình khoáng đạt, phóng túng,
không thích gò bó, cùng với Lí Bạch, Trương Húc, Lí
Thích Chi, Tiêu Toại... xưng là " ẨM TRUNG BÁT TIÊN " ( Tám
ông tiên trong rượu ). 86 tuổi cáo lão về quê, chính lúc
nầy, ông làm bài " Hồi Hương Ngẫu Thư " nêu trên
rồi mất ở quê cùng năm. Tác phẩm phần nhiều thất tán,
chỉ còn lưu lại khoảng 20 bài thơ mà thôi.
CHÚ THÍCH :
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ : Có nghĩa Ngẫu nhiên viết
ra ( cảm xúc của mình ) khi về lại quê hương.
HƯƠNG ÂM : Giọng nói của quê hương, như giọng Bắc, giọng
Trung, giọng Nam...
MẤN MAO là Tóc mai. SUY là Suy tàn,
Suy thoái, ở đây chỉ Tóc đã bạc màu. Câu nầy còn
có dị bản là : " Hương âm vô cải mấn mao THÔI ! 鄉音無改鬢毛催
" THÔI là Thôi thúc, là Giục giã, là Đưa đẫy...
Về Ý nghĩa trong câu thơ thì cũng như nhau mà thôi !
TƯƠNG KIẾN là Gặp Gỡ nhau. TƯƠNG THỨC là Quen Biết nhau.
NHÂN SỰ là Chuyện người đời, Chuyện giữa
con người với nhau.
TIÊU MA 消磨 : TIÊU có 3 chấm
Thủy, là TIÊU TRẦM là Chìm Đắm. MA có bộ Thạch bên
dưới, là cái Cối xay bằng đá, là MA LUYỆN là Mài
Dũa. Nên TIÊU MA là bị Dũa mài Chìm đắm, Ý chỉ Sự
thay hình đổi dạng, không còn như xưa nữa.
KÍNH
HỒ THỦY : là Mặt hồ nước trong như gương.
CỰU THỜI BA : là Những gợn sóng ngày xưa.
DỊCH NGHĨA :
BÀI I
Lúc còn nhỏ, còn trẻ, ta đã
rời xa quê hương, nay đã lớn đã già rồi mới về
thăm lại. Giọng nói và âm điệu của quê hương tuy vẫn
không thay đổi, nhưng tóc mai thì đã bị thời gian thôi thúc
mà bạc cả rồi. Vì thế nên, các em bé con kia gặp ta nhưng
lại không biết ta là ai, nên mới cười hỏi là Khách từ
nơi đâu đến đây vậy ?
BÀI II
Ly biệt quê nhà đã nhiều năm
tháng qua. Gần đây, nhân sự cũng đã thay đổi hơn phân
nửa rồi. chỉ có mặt hồ nước trong như gương ở trước
ngõ, khi gió xuân thổi đến thì vẫn lăn tăn gơn lại
những làn sóng như của năm xưa, không thay đổi gì cả
mà thôi !
Nhân sự thì thay đổi, cảnh
trí cũng không tránh khỏi tang thương, chỉ có thiên nhiên
là vẫn bình chân như vại. Mây trắng vẫn là mây trắng
của năm nào, những gợn sóng lăn tăn vẫn là những gợn
sóng lăn tăn của năm trước !...
DIỄN NÔM :
CẢM
TÁC LÚC VỀ QUÊ
BÀI
1
Trẻ nhỏ xa nhà, già trở
lại,
Giọng quê còn đó,
tóc như mây.
Nhi đồng
gặp gỡ không quen biết,
Cười
hỏi nơi nào khách đến đây ?
Lục bát :
Xa nhà lúc trẻ nay về,
Tóc mai
bạc trắng giọng quê vẫn còn.
Tình cờ gặp lũ trẻ con,
Cười
chào hỏi khách nước non quê nào ?
BÀI 2
Cách biệt
quê nhà mấy nắng mưa,
Đổi thay thế thái nói sao vừa !
Duy chỉ như gương hồ trước ngõ,
Gió xuân vẫn gợn sóng ngày xưa !
Lục bát
:
Xa nhà biết
mấy tháng năm,
Nhân tình
thế thái thăng trầm đổi thay.
Như gương hồ nước ngõ ngoài,
Gió xuân thổi vẫn gợn hoài sóng xưa !
Đỗ Chiêu Đức
diễn nôm
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO của TRẦN
NHÂN TÔN
Nhân ngày Lễ Mẹ đọc
lại bài Cư Trần Lạc Đạo của ông Vua Trần Nhân Tông
(1258 - 1308) để thấy rằng Thiền hay không thiền, tu hay không tu gì...
cũng không thể không nhận chân cuộc sống thực tế trước
mắt : Cha Mẹ, Anh em, Bè bạn... Nhất là đối với Cha Mẹ, phải
sống cho tròn ĐẠO CON rồi mới nói đến những tu tập
khác được !
Cư Trần Lạc Đạo
Trần Nhân Tông (1258 - 1308)
Cư trần lạc đạo
thả tùy duyên
居塵樂道且隨緣
Cơ tắc xan hề
khốn tắc miên
饑則餐兮困則眠
Gia trung hữu bảo
hưu tầm mịch 家中有寶休尋覓
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền 對景無心莫問禅
Chú
Thích :
CƯ TRẦN : là Sống ở trên cỏi
trần nầy, trên đời nầy.
LẠC ĐẠO
: là Vui với Đạo. Đạo gì cũng được. Đạo làm
người, đạo Phật, đạo Khổng, đạo Thiên Chúa... cũng
được !
THẢ TÙY DUYÊN : Nên tùy
theo duyên phận. Tức là phải biết sống theo hoàn cảnh của mình,
không cầu kì đòi hỏi quá đáng.
CƠ là Đói, SAN là bửa Ăn, KHỖN là Mệt mõi, buồn
ngủ. MIÊN là ngủ.
GIA TRUNG HỮU BẢO : là
Trong nhà có sẵn báu vật. Ý chỉ : Những cái có sẵn
trong nhà, hoặc trong lòng ta đều là báu vật cả.
HƯU TẦM MỊCH : TẦM MỊCH là Tìm Kiếm. HƯU là Đừng,
là Khỏi phải.
ĐỐI CẢNH VÔ TÂM
: Đối diện với cảnh trí, hoặc Hoàn cảnh mà lòng không
bị lay động ảnh hưởng.
MẠC VẤN THIỀN
: Đừng hỏi tới thiền nữa, Khỏi phải hỏi tới thiền nữa.
Dịch nghĩa :
Sống Đời Vui Đạo
Sống trong cõi trần thế này, hãy tùy duyên mà vui với đạo,
Đói thì hãy ăn cơm, còn mệt, buồn ngủ
thì hãy đi ngủ.
Báu vật có ở trong nhà
rồi, đừng tìm ở đâu khác nữa,
Đối
diện với ngoại cảnh đổi thay mà vẫn giữ được cái
tâm không động thì còn cần chi hỏi đến thiền nữa !
Diễn
nôm :
Cỏi trần vui đạo hãy tùy duyên,
Buồn
ngủ, đói ăn, cứ thế liền.
Bảo
vật trong nhà , tìm đâu nữa ?!
An
nhiên tự tại, hỏi chi thiền !?
Đỗ
Chiêu Đức
Hai câu thơ
cuối trong bài " Cư Trần Lạc Đạo " là :
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền !
........làm cho tôi nhớ đến hai câu thơ trong " Khuyến hiếu
ca " của dân gian là :
家中自有堂前佛 Gia trung tự hữu
đường tiền Phật
何必靈山見世尊? Hà tất Linh sơn
kiến Thế Tôn ?
Có nghĩa :
Trong phòng khách trong nhà, đã
có sẵn Phật ở đó rồi ! ( chỉ Cha Mẹ hằng ngày ngồi
ở đó ! ).
Sao lại còn phải
đến Linh sơn để gặp đức Thế Tôn mà chi ? ( Đức Thế
Tôn : chỉ Phật Thích Ca.).
Nếu ở nhà không có hiếu với cha mẹ, không chăm sóc phụng
dưỡng cha mẹ cho đàng hoàng, thì dù cho có vượt đường
xa muôn dặm đến tận Linh Sơn để cầu lạy đức Thế
Tôn, thì chắc Ngài cũng không chứng cho đâu !
Diễn nôm :
Trên kham có sẵn Phật nhà ,
Sao còn diệu vợi đường xa đi tìm ?
...........và hai câu trên lại nhắc nhớ đến câu cuối trong bài
ca 6 câu vọng cổ " Tu là cỗi phúc " của soạn giả Viễn
Châu, mà nghệ sĩ Minh Cảnh đã hát sau khi đã xuống Xề
là :
...... " Tu
đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ... còn hơn là... đi
tu ! ".
...... và lại gợi nhớ
đến bài kệ, là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt như sau
:
佛在靈山莫遠求, Phật tại Linh sơn mạc
viễn cầu,
靈山只在汝心頭。
Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
人人有個靈山塔,
Nhơn nhơn hữu cá Linh sơn tháp,
好向靈山塔下修。
Hảo hướng Linh sơn tháp hạ tu.
Dịch nghĩa :
Phật ở tại Linh Sơn, khỏi phải cầu cạnh đâu cho xa xôi. Nhưng
Linh Sơn ở đâu ?
Linh Sơn ở ngay trong trái tim của ta đây. Tâm tức Phật, Phật tức
tâm.
Mỗi
người đều có một cái tháp Linh Sơn cả !
Hãy cố gắng mà tu dưới cái tháp Linh Sơn của mình ( là
đủ rồi ! ).
Diễn nôm :
Phật ở Linh Sơn chẳng đâu xa,
Linh Sơn ở tại trái tim ta !
Mỗi người đều có Linh Sơn Tháp,
Cứ gắng mà tu dưới tháp nhà !
Đỗ Chiêu Đức
LƯƠNG CHÂU TỪ
CHIẾN TRANH là thảm họa muôn thuở từ xưa
đến nay, từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á... Có biết bao nhiêu
người đã nằm xuống ở sa trường, sinh ly tử biệt, có
mấy ai được lành lặn trở về từ chiến địa đâu
?!... Mời đọc LƯƠNG CHÂU TỪ của Vương Hàn đời Đường
để thấm thía hơn với nỗi niềm " Cổ lai chinh chiến kỉ
nhân hồi ?!"...
涼 州 詞
LƯƠNG CHÂU TỪ
王 翰
Vương Hàn
葡萄美酒夜光杯,
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
欲飲琵琶馬上催。
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
醉臥沙場君莫笑,
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
古來征戰幾人回。
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi ?
王 翰
VƯƠNG HÀN : Không rõ năm sanh năm mất. Tự là
Tử Vũ. Người đất Tinh Châu Tấn Dương ( thuộc Thành
phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây hiện nay ). Lúc trẻ nhà giàu
nên sống rất hào sảng phóng túng, thích uống rượu và
ngao du sơn thủy. Đậu Tiến Sĩ đời Đường Tuấn Tôn Cảnh
Vân Nguyên niên ( 719 ).Khi Trương Thuyết làm Tể Tướng có
triệu ông về kinh làm quan, đến khi Trương Thuyết bị bãi
chức, ông cũng bị biếm ra khỏi kinh thành. Cuối cùng ông nhậm
chức Tư Mã Thông Châu và mất ở nơi đây. Ông sở
trường về thơ Thất ngôn tứ tuyệt, thiên về biên tái,
lời thơ rất hùng tráng, hoa lệ và cảm khái, bi phẫn với
cảnh chiến tranh dai dẵng.
CHÚ THÍCH :
1. LƯƠNG CHÂU : là đất Lũng Tây đời Đường,
nay thuộc TP Võ Uy tỉnh Cam Túc. Đây là vùng đất giáp
ranh, do người Hán và người Hồ luân phiên cát cứ, ai mạnh
thì chiếm giữ.
LƯƠNG CHÂU TỪ : không
phải là tựa chính thức của bài thơ, mà là tên của
một Khúc Hát ở vùng đất Lương Châu, vì ngoài bài
nầy ra, ta còn có Lương Châu Từ của thi sĩ Vương Chi Hoán
cũng thuộc đời Đường. Nên bài nầy còn có tựa
là XUẤT TÁI 出塞 : có nghĩa là XUẤT CHINH RA NGOÀI BIÊN
TÁI.
2. BỒ ĐÀO : là Trái Nho, nên BỒ ĐÀO
MỸ TỬU là Rượu ngon được ủ bằng nho. NHO là trái của
người Hồ, nên rượu Nho cũng là rượu của người Hồ
cống nhập vào Trung Hoa. Bây giờ ta gọi là rượu VANG( Le Vin ).
3. DẠ QUANG BÔI : là Ly uống rượu mà ban đêm phát
ra ánh sáng. Ly làm bằng ngọc Dạ quang . " Có thể " là
ly bằng Pha-Lê cũng do người Hồ cống vào Trung Hoa.
Trung Hoa xưa gọi những dân tộc ở phương bắc là Bắc Mông,
phương Tây là Rợ Hồ, phương Nam là Nam Man. Gọi chung các
nước của các dân tộc đó là PHIÊN BANG.
4. TỲ BÀ : là loại đàn có 4 dây, cũng từ đất Hồ
cống nhập, nên còn gọi là Hồ Cầm, loại đàn mà cô
Kiều đàn rất giỏi :
Nghề
riêng ăn đứt HỒ CẦM một chương !
5. QUÂN 君 : là Nhân Vật Đại Từ, ngôi
thứ 2 số ít, nên có nghĩa : Ông, Anh, Bà, Chị, Em, Mầy... Trong
câu thơ nầy, xưa nay thường được mọi người hiểu và
dịch là ANH hay BẠN. Sao không thể là NÀNG được chứ ?!
Tại sao ?. Xin thưa :
Hai câu đầu nêu lên : Rượu
Bồ Đào ( rượu Nho ), ly dạ quang ( ly pha-lê ), đàn Tì Bà,
tất cả đều của Xứ Hồ : Hồ tửu, Hồ bôi, Hồ Cầm,
thì sao không thể là HỒ CƠ chớ ?!( HỒ CƠ 胡姬 : là
Người đẹp xứ Hồ ). Những người đẹp nầy giỏi đàn
hát, giúp vui trong quân ngũ để khích lệ tinh thần ba quân tướng
sĩ hăng hái giết giặc. Ta thấy thúc quân không phải là
tiếng chiêng tiếng trống, mà là tiếng đàn TÌ BÀ, Có
lạ không ? Và chắc chắn là tiếng đàn thúc quân phải
do những Hồ Cơ nầy ngồi trên mình ngựa đãm nhiệm.
Cho nên, trước khi phi ngựa ra chiến trường, người chiến sĩ
đã nói vói lại với người đẹp Hồ Cơ rằng : "
Túy ngọa sa trường QUÂN mạc tiếu !.( ta lỡ có say mà nằm
gục giữa chiến trường thì NÀNG cũng đừng có cười
nhạo ta nhé ! . Vì : " Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi ?! Có
mấy ai được trở về từ chiến trường đâu nàng ơi
!!!
DỊCH NGHĨA :
Rượu Bồ Đào rót vào
chén dạ quang ( Rượu vang ngon rót vào chén ngọc đẹp ). Toan
uống, thì đã nghe tiếng Tì Bà thúc quân vội vả lên
ngựa.( Nhưng khoan, hãy đợi ta uống cạn vài ly đã ) Vì
có say nằm gục giữa chiến trường thì NÀNG cũng đừng
có cười nhạo ta nhé ! Vì hãy nghĩ xem, từ xưa đến
nay đem thân đi chinh chiến đã có mấy ai được trở về
đâu ?!
Đây
là cái khí phách ngang tàng của...
Những người
chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
(
Chinh Phụ Ngâm Khúc )
DIỄN NÔM :
BÀI HÁT LƯƠNG CHÂU
Rượu
vang rót vội chén pha-lê,
Giục
giã tì bà giọng tỉ tê.
Say khước sa trường nàng chớ nhạo,
Xưa nay chinh chiến mấy ai về ?!
Lục bát :
Bồ đào rót
chén dạ quang,
Tì bà giục giã
sa tràng tiến ngay.
Chớ cười chiến
địa ta say,
Xưa nay chinh chiến mấy
ai trở về ?!
Đỗ
Chiêu Đức.
PHỤ CHÚ :
Người Hoa gọi tất
cả các loại đá quí là BẢO THẠCH 寶石, mà cũng
gọi là NGỌC 玉 nữa. Ví dụ : CẨM THẠCH 錦石 mà ta
làm đồ trang sức để đeo, thì người Hoa không có gọi
là đeo CẨM THẠCH 戴錦石, mà gọi là ĐỚI NGỌC
戴玉 là Đeo NGỌC. Nên PHA LÊ trong thiên nhiên ngày xưa
rất hiếm, có được một khối Pha Lê để làm ly uống
rượu không phải là dễ. Pha Lê lại lóng lánh trong ánh
đèn đêm, nên ta có thể " nghĩ " DẠ QUANG BÔI ở
đây là LY PHA LÊ được nói nhấn cho có vẻ cao quí
và trịnh trọng !. Mặc dù theo truyền thuyết cho rằng NGỌC DẠ
QUANG là Ngọc tự nó có thể phát sáng trong đêm, chớ
không phải như Pha Lê phải nhờ ánh sáng mới lấp lánh được.
Nhưng trong Văn Chương ai biết được....!!!
CÁC
THI HỮU & CÁC BẢN DỊCH:
QUÊN ĐI:
Lương Châu Từ , bài thơ Tứ Tuyệt được
xem là hay nhất trong loại thơ Biên Tái. Tại sao?
Trước đây tôi định viết một bài về
về cảm nhận của mình về bài thơ này và bài Giang Tuyết,
thế nhưng chưa thực hiện.
Đường thi Tứ tuyệt thường
hàm xúc những quan niệm về nhân sinh quan và vũ trụ quan của
các thi nhân bấy giờ. Lương Châu Từ của Vương Hàn cũng
thế.
Từ xưa, người Tàu luôn
có chiến tranh, lấn chiếm qua lại với các nước phía Tây,
Tây Bắc là Thổ Phồn và Hồ.
Nhân Anh Chiêu Đức giới thiệu Lương Châu Từ ra đây,
tôi cũng tóm tắt góp ý những cảm nhận của mình.
Bồ
đào mỹ tửu dạ quang bôi
Giục
ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Từ hai câu đầu
chúng ta thấy rỏ ràng sự tương phản ngầm nói lên sự
đối chọi của các Vường Triều người Hán và Tây
Vực, qua sự thể hiện một câu tĩnh và một câu động.
Nhưng cũng nói lên sự mong muốn sống chung hoà bình giữa hai
dân tộc, ví như rượu Bồ Đào, rượu của Hồ phải
uống bằng chén dạ quang của Hán mới tăng thêm cảm giác,
cũng như trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ , Kim Dung trình bày cách
uống rượu bồ đào phải dùng chén dạ quang, qua việc Tổ
thiên Thu cố lừa Lệnh Hồ Xung uống thuốc chữa bệnh, để
lấy lòng thánh nữ Doanh Doanh cũng dựa vào bài thơ này...
Hai câu cuối, nói lên sự tàn bạo
của chiến tranh, tại sao không thể dùng rượu thay cho binh khí, để
không còn chết chóc đau thương.
Bản diễn dịch chữ Nôm
đầu tiên ở nước ta :
Chữ
Quốc ngữ:
Rượu đào vơi chén pha lê,
Ngập ngừng hầu uống đàn kề bên tai
Sa trường say ngã chớ
cười,
Xưa nay chiến
địa mấy ai đặng về.
Quên Đi Tiếp nối Hai Thầy và Anh Chiêu
Đức với bài dịch:
Câu Hát Lương Châu
1
Dạ quang chén ngọc rượu bồ
đào
Muốn uống tỳ bà giục
ngựa mau
Say nằm trận địa
đừng cười bạn
Chinh chiến
xưa nay sống được bao
2
Bồ Đào đầy chén Dạ Quang
Uống nhanh ngựa sẵn giục vang đàn Tỳ
Sa trường rượu ngấm nằm
lì
Bao đời chinh
chiến có đi khó về.
Quên Đi
Ghi Chú: Từ (词) : là một thể
văn, có từ đời Đường, hưng thịnh thời nhà Tống,
biến thể từ nhạc phủ xưa, câu dài ngắn không nhất định.
Còn gọi là trường đoản cú 長短句, thi dư
詩餘 . Như: Đường thi Tống từ
MAILOC:
LƯƠNG CHÂU
TỪ
(1)
Chén ngọc bồ đào sắc đỏ gay ,
Tỳ bà giục giả thắng yên ngay .
Say lăn chiến địa người đừng mỉa
,
Kim cổ sa trường sống sót ai ?
(2). Mailoc
Chén ngọc rượu bồ tràn óng ánh ,
Tiếng tì đã giục thắng yên ngay
.
Sa trường chớ nhạo khướt say
,
Xưa nay chiến trận mấy ai quay về
?
PHẠM KHẮC
TRÍ:
Lương Châu Từ
PKT 04/25/2015
Chén ngọc, rượu đào, chửa thấm môi
,
Tỳ Bà đã giục lên đường
rồi .
Say nằm chiến địa ai cười
trách ,
Đã mấy người về
trọn cuộc chơi .
Phụ Chú : Tỳ Bà, chỉ khúc nhạc xuất quân khẩy bằng
đàn Tỳ Bà, một loại đàn xưa .
MAI XUÂN THANH:
Uống
cạn rượu đào ngon chén ngọc,
Tỳ bà báo hiệu thúc quân ra.
Lỡ say trận mạc em đừng nhạo,
Đánh giặc xưa nay chẳng viếng nhà !
Mai Xuân
Thanh
BÀI 2 : UỐNG RƯỢU TRƯỚC KHI XÔNG TRẬN ( THỜI
XƯA )
-Trong Tam Quốc Chí, khi 2 danh tướng
giặc khiêu chiến, chư hầu run sợ. Quan Công bảo : Ta
sẽ lấy đầu 2 danh tướng là Nhan Lương và Văn
Xủ ( khét tiếng thời đó ) trở về bản doanh , rượu
vẫn còn nóng uống cạn ly. Quả đúng như vậy.
- Cụ Phan Châu Trinh cũng có ý chê trách
qua câu thơ ( thời Pháp bảo hộ ) :
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết,
Sổ trản thanh trà bách tính cao...
Trở
lại 4 câu thơ Lương Châu Từ, MXThanh cũng xin phép được
góp thêm lời thơ như sau :
Rượu ngon chén ngọc uống, vua ban,
Hiệu lệnh tỳ bà thắng ngựa
ngang.
Chiến địa say men ai chỉ trích,
Xưa nay đánh giặc chết sa tràng...
Mai Xuân Thanh
NGUYỄN ĐẮC THẮNG:
KHÚC HÁT LƯƠNG CHÂU
Chén rượu bồ đào uống cạn đi!
Tiếng đàn xung trận đã tung hê
Nằm giữa sa trường say chớ nhạo
Xưa nay chinh chiến mấy ai về!
Nguyễn Đắc Thắng
20150426
PHƯƠNG
HÀ:
KHÚC HÁT Ở LƯƠNG
CHÂU
Toan rót rượu thêm vào chén ngọc
Đã nghe tiếng nhạc thúc ra quân
Chiến trường say ngã, xin đừng nhạo
Lạc giữa binh đao, ai vẹn thân ?
Phương Hà phỏng dịch
QUY Y PHẬT - QUY Y PHÁP - QUY Y TĂNG
Đỗ Chiêu Đức
Kính Anh,
... Như đông đảo mọi người tôi hiểu Quy Y Phật, Qui Y Pháp,
Quy Y Tăng là theo Phật, theo Pháp, theo Tăng. Hoặc theo con đường
mà Phật Pháp Tăng chỉ dạy. Hôm nay, tôi muốn hiểu rõ
hơn. Mong Anh giúp cho về các vấn đế ghi sau đây:
1. Theo Lạc Thiện, Hoa Việt Từ Điển
Thông Dụng, thì có 3 chữ QUY..
a/ 1. Về. 2. Trả về. 3. Quy tội. 4. Chịu về theo. Thiết nghĩ:
trong quy y tam bảo, chữ quy có nghĩa /4. Trong trường hợp nầy có
thể nào xác định nghĩa đen bằng một cách thiết tự
hay không? b/ 1. Cái khuôn. 2. Khuôn pháp. Thí dụ: Quy tắc. 3. Mưai
toan. Thí dụ: quy hoạch. c/ Con rùa.
2. Theo
Thiều Chữu, Hán Việt Từ Điển, thì có khác: Quy: Quy
phục, rốc lòng tin theo gói là quy y. Trong quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
quy y có nghĩa là bỏ nơi tối tăm mà đem cả thân tâm
quay về nơi sáng tỏ. Chữ quy nầy gồm chữ BẠCH (trắng)
bên trái và chữ gì bên mặt thì tôi không biết. Có
thể nào bằng cách chiết tự để nói cái ý: ‘bỏ
nơi tối tăm mà đem cả thân tâm quay về nơi sáng tỏ'?
3. Y. Theo Lạc Thiện. Nhơn (đứng) bên trái, y (là áo)
bên mặt. Nghĩa là: 1. Nương. 2 Y theo. 3. Nghe theo 4. Y nhiên
(vẫn cứ như cũ).
Tôi muốn hiểu quy y, theo nghĩa đen, bằng
cách chiết tự nếu có thể được. Mong được
Anh giúp dùm.
...............................................
Thân,
Truong
***********
......................
Thưa Thầy,
Chữ QUY mà thầy nêu ra từ các Tự điển cũng đã đầy
đủ lắm rồi.
Ở đây,
em chỉ lạm bàn thêm về chữ QUY mà thầy thích nghĩa là CÁI
KHUÔN. QUY nầy là 規 Cái khuôn để kẻ đường TRÒN,
là cái Compa. Còn một chữ nữa là CỦ 矩 là cái khuôn
dùng để kẻ hình VUÔNG, là cái Ê-ke. Không có QUY thì
kẻ không TRÒN, không có CỦ thì kẻ không VUÔNG. nên QUY
CỦ là cái khuôn phép giúp ta làm nên sự việc một cách
hoàn hảo, hoàn chỉnh. Không theo QUY CỦ thì mọi việc sẽ bị
méo mó, chệch hướng, không ra gì cả! (QUY và CỦ
nầy đã được vua Hạ Vũ ( 2081- 1978 trước Công Nguyên )
chế ra lúc đang đi khai kinh trị thủy cho cả nước.)
Bây giờ, thì xin trở lại với chữ QUY là VỀ, là THEO
VỀ.
Chữ
QUY 歸 gồm : Bên trái phía trên là bộ Phụ 阜 : là làng
xóm chợ búa dựa theo ven sông. Phía dưới là chữ Chỉ 止
: là dừng lại. Bên phải là chữ Trửu 帚 : là cây chổi.
Hàm ý là... Người du tử ngày xưa khi dừng chân trên một
làng mạc ven sông nào đó, chợt thấy người đàn bà
cầm cây chổi quét nhà , mà chạnh lòng muốn quay trở lại
quê nhà, như nhà thơ Thế Lữ đã viết....
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu se lạnh gió heo may.
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây !
nên...
Chữ QUY có nghĩa
VỀ là vậy.
VU
QUY : là về nhà chồng.
QUY
NINH : là Gái có chồng về nhà thăm cha mẹ ruột.
QUY PHỤC, QUY THUẬN : đều có nghĩa là Ngoan ngoãn mà về theo
ai đó.... Còn....
Chữ
QUY mà Thầy nói là có Bộ Bạch 白, còn bên kia là Chữ
Phản 反: là Ngược lại, QUY 皈 nầy là một dị bản,
một cách viết khác của chữ QUY nêu trên, nếu chiết tự
thì có nghĩa : Đang trong chỗ tối, đi ngược lại để trở
về với chỗ sáng , đặc biệt là chữ QUY 皈 nầy CHỈ
DÙNG TRONG KINH PHẬT chứ không được dùng rộng rãi như chữ
QUY trên.
Còn chữ Y, thì
Thầy cũng đã rõ nghĩa rồi .
Y 依 : là Dựa, là Tựa, là Nương Theo, là Quyến Luyến.
Nên...
QUY Y : là Về để nương
tựa theo, là Dốc lòng về với .... Hiểu rộng ra là Bỏ chỗ
tối về với chỗ sáng, Bỏ nơi mê muội mà về nơi bến
giác, Vượt qua bể khổ để đến với nát bàn......
Nhưng, kính thưa Thầy,
Vì Thầy yêu
cầu Chiết tự, nên em mới chìu theo ý Thầy mà chiết tự
cho vui vậy thôi, chớ.... " Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng ", gọi
chung là " Quy y Tam bảo ". Đây là những từ chuyên dùng
của đạo Phật, mà đã là là từ chuyên dùng của
Phật giáo thì phải tìm hiểu nguồn gốc của các từ nầy
trong kinh Phật bằng tiếng PHẠN Thầy ạ, chữ Hán cổ chẳng qua
cũng là văn tự dùng để dịch kinh Phật mà thôi. Ví
dụ : Nước ITALI, người Hoa nhại bằng âm Quan Thoại là 意大利,
ta dịch lại âm nhại của người Hoa là Ý Đại Lợi, rồi
gọi tắt là nước Ý, nên ITALI và Ý Đại Lợi về
mặt ý nghĩa không có ăn nhằm gì với nhau cả, chỉ là
nhại âm cho có tên để gọi mà thôi. Tương tự, ta có
CANADA là Gia Nã Đại, AMERICA là Mỹ Lợi Kiên, là nước
Mỹ...v.v....
Sự thật, TAM QUY Y là " Tisarana ", " Ti " là Tam, và "
sarana " là Nơi Phù hộ che chở, ý muốn nói là do Phật
Pháp Tăng ba ngôi hình thành nơi che chở phù hộ cho những ai
theo về. Trong chương thứ 14 của kinh " A tỳ Đạt ma câu xá
luận " thì giải thích...
QUY Y là " Saranam gacchami." Gacchami là động từ chỉ sự thẳng
tiến, đến nơi, và Saranam là Danh từ chỉ sự che chở phù
hộ. Như vậy, thì QUY Y là " Thẳng tiến đến nơi mà ta
sẽ được sự che chở phù hộ ", nói cách khác là
" Về với Phật Pháp Tăng để hưởng được sự phù
hộ và che chở ". Cũng theo Kinh trên, Saranam gacchami còn có
nghĩa Cứu tế và Nương tựa, nên mới được các nhà
dịch thuât, Trung Hoa dịch là QUY Y.
.......................................
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức
Cuối tuần, lật quyển Đường Thi Tam Bá Thủ, tình cờ
đọc được bài thơ luật " Hàm Dương Thành Đông
Lâu " của Hứa Hồn, thấy âm điệu và phong cách cũng
mang chút gì hơi hám của Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu,
kể cả vần được gieo cũng làm cho người đọc cảm thấy
như đang đọc lại câu " Yên ba giang thượng sử nhân sầu
! ". Xin trích dịch sau đây để mọi người cùng thưởng
lãm ! 《咸陽城東樓》 許渾
HÀM DƯƠNG THÀNH ĐÔNG LÂU
Hứa Hồn.
一上高城萬里愁,
Nhất thượng cao thành vạn lý sầu, 蒹葭楊柳似汀洲,
Kiêm hà dương liễu tự Thinh Châu,
溪雲初起日沉閣,
Khê vân sơ khởi nhật trầm các, 山雨欲來風滿樓。
Sơn vũ dục lai phong mãn lâu. 鳥下綠蕪秦苑夕,
Điểu hạ lục vu Tần uyển tịch, 蟬鳴黃葉漢宮秋,
Thiền minh hoàng diệp Hán cung thu,
行人莫問當年事,
Hành nhân mạc vấn đương niên sự,
故國東來渭水流。
Cố quốc đông lai Vị Thủy lưu. 許渾,字用晦(一曰仲晦),唐丹陽人也(一曰睦州)。太和六年進士,為太平縣令,大中三年任監察御史,以疾乞東歸,終郢、睦二州刺史,所至有善政。渾長於詩,有《丁卯集》行於世。 《宣和書譜》曰:「許渾正書雖非專門,而灑落可愛,想見其風度,渾作詩似杜牧,俊逸不及而美麗過之。古今學詩者,無不喜誦,故渾之名益著,而字畫因之而並行也。」
HỨA
HỒN, tự là Dụng Hối( Có sách cho là Trọng Hối ), người
đất Đơn Dương( Mục Châu ) đời Đường. Đậu
Tiến Sĩ năm Thái Hòa thứ sáu, làm Huyện Lệnh Huyện Thái
Bình, năm Đại Trung thứ ba làm Giám Sát Ngự Sử, vì
bệnh nên xin chuyển về miền đông, sau cùng làm Thứ Sử
ở 2 Châu Sính và Mục, ở mọi nơi đều có tiếng
là vị quan tốt. Ông giỏi về thơ, còn lưu lại đời sau
2 tập thơ " Đinh Mão Tập ".
Theo " Tuyên Hòa Thư phổ " ghi : Hứa Hồn tuy không chuyên về
thư pháp, nhưng chữ viết bay bướm dễ nhìn, có phong cách
riêng. Hồn làm thơ giống như Đỗ Mục,tuy không phóng đạt
bằng Đỗ, nhưng hoa lệ thì có thừa, người học thơ xưa
nay đều rất thích đọc, nên Hồn càng nổi tiếng song song
cả thơ lẫn thư pháp. ".
CHÚ THÍCH :
1. Kiêm Hà : Là Lau sậy, theo tiếng gọi của ngày xưa. Trong Kinh
Thi có câu : Kiêm Hà thương thương, có nghĩa là Lau sậy
xanh xanh. 2. TỰ 似 : là TƯƠNG
TỰ, có nghĩa Giống như là. Thinh Châu : Thuộc tỉnh Phước
Kiến, nay là Huyện Trường Thinh. Thinh châu còn có nghĩa là
những cồn đất nổi lên ở giữa sông lớn, lau sậy mọc
um tùm. Ở đây, vì muốn ăn khớp với cái " VẠN LÝ
SẦU " của câu trên, nên ta hiểu THINH CHÂU là một địa
danh của tỉnh Phước Kiến ở tận miền Nam, trong khi Tác Giả lên
tận lầu HÀM DƯƠNG của miền Bắc để trông ngóng về
quê hương xa xôi vạn dặm ở miền Nam.
3. Khê Vân : Hơi nước từ trong khe suối bốc lên thành mây. 4. Lục Vu : Vu là Rậm rạp, hoang vắng.
Lục Vu là Bãi xanh hoang vu của cây cỏ bỏ hoang xanh um rậm rạp
! 5. Vị Thủy : Tên con sông phát
nguyên từ tỉnh Cam Túc, chảy qua tỉnh Thiểm Tây đổ vào
sông Hoàng Hà rồi chảy ra biển Đông... DỊCH
NGHĨA : TRÊN LẦU ĐÔNG CỦA THÀNH HÀM
DƯƠNG. Lên đến tận
trên lầu cao của đông thành thì nỗi sầu lại dài thêm
vạn dặm. Trước mắt, lau sậy hòa vào màu xanh của dương
liễu mường tượng như màu xanh của đất Thinh Châu. Những
làn hơi nước trong khe suối vừa bốc lên thành những làn
mây mỏng thì mặt trời cũng đã chìm xuống phía sau lầu
rồi ! Và cơn mưa núi chưa kịp đổ xuống thì gió
đã ào ạt đầy cả lầu ! . Lũ chim bay xà xuống bãi
xanh hoang vu của vườn thượng uyển đời Tần ngày xưa trong buổi
chiều tà. Và lũ ve cuối mùa cố cất tiếng ngâm trong đám
lá vàng của cung viên nhà Hán vào buổi chiều thu se lạnh.
Ôi thôi ! Người qua đường xin đừng hỏi đến chuyện
của năm xưa nữa, Cố quốc từ hướng đông mà đến
cũng như dòng Vị Thủy theo hướng của tất cả những dòng
sông đổ vào Hoàng Hà rồi cũng đều chảy về với
biển Đông thuận theo lý tự nhiên... Hai câu :
溪雲初起日沉閣, Khê vân sơ khởi
nhật trầm các, 山雨欲來風滿樓。
Sơn vũ dục lai phong mãn lâu. đã trở thành
thành ngữ trong văn chương khi dùng để diễn tả hiện tượng
hoặc cái điềm báo trước của một sự kiện trọng đại,
hay một tình thế thay đổi lớn của thời cuộc ! " Sơn vũ
dục lai " thì " phong đã mãn lâu " rồi ! Trước khi
" mưa núi ập tới ", thì " gió đã thỏi đầy
cả lầu " rồi ! Trước khi Miền Nam thất thủ thì dư luận
thế giới, Quốc Hội MỸ, đài BBC và nhất là " Chiến
thuật di tản " đã làm xáo trộn hoang mang cả Sài Gòn
và Đồng bằng sông Cửu Long rồi ! DIỄN NÔM :
Vòi vọi thành cao vạn dặm sầu,
Lau xanh liễu rũ ngỡ Thinh Châu.
Mây vờn khe suối vầng ô khuất,
Mưa chửa thành cơn gió ngập lầu.
Chim lượn xập xòe Tần thượng uyển,
Ve sầu rả rít Hán cung thâu.
Nào người chớ hỏi đời xưa cũ,
Sông Vị về đông vẫn chảy mau ! Lục bát :
Thành cao cho vạn lý sầu,
Vi lô tơ liễu tựa màu Thinh Châu.
Mây lên mặt nhựt khuất lầu,
Mưa chưa thành hạt gió sầu đầy song.
Chim xà Tần uyển vườn không,
Ve ngâm rả rít Hán cung thu sầu.
Nào ai chớ hỏi vì đâu ?!
Về đông sông Vị chảy mau, lệ thường !!!...
Đỗ Chiêu Đức.
Mặc dù không làm rung động lòng người và còn để
lại dư âm như Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, không cảm
khái và ưu thời mẫn thế như Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng
Đài của Lý Bạch, không nhẹ nhàng thương cảm như Vạn
Tuế Lâu của Vương Xương Linh , Hàm Dương Thành Đông
Lâu của Hứa Hồn cũng nói lên một niềm hoài cổ não
lòng, xót xa đến... dửng dưng, vì biết đó là cái
lẽ của cuộc sống, cái lý của sự vật ở trên đời
" Vật cực tất phản ", Âm cực dương hồi, hết thịnh
rồi lại suy... cứ thế luân lưu mãi, như tất cả những dòng
sông đều chảy về đông......
Hành nhân
mạc vấn đương niên sự,
Cố
quốc đông lai Vị Thủy lưu !!!..... Đây
là một trong những bài thơ cảm khái khi lên cao nổi tiếng
của buổi Tàn Đường !...
ĐỖ CHIÊU ĐỨC |
THANH MINH
Một
năm có 4 mùa, mỗi tháng có 2 tiết, Thanh Minh 清明 là
tiết đầu của tháng 3, thường nằm ở cuối tháng 2 và
giữa tháng 3 trở lại. Tiết Thanh Minh năm nay nhằm vào ngày 17
tháng 2 ( Chúa Nhật , 5 tháng Tư dương lịch 2015 ). như
ta đã biết qua Truyện Kiều :
Thanh Minh trong tiết tháng ba,
Lễ
là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh.
Thanh 清 là
trong, Minh 明 là sáng. Tiết Thanh Minh 清明節 là ngày
tiết trời trong sáng của cuối xuân sau những ngày mưa xuân phơi
phới làm lạnh lẽo lòng người !. Sau những ngày rét mướt
của mùa đông, thì đây là dịp để ra thăm lại mồ
mả ông bà, nên mới có lễ Tảo Mộ, Tảo 掃 là
quét dọn, Mộ 墓 là mồ mả. Tảo Mộ 掃墓 là
quét dọn lại mồ mả ông bà cho sạch sẽ khang trang, đồng
thời cũng làm Lễ cúng bái như trình cho ông bà Tổ Tiên
biết để cùng bắt tay vào vụ mùa sắp đến. Sẵn dịp
trời quang mây tạnh, sau những ngày mưa phùn rét mướt, giờ
đây thì :
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
nên .... nam
thanh nữ tú lại có dịp du xuân, đạp lên cỏ non mà dạo
khắp núi đồi gò đống. Đạp Thanh 踏青 là
đạp lên trên những cỏ non xanh biếc, " Xuân du phương thảo
địa " mà...
Nói thì nói thế, chứ thời tiết cũng còn lạnh lắm, không
phải cái lạnh hiu hắt của gió thu, cũng không phải cái lạnh
buốt da của mùa đông , mà là cái lạnh dễ chịu của
mưa xuân phơi phới, ta hãy nghe nhà thơ ĐỖ MỤC tả cảnh
Thanh Minh như sau :
清 明 唐 · 杜 牧
清明時節雨紛紛,路上行人欲斷魂。
借問酒家何處有?牧童遙指杏花村。
THANH
MINH
ĐƯỜNG. Đỗ Mục
Thanh
minh thời tiết vũ phân phân 清明時節雨纷纷
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
路上行人欲断魂
Tá vấn
tửu gia hà xứ hữu?
借問酒家何處有?
Mục
đồng dao chỉ Hạnh Hoa Thôn ! 牧童遥指杏花村!
Ghi Chú
:
1. Phân Phân : Là Liên tục không dứt,
là Phơi Phới, là Phơn phớt.
2. Dục Đoạn
Hồn : là Muốn đứt cái hồn ra , là buồn thúi ruột.
3. Tá Vấn : là Ướm hỏi, là Hỏi thăm
( việc gì hoặc cái gì đó... ).
4.
Mục Đồng : là những đứa bé chăn dê, chăn cừu hoặc
chăn trâu....
5. Hạnh Hoa Thôn : Có 2 nghĩa
:
* Là cái Thôn tên
là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
* Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
Như trên đã nói,
Thanh Minh là dịp để quét tước lại mồ mả ông bà,
là hội Đạp Thanh để nam thanh nữ tú du xuân... Nhưng, Đỗ
Mục lại bảo là " dục đoạn hồn ". À , thì ra , tác
giả đang xa nhà, ta hãy đọc lại cả câu xem sao...
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn...
Người lữ khách
xa nhà đi trên đường một thân một bóng, thay vì cùng
người nhà đi tảo mộ hoặc đạp thanh, nên càng cảm thấy
thấm thía hơn với nỗi buồn xa xứ trong cảnh mưa phùng lất
phất....Cho nên mới muốn tìm ly rượu để sưởi ấm cỏi
lòng tha hương chiếc bóng.....
Diễn nôm :
THANH
MINH
Thời
tiết Thanh minh lất phất mưa
Trên đường lữ khách muốn say sưa
Rượu ngon ướm hỏi nơi đâu bán ?
Xóm Hạnh, Mục đồng chỉ trỏ thưa !
Theo Giai Thoại Văn Chương VN của Thái Bạch thì : Các cụ ta ngày
xưa muốn tỏ rỏ cái tinh thần độc lập, cái đầu óc
cầu tiến , không quá lệ thuộc vào cổ nhân, nên đã
" chê " bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt nầy của Đỗ Mục
là : Mỗi câu dư 2 chữ. Các Cụ lý luận như thế nầy
: " Thời tiết vũ phân phân " thì biết là thời tiết
của Thanh Minh rồi, nên không cần phãi có 2 chữ Thanh Minh nữa. "
Hành nhân dục đoạn hồn " là đủ nghĩa rồi, không
cần phải có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ
không lẽ đi " dưới nước " ?!. " Tửu gia hà xứ hữu?
" đã là câu hỏi rồi, cần chi phãi có từ " Tá
Vấn "?. " Dao chỉ Hạnh Hoa Thôn " đủ nghĩa rồi, ai chỉ
mà chả được, cần gì phải " Mục đồng " chỉ
mới được ! Nên bài thơ Thất Ngôn trên nên viết lại
thành Ngũ Ngôn cho nó gọn, như sau :
Thời tiết vũ phân phân
Hành
nhân dục đoạn hồn
Tửu
gia hà xứ hữu ?
Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !
Nói thì nói thế,
chứ thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn âm điệu và tiết tấu
vẫn khác nhau xa, nhưng đây cũng là một gợi mở của Cha Ông
để cho con cháu đừng quá bị lệ thuộc vào cổ nhân
mà thôi ! Âu cũng là một sáng kiến hay đó !....
.......................................................................
Học
theo gương của người xưa, nhớ hồi còn trẻ ( khoảng 15- 16 tuổi
gì đó ), khi vừa đọc được bài viết trên của Thái
Bạch, cũng vừa là lúc thầy đang cho đọc bài " Phùng
Nhập Kinh Sứ " của Sầm Tham như sau :
逢入京使
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
故園東望路漫漫,
Cố viên đông vọng lộ man man,
雙袖龍鐘淚不幹。
Song tụ long chung lệ bất can.
馬上相逢無紙筆,
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
憑君傳語報平安.
Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
岑参
Sầm Tham.
Tranh Minh họa cho bài thơ
trên.
NGHĨA BÀI THƠ :
GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH.
Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương
trời đông với đường xá xa xôi diệu dợi ( lộ man man
!). Hai tay áo già nua lụm cụm ( Song tụ long chung ) không lau sạch hết
dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn ( lệ
bất can ). Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không
có bút mực giấy viết gì cả !. Chỉ nhờ anh nhắn miệng
lại dùm là : Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi !
DIỄN NÔM :
GẶP SỨ LAI KINH
Vườn
xưa diệu dợi mõi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
" Bình an " nhờ báo kẽo nhà mong !
Bắt chước tiền nhân, lúc đó tôi cũng lí luận
với thầy rằng : Trông ngóng về hướng đông, vì quê
nhà ở nơi đó, cho nên chỉ nói : " Đông vọng lộ
man man " là đủ rồi, đâu cần phải có từ " Cố Viên
"?! Già nua lụm cụm nên lau không khô dòng lệ nhớ quê hương,
lau bằng gì mà chả được, đâu cần phải lau bằng 2 tay
áo, nên câu 2 cũng không cần phải có từ " Song Tụ ",
chỉ " Long chung lệ bất can " là đủ. Tương tự câu 3 cũng
vậy, gặp nhau ở đâu cũng được, không nhất thiết là
gặp nhau trên ngựa mới không có giấy bút, nên chỉ " Tương
phùng vô chỉ bút " là đủ rồi ! Câu chót thì lại
lịch sự đến khách sáo, gặp anh, không nhờ anh thì nhờ
ai đây ?, nên đơn giản là " Truyền ngữ báo bình an
" cũng gọn gàng và lịch sự lắm rồi !. Nên, bài thơ
Thất ngôn trên sẽ trở thành bài thơ Ngũ ngôn như sau :
Đông vọng lộ man man,
Long chung lệ bất can.
Tương phùng vô chỉ bút,
Bằng ngữ báo bình an !
Thầy giáo lúc bấy giờ khen lấy khen để, cho là học sinh có
Ý kiến và suy nghĩ hay ho, không đọc thơ một cách cứng ngắt
bài bản.... Thầy đâu có biết rằng, cái thằng học trò
ranh mảnh nầy chỉ bắt chước và làm theo " Giai Thoại Văn
Chương Việt Nam " của Thái Bạch mà thôi, chớ cũng chẳng
hay ho gì hơn ai hết !
Chuyện qua đã
hơn 50 năm, bây giờ nhắc lại, lại cảm thấy bồi hồi xúc
động, thời gian không chờ đợi ai cả, thoáng cái mà tuổi
đã gần 70 rồi ! Muốn nói cho Thầy biết là mình chỉ nhại
lại cái việc làm của người đi trước mà thôi, thì
Thầy đã không còn nữa !... Thầy ơi !...
Đỗ
Chiêu Đức.
*THẦY :
Ở đây là Bác Sáu 六伯 ( Lặc-Bệ , theo âm
Phúc Kiến ), có bằng Cao Đẳng Tiểu Học thời Pháp Thuộc,
nên đứng tên làm Hiệu Trưởng về Mặt Hành Chánh cho
trường Tiểu học TÂN TRIỀU Cái Răng, trước nhiệm kì
của cô NGUYỄN KIM QUANG. Ông là anh ruột của bà Hiệu Trưởng
họ THI 施 ( Bà Sứ ) sau này. Ông không có trực tiếp
đứng lớp, chạy loạn từ Trung Hoa đại lục sang, nhưng nói tiếng
Việt rất sỏi như người bản xứ, giỏi Văn Chương Văn
Học Hán Việt. Ông ở trọ hẵn trong trường học, rất thân
thiện và hòa đồng với học sinh, chúng tôi thường đến
phòng ông chơi, học thơ Đường, Tản văn, làm câu đối....
và thường gọi ông là Bác Sáu ( Lặc Bệ ) cho thân mật,
chớ không có gọi bằng Thầy, hoặc Hiệu Trưởng gì cả
!
NGÀY XUÂN MỜI ĐỌC 2 BÀI THƠ ĐƯỜNG
1 . VỊ HỮU của Lý Thương Ẩn
Có một bạn gởi lời yêu cầu
: " Tết đừng chọn thơ nhớ quê nữa, buồn quá ! Chọn thơ
nào vui vui, nổi tiếng mà ít người biết á ! ". Cái nầy
là làm khó ông Đồ rồi đây, chọn thơ vui vui
thì dễ rồi, còn thơ nổi tiếng mà ít người biết là
làm khó nhau rồi. Đã nói là nổi tiếng thì phải
nhiều người biết, chớ làm sao ít người biết được
!?. Nhưng thôi, Đồ tui cũng rán đây, và xin nói trước
là sẽ chọn một bài thơ HAY ( nổi tiếng không thì chưa biết
) mà ít người biết nhé !
Xin mời cùng đọc
bài " VỊ HỮU " 爲有 của Lý Thương Ẩn 李商隱 đời
Đường sau đây :
VỊ
HỮU
爲 有
Vị hữu vân bình vô hạn kiều , 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân
tiêu . 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim qui
tế , 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo
triều . 辜負香衾事早朝 .
DỊCH NGHĨA :
Vì Có ...
Vì có bức bình phong vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn,
nên ở đất Kinh thành nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại
thấy lo sợ cho những đêm xuân, vì khi khổng khi không lại
lấy phải ông chồng làm quan lớn thế nầy, nên chi sáng xuân
( là thời khắc mặn nồng của đôi lứa ) ông ta lại phụ
rãi bỏ mặc nệm ấm chăn êm thơm phức để đi chầu
Vua mỗi buổi sáng sớm.!.
CHÚ
THÍCH :
* Lý
Thương Ẩn, tự là Nghĩa Sơn, hợp cùng Đỗ Mục, thành
một cặp Lý Đỗ ở buổi Tàn Đường. Tài hoa và
tiếng tăm cũng không thua gì cặp Lý Đỗ già, là Lý
Bạch và Đỗ Phủ của buổi Sơ Đường.....
* chữ
VỊ :
Có 3 hình thức viết
như sau : Giản thể : 为
Phồn thể : 為 và 爲.
Có 2 âm đọc như sau : VI ( không có dấu nặng ) là Làm,
Ví dụ : Vi nhân nan ; Làm người khó. " Ấu bất học, lão
hà VI " : Nhỏ mà không học, lớn làm " Đại Úy "(
Hà vi là làm gì, ý nói là làm được gì ! "
Thanh tịnh vô VI " là chữ VI nầy đây.
Đọc là VỊ ( có dấu nặng ) : Có 2 nghĩa, khi là Giới từ
( preposition ) thì có nghĩa là Vì, như tựa của bài thơ
trên : Vị Hữu là Vì Có.
Khi là Nghi vấn tự thì có nghĩa Vì sao?. Ví dụ : Vi hà 爲何?
là Tại làm sao, là Vì lẽ gì ?
*
Phụng thành : là một tên khác để gọi Kinh thành, nơi nhà
Vua đóng đô.
*
Xuân tiêu : là đêm xuân, trời chỉ se se lạnh, là thời khắc
tuyệt vời nhất cho đôi lứa yêu nhau, nhất là những cặp vợ
chồng son, nên chi người xưa cũng đã nói : Xuân tiêu nhất
khắc trị thiên kim ( đêm xuân một khắc giá đáng ngàn
vàng !).
* Vô
đoan : là khi khổng khi không, là những khiến xui không có tính
toán trước, là tự dưng đưa đẩy. Ở đây là
lời nói nũng nịu của nàng mệnh phụ...
*
Kim Quy Tế : Kim quy là rùa vàng. Tế là chàng rể, là chồng,
xưa gọi chồng là Phu Tế. Đời Đường, hễ làm quan mà
có phẩm trật, thì mặc áo có thêu hình con rùa viền
chỉ vàng, con rùa càng vàng thì quan càng cao, lâu dần thành
Thành ngữ, bây giờ người Hoa vẫn còn sử dụng từ KIM QUY
TẾ để chỉ những chàng rể giàu sang quyền quý. Các cô
gái người Hoa kén chồng giàu, gọi là đang Điếu Kim Quy,
nghĩa là đang Câu Rùa Vàng.
*
Hương khâm : hương là thơm, khâm là cái mền, cái chăn.
Hương khâm là gối chăn thơm phức.
*
Sự : là phụng sự là thờ phượng nhà Vua.
*
Tảo Triều : Buổi chầu sớm, thường thì vào khoảng canh năm,
cho nên canh tư phải thức dậy rồi, giờ đó mà phải rời
bỏ gối chăn thơm phức thì oan uổng thiệt !....
DIỄN
NÔM :
VÌ CÓ ...
Vì có bình phong đẹp lắm mầu
Kinh thành hết lạnh, sợ canh thâu
Khéo xui lấy được ngài quan lớn
Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu !
Lục Bát
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai,... đi chầu !
Quý vị thấy
thế nào ?. Theo Đồ tui, thì đây là một bài thơ HAY mà
ít người biết, xin giới thiệu để quý vị đọc cho
vui, và.....
...
Quý vị có nhớ gì không ? Bài thơ nầy làm ta nhớ
lại tâm lý của người thiếu phụ luôn luôn bị chồng
lỗi hẹn vì mắc chạy theo lợi nhuận trong bài GIANG NAM KHÚC của
LÝ ÍCH dưới đây:
2.
GIANG NAM KHÚC của LÝ ÍCH
.. Tôi xin nhắc lại bài thơ
" Giang Nam Khúc " 江南曲 của Lý Ích 李益 .
嫁得瞿塘賈,
Giá đắc Cù Đường cổ
朝朝誤妾期。
Triêu triêu ngộ thiếp kỳ
早知潮有信, Tảo
tri triều hữu tín
嫁與弄潮兒。 Giá dữ
lộng triều nhi !
DỊCH NGHĨA :
Khúc hát xứ Giang Nam
Lấy được chú lái buôn ở xứ Cù Đường,( là
một điều may mắn đó, thường thì các lái buôn nầy
rất giàu ). Nhưng... ngày nào cũng lỗi hẹn với thiếp cả
! ( chỉ lo đi tìm lợi nhuận ). Nếu sớm biết trước, nước
thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà
trước kia lấy gã chèo đò cho xong !
CHÚ THÍCH :
* Giang Nam khúc
: là Khúc hát của xứ Giang Nam, bài thơ nầy được trích
trong phần Nhạc Phủ ( những bài thơ dùng để phổ nhạc
theo các điệu hát dân gian, như ca dao của ta vậy ! ).
* Giá : là gã , là lấy chồng. Ta thấy trong bài có 2 từ
kép, Giá Đắc :
là gã được cho ai đó, lấy được
ai đó, thường chỉ chuyện đã rồi. Giá Dữ : Gã với,
gã cho, tức là lấy ai đó, có thể đã hoặc chưa xảy
ra.
* CỔ 賈 : Chữ nầy được
đọc bằng 2 âm và cũng có 2 nghĩa khác nhau :
1. Đọc là Cổ : Có nghĩa là lái buôn, con buôn, người
làm ăn buôn bán.
2. Đọc là Giả : Là họ Giả ( Ví dụ : Giả Bảo Ngọc
trong Hồng Lâu Mộng ).
* Triêu 朝 :
Chữ nầy cũng có 2 cách đọc và 2 nghĩa như sau :
1. Đọc là Triêu : có nghĩa là Buổi sáng, hoặc chỉ có
nghĩa Buổi thôi, như trong câu : Dưỡng quân thiên nhật, dụng
tại nhất TRIÊU. Có nghĩa : Nuôi quân ngàn ngày,( chỉ ) dùng
trong một BUỔI.
2. Đọc là Triều : Nếu là danh từ thì có nghĩa là Trào,
ví dụ : Triều đại...
Nếu là động từ thì có nghĩa là Chầu, ví dụ : Câu
thơ cuối của bài thơ VỊ HỮU nêu trên : " Cô phụ
hương khâm sự tảo TRIỀU " đó.
* Ngộ : Là làm lở vở, ở đây " Ngộ...Kỳ " là
lở kỳ hẹn, là trễ hẹn.
* Triều 潮 :
Triều nầy có 3 chấm thủy đằng trước nên có nghĩa là
nước thủy triều. Một nghĩa nữa Triều là Sóng. Ví dụ
Tân Triều : là đợt sóng mới.
* Lộng Triều Nhi : Người chuyên biểu diễn về các màn bơi,
chèo, nhào lộn trên sông nước. Ở xứ Giang Nam, sông ngòi
chằng chịch cũng giống như là vùng đồng bằng Sông Cửu
Long miền Lục Tỉnh của ta vậy, nhưng của ta địa phận nhỏ nhoi,
còn xứ Giang Nam bao gồm các tỉnh lớn như Giang Tô, Chiết Giang...
chẳng hạn , nên họ có rất nhiều trò kỷ xảo trên sông
nước, còn của xứ ta thì chỉ giỏi bơi chèo,lội nước.
Cho nên từ " Lộng triều Nhi " chỉ tạm dịch là Chú lái
đò hoặc Anh chèo đò chuyên nghiệp mà thôi.
DIỄN
NÔM :
Thơ 6 chữ
Lấy phải Cù Đường thương lái
Thường ngày bỏ thiếp nằm co
Lớn ròng nước kia đúng hẹn
Biết trước, lấy gả chèo đò !
Lục Bát
Ai xui lấy lái Cù Đường
Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương muộn phiền
Đầy vơi dòng nước thường xuyên
Phải dè lấy gả chèo thuyền cho xong !
Cũng như bài "
Vị Hữu " , đây cũng là một bài thơ thuộc loại "
Khuê oán " ( nỗi buồn thương oán trách ở chốn khuê
phòng ) ngày xưa. Trong bài thơ nầy, Cái " oán " lên
cao ở chữ " ngộ " và chữ " triêu triêu " ( Triêu
triêu NGỘ thiếp kì ), rồi bộc phá ở 2 câu chót ( Tảo
tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi ). Ta thấy, tình yêu
nam nữ ở bất cứ thời đại nào cũng mãnh liệt vô cùng,
bị rào cản đạo đức của Nho giáo, nàng mệnh phụ chỉ
oán trách thôi, rồi cam chịu lạnh lẽo trong... nệm ấm chăn êm,
còn nàng " thương lái " nầy thì thực tế hơn,
nhân bản hơn, mãnh liệt hơn...nói lên tiếng nói của con
tim yêu đương cuồng nhiệt, xé rào Nho gia ở chữ " Tảo
tri " (sớm biết ) mà tôi đã rán dịch cho xác ý là
" Phải dè ".... Nhưng tựu trung, vẫn là để diễn tả cái
" oán " đã lên đến cực điễm, chớ vẫn chưa
dám "xé rào" thật ! . Vì, nước thủy triều thì
lên xuống đúng hẹn, nhưng " gả chèo đò " chưa chắc
đã về nhà đúng hẹn đâu ( mắc " đi nhậu " chẳng
hạn...)!!! . " Oán " thì nói " lẫy " thế thôi,
chứ lấy chồng thương buôn giàu có vẫn hơn là lấy anh
chèo đò để uống nước sông....cầm hơi à ?!
Qua 2 bài thơ xưa, chúng cũng thấy, đề tài " tình yêu
" là đề tài muôn thuở. Trời sanh ra nam nữ bình đẳng,
xã hội phát sinh ra đạo Nho, thành ra trọng nam khinh nữ, ức chế
tình yêu của nữ giới, nhưng có được đâu, nhu cầu
đòi hỏi, khao khát tình yêu vẫn thể hiện qua từng thời
đại. Giàu sang như anh lái buôn Cù Đường, quyền quý
như ông " Kim quy tế " mà lơ là trong tình yêu, thì vẫn
tạo nên tiếng " oán" như thường.....Mới biết tình yêu
mãnh liệt và vĩ đại biết bao nhiêu !!!......
Thơ Khuê oán, Cung
oán... trong Đường thi nhiều vô số kể, đây chỉ là 2
bài tiêu biểu, một quý tộc, một bình dân. Hai bài thơ
này HAY mà ít người biết đến ....
Hẹn lần sau ở đề
tài khác....
Đỗ
Chiêu Đức
_____________________________________________
Ý NGHĨA CÁC LOẠI TRANH TREO NGÀY TẾT
1. Về tranh CỬU NGƯ ĐỒ 九魚圖
: CỬU 九 là số Chín, lại đồng âm với từ TRƯỜNG
CỬU 長久 là lâu dài. NGƯ 魚 là Cá lại đồng
âm
với DƯ 餘 ( âm Quan Thoại ) là DƯ
DẢ, Có Thừa, lại vẽ chung với hoa sen là LIÊN HOA 蓮花, đồng
âm với LIÊN 連 là Liên Tục 連續, không gián đoạn.
Nên
Tranh Cửu Ngư
vẽ chung với hoa Sen, có nghĩa là : Luôn luôn sung túc dư dả
có thừa liên tục mãi mãi !
2. Tranh CÁ CHÉP : Tất cả các tranh cá đều
có nghĩa là " HỮU DƯ 有餘 "( do âm Quan Thoại DƯ 餘 và
NGƯ 魚 đồng âm ). Có Cá tức là Có Dư, Dư ăn dư
để. Tranh Cá còn mang 2 Ý chính sau :
* NHƯ NGƯ
ĐẮC THỦY 如魚得水 : Ta nói là " Như Cá gặp nước
!". Chỉ NHƯ Ý , THUẬN LỢI.
* NHƯ HÓA LONG
NGƯ 如化龍魚 : là Như Cá Hóa Rồng, chỉ sự đổi
đời, thay đổi hoặc thành công vượt bực.
Ngoài ra còn rất
nhiều loại tranh cá khác như :
* Ông Câu ôm con cá lớn với hàng
chữ : NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI chỉ trong năm sẽ được cái
lợi như của Ngư Ông, cái lợi nhẹ nhàng ít tốn nhiều
công sức như trong thành ngữ " CÁP BẠNG TƯƠNG TRANH, NGƯ ÔNG
ĐẮC LỢI. 蛤蚌相爭,漁翁得利。" Ta nói
là " Ngao Sò tranh nhau, ngư ông được lợi ". * Tranh các đứa bé ôm con cá, lấy Ý "
TỬ TÔN HỮU DƯ " , vừa có nghĩa " Con Cháu có Thừa "
vừa có nghĩa " Có thừa Con Cháu ! ". Tranh nầy thường
có hàng chữ " Niên Niên Hữu Dư 年年有餘 ". Có
nghĩa : Mỗi năm đều dư ăn thừa mặc.
3. TRANH HOA MẪU
ĐƠN :
Nhớ bài Học Thuộc Lòng
hồi nhỏ, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết :
... MẪU ĐƠN hương kín thơm xa,
Liễu rơi trước gió ngỡ là bướm bay...
Hương kín thơm xa, nên Mẫu Đơn được phong tặng là
PHÚ QUÝ CHI HOA ( Hoa tượng trưng cho sự Phú Quí ). Ngoài ra, Hoa
Mẫu Đơn còn được xem như là một loài hoa Vương Giả
Không Sợ Quyền Uy, theo tích sau đây :
Khi đã lên ngôi và
xưng là Châu Thiên Tử xong. Có một năm vào cuối đông
khi Tết gần kề, Võ Tắc Thiên thấy mai vàng trong cung đều nở
hoa rực rỡ, đang cơn tửu hứng, bèn cất bút viết lên một
đạo Thánh Chỉ của nhà Vua thành một bài thơ như thế
nầy để ra lệnh cho Chúa Xuân :
明朝遊上苑,火急報春知;
花須連夜發,莫待曉風吹。
Minh triêu
du Thượng UYển,
Hỏa tốc báo
xuân tri.
Hoa tu liên dạ phát,
Mạc đãi hiểu phong xuy !
Có
nghĩa :
Sáng mai ta du Thượng
Uyển,
Hỏa tốc báo
Chúa Xuân hay,
Hoa phải
nở liền đêm lạnh,
Trước khi gió sớm hây hây !
Nói
cũng lạ, sáng sớm hôm sau, Võ Tắc Thiên dẫn hết quần thần
ra Ngự Hoa Viên để ngắm hoa, thì tất cả các hoa đều nở
rộ trong đêm cả rồi, muôn hồng ngàn tía, sắc màu rực
rỡ khắp nơi. Võ Tắc Thiên rất đẹp Ý, duy chỉ có một
loài hoa không chịu nở, chính là Mẫu Đơn đó vậy !
Võ giận cho loài hoa dám không tuân chỉ, mới hạ lệnh nhổ
hết cả ngàn gốc Mẫu Đơn và ra lệnh đày xuống vùng
Mang Sơn của đất Giang Nam. Và..." Nói cũng lạ ", năm sau Mẫu
Đơn bén rễ và nở đầy cả đồi núi Giang Nam một
dãy...
Trở lại
với tranh hoa Mẫu Đơn, thường thì trên bức tranh luôn luôn
có kèm theo 4 chữ " HOA KHAI PHÚ QUÝ " nên không cần phải
giải thích nữa !
4.
Tranh HOA SEN :
SEN là LIÊN 蓮 đồng âm với
LIÊN 連 là Liên Tục. SEN cũng còn được gọi là
HÀ HOA chữ HÀ 荷 đồng âm với chữ HÒA 和, là Hòa
Thuận, Hòa Hợp.
Ngoài ra, SEN còn là biểu
tượng của người Quân Tử trong sạch thanh cao, do câu nói "
Liên xuất tự trọc nê, hữu Quân tử chi thanh đức 蓮出自濁泥,有君子之清德。Có
nghĩa : Sen mọc ra từ bùn sình dơ dáy, nhưng lại có cái
đức thanh cao của người quân tử. Nên...
Tranh SEN chỉ để tặng cho những
người làm các nghề thanh cao chính trực, như Nhà Văn, nhà
Giáo, nhà Báo, Luật Sư...
5.
Tranh TÙNG BÁCH :
TÙNG TRÚC MAI là " Tuế hàn tam
hữu " 歲寒三友. Cuối năm mùa đông lạnh lẽo, các
loại cây cỏ khác đều chết rụi cả, chỉ có 3 người
bạn TÙNG, TRÚC và MAI là còn xanh tốt và phát triển mà
thôi ! nên TÙNG BÁCH tượng trung cho sự bền bỉ, dẽo dai, chịu
đựng bất chấp thời tiết khắc nghiệt, vẫn vươn lên xanh
tốt như thường ! Ngoài ra, Tùng Bách còn có thân cây
to lớn, tán lá rộng rãi là nơi núp bóng và che
chở lí tưởng cho các thảo mộc thấp
hèn yếu đuối khác dễ " núp bóng tùng quân !".
Tranh TÙNG BÁCH thường có 4 chữ "
TÙNG BÁCH TRƯỜNG THANH " 松柏長青. Có nghĩa Tùng
Bách luôn luôn trường kì xanh tốt. Thích hợp để tặng
cho Khai trương , Tân gia, Chúc Thọ. Nếu Chúc THỌ thì chỉ thích
hợp tặng cho đàn ông, không thích hợp tặng cho các bà.
6. Tranh HOA
LAN :
LAN có nét đẹp thanh thoát, mểm mại,
đầy tính nghệ thuật. Hoa Lan lại có mùi hương thoang thoảng
nhẹ nhàng dễ làm say đắm ngất ngây lòng người. Chả
trách từ xưa cổ nhân đã ca ngợi : " Lan sanh ư u cốc, vi vương
giả chi hương 蘭生於幽谷為王者之香!Có
nghĩa : Hoa Lan sanh ra trong những sơn cốc thâm u, nhưng lại có mùi
hương của bậc vương giả ! Trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như
Hầu NGUYỄN GIA THIỀU cũng đã từng thương tiếc :
Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay !
Tranh Hoa Lan chỉ thích hợp dùng để trang trí phòng
khách, thư phòng... và chỉ thích hợp dùng để tặng cho
các Bà các Cô mà thôi !
7. Tranh RỒNG NGỰA HỔ :
RỒNG NGỰA là Long Mã, linh hoạt và
uyển Chuyển như Rồng, nhanh nhẹn và xông xáo như Ngựa. Hai con
vật : Một Huyền thoại, một thực tế tượng trưng cho sự hoạt
động mạnh mẽ liên tục không ngừng nghỉ, không chồn chân,
không lười biếng. Đó là cái tinh thần của Long và Mã.
Các công ty, công xưởng, khi khai trương hoặc khi nghỉ Tết vào
thường hay dán câu " LONG MÃ TINH THẦN " ở nơi làm việc
và sản xuất để nhắc nhở nhân viên, công nhân phải
làm việc lại với cái tinh thần xông xáo như rồng như ngựa
vậy !
Về TRANH thì... trừ phi những người tuổi
Thìn, hoặc tuổi Dần thì mới tìm mua tranh Rồng và Cọp, còn
bình thường thì không ai dại gì rước CỌP về nhà,
càng không có ai dám tặng CỌP cho người khác, nhất là
lại vào dịp Tết nhất. CỌP là dã thú hung ác không thích
hợp để treo và tặng. Nhưng nếu lỡ... có một bức tranh cọp
trong nhà, thì nhớ treo làm sao cho cái đầu cọp hướng ra ngoài,
để
cọp... giữ nhà, chớ treo cọp quay đầu
vào, nó sẽ... cắn hết những người trong nhà đó ! Tranh
vẽ cọp thường có 4 chữ : KHIẾU CHẤN SƠN HÀ 嘯震山河.
Có nghĩa : Tiếng gầm thét vang động cả núi sông ! để
chỉ cái Uy Vũ của Chúa Sơn Lâm.
Tranh RỒNG, nếu có treo và tặng cho ai, thì cũng thường
thấy 4 chữ " VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍。" Có
nghĩa : Ước mong cho con cháu mình, hoặc chúc cho con cháu người
có được thành tựu vượt bực, trở mình hóa thân
thành rồng !
Ngựa là tranh thường thấy nhất, 2 con, 4 con, 6 con, hoặc 8 con gọi là
Bát Tuấn Đồ. Dễ tặng dễ treo vì luôn có 4 chữ MÃ
ĐÁO THÀNH CÔNG 馬到成功, không cần phải giải thích
mà ai nấy đều thích, đều mua, đều tặng, đều treo...nhan
nhản khắp nơi ! .
8. TRANH DÊ.
MÙI : Đứng hàng thứ 8 trong Thập nhị
Địa Chi, cầm tinh con DÊ, từ Hán Việt là DƯƠNG 羊, đồng
âm với DƯƠNG 陽 là Thái Dương, là Dương Khí sanh
ra từ trời đất.
Theo sách Chu Dịch. Sau tiết
Đông Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và
khí dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các
Thầy Bói gọi là ÂM TIÊU DƯƠNG TRƯỞNG, đêm sẽ ngắn
dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng
TÝ, thuộc quẻ Phục 復 là NHẤT DƯƠNG SANH, Tháng Mười
Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là NHỊ DƯƠNG SANH, và
Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ THÁI 泰 là TAM DƯƠNG
SANH. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng
câu TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm
mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ THÁI là LỚN, là
THÔNG, như trong tiếng Việt ta thường nói " Hết vận Bỉ rồi
thời lại Thái ", hoặc " Bỉ cực thì THÁI lai " và
" Hết cơn BỈ CỰC, đến hồi THÁI LAI ". Có nghĩa : Hết
lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá
giả.....
Vì
2 chữ DƯƠNG đồng âm, nên ta thường gặp những bức
tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí dương của trời đất
mà chúc nhau bằng câu TAM DƯƠNG KHAI THÁI như ta thường thấy
!
Tranh
DÊ rất thích hợp tặng nhau trong dịp Tết, để chúc cho đầu
năm mở ra vận hội mới lớn hơn, phát đạt hơn năm rồi
!.
9. LIỄN TREO, CÂU ĐỐI :
Liễn treo và Câu đối ngắn
để chúc Tết thì nhiều vô số kể ! Tiêu biểu như :
NGHINH XUÂN TIẾP PHÚC 迎春接福 :
Đón Xuân đón luôn Phước vào nhà.
HOA KHAI PHÚ QUÝ 花開富貴 : Hoa nở tượng trưng cho sự phú
quí của gia đình.
TRÚC BÁO BÌNH AN
竹報平安 : Tre Trúc luôn xanh tốt trong mùa đông như đem
lại bình an cho mọi người.
MAI
KHAI NGŨ PHÚC 梅開五福 : Hoa mai nở 5 cánh như mang đến 5
cái phước cho gia đình ( 5 cái phước đó là : Thọ,
Phú, Khang ninh, Du hảo đức và Khảo chung mệnh. 五福 是 : 寿,富,康寜,攸好德,考终命。Sống
lâu, giàu có, mạnh khỏe, được tiếng tốt và chết an
lành. Đó là 5 cái phước mà mọi người đều mong
mõi. )
TRÚC BÁO TAM ĐA 竹報三多
: Một chi nhỏ của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm
báo mang đến 3 cái nhiều ( Tam Đa ) mà người ta thường mong
mõi. Đó là : Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三多 是:多福,多寿,多男子。Nhiều
phước, nhiều thọ, nhiều con trai.
VẠN
SỰ NHƯ Ý 萬事如意, AN KHANG THỊNH VƯỢNG 安康盛旺,
CUNG CHÚC TÂN XUÂN 恭賀新禧 ....
Đặc biệt năm Dê, thịnh hành thêm
câu : TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 !
GHI CHÚ :
Xin được
nói thêm về 3 chữ " Nói cũng lạ "....
Sau khi lở " ra Lệnh " cho Chúa Xuân bắt hoa phải nở suốt đêm
để ngày mai mình đi ngắm hoa xong , thì Võ Tắc Thiên cũng
ngầm ... ra lệnh luôn cho những người trồng hoa trong vườn Thượng
Uyển với sự phối hợp của Quân đội dùng vải căng lều
để căng lều cho tất cả những nơi trồng hoa trong vườn. Đoạn
cho nổi lửa nấu nhiều nồi nước khổng lồ trong vườn Thượng
Uyển để tạo một luồn noãn lưu ấm áp khắp nơi, nhờ
thế các hoa như ở trong các greenhouse ấm áp của mùa đông
ở MỸ hiện nay... Nhờ thế các loài hoa mới nở kịp cho bà
ta ngắm, và bà ta mới có dịp diệu võ dương oai với quần
thần để chứng tỏ cái Chơn Mạng Thiên Tử của mình !
Đây cũng là cái cơ trí hơn người
của Võ Tắc Thiên, chả trách bà ta là Nữ Hoàng Đế
duy nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại.
Đỗ
Chiêu Đức
Đầu năm Khai Bút :
CÂU ĐỐI CHO NĂM ẤT MÙI
ẤT MÙI
: ẤT thuộc hướng Đông, hành Mộc, màu xanh. MÙI : Đứng
hàng thứ 8 trong Thập nhị Địa Chi, cầm tinh con DÊ, từ Hán Việt
là DƯƠNG 羊, đồng âm với DƯƠNG 陽 là Thái Dương,
là Dương Khí sanh ra từ trời đất.
Theo sách Chu Dịch. Sau tiết Đông Chí
thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương
thì bắt đầu sanh trưởng, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ
dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng TÝ, thuộc
quẻ Phục 復 là NHẤT DƯƠNG SANH, Tháng Mười Hai là Tháng
Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là NHỊ DƯƠNG SANH, và Tháng Giêng
là Tháng Dần, thuộc quẻ THÁI 泰 là TAM DƯƠNG SANH. Vì
thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng câu
TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm mới
mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ THÁI là LỚN, là THÔNG,
như trong tiếng Việt ta thường nói " Hết vận Bỉ rồi thời
lại Thái ", hoặc " Bỉ cực thì THÁI lai " và " Hết
cơn BỈ CỰC, đến hồi THÁI LAI ". Có nghĩa : Hết lúc
Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả.....
Vì 2 chữ DƯƠNG đồng âm, nên ta
thường gặp những bức tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí
dương của trời đất mà chúc nhau bằng câu TAM DƯƠNG KHAI
THÁI như ta thường thấy !
Nương theo Ý trên, Đỗ Chiêu Đức có 2 câu đối để
Khai Bút cho năm con DƯƠNG...DÊ 2015 như sau :
1. TAM DƯƠNG KHAI THÁI KIM NIÊN THÁI,
三 陽
開 泰 今 年
泰,
NGŨ PHƯỚC LÂM MÔN THỬ
TUẾ LÂM.
五
福 臨 門 此
歲 臨。
Có nghĩa
:
Ba cái khí dương mở ra cái vận
lớn, năm nay sẽ thắng lớn.
Năm cái
phước đến cửa, năm nay cũng sẽ vào nhà luôn !
2. NGŨ PHƯỚC TỰ THIÊN HÂN TUẾ KHỨ,
五 福 自 天
欣 歲 去,
TAM DƯƠNG TÒNG ĐỊA KHÁNH XUÂN LAI.
三 陽 從
地 慶 春 來。
Có nghĩa :
Ngũ phước là do trời
ban cho, mừng là một tuổi nữa đã đi qua !
Tam dương là từ đất sanh ra, vui là lại được đón
thêm một mùa xuân đến nữa !
NGŨ PHƯỚC : là 5 cái phước mà mọi
người ao ước, đó là : Phú, Thọ, Khang ninh, Du hảo Đức,
Khảo chung mệnh ( Giàu, Sống lâu, Mạnh khỏe, Nổi tiếng
là có Đức và Chết một cách an lành ! )
Hai câu đối nầy đã
được viết ra và được trang trí bằng màu hường
thật bắt mắt, và... đã được tặng cho NGƯỜI GIỮ
VƯỜN của trang WEB. PTG&ĐTĐ là Nhà Văn, Nhà Thơ, Nhà
Giáo TRẦN BANG THẠCH hôm chiều 29 TẾT để trang trí phòng khách
đặng... ĂN TẾT với con cháu !( Xem hình 2 câu đối ở đầu
bài viết nầy )
Bàn ăn tết tại phòng
khách NGV với 2 câu đối của Ông Đổ ĐCĐ
Kính chúc NGƯỜI
GIỮ VƯỜN của trang WEB. trường nhà có được một cái
TẾT tuyệt vời bên cạnh con cháu và bên cạnh người BẠN
ĐỜI cũng tuyệt vời nhất... xứ MỸ !
Đỗ
Chiêu Đức
___________________________________________________________________________________________________________________________________________
Đầu năm đọc thơ Đường:
LINH LĂNG TẢO XUÂN
零 陵 早 春
Sáng nay, Mồng
một Tết, nhưng lại là ngày Thứ Năm, mọi người đều
đi làm cả. Đường phố trong khu nhà ở bên MỸ nầy vốn
dĩ đã vắng lặng, hôm nay lại càng cảm thấy vắng lặng
hơn !
Ngồi
trước máy computer, nhìn qua cửa sổ, tự dưng nghe lòng dâng lên
một niềm cảm xúc, nỗi cảm xúc của một tâm trạng xa quê,
cảm thấy như mất đi cái gì đó mà biết chắc là
sẽ không bao giờ tìm lại được..... Giở quyển " Đường
thi tam bá thủ " 唐詩三百首, tình cờ làm
sao lại đọc được bài thơ
" Linh lăng tảo xuân "
của Liễu Tông Nguyên, ( 柳宗元 ) càng
xúc động thêm với nỗi niềm quê hương cố thổ.... Xin
chép và dịch lại để cùng chia xẻ với tất cả đồng
hương đang tha hương đất khách .....
LINH LĂNG TẢO XUÂN
零 陵 早 春
Vấn xuân tòng thử khứ ,
問 春 從 此 去,
Kỷ
nhật đáo Tần Nguyên ? 幾 日 到 秦 原 ?
Bằng ký hoàn hương mộng, 凭 寄 還 鄕 夢,
Ân cần nhập cố viên !
殷 勤 入 故 園 !
Dịch nghĩa :
Hỏi Xuân rằng, từ đây đi, thì mấy ngày Xuân mới đến
được xứ Tần Nguyên. Cho ta gởi theo cái " mộng hoàn
hương ", ân cần về tận quê nhà.( Chứ đang ở nơi
xa xôi nầy, ta sẽ không sao về nhà trong mùa xuân nầy được
! ).
Chú thích :
Linh Lăng là
một địa danh ở miền Nam, còn Tần Nguyên thì ở miền Bắc.
Ở miền Nam ấm áp thì mùa xuân đến sớm hơn, còn miền
Bắc lạnh lẽo nên nàng xuân sẽ đến muộn hơn.
Vì tâm trạng quá xúc động , nên tôi diễn nôm 2 bài,
1 bằng thơ 6 chữ, và 1 bằng thơ Lục Bát, như sau...
Thơ sáu chữ
Hỏi Xuân từ đây giả biệt
Bao giờ mới đến Tần Nguyên
Ta gởi mộng hồn tha thiết
Ân cần về tận cố viên
Thơ
Lục Bát
Từ đây giả biệt, hỏi Xuân
Bao
giờ mới đến xứ Tần Nguyên ta
Gởi
lòng theo mộng thiết tha
Ân cần về tận quê nhà xa xăm !
Thấy xuân đến, chạnh
lòng nhớ quê mà gởi cái " mộng hoàn hương ", ân
cần nhờ mùa xuân mang về tận quê nhà, đây quả là
một lối gởi đặc biệt hàm xúc và tuyệt vời biết bao
!
Mặc
dù, chúng ta đang ở đất Bắc ...Mỹ, và mặc dù Mỹ
đi sau hơn Việt Nam đến mười hai tiếng đồng hồ, nhưng sao
ta vẫn thấy nao nao mỗi độ xuân về, cứ lo cho quê hương chưa
có mùa xuân! Nhưng có biết đâu rằng chính chúng
ta đây mới là những kẻ khao khát mùa xuân, và chỉ hoài
niệm, rồi nuối tiếc đi tìm những mùa xuân trong quá khứ.....
Đầu Xuân,
gởi chút mộng lòng tha thiết về với quê hương......
Đỗ
Chiêu Đức
Mùng 1 TếT Ất Mùi
2015
Đính kèm :
Bản
viết tay bằng bút lông bài LINH LĂNG TẢO XUÂN hồi 42 năm trước
(1973), khi tôi còn là anh Binh Nhất của Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính
Trị Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa.
LIỄN DÁN CÁC BÀN THỜ
Hằng
năm cứ đến ngày đưa ÔNG TÁO về trời là sau khi cúng
tiễn TÁO QUÂn xong, thì tất cả chưn nhang đều được nhổ
ra, chỉ chừa lại 3 cây trong lư hương mà thôi, còn lại thì
thiêu hóa chung với giấy tiền vàng bạc và giấy cò bay ngựa
chạy để theo ông Táo về trời, kể cả đôi liễn dán
hai bên bàn thờ ông Táo cũng thế. Và không riêng gì bàn
thờ ông Táo mà tất cả bàn thờ trong nhà cũng vậy ! Dẹp
hết để chưn nhang khỏi đùn quá cao, vừa mất mỸ quan vừa
dễ gây hỏa hoạn. Sẵn làm vệ sinh lau chùi khảm thờ cho sạch
sẽ, rồi... dứt luôn nhang khói...
Mãi
cho đến tận chiều ba mươi Tết, khi cúng rước Ông Bà
về ăn Tết với con cháu, thì mới dán liễn mới lên để
đón Giao Thừa và tiếp tục nhang khói như thường lệ.
Công việc
của tôi hàng năm là tân trang và viết lại các đôi
liễn mới nầy. Nào, ta bắt đầu từ trước sân nhà nhé.
Một cây cột lửng được đóng giữa sân, trên gát
một miếng ván vuông hoặc chữ nhật, có lư hương nhỏ
hoặc một cái lon sửa bò đổ đầy cát để cắm nhang.
Những nhà khá hơn thì cột được xây bằng gạch tiểu,
trên gác một miếng gạch Tàu đo đỏ, còn nhà cửa khang
trang hoặc phố chợ thì bàn thờ ÔNG THIÊN được đặt
sát bên trái hoặc bên phải của cửa ra vào... Nhưng dù
như thế nào thì trên bài vị hoặc trên thân cây cột
để bàn thờ đều phải có 4 chữ : THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC
天官賜福, có nghĩa các vị quan trên trời sẽ ban phát
phước lành xuống cho gia chủ.
Thường thì chỉ đổi mới
4 chữ THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC mà thôi, vì bàn thờ Ông Thiên
bình dân thông thường không có câu đối, chỉ có nhà
giàu hoặc ở các Đạo Quan, bàn thờ Ông Thiên lớn hơn,
nên mới có câu đối 4 chữ như sau :
吉庆有余, Kiết khánh hữu dư,
受天百祿. Thụ thiên bách lộc.
Có nghĩa :
Điều
lành điều tốt có thừa,
Hưởng nhận trăm lộc của trời ban.
Bên
dưới ngay cửa đi vào là bàn thờ Thổ Địa. Bước
vào phòng khách thì ở bên trong ngay lối vào là bàn thờ
của Thần Tài xây mặt ra cửa cái. Thường thì Thổ Địa
và Thần Tài được thờ chung ở nơi đây, nên bài
vị thường viết là :
Ngũ phương ngũ thổ long thần, 五方五土龍神,
Tiền hậu địa chủ tài thần. 前後地主財神.
Bên trên khảm
thờ là 3 chữ TỤ BẢO ĐƯỜNG 聚寶堂, câu đối
2 bên thường là như thế nầ :
Kim chi sơ phát diệp, 金枝初發葉,
Ngân thọ chánh khai hoa. 銀樹正開花。
Có nghĩa :
Cành vàng vừa trổ lá,
Cây bạc lúc ra hoa.
Hoặc là câu đối thật hay lấy từ bài Đằng
Vương Các Tự của VƯƠNG BỘT đời Đường như sau
:
Vật hoa thiên bảo nhật, 物華天寶日,
Nhân kiệt địa linh thời. 人傑地靈時。
Có nghĩa :
Đây là những ngày vật đẹp như là tinh hoa báo vật
của trời.
Cũng là lúc đất
đai linh hiển nên sinh ra người giỏi ( hào kiệt ).
Đó là bàn thờ
Thần tài Thổ Địa ở trong nhà, còn nếu là Miếu thờ
Thổ Địa hoặc Thổ Thần cho cả làng xóm thì câu đối
liễn sẽ hay hơn. Sau đây là liễn dán miếu Thổ Thần :
THỔ Vượng
nhân tòng vượng, 土旺人從旺,
THẦN an trạch tự an. 神安宅自安。
Có nghĩa :
Đất có
vượng thì người sẽ vượng theo,
Thần có yên thì người tự nhiên cũng sẽ yên.
Và... Sau đây là liễn thờ
miếu Thổ Địa :
THỔ năng sanh bạch ngọc, 土能生白玉,
ĐỊA khả xuất hoàng kim. 地可出黃金。
Có nghĩa :
Đất có
thể sanh ra ngọc trắng,
Đất
cũng có thể cho ra vàng ròng.
Bạch Ngọc là Ngọc
Trắng, một loại đá quí. Bạch Ngọc còn có thể hiểu
đó là hạt gạo trắng tinh như Ngọc dùng để nuôi sống
con người ! Và...
Hoàng Kim là Vàng ròng, kim
loại quí, Nếu biết siêng năng trồng trọt canh tác thì : "
Tất đất sẽ cho Tất Vàng " như chơi !
Tùy
theo gia đình, thường thì phía trên cùng của phòng khách
là nơi thờ Thần Thánh, nếu nhà có lầu thì thờ ở
trên lầu trong căn phòng phía trước. Các Vị Thần Thánh
được thờ thường là Bà Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật
Tổ Như Lai, nhưng thông thường nhất là Bàn Thờ ÔNG, ÔNG
ở đây là Ông QUAN CÔNG, tức QUAN VÂN TRƯỜNG thời Tam Quốc.
Năm nào tôi cũng phải lau chùi quét dọn
và viết lại bộ liễn của Bàn Thờ Ông. Bộ liễn khá
bài bản và nghiêm trang như sau : Phía trên cùng của khảm thờ
là 2 vòng tròn giấy đỏ trên viết 2 chữ CHÍNH KHÍ 正氣
để chỉ cái khí tiết chính trực của Quan Công, phía dưới
2 chữ Chính Khí là 4 chữ TRUNG TÂM QUÁN NHẬT 忠心貫日,
có nghĩa : Lòng trung thành vằng vặc như mặt trời. Liễn 2 bên
thì như vầy :
Chí tại
Xuân Thu công tại Hán,
志在春秋功在漢,
Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng thiên. 忠同日月義同天。
Có nghĩa :
Chí thì như ở đời Xuân Thu( muốn làm nên nghiệp lớn
), nhưng công thì ở đời Hán.
Lòng trung thành như mặt trăng mặt trời, còn nghĩa thì cao tợ
trời.
Một đôi
liễn thường thấy ở Bàn Thờ Ông nữa là :
Thiên
thu nghĩa dõng vô song sĩ, 千秋義勇無雙士,
Vạn cổ tinh trung đệ nhất
nhơn. 萬古精忠第一人。
Có nghĩa :
Cái nghĩa khí
và vũ dũng ngàn năm không có được 2 người,
Lòng trung thành tuyệt đối muôn đời là người số 1
duy nhất.
Hai
người đứng 2 bên Quan Công, người râu rìa mặt đen là
Châu Thương cầm Thanh Long Yễm Nguyệt Đao, người mặt trắng đẹp
trai là Quan Bình, ta bưng cái ấn Hớn Thọ ĐÌnh Hầu. Theo dị
đoan thì lưỡi của Thanh Long Yễm nguyệt Đao phải xây về hướng
nước ròng, tức là phải chém ngược dòng nước.
Dưới
các khảm thờ của Thần Thánh mới là bàn thờ Tổ Tiên.
Bàn thờ Gia Tiên thường đặt một hoặc nhiều bài vị
của Tổ Tiên các đời, phía trên thường thấy 3 chữ ĐỨC
LƯU PHƯƠNG 德流芳. Chữ LƯU 流 là Chảy, là Dòng
Chảy, chứ không phải LƯU 留 là GIỮ, là ĐỂ Lại. Nên
có nghĩa là : Cái ĐỨC phải sống động như dòng chảy
tỏa mùi hương từ đời nầy sang đời khác, tức là
muốn con cháu các đời đều phải TÍCH ĐỨC, chứ không
phải chỉ trông chờ để hưởng cái ĐỨC của ông bà
để lại. Vì hễ cái gì LƯU để lại thì cũng phải
có ngày khánh kiệt, như gia tài chẳng hạn, ĐỨC cũng vậy,
để ĐỨC lại cho con cháu mà con cháu không biết TÍCH ĐỨC
thì ĐỨC đó cũng sẽ bị hao mòn khánh kiệt mà thôi
!. Bên dưới 3 chữ ĐỨC LƯU PHƯƠNG là 4 chữ CỮU HUYỀN
THẤT TỔ. Hai bên của 4 chữ CỬU HUYỀN THẤT TỔ là 2 câu đối.
Có lần tôi đọc
được đôi câu đối thật hay trong gia đình của một
người bạn ở Nhơn Ái, thuộc huyện Phong Điền như sau :
Kính
thất tổ thiên niên bất tận,
敬七祖千年不盡,
Trọng cửu huyền nội ngoại tương đồng. 重九玄內外相同。
Có nghĩa :
Lòng kính trọng Thất Tổ
ngàn năm không dứt,
Tôn trọng Cửu Huyền
của 2 bên nội ngoại như nhau.
Có người hỏi : CỬU HUYỀN
THẤT TỖ chỉ những AI, gồm những AI ?!. Xin thưa :
CỬU HUYỀN THẤT TỔ gồm 9 đời
Con Cháu và 7 đời Cha Ông, như sau :
CỬU HUYỀN là :
Tử, Tôn, Tằng, Huyền, Lai, Côn, Nhưng, Vân, Nhĩ.
九玄 : 子、 孫、 曾、 玄、
來、 昆、 仍、 雲、 耳 .
THẤT TỔ là :
Phụ, Tổ, Tằng, Cao, Thái, Huyền, Hiễn.
七祖 : 父、祖、
曾、 高、 太、 玄、 顯 .
Cuối cùng, ở phía sau nhà, nơi bếp nút củi lửa là bàn
thờ ông Táo. Ta còn gọi là Thần Bếp, Vua Bếp, Táo Quân...
Bên trên bàn thờ là 4 chữ : NGŨ KỴ CHI THỦ 五祀之首,
hai bên là đôi liễn mà tôi đã có dịp trình bày
trong bài TỐNG TÁO THI là :
有德能司火,
Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp
nút được.
Phải CHÍ CÔNG
VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời ( để trình tấu
mọi việc ).
NGŨ KỴ
: là 5 chỗ cần phải cúng tế ở trong nhà, đó là : MÔN,HỘ
là Cổng, cửa ( nơi ra vào ), TỈNH, TÁO là Giếng, Bếp ( nơi
ăn uống ), TRUNG LƯU là phần giữa nhà ( nơi ngủ nghỉ ). Xưa
thì cho rằng CỔNG là nơi đứng đầu cần phải cúng tế,
nhưng sau với khuynh hướng' Dĩ thực vi thiên ", thì Bếp đứng
đầu, nên bàn thờ Táo Quân mới có được 4 chữ
" NGŨ KỴ CHI THỦ " là vì thế !
Đỗ
Chiêu Đức
_________________________________________________________________________________________________________________________________________
TỐNG TÁO THI
Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp,
thì dân Việt Nam ta có tục lệ cúng tiễn đưa Ông Táo
về trời, người Hoa thì cúng vào đêm 24. Theo câu nói của
dân gian là " Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ ", có nghĩa là
: Làm quan thì đưa ông Táo ngày 23, dân thì đưa ngày
24, còn những người đi ghe theo cuộc sống thương hồ thì đưa
ông Táo ngày 25.
Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần
cúng tế. Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường
cúng tiễn Táo Quân bằng " thèo lèo ", bánh mức, chè
Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm
theo các hình cò bay ngựa chạy. Ý là để cho ông Táo
cởi ngựa cởi cò về trời ( trong văn học thì cho là cởi
cá Chép ), còn " thèo lèo " bánh mức... là để
ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc
Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông
Táo đang cư ngụ....
Nhớ lúc
nhỏ, khi gần Tết , tôi đã đọc được một bài thơ
" Tống Táo Thi " 送 竈 詩 trên báo để tiễn đưa
ông Táo như sau :
送 竈 詩
TỐNG TÁO THI
麥芽糖餅餞行蹤,
Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。
Bái chúc dương si thả tác lung.
只有一般應開口,
Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。
Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
CHÚ THÍCH :
1. Đường Bỉnh : là Kẹo
bánh. Đường là Đường, mà cũng là Kẹo nữa.
2. Dương : là Giả đò. Tác : là Làm, ở
đây có nghĩa là Làm bộ.
3. Si : là Ngây, là
Dại. Lung : là Điếc.
4. Nhất ban : là Mạo từ
( Article )chỉ : Một Điều, Một Cái.
5. Nhất niên : là
Cả năm, suốt năm, chớ không phải MỘT NĂM.
DỊCH NGHĨA :
Mạch nha, Kẹo,
bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và
chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm
cho ( đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi ). Chỉ
có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm phiền
ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả
năm vậy ?!
DIỄN NÔM :
THƠ
TIỄN ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo bánh
tiễn chân ông,
Lên đó giả
ngây giả điếc dùm.
Chỉ có
một điều nên mở miệng,
Rằng
ta nghèo suốt một năm ròng !
Đỗ Chiêu Đức.
TÁI BÚT :
Xin được
nói thêm về 2 chữ THÈO LÈO.
THÈO LÈO là
phát theo âm Triều Châu của 2 chữ TRÀ LIỆU 茶料 : là
Những Vật Liệu dùng để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây
là chỉ những món đồ ngọt như : Kẹo Đậu Phọng, Kẹo
mè đen, mè trắng, cốm, và những viên đậu phọng được
áo một lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là " Cứt
Chuột ".
" Thèo Lèo Cứt Chuột " là
món ngon dùng để uống trà và là món không thể thiếu
khi cúng ông Táo ở quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán,
Phong Điền...
Nhân nói đến thơ đưa Ông Táo, ta không thể không nhắc
đến bài " Tống Táo Thi " của Lữ Mông Chính, người
mà trong " Hàn Nho Phong Vị Phú " Nguyễn Công Trứ đã viết
như thế nầy :
....
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cởi dù
che. ...
Sau đây, ta thử tìm hiểu cuộc đời nghèo khó và bài
thơ đưa ông Táo nổi tiếng của ông nhé !...
呂蒙正(944或946-1011),字聖功,河南洛陽人,977年宋太宗丁丑科狀元。呂蒙正中狀元後,曾任將作監丞、通判、著作郎、左補闕、參知政事等官銜。988年,呂蒙正出任宰相,病逝於大中祥符四年(1011年),享年67歲
.
LỮ MÔNG CHÍNH ( 944 & 946- 1011 ), Tự
là Thánh Công, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu
Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi
đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ các chức vụ
Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính
Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại
Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng thọ 67 tuổi.
Sau
khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi . Lữ Mông Chính cùng mẹ
phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin
độ nhật.
Một hôm, thấy trước
cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất
náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì
đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì
ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga đang
gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng
Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên
lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn
sự nầy, nhưng tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp
nhận từ bỏ tất cả để đi theo Lữ về sống ở lò
gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn
nữa không thể bội tín được.
Cuối
năm đó, đến ngày đưa ông Táo, không hiểu là Lữ
Mông Chính đã năn nỉ như thế nào mà ông hàng thịt
bán chịu cho một miếng thịt đem về luộc để cúng ông
Táo. Nhưng khi bà hàng thịt biết được việc nầy bèn
mắng cho ông chồng một trận nên thân : " Nó nghèo kiết
xác, làm sao có tiền trả mà bán chịu ?!". Bà ta tức
tốc chạy đến lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc dở
dang trên bếp, bèn hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt
đem về !. Đến nước nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước
luộc thịt vào tô mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp
hương để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái
nghèo khó của mình và cũng cảm khái trước cái nhân
tình thế thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn
Ông Táo sau đây :
一柱清香一縷煙, Nhất trụ
thanh hương nhất lũ yên,
灶君今日上朝天;
Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
玉皇若問人間事,
Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。
Vị đạo văn chương bất trị tiền !
DỊCH NGHĨA
:
Một nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn khói
nhẹ, hôm nay ta đưa tiễn Táo Quân về để chầu Trời. Nếu
như Ngọc Hoàng có hỏi đến chuyện của dân gian, thì xin
ông hãy vì ta mà đáp rằng, văn chương không đáng
giá đồng xu cắc bạc nào cả !
DIỄN NÔM :
Một
nén nhang thanh làn khói nhẹ,
Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy
đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Đỗ Chiêu Đức.
Câu chót của
bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu Trời của Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu :
" Văn chương hạ giới rẻ như bèo ! "....
Trở lại chuyện
của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
....Năm đó, sau khi Táo của các nhà đã báo cáo xong,
mà đợi mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch nơi Lữ
cư ngụ. Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo của
Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch vào
chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả lời
rằng : " Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc dở
dang chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng nên
đi không nổi. ", đoạn trình bài thơ của Lữ lên cho Ngọc
Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu Trạng
Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá ! Thần Táo mới năn nỉ
rằng : " Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa sau đâu,
thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương
tình. Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ
đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính mới đậu
được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 là vậy !
... Trên đây là
theo truyền Thuyết dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành
công của người đàn ông, thường có bóng dáng của
một người đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu
đạt của Lữ Mông Chính, có tới bóng dáng của 2 người
đàn bà lận : một là Lưu tiểu thơ, 2 là bà Tể Tướng
phu nhân, vì thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ
vật chất cho con và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm
mà dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức
mà học hành để đậu Trạng Nguyên cho được !
Đây là
ông Tể Tướng xuất thân từ khất cái duy nhất của lịch
sử Trung Hoa : Lữ Mông Chính.
Nói đến thơ
đưa tiễn Ông Táo thì cũng không thể không nhắc tới...
LA ẨN 羅隱(833-909,Tự
là Chiêu Gián, người đất Tân Thành ( thuộc trấn Tân
Đăng, thành phố Phú Dương, tỉnh Chiết Giang ngày nay ). Ông
vốn tên là HOÀNH 橫, vì từ năm 20 tuổi bắt đầu đi
thi Tiến Sĩ, nhưng 10 lần vẫn không đậu, nên mới đổi tên
là LA ẨN và đi tu theo đạo Lão, là một học giả thuộc
Đạo Gia ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại.
Thơ ông thường mang tính hiện thực, bất cần đời, nổi
tiếng với các câu như :
今朝有酒今朝醉,
Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明日愁來明日憂。 Minh nhựt sầu lai minh nhựt
ưu.
Có nghĩa :
Hôm
nay có rượu thì hôm nay say,
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy ưu sầu !
Ông cũng có một bài
Tống Táo Thi giống như là của LÃ MÔNG CHÍNH đã nêu
ở trên, như sau :
一盞清茶一縷煙, Nhất trản
thanh trà nhất lũ yên,
灶君皇帝上青天。 Táo
quân hoàng đế thượng thanh thiên.
玉皇若問人間事,
Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。
Vị đạo văn chương bất trị tiền !
CHÚ THÍCH :
NHẤT TRẢN : là Một Chung. TRẢN là Ly, Chén
nhỏ.
TÁO QUÂN HOÀNG ĐẾ : Là Ông Hoàng
Đế ở trong Bếp mà ta quen gọi là VUA BẾP.( Xuất xứ của
từ VUA BẾP là do câu thơ nầy mà ra ).
DIỄN NÔM :
Một chén trà thơm làn khói nhẹ,
Chầu Trời Vua Bếp đến cửa thiên.
Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Ta thấy, chỉ có 2 câu đầu là hơi khác, còn 2 câu sau của
bài thơ thì giống y chang như là bài Tống Táo Thi của
Lữ Mông Chính, và không cần phải nói ta cũng biết là
Lữ đã mượn thơ của La Ẩn để cảm khái cho hoàn
cảnh của mình, vì LA lớn hơn LỮ đến 111 tuổi lận, LA ở
cuối đời Đường còn LỮ ở đầu đời Tống.
Để kết thúc
bài viết nầy, xin mời cùng đọc câu đối hay và nổi
tiếng thường thấy dán cho bàn thờ TÁO QUÂN như sau :
有德能司火, Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。
Vô tư khả đạt thiên.
Có
nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có
thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời
( để trình tấu mọi việc ).
Như vậy là cái TIÊU CHUẨN để được
làm ông Táo đâu phải dễ. Năm mới vui xuân, mong rằng mọi
người rán tích đức để tương lai đều được
lên CHẦU TRỜI như ông TÁO vậy !
Đỗ
Chiêu Đức
__._,_.___
LIỄN...KHỐNG
Hôm nay, tôi xin kể
hầu Quí Thầy Cô và Các Bạn
hữu thân mến câu chuyện về
một loại Liễn Tết đặc
biệt : LIỄN KHỐNG, một loại
Liễn... không có chữ nào cả !
Trước tiên, Tôi xin phép được
nhắc lại các từ sau đây :
* Chữ AN 安
là Yên, Bình an là bình yên, đó là Hình dung từ.
Còn khi là Nghi vấn từ, thì chữ
AN có nghĩa là : Làm sao, như thế nào ? Ví
dụ :
An năng 安能 : nghĩa là Làm sao được,
làm sao có thể.
* Chữ HẢO 好 là Tốt
( tính từ ). Nhưng khi là Nghi vấn
từ, thì có nghĩa giống như chữ
AN. Ví dụ :
Hảo bất 好不 có nghĩa là
: Sao mà khỏi, làm sao cho khỏi.
Bây giờ thì ta vào truyện nhé ! Như tôi
đã từng nói về Giang Nam Tứ Tài
Tử ở trên mạng nầy một
lần rồi, không biết có bạn
nào còn nhớ không ? . Nổi tiếng
nhất là Đường Bá Hổ, kế
đến là Chúc Chi Sơn, Văn Trưng
Minh và Châu Văn Tân ( có sách nói là Từ
Trinh Khanh ). Tất cả 4 người đều
là GIẢI NGUYÊN của xứ Giang Nam và
đều rất giỏi về cầm
kì thi họa, nên mới được xưng
tụng là GIANG NAM TỨ TÀI TỬ. Kỳ
nầy, tôi chỉ nói về
Chúc Chi Sơn 祝枝山 mà thôi !
Chúc Chi Sơn và
Tạo hình Chúc Chi Sơn trong phim " TỨ ĐẠI THIÊN TÀI
"
Chúc Chi Sơn ( 1460 - 1526 ), tên là DOÃN MINH, tự
là HY TRIẾT, vì bàn ta phải dư
ra một ngón nên mới có biệt hiệu
là CHI CHỈ SANH 枝指生 ( nghĩa là : Ngón
tay mọc thêm ), gọi mãi thành CHI SANH, rồi
gọi trại thành CHI SƠN và chết
tên luôn là CHÚC CHI SƠN 祝枝山. Ông
người xứ Trường Châu tỉnh
Giang Tô ( TÔ CHÂU ). Xuất thân từ một
gia đình danh nho vọng tộc, rất giỏi
về thư pháp, ông viết được
nhiều kiểu chữ và viết
rất đẹp, nhất là chữ
Thảo . Người đương thời
thường xưng tụng : Họa
thì có Đường Bá Hổ, Thư
pháp thì có Chúc Chi Sơn....
Có một lần, ông đến thăm
Đường Bá Hổ ở Hàng Châu,
nhưng lại ở trọ nhà
của Châu Văn Tân, nấn ná lần
lừa mà đã đến giao thừa lúc
nào không hay. Dân chúng ở Hàng Châu có tục
lệ là chỉ dán liễn KHỐNG
không có chữ, lấy ý là : suốt
năm bình an vô sự. Trong cơn tửu
hứng cuối năm, Chúc Chi Sơn cười
bảo rằng : Họ muốn bình
an vô sự, năm nay ta phải cho họ "
hữu sự " mới được
!. Bèn bảo gia đồng của mình chuẩn
bị mực viết và mượn
thêm một thư đồng của
Châu Văn Tân để xách lồng đèn dẫn
đường....
Sau khi cúng Giao thừa, mọi nhà đều
đóng cửa đi ngủ, nhà nào cũng dán
sẵn một đôi liễn đỏ
không có chữ gì cả. Khi đến
một nhà lớn xây mặt về
hướng đông, thư đồng bảo
rằng đây là nhà của một đại
thiện nhân ( nhà hảo tâm hay làm việc
thiện ) ở địa phương,
Chúc bèn dừng lại, viết đôi
câu đối sau :
Hướng
dương môn đệ xuân thường tại 向陽門第春常在
Tích thiện
nhân gia lạc hữu dư
積善人家樂有餘
Có nghĩa :
Nhà xây về
hướng mặt trời, nên mùa Xuân
thường ngự nơi đó.
Người trong nhà
hay làm việc thiện, nên niềm vui luôn
có thừa.
Khi đến một căn nhà nhỏ, nhưng
cũng khá khang trang, thư đồng bảo
rằng :
Lúc
ban chiều, khi người chồng đi làm
xa về, vợ lục lọi trong tay
nải, thấy không có đem tiền
gì về ăn Tết cả, nên không
cho ăn cơm đoàn viên chiều 30 Tết,
đến khi phát hiện trong túi quần
của chồng có đến mấy
chiếc nhẫn vàng, mới cho ăn cơm
và thân cận, bây giờ thì họ
đã ngủ yên rồi !. Chúc Chi Sơn
bèn cả cười và cất bút
đề rằng :
Nang
nội vô tiền, hưu tưởng ẩm thực nam nữ ,
囊 内 無 錢,休 想 飲 食 男 女
Đại trung hữu vật, tiện thành sài mễ phu thê.
袋 中 有 物,便 成 柴 米 夫 妻
Tạm diễn nôm :
Túi xách không tiền, đừng hòng gái
trai ăn uống,
Trong lưng có bạc, mới mong chồng
vợ cháo cơm .
Cứ thế, họ đi hết dãy
nầy đến dãy khác.....
Khi đi
đến một tòa nhà cao cửa rộng,
sơn son thếp vàng, thư đồng
bảo Chúc Chi Sơn đừng viết
liễn ở cửa nầy, vì
đây là nhà của một ác bá nổi
tiếng của xứ nầy, Chúc
bảo là thế thì càng cần phải
viết, thấy có 2 lớp cửa,
cửa lớn ở ngoài dán đôi liễn
trống thếp vàng, Chúc bèn viết
đôi câu đối như vầy :
Minh
nhật phùng xuân, hảo bất hối khí, 明日逢春,好不晦氣
Chung niên đão
vận, thiểu hữu dư tài. 终年倒運,少有馀财
Có nghĩa :
Ngày mai đón xuân, chẳng xui xẻo lắm
sao,
Suốt
năm lận đận, không tiền tài
dư dã.
Cửa
trong , nhỏ hơn, dán đôi liễn trống
màu đỏ, Chúc bèn viết :
Thử
địa an năng cư trú
此 地 安 能 居 住
Kỳ nhân hảo bất bi thương.
其 人 好 不 悲 傷.
Có nghĩa :
Nơi
nầy làm sao mà ở được
!
Người ở đây sao mà khỏi được
buồn thương !
Viết xong, ông lại ký tên đàng hoàng
là : Tô Châu Giải Nguyên Chúc Chi Sơn thư.
làm cho 2 đứa thư đồng đều
hoảng sợ, lo lắng......
Sáng sớm hôm sau, Mùng Một Tết,
Cả thành Hàng Châu xôn xao hẵn lên, vì
tất cả liễn khống đều
đã được ai đó viết chữ
lên....Dĩ nhiên, có người rất hoan hỉ,
vui vẻ vì những lời chúc Tết
tốt đẹp ở trên đó, như
Nhà Hảo tâm làm việc thiện kia
vậy, có người cũng lỡ khóc
lỡ cười như 2 vợ chồng
nhà nghèo kia, nhưng...cũng có người giận
dữ và thưa lên Quan Phủ, như
nhà Ác bá nọ... Chúc Chi Sơn đã chuẩn
bị tư thế sẵn sàng đi
hầu quan từ sáng sớm, nên khi được
mời là ông lập tức đến
ngay. Quan Phủ kính trọng ông vì ông là
một Giải Nguyên, lại là Tài Tử
nổi tiếng của xứ Giang Nam,
nên chỉ hỏi ông, vì sao viết những
lời xui xẻo, xấu xa cho nhà ác bá
kia?. Ông cười và trả lời rằng
: Đó toàn là những lời chúc tốt
đẹp cả mà !. Tên Ác bá cải
lại rằng : Ông có chắc là
những lời tốt đẹp không
?. Chúc bảo : Thư pháp của ta, một
chữ giá đáng ngàn vàng ( Nhất tự
trị thiên kim 一字值千金 ), ông
không trả công cho ta còn thưa gởi
lôi thôi !. Tên Ác bá cải : Nếu quả
thực là những lời tốt
đẹp, ta sẽ sẵn sàng trả
cho ông một ngàn lượng bạc,
bằng ngược lại thì ông tính
sao đây?. Chúc đáp là mình sẽ chịu
mọi hình phạt do quan xử. Được
lời của hai bên, Quan Phủ bèn cho sai
nha đến nhà của tên Ác bá gở
hai đôi liễn xuống, mang đến công
đường. Tên Ác bá dương dương
tự đắc, phen nầy cho nhà ngươi
hết chạy tội, còn Quan Phủ
thì lo ra mặt, vì thấy đôi câu đối
xấu quá, không biết phải xử
sao cho phải. Chỉ có Chúc Chi Sơn là
tươi cười giải thích rằng
: Vì suốt đêm bận viết liễn,
nên khi viết đến nhà của tên
Ác bá ông đã quên chưa kịp chấm
câu, và ông bèn mượn cây bút trên bàn
của Quan Phủ, chấm lại đôi
câu đối như sau :
Câu 1:
Minh
nhựt phùng xuân hảo, bất hối khí,
Chung niên đão vận thiểu, hữu dư tài.
Có nghĩa
:
Ngày mai đón xuân tốt đẹp, không
có gì xui xẻo,
Suốt năm vận xui rất ít, có tiền
bạc dư dã.
Câu
2 :
Thử địa an, năng cư trú,
Kỳ nhân hảo, bất bi thương.
Có nghĩa :
Nơi
đây yên lành, có thể ở được,
Người
ở đây tốt, không có chuyện
buồn thương.
Kết quả như thế nào
thì chắc Quí Thầy Cô và Các
Bạn cũng đoán được rồi...
Chỉ biết là sau đó, Chúc Chi Sơn
về lại nhà của Châu Văn Tân,
mời cả Đường Bá Hổ
cùng đến, anh em cùng Ăn Tết và cùng
nhậu...mút mùa cũng không hết một
ngàn lượng bạc.....
Đỗ
Chiêu Đức kể
NĂM MÙI NÓI CHUYỆN DÊ
Hết Ngọ tới Mùi, hết Ngựa
tới Dê, cũng như chữ MÃ 馬, chữ DƯƠNG 羊 là Con DÊ
cũng thuộc dạng chữ Tượng Hình với diễn biến như sau :
Hình con dê được nhìn bởi mặt trước,
với 2 chiếc sừng dài cong về 2 phía, qua diễn biến đã trở
thành chữ DƯƠNG 羊 như hiện nay. Sau đây là Thư Pháp
bằng bút lông của chữ DƯƠNG qua các thời đại :
DÊ cũng
là một trong Lục Súc nuôi trong nhà, gồm : Mã, Ngưu, DƯƠNG,
Cẩu, Trư, Kê ( Ngựa, Trâu Bò, DÊ CỪU, Chó, Lợn, Gà ).Dê
được thuần hóa rất sớm và sống chung với con người
suốt mấy ngàn năm qua.
Theo thứ tự Tử Vi, năm Mùi, con Dê, thuộc
Âm, đứng hàng thứ 8 trong 12 Địa Chi. Tháng Mùi là tháng
6 Âm lịch trong năm. Giờ Mùi là khoảng thời gian từ 1 đến
3 giờ trưa. Tuổi hợp với Mùi là Mão và Hợi ( Hợi Mão
Mùi : Tam Hạp ). Tuổi xung khắc là tuổi Sửu, Tứ Hành Xung là
: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI. Tuổi có hại cho nhau là tuổi Tý (
nằm trong Lục Hại : Tí-Mùi, Sửu-Ngọ, Dần-Hợi, Mão-Tuất,
Thìn-Dậu, Tị-Thân ).
Tuổi
Dương Cưu trong Tử Vi Tây Phương là người sanh từ 21/03 - 19/04,
theo truyền Thuyết...
Athamas, vua xứ Croneus có con trai Phrixus và con gái Helle với người vợ
đầu Nephele. Như các vì vua khác
ham mê nhan sắc, khi chán vợ, Athamas đuổi
Nephele đi để cưới Ino, con gái của Cadmus, vua xứ Thebes. Có hai con
với nhà vua, Ino ghen ghét với con của Nephele và tìm cách để
con mình kế vị ngôi báu. Lúc đó bắp là mùa màng
chính của xứ Croneus. Ino làm cho bắp không nảy mầm bằng cách
kín đáo thuyết phục phụ nữ của vương quốc rang nó
lên trước khi gieo trồng, đồng thời hối lộ cho nhà tiên tri
được nhà vua sai đi hỏi các vị thần về hiện tượng
này để ông ta nói dối rằng hai con của Nephele chính là nguồn
gốc hiểm họa. Nhà vua phải mang họ tế thần thì mùa màng
mới trở lại. Thương con, nhưng để cứu vương quốc, nhà
vua nghe theo lời khuyên này. May mắn, lo cho sự an toàn của con, Nephele đã
phái một người bảo vệ đội lốt con cừu có lông bằng
vàng tên là Aries (Bạch Dương) do thần Zeus tặng cho bà. Ngày
tế lễ đến, con cừu thúc Phrixus và Helle ngồi lên lưng và
bỏ chạy băng qua đại dương nhưng chẳng may Helle bị rơi chết
ở biển (nơi nàng chết được gọi là Hellesponte). Phrixus sống
sót và cưới con gái của vương triều Colchis. Để cám
ơn Zeus, chàng tế lễ con cừu và treo bộ lông cừu ở vị trí
đặc biệt tại Colchis. Còn Zeus thì treo Aries trên bầu trời để
tôn vinh lòng can đảm của con vật.
Từ Đông sang Tây, biểu tượng dê thật
phong phú và phức tạp, đặc biệt nhất là chòm râu dưới
càm : " Râu Dê " ! mà cả dê đực và dê cái đều
có cả, lúc nhỏ nghe các bạn thường đố nhau là : "
Đàn bà mà có râu " chính là chỉ con dê cái đó
vậy. Cả dê cái và dê đực đều được " cắm
sừng " cả. Sừng dê cái biểu tượng cho sức sản sinh phồn
thịnh. Dê đực thì tượng trưng cho mãnh lực và nhu cầu
tính dục vì loài dê vốn tràn đầy sinh lực tình dục,
Trong thực tế một con dê đực có thể giao phối với cả đàn
dê cái và cũng từ đây con dê lại bị nhìn dưới
khía cạnh của thói dâm đãng với hình tượng con dê
già hay máu dê của đàn ông mà dân gian gọi là đồ
" dê xồm " !. Ngoài ra, dê còn là biểu tượng cho sự
hiến tế ở cả hai nền văn hóa Đông-Tây : Dê là
VẬT TẾ THẦN !.
Trong các kinh Cựu Ước và Tân Ước
có đề cập đến hình tượng hai con dê dùng để hiến
tế. Con thứ nhất là con dê tạ tội tức là con dê bị
giết để tạ tội với Chúa, còn con dê thứ hai là con dê
gánh tội là con dê bị yểm trù mọi tội lỗi của người
Do Thái trút lên nó rồi đuổi nó vào sa mạc. Cả hai con
dê đều liên quan đến nghi thức hiến tế và được
đề cập rất cụ thể, từng chi tiết và sống động trong
các tài liệu của Kitô giáo.
Con
dê gánh tội hay còn gọi là oan dương.
Ở Trung Quốc, theo sách LUẬN NGỮ, người nước
Lỗ thời Chiến Quốc trước đây hay mổ thịt Dê đực
làm lễ Cốc Sóc, về sau lễ ấy được bỏ đi nhưng
người ta vẫn theo lệ mà nộp dê. Tử Cống muốn bỏ hẳn
lệ ấy đi, nhưng Khổng Tử lại bảo : Ngươi tiếc con dê
còn ta thì tiếc cái lễ ngầm nói rằng triều vua bây giờ
đã suy, bỏ mất lễ Cốc Sóc nhưng vẫn giữ tục nộp dê
thì người ta vẫn nhớ đến lễ ấy và Lễ Cốc Sóc
không mất hẳn.
SÓC
朔 : là ngày Mùng 1 hàng tháng. CỐC SÓC 告朔 ( chữ
CÁO đọc theo âm xưa là CỐC ) : Là một nghi thức tế lễ
thời Chiến Quốc. Hằng năm cứ vào khoảng cuối năm thì Thiên
Tử ban bố sách lịch năm mới cho các Chư Hầu. Chư Hầu nhận
lịch mới về đặt trong nhà Tổ Miếu, hằng tháng vào ngày
mùng một, dùng dê sống cáo tế, đoạn giở lịch của
tháng đó ra xem để thi hành chính pháp và bố cáo với
lân bang. Theo sách " CHU LỄ, XUÂN QUAN, ĐẠI SỬ "《周禮.春官.大史》.
Nói đến DÊ trong văn học Trung Hoa
là người ta nghĩ ngay đến TÔ VÕ CHĂN DÊ đời Hán
Vũ Đế. Thiên Hán Nguyên niên ( Năm 100 trước Công Nguyên
) Tô Võ phụng mệnh đi sứ Hung Nô, vua Hung Nô là Thiền Vu mến
tài muốn chiêu hàng. Tô chẳng khứng, nên bị đày ra Bắc
Hải chăn dê. Thiền Vu phát cho một đàn dê đực và phán
rằng : Khi nào dê đực đẻ con thì sẽ cho về ! lại không
phát thực phẩm, bắt Tô phải tự mưu sinh trong vùng băng tuyết
giá lạnh không một bóng người. Tô phải ăn tuyết nằm
sương, chịu đói chịu lạnh suốt 19 năm trường, vẫn giữ
vững khí tiết . Sau nhờ nhà Hán và Hung Nô thay đổi chính
sách ngoại giao hòa hoãn hơn. Tô được tha cho về nước.
Bấy giờ đã là năm thứ 6 đời Hán Chiêu Đế ( năm
81 trước Công Nguyên ). TÔ VÕ được xưng tụng như là
một biểu tượng của sự Trung Quân Ái Quốc, và thành ngữ
TÔ VÕ MỤC DƯƠNG 蘇武牧羊
dùng để chỉ những ai dù trong hoàn cảnh khó khăn
như thế nào cũng vẫn giữ vững lập trường không thay đổi.
TÔ VÕ
MỤC DƯƠNG còn là tên của bài hát nổi tiếng, dùng
để ca ngợi sự tích của TÔ VÕ, phổ biến rộng rãi
khắp dân gian. Bài hát nầy hiện nay được lồng vào những
lời trong kinh Phật của nhóm Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm 明月居士林
ở Đài Loan, Chợ Lớn VN, ở MỸ và ở... khắp thế giới,
nên, nếu ai có dịp dự tang lễ của người Hoa trong nhà quàng
sẽ có dịp nghe được nhóm nầy đọc kinh siêu độ
bằng cái "E" ( air ) nhạc của bài Tô Võ Mục Dương
nghe rất êm tai. Một số người MỸ cho rằng người Hoa tụng
kinh Phật nghe hay hơn người Việt tụng kinh Phật là vì thế
!
Cũng trong đời nhà Hán, có anh chàng Đinh Lan là một trong Nhị
Thập Tứ Hiếu 二十四孝, tương truyền trước khi trở
thành Hiếu Tử, anh chàng nầy là đứa con rất ... bất hiếu,
nhưng nhờ hình ảnh của con dê quì 2 chân trước xuống khi
bú vú mẹ mà cảm hóa anh chàng trở nên có hiếu. Truyện
kể như sau :
Lúc
nhỏ nhà nghèo, mồ côi cha, Đinh Lan phải đi chăn DÊ để
nuôi mẹ. Mỗi ngày, mẹ phải xách cơm ra đồng cho Đinh Lan
ăn. Tánh háu đói lại nóng nảy. Hôm nào mẹ mang cơm
ra trễ Đinh Lan đói quá hóa giận, cầm roi chăn dê đánh
mẹ, nên bà mẹ rất sợ... Một hôm, Đinh Lan quan sát thấy
tất cả dê con khi bú mẹ đều quì 2 chân trước xuống,
chợt động lòng nghĩ rằng : Dê còn có hiếu, biết được
công ơn của mẹ thế kia, sao ta lại nở đánh mẹ ta thế
?! Trong lòng rất hối hận, định đợi mẹ xách cơm ra để
xin lỗi mẹ. Nào ngờ hôm ấy bà mẹ mang cơm ra trễ, xa xa trông
thấy mẹ, Đinh Lan bèn chạy mau đến định xách hộ giỏ
cơm trên tay của mẹ, nhưng lại quên vứt bỏ cây roi chăn dê.
Bà mẹ thấy con cầm roi hùm hổ chạy a đến, sợ quá,
quăng giỏ cơm mà chạy....
Đinh
Lan càng chạy nhanh hơn, miệng lại kêu to : Mẹ ! Mẹ ! Bà mẹ càng
sợ hơn, nên khi đến bờ sông, bí quá, bà bèn nhảy
luôn xuống sông khi nước đang chảy xiết. Đinh Lan bèn nhảy
theo định vớt mẹ lên, nhưng không còn kịp nữa, nước
đã cuốn mẹ đi mất rồi. Mò mãi chỉ vớt lên được
có khúc gỗ của một gốc cây già. Đinh Lan bèn đem về
nhà nhờ người khắc thành tượng CHA MẸ mà thờ phượng
như truyện ta đã được học sau đây :
TRUYỆN THỨ XII: Đinh
Lan
Người
đất Hà Nội ( tỉnh Hà Nam hiện nay ), đời Đông Hán,
mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, khi trưởng thành, nhớ công ơn
cha mẹ, thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để thờ phượng.
Ngày dâng hai bữa cơm, tối đến lại lo quạt màn, sửa soạn
gối chăn, hầu hạ chăm nom in như hồi cha mẹ còn sống. Phụng
thờ như vậy trong mấy mươi năm. Về sau, vợ Đinh Lan sinh chán
nản, lại dùng kim châm vào kẻ tay trượng gỗ xem có gì
lạ không. Không ngờ nơi ấy cứ nhỏ từng giọt máu tươi
xuống mãi.
Đến bữa, Đinh
Lan bưng cơm vào cúng, nhìn thấy tượng gỗ rươm rướm
nước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Ông biết là vợ đã
châm kim vào tay cha mẹ, liền đuổi bỏ người vợ ngay.
Trong Chương
Trình Cổ Văn của lớp Đệ Thất ngày trước ( lớp
6 sau này ), có phần học về tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu
二十四孝 của LÝ VĂN PHỨC 李文馥. Bài nầy đã
được ông diễn ra Quốc Âm bằng thể thơ Song Thất Lục Bát
như sau :
Hán Đinh Lan thuở
còn thơ ấu,
Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh.
Đến
nay tuổi đã trưởng thành,
Cám công sơn hải, thiệt
tình trân cam.
Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng,
Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh,
Khi chăn gối, buổi
cơm canh,
Mấy mươi năm, vẫn lòng thành trước sau,
Phải người vợ kính lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm
kẻ ngón tay
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng
gỗ lâu ngày thiêng sao ?
Khi đến bữa chồng vào đặt
lễ
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan
Xét xem mới
biết nguồn cơn,
Nỗi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình
nặng nhẹ phải cân,
Cho hai thành hẳn lên thần,
Há
rằng u hiển, mà phân vân, tồn.
Thật ra trong Nhị Thập Tứ Hiếu có mấy truyện không nên cho học
sinh học chút nào cả, Đinh Lan là một trong những Truyện đó.
Cái anh chàng nầy vừa dị đoan mê tín, vừa vô tình vô
nghĩa vô lí vô vị. Ai đời hằng ngày bỏ công đi chăm
sóc hầu hạ 2 cái tượng bằng gỗ, rồi lại vì chuyện
dị đoan vô lí của 2 tượng gỗ mà đuổi đi người
vợ là con người thực tế bằng xương bằng thịt đã
cùng nhau đầu gối tay ấp, đồng cam cộng khổ...
Trong TĂNG QUẢNG HIỀN
VĂN, một tác phẩm huấn mông ( giáo dục trẻ em ) có từ
đời nhà Minh, tập hợp lại tất cả những câu nói hay được
đúc kết bởi kinh nghiệm trong cuộc sống thực tế, có câu
:
羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義
,
Dương
hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,
你 及 他 未 及 ?
Nễ cập
tha vị cập ?
Chú Thích :
Quỵ Nhũ
: Quỵ là Quỳ, Nhũ là Vú. Động từ có nghĩa là BÚ.
Quỵ Nhũ là Quỳ xuống để bú.
Bộ : là Mớm mồi
cho ăn. Bộ nhũ : cũng có nghĩa là cho bú.
Phản Bộ :
là Mớm ngược lại cho ăn.
Cập : là Bằng. Vị Cập
là Chưa Bằng. Bất Cập là Không Bằng.
Nghĩa Câu :
Con dê vì biết ơn của mẹ nên Quỳ xuống mà bú. Con
quạ có cái nghĩa là khi mẹ già thì nó đi kiếm mồi
Mớm ngược lại cho mẹ ăn.
Bạn có bằng được chúng chưa
hay là không bằng ?!
Quả là một bài học luân lý và là một câu hỏi
hóc búa khó trả lời ! Mong rằng những ai còn Cha còn Mẹ hãy
ráng mà trân trọng !
Trở
lại thời Chiến Quốc với điển tích NĂM BỘ DA DÊ, kể
về Bách ( Bá ) Lý Hề 百里奚 ( 700-621 trước Công
Nguyên ) là người nước Ngu, gia cảnh cơ hàn, ba mươi tuổi
mới lấy vợ, sanh con đầu lòng xong, Bá Lí Hề mới từ giã
vợ con lên đường lập nghiệp, nhà chỉ vỏn vẹn còn có
con gà mái, nhưng làm gà xong lại không có củi để nấu,
vợ phải chẻ cả cánh cửa tre để làm củi nấu gà làm
tiệc tiễn chồng ra đi tìm sự nghiệp. Tội nghiệp, bà phải
đợi đến 40 năm sau chồng mới thành đạt làm quan..... Bà
Lí Hề ra đi lưu lạc khắp nơi, chăn dê rồi chăn trâu với
người bạn nối khố tên là Kiển Thúc ở nước Tấn...
Năm 655 TCN, Tần Mục công sang nước Tấn,
hỏi cưới Mục Doanh làm phu nhân. Bá Lý Hề cũng theo Mục
Doanh về nước Tần. Giữa đường, Bá Lý Hề bỏ trốn
sang đất Uyển, bị dân biên giới nước Sở bắt được
và giam giữ. Tần Mục công nghe Bá Lý Hề là người hiền
tài, bèn sai người sang chuộc về nước, nhưng sợ người
nước Sở biết ông là người giỏi mà không cho chuộc,
nên chỉ dùng Năm Tấm Da Dê theo giá chuộc một nô lệ để
chuộc. Bá Lý Hề được về nước Tần. Năm đó
ông đã hơn 70 tuổi.
Bá
Lý Hề
Tần Mục công đích thân ra đón Bá Lý
Hề, và cùng bàn quốc sự suốt ba ngày. Sau đó, vua Tần
phong ông làm Thượng khanh, cai quản quốc chính, gọi là Ngũ Cổ
Đại Phu 五羖大夫 . (Ngũ Cổ tức là năm tấm da dê). Sau,
Bá Lý Hề giúp Mục Công dựng nên nghiệp lớn.
Bỏ qua ông Ngũ Cổ Đại Phu nầy ,
ta chỉ nói về 5 tấm DA DÊ...
Năm tấm da dê là dịch ở nhóm từ NGŨ TRƯƠNG HẮC
CÔNG DƯƠNG BÌ 五张黑公羊皮. Có nghĩa là : Năm
tấm da dê đực màu đen. Dê ở đây là Miên Dương
綿羊, ta gọi là con CỪU. Da Cừu đực màu đen dày và
bóng rất đẹp, nhất là loại cừu của đất Hồ: HỒ
CỪU, dùng may áo ngự hàn thì không chê vào đâu được
: ÁO HỒ CỪU quí giá !. Nhưng dù quí giá đến đâu,
5 bộ da Hồ cừu đổi lấy một Tướng Quốc cũng còn rẻ
chán !
Thời Chiến Quốc còn nổi
tiếng với 2 câu truyện TRI ÂM và TRI KỶ. TRI ÂM thì ai cũng biết
đến câu truyện của BÁ NHA và TỬ KỲ rồi, nhưng TRI KỶ
thì ít người biết đến Câu Truyện giữa DƯƠNG GIỐC
( GIÁC ) AI và TẢ BÁ ĐÀO lắm !
Trong
Bách Gia Tính ( Trăm Họ ) ngoài họ DƯƠNG 楊 là Dương
Liễu ra, còn có họ DƯƠNG 羊 là con DÊ nữa, đó
chính là họ của DƯƠNG GIỐC AI đó vậy. Truyện kể...
Vua nước Sở là
Sở Nguyên Vương rất sùng Nho trọng Đạo, chiêu hiền đãi
sĩ. Người trong thiên hạ nghe tiếng tìm đến rất đông.
Thuở ấy, tại núi Tích Thạch xứ Tây Khương
có một hiền sĩ họ Tả tên Bá Đào, cha mẹ đều
mất sớm, nhưng có chí học hành, sớm trở thành người
có tài an bang tế thế. Nghe tiếng Sở Vương cầu hiền bèn
lên đường tìm đến, giữa đường trọ nhờ nhà
của Dương Giốc Ai cũng là một hiền sĩ. Vì mến tài nhau
nên cùng nhau kết nghĩa kim bằng. Tả lớn hơn Dương 5 tuổi nên
làm anh, Dương kính Tả như là một huynh trưởng, Đoạn
2 anh em rủ nhau cùng lên kinh đô nước Sở để tìm chữ
công danh.
Dọc đường, gặp lúc thời
tiết khắc nghiệt, mưa tuyết bảo bùng mà phải băng rừng vượt
núi. Tả Bá Đào càng ngày càng kiệt sức, tự biết
sức mình khó lòng vượt qua được đoạn đường
dài gian nan hiễm trở nầy, hơn nữa cũng tự biết rằng tài
học vấn của mình không sao bằng được Dương Giốc Ai và
điều quan trọng nhất là lương thực mang theo chỉ còn đủ
dùng cho một người khỏe mạnh cố gắng vượt qua đoạn đường
hiễm trở lạnh lẽo nầy, nếu nấn ná cho cả 2 người thì
có nguy cơ cả 2 đều phải chết lạnh chết đói trong vùng
rừng núi mịt mùng gió tuyết nầy. Nên, Tả quyết định
hi sinh bản thân mình mà thành toàn cho người em kết nghĩa hoàn
thành tâm nguyện thi thố tài năng để cầu chút công danh.
Thừa lúc Dương
đi tìm củi sưởi ấm trong cơn bão tuyết, bèn cởi hết
quần áo ra, nhường áo để Dương mặc thêm cho đủ
ấm. Khi Dương về đến thì Tả mới thều thào nói cho
người em kết nghĩa biết Ý định của mình và khuyên
Dương hãy tranh thủ lên đường, khi nào cầu được
công danh hãy trở lại an táng cho mình, nói xong thì tắt thở.
Dương đành phải gạt lệ lên đường.
Khi đến nước Sở yết kiến Sở Vương và dâng lên 10
sách lược rất thiết thực để làm cho nước Sở phú
cường. Nhà vua vui mừng, bày ngự yến thết đãi rồi phong
Dương Giốc Ai làm chức Trung Đại Phu. Dương khóc và
kể lại chuyện Tả Bá Đào đã hy sinh cho mình đi lập
công danh. Sở Vương thương tình cũng truy phong cho Tả Bá Đào
làm Trung Đại Phu và cho Dương Giốc Ai dắt đoàn tùy tùng
đi cải táng cho Tả Bá Đào.
Truyện được kết thúc bằng cách cho Dương Giốc Ai tự
sát sau khi nằm chiêm bao thấy Tả Bá Đào về cho biết là
mình bị Kinh Kha của ngôi mộ kế bên đến ức hiếp. Chết
để cùng với Tả Bá Đào chống lại Kinh Kha và Cao Tiệm
Ly. Truyện có vẻ hoang đường, nhưng kết thúc như thế cho trọn
nghĩa kim bằng của tình anh em TRI KỶ.
Đây
cũng là nhân vật có họ DƯƠNG là DÊ hiếm hoi trong trong
văn học Trung Hoa và Việt Nam ta.
Sau khi diệt Ngô và Thục, Tư Mã Ý lên ngôi,
lập nên nhà Tấn. Truyền đến đời cháu nội là Tư
Mã Viêm ( 236-290 ), con trưởng của Tư Mã Chiêu, ở ngôi 35 năm,
sử xưng là Tấn Võ Đế.
Tấn Võ Đế là ông vua hoang dâm của nhà
Tấn. Vừa lên ngôi, ông bèn ra lệnh cho dân gian ngưng ngay việc
cưới hỏi, rồi cho hoạn quan đến từng địa phương để
tuyển gái đẹp đem về hậu cung. không phải như Bạch Cư
Dị tả hậu cung của Đường Minh Hoàng là :
Hậu
cung giai lệ tam thiên nhân, 後宮佳麗三千人.
( ba ngàn người đẹp sau hậu cung ).
Hậu cung của Tấn Võ Đế có đến
5 ngàn người đẹp từ khắp nơi tuyển về, đủ mọi từng
lớp sang hèn quí tộc bình dân... Tất cả người đẹp
phải qua sơ tuyển ở địa phương và chung tuyển trước khi
được đưa vào cung. Ôi, 5.000 giai nhân cung nữ, làm cho nhà
Vua đâm ra vui mừng đến bối rối, không biết phải hưởng
dụng như thế nào ?! May thay có một cận thần đưa Ý kiến
: Vua nên ngồi trên xe do 2 con dê kéo đi vòng quanh hậu cung, xe dê
ngừng ở cửa của cung nhân nào thì tối hôm đó Vua sẽ
ngự ăn tối và ở đêm lại với cung nhân đó. Nhà
vua đã rất hoan hỉ mà nghe theo, báo hại các cung nhân phải
nhờ người tìm hái lá dâu của dê ăn mà rắc trước
lối vào cửa cung của mình để mong rằng xe dê sẽ ngừng lại vì
dê muốn ăn lá dâu.
Trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn
Như Hầu NGUYỄN GIA THIỀU cũng có câu :
Phải
duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.
Và...
Ngấn
phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Tội nghiệp thay, 5000 cung nữ chỉ chờ đợi có một ông Vua mà
thôi !
Trong
Tam Thập Lục Kế của Tôn Tử Binh Pháp, kế thứ 12 là : THUẬN
THỦ KHIÊN DƯƠNG 順手牽羊, có nghĩa : Thuận tay dắt luôn
con dê của người khác, Ý muốn nói phải biết lợi dụng
thời cơ, sơ hở của người khác để thủ lợi cho mình.
Kế nầy giống như là " Thừa nước đục thả câu
" của ta vậy.
Trong binh pháp TÔN TỬ ghi Kế
thứ 12 như sau : Vi khích tại sở tất thừa, Vi lợi tại sở tất
đắc. thiếu âm, thiếu dương.微隙在所必乘;微利在所必得。少阴,少阳。
Có nghĩa
: Phải biết lợi dụng cái sơ hở nhỏ nhặt nhất của kẻ
địch, Phải biết tranh thủ lấy cái lợi nhỏ nhặt nhất cho
mình. Ý là : Phải biết thừa cơ nắm lấy cái khuyết điểm
nhỏ nhất của địch để biến nó thành cái lợi nhỏ
nhất cho mình, nhưng lại đưa đến cái kết quả lớn nhất
! Điều nầy nghe như không có gì, nhưng lại rất quan trọng
trong phép dụng binh, hành quân. Mời đọc...
Công Nguyên năm
383, Tiền Tần Vương Phù Kiên sau khi thống nhất một dãy ven sông
Hoàng Hà, định tập trung đủ 90 vạn quân sẽ đem quân
đánh ụp tiêu diệt nước Đông Tấn, bèn phái em là
Phù Dung làm tiên phong chiếm lấy thành Thọ Dương. Phù Dung
đánh lấy thành một cách dễ dàng, biết Đông Tấn binh
yếu lại thiếu lương thực, mới đề nghị với Phù Kiên
nhanh chóng đánh chiếm Đông Tấn. Phù kiên không đợi
binh lực tập trung đầy đủ, lập tức đem quân tấn công
Đông Tấn ngay.
Tướng Đông Tấn là
Tạ Thạch biết được binh lực của Tần chưa tập trung đầy
đủ, bèn dùng kế khích tướng thách Phù Kiên nếu
muốn phân cao thấp thì hãy lui binh một dặm, mình sẽ đem binh
qua sông Phì Thủy quyết một trận hơn thua, bằng nếu sợ thua thì
hãy đầu hàng ngay đi. Phù Kiên cả giận, định giả vờ
lui binh, đợi cho binh Tấn qua sông nửa chừng sẽ quay lại đón đánh
một trận cho tan tác binh nhung. Nào ngờ, lòng binh Tần đã chán
nản vì chinh chiến lâu ngày, nay thấy sứ giả quân địch
vừa rời trại thì chủ tướng bèn ra lịnh lui binh, nên lòng
càng hoảng sợ mạnh ai nấy chạy người ngựa ngổn ngang dẫm
đạp lên nhau hổn loạn thành một khối. Phù Kiên ra lệnh
dừng lại thì đã không còn kịp nữa. Bên kia sông Tạ
Thạch thấy thế bèn thừa cơ hạ lịnh quân sĩ cấp tốc
sang sông truy sát. Quân Tần thấy quân Tấn qua sông ráo riết
càng hoảng sợ hơn dẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, đến
nỗi nghe cơn gió thổi qua cây cỏ lào xào cũng tưởng là
quân Tấn đã đuổi đến nơi rồi. Sự kiện nầy
đưa đến câu thành ngữ THẢO MỘC GIAI BINH 草木皆兵,
có nghĩa : Cỏ cây cũng đều là binh lính cả ! Điều nầy
làm ta nhớ lại đầu tháng 4 năm 1975 với DI TẢN CHIẾN THUẬT
của Miền Nam, dân quân của Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật chỉ
biết cắm đầu cắm cổ chạy trối chết, làm hỗn loạn cả
Miền Trung, Cộng Sản Bắc Việt bất chiến tự nhiên thành, chiếm
trọn Miền Trung một cách dễ dàng và uy hiếp Sài Gòn trong
chớp mắt...
Còn
trận đánh trên quân Tần cũng đại bại. Phù Dung chết
trong đám loạn quân, còn Phù Kiên trúng tên bị thương
may mà chạy thoát được. Sử gọi trận đánh nầy là
PHÌ THỦY CHI CHIẾN 淝水之戰.
Tạ Thạch cũng như Cộng Sản
Bắc Việt đã biết lợi dụng cái nhược điểm của
kẻ địch để làm cái thuận lợi cho sự chiến thắng của
mình, tức là biết THUẬN THỦ KHIÊN DƯƠNG tiện tay dắt luôn
" con dê " của đối phương một cách dễ dàng !
Còn rất
nhiều chuyện THUẬN THỦ KHIÊN DƯƠNG từ xưa đến nay, như
đến đời Tam Quốc, Lưu Bị vào ở trọ đất Kinh Châu
rồi thi ân bố đức cho dân chúng, tạo uy tín để làm
chủ và chiếm luôn đất Kinh Châu trong khi Lưu Biểu nhu nhược
bệnh hoạn yếu đuối, và Lưu Bị đã thành công trong
việc dắt luôn " con dê " là đất Kinh Châu về tay mình
theo kế sách của Khổng Minh Gia Các Lượng....
Không nói đến chuyện xưa nữa, ta nói chuyện bây giờ, chuyện
trước mắt ở tại nước MỸ đây.... Hệ thống bán lẻ
lớn nhất nước MỸ và lớn nhất thế giới là Siêu thị
WALMART có một qui định khôn ngoan là : Ta có thể lấy bất cứ
giá sale trên báo của bất cứ siêu thị nào khác cho tất
cả các mặt hàng trong siêu thị đến WALMART để mua, WALMART sẽ
tính theo giá của siêu thị đó cho ta. Nghĩa là WALMART sẽ bán
hàng cho ta theo giá sale của tất cả các siêu thị, trong business gọi
đó là Kick the prices. WALMART làm thế là áp dụng kế sách
THUẬN THỦ KHIÊN DƯƠNG vào thương trường để dắt hết
tất cả những "con dê " của siêu thị khác về cho mình
!
Trở về
với Việt Nam....
Trong Lĩnh Nam Chích Quái
chương đầu tiên, viết về họ Hồng Bàng, đã kể lại
rằng từ thời xa xưa, người Việt trong hôn nhân, đã biết
giết trâu, dê làm đồ sính lễ, con dê đã được
nuôi làm gia súc và sử dụng vào việc tế lễ. Vào giữa
thế kỷ 16, trong bài Đào Nguyên Hành thì Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan đã tả cảnh nông thôn Việt Nam là :
Trâu bò, gà lợn, Dê ngan,
Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi.
Đây chắc cũng là nguồn
gốc của câu tục ngữ " Gà Kê Dê Ngỗng " mà ta nói
trại riết rồi thành " Cà Kê Dê Ngỗng ", để chỉ
những người hay ngồi lê đôi mách, nói hết chuyện nầy
đến chuyện kia, lải nhải mãi không thôi.
Theo Ðại Nam thực lục Chính
Biên, dưới triều đại vua Minh Mạng, mùa Ðông năm Minh Mạng
thứ 17 ( Công Nguyên 1836 ), nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê cái,
chọn 20 con dê đực giao Tể Sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt
tại đàn Thượng có thịt dê ướp dương hải.
Dê cũng có những hình tượng tiêu
biểu đi vào thơ văn Việt Nam. Trong tác phẩm Hịch Tướng sĩ,
Trần Hưng Đạo cũng có nhắc đến hình ảnh con dê và
coi đó là biểu hiện của bọn sứ giả Mông Cổ hống
hách, ngạo mạn:
Uốn
lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình,
Đem thân dê chó mà ngạo mạn tể tướng.
Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu gởi phần tâm
sự và lời chê trách những người làm tay sai tiếp tay với
thực dân hà hiếp dân lành đau khổ như :
Hai
vầng nhật nguyệt chói loà,
Đâu dung lũ treo dê bán chó.
Câu tục ngữ nổi tiếng: " Treo đầu
dê, bán thịt chó " dùng để chỉ về sự không thống
nhất giữa nội dung và hình thức, Chỉ người nói một nơi,
làm một nẻo, nói và làm không ăn khớp nhau với hàm Ý
gian lận hoặc lừa dối người khác.
Trong ca dao và văn học dân
gian, dê cũng hiện lên một cách sinh động với :
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi,
Còn tôi cam chịu ngậm ngùi tuổi Thân !
hoặc như :
Ru em buồn ngủ buồn nghê,
Con tằm chín đỏ, con dê chín mùi,
Con tằm chín đỏ để nuôi,
Con
dê chín mùi làm thịt em ăn.
Hình
ảnh con dê còn trở nên thân thiết, gần gũi với đông
đảo quần chúng nhân dân hơn qua những trò chơi và lễ
hội truyền thống. Như trò Bịt Mắt Bắt Dê rất vui vẻ,
sinh động. Trò chơi này thường được tổ chức trong các
ngày Hội đầu Xuân, Trung Thu.... hoặc các cuộc chơi thể thao văn
hoá dân dã, với các cách khác nhau tùy theo đối tượng
tham dự. Đối với trẻ con, trò chơi này là thú vui lành
mạnh hồn nhiên sinh động, nhưng đối với các cô cậu thanh
niên, thiếu nữ thì đây là một dịp để họ tiếp
cận, đụng chạm về thể xác vui đùa với nhau, vượt qua
ranh giới lễ giáo một cách hợp pháp :
Giả vờ bịt mắt bắt dê,
Để cho cô cậu dễ bề... với nhau !
Về
bản tính tự nhiên, dê là con vật giao phối và sinh sản rất
mạnh nên dê được gán cho hình tượng của sự dâm
đãng và thô tục, điều này là điểm tương đồng
trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Chính vì khả
năng sinh lý rất mạnh của mình, con dê bị gắn liền với
nhiều thành kiến. Người ta hay dùng từ Máu Dê để chỉ
những người có ham muốn, không kiểm soát và muốn thể hiện
khả năng sinh dục mạnh mẽ, Thói Dê khái quát bản tính
ham chinh phục người khác giới hay sự dâm tiện, Dê Cụ hay Dê
Già chỉ kẻ rất dâm đãng, Dê Xồm cũng có nghĩa tương
tự. Hãy xem trong văn thơ cổ điển của ta... .
Trong Lục Vân Tiên,
bộ mặt của Bùi Kiệm đã từng giở trò với Kiều Nguyệt
Nga, trở thành trơ trẽn qua câu thơ:
Con
người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu.
Nữ sĩ
Hồ Xuân Hương cũng từng miêu tả về những nhu cầu tính
dục khá thầm kín thông qua từ ngứa, buồn, châm, húc, như
:
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
Trước năm 1954, ở Sài Gòn - Chợ Lớn,
có hai chỗ đánh bạc rất nổi tiếng, đó là các sòng
Kim Chung và sòng Đại Thế Giới. Hai casino này đã bị xóa
tên từ năm 1956, bời quyết định của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Khu Dân Sinh ở đường Nguyễn Công Trứ bây giờ là
Kim Chung ngày trước, còn Đại Thế Giới đã trở thành
Nhà Văn Hóa Quận 5 (đường Trần Hưng Đạo B) bây giờ.
Trong các trò chơi cờ bạc như Hốt me, Tài Xiểu, Xì Dách...
Còn có trò chơi XỔ ĐỂ 36 rất thu hút cả giới trí
thức lẫn bình dân. Các con số đề từ số 1 là con Cá
Trắng, có tên chữ là Chiếm Khôi, là một trong Tứ Trạng
Nguyên.... cho đến số 36 là Bà Vãi cầm tinh con Chồn, tên chữ
là An Sĩ, thuộc Nhất Đạo Cô. Trong đó có một con số
đề rất nổi tiếng, đi sâu vào đời sống sinh hoạt của
quần chúng và còn sống mãi cho tới hiện nay, đó là
con số 35, tên chữ là Kiết Phẩm, cầm tinh con DÊ, thuộc một trong
Tứ Hảo Mệnh.
Vì bản chất sinh lí mạnh
mẽ của con dê, nên hễ đàn ông con trai nào thích ve vản
đàn bà con gái thì gọi là DÊ. Chữ DÊ là Danh từ
, được sử dụng như Hình Dung Từ khi dùng để chỉ bản
chất : Cái thằng cha đó DÊ lắm và trở thành Động
Từ trong cách nói : Đi DÊ gái, thích DÊ gái... Và có
thể thay thế bằng con số 35 trong các cách nói sau :
- Thằng cha đó 35 lắm !
- Thứ cái
đồ 35 !
- Ông già 35 ! Tức là
ông Già DÊ.
Trong Ca Dao bình dân của bà
con Lục Tỉnh lúc bấy giờ có câu :
Phượng
hoàng đậu nhánh sa-kê,
Ông thần sao không vật mấy thằng DÊ cho rồi !
Hoặc
:
Dê
xồm ăn lá khổ qua,
Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm.
Nạn
số đề không những chỉ ở Sài Gòn - Chợ Lớn mà còn
được phổ biến ra khắp đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể
như ở miệt Cần Thơ do lực lượng Hòa Hảo tổ chức cùng
khắp như Chợ Cái Răng, Cái Chanh... đều có sòng Tài Xiểu,
Hốt me, Xổ đề 36 .... Trong bài " Vè Thua Đề 36 " của Thầy
giáo Kiến ở ấp Yên Thượng Ba Láng ngày xưa có đoạn
như sau :
Gái xuân đi chợ mới về,
Gặp
trai bóp vú, đánh DÊ hết tiền.
Đề
nghe " bẻ cổ " liền liền, *
Hai mươi chín, mười tám, chữ Thiên đứng đầu. **
Lái buôn thua thiếu câu mâu,
Bạn bè đuổi hết ngồi sầu lái ghe !....
*
BẺ CỔ :
Đề xổ mỗi ngày 2 cử : Sáng và Chiều. Con số nào
sáng xổ rồi thì chiều không được quyền xổ
lại. Nhưng Sáng hôm sau thì xổ lại con Số của Sáng hôm
trước được. Sáng nay xổ lại con của Sáng hôm qua, hoặc
Chiều nay xổ lại con của Chiều hôm qua, thì gọi là BẺ CỔ.
** Số 29 là con Lươn, tên chữ là
THIÊN LƯƠNG, nằm trong nhóm Tứ Hòa Thượng.
Số
18 là con Mèo nhà, tên chữ là THIÊN THÂN, nằm trong nhóm
Tứ Phu Nhân.
Trở lại với nguồn gốc của chữ DƯƠNG
羊 là con DÊ, vì đồng âm với chữ DƯƠNG 陽 là
Mặt trời, là Ánh nắng, là khí dương sáng sủa sau những
ngày tháng âm hàn của mùa đông. Nên trong đầu mùa
xuân cũng là lúc mở đầu của một năm với khí dương
của Trời Đất và Con Người mở ra cái Vận Khí mới,
gọi là TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 . Vì 2 chữ
DƯƠNG đồng âm nên TAM DƯƠNG KHAI THÁI được vẽ
thành hình của 3 con DÊ trong những bức tranh treo ở trong nhà trong những
ngày đầu xuân Tết đến để lấy hên.
Chữ DƯƠNG 羊 còn có tự dạng giống
như chữ TƯỜNG 祥, nên còn được dùng thay thế cho chữ
Tường trong lời chúc CÁT TƯỜNG NHƯ Ý 吉祥如意.
Có thể viết là CÁT DƯƠNG 吉羊 nhưng ta phải biết đó
là CÁT TƯỜNG 吉祥 như những hình ảnh minh họa dưới
đây.
CÁT là
Tốt, TƯỜNG là Lành, nên CÁT TƯỜNG là Tốt lành !
Vạn Sự Cát Tường là : Muôn điều đều tốt lành.
CÁT TƯỜNG NHƯ Ý thì nghĩa đã quá rõ ràng rồi
!
Thịt dê còn là
món ăn khoái khẩu của giới ăn uống, nhất là những tay bợm
nhậu. Nào là Dê thui, Dê Nấu Chao, Lẫu Dê, Cà-Ri Dê, nhất
là món Ngọc Dương hầm thuốc Bắc thì được ưa chuộng
vô cùng. Đây là món mà Ông ăn nhưng bà lại khen...
tuyệt diệu !
Hai câu chót của bài
Sấm Trạng Trình là :
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân
dậu niên lai kiến thái bình !
Ta hãy thử chờ xem ANH HÙNG nào sẽ TẬN
ở DƯƠNG CƯỚC là cuối năm DÊ 2015 nầy, để cho năm
Thân năm Dậu tới đây Thế Giới được an hưởng THÁI
BÌNH THỊNH VƯỢNG, mong lắm thay !
Cuối cùng xin mời cùng
đọc các bài XƯỚNG HỌA về năm ẤT MÙI con Dê của
năm 2015 nầy :
BÀI
XƯỚNG :
ẤT MÙI VỊNH DÊ
Đứng
hàng thứ tám thuộc chi Mùi,
Nổi tiếng Ông Thầy, tính thích vui.
Qụy nhũ xưa nay danh hiếu tử,
Tế thần Âu Á vật thay người.
Treo dê bán chó bao tên bợm,
Bịt mắt bắt dê lắm đứa chơi.
Thui, lẩu, cà-ri, đều khoái khẩu,
Ngọc dương truyền giống tốt cho đời !
Đỗ Chiêu Đức
CÁC BÀI HỌA :
TUỔI MÙI
Bác ấy tổ sư chính tuổi Mùi ,
Tánh nào
tật nấy cứ ham vui .
Nói năng đon đả trơ trơ mặt
,
Cười cợt ga-lăn * lao láo người .
Mỹ nữ
cừu non luôn mộng ão ,
"Ông Thầy" dê cụ vẫn
trò chơi .
Năm nay ráng kiếm thằng Cu tí ,
Giống tốt
làm ăn khỏe một đời .
Mailoc
(*) gallant
Rằng Dê Cũng Lắm
Công Phu
Lúc mới sinh ra chẳng tuổi Mùi
Nhưng vì
cái tánh thích vui vui
Tập tành lẽo đẽo theo sau gái
Giở thói
be he học ở người
Cứ tưởng chuyện nầy coi đáng
ghét
Thiệt ra đây há phải trò chơi
Thép kia
tôi luyện càng thêm tốt
Không chịu dê sao kiếm
bạn đời?
Quên Đi
MÓN LẪU DÊ PHỔ THÔNG
Ba lăm nổi
cộm lọai dê Mùi,
Món nhậu dê thui ắt phải vui.
Bữa tiệc
sơn dương ăn khóai khẩu,
Cổ bàn lễ vật của
thay người.
Đầu dê phỉnh gạt người mê lẫu,
Chó bán
lừa ai bịt mắt chơi.
Tìm kiếm ngọc dương ăn bổ
thận,
Cà ri dê với bún quên đời.
Mai Xuân Thanh
XEM TUỔI
Tam hạp bày chi
Hợi Mẹo Mùi
Lời ra khắc khẩu lấy gì vui
Ly hôn
cũng bởi thầy coi tuổi
Gãy gánh vì bao sách dọa
người
Quả nọ nhân kia chiêu có cảm
Nồi nào
vung nấy thích thì chơi
Mã đề dương cước
anh hùng tận
Cụ Trạng còn linh đến mấy đời ?
Cao Linh Tử
VỊNH DÊ ẤT MÙI
Ở bậc
can chi hợp Ất Mùi
Tôn thầy vì bởi tính ham vui
Hào hoa
mạnh khỏe sung tràn sức
Giỏi mánh bền dai thuyết phục
người
Rượu huyết thơm nồng phê hết lóc
Lẩu dê
rừng rực dễ tìm chơi
Ngọc dương đệ nhất kim
danh tửu
Cống hiến nhiều hơn với cõi đời
Nguyễn Đắc Thắng
MÁT TAY
Họa vui
.
Tuổi ấy
năm nay duyên chín mùi
Nỗi lo đã hết chỉ toàn
vui
Cau vàng chưa kịp len màu vỏ
Trầu thắm đưa
ngay đến cửa người
Áo đỏ em may vừa dịp phất
Bài thơ
anh viết đúng hồi chơi
Vía "thầy" Dê núi
ngon lành ạ
Cảm tạ ông mai mát tiếng đời
Tú Xuân
Cám
ơn tất cả THẦY, BẠN đã nhiệt tình hưởng ứng HỌA
THƠ : ẤT MÙI VỊNH DÊ cho bài viết càng thêm phong phú đa
dạng hơn.
Chân thành cám ơn tất cả !
Đỗ Chiêu Đức
__________________________________________________________________________________________________________
LIỄN TẾT...CHO ÉP-PHÊ NGƯỢC.
Trước khi kể chuyện của tôi, xin mời tất cả cùng
ôn lại hai tác giả lớn trong văn học cổ Việt Nam ta nhé, đó
là....
Nguyễn Khuyến 阮勸
(1835-1909), Tam nguyên Yên Đỗ, vì ông ở làng Yên Đỗ và
đậu đầu 3 cuộc thi nên gọi là TAM NGUYÊN : Đậu đầu
thi hương gọi là HƯƠNG NGUYÊN ( còn gọi là GIẢI NGUYÊN
), đậu đầu thi hội gọi là HỘI NGUYÊN ( còn gọi là
CỬ NHÂN ) và đậu đầu thi đình gọi là ĐÌNH NGUYÊN
( còn gọi là TRẠNG NGUYÊN ). Ông chẳng những giỏi thơ mà
còn rất giỏi về làm câu đối.
Ngày xưa, khi nhà có
điều hiếu hỉ như đám cưới, đám ma... thường được
chúc mừng hoặc chia buồn bằng đôi câu đối. Nhưng muốn
có câu đối hay thì phải nhờ đến những bậc Đại
khoa có tài như Nguyễn Khuyến làm thì mới có giá trị.
Muốn nhờ những vị nầy làm câu đối thì phải có
lễ vật hậu hỉ, tốn kém vô cùng.
Một hôm, có một anh kia mang lễ vật rất hậu đến nói với
cụ Tam Nguyên rằng : Nhờ cụ làm cho một đôi câu đối
mà hiếu hay hỉ gì cũng dùng được cả , để đám
cưới, đám ma, chúc thọ... nhiều quá, mỗi lần đều rất
tốn kém, thà tốn một lần cho xứng đáng để khỏi phải
mỗi lần mỗi tốn. Cụ cười cho cái hảo ý của anh ta, và
viết cho đôi câu đối như sau :
Nhất đức
tại thiên tùy phó phận, 一 德 在 天 随 付 份,
Thất tình ư ngã khởi vô tâm
. 七 情 於 我 豈 無 心.
Và được...
Giải thích như sau :
Nếu là đám cưới sẽ có nghĩa như thế nầy : Cái
đức là do Trời ban, duyên Trời rung ruổi phó cho phải gặp số
phận nhân duyên như thế. Về mặt tình cảm của con người
( Thất tình là Hỉ, Nộ, Ái , Ố, Ai, Cụ, ( lạc ), Dục ) thì... Tôi
đâu thể vô tâm trước cái vui của quý vị.....( Khởi
vô tâm : có nghĩa : Sao mà có thể vô tâm cho được
! ) . Ý là : Tôi cũng mừng cho qúy vị đó !
Nếu là đám ma thì
sẽ giải thích như sau : Cái đức do Trời ban cho số phận có
bao nhiêu đó mà thôi ( đừng buồn nữa ). Về mặt tình
người thì tôi đâu thể vô tâm làm ngơ ( trước sự
tang tóc của các vị cho được ! .....). Ý là : Tôi cũng
xin chia buồn đó !
Nếu
là chúc thọ thì lại có nghĩa : Cái đức của Trời
cho được hưởng phước phần trường thọ là vậy,
nên về nhân tình thì tôi cũng đâu thể làm ngơ, tức
là tôi cũng chúc mừng THỌ cho quý vị đó.!.....
Quả là một
câu đối vạn năng vạn dụng dùng cho vui buồn gì cũng được
!
Bây
giờ, thì ta nói về Trần Tế Xương ( 1870 - 1907 ) nhé !
Ông có một bài thơ theo thể HÁT NÓI nói về Tết,
trong đó có 2 câu đối rất hay. Mời Quý vị cùng đọc
bài Hát Nói sau :
"Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài
bài
Huống chi mình cũng đã
đỗ tú tài
Ngày tết
đến cũng phải một vài câu đối
Đối rằng:
"Cực
nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài
極 人 間 之 品 價,
風 月 情 懷
Tối
thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt"
最 世 上 之 風 流,
江 湖 氣 骨
Viết
vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi
mẹ mày rằng dốt hay hay
Rằng
hay thì thật là hay
Chẳng hay
sao lại đỗ ngay tú tài
Xưa
nay em vẫn chịu ngài".
Hai câu
đối trên là loại Câu đối 10 chữ, ( thuộc loại văn Biền
Ngẫu kiểu Tứ Lục & Lục Tứ ) có nghĩa như sau :
Câu 1 : Cái phẩm
giá cao nhất trong đời nầy là : Tình hoài vọng về gió
trăng phong nguyệt.( chỉ sự thanh cao phong nhã, không nhuốm mùi tiền
bạc tầm thường của thế tục ).
Câu
2 : Cái phong lưu nhất trên đời nầy là : Khí cốt của kẻ
giang hồ.( rày đây mai đó cho thỏa chí nam nhi tang bồng hồ thỉ
, không màng đến lợi danh tầm thường của nhân thế ! ).
Bây giờ
thì tôi sẽ kể một câu chuyên về bản thân tôi nhé
!
Năm tôi 20 tuổi, nghĩa là đã đi dạy học được 2 năm
rồi, và cũng có nghĩa là đến tuổi động viên phải
đi lính rồi. Tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư đoàn
3 Không Quân Biên Hòa. Cuối tuần, thường hay đi phép về
Chợ Lớn, Ở trọ nhà thông gia của một người bạn học
cũ. Một hôm, khi vừa về đến Chợ Lớn thì ông bạn của
tôi cho biết tin là bà thông gia chủ nhà trọ qua đời tối
hôm qua. Trong lúc bất ngờ, không kịp chuẩn bị, sẵn miếng vải
lị ông bạn tôi làm để điếu tang, tôi viết luôn đôi
Câu đối của Cụ Nguyễn Khuyến lên đó :
Nhất đức tại thiên tùy phó phận,
Thất tình ư ngã khởi vô tâm.
Lúc đó, tôi còn trẻ, nét
chữ còn mạnh mẽ như rồng bay phượng múa, làm cho một người
bà con bên phía thông gia đến điếu tang trầm trồ và tìm
đến gặp tôi để hỏi thăm....đủ thứ. Sau đó, hỏi
lại người bà con, mới biết Ông ta là vua mức bí của Chợ
Lớn, thấy tôi tuổi trẻ mà viết được Câu đối cao
siêu làm vậy, lại thêm nét chữ thanh nhã bay bướm, nên
mới hỏi thăm gia thế và định bắt tôi....làm rễ. Sau đó,
ông mời tôi và ông bạn của tôi đến nhà chơi, ăn
cơm, để cho con gái ông ta xem mắt, và rất thường xuyên lui
tới với gia đình thông gia của ông bạn của tôi.
Chuyện tưởng như xong xuôi đâu vào đó cả rồi, chuyến
nầy chuột sa hủ nếp , tha hồ mà béo nhé !
Tết năm đó, tôi ăn mức bí ngọt tới tim luôn, sẵn hứng
chí, thừa thắng xông lên , tôi viết luôn một đôi liễn
Tết dán lên nhà của người bà con để khoe tài. Đó
là đôi liễn " quỹ quái " của Ngài Trần Tế Xương
đó :
Cực
nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
Ông
Vua mức bí đến xem thấy, hỏi của ai viết, rồi bảo gở xuống,
và từ đó ông ta không thèm hỏi thăm đến tôi nữa.
Đợi hoài không thấy động tịnh gì cả, tôi đâm
nghi ngờ, rồi hỏi thăm người bà con, thì được họ nói
cho biết như sau :
Trước đây, ông
ta thấy tôi tuổi trẻ mà có học thức, văn hay chữ tốt, nên
định chiêu tôi làm rễ để tiếp giúp ông ta quản lý
sổ sách, phát triển làm ăn, chừng thấy câu đối Tết
của tôi , Ông ta nản chí quá. Suốt ngày nó cứ " Phong
nguyệt tình hoài " hú hí với con gái mình hoài, không
biết lo làm ăn, lại còn " giang hồ khí cốt " nữa chứ,
không khéo nó rủ rê con gái mình bỏ nhà theo nó đi
giang hồ thì bỏ bu luôn !. Không được, phải kiếm thằng nào
chí thú làm ăn, giúp ông ta làm giàu thêm nữa thì
mới được......Thế là vãn tuồng, vãn hát cải lương
luôn ! ...
Quý Vị thấy đó, đồng thời cũng là một Câu đối,
nhưng Câu đối của Cụ Nguyễn Khuyến thì người ta khen hay muốn
gả con gái cho, còn Câu đối của Trần Tế Xương thì
làm hư việc hết.......Suy cho kỹ thì cũng tại mấy chữ " Giang
hồ Khí cốt " mà ra cả !
Đây là
chuyện thật một trăm phần trăm của đời tôi hồi còn trẻ,
tuổi trẻ thường sống với lý tưởng cao nhã, tình cảm
cao thượng mà phóng túng, không chịu gò bó vào vòng
danh lợi, không nuốn hơn thua với đời, mà chỉ chuộng cái
khí cốt giang hồ thanh cao, đẹp đẽ... Hơn nữa, Trần Tế Xương
là một tác giả lớn trong chương trình học, mà học sinh
nào thích văn chương đều rất ngưỡng mộ, đâu có
ngờ câu đối của ông ta lại cho " ép phê ngược "
như thế !. Thì ra cuộc đời thực tế khác hẵn với cuộc
đời trong văn chương là vậy ! .Lúc đó, tôi cũng rất
ngạc nhiên là, tại sao câu đối của Trần Tế Xương hay
là thế, mà lại bị chê dữ vậy ?!?! ....
Bây
giờ thì đầu đã bạc rồi, con người đâm ra thực
tế hơn. Nói thật, nếu bây giờ có " thằng nào đó
" mà có cái " Khí cốt giang hồ " đến để hỏi
cưới con gái tôi, thì chắc tôi cũng lắc đầu từ chối,
trừ phi con gái tôi nó chịu !.....( Nói chơi, chứ con gái tôi
đã có chồng con hết rồi ! )
Đỗ Chiêu Đức
CÂU ĐỐI CHIẾT TỰ
Vào thời nhà
Trần, ở xứ Nam-định có NGUYỄN HIỀN đỗ Trạng lúc 12
tuổi. Vua chê còn nhỏ chưa thông lễ nghĩa, không phong quan tước
mà cho về quê. Đến khi triều đình có việc mới cho sứ
đi tìm.
Tương truyền, khi sứ giả của Vua đến làng, thì thấy một
đám thiếu niên đang chơi ở bên đường, trong đó có
một đứa mặt mày sáng sủa, sứ nghi là Trạng, bèn đọc
câu đối để thử rằng :
Tự (字) là chữ, cất giàng đầu, chữ tử (子) là con,
con ai con ấy ?
Chữ TỰ 字 bỏ đi phần đầu, còn lại phần dưới là
chữ TỬ 子, có nghĩa là CON. Ý muốn hỏi : Mày là con
của ai vậy ?. Trạng nghe câu hỏi vô lễ, bèn đáp rằng :
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa
nào đứa này?
Chữ VU 于 nghĩa
là CHƯNG ( Vì Chưng, Bởi Chưng ), bỏ đi nét ngang ở chính
giữa còn lại là chữ ĐINH 丁, có nghĩa là ĐỨA ( Gia
Đinh là Đứa ở trong nhà ). Ý rằng : Mày là đứa nào
mà dám hỏi ta là con ai ?.
Nữ sĩ HỒ
XUÂN HƯƠNG cũng có đôi câu đối Chiết Tự bất hũ
là :
Duyên
thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận
liễu sao đà nẩy nét ngang !?
Duyên thiên là duyên trời định, chữ THIÊN
天 khi nhô đầu theo chiều dọc lên trên thì thành chữ PHU
夫 là CHỒNG. Ý muốn nói là Duyên trời chưa run rủi, chưa
lấy chồng.
Phận liễu là phận LIỄU BỒ,
chỉ phái nữ yếu đuối. Chữ LIỄU 柳 là cây Liễu đồng
âm với chữ LIỄU 了 là Hết, và chữ Liễu 了 mà thêm
nét ngang vào là thành chữ TỬ 子 là CON. Ý nói Phận
gái sao mà đã có con rồi !( trong khi chưa có chồng ).
Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm tập thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc
hay như thế nào, ai cũng biết cả rồi. Bà còn có một ông
anh tên là Đoàn Viết Luân cũng rất giỏi thơ văn mà
ít người biết đến.
Có lần, ông Đoàn Viết Luân từ ngoài đi vào nhà,
thấy em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
•Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt. 兄来堂上尋双月
Có nghĩa là :
Anh lên nhà trên tìm 2 vầng trăng .
Song nguyệt là 2 mặt trăng, mà theo chữ Hán, 2 chữ Nguyệt 月
ghép lại là chữ Bằng 朋 là Bè bạn, bằng hữu, nên
câu trên còn có nghĩa là: Anh lên nhà trên tìm BẠN BÈ,
chứ không phải tìm 2 mặt trăng.
Bà Điểm liền đối lại rằng :
•Muội đáo song
tiền tróc bán phong. 妹到窗前捉半風
Có nghĩa là :
Em đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió .
Bán phong là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân
nửa ở bên phải của chữ Phong 風 tức là chữ Sắt 虱
nghĩa là con rận. Nên câu đối trên có nghĩa là : Em đến
trước cửa sổ để bắt rận.
Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng trong đêm
rộn rịp vui mừng, Bà Điểm đã đùa với anh rằng:
•Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
半 夜 生 孩,亥 子 二 時 未 定 .
Có nghĩa là :
Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định, ý muốn nói
không biết là giờ Tý hay giờ Hợi.
Đoàn Viết Luân liền đối lại:
•Lưỡng
tình tương phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành.
两 情 相 配,己 酉 双 合 乃 成 .
Có nghĩa là :
Hai
tình phối hợp nhau, Kỷ Dậu 2 bên hợp lại mà thành .
Với lối
chơi chữ, 2 chữ Hợi và Tý 亥 子 ghép lại thành chữ
Hài 孩 ; chữ Kỷ và chữ Dậu 己 酉 ghép lại thành
chữ Phối 配 . Ta cũng gọi đây là một lối đối chiết
tự.
Như ta thấy ở trên, Câu đối chiết
tự 折字 (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những
câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc
từng phần mà đặt thành câu. Đó là Câu Đối chiết
tự của Việt Nam ta.
Bây giờ, ta nói
về câu đối chiết tự của văn học TQ nhé ! Mời các bạn
cùng xem đôi câu đối sau đây :
Thử mộc vi sài, sơn sơn xuất,
此木為柴,山山出,
Bạch thủy thành tuyền, tịch tịch đa. 白水成泉,夕夕多.
Nghĩa là :
Câu 1 : Thử là nầy, Mộc là cây, Vi là làm, Sài là
Củi. " Thử mộc vi sài " là Cây nầy dùng làm củi.
Sơn sơn là núi núi, có nghĩa bất cứ núi nào. Xuất
là ra, là sản xuất ra. Nghĩa cả câu là : " Cây nầy dùng
để làm củi, núi nào cũng có cả ! ". Cái hay của
câu nầy là : Chữ THỬ 此 chồng lên trên chữ MỘC 木 thì
thành chữ SÀI 柴. 2 chữ SƠN 山 chồng lên nhau thành chữ
XUẤT 出.
Câu 2 : " Bạch thủy thành
tuyền " là nước trắng xóa chảy thành dòng suối. "
Tịch tịch đa "là mỗi đêm mỗi nhiều thêm ra. Cũng như
câu 1, chữ BẠCH 白 chồng lên trên chữ THỦY 水 thành
chữ TUYỀN 泉. 2 chữ TỊCH 夕chồng lên nhau thành chữ ĐA 多.
Cái hay của Chiết tự là ở chỗ đó ! Trong Truyện Kiều,
khi thất thân với Mã Giám Sinh, cô Kiều đã hối tiếc mà
than rằng :
Biết thân đến bước lạc loài
Nhụy đào thà bẻ cho người TÌNH CHUNG.
Tại sao Nguyễn Du không viết
là " người tình XƯA ", hoặc " người tình LANG "...
mà phải là " người tình CHUNG ". Thì ra, cụ Tiên Điền
nhà ta đang chơi trò Chiết tự. Các em hãy xem đây, chữ
CHUNG 鍾 gồm có 2 chữ KIM 金 và TRỌNG 重 ghép lại với
nhau mà thành. Không phải thầy đoán mò, cũng không phải
tại hên mà Nguyễ Du ngáp phải ruồi. Nói có sách, mách
có chứng đàng hoàng. Trong câu đối Chiết tự xưa có
câu như sau :
Bát đao phân mễ phấn
八刀分米粉
Thiên lý trọng kim chung
千里重金鍾
Có nghĩa :
Câu 1 : Phân hạt gạo bằng 8 dao, hạt gạo sẽ nhuyễn ra như bột
( phấn ). Chữ BÁT 八 chồng lên chữ ĐAO 刀 thành chữ
PHÂN 分, chữ PHÂN 分 ghép với chữ MỄ 米 thành chữ
PHẤN 粉.
Câu 2 : Cái chuông vàng
mang đi ngàn dặm sẽ rất nặng nề. Cũng vậy, chữ THIÊN 千
chồng lên chữ LÝ 里 thành chữ TRỌNG 重, và chữ TRỌNG
重 ghép với chữ KIM 金 thành chữ CHUNG 鍾.
" Nhụy đào
thà bẻ cho người tình CHUNG " là bẻ cho người tình
tên KIM TRỌNG đó vậy ! NGUYỄN DU đã rất thâm thúy và
tài hoa trong phép dùng chữ, chả trách TRUYỆN KIỀU là tác
phẩm lưu danh thiên cổ !
Đỗ Chiêu Đức
LIỄN DÁN... CHUỒNG HEO.
Ngày
xưa, không có những quảng cáo bắt mắt và hấp dẫn như
hiện nay của các nhà làm thương mại. Quảng cáo ngày xưa
là cái BẢNG HIỆU, cái thương hiệu của hiệu tiệm của
mình. Đôi câu đối dán 2 bên cửa tiệm cũng có tác
dụng quảng cáo rất mạnh mẽ để " câu " khách. Xin kể
hầu đọc giả các chuyện vui dưới đây có tác dụng
rất lớn đối với các business....
Như chúng ta đã biết, Lục Thư để hình thành tiếng
Hán cổ xưa là Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý, Hài Thanh,
Chuyển Chú và Giả Tá. Bỏ qua 5 cái đầu ta chỉ nói đến
GIẢ TÁ 假借 mà thôi.
GIẢ là trái với THẬT,là Làm bộ. TÁ là Mượn, là
Nương nhờ. GIẢ TÁ là Làm bộ mượn, có nghĩa MƯỢN
TẠM để mà XÀI...luôn ! Ví dụ :
ĐẠO 道 là Con Đường, như
Đạo lộ là đường lộ. Mượn Ý nầy để chỉ...
ĐẠO là ĐẠO GIÁO Con đường
tín ngưỡng mà mọi người đi theo.
ĐẠO
là NÓI RẰNG, như Văn Đạo là Nghe nói rằng. Mở đầu
Đạo Đức Kinh của Lão Tử là câu " ĐẠO khả ĐẠO
phi thường ĐẠO ". Có nghĩa : Cái ĐẠO mà có thể
THUYẾT GIẢNG được thì không phải là cái ĐẠO thường.
Chữ 少 Khi đọc
là THIỂU thì có nghĩa là ÍT. Thiểu Số là Số ít
. Đa Thiểu là It Nhiều, là Bao nhiêu?
Khi đọc là THIẾU thì có nghĩa là TRẺ. Như Thiếu niên,
Thiếu phụ.
...V.V... V.V...
Bây giờ ta nói đến một chữ Giả Tá đặc biệt khác
có bộ XÍCH 彳(nghĩa là Bước chân trái ) ở bên trái,
và chữ XÁCH 亍 ( Bước chân phải ) ở bên phải, đó
chính là chữ HÀNH 行 ( Bước chân trái 1 cái, bước
chân phải 1 cái ) nên HÀNH có nghĩa là ĐI.
HÀNH 行 : Ngoài
nghĩa ĐI ĐỨNG ra, Hành còn có nghĩa là LÀM : HÀNH ĐỘNG,
mà việc làm thì biểu hiện tánh tình và bản chất của
con người, nên HÀNH còn được đọc là...
HẠNH
: là Phẩm Hạnh, chỉ phẩm chất đạo đức của một con người
: " Nhân sanh bách HẠNH hiếu vi tiên " chính là chữ HẠNH
nầy. Kết hợp Hành động và Phẩm hạnh chữ HÀNH còn
được đọc là...
HÀNG
: là Ngành Nghề. Cải HÀNG 改行 là Đổi Nghề. Ta có
thành ngữ : HÀNG HÀNG XUẤT TRẠNG NGUYÊN : Có nghĩa là Bất
cứ ngành nghề nào cũng đều có Trạng Nguyên của ngành
nghề đó cả. Ý muốn nói : Bất cứ nghề nào cũng có
thể phát triển và làm giàu lớn được cả ! Nghĩa
phát sinh của âm đọc nầy là...
NGÂN
HÀNG 銀行 : là Cái Tiệm, Cái Hảng chuyên kinh doanh Tiền bạc.
HÀNG QUÁN cũng là chữ HÀNG nầy. Vì là chỗ Kinh Doanh
nên còn được đọc là ...
HẢNG
: như TỬU HẢNG 酒行 : là cái Hảng Rượu. Hảng Xưởng
là chữ HẢNG nầy. Cuối cùng...
HÀNH
: còn là một thể loại Văn Học chỉ các bài thơ Trường
Thiên như : TÌ BÀ HÀNH của Bạch Cư Dị, TÒNG QUÂN HÀNH
của LÝ Cần, LỆ NHÂN HÀNH của Đỗ Phủ....
HÀNH là chữ tiêu biểu cho câu nói của ông bà ta xưa kia
thường nhắn nhủ là : Nhất tự lục nghì ( Một chữ mà
có tới 6 nghĩa !).
Trở lại với tác
dụng QUẢNG CÁO của Bảng Hiệu. Một công ty ở Hồng Kông đã
để tên Bảng Hiệu như thế nầ : 行 行 行 thu hút không
ít khách hàng ghé lại xem Công Ty của ông ta kinh doanh cái gì
và tên của bảng hiệu phải đọc như thế nào, làm cho
business của ông ta trở nên vô cùng bận rộn và phát triển
.... Thì ra ông ta đang chơi trò Giả Tá, 3 chữ 行 行 行
đọc là : HẠNH HÀNH HẢNG, tức là cái Hảng có tên
là Hạnh Hành , thế thôi !
Lại một
bảng hiệu khác do Từ Văn Trường viết cũng thu hút rất nhiều
khách cho cửa tiệm.
TỪ VĂN TRƯỜNG ( 1521-1593 ) tên là VỊ,
tự là Văn Trường, sanh năm Chánh Đức thứ 16 đời nhà
Minh. Người đất Sơn Âm ( Thiệu Hưng ngày nay ), lớn lên trong
một gia đình quí tộc đang hồi xuống dốc. 6 tuổi đã
đi học, nổi tiếng là THẦN ĐỒNG, 20 tuổi đậu Tú Tài,
là một nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp và là một
họa sư nổi tiếng ở cuối đời Minh đầu đời Thanh.
Ông là người phóng khoáng, không
chịu gò bó vào khuông phép, nên thi hoài 8 khoa mà vẫn không
đậu Cử Nhân giống như Trần Tế Xương của ta : " Tám
khoa chưa khỏi phạm trường qui ! ". Tài hoa thì có thừa, nên
hay dùng văn thơ châm biếm người đời, bởn cợt kẻ quyền
thế, rất được giới bình dân hâm mộ giống như là
Trạng QUỲNH của ta vậy !
Từ
Văn Trường văn hay chữ tốt nổi tiếng trong vùng, nên một hôm,
có người đến nhờ ông viết dùm bảng hiệu " Tỉm
Xấm " bán đồ điểm tâm. 3 chữ " ĐIỂM TÂM ĐIẾM
點心店 vừa treo lên thì người ra vào ăn điểm tâm
nườm nượp suốt cả tháng trời, ông chủ tiệm cười
híp cả mắt, mặc sức hốt bạc... Nhưng có một điều hết
sức ngạc nhiên là thực khách nào ăn xong khi đến tính
tiền đều nói với chủ tiệm là : " Ông ơi, 3 chữ ĐIỂM
TÂM ĐIẾM 點心店 của ông, chữ TÂM sao viết thiếu mất
một chấm ở giữa ?!". Như ta đã biết, hình dạng chữ
TÂM được Cụ NGUYỄN DU diễn tả lúc cô Kiều nhớ Thúc
Kì Tâm ( Thúc Sinh ) là :
Đêm thu gió lọt
song đào,
Nửa vành TRĂNG KHUYẾT BA SAO giữa trời.
Chữ 心 có hình dạng
như Nửa Vành Trăng Khuyết và 3 vì sao, 2 cái 2 bên, 1 cái ở
giữa, nhè Từ Văn Trường không có chấm cái chấm ở
giữa. Ông chủ tiệm là dân thị tứ đâu có biết gì
là chữ nghĩa, nghe mọi người đều nói vậy nên tìm Từ
Văn Trường để nhờ anh ta chấm thêm cho một chấm. Nhưng sau khi
chấm xong chấm đó, thì suốt cả tháng trời buôn bán ế
ẩm. Ông chủ quán lại gặp Từ Văn Trường than thở rằng,
từ khi chấm cái chấm đó xong thì buôn bán không còn
như trước nữa. Từ Văn Trường cười bảo ông ta rằng
: " Chữ TÂM là cái lòng, cái bụng, bụng có trống thì
người ta mới ghé lại mà ĐIỂM Tâm, nay đã chấm thêm
một chấm là bụng đã no rồi, không cần phải ĐIỂM TÂM
nữa, ế là phải ! ". Ông chủ mới té ngữa ra, bây giờ
muốn xóa chấm đó đi thì đã không còn được
nữa rồi !
Sự
thật thì Từ Văn Trường chỉ lợi dụng cái tâm lí hiếu
kì và hiếu sự của quần chúng để " câu khách
" cho tiệm. Ai trông thấy chữ Tâm thiếu mất một chấm đều
" ngứa ngáy " muốn nói cho chủ quán biết, sẵn đã
vào tiệm nên ăn điểm tâm luôn mà thôi !
Trở lại với
Giả Tá. Chữ TRƯỜNG có nghĩa là DÀI, như Trường Thành,
Trường Giang, Trường Sơn... Nhưng khi mượn đọc là TRƯỞNG
thì có nghĩa là LỚN. Như Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Trưởng
thành....
Tên của Từ Văn Trường cũng vậy, người Quảng Đông
thì đọc là Từ Văn Trường, nhưng người Tiều Châu
thì lại đọc thành Từ Văn Trưởng ! Lại chuyện của Từ
Văn Trưởng đây....
Một
hôm gần Tết, Từ Văn Trường thả bộ ra chợ xem bà con nhóm
chợ Tết, gặp một Thầy Đồ là một lão Tú Tài già
đang bày hàng viết Liễn. Tính rắn mắt nổi lên muốn ghẹo
chơi cho vui , Từ Văn Trường xề tới cất tiếng hỏi :
- Thưa Thầy, Thầy viết liễn có nghĩa là Liễn gì Thầy cũng
viết được hết phải không ?. Nghe hỏi lạ, ông đồ già
nhướng mắt lên thấy Từ Văn Trường, biết là chàng trai
nầy định phá mình đây, bèn trả lời rất tự tin :
- Dĩ nhiên, cậu muốn viết liễn gì ?
- Liễn dán chuồng heo ! . Sau giây phút sựng lại vì ngạc nhiên,
ông đồ bèn ra giá :
- Một lạng bạc
! Từ Văn Trường vui vẻ :
- Không thành vấn
đề, nhưng liễn phải hay và có Ý nghĩa mới được
cụ nhé !
Thường các Lão Tú Tài
nầy tiếng Việt ta gọi là TÚ MỀN rất giỏi chữ nghĩa và
già giặn kinh nghiệm . Ông đồ bình tĩnh lặng lẽ đưa
những nét bút thiệt đẹp như rồng bay phượng múa lên
2 tờ giấy hồng đơn đã rọc sẵn. Bây giờ tới phiên
Từ Văn Trường ngạc nhiên, vì trên 2 tờ giấy hồng đơn
mỗi bên 7 chữ, tổng cộng là 14 chữ TRƯỜNG thật đẹp.
Biết ông thầy đồ già muốn " chơi " mình, anh ta cũng
rất bình tĩnh và lễ phép :
- Thưa thầy, nhờ
thầy đọc và cắt nghĩa dùm ạ ! Ông thầy đồ dõng
dạc cất giọng :
- Trường trường trưởng trưởng
trường trường trưởng. Trưởng trưởng trường trường
trưởng trưởng trường ! Nuôi heo, anh mong được gì nào
? Heo mau dài mau lớn phải không ? Thì đây đôi liễn nầy
có nghĩa :
DÀI
DÀI LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN,
LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN LỚN DÀI !
Chuyên chọc phá thiên hạ, lần nầy
bị Tổ trác, liễn dán chuồng heo là câu đối 14 chữ đều
là tên của mình cả, lại phải nhăn mặt móc hầu bao trả
cho ông thầy đồ một lạng bạc, thế mới đau !
Cho hay, chuyện đời có
lúc " Kiến ăn cá ", nhưng cũng lắm khi kiến té xuống
nước thì " Cá cũng ăn kiến " như thường !
Đỗ Chiêu Đức
LIỄN TẾT 2015
Mỗi năm gom giấy
bút,
Tạo dáng ông đồ già.
Nhưng
lòng người không cũ,
Dửng dưng lại đi qua !
Mỗi năm cứ gần Tết đến
là tôi đều chuẩn bị sẵn giấy hồng đơn, giấy màu
đỏ, mực Tàu, nhũ vàng, bút lông lớn nhỏ, cọ viết
chữ Việt chữ Hoa... để viết Liễn Tết gây qũy cho Hội Cựu
học sinh Trung Học PHAN THANH GIẢN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM, Hội Ái
Hữu CẦN THƠ, Hội Cao Niên của Trung Tâm VIỆT MỸ tại TP HOUSTON
TX. Đặc biệt năm rồi lại viết thêm 2 ngày để gây qũy
cho chùa TỊNH LUẬT.
Rất nhiều thân hữu, đồng hương, đồng môn đều
muốn biết những CHỮ và CÂU ĐỐI mà tôi viết để
trình bày và tạo dáng chung quanh mình. Xin được trình bày
lần lượt như sau :
Đó
chính là những câu đối Tết, bình dân thì gọi là
Liễn Tết, truyền thống của người Việt và người Hoa. Đầu
tiên là câu đối mà cả Hoa Việt đều rất ưa chuộng,
đó chính là câu :
Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ
天增歲月人增壽
Xuân mãn càn khôn phước mãn đường
春满乾坤福满堂
. Có
nghĩa :
1:. Trời thì thêm năm thêm tháng, người thì thêm tuổi thọ.
2:. Xuân
về đầy cả đất trời, phước lộc đầy cả nhà.
Hai câu nầy bao gồm cả trời đất, cả bầu trời đều chìm
ngập trong không khí của mùa xuân, người thì thêm phước
thêm thọ...Nên được cả người Việt lẫn người Hoa
ưa chuộng. Có một điều hơi khác là chữ cuối cùng
của Câu đối, chữ ĐƯỜNG, là cái phòng rộng ở
trong nhà, tiếng Anh là HALL, tiếng Việt không có từ để gọi.
Cái phòng rộng nầy là nơi thờ phượng Ông Bà Tổ Tiên
( Từ Đường ), cũng là nơi Cha Mẹ hay ngồi để cho con cháu
hằng ngày đến vấn an, ra mắt, nhất là vào các dịp lễ
hội, Tết nhứt ( Cho nên gọi cha là Xuân Đường, gọi mẹ
là Huyên Đường là vì thế ). Dĩ nhiên, nhà giàu mới
có được cái " ĐƯỜNG " nầy, cho nên nhà nghèo
thì đổi chữ ĐƯỜNG thành chữ MÔN 門, là cái
Cửa, cũng có nghĩa là cái NHÀ,( Từ kép của ta gọi là
NHÀ CỬA mà )...
Xuân mãn càn khôn phước mãn MÔN....là ...Xuân về đầy
cả đất trời và phước cũng tràn ngập cả nhà. Sự
thật thì ĐƯỜNG hay MÔN gì thì cũng là một bộ phân
tiêu biểu cho CÁI NHÀ mà thôi. Tôi nói để khỏi
thắc mắc là tại sao có người viết là ĐƯỜNG, mà
có người lại viết là MÔN, thế thôi.!...
Còn câu đối sau đây là câu đối thuần túy của
người Việt. Lúc nhỏ, gần Tết, tôi hay ra Chợ Cái Răng xem
các Ông Đồ VN viết liễn, thường thì các bàn viết
liễn hay đặt ở bên hông Nhà Lồng Chợ, phía trước tiệm
thuốc bắc Mã Chi Trung, Quảng Tài Lợi... hay bên kia đường là
Dân Hòa Hưng, Vạn Trường An... Các ông Đồ cũng mặc áo
dài bằng the đen, khăn đóng đàng hoàng, năm nào tôi
cũng đọc được câu đối sau đây :
Phước lộc thọ tam tinh củng chiếu
福禄壽三星拱照
Thiên địa nhân tứ hải đồng xuân
天地人四海同春
Có
nghĩa :
1:. Ba sao Phước Lộc Thọ cùng chiếu về( Củng chiếu là ở
3 góc cạnh khác nhau cùng chiếu về một nơi ).
2 :. Trời, đất
và người, bốn bể cùng đón xuân về.
Sẵn đây tôi nhắc luôn , ai có học Tam Tự Kinh thì sẽ biết
: Tam Tài giả : Thiên Địa Nhân. Tam Quang giả : Nhật Nguyệt Tinh ( Trời,
đất và người, gọi là Tam Tài. Mặt trời, mặt trăng
và ngôi sao thì gọi là Tam Quang : ba cái nguồn sáng ở trên
đời theo quan niệm của người xưa ) Còn Phước, Lộc, Thọ
thì gọi là Tam vị Các Tinh 三位吉星, gọi tắt là
Tam Tinh.
Câu đối nầy cũng
rất hay, bao gồm cả trời đất con người và Phúc Lộc Thọ
cùng hội tụ đầy đủ bốn biển để mừng xuân.....
Nhưng câu đối được ưa chuộng nhất, phổ biến nhất
vẫn là câu đối sau đây :
Nhất thất thái hòa chơn phú quý
一室泰和真富貴
Mãn môn xuân sắc thị vinh hoa
满門春色是榮華
Có
nghĩa :
1 :. Một nhà thật là hòa thuận, đó mới là cái phú
quý thật sự ,
2 :. Đầy cửa đầy nhà đều tràn ngập vẻ xuân( vui tươi,
rộn rã ), đó mới chính là cái vinh hoa thực sự.
Vinh Hoa Phú Quý có nghĩa là gia đình trên thuận dưới
hòa và luôn luôn vui vẻ như mùa xuân, chớ không phải có
nhiều tiền, làm quan lớn, mới là Vinh Hoa Phú Quý. Câu đối
ý nghĩa và mang tính xây dựng thực tế biết bao !
Đó là những câu đối xung quanh bàn của tôi đó. Ngoài
ra, còn có các câu chúc như : " Nghinh Xuân tiếp phúc ",
" Ngũ phước lâm môn ", " An Khang thịnh vượng ", " Vạn
sự như ý ",....v.v....
Sẵn
đây tôi muốn nói luôn cho mọi người biết về những
câu đối kỳ cựu, cố hữu của người Hoa cũng như người
Việt ta từ xưa đến nay.
Câu đối mà hầu như người Hoa nào cũng biết khi nhắc
đến Tết , đó chính là câu :
Bộc trúc nhứt thanh trừ cựu tuế
爆 竹 一 聲 除 舊 歲
Đào phù vạn hộ cánh tân xuân
桃 符 萬 户 更 新 春
Có
nghĩa :
1:- Pháo nổ đùng một tiếng, năm cũ đã đi qua ,
2 :- Lá bùa nêu dán lên, mùa xuân mới lại đến.
Ghi Chú :
Bộc trúc : Bộc là nổ, trúc là tre. Bộc trúc là tiếng
tre nổ, nói đúng hơn là " tiếng mắt tre nổ ". Ngày
xưa, chưa có pháo, người ta đốt các mắt tre già ở
dưới gốc cho nó nổ thành tiếng để xua tan những xui xẻo,
buồn lo... của năm cũ cho nó qua đi. Sau nầy, khi chế tạo được
pháo rồi, nhưng vì tập quán ngôn ngữ đã quen, người
ta vẫn dùng từ Bộc Trúc để chỉ pháo luôn. Cho nên khi
dịch từ Bộc trúc, phải biết đó là PHÁO, chứ không
phải tiếng tre nổ nữa ! OK.
Đào Phù : Phù là lá bùa. Đào phù là Lá bùa
dán lên cành cây đào. Tương truyền, cây đào là
loại cây có thể trừ được tà ma, nên vẽ lá bùa
dán lên cành đào trước cửa có thể làm cho tà ma
sợ mà tránh xa... Lâu dần thành tục lệ ngày Tết, Dùng
cành đào để vẽ bùa, hoặc dán lá bùa lên một
cành đào , rồi treo trước cửa để trừ tà ma trong những
ngày Tết. Ỡ VN gọi là bùa Nêu, và được treo lên
trên một ngọn tre còn chừa đọt trồng ở trước cửa nhà,
gọi là Dựng Nêu. Chắc mọi người cũng đã nghe qua câu
hát Ca dao sau đây :
Cu kêu, ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè ....rồi chứ ?
cũng vì vậy mà chữ Đào Phù
phải được dịch là " Lá bùa Nêu ", chớ không phải
là Lá Bùa đào.
Đó
là câu đối phổ cập rộng rãi trong dân gian, cao hơn một
chút, có tính chất văn học và các nét chấm phá của
hội họa, câu đối mang tính nghệ thuật mà phổ biến rất
rộng rãi không kém gì câu vừa nêu ở trên. Đó chính
là câu đối sau đây :
Bộc trúc tam lưỡng thanh, nhân gian thị tuế,
爆 竹 三 两 聲, 人 間 是 歲
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai
xuân.
梅 花 四 五 点, 天 下 皆 春
Tạm diễn nôm như sau :
Hai ba tiếng pháo đì đùng, nhơn gian đón mừng năm mới,
Bốn năm đóa mai lấm tấm, thiên hạ đều biết xuân sang
Còn nói về câu đối truyền thống của VN trong ngày Tết
, thì chắc mọi người cũng đã biết rồi. Đó chính
là :
Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh.
Ý nghĩa đã rõ ràng, đầy đủ thú tiêu khiển vui
chơi và " Ăn " Tết. Để cho Hoa Việt được đề huề,
tôi đã dịch câu đối nầy sang tiếng Hán cổ như sau :
Phì nhục, toan thông, hồng đối liễn
肥肉,酸葱,红對联
Đào phù, bộc trúc, lục phương tung. 桃符,爆竹,绿方粽
Những cái mà tôi vừa nói ở bên trên được áp
dụng liền đây. Tôi đã dùng từ " Đào phù "
để dịch từ " Cây nêu ", và từ " Bộc trúc "
để dịch từ " Tràng pháo " và từ mà tôi đắc
ý nhất là từ " Lục phương tung " là " Bánh ú
vuông màu xanh lá cây " để dịch từ Bánh Chưng xanh. Bánh
ú của người Hoa và bánh chưng của người Việt đều
có nguyên liệu gần giống nhau : Nếp bao lấy nhưn thịt, đậu,
nấm ... và đều được gói bằng lá chuối rồi đem
hấp chin, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi,một cái là
khối vuông còn một cái là hình lăng trụ. Nên Bánh Chưng
dịch là Lục Phương Tung ( Bánh Ú vuông màu xanh lá ) là
người Hoa biết ngay là cái bánh đó như thế nào.
Để kết
thúc bài viết nầy, mời mọi người cùng đọc một câu
đối Ngũ Ngôn ( 5 chữ ), nhưng rất hay, rất xúc tích và nêu
bật được nắng Xuân, mùa Xuân đã về ngập tràn
khắp đất trời vũ trụ :
Hữu
thiên giai lệ nhật, 有天皆麗日,
Vô
địa bất xuân phong ! 無地不春風!
Có nghĩa :
- Hễ nơi nào có trời là
nơi đó có nắng đẹp của mùa xuân chiếu đến.
- Không nơi nào trên mặt đất là không
có gió xuân thổi tới cả !
Cầu mong cho tất cả mọi người ở
mọi nơi của trái đất nầy đều hưởng được một
mùa xuân vui tươi, như Ý và bình an hạnh phúc !
Đỗ Chiêu Đức
_________________________________________________________________________________________________________________________
TẾT 2015
Bốn chục xuân rồi qua biết bao
Nổi chìm cay đắng khổ dường nào !
Ai người vất vả còn trôi nổi ?
Lắm kẻ yên lành quên xóa mau !
Đất nước đổi màu sau cuộc chiến,
Thời gian chưa xóa hận ban đầu.
Những buồn đất khách sầu cô lẻ,
Xuân đến chạnh lòng biết nói sao ?
Đỗ Chiêu Đức.
LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
Theo U MINH LỤC của Lưu Nghĩa Khánh
đời Tống(宋.劉義慶《幽明錄》)chép
rằng :
Năm
Vĩnh Bình thứ 5 đời Hán Minh Đế ( Công nguyên năm 62 ), người
đất Diễm ( thuộc tỉnh Chiết Giang hiện nay ) là LƯU THẦN và
NGUYỄN TRIỆU vào Thiên Mụ sơn để hái thuốc. Thiên Mụ
Sơn gồm có Lưu Môn sơn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Phất Vân
Tiêm, Ba Tiêu sơn và Liên Hoa Phong quần tụ mà thành, thế núi
hiễm trở, phong đỉnh chập chùng, cao nguyên rộng lớn, hoa cỏ rậm
rạp xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, muôn màu muôn vẻ. Lưu
Nguyễn mãi mê hái thuốc, lạc sâu mãi trong rừng hoa thơm cỏ
lạ, tới chừng nhìn lại thì trời đã về chiều, bụng
lại đói meo. May sao bên triền núi có mấy cây đào mọc
theo khe suối, nhằm lúc đào đang chín rộ, bèn hái lấy
mấy trái mà ăn đỡ đói, nào ngờ đó là đào
tiên, ăn vào ngon ngọt và thơm tho cả mồm miệng, khí lực
lại sung mãn, bèn lần theo khe suối mà đi lên, đến một
nơi khe nước rộng, trời đất như mở ra một thế giới mới,
với hoa thơm cỏ lạ ven bờ, với oanh yến líu lo kêu hót, hai chàng
lấy ly ra để múc nước suối uống, thì thấy bên bờ
khe đã đứng sẵn 2 nàng con gái tuyệt đẹp, cười mà
rằng : " Hai chàng Lưu Nguyễn sao lại đến muộn thế ? " Bèn
thân mật như người quen đã lâu năm, rước 2 chàng cùng
về động phủ. Trong động như có trời đất riêng, phòng
ốc khang trang tráng lệ, đã thiết bị sẵn 2 phòng hoa chúc,
ngọc chuốc vàng treo, mười phần hoa lệ. Tiệc hoa cũng đã
bày sẵn , tiên nữ tới lui tấp nập, cùng mời 2 chàng nhập
tiệc với đầy đủ sơn hào hải vị. Xóm đông
có các tiên nương cùng mang đến một mâm đào tiên,
cười chúc cho hai nàng đã đón được hai chàng rể
quí Lưu Nguyễn vừa du nhập Thiên Thai. Tiệc hoa vui vầy, rượu tiên
thơm lừng, chưa nhấp đã say, hòa trong tiếng sanh ca hoan lạc, đưa
hai chàng cùng vào động phòng với hai tiên tử trong tiếng tiên
nhạc du dương ngây ngất !...
Nhưng chỉ quá
mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin về, hai nàng cố
cầm giữ lại, được hơn nửa năm, mặc dù bên mình
luôn có người đẹp...như tiên, nhưng khi nghe tiếng Tử Qui gọi
Xuân thắm thiết, hai chàng càng nghe lòng nhớ quê mãnh liệt
hơn lên và nhất định xin về. Hai nàng đành phải buộc
lòng đặt tiệc tiễn hành và chỉ lối để hai chàng
về quê với biết bao là tình thương quyến luyến, bịn rịn
chẳng nở rời xa !...
Về đến làng
quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không thấy
nhà cửa của mình ở đâu nữa. Hỏi thăm trong họ tộc,
thì có một cụ già cho biết rằng : Ông Tổ bảy đời
của họ đi vào núi hái thuốc rồi lạc mất đường
không thấy trở về. Lưu Nguyễn ở trên Thiên Thai nửa năm, nhưng
ở dưới núi đã qua đến 7 đời con cháu. Hỏi ra, thì
bấy giờ đã vào năm Thái Nguyên Thứ 8 của đời nhà
TẤN rồi ( Công Nguyên năm 388 ) hơn 300 năm sau rồi !. Hai người đành
qua trở lại Thiên Thai, nhưng đã không còn tìm được
đường lên Tiên động nữa !
Trong những bài thơ vịnh về LƯU NGUYỄN
LẠC THIÊN THAI, phải kể đến 5 bài trong ĐẠI DU TIÊN THI của
TÀO ĐƯỜNG đời Đường là tiêu biểu và nổi
tiếng nhất.
Xin được giới thiệu 3 trong
số 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG sau đây
....
1.SƠ LƯỢC VỀ
TÀO ĐƯỜNG.
TÀO ĐƯỜNG tự là Nghiêu Tân,
người đất Quế Châu ( thuộc Quế Lâm Quảng Châu hiện nay
). Không rõ năm sanh và mất. Lúc đầu xuất gia làm Đạo
Sĩ, sau ứng thi Tiến Sĩ giữa năm Đại Trung, nhưng không đỗ.
Khoảng năm Hàm Phong ( 860-874 ) tùng sự ở Chư Phủ. Tào sống
cùng thời với La Ẩn 罗隐, tài thơ ngang nhau, Tào thường
truy cứu hâm mộ tình tự cao nhã của các bậc thần tiên,
nên sáng tác các thiên " Đại du tiên thi 大游仙诗
", " Tiểu du tiên thi 小游仙诗 " gồm 50 thiên, tả lại
những nỗi bi hoan ly hợp của chư tiên nhân để phổ biến và
truyền lại đời sau. Tào Đường lại rất thường gặp
La Ẩn để trao đổi Ý kiến về những bài thơ mà mình
mới sáng tác.
2. BÀI 1 : LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
劉晨阮肇遊天台
樹入天台石路新,
雲和草靜迥無塵。
煙霞不省生前事,
水木空疑夢後身。
往往雞鳴岩下月,
時時犬吠洞中春。
不知此地歸何處,
須就桃源問主人。
曹唐
LƯU THẦN NGUYỄN TRIỆU DU THIÊN THAI
Thụ nhập thiên
thai thạch lộ tân,
Vân hoà thảo tĩnh quýnh vô trần.
Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
Thuỷ mộc không nghì
mộng hậu thân.
Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
Bất tri thử địa
quy hà xứ,
Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân.
TÀO ĐƯỜNG
DỊCH NGHĨA :
LƯU
THẦN NGUYỄN TRIỆU DU NGOẠN THIÊN THAI
Hàng cây dẫn nhập thiên thai với con đường đá mới,
mây hòa quyện lấy cỏ trong thanh tĩnh không vướng chút bụi
trần. Khói ráng mông lung như không rõ được truyện của
kiếp trước, Suối nước và rừng cây cũng mờ ảo như
còn ngờ ngợ thân ta như sau cơn mộng mị. Luôn luôn như nghe
được tiếng gà gáy ở mõm đá dưới ánh trăng,
và như lúc nào cũng có tiếng chó sủa trong động xuân.
Không biết là nơi đây sẽ đưa đến nơi đâu, chỉ
còn có nước là tìm chủ nhân của xứ Đào Nguyên
nầy mà hỏi !?...
DIỄN NÔM :
LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
Cây
dẫn nhập Thiên Thai cao vút ,
Cỏ mây vương chẳng chút bụi trần,
Yên hà không nhớ tiền thân,
Nước mây luống những bâng khuâng mộng hồn.
Tiếng gà gáy dập dồn trăng tỏa ,
Văng vẳng xa chó sủa động xuân,
Đào nguyên dám hỏi chủ nhân,
Rằng đây dẫn lối xa gần Thiên Thai ?
Đỗ Chiêu Đức
3. BÀI 2
: THIÊN THAI TỐNG BIỆT
僊子送劉阮出洞
殷勤相送出天台,
僊境那能卻再來。
雲液既歸須強飲,
玉書無事莫頻開。
花留洞口應長在,
水到人間定不回。
惆悵溪頭從此別,
碧山明月照蒼苔。
曹唐
TIÊN
TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN XUẤT ĐỘNG
Ân cần tương tống xuất Thiên Thai,
Tiên cảnh na năng khước tái lai.
Vân dịch kí
qui tu cưởng ẩm,
Ngọc thơ vô sự mạc tần khai.
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
Trù trướng
khê đầu tòng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt
chiếu thương đài !
TÀO
ĐƯỜNG
DỊCH NGHĨA :
TIÊN TỬ ĐƯA LƯU NGUYỄN RỜI THIÊN THAI
Ân cần đưa tiễn nhau ra khỏi
chốn Thiên Thai, Tiên cảnh biết làm sao còn có thể trở
lại đây. Đã quyết định đi về nên phải miễn cưởng
mà uống cạn chén rượu tiên đưa tiễn ( Vân dịch : tên
một loại rượu tiên ). Nếu không có chuyện gì thì không
nên thường xuyên mở Ngọc thơ ra xem ( Ngọc Thơ : Sách của
Đạo gia tu Tiên ). Hoa lưu lại trước cửa động sẽ còn
mãi mãi nơi đây, nhưng nước đã chảy về với dân
gian thì chắc chắn sẽ không còn quay trở lại được nữa.
Bịn rịn mãi ở đầu khe suối nơi mà từ đây đành
cách biệt, chỉ còn trơ lại vầng trăng bạc trên đỉnh
núi biếc chiếu lên đám rêu xanh !
DIỄN NÔM :
THIÊN THAI ĐƯA TIỄN
Ân cần tiễn
biệt rời tiên động,
Cảnh tiên
thôi hi vọng trở về,
Chén đưa
luống những não nề,
Ngọc thơ vô
sự chẳng hề mở đâu !
Hoa trước
động luôn sầu mong nhớ,
Nước
xuôi dòng biết thuở nào về,
Chia
tay lòng những tái tê,
Rêu xanh núi
biếc trăng thề luyến lưu !
Đỗ
Chiêu Đức
4. BÀI 3 : TÁI ĐÁO THIÊN THAI
劉阮再到天台不複見仙子 Tạo dáng trong phim và tượng của NGỌC CHÂN CÔNG CHÚA
再到天台訪玉真,
青苔白石已成塵。
笙歌寂寞閑深洞,
雲鶴蕭條絕舊鄰。
草樹總非前度色
煙霞不似往年春。
桃花流水依然在,
不見當時勸酒人。
曹唐
LƯU NGUYỄN TÁI ĐÁO THIÊN
THAI BẤT PHỤC KIẾN TIÊN TỬ
V
Tái đáo Thiên Thai phỏng Ngọc Chân,
Thanh đài bạch thạch dĩ thành trần.
Sanh ca tịch mịch
nhàn thâm động,
Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân.
Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc,
Yên hà bất tự
vãng niên xuân.
Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại,
Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân.
TÀO
ĐƯỜNG
DỊCH NGHĨA :
TRỞ LẠI THIÊN THAI KHÔNG GẶP ĐƯỢC TIÊN NỮ
Trở lại Thiên Thai để tìm gặp Tiên nương ( Ngọc Chân
: chỉ chung phái nữ tu thành tiên ). Chỉ thấy rêu xanh và đá
trắng đều hóa thành tro bụi cả rồi. Trong động sâu đã
vắng vẻ không còn tiếng sanh ca như ngày nào, hàng xóm cũng
vắng tanh tiêu điều như mây hạc bay xa. Cỏ cây hoa lá không
còn vẻ hương sắc của ngày xưa, yên hà mây khói cũng
không còn nhuốm sắc tươi như mùa xuân cũ. Hoa đào nước
cuốn cũng vẫn còn đó như trước kia, chỉ có người
chuốc rượu đưa tiễn năm xưa thì không còn tìm đâu
thấy nữa !
*. NGỌC CHÂN : là Công Chúa Ngọc Chân 玉真公主,
tên là LÝ TRÌ DOANH 李持盈 ( 692-762 ),cháu nội của Võ
Tắc Thiên đời Đường. Theo Đạo Giáo xuất gia làm đạo
cô, lấy hiệu là HUYỀN HUYỀN, đắc đạo thành tiên, nên
thường dùng để chỉ chung cho các nàng tiên nữ.
DIỄN NÔM :
TRỞ LẠI THIÊN
THAI
Quay
trở lại Thiên Thai chốn cũ,
Đá
rêu xanh đã phủ bụi trần,
Sanh
ca vắng vẻ động xuân,
Tiêu điều
mây hạc xóm gần làng xa.
Cỏ cây
cũng nhạt nhòa hương sắc,
Yên
hà như cũng nhắc xuân thừa,
Hoa
đào nước cuốn như xưa,
Đâu
người chuốc rượu tiễn đưa dạo nào !?
Đỗ
Chiêu Đức
________________________________________________________________________________________________________________________
GÓP Ý VỀ BÀI
VIẾT
" Những từ
dùng sai trong ngôn
ngữ tiếng Việt "
______________________________________________________________________________________________________________
Dưới
đây là những góp Ý rất chân thành và khách quan của
tôi, nhằm mục đích làm trong sáng và phong phú hơn tiếng
Việt một cách thực tế, phù hợp với " Tập quán Ngôn
ngữ " hằng ngày của cộng đồng nười VIỆT nói tiếng
VIỆT, chớ không lập dị hoặc bới lông tìm vết gì cả
!
Trước
tiên, xin đề cập đến từ " CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ ".
Trích bài viết :
CHUNG
CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt
ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải
đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có
nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư
終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà
là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa.
Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居
thì mới ổn.
Theo
tôi nghĩ :
Từ CHUNG CƯ là từ được
viết gọn lại của nhóm từ CÙNG CHUNG CƯ NGỤ, đã được
quần chúng sử dụng từ trước đến nay, nghe đã quen tai, không
cần thiết phải đổi lại thành CHÚNG CƯ, nghe vừa xa lạ vừa
chói tai, vừa lập dị vừa không hợp với tập quán ngôn ngữ.
Xin được giải thích...
Trước
tiên, xin được nói về TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, TẬP QUÁN
là Thói Quen, NGÔN NGỮ là Tiếng Nói. TẬP QUÁN NGÔN NGỮ
là Thói quen của một Tiếng nói nào đó mà mọi người
đã quen sử dụng và chấp nhận Ý nghĩa của nó theo Thói
Quen. Ví dụ :
Từ CHẮC là CHẮC CHẮN, được
sử dụng theo nghĩa KHÔNG CHẮC CHẮN gì cả ! Xem các câu sau
đây :
- Trời oi bức quá, chiều nay CHẮC
mưa.
- Trời mưa, CHẮC nó không đến đâu
!
- Tối nay có đi xem phim không ?- CHẮC đi !
Trả lời là " CHẮC đi "để tỏ cái Ý
" KHÔNG CHẮC đi " gì cả ! Đó là TẬP QUÁN NGÔN
NGỮ ! Thế thì...
Khi nói "
CHUNG CƯ " là mọi người đều hiểu ngay rằng đó là
nơi có nhiều người CÙNG CHUNG CƯ TRÚ, chớ không phải là
NƠI Ở CUỐI CÙNG, MỒ CHÔN hay NGHĨA ĐỊA gì cả , vì "
CHUNG CƯ là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng
chấp nhận, thì TẠI SAO ta phải đi bới lông tìm vết, bảo
nó không chính xác mà phải nói là CHÚNG CƯ cho đúng
với cách nói của từ Hán Việt ?! CHÚNG CƯ vừa chói
tai khó nghe, vừa không hợp với TẬP QUÁN NGÔN NGỮ !
Ta có bảo người Pháp
chào nhau bằng câu : " comment allez vous ? " là sử dụng SAI động
từ ALLER ( đi ) không ? Và người MỸ chào nhau bằng câu : "
How are you doing ? là dùng không chính xác động từ TO DO ( làm
) không ? Cũng như người Việt ta chào nhau bằng câu : " Có
khỏe không ? ", không phải ta dùng sai từ KHỎE đâu, người
Hoa chào nhau bằng câu : " Sực fàl mì ? 吃飯沒?"
( Ăn cơm chưa ? ) không phải là họ nói SAI đâu, mà tất
cả đều là do TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người
cùng chấp nhận mà thôi !!!
Sở
dĩ tôi phải nói dài dòng như thế là chỉ để làm
cơ sở cho những nhận xét kế tiếp của phần bên dưới.
Về từ KHẢ NĂNG 可能. Trích...
KHẢ NĂNG. "Khả
năng" 可 能 là năng lực của con người,
có thể làm được việc gì đó. Thế mà người
ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm
nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết
vì bị bệnh... Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ.
Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng
可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可
以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ
thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ
khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người
mà thôi.
Theo tôi nghĩ thì : KHẢ NĂNG là Phó Từ, có nghĩa là Có
Thể ( perhaps, maybe, possibly ), còn NĂNG LỰC mới là Tài Năng và
Sức Lực ( capability, ability ) của con người làm được việc
gì đó. Nên câu:
Hôm
nay, khả năng trời không mưa.
chỉ
là câu nói thiếu chữ, sai văn phạm, chớ không sai từ, nếu
nói lại như thế nầy, thì câu sẽ hoàn chỉnh :
Hôm nay, có khả
năng trời sẽ không mưa .
Và câu...
Khả
năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh...
Nói lại thành...
Con bò
nầy có khả năng sẽ chết vì bị
bệnh...
Nhưng...
Nếu
KHẢ NĂNG là Danh Từ, thì có nghĩa giống như là NĂNG LỰC .
VD :
NĂNG LỰC của một người là chỉ
KHẢ NĂNG của người đó có thể làm được việc
gì đó.
Về từ " HUYỀN THOẠI
". Trích...
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có
bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng
tiếng Hán để tỏ ra "ta đây" nên nhiều tiếng được
dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất
thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói
"huyền thoại Pelé" "huyền thoại Maradona".. Người có
học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng
chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄
là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực.
Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu
chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà
ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông
Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những
huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt
100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao
gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để
đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: "Cái
tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại".
Ông bà mình thường nói: "Dốt thì hay nói chữ, có
đúng trong trường hợp nầy hay không?"
Chưa chắc mình đã giỏi hơn ai, sao lại cười người quá
thế ?!
Chỉ đồng Ý với cách giải nghĩa đen của từ HUYỀN
THOẠI, sao không tìm hiểu NGHĨA BÓNG và NGHĨA PHÁT SINH của
một từ mà lại vội tỏ lời khinh bạc sâu cay đối với
người khác thế ?!
HUYỀN THOẠI
ngoài nghĩa là " Câu chuyện Huyền diệu, Huyền hoặc, Huyền
vi không có thực " ra, còn được sử dụng như là một
HÌNH DUNG TỪ để chỉ những khả năng vượt trội siêu thực,
khó có thể có được trong đời sống hằng ngày.
Điều
cần nhớ, bây giờ NÓ là TÍNH TỪ chớ không phải là
DANH TỪ nữa, phải hiểu theo nghĩa HÌNH DUNG của NÓ, thì mới
thấy được cái dụng Ý của nhóm từ HUYỀN THOẠI PÉLÉ
hay HUYỀN THOẠI MARADONA. Vì đây là những nhân tài Bóng Đá
hiếm thấy trong làng TÚC CẦU THẾ GIỚI mà trước mắt hay
tương lai cũng khó mà có được !
Hơn nữa đây đã
là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, vì mọi người đều chấp nhận
gọi thế, Ý nghĩa cũng đã rõ ràng, sao lại còn làm
ra vẻ ta đây là " bác học " để chê trách mọi
người " Dốt hay nói chữ "!.
Bây giờ
thì ta sẽ nói về các từ " HÔN PHU, HÔN THÊ " đây....
Trích :
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê
là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ
hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ
người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới)
hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê
thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là
nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân
昬君 là nhà vua u mê vậy.
HÔN
婚 ( marry, marier ) mà giải nghĩa là CƯỚI là
SAI ...BÉT ! Theo tôi học thì HÔN là GIÁ 嫁 và THÚ
娶, GIÁ là Gã, là Lấy chồng, còn THÚ là Cưới
vợ. Vậy, HÔN 婚 là Sự CƯỚI GÃ. Cho nên...
HÔN PHU, HÔN THÊ là Vợ hoặc Chồng có cưới hỏi đàng
hoàng, có làm Giấy Giá Thú, Hôn Thú đàng hoàng, chớ
không phải Vợ Chồng Tự Kết Hợp, tự mình ăn ở với nhau
! Và khi nói...
HÔN PHU, HÔN THÊ không ai
nghĩ đó là nguời chồng u mê, người vợ u mê cả
!, mà hiểu ngay đó là VỢ CHỒNG HỢP PHÁP, CÓ CƯỚI
HỎI ĐÀNG HOÀNG. Những từ nầy RẤT QUAN TRỌNG đối với
các Luật Sư và Tòa Án.
Đâu
có ai lập dị một cách... đa sự, mà đi đánh đồng
từ ĐỒNG ÂM giữa HÔN PHU 婚夫, HÔN THÊ 婚妻 và
HÔN QUÂN 昏君 bao giờ ! Hai chữ HÔN khác nhau xa mà !
Tiếp tục Trích...
2.- Sai vì cố ý
sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC LẬP
Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立
là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng
riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng
từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của
một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc
gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều
có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ
độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương
Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập.
Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc
lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ
được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến
ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt
Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái
sai của họ.
Nghĩa đen thui của
ĐỘC LẬP là Đứng đơn độc một mình, Đúng rồi
! Nhưng sao không xét nghĩa phát sinh và ngữ cảnh lúc từ ĐỘC
LẬP ra đời ?! Từ ĐỘC LẬP ra đời trong bối cảnh các nước
nhược tiểu đấu tranh giành quyền TỰ CHỦ trong giai đoạn phát
triển mạnh mẽ nhất của Chủ Nghĩa THỰC DÂN THUỘC ĐỊA
sau Thế Chiến Thứ Nhất. Nên...
ĐỘC
LẬP là Tự mình đứng dậy riêng mình, Tự mình tổ
chức chính quyền của riêng mình, Tự mình TỰ CHỦ lấy mình,
mà không nhờ vào hoặc bị khống chế bởi một Ngoại Bang
nào khác. Nói thế, không phải là sửa nghĩa gốc của từ
Hán Việt, mà là triển khai nghĩa bóng, nghĩa phát sinh của
một từ khi nó đi vào cuộc sống.
Có ĐỘC LẬP thì mới TỰ
CHỦ chủ được ! Hơn nữa từ ĐỘC LẬP đã
trở thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ lâu rồi, mọi người đều
nói : Lễ ĐỘC LẬP của một nước, chớ không ai nói Lễ
TỰ CHỦ của một nước bao giờ ! Còn nói : Ngày
nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình
mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế.
Đúng rồi ! Cái đó kêu
bằng BANG GIAO, ĐỘC LẬP không có nghĩa là " CHƠI MỘT MÌNH
", không chơi với ai. Sao lại hiểu nghĩa HẸP HÒI thế ?! Và...
Sao lại chỉ
nghe " Có người bảo với tôi rằng "
mà đổ lỗi cho Tôn Dật Tiên, rồi xúc phạm đến bậc
trưởng thượng nầy ?! Có đáng trách lắm không ???
Từ PHONG KIẾN . Trích ...
Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité)
mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà
thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến
là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình
chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
Chỉ đồng
Ý với nghĩa đen của từ PHONG KIẾN và trên bình diện nghiên
cứu Lịch Sử. Còn về nghĩa thông dụng khi đi vào cuộc sống
thì nhận xét như trên là quá hẹp hòi, vì từ...
PHONG KIẾN khi dùng rộng ra là để
chỉ những Chế Độ Quân Chủ Chuyên Chế lạc hậu so với
phong trào đấu tranh Dân Chủ đang lên. Gọi Chế Độ Quân
Chủ CHUYÊN CHẾ là PHONG KIẾN để Nhấn Mạnh đến tính
chất lạc hậu, cổ hủ, không có nhân quyền... so với Chế
độ DÂN CHỦ mới mẻ tôn trọng quyền sống của con người
hơn. Trong lúc muốn đả phá cái cũ lạc hậu có nói
quá lố một chút cũng là chuyện bình thường mà thôi.
Chính vì thế mà khi chấp chánh Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM
đã chủ trương BÀI PHONG ĐẢ THỰC ( Bài trừ phong kiến
và Đánh đuổi thực dân ) để xây dựng cuộc sống
mới . Đâu phải tại dốt và dùng sai từ PHONG KIẾN đâu
!
Trích...
3.- Sai vì không phân biệt được
tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: "Ngày
giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ". Nói như vậy
là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán
Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ
tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày
giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng
Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài
tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ.
Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để
cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài
lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người
đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì
tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh
từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn
Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
Theo tôi nghĩ, gọi ...
QUỐC GIỖ, GÓA
PHỤ là một Sáng tạo làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng
Việt đó chứ ! Sao lại cứ phải khăn khăn ghép từ theo kiểu
Hán Việt thế ?! Chả lẻ lại gọi là NGÀY QUỐC KỴ hay toàn
Nôm là NGÀY GIỖ NƯỚC ? Còn...
GÓA PHỤ hay QUẢ PHỤ gì thì đều là những từ thông
dụng đã đi vào TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của tiếng Việt,
sao lại còn phải thắc mắc ?!!!
Còn
luôn miệng bảo là phải ghép hai chữ Hán lại thành một
từ mới hợp với Văn Phạm Hán Việt (???) thì hãy quên
đi !!!
Mời xem các Ví dụ sau đây
:
Từ
HÁN VIỆT : HƯƠNG là THƠM ( NÔM ), ta có từ Ghép :
Hương Thơm.
HOA là BÔNG, ta có từ Ghép : Bông
Hoa.
KÝ là GỞI , ta có từ Ghép : Ký
Gởi.
PHÂN là CHIA, ta có từ Ghép :
Phân Chia.
LÝ là LẼ, ta có từ Ghép :
Lý Lẽ.
SANH là ĐẺ, ta có từ Ghép :
Sanh Đẻ.
TIẾP là NỐI , ta có từ Ghép :
Tiếp Nối.......
nhiều vô số kể !....
AI ? Ai dám bảo là
KHÔNG THỂ GHÉP MỘT TIẾNG HÁN và MỘT TIẾNG NÔM lại để
thành lập một từ mới ?!
Trích...
4.- Sai vì không phân biệt được
văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X
QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất
khó chịu khi nhìn thấy cái bảng "Phòng X quang" Tôi khó
chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi
về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ
pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng
bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn
phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì
cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là
một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光
có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia
kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn
tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm
một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét
đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ
dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không
kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không
phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét
về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu
ông "đại giáo sư tiến sĩ" nào đã bày ra cái
tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ "TIA X" như trước
đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa
thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ "X QUANG"
để chứng tỏ ta đây biết "nói chữ" hay sao?
Luôn miệng mạt
sát và mỉa mai người khác ( "đại giáo
sư tiến sĩ" nào ), mà không biết đến sự cổ hũ,
cố chấp của mình !
TIA X là Tia gì
? Tia Sáng, Tia Chớp, Tia Nước hay Tia... Nhìn ?! Trong khi...
X- QUANG có nghĩa là : TIA SÁNG X .
Nói
chơi thế thôi, chớ TIA -X hay X- QUANG ( tia Röntgen ) gì mà chả được
! Có cần phải khó chịu đến nỗi phải lí luận tràng
giang đại hải khoe mình uyên bác như trên kia không ?!
TIA-X hay X-QUANG đều dễ hiểu, dễ đi vào quần chúng, thì
thôi, thắc mắc làm gì cho nó ốm ?!
Sự thật X-QUANG là lấy
từ " X-光 " của người Hoa phiên âm sẵn, rồi ta lấy xài
luôn cho tiện, khỏi mất công ! Chuyện nầy cũng không phải
mới mẻ gì mà đã từng xảy ra trong quá khứ và còn
ảnh hưởng mãi cho đến hiện nay. Ví Dụ :
Người Hoa phiên âm chữ CANADA là 加拿大 ( Jia-na-da ), ta dịch
ra Hán Việt là nước GIA NÃ ĐẠI. Tương tự ITALI, họ
phiên âm là 意大利 ( Yi-da-li ), ta dịch và gọi là nước
Ý ĐẠI LỢI. v.v. và .v.v .... đâu có chết " thằng Tây
" Phú Lang Sa nào đâu, thắc mắc làm gì cho nó mệt ?!
Tương tự như thế, suốt bài viết, tác giả bài viết
tưởng rằng mình giỏi Hán Việt lắm, cứ chê trách tập
thể cộng đồng người Việt nói tiếng Việt dốt nát, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu
học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ
ra "ta đây" nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một
cách thực buồn cười.Thực ra, sửa sai mà sửa một cách
lập dị, cố chấp, thiếu đầu óc thông thoáng và hiểu
biết, thì chưa biết là ai " buồn cười " hơn ai đây
?!
Suốt
từ đầu đến cuối gồm 16 mục Hà Thủy Nguyên (?) luôn
miệng bảo : Sai vì không phân biệt được văn phạm
Hán Việt với văn phạm Nôm. ( ? ) Không
biết là cái Văn Phạm nầy HTN học từ đâu ra mà cứng
ngắt không linh động chút nào cả ! Vả lại, chữ Hán Việt
cổ có Văn Phạm đâu mà học ?! Ngay cả dấu chấm
câu còn không có mà làm sao có Văn Phạm được ?!
. Nhưng thôi, ta hãy nói chuyện chính trước...
Xuất phát từ
động cơ tốt, muốn làm rõ nghĩa để sử dụng từ ngữ
một cách chính xác hơn, nhưng cách nhận xét và phê bình
của Bài Viết có vẻ thô lổ, cộc cằn, luôn miệng mỉa
mai, xài xể bóng gió những từ ngữ được đề cập...
do ai đó tạo ra, đưa ra ! Thật tội nghiệp ! Nói và Viết
nghiêm chỉnh đàng hoàng còn chưa có tác dụng, huống hồ
với giọng điệu trịch thượng, ta đây như Bài Viết thì
làm sao mà đạt mục đích yêu cầu cho được. Xin được
dẫn chứng...
Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài
đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương
Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển
sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nội dung bài
báo đề cập đến việc nên dùng từ " CHÚNG CƯ "
thay thế cho từ " CHUNG CƯ " giống như bài viết nầy đã
đề cập. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng
dùng từ CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian
sau và mãi cho đến hiện nay, đã 20 năm qua , thì... đâu
vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn
thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ !!! Tất cả
báo đài trước mắt đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO
CẤP, chớ không phải CHÚNG CƯ nữa !
Từ đó, ta có thể
xác định lại một lần nữa là : Cái TẬP QUÁN NGÔN
NGỮ của quần chúng, NÓ mạnh biết chừng nào !. Nên, theo tôi
thì...
Những
từ nào đã được tập thể quần chúng nhân dân sử
dụng rộng rãi rồi thì... thôi, ta nên chấp nhận ( không chấp
nhận cũng không được ! ) Nó như là một thành viên mới
trong gia đình, nếu tự bản thân Nó không ổn, chắc chắn
Nó sẽ bị đào thải mà thôi ! Ví dụ như từ "
CHÚNG CƯ " đã nêu ở trên.
Trở ngược về xa hơn,
ta thấy trong TRUYỆN KIỀU của cụ NGUYỄN DU cũng có những từ đã
bị đào thải theo thời gian, như :
Vài tuần chưa cạn chén khuyên,
Mái ngoài NGHỈ đã giục
liền ruổi xe,
Xót con lòng nặng
CHỀ CHỀ,
Trước yên ông
đã NẰN NÌ thấp cao.
NGHỈ : là Nhân Vật Đại từ, Ngôi thứ ba số it.
Nặng CHỀ CHỀ : Bây giờ ta nói là Nặng CHÌNH CHỊCH.
NẰN NÌ : là Năn Nỉ.
Trong khoảng đầu thập niên 60 của thế kỉ trước rất thịnh
hành các từ " Lấy Le ", " Bỏ qua đi Tám ! ", " Hứa
Lèo "... Nhưng sau 1975 thì các từ nầy biệt dạng luôn ! Cũng
như sau 1975 Miền Bắc đã cho du nhập vào Miền Nam các từ : "
Lính Thủy đánh bộ ", " Trung Tâm Nghe Nhìn ", " Máy
bay lên thẳng "... như bài viết đã đề cập, nhưng bây
giờ khi nhắc đến quân đội MỸ, họ vẫn sử dụng từ
" Thủy Quân Lục Chiến, Trực Thăng Chiến Đấu ... như thường
!
Vì thế mà ...
Ta thấy, Ngôn
Ngữ tự nó có sức sống và giá trị riêng của nó,
nên cũng đừng quá lo lắng ưu tư đối với các từ
như : " Bê-tông hóa ", " tin tặc ", " Lưu Ban ", " Kích
Cầu ". ... Nếu không đủ sức thuyết phục người nghe người
nói thì tự nó sẽ bị đào thải mà thôi !
Một điều đáng
nói nữa là vì là đồng minh tiếp xúc lâu ngày với
ngôn ngữ Trung Quốc, nên bị ảnh hưởng bởi một số từ
của Tiếng Hán Hiện Đại, như :
Sự
Cố 事故 : là Nguyên nhân xảy ra một sự việc nào đó,
hàm Ý chỉ : Có sự việc rắc rối xảy ra. Còn Cố Sự
故事: là Chuyện Đời Xưa hoặc là Một câu chuyện nào
đó .
Kiêu Ngạo 驕傲: Ngoài nghĩa
Kiêu Căng Ngang Ngược, Kiêu Ngạo còn có nghĩa là Làm Phách.
Vì không hiểu nghĩa nầy trong Tiếng Hán Hiện Đại, nên người
viết bài nầy mới không giải thích được câu hỏi của
người bạn. Có người nhờ tôi giải
thích một câu nói trong sách báo nào đó :"Thằng A hay
kiêu ngạo với người khác." Tôi không giải thích được
vì không rõ câu nầy có nghĩa: "thằng A thường tỏ ra
kiêu căng với người khác", hay là "thằng A thường chế
nhạo người khác". Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều
không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì
không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
Tham Quan 參觀
: Tham là Tham gia, Quan là xem xét, nhìn ngắm. Đi THAM QUAN là đi tham
gia để xem xét và ngắm nhìn cái gì đó, nơi nào
đó,chớ không phải như người viết đã mỉa mai.THAM
QUAN. 參觀 : Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi
là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét,
nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
ĐĂNG KÝ 登記
: là Ghi chép, là Viết lại cái gì đó. Vì không hiểu
nghĩa nầy, nên người viết bài đã lên tiếng mỉa mai
một cách rất buồn cười như sau : Đăng
ký 登記 là chép vào sổ một vật được
đưa đến. Thế mà ngày nay, người ta nói: "Tôi đã
đăng ký đi nước ngoài" Nghe như người ta sẽ gói
tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không
thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
Người
viết còn không phân biệt được Tiếng Hán Cổ và Tiếng
Hán Hiện Đại, nên đã viết...
Việc
đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào
ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó
sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán
Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không
phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng
Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa.
Sự
thật thì Tiếng Tàu Xưa và Tiếng Tàu Nay cũng Y chang như nhau,
dĩ nhiên là có sự biến đổi theo thời gian như tất cả
các ngôn ngữ khác trên thế giới. Có điều là người
Hoa họ NÓI và VIẾT khác nhau, văn nói là văn BẠCH THOẠI
白話文, văn viết là văn VĂN NGÔN 文言文. Văn nói
BẠCH THOẠI thì thông thoáng trơn tru bình dân dễ hiểu, còn
văn viết VĂN NGÔN thì cầu kỲ hàm xúc sâu xa bác học
khó hiểu hơn. Xưa nay vẫn thế , Văn Ngôn và Bạch Thoại luôn
luôn phát triển song song với nhau. Nhưng sau Cách Mạng Tân Hợi ( 1911
), thì theo trào lưu phát triển thế giới ngày càng phải nhanh
gọn dễ hiểu nên chỉ chú trọng vào Bạch Thoại, còn Văn
Ngôn thì cho lui vào làm CỔ VĂN. Nói thế, chớ các văn
bản ngoại giao, công hàm... muốn cho lịch sự và trịnh trọng,
người ta vẫn phải chen một số Văn Ngôn vào. Người Việt
học tiếng Hán, tiếng Hoa, muốn cho dễ phân biệt nên chia làm
2 phần là : Tiếng Hán CỔ và Tiếng Hán HIỆN ĐẠI để
phân biệt Văn Ngôn và Bạch Thoại. Thế thôi !. Nên...
Không phải Tiếng Hán Đời Đường khác Tiếng Hán
bây giờ như người viết đã nói đâu.
Theo tôi nghĩ, người
viết bài nầy luôn miệng chê trách người khác không chịu
học tiếng Hán Việt, nhưng bản thân người chê cũng không
thực sự giỏi Hán Việt hơn ai ! Xin dẫn chứng...
Trích...
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang
được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường
xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ
những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều
sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt
không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành
một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊 có
nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là
ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm
văn của người khác.
Giải nghĩa đen theo Từ Điển như thế thì ai lại chả giải
nghĩa được ! Nhưng, nghĩa thông dụng thì phải linh động
hơn...
TẶC hay ĐẠO gì đều có nghĩa là
TRỘM CƯỚP cả ! Ta có từ kép là ĐẠO TẶC để chỉ
TRỘM CƯỚP mà !
TẶC 賊 : Ngoài nghĩa Trộm
hoặc Cướp, còn có nghĩa là GIẶC, để mắng mấy đứa
nhỏ rắn mắt hay phá khuấy, người lớn hay nói : " Đồ
TIỂU TẶC ! " Có nghĩa là " Thằng Giặc con ! ". Khi rời Linh
Xà Đảo trên con thuyền trước sóng to gió lớn sắp chìm,
Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã mắng trời bằng câu : " Lão
TẶC Thiên ! " ( Cái Lão GIẶC Trời ! ). Trong Tiếng Hán Hiện
Đại TIỂU TẶC 小賊 hay TIỂU THÂU 小偷 đều có nghĩa
là : Những tên TRỘM VẶC. Còn...
ĐẠO
盜 là Lấy ngang lấy ngược của người khác, nên ngoài
nghĩa TRỘM, ĐẠO còn có nghĩa là CƯỚP như : CƯỜNG
ĐẠO chẳng hạn. Đồ Cường Đạo là Quân Ăn Cướp
! Còn ĐẠO VĂN là Lấy ngang văn của người khác làm
văn của mình, thì là ĂN CƯỚP VĂN của người ta chứ
Trộm Văn gì ?!!!
Không giỏi từ Hán Việt mà đi chê trách người khác
không chịu học từ Hán Việt. Rõ buồn cười ! Cứ luôn
miệng bảo : một từ đơn thuần Việt không
thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một
từ kép.
Hãy
xem các ví dụ sau đây :
Từ Thuần Việt là QUÊ, từ Hán Việt là
HƯƠNG, ta có từ Kép : QUÊ HƯƠNG.
Từ
Hán Việt là SINH, từ Thuần Việt là SỐNG, ta có từ kép
: SINH SỐNG.
Từ Thuần Việt là CỬA, từ Hán
Việt là TỬ, ta có từ kép : CỬA TỬ.
Từ Hán Việt là ĐẠO, từ thuần Việt là CHÍCH, ta có
từ kép : ĐẠO CHÍCH.
.V.V....V.V....
Những từ trên là những từ rất thông dụng trong cuộc sống,
sao lại bảo : một từ đơn thuần Việt không
thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một
từ kép. ?!
Còn về các
từ của Khoa Học Kỉ Thuật hiện nay như : Computer, Internet, Web.... thì theo
tôi nghĩ...
Từ
nào đã được dịch rồi thì thôi, cứ dùng theo những
gì đã được dịch cho khỏi lộn xộn ! Như từ Computer là
Máy VI TÍNH, thì cứ gọi là VI TÍNH đi. Chứ người Hoa
họ gọi là ĐIỆN NÃO 電腦, nếu bây giờ đổi cách
gọi, bất cứ gọi bằng gì đi nữa , thì lại càng lộn
xộn thêm thôi ! Còn như các từ...
Internet
thì cứ gọi là " Nét " như hiện nay, Ví dụ : " Bửa
nay bạn có lên NÉT để xem tin tức không ? ". Còn...
Web thì là " Quép ", là " Mạng ". Như : Đây là
trang Quép của tôi... Nghĩa là....
Trong thời
buổi TOÀN CẦU HÓA nầy, thì từ của nước nào cứ đọc
thẳng bằng âm của nước đó, dịch tới dịch lui làm gì
cho nó phiền, rồi lại sợ dịch không chính xác nữa !
Người Việt ta nói :
Thùng rổng thì kêu to ! Còn người Hoa thì gọi những người
Trí Thức Nửa Mùa bằng từ " Ban-tong-shui 半桶水 Bán thống
thủy ", có nghĩa là " Nửa Thùng Nước ", nên óc
ách ọc ạch dữ lắm ! Không biết là người viết bài
nầy thuộc dạng nào, chớ tôi thì tôi thuộc loại NỬA THÙNG
NƯỚC đó, cho nên đọc bài nầy tôi thấy tôi " Óc
Ách " dữ lắm, nhất là đọc những câu mát mẻ, mạt
sát, mỉa mai người khác của người viết. Chịu không nổi,
nên mới " Ọc " ra bài viết nầy !
Kính mong các đọc gỉa đọc và lượng thứ cho ! Chân
thành cám ơn tất cả !
Đỗ Chiêu Đức.
Thi Thánh ĐỖ PHỦ và Thi
Hào NGUYỄN DU
Những ai thích và nghiên cứu thơ Đường
đều không thể không biết qua 8 bài THU HỨNG của Đỗ Phủ,
nhất là bài thứ nhất đã ảnh hưởng rất nhiều đến
các thi nhân Việt Nam, kể cả Thi Hào NGUYỄN DU của ta nữa...
Bây giờ đang là mùa thu, xin kính mời tất
cả cùng đọc lại bài thơ nầy và các bài thơ "
bị ảnh hưởng " khác....
秋興 其一
THU HỨNG Kì nhất
玉露凋傷楓樹林, Ngọc lộ
điêu thương phong thụ lâm,
巫山巫峽氣蕭森。
Vu sơn Vu giáp khí tiêu sâm.
江間波浪兼天湧,
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
塞上風雲接地陰。
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
叢菊兩開他日淚,
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
孤舟一繫故園心。
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
寒衣處處催刀尺,
Hàn Y xứ xứ thôi đao xích,
白帝城高急暮砧。
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
杜甫
Đỗ Phủ.
DỊCH NGHĨA :
NGÀY THU CẢM KHÁI Bài 1.
1. Sương móc phủ trắng làm cho rừng
phong thêm tiêu điều .
2. Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt thâm u
.
3. Sóng trên mặt sông từng đợt như nhảy tận lưng
trời
4. Trên cửa ải mây mù cùng sương khói như
giăng sát mặt đất
5. Bụi cúc đã hai lần nở hoa
làm rơi nước mắt của ngày xưa cũ.
6. Sợi dây của
chiếc thuyền đơn lẻ còn buộc chặc tình cố hương.
7. Ở đây nơi nơi ai nấy đều đang lo cắt may áo rét
.
8. Trên thành Bạch Đế cao cao nầy, tiếng chày giặt áo
về chiều
nghe như càng hối
hả hơn thêm.
Năm Đại Lịch Nguyên niên
(766), Đỗ Phủ lưu lạc ở đất Quì Châu, do loạn An Lộc
Sơn nên vẫn còn cảnh chiến tranh loạn lạc. Lúc bấy giờ
ông đã 55 tuổi rồi mà hùng tâm tráng chí chưa thi thố
được gì cả, lại nhiều bệnh tật, bạn bè lại cách
trở sơn khê, nên trong cảnh núi non ảm đạm, gió thu hiu hắt
của mùa thu, xúc cảnh sanh tình, khơi niềm cảm hứng mà sáng
tác 8 bài THU HỨNG nầy. 8 bài đi liền một thể, nhưng cũng
có thể tách riêng mà thưởng thức từng bài một. Bài
THU HỨNG thứ nhất là bài được mọi người biết đến
nhiều nhất và được các danh nhân Việt Nam ta diễn nôm nhiều
nhất. Mời tất cả cùng đọc các bài diễn nôm sau đây
:
Nguyễn
Công Trứ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.
Ngô Tất Tố:
Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may.
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung
sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây.
Lệ tủi:
sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền
đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập
vải trời hôm rộn tiếng chày.
Khương Hữu Dụng:
Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày.
Lòng
sông sóng tận lưng trời nhảy,
Đầu ải mây sà mặt đất bay.
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước,
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
Bùi Khánh Đản:
Sương đọng rừng phong
héo hắt cây
Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay
Trên sông
sóng cuộn, trời liền nước
Ngoài ải hơi đùn,
đất giáp mây
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy
Nơi nơi áo lạnh tìm
dao thước
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.
Dịch ra thơ lục bát
Trần
Trọng Kim:
Rừng
phong xơ xác sương bay,
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng.
Ngất trời sóng dội lòng sông,
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa.
Con thuyền buộc mối tình nhà,
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng.
Áo
đông may cắt rộn ràng,
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.
Bài Diễn Nôm
của
Đỗ Chiêu Đức :
Rừng
phong hiu hắt phủ mờ sương,
Núi Giáp non Vu lạnh buốt xương.
Sóng vỗ ngất trời sông nước cuốn,
Hơi mù
rợp đất gió mây vương.
Hai lần cúc nở thương
ngày cũ,
Một mối thuyền con luyến cố hương.
Thành Bạch nhà nhà may áo ấm,
Tiếng chày đập
vải rộn muôn phương.
Bài thơ này vừa là bức tranh phong cảnh mùa thu ảm đạm,
hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của Đỗ
Phủ trong cảnh loạn ly. Ông lo cho vận nước đang cơn bĩ cực
và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi
đất khách quê người.
Cùng một tâm trạng như Đỗ Phủ...
Ta thấy hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du,
cũng làm lòng người cảm thấy nao nao cho tâm trạng của ông
trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư lánh nạn giữa thời ly loạn
. Hai bài thơ nầy được trích trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài
) nằm trong phần " Mười năm gió bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông
lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê vợ thuộc Thái Bình. Hai bài
thơ tả cảnh ĐÊM THU thật buồn, nhất là Bài 2 nói
lên cái hoài bão trong lòng của ông và nhất là lại
sử dụng lại các VẦN của bài THU HỨNG 1 của Đỗ Phủ
làm cho ta lại càng cảm thấ lí thú và xúc động hơn.
Mời tất cả cùng đọc lại bài thơ nầy...
秋夜 其二
THU DẠ Bài 2
白露為霜秋氣深,
Bạch lộ vi sương thu khí thâm,
江城草木共蕭森。
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
剪燈獨照初長夜,
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
握髮經懷末日心。
Ốc phát kinh hoài mạt nhật tâm.
千里江山頻悵望,
Thiên lí giang sơn tần trướng vọng,
四時煙景獨沉吟。
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
早寒已覺無衣苦,
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
何處空閨催暮砧。
Hà xứ không khuê thôi mộ châm.
阮攸
NGUYỄN DU
CHÚ THÍCH :
- Tiễn
đăng 剪燈 : Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng.
Có lẽ tác giả liên tưởng đến hai câu thơ của Lý
Thương Ẩn:
"Hà đương cộng tiễn tây song
chúc, 何當共剪西窗竹,
Khước thuyết Ba Sơn dạ vũ thì"
卻說巴山夜雨時?
(Bao giờ mới được cùng
nhau cắt hoa đèn nơi song cửa phía tây, (để) Kể cho nhau nghe nỗi
lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh đây ? ).
- Ốc Phát 握髮
: Ốc 握 Có bộ THỦ là Tay bên trái, nên chỉ động
tác của tay, có nghĩa là NẮM, như ỐC THỦ là Bắt Tay (
ta gọi là " Bonjuor " ). Chữ nầy còn được đọc là
ÁC, nên Ốc Phát còn đọc là Ác phát:
Theo
điển ỐC PHÁT THỔ BỘ 握髮吐哺 là viết gọn lại
của câu : 一沐三握髮,一飯三吐哺 Nhất
mộc tam ỐC PHÁT, Nhất phạn tam THỔ BỘ, có nghĩa : Một lần
gội đầu phải vắt tóc lên 3 lần, Một lần ăn cơm phải
nhả cơm ra 3 lần, nên " Ác phát thổ bộ" là vắt tóc
nhả cơm: Do tích Chu Công là một đại thần của nhà Chu rất
chăm lo việc nước. Đang ăn cơm, có khách đến nhả cơm
ra tiếp; đang gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón,
hết người này đến người khác, ba lần mới gội đầu
xong, ba lần mới ăn cơm xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí
nguyện được đem tài mình ra giúp nước như Chu Công,
cuối cùng không biết có toại nguyện hay chăng ? Nghĩ đến
mà lòng vô cùng lo ngại.
DỊCH NGHĨA :
1. Móc trắng thành sương
, hơi thu đã già,
2. Cây cỏ quanh thành bên sông đều
có vẻ tiêu điều .
3. Một mình
khêu ngọn đèn lẻ loi ,đêm bắt đầu dài .
4. Vắt tóc vẫn lo cho cái chí nguyện
trong những ngày cuối đời .
5.
Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn ngơ ngẩn.
6. Phong cảnh bốn mùa riêng mình luống ngậm ngùi
7. Mới rét mà đã thấy khổ vì
không áo ấm ,
8. Văng vẳng nơi
đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong
bóng chiều tà .
DIỄN NÔM
ĐÊM THU
Bài 2.
Móc trắng thành sương
thu đã sâu,
Bên
thành hoa cỏ cũng rầu rầu.
Chong đèn một bóng đêm vằng vặc,
Vắt tóc toàn tâm Ý những sầu.
Ngàn dặm núi sông hằng trông ngóng,
Bốn mùa cảnh trí gợi lo âu.
Khổ thay lạnh sớm chưa may áo,
Tiếng chày giặt tối vẳng đâu đâu !
Đỗ Chiêu Đức
Sát sao hơn NGUYỄN DU, NGUYỄN
LỘ TRẠCH sử dụng lại một cách đầy đủ hơn để
họa các VẬN trong bài THU HỨNG của Đỗ Phủ, nhưng... không
phải để than van oán trách buồn thảm cho số phận hẫm hiu của
mình, mà là... một tấm chân tình của một Nhà Nho Ưu
thời mẫm thế lo cho thời cuộc, cho đất nước trong buổi tàn
thu. Ta hãy cùng đọc bài thơ THU HOÀI sau đây của ông...
1. BẢN
CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ :
THU HOÀI
秋懷
Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm
極目蕭條紅葉林,
Thiên Sơn tĩnh lập ảnh
sâm sâm
千山靜立影森森。
Tiểu lâu đoạn giác minh
sương lãnh 小樓斷角鳴霜冷,
Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm 戰壘沉淪哭日陰。
Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp
草昧經營先世業,
Giang hồ ưu ái hủ nho tâm
江湖優愛腐儒心。
Vạn gia chinh phạt hàn y tận 萬家征伐寒衣盡,
Sầu sát thu khuê xứ xứ châm
愁殺秋閨處處砧。
Nguyễn Lộ Trạch
阮露澤
Nguyễn Lộ Trạch
sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên,
quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh
Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên-Huế).
Tổ
tiên ông trước ở vùng châu Hoan-châu Ái (tức vùng Thanh
Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay), đến thế kỷ 16, theo tướng
Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hóa. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai, đỗ
Tiến sĩ năm 1843 dưới triều vua Thiệu Trị (cùng khoa với danh thần
Phạm Phú Thứ), từng giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình,
Tổng đốc Ninh Thái (gồm Bắc Ninh và Thái Nguyên)...
Nguyễn Lộ Trạch là người đọc nhiều sách, biết nghề
thuốc, có kiến thức sâu rộng, nhưng không đi thi, chỉ chú
tâm vào con đường thực dụng. Ông thường ngao du khắp các
tỉnh miền Trung, tìm người cùng chí hướng kết giao, được
người đương thời goi là "cậu ấm tàng tàng" .
2.
CHÚ THÍCH :
CỰC MỤC : là nhìn mút con mắt.
TIÊU
SƠ : là Thưa thớt, Lèo tèo.
ẢNH SÂM
SÂM : là Cái bóng Âm U, Mờ Mịt.
TIỂU
LÂU : là Lầu Nhỏ, Ở đây là Vọng Gác.
ĐOẠN GIÁC : là Dứt tiếng Tù Và( thổi khi gác ).
MINH 鳴 : là Thổi, là Kêu, là Hót, là Gỏ.
TRẦM LUÂN : là Chìm Đắm. Ở đây Nghĩa là Bị Che Phủ,
Mờ Mịt.
THẢO MUỘI : là Buổi Ban Sơ,
HỦ NHO : là Nhà Nho Hủ Lậu, đây chỉ
là lời nói khiêm nhường.
CHÂM : là
Tấm Thớt. Ngày xưa dùng lót ở dưới để đập chỉ,
tơ hoặc quần áo... cho sạch. Đây là cách giặt giũ ngày
xưa, vì vải vóc ngày xưa rất thô kệt, đọc thơ Đường
ta hay thấy từ nầy, tiếng ĐẬP( GIẶT ) quần áo hay làm cho người
ta buồn hoặc nhớ nhà....
3. NGHĨA BÀI THƠ :
THU HOÀI CẢM
Nhìn mút
con mắt cũng chỉ thấy rừng lá đỏ tiêu điều lèo tèo
thưa thớt. Ngàn núi đứng yên trong cảnh thâm u mờ mịt của
mùa thu. Trên vọng gác đã dứt tiếng tù và thổi lên
trong sương lạnh, và chiến lũy thì mờ mịt như đang khóc
trong trời thu ảm đạm. Sự nghiệp kinh doanh của đời trước mờ
mịt như thuở ban sơ. Sông hồ thì như còn ưu ái với
lòng của kẻ hủ nho nầy. Muôn nhà vì chinh chiến mà hàn
Y đã cạn kiệt, nên kẻ trong phòng khuê buồn muốn thúi
ruột khi nghe tiếng chày giặt áo quần vải vóc vang lên khắp
nơi ( để gấp rút may thêm áo lạnh gởi ra chiến trường
).
4. DIỄN NÔM :
Mút mắt tiêu điều rừng lá đỏ,
Đứng yên ngàn núi bóng thâm u.
Gác canh vắng ngắt trong sương sớm,
Chiến lũy mịt mờ lúc sáng thu.
Sự nghiệp cha ông con cháu giữ,
Tấc lòng nho hủ nước sông lưu.
Muôn nhà chinh chiến hàn Y hết,
Tiếng giặt chày vang buồn chiến khu !
Đỗ
Chiêu Đức
THU NHẬT KÝ HỨNG
Trăn trở mãi cho đến tận hôm
nay, định không nói, nhưng nếu cứ nín thinh hoài thì trọng
bụng lại không yên, thôi thì cứ bày tỏ những suy nghĩ của
mình để mọi người cùng góp Ý xem sao !!!...
Theo tôi nghĩ thì
bài THU NHẬT KÝ HỨNG 秋日寄興 của cụ NGUYỄN DU chỉ
thuần túy là THU NHẬT KÝ HỨNG, nghĩa là chỉ GỞI GẮM CÁI
THI HỨNG CỦA MÌNH TRONG NGÀY MÙA THU mà thôi !... và tôi sẽ
trình bày lại một số từ khúc mắc trong bài thơ sau đây...
Đỗ Chiêu Đức xin được tham gia
với các phần sau :
1. Bản
chữ Hán của bài thơ :
秋日寄興
THU NHẬT KÝ HỨNG
西風纔到不歸人
Tây phong tài đáo, bất quy nhân;
頓覺寒威已十分
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần.
故國山河看落日 Cố quốc
sơn hà, khan lạc nhật;
他鄉身世托浮雲
Tha hương thân thế thác phù vân.
忽驚老境今朝是 Hốt kinh lão
cảnh, kim triêu thị;
何處秋聲昨夜聞
Hà xứ thu thanh, tạc dạ văn.
自哂白頭欠收拾
Tự thẩn bạc đầu, khiếm thu thập;
滿庭黃葉落紛紛 Mãn đình
hoàng diệp lạc phân phân.
阮攸
Nguyễn Du
2. THÍCH NGHĨA TỪNG CÂU :
CÂU 1 : TÂY PHONG là Gió Tây, gió của
mùa Thu thổi đến từ hướng Tây, mà hướng Tây theo ngũ
hành thì thuộc KIM, nên còn gọi là Kim Phong, ta gọi là GIÓ
VÀNG như trong Cung Oán Ngâm Khúc NGUYỄN GIA THIỀU đã mở đầu
tác phẩm bằng câu :
Trãi vách
quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh vũ
Y lạnh ngắt như đồng !
Chữ TÀI 才(纔)là
Trạng Từ chỉ : MỚI, VỪA MỚI, nên TÀI ĐÁO có nghĩa
: VỪA MỚI ĐẾN. Câu 1 có nghĩa :
Gió Tây vừa mới thổi đến, thì Cái Người Không Về
nầy...( nghĩa được tiếp nối ở câu sau...)
CÂU 2 : Từ ĐỐN GIÁC 頓覺
có nghĩa là : Chợt Cảm Thấy. HÀN UY 寒威 là : Uy Lực
của Cái Lạnh, chỉ Mức độ của Cái Lạnh.
Câu 2 có nghĩa :
...Chợt cảm thấy
cái sức lạnh đã đủ mười phần rồi, có nghĩa là
Đã lạnh buốt lắm rồi !
Theo tôi nghĩ thì
2 câu đầu nầy cụ NGUYỄN DU làm theo lối thơ LIỀN CHÂN ( enjambment
) như trong thơ của TTKH :
Rồi một ngày kia, tôi phải yêu
cả chồng tôi nữa, lúc đi theo
những cô áo đỏ sang nhà khác.
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều !
Nên...
2
câu đầu có nghĩa :
Gió Tây vừa mới
thổi đến, thì Cái Người Không Về nầy ... Chợt cảm
thấy cái sức lạnh đã đủ mười phần rồi !
CÂU 3 : 2 chữ SƠN HÀ, có bản chép là HÀ SƠN, xét về
Luật Thi và Bằng Trắc thì cả 2 chữ đều là thanh BẰNG nên
không ảnh hưởng gì cả, nhưng SƠN HÀ nghe vẫn xuôi tai và
hợp với tập quán ngôn ngữ hơn.
Chữ KHÁN
看 là NHÌN, XEM, Ở đây đọc là KHAN : có nghĩa là
NGẮM. Câu 3 có nghĩa :
Ta ngắm núi sông non
nước cũ qua ánh nắng chiều tà.
CÂU 4 : Chữ THÁC 托 là KÝ Thác,
gởi gắm. Nghĩa câu 4 là :
Ta gởi gắm cái
thân thế của kẻ tha hương nầy cho mây trời trôi nổi vô
định.
Câu 5 : Từ HỐT KINH 忽驚 : HỐT là
Bỗng, là Chợt. KINH là Sợ, ở trong câu nầy có nghĩa là
GIẬT MÌNH, là Kinh Ngạc. LÃO CẢNH là Cái Tình Cảnh, Cái
Cảnh Huống Già Nua. Câu 5 có nghĩa :
Sáng
nay bỗng chợt giật mình vì nghĩ đến cái cảnh huống già
nua của mình.( có thể là do soi gương buổi sáng để búi
tóc mà thấy được ).
Câu 6 có nghĩa : Đêm qua nghe tiếng thu ( xào xạc
suốt đêm ) từ nơi nào đó đưa đến.
CÂU 7 : THẪN 哂 : là
cười mĩm, cười nhết mép, cười lấy có, cười khẩy
( không dùng chữ TIẾU mà dùng chữ THẪN, để chỉ cái
cười không bình thường, cười chua chát ! ). Và đây
là câu gây tranh cải nhiều với 3 chữ cuối câu là KHIẾM
THU NHẬP và KHIẾM THUTHẬP.
Hầu hết các
bản trên mạng đều chép là KHIẾM THU NHẬP 欠收入.
Riêng tôi, tôi đồng Ý với Tiền Bối DANH HỮU là KHIẾM
THU THẬP 欠收拾, vì...
Đang làm thơ CẢM
HỨNG VỚI NGÀY THU sao lại có chuyện THU NHẬP là chuyện thực
tế trắng trợn của cuộc sống chen vào đây được ?!
Hơn nữa, NGUYỄN DU cũng không tầm thường đến nỗi phải
than vãn cho cuộc sống thiếu thu nhập lúc về già ! Kẻ Sĩ có
thể ăn rau rừng uống nước suối để sống thanh bần, chớ
sao lại đi than vãn về việc không có tiền lương để sống
khi về hưu ?! Vả lại, cũng đâu đến đỗi khi về hưu
rồi mà không có tiền để sống qua ngày đâu !!! Ông
tự xưng là HỒNG SƠN LIỆP HỘ 鴻山獵戶 mà, nhà
săn bắn của núi Hồng Lĩnh chả lẽ lại không có thú
rừng để nuôi sống qua ngày sao ?!
Trở lại với từ THU THẬP 收拾...
THU THẬP
: Nghĩa đen là DỌN DẸP lại cho GỌN GÀN. Nghĩa phát sinh là
: SẮP XẾP CHO ỔN THỎA việc gì đó. KHIẾM THU THẬP 欠收拾
: là Thiếu sự sắp xếp cho ổn thỏa ( lúc về già : BẠCH
ĐẦU ).
CÂU 8
: LẠC PHÂN PHÂN là Rụng tơi bời, bay lả tả. Nên...Nghĩa của
2 câu 7 và 8 là :
Tự mỉa mai mình là không biết sắp xếp ổn thỏa cho tuổi
về già, nên giờ thì như lá thu vàng rụng bay lả tả đầy
sân ( không biết sẽ ra sao ! ).
3. DIỄN NÔM :
GỞI HỨNG
NGÀY THU
Gió tây vừa thổi kẻ tha phương
Chợt thấy hơi thu lạnh buốt xương.
Chiều xuống thẩn thờ trông cố quốc,
Mây trời trôi nổi gởi tha hương.
Sáng soi gương lạnh chừng ngơ ngác,
Đêm lắng tiếng thu luống đoạn trường.
Không khéo lo toan già lẩn thẩn,
Đầy sân lá úa rụng muôn phương !
Đỗ Chiêu Đức
LỄ ÔNG BÀ
Nhân Lễ ÔNG BÀ,
kính mời QUÝ ÔNG BÀ cùng đọc bài viết sau đây...
Mùng 5 tháng 8 Âm lịch là ngày sanh của Đức Khổng Phu Tử.
Năm nay nhằm ngày Thứ Sáu 29 tháng 8 Dương lịch. Cuộc đời
của ông Thánh nầy cũng lắm gian truân chìm nổi cũng như
cuộc đời của bao người khác, Ông mất lúc 73 tuổi, là
tuổi thượng thọ lúc bấy giờ, và để lại một câu
nói bất hủ thu tóm toàn bộ cuộc đời của ông như sau...
Câu nói của Đức
Khổng Phu Tử nói về chính mình, được ghi trong sách LUẬN
NGỮ chương VI CHÍNH, nguyên văn như sau :
《論語 · 為政第二》講要.
◎子曰:吾,十有五,而志于學,三十而立,四十而不惑,五十而知天命,六十而耳順,七十而從心所欲,不踰矩。
[ LUẬN NGỮ. VI CHÍNH
đệ nhị ] Giảng Yếu.
@
TỬ viết : Ngô, thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập,
tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi
nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.
CHÚ
THÍCH :
TỬ VIẾT : là Khổng Tử Nói
rằng.
NGÔ : là Đại Danh từ Ngôi thứ
Nhất : Tôi, Ta, Tao...
NHI : là Thì, Là ( Verbe
Auxilière ).
VU : là Về.. cái gì đó.
Ở... việc gì đó.
LẬP : là Lập
Thân, là Đứng vững được trong cuộc sống, là Thành
Tài rồi. Có sự nghiệp, có công ăn việc làm rồi.
BẤT HOẶC : là Không còn Nghi Hoặc, Ngờ
Vực gì nữa. Chỉ Kiến thức đã chín chắn, ổn định.
TRI THIÊN MỆNH : là biết được cái
Mệnh Trời, An phận theo cái mình đã có, theo khả năng của
mình , mà không đòi hỏi, so bì, bon chen nữa !.
NHĨ THUẬN : là Lổ Tai Xuôi, có nghĩa là đã biết phân
biệt một cách rõ ràng, nghe điều gì đó là biết
ngay điều đó tốt hay xấu, thiện hay ác, đúng hay sai....
TÒNG TÂM SỞ DỤC : TÒNG TÂM là Theo Lòng
Mình. SỞ DỤC là Cái mà Mình Muốn. TÒNG TÂM SỞ DỤC
là Làm những cái mà lòng mình muốn làm, có nghĩa
Muốn gì thì cứ làm nấy !
BẤT DU CỦ
: DU 踰 có bộ TÚC là Cái Chân ở bên Trái, nên Du có
nghĩa là TRÈO QUA. Trong TRUYỆN KIỀU giảng tích " TƯỜNG ĐÔNG
ong bướm đi về mặc ai " bằng câu " DU đông lân nhi lâu
kì xứ nữ ", tức là " TRÈO QUA bức tường phía đông
để ôm lấy cô gái bên đó.". Nhưng...
... trong câu nói trên DU có nghĩa là VƯỢT QUA. Còn...
CỦ 矩 : là Cái Khuôn dùng để kẻ Hình Vuông, là
Cái Ê-Ke. Nghĩa bóng là Cái Khuôn Phép. Nên ...
BẤT DU CỦ là : Không
vượt qua cái khuôn phép đúng đắn bình thường trong
cuộc sống. Sẵn nhắc lại chữ ...
QUY 規
: là Dụng cụ dùng để kẻ đường tròn, là Cái
COM-PA đó. Nên...
Không có QUY thì Kẻ
không Tròn, không có CỦ thì Vẽ không Vuông. Nên QUY CỦ
là cái khuôn phép mà ta phải tuân theo. NỘI QUY là những
điều khoản QUY ĐỊNH của một Tổ chức, Cơ quan... nào đó
mà tất cả thành viên trong đó phải tuân hành. Nên câu
nói của Đức Khổng Tử...
Có thể hiểu nghĩa
một cách đơn giản như thế nầy :
Khổng Tử nói rằng : Ta, lúc 15 tuổi,
thì chí ở học hành, 30 tuổi thì đã lập thân được,
40 tuổi thì không còn nghi hoặc điều gì nữa, 50 tuổi thì
biết đến mạng trời, 60 tuổi thì nghe đã biết điều phải
trái, 70 thì có thể làm theo những gì mà trong lòng mình
muốn, vì nó không có đi quá lố ngoài khuôn phép nữa
.
Đây là câu nói của Đức Khổng Tử nói về bản
thân Ngài, nhưng thường được người đời đem ví
với bản thân mình, thậm chí đem... áp dụng chung cho tất cả
mọi người, cho nên ta thường nghe nói...
... Ba chục tuổi là tuổi Lập Thân, Năm chục tuổi
là tuổi Tri Thiên Mệnh... thậm chí nói Tam Thập Nhi Lập là...
Đàn Ông con trai tới tuổi ba mươi là phải lấy vợ, phải
lập gia đình, thì mới lập thân được, nhưng vì điều
nầy cũng hợp lí và thực tế , cho nên mọi người đều
noi theo. Tôi còn nhớ một câu Nho thuần túy của VN mà Ba tôi
thường nói khi... ép tôi cưới vợ là :
Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương.
Có
nghĩa :
Con trai lớn mà không kết hôn thì
giống như con ngựa mạnh ( LIỆT MÃ là Con ngựa đang mãnh liệt,
đang sung sức ! ) mà không có giây cương vậy ( sẽ phóng
càn, phóng ẩu, phóng... túng, vì không có ai kềm chế, cưới
cho con vợ để có người " cằn nhằn " và xì-tóp
bớt lại, thì mới TRỤ và mới làm nên sự nghiệp được
! ). Nên ông bà ta cứ nghĩ...
TAM THẬP NHI
LẬP là 30 tuổi thì phải Lập Gia Đình, không lập gia đình
thì... Nó sẽ nổi máu " giang hồ " rồi không làm nên
cơm cháo gì cả ! . Còn
Ngũ Thập Tri Thiên Mệnh, là nên an phận mà không còn muốn
bon chen nữa ! Sự thật tuổi 50 là tuổi đã chín chắn về
mọi mặt, kiến thức đã phong phú, kinh nghiệm sống dồi dào,
nghề nghiệp đã vững chắc ổn định, tiềm năng về kinh
tế cũng đã có cơ sở, credit đầy đủ ... chính là
cái tuổi phát triển sự nghiệp tốt nhất của con người....
chớ không phải Tri Thiên Mệnh mà buông xuôi tất cả !!! . Khổng
Tử chỉ muốn nói về mình, khi đến 50 tuổi thì biết được
mệnh trời, tức là biết được cái hoàn cảnh xã hội
chung quanh mình đang sống, biết được cái khả năng và cái
tài năng của mình như thế nào, để không đòi hỏi
đua đòi những điều quá đáng mà phải biết an phận
với cái mà mình đang có trước mắt hợp với sở năng
của mình, chớ không phải mê tín buông xuôi cho số phận
! . Về ...
TỨ
THẬP NHI BẤT HOẶC : 40 tuổi thì không còn NGHI HOẶC gì nữa,
Ý nói, tuổi 40 thì sự hiểu biết đã CHÍNH CHẮN, gặp
chuyện gì đó đã biết và dám đưa ra quyết định
theo nhận thức của mình, chớ không còn NGHI HOẶC chần chừ không
biết phải quyết định như thế nào của tuổi 30 nữa ! BẤT
HOẶC là thế !
LỤC THẬP NHI NHĨ
THUẬN là : 60 tuổi thì tai đã xuôi, đã thông. Có nghĩa
: Khi nghe điều gì đó thì đã biết ngay là điều đó
đúng hay sai, phải hay không phải, nên hay không nên nghe theo, cũng
có nghĩa là sự nhận xét phán đoán đã nhuần nhuyễn.
Trái với NHĨ THUẬN là NHĨ NGHỊCH là Trái Tai Gai Mắt !
THẤT
THẬP NHI TÒNG TÂM SỞ DỤC, BẤT DU CỦ là : 70 tuổi thì có
thể làm theo những điều gì mà mình đã nghĩ đã
muốn làm, vì những điều đó không có vượt quá
qua khuôn phép đâu ! Ý muốn nói, trong phép tu thân thì
đến tuổi 70 đã hoàn hảo lắm rồi, có thể làm theo
những gì mình muốn mà không sợ quá đáng ! Đây là
câu nói hướng thiện, luôn luôn theo hướng phấn đấu tốt
mà vươn lên, chớ không phải câu nói TỰ HÀO là mình
đã HOÀN THIỆN không còn sai xót nữa !
Vì là câu nói của ông Thánh, cho nên người đời
hay lấy đó làm chuẩn mực để phân định tuổi tác
của mọi người, mặc dù cái chuẩn mực đó đã bị
lệch nghĩa so với Ý chính của câu nói ở lúc ban đầu,
như...
Tuổi
30 thì gọi là Tuổi NHI LẬP, và hiểu là đã đến tuổi
phải Lập Gia Đình, phải Thành Gia Lập Thất, phải Cưới Vợ,
phải Ổn Định Sự Nghiệp...
Tuổi 40 thì gọi là tuổi BẤT HOẶC, và
gọi thì gọi thế, nhưng rất nhiều người không hiểu Bất
Hoặc là gì, chỉ nghe người ta gọi thì gọi theo mà thôi
! Hoặc chỉ hiểu nghĩa lờ mờ, Bất Hoặc là không còn nghi
hoặc gì nữa, mà không biết tại sao lại không còn nghi hoặc,
và tại sao lại gọi thế ?!.
Thông dụng nhất
là tuổi 50, được gọi là Tuổi TRI THIÊN MỆNH, và thường
hay có tâm lí an phận và buông xuôi mà không muốn phấn
đấu để vươn lên nữa !
Sáu mươi tuổi thì gọi là Tuổi Nhĩ
Thuận, NHĨ THUẬN là xuôi tai, nhưng lại nghe rất lạ tai, mà không
hiểu tại sao gọi thế, cũng như...
Tuổi 70, thì gọi là Tuổi TÒNG TÂM SỞ
DỤC, BẤT DU CỦ ! Không hiểu gì cả ! Khác với dân gian hay gọi
70 tuổi là tuổi CỔ LAI HY, theo Ý của 2 câu thơ trong bài KHÚC
GIANG của Thi Thánh ĐỖ PHỦ là :
Tửu trái tầm thường hành xứ
hữu,
Nhân sanh thất thập CỔ LAI
HY.
....nghe thi vị và hay hơn nhiều !
Nhưng...
Vì là câu nói của ông Thánh Khổng
nên mọi người đều muốn nhái theo xem có được như...
Thánh hay không ? Âu cũng là việc tốt mà thôi !
Theo tài liệu thống kê dân số đời Đường, thì tuổi
thọ của con người ta lúc bấy giờ chỉ trên dưới 45 tuổi
mà thôi, nên mới bảo là " Thất thập Cổ Lai HY ", chớ
bây giờ, nhất là ở MỸ nầy thì 70 tuổi hễ ra đường
là thấy liền ngay mấy cụ...
Càng ngày tuổi thọ con người càng
cao, nên ngày Lễ ÔNG BÀ càng cần thiết và càng có
Ý nghĩa hơn lên !
Đỗ Chiêu Đức
THƠ, NHẠC, TRANH giao duyên:
Chiếc lá cuối cùng _______________
Mời bà con lắng lòng thưởng thức 3 tài năng
văn nghệ cây nhà lá vườn cùng hợp tác trên sân nhà
THCR qua Slideshow " Chiếc lá cuối cùng !" và điều đặc biệt
là đối tượng chánh đã tạo nên nguồn cảm hứng
cho bài thơ nầy cũng là dân THCR mình .
Thơ : Thầy Đỗ Chiêu Đức
Nhạc phổ thơ : La Tuấn Dũng
Hình : Lê Lam Phương ( ông xã của Tô Hồng Nhung
)
https://www.youtube.com/watch?v=In_xwgMB9FM
______________________________________________________________
VỌNG
PHU SƠN
Lưu Vũ
Tích
LƯU VŨ TÍCH ( 772-842 ), tự là Mộng Đắc, là một
Văn học Gia và là một Nhà Thơ lớn của đời Đường.
Thơ của ông rất bình dân giản dị, nhưng lại rất thanh tân,
sắc xảo à hàm súc, giỏi dùng phép tỉ hứng như trong
ca dao, nên dễ đi sâu vào lòng người đọc. Ông giỏi
về các thể thơ dân gian như " Trúc Chi Từ " ( Vè Cây
Tre ), " Dương Liễu Chi Từ " ( Vè Nhánh Liễu ), " Lãng Đào
Sa " ( Vè Sóng Vỗ Cát Trôi ) đều mang nặng đặc tính
Dân Ca, là một trường phái đặc biệt và mang lại sinh khí
mới cho thơ Đường, có ảnh hưởng rất lớn đến các
thi nhân đời sau, như các bài " Ô Y Hạng ", " Thạch Đầu
Thành ", " Liễu Chi Từ "...
Sau đây, xin mời tất cả cùng
đọc bài Vọng Phu Sơn cũng rất nổi tiếng của Ông nhé
!
望夫山
VỌNG PHU SƠN
劉禹錫
Lưu Vũ Tích
終日望夫夫不歸, Chung nhật
vọng phu phu bất quy,
化為孤石苦相思。 Hóa
vi cô thạch khổ tương ti (tư).
望來已是幾千載,
Vọng lai dĩ thị kỉ thiên tải,
只似當時初望時。
Chỉ tự đương thời sơ vọng thì.
NGHĨA BÀI THƠ :
NÚI
TRÔNG CHỒNG
Suốt ngày cứ
mong ngóng chồng, nhưng chàng đâu có trở về đâu. Nên,
hóa thành tượng đá cô đơn vẫn chưa hết sầu tương
tư. Mong ngóng từ ấy đến nay cũng đã mấy ngàn năm rồi,
mà lòng ngóng trông thì vẫn còn mong mõi như lúc ban đầu
!
DIỄN
NÔM :
NÚI
VỌNG PHU
Mõi mắt trông chồng chẳng
thấy đâu,
Hóa thành tượng
đá chửa thôi sầu.
Mõi mòn
trông ngóng ngàn năm đợi,
Nỗi nhớ còn nguyên tựa lúc đầu !
Đỗ Chiêu Đức.
Lâu lắm rồi mới Diễn Nôm được một bài thơ vừa
Ý !
SỰ TÍCH VỀ ĐÁ VỌNG PHU :
Hòn Vọng Phu là chỉ những Hòn Đá có hình thù giống
như là người thiếu phụ đứng chờ chồng, có chỗ còn
có thêm hình dáng của đứa bé được ẵm trên ta.
Dường như khắp nơi trên thế giới đều có, nhưng đi
sâu ào lòng người, ào dân gian, thì chỉ ở Việt Nam à
Trung Hoa mà thôi, có lẽ do lễ giáo phong kiến của Nho Gia muốn đề
cao Tiết Hạnh của người phụ nữ mà ra chăng ?!
Ở Việt Nam ta trước đâ nổi tiếng nhất là ở Đồng
Đăng đã đi ào dân gian ới câu ca dao bất hủ :
Đồng Đăng có phố Kì Lừa,
Có nàng TÔ THỊ, có chùa Tam Thanh.
Rất
tiếc là hình tượng TÔ THỊ VỌNG PHU đã bị ỡ nát
năm 1991 à một tượng bằng... Xi-Măng được tha ào... Ngoài
ra, ta còn có :
* Hòn vọng phu
trên đỉnh núi Bà, Bình Định, Việt Nam
* Hòn vọng
phu trên đỉnh núi M'drak, Đắk Lắk
* Hòn vọng phu trên đỉnh
núi Nhồi, Thanh Hoá
* Hòn vọng phu bên bờ khe Giai, bản Cơ Lêc,
Nghệ An. Ca dao Việt Nam có câu:
Ngước mắt nhìn sang
Đá vọng phu ôm con trán ướt
Mắt đăm đăm nhìn nước sông Giai...
Còn ở Trung Hoa thì có :
▪Vọng Phu Sơn
ở huyện Điện Bạch tỉnh Quảng Đông.
▪Vọng Phu Sơn
ở TP Xích Bích tỉnh Hồ Bắc.
▪Vọng Phu Sơn ở Thái
Sơn thuộc TP Thái An tỉnh Sơn Đông.
Vì vậy, mà Trung Hoa cũng có rất
nhiều truyền thuyết về Hòn Vọng Phu, xin được giới thiệu
2 truyền thuyết sau :
TRUYỀN THUYẾT THỨ NHẤT :
Đời
Tề Tuyên Vương của thời Chiến Quốc ( 320-302 trước Công Nguyên
), có một đôi vợ chồng trẻ, vừa mới kết hôn 3 ngày
thì công sai của vua Tề bắt chú rể sung vào quân ngũ đưa
ra sa trường đánh giặc. Nàng dâu mới đang ân ái mặn
nồng chợt phải xa chồng khóc đến chết đi sống lại... những
mong bạch đầu giai lão, nào ngờ phút chốc lại phải phân
ly. Quá nhớ thương chồng nên mỗi ngày đều lên núi
đứng ngóng trông, mong đợi chồng trở lại....Dần dần ngày
lại qua ngày, năm lại qua năm, mặc cho mưa rơi nắng chiếu, mặc
cho gió cuốn tuyết rơi... lâu ngày hóa đá, đứng sừng
sững giữa trời mà mong đợi chồng về.
Truyền thuyết
trên đây chỉ tượng đá trên Vọng Phu Sơn của tỉnh
Sơn Đông, nhưng có thuyết lại cho rằng đây chính là
màng Mạnh Khương Nữ đứng ngóng trông chồng trước khi
khóc sập Trường Thành của Tần Thủy Hoàng.
TRUYỀN THUYẾT THỨ
HAI :
Đây là truyền
thuyết mà dân gian thích kể cho nhau nghe nhất là : Tôn Phu Nhân
khóc trông Lưu Bị đời Tam Quốc.
Sau khi
hay tin Lưu Bị thất trận và chết ở thành Bạch Đế, Tôn
Thượng Hương ( nhũ danh của Tôn Phu Nhân ) đã khóc hết
nước mắt và hạ quyết tâm tìm chồng ở dưới cửu
tuyền. Xuất phát từ kinh đô nước Ngô với đầy đủ
nhang đèn dầu hương, hễ đến núi nào cũng leo lên trông
ngóng cúng tế kêu tên Lưu Bị mà khóc, vượt qua trên
ngàn dặm đường, đến Hoa Dung Đạo thuộc Hoa Dung Huyện hiện
nay, ráng leo lên tới đỉnh núi thì đã mệt lã, nhưng
vẫn bày đồ cúng tế và khóc lóc thảm thương, tay
bám và bấm đứt hết những lá trúc chung quanh, cho nên đến
ngày hôm nay, tất cả những lá trúc trên núi nầy đều
còn có phân nửa mà thôi ! khi xuống núi đến Đão
Mã Nhai nơi mà Quan Vân Trường đã tha cho Tào Tháo, thấy
phía trước mặt là Trường Giang cuồn cuộn, bèn ...
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang...
Dân chúng thương cho sự tiết liệt chung thủy của Phu Nhân, nên
lập miếu ở ven sông mà thờ. Vì Lưu Bị là Vua nên mới
gọi là Nương Nương Miếu. Đỉnh núi mà Phu Nhân khóc
Lưu Bị gọi là Đỉnh Vọng Phu.
Các bản dịch khác:
NÚI
VỌNG PHU
Trông ngày ngày bóng
chàng đâu tá ?
Tưong tư
người , hoá đá trơ vơ .
Ngàn
năm đứng mãi trông chờ ,
Tưởng
chừng nỗi nhớ , mơ hồ mới đây !
Mailoc phỏng dịch
Cali 6-6-14 ( le jour très
long ! )
HÒN VỌNG PHU
Mòn mỏi đợi chờ bao tháng năm
Biến thành tượng đá, vẫn hoài
trông
Trơ vơ mãi đứng trong
sương tuyết
Chờ đến khi nao gặp
được chồng !
Phương Hà phỏng dịch
____________________________________________________________________________________________
LỄ CHA
Đỗ Mục - Đỗ Chiêu Đức - Phạm Khắc
Trí - Kim Oanh - Mailoc -THÁI THUẬN
Ta thường gọi ngày LỄ
MẸ là NGÀY HIỀN MẪU, nên khi đến ngày LỄ CHA thì rất
nhiều người theo thói quen, thay chữ MẪU bằng chữ PHỤ, và gọi
ngày Lễ Cha bằng NGÀY HIỀN PHỤ !!!...
Ngày Lễ Cha, Father's Day,
không thể gọi là ngày HIỀN PHỤ được, vì Hiền Phụ
賢婦 là VỢ HIỀN, chớ không phải CHA HIỀN. Muốn nói Cha
Hiền thì phải gọi là TỪ PHỤ 慈父, lấy trong thành ngữ
" Phụ Từ Tử Hiếu 父慈子孝 ", tương đương
trong tiếng Nôm ta là " Cha Hiền Con Thảo ". Trong gia đình Phong
Kiến ngày xưa, người Cha luôn luôn nghiêm khắc và nghiêm
cẩn trong mọi hành vi cũng như sinh hoạt của gia đình, nên
còn được gọi là NGHIÊM ĐƯỜNG, NGHIÊM PHỤ. Lời
dạy của Cha thì gọi là NGHIÊM HUẤN, như trong Truyện Kiều, khi
Thúc Ông bắt Thúc Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ NGUYỄN DU đã
viết :
Thấy
lời NGHIÊM HUẤN rành rành,
Đánh
liều sinh mới lấy tình nài kêu.
Nhưng bây giờ mà ta gọi như thế thì nghe Nghiêm khắc và
xa rời con cháu quá ! . Còn một từ dùng để gọi cha ngày
xưa nữa là XUÂN ĐƯỜNG ( còn đọc là THUNG ĐƯỜNG
) 椿堂. Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là
loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm
là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng
để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che
chở cho gia đình. Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư,
thì chàng mới...
Rạng
ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
Thúc
Ông cũng vội khuyên chàng qui gia.
Sẵn trình bày luôn về từ
dùng để chỉ Mẹ là HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂. HUYÊN 萱
là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây
Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm
dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng
để chỉ sự dịu dàng của người mẹ. Nên ta có từ
gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN. Khi hay tin Kiều đã bán mình
chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc than đến nỗi " Máu
theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao ", khiến cho :
XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
Hóa ra khi đến thế nào mà hay !
Xin được trở lại và
nói thêm về từ HIỀN PHỤ là VỢ HIỀN ;
HIỀN 賢 : Ngoài nghĩa trái với Dữ, là HIền Thục ra.
Hiền còn có nghĩa là GIỎI GIANG. Ví dụ : Hiền Thần
là Bề tôi giỏi để phò Vua giúp nước . Hiền Tài là
người có Tài Giỏi và đây cũng là một chức sắc
Giỏi Giang trong Cao Đài Giáo.
PHỤ 婦 : Đây là kiểu chữ HỘI Ý, được ghép
bởi bộ NỮ 女 bên trái là Cô Gái, và chữ TRỮU
帚 bên phải là Cây Chổi. Hàm Ý là Cô gái mà
cầm cây chổi ( để quét dọn nhà cửa ) là đã
trở thành người chủ của gia đình rồi, đã kết hôn
rồi, nên PHỤ là Đàn Bà, là Người Vợ. Vì thế
mà HIỀN PHỤ là VỢ HIỀN. PHỤ NỮ là chỉ chung tất
cả CÁC BÀ CÁC CÔ có chồng hoặc " chổng chừa " !.
PHU PHỤ là Vợ Chồng. Hồi nhỏ thường hay nghe Má tôi hát
ru em như thế nầy :
Sông
dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên PHU PHỤ ngàn năm em cũng chờ !
Nên...
HIỀN PHỤ : Chẳng những chỉ người đàn bà hiền thục,
mà còn chỉ người đàn bà giỏi giang " Tướng phu giáo
tử " : Giúp đỡ chồng và nuôi dạy con cái.
Trong
văn chương không thiếu những áng văn những bài thơ ca tụng
mẹ hiền, có thể sự dịu dàng hòa ái của bà mẹ
gần gũi với con cái hơn là bộ mặt lúc nào cũng " Lập
nghiêm " của ông cha. Cha thì lo việc lớn hơn, ngoài việc duy
trì và nuôi sống gia đình, lắm ông còn phải chăm lo việc
nước, việc ngoài xã hội... Nhưng cũng có những người
cha có máu " giang hồ ", thích lang bạt rày đây mai đó...
Ta hãy cùng đọc một bài Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt của Đỗ
Mục đời Đường để thắm thía hơn với cái máu
" giang hồ " của các ông cha ngày trước...
歸家
QUY GIA
稚子牽衣問, Trỉ
tử khiên y vấn
歸來何太遲。 Quy lai
hà thái trì ?
共誰爭歲月, Cộng
thùy tranh tuế nguyệt
贏得鬢如絲。 Doanh đắc
mấn như ti
杜牧
Đỗ Mục
Thích nghĩa :
QUY là về, GIA là nhà, QUY GIA là Về Lại Nhà.
1. Câu
1 : Trỉ là non, Tử là Con. TRỈ TỬ : không phải là con non mà
là Con Thơ. Khiên : là nắm , là níu, là dắt. Y là Áo,
Vấn là Hỏi. Nghĩa toàn câu là :
" Con thơ níu áo hỏi "
2. Câu 2 : Quy là Về,
LAI là Xu hướng Động từ, chỉ sự di chuyển gần đến người viết
hoặc nói. QUY LAI là Về lại, là Về " đây ". QUY KHỨ
là Về " đi "(
KHỨ chỉ
di chuyển Xa người nói hoặc viết ). Hà là Sao?. Thái là Quá
. Trì là Trễ, muộn. Nghĩa cả
câu :
"
Sao muộn quá mới về nhà ? ".
3. Câu 3 : Cộng là cùng, chung. Thùy là Ai? Tranh là dành,
giựt. Tuế là Tuổi, là Năm. Nguyệt là Tháng. Nghĩa cả
câu : Cùng với ai dành giựt năm
tháng, ý nói :
" Cùng với ai sống đua chen trong những năm tháng đó ?."
4. Câu 4 : Doanh là Lời, thắng,
Ăn, thu hoạch. Đắc là được. Mấn là Tóc mai .Như là
giống, giống như. Ti là Tơ. Nghĩa cả câu :
(
chỉ ) lời được hai
bên tóc mai trắng như tơ.
Diễn nôm :
VỀ LẠI NHÀ
Con
thơ trì áo hỏi
Sao
đi mãi đến giờ ?
Cùng
ai ngày tháng ấy
Mà tóc đã bạc phơ !
Lục bát :
Con thơ níu áo hỏi ba
Đi sao lâu quá, bỏ nhà bỏ con !
Cùng ai ngày tháng mõi mòn ?
Sương pha tóc trắng chẳng còn như xưa !
Hai câu đầu là lời chất vấn, thắc mắc, thơ ngây nhưng
lắc léo của con thơ. Nhưng hai câu sau... Hình như là lời than
van, oán trách, khúc mắc, thở than của bà... nội tướng đã
biết bao ngày khoắc khoải, mòn mõi đợi chàng về !.
Trong
ngày LỄ CHA, mong rằng các ông cha luôn luôn trân quí sự sum
họp và tình cảm gia đình để gắn bó hơn với con cái
và các thành viên trong đó , nhất là với người đầu
gối tay ấp, sao cho...
Một
nhà sum họp trúc mai,
Càng
sâu nghĩa bể càng dài tình sông !
( Truyện Kiều )
Đỗ
Chiêu Đức.
Cộng thùy
tranh tuế nguyệt
Mây Tần - PKT- 06/02/2014
Cháu con níu áo mừng thăm hỏi
Sao ông trở về nhà quá muộn vậy ông
Ừ nhỉ , ta đã cùng ai đua tranh quên năm tháng
Để lời được gì ngoài hai bên tóc mai,
giờ đã trắng như tơ?
Mây Tần - PKT- 06/02/2014
Tháng, năm qua được, mất ?
Ba
đi lâu quá bỏ trẻ xa quê
Còn đâu xuân thắm tóc thề trắng
pha
3/6/2014
MAILOC:
Núi Vọng
Phu
Đầu
non hóa đá sớm chiều đợi ,
Nẽo nào gặp lại
hỡi chàng ơi !
Năm năm nguyệt dỏi chân trời
,
Sóng dồn hồn
lặn mây trôi chiều tà .
Sương rơi rơi
lòng hoa lệ nhỏ ,
Ly biệt tình khói cỏ vấn
vương .
Tương
tư ví biết nàng Tương ,
Đàn sầu chẳng
tiếc mấy đường cùng nghe .
Mailoc phỏng dịch .
THƠ THÁI THUẬN:Vọng Phu Sơn
Nối tiếp Góc VIỆT THI, sau VỌNG PHU THẠCH của
NGUYỄN DU và CAO BÁ QUÁT, xin kính mời tất cả cùng đọc
tiếp VỌNG PHU SƠN của THÁI THUẬN...
望夫山 VỌNG
PHU SƠN
化石山頭幾夕曛,
Hóa thạch sơn đầu kỉ tịch huân,
傷心無路更逢君。
Thương tâm vô lộ cánh phùng quân.
天崖目斷年年月,
Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt
江上魂消暮暮雲。
Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân.
青淚一般花露滴,
Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích,
離情萬種草煙雰。
Ly tình vạn chủng thảo yên phân.
湘妃若識相思苦,
Tương Phi nhược thức tương tư khổ,
不惜哀絃寄予聞。
Bất tích ai huyền kí dữ văn.
蔡
順
Thái Thuận.
DỊCH NGHĨA :
NÚI VỌNG PHU
Đã biết
bao buổi chiều tà nung nấu đến nỗi phải hóa đá trên
đầu núi, Quả đáng thương tâm vì không còn đường
nào để gặp lại chàng được nữa ! Năm năm cứ mãi
nhìn mút con mắt cái vầng trăng ở phía chân trời, và
mỗi chiều chiều hồn mộng cứ vẩn vơ theo những đám mây
ở ven sông. Những giọt lệ màu xanh nhễu xuống như những giọt
sương rêu, còn tình ly biệt thì tản mạn như hơi khói
bốc lên từ cỏ dại. Nàng Tương Phi nếu biết được
là tương tư sẽ phải khổ sở như thế nầy, thì chắc
cũng không tiếc chi những tiếng tơ ai oán mà không gởi cho nhau
nghe !
CHÚ THÍCH :
TƯƠNG PHI OÁN 湘妃怨
là tên bài thơ của Trịnh Tiều đời Tống, thông qua việc
tả Tương Phi để gởi gấm tâm sự ai oán của mình. Một
tài liệu khác...
TƯƠNG HOÀN trong lúc
được Vua sủng ái, lại khuyên Vua chia đều ơn vũ lộ với
những cung tần khác, nhưng lại muốn Vua luôn đến để nghe mình
đàn bài từ được phổ nhạc của TÀO HUÂN đời
Tống là : Vũ tiêu tiêu hề Động Đình, Yên phi phi hề
Hoàng Lăng. ( Mưa rả rít kìa Động Đình, khói mơ màng
nọ Hoàng Lăng ! ).
TƯƠNG PHI OÁN
còn là tên của một ca khúc đời NGUYÊN ( NGUYÊN KHÚC )
tả việc oán hận tương tư của một cung nhân thương nhớ
Vua như CUNG OÁN NGÂM KHÚC của ta vậy.
DIỄN NÔM :
NÚI VỌNG PHU
Bao chiều hóa đá đứng đầu non,
Gặp lại người xưa mộng hết còn.
Mút mắt chân trời trăng đã bạc,
Tiêu hồn mặt nước dạ chưa tròn.
Lệ nhòa sắc biếc trông sương khói,
Tình quyện màu mây ngóng mõi mòn.
Nếu biết tương tư càng chuốc khổ,
Tương Phi chẳng tiếc gởi lòng son.
Đỗ Chiêu Đức.
_____________________________________________________________________________________________________________
Thơ
TRƯƠNG HỖ: Đề Kim Lăng Độ
Thơ LÊ MINH PHÁN: Vọng cố hương
_______________________________________________________________________________
.
Cuối tuần...
Xin được giới thiệu đến với QUÝ THẦY CÔ, QUÝ ĐỒNG
MÔN và CÁC EM HỌC SINH thân mến 2 bài thơ : Một của Thi nhân
đời ĐƯỜNG : TRƯƠNG HỖ 張祜 ( hay bị đọc sai thành
TRƯƠNG HỰU 張祐 ), một của Thi nhân đời NAY : LÊ MINH PHÁN,
Giáo Sư, Cựu học sinh Trung Học Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm
Thành Phố Cần Thơ Việt Nam. Xin mời đọc...
A. BÀI THỨ NHẤT
:
題金陵渡
ĐỀ KIM LĂNG ĐỘ
金陵津渡小山樓,
Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁.
Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡,
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lí,
兩三星火是瓜州.
Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu.
張祜
Trương Hỗ
CHÚ THÍCH
:
1. KIM LĂNG TÂN ĐỘ : là Bến Đò KIM LĂNG nằm
cạnh TP.Trấn Giang thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay. KIM LĂNG ở đây
không phải chỉ TP. Nam Kinh.
TÂN là Bờ Sông, Bến
Sông. ĐỘ là Bến Đò.
TÂN ĐỘ là
Từ kép dùng để chỉ Bến Đò, Bến Phà.
2. TÚC 宿: là Ở. là Ngủ
qua đêm : như TÁ TÚC chẳng hạn. NHẤT TÚC : là Hễ ngủ
qua đêm ở cái... Tiểu sơn Lâu như trong câu một.
3. HÀNH NHÂN : là Người đi xa nhà, là Khách trọ.
4. TỰ KHẢ SẦU : là Tự mình có thể sầu được, Ý
nói : Cứ tự do mà sầu cho thoải mái !
5. TRIỀU
LẠC : Nước Thủy triều rớt xuống, là Nước Ròng.
6. TINH HỎA 星火 : TINH là Sao trời, HỎA là Lửa, là Đèn
đóm. TINH HỎA : TINH được sử dụng như Hình dung từ bổ
nghĩa cho chữ HỎA ở phía sau, nên TINH HỎA là Những ĐÈN
ĐÓM lập lòe như những vì sao trời, chớ không phải SAO TRỜI
như là những đóm lửa.
NGHĨA BÀI THƠ :
CẢM ĐỀ BẾN ĐÒ KIM LĂNG
Trên
cái lầu nhỏ cao cao trên triền núi của bến đò Kim Lăng,
khách trọ qua đêm ở đây tự nhiên sẽ cảm thấy có
một nỗi buồn len nhè nhẹ vào lòng. Trong cảnh đêm khi nước
thủy triều đang xuống dưới ánh trăng mờ nghiêng nghiêng mờ
chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những
vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó
vậy !
DIỄN NÔM :
Kim
Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều
xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp
lòe đóm lửa ấy Qua Châu !
Đỗ Chiêu Đức.
A . BÀI THỨ NHÌ :
望故鄉 VỌNG
CỐ HƯƠNG
寧橋日暮上高樓,
Ninh Kiều nhật mộ thướng cao lâu,
一觸離人自感愁.
Nhất xúc ly nhân tự cảm sầu.
潮落望江思故里,
Triều lạc vọng giang tư cố lí,
過江歸客滿江頭。
Quá giang quy khách mãn giang đầu !
黎明判 Lê
Minh Phán.
CHÚ THÍCH :
1. NINH KIỀU : là Bến Ninh Kiều,
một bến nước và là một thắng cảnh của TP Cần Thơ VN.
2. NHẤT XÚC : Hễ chạm đến, ở đây có nghĩa
là : Hễ tiếp xúc với, hễ nhìn đến ngắm đến.
3. VỌNG GIANG : Ngắm cảnh trên sông nước.
4. CỐ LÝ : CỐ là Cũ, LÝ là Làng Quê. CỐ LÝ là
Quê Xưa, Quê Cũ, Quê Nhà.
DỊCH NGHĨA :
Trời chiều lên lầu cao
để ngắm bến Ninh Kiều, vừa tiếp xúc với cảnh trí thì
đã khiến người xa quê tự cảm thấy buồn vời vợi , nhìn
nước thủy triều xuống mà nhớ đến quê nhà, nhất là
nhìn thấy khách qua phà để về quê lũ lượt chen chút
đầy cả hai bên đầu sông.
DIỄN NÔM :
NHỚ QUÊ
Chiều xuống Ninh Kiều lên gác cao,
Khách xa ngắm cảnh dạ nao nao.
Nhớ quê vời vợi nhìn con nước,
Lũ lượt sang phà khách vội sao !
Đỗ Chiêu Đức.
Dưới đây
là bài ĐỀ KIM LĂNG ĐỘ được tìm thấy trên mạng
Google, chép lại để mọi người cùng tham khảo...
題金陵渡
張祜
金陵津渡小山樓
一宿行人自可愁
潮落夜江斜月裡
兩三星火是瓜州
Ðề Kim Lăng
độ
Kim Lăng tân
độ tiểu sơn lâu
Nhất túc hành nhân tự khả sầu
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
Lưỡng tam tinh hỏa thị
Qua Châu
Trương Hỗ
Dịch nghĩa
Ðề thơ bên bến Kim Lăng
Ngồi
trong gác nhỏ bên bến đò giữa cảnh núi sông
Khách trọ cảm thấy âu sầu
Dưới
cảnh trăng tà đêm khuya nghe tiếng sóng thuỷ triều dào dạt
Ngẩn nhìn lên xa xa, nơi lốm đốm sao mờ kia là Qua Châu .
Dịch thơ:
Ðề thơ bên bến Kim Lăng
Kim Lăng
quán nhỏ bến giang đầu
Ðêm
trọ khách xa chớm mối sầu
Ngóng nước triều dâng trăng chếch bóng
Sao mờ lấm tấm ấy Qua Châu .
Chú
Thích
Kim Lăng: Tên
đất
Qua châu: Tên đất
Trên bước đường lưu lạc, đêm ngủ trọ bên
bến đò Kim Lăng, ngồi giữa cảnh đất trời buồn tẻ này,
một nỗi buồn xa quê từ từ, nhẹ nhẹ dấy lên trong lòng.
Trong tiếng rì rào của nước thủy triều và trong bóng mờ
của bóng trăng tàn giữa đêm khuya khoắt, bên lưng trời xa
kia, A...nơi lấm tấm đốm sao trời ... đó là Qua châu, quê
ta!
Nguyễn Hữu Vinh dịch và bình
_________________________________________________________________________________________________________________
ẨM
TỬU KHÁN MẪU ĐƠN
Phong lưu tài tử đa xuân tứ,
Trường đoản Tiêu nương nhất chỉ thư...
Đó là ngày xưa kìa ! Còn bây giờ thì hết rồi !
Tóc đã bạc, mắt đã mờ, lưng đã còng, chân đã
mõi.... " Phong lưu tài tử " đã thành " Đa bệnh lão
nhân " rồi ! Cả cỏ cây hoa lá cũng chê già rồi ! Ta hãy
cùng đọc bài thơ của Lưu Vũ Tích sau đây để càng
thấm thía hơn với " cái già sồng sộc " đã đến
trên đầu....
唐郎中宅与诸公同饮酒看牡丹
Đường Lang Trung trạch dữ Chư Công đồng Ẩm Tửu
Khán Mẫu Đơn.
今日花前飲, Kim nhựt hoa tiền ẩm,
甘心醉數杯。 Cam tâm
túy sổ bôi.
但愁花有語, Đản sầu hoa hữu ngữ,
不為老人開。 Bất
vị lão nhân khai !.
Lưu Vũ Tích.
Chú Thích :
1. Ẩm : là Uống, khi đứng có một mình không có túc từ
theo sau thì là UỐNG RƯỢU, là NHẬU.
2. SỔ 數 : Chữ nầy có 2 cách đọc và 3 nghĩa chính, như sau :
Đọc là Số : là
Danh từ có nghĩa là Con Số. Vd : Số Lượng.
Đọc là Sổ : Nếu là Động từ, có nghĩa là Đếm.
Nếu là Tính từ chỉ số lượng ( Adjactif Numero
Cardino ) thì có nghĩa là Vài, Một Vài. Đây là
nghĩa trong bài : Cam tâm túy Sổ Bôi. là " Cam
lòng uống thêm VÀI LY cho say ".
3. Đản
但: là
Liên từ, có nghĩa là Nhưng. Ở đây là
Giới từ , có nghĩa là Chỉ, Chỉ...Vì...
" Đản sầu hoa hữu ngữ ", có nghĩa :
Chỉ buồn Vì nếu hoa biết nói !
4. VI
爲 Có 2
âm đọc :
Đọc là VI , là Động từ, có nghĩa là Làm, Vd: Thanh
tịnh vô VI.
Đọc là VỊ , là Phó từ, có nghĩa là VÌ. Đây
là nghĩa
trong bài " Bất Vị lão nhân khai ", có nghĩa : Không Vì
người già mà nở !
Dịch nghĩa :
Cùng các bạn già uống rượu ngắm Mẫu đơn ở nhà
ông
Lang Trung họ Đường.
Hôm nay,
chúng ta cùng nhau uống rượu trước hoa, cũng rất cam lòng mà
( vì hoa ) uống thêm vài chén nữa để say cùng hoa. Chỉ cảm
thấy buồn vì nếu hoa mà biết nói, sẽ bảo rằng : " Hoa
tôi chẳng phải vì các lão già như ông mà nở đâu
! ". Vậy thì hoa nở vì ai đây ?!....
Diễn nôm
:
Hôm nay nhậu trước hoa,
Say khướt chẳng sao mà !
Chỉ phiền hoa biết nói :
" Chẳng nở vì ông già ! "
Lục
bát :
Trước hoa uống rượu hôm nay,
Cam tâm quá chén có say cũng là
Chỉ buồn hoa biết kêu ca :
" Hoa tôi chẳng phải nở vì già đâu ! "
Đỗ Chiêu Đức.
Bài dịch
rất hay. Thân gửi bài dịch tiếp.
Trước hoa nâng chén rượu đầy
Hương thơm nồng thắm men
say chan hòa
Buồn
: hoa biết nói sẽ la
Hoa tôi
đâu nở cho già mấy ông
Trầm Vân
Uống
Rượu Ngắm Hoa
Ngắm hoa rượu chén
ngà say
Hương thơm nồng thắm vị cay chẳng màng
Thoáng
buồn hoa chỉ phàn nàn:
“Hoa đây chẳng nở vì chàng
già nua”
Kim Oanh
UỐNG RƯỢU DƯỚI HOA MẪU ĐƠN
Say chén rượu
nồng, vui dưới hoa
Hoa khoe sắc thắm, rượu chan hòa
Đừng quan
tâm đến lời hoa nói:
" Ta chẳng nở vì các lão gia ! "
Phương Hà
Uống Rượu Xem Hoa
Nay
bên hoa bồ đào ta nhấp ,
Cạn vài ly đã thấy ngà
ngà .
Ngại ngần hoa nói trắng ra ,
Hoa nầy
đâu nở cho già thưởng đâu .
Mailoc
Kính Anh ĐCĐ và các th "vườn
thơ than"
Cuối tuần nhận được bài dịch thơ
người xưa của các bạn,đó là một niềm vui chữ nghĩa.
Trong
long cảm kích lắm,nên cũng nặn óc suy nghĩ để vui chơi cùng
các bạn.Song Quang
Y ĐỀ
Trước hoa,cạn chén vài chung rượu
Dù có say men cũng được mà !!
Phiền chi hoa lại kêu la ??
"Tôi đâu có nở vì già ông đâu !"
Giận long lắm,nên SQ có trả lời lại như sau.Mong các th tha lỗi
cho lão già nhé
Đang cũng ngà say vì chén rượu
Chơt nghe :"Hoa nở chẳng tại già"
Giận lòng ra bẻ nụ hoa
"Cớ sao trêu trước mắt ta làm gì ??
SONG QUANG
MẠN ĐÀM CUỐI TUẦN
Nhân
bản dịch Bài thơ VÔ ĐỀ nổi tiếng nhất của LÝ Thương
Ẩn như sau :
VÔ ĐỀ.
Khó gặp được nhau khó cách xa,
Gió xuân bất lực héo ngàn hoa.
Tầm kia đến thác tơ còn vướng,
Nến nọ tàn canh lệ chửa nhòa.
Trước kính sầu sao làn tóc trắng,
Thâu đêm ngâm mãi ánh trăng lòa.
Bồng Lai chẳng phải đường
La Mã,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Đỗ Chiêu Đức.
Có anh bạn thắc mắc, góp Ý
với ĐCĐ là : " Trong thơ Đường sao lại có "" Đường
LA MÃ " vậy ?! . Làm cho người đọc thấy bở ngở, vì
cứ nghĩ LA MÃ là của Thiên Chúa Giáo ở Châu Âu, rất
xa lạ với Bồng Lai và Chim Xanh của văn học đời Đường
!!! ".
Sự thật là khi hạ câu : " Bồng
Lai chẳng phải đường La Mã," tôi chỉ muốn diễn cái
Ý " Bồng Lai thử khứ vô đa lộ " ( Từ đây đi
đến Bồng Lai chẳng có nhiều đường đâu ! ), không phải
như câu " Đường nào cũng về LA MÃ cả ! " để
diễn cái Ý hiếm hoi của " Đường đến Bồng Lai "
cho MỚI LẠ một chút mà thôi ! Chớ không có Ý kéo
Thiên Chúa Giáo vào Bồng Lai gì cả ! Sự thật thì Đông
Tây cũng khó mà Gặp gỡ và Hòa hợp với nhau cho được,
nhất lại là trong Quá Khứ ! Tôi chỉ muốn đưa cái Ý
Mới Lạ để " Thay đổi không khí " mà thôi, chớ
không có Ý đề cập đến tôn giáo gì cả !.
Thôi
thì, của Đông sẽ trở về với Đông, tôi sẽ mượn
Ý của 2 câu thơ trong Tăng Quảng Hiền Văn để dịch 2 câu
thơ cuối nầy vậy....
但有綠楊堪繫馬,處處有路透長安。
" Đản hữu lục dương kham hệ mã,
Xứ
xứ hữu lộ thấu Tràng An ! "
( Chỉ cần có dương
liễu xanh để buộc ngựa khi nghỉ ngơi và nhánh liễu mền
để làm roi ngựa, thì nơi nào cũng có đường đưa
đến Trường An cả ! ).
2 câu thơ chót của bài thơ
VÔ ĐỀ sẽ được dịch như sau :
Bồng Lai nào phải
Trường An lộ,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua !
Cũng trong bài thơ VÔ ĐỀ nổi
tiếng nầy, còn có một câu Bất Hủ với thời gian và với
Văn học Việt Hoa, đó là câu :
春 蠶 到 死 絲 方 盡
Xuân
tàm đáo tử ti phương tận,
là :
" Con tằm đến chết mới hết nhả tơ " mà ...
Thúc Sinh đã mượn NÓ để than vản với Thúy Kiều
khi Hoạn Thư... " phải buổi vấn an lại nhà " là :
" Dù cho sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ ! ".
Trong văn học Việt Nam, ngoài TƠ TẰM, ta còn có TƠ NHỆN như
:
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ
mối ai ?!
Nhưng.....
Tằm vương tơ nhện cũng vương tơ,
Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm ?!
Còn
một thứ tơ nổi tiếng trong tình Yêu nữa, đó là TƠ
LÒNG... Trong Lòng NÀO có TƠ ? Thưa, tròng lòng của củ Sen,
Cọng Sen và Ngó Sen. Khi ta bẻ, mặc dù cọng sen đã gãy đôi,
nhưng trong LÒNG của 2 đầu cọng sen vẫn còn vướng mấy sợi
TƠ chưa có dứt hẵn. Trong Văn học Cổ có thành ngữ : NGẪU
ĐOẠN TY LIÊN 藕斷絲連. NGẪU là Củ Sen, ĐOẠN
là đứt, TY là Tơ, LIÊN là dính liền. Chỉ Củ sen mặc
dú đã đứt, nhưng những sợi tơ trong đó ẫn còn
dính liền . Thường dùng để chỉ cặp đôi yêu nhau khi
đã chia tay, hoặc vợ chồng mặc dù đã li dị, nhung vẫn còn
vương vấn, dan díu nhau, như Cô Kiều khi đã về với Từ
Hải rồi, nhưng trong thâm tâm vẫn còn nhớ tới Kim Trọng, Cụ
Nguyễn Du đã hạ 2 câu thật hay là :
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa NGÓ Ý còn vương TƠ LÒNG !
Còn
trong Văn học Mới thì TƠ LÒNG là Tiếng Tơ Lòng, là Tiếng
đàn phát xuất từ sự rung động của con tim như Nhạc Sĩ
NGUYỄN VĂN TÝ đã viết lời ca rất hay cho bản nhạc DƯ ÂM
rất nổi tiếng của ông là :
"
Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ....
" .
Trong Văn học VN là thế, còn
đối với Văn học Trung Hoa thì Bài thơ VÔ ĐỀ nầy còn
một câu nổi tiếng không thua câu " Xuân tàm đáo tử
ti phương tận " chút nào cả, đó chính là câu :
相 見 時 難 別 亦 難
Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
( gặp nhau đã khó
rồi, chia tay nhau lại càng khó hơn ).
... để tả cảnh
nam nữ ngày xưa cũng như nay, có duyên gặp được nhau đã
khó rồi, đến lúc phải chia tay lại càng lưu luyến khó
nỗi rời xa !...
Trong phim' TÂY DU KÝ
" nổi tiếng của Trung Quốc, khi diễn tả cảnh nàng nữ vương
của Nữ Vương Quốc lưu luyến bịn rịn khi phải tiễn Đường
Tam Tạng lên đường tiếp tục đi thỉnh kinh, đạo diễn đã
cho phát bản nhạc nền có câu hát đầu tiên là :
... 相見時難別亦難... Tương kiến thời nan
biệt diệc nan... tình tứ và xúc động biết bao nhiêu
!!!
...........................
Đỗ Chiêu Đức.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ , hội
là đạp thanh
Một
năm có 4 mùa, mỗi tháng có 2 tiết, Thanh Minh 清明 là tiết đầu của tháng 3, thường nằm ở
cuối tháng 2 và giữa tháng 3 trở lại. Tiết Thanh Minh năm nay nhằm
vào ngày 6 tháng 3 ( Thứ Bảy , 5 tháng Tư dương lịch
2014 ).
Thanh 清 là trong, Minh 明 là sáng. Tiết Thanh Minh 清明節 là ngày tiết trời trong sáng của
cuối xuân sau những ngày mưa xuân phơi phới làm lạnh lẽo
lòng người !. Sau những ngày rét mướt của mùa đông,
thì đây là dịp để ra thăm lại mồ mả ông bà,
nên mới có lễ Tảo Mộ, Tảo 掃 là
quét dọn, Mộ 墓 là mồ mả. Tảo Mộ 掃墓 là quét dọn lại mồ mả ông bà cho
sạch sẽ khang trang, đồng thời cũng làm Lễ cúng bái như
trình cho ông bà Tổ Tiên biết để cùng bắt tay vào vụ
mùa sắp đến. Sẵn dịp trời quang mây tạnh, sau những ngày
mưa phùn rét mướt, giờ đây thì :
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
nên .... nam
thanh nữ tú lại có dịp du xuân, đạp lên cỏ non mà dạo
khắp núi đồi gò đống. Đạp Thanh 踏青 là đạp lên trên những cỏ non xanh biếc, " Xuân
du phương thảo địa " mà...
Nói thì nói thế,
chứ thời tiết cũng còn lạnh lắm, không phải cái lạnh hiu
hắt của gió thu, cũng không phải cái lạnh buốt da của mùa
đông , mà là cái lạnh dễ chịu của mưa xuân phơi phới,
ta hãy nghe nhà thơ ĐỖ MỤC tả cảnh Thanh Minh như sau :
清 明
唐 · 杜 牧
清明時節雨紛紛,路上行人欲斷魂。
借問酒家何處有?牧童遙指杏花村。
THANH
MINH
ĐƯỜNG. Đỗ Mục
Thanh minh thời tiết vũ phân phân 清明時節雨纷纷
Lộ thượng hành nhân dục đoạn
hồn 路上行人欲断魂
Tá vấn tửu gia hà
xứ hữu? 借問酒家何處有?
Mục đồng
dao chỉ Hạnh Hoa Thôn ! 牧童遥指杏花村!
Ghi Chú :
1. Phân Phân :
Là Liên tục không dứt, là Phơi Phới, là Phơn phớt.
2. Dục Đoạn Hồn : là Muốn đứt cái
hồn ra , là buồn thúi ruột.
3. Tá Vấn
: là Ướm hỏi, là Hỏi thăm ( việc gì hoặc cái gì
đó... ).
4. Mục Đồng : là những đứa
bé chăn dê, chăn cừu hoặc chăn trâu....
5. Hạnh Hoa Thôn : Có 2 nghĩa :
* Là cái Thôn tên là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
* Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
Như trên đã nói,
Thanh Minh là dịp để quét tước lại mồ mả ông bà,
là hội Đạp Thanh để nam thanh nữ tú du xuân... Nhưng, Đỗ
Mục lại bảo là " dục đoạn hồn ". À , thì ra , tác
giả đang xa nhà, ta hãy đọc lại cả câu xem sao...
Lộ
thượng hành nhân dục đoạn hồn...
Người lữ khách xa nhà
đi trên đường một thân một bóng, thay vì cùng người
nhà đi tảo mộ hoặc đạp thanh, nên càng cảm thấy thấm
thía hơn với nỗi buồn xa xứ trong cảnh mưa phùng lất phất....Cho
nên mới muốn tìm ly rượu để sưởi ấm cỏi lòng
tha hương chiếc bóng.....
Diễn nôm :
Thời
tiết Thanh minh lất phất mưa
Trên
đường lữ khách muốn say sưa
Rượu ngon ướm hỏi nơi đâu bán ?
Xóm
Hạnh, Mục đồng chỉ trỏ thưa !
Theo Giai
Thoại Văn Chương VN của Thái Bạch thì : Các cụ ta ngày
xưa muốn tỏ rỏ cái tinh thần độc lập, cái đầu óc
cầu tiến , không quá lệ thuộc vào cổ nhân, nên đã
" chê " bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt nầy của Đỗ Mục
là : Mỗi câu dư 2 chữ. Các Cụ lý luận như thế nầy
: " Thời tiết vũ phân phân " thì biết là thời tiết
của Thanh Minh rồi, nên không cần phãi có 2 chữ Thanh Minh nữa. "
Hành nhân dục đoạn hồn " là đủ nghĩa rồi, không
cần phải có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ
không lẽ đi " dưới nước " ?!. " Tửu gia hà xứ hữu?
" đã là câu hỏi rồi, cần chi phãi có từ " Tá
Vấn "?. " Dao chỉ Hạnh Hoa Thôn " đủ nghĩa rồi, ai chỉ
mà chả được, cần gì phải " Mục đồng " chỉ
mới được ! Nên bài thơ Thất Ngôn trên nên viết lại
thành Ngũ Ngôn cho nó gọn, như sau :
Thời tiết vũ phân phân
Hành
nhân dục đoạn hồn
Tửu
gia hà xứ hữu ?
Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !
Nói thì nói thế,
chứ thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn âm điệu và tiết tấu
vẫn khác nhau xa, nhưng đây cũng là một gợi mở của Cha Ông
để cho con cháu đừng quá bị lệ thuộc vào cổ nhân
mà thôi ! Âu cũng là một sáng kiến hay đó !....
.......................................................................
Học theo gương
của người xưa, nhớ hồi còn trẻ ( khoảng 15- 16 tuổi gì đó
), khi vừa đọc được bài viết trên của Thái Bạch, cũng
vừa là lúc thầy đang cho đọc bài " Phùng Nhập Kinh Sứ
" của Sầm Tham như sau :
逢入京使
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
故園東望路漫漫, Cố viên đông vọng
lộ man man,
雙袖龍鐘淚不幹。 Song tụ long chung lệ bất
can.
馬上相逢無紙筆, Mã thượng tương phùng vô
chỉ bút,
憑君傳語報平安. Bằng quân truyền
ngữ báo bình an !
岑参
Sầm Tham.
Tranh Minh họa cho bài thơ trên.
NGHĨA BÀI THƠ :
GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH.
Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương
trời đông với đường xá xa xôi diệu dợi ( lộ man man
!). Hai tay áo già nua lụm cụm ( Song tụ long chung ) không lau sạch hết
dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn ( lệ
bất can ). Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không
có bút mực giấy viết gì cả !. Chỉ nhờ anh nhắn miệng
lại dùm là : Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi !
DIỄN NÔM :
GẶP SỨ LAI KINH
Vườn
xưa diệu dợi mõi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
" Bình an " nhờ báo kẽo nhà mong !
Bắt
chước tiền nhân, lúc đó tôi cũng lí luận với thầy
rằng : Trông ngóng về hướng đông, vì quê nhà ở nơi
đó, cho nên chỉ nói : " Đông vọng lộ man man " là đủ
rồi, đâu cần phải có từ " Cố Viên "?! Già nua lụm
cụm nên lau không khô dòng lệ nhớ quê hương, lau bằng gì
mà chả được, đâu cần phải lau bằng 2 tay áo, nên
câu 2 cũng không cần phải có từ " Song Tụ ", chỉ " Long
chung lệ bất can " là đủ. Tương tự câu 3 cũng vậy, gặp
nhau ở đâu cũng được, không nhất thiết là gặp nhau trên
ngựa mới không có giấy bút, nên chỉ " Tương phùng
vô chỉ bút " là đủ rồi ! Câu chót thì lại lịch
sự đến khách sáo, gặp anh, không nhờ anh thì nhờ ai đây
?, nên đơn giản là " Truyền ngữ báo bình an " cũng gọn
gàng và lịch sự lắm rồi !. Nên, bài thơ Thất ngôn trên
sẽ trở thành bài thơ Ngũ ngôn như sau :
Đông vọng lộ man man,
Long chung lệ bất can.
Tương phùng vô chỉ bút,
Bằng ngữ báo bình an !
Thầy giáo lúc bấy giờ khen lấy khen để,
cho là học sinh có Ý kiến và suy nghĩ hay ho, không đọc thơ
một cách cứng ngắt bài bản.... Thầy đâu có biết rằng,
cái thằng học trò ranh mảnh nầy chỉ bắt chước và làm
theo " Giai Thoại Văn Chương Việt Nam " của Thái Bạch mà thôi,
chớ cũng chẳng hay ho gì hơn ai hết !
Chuyện qua đã hơn 50 năm, bây giờ nhắc lại, lại cảm thấy
bồi hồi xúc động, thời gian không chờ đợi ai cả, thoáng
cái mà tuổi đã gần 70 rồi ! Muốn nói cho Thầy biết là
mình chỉ nhại lại cái việc làm của người đi trước
mà thôi, thì Thầy đã không còn nữa !... Thầy ơi !...
Đỗ
Chiêu Đức.
*THẦY :
Ở đây là Bác Sáu 六伯 ( Lặc-Bệ
, theo âm Phúc Kiến ), có bằng Cao Đẳng Tiểu Học thời Pháp
Thuộc, nên đứng tên làm Hiệu Trưởng về Mặt Hành Chánh
cho trường Tiểu học TÂN TRIỀU Cái Răng, trước nhiệm kì
của cô NGUYỄN KIM QUANG. Ông là anh ruột của bà Hiệu Trưởng
họ THI 施 ( Bà Sứ ) sau này. Ông không có
trực tiếp đứng lớp, chạy loạn từ Trung Hoa đại lục sang, nhưng
nói tiếng Việt rất sỏi như người bản xứ, giỏi Văn Chương
Văn Học Hán Việt. Ông ở trọ hẵn trong trường học, rất
thân thiện và hòa đồng với học sinh, chúng tôi thường
đến phòng ông chơi, học thơ Đường, Tản văn, làm
câu đối.... và thường gọi ông là Bác Sáu ( Lặc Bệ
) cho thân mật, chớ không có gọi bằng Thầy, hoặc Hiệu Trưởng
gì cả !
TỨ KHOÁI
Nhân
nhắc đến thơ " TỨ QUÍ ", lại chợt nhớ đến bài
thơ " TỨ KHOÁI " của người xưa. Xin được nhắc lại
bài thơ nầy cũa HỒNG MÃI đời Tống nằm trong " Đắc
Ý Thất Ý Thi " 宋· 洪迈 "得意失意诗 ".
Bài
thơ như sau...
Nhân
nói đến
thơ " TỨ QUÍ " , xin kính trình với Quý Vị một
bài thơ xưa nữa, bài thơ TỨ KHOÁI, nói về bốn cái
" Khoái " nhất của Các Cụ ngày xưa như sau :
Cửu hạn phùng cam vũ,
久 旱 逢 甘 雨
Tha hương ngộ cố tri ,
他 鄉 遇 故 知
Động phòng hoa chúc
dạ,
洞 房 花 燭 夜
Kim bảng quải danh thì .
金 板 掛 名 時
Chú thích :
1. Vũ 雨: Là Mưa. Vd : Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Còn được đọc là VÕ. Vd : Đão Võ : là cầu mưa.
Có người thích đọc là " Cửu hạn phùng cam VÕ ".
2. Cố 故
: Là Xưa. Vd : Cố nhân : Người xưa, Cố sự : Chuyên đời
xưa....
Là Cũ. Vd : Cố tri : Bạn cũ. Người quen biết cũ.
Cố hương : Quê cũ....
Khi đi với chữ QUÁ là Quá Cố : thì có nghĩa là chết
đi.
3. Quải 掛 : Là Treo. Vd : Quải danh : là
treo tên. " Quải danh thì " là Khi tên được treo ( lên bảng
vàng ). Quải Quan 掛冠 : Là treo nón (từ quan).
Chữ nầy khi đọc là QUÁI
thì có nghĩa là QUẺ. Vd : Bát Quái.
Nghĩa từng câu :
Câu 1 : Trời hạn hán lâu
ngày, gặp được trận mưa rào( ngọt ) đổ xuống.
Cầu 2 : Ở nơi xa quê hương mà gặp được người quen
cũ.
Câu 3 : Đêm động phòng hoa chúc khi ta kết hôn.
Câu 4 : Khi được treo tên trên bảng vàng, tức là khi thi đậu
làm quan.
Câu chót
có người đọc là : " Kim bảng tánh danh đề ".金板姓名题. Có nghĩa Tên tuổi được ghi lên
trên bảng vàng , nghĩa thì cũng tương tự, nhưng "... quải
danh THÌ " ăn vận với "...Ngộ cố TRI " ở trên hơn là
"... tánh danh ĐỀ ".
Đây là 4 cái KHOÁI nhất
của các ông bà ngày xưa, xin diễn nôm như sau :
Hạn lâu, gặp được mưa rào,
Xa quê lại được chào người quen xưa,
Động phòng hoa chúc đêm mưa,
Bảng vàng bia đá cho vừa lòng em. !
Nhưng có Cụ còn cho như thế vẫn chưa được " Thật
Khoái ! "
Muốn diễn tả cho
thật khoái, các cụ còn thêm vào mỗi đầu câu 2 chữ
như sau :
THẬP NIÊN cữu hạn phùng cam vũ,
THIÊN LÝ tha hương ngộ cố tri,
LÃO GIẢ động phòng hoa chúc dạ,
THIẾU NIÊN kim bảng quải danh thì
Xin tạm diễn nôm như sau :
Mười năm hạn hán bỗng tuôn mưa,
Ngàn dặm quê người gặp bạn xưa,
Lão ông còn động phòng hoa chúc,
Tuổi trẻ bảng vàng quả sướng chưa !
Bốn câu thơ trên gọi là " Tứ cực khoái ". Còn như
muốn diễn tả 4 điều làm cho người ta bực mình nhất, ( Tứ
bất khoái ) thì sẽ thêm vào mỗi đầu câu 2 chữ như
sau :
VIÊM ĐIỀN cữu hạn phùng cam vũ,
ĐÀO TRÁI tha hương ngộ cố tri,
THÁI GIÁM động phòng hoa chúc dạ,
CỪU NHÂN kim bảng quải danh thì.
Cũng xin diễn nôm như sau :
Ruộng muối nắng lâu chợt đổ mưa,
Trốn nợ quê người gặp bạn xưa,
Thái giám bắt động phòng hoa chúc,
Kẻ thù đậu đạt, khổ hay chưa?!
Người
xưa luận về Tứ Khoái thì như thế, còn hiện nay chúng ta
có được những thứ nào khả dĩ gọi là KHOÁI không
?
Đỗ Chiêu Đức.
ĂN CHƠI
BỐN MÙA
.
Kính thưa
Quý Thầy Cô và Các Bạn,
Nhân hãy còn là mùa Xuân, xin kính gởi đến quý Thầy
Cô và Các Bạn bài thơ " Ăn chơi bốn mùa, Bốn mùa
ăn chơi " của các Cụ ta ngày xưa, mà hồi còn bé,
tôi đã chép được " nó " ở nhà của Ông Ba
Hương Sư ở Ấp Yên Thượng ( Ba Láng ) như sau :
Xuân du phương thảo địa
春 逰 芳 草 地
Hạ thưởng lục hà trì
夏 賞 绿 荷 池
Thu ẩm hoàng hoa tửu
秋 飲 黄 花 酒
Đông ngâm bạch tuyết thi
冬 吟 白 雪 詩
Thích nghĩa :
Mùa
xuân thì đi dạo chơi trên các thảm cỏ non. Mùa hè nóng
nực thì ngồi ngắm hoa sen nở trong ao. Mùa thu mát mẻ thì nhâm
nhi rượu cúc đào. Mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi thì
ngâm thơ vịnh tuyết trắng.( Đây chắc phải là các Cụ
ở miến Bắc, chớ Miền Nam làm sao có tuyết trắng để....
ngâm. ).
Chú thích :
1.- PHƯƠNG
芳 : Thơm, thuộc bộ Thảo 艸, nên chỉ mùi thơm nhè nhẹ, dịu dàng của cỏ cây
hoa lá. Thường được dùng đặt tên cho phái nữ. Xin
lạm bàn một chút về chữ Phương nầy để thấy được
rằng đàn ông Châu Á khi xưa cũng " Ga Lăng " đáo
để ". Này nhé , tất cả những thứ gì thuộc về phái
nữ đều có chữ PHƯƠNG liền theo bên cạnh :
* Phương danh : Tên thơm, để chỉ tên của phái nữ. Ta thường
hỏi : Xin
cho biết " quý tánh phương danh ".
* Phương tâm : Trái tim thơm, chỉ trái tim và lòng dạ của
phái nữ.
* Phương
ý : Chỉ ý kiến hoặc tình ý của phái nữ
* Phương lân : Cô hàng xóm thơm phức, chỉ người hàng
xóm là phái nữ.
.... và một từ nữa mà cả đàn ông Tây phương "
ga lăng " nhất cũng phải chào thua là : Hương hạn 香汗 : Mồ HÔI thơm. Ở đây không xài chữ
Phương nữa mà sử dụng thẳng từ HƯƠNG để chỉ mồ
HÔI của các bà các cô cũng... thơm phức làm... " mê
mệt người qua lại " ( thơ Nguyễn Bính ).
2.- Hoàng Hoa 黄花 : Hoa vàng, một cách riêng
để gọi hoa CÚC.
Diễn nôm :
Xuân chơi trên thảm cỏ non
Hè thì thưởng ngoạn sen còn trên ao
Thu nhâm nhi rượu cúc đào
Đông ngâm thơ tuyết, thú nào hơn ta ?
Kính thưa Quý thầy Cô và Các Bạn,
Chúng ta có thể mỗi người cùng làm một bài thơ theo bất
cứ hình thức ( Năm chữ, bảy chữ, Nôm hay Hán.... ) thể nào
cũng được để diễn tả lại cái " ăn chơi " hoặc
" tiêu khiển " của bốn mùa nơi mà ta đang cư ngụ, có
được chăng ?. Dĩ nhiên, tôi là người bày đặt cho
nên phải đi đầu, xin trình làng bài thơ của tôi như
sau :
Xuân cuồng du viên hội
春 逛 游 園 會
Hạ nhập thủy công viên
夏 入 水 公 園
Thu
khánh hàm ân tiết
秋 慶 含 恩 節
Thánh Đản tại nhởn tiền.
聖 誕 在 眼 前
Nghĩa :
Mùa xuân thì đi vòng quanh các Hội Chợ ( Houston có rất nhiều
Hội Chợ các Chùa ). Mùa hè thì vào Công viên Nước.
Mùa thu thì đón lễ Tạ ơn ( học trò nghỉ suốt tuần
chót của tháng 11 ). Mùa đông thì mừng Chúa Giáng sinh đến
liền trước mắt sau Lễ Tạ Ơn.
Chú :
Chữ CUỒNG 逛 : Động từ có nghĩa là
nhàn du, là đi vòng vòng. Ta hay lầm chữ Cuồng nầy với chữ
Cuồng không có bộ Xước 狂 : Cuồng nầy
là Tính từ có nghĩa là mạnh bạo, là điên .Ví dụ
: Cuồng Phong là Gió Xoáy mạnh, và thường thì ta hay hiểu
lầm nghĩa của Câu " Tửu nhập tâm như cẩu CUỒNG tại thị
". Rượu vào bụng rồi thì như con chó chạy vòng vòng
ngoài chợ.( Chớ không phải CHÓ ĐIÊN, vì nếu là chó
điên thì sẽ nói là CUỒNG CẨU ).
Bài thơ
nôm :
Ngày xuân ăn Tết ở Chùa
Hè Công viên Nước vui đùa cháu con
Thu sang đón Lễ Tạ Ơn
Giáng Sinh năm hết, chỉ còn khao đao ( count-down )
Xin kính gởi đến
Quý Thầy Cô và Các Bạn
để cùng chia xẻ,
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức
Hai ảnh dưới đây là
chữ viết bằng bút lông của ông Đồ Đỗ Chiêu Đức:
Ảnh đầu là kiểu chữ nửa HÀNH nửa KHẢI được
viết ngang như chữ Quốc ngữ . Còn ảnh kế là 2 kiểu chữ
viết Đứng, đọc từ phải qua. Kiểu đầu là lối chữ
LỆ, gọi là LỆ THƯ, có từ đời Tần, chữ dẹp và
có đuôi như chim én, gọi là Tàm Đầu Yến Vĩ ( đầu
tầm đuôi én ). Còn kế bên là lối chữ THẢO, cũng viết
từ trên xuống.
___________________________________________________________________________________
" Tống Táo Thi " của Lữ Mông Chính
Nhân nói đến thơ đưa Ông
Táo, ta không thể không nhắc đến bài " Tống Táo Thi "
của Lữ Mông Chính, người mà trong " Hàn Nho Phong Vị Phú
" Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy :
....
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cởi dù
che. ...
Sau đây, ta thử tìm hiểu cuộc đời nghèo khó
và bài thơ đưa ông Táo nổi tiếng của ông nhé !...
呂蒙正(944或946-1011),字聖功,河南洛陽人,977年宋太宗丁丑科狀元。呂蒙正中狀元後,曾任將作監丞、通判、著作郎、左補闕、參知政事等官銜。988年,呂蒙正出任宰相,病逝於大中祥符四年(1011年),享年67歲 .
LỮ MÔNG CHÍNH
( 944 & 946- 1011 ), Tự là Thánh Công, người đất Lạc Dương
tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế
Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ
các chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ
Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh
mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng thọ 67 tuổi.
Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi
. Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một lò
gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt
những người, chen chút nhau rất náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để
xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt
đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng
là Lưu Nguyệt Nga đang gieo tú cầu để tìm người hôn
phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu
tiểu thơ ném từ trên lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông
bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn sự nầy, nhưng
tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp nhận từ bỏ tất
cả để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng
cho đây là duyên trời định và hơn nữa không thể bội
tín được.
Cuối năm đó, đến
ngày đưa ông Táo, không hiểu là Lữ Mông Chính đã
năn nỉ như thế nào mà ông hàng thịt bán chịu cho một
miếng thịt đem về luộc để cúng ông Táo. Nhưng khi bà
hàng thịt biết được việc nầy bèn mắng cho ông chồng
một trận nên thân : " Nó nghèo kiết xác, làm sao có
tiền trả mà bán chịu ?!". Bà ta tức tốc chạy đến
lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc dở dang trên bếp, bèn
hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt đem về !. Đến nước
nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước luộc thịt vào tô
mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp hương
để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái nghèo khó
của mình và cũng cảm khái trước cái nhân tình thế
thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn Ông Táo
sau đây :
一柱清香一縷煙, Nhất trụ thanh hương
nhất lũ Yên,
灶君今日上朝天; Táo Quân kim nhật thướng
triều thiên.
玉皇若問人間事, Ngọc Hoàng nhược vấn
nhân gian sự,
為道文章不值錢。
Vị đạo văn chương bất trị tiền !
DỊCH
NGHĨA :
Một nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn
khói nhẹ, hôm nay ta đưa tiễn Táo Quân về để chầu Trời.
Nếu như Ngọc Hoàng có hỏi đến chuện cũa dân gian, thì
xin ông hãy vì ta mà đáp rằng, văn chương không đáng
giá đồng xu cắc bạc nào cả !
DIỄN NÔM :
Một
nén nhang thanh làn khói nhẹ,
Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
Ngọc
Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy
đáp văn chương chẳng đáng tiền !
Đỗ Chiêu Đức.
Câu chót
của bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu Trời của
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu :
" Văn chương hạ giới rẻ như bèo ! "....
Trở
lại chuyện của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
....Năm đó, sau khi Táo của các nhà đã báo
cáo xong, mà đợi mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch
nơi Lữ cư ngụ. Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo
của Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch
vào chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả
lời rằng : " Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc
dở dang chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng
nên đi không nổi. ", đoạn trình bài thơ của Lữ lên
cho Ngọc Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu
Trạng Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá ! Thần Táo mới năn
nỉ rằng : " Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa
sau đâu, thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng
cho anh ta đậu ngay khoa nầy đi, để thần cũng được đỡ
đói ! ". Ngọc Hoàng thương tình, bèn sai Nam Tào đem sổ
sửa lại cho Lữ đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính
mới đậu được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 đó
vậy !
... Trên đây là theo truyền Thuyết dân
gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của người
đàn ông, có bóng dáng của một người đàn bà,
còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của Lữ Mông
Chính, có tới bóng dáng của 2 người đàn bà lận
: một là Lưu tiểu thơ, 2 là bà Tể Tướng phu nhân, vì
thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ vật chất cho con
và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà dùi mài
kinh sử...
Đây là ông Tể Tướng
xuất thân từ khất cái duy nhất của lịch sử Trung Hoa : Lữ Mông
Chính.
TỐNG TÁO
THI
Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp, thì dân Việt ta có
tục lệ cúng tiễn đưa Ông Táo về trời, người Hoa thì
cúng vào đêm 24. Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy,
chỉ xét về phần cúng tế. Người Việt và người Hoa
ở Việt Nam thường cúng tiễn Táo Quân bằng " thèo lèo
", bánh mức, chè Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy
tiền vàng bạc kèm theo các hình cò bay ngựa chạy. Ý là
để cho ông Táo cởi ngựa cởi cò về trời ( trong văn học
thì cho là cởi cá Chép ), còn " thèo lèo " bánh mức...
là để ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho tốt với Ngọc
Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông
Táo đang cư ngụ....
Nhớ lúc nhỏ, khi gần Tết , tôi đã đọc được
một bài thơ " Tống Táo Thi " 送 竈 詩 trên báo để tiễn đưa
ông Táo như sau :
送 竈 詩
TỐNG TÁO THI
麥芽糖餅餞行蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。 Bái chúc dương si thả tác
lung.
只有一般應開口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。 Phiền quân báo ngã nhất
niên cùng !
CHÚ
THÍCH :
1. Đường Bỉnh : là Kẹo bánh. Đường
là Đường, mà cũng là Kẹo nữa.
2. Dương
: là Giả đò. Tác : là Làm bộ.
3.
Si : là Ngây, là Dại.
4. Nhất ban : là Mạo từ ( Article
)chỉ : Một Điều, Một Cái.
5. Nhất niên : là Cả
năm, suốt năm, chớ không phải MỘT NĂM.
DỊCH NGHĨA :
Mạch
nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi.Khi bái kiến
và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc
dùm cho ( đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi ).
Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm
phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt
cả năm vậy !
DIỄN NÔM :
THƠ
TIỄN ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo bánh
tiễn chân ông,
Lên đó giả
ngây giả điếc dùm.
Chỉ có
một điều nên mở miệng,
Rằng
ta nghèo suốt một năm ròng !
Đỗ Chiêu Đức.
TÁI BÚT
:
Xin được nói thêm về 2 chữ THÈO LÈO.
THÈO LÈO là phát theo âm Tiều Châu của 2 chữ
TRÀ LIỆU 茶料 : là Những Vật Liệu dùng
để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây là chỉ những món
đồ ngọt như : Kẹo Đậu Phọng, Kẹo mè đen, mè trắng,
cốm, và những viên đậu phọng được áo một lớp
đường màu trắng mà ta quen gọi là " Cứt Chuột ".
" Thèo Lèo Cứt Chuột " là món ngon
dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng
ông Táo ở quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...
BẢN
DỊCH QUÊN ĐI:
Thơ Tiễn Táo
Bánh mứt kẹo đường tiễn Táo ta
Thiên đính
đến lượt cứ lơ là
Một điều duy nhất mong Ông nói
Sao chuyện thiếu ăn mãi vậy cà.
Quên Đi
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 35
( chung )
為 官 須 作 相 , 及 第 必 爭 先 。
Vi quan tu tác tướng, Cập đệ tất tranh tiên.
CHÚ THÍCH :
TƯỚNG 相 : Tướng nầy là Thừa Tướng, Tể Tướng. Chức
Tướng lớn nhất trong quan trường ngày xưa, tương đương
với chức Thủ Tướng của ngày nay.
CẬP ĐỆ
: là Được xếp hạng, có nghĩa là Thi Đậu. Đậu Tiến
sĩ gọi là Tiến Sĩ Cập Đệ , Đậu Trạng Nguyên gọi
là Trạng Nguyên Cập Đệ.
NGHĨA CÂU :
Làm quan, thì phải rán làm đến chức Thừa Tướng, Thủ
Tướng. Thi đậu thì phải rán đậu hạng cho cao, phải giành
cho tên mình được đứng trước.
Đây là cái tiêu chuẩn lí tưởng để mọi người
phấn đấu vươn tới, đòi hỏi có hơi cao, nhưng đó
chinh là cái mơ ước ấp ủ trong lòng của mọi người
mà ít ai dám nói ra mà thôi !
苗 從 地 發
, 樹 向 枝 分 。
Miêu tòng địa phát, Thọ hướng chi phân.
CHÚ THÍCH :
MIÊU : là
Mạ, là Cây Con mới mọc, là Mầm non.
THỌ : là
Cây . CHI : là Cành.
NGHĨA CÂU :
Tất
cả những cây con, mầm non đều từ dưới lòng đất mọc
lên, tức là đều giống nhau về xuất xứ. Khi lớn lên thành
cây thì cành nhánh lại phân chia khác nhau, thành những loại
cây khác nhau.
Câu nầy làm ta nhớ đến
câu đầu tiên của Tam Tự Kinh là : " Nhân Chi Sơ, Tánh Bổn
Thiện, Tánh Tương Cận, Tập Tương Viễn ". Con người khi
mới sanh ra thì bản tánh lương thiện giống như nhau, gần gũi
như nhau, nhưng do tập quán của từng cuộc sống khác nhau, nên
tánh tình mới thay đổi khác nhau mà thôi.
父 子 和 而 家 不 退 , 兄 弟 和 而 家 不 分 。
Phụ tử hòa nhi gia bất thối, Huynh đệ hòa nhi gia bất phân.
NGHĨA
CÂU :
Cha con mà hòa thuận thì gia đạo
không thụt lùi, anh em mà hòa thuận thì gia đạo không bị
phân ly.
" Gia hòa thì vạn sự hanh " Gia đình
hòa thuận thì muôn việc đều suông sẻ hanh thông. Gia đạo
mới đi lên được. Ông bà ta cũng thường dạy là :
" Nhất thất
thái hòa chơn phú quí "
Một nhà vui vẻ hòa
thuận thì đó mới chính là cái Phú Quí thực sự.
官 有 正 條 , 民 有 私 約 。
Quan
hữu chính điều, Dân hữu tư ước.
NGHĨA CÂU :
Quan thì
có những điều khoản quy định chính quy , còn dân thì cũng
có những ước hẹn giao kèo riêng tư với nhau.
Quan thì có luật của Vua, còn dân thì cũng có lệ của
làng . Lắm chỗ lắm nơi " Luật vua còn thua lệ làng
" mà !
閑 時 不 燒 香 , 急 時 抱 佛 腳 。
Nhàn
thời bất thiêu hương, Cấp thời bão phật cước.
CHÚ THÍCH :
NHÀN : Ở
đây có nghĩa là Rảnh Rổi.
THIÊU HƯƠNG :
là Thắp hương, là Đốt nhang.
CẤP THỜI : là
Lúc Cấp bách, khi gấp rút.
BÃO : là Ôm, là
Ấp. HOÀI BÃO : là những điều mà ta ôm ấp trong lòng.
NGHĨA CÂU :
Lúc rảnh rổi thì
không chịu đốt nhang, đến khi gấp rút thì mới ôm chân
ông Phật.( Ông Phật ơi, Ông cứu tôi với ! ).
Ngày thường thì tỏ ra lơ là bất cần, không chịu vun bồi
tình cảm, đến khi gấp rút cần đến thì mới xuống nước
cầu cạnh van xin !
幸 生 太 平 無 事 日 , 恐 逢 年 老 不 多 時 。
Hạnh sanh thái bình vô sự nhật, Khủng phùng niên lão
bất đa thì.
NGHĨA
CÂU :
May mắn được sanh ra trong thời buổi
thái bình vô sự, chỉnh e tuổi tác đã già rồi, thời
gian không còn bao nhiêu nữa.( để hưởng phước mà thôi
! ).
Cảm khái cho tuổi già đến nhanh,
ngày tháng sống yên lành vui vẻ không còn bao nhiêu nữa !
Thời gian không chờ đợi và không " tha thứ " cho ai cả !!!
國 亂 思 良 將 , 家 貧 思 賢 妻 。
Quốc loạn tư lương tướng, Gia bần tư hiền thê.
CHÚ THÍCH :
LƯƠNG TƯỚNG : 將 TƯỚNG nầy là Tướng Quân. Lương Tướng
là Tướng đánh giặc giỏi. Ta có Thành ngữ chỉ các
bề tôi giỏi để giúp vua là : Hiền Thần Lương Tướng.
HIỀN THÊ : Như ta đã biết Hiền Thê không những
chỉ VỢ HIỀN, mà còn dùng để chỉ VỢ GIỎI nữa. Ta
cũng có Thành ngữ chỉ Mẹ Hiền Vợ Giỏi là : Hiền Thê
Lương Mẫu.
NGHĨA CÂU :
Đất nước
loạn lạc chiến tranh thì mới nhớ đến những người tướng
đánh giặc giỏi đã mất đi. Gia đình sa sút nghèo khó
thì mới nhớ đến bà vợ nhà đãm đang.( Có thể
đã không còn nữa ! ).
Cái gì mất
đi rồi mới trở nên quí giá, và " Cái Gì " khi cần
đến thì mới thấy trân quí. Lòng con người ta hay bạc bẽo
là thế !
池 塘 積 水 須 防 旱 , 田 地 勤 耕 足 養 家 。
Trì đường tích thủy tu phòng hạn, Điền địa cần
canh túc dưỡng gia.
CHÚ
THÍCH :
TRÌ ĐƯỜNG : Chỉ Ao Đầm ở phía
sau nhà.
TÍCH : Chứa, Đựng, Để Dành.
CẦN CANH : Siêng năng cày sới.
NGHĨA CÂU :
Đầm ao ở phía sau nhà nên luôn chứa nước để phòng
khi hạn hán. Ruộng đất có siêng năng cày sới thì cũng
đủ nuôi sống gia đình.
Sống siêng
năng cần mẫn, có kế hoạch,có dự phòng... thì sẽ có
cuộc sống yên ổn bình thường !
根 深 不 怕 風 搖 動 , 樹 正 無 愁 月 影 斜 。
Căn thâm bất phạ phong dao động, Thọ chánh vô sầu nguyệt
ảnh tà.
NGHĨA CÂU
:
Rể ăn sâu nên không sợ gió lay động,
Cây ngay thẳng nên không buồn vì ánh trăng chiếu nghiêng nghiêng.
Cây càng cao thì rể càng sâu, hiên ngang
đứng thẳng, sừng sửng giữa trời, bất chấp nắng mưa sương
tuyết, gió cuốn trăng soi . Như con người có lập trường vững
chai, sống hiên ngang theo chí hướng của mình, bất chấp tất cả
thị phi phải trái chung quanh....
奉 勸 君 子 , 各 宜 守 己 。
Phụng khuyến quân tử, Các nghi thủ kỉ.
只 此 程 式 , 萬 無 一 失 。
Chỉ thử trình thức, Vạn vô nhất thất.
NGHĨA CÂU :
Dâng lên những lời
khuyên nầy cho người quân tử, mọi người nên tự giữ
lấy thân phận của mình.
Đây chỉ
là những lời nói theo khuôn phép mà thôi, nếu biết sử
dụng một cách linh động thì sẽ Vạn Vô Nhất Thất : Muôn
điều không sai một !
HẾT TĂNG QUẢNG
HIỀN VĂN .
Dịch
xong ngày 05 tháng 01 năm 2014 nhằm mùng 05 tháng Chạp năm QUÝ TỴ.
LỜI
CUỐI :
Dịch xong Tăng Quảng Hiền Văn như
là hoàn thành tâm nguyện của một người con đối với
ông cha vừa quá cố.
Nhớ khi xưa, lúc
mới bắt đầu đi học tiếng Hoa, mới bắt đầu bặp bẹ
đọc chữ Nho, thì đã nghe văng vẳng bên tai lời khuyên của
cha là : " Đọc thơ tu dụng Ý, nhất tự trực thiên kim ".
Mỗi lần rủ bạn mới về nhà chơi, sau khi nhận xét, thì
lại nghe lời răn : " Kết giao tu thắng kỉ, tự ngã bất như
vô "......Từ đó, Tăng Quảng Hiền Văn được dùng như
lời giáo huấn, răn đe...được lặp đi lặp lại hằng
ngày....
Hôm nào tỏ ra biếng nhác, nhờ
cậy em út làm việc nầy việc nọ, khi lên bàn ăn, sẽ bị
cảnh cáo ngay : " Sử khẩu bất như tự tẩu, cầu nhơn bất
như cầu kỉ !". Thanh niên mới ra đời, hay nhẹ dạ dễ tin người,
mỗi lần vấp ngã, thì lại được nhắc nhở : " Mạc
tín trực trung trực, tu phòng nhân bất nhân ". Trong xử thế thì
thường nghe :" Lai thuyết thị phi giả, tiện thị thị phi nhân ",
" Cầu nhân tu cầu anh hùng hán, tế nhân tu tế cấp thời
vô "... Ở đời thì : " Nhất hào chi ác khuyến nhân
mạc tác, nhất hào chi thiện dữ nhân phương tiện ", và
luôn luôn phải nhớ là : " Trách nhân chi tâm trách kỉ,
thứ kỉ chi tâm thứ nhân "..... Những lời giáo huấn trong Tăng
Quảng Hiền Văn cứ vang vọng mãi bên tai cho đến hiện nay !
Mặc dù cha đã không còn nữa, nhưng
con vẫn luôn ghi nhớ những lời dạy bảo, khuyên răn trên, và
bản dịch Tăng Quảng Hiền Văn nầy như là một nén hương
lòng của con dâng lên để tưởng nhớ đến những lời
giáo huấn đã và sẽ theo con suốt cả cuộc đời nầy
!.....
Đỗ Chiêu Đức.
ĐÍNH KÈM :
01 Attachment Bìa và trang đầu của một bản TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
được bày bán ở lề đường NGUYỄN TRÃI CHỢ LỚN
năm xưa.
___________________________________________________
SỐ CHỮ
TRONG CÂU ĐỐI:TRỊNH BẢN KIỀU
Để mở đầu cho đề tài hấp dẫn nầy, tôi
xin kể ngay một giai thoại về một Họa sư nổi tiếng vẽ tranh
Tre Trúc, đồng thời cũng là một nhà Thư Pháp lớn của
Trung Quốc thời cận đại : Đời THANH, đó chính là TRỊNH
BẢN KIỀU 鄭板橋 ( 1693- 1765 ) . Truyện
kể rằng......
Một hôm, Trịnh Bản Kiều mặc thường phục đến thăm một
ngôi chùa nổi tiếng ở địa phương đó. Tri khách tăng
( nhà sư chuyên lo tiếp khách thập phương ) thấy chỉ là
một thư sinh bình thường, nên chỉ ghế và nói : TỌA ! 坐
!, đoạn xoay vào bên trong nói với chú Tiểu phục vụ : TRÀ
! 茶 !. chỉ tiếp khách chiếu lệ. Một thời gian sau, Trịnh Bản Kiều
lại đến viếng ngôi chùa đó, nhưng lần nầy ăn mặc
như một Công tử nhà giàu có. Tri khách tăng niềm nở mời
: THỈNH TỌA ! 請坐. và xoay vào trong bảo chú Tiểu : BÀO TRÀ
!( có nghĩa là Pha trà ) 泡茶!và tiếp khách ân
cần hơn. Ít lâu sau, ông lại lên thăm chùa với trang phục
của quan Tri Huyện. Tri khách tăng trông thấy vội vàng tiến ngay đến
trước mời : THỈNH THƯỢNG TỌA !( Mời ngồi lên ghế của
thượng khách ) 請上坐 !. Đoạn xoay vào trong giục chú Tiểu : BÀO
HẢO TRÀ ! 泡好茶 ! ( pha trà ngon ) . Tiếp đãi vô cùng ân
cần, niềm nở, và khi biết được ông là nhà thư pháp
đại tài, bèn lấy bút mực ra xin ông viết cho chùa đôi
câu đối. Ông rất sẵn lòng, mĩm cười cất bút viết
đôi câu đối như sau :
TỌA, THỈNH TỌA, THỈNH THƯỢNG TỌA
坐,請坐,請上坐,
TRÀ, BÀO TRÀ, BÀO HẢO TRÀ !
茶,泡茶,泡好茶 !
Vì
là truyện kể dân gian, nên có người viết 2 thứ hai thành
:
Trà, kính trà, kính hương trà ! 茶,敬茶, 敬香茶 。
Tôi kể
chuyện nầy để trả lời cho câu hỏi của một Đồng
môn là : Có phải câu đối luôn là số lẻ 5, 7, 9, 11....hay
không ? Xin trả lời : Thường thì như thế, nhưng không nhất
thiết phải là số lẻ. Như câu đối trên đây bằng
1, 2, rồi 3 ráp lại là 6 chữ thành câu Trên, và câu Dưới
cũng thế. Như thế, câu đối có thể từ 1 chữ cho đến
100 chữ cũng được, nếu mình đủ sức làm, và người
đọc có đủ kiên nhẫn để đọc, và ... số
chữ chẳng lẻ gì cũng được. Ví dụ :
Ta có câu đối Tết truyền
thống 4 chữ như sau :
MAI KHAI NGŨ PHÚC
梅 開 五 福
TRÚC BÁO TAM ĐA
竹 報 三 多
Câu 1 : Hoa mai nở 5 cánh như mang đến
5 cái phước cho gia đình ( 5 cái phước đó là : Thọ,
Phú, Khang ninh, Du hảo đức và Khảo chung mệnh. 五福 是 : 寿,富,康寜,攸好德,考终命。Sống lâu, giàu có, mạnh
khỏe, được tiếng tốt và chết an lành. Đó là 5 cái
phước mà mọi người đều mong mõi. )
Câu 2 : Một
chi nhỏ của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm báo
mang đến 3 cái nhiều( Tam Đa ) mà người ta thường mong mõi.
Đó là : Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三多 是 : 多福,多寿,多男子。Nhiều phước, nhiều thọ, nhiều con trai.
Bây
giờ ta khai triển nó thành câu đối 5 chữ :
Mai khai trình ngũ phúc
梅 開 呈 五 福
Trúc báo hiến tam đa
竹 報 献 三 多
Cho nó thành 6 chữ :
Mai khai khai trình ngũ phú 梅 開 開 呈 五 福
Trúc báo báo hiến tam đa
竹 報 報 献 三 多
Cho nó thành 7 chữ :
Mai
khai ngũ phúc niên niên phúc 梅 開 五 福 年 年 福
Trúc báo tam đa tuế tuế đa
竹 報 三 多 嵗 嵗 多
Hoặc
đão ngược lại cho nó hay hơn như :
Trúc báo tam đa đa hién thoại
竹 報 三 多 多 献 瑞
Mai khai ngũ phúc phúc lâm môn 梅 開 五 福 福 臨 門
Hoặc ta nhập
2 câu đối 4 chữ lại thành câu đối 8 chữ như :
Ngũ phúc lâm môn, tam dương khai thái 五福臨門,三陽開泰
Nhất nguyên phục thủy, vạn tượng canh tân
一元復始,萬象更新
Nhớ hồi
Đám cưới của tôi và của thằng con trai của tôi
28 năm sau nữa, tôi cũng viết đôi câu đối 8 chữ như
sau :
Nhật
lệ phong hòa, môn đình hữu hỷ
日麗風和,門庭有喜
Nguyệt viên hoa hảo, gia thất hàm nghi 月圆花好,家室咸宜
Có nghĩa
:
Trời đẹp gió lành, cửa nhà vui vẻ ,
Trăng tròn hoa đẹp, gia thất nên duyên.
Câu đối 9 chữ với những nét chấm phá như vẽ lại bức
tranh Tết như sau :
Bộc trúc tam lưỡng thanh, nhân gian thị tuế,
爆 竹 三 兩
聲, 人 間 是 歲 ,
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai xuân.
梅 花 四 五 點, 天 下 皆 春 。
Có nghĩa :
Hai ba tiếng pháo đì đùng, nhơn gian đón mừng năm mới,
Bốn năm đóa
mai lấm tấm, thiên hạ đều biết xuân sang.
Câu đối 10 chữ của Ông Tú Vị Xuyên " Nhập thế cục
bất khả vô văn tự " như sau :
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
極 人 間 之 品 價, 風 月 情 懷 ,
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
最 世 上 之 風 流,江 湖 氣 骨
。
Có nghĩa :
Cái phẩm giá cao nhất trên đời là tình hoài phong nguyệt,(
ở đây chỉ tình hoài vọng về gió mát trăng thanh một
cách thanh cao, chứ không phải chuyện " gió trăng " tầm thường
của nhân thế ! ).
Cái phong lưu nhất ở trên đời nầy là cái khí cốt
giang hồ !( chỉ làm trai chí tại 4 phương, phải vùng vẫy giang
hồ chứ không phải tối ngày ngồi bó gối ở nhà với...
vợ ! )
Đây
là loại câu đối theo thể văn Biền Ngẫu, Tứ Lục hoặc
Lục Tứ như trong bài tự Đằng Vương Các của Vương
Bột đời Đường :
...
Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân,
Bình thủy tương phùng, tận thị tha hương chi khách...
Câu đối 11 chữ : Nhớ năm 2000, là năm đầu của Thiên Niên
Kỷ mới, người Hoa gọi là năm THIÊN HỈ ( Thiên Hỉ Niên
). Ba Má tôi đều sanh vào tháng Giêng năm 1930, nên năm 2000 vừa
đúng tuổi Thất Tuần. Tết năm đó tôi làm đôi câu
đối sau, vừa để chúc Tết vừa để mừng thọ :
Thiên hỉ tụng cổ hi, hợp quyến nhi tôn cộng lạc,
千 禧 頌 古 稀, 合 眷 兒 孫 共 樂 。
Thất
tuần ca song thọ, toàn gia lão thiếu đồng hoan.
七 旬 歌 雙 壽, 全 家 老 少 同 歡 。
Có nghĩa :
Năm Thiên hỉ, chúc tụng người sống đến tuổi cổ lai hi,
nên con cháu cả nhà đều vui vẻ.
Thất tuần mừng còn được song thọ, nên già trẻ cả nhà
đều cùng hoan hỉ.
Ta còn có thể mượn một câu đối 7 chữ, ghép thêm một
lời chúc 4 chữ để làm thành câu đối 11 chữ như sau
:
Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ, xuân huyên tăng thọ.
天 增 歲 月 人 增 壽,椿 萱 增
壽 ,
Xuân
mãn càn khôn phước mãn đường, kim ngọc mãn đường.
春 滿 乾 坤 福 滿 堂, 金 玉
滿 堂.
Có nghĩa
Trời thêm ngày tháng người thêm thọ, cha mẹ cũng thêm thọ.
Xuân về đầy cả đất trời phước đến đầy cả
nhà, vàng ngọc cũng đầy cả nhà.
Câu đối 12 chữ : Thường thì vế đầu 5 chữ ( ngũ ngôn
), vế sau 7 chữ ( thất ngôn ). như :
Mai khai trình ngũ phúc, xuân đáo mai khai trình ngũ phúc,
Trúc báo hiến tam đa, tuế trừ trúc báo hiến tam đa.
Có
nghĩa :
Mai nở
5 cánh như dâng lên 5 cái phước, khi xuân đến thì mai sẽ
nở và dâng lên 5 cái phước .
Trúc xanh 3 lá như hiến tặng tam đa ( 3 cái nhiều ), khi năm hết
thì trúc vẫn với 3 lá xanh tươi để hiến tặng tam đa.
Hoặc có thể đão ngược lại 7 trước 5 sau để nhấn
mạnh phần chủ yếu của câu đối như : Câu đối mừng
Toãn Hôn ( Kỷ niệm Kim Cương với 60 năm chung sống ) như sau :
Lục thập niên cộng khổ đồng cam, kim niên hân khánh toãn,
六 十 年 共 苦 同 甘, 今 年 欣 慶 鑽 。
Tam vạn nhật phù trầm dữ thế, thử nhật hỷ song toàn.
三 萬 日
浮 沈 與 世,此 日 喜 雙 全 。
Có nghĩa :
Sáu mươi năm chia ngọt xẻ bùi, năm nay mừng mà kỷ niệm
đám cưới kim cương,
Ba chục ngàn ngày chìm nổi với cuộc đời, ngày hôm nay
vui vì còn đủ cả hai người.
Câu đối 14 chữ, thường thì được chia làm 2 vế, mỗi
vế 7 chữ, như câu đối Tết rất nổi tiếng của cụ Nguyễn
Công Trứ như sau :
Chiều ba mươi
nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc
vào nhà.
Câu đối 16 chữ, như câu đối Tết nổi tiếng độc đáo
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương :
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, nít chặc lại
kẽo
ma vương đưa quỷ tới,
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra
cho thiếu nữ đón xuân vào !
Câu đối
20 chữ, như câu đối của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến
làm cho bà hàng xóm khóc chồng là thợ nhuộm như sau :
Thiếp từ khi lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều
dại điều khôn nhờ bố đỏ,
Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng
trắng, tím gan tím ruột với trời xanh !
Và...
Câu đối 44 chữ cũng của cụ Tam Nguyên làm khi về làng dạy
học như sau :
Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên,
nào lính nào tráng, nào bàn ba, tiền làm sao, gạo làm
sao, đóng góp làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi,
cái thủ lợn nhìn thấy đà nhẵn mặt ;
Già chẳng già thì trẻ, đàn tiểu tử lô nhô đứng
trước, nào phú nào thơ, nào đoạn một, bằng là thế,
trắc là thế, điểm khuyên là thế, ba vạn sáu nghìn ngày
thắm thoát, con mắt gà đeo mãi đã mòn tai.
Ta thấy...
Câu
đối 20 chữ còn có thể nhớ và thưởng thức được,
chớ đến câu đối 44 chữ thì... chịu thua ! Vừa khó đọc,
vừa khó nhớ, nói chi đến thưởng thức và nghiền ngẫm
cái hay ho của nó !...
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời cùng đọc một câu
đối 14 chữ ngồ ngộ như sau : ( Đặc biệt là câu đối
nầy toàn bằng từ Hán Việt mà... khỏi cần phải diễn nôm,
vì nghĩa nôm cũng... y chang như thế ! ).
Đại đại
biểu, tiểu đại biểu, đại đại biểu đại biểu tiểu
đại biểu.
Nam chiêu
đãi, nữ chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ
chiêu đãi !
Đỗ Chiêu Đức
Để mở đầu cho đề
tài hấp dẫn nầy, tôi xin kể ngay một giai thoại về một Họa
sư nổi tiếng vẽ tranh Tre Trúc, đồng thời cũng là một
nhà Thư Pháp lớn của Trung Quốc thời cận đại : Đời
THANH, đó chính là TRỊNH BẢN KIỀU 鄭板橋 (
1693- 1765 ) . Truyện kể rằng......
Một hôm, Trịnh Bản Kiều mặc thường phục đến thăm một
ngôi chùa nổi tiếng ở địa phương đó. Tri khách tăng
( nhà sư chuyên lo tiếp khách thập phương ) thấy chỉ là
một thư sinh bình thường, nên chỉ ghế và nói : TỌA ! 坐
!, đoạn xoay vào bên trong nói với chú Tiểu phục vụ : TRÀ
! 茶 !. chỉ tiếp khách chiếu lệ. Một thời gian sau, Trịnh Bản Kiều
lại đến viếng ngôi chùa đó, nhưng lần nầy ăn mặc
như một Công tử nhà giàu có. Tri khách tăng niềm nở mời
: THỈNH TỌA ! 請坐. và xoay vào trong bảo chú Tiểu : BÀO TRÀ
!( có nghĩa là Pha trà ) 泡茶!và tiếp khách ân
cần hơn. Ít lâu sau, ông lại lên thăm chùa với trang phục
của quan Tri Huyện. Tri khách tăng trông thấy vội vàng tiến ngay đến
trước mời : THỈNH THƯỢNG TỌA !( Mời ngồi lên ghế của
thượng khách ) 請上坐 !. Đoạn xoay vào trong giục chú Tiểu : BÀO
HẢO TRÀ ! 泡好茶 ! ( pha trà ngon ) . Tiếp đãi vô cùng ân
cần, niềm nở, và khi biết được ông là nhà thư pháp
đại tài, bèn lấy bút mực ra xin ông viết cho chùa đôi
câu đối. Ông rất sẵn lòng, mĩm cười cất bút viết
đôi câu đối như sau :
TỌA, THỈNH TỌA, THỈNH THƯỢNG TỌA
坐,請坐,請上坐,
TRÀ, BÀO TRÀ, BÀO HẢO TRÀ !
茶,泡茶,泡好茶 !
Vì
là truyện kể dân gian, nên có người viết 2 thứ hai thành
:
Trà, kính trà, kính hương trà ! 茶,敬茶, 敬香茶 。
Tôi kể
chuyện nầy để trả lời cho câu hỏi của một Đồng
môn là : Có phải câu đối luôn là số lẻ 5, 7, 9, 11....hay
không ? Xin trả lời : Thường thì như thế, nhưng không nhất
thiết phải là số lẻ. Như câu đối trên đây bằng
1, 2, rồi 3 ráp lại là 6 chữ thành câu Trên, và câu Dưới
cũng thế. Như thế, câu đối có thể từ 1 chữ cho đến
100 chữ cũng được, nếu mình đủ sức làm, và người
đọc có đủ kiên nhẫn để đọc, và ... số
chữ chẳng lẻ gì cũng được. Ví dụ :
Ta có câu đối Tết truyền
thống 4 chữ như sau :
MAI KHAI NGŨ PHÚC
梅 開 五 福
TRÚC BÁO TAM ĐA
竹 報 三 多
Câu 1 : Hoa mai nở 5 cánh như mang đến
5 cái phước cho gia đình ( 5 cái phước đó là : Thọ,
Phú, Khang ninh, Du hảo đức và Khảo chung mệnh. 五福 是 : 寿,富,康寜,攸好德,考终命。Sống lâu, giàu có, mạnh
khỏe, được tiếng tốt và chết an lành. Đó là 5 cái
phước mà mọi người đều mong mõi. )
Câu 2 : Một
chi nhỏ của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm báo
mang đến 3 cái nhiều( Tam Đa ) mà người ta thường mong mõi.
Đó là : Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三多 是 : 多福,多寿,多男子。Nhiều phước, nhiều thọ, nhiều con trai.
Bây
giờ ta khai triển nó thành câu đối 5 chữ :
Mai khai trình ngũ phúc
梅 開 呈 五 福
Trúc báo hiến tam đa
竹 報 献 三 多
Cho nó thành 6 chữ :
Mai khai khai trình ngũ phú 梅 開 開 呈 五 福
Trúc báo báo hiến tam đa
竹 報 報 献 三 多
Cho nó thành 7 chữ :
Mai
khai ngũ phúc niên niên phúc 梅 開 五 福 年 年 福
Trúc báo tam đa tuế tuế đa
竹 報 三 多 嵗 嵗 多
Hoặc
đão ngược lại cho nó hay hơn như :
Trúc báo tam đa đa hién thoại
竹 報 三 多 多 献 瑞
Mai khai ngũ phúc phúc lâm môn 梅 開 五 福 福 臨 門
Hoặc ta nhập
2 câu đối 4 chữ lại thành câu đối 8 chữ như :
Ngũ phúc lâm môn, tam dương khai thái 五福臨門,三陽開泰
Nhất nguyên phục thủy, vạn tượng canh tân
一元復始,萬象更新
Nhớ hồi
Đám cưới của tôi và của thằng con trai của tôi
28 năm sau nữa, tôi cũng viết đôi câu đối 8 chữ như
sau :
Nhật
lệ phong hòa, môn đình hữu hỷ
日麗風和,門庭有喜
Nguyệt viên hoa hảo, gia thất hàm nghi 月圆花好,家室咸宜
Có nghĩa
:
Trời đẹp gió lành, cửa nhà vui vẻ ,
Trăng tròn hoa đẹp, gia thất nên duyên.
Câu đối 9 chữ với những nét chấm phá như vẽ lại bức
tranh Tết như sau :
Bộc trúc tam lưỡng thanh, nhân gian thị tuế,
爆 竹 三 兩
聲, 人 間 是 歲 ,
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai xuân.
梅 花 四 五 點, 天 下 皆 春 。
Có nghĩa :
Hai ba tiếng pháo đì đùng, nhơn gian đón mừng năm mới,
Bốn năm đóa
mai lấm tấm, thiên hạ đều biết xuân sang.
Câu đối 10 chữ của Ông Tú Vị Xuyên " Nhập thế cục
bất khả vô văn tự " như sau :
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
極 人 間 之 品 價, 風 月 情 懷 ,
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
最 世 上 之 風 流,江 湖 氣 骨
。
Có nghĩa :
Cái phẩm giá cao nhất trên đời là tình hoài phong nguyệt,(
ở đây chỉ tình hoài vọng về gió mát trăng thanh một
cách thanh cao, chứ không phải chuyện " gió trăng " tầm thường
của nhân thế ! ).
Cái phong lưu nhất ở trên đời nầy là cái khí cốt
giang hồ !( chỉ làm trai chí tại 4 phương, phải vùng vẫy giang
hồ chứ không phải tối ngày ngồi bó gối ở nhà với...
vợ ! )
Đây
là loại câu đối theo thể văn Biền Ngẫu, Tứ Lục hoặc
Lục Tứ như trong bài tự Đằng Vương Các của Vương
Bột đời Đường :
...
Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân,
Bình thủy tương phùng, tận thị tha hương chi khách...
Câu đối 11 chữ : Nhớ năm 2000, là năm đầu của Thiên Niên
Kỷ mới, người Hoa gọi là năm THIÊN HỈ ( Thiên Hỉ Niên
). Ba Má tôi đều sanh vào tháng Giêng năm 1930, nên năm 2000 vừa
đúng tuổi Thất Tuần. Tết năm đó tôi làm đôi câu
đối sau, vừa để chúc Tết vừa để mừng thọ :
Thiên hỉ tụng cổ hi, hợp quyến nhi tôn cộng lạc,
千 禧 頌 古 稀, 合 眷 兒 孫 共 樂 。
Thất
tuần ca song thọ, toàn gia lão thiếu đồng hoan.
七 旬 歌 雙 壽, 全 家 老 少 同 歡 。
Có nghĩa :
Năm Thiên hỉ, chúc tụng người sống đến tuổi cổ lai hi,
nên con cháu cả nhà đều vui vẻ.
Thất tuần mừng còn được song thọ, nên già trẻ cả nhà
đều cùng hoan hỉ.
Ta còn có thể mượn một câu đối 7 chữ, ghép thêm một
lời chúc 4 chữ để làm thành câu đối 11 chữ như sau
:
Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ, xuân huyên tăng thọ.
天 增 歲 月 人 增 壽,椿 萱 增
壽 ,
Xuân
mãn càn khôn phước mãn đường, kim ngọc mãn đường.
春 滿 乾 坤 福 滿 堂, 金 玉
滿 堂.
Có nghĩa
Trời thêm ngày tháng người thêm thọ, cha mẹ cũng thêm thọ.
Xuân về đầy cả đất trời phước đến đầy cả
nhà, vàng ngọc cũng đầy cả nhà.
Câu đối 12 chữ : Thường thì vế đầu 5 chữ ( ngũ ngôn
), vế sau 7 chữ ( thất ngôn ). như :
Mai khai trình ngũ phúc, xuân đáo mai khai trình ngũ phúc,
Trúc báo hiến tam đa, tuế trừ trúc báo hiến tam đa.
Có
nghĩa :
Mai nở
5 cánh như dâng lên 5 cái phước, khi xuân đến thì mai sẽ
nở và dâng lên 5 cái phước .
Trúc xanh 3 lá như hiến tặng tam đa ( 3 cái nhiều ), khi năm hết
thì trúc vẫn với 3 lá xanh tươi để hiến tặng tam đa.
Hoặc có thể đão ngược lại 7 trước 5 sau để nhấn
mạnh phần chủ yếu của câu đối như : Câu đối mừng
Toãn Hôn ( Kỷ niệm Kim Cương với 60 năm chung sống ) như sau :
Lục thập niên cộng khổ đồng cam, kim niên hân khánh toãn,
六 十 年 共 苦 同 甘, 今 年 欣 慶 鑽 。
Tam vạn nhật phù trầm dữ thế, thử nhật hỷ song toàn.
三 萬 日
浮 沈 與 世,此 日 喜 雙 全 。
Có nghĩa :
Sáu mươi năm chia ngọt xẻ bùi, năm nay mừng mà kỷ niệm
đám cưới kim cương,
Ba chục ngàn ngày chìm nổi với cuộc đời, ngày hôm nay
vui vì còn đủ cả hai người.
Câu đối 14 chữ, thường thì được chia làm 2 vế, mỗi
vế 7 chữ, như câu đối Tết rất nổi tiếng của cụ Nguyễn
Công Trứ như sau :
Chiều ba mươi
nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc
vào nhà.
Câu đối 16 chữ, như câu đối Tết nổi tiếng độc đáo
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương :
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, nít chặc lại
kẽo
ma vương đưa quỷ tới,
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra
cho thiếu nữ đón xuân vào !
Câu đối
20 chữ, như câu đối của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến
làm cho bà hàng xóm khóc chồng là thợ nhuộm như sau :
Thiếp từ khi lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều
dại điều khôn nhờ bố đỏ,
Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng
trắng, tím gan tím ruột với trời xanh !
Và...
Câu đối 44 chữ cũng của cụ Tam Nguyên làm khi về làng dạy
học như sau :
Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên,
nào lính nào tráng, nào bàn ba, tiền làm sao, gạo làm
sao, đóng góp làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi,
cái thủ lợn nhìn thấy đà nhẵn mặt ;
Già chẳng già thì trẻ, đàn tiểu tử lô nhô đứng
trước, nào phú nào thơ, nào đoạn một, bằng là thế,
trắc là thế, điểm khuyên là thế, ba vạn sáu nghìn ngày
thắm thoát, con mắt gà đeo mãi đã mòn tai.
Ta thấy...
Câu
đối 20 chữ còn có thể nhớ và thưởng thức được,
chớ đến câu đối 44 chữ thì... chịu thua ! Vừa khó đọc,
vừa khó nhớ, nói chi đến thưởng thức và nghiền ngẫm
cái hay ho của nó !...
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời cùng đọc một câu
đối 14 chữ ngồ ngộ như sau : ( Đặc biệt là câu đối
nầy toàn bằng từ Hán Việt mà... khỏi cần phải diễn nôm,
vì nghĩa nôm cũng... y chang như thế ! ).
Đại đại
biểu, tiểu đại biểu, đại đại biểu đại biểu tiểu
đại biểu.
Nam chiêu
đãi, nữ chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ
chiêu đãi !
Đỗ Chiêu Đức
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN 34
欺 人 是 禍 , 饒 人 是 福 。
Khi nhân thị họa, Nhiêu nhân thị phúc.
天 眼 恢 恢 , 報 應 甚 速 。
Thiên
nhỡn khôi khôi, Báo ứng thậm tốc.
CHÚ THÍCH :
KHI : Ngoài nghĩa Khinh Khi, Khi Dễ ra,KHI còn có nghĩa là HIẾP ĐÁP,
Ăn Hiếp người khác.
NHIÊU : là Nhiêu Dung, Nhiêu
Thứ, là Bao Dung Tha Thứ, Xí Xóa, Buông Tha.
NGHĨA CÂU :
Hiếp đáp người khác là gây họa
về sau, biết bao dung tha thứ cho người khác là tạo phúc cho tương
lai đó.
Con mắt của Trời mặc dù nhìn
rất rộng rãi, nhưng sự báo ứng sẽ xảy ra rất nhanh đó
nhé !
Đọc câu nầy làm ta nhớ câu
:
Thiên võng khôi
khôi, 天
網 恢 恢 ,
Sơ nhi bất lậu. 疏
而 不 漏 。
( Lưới Trời
lồng lộng, tuy thưa mà không để lọt việc gì cả ! ).
聖
賢 言 語 , 神 欽 鬼 伏 。
Thánh hiền ngôn ngữ, Thần khâm qủy phục.
NGHĨA CÂU :
Lời nói của các bậc Thánh hiền, QuỶ
Thần cũng phải khâm phục.
Không nhất thiết phải là lời
nói của Thánh hiền, những lời nói đúng đắn, hợp
với đạo nghĩa ở đời, hợp với luân thường đạo
lí.... thì không những thần khâm qủy phục, mà tất cả
mọi người đều phải tuân phục mà thôi !
人 各 有 心 , 心 各 有 見 。
Nhân các hữu tâm, Tâm các hữu kiến.
NGHĨA CÂU :
Mỗi người đều có một tấm lòng, mỗi lòng đều
có sở kiến riêng của mình.
Không ai
bắt ai phải theo ai được cả ! Mỗi người đều có Ý
kiến riêng của mình, mỗi người đều có cái nhìn riêng
của mình, nên tôn trọng cách nhìn của người khác, không
thể áp đặt cái nhìn của mình mà buộc người khác
phải ... nhìn theo.
口 說 不 如 身 逢 ,
耳 聞 不 如 目 見 。
Khẩu thuyết bất như thân phùng, Nhĩ văn bất như mục kiến.
NGHĨA CÂU :
Chỉ nghe cái miệng của người ta nói thôi thì không bằng
đích thân mình găp phải. Tai nghe thì không bằng mắt thấy.
Tam sao thì Thất bản. Chép lại 3 lần thì
đã bị sai với bản gốc rồi, huống hồ nghe qua tới 3 cái
miệng đồn đoán, thêm thắt đủ điều thì... còn
đâu là sự thật của lúc ban đầu !
養 軍 千 日 , 用 在 一 朝 。
Dưỡng
quân thiên nhật, dụng tại nhất triêu.
CHÚ THÍCH :
TRIÊU
朝 : Chữ nầy vừa là Danh từ,
vừa là Động từ.
* Danh từ : 1. Đọc là
TRIÊU thì có nghĩa là BUỔI, là BUỔI SÁNG : như Triêu
Mộ là : Sáng Tối.
2. Đọc là TRIỀU thì có nghĩa là Triều Đại, như
Đường Triều là : Triều đại nhà Đường.
*
Động từ : Triều có nghĩa là Chầu( Vua Chúa, Thần Thánh...)
như : Triều Kiến, Bãi Triều...
NGHĨA CÂU :
Nuôi quân ngàn ngày, dùng trong một buổi.
Nhưng nếu không nuôi quân một ngàn ngày, thì khi có việc,
lấy đâu ra người để dùng trong một buổi đây ?!
國 清 才 子 貴 , 家 富 小 兒 驕 。
Quốc thanh tài tử quí, Gia phú tiểu nhi kiêu.
NGHĨA CÂU :
Nước thanh bình thì tài tử mới được
quí trọng. Nhà giàu có thì trẻ nhỏ đâm ra kiêu căng.
Thực tế vô cùng ! Khi đất nước loạn
lạc chiến tranh thì người ta chỉ trọng võ tướng, và bận
bịu với việc đánh nhau, đối phó với đối phương,
chứ đâu có ai chú trọng đến văn học nghệ thuật, cho
nên giới tài tử bị lãng quên. Đất nước có thanh bình
rồi thì tài tử mới được lên ngôi.
Nhà giàu có, dù có khéo giáo dục cách mấy thì con
nít ở trong nhà vẫn tỏ ra kiêu ngạo hơn là con nít bình
thường. Tại sao ? Vì vật chất đầy đủ, người hầu
kẻ hạ xung quanh cung phụng chăm sóc từng chút môt, không tỏ
ra kiêu căng mới là lạ !
利 刀 割 體
痕 易 合 , 惡 語 傷 人 恨 不 消 。
Lợi đao cát thể ngân dị hợp, Ác ngữ thương nhân hận
bất tiêu.
CHÚ THÍCH :
LỢI : Ngoài nghĩa Lợi Lộc,
còn có nghĩa là BÉN. LỢI ĐAO là : Con Dao bén.
NGÂN : là Dấu, Vết, là Cái Thẹo.
NGHĨA CÂU :
Dùng dao bén cắt vào thân thể người ta, tuy chảy máu đau
đớn, nhưng vết thương cũng dễ lành lại. Chớ dùng những
lời độc ác làm tổn thương người khác trước mặt
đông người, thì cái hận thù sẽ không thể tiêu trừ
được.
Ông Bà ta dạy : " Lời nói
không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau " mà
! Những lời nói hiễm độc, hạ nhục người khác trước
đám đông thì còn ác đức hơn là chém cho họ
một dao nữa !
公
道 世 間 唯 白 髮 , 貴 人 頭 上 不 曾 饒 。
Công đạo
thế gian duy bạch phát, Quí nhân đầu thượng bất tằng nhiêu.
NGHĨA CÂU :
Cái công đạo, lẽ
công bầng trên đời nầy duy chỉ có đầu bạc mà thôi,
ngay cả trên đầu những quí nhân hiển đạt nó cũng chưa
từng tha thứ cho ai cả !
Đầu bạc : Giai đoạn
ai cũng phải kinh qua, chỉ sớm hoặc muộn mà thôi. Đầu bạc
còn chỉ thời gian sắp tới, tất yếu và rất công bằng với
mọi người bất luận sang hèn quí tiện, nó không từng tha
thứ cho người nào cả ! . Ai rồi cũng phải có lúc đầu
bạc mà thôi !.
有 錢 堪 出
眾 , 無 衣 懶 出 門 。
Hữu tiền kham xuất chúng, Vô y lãn xuất môn.
CHÚ THÍCH :
KHAM : là Có thể, là Nên, là Được.
LÃN : là Lười Biếng, là Biếng Nhác. Hải
Thượng Lãn Ông là chữ LÃN nầy. Ông Tổ thuốc Nam của
Việt Nam tự xưng một cách khiêm tốn là : Ông già Lười
Biếng ở trên biển.
NGHĨA CÂU :
Có tiền, giàu có thì mới nên đến chỗ đông người,
tham gia cộng đồng, hoạt động xã hội.... mới không bị người
ta coi rẻ. Không có cái áo coi cho được, tức nghèo khó
không có dư tiền rủng rỉnh trong túi, thì cũng lười biếng
ra khỏi cửa !
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 33
一 字 入 公 門 , 九 牛 拖 不 出 。
Nhất
tự nhập công môn, Cửu ngưu đà bất xuất.
NGHĨA CÂU :
Khi một chữ đã
vào đến công đường rồi, thì đến 9 con trâu cũng
không thể nào kéo ra cho được.
Ngày
xưa là Công môn, ngày nay là tòa án. Một lời nói lở,
nói sai ở những nơi pháp lí nầy thì tai hại vô cùng,
muốn lấy lại cũng không thể nào lấy lại cho được. Trong
Tiếng Việt ta có câu : " Bút sa gà chết " là vậy
đó !
衙
門 八 字 開 , 有 理 無 錢 莫 進 來 。
Nha
môn bát tự khai, Hữu lí vô tiền mạc tấn lai.
NGHĨA CÂU :
Cửa nha môn mở rộng
như hình chữ bát, ai có lí mà không có tiền thì đừng
có đi vào.
Đây là câu nói lẫy,
than phiền cho thế giới kim tiền làm tổn thương đạo lí. Đọc
câu nầy làm ta nhớ đến 2 câu thơ kết của cụ nguyễn
Khuyến khi vịnh Kiều :
Có
tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Ngày trước làm quan cũng thế a ?!
富
從 升 合 起 , 貧 因 不 算 來 .
Phú tòng thăng hợp khởi, Bần nhân bất toán lai .
NGHĨA CÂU :
Giàu là
do chắt mót từ lon từ chút mà nên, Nghèo là tại không
biết tính toán( tiện tặn ) mà ra.
Ông bà ta cũng
từng dạy :" Đại phú do thiên, còn Tiểu phú là do cần
" mà ! Biết siêng năng cần kiệm thì không làm giàu to,
chứ cũng thuộc hạng giàu nhỏ , không đến nỗi đói
khổ thiếu thốn.
家
中 無 才 子 , 官 從 何 處 來 ?
Gia trung vô tài tử, Quan tòng hà xứ lai ?
NGHĨA CÂU :
Trong nhà không có
tài tử giỏi giang, thì quan quyền từ đâu mà có được
?!
Quan cũng từ dân mà ra, nếu trong dân chúng
không có người tài giỏi, thì lấy đâu ra nhân tài
để làm quan ?
萬
事 不 由 人 計 較 , 一 生 都 是 命 安 排 。
Vạn sự bất do nhân kế giảo, Nhất sinh đô thị mệnh an bài.
NGHĨA CÂU :
Muôn việc
đều không phải do người tính toán mà được, Số
mạng của cuộc đời nầy đã được an bày sắp xếp
cả rồi !
Nguyễn Du cũng đã luận rằng :
... Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao...
急 行 慢 行 , 前
程 只 有 多 少 路 !
Cấp hành mạn hành, Tiền trình chỉ hữu đa thiểu lộ
!
CHÚ
THÍCH :
CẤP HÀNH : là Đi một cách gấp rút.
MẠN HÀNH : là Đi tà tà, Đi từ từ.
ĐA THIỂU : là Nhiều it. Có nghĩa là : Bao Nhiêu ?( Với dấu chấm
hỏi "?" ). Còn với dấu Chấm Than "!" thì có nghĩa :
Bấy nhiêu đó thôi !
NGHĨA CÂU :
Đi nhanh hay đi chậm gì, thì con đường trước mắt cũng
chỉ có bấy nhiêu đó thôi !
Bôn
ba, bương chải cho lắm, đến ngày rồi cũng nhắm mắt xuôi
tay. Tà tà hưởng lạc, tiêu dao ngày tháng chẳng thú vị
hơn hay sao ?!
Ông bà ta nói : " Bôn ba không qua thời vận " mà !
人 間 私 語 ,
天 聞 若 雷 。
Nhân
gian tư ngữ, Thiên văn nhược lôi.
暗 室 虧 心 ,
神 目 如 電 。
Ám
thất khuy tâm, Thần mục như điện.
CHÚ
THÍCH :
TƯ NGỮ : Những lời nói riêng tư, bao gồm
cả những lời nói lén ai đó.
VĂN : 聞 Chữ nầy gồm có bộ NHĨ là TAI, viết
bên trong chữ MÔN là CỬA, là chữ ghép theo Hội Ý có
nghĩa : Chỏ cái lổ tai ra cửa để nghe ngóng. Nên VĂN là
NGHE, nghĩa rộng VĂN là TIN TỨC. Ta còn nhớ Tờ báo đầu tiên
của NAM KỲ là tờ LỤC TỈNH TÂN VĂN không ? Có nghĩa là
: Những tin tức mới nhất về Lục Tỉnh.
KHUY TÂM :
Khuy là Khuyết, là Mẻ. Tâm là Lòng dạ. Khuy Tâm là : Trái
với lương tâm, làm chuyện mờ ám.
NGHĨA CÂU :
Những lời nói riêng tư của nhân gian
thì Trời nghe rõ như là tiếng sấm sét vậy. Những việc
làm mờ ám trái lương tâm trong phòng kín tối tăm thì
con mắt của thần thánh đều nhìn rõ như khi có điện
chớp vậy !
Đừng tưởng nói lén,
nói xấu để chạy tội hoặc để hại người mà không
ai hay biết : Trời nghe biết cả ! Rừng có mạch vách có tai mà
!. Đừng tưởng làm chuyện bậy bạ trong phòng kín, làm chuyện
đồi bại trong phòng tối chẳng ai hay : Con mắt của Thần linh đều
thấy cả !
Trời và Thần Thánh ở đây, chính là LƯƠNG TÂM của
ta đó, nếu ta làm chuyện mờ ám, sái quấy để hại
người thì chính lương tâm của ta sẽ dằn vật ta suốt
đời không sao sống yên ổn được !
一 毫 之 惡 , 勸 人 莫 作 。
Nhất hào chi ác, Khuyến nhân mạc tác.
一 毫 之 善 , 與 人 方 便 。
Nhất hào chi thiện, Dữ nhân phương tiện.
CHÚ
THÍCH :
PHƯƠNG TIỆN : là Tiện lợi, Thuận lợi
( Hình dung từ ). Là Công Cụ ( nếu là Danh từ ). Ví dụ :
* "Giao thông phương tiện "có nghĩa : Giao thông rất
tiện lợi.
* " Phương tiện giao thông " có nghĩa
: Công cụ dùng để giao thông , như Xe Cộ , Tàu Bè...
Ở đây, DỮ NHÂN PHƯƠNG TIỆN có nghĩa : Tạo sự thuận
lợi cho người khác để làm việc gì đó... Cũng có
thể hiểu là : Dễ dãi để cho người ta làm việc.
NGHĨA CÂU :
Một chút xíu việc ác
( việc ác thật nhỏ ), cũng nên khuyên người ta đừng làm.
Việc thiện mặc dù rất nhỏ, cũng nên
tạo điều kiện thuận lợi để cho người ta làm việc thiện
đó .
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN 32
無 限 朱 門 生 餓 殍 , 幾 多 白 屋 出 公 卿 。
Vô hạn chu môn sanh ngã biểu, KỶ đa bạch ốc xuất
công khanh.
GHI CHÚ :
VÔ HẠN : là Không có giới hạn, là RẤT NHIỀU.
CHU MÔN : Cửa nhà sơn màu đỏ chu sa, chỉ Nhà
Giàu Có.
NGÃ BIỂU : Xác người bị chết vì
đói. Chết đói.
KỶ ĐA : là Bao nhiêu. Ở
đây là : Biết bao nhiêu ! .Có nghĩa là RẤT NHIỀU !
BẠCH ỐC : là Nhà trắng, chỉ nhà trống trơn nghèo khó,
chớ không phải là tòa NHÀ TRẮNG Quốc Hội của MỸ đâu
!
CÔNG KHANH : là Công Hầu Khanh Tướng, chỉ những
người Giàu Sang Phú QuÝ.
NGHĨA CÂU :
Biết bao nhiêu nhà giàu sang phú quÝ, vẫn có người bị
chết đói. Rất nhiều nhà khó khăn nghèo khổ vẫn có
người làm đến bậc Công khanh.
Không phải
lúc nào " Con Vua vẫn được làm Vua", và không phải
lúc nào cũng " Con Sãi ở chùa lại quét lá đa " đâu
!!! Nếu cố gắng phấn đấu thì " con sãi ở chùa " như
Chu Nguyên Chương vẫn được làm Vua như thường.( Đại
Minh Hồng Võ, ông Vua lập nên triều đại nhà Minh ). Còn chỉ
lo ăn chơi cờ bạc thì dù cho nhà có giầu như Lưu Bình,
thì cũng có ngày làm ăn mày đến xin ăn ở nhà Dương
Lễ mà thôi !
醉 後 乾 坤 大 , 壺 中 日 月 長 。
Túy hậu
càn khôn đại, Hồ trung nhật nguyệt trường.
NGHĨA CÂU :
Sau khi
say mới thấy trời đất là to lớn, và ( suốt ngày ) chìm
trong hủ rượu mới thấy ngày tháng dài hơn ra.
Lí luận của những người say, những người thất chí, suốt
ngày chìm đắm trong hủ rượu để quên đi ngày tháng,
quên đi những cái bất đắc chí của mình !
萬 事 皆 已 定 , 浮 生 空 自 忙 。
Vạn sự giai dĩ định, Phù sanh không tự mang.
CHÚ THÍCH :
PHÙ SINH : Phù là Nổi ( trên mặt
nước ), Sinh là cuộc sống. PHÙ SINH : là từ của Phật giáo,
chỉ cuộc sống của con người như nổi trôi trên bể khổ,
và ngắn ngủi như bọt bèo trôi trên mặt nước.
KHÔNG TỰ MANG : là tự mình bận rộn một cách vô ích.
NGHĨA CÂU :
Muôn việc đều đã được(
Trời ) định sẵn cả rồi, trong cuộc sống phù sinh nầy, con người
ta chỉ khéo bận rộn, bương chải một cách vô ích mà
thôi !
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc
như sau :
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Câu nầy khuyên ta nên an phận thủ thường, bôn ba cũng không
qua được thời vận. Bon chen cho lắm, rồi khi nhắm mắt xuôi tay cũng
bỏ lại tất cả !
千 里 送 毫 毛 , 禮 輕 情 義 重 。
Thiên
lí tống hào mao, Lễ khinh tình nghĩa trọng.
CHÚ THÍCH :
HÀO MAO : là sợi lông mao, rất mảnh,
rất nhỏ, rất nhẹ ! Không có giá trị quí báu.
LỄ KHINH : Lễ vật nhẹ, không quí giá.
NGHĨA CÂU :
Ngàn dặm chỉ đưa tặng cho sợi lông
hồng, lễ vật tuy nhẹ, không có giá trị, nhưng tình nghĩa
thì nặng nề nồng thắm biết bao nhiêu !
Tiếng Việt ta có câu " Của cho không bằng cách cho ". Chỉ
một việc vượt qua ngàn dặm để mang quà đến tặng thì
đã quí giá lắm rồi, nên dù của tặng có nhẹ tợ
lông hồng, thì tình nghĩa cũng đã nặng biết bao nhiêu rồi
!
一 人 傳 虛 , 百 人 傳 實 。
Nhất nhân truyền hư, Bách nhân truyền thực.
NGHĨA CÂU :
Một người đồn thì còn nghi ngờ là không có chi,
chớ hằng trăm người đồn thì đã là chuyện thực
rồi.
Đây là một điểm tâm lí
rất hệ trọng mà chiến thuật tâm lí chiến xưa nay hay sử
dụng. Cứ cho người đồn toán lên một việc gì đó,
lúc đầu mọi người còn nghi ngờ, nhưng hằng trăm hằng
ngàn người đồn thét rồi thì mọi người lại tin là
chuyện có thật. Ta còn nhớ chuyện " Mẹ của thầy Tăng Sâm
" ngày xưa không ?. Ta hãy đọc lại nhé !...
Chuyện kể rằng một hôm mẹ Tăng
Sâm đang ngồi quay tơ, thì bỗng nhiên một kẻ hớt hải chạy
vào bảo:
- Tăng Sâm giết người!
Mẹ Tăng Sâm chỉ liếc qua kẻ báo tin rồi tiếp tục
làm việc, vì bà biết rằng Tăng Sâm là đứa con hiền
hòa, chưa bao giờ biết cãi lộn, đánh nhau, làm gì có
chuyện giết người.
Một lúc sau, một kẻ khác lại chạy đến, báo:
- Tăng Sâm giết người!
Bà mẹ hơi giật mình. Tự nhiên bà hơi lo lo, nhưng
vẫn tiếp tục làm việc.
Khoảng một tuần trà sau đó, lại có kẻ
hớt hải chạy vào, bảo:
- Tăng Sâm giết người!
Bà mẹ bỗng bật dậy và hốt
hoảng chạy ra khỏi nhà.
...... Chỉ có 3 người thôi,
không cần đến 100 người đâu nhé !...
世 事 明 如 鏡 , 前 程 暗 似 漆 。
Thế sự minh như kính, Tiền trình ám tự tất.
CHÚ THÍCH :
KÍNH : là Gương soi, người Nam gọi
là Kiếng.
TẤT : là Sơn. Ta có từ TẤT GIAO là
Keo Sơn, 2 chất dính khắng vào nhau. Khi Kim Kiều thề ước, Nguyễn
Du đã viết : " Một lời gắn bó tất giao ". Nhưng ở đây,
TẤT chỉ nghĩa : Chất cản quang, Cản ánh sáng. Tối hù tối
mịt.
Ám Tự Tất
: là Tối như sơn. Ta nói là Tối như mực.
NGHĨA CÂU
:
Chuyện đời trước mắt thì rõ ràng
như đứng trước gương soi, còn tiền trình là tương
lai thì mờ mịt như là bị phủ lên một lớp sơn vậy,
không biết đâu mà mò mà đoán !
Chuyện
trước mắt thì rõ ràng rồi, còn chuyện ngày sau thì
: Biết ra sao ngày sau ? ( Que sera sera ?! ) .
光 陰 黃 金 難 買 , 一 世 如 駒 過 隙 。
Quang âm hoàng kim nan mãi, Nhất
thế như câu quá kích.
CHÚ THÍCH :
QUANG ÂM : Quang là Sáng, Âm là Tối. Quang Âm là Sáng Tối.
Sáng rồi lại tối, tối rồi lại sáng. Chỉ Thời gian.
CÂU : là Ngựa giỏi, Ngưa chạy nhanh.
KÍCH : là
Khe cửa.
NGHĨA CÂU :
Vàng ròng khó
mua được thời gian, một đời người thoáng nhanh như bóng
câu qua khe cửa. Ta nói là : Bóng Câu qua cửa sổ.
良 田 萬 傾 , 日 食 一 升 。
Lương
điền vạn khoảnh, Nhật thực nhất thăng.
大 廈 千 間 , 夜 眠 八 尺 。
Đại hạ thiên gian, Dạ miên bát xích.
NGHĨA
CÂU :
Có cả muôn thửa ruộng tốt, nhưng mỗi
ngày cũng chỉ ăn có một thăng thôi. ( Tương đương
như ta nói : Một lon gạo ).
Có cả ngàn gian nhà
lớn, nhưng mỗi đêm cũng chỉ nằm ngủ có 8 thước mà
thôi ( một thước Tàu khoảng hơn 2 tấc Tây ).
千 經 萬 典 , 孝 義 為 先 。
Thiên kinh vạn điển, Hiếu nghĩa vi tiên.
NGHĨA CÂU :
Muôn
kinh ngàn điển, Ý chỉ rất nhiều sách ở, nhưng sách hiếu
nghĩa vẫn là sách hàng đầu.
Đây là
truyền thống cố hữu của Trung Hoa và Việt Nam do ảnh hưởng của
Nho giáo mà ra. Tiêu chuẩn đạo đức căn bản nhất là
chữ HIẾU và chữ NGHĨA :
" Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên."
và...
" Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã. " mà......
________________________________________________________________
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
31
見
善 如 不 及 , 見 惡 如 探 湯 。
Kiến thiện như bất cập, kiến ác như thám thang.
Chú Thích :
Thiện : là Hiền ( Lương
thiện.). Giỏi ( Thiện nghệ ).
Bất cập : Không
kịp, Không bằng, Không đạt.
Thám Thang :
Thọt tay vào trong canh. Nhúng tay vào trong nước sôi.
Nghĩa
câu :
Thấy người hiền người
giỏi, thì có cảm tưởng như mình không bằng. Thấy người
ác người dữ, thì có cảm giác như thọt tay vào trong nước
sôi.
Đây là câu nói
của Khổng Tử trong Luận Ngữ, nguyên văn như sau :
孔子曰:“見善如不及,見不善如探湯。吾見其人矣,吾聞其語矣。隱居以求其志,行義以達其道。吾聞其語矣,未見其人也。”(《論語‧季氏》)
Khổng Tử viết : " Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện
như thám thang. Ngô kiến kỳ nhân hĩ, ngô văn kỳ ngữ hĩ.
Ẩn cư dĩ cầu kỳ chí, hành nghĩa dĩ đạt kỳ đạo.
Ngô văn kỳ ngữ hĩ, vị kiến ký nhân dã. " ( Luận Ngữ.
Quý Thị ).
Dịch nghĩa :
Khổng Tử
nói : " Thấy người thiện như không bằng ( cố gắng học
theo ), thấy người không thiện thì như cho tay vào nước nóng
( nên tránh xa ). Ta đã thấy người như thế, ta đã nghe những
lời như thế. Ẩn cư để cầu cái chí của họ, làm
việc nghĩa để đạt cái đạo của họ. Ta nghe những lời
nói đó nhưng chưa thấy những người như thế đó bao
giờ. ".
Bài đầu tiên của sách Minh
Tâm Bửu Giám, trong chương Khuyến Thiện, mà tôi được
học hồi trẻ, thì như sau :
見善如不及,見不善如探湯 。見賢思齊焉,見不賢而內自省也 。(《論語‧裏仁》)
Kiến thiện
như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Kiến hiền tư tề
yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã.( Luận ngữ. Lý nhân
).
Thấy người thiện như không bằng, thấy
người không thiện như đưa tay vào nước sôi. Thấy người
hiền, thì nghĩ cách sao cho bằng được người ta, thấy người
không hiền thì trong lòng ta phải tự biết tỉnh ngộ lấy.
人 貧 志 短 , 馬 瘦 毛 長 。
Nhân bần chí đoản, Mã xú mao trường.
Nghĩa
Câu :
Người nghèo thì
chí ngắn, Ngựa ốm thì lông dài.
Chỉ là ví dụ thế thôi, người nghèo thì hay chán nản,
vì thiếu khả năng tài chánh để tính toán làm ăn
nầy nọ, mà đâm ra nhục chí, nên bảo là CHÍ ĐOẢN
, chí khí ngắn. Còn ngựa mà thiếu ăn, ốm đói, thì
lại thấy lông như có vẻ mọc dài ra, lông dài chỉ là
hiện tượng trái ngược nhìn thấy ở bên ngoài mà thôi.
自 家 心 裏 急
, 他 人 未 知 忙 。
Tự gia tâm lý cấp, tha nhân vị tri mang.
Chú
Thích :
Tự Gia : là Từ Nhà... Nhưng
ở đây có nghĩa là : Tự Mình.
Mang : là Bận rộn, Gấp rút.
Nghĩa Câu :
Tự ở trong lòng mình thấy gấp( về chuyện gì đó ), chớ
người khác đâu có biết là mình đang gấp rút .
Chuyện của mình thì mình thấy nóng
lòng, chớ người khác có biết gì đâu mà bảo họ
phải nóng lòng theo, nên không thể trách được sự lơ
là của họ trước cái nóng ruột của mình !
貧 無 達 士 將
金 贈 , 病 有 高 人 說 藥 方 。
Bần vô đạt sĩ tương kim tang, Bệnh hữu cao nhân thuyết dược
phương.
Chú Thích :
Đạt
Sĩ : Kẻ sĩ thành đạt, người thành đạt.
Tương 將 :
là Đem. Nếu là Danh từ thì đọc à Tướng (Tướng
Quân ).
Dược Phương : là Toa Thuốc.
Nghĩa Câu :
Nghèo thì
không có người thành đạt giàu có nào đem vàng để
cho cả ! Nhưng bệnh thì sẽ có những thầy thuốc giỏi cho những
phương thuốc hay.
Thầy Thuốc thường hay cứu con bệnh hơn
là người giàu giúp người nghèo. Tại sao ? Vì người
giàu không có Bổn Phận phải giúp người nghèo, nhưng Thầy
Thuốc thì luôn luôn muốn giúp người bệnh, Lương y như
Từ mẫu mà ! Vừa do thói quen nghề nghiệp, vừa do lòng nhân
đạo của nghề nghiệp, và biết đâu sau khi cứu người bệnh
ngặt, thoát khỏi tay Tử Thần, Thầy lại được nổi tiếng
và sẽ kiếm được rất nhiều tiền thì sao !?.
觸 來 莫 與 說 , 事 過 心 清 涼 。
Xúc lai mạc dữ thuyết, Sự quá tâm thanh lương.
Nghĩa Câu :
Khi có cảm xúc
thì đừng nói với ai điều gì hết, chuyện qua rồi thì
trong lòng sẽ cảm thấy thoải mái hơn.
Khi có CẢM XÚC, tức là khi đang Buồn, Đau, Hờn, Giận... thì
đừng nói với ai điều gì cả, vì khi đó, cử chỉ
và thái độ của ta sẽ bất bình thường, dễ làm mất
lòng người đối diện, nên tốt nhất là cứ lặng thinh...
để cho chuyện lắng đọng qua rồi, thì sẽ thấy lòng thanh
thản thoải mái hơn, chừng ấy muốn nói gì hy nói !.
秋 至 滿 山 多
秀 色 , 春 來 無 處 不 花 香 。
Thu chí mãn sơn đa tú sắc, Xuân lai vô xứ bất hoa hương.
Nghĩa Câu :
Mùa thu
đến thì núi rừng đầy cả màu sắc đẹp đẽ,
rực rỡ. Mùa xuân đến thì chẳng nơi nào là chẳng
có mùi thơm của các loại hoa.
Thời vụ cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ của đất trời
không ưu đãi riêng ai, mà cho tất cả mọi người. Sao ta lại
có thể làm ngơ trước cảnh trí tự nhiên rực rỡ nầy
chứ ?! Hãy hòa mình vào cái đẹp của thiên nhiên mà
sống vui sống khỏe trong mọi mùa !
凡 人 不 可 貌
相 , 海 水 不 可 斗 量 。
Phàm nhơn bất khả mạo tướng, Hải thủy bất khả đẩu
lượng.
Chú Thích :
Phàm : là Phàm tục, là Bình thường. Ở đây dùng
để mở đầu câu nói ( Hô Khởi Ngữ ) nên có nghĩa
: Thông Thường Thì....
Đẩu : là
cái Đấu, người miền Nam gọi là cái Táo.
Nghĩa
Câu :
Thường thì... Con người ta
không thể nhìn diện mạo bên ngoài mà biết là người
tốt, xấu, giỏi, dỡ.... được ! Cũng như... Nước biển thì
không thể lường bằng táo được !
Ta thường nói " Xem mặt mà bắt hình dong ", là chỉ nói
những người có tướng mạo bình thường, còn đối
với những người có Dị Tướng ( Tướng lạ ) khác
với mọi người, như OBAMA chẳng hạn, thì chịu thua. Trước khi
đắc cử Tổng Thống Mỹ một năm thôi, có ai ngờ rằng Tổng
Thống Mỹ tương lai sẽ là một ông da đen trẻ măng như OBAMA
không ?!.
清 清 之 水 ,
為 土 所 防 。
Thanh thanh chi thủy, Vị thổ sở phòng.
濟 濟 之 士
, 為 酒 所 傷 。
Tế tế chi sĩ, Vị tửu sở thương.
Nghĩa Câu :
Nước trong leo lẻo
thế kia, nhưng vẫn phải lấy đất đắp bờ để đề
phòng khi nó tác oai tác quái, làm tràn ngập chết người.
Kẻ sĩ an bang tế thế thế kia, nhưng
vẫn bị rượu làm cho tổn thương, nát rượu không làm
nên trò trống gì cả !
Khi giảng
tới câu nầy, Ba tôi có kể cho tôi biết là... Ngày trước,
thời thực dân Pháp còn cai trị Miền Nam, có cho mở một tiệm
Hút Á Phiện và Nhà chứa Điếm ở Thị Trấn Cái Răng,
chỗ Tiệm nước Trương Ký hiện nay. Lúc bấy giờ, có
một nhân sĩ người Việt gốc Hoa thường được gọi là
Xín Xáng Pó ( Âm Quảng Đông là Tiên Sinh... Ba hay gì đó
! ) làm một đôi câu đối rất hay như sau :
鴉 片 三 分,蓋 世 英 雄 歸 絕 路 。
Nha phiến tam phân, cái thế anh hùng qui tuyệt lộ.
嫖 賭 二 項, 風 流 子 弟 入 窮 途 。
Phiếu đổ nhị hạng, phong lưu tử đệ nhập cùng đồ.
Có nghĩa :
Chỉ 3 phân Á
phiện thôi, cũng đủ làm cho anh hùng cái thế phải đi vào
tuyệt lộ.( hết phương cứu chữa ! ).
Hai thứ phiếu ( chơi bời ), đổ ( cờ bạc ), thì làm cho những
con em thích phong lưu đi vào con đường bần cùng nghèo khổ
!.
Rượu cũng thế, uống xỉn
rồi thì việc gì cũng dám nói , điều gì cũng dám
làm, không còn phân biệt thị phi phải trái gì nữa cả
! Nên mới nói là : " Tế tế chi sĩ, vị tửu sở thương
"!.
蒿 草 之 下 , 或 有 蘭 香 。
Cảo thảo chi hạ, Hoặc hữu lan hương.
茅 茨 之 屋
, 或 有 侯 王 。
Mao thứ chi ốc, Hoặc hữu hầu vương.
Nghĩa Câu
:
Ở dưới cỏ dưới rơm, lắm
khi cũng có mùi thơm của hoa lan. Ở dưới căn nhà rơm nhà
lá, nhiều khi cũng có những bậc vương hầu xuất thân từ
nơi đó.
Đọc câu đầu làm
ta nhớ tới 2 câu thơ trong Cung Oán của Ôn như Hầu:
Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay !
Mùi hương vương giả vẫn... lạc loài sơn dã như thường
! Nên " Bạch ốc " vẫn xuất " Công Khanh ".... như thường
!
Câu sau còn có một dị bản
là :
茅 茨 之 屋 , 或 有 良 將 。
Mao thứ chi ốc, hoặc hữu lương tướng.
Dưới căn nhà lá, cũng có thể có được tướng
giỏi !
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
30
夫 妻 相 合 好 , 琴 瑟 与 笙 簧 。
Phu thê tương
hợp hảo, Cầm sắt dữ sanh hoàng.
Chú Thích :
Cầm Sắt Sanh Hoàng : Cầm là Đàn, Sắt là Đàn bằng
Sắt ngày xưa, Đàn Cổ, Sanh còn đọc là SÊNH, một loại
tiêu cổ gồm 13 ống trúc dài ngắn kết hợp mà thành ,
Hoàng là Cái Lưỡi Gà trong ống tiêu, trong một loại Kèn
ngày xưa, Hoàng còn có nghĩa là cái " Lò-Xo ". Nói
chung, CẦM SẮT SANH HOÀNG là bốn loại nhạc cụ dùng hòa tấu
với nhau để cho ra âm thanh bổng trầm réo rắc.
Nghĩa Câu
:
Vợ chồng mà hòa hợp tốt với
nhau, thì cũng ví như là Cầm sắt sanh hoàng mà cùng hòa
tấu với nhau vậy ! ( nghe rất hay, rất du dương réo rắc, còn nếu
vợ chồng mà nghịch 12 với nhau, thì buồn chán như là dưới
địa ngục vậy ! ).
有 兒 貧 不 久 , 無 子 富 不 長 。
Hữu nhi bần bất cửu, Vô tử phú
bất trường.
Nghĩa Câu :
Có con thì nghèo
không lâu, còn không có con thì giàu cũng không bền.
Nói theo xã hội nông nghiệp ngày xưa,
có nhiều con ( ở đây chỉ con TRAI, vì con GÁI " Ăn cơm nguội
ở nhà ngoài " nên không kể ) sẽ khai phá thêm nhiều đất
đai để trồng trọt, làm ruộng... nên sớm muộn gì cũng
trở nên giàu có, dư ăn dư để mà thôi. Còn không
có con thì không có ai làm thêm của cải, và nhất là
không có người giữ của, thì lâu dần sẽ trở nên nghèo
nàn thiếu thốn mà thôi !
Nói theo
xã hội ngày nay, thì con trai con gái như nhau, con gái lắm khi còn
được nhờ cậy hơn là những thằng con trai chỉ biết nai lưng
ra làm để nuôi... vợ con mà thôi !
Nói theo xã hội Mỹ, thì có con, không con cũng... chả phải
lo, vì... có Nhà Nước lo, food stamps, welfare đầy đủ hơn Thiên
đường Cộng Sản nhiều !
善 必 壽 老 , 惡 必 早 亡 。
Thiện
tất thọ lão, Ác tất tảo vong.
Nghĩa Câu :
Ăn hiền ở lành thì sẽ sống thọ, còn Ác nhơn sát
đức thì sẽ chết sớm !
Thọ là
một trong Ngũ Phúc của con người, nhưng Thọ ở xã hội Mỹ
nầy thì tốt, còn Thọ mà ở các nước nghèo khó,
lại mang bệnh tật, thì càng Thọ càng kéo dài thêm cái
khổ của thân xác mà thôi !
爽 口 食 多 偏 作 病, 快 心 事 過 恐 生 殃 。
Sảng khẩu thực đa thiên tác bệnh,
Khoái tâm sự quá khủng sanh ương.
Chú Thích :
Sảng Khẩu : Sảng là Sảng khoái, nên Sảng Khẩu là Ngon miệng.
Thiên : là Lệch, Ở đây là Giới từ, có
nghĩa là Lại .
Khoái Tâm : Vui vẻ trong lòng, khoái
chí.
Khủng : là Sợ,là E rằng.
Nghĩa Câu
:
Ngon miệng ăn nhiều lại dễ sanh bệnh
( đầy bụng, trúng thực ). Khoái chí trong lòng làm quá lố,
e rằng dễ sanh tai ương. Khoái chí quá hay làm sảng, sanh họa
là chuyện thường !
富 貴 定 要 安 本 分 , 貧 窮 不 必 枉 思 量 。
Phú quý định yếu
an bổn phận, Bần cùng bất tất uổng tư lương.
Nghĩa Câu :
Đã giàu có rồi, thì thôi, hãy yên với cái phận
của mình đi. Còn nghèo nàn thì cũng yên với cái nghèo
của mình, mà đừng phí công suy nghĩ lo lắng chi cho mệt xác.
Nếu ai cũng yên với cái giàu và
chịu khổ với cái nghèo thì người giàu sẽ giàu hoài
sao, còn nghèo thì sẽ khổ suốt đời à ?. Chẳng qua khuyên
thì nói thế thôi, chứ cũng còn tùy theo hoàn cảnh mà
an phận hay là tiếp tục phấn đấu chớ !
畫 水 無 風 空 作 浪 , 繡 花 雖 好 不 聞 香.
Họa thủy vô phong không tác lãng, Tú hoa tuy hảo
bất văn hương.
Nghĩa Câu:
Nước được
vẽ, không có gió, nhưng vẫn nổi sóng khơi khơi. Hoa được
thêu, tuy đẹp, nhưng lại không nghe được mùi thơm.
Cái đẹp giả tạo, cái đẹp do nhân lực, không bằng được
cái đẹp tự nhiên. Cái đẹp tự nhiên hoàn hảo và
sống động hơn !
貪
他 一 斗 米 , 失 卻 半 年 糧 。
Tham tha nhất đẩu mễ, Thất khước
bán niên lương.
爭 他 一 腳 豚 , 反 失 一 肘 羊 。
Tranh tha nhất
cước đồn, phản thất nhất trửu dương.
Nghĩa Câu :
Tham của người ta một đấu gạo, mà mình mất hết cả
nửa năm lương thực.
Tranh với người
ta một cái giò heo, ngược lại mình mất đi một cái đùi
dê.
Tham cái lợi nhỏ, để mất cái
lợi to. Lòng tham thường khiến cho con người làm những việc ngược
ngạo như thế.
龍
歸 晚 洞 雲 猶 濕 , 麝 過 春 山 草 木 香 。
Long quy vãn động vân
do thấp, Xạ quá xuân sơn thảo mộc hương.
Chú Thích :
Xạ : là con Cầy Hương, một loại hươu con có mùi thơm.
Nghĩa Câu ;
Rồng về động lúc
chiều về nên mây còn đọng nước, con cầy hương đi
qua núi xuân làm cho hoa cỏ cũng nhuốm mùi thơm.
Giống nào thì cho mùi nấy . Vô nhà người Việt thì thơm
mùi nước mắm, vô nhà người Hoa thì thơm xì dầu, vô
nhà anh Bảy thì thơm Cà Ri.... thế thôi !
平 生 只 會 量 人 短 , 何 不 回 頭 把 自 量 ?
Bình sanh chỉ
hội lượng nhơn đoản, Hà bất hồi đầu bả tự lương.
Chú
Thích :
Lượng : là Đo lường, là
Sức chứa, là Độ lượng. Ở đây có nghĩa là Đoán,
là Đánh giá.
Nghĩa Câu :
Trong cuộc sống thường ngày ( bình sanh ), chỉ biết đánh giá
cái dở ( sở đoản ) của người khác. Sao không quay đầu
lại mà tự đánh giá mình ?!
Thói thường, người ta chỉ biết chê người nầy dở người
kia dở, mà... không bao giờ nhìn thấy cái dở của mình !
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 29
乍 富 不 知 新 受 用 , 乍 貧 難 改 舊 家 風 。
Sạ phú
bất tri tân thụ dung, Sạ bần nan cải cựu gia phong.
Chú Thích :
Sạ : là Thoạt, Chợt, Bỗng nhiên.
Thụ
Dụng : là Hưởng thụ Tiêu dùng.
Gia Phong
: Cái phong cách của gia đình.
Nghĩa Câu :
Chợt giàu nên không biết hưởng thụ tiêu dùng. Chợt nghèo
nên khó mà sửa đổi phong cách gia đình trước đây.
Bỗng nhiên trúng số, trở nên
giàu có, nên không biết phải ăn tiêu hưởng thụ như
thế nào cho sung sướng. Bị phá sản thình lình, trở nên
nghèo khó, nhưng cũng khó mà sửa đổi được cuộc
sống phong lưu trước đây của gia đình, " Quen ăn không
quen nhịn " mà !
座 上 客 常 滿 , 樽 中 酒 不 空 。
Tọa thượng
khách thường mãn, Tôn trung tửu bất không.
Nghĩa Câu :
Chỗ ngồi luôn luôn đầy khách ngồi, Trong chai không bao giờ không
có rượu.
Chỉ gia đạo
phú túc, giàu sang, lại hiếu khách, khách khứa luôn luôn
lui tới đầy nhà, và trong chai luôn luôn đầy rượu, và...
dĩ nhiên thịt cá ê hề, cao lương mỹ vị đầy bàn
để đãi khách.
屋 漏 更 遭 連 夜 雨 , 行 船 又 被 打 頭 風 。
Ốc lậu cánh
tao lien dạ vũ, hành thuyền hựu bị đả đầu phong.
Chú Thích :
Lậu : là Rỉ ra, là Lọt ra, là Dột.
Ốc
Lậu : là Nhà dột ( mưa ).
Liên Dạ : là
Suốt đêm.
Đả Đầu Phong : Gió Đánh
Ngay Đầu, là Gió Ngược.
Nghĩa Câu :
Nhà dột lại gặp phải cơn mưa suốt đêm, còn đi thuyền
thì lại gặp phải gió ngược chiều.
Nghèo lại mắc cái eo, nhà dột lại mưa suốt đêm, muốn
ngủ cũng không ngủ được, gió ngược mà đi thuyền,
không khéo không tiến được mà còn bị thụt lùi là
đằng khác.
記 得 少 年 騎 竹 馬 , 看 來 又 是 白 頭 翁 。
Ký đắc
thiếu niên kỵ trúc mã, Khán lai hựu thị bạch đầu ông.
Nghĩa
Câu :
Nhớ năm xưa khi còn bé, dùng
cây trúc làm ngựa để cởi, nhìn đi nhìn lại thế mà
đã là ông già đầu bạc rồi.
Thời gian vô tình, xem như chậm chạp, nhưng lại rất tích cực,
không ngừng nghỉ, không chờ đợi... Thoáng cái, mà đầu
xanh đã thành đầu bạc lúc nào không hay !!!
禮 義 生 於 富 足 , 盜 賊 出 於 貧 窮 。
Lễ nghĩa sinh ư phú túc, Đạo tặc xuất
ư bần cùng.
Nghĩa Câu :
Con người lễ
nghĩa thì thường sinh ra ở gia đình giàu có sung túc. Còn
những người trộm cướp thì thường sinh ra ở những gia đình
bần hàn nghèo khó.
Trong tiếng Việt
ta cũng có câu : " Phú quý sinh lễ nghĩa " mà !
Thường thì là thế, nhưng cũng chưa hẵn ! Giàu có mà
ăn chơi đàn điếm thì cũng dễ sinh đạo tặc lắm, còn
nghèo khổ mà biết an phận thủ thường, thì cũng sinh lễ
nghĩa như thường !
天 上 眾 星 皆 拱 北 , 世 間 無 水 不 朝 東 。
Thiên thượng chúng tinh giai củng bắc, Thế gian vô
thủy bất triều đông.
Nghĩa Câu :
Trên
trời, tất cả những vì sao đều chầu về phương bắc ( chỉ
sao Bắc Đẩu ). Còn trên đời nầy thì không có dòng
nước nào mà không chảy về hướng đông ( chỉ Biển
Đông ).
君 子 安 貧 , 達 人 知 命 。
Quân tử an bần, Đạt nhân tri mệnh.
Xuất Xứ :
Đây là một trong những câu nổi tiếng để đời của
người đứng đầu Sơ Đường Tứ Kiệt là Vương
Bột, trong bài Đằng Vương Các Tự mà ông đã làm
lúc chỉ mới có 16 tuổi.
Nghĩa Câu :
Người quân tử yên phận với cái nghèo của mình, còn
người khoáng đạt thì hiểu được mệnh trời mà yên
với số mạng của mình.
Sau câu
nầy cũng là những câu nổi tiếng như :
Lão đương ích tráng,
ninh tri bạch thủ chi tâm.
Cùng thả ích kiên, bất trụy thanh
vân chi chí !
忠
言 逆 耳 利 於 行 , 良 藥 苦 口 利 於 病 。
Trung ngôn
nghịch nhĩ lợi ư hành, Lương dược khổ khẩu lợi ư
bệnh.
Nghĩa Câu :
Lời nói
trung thực nghe chói tai, nhưng có lợi khi thực hành. Thuốc hay đắng
miệng, nhưng lại có lợi cho bệnh tật.
Tục ngữ ta cũng có câu : " Thuốc đắng dã tật, Lời thật
mất lòng ". Lời nói ngon ngọt dễ làm người ta xiu lòng
nghe theo, và cũng dễ làm cho người ta mắc bẫy. Vì Ngọt mật
thì rất dễ chết ruồi mà !
順 天 者 存 , 逆 天 者 亡 。
Thuận thiên giả tồn, Nghịch thiên giả vong.
Nghĩa Câu :
Người nào Thuận theo đạo trời thì sống, còn Người
nào đi ngược lại với đạo trời thì chết.
Đây là câu nói của Mạnh Tử trong chương Lâu Ly Thượng.
Nguyên văn như sau :
天下有道,小德役大德,小贤役大贤;天下无道,小役大,弱役强。斯二者,天也。顺天者存,逆天者亡。
Thiên hạ
hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch
đại hiền. Thiên hạ vô đạo, Tiểu dịch đại, nhược
dịch cường. Tư nhị dã, Thiên dã. Thuân thiên giả tồn,
nghịch thiên giả vong.
人 為 財 死 , 鳥 為 食 亡 。
Nhân vị tài tử, Điểu vị thực vong.
Nghĩa Câu :
Người vì tiền tài mà chết, Chim vì miếng ăn mà chết.
" Nhân vị tài tử " có 2 mặt
ý nghĩa : Một là vì Tham tiền nên bị người khác gài
bẫy, trúng kế, hoặc đi trộm cướp bị tội hình mà chết.
Hai là vì muốn có tiền nhiều nên làm đêm làm ngày,
bất kể chết sống, lao tâm lao lực quá độ mà chết !.
" Điểu vị thực vong " là do bản
năng sinh tồn, chim tham mồi mà chết cũng là chuyện thường tình
mà thôi !
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
28
欺 老 莫 欺 小 , 欺 人 心 不 明 。
Khi lão mạc
khi tiểu, Khi nhân tâm bất minh.
Chú Thích :
Khi 欺 : là Khinh Khi, là Coi rẻ, là Xem Thường, là
Ăn Hiếp nữa !
Nghĩa Câu :
Xem thường người già
chớ đừng xem thường người trẻ.
Xem thường người khác là lòng không trong sáng.
Tại sao ?
Người già thì sự nghiệp
đã định, danh phận đã định, giàu nghèo cũng đã
định, nên có đánh giá khi dễ họ... thì cũng tương
đối chính xác rồi, vì họ cũng khó có cơ hội để
phát triển thêm. Còn người trẻ, tương lai còn dài, phấn
đấu còn dài, sự nghiệp cũng còn dài ở trước mắt
, chưa biết ra sao... đánh giá họ " lơ mơ ", nhỡ mai nầy
họ thành Thủ Tướng, hoặc Tổng Thống... thì sao ?!.
Nhưng dù sao thì cũng không nên đánh giá phê bình
người khác khi " nắp quan tài " chưa đóng lại ! Hơn nữa..."
khi nhân thì tâm bất minh " mà !!!
隨
分 耕 鋤 收 地 利 , 他 時 飽 暖 謝 蒼 天 。
Tùy phận canh
sừ thu địa lợi, Tha thời bảo noãn tạ thương thiên.
Chú Thích :
Canh Sừ : Canh là Cày, Sừ là Cuốc.
Canh Sừ là Cày xới.
Bảo Noãn
: Bảo là No, Noãn là Ấm. Bảo Noãn là No ấm.
Nghĩa Câu :
Hãy tùy
phần số của mình ( hãy an phận ), cày sâu cuốc bẫm để
thu hoa lợi từ mảnh đất mảnh vườn. Khi nào đó, được
no ấm rồi thì nhớ tạ ơn trời xanh ( đã khiến cho mưa thuận
gió hòa, mùa màng thu hoạch tốt ).
Hãy yên phận mà " cày " cái " job " của mình để
lãnh lương hàng tháng, đến cuối năm nhớ mừng " Lễ
Tạ Ơn " vì suốt năm không có trục trặc gì khiến cho
" mất job " !
得 忍 且 忍 , 得 耐 且 耐 。
Đắc nhẫn thả nhẫn, Đắc nại thả nại.
不 忍 不 耐 , 小 事 成 大 。
Bất nhẫn bất nại, Tiểu sự thành đại.
Nghĩa Câu ;
Nhịn được thì nên
nhịn, nhường được thì nên nhường.
Không nhường không nhịn, chuyện bé sẽ xé ra to.
Nhẫn
là Nhịn. Nại là Chịu đựng, là dằn xuống. Nên vế
2 của câu 1 là : Chuyện gì đó chịu đựng được,
dằn được, thì nên dằn. Không nhịn được, lại không
dằn được, thì tức nước sẽ vỡ bờ mà thôi !
相 論 逞 英 雄 , 家 計 漸 漸 退 。
Tương
luận sính anh hung, Gia kế tiệm tiệm thoái.
Chú Thích :
Sính : là Khoe, Trổ, Tỏ ra. Sính Cường : Khoe mạnh, Sính Tài
: Trổ Tài. Sính Anh Hùng : Tỏ ra Anh Hùng
Gia Kế
: là Kế sách ( nghề nghiệp hoặc làm ăn buôn bán gì đó...
) để duy trì cuộc sống của gia đình.
Nghĩa Câu :
Khi bàn luận với nhau, thì
ai cũng tỏ ra anh hùng tài giỏi cả, nhưng cuộc sống của gia đình
thì lại ngày một xuống dốc.
Có rất nhiều người chỉ giỏi nói mà không giỏi làm,
nói thì rất hùng hồn đâu ra đó, nghe hay lắm, nhưng khi
làm thì... chẳng ra chi cả !. Chỉ giỏi nói mà không giỏi làm
!.
賢 婦 令 夫 貴 , 惡 婦 令 夫 敗 。
Hiền phụ lệnh phu quý, Ác phụ lệnh phu bại.
Chú Thích :
Lệnh : Lệnh ở đây không có nghĩa là Ra Lệnh, mà có
nghĩa là LÀM CHO, KHIẾN CHO.
Nghĩa Câu :
Người đàn bà hiền thục giỏi giang, có thể làm cho chồng
trở nên quý hiển vẻ vang. Người đàn bà ác nhơn đanh
đá, có thể làm cho chồng thân bại danh liệt.
Quý ở đây vừa chỉ giàu sang phú quý, vừa chỉ vinh hiển
vẻ vang, làm quan quyền hoặc làm nên sự nghiệp lớn....
Bại là Thất bại, là bại hoại gia phong, cửa nhà tan nát, là
thân bại danh liệt.
Ngạn ngữ
Tây Phương cũng có câu : " Đàng sau người đàn ông
thành công, có bóng dáng của người đàn bà giỏi
" là thế !
一 人 有 慶 , 兆 民 咸 賴 。
Nhất nhân hữu khánh, Triệu dân hàm lại.
Chú Thích :
Hàm Lại : Hàm là Tất Cả,
Lại là Dựa Dẵm, Dựa Hơi.
Hàm Lại : là Tất cả đều được dựa hơi, nhờ cậy.
Nghĩa Câu :
Đây là
câu nói chỉ các bậc Vua Chúa ngày xưa khi có tin mừng gì
đó như : Vua sinh nhật, Hoàng Hậu có thai, Công Chúa lấy chồng,
Hoàng Tử cưới vợ... Người của Hoàng tộc có tin mừng
thì ra lệnh giảm thuế cho thiên hạ, cho dân chúng nghỉ làm
việc vui chơi ăn mừng.... Nên câu trên có nghĩa :
Một người có việc mừng, thì cả triệu dân chúng được
hưởng vui lây. Câu nầy lấy trong " Thượng Thư- Lữ Hình
", nguyên văn như sau : “一人有慶,兆民賴之,其寧惟永。” " Nhất nhân hữu
khánh, triệu dân lại chi, kỳ ninh duy vĩnh.". Có nghĩa :
Thiên tử có chuyện lành, toàn thể dân chúng đều được
hưởng chung cái lợi đó, như thế, có thể gặt hái được
sự vững chắc lâu dài.
人 老 心 未 老 , 人 窮 志 莫 窮 。
Nhân lão tâm vị lão, Nhân cùng chí mạc cùng.
Nghĩa Câu :
Người già nhưng lòng
chưa già. Người nghèo nhưng chí đừng nghèo. Ý muốn
nói...
Thể xác thì
già, nhưng lòng quyết tâm thì chưa già. Gia cảnh có thể
nghèo túng, nhưng ý chí thì đừng nên để cho... nghèo
!
Luôn luôn phải phấn
đấu để vươn lên, đừng vì già mà buông xuôi,
đừng vì nghèo mà nhục chí.
人 無 千 日 好 , 花 無 百 日 紅 。
Nhân vô thiên
nhật hảo, Hoa vô bách nhật hồng.
Nghĩa Câu :
Người không thể trong một ngàn ngày đều mạnh khỏe. Hoa không
thể trong một trăm ngày đều tươi đỏ.
Ai mà có thể trong 3 năm không bệnh hoạn gì cả. Bông nào
có thể nở suốt 3 tháng mà không tàn ?!
Không có việc gì trên đời nầy là vĩnh cữu cả. Vật
cực tất phản, âm cực dương hồi. Hết âm tới dương,
hết dương tới âm, thỏ lặn rồi tới ác tà....
殺 人 可 恕 , 情 理 難 容 。
Sát nhân khả thứ, Tình lý nan dung.
Nghĩa Câu :
Giết người dù cho có thể tha thứ đi, thì về tình
về lý cũng khó mà khoan dung cho được.
Giết người đền mạng, dù cho với bất cứ lý do gì,
xét về tình về lý, cũng không thể tha thứ được. Sát
nhân dã tử mà !
TĂNG QUẢNG
HIỀN VĂN
27
無 錢 方 斷 酒 , 臨 老 始 看 經 。
Vô tiền phương đoạn tửu, Lâm lão thủy khan kinh.
Nghĩa Câu :
Khi hết tiền mới cai rượu,
đến lúc già mới chịu xem kinh Phật. ( mới chịu tu hành ).
Ý muốn nói...
Chuyện gì đó, đến lúc cấp bách, hết nước, chẳng
đặng đừng , mới chịu...làm. Còn tiền còn nhậu, hết
tiền, cực chẳng đã mới chịu cai ! Còn trẻ, còn hăng
máu, làm việc gì cũng theo ý mình, bất chấp phải quấy,
đạo đức,.... đến lúc già, từng trải nhiều cam go, thất
bại, mới chịu tu tâm dưỡng tánh !
Âu cũng là thường tình của con người !
點 塔 七 層 , 不 如 暗 處 一 燈 。
Điểm tháp thất tằng, Bất như ám xứ nhất đăng.
Nghĩa Câu
:
Đèn đốt trong 7 tầng
tháp ( sáng rực ), cũng không bằng được nơi tối tăm mà
có được một ngọn đèn.
Ngày thường có làm được nhiều việc thiện, việc tốt,
cũng không bằng trong lúc cấp bách mà tiếp giúp được
người nào đó đang trong lúc nguy nàn.
Câu này làm ta nhớ lại câu đã gặp ở những bài trước
đó :
Khát thời nhất trích như cam lộ,
Túy hậu thiêm bôi bất như vô.
萬 事 勸 人 休 瞞 昧 , 舉 頭 三 尺 有 神 明 。
Vạn
sự khuyến nhân hưu mạn muội, Cử đầu tam xích hữu thần
minh.
Chú Thích :
Mạn Muội : MẠN là
lừa, dối. MUỘI : là Che lắp, dấu diếm.
Mạn Muội là Mờ ám, dối trá.
Nghĩa Câu :
Muôn việc đều khuyên người ta không nên làm những điều
mờ ám dối trá, vì cất đầu lên 3 thước thì đã
có thần minh soi xét ở trên rồi !
Thần linh thì
không biết có thiệt hay không, chớ " lương tâm " thì
luôn luôn hiện hữu ở mọi người. Khi làm việc gì mờ
ám, dối trá, ta chỉ lừa được người khác chớ không
lừa được lương tâm của chính mình, " nó " sẽ
theo ám ảnh ta suốt đời !
但 存 方 寸 土 , 留 与 子 孫 耕 。
Đản tồn phương thốn thổ, Lưu dữ tử tôn canh.
Nghĩa Câu :
Hãy chừa một tất vuông đất
lại, để cho con cháu cày bừa.
Câu nầy khuyên ta...
Làm
việc gì đó phải biết chừa hậu, đừng quá tuyệt tình
hoặc cạn tàu ráo máng, phải chừa lại chút... gì đó
cho con cháu, mà ông bà ta nói là : Để Đức lại cho con
!
Nói theo chữ Nho ngày xưa
là : Để chút PHÚC ĐIỀN ( ruộng phước đức ) lại
cho con cháu canh tác để hưởng phước đức của ông bà
cha mẹ để lại.
Nói
theo ngày nay là đừng quá phí phạm thiên nhiên, phá hoại
môi trường, phung phí màu xanh, mà phải biết tiết chế vừa
phải, để chừa lại chút không khí trong lành và màu xanh
thiên nhiên lại cho con cháu đời sau.
滅 卻 心 頭 火 , 剔 起 佛 前 燈 。
Diệt khước tâm đầu hỏa, Thích khởi Phật tiền đăng.
Chú Thích :
Thích 剔: Còn đọc là TÍCH : Có nghĩa Róc,
Gọt, Cắt, Xén.
Trong câu trên có nghĩa
là KHÊU cho ngọn nến sáng lên.
Nghĩa Câu :
Hãy làm cho tắt đi ngọn lửa ở trong lòng, và hãy khêu
dậy ngọn đèn trước bàn thờ Phật.
Đây là câu ngạn ngữ của Phật môn, phát xuất từ bài
" Điểm Đăng Kệ " như sau :
滅除心頭火, Diệt khước
tâm đầu hỏa,
提起佛前燈, Đề khởi Phật
tiền đăng,
願以大智慧, Nguyện dĩ đại
trí tuệ,
照破眾無明。 Chiếu phá chúng vô minh.
Diệt đi ngọn lửa lòng, tức là diệt đi cái Tham Sân Si đang
âm ỉ cháy trong lòng, để khơi dậy ngọn đèn Trí Tuệ
Từ Bi của Phật pháp.
Câu nầy
làm ta nhớ đến 4 câu thơ của Jean Leiba :
Phù thế còn nhiều duyên nghiệp quá,
Lệ lòng mong cạn chốn am không,
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt,
Quên hết người quen chon bụi hồng !
Trong Kiều Nguyễn
Du cũng đã viết :
Sự đời đã tắt Lửa Lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!
惺 惺 常 不 足 , 懵 懵 作 公 卿 。
Tinh tinh thường bất túc, Mông mông tác công khanh.
Chú Thích :
Tinh Tinh : Tỉnh táo, Thông minh.
Mông
Mông : Ù ù Cạc cạc, Ù lì.
Nghĩa Câu :
Có những người thông minh tỉnh táo, nhưng thường khi cuộc
sống lại thiếu thốn không đầy đủ. Còn có những người
lơ lơ mơ mơ, ù ù cạc cạc, mà lại làm nên danh phận
vẻ vang ( công khanh ).
Sự đời
thường có những việc tréo ngoe như thế !
眾 星 朗 朗 , 不 如 孤 月 獨 明 。
Chúng tinh lãng lãng, bất như cô nguyệt độc minh.
Nghĩa Câu :
Ngàn sao lắp lánh cũng không
bằng được ánh sáng của một vầng trăng cô độc.
Một đàn thằng thi hỏng,
không bằng được một thằng thi đậu.
Một bầy thằng hai mắt, không bằng được một thằng chột
...làm quan.
兄 弟 相 害 , 不 如 自 生 。
Huynh
đệ tương hại, Bất như tự sanh.
Nghĩa Câu :
Anh em mà làm hại lẫn nhau, thôi chi bằng mạnh ai nấy sống đi.(
Cho yên chuyện ).
Ở đời rất nhiều người
như thế. Rất lịch sự, nhã nhặn và rộng rãi với mọi
người, nhưng với anh chị em ruột trong nhà thì... ke re cắt rắc
từng chút một.
合 理 可 作 , 小 利 莫 爭 。
Hợp lý khả tác, Tiểu lợi mạc tranh.
Nghĩa Câu :
Chuyện nào hợp tình hợp lý, hợp với đạo nghĩa ở đời,
thì có thể làm. Đừng vì cái lợi nhỏ mà đâm
ra tranh dành nhau ( để mất cái nghĩa lớn ! ).
Hợp lý thì nên làm, Tiểu lợi thì đừng tranh !
牡 丹 花 好 空 入 目 , 棗 花 雖 小 結 實 成 。
Mẫu đơn
hoa hảo không nhập mục, Táo hoa tuy tiểu kết thực thành.
Nghĩa Câu :
Hoa Mẫu Đơn dù cho có
đẹp cách mấy đi nữa, thì cũng chỉ để ngắm chơi
khơi khơi mà thôi ( không nhập mục ). Hoa Táo mặc dù nhỏ,
trông không đẹp, nhưng lại kết thành trái Táo rất ngon,
rất thực tế.
Nếu kể
về giá trị tinh thần, nghệ thuật, thì hoa Mẫu Đơn là hoa
đẹp dùng để thưởng ngoạn nhìn ngắm trong một lúc mà
thôi. Nếu nói về giá trị thực tiễn lâu dài, thì tuy
hoa Táo không đẹp, nhưng lại cho kết quả thực dụng là trái
Táo, vừa kinh tế, vừa thực tế.
Nhưng , cuộc đời khi vầy khi khác, tùy theo hoàn cảnh thích
ứng với thứ nào. Chưa chắc mèo nào cắn mĩu nào, chưa
chắc ai đã hơn ai !!!
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
26
點 石 化 為 金 , 人 心 猶 未 足 。
Điểm thạch hóa vi kim, Nhân tâm do vị túc.
Nghĩa Câu :
Chỉ đá
hóa thành vàng, lòng người còn chưa thấy đủ.
Túi
tham của con người luôn luôn không đáy. Câu nầy nói theo
tích " Điểm Thạch Vi Kim " hoặc " Điểm Thiết Vi Kim " (
chỉ sắt thành vàng ), như sau :
Xưa có một người
rất nghèo khổ, nhưng lại rất thành tâm thờ phụng Lữ Tổ.
Lữ Tổ là Lữ Động Tân, Tổ Sư của Đạo Giáo. ( là
một trong Bát Tiên ). Cảm động vì lòng thành của anh ta, nên
một hôm, Lữ Động Tân hiện đến nhà , thấy gia đình
anh ta nghèo khổ, nên dùng ngón tay chỉ vào tảng đá ở
trong sân, trong phút chốc, tảng đá sáng lên rực rỡ và
biến thành vàng. Lữ Động Tân bèn hỏi anh ta : " Anh có
muốn tảng đá nầy không ?. Anh ta chắp tay xá 2 xá và đáp
: " Không muốn ! ". Lữ Đông Tân rất vui mà bảo anh ta rằng
: " Anh rất tốt, không có lòng tham lam ham muốn, như thế, ta có
thể truyền thụ tiên pháp cho anh tu luyện để thành Tiên ".
Người kia đáp : " Không phải thế, tôi muốn xin ông cho tôi
cái ngón tay " chỉ đá hóa vàng " kia kìa, ông thấy
thế nào ?!. Lữ Động Tân nghe xong, rùng mình biến mất !
Quả
là Nghèo mà tham lam quá cở !
信 了 肚,賣 了 屋.
Tín liễu đổ, Mại liễu ốc.
Chú Thích :
Đổ : Cái Bụng, nghĩa bóng
là Bụng Dạ.
Mại 賣 : là Bán. Mại Dâm là Bán dâm.
Khác với...
Mãi 買 : là Mua. Mãi Lực là Sức mua. Mãi
dâm là Mua dâm. Nghĩa Câu :
Tin vào bụng dạ
của mình, thì sẽ bán nhà như chơi.
Ý muốn nói, nếu
sống phóng túng theo những gì mà bản năng con người đòi
hỏi,( sống cho đúng theo bụng dạ mình muốn ), thì như câu
trên đã nói, lòng tham của con người là không đáy
mà, cho nên sống buông thả theo bản năng đòi hỏi, thì bán
nhà cũng không thể thỏa mãn hết được !
Nhưng....
Có người lại hiểu câu trên như sau : Tín liễu ĐỔ 賭 ( Đổ nầy là Cờ Bạc,là Đổ Bác ), có
nghĩa : Tin vào Cờ Bạc thì bán nhà như chơi !.
他 人 觀 花 , 不 涉 你 目 。
Tha nhân
quan hoa, Bất thiệp nhĩ mục.
他 人 碌 碌 , 不 涉 你 足 。
Tha
nhân lục lục, Bất thiệp nhĩ túc.
Nghĩa Câu :
Người
ta ngắm hoa, không can dự gì đến mắt của bạn.
Người ta đi đứng vội vả, không can dự gì đến chân
của bạn cả !. Ý muốn nói...
Thế giới muôn màu,
muôn hình vạn trạng, chuyện xảy ra nhan nhản trước mắt thật
nhiều, ta không làm sao để tâm hết cho được, mà để
tâm để làm gì ? Cứ sống cho mình, cứ tự quan tâm mình
trước đã, mặc kệ thế giới chung quanh !
Thích lo bao
đồng là tự chuốc lấy phiền muộn vào mình mà thôi
!
誰 人 不 愛 子 孫 賢 , 誰 人 不 愛 千 鐘 粟 .
Thùy nhân
bất ái tử tôn hiền, Thùy nhân bất ái thiên chung túc.
Nghĩa Câu
:
Ai mà chả muốn con cháu hiền lành, giỏi giắn, hiếu thảo.
Ai mà
chả muốn có ngàn chuông lương thực, ngàn thùng thóc.
Xin nhắc lại...
Chữ HIỀN, ngoài nghĩa là Hiền Lành ra, còn có nghĩa là
Có Tài Giỏi. CHUNG là Cái Chuông, một đơn vị đo lường
ngày xưa, tương đương với cái Thùng của ta hiện nay.
莫 把 真 心 空 計 較 , 五 行 不 是 這 題 目 。
Mạc bả chân tâm
không kế giảo, Ngũ hành bất thị giá đề mục.
Nghĩa
Câu :
Đừng tính toán những việc nhỏ nhặt một cách quá thực
lòng, làm như thế không phải là đề mục của ngũ hành.
Ý
muốn nói, những việc nhỏ nào cho qua được thì cứ cho qua,
đừng phí công sức đi tính toán làm gì, vì làm
như thế sẽ không thuận với sự sinh hóa của ngũ hành !? Không
thuận với lẽ tự nhiên.
與 人 不 和 , 勸 人 養 鵝 。
Dữ nhân bất hòa, Khuyến nhân dưỡng nga.
與 人 不 睦 , 勸 人 架 屋 。
Dữ nhân bất mục, Khuyến nhân giá ốc.
Chú Thích :
Hòa Mục : là Hòa
hảo, Thuận thảo với nhau.
Nga :là Con Ngổng, con Ngan.
Giá Ốc
: là Cất nhà.
Nghĩa
Câu :
Không hòa hảo với người ta, thì khuyên người ta nuôi ngổng.
Không thuận thảo với người nào đó, thì khuyên người
đó cất nhà.
Ngổng là con vật nuôi trong nhà, có màu sắc trắng tinh thật
đẹp, lại biết giữ nhà, hễ gặp người lạ là nó
kêu ầm lên. Người xưa lại cho rằng Ngổng là con vật kiết
tường, mang điềm tốt đến cho gia đình. Còn...
Cất Nhà
là việc lớn, việc tốt, nhà là nơi nương náo đoàn
tụ của gia đình. Người xưa coi việ cất nhà là việc
trọng đại, nên làm lễ động thổ, lễ gác đòn dông,
đều phải cúng kiến trịnh trọng để khoản đãi thầy
thợ.... Vậy thì, ý nghĩa của câu trên là gì ?! À,
thì ra....
Khuyên ta không hòa thuận với ai, tức là GHÉT người nào
đó, thì nên khuyên những điều TỐT LÀNH cho người đó,
để.... " lấy tình thương xóa bỏ hận thù " !!!
但 行 好 事 , 莫 問 前 程 。
Đản hành hảo sự, Mạc vấn tiền trình.
Chú Thích :
Đản Hành
: Chữ ĐẢN có nghĩa là NHƯNG, nhưng khi đứng trước Động
từ thì có nghĩa là HÃY... ĐI. Cho nên...
Đản Hành
: có nghĩa là Hãy cứ Làm đi...
Ta đã đọc
qua 2 câu cuối trong bài Tống Biệt của Vương Duy là :
ĐẢN KHỨ mạc phục vấn,
Bạch vân vô tận kỳ !
( HÃY cứ ĐI đi không hỏi nữa, Mây trắng vẫn bay
hoài không dứt !).
Tiền Trình : TIỀN là Phía Trước, TRÌNH là Lộ Trình
là Con Đường.nên TIỀN TRÌNH là Con đường trước
mặt, là TƯƠNG LAI.
Nghĩa
Câu :
Hãy cứ làm việc tốt đi, đừng có hỏi con đường
phía trước sẽ ra sao ?!
Câu nầy tiếp ý của
câu trên,( ghét người nào đó, thì nên khuyên việc
tốt cho người đó ), cứ làm việc tốt việc phải đi, chứ
đừng thắc mắc không biết tương lai sẽ ra sao. " Thiện hữu
thiện báo " mà, làm tốt , chắc chắn bạn sẽ gặp tốt
mà thôi !
河 狹 水 急 , 人 急 計 生 。
Hà hiệp thủy cấp, Nhân cấp kế sanh.
Chú Thích :
Hiệp : là Dòng sông
hay suối bị kẹp giữa 2 núi.
Cấp : là gấp rút. Như
: Cấp Bách, Cấp Cứu....
Thủy Cấp : là Nước chảy
xiết.
Nhân Cấp : là Con người trong cơn cấp bách.
Nghĩa Câu :
Eo sông giữa
2 núi thì nước chảy xiết. Con người trong lúc cấp bách
thì sẽ sinh ra mưu kế để ứng phó.
Đây
là những hiện tượng và những phản ứng tự nhiên của
con người và thiên nhiên, để thích ứng hoàn cảnh hiện
hữu.
明 知 山 有 虎 , 莫 向 虎 山 行 。
Minh
tri sơn hữu hổ, Mạc hướng hổ sơn hành.
Nghĩa Câu :
Đã
biết rõ là trong núi có cọp, thì đừng đi về hướng
núi mà có cọp trong đó.
Có lắm người
biết rõ là trong núi có cọp, nhưng vẫn cứ muốn sấn vào,
vì muốn tỏ ra ta đây là anh hùng, vì hữu dõng vô mưu,
vì muốn cấp thời nổi tiếng ?! Nhưng đâu phải ai cũng là
Võ Tòng !!! Nói chung câu trên khuyên ta...
Việc
gì đó biết rõ là nguy hiễm, biết Chắc là Thất Bại,
thì... tốt nhất...làm ơn đừng làm !
路 不 行 不 到 , 事 不 為 不 成 。
Lộ
bất hành bất đáo, Sự bất vi bất thành.
人 不 勸 不 善 , 鐘 不 打 不 鳴 。
Nhân bất khuyến bất thiện,
Chung bất đả bất minh.
Chú Thích :
Minh 鳴 : MINH
nầy gồm có bộ KHẨU và bộ ĐIỂU ghép thành. Cái
miệng của con chim " nên có nghĩa là : HÓT, KÊU, GÕ.
Ví dụ :
Lưỡng cá hoàng li MINH thúy liễu.
( Hai con chim Hoàng li HÓT
trong đám liễu xanh )
Điểu MINH giản : là Chim KÊU ở trong khe núi.
Đọc trong 52 bộTruyện Tàu, ta thường thấy câu : MINH kim thâu
binh : là ...
GÕ phèng la để rút quân.
Nghĩa Câu :
Đường không đi không
đến, Việc không làm không xong.
Người không
khuyên không thiện, Chuông không gõ thì... không kêu ! Miễn
bàn.
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
25
人 生 知 足 何 時 足 , 人 老 偷 閑 且 是 閑 。
Nhân sinh tri túc hà thời túc, Nhân lão
thâu nhàn thả thị nhàn.
Nghĩa Câu :
Người đời mà muốn cho
đủ, thì biết đến bao giờ mới đủ được . Còn
người già mà muốn nhàn hạ thì mới thật là thanh nhàn
đó.
Lòng tham của con người thì
không có đáy,nên không bao giờ biết đủ, luôn luôn
được voi thì đòi tiên, bất tri túc là thế.
Đến lúc
tuổi già muốn an nhàn để hưởng tuổi già thì mới
thật sự hưởng nhàn, chớ tuổi trẻ mà muốn hưởng nhàn
sớm thì chưa chắc đã được an nhàn để hưởng,
vì còn phải chạy theo ham muốn của bản thân, hoặc phải lo toan
cho cuộc sống.
但 有 綠 楊 堪 系 馬 , 處 處 有 路 透 長 安 。
Đản hữu lục dương kham hệ mã, Xứ
xứ hữu lộ thấu Trường An.
Nghĩa Câu :
Chỉ cần có những cây dương liễu xanh xanh trên đường
đi để khi nghỉ ngơi có chỗ để mà buộc ngựa, thì
nơi nào cũng có đường để có thể đi đến Trường
An được cả.
Ý nghĩa của câu là....
Chỉ cần ta có quyết tâm muốn làm việc gì đó thì
không có gì có thể cản trở ta được, nhất định
ta sẽ đến được... Tràng An mà thôi !.
Tây phương
cũng có câu tương tự như thế : Chỉ cần có quyết tâm
muốn về La Mã, thì... " Con đường nào cũng đưa ta về
La Mã " cả !
見 者 易 , 學 者 難 。
Kiến giả dị , Học giả nan.
Chú Thích :
Giả : là Người,
nhưng ở đây là Phiếm chỉ Đại từ, nên có nghĩa
là : Cái Mà...., hoặc Người Mà....
Nghĩa Câu :
Cái
mà ta thấy thì dễ, Cái mà ta muốn học mới khó.
Rất
thực tế, luôn luôn cái mà ta thấy người khác làm, người
khác học.... thì có vẻ dễ dàng lắm, nhưng đến khi chính
mình bắt tay vào làm hoặc học, thì mới thấy được
sự khó khăn khi học khi làm !
Đừng
tưởng bở, thấy thì dễ nhưng học lại rất khó !
莫 將 容 易 得 , 便 作 等 閑 看 。
Mạc tương dung dị đắc, Tiện tác đẵng nhàn khan.
Chú Thích :
Mạc Tương :
là Đừng có lấy ( việc gì đó...)... hoặc
Đừng có đem ( xem ) việc gì đó
Đắc : là Được,
là Đắc Thủ, là Thành Công.
Tiện Tác : Bèn lấy
làm..., Bèn Cho Rằng....
Đẳng Nhàn : là Rổi Rảnh, là Không Nhằm Gì, là Coi rẻ.
Đẳng Nhàn
Khan : là Xem Thường, xem khinh.
Nghĩa Câu :
Đừng có thấy dễ dàng đắc thủ, dễ dàng thành công,
mà xem thường xem khinh những sự việc khác.
Có
lắm người vừa ra đời đã thành công, làm việc gì
cũng đắc thủ một cách dễ dàng, bèn dễ ngươi, cứ
tưởng là mình giỏi lắm, nên đâm ra ngạo mạn, xem thường
xem khinh tất cả những sự việc khác... Đến khi vấp phải trở
ngại, thất bại, thì lại rất chua cay, cay cú hơn người khác
và muốn buông xuôi tất cả !
Câu nầy khuyên
ta luôn luôn phải khiêm nhường, đừng thấy dễ dàng thành
công mà sinh ra ngạo mạn.
用 心 計 較 般 般 錯 , 退 步 思 量 事 事 難 。
Dụng tâm kế
giảo ban ban thác, Thoái bộ tư lường sự sự nan
Chú Thích :
Kế Giảo : là Tính
Toán Từng Chút Một, Ke Re Cắc Rắc.
Ban Ban : chỉ Mọi
Ngành Nghề, Mọi Sự Việc.
Tư Lường : là Suy Nghĩ Thiệt Hơn,
Chần Chừ Do Dự. Nghĩa Câu :
Nếu để tâm
tính toán ke re cắc rắc từng chút một, thì chuyện gì cũng
lệch lạc, sai lầm. Còn cứ chùng bước suy nghĩ thiệt hơn mãi
thì chuyện gì cũng thấy khó khăn cả !
Quả
là lời khuyên quý báu ! Ke re cắc rắc từng chút một thì
" chơi " với ai ?! Còn làm việc gì đó mà không cả
quyết thì làm sao mà làm cho được !
道 路 各 別 , 養 家 一 般 。
Đạo lộ các biệt , Dưỡng gia nhất ban.
Nghĩa Câu :
Đường
lối tuy mỗi người mỗi khác, nhưng đều cùng chung một mục
đích là để nuôi sống gia đình.
Mỗi
người một ngành nghề, mỗi người một cách thức, mỗi
người một kiểu kiếm tiền khác nhau ( chính đáng hay không
chính đáng, đàng hoàng hay mánh mung... ) nhưng tựu trung đều
cùng chung một mục đích là để nuôi sống gia đình
mà thôi.
從 儉 入 奢 易 , 從 奢 入 儉 難 。
Tòng kiệm nhập xa dị, Tòng xa nhập kiệm nan.
Nghĩa Câu :
Từ cuộc sống
tiết kiệm mà đi vào cuộc sống xa hoa thì dễ. Từ đời
sống xa hoa mà trở về với đời sống tiết kiệm thì khó.
Quen
ăn không quen nhịn, chí lý lắm thay ! Con người ai cũng mang cái
bản chất hưởng thụ sẵn trong người, nên rất dễ dàng
đi vào cuộc sống xa hoa, đã sống xa hoa rồi mà muốn trở
lại cuộc sống tiết kiệm thì khó còn hơn " lên trời
" !
知 音 說 与 知 音 听 , 不 是 知 音 莫 与 彈 。
Tri âm thuyết
dữ tri âm thính, Bất thị tri âm mạc dữ đàn.
Nghĩa Câu :
Tri âm với nhau thì cùng nói cho nhau nghe, không là tri âm thì
sẽ không đàn cho nghe bao giờ !
Tri Kỷ là người bạn hiểu được mình, còn Tri Âm là
người bạn hiểu được tiếng đàn của mình. Nói chung
Tri kỷ Tri Âm đều chỉ người bạn thân thiết, thông cảm
được mình, hiểu được mình.
Từ " Tri Âm " là do tích của " Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ
" mà ra, ta thường gọi tắt là " Bá Nha Tử Kỳ ", truyện
tóm tắt như sau :
Bá Nha và
Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Bá Nha, họ Du tên Thụy, là người nước Sở, nhưng làm
quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một
khách phong lưu văn nhã, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất
đời và không bao giờ rời cây Dao cầm yêu quý của mình.
Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, là một
danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ
tuổi già nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên,
ở cửa sông Hán Dương.
Năm đó, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở.
Trên đường về, khi thuyền đến cửa sông Hán Dương,
nhằm đêm Trung Thu sáng trăng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh
cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn.
Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn,
nhưng chưa dứt bài, đàn bỗng đứt dây.
Bá Nha
giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt
có người nghe lén , vì thế mà gặp được Tử Kỳ
đang khi đi đốn củi về, nhưng Bá Nha không tin là một anh
tiều phu trong núi lại có thể nghe hiểu tiếng đàn của mình,
mới mời lên thuyền đàm đạo và mời nghe mình đàn.
Tử Kỳ tinh thông nhạc lý,
tinh tường Dao cầm, thấu rõ lòng Bá Nha qua tiếng đàn, lúc
cao vòi vọi chí tự non cao, lúc thì trời nước bao la, ý tại
lưu thủy. Sau nầy ta thường nói " Tiếng đàn réo rắc
như cao sơn lưu thủy " là cũng do tích nầy mà ra. Bá Nha
vô cùng bái phục và xin kết nghĩa anh em. Trước khi chia tay, hai người
hẹn gặp lại năm sau cũng tại chốn nầy.
Mùa thu năm sau, khi Bá Nha trở lại Mã Yên thì Tử Kỳ đã
bệnh chết, mộ còn chưa xanh cỏ. Chung lão, thân phụ của Tử
Kỳ đưa Bá Nha đến mộ. Sau khi lạy bạn xong, Bá Nha gọi đem
Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp
bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu khúc
“Thiên thu trường hận”, tiễn người tri âm tài hoa yểu
mạng. Khi vừa dứt khúc đàn,Bá Nha vái cây Dao cầm một
vái, tay nâng lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ
tan từng mãnh, trụ ngọc, phím vàng rơi lả tả....
Người đời sau có thơ cảm khái rằng :
摔碎瑤琴鳳尾寒, Suất toái dao cầm phượng
vĩ hàn,
子期不在對誰彈! Tử Kỳ bất tại đối thùy đàn.
春風滿面皆朋友, Xuân phong mãn diện giai bằng
hữu,
欲覓知音難上難. Dục mịch tri âm
nan thượng nan.
Tạm dịch :
Đập nát dao cầm phượng lạnh lòng,
Tử Kỳ đà mất đàn như không.
Gió xuân khắp chốn bao bè bạn,
Kiếm được tri âm khó dám mong.
VỌNG NGUYỆT HOÀI VIỄN
VỌNG NGUYỆT
HOÀI VIỄN là Ngắm Trăng Nhớ Kẻ Xa Xăm, bài thơ trữ
tình nổi tiếng của một Tể Tướng giỏi đời Đường
: TRƯƠNG CỬU LINH mà ta sẽ đề cập sau đây....
張九齡(678-740), 一名博物,字子壽,韶州曲江(今廣東省韶關市及曲江、樂昌、仁化、南雄、翁源、英德等縣地)人,唐中宗景龍初年進士,唐玄宗開元時歷官中書侍郎、同中書門下平章事、中書令,唐代有名的賢相。他的五言古詩,以素練質樸的語言,寄托深遠的人生慨望,對掃除唐初所沿習的六朝綺靡詩風,貢獻尤大。譽為"嶺南第一人"
Trương Cửu Linh ( 678- 740 ), còn có tên là Bác Vật, tự
là Tử Thọ, người Thiều Châu Khúc Giang ( Gồm Thành phố
Thiều Quan và Khúc Giang, các huyện Lạc Xương, Nhân Hóa, Nam
Hùng, Ông Nguyên, Anh Đức, thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay
). Ông đậu Tiến Sĩ năm đầu Cảnh Long thuộc vua Đường
Trung Tông, làm Trung Thư Thị Lang, Đồng Trung Thư Môn hạ Bình
Chương Sự, Trung Thư Lệnh thuộc thời Khai Nguyên vua Đường Huyền
Tông, là một trong những Thừa Tướng giỏi của đời Đường.
Thơ Ngũ Ngôn của ông lời lẽ chất phác giản dị trong sáng,
gởi gấm những ước vọng sâu xa của cuộc sống con người.
Ông còn có công rất lớn trong việc quét sạch phong trào thơ
ca lãng mạn ủy mị do ảnh hưởng của thời Lục Triều trong
buổi Sơ Đường, được xưng tụng danh dự là " Lĩnh
Nam Đệ Nhất Nhân ".
望月懷遠 VỌNG NGUYỆT
HOÀI VIỄN
張九齡
Trương Cửu Linh
海上生明月, Hải thượng sanh minh nguyệt,
天涯共此時。
Thiên nhai cộng thử thời.
情人怨遙夜, Tình nhân oán
diêu dạ,
竟夕起相思。 Cánh tịch khởi tương
tư.
滅燭憐光滿,
Diệt chúc lân quang mãn,
披衣覺露滋。 Phi
y giác lộ tư.
不堪盈手贈, Bất kham doanh thủ tặng,
還寢夢佳期。 Hoàn tẩm mộng
giai kỳ.
Dịch Nghĩa :
Vầng
trăng sáng mọc lên trên biển cả mênh mông, nơi chân trời
góc biển kia cũng cùng lúc với nơi nầy. Người hữu tình
luôn oán trách đêm dài dằng dặc, nên suốt đêm động
lòng tưởng nhớ đến nhau. Tắt nến đi để càng thấy
thương hơn ánh trăng sáng tràn đầy, và áo khoác cũng
ướt ẫm vì sương trăng thấm nhập. Ta không thể dốc đầy
ánh trăng trong tay để gởi tặng bạn, thôi thì đành trở
về tìm trong giấc mộng may ra có gặp được nhau chăng !
Diễn Nôm
:
Ngắm Trăng Nhớ kẻ Phương Trời Xa Xăm.
Trăng lên biển lớn sáng đầy,
Góc trời thăm thẳm lúc nầy cùng nhau.
Hữu tình người oán đêm thâu,
Năm canh thao thức cùng sầu hai nơi.
Nến tàn trăng sáng đầy trời,
Sương rơi thấm ướt áo tơi vai chàng.
Làm sao dốc ánh trăng vàng,
Tặng người chẳng được, mơ màng gặp nhau.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
24
天 時 不 如 地 利 , 地 利 不 如
人 和 。
Thiên thời bất như địa lợi, Địa
lợi bất như nhân hòa.
Nghĩa Câu :
Thiên thời không bằng địa lợi, Địa lợi
không bằng nhân hòa.
Mọi việc làm ở trên đời muốn cho thuận lợi thành
công thì phải theo : Thiên Thời, Địa lợi và Nhân Hòa.
Nhưng như câu trên đã nói Thiên thời không bằng địa
lợi, cái thuận lợi về Thiên cơ thời tiết... không bằng được
cái thuận lợi về đất đai địa lý nơi ta cư ngụ,
và Cái thuận lợi về đia lý không bằng được cái
thuận lợi về nhân hòa, về tình người, về lòng người...
Con người luôn luôn đóng vai trò chủ đạo trong cuộc sống
của con người !
Mần chánh trị cũng thế. Được
lòng người, được lòng dân là có tất cả, ngay từ
xưa Mạnh Tử cũng đã nói : DÂN VI QUÝ mà !
黃 金 未 為 貴
, 安 樂 值 錢 多 。
Hoàng kim vị
vi quý, An lạc trị tiền đa.
Chú Thích :
Vị Vi : Chưa chắc đã là.
Trị : Đáng giá.
Nghĩa Câu :
Vàng ròng chưa chắc đã là quý
giá, sự an lạc yên ổn vui vẻ mới đáng giá đồng tiền
bát gạo ( đáng giá thật nhiều tiền ).
Tiền Vàng không thể mang đến niềm
vui, hạnh phúc cho con người, nhưng nếu không có tiền, không có...
cái để mà sống, thì cũng khó mà có được niềm
vui và hạnh phúc.
世 上 万 般 皆 下 品 , 思 量 唯 有 讀 書 高 。
Thế thượng
vạn ban giai hạ phẩm, Tư lường duy hữu độc thư cao.
Chú Thích :
Vạn Ban : là Mọi Điều, Mọi Thứ, Mọi
ngành nghề.
Độc
Thư : là Đọc sách, ở đây chỉ sự Học Hành.
Nghĩa Câu :
Ở trên đời nầy, mọi thứ mọi ngành
đều là hạ phẩm, là hang thấp, là ở cấp thấp cả.
Suy nghĩ cho cặn kẽ ( tư lường ), thì chỉ có sự học hành
để mở mang kiến thức là ở cấp cao, là cao cả nhất mà
thôi.
Từ xưa
đến nay đều thế cả, người có học thức, có kiến
thức vẫn hơn những người không chịu học hành. Xã hội
càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, thì lại
càng cần phải Học Hành để theo kịp đà tiến hóa của
nhân loại.
世 間 好 語 書 說 盡 , 天 下 名 山 僧 佔 多 。
Thế gian hảo ngữ
thư thuyết tận, Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa.
Nghĩa Câu :
Trên đời nầy, những điều tốt,
những lời nói tốt, thì sách vở đã nói và ghi chép
cả rồi. Và... trên thế gian nầy, phần lớn những núi non nổi
tiếng đều đã bị các nhà sư chiếm cả rồi.
Ta thấy, hễ nơi nào có thắng cảnh
núi non đẹp đẽ, là nơi đó có chùa chiền miếu
mạo mọc lên ngay. Đây gần như là điều hiễn nhiên đến
nỗi hình thành một Thành ngữ mà ta thường nói tới :
Danh Lam Thắng Cảnh !
Chú
Thích :
LAM : là
Già Lam, Tiếng Phạn được Hán hóa, để chỉ Ngôi Chùa.
Đọc trong Kiều, ta cũng thấy có câu :
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi
cửa GIÀ.
....
Cửa Già, là cửa Già Lam, là Cửa Chùa đó.
為 善 最 樂 , 為 惡 難 逃 。
Vi thiện tối lạc , Vi ác nan đào.
Nghĩa Câu :
Làm việc thiện là điều vui nhất,
cảm thấy trong lòng vui nhất. Làm việc ác thì khó trốn, khó
trốn khỏi phải gánh lấy hậu quả bị báo ứng.
羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,
Dương
hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,
你 及 他 未 及 ?
Nễ cập tha vị cập ?
Chú Thích :
Quỵ Nhũ : Quỵ là Quỳ, Nhũ là Vú. Quỵ
Nhũ là Quỳ xuống để bú.
Bộ : là Mớm mồi cho ăn. Bộ nhũ : cũng
có nghĩa là cho bú.
Phản Bộ : là Mớm ngược lại cho ăn.
Cập : là Bằng. Vị
Cập là Chưa Bằng. Bất Cập là Không Bằng.
Nghĩa Câu :
Con dê vì biết ơn của mẹ nên Quỳ xuống
mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi mẹ già thì nó
đi kiếm mồi Mớm ngược lại cho mẹ ăn.
Bạn có bằng được chúng chưa
hay là không bằng ?!
Quả
là một bài học luân lý và là một câu hỏi hóc
búa khó trả lời ! Mong rằng những ai còn Cha còn Mẹ hãy ráng
mà trân trọng !
你 急 他 未 急 , 人 閑 心 不 閑 。
Nễ cấp
tha vị cấp, Nhân nhàn tâm bất nhàn.
Chú Thích :
Nễ : Ngôi thứ 2 số it. Ngoài chữ NỄ
nầy ra,ta còn 3 chữ thường gặp nữa là : Nhĩ 爾, Nhữ 汝 và Quân 君, cũng cùng nghĩa trên.
Nhàn : Ta từng biết câu " Nguyệt lai môn
hạ nhàn " 閒, ánh trăng xiên xiên
trước cửa, gợi cho ta cảm giác nhàn hạ lúc đêm về.
Ở đây ta có chữ " Mộc tại môn tiền Nhàn " 閑, có một cái cây trước cửa cho bóng
mát và đón gió muôn phương, cũng gợi cho ta một cảm
giác nhàn hạ lúc ban ngày. Vậy là ta có được 2 chữ
NHÀN 閑 閒 cho cả
Ngày và Đêm, đều được ghép theo cách Hội Ý
và đều có Nghĩa như nhau.
Nghĩa Câu :
Bạn gấp chứ
họ đâu có gấp ( Mầy gấp chứ nó đâu có gấp
). Người nhàn tâm không nhàn.
Có
nhiều việc chỉ gấp đối với mình nên mình nóng ruột,
còn người khác thì họ tỉnh bơ, vì có phải là chuyện
của họ đâu !. Cũng như có nhiều người trông bề ngoài
thì rất nhàn nhã, nhưng trong bụng thì lại rối beng. Nếu nhìn
bề ngoài không thì có ai mà biết được.
隱 惡 揚 善 , 執 其 兩 端
Ẩn
ác dương thiện, Chấp kỳ lưỡng đoan.
Đây là câu nói của
Đức Khổng Phu Tử trong " Trung Dung Chi Đạo
" nguyên văn như sau :
子曰:「舜其大知也與!舜好問而好察邇言,隱惡而揚善,執其兩端,用其中於民,其斯以為舜乎!」
Tử viết : [ Thuấn kỳ đại tri dã
dữ ! Thuấn hiếu vấn nhi hiếu sát nhĩ ngôn, ẩn ác nhi dương
thiện, chap kỳ lưỡng đoan, dung kỳ trung ư dân, kỳ tư dĩ vi Thuấn
hồ ! ].
Khổng Tử nói :
" Thuấn quả là người có trí tuệ lớn, thích đặt
câu hỏi khi gặp vấn đề, lại giỏi phân tích hàm ý
gần xa trong câu nói của người khác. Bỏ qua (che dấu ) những
cái xấu của người khác và biết tuyên dương cái tốt
của người ta. Nắm được cái chưa tới và cái quá
đáng của hai phía, dung hòa lại để áp dụng cho dân chúng.
Đó chính là cái vua Thuấn hơn người đó vậy !
Trong đời sống thường ngày cũng vậy, ta phải
biết xí xóa và đừng nhắc đến những nhược điểm
của người khác, cũng như biết khuyến khích và tuyên
dương những cái ưu điểm , cái tốt của người đối
diện, nhưng phải biết nắm vững cái NÊN và KHÔNG NÊN nói
hoặc làm, thì chắc chắn mọi người chung quanh, nếu không có
cảm tình thì cũng có thiện cảm với ta hơn !.
妻 賢 夫 禍 少 , 子 孝 父 心 寬 。
Thê hiền phu họa thiểu, Tử hiếu
phụ tâm khoan.
Nghĩa
Câu :
Vợ mà
hiền thục thì chồng sẽ it tai họa. Con mà có hiếu thì lòng
cha mới thấy thoải mái nhẹ nhàng.( KHOAN : có nghĩa là Rộng
trái với Hẹp. Nghĩa bóng là Rộng Rãi, Độ Lượng, như
Khoan Hồng, Khoan Dung... TÂM KHOAN : là Lòng rộng rãi dễ chịu. ).
既 墜 釜 甑 , 反 顧 無 益 。
Ký
trụy phủ tang, Phản cố vô ích.
Chú
Thích :
Ký : là
Đã, Đã... rồi.
Trụy : là Rơi, Rớt. Như TRỤY LẠC chẳng hạn.
Phủ Tằng : Phủ là cái Nồi, Tằng
là cái Nồi Hấp .
Phủ Tằng nói chung là chỉ dung cụ dùng để
nấu.
Phản Cố
: Cố là Chiếu Cố, là Nhìn đến. PHẢN CỐ : là Quay nhìn
trở lại. Ta từng biết câu " Nhất cố khuynh thành, Tái cố
khuynh quốc " ( Nhìn một cái nghiêng thành, nhìn thêm một cái
nữa là đổ nước ) chính là chữ CỐ nầy đây.
Nghĩa Câu :
Đã rớt vào nồi rồi, có nhìn lại
cũng vô ích mà thôi !.
Tương
đương với tiếng Việt mà ta thường nói là :
" Cá đã nằm trên thớt
rồi, có hối ( phải biết đừng cắn câu ) cũng vô ích
mà thôi ! ". Câu nầy dùng để chỉ :
Việc gì đó đã tới nước
không còn cứu vãn được nữa, thì có hối tiếc cũng
vô dụng mà thôi !.
翻 覆 之 水 , 收 之 實 難 。
Phiên
phúc chi thủy, Thu chi thực nan.
Chú Thích :
Phiên Phúc : Phiên là Lật, Phúc
là Úp. Phiên Phúc là Lật úp.
Nghĩa Câu :
Nước đã lật úp rồi,(
đổ sạch sẽ rồi ! ), muốn lấy lại thật là khó khăn
thay !
Tiếng Việt ta cũng có
câu : Nước đã đổ rồi, làm sao hốt lại cho được
!
Câu trên tương ứng với
thành ngữ " Phúc thủy nan thu " 覆水難收.( Nước đổ khó hốt ) với tích của Chu Mãi Thần
như sau :
Tương truyền, Chu Mãi
Thần ( ?- 115 trước Công Nguyên ), tự là Ông Chi, nhân vật chính
trị đời Tây Hán. Người đất Cối Kê, thuộc Ngô Huyện
của Tô Châu hiện nay. Lúc còn hàn vi, chuyên nghề đốn
củi để mưu sinh, vợ chê nghèo khổ mà bỏ đi. Sau được
Hán Vũ Đế trọng dụng phong làm Trung Đại Phu, giàu sang phú
quý, mới đem vàng bạc tặng cho vợ cũ. Bà vợ vừa hổ
thẹn vừa hối hận nên tự vẫn mà chết. Người đời
sau mới thêm thắc nhiều truyền thuyết chung quanh câu chuyện của ông,
trong đó có truyện kể rằng ...
Khi phú quý vinh quy về làng, bà vợ cũ ra đón trước đầu
ngựa xin lỗi và xin tái hợp. Chu Mãi Thần mới cầm chén nước
đổ xuống đất mà bảo rằng, nếu hốt lại được
nước đã đổ thì sẽ cho tái hợp. Bà vợ xấu hổ
mà tự sát. Tích nầy còn cho thêm một thành ngữ nữa
là " Mã Tiền Phất Thủy " 馬前潑水,( Nước đổ trước đầu ngựa ), để chỉ làm
việc gì đó một cách quá đáng, tuyệt tình !
Ta còn nhớ trong bài " Hàn Nho Phong Vị Phú " của Nguyễn Công
Trứ có câu :
..."
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngưa cởi dù
che."
Mãi Thần chính
là CHU MÃI THẦN đó vậy !
TRƯỜNG
CAN HÀNH 1, 2
Nhân trao đổi với Tiền Bối
Danh Hữu về lời trong Thơ và lời nói thường, tôi có nhắc
đến bài thơ Ngũ Ngôn Trường Can Hành của Thôi Hiệu,
nay nhân lúc cuối tuần, chép lại để Chư Vị Tiền Bối
Bằng Hữu cùng thưởng ngoạn cho vui !
長干行 TRƯỜNG
CAN HÀNH
崔顥
Thôi Hiệu
其一
Bài
1.
君家何處住,
Quân gia xà xứ trú ?
妾住在橫塘。 Thiếp trú tại Hoành Đường.
停船暫借問, Đình thuyền tạm tá vấn,
或恐是同鄉。 Hoặc khủng
thị đồng hương
其
二
Bài 2.
家臨九江水,
Gia lâm Cửu Giang thủy,
來去九江側。 Lai khứ Cửu Giang trắc.
同是長干人, Đồng thị
Trường Can nhân,
生小不相識
Sanh tiểu bất tương thức.
Ghi Chú :
Trường Can Hành
: Tên một khúc hát trong Nhạc Phủ dựa theo điệu hát dân
gian của xứ Trường Can, thuộc huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô hiện nay.
Hoành Đường : thuộc huyện Giang Ninh kể trên,
vào đời Tam Quốc nước Ngô cho đắp đê dọc theo giang khẩu
ngang qua song Hoài, nên có tên là Hoành Đường.
Cửu Giang : tức Huyện Cửu Giang, nay thuộc tỉnh Giang Tây.
Nghĩa Bài Thơ :
Bài 1 : Nhà chàng ở nơi nào ? Nhà thiếp thì ở tại Hoành
Đường đây. Dừng thuyền cho thiếp hỏi thăm xem, hoặc giả
chúng ta là đồng hương của nhau chăng !?.
Bài 2 : Nhà anh ở trên dòng Cửu Giang đây, và anh cũng
hay thường lui tới bên cạnh dòng Cửu Giang nầy. Chúng ta đều
là người xứ Trường Can cả, vì sanh sau đẻ muộn nên
không biết nhau đó mà thôi !
Diễn
nôm :
KHÚC HÁT TRƯỜNG CAN
Bài 1.
Nhà chàng ở tận nơi đâu ?
Thiếp thì ở mãi trong sâu Hoành Đường.
Dừng thuyền thiếp hỏi tỏ tường,
Hoặc là có phải đồng hương chăng là !?
Bài 2.
Nhà anh ở phía Cửu Giang.
Ra vào sông Cửu khi nàng còn thơ.
Sanh sau đẻ muộn ơ hờ,
Trường Can chung xóm, ai ngờ... chẳng quen !.
.
Đỗ Chiêu Đức.
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
23
學 者 如 禾 如 稻 , 不 學 者 如 蒿 如 草 。
Học giả như hòa như đạo, Bất học giả
như cảo như thảo.
Chú Thích :
Hòa : là Cây lúa. Đạo
: là Hạt lúa.
Cảo : là Rơm. Thảo : là Cỏ.
Nghĩa Câu
:
Người có học thì như cây lúa, như hạt
lúa. Còn người không có học thì như rơm, như cỏ.
Rất thực
dụng, cây lúa và hạt lúa đem lại lợi ích thực tế
và to lớn hơn là rơm và cỏ thường hay bị xem nhẹ xem khinh.
Bài học
Thuộc Lòng của lớp Đồng Ấu ngày xưa cũng đã nhắc
nhở :
..... Học thời như gấm thêu
hoa,
Có
văn có chất mới ra con người !
遇 飲 酒 時 須 飲 酒 , 得 高 歌 處 且 高 歌 。
Ngộ ẩm
tửu thời tu ẩm tửu, Đắc cao ca xứ thả cao ca.
Nghĩa Câu
:
Gặp lúc uống rượu thì cứ uống rượu, khi nào
cất cao giọng hát được thì cứ cất cao giọng hát.
Ý
muốn nói, khi nào vui chơi hưởng thụ được thì cứ vui
chơi hưởng thụ đi, đã vui chơi hưởng thụ thì đừng
lo nghĩ đến chuyện khác nữa !
因 風 吹 火 , 用 力 不 多 。
Nhân phong xuy hỏa, Dụng
lực bất đa.
Nghĩa Câu :
Nhân có gió mà thổi
thêm lửa, thì dùng sức không nhiều.
Câu nầy tương
đương với...
" Thừa gió bẻ măng ", dùng sức
không nhiều và không ai hay.
" Thừa nước đục thả
câu " , chắc chắn được cá mà không phải đợi lâu.
Bỏ ra công
sức it, mà gặt hái được thành quả nhiều.
不
因 漁 父 引 , 怎 得 見 波 濤 。
Bất nhân ngư
phủ dẫn, Chẩm đắc kiến ba đào ?
Nghĩa Câu :
Không được
sự hướng dẫn của ngư phủ, thì làm sao thấy được
sóng gió ( ba đào ) ?
Người am tường về biển,
biết nương sóng gió mà đi như những người đánh
cá, thì mới có thể đưa bạn đi để ngắm cảnh ba
đào biển động được.
無 求 到 處 人 情 好 , 不 飲 從 他 酒 價 高 。
Vô
cầu đáo xứ nhân tình hảo, Bất ẩm tòng tha tửu giá
cao.
Chú Thích :
Đáo Xứ
: là Khắp mọi nơi.
Tòng Tha : là Theo Nó ( Nó : ở đây
là Phiếm chỉ Đại từ ), nên có nghĩa là : Chìu theo họ.
Một nghĩa phát sinh nữa là : Mặc họ.
Nghĩa Câu
:
Không cầu mong là khắp mọi nơi nhân tình đều
được tốt cả, cũng như không uống những rượu mà họ
muốn lên giá cao bao nhiêu cũng được.( Ghiền quá rồi, họ
lên giá cao bao nhiêu cũng ráng mà uống ).
Ta cũng có thể
hiểu theo nghĩa sau đây :
Vô cầu, đáo xứ nhân tình
hảo,
Bất ẩm, tòng tha tửu giá cao.
Không có đòi hỏi gì
cả, nên khắp nơi , đến đâu nhân tình cũng tốt cả
! Không nhậu, nên mặc cho họ muốn đẩy giá rượu lên
cao bao nhiêu cũng được ! ( Mình có nhậu đâu mà sợ
! ).
知 事 少 時 煩 惱 少 , 識 人 多 處 是 非 多 。
Tri sự thiểu thời phiền
não thiểu, Thức nhân đa xứ thị phi đa.
Chú Thích
:
Nhắc lại chữ 少 là chữ Giả Tá, nên có
2 âm đọc và 2 nghĩa khác nhau :
a ). Đọc là THIẾU
少 : Có nghĩa là TRẺ, từ phản nghĩa là LÃO.
b ). Đọc
là THIỂU 少 : Có nghĩa là ÍT, từ phản nghĩa là ĐA.
THỊ PHI : là
Chuyện đúng sai, phải trái, tốt xấu ở đời.
Nghĩa Câu
:
Hiểu chuyện đời ít thì sự phiền não cũng
ít đi. Quen biết nhiều người ở nhiều nơi, thì chuyện thị
phi cũng nhiều thêm ra.
入 山 不 怕 傷 人 虎 , 只 怕 人 情 兩 面 刀 。
Nhập sơn bất phạ thương
nhân hổ, Chỉ phạ nhân tình lưỡng diện đao.
Nghĩa Câu
:
Vào núi không sợ cọp có thể làm cho người
bị thương ( thậm chí tử thương ), mà chỉ sợ tình
người ở đời như con dao hai lưỡi ( bề nào, phía nào
cũng có thể làm cho ta thọ thương được ! ).
Chỉ ví
von mà thôi. Cho thấy là tình người ở đời nham hiểm và
nguy hiểm vô cùng, có thể hại ta trong mọi tình huống, còn
dữ dằn và đáng sợ hơn là cọp nữa !
Lòng người
hiểm ác khó lường !
強 中 更 有 強 中 手 , 惡 人 須 用 惡 人 磨 。
Cường trung cánh hữu
cường trung thủ, Ác nhân tu dụng ác nhân ma.
Chú Thích
:
MA 磨: Có bộ Thạch là Đá bên dưới.
Danh từ là Cái Cối xay bôt. Động từ là Xay, là Cọ xát,
là Mài dũa. nghĩa bóng là Bị va chạm, dằn vật, ta có
thành ngữ Thiên Ma Bách Chiết : là Ngàn lần mài trăm lần
gãy, chỉ sự va chạm te tua của cuộc đời, mà trong Cung Oán Ngâm
Khúc Ôn Như Hầu đã viết :
Đòi những kẻ
Thiên Ma Bách Chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi
nao.
Nghĩa Câu :
Người mạnh còn có kẻ
mạnh bạo hơn, người ác thì phải dùng người ác để
trị nhau.
Đừng có ỷ mạnh mà lấn lướt người
khác, sẽ có những kẻ mạnh bạo hơn ăn hiếp lại cho coi. Còn
những kẻ ác ôn côn đồ thì không thể lấy lý mà
nói hoặc tử tế với họ được, mà phải dùng những
kẻ ác ôn côn đồ hơn để trị lại họ.
會 使 不 在 家 豪 富 , 風 流 不 用 著 衣 多 。
Hội sử bất tại gia hào phú, Phong lưu bất dụng
chước y đa.
Chú Thích :
Sử 使 : là Sử dụng, là Tiêu, Xài.
Hội Sử : là Biết Xài
tiền, Biết cách Tiêu tiền.
Bất Dụng : Ngoài nghĩa Không Dùng
ra, còn có nghĩa là Không Cần Phải.
Chước Y : là Mặc áo.
Nghĩa Câu :
Biết cách xài tiền không
phải ở chỗ nhà giàu sang, Phong lưu không cần phải mặc áo
nhiều.
Ý muốn
nói...
Không
cần phải là nhà giàu, nếu biết cách xài tiền cho đúng
nơi đúng lúc, thì đồng tiền được xài ra sẽ mang
đến kết quả thật tốt, có ích lợi thấy rõ. Cũng như
người biết cách ăn mặc cho đúng điệu, hợp thời hợp
cảnh, thì không cần phải mặc nhiều quần áo đẹp mới
ra vẻ phong lưu.
光 陰 似 箭 , 日 月 如 梭 。
Quang âm tự
tiễn, Nhật nguyệt như thoa.
Chú Thích :
Quang Âm : Quang
là Sáng, Âm là Tối. Sáng rồi tối, tối rồi lại sang,
Sáng là Ban ngày, Tối là Ban đêm, nên QUANG ÂM chỉ Ngày
này qua ngày kia, tức chỉ THỜI GIAN qua đi.
Nhật Nguyệt : Cũng
giống như Quang Âm. Nhật là Mặt trời chỉ Ban ngày, Nguyệt là
mặt trăng chỉ Ban đêm. mà trăng thì mỗi tháng chỉ TRÒN
có một lần, nên NHẬT NGUYỆT cũng chỉ Ngày Tháng.
Nghĩa Câu
:
Thời gian qua nhanh như tên bắn, Ngày tháng qua
nhanh như thoi đưa.
Hai vế trên đều hàm ý
chỉ Thời gian xem như chậm mà lại qua rất nhanh, nên ta phải biết
trân trọng và sử dung thời gian cho thỏa đáng, đừng để
thời gian mất đi một cách oan uổng.
Còn một câu chỉ
thời gian qua nhanh mà ta thường gặp nữa, đó là câu : "
Thời gian qua nhanh như Bóng Câu qua Cửa Sổ ". Khung cửa sổ đã
hẹp rồi, bóng câu ( một loại ngựa chạy nhanh ) thoáng qua một
cái là mất liền. Nhưng, câu nói trên lấy ý từ câu
nói của Trang Tử còn nhanh hơn nữa....
< 莊子·知北游>“人生天地之間,若白駒之過隙,忽然而已。”
< Trang Tử. Tri Bắc Du > " Nhân sinh thiên
địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên nhi dĩ
".
< Trang Tử. Thiên Tri Bắc Du > " Người đời
sống trong trời đất, giống như là con ngựa trắng lướt ngang
khe cửa, chỉ thoáng chốc mà thôi ".
Ta nói "
Thoáng qua cửa sổ " đã hẹp rồi, Trang Tử nói còn hẹp
hơn nữa, chỉ " Thoáng qua khe cửa mà thôi " !.
TIỄN BẠN
Sau bài Tống Biệt của Thi Phật Vương Duy, mời các bạn
cùng đọc và thưởng thức bài Tống Hữu Nhân ( Tiễn
Bạn ) của Thi Tiên Lý Bạch nhé !
送友人 TỐNG
HỮU NHÂN
李白
Lý Bạch.
青山橫北郭, Thanh sơn hoành bắc quách,
白水繞東城。 Bạch thủy nhiễu đông
thành.
此地一為別, Thử địa nhất
vi biệt,
孤蓬萬里征。 Cô bồng vạn lý
chinh.
浮雲游子意, Phù vân du tử ý,
落日故人情。 Lạc nhật cố nhân
tình.
揮手自茲去, Huy thủ tự tư khứ,
蕭蕭班馬鳴。 Tiêu tiêu ban mã
minh.
Chú Thích :
Hoành
: là Ngang. Ở đây được sử dụng như Động Từ, có
nghĩa là : Nằm Vắt Ngang.
Nhiễu
: là Vòng quanh, uốn quanh.
Cô Bồng : Cỏ Bồng, là loại cỏ nhẹ, khi khô thì bay theo gió,
nên Cô Bồng là Cọng cỏ Bồng lẻ loi, cô độc.
Tiêu Tiêu : Diễn tả tiếng ngưa hí một cách bi ai. Từ nầy
lấy tích ở Kinh Thi, chương Xa Công, có câu " Tiêu Tiêu Mã
Minh "蕭蕭馬鳴.
Ban Mã : Ở đây không phải là Ngựa Rằn, vì Ngựa Rằn
là 斑馬( có bộ VĂN 文 ở giữa chữ Ban để chỉ Cái Vằn trên mình ngựa
). Còn đây là BAN MÃ 班馬, chữ Ban có
bộ ĐAO 刂(刀) ở giữa để chỉ ý Tách
rời ra, nên Ban Mã ở đây có nghĩa là : Ngựa Lìa Đàn.
Nghĩa
Bài Thơ :
Dãy núi
xanh nằm vắt ngang qua phía bắc của thành quách, và dòng nước
trắng xóa thì uốn quanh phía đông thành. Chính nơi nầy,
ta cùng bạn tiễn biệt nhau, bạn nhẹ nhàng bay bổng như cánh
cỏ bồng cô đơn ra ngoài ngàn dặm. Đám mây trôi nổi
dật dờ kia như ý của người du tử không biết sẽ đi về
đâu, còn tình của ta đối với bạn thì như vầng kim
ô sắp tắt mà ánh nắng còn lưu luyến mãi trên đồi.
Vẫy tay nhau từ đây giã biệt, hai con ngựa như cũng cãm thông
với nỗi buồn ly biệt của con người mà cất lên tiếng hí
vang vang buồn bã.
Bài
thơ nầy nổi tiếng bất hũ với 2 câu :
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
.... để chỉ sự lang bạc không
định hướng của người du tử và tình cảm quyến luyến
của cố nhân như ánh nắng chiều còn lưu luyến mãi với
buổi hoàng hôn !
Diễn Nôm :
TIỄN BẠN
Núi xanh vòng phía bắc,
Nước chảy uốn thành đông.
Nơi đây ta giã biệt,
Ngàn dặm cánh cỏ bồng.
Phù vân ý du tử,
Nắng luyến tình cố nhân.
Vẫy tay nhau giã biệt,
Thê lương ngựa hí rân.
Lục bát :
Núi xanh vòng phía bắc thành,
Bên đông dòng nước uốn quanh lượn lờ.
Nơi nầy giả biệt bạn thơ,
Cỏ bồng vạn dặm,dật dờ biết đâu.
Ý người mây trắng ngàn thâu,
Tình tôi quyến luyến nghe sầu hoàng hôn.
Vẫy tay giả biệt chiều hôm,
Thê lương tiếng ngựa buồn buồn hí vang !
Đỗ Chiêu Đức.
CHIA
TAY
Phía bắc chen ngang núi chập chùng
Thành
đông nước chảy uốn vòng cong
Tiễn đưa, ta nặng sầu ly biệt
Từ
giã, bạn như cánh cỏ bồng
Kẻ ở luyến lưu chiều ráng muộn
Người đi thanh thản áng mây
lồng
Vẫy tay
phút cuối, lòng tê tái
Tiếng ngựa bên đường đã hí rân...
Lộc Mai
Nhận được
bài Tống Hữu Nhân của Lý Bạch và bản chuyển dịch của
anh Đỗ Chiêu Đức , sáng nay ngồi đọc mà xúc cảm ngậm
ngùi. Nhớ lại mới năm nào , nửa khuya , tiếng điện thoại
viễn liên , xa vắng , ngập ngừng , nhưng nghe rất rõ. "Anh đây
, chú ạ , gọi chào chú , ngày mai anh về , để lúc phải
ra đi, anh còn được nằm bên cạnh chị ". Tôi ngồi chuyển
dịch lại bài này , trước hết để tỏ chút tình "đồng
thanh tương ứng" với anh Đỗ Chiêu Đức, thày đồ trường
nhà , và với tất cả quí thi hữu . Và sau , cũng còn là
để tưởng niệm một người anh quí mến trong gia đình PTG-ĐTĐ
. Anh Chiếu ,chúng em mừng anh đã an nghỉ được nằm bên cạnh
chị như ý nguyện. Riêng em , mỗi lời ngô nghê trong bản chuyển
dịch này là mỗi giọt nước mắt của em , khóc nhớ
anh đây. Cầu chúc an lành cho tất cả chúng ta.
Thân kính. PKT 09/04/2013
Tiễn Bạn
Mây Tần - PKT
Núi xanh ngang quách bắc ,
Sóng bạc quanh thành đông.
Một lần bên cầu tiễn ,
Là ngàn dặm cỏ bồng.
Người đi , đời mây nổi ,
Bạn cũ , nắng
chiều vương.
Vẫy tay chào giã biệt ,
Ngựa hí
ran xé lòng .
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
22
莫 笑 他 人 老 , 終 須 還 到 老 。
Mạc tiếu tha nhân lão, Chung tu hoàn đáo lão.
但 能 依 本 分 , 終 須 無 煩 惱 。
Đản năng y bổn phận, Chung tu vô phiền não.
Nghĩa Câu :
Đừng cười người khác già, Rốt cuộc mình
cũng già thôi.
Chỉ cần giữ đúng
bổn phận của mình, chung cuộc sẽ không có gì phiền não.
Rất
bình thường, chỉ cần an phận thủ thường, thì sẽ không
có gì có thể làm cho mình phiền não được. Ta đã
từng biết câu :
" Phiền não giai nhân
cưởng xuất đầu " !.
君 子 愛 財 , 取 之 有 道 。
Quân tử ái tài, Thủ chi hữu đạo.
貞 婦 愛 色 , 納 之 以 禮 。
Trinh phụ ái sắc, Nạp chi dĩ lễ.
Nghĩa
Câu :
Người quân tử cũng yêu thích
tiền tài ( cũng tham tiền như ai ), nhưng, chỉ lấy những tiền tài
nào có Đạo nghĩa ( tiền có lai lịch tốt hoặc do sức
lao động của mình làm nên ).
Người Trinh
phụ ( phụ nữ đoan trinh tiết liệt ) vẫn thích làm đẹp,(
Ái sắc : là Yêu sắc, là thích mình có nhan sắc ), nhưng,
chỉ làm đẹp trong vòng Lễ giáo cho phép. Không làm đẹp
một cách diêm dúa hoặc hở hang.
善 有 善 報 , 惡 有 惡 報 。
Thiện
hữu thiện báo, Ác hữu ác báo.
不 是 不 報 , 日 子 未 到 。
Bất thị bất báo, Nhựt tử vị đáo.
Nghĩa Câu :
Làm lành thì có
báo lành, làm ác thì sẽ bị ác báo. Không phải
là không báo ứng, vì ngày tháng chưa tới mà thôi.(
Vị Đáo : là Chưa đến. còn Bất Đáo : là Không
đến ).
人 而 無 信 , 不 知 其 可 也
。
Nhân nhi vô tín, Bất tri kỳ khả dã.
Nghĩa
Câu :
Làm người mà không có
chữ tín, thì không biết là được ở chỗ nào ! ( Bất
tri kỳ khả dã ), ý muốn nói : Làm sao mà được !
Đây là câu nói của Đức Khổng Phu Tử trong chương
Vi Chính 為政, sách Luận Ngữ 論語. Nguyên văn như
sau :
子曰:「人而無信,不知其可也。大車無輗(1),小車無軏(2),其何以行之哉?」
Tử viết : " Nhân nhi vô
tín, bất tri kỳ khả dã. Đại xa vô nghê(1), tiểu xa vô nguyệt(2),
kỳ hà dĩ hành chi tai ? ".
Có nghĩa
:
Khổng Tử nói : " Người mà không
có chữ tín, thì làm sao mà đứng vững được. Giống
như xe lớn không có mộng gài ngang càng xe, xe nhỏ không có
chốt để chốt ngang càng xe, thì xe làm sao mà đi cho được
?".
Chữ " TÍN " là cái chuẩn mực
truyền thống của Nho Gia. Khổng Tử dạy, làm người muốn lập
thân xử thế tốt, thì phải giữ chữ TÍN. Hàm ý chính
của chữ TÍN trong Luận Ngữ là : TÍN NHIỆM và TÍN DỤNG.
一 人 道 好 , 千 人 傳 實 。
Nhất
nhân đạo hảo, Thiên nhân truyền thực.
Nghĩa
Câu :
Chỉ
cần một người nói tốt thôi, rồi một ngàn người sau
đó đồn đãi lan truyền ra thì mọi người sẽ tin là
tốt thật. Nhưng có tốt thật sự hay không thì còn phải
kiểm tra lại mới biết !.
凡 事 要
好 , 須 問 三 老 。
Phàm
sự yếu hảo, Tu vấn tam lão.
Nghĩa Câu
:
Hễ việc gì muốn tốt, thì phải hỏi
qua ý kiến của ba ông già.
Nếu ba ông già nói tốt
thì là tốt, nếu ba ông đều nói không tốt là không
tốt. Ở đây muốn đề cao về kinh nghiệm sống của những
người già từng trải. Khi ta do dự, bối rối trước một vấn
đề nan giải nào đó, thì tốt nhất là hãy tìm một
người già để tham khảo ý kiến .
若 爭 小 可 , 便 失 大 道 。
Nhược tranh tiểu khả, Tiện thất đại đạo.
Nghĩa Câu :
Con người nếu cứ quyết
lòng tranh chấp những lợi ích nhỏ nhoi, cá nhân, thì sẽ
mất đi cái lợi ích to lớn của tập thể, của cộng đồng
và không hợp với đạo lý ở đời.
Tham cái
lợi nhỏ để mất cái đạo to, nhưng, ở đời có mấy
ai tránh khỏi cái lợi bày ra sờ sờ trước mắt ?!
年 年 防
飢 , 夜 夜 防 盜 。
Niên niên phòng cơ, Dạ dạ phòng đạo.
Nghĩa Câu :
Năm nào cũng phải lo đói
cơm khát nước,
Đêm nào cũng phải phòng hờ trộm đạo cướp
bóc.
Cẩn
tắc vô ưu : Cẩn thận lo toan mọi mặt, thì không phải buồn
rầu lo lắng.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
21
殺 人 一 萬 , 自 損 三 千 。
Sát nhân nhất vạn, Tự tổn tam thiên.
Nghĩa Câu :
Giết của người ta một vạn ( mười ngàn ) người, thì
mình cũng phải tổn thất 3 ngàn ( chớ đâu có ít hơn
nữa ! ).
Nhớ hồi xưa,
khi nghe tin chiến sự, các bạn bè thường nhại lại để cười
với nhau như sau : "....Bên địch chết 3, bên ta, hoàn hoàn vô
sự ! ". Có anh bạn lại tếu như sau : "... Bên địch, chết
3, Bên ta , chết hết ! ".
Cái giá phải trả... thường bị ém nhẹm đi , vì một
lý do nào đó.... Một ông Tướng thắng trận lên lon,
có biết đâu rằng đã phải hy sinh biết bao xương máu
của những Chiến sĩ Huynh Đệ Chi Binh ! Từ xưa đã có câu
:
Nhất tướng công thành
vạn cốt khô. 一將功成萬骨枯 .
Có nghĩa :
Một ông tướng công thành danh toại ( nổi tiếng ) đã phải
đánh đổi cái quá trình đó bằng hàng vạn bộ
xương khô của binh sĩ cả ta lẫn địch. Không có những
trận đánh lớn, không giết được nhiều người, không
thắng trận.... thì làm sao nổi tiếng được !
傷 人 一 語 , 利 如 刀 割 。
Thương nhân nhất ngữ, Lợi như đao cắt.
Nghĩa Câu :
Một lời nói làm thương tổn đến người khác thôi,
lắm lúc lại làm cho người ta cảm thấy còn đau đớn
hơn là bị dao bén cắt vào thịt nữa !
Ông bà ta nói :
Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau !
枯 木 逢 春 猶 再 發 , 人 無 兩 度 再 少 年 。
Khô mộc phùng xuân do tái phát, Nhân vô
lưỡng độ tái thiếu niên.
Nghĩa Câu :
Cây khô gặp mùa xuân còn có thể phát trở lại, chớ
người thì không có hai lần trở lại tuổi thiếu niên.
Thời gian đã qua rồi thì
không thể trở lại được nữa ! Tục ngữ Trung Hoa có câu
:
Nhất thốn quang âm nhất
thốn kim, 一寸光陰一寸金,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm. 寸金難買寸光陰.
Có nghĩa :
Một tất thời gian quý
như một tất vàng, nhưng tất vàng không thể mua được
tất thời gian !
未 晚 先 投 宿 , 雞 鳴 早 看 天 。
Vị
vãn tiên đầu túc, Kê minh tảo khán thiên.
Chú Thích :
Đầu Túc : Tìm chỗ ở trọ
nhà ai đó, chỗ nào đó... để qua đêm.
Nghĩa Câu :
Trời chưa
sụp tối, phải tìm chỗ ở trọ qua đêm trước. Gà vừa
gáy sáng là phải thức dậy để xem trời ( như thế nào,
để còn lên đường ! ).
Đây là cách sống cẩn thận, có kế hoạch chu đáo của
thời trước. Không phải ở đâu cũng có nhà trọ khách
sạn, và phương tiện giao thông khó khăn, nên có việc đi
ra ngoài, gặp khi trời sắp tối thì phải biết tính toán mà
tìm chỗ trọ qua đêm trước khi trời sụp tối, và sáng
sớm phải biết dậy sớm xem thời tiết để còn lên đường
cho đừng trễ nãi.... Còn bây giờ thì khoa học kỹ thuật
tiến bộ, xã hội phát triển, giao thông thuận tiện... nên con
người sống cũng tùy tiện hơn, không phải mỗi chút mỗi
lo như hồi trước nữa !
將 相 胸 前 堪 走 馬 , 公 候 肚 裡 好 撐 船 。
Tướng
tướng hung tiền kham tẩu mã, Công hầu đổ lý hảo sanh thuyền.
Chú
Thích :
Tướng Tướng : 將 相 Ta có 2 chữ Tướng rất hay như sau :
Tướng
將 : Tướng nầy là Tướng Quân cầm binh, con nhà võ.
Cao nhất là Đại Tướng, là Nguyên Soái.
Tướng
相 : Tướng nầy là Tướng Văn, là Thừa Tướng, là
Tể Tướng. Quan văn mà làm tới Tướng thì lớn hơn quan
Tướng của quan Võ nhiều.
Trong câu Tướng Tướng
là chỉ : Những người Thành đạt, những kẻ cả, những
người có chức vụ lớn.
Hung : là Cái Ngực. Hung Tiền
: chỉ trước Ngực, là cái lồng ngực, ở đây là chỉ
Bụng Dạ của kẻ cả.
Kham : là Có thể, là Được.
Đổ : là Cái Bụng. Đổ Lý : là Trong Bụng, ở đây
chỉ Lòng dạ.
Sanh : là Chèo Chống.
Nghĩa Câu :
Trong lồng ngực cuả những Tướng quân, Thừa tướng có thể
cởi ngựa được, Trong bụng của các Công Hầu có thể
chống thuyền được.
Ý của câu nói là muốn nhắn nhủ với những người thành
đạt, những ông quan lớn, những kẻ hiển đạt.... phải có
lòng dạ khoan dung rộng rãi của... kẻ cả, chớ không nhỏ nhoi,
chấp nê hẹp hòi như kẻ tiểu nhân.
Thường thì những người hiển đạt có cuộc sống sung túc
giàu sang, nên lòng dạ cũng khoan dung rộng rãi hơn những người
thường, nhưng rộng đến nỗi " cưởi ngựa và chống
thuyền " trong bụng được thì quả là quý hóa quá
đi thôi !
富 人 思 來 年 , 貧 人 思 眼 前 。
Phú nhân tư lai niên, Bần nhân tư nhỡn tiền.
Nghĩa Câu :
Người giàu thì lo cho năm tới, Người nghèo thì lo ngay trước
mắt.
Nghèo, chạy gạo từng bửa, không lo ngay trước mắt sao được
!?.
世 間 若 要 人 情 好 , 賒 去 物 件 莫 取 錢 。
Thế gian nhược
yếu nhân tình hảo, Xa khứ vật kiện mạc thủ tiền.
Chú Thích :
Nhược : là
Nếu. Nhược Yếu : là Nếu Muốn.
Xa : là Nợ, là
Thiếu chịu.
Nghĩa Câu :
Trên đời nầy, nếu muốn cho nhân tình được tốt, thì
cho người khác nợ đi những đồ đạc gì đó mà
không cần lấy lại tiền. Không lấy tiền, tức là Cho
Không rồi còn gì !?. Như thế mà nhân tình không tốt mới
là lạ !
死 生 有 命 , 富 貴 在 天 。
Tử sanh do mệnh, Phú quý tại thiên.
Nghĩa Câu :
Chết sống đều có mạng, Phú quý là do Trời.
Chết hay sống
đều có số mạng cả, không phải mình muốn mà được.
Cũng như việc giàu nghèo là do Trời đã sắp đặt sẵn,
không phải tự dưng muốn giàu mà được đâu. Đó
là cái triết lý sống của người xưa, tất cả đều
tin vào Thiên mệnh, ta đã từng biết câu : " Mệnh lý vô
thời mạc cưởng cầu " mà !
擊 石 原 有 火 , 不 擊 乃 無 煙 。
Kích
thạch nguyên hữu hỏa, Bất kích nãi vô yên.
Chú Thích :
Kích :
là Đánh. Truy Kích : là Đuổi đánh.
Kích Thạch
: là Đánh 2 viên đá vào nhau.
Nghĩa Câu :
Đánh
đá vốn có lửa, không đánh đá thì không có
khói.
Phép lấy lửa ngày xưa là cà mạnh 2 viên đá vào
nhau cho nẹt lửa, rồi dùng bổi làm mồi cho lửa cháy, cho nên
đánh đá để có lửa là chuyện thường tình, mà
có lửa thì sẽ có khói. Không đánh đá, không có
lửa , làm sao có khói được !? " Bất kích nãi vô
yên " mà !.
人 學 始 知 道 , 不 學 亦 徒 然 。
Nhân học thủy tri đạo, Bất học diệc đồ nhiên.
Nghĩa Câu ;
Người mà có học mới biết đạo lý ( ở đời,làm
người ), không học thì sẽ không biết gì cả !( uổng
phí,vô dụng ).
Vế đầu còn có một dị bản là " VI học thủy tri đạo
". VI là Làm, là tích cực trong việc học hỏi, thì sẽ
biết đạo lý ở đời.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
20
莫 飲 卯 時 酒 , 昏 昏 醉 到 酉 。
Mạc ẩm mão thời tửu,
Hôn hôn túy đáo dậu.
莫 罵 酉 時 妻 , 一 夜 受 孤 凄 。
Mạc mạ dậu thời thê, Nhất dạ
thụ cô thê.
Chú thích:
THÊ : ta có 4 chữ Thê thường gặp sau đây
:
1. 妻 Thê nầy có bộ Nữ bên dưới, nên có nghĩa
là VỢ.
2.
棲 Thê nầy có bộ Mộc bên trái, nên có nghĩa là ĐẬU
: Trong Tăng Quảng Hiền Văn 10, ta có câu : " Đình tài thê
phụng trúc " ( Trong sân trồng tre để cho chim phụng đậu ). Nghĩa
bóng là Nương Tựa, như Thê Thân, Thê Cư : là Ở trọ
đở, nương thân.
3. 萋 Thê nầy có bộ Thảo trên đầu, nên
có nghĩa là Um Tùm, Xanh Om. Ta đã biết câu " Phương thảo
THÊ THÊ Anh Vũ châu. " trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi
Hiệu rồi
4. 凄 Thê nầy có bộ Băng bên trái, nên có
nghĩa Rét Buốt, Lạnh Lẽo. Nghĩa trong câu : CÔ THÊ : là Cô
đơn lạnh lẽo.
chữ 凄 Thê nầy
còn được viết bằng bộ Thủy 淒 ( 3 chấm là Thủy
) cũng có cùng nghĩa như bộ Băng.
Nghĩa
Câu :
Đừng uống rượu vào giờ
Mão ( Sáng từ 5 - 7 giờ ), vì sẽ say gật gà gật gưỡng
( hôn hôn ) cho đến giờ Dậu ( Chiều từ 5- 7 giờ ). Vậy là
suốt ngày khỏi làm ăn gì hết !
Đừng
mắng vợ vào giờ Dậu, vì nếu vợ chồng cải lộn vào
giờ nầy, thì suốt đêm sẽ phải nằm chèo queo lạnh lẽo,
cũng khỏi " làm ăn " gì hết ! Ca dao miệt Cần Thơ Cái
Răng có câu :
Mù u đêm tối
mù u,
Vợ chồng cải lộn,... ..
....ai muốn biết Vế cuối ra sao, xin hỏi Người Giữ Vườn,
Nhà Giáo, Nhà Văn, Nhà Thơ Trần Bang Thạch sẽ rõ !
種 麻 得 麻 , 種 豆 得 豆 。
Chủng ma đắc ma, Chủng đậu đắc đậu.
天 網 恢 恢 , 疏 而 不 漏 。
Thiên
võng khôi khôi, Sơ nhi bất lậu.
Chú
Thích :
Ma : là Cây Đay, cây Gai. Miền Nam
gọi là Cây Bố.
Võng : là Lưới , Chài.
Ngư Võng là Lưới cá, là Cái Chài để Chài cá.
Thiên Võng là Lưới Trời.
Khôi Khôi
: là Mênh mông, Bao la.
Sơ : là Thưa thớt. là Lợt lạt.
Lậu
: là nhểu, Chảy, Lọt, Dột. Ốc lậu : Nhà dột. Lậu Võng
: Lọt Lưới. Lậu Bình : là cái Bình chảy. Khắc Lậu Canh
Tàn : Giờ khắc nhễu theo những giọt nước trong cái hồ bằng
đồng ( đồng hồ ) ngày xưa. Bệnh Lậu : là bệnh không
đi tiểu mà vẫn nhễu nước ra.
Nghĩa
Câu :
Trồng đay thì được đay,
trồng đậu thì được đậu.
Lưới
trời lồng lộng , thưa mà không lọt.
Gieo
nhân nào thì gặt quả nấy ! Làm ác sẽ gặp ác, ông
bà ta nói : " Ác lai thì Ác báo " và :
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, 善惡到頭終有報
Cao phi viễn tẩu dã nan đào
! 高飛遠走也難逃
Có
nghĩa : Thiện hay ác gì thì rốt cuộc vẫn có báo ứng.
Dẫu cho bay có cao chạy có xa thì cũng khó mà thoát khỏi
!
Có bản viết là :
Cao phi viễn tẩu dã nan TÀNG. 高飛遠走也難藏.
Có nghĩa : Cao chạy xa bay cũng khó TRỐN ( thoát ).
見 官 莫 向 前 , 做 客 莫 在 後 。
Kiến quan mạc hướng tiền, Tố
khách mạc tại hậu.
Nghĩa Câu :
Thấy
quan thì đừng tiến lên phía trước, còn làm khách thì
đừng tụt lại phía sau.
Ngày xưa, thấy quan
mà còn xớn xớn đến phía trước, thì coi chừng... ăn
đòn ! Còn bây giờ, tuy không đến nổi ăn đòn, cũng
bị bảo vệ, hoặc Security xô đẩy nạt nộ . Còn làm
khách ở nhà người ta, thì luôn luôn phải đi ngang hàng
với chủ nhà hoặc đi trước một bước, chớ không nên
đi thụt lùi ở phía sau để nhà chủ phải ngoái lại
để nói chuyện hoặc trông chừng xem... nó có " chôm "
món đồ nào bỏ túi không !?.
寧 添 一 斗 , 莫 添 一 口 。
Ninh thiêm nhất đấu, Mạc thiêm
nhất khẩu.
Nghĩa Câu :
Thà
là thêm một đấu ( một Táo : khoảng 20 lít ) , chớ không
chịu thêm một nhân khẩu.
Một táo
chỉ ăn vài ngày là hết, nhưng.... chắc ăn, bảo đãm
không có chuyện gì xảy ra !. Còn thêm một nhân khẩu, có
thể làm ra thật nhiều TÁO, nhưng cũng sẽ phát sinh thật nhiều
chuyện rắc rối chung quanh cái Nhân Khẩu nầy !
Câu nầy còn được nói
lại như sau :
寧 添 一 口 , 莫 爭 一斗 。
Ninh thiêm nhất khẩu, Mạc tranh nhất đấu.
Có nghĩa :
Thà là
thêm một miệng ăn ( để làm ra thêm thực phẩm nhiều hơn
), chớ đừng tranh giành chi có một táo.
Câu nói
có 2 mặt Phải, Trái, ai muốn dùng theo nghĩa nào thì cứ tự
do chọn lựa mà xài !
螳 螂 捕 蟬 , 豈 知 黃 雀 在 後 。
Đường lang bổ thiền, Khởi
tri hoàng tước tại hậu.
Chú
Thích :
Đường Lang : là con Bọ Trời,
Miền Nam gọi là Con Bù Cào Trời. Thiền : là con Ve Sầu. Hoàng Tước : là con Chim
se sẻ màu vàng.
Nghĩa Câu :
Con
bọ Ngựa muốn chụp con ve sầu để ăn thịt, nó đâu có
biết rằng phía sau lưng nó đang có con chim se sẻ cũng đang định
mổ nó để ăn.
Đây là một Ngụ
ngônThành ngữ Điển tích, theo tích sau đây :
Thời
Chiến Quốc, Vua nước Ngô muốn đánh nước Sở, các đại
thần đều đến can ngăn. Vua giận nói : " Ai còn phản đối
ta sẽ xử trảm !". Mọi người đều rất lo lắng. Có một
Thị Vệ, sáng sớm cứ giương ná ngắm nghía trên cây
trước cung vụa. Vua Ngô trông thấy bèn hỏi : " Nhà người
đang làm gì thế ? ". Thị Vệ thưa rằng : " Trên cây có
một con Ve sầu đang vừa ngâm vừa uống sương rất vui vẻ, nó
đâu có biết rằng có con Bọ Ngựa ở phía sau đang định
chụp nó để ăn thịt, và con Bọ ngưa kia cũng đâu có
biết rằng, phía sau nó lại có một con chim se sẻ màu vàng
cũng đang định mổ nó để ăn, và con chim se sẻ kia cũng
đâu có ngờ rằng, ở phía sau nó còn có hạ thần
đang giương ná ra để bắn nó đây ! Thưa Đại Vương,
các con vật kia chỉ thấy có cái lợi trước mắt mà không
biết đến cái hại đang rình rập ở sau lưng ! ". Ngô Vương
nghe xong chợt tỉnh ngộ, ta dốc toàn lực đánh nước Sở, nhỡ
có nước nào khác thừa cơ đánh úp ta thì sao ?!
Bèn thôi, không đánh Sở nữa.
Người
đời cũng thế, thường người ta chỉ thấy và hám cái
lợi trước mắt, mà quên khuấy đi cái hại nhiều khi rất
lớn, đang rình rập ở sau lưng mình !
不 求 金 玉 重 重 貴 , 但 願 兒 孫 個 個 賢 。
Bất cầu kim ngọc trọng
trọng quý, Đản nguyện nhi tôn cá cá hiền.
Chú Thích :
Trọng 重 : là Nặng. Chữ nầy còn được đọc là
Trùng : có nghĩa là Lặp lại. Vd : " Phước bất TRÙNG lai
" ( Phước không có đến 2 lần ). Trong câu dùng luôn 2 chữ
liên tiếp Trọng Trọng : là nặng nặng, có nghĩa là Nhiều
Nhiều.
Nghĩa Câu :
Không
cầu có được thật nhiều vàng ngọc quý báu. Chỉ mong
rằng ( đản nguyện ) con cháu đứa nào đứa nấy đều
hiền lành ngoan ngoản.
一 日 夫 妻 , 百 世 姻 緣 。
Nhất nhật phu thê, Bách thế nhân duyên.
百 世 修 來 同 船 渡 , 千 世 修 來 共 枕 眠
Bách thế tu lai đồng thuyền
độ, Thiên thế tu lai cộng chẩm miên.
Chú
Thích :
Thế : là Đời, Kiếp. Bách Thế
là Trăm đời, Trăm kiếp. Vạn Thế là Muôn đời. Khổng
Tử được xưng tụng là " Vạn Thế Sư Biểu " : là
Người Thầy tiêu biểu của Muôn đời.
Độ : có 3 chấm thủy, nên có nghĩa là : Đi ngang
qua Sông Hồ Ao Biển. Đồng Thuyền Độ : là Cùng đi chung
một thuyền.
Chẩm : là Cái Gối
để nằm. Cộng Chẩm Miên : là Cùng nằm chung Gối để
ngủ.
Nghĩa Câu :
Chỉ một ngày làm vợ chồng với nhau thôi, cũng là
do cái nhân duyên của cả trăm đời trước mới thành được.
Cùng
tu với nhau một trăm kiếp, mới có cái duyên được đi
chung thuyền với nhau. ( đồng hội đồng thuyền ). Cùng tu với nhau
một ngàn kiếp mới ngủ chung gối với nhau được !
Dù nói cách nào, cũng cho thấy là phải khó khăn
vất vả lắm mới thành vợ thành chồng với nhau được,
và quan hệ vợ chồng là cái gì đó thiêng liêng cao cả
lắm, được gởi gắm vào 2 chữ Nhân Duyên do nơi tiền định,
thiên định, chớ không phải sức người mà làm nên được.
Nên ta phải biết trân trọng tình nghĩa vợ chồng , không thể
động chút là ly thân, ly dị.... mà phải biết gắn bó nhau
để xây dựng hạnh phúc gia đình. Quan hệ vợ chồng là
một trong ba cái giềng mối của xã hội phong kiến ngày xưa :
Quân Thần, Phụ Tử, Phu Phụ. Nên không thể xem thường được,
cho dù trong xã hội ngày nay, đơn vị Gia Đình vẫn là nền
tảng chủ yếu của bất cứ xã hội hay quốc gia nào, mà
trong Gia Đình thì không thể vắng bóng cặp đôi nồng cốt
là Vợ Chồng cho được.
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
19
官 清 書 吏 瘦 , 神 靈 廟 祝 肥 。
Quan
thanh thư lại xú, Thần linh miếu chúc phì.
Chú Thích :
Thư Lại : là Người thư
ký của các quan ngày xưa.
Miếu Chúc : là Người giữ chùa, là Ông
Từ.
Nghĩa
Câu : Ông quan thanh liêm thì
người thư lại ốm ( Vì phải làm việc nhiều mà không
có tiền hối lộ ). Còn... Ông thần linh thiêng thì ông Từ
giữ chùa mập ( Vì có rất nhiều người đến cúng thần
và... ông Từ được hưởng hết ! ).
息 卻 雷 霆 之 怒 , 罷 卻 虎 狼 之 威
Tức khước lôi đình
chi nộ, Bãi khước hổ lang chi uy.
Chú Thích :
Tức : là Nghỉ ngơi, dập tắt, dẹp bỏ. Tức
Khước : là Dẹp đi.
Bãi : là Miễn, là Bỏ,
là Thôi. Bãi Khước : là Bỏ đi.
Nghĩa Câu : Hãy dẹp bỏ cái cơn giận lôi đình đi, và
hãy thôi đi cái uy vũ như cọp như sói kia đi.
Đừng có giận hờn nổi
cơn thịnh nộ như sấm như sét nữa ,và cũng đừng có
làm hùm làm hổ như sói như lang nữa ! Hãy bình tỉnh
lại để giải quyết tình huống trước mắt cho hợp tình
hợp lý !
饒 人 算 人 之 本 , 輸 人 算 人 之 機。
Nhiêu nhân toán
nhân chi bổn, Thâu nhân toán nhân chi cơ.
Chú Thích :
Nhiêu : là Nhiêu
dung, Tha thứ.
Toán : là Tính toán, là Kể như.
Thâu : là
Chuên chở ( có bộ Xa 1 bên ). Ở đây nghĩa là : Thua.
Cơ : là
Cái Máy như Thiên Cơ là Máy trời. Cơ Khí là Máy
móc. Ở đây có nghĩa là Cơ trí, cơ biến.
Nghĩa Câu
: Tha thứ cho người ta là cái gốc
để ta hơn người, Chịu thua người khác là cái cơ trí
để thắng người về sau.
Tha thứ sẽ làm cho người ta
cảm kích, để dễ dàng chinh phục người ta hơn. Chịu thua người
khác trước mắt, để đối phương dễ ngươi mất cảnh
giác, là cái cơ trí để thắng người ta dễ dàng hơn
ở sau nầy.
筍 因 落 籜 方 成 竹,魚 爲 奔 波 始 化 龍.
Duẫn
nhân lạc thác phương thành trúc, Ngư vị bôn ba thỉ hóa
long.
Chú Thích :
Duẫn : là Măng tre.
Thác : là
Bẹ măng.
Bôn Ba : Vượt qua sóng.
Thỉ ( Thủy
) : là Mới ( có thể ).
Nghĩa Câu : Măng non phải rụng hết những bẹ măng mới thành cây tre được.
Còn Cá phải vượt qua sóng thì mới hóa thành rồng được.
Theo truyền thuyết,
cá Lý ngư vượt qua được 3 đợt sóng ở Long Môn
thì sẽ hóa thành con rồng. Cá hóa rồng, một sự trở
mình vượt bực, một sự thành công vượt trội hơn bình
thường mà cha mẹ nào cũng mong ước cho con cái mình được
như thế. Vì vậy, mà lại hình thành thêm một thành ngữ
" Vọng tử thành long " 望子成龍 ( Mong con hóa rồng
), có nghĩa : Mong cho con mình làm nên những thành tích vẻ vang,
thành công một cách rực rở, vượt trội khác thường
!
Ý Câu là : Muốn trưởng thành, muốn thành nhân, thành
công, phải có quá trình phấn đấu vật vả lắm mới
đạt được mục đích, chớ không phải " Vậy đó,
bỗng dưng mà họ lớn " được ! như Thi sĩ Huy Cận
đã diễn tả đâu !
好 言 難 得 , 惡 語 易 施 。
Hảo ngôn nan đắc, Ác ngữ dị thi.
Nghĩa
Câu : Lời nói tốt khó được,
Lời ác độc dễ thực hiện.
Những lời chúc tụng tốt
lành là chỉ chúc cho có, chúc theo thói quen, chúc theo tập quán...
chớ người được chúc chưa chắc đã tốt được
như những lời chúc. Còn những lời nguyền rủa ác độc,
xui xẻo... nhiều khi lại rất dễ xảy đến với đối tượng!
一 言 既 出 , 駟 馬 難 追 。
Nhất
ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy.
Chú Thích :
Ký : là
Đã. Ký Xuất : là Đã nói ra.
Tứ : Chữ
TỨ nầy gồm có Bộ MÃ 馬 và chữ TỨ 四, nên có
nghĩa là : Xe do 4 con ngựa kéo.
Nghĩa Câu : Một
lời đã nói ra, thì xe bốn ngựa ( xe có tốc độ cao lúc
xưa ) cũng khó mà đuổi theo ( để lấy lại lời nói đó
) cho được !
Tiếng Việt ta cũng có câu : " Bút sa là
gà chết " để chỉ hễ hạ bút ký rồi thì mọi
việc đều được quyết định, không còn hối được
nữa !. Lời đã nói ra rồi thì không sao lấy lại cho được,
nên trước khi nói phải rất thận trọng và phải rất cân
nhắc lời nói của mình trước khi cho nó ra khỏi miệng ! Ông
bà ta dạy : " Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói " là
vì thế !.
道 吾 好 者 是 吾 賊 , 道 吾 惡 者 是 吾 師.
Đạo ngô hảo giả thị ngô tặc, Đạo
ngô ác giả thị ngô sư.
Chú Thích : Ngô : là Tôi , là Ta, là
Tao.
Nghĩa Câu : Bảo ta tốt là
giặc của ta, Bảo ta ác là thầy của ta.
Ngưòi nào đó
luôn luôn khen ta hay, ta tốt ( để cho ta dễ ngươi, mất cảnh giác,
kiêu ngạo, tưởng rằng mình giỏi lắm, hay lắm! ). Người đó
chính là kẻ thù của ta đó !. Còn người nào luôn
luôn vạch ra cái khuyết điểm, cái xấu, cái dở của ta,
thì người đó chính là thầy của ta đó !. Vì có
thấy được những nhược điểm của mình ta mới biết
đường mà sửa sai, điều chỉnh lại cho hay cho đúng !
路 逢 險 處 須 當 避, 不 是 才 人 莫 獻 詩 。
Lộ phùng hiểm xứ
tu đương tị, Bất thị tài nhân mạc hiến thi.
Nghĩa Câu : Trên đường
đi mà gặp chỗ nguy hiểm thì nên tránh ra ( tìm hướng khác
mà đi ). Không phải là người tài hoa thì không hiến dâng
những bài thơ cho người đó.
Bất chấp dư luận, ai nói
gì thì nói, ta nên làm theo những gì mà ta thấy là hợp
lý. Bảo là mình nhác cũng được, chả lẽ thấy chỗ
nguy hiểm lại đút đầu vào ?. Bảo là xu nịnh người
giỏi cũng được, chả lẽ lại dâng thơ cho người dốt,
người không biết thưởng thức cái hay của thơ ?.
三 人 同 行 , 必 有 我 師 焉 ,
Tam nhân đồng hành, Tất hữu ngã sư yên,
擇 其 善 者 而 從 之 , 其 不 善 者 而 改 之 。
Trạch
kỳ thiện giả nhi tòng chi, Kỳ bất thiện giả nhi cải chi.
Chú Thích
:
Yên : Ở đây là Trợ Từ, có nghĩa là Đó,
Vậy.
Trạch : là Chọn, Lựa.
Thiện : là
Hiền, là Giỏi, là Tốt.
Đây là câu nói của
Đức Khổng Phu Tử, trong chương 7 Thuật Nhi của sách Luận Ngữ.
Nghĩa Câu
: Ba người cùng đi, thế nào
cũng có một người là thầy của ta đó. Chọn người
giỏi mà học theo, còn người không giỏi, không đúng, thì
ta sửa đổi lại.
少 壯 不 努 力 , 老 大 徒 悲 傷 。
Thiếu tráng bất nổ lực, Lão đại đồ
bi thương.
Chú Thích : Đồ
: Ở đây có nghĩa là Uổng phí, Vô Ích .
Nghĩa Câu
: Còn trẻ, còn khỏe mà không nổ
lực, không cố gắng, thì khi lớn, khi già có buồn rầu hối
tiếc cũng vô ích mà thôi.
人 有 善 願 , 天 必 佑 之 。
Nhân hữu thiện nguyện, Thiên tất hựu chi.
Chú Thích
: Hựu : là Phù hộ.
Nghĩa Câu
: Người mà có ý nguyện, mong
ước hiền lành, thì Trời thế nào cũng phù hộ họ.
TĂNG QUẢNG
HIỀN VĂN
18
酒 債 尋 常 行 處 有 , 人 生 七 十 古 來 稀 。
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu, Nhân sanh thất thập
cổ lai hi.
Nghĩa Câu :
Đây
là 2 câu thơ trích trong bài KHÚC GIANG 2. của Thi Thánh Đỗ
Phủ đời Đường, có xuất xứ như sau :
Khúc
Giang còn gọi là Khúc Giang Trì, nằm ở phía đông cầu
Chu Tước phía nam của thành Trường An, là khu danh thắng nổi
tiếng của thành Trường An đời Đường, được xây
dựng từ thời Hán Vũ Đế và được trùng tu lại vào
năm Khai nguyên của vua Đường Huyền Tông, Nước hồ trong vắt,
hoa cỏ uốn quanh, phía nam có Tử Vân Lâu, Phù Dung uyển, phía
tây có Hạnh Viên và Từ Ân Tự, là nơi du ngọan nổi
tiếng đương thời.Thắng cảnh Khúc giang cùng thạnh suy với
giang san nhà Đường. Bài thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ được
làm vào cuối xuân năm Càn Nguyên nguyên niên ( 758 ) . Ông đã
đem toàn bộ tâm tư của mình ký thác vào cảnh vật
nầy để viết lên những ưu tư về đổi thay của thời
cuộc.
Theo tài liệu thống kê, thì vào đời
Đường, tuổi thọ trung bình của con người ta lúc bấy giờ
chỉ vào khoảng 40- 45, cho nên Đỗ Phủ mới hạ câu " Nhân
sanh thất thập cổ lai hy " bất hủ, để đời cho đến hiện
nay, hễ nhắc đến tuổi " Cổ lai hy ", " Cổ lai ", hay " Cổ
hy " là người ta biết ngay là thọ được 70 tuổi rồi !
Nguyên
tác bài thơ như sau :
朝回日日典春衣 Triều hồi nhật nhật điển xuân
y,
每日江頭盡醉歸 Mỗi nhật giang đầu
tận túy quy.
酒債尋常行處有,Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
人生七十古來稀 NHÂN SANH THẤT THẬP
CỔ LAI HY.
穿花蛺蝶深深見 Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến,
點水蜻蜓款款飛 Điểm thủy thanh đình
khoản khoản phi.
傳語風光共流轉 Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
暫時相賞莫相違 Tạm thời tương thưởng
mạc tương vi.
杜甫
Đỗ Phủ.
Tạm diễn nôm.
Tan
chầu cầm quách áo xuân hồng,
Say khướt trở
về với bến sông.
Nợ rượu khắp nơi đều
có được,
Người đời bảy chục hiếm
xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,
Nọ
lũ chuồn chuồn bởn nước trong.
Cảnh đẹp
khuyên ai cùng tận hưởng,
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài
công !
養 兒 待 老 , 積 谷 防 飢 。
Dưỡng nhi đãi lão, Tích
cốc phòng cơ.
Nghĩa Câu :
Nuôi
con đợi già ( để nhờ cậy ). Vựa lúa để phòng
khi đói.
雞 豚 狗 彘 之 畜 , 無 失 其 時 。
Kê
đồn cẩu trệ chi súc, Vô thất kỳ thời.
數 口 之 家 , 可 以 無 饑 矣 。
Sổ khẩu chi gia, khả dĩ vô
cơ hỉ !.
Ý Nghĩa :
Đây
là câu Mạnh Tử nói với Lương Huệ Vương được
viết cô đọng lại. nguyên văn như sau :
五畝之宅,樹之以桑,五十者可以衣帛矣;雞豚狗彘之畜,無失其時,七十者可以食肉矣;百畝之田,勿奪其時,數口之家可以無饑矣.
Ngũ mẫu chi trạch, thọ chi dĩ tang, ngũ
thập giả khả dĩ y bạch hỉ, Kê đồn cẩu trệ chi xúc,
vô thất kỳ thời, thất thập giả khả dĩ thực nhục hỉ,
bách mẫu chi điền, vật đoạt kỳ thời, sổ khẩu chi gia khả
dĩ vô cơ hỉ !.
Nhà có đất trước sau 5 mẫu, trồng dâu tằm ăn,
thì người già 50 tuổi có thể mặc áo vải. Gà heo chó
lợn, nuôi cho đúng lứa để chúng sinh sản, thì người
già 70 có thịt mà ăn. Ruộng được trăm mẫu, không bị
chiếm đoạt lúc thời vụ, thì mấy miệng ăn ở nhà sẽ
không bị đói !.
Đây là lời của Mạnh
Tử giải thích cho Lương Huệ Vương biết là phải làm
thế nào cho dân chúng được sống an cư lạc nghiệp, để
dân kéo về sống ở nước mình. Còn ý trong Tăng Quảng
Hiền Văn là muốn khuyên ta sống cho có kế hoạch, biết tính
toán thì sẽ không bị đói rách lang thang.
常 將 有 日 思 無 日 , 莫 把 無 時 當 有 時 。
Thường tương hữu nhật tư vô nhật, Mạc bả vô thời
đương hữu thời.
Nghĩa Câu :
Những
ngày giầu có nên thường nghĩ đến những ngày không
có ( nghèo khổ ). Chớ đừng nên sống những ngày nghèo
khổ như những ngày giàu có.
Khi giàu
có nên luôn nghĩ đến những lúc nghèo khổ, để đừng
sống xa hoa, tiêu xài lãng phí quá độ. Còn những lúc
nghèo khó thì đừng tiêu xài quá độ quen thói giàu
có ngày trước mà mang nợ đầy đầu. Rất nhiều người
" quen ăn không quen nhịn " ! phải nhớ câu nầy.
時 來
風 送 騰 王 閣 , 運 去 雷 轟 薦 福 碑 。
Thời lai phong tống Đằng Vương Các, Vận khứ lôi
oanh Tấn Phúc bi.
Nghĩa Câu :
Thời
đến thì gió đưa đến gác Đằng Vương. Vận hết
rồi thì sấm sét đánh bể bia Tấn Phúc.
1. Vế
đầu với tích Vương Bột và Đằng Vương Các như
sau :
Đường Thái Tôn Lý Thế Dân phong cho em mình
là Đằng Vương Lý Nguyên Anh trấn nhậm đất Hồng Châu.
Đằng Vương cho xây một ngôi lầu thật đẹp bên dòng
sông Cán ( thuộc tỉnh Giang Tây ngày nay ) gọi là Đằng Vương
Các. Hôm khánh thành, Đằng Vương cho thiết tiệc lớn, mời
hết Quan viên và Văn nhân Thi sĩ trong miền đến dự, đồng
thời đánh tiếng mời mọi người cùng làm bài Tự cho
Đằng Vương Các để ghi lại sự kiện trọng đại này.
Con trai của Huyện lệnh Huyện Nam Xương là Vương Bột, vừa đến
thăm cha, có ý muốn đến dự tiệc ở gác Đằng Vương,
mặc dù Nam Xương cũng thuộc đất Hồng Châu, nhưng cách
xa đến khoảng 800 dặm, mà thời gian chỉ còn có một ngày,
không cách chi đến kịp. Lúc bấy giờ, có một ông lão
chuyên đưa đò lại biết xem thiên tượng, bảo Bột cứ
chuẩn bị đồ đạc rồi lên thuyền để ông ta đưa
đi. Thời may đêm ấy trời nổi cơn gió to, thuyền lướt
như tên trên sóng gió, Khi trời vừa rựng sáng thì thuyền
cũng vừa kịp cặp bến Đằng Vương.
Đằng
Vương vốn xem trọng và có yêu cầu rất cao về văn học.
Trước đó đã cho chàng rễ soạn sẵn một bài tự
rất hay rồi, định hôm nay công bố để khoe tài của chàng
rễ, nên đã chuẩn bị đầy đủ giấy mực để phát
cho văn nhân đến dự. Khi thấy Bột chỉ là một cậu bé
16 tuổi, Đằng Vương có ý xem thường, nhưng vì phép
lịch sự, nên cũng miễn cưởng phát giấy mực, nhưng lại
cắt người đứng bên theo dõi, xem thằng nhỏ nầy viết như
thế nào. Hễ Bột viết được câu nào thì phải chép
ngay lại trình cho ông ta.
Nhưng... lại nhưng, càng đọc
các câu về sau lại càng hay hơn các câu trước đó,
kịp đến lúc đọc được 2 câu :
Lạc
hà dữ cô vụ tề phi,
落霞與孤鶩齊飛,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
! 秋水共長天一色.
.... thì ông ta đành phải
vổ đùi đánh đét một cái và khen là tuyệt bút,
tuyệt diệu ! và....dấu nhẹm luôn bài của chàng rễ đã
làm sẵn, không dám đem ra , vì ông ta biết rằng không sao hay
hơn được bài Tự của Vương Bột.
Bài
TỰ Đằng Vương Các của Vương Bột được truyền
tụng khắp nơi ngay sau buổi tiệc, và tiếng tăm của Bột nổi
như cồn từ đó. Thành tựu văn thơ của Bột được
xếp hàng đầu trong Sơ Đường Tứ Kiệt. Chỉ nhờ có
một trận gió mà làm nên tên tuổi vang dội của Vương
Bột, nên người đời sau mới nói là :
Thời lai phong tống Đằng Vương Các !.
Bài
Đằng Vương Các Tự có ảnh hưởng rất lớn tới văn
học Hoa Việt, rất nhiều câu đã trở thành Thành Ngữ như
: Quan sơn nan việt 關山難越 ( Núi non cách trở ), Bình
Thủy tương phùng 萍水相逢 ( Bèo nước gặp nhau ), Lão
đương ích tráng 老當益壯 ( già
mà còn khỏe mạnh )..... cả 2 câu đối để dán trước
bàn thờ Thổ Địa Thần Tài trong nhà cũng phát xuất từ
bài Tự nầy :
Vật hoa thiên bảo nhật,
物華天寶日
Nhân kiệt
địa linh thời. 人傑地靈時.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã
mượn ý của câu nầy để tả tình duyên của Hoan Thư
như sau :
Duyên Đằng thuận nẽo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.
2. Vế
thứ 2 theo tích sau đây :
Đại văn Hào đời
Tống Phạm Trọng Yêm khi làm Quận Thú ở Quận Bá Dương.
Một hôm có một thư sinh lạc phách giang hồ đến xin giúp
đỡ. Phạm thương vì người tài hoa mà chửa gặp thời,
định giúp đỡ, nhưng Phạm là một ông quan thanh liêm, không
lấy đâu ra tiền để giúp. Cuối cùng ông bèn đến
nhờ trụ trì chùa Tấn Phúc, xin cho thư sinh kia được in một
số bản văn ở thạch bia phía sau chùa để bán mà độ
nhật về quê. Đây là bản văn khắc trên đá với
bút pháp của Thư Thánh ( ông Thánh về thư pháp ) Vương
Hy Chi rất được mọi người ưa chuộng.
Nhà sư Trụ trì vì nể mặt Phạm Trong Yêm mà chấp thuận,
còn hướng dẫn cho cách để in ấn. Phạm lại phải giúp
thư sinh mua sắm giấy mực, bàn chải... định sáng ngày sẽ
khởi công. Nào ngờ đêm hôm đó trời mưa to gió lớn,
sấm sét đánh bể tan bia đá kia luôn. Thế là khỏi in ấn
gì hết cả !
Số của chàng thư sinh nầy
đã xui rồi, lại càng thúi củ hủ hơn nữa, cho nên mới
nói là :
" Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc bi "
là thế !
入 門 休 問 榮 枯 事 , 觀 看 容 顏 便 得 知 。
Nhập môn hưu vấn vinh khô sự, Quan khán dung nhan tiện đắc
tri.
Chú Thích :
Hưu
Vấn : là Đừng hỏi, chớ hỏi, khỏi cần phải hỏi.
Vinh
Khô : Vinh là Tươi, Khô là héo. Vinh là tươi sáng, rực
rỡ. Khô là Héo úa, tàn tạ. Vinh là Vinh hoa phú quý, Khô
là Khô héo úa tàn nghèo nàn.
Nghĩa Câu :
Bước vào cửa không cần phải hỏi tốt xấu giàu nghèo
gì cả, chỉ cần quan sát xem xét nét mặt của nhà chủ
là sẽ biết ngay.
Không cần phải là thầy
bói, nhìn nét mặt của nhà chủ xanh xao vàng vọt thiếu ăn,
thì biết ngay là nhà nghèo, còn nếu mặt mày tươi rói,
vui cười hỉ hả, thì dù không giàu cũng thuộc hạng khá
giả, dễ thở, chớ không đến nỗi nào.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
17
送 君 千 里 , 終 須 一 別 。
Tống quân thiên lý, Chung tu nhất biệt.
Nghĩa Câu :
Dầu có đưa
tiễn nhau đến một ngàn dặm, rốt cuộc rồi cũng phải chia tay
nhau mà thôi !
Biết thế, nhưng mỗi lần đưa tiễn, người
ta đều luôn luôn bịn rịn không nở rời nhau, nhất là các
bà các cô ( xin lỗi ! ), cứ " Mặt trông tay chẳng nở rời
" nói hoài nói mãi, không chia tay nhau được !
但 將 冷 眼 看 螃 蟹 , 看 你 橫 行 到 幾 時 。
Đản tương lãnh nhãn
khán bàng giải , Khán nhĩ hoành hành đáo kỷ thời ?.
Chú
Thích :
Lãnh nhãn : Con mắt lạnh, có nghĩa : Lặng lẽ nhìn.
Bàng Giải : là Con Cua.
Hoành Hành : là Đi ngang, nghĩa rộng
là Làm Ngang.
Nghĩa Câu :
Hãy cứ lặng lẽ mà nhìn
con cua kìa, xem xem nhà ngươi đi ngang đến bao giờ mới thôi !?
Đây là câu nói lẫy, có thể áp dụng cho bất cứ
trường hợp lớn nhỏ nào, như những người ỷ quyền ỷ
thế làm ngang, như chính quyền của những nhà độc tài,
như chính quyền ngoan cố của Bắc Triều Tiên ... Ta hãy thử lặng
lẽ mà nhìn xem họ " hoành hành " đến khi nào đây
?!.
見 事 莫 說 , 問 事 不 知 。
Kiến sự mạc thuyết, Vấn sự bất tri.
閑 事 休 管 , 無 事 早 歸 。
Nhàn sự hưu quản, Vô sự tảo qui !
Nghĩa Câu :
Thấy việc
gì đó : Đừng nói. Hỏi đến việc gì đó : Không
biết ! Chuyện không liên quan đến mình : Không nhún tay vào.
Không có việc gì để làm : Về nhà nghỉ cho sớm đi
!
Để tránh việc rắc rối cho bản thân mình, trong giao tế,
trong việc làm, trong quan hệ đồng nghiệp... thì... Không Nói : Không
nhiều chuyện ! Không Nghe, Không Hỏi : Khỏi phiền lòng ! không can
thiệp vào những chuyện của người khác : Không đa sự ! Cho
yên thân !
4 câu trên đây làm ta nhớ đến 3 cái hình
con khỉ thường thấy trong các cơ quan Mỹ : Một con bịt mắt : Không
thấy. Một con bịt tai : Không nghe. Một con bịt miệng : Không nói !
假 饒 染 就 真 紅 色 , 也 被 旁 人 說 是 非 。
Giả nhiêu nhiễm tựu chơn hồng sắc, Dã bị bàng
nhân thuyết thị phi.
Chú Thích :
Giả Nhiêu : là Cho Dù, là Nếu
Như.
Nhiễm : là Nhuộm. Nhiễm Tựu : là Nhuộm phải.
Bàng
: là Bên cạnh. Bàng Nhân : là Người Chung Quanh ta.
Nghĩa Câu
:
Cho dù có nhuốm được cái màu đỏ thật sự, thì
cũng bị những người chung quanh nói nầy nói nọ.
Dù cho bạn
có giỏi thật sự, có thành đạt thật sự, chớ không
phải nhờ vào quan hệ, hay dựa vào thế lực nào đó để
thành công, bạn vẫn bị người đời dèm xiểm, nói nầy
nói nọ, nói tốt nói xấu đủ điều !. Cho nên...
Hãy
giữ lấy cái " chơn hồng sắc " của bạn, mặc cho ai đó
nhiều chuyện nhiều lời.....!!!.
善 事 可 作 , 惡 事 莫 為 。
Thiện sự khả tác, Ác
sự mạc vi.
Nghĩa Câu :
Việc
thiện thì có thể làm, Việc ác thì không nên làm.
Đây là việc đương nhiên, nhưng vẫn phải nhắc
nhở, con người ta hay quên làm việc thiện lắm !
許 人 一 物 , 千 金 不 移 。
Hứa nhân nhất vật, Thiên
kim bất di.
Nghĩa Câu :
Hứa
với người ta một vật gì, thì dù ngàn vàng vẫn không
thay đổi.
龍 生 龍 子 , 虎 生 豹 兒 。
Long sanh long tử, Hổ sanh báo nhi.
Nghĩa
Câu :
Rồng sanh ra rồng con, còn Cọp thì sanh
ra beo con.( Cọp Beo cũng dữ dằn như nhau, đây chỉ là cách nói
mà thôi ! ).
Dòng nào thì sanh ra giống nấy
!
Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh còn có câu :
Ngọn rau nào thì con sâu nấy !
龍 游 淺 水 遭 蝦 戲 , 虎 落 平 陽 被 犬 欺 。
Long du thiển thủy tao hà hí, Hổ lạc bình dương
bị khuyển khi.
Chú Thích :
Du
游 : Có 3 chấm thủy bên trái : nghĩa là LỘI, BƠI.
遊 : Có bộ
Xước bên trái : nghĩa là Đi Dạo, Đi Chơi.
Tao
: là Gặp Gỡ, Gặp Phải, là Bị.
Hà :
có bộ Trùng bên trái : là con Tôm, con Tép.
Bình
Dương : là Đất bằng, là Đồng bằng.
Nghĩa
Câu :
Con rồng ( thân xác to lớn ) bơi ở
chỗ nước cạn ( khó xoay sở ), nên bị tôm tép giởn mặt.
Con cọp đi lạc xuống đồng bằng ( không còn cái thế hiểm
trở của núi rừng ) nên bị bầy chó khinh khi.
Anh
hùng cũng phải có cái thế của anh hùng, khi thất cơ lỡ
vận, thì anh hùng vẫn bị kẻ tiểu nhân giởn mặt và khi
dễ như thường ! Như Nguyễn Du đã tả Từ Hải lúc bị
Hồ Tôn Hiến phục kích là : " Hùm Thiêng khi đã sa cơ
cũng hèn " mà !
Hai vế nói trên còn hình
thành được 2 câu thành ngữ :
Long Du Thiển
Thủy,
và Hổ Lạc Bình Dương.
cũng có cùng một nghĩa như trên.
一 舉 首 登 龍 虎 榜 , 十 年 身 到 鳳 凰 池 。
Nhất cử thủ đăng long
hổ bảng, Thập niên thân đáo phụng hoàng trì.
十 年 窗 下 無 人 問 , 一 舉 成 名 天 下 知 。
Thập niên song hạ vô nhân
vấn, Nhất cử thành danh thiên hạ tri.
Chú
Thích :
Long Hổ Bảng : là Bảng có vẽ hình
Rồng và Cọp 2 bên, để dán danh sách những người thi đậu
Tiến Sĩ ngày xưa. Người đậu đầu là Trạng Nguyên,
người đậu nhì là Bảng Nhãn, và người đậu hạng
ba là Thám Hoa.
Phụng Hoàng Trì : là Ao
Phụng Hoàng.
Đời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều,
chức Trung Thư Tỉnh được ở trong cấm cung Ngự Uyển, gần gũi
Hoàng Đế, chưởng quản những điều cơ mật, nên chức
Trung Thư Tỉnh được gọi là " Phụng Hoàng Trì ".
Nghĩa Câu :
Hễ thi đậu một cái
là tên được đăng trên Bảng Long Hổ, và làm quan mười
năm ( cho tốt ) thì mới được vào làm việc trong Ao Phượng
Hoàng.
Mười năm đèn sách dưới song
cửa sổ không ai thèm hỏi tới, nhưng hễ thi đậu một cái
thì nổi tiếng đến cả thiên hạ đều biết đến.
NHẤT CỬ THÀNH DANH cũng là một thành ngữ thông dụng
! Trong tiếng Việt ta thì có câu : " Mười Năm Đèn Sách
" để chỉ công phu khó nhọc của kẻ sĩ ngày xưa.
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
16.
.
父 母 恩 深 終 有 別 , 夫 妻 義 重 也 分 離 。
Phụ mẫu ân thâm chung hữu
biệt, Phu thê nghĩa trọng dã phân ly.
人 生 似 鳥 同 林 宿 , 大 限 來 時 各 自 飛 。
Nhân sanh tự điểu đồng lâm
túc, Đại hạn thời lai các tự phi.
Nghĩa của 4 câu thơ trên :
Cha mẹ ơn sâu, nhưng cuối cùng
cũng có lúc phải cách biệt. Vợ chồng nghĩa nặng, nhưng có
lúc cũng phải phân ly. Người đời giống như là bầy chim
ở chung trong một cánh rừng, khi đại hạn tới ( cháy rừng chẳng
hạn ) thì mỗi con tự tìm đường mà bay lấy ( để sinh
tồn ! ).
Bốn
câu trên kết hợp ý nghĩa lại như một bài thơ nói về
sự hợp tan tan hợp của người đời, như triết lý sinh ly tử
biệt của Phật Giáo mà không mấy ai có thể tránh khỏi,
kể cả những người thân yêu nhất trong đời ta là Cha Mẹ
Vợ Chồng !
人 善 被 人 欺 , 馬 善 被 人 騎 。
Nhân
thiện bị nhân khi, Mã thiện bị nhân kỵ.
Nghĩa Câu :
Người lương thiện
thì dễ bị người khác khi dễ, ăn hiếp. Còn Ngựa mà
hiền quá thì dễ bị người ta cưởi. Đúng thế thôi
! Ma bắt cũng coi mặt người ta. Người nào dữ dằn quá "
Ma " cũng phải sợ mà không dám đụng tới ! Cũng như những
con ngựa dữ, ngựa chứng thì khó bị người ta cưởi hơn.
人 無 橫 財 不 富 , 馬 無 夜 草 不 肥 。
Nhân vô hoành tài bất phú, Mã vô dạ
thảo bất phì.
Nghĩa Câu :
Người không có của hoạnh tài thì không giàu.
Ngựa không có cỏ để ăn đêm thì không mập.
Đúng vậy ! Không
có của hoạnh tài làm sao giàu được?. Nhất là ở
VN, hay ở Mỹ cũng vậy, lương ba cọc ba đồng, sống qua ngày
thì được, muốn làm giàu thì khó lắm thay, trừ phi trúng
số hoặc trúng " mánh " ! Cũng như ngựa ở trong tàu, không
có cỏ để " nhâm nhi " thêm ban đêm thì sẽ không
bao giờ mập lên được !
人 惡 人 怕 天 不 怕 , 人 善 人 欺 天 不 欺 ?
Nhân ác nhân phạ thiên bất
phạ, Nhân thiện nhân khi thiên bất khi? 善 惡 到 頭 終 有 報 , 只 爭 來 早 與 來 遲 。
Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo, Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì .
Chú Thích :
Đáo Đầu : là Rốt cuộc.
Chỉ Tranh : ở đây có nghĩa là
Chỉ Có Điều...
Nghĩa Câu :
Người ác, người có sợ trời hay không sợ ? Người
thiện, người có khi trời hay không khi ? ( Ý muốn nói là Ỷ
vào cái thiện của mình mà xem Trời không ra gì ! " Tôi
ăn hiền ở lành mà, Trời làm gì được tôi !? "
Thế là "Không Thiện " rồi đấy nhé ! ). Thiện hay ác,
rốt cuộc rồi cũng có báo ứng hẵn hoi, chỉ có điều
là đến sớm ( lai tảo ) hoặc đến muộn ( lai trì ) mà thôi
!
黃 河 尚 有 澄 清 日 , 豈 可 人 無 得 運 時 ?
Hoàng Hà thượng hữu trừng thanh nhật, Khởi khả
nhân vô đắc vận thì ?.
Chú Thích :
Hoàng Hà : Tên con sông dài và
lớn nhất ở Trung Quốc. Nước chảy xiết và cuốn theo nhiều
phù sa màu vàng , nên mới có tên là Hoàng Hà.
Trừng Thanh : là Lắng
trong.
Khởi Khả : là
Làm sao có thể. Ở đây có nghĩa là : Làm Sao Khỏi ?...
Há chẳng ?...
Nghĩa
Câu :
Nước
sông Hoàng Hà còn có lúc lắng trong, con người há chẳng
có lúc được thời hay sao ?. Chẳng lẻ suốt đời xui xẻo
mãi !
得 寵 思 辱 , 安 居 慮 危 。
Đắc sủng tư nhục, An cư lự nguy.
Chú Thích :
Sủng : là Sủng Ái,
là Cưng chìu.
Lự : là Suy tư, lo lắng.
Nghĩa Câu :
Được sủng ái cưng chìu phải nhớ
đến lúc bị ruồng rẫy nhục nhã. Khi sống bình an yên ổn
phải suy tư lo lắng đến lúc gặp nguy nàn.
4 chữ " An Cư Lự Nguy " nghĩa cũng
giống như là " Cư An Tư Nguy ", khi ở yên, phải nhớ đến
nguy hiễm đang rình rập, để cảnh giác khi hành quân của
trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ngày xưa.
念 念 有 如 臨 敵 日 , 心 心 常 似 過 橋 時 。
Niệm niệm hữu như lâm địch
nhật, Tâm Tâm thường tự quá kiều thời.
Chú Thích :
Niệm : là Đọc, như
Niệm kinh, Niệm Phật.
là Nhớ, là Nhắc nhở. như Hoài Niệm, Kỷ Niệm.
là Nhủ, là Nhắn
nhủ. như Tâm niệm là Nhủ Lòng.
Niệm Niệm : là để ý từng chút
một.
Tâm
: là Tim, là Lòng. Tâm can là Tim Gan, là Lòng dạ.
Tâm Tâm : là Lòng
Nhủ Lòng. là Để ý.
Nghĩa Câu :
Luôn luôn phải cảnh giác từng chút một như
đang đối diện với kẻ địch. Lòng luôn nhủ lòng phải
cẩn thận như lúc nào cũng đang đi qua cầu ( Cầu ngày xưa
lắt lẻo lắm, đi không khéo sẽ té ùm xuống sông ).
Bình thường thì
2 câu trên có vẻ cẩn trọng quá đáng, nhưng khi hữu sự
thì đây lại là những cảnh giác thật an toàn !.
英 雄 行 險 道 , 富 貴 似 花 枝 。
Anh Hùng hành hiểm đạo,
Phú quý tự hoa chi.
Nghĩa Câu :
Anh hùng luôn vấn thân vào con đường nguy hiểm,(
Vì thích can thiệp vào những chuyện hiểm nguy, nên mới được
tiếng là anh hùng ). Sự Phú quý giống như là cành hoa, đẹp
rực rỡ đó, nhưng cũng chóng tàn lắm !
Đọc vế đầu, khiến ta nhớ
tới lời của Từ Hải nói với cô Kiều :
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường
dẫu thấy bất bằng mà tha !?.
人 情 莫 道 春 光 好 , 只 怕 秋 來 有 冷 時 。
Nhân tình mạc đạo xuân quang hảo,
Chỉ phạ thu lai hữu lãnh thời.
Nghĩa Câu :
Tình người đừng tưởng là
luôn luôn đẹp đẻ như quang cảnh của mùa xuân, chỉ sợ
e đôi khi nó sẽ lạnh lẽo và hiu hắt như gió mùa thu vậy.
Nhân tình ấm
lạnh thất thường, đừng thấy đối phương vui vẻ mà
có những hành động lạc quan quá trớn, coi chừng sẽ bị
trơ trẻn và ngỡ ngàng khi đối phương trở cờ lạnh nhạt
!
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
15
惜 花 須 檢 點
, 愛 月
不 梳 頭
。
Tích hoa tu kiểm điểm, Ái
nguyệt bất sơ đầu.
Chú Thích :
Kiểm Điểm : là Xem xét lại.
Sơ : có bộ Mộc bên trái là
Cái Lược để chải đầu làm bằng cây ngày xưa,
nên SƠ ( động từ ) có nghĩa là Chảy.
Sơ Đầu : là Chải Đầu.
Nghĩa Câu :
Thương xót hoa thì
nên xem xét lại cách trồng và chăm sóc cho hoa. Cũng như yêu
trăng thì ( tắm xong ) chưa kịp chải đầu đã vội vả lên
lầu để ngắm trăng mọc rồi !
Thích thứ nào thì phải chăm chút vào
thứ đó !
大 抵 選
他 肌 骨
好 , 不
敷 紅 粉
也 風 流
。
Đại để tuyển tha cơ cốt
hảo, Bất phô hồng phấn dã phong lưu.
Chú Thích :
Đại Để : là Đại Khái,
là Nói chung.
Cơ Cốt
: Cơ là Bắp thịt, Cốt là Xương cốt. Cơ Cốt :chỉ
Hình hài Dáng dẻ
bên ngoài.
Phô
: là Bôi, Trét, Thoa.
Nghĩa Câu :
Nói chung là chọn những người có hình hài cốt
cách đẹp là được, vì những người này không cần
đánh phấn trang điểm vẫn thấy đựợc cái dáng dẻ
phong lưu.
Câu
nầy giống như câu " Xem mặt mà bắt hình dong " của ta vậy
! Hễ bề ngoài đẹp là được rồi !
受 恩
深 處 宜
先 退 ,
得 意 濃
時 便 可
休 。
Thọ ân thâm xứ nghi tiên thoái, Đắc ý nồng
thời tiện khả hưu.
Chú
Thích :
Thọ
受 : Chữ nầy còn được đọc làTHỤ,có
nghĩa là Nhận.
授 : Chữ nầy đọc như
chữ trên : THỌ, THỤ. có bộ Thủ là Tay, nên có nghĩa
là Đưa Cho. Đạo Nho có câu :
" Nam nữ thọ thọ bất thân " là : "
Trai gái cho và nhận không được chạm tay nhau một cách
thân thiết ".
Thâm
là Sâu. Nồng là Đậm. Hưu là Nghỉ, là Thôi.
Nghĩa Câu :
Chỗ nào mà ta đã
nhận ơn sâu nơi đó rồi , thì nên lui bước.( Đừng
vác mặt tới đó thường xuyên, làm người ta hiểu lầm
là đồ mặt dầy, muốn đến để nhờ cậy nữa ! ). Khi
nào mà ta cảm thấy mình đắc ý lắm rồi, thì nên
thôi. ( cứ thừa thắng xông lên mãi, người ta sẽ nói là
mình làm phách, không biết điều, không khiêm tốn ! ).
莫 待 是 非 來
入 耳 ,
從 前 恩
愛 反 為
仇 。
Mạc đãi thị phi lai nhập nhĩ, Tòng tiền ân
ái phản vi cừu.
Nghĩa Câu :
Đừng có để cho chuyện thị phi lọt vào tai, làm cho
người ân ái yêu thương trước đây lại trở nên
thù địch.
Đây
là cái mấu chốt mà các nhà Đạo Diễn phim xã hội
khai thác tối đa, để làm cho truyện phim hấp dẫn và gây
cấn hơn lên.
留 得 五
湖 明 月
在 , 不
愁 無 處
下 金 鉤
。
Lưu đắc ngũ hồ minh nguyệt tại,
Bất sầu vô xứ hạ kim câu.
Nghĩa
Câu :
Nếu
còn chừa lại được vầng trăng sáng của Ngũ Hồ, thì
không lo là không có nơi để buông lưỡi câu vàng.
Đây là câu cách
ngôn xưa của Trung Hoa, thường dùng để khuyên những người
làm ăn thất bại, thi rớt, thất tình....Chỉ cần giữ được
sức khỏe tốt, tinh thần minh mẫn, vững vàng ( Lưu đắc Ngũ
Hồ minh nguyệt tại ),thì không lo là ta không " bày lại keo
khác " được !. Ta lại có câu " Nát giỏ còn bờ
tre ", chỉ cần còn được bờ tre, thì lo gì mà không
có giỏ mới !( Bất sầu vô xứ hạ kim câu ).
休 別
有 魚 處
, 莫 戀
淺 灘 頭
。
Hưu biệt hữu ngư xứ, Mạc
luyến thiển than đầu.
Chú Thích :
Hưu : là Nghỉ, ở đây là Phó từ, có
nghĩa là Đừng.
Hưu Biệt : là Đừng rời.
Mạc : là Đừng. Mạc Luyến : Đừng Mê
luyến.
Thiển
: là Cạn. Vd : Thiển Cận : là Nông cạn.
Than Đầu : là Bến nước.
Nghĩa Câu :
Đừng nên rời nơi
có cá, chớ lưu luyến chỗ bến nước cạn.
Đây là lời khuyên các ngư
phủ : Chỗ nào có cá thì dù thế nào cũng phãi rán
ở lại để bắt, còn ở những nơi bến nước cạn không
có cá, thì chớ nên lưu luyến làm chi cho mất thời gian. Các
phương diện khác cũng vậy, nơi nào có lợi lộc thì
nên ở lại, còn nơi nào vô tích sự thì ở lại làm
gì cho mất công!
去
時 終 須
去 , 再
三 留 不
住 。
Khứ thời chung tu khứ, Tái tam lưu bất trú.
Nghĩa Câu :
Khi đi thì cuối cùng
cũng phải đi, nên dù có ai đó cầm cọng hai ba lần vẫn
không ở lại.
Đây
là tình huống rất thường gặp trong xã giao hằng ngày, khi ta
đã từ biệt ai đó để đi, thì dù cầm cọng như
thế nào cũng không nên ở lại. Nếu ta yếu lòng ở lại
không đi nữa, thì cái thời gian ở lại đó sẽ rất lỏn
chỏn, ngỡ ngàng, vô duyên và... hết vui luôn ! Đừng tưởng
bở... ở lại là thất sách đó !
忍 一
句 , 息
一 怒 ,
饒 一 著
, 退 一
步 。
Nhẫn nhất cú, Tức nhất nộ, Nhiêu nhất chước,
thoái nhất bộ.
Nghĩa Câu :
Nhịn được một câu, thì dằn được một
cơn giận, Xí xóa được một lần, thì lùi được
một bước để yên thân.
Đọc câu nầy làm ta nhớ đến câu
:
忍 一 時 風 平 浪 靜,
Nhẫn nhất thời phong bình lãng tịnh,
退 一 步 海 闊 天 空 。
Thoái nhất bộ hải
khoát thiên không.
Có Nghĩa :
Nhịn một lúc cho gió yên sóng lặng,
Lùi một bước cho biển rộng
trời cao.
Nói
chung là đều khuyên ta nên biết " Nhẫn Nhịn " để hòa
giải tranh chấp thành nhún nhường, hận thù thành thương
yêu và chiến tranh thành...Hòa Bình ! Cho thù thành bạn, cho ghét
thành thương và cho hận hóa ...Yêu !
三十不豪,四十不富,五十將來尋死路。
Tam thập bất hào, Tứ thập bất
phú, Ngũ thập tương lai tầm tử lộ.
Nghĩa Câu :
Tam thập bất hào, ba mươi tuổi mà không có
được cái " hào tình tráng chí " nào, nghĩa là
: Học hành không đậu đạt, làm ăn chưa có cơ sở,
vợ chưa cưới... Tam thập nhi lập " mà chưa có gì cả
! thì...
Tứ
thập bất phú, bốn mươi tuổi sẽ không giàu sang phú quý.
Bốn mươi mà còn chưa " phất " lên được, thì...
Ngũ thập tương
lai tầm tử lộ, Năm mươi tuổi sắp đến và trở về
sau, chỉ còn có một con đường chết mà thôi ! Già rồi,
còn làm ăn gì được nữa, không chờ chết mới lạ
!
Đây là nói
theo thời xưa, thời tuổi thọ con người còn ở tuổi " Sáu
mươi năm cuộc đời " kìa, chớ bây giờ, 50 là tuỗi
đang sung sức và đang lên về mọi mặt : Kiến thức ổn định,
kinh nghiệm có thừa, tiền tài rung rỉnh, tín dụng đầy mình...
rất dễ phát triển làm ăn và phất lên như chơi, chớ
không có "...tầm tử lộ " chút nào cả !
生 不
論 魂 ,
死 不 認
尸 。
Sanh bất luận hồn, Tử bất nhận thi.
Nghĩa Câu :
Đa số người ta khi
còn sống không thể nhận chân được cái bản ngã cố
hữu, đó là phần linh hồn, phần tinh thần của mình. Khi chết
đi cũng không nhận ra được cái nhục thể phàm tục của
mình nữa !
Câu
nói nhuốm mùi tôn giáo, tùy theo cái huệ năng và bản
ngã của mọi người giác ngộ đến đâu thì hiểu
đến đó !.
Thực
tế trong cuộc sống là chỉ những kẻ lang bạc kỳ hồ, thất
sở thân sơ, lưu vong tẩu quốc, sống không biết mình là ai,
chết cũng không biết ai là mình !. Giống như người Việt vượt
biên ở khắp nơi trên thế giới, mang Quốc Tịch của nước
mình trú ngụ, nhưng lòng thì luôn luôn vẫn nhớ mình
là người VN. Sống không biết mình là người VN hay người
ngoại quốc, chết cũng không biết mình là ma ngoại quốc hay ma
VN !
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
14
兒 孫 自 有 兒 孫 福 , 莫 為 兒 孫 作 馬 牛 。
Nhi tôn tự hữu nhi tôn phước,
Mạc vị nhi tôn tác mã ngưu.
Nghĩa Câu :
Con cháu tự có cái phước phần
của con cháu, đừng vì con cháu mà phải làm thân trâu
ngựa. Ý muốn nói...
Con cháu tự nó biết phải làm ăn sinh sống như thế
nào, cha mẹ ông bà không nên chen vào đời sống riêng tư
của con cháu, mặc dù với danh nghĩa là trông nom giúp đỡ,
làm mọi không công cho con cháu... cũng không nên. Có mặt những
" Người lớn " khác thế hệ, khác tư duy, khác cả về
cách thức làm ăn sinh sống... lắm khi lại rách việc hơn, đôi
lúc lại là...kỳ đà cản mũi.. phát triển của con cháu.
Tốt nhất là hãy mặc cho con cháu tự phát triển lấy... Luôn
luôn nên tâm niệm là " Nhi tôn tự hữu nhi tôn PHƯỚC
" !. Cứ lo dưỡng già cho... chắc ăn !
人 生 不 滿 百 , 常 懷 千 歲 憂 。
Nhân sanh bất mãn bách, Thường
hoài thiên tuế ưu.
今 朝 有 酒 今 朝 醉 , 明 日 愁 來 明 日 憂 。
Kim triêu hữu tữu kim triêu túy, Minh nhựt
sầu lai minh nhựt ưu.
Chú Thích :
Hoài : Thuộc bộ Tâm, nên cũng có nghĩa là
Lòng, Trong Lòng, Mang trong Lòng. Như : Hoài Bão là Ôm ấp, Ấp
Ủ trong lòng.
Nghĩa
Câu :
Đời sống của con người không đầy 100 tuổi, nhưng
lại thường hay lo toan những việc của cả ngàn năm sau. Thôi thì,
hôm nay có rượu uống, hãy uống cho say đi, ngày mai sầu muộn
có đến thì ngày mai hãy lo rầu. Hơi sức đâu mà lo
xa cho mệt !
Hai câu
sau nầy lấy trong bài " Tự Khiển " Của La Ẩn như sau :
自遣 TỰ KHIỂN
羅隱 La Ẩn.
得即高歌失即休, Đắc tức cao ca thất
tức hưu ,
多愁多恨亦悠悠。 Đa sầu đa hận diệc
du du .
今朝有酒今朝醉, Kim triêu hữu tửu kim triêu
túy,
明日愁來明日憂。 Minh nhật sầu lai minh nhật
ưu.
Tạm diễn nôm
như sau :
Được
vui, thất bại lại buồn so,
Sầu nhiều hận lắm ốm thân cò.
Hôm nay có rượu, hôm nay " xỉn
",
Sầu đến ngày
mai, đến hãy lo !
路 逢 險 處 難 回 避 , 事 到 頭 來 不 自 由 。
Lộ phùng hiểm xứ nan hồi tỵ, Sự đáo đầu
lai bất tự do.
Chú Thích :
Hồi Tỵ : là Né Tránh. là Trốn lánh.
Nghĩa Câu :
Trên đường đi
và cả trên đường đời nữa, lắm lúc ta phải gặp
hoặc phải đương đầu với những chốn hiểm nguy, những điều
hung hiễm mà ta không thể nào né tránh được. Sự việc
khi đã gặp phải rồi, thì phải đương đầu mà giải
quyết, chứ không còn được tự do lựa chọn nữa !
Câu nầy nêu lên
trường hợp chẳng đặng đừng mà ta phải đương đầu
giãi quyết, đòi hỏi ta phải có tâm lý chuẩn bị trước,
cũng như phải có bản lãnh để đương đầu với
khó khăn nguy hiễm.
藥 能 醫 假 病 , 酒 不 解 真 愁 。
Dược năng y giả bệnh, Tửu bất giải chơn sầu.
Nghĩa
Câu :
Thuốc
có thể trị được bệnh giả, nhưng rượu thì không
giải được nỗi sầu thật sự.
Giả bệnh, làm bộ bệnh, nhưng thầy
thuốc cho thuốc uống thì phải hết thôi, không lẽ làm bộ
mãi được ! Nhưng , nếu có việc buồn thật sự thì không
thể uống rượu để tiêu sầu được. " Uống rượu
giải sầu " chỉ là cái cớ để uống rượu cho có
lý do mà thôi ! Vì tục ngữ cũng có câu : " Tửu nhập
sầu trường sầu cánh sầu ! ", có nghĩa : Rượu vào trong
cái ruột buồn, thì nỗi buồn lại càng thấm thía và càng
cảm thấy buồn hơn nữa ! ". Đã nói : Tửu bất giải chơn
sầu mà !
人 貧 不 語 , 水 平 不 流 。
Nhân bần bất ngữ, Thủy bình bất
lưu.
Nghĩa
Câu :
Người
nghèo không nói, Nước bằng không chảy.
Lý đương nhiên thôi ! Nước
khi đã giữ được mặt bằng thì đứng yên không chảy
nữa, còn... Nghèo, nói chẳng ai thèm nghe, nghèo, lo buồn trong bụng,
không muốn nói nhiều, nên chi... nghèo, lại đâm ra trầm tư
it nói !
一 家 有 女 百 家 求 , 一 馬 不 行 百 馬 憂 。
Nhất gia hữu nữ bách gia cầu,
Nhất mã bất hành bách mã ưu.
Nghĩa Câu :
Một nhà có con gái thì trăm
nhà đến cầu cạnh xin cưới. Một con ngựa không đi nỗi
thì cả trăm con ngựa đều buồn rầu.
Vế đầu còn có một dị
bản là " Nhất gia DƯỠNG nữ bách gia cầu " nghĩa cũng
giống như nhau.
Vế
thứ hai thì giống như câu nói của tiếng Việt ta là : "
Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ ! ". Loài cầm thú
còn xót xa thương cảm nhau thế kia, huống chi là con người !...
有 花 方 酌 酒 , 無 月 不 登 樓 。
Hữu hoa phương chước tửu,
Vô nguyệt bất đăng lâu.
Chú Thích :
Chước : vừa có nghĩa là Rót,
lại vừa có nghĩa là Uống.
Châm Chước : Là Rót rồi bưng uống,
vì Châm cũng có nghĩa là Rót, nên có Thành Ngữ : "
Tự Châm Tự Chước " là Một mình rót rượu rồi
uống rượu cũng một mình. Vì là tự mình rót tự mình
uống nên phải biết rót cở nào cho vừa thích. Vì vậy
mà từ Châm Chước còn có nghĩa là CÂN NHẮC. Ví dụ
: Đối với công việc mới, nên Châm Chước rồi mới làm.
Có nghĩa là Cân Nhắc trước khi làm.
Đăng : là Lên, là Leo lên.
Đăng Lâu là Lên lầu. Đăng Sơn là Lên Núi.
Nghĩa Câu :
Có hoa ( để ngắm
nghía ) thì mới ( có hứng ) để uống rượu. Không có
trăng để ngắm thì không thèm lên lầu.
Bất cứ việc gì, nếu không
có lợi lộc thì cũng phải hợp với sở thích nào đó,
thì người ta mới làm.
三 杯 通 大 道 , 一 醉 解 千 愁 。
Tam bôi thông đại đạo, Nhất túy
giải thiên sầu.
Nghĩa Câu :
Ba ly vào bụng thì thông được đạo lớn, Say một
cái là giải được ngàn mối sầu.
" Ba ly " ở đây là " nhiều
ly ", chớ không phải chỉ có Ba Ly, như ta thường nói " Ăn
Ba Hột Cơm rồi mới đi làm ", Ba Hột Cơm... làm sao no được
?!. Còn " Đạo Lớn " ở đây là " Đạo lý ở
đời ", là Đạo Làm Người !. Đây là giọng điệu
của những tay bợm nhậu, cũng như câu " Nhất túy giải thiên
sầu " vậy. Nếu sầu thiệt thì làm sao mà giải cho nỗi !
Hôm trước ta đã gặp câu " Tửu bất giải chơn sầu
" mà ! .
Câu
trên đây có một hổn hợp xuất xứ rất lớn, này nhé...
Vế đầu : "
Tam bôi thông đại đạo " là câu thơ trích trong bài
" Nguyệt Hạ Độc Chước " của Lý Bạch với 3 câu cuối
như sau :
.... Tam
bôi thông đại đạo, 三 杯 通 大 道
Nhất
đấu hợp tự nhiên. 一 斗 合 自 然
Đản
đắc tửu trung thú, 但 得 酒 中 趣
Vật
vi tỉnh giả truyền 勿 為 醒 者 傳
Có
Nghĩa :
Ba ly thông
đạo lớn,
Một
đấu hợp tự nhiên
Chỉ muốn vui trong rượu
Mặc kẻ tỉnh huyên thuyên .
Vế thứ hai " Nhất Túy Giải
Thiên Sầu " xuất xứ từ bài Từ Mộc Lan Hoa Mạn của Ngô
Trừng đời nhà Tống, với các câu cuối như sau :
一醉解千愁。 Nhất túy giải thiên
sầu.
自有壶中胜赏, Tự hữu hồ trung thắng
thưởng,
酿来玉液新篘。 Nhưỡng lai ngọc dịch
tân sưu.
Có
nghĩa :
Hễ
say thì ngàn sầu đều dứt,
Trong bình rượu tự có nguồn vui riêng,
Với những dung dịch
trong như ngọc ( ngọc dịch ) vừa được lọc ( sưu ) và cất,
ủ ( nhưỡng ) mà thành.
深 山 畢 竟 藏 猛 虎 , 大 海 終 須 納 細 流 。
Thâm sơn tất cánh tàng mãnh hổ,
Đại hải chung tu nạp tế lưu.
Chú Thích :
Tất Cánh : là Chắc có, Thế nào
cũng...
Tàng
: là Cất, Giấu, Ẩn mình. Chứa.
Chung Tu : là Rốt cuộc rồi..., Đều phải...
Nạp : là Nhận,
là Đóng, là Tiếp nhận.
Tế Lưu : là Những dòng chảy nhỏ.
Nghĩa Câu :
Trong núi sâu thế nào
cũng có cọp dữ ẩn mình, và biển lớn là do tiếp nhận
những dòng chảy nhỏ kết hợp lại mà thành.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
13
知 我 者 謂 我 心 憂 , 不 知 我 者 謂 我 何 求 ?
Tri ngã giả vị ngã tâm
ưu, Bất tri ngã giả vị ngã hà cầu ?
Chú
Thích :
Vị : là Nói Rằng. Kêu là. Từ
kép là Vị Chi.
Nghĩa Câu :
Hiểu
được ta thì bảo là lòng ta đang lo buồn, còn không hiểu
được ta thì bảo rằng ta còn đòi hỏi chi đây ?.
Câu nầy lấy trong Kinh Thi , thiên " Vương Phong ", bài
" Thử Ly " 黍離, nguyên văn như sau :
彼黍離離,彼稷之苗。
Bỉ thử ly ly , Bỉ tắc chi miêu.
行邁靡靡,中心搖搖。
Hành mại phi phi, Trung tâm diêu
diêu.
知我者謂我心憂,不知我者謂我何求。
Tri ngã giả vị ngã tâm
ưu, Bất tri ngã giả vị ngã hà cầu?
悠悠蒼天!此何人哉?
Du du thương thiên ! Thử hà nhân
tai ?
Có nghĩa :
Hàng hàng
kê xanh tốt, cao lương đang xanh mạ non.
Ta bước
đi chầm chậm, trong lòng hoảng hốt không yên.
Người
hiểu ta thì bảo lòng ta đang buồn, người không hiểu ta thì
bảo rằng ta còn có đòi hỏi gì đây?
Trời
cao xanh thẳm trên kia ! Người nào đã tạo nên cảnh nầy đây
?( chỉ hờn mất nước ).
Đây là bài ca dao cuối
đời Tây Châu, cách đây hơn 3000 năm, sắp chuyển sang đời
Đông Châu Liệt Quốc, nhiều nước Chư Hầu nhỏ bị mất
bởi các nước lớn thôn tính.
Vì là
Ca Dao xưa của đời Châu, nên xin được tạm diễn nôm bằng
Lục Bát như sau :
Lúa non xanh tốt hàng hàng,
Mạ non mơn mởn dạ càng ngẩn ngơ.
Bâng khuâng cất bước thẩn thờ,
Trong
lòng ngơ ngẩn bơ phờ vì đâu ?
Hiểu
ta người bảo ta sầu,
Không hiểu lại tưởng
ta cầu chi đây ?
Trời xanh thăm thẳm cao dày,
Ai bày chi cảnh đọa đày nước non ?
晴 乾 不 肯 去 , 直 待 雨 淋 頭 。
Tình can bất khẳng khứ,
Trực đãi vũ lâm đầu.
Chú
Thích :
Tình Can : là Nắng ráo, là Trời
nắng.
Bất khẳng : là Không chịu. Không
thèm .
Trực Đãi : là Đợi đến lúc.
Vũ Lâm Đầu : là Mưa xối xả, Mưa
như trút nước.
Nghĩa Câu ;
Lúc
nắng ráo thì không chịu đi, đợi đến lúc mưa trút
xuống đầu ( rồi mới đi ! ). Cứ cà kê dê ngỗng mãi
không đi, đến lúc phải đi thì mưa đã đổ ào
xuống rồi ! Đây là chuyện rất thường xảy ra trong cuộc sống
hàng ngày.
成 事 莫 說 , 覆 水 難 收 。
Thành sự mạc thuyết, Phúc thủy nan thâu.
Nghĩa Câu :
Thành sự, được việc
rồi, nhưng hãy khoan nói đả, vì nước đã đổ thì
khó hốt lại lắm !. Câu nầy khuyên ta, bất cứ chuyện gì
hãy bình tỉnh,chớ quá vội vàng tuyên bố, mặc dù thấy
chuyện đã thành ( nhưng còn " muôn một " thì sao ? ). Lời
đã nói ra rồi, khó lấy lại được lắm ! " Phúc
thủy nan thâu " mà !.
Hai câu trên thường được
nối bởi 2 câu sau đây :
是 非 只 為 多 開 口 , 煩 惱 皆 因 強 出 頭 。
Thị phi chỉ vị đa khai khẩu,
Phiền não giai nhân cưởng xuất đầu.
Có
nghĩa :
Chuyên thị phi mà có được chỉ
vì ta hay nói nhiều ( đa khai khẩu ). Tất cả những phiền não
đều do nơi háo thắng ( cưởng xuất đầu ) mà ra !.
忍 得 一 時 之 氣 , 免 得 百 日 之 憂 。
Nhẫn đắc nhất thời
chi khí, Miễn đắc bách nhật chi ưu.
Chú
Thích :
Khí : là Hơi. Cái Hơi trong người
bốc lên là Cơn Giận. nên
Khí : còn
có nghĩa là Tức Giận.
Nghĩa Câu :
Dằn
xuống được cái tức giận trong một lúc, có thể miễn
trừ được cái ưu phiền lo lắng của cả trăm ngày sau.
Ai cũng biết thế cả ! Nhưng, có mấy ai dằn được cái
tức giận đang cuồn cuộn bóc lên trong một lúc đây ?!.
近 來 學 得 烏 龜 法 , 得 縮 頭 時 且 縮 頭.
Cận lai học đắc ô qui pháp, Đắc thúc đầu
thời thả thúc đầu.
Chú Thích :
Cận Lai : là Gần đây,
là Dạo này.
Ô Qui : là Rùa đen. Ô
Qui Pháp : là Cái Cách của con Rùa đen.
Thúc
Đầu : là Rụt đầu.
Nghĩa Câu :
Gần
đây học được cái cách của con rùa đen, Khi nào cần
rụt đầu lại thì cứ rụt đầu. Ý nói....
... Khi nào cần nhẫn nhục thì hãy nhẫn nhục cho qua chuyện.
Trong tiếng Việt ta cũng có câu : " Tránh voi chẳng xấu mặt nào
! " ý cũng tương tự như thế !. Lùi một bước cho trời
yên biển lặng, thì có gì mà nhục nhã đâu !
懼 法 朝 朝 樂 , 欺 公 日 日 憂 。
Cụ pháp triêu triêu lạc,
Khi công nhật nhật ưu.
Chú Thích :
Cụ : là Sợ. Một trong Thất Tình : Hỉ,
Nộ, Ái , Ố, Ai, Cụ, Dục.
Triêu Triêu :
Triêu là Buổi. Nghĩa rộng là Ngày. Triêu Triêu : là ngày
ngày, có nghĩa là Bất cứ lúc nào !
Khi
: là Coi rẻ, Ăn Hiếp, Gạt Gẫm.
Nghĩa Câu
:
Biết sợ luật pháp thì lúc nào cũng
yên vui. Còn xem thường phép công thì ngày nào cũng phải
lo lắng.
Tuân thủ luật pháp thì sống yên
vui, không chấp hành luật pháp thì phải lo lắng hàng ngày.
Những người trốn thuế, buôn lậu, buôn bán ma túy.... làm
ăn bất hợp pháp, thì luôn luôn phải sống trong phập phồng
lo lắng sợ hãi không yên.
人 生 一 世 , 草 生 一 春 。
Nhân sanh nhất thế, Thảo
sanh nhất xuân.
Nghĩa Câu :
Người
thì sống một đời, còn cỏ thì chỉ sống một mùa xuân
( chỉ một năm thôi ). Ai có phần nấy, nên mạnh ai nấy giữ
phận của mình !.
黑 髮 不 知 勤 學 早 , 看 來 又 是 白 頭 翁.
Hắc phát bất tri cần học
tảo, Khán lai hựu thị bạch đầu ông.
Nghĩa
Câu :
Tóc còn đen không biết sớm mà
siêng học, Nhìn qua nhìn lại thì đã là ông lão đầu
bạc rồi ! Thời gian luôn luôn vô tình lặng lẽ trôi, âm
thầm nhưng rất tích cực, không chờ đợi ai cả ! Tóc còn
xanh tuổi còn trẻ, không biết tranh thủ để học hành , thì
cái già sẽ sồng sộc đến nơi ngay !
月 到 十 五 光 明 少 , 人 到 中 年 萬 事 休 。
Nguyệt đáo thập ngũ
quang minh thiểu, Nhân đáo trung niên vạn sự hưu.
Chú Thích :
Hưu : là Thôi, là Nghỉ
ngơi, là chấm dứt. Như : Về Hưu. Hưu Thơ 休書 là
Giấy thôi vợ ( Giấy ly hôn ). Hưu Chiến : là ngừng đánh
nhau. Hưu Tưởng : là Đừng hòng, Đừng tưởng bở.
Nghĩa Câu :
Trăng đến ngày 15 ( rằm
) thì ánh sáng bắt đầu giảm dần. Con người thì đến
tuổi trung niên, muôn việc đều ngưng nghỉ chấm dứt hết rồi
!. Câu nói nầy chỉ còn đúng ở vế đầu, vế thứ
hai chỉ còn đúng ở quá khứ mà thôi. Theo tài liệu thống
kê thì cuối đời Minh, đầu đời Thanh, tuổi Thọ trung bình
của con người chỉ trên dưới 50 tuổi, nên " Nhân đáo
trung niên... thì... vạn sự hưu ". Còn bây giờ, nhất là
ở Mỹ nầy, 50 tuổi mới là tuổi bắt đầu phát triển
mạnh về mọi mặt cho sự nghiệp của mình !
___________________________________
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
12
.
人 見 白 頭 嗔 , 我 見 白 頭 喜 。
Nhân kiến bạch đầu
sân, Ngã kiến bạch đầu hỉ.
多 少 少 年 亡 , 不 到 白 頭 死 。
Đa thiểu thiếu niên vong,
Bất đáo bạch đầu tử.
Chú
Thích :
Sân : là Thở ra. là Giận. Sân Si
: Buồn giận Càonhàu.
Thiểu : là It. Đa Thiểu là
It Nhiều, có nghĩa làBao Nhiêu?,
là Biết
bao nhiêu !.
Thiếu : là Trẻ. Thiếu Niên : là
Tuổi trẻ.
Cùng một chữ 少 đọc 2 âm
và có 2 nghĩa khác nhau. Đây là cách Giả Tá 假借 ( mượn
tạm ) trong Lục Thư 六書 ( 6 cách thành lập chữ ) của tiếng Hán
cổ.
Nghĩa Câu :
Người
ta thấy đầu bạc thì thở ra ( Buồn vì biết mình đã
già ), Ta thấy đầu bạc thì lại mừng ( mừng vì biết mình
sống dai ). Hãy xem, Biết bao nhiêu người tuổi trẻ chết yểu, chưa
thấy đầu bạc đã chết rồi !. Vậy thì, đầu bạc
đâu có đáng buồn đâu !
牆 有 縫 , 壁 有 耳 。
Tường hữu phùng, Bích hữu
nhĩ.
好 事 不 出 門 , 惡 事 傳 千 里 。
Hảo sự bất xuất môn, Ác sự truyền thiên
lý.
Chú Thích :
Phùng
縫: là Khe hở, là Mối nối giữa 2 đường chỉ. Động
từ : là May, May Vá.
Bích : là Vách 壁
( có bộ Thổ bên dưới ), Nếu là Ngọc Bích thì có
bộ Ngọc bên dưới 璧.
Nghĩa Câu :
Tường
có khe hở, Vách có lổ tai. Chuyện tốt thì không ra khỏi cửa,
còn chuyện xấu thì truyền xa đến ngàn dặm.
Tiếng
Việt ta cũng có câu : " Rừng có mạch, Vách có tai " để
chỉ, chuyện gì không nói ra thì thôi, hễ nói ra rồi thì
trước sau gì mọi người đều biết cả !. Đừng tưởng
nói lén ở trong Rừng rồi không ai biết, trong phòng kín, nhưng
Vách vẫn có tai mà !. Ở đời, thường thì chuyện tốt
it ai biết tới. Tại sao ?. Tại vì người ta it khi chịu nói đến
cái tốt của người khác ! Còn chuyện xấu thì , Ôi thôi
, chịt một cái là cả xóm cả làng đều hay biết cả
!
賊 是 小 人 , 智 過 君 子 。
Tặc thị tiểu nhân, Trí quá quân tử.
君 子 固 窮 , 小 人 窮 斯 濫 矣。
Quân tử cố cùng, Tiểu nhân cùng tư lạm
hỉ.
Chú Thích :
Tặc
: là Giặc, là Trộm, là Cướp.
Cố
Cùng : Cố là Chắc, là Cứng. Động từ là Giữ Chặc.
Cố Cùng : là Giữ chặc lấy cái nghèo
của mình, là cam phận với cái nghéo của mình, không làm
bậy.
Lạm : là Nước tràn bờ. là
Quá mức, là Vượt mực.
Nghĩa Câu :
Kẻ trộm cướp là đứa Tiểu nhân, nhưng đôi
lúc lại cơ trí hơn người Quân tử . Người Quân tử
cam phận với cái nghèo của mình, còn kẻ Tiểu nhân khi nghèo
thì làm những việc vượt mức cho phép ( làm bậy làm bạ
).
Đây là câu nói của Đức Khổng
Phu Tử trong Luận Ngữ, được minh họa bởi 2 câu truyện kể sau
đây cho câu nói : " Tặc thị tiểu nhân, Trí quá quân
tử."...
Có tên trộm lẻn vào nhà
kia, trộm lấy cái khánh ( một loại nhạc cụ xưa, như cái
chuông ). Vừa ra khỏi cửa, thì cũng vừa lúc chủ nhân về
đến, tên trộm bèn bước tới cúi chào thưa : " Lão
gia, ông mua khánh không ?". Chủ nhà bèn đáp : " Nhà tôi
có cái khánh rồi, không mua nữa đâu ! ". Tên trộm bèn
vác cái khánh đi thẳng. Đến chiều, khi cần dùng đến
cái khánh, nhưng tìm không thấy. Chủ nhà mới chợt tỉnh
ngộ : Người bán khánh chính là tên trộm khánh !.
Lại kể...
Có một người đi chợ
về, mua một cái nồi, dọc đường mắc tiểu, ông ta để
cái nồi xuống bên vệ đường, rồi đứng chịch vào
bên đường để tiểu. Có tên trộm đi ngang thấy vậy,
bèn lấy cái nồi đội lên trên đầu, rồi cũng đứng
tiểu ở vệ đường bên kia. Người ấy tiểu xong, thấy mất
nồi, còn đang dáo dác, thì tên trộm bên kia cũng tiểu
xong , cười nói với ông ta rằng : " Đây là đường
cái quan , nhiều người qua lại, ông phải đội cái nồi trên
đầu như tôi thế nầy, thì mới không bị mất, sao lại
để nó xuống dưới đường !?.
Truyện
kể cho ta thấy rằng : Quân Tử và Tiểu Nhân như nhau cũng là
con người, chưa chắc ai đã khôn lanh và cơ trí hơn ai, chẳng
qua phẩm chất đạo đức khác nhau mà thôi. Quân Tử thì
" cố cùng ", còn Tiểu Nhân thì " cùng tư lạm hỉ
" !.
貧 窮 自 在 , 富 貴 多 憂 。
Bần cùng tự tại, Phú quí đa ưu.
Nghĩa Câu :
Nghèo nàn nhưng thoải mái,
Giàu sang lại có nhiều lo lắng. Nghèo, nên không có gì để
mất, và vì thế cũng không có gì để giữ, tự do tự
tại, sống thoải mái qua ngày. Giàu sang trái lại, phải lo toan đủ
thứ, lo giữ của, lo mất tiền, lo người khác đến mượn,
lo trộm cướp, lo làm cách nào để có nhiều tiền hơn
nữa. v. v... và .v. v...
不 以 我 為 德 , 反 以 我 為 仇 。
Bất dĩ ngã vi đức, phản dĩ ngã vi cừu.
Nghĩa câu :
Không xem ta là người ân
đức, mà ngược lại còn xem ta là kẻ thù. Ở đời,
nhiều khi làm ơn mắc oán, hoặc làm ơn không khéo, không
tế nhị, chẳng những không được cám ơn mà còn bị
xem như kẻ thù ! Đây là câu nói lẫy của người làm
ơn : " Chẳng cám ơn ta thì thôi, mà ngược lại còn
xem ta là kẻ thù nữa ! ".
寧 向 直 中 取 , 不 可 曲 中 求 。
Ninh hướng trực trung thủ,
Bất khả khúc trung cầu.
Chú Thích
:
Ninh hướng : Thà hướng về, Nên hướng
về....
Trực : là Ngay, là Thẳng, là Đàng
hoàng.
Khúc : là Cong, là Gãy, là Lương
lẹo.
Nghĩa Câu :
Thà
hướng về chỗ đàng hoàng mà lấy, chớ không nên xin
xỏ cho có được bằng cách lương lẹo. Nói cách khác...
Nên có được bằng cách đàng
hoàng, chớ không nên có được bằng cách mờ ám.
人 無 遠 慮 , 必 有 近 憂 。
Nhân vô viễn lự, Tất
hữu cận ưu.
Chú Thích :
Lự
: là Suy nghĩ vì lo lắng.
Ưu : là Lo lắng vì suy nghĩ.
Nghĩa Câu :
Con người
ta không có cái lo xa ( những lo lắng cho về lâu về dài ), thì
tất cũng có cái nghĩ gần ( những ưu tư cho cuộc sống trước
mắt.).
Câu nói nầy đúng cho tất cả mọi người
trong cuộc sống của tất cả thời đại, thời gian, đông tây
kim cổ. Câu nói nầy còn làm ta nhớ lại 4 chữ " CƯ AN TƯ
NGUY " 居安思危 trên phù hiệu của Trường Bộ Binh Thủ
Đức ngày xưa.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
11
.
磨 刀 恨 不 利 , 刀 利 傷 人 指 。
Ma đao hận bất lợi, Đao
lợi thương nhân chỉ.
求 財 恨 不 得 , 財 多 害 自 己 。
Cầu tài hận bất đa
, Tài đa hại tự kỷ.
Chú Thích
:
Ma : là Mài, là Cọ. Ma Đao : là Mài
Dao. Ma Sát là Cọ xát.
Nghĩa Câu :
Mài
dao thì tiếc là dao không bén, nhưng dao bén thì dễ đứt
tay. Cầu tài thì tiếc là không được nhiều, nhưng tiền
của nhiều thì có hại đến bản thân mình. Có tiền
nhiều, đâm ra ăn chơi cờ bạc có hại cho sức khỏe .Có
tiền nhiều, sanh tật vợ bé vợ mọn có hại cho hạnh phúc
gia đình .Có tiền nhiều, trộm cướp dòm ngó nguy hiểm đến
tính mạng của mình nữa....Có tiền nhiều, có hại .... là
thế !
知 足 常 足 , 終 身 不 辱 。
Tri túc thường túc, Chung thân bất nhục.
知 止 常 止 , 終 身 不 恥 。
Tri chỉ thường chỉ, Chung
thân bất sĩ.
Nghĩa Câu :
Thường ta biết đủ thì đủ,( không đòi hỏi
quá đáng ), thì suốt đời sẽ không bị ai làm nhục
( cho mình là tham lam quá đáng ).
Biết lúc
nào nên dừng thì dừng lại,( không yêu cầu quá lố, được
voi đòi tiên ), thì suốt đời sẽ không ai sĩ nhục mình
được.
有 福 傷 財 , 無 福 傷 己 。
Hữu phước thương tài, Vô phước thương
kỷ.
Nghĩa Câu :
Có
phước thì tổn thương tài sản, tiền bạc. Không có phước
thì tổn thương đến bản thân mình. Ông bà ta nói "
tán tài thì tiêu tai ", của cải đở cho con người. Câu
nầy dùng để an ủi người nào đó khi người đó
bị mất của... cho đỡ buồn !
差 之 毫 厘 , 失 之 千 里 。
Sai chi hào li, Thất chi thiên
lý.
Chú Thích :
Sai
: là Kém cỏi, là Không đúng, là Chênh lệch. Sai số :
là Kết quả của toán trừ. là Xê Xít.
Hào
Li : là Đơn vị đo lường thật nhỏ. Hào là Cắc trong
đơn vị tiền tệ, trong đo lường Hào chỉ khoảng cách bằng
1 sợi lông mà thôi.( Bên dưới chữ Hào có bộ Mao là
Lông ). Li là 1 phần ngàn của mét.
Thất
: là Mất đi, là Thất thoát, là Sai lệch.
Nghĩa
Câu :
Chênh lệch chỉ một hào một li thôi,
nhưng sai lệch có thể lên đến cả ngàn dặm. Trong tiếng Việt,
ta có câu " Sai một li, Đi một dặm " chính là ý nầy
vậy !.
若 登 高 必 自 卑 , 若 涉 遠 必 自 邇 。
Nhược đăng cao tất tự ti, Nhược thiệp viễn
tất tự nhĩ.
Chú Thích :
Nhược
: là Nếu. Nhược bằng : là Nếu như.
Tự
Ti : là Tự thấy mình nhỏ nhoi.
Thiệp Viễn
: là Đi xa. Vượt ra xa.
Nhĩ : là Gần, là Thiển
cận.
Nghĩa Câu :
Nếu
lên cao tất thấy mình nhỏ nhoi, nếu đi xa tất sẽ thấy mình
thiển cận. Từ nhỏ đến lớn cứ ru rú ở mãi quê mình,
thì sẽ không biết gì là trời cao đất rộng cả !. Có
đi đây đi đó mới mở mang được kiến thức. Bài
học thuộc lòng của lớp Đồng Ấu ngày xưa có câu :
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!
三 思 而 行 , 再 思 可 矣 。
Tam tư nhi hành, Tái tư
khả hỉ.
Chú Thích :
Tam
Tư : Là Suy nghĩ 3 lần. là Suy nghĩ Cẩn Thận.
Tái
Tư : Suy nghĩ lại một lần nữa.
Nghĩa Câu
:
Chuyện gì đó, Suy nghĩ kỷ ( tam tư ) rồi
hãy làm, và... trước khi làm nên suy nghĩ lại một lần
nữa ( cho chắc ăn ! ). Phàm chuyện gì cũng không nên hấp tấp,
vội vàng, mà phải cân nhắc cẩn thận rồi hãy quyết định,
để tránh những ân hận, nếu có, về sau.
使 口 不 如 自 走 , 求 人 不 如 求 己 。
Sử khẩu bất như tự
tẩu, Cầu nhân bất như cầu kỷ.
Chú
Thích :
Sử Khẩu : là Sử dụng cái miệng,
ý nói Nhờ Cậy hoặc Sai Biểu ai làm việc gì đó.
Tự Tẩu : là Tự mình đi ( Tẩu là Đi, chớ không
phải Chạy ).
Nghĩa Câu :
Nhờ
Cậy hoặc Sai Biểu ai làm việc gì đó, không bằng tự mình
đi làm việc đó. Cầu cạnh người khác không bằng cầu
cạnh chính bản thân mình.
Việc gì tự
mình làm được thì nên tự mình làm lấy, nhờ cậy
hoặc sai bảo người khác đôi lúc lại lôi thôi, rách
việc... Người ta làm không vừa ý mình, làm lấy có, làm
trễ nãi, thậm chí làm hư việc của mình !... Thế thì
sao ta không tự đi làm lấy cho chắc ăn ?!. Cầu nhân bất như
cầu kỷ mà !
Các bậc trưởng thượng
nên chiêm nghiệm câu nầy, vì Quý Vị hay ngồi một chỗ sai
bảo người khác lắm, con cháu làm không vừa ý lại quát
mắng om sòm ! Xin lỗi đã xúc phạm !
小 時 是 兄 弟 , 長 大 各 鄉 里 。
Tiểu thời thị Huynh đệ,
Trưởng đại các hương lý.
Chú
Thích :
Hương Lý : là Làng xóm, Làng
Quê, Người cùng Quê. Nghĩa Câu :
Lúc nhỏ là anh em, lớn
lên mỗi người có làng quê riêng của mình. Ý nói
mỗi người đều lập nghiệp riêng, đều có thành tựu
riêng ở thôn làng nào đó. Thường thì ngày xưa lập
nghiệp là đi khẩn hoang, khai phá và mở thêm làng xóm, vế
hai của câu trên lẽ ra phải nói như thế nầy : " Trưởng
đại các hữu chí " : Lớn lên mỗi người đều có
chí riêng của mình !
妒 財 莫 妒 食 , 怨 生 莫 怨 死 。
Đố tài mạc đố thực, Oán sanh mạc oán
tử.
Chú Thích :
Đố
: là Đố Kỵ, là Ganh ghét.
Nghĩa Câu
:
Ganh nhau về tiền của, chứ đừng ganh nhau về
miếng ăn ( Có giỏi thì làm giàu như người ta đi ! ). Oán
trách cuộc sống chứ đừng oán trách cái chết ( Sanh ký
tử quy : Sống gởi thác về mà ! ). Cuộc sống mang đến cho con
người ta nhiều phiền toái, " người ta nói " Rắc rối
cuộc đời ". Có oán thì oán cuộc đời, chứ chết
có gì mà đáng oán sợ đâu ?! , Thì ra, con người...
khổ mà sống còn hơn ! Nói thế, lại nhớ đến bài "
Thần chết và lão Tiều phu " của Lã Phụng Tiên ( La Fontaine
).
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN
10 .
.
是 非 終 日
有 , 不
聽 自 然
無 。
Thị phi chung nhật hữu, Bất thính tự nhiên vô.
Chú Thích :
CHUNG : là Hết, Kết Thúc,
Cuối Cùng, là Đuôi. Ví dụ : Cáo Chung là Chấm hết. Chung
Thủy là Đuôi Đầu, " Hữu Thủy Vô Chung " là Có
Đầu không Đuôi, Có mở đầu mà không có kết thúc.
CHUNG NHẬT : là
Suốt ngày. CHUNG THÂN là Suốt đời.
Nghĩa Câu :
Chuyện thị phi có suốt ngày, nếu
không nghe, thì tự nhiên sẽ không có gì hết !. Nói thì
dễ, chớ làm sao không nghe cho đươc !
寧 可
正 而 不
足 , 不
可 邪 而
有 餘 。
Ninh
khả chánh nhi bất túc, Bất khả tà nhi nữu dư.
Chú Thích :
NINH KHẢ : Thà là, Thà đành,
Thà cam.
BẤT
KHẢ : Không thể, Không được, Không nên.
Nghĩa Câu :
Thà cam chánh trực mà không đủ,
chớ không nên tà ác để có dư. Thà là ngay thẳng
mà thiếu thốn, còn hơn gian ác để làm giàu. Câu nói
nầy hiện đang đi ngược lại với xã hội VN trước mắt.
Thà là mánh mung để làm giàu, chớ không chịu ngay thẳng
đàng hoàng để chết đói.
Câu nói phải được sửa lại một
cách mỉa mai như sau :
" Bất khả chánh nhi bất túc, Ninh khả
tà nhi hữu dư " !
寧 可 信 其
有 , 不
可 信 其
無 。
Ninh khả tín kỳ hữu, Bất khả tín kỳ vô.
Chú
Thích :
KỲ
: là Phiếm Chỉ Đại từ , có nghĩa : Cái, Cái Mà.
Nghĩa Câu :
Thà là tin cái có
, chớ không nên tin cái không có. Cái có, ý chỉ nghe thấy
và có chứng cứ đàng hoàng. Cái Không có, là Cái
mà chỉ nghe nói hoặc chỉ là tin đồn. Chuyện gì cũng phải
tỉnh táo, không nên nghe theo những lời đồn thất thiệt.
竹 籬 茅 舍 風
光 好 ,
道 院 僧
房 總 不
如 。
Trúc ly mao xá phong quang hảo, Đạo viện tăng phòng
tổng bất như.
Chú Thích :
TRÚC LY : là Hàng rào bằng tre.
MAO XÁ : là Nhà lá.
ĐẠO VIỆN : là Nơi
Đạo sĩ tu hành.( tu Tiên ).
TĂNG PHÒNG : là Nơi Hòa Thượng tu hành.(tu Phật
).
TỔNG : là Tất
cả. Ở đây có nghĩa là Đều.
Nghĩa Câu :
Thà ở nhà lá rào tre mà phong
cảnh đẹp đẻ nhàn nhã, Chùa chiền Đạo viện tất
cả đều không bằng hết !.Giữ cuộc sống cho thanh bần giản
dị, yên thân với sự nhàn nhã thảnh thơi, còn hơn là
đi tu phật tu tiên gì đều không bằng được cả !
命 裡 有 時 終
須 有 ,
命 裡 無
時 莫 強
求 。
Mệnh lý hữu thời chung tu hữu, Mệnh lý vô thời
mạc cưởng cầu.
Chú Thích :
CHUNG TU : là Rốt cuộc phải..., Cuối cùng cũng....
CƯỞNG : Danh từ đọc
là CƯỜNG : Mạnh, chỉ SứcMạnh.
Cưởng là Động Từ : Dùng sức mạnh
để chiếm hữu cái gì đó. Vd : Cưởng Đoạt là Giựt
ngang.
CƯỞNG CẦU :
là Ráng cầu cho có... cái gì đó.
Nghĩa Câu :
Trong số mệnh của mình sẽ có
được cái gì đó, thì rốt cuộc cũng có mà thôi.
Còn số mệnh đã không có rồi thì đừng có ráng
mà cầu cho có. Hãy yên phận với cái gì mà mình có
trước mắt, đừng đòi hỏi, đèo bồng những thứ mà
mình khó thể có được. Ví dụ, thấy người ta trúng
số, rồi cũng bắt chước mua số, ráng mua nhiều cho trúng, cuối
cùng tiền mất tật mang, ghiền mua vé số đến táng gia bại
sản cũng không trúng được Độc Đắc. Cho nên, ta phải
luôn luôn nhớ là... " Mệnh lý vô thời mạc cưởng cầu
" ! là thế. " Chấp nhận hiện tại là Hạnh Phúc " !.
道 院 迎 仙 客
, 書 堂
隱 相 儒
.
Đạo
viện nghinh tiên khách, Thơ đường ẩn tướng nho.
Chú Thích :
ĐẠO VIỆN : Còn gọi
là Đạo Quan, nơi các đạo sĩ, đạo cô tu tiên.
THƠ ĐƯỜNG : Còn
gọi là Thơ Phòng ( Thư Phòng ) nơi các Nho sinh học tập để
thi đỗ làm quan.
TƯỚNG : là Tướng bên Văn. Học văn mà làm đến
Tướng thì lớn hơn Tướng bên Võ. Ví dụ như : Thừa
Tướng, Tể Tướng...
Cũng chữ nầy, khi đọc là TƯƠNG, thì có nghĩa
: Với nhau. Như : Tương thân tương ái, Tương phùng, Tương
Tư....
Nghĩa
Câu :
Đạo
viện thì đón khách tiên, ( vì toàn là những người
tu để thành tiên cả, có vẻ rầm rộ bên ngoài ! ). Thơ
phòng còn ẩn các danh Nho Thừa tướng.( Có vẻ yên tịnh
vắng vẻ, nhưng thành đạt thì cũng hiển hách vô cùng
).
庭 栽 棲
鳳 竹 ,
池 養 化
龍 魚 。
Đình
tài thê phụng trúc, Trì dưỡng hóa long ngư.
Chú Thích :
THÊ : là Đậu , là
Nương Náo. Thê Phụng : Chim phụng đậu. Nghĩa Câu :
Trong sân trồng tre để
cho chim phụng đậu. Trong ao thì nuôi cá để hóa rồng ( chỉ
cá Chép` ).
Cũng
như câu trên, chỉ những chỗ tầm thường nhưng có thể
ẩn chứa những nhân vật sự vật không tầm thường chút
nào ! Trồng tre cho vua các loài chim đậu, ao thì nuôi cá hóa
rồng, thư phòng thì có Thừa tướng tương lai, đạo viện
thì có khách tiên tới !
結 交 須 勝
己 , 似
我 不 如
無 。
Kết giao tu thắng kỷ, Tự ngã bất như vô.
Chú Thích :
Kết Giao : Kết bạn và
Giao tình, tức là chọn bạn để chơi.
Tu : là Phải, Cần phải.
Tự : Ở đây nghĩa
là Tương Tự : là Giống như.
Nghĩa Câu :
Chọn bạn mà chơi, phải tìm người
nào hơn mình kìa, còn nếu cũng giống như mình thì cũng
bằng không . Chọn người hơn mình để học cái hay, cái
tốt, cái giỏi của người ta, còn bạn mà dở hơn mình
hoặc bằng mình thì không có gì cho mình học được
cả! Khuyên thì nói thế, chớ ai cũng tìm người giỏi hơn
mình mới kết bạn, thì còn ai chơi với mình nữa !?
但 看 三 五 日
, 相 見
不 如 初
。
Đản khan tam ngũ nhật, Tương
kiến bất như sơ.
Chú Thích :
Đản Khan : là Chỉ thấy, là Hãy nhìn xem, là Cứ
nhìn xem. Nghĩa Câu :
Chỉ thấy trong vòng năm ba bửa, gặp lại nhau thì đã
khác lúc ban đầu rồi ! Chỉ sự thay đổi và tiến bộ
một cách nhanh chóng, làm người ta phải nể phục. Ta có câu
thành ngữ " Sĩ biệt tam nhật, quát mục tương khan ", là
: Kẻ sĩ chỉ cách nhau 3 ngày thôi, thì phải nhìn nhau bằng
cặp mắt khác rồi ! Lấy tích ở Tam Quốc...
Lữ Mông là tướng giỏi của
Đông Ngô, nhưng vì xuất thân bần hàn thất học, chỉ
giỏi võ mà không giỏi văn, được sự khuyến khích của
chủ tướng Tôn Quyền, nên cố gắng chăm học, chỉ một thời
gian rất ngắn đã giỏi cả binh thư đồ trận, kinh luân thao
lược, đến nỗi Lỗ Túc khi làm Đô Đốc bàn chuyện
binh với Lữ Mông cũng phải vỗ vai khen ngợi, và Lữ Mông đã
rất tự hào mà nói lên câu nói bất hủ nêu trên.
Và... cũng nhờ vậy mà sau nầy Lữ Mông mới trở thành Đô
Đốc của Đông Ngô.
Ý câu nói khuyên ta không nên xem thường ai
cả, có lắm người chỉ trong một thời gian ngắn, với sự phấn
đấu vượt bực, đã trở nên rất xuất sắc và giỏi
cả mọi mặt.
人 情 似
水 分 高
下 , 世
事 如 雲
任 卷 舒.
Nhân
tình tự thủy phân cao hạ, Thế sự như vân nhậm quyện thư.
Chú
Thích :
Quyện
: là Cuốn lại. là Quấn lấy.
Thư : là Thư giản, là buông thả, là
thả lỏng.
Nghĩa
Câu :
Tình
người cũng phân chia cao thấp như nước vậy, còn Chuyện đời
thì như mây trên trời khi quyện lại một nơi, khi thì tản
mạn khắp nơi. Đây cũng là lẽ tự nhiên ở đời, Nước
trên cao là khe là suối là thác, nước dưới thấp là
sông hồ ao biển,còn tình người thì phân biệt đối
xử đối với những kẻ giàu nghèo, sang hèn, quý tiện...
會 說 說
都 是 ,
不 會 說
無 禮 。
Hội thuyết thuyết
đô thị, Bất hội thuyết vô lễ.
Nghĩa Câu :
Biết nói thì nói đủ thứ
chuyện, nói gì nghe cũng phải cũng đúng cả. Còn không biết
nói thì dễ nói những điều mích lòng, thất lễ với
người khác. Không biết nói, nín thinh, lắm lúc cũng là
một thái độ vô lễ đối với người đối diện.
TĂNG QUẢNG HIỀN
VĂN 9
.
救 人 一 命 , 胜 造
七 級 浮 屠 。
Cứu nhân nhất mệnh, thắng
tạo thất cấp phù đồ.
Chú Thích :
CẤP : là Cái Bực thềm, nghĩa rộng là
Thứ Bậc : Cấp Bực.
PHÙ ĐÔ : là Phiên
âm của chữ Phật Đà, chỉ Đạo Phật và Phật giáo
đồ, nghĩa phát sinh : là Cái Tháp để thờ Phật.
Nghĩa Câu :
Cứu một mạng người,
còn hơn xây bảy tầng tháp để thờ Phật. Ta thường nói
trại đi là : " Cứu một mạng người, còn hơn lập bảy
kiểng chùa ". Dù nói như thế nào đi nữa thì ý của
câu nầy cũng nhấn mạnh Mạng Người là hệ trọng nhất.Trong
phần Thiên Lý của Nho Giáo cũng dạy là " Nhân Mệnh Quan
Thiên " 人命關天.( Mạng người có quan hệ với Trời, Trời
đã đặt để sẵn cả rồi ), để khuyên các vì
Vương Hầu không nên sát hại người một cách bừa bãi.
城 門 失 火 , 殃 及 池 魚 。
Thành môn thất hỏa, Ương cập trì ngư.
Chú Thích :
THẤT HỎA : là Bị Hỏa
Hoạn, Bị Cháy.
ƯƠNG : là Tai Ương, Tai
Họa.
ƯƠNG CẬP : là Tai họa lây lan TỚI...Cái
gì đó, Ai đó. Nghĩa Câu : Cửa thành bị cháy, làm
" văng miểng " đến mấy con cá dưới ao cũng bị họa
lây. Tại sao ? Vì lửa mà cháy được cồng thành là
lửa lớn, phải vét hết nước dưới ao để tưới cho
tắt lửa. Ao hết nước thì cá làm sao mà sống ?. Ở đời
có rất nhiều chuyện dây chuyền như thế, ông hàng xóm cháy
nhà, không phải chỉ mình ổng xui thôi, mà những nhà chung
quanh cũng bị xui lây...
庭 前 生 瑞 草 , 好 事 不 如 無。
Đình tiền sanh thoại thảo,
Hảo sự bất như vô.
Chú Thích :
THOẠI
: là Điềm lành.
THOẠI THẢO : Loại cỏ quý
hiếm báo hiệu có điềm lành.
Nghĩa Câu
:
Trước sân mọc cỏ lành, chuyện tốt
cũng bằng không. Trước sân bỗng mọc được loại cỏ
quý hiếm, ai thấy cũng bảo đó là điềm lành điềm
tốt, nhưng chỉ được tiếng thôi, chuyện tốt đó có
cũng như không. Có điềm tốt, bà con kéo đến đầy
nhà để chúc mừng, tốt đâu chưa thấy, trước mắt
phải tốn hao trà nước và phải mất thời gian để tiếp
khách... cho nên bảo " Hảo sự bất như vô " , chẳng bằng
không có chuyện tốt đó còn hơn.
欲 求 生 富 貴 , 須 下 死 工 夫 。
Dục cầu sanh phú quý, Tu hạ tử công phu.
Chú Thích :
DỤC CẦU : Là Muốn cầu
xin, Muốn có được.
TU HẠ : là Phải bỏ ra, Phải
trả giá.
CÔNG PHU : là Công sức ( bỏ ra để
làm việc gì đó ).
Nghĩa Câu :
Muốn
có được cuộc sống giàu sang, thì phải bỏ công sức
ra làm chết bỏ mới có được. Ông bà ta dạy " Đại
phú do Thiên, Tiểu phú do Cần ". Muốn có đời sống giàu
sang phú quý, phải siêng năng và làm việc cậc lực thì
mới có được. Của cải không ở trên trời rớt xuống,
cũng không phải tự dưng đi đường đá phải cục vàng
mà làm giàu được. Trúng số chỉ là một phần triệu
triệu mà thôi !
百 年 成 之 不 足 , 一 旦 敗 之 有 餘.
Bách niên thành chi bất
túc, Nhất đán bại chi hữu dư.
Chú Thích
:
CHI : Ở đây là Phiếm chỉ Đại từ,
cónghĩa :CáiMà...
THÀNH BẠI : Còn được
hiểu là : Được Mất, Hơn Thua .
Nghĩa Câu
:
Cái thành, cái được của một trăm
năm còn chưa đủ, nhưng cái bại, cái mất của một ngày
đã có thừa. Ý chỉ, Cái thành quả tích lũy được
rất khó khăn, ta phải biết trân trọng nó. Nếu phá tán
thì chỉ trong một ngày, thành tích của một trăm năm sẽ
tiêu tan tất cả ! Những người đam mê cờ bạc cần phải
biết câu nói nầy ! . Đệ nhất Cộng Hòa 9 năm xây dựng
, Đệ nhị Cộng Hòa 12 năm duy trì phát triển, chỉ thua một
trận Ban Mê Thuộc là mất sạch tất cả thành tích của 21
năm trước đây cố gắng gian khổ hy sinh...
人 心 似 鐵 , 國 法 如 爐 。
Nhân tâm tự thiết, Quốc pháp như lô.
Chú Thích :
THIẾT : là Sắt.
LÔ : là Lò.
Nghĩa Câu :
Lòng
người như sắt, còn Phép nước như lò. Ý muốn nói,
lòng người có cứng rắn tới đâu, có ngoan cố tới đâu,
thì cũng phải chịu phép, vì Phép nước sẽ nung chảy tất
cả giống như là cái lò luyện kim vậy .
善 化 不 足 , 惡 化 有 餘 。
Thiện hóa bất túc, Ác hóa hữu dư.
Chú Thích :
HÓA : Làm cho trở nên.
Như : Biến Hóa, Hóa Học.
Nghĩa Câu :
( Ở trên đời nầy ) , Cái làm cho trở nên thiện
thì chưa đủ, nhưng Cái mà làm cho trở nên ác thì
có thừa. Xã hội đầy rẫy những cám dỗ để tha hóa
con người, những cái làm cho con người biết hướng thiện thì
rất it.
水
太 清 則 無 魚 , 人 太 緊 則 無 智。
Thủy thái thanh tắc vô
ngư, Nhân thái khẩn tắc vô trí.
Nghĩa
Câu :
( Nơi nào đó ), Nước trong quá
thì không có cá, còn Con người lúc gấp rút quá, khẩn
trương quá, thì thiếu trí sang suốt, không biết phải xử
lý , tính toán làm sao !
知 者 減 半 , 省 者 全 無 。
Tri giả giảm bán, Tỉnh
giả toàn vô.
Nghĩa Câu :
Người
hiểu biết thì giảm một nửa, Người tỉnh ngộ thì hoàn
toàn không có ai.
在 家 由 父 , 出 嫁 從 夫 。
Tại gia do phụ, Xuất giá
tòng phu.
Nghĩa Câu :
Ở
nhà thì mọi việc do cha quyết định, Còn lấy chồng thì
phải theo ý của chồng. Đây là câu nói trong Luận Ngữ được
sửa lại theo lối nói bình dân. Nguyên Văn là : " Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ". Hồi nhỏ,
ở trong chợ Cái Chanh, tôi nghe những người lớn nói chơi như
thế nầy : " Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, đẩy ghe
vô ụ, sứt bánh lái chổng khu ! ".
痴 人 畏 婦 , 賢 女 敬 夫 。
Si nhân úy phụ , Hiền nữ kính phu.
Chú
Thích :
ÚY : là Sợ, Nễ. Như : Hậu sinh khả
úy.
HIỀN : là Hiền Thục. Ngoài nghĩa
KHÔNG DỮ ra, HIỀN còn có nghĩa là GIỎI GIANG. Ví dụ : Hiền
Thần : là Bề tôi giỏi . Hiền Tài : là Người Tài giỏi,
đây còn là một Chức Sắc trong Cao Đài Giáo.
Nghĩa Câu :
Người đàn ông chẳng
ra gì thì sợ vợ, còn người đàn bà hiền thục thì
kính trọng chồng.( Chớ không có ăn hiếp chồng, và phải
biết suy nghĩ như Hoạn Thư trong Truyện Kiều : " Xấu chàng mà
có ai khen chi mình ! " ).
是 非 終 日 有 , 不 聽 自 然 無 。
Thị phi chung nhật hữu, Bất
thính tự nhiên vô.
Chú Thích :
CHUNG
: là Hết, Kết Thúc, Cuối Cùng, là Đuôi. Ví dụ : Cáo
Chung là Chấm hết. Chung Thủy là Đuôi Đầu, " Hữu Thủy
Vô Chung " là Có Đầu không Đuôi, Có mở đầu mà
không có kết thúc.
CHUNG NHẬT : là Suốt ngày.
CHUNG THÂN là Suốt đời. Nghĩa Câu :
Chuyện
thị phi có suốt ngày, nếu không nghe, thì tự nhiên sẽ không
có gì hết !. Nói thì dễ, chớ làm sao không nghe cho đươc
!
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 8
. 出 家 如 初
, 成 佛
有 餘 。
Xuất gia như sơ, Thành phật hữu dư.
XUẤT GIA : là Ra khỏi nhà,
là Đi Tu.
SƠ : là Lúc ban đầu. là Ban Sơ. Sơ Sinh là
Mới đẻ. Mồng,
Mùng : Sơ tam Sơ Tứ là Mùng 3 mùng bốn.
DƯ : là Thừa. Hữu Dư là Có thừa.
NGHĨA CÂU :
Đi
tu mà được như lúc ban đầu mới sơ sinh,( Nhân chi sơ,
tánh bổn thiện ), thì thành Phật có thừa, là dư sức
để thành Phật. Con người ta lớn lên trong gia đình và xã
hội bị xâm nhiễm đủ thứ tham sân si... Nếu giữ cho lòng
được thánh thiện như lúc mới sinh ra, thì thành Phật là
cái chắc ! Nhưng tờ giấy trắng đã nhuốm đủ thứ màu
sắc rồi, muốn trắng lại thật khó lắm thay !!!
積 金
千 兩 , 不 如 明 解 經 書 。
Tích kim thiên lượng, bất
như minh giải kinh thư.
TÍCH : là Để dành. Tích Kim là để dành
Vàng.
MINH GIẢI : là Minh bạch lý Giải, là Hiểu một cách
rõ
ràng, tường tận.
KINH THƯ
: là Sách Vở. Ở đây chỉ sách vở của các học
trò ngày xưa là Tứ Thư Ngũ Kinh.
NGHĨA CÂU :
Để
dành được một ngàn lượng vàng, không bằng hiểu thấu
nghĩa lý của sách vở, của Tứ Thư Ngũ Kinh. Ý câu nầy
là khi hiểu thấu ý nghĩa của Kinh Thư, đi thi đậu làm quan,thì
số tiền kiếm được còn hơn một ngàn lượng vàng
nữa, và một lý giải cao hơn nữa là, khi thấu hiểu nghĩa
lý của kinh thư, biết phải làm sao làm người cho tốt, có
ích cho nhân quần xã hội... thì cái Giá Trị con người
đó còn quý hơn là có được một ngàn lượng
vàng mà... chỉ để trong kho cho...dán ngắm nữa !
養 子 不 教
如 養 驢 , 養 女 不 教 如 養 豬 。
Dưỡng tử bất
giáo như dưỡng la, Dưỡng nữ bất giáo như dưỡng trư.
DƯỠNG :
là Nuôi, ta có từ kép vừa Hán vừa Việt là
Nuôi
Dưỡng.
LA : là Con Lừa.
NGHĨA CÂU :
Nuôi con trai mà
không biết dạy thì như nuôi con Lừa. Còn nuôi con gái mà
không biết dạy thì như nuôi con Heo.
Lừa
là con vật chỉ biết kéo xe hoặc để cởi lòng vòng ở
địa phương. chứ không có chí lớn để vượt ngàn
trùng như Kỳ Ký, hay Thiên lý Mã. Còn Heo thì chỉ có
nước vổ béo để tìm nơi gả bán mà thôi ! Nghĩa
đã rõ, ai muốn hiểu thêm thế nào cũng đựợc !
有 田 不
耕 倉 廩
虛 , 有
書 不 讀
子 孫 愚
。
Hữu điền bất canh
thương lẫm hư, Hữu thư bất độc tử tôn ngu.
倉 廩 虛
兮 歲 月 乏 , 子
孫 愚 兮
禮 義 疏
。
Thương lẫm hư
hề tuế nguyệt phạp, Tử tôn ngu hề lễ nghĩa sơ.
Chú thích :
THƯƠNG LẪM : Thương là KHO, Lẫm là
VỰA , Thương lẫm là Nhà Kho. Ở đây chỉ Cái Bồ Lúa
trong nhà ngày xưa.
HƯ : là Trống không, là Vơi đi. Doanh
Hư : là Đầy Vơi.
ĐỘC : Xin nhắc lại, ngoài nghĩa Đọc,
ĐỘC còn có nghĩa là HỌC. Độc Thư : là Học tập,
Học hành.
PHẠP : là Thiếu, là Mẻ. Khuyết Phạp : là Thiếu
thốn.
SƠ : là Thưa thớt, là Hời hợt.
Nghĩa câu :
Có
ruộng mà không chịu cày, thì bồ lúa sẽ trống không,
Có sách vở mà không biết học, thì con cháu sẽ ngu dốt.
Bồ lúa trống không thì ngày tháng tới sẽ thiếu ăn, Con
cháu ngu dốt thì sẽ không biết gì là lễ nghĩa .
同 君 一 夜
話 , 胜 讀 十 年 書 。
Đồng quân nhất dạ thoại, Thắng
độc thập niên thư.
Chú Thích :
THOẠI : là Lời nói. Động
từ là Nói Chuyện : Đàm Thoại.
THẮNG : là Được
( trái với Thua ). Ở đây có nghĩa là HƠN.
Nghĩa Câu
:
Nói chuyện với anh một đêm còn hơn là đọc sách
mười năm. Đây là cách Nói Nhấn dùng để chỉ người
có kiến thức uyên bác, học nhiều hiểu rộng, nói chuyện
với những người nầy một đêm, cái thu hoạch còn hơn
cả mười năm đèn sách .
人 不 通 今 古 , 馬 牛
而 襟 裾 。
Nhân bất thông kim cổ, Mã ngưu nhi khâm cừ.
Chú Thích :
KHÂM CỪ : Khâm là 2 vạt
áo đối xứng 2 bên, nên KHÂM HUYNH ĐỆ là Anh em Cột Chèo.
Cừ là 2 vạt áo lớn trước và sau của loại áo dài
xưa, nên KHÂM CỪ : là Phiếm chỉ Quần áo của con người
mặc.
Nghĩa Câu :
Người mà không thông chuyện kim cổ,(
Chuyện xưa không biết, chuyện nay cũng không thông, ý chỉ không
chịu học hành, không hiểu biết gì cả ! ), thì như ngựa
trâu mà mặc quần áo vậy.( ý chỉ không biết gì là
lễ nghĩa ở đời.
Đây là 2 câu thơ trong bài thơ "
Phù Độc Thư Thành Nam " của Hàn Dũ ( Một trong Đường
Tống Bát Đại Gia ) đời Đường. Ông chỉ muốn nói
là nếu không chịu học thì không hiểu gì về cách xử
thế ở đời mà thôi, nhưng về sau khi hình thành Thành Ngữ
" KHÂM CỪ MÃ NGƯU "( Ngựa trâu mặc quần áo ) thì nghe
nặng nề như đang " xài xể " ai vậy !. Trong khi đó thì
TAM TỰ KINH lại nói một cách rất nhẹ nhàng là : " Ngọc
bất trác, bất thành khí. Nhân bất học, bất tri lý " mà
thôi !
茫
茫 四 海
人 無 數
, 哪 個
男 兒 是
丈 夫 。
Mang mang tứ hải nhân vô số, Nả cá
nam nhi thị trượng phu.
Chú Thích :
MANG MANG : là Mênh mông , bao la.
NẢ CÁ
: là Cái Nào, Người Nào.
TRƯỢNG PHU : là Đàn Ông,
là Đại Trượng Phu, là CHỒNG.Xin được chiết tự chữ
Trượng Phu như sau : Trượng là 10 thước, Phu là Người Đàn
ông mạnh khỏe. Trượng Phu : Người đàn ông cao lớn và
mạnh mẽ, nghĩa bóng là Người đàn ông có chí lớn,
đáng mặt đàn ông, và... Bất cứ người phụ nữ
nào cũng muốn có được một người phối ngẫu như thế,
nên... nghĩa phát sinh và lại rất thông dụng của từ Trượng
Phu là : CHỒNG.
Nghĩa Câu :
Mênh mông
bốn biển đầy rẫy cả người là người , không biết
ai mới là bậc đại trượng phu đây (... người đàn
ông nào mới đáng mặt đàn ông đây ? ). và cũng
có nghĩa : Người đàn ông nào mới ( đáng mặt ) là
chồng của mình đây ?!.
Xin được giải thích thêm về
từ BỐN BIỂN, là 4 biển nào ?. Ta thường nghe câu " Tứ Hải
giai Huynh đệ "( 4 biển đều là anh em ), hoặc " Đại trượng
phu Tứ Hải vi gia "( Người Đại trượng phu thì 4 biển đều
là nhà ). Theo quan niệm xưa của Trung Hoa, thì " Thiện Hạ " tức
" Thế giới " chỉ có nước TH mà thôi,và vì Môn
học Địa lý chưa phát triển, nên họ nghĩ xung quanh nước
TH đều là biển, Bốn Biển tức là chỉ Cả Nước đó.
Một giải thích khác thì căn cứ vào Bản đồ Địa
lý hiện nay, có 4 biển dọc theo bờ biển của nước TH tính
từ Bắc đến Nam như sau : Bột Hải, Hoàng Hải, Đông Hải
và Nam Hải. Bốn Bể bây giờ còn dùng để chỉ khắp
Thế Giới trong từ : " Bốn bể Năm châu ". Tại ta xài quen chữ
" Bốn Bể " chớ Địa Lý Thế giới tới " Ngũ Đại
Dương " lận !.
白
酒 釀 成 延 好 客 , 黃 金 散 盡 為 收 書
。
Bạch tửu nhưỡng
thành diên hảo khách, Hoàng kim tán tận vị thâu thơ.
Chú Thích :
NHƯỠNG : là
Ủ , là Cất. Nhưỡng Tữu là Ủ rượu, Cất rượu.
DIÊN : là Đãi. Diên Yến là Đãi tiệc.
Nghĩa Câu
:
Rượu trắng nguyên chất cất thành là để đãi
khách quý , Còn Vàng ròng tiêu xài hết là để thu gom
sách vở mà thôi. Ý chỉ : Làm những việc xứng đáng
phải làm. Bỏ công cất rượu ngon chỉ vì muốn đãi khách
quý, tiêu hết gia tài là chỉ để thu mua hết sách quý
trong thiên hạ mà thôi. Giá trị sách vở ngày xưa quý
là thế, nhưng bây giờ bị Internet giết chết queo ! Muốn tìm tài
liệu gì thì cứ " Google " một cái là xong ngay, khỏi lật
sách làm chi cho lâu lắt, mất công, nhiều khi lại toàn là
kiến thức cũ chưa được cập nhật hóa nữa !
____________________________________________
SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
Mùa Xuân hoa cỏ
xanh tươi rực rở với muôn hồng ngàn tía, nhưng... phải ở
hoàn cảnh nào thì cỏ non hoa đẹp mới làm vui long người...
Đôi khi cỏ non hoa đẹp chỉ tạo thêm nỗi tang thương của
cuộc sống mà thôi !!!...
Mời tất cả hãy cùng đọc
bài " Sơn Phòng Xuân Sự " của Sầm Tham thì sẽ rõ...
山房春事 SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
梁園日暮亂飛鴉, Lương Viên nhật mộ loan
phi nha,
極目蕭條三兩家。 Cực mục tiêu điều tam
lưỡng gia.
庭樹不知人去盡, Đình thọ bất tri nhân
khứ tận,
春來還發舊時花。 Xuân lai hoàn phát cựu
thời hoa.
岑參 Sầm Tham.
Chú Thích :
1. Sơn Phòng : là Nhà cất
trên triền núi như là một biệt thự ngày nay, để ngắm
cảnh và hưởng nhàn. PHÒNG là Cái Phòng, nghĩa rộng là
Nhà .
2. XUÂN SỰ : chỉ Xuân Sắc,
Xuân Quang, là Quang cảnh của mùa Xuân.
3.
LƯƠNG VIÊN : là khu vườn nghỉ mát, hưởng nhàn, hưởng
lạc, của Lương Hiếu Vương Lưu Võ đời Tây Hán dựng
nên, còn có tên là Thố Viên 兔园, và tục danh là
Trúc Viên 竹园. Vườn rất lớn, chu vi hơn
300 dặm, tọa lạc tại phía đông của Thương Khâu huyện,
thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay. Trong vườn có Bách Linh Sơn, Lạc
Viên Nham, Thê Long Tụ, Nhạn Trì, Hạc Châu... Tòa ngang dãy dọc,
kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú khắp nơi. Lương Hiếu
Vương từng thiết tiệc lớn nơi nầy, tất cả danh tài đương
thời như Tư Mã Tương Như... đều được mời đến,
nhằm lúc mùa xuân, hoa thơm cỏ biếc, tài tử giai nhân hội
tụ, ngựa xe như nước, áo quần như nen... Phồn hoa nhất thời
không đâu sánh kịp.
4. LOẠN PHI NHA : là Quạ đen bay loan xạ
cả.
5. CỰC MỤC : là Mút tầm mắt.
6. ĐÌNH THỌ : là
Cây cỏ trong sân vườn.
DỊCH
NGHĨA :
Quang Cảnh Mùa Xuân Ở SƠN PHÒNG.
Bài thơ
nầy tả cảnh Sơn Phòng, biệt thự nghỉ mát ngày xưa của
Lương Hiếu Vương sau hơn 500 năm, vào đời Đường, sau
8 năm chiến tranh loạn lạc của loạn An Lộc Sơn, dân cư sơ tán,
cảnh trí tiêu điều,.... Ta hay nghe Sầm Tham kể lể đây...
Chiều
xuống trên Lương Viên lũ quạ bay xao xác, hổn loan. Nhìn mút
tầm mắt chỉ thấy xác xơ tiêu điều vài ba căn nhà còn
xót lại. Trong sân lá hoa cây cỏ không biết người đà
di tản hết rồi, nên khi xuân đến lại vẫn rực rỡ trổ
hoa như những năm nào !
Thiên nhiên cây cỏ vẫn vô tình,
không cảm nhận được cái tang thương biến đổi của
cuộc đời, tàn phá của chiến tranh, ly tan của nhân thế....
DIỄN NÔM :
Vườn Lương chiều
xuống quạ nhởn nha ,
Hoang vắng tiêu điều mấy nóc gia.
Cây
cỏ biết đâu người ly tán,
Xuân về vẫn trổ bấy
nhiêu hoa.!
.
Lục bát :
Lương
viên chiều xuống quạ bay,
Tiêu điều mấy nóc nhà ai hoang
tàn,
Cỏ cây đâu biết ly tan,
Xuân về vẫn nở ngập
tràn hoa xưa !
.
Đỗ Chiêu Đức.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7....
LỜI PHI LỘ
Đây là
loạt bài viết theo yêu cầu của một số em học sinh cũ của
Trường Trung Tiểu Học TÂN HƯNG ở Thị Trấn Cái Răng, nhằm
mục đích ôn tập để nhớ lại các chữ Hoa đã học
bao nhiêu năm trước đây, và đồng thời cũng học thêm
được những chữ, những từ chưa được học.
Song song
với việc học tập mặt chữ cũng nhân dịp để tìm hiểu,
nghiền ngẫm lại những triết lý, luân lý, kinh nghiệm tực tiễn...
trong cuộc sống hằng ngày chung quanh ta, hầu có được cái nhìn
tổng quát về quan điểm sống theo luân lý Đông Á vốn
chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết Khổng Mạnh.
Kết
hợp với những thực tế của cuộc sống hiện tại, của xã
hội mà ta đang sống, để châm chước, so sánh và chọn
lọc những cái tốt, những cái nhân bản cần phải gìn giữ
và tránh né, loại bỏ, cảnh giác với những gì thuộc
về quá khứ, lạc hậu ... Hầu chọn cho mình một thái độ
sống thích hợp hơn với xã hội mà mình đang sống .
Đối
tượng chính của bài viết là các em cựu học sinh TÂN HƯNG,
sẵn gởi luôn đến cho Quý Thầy Cô, Quý Huynh Trưởng, Đồng
học Đồng Môn, Bạn Hữu... để đọc chơi tiêu khiển
và để cùng xem xét, trao đổi và góp ý, chỉ giáo
cho những gì còn SAI, XÓT hoặc cần phải bổ sung.
Chân thành
cám ơn !
Đỗ Chiêu Đức.
......................................................................
增 廣 賢 文 TĂNG QUẢNG
HIỀN VĂN 1
Tăng Quảng Hiền Văn
là một áng văn tập họp lại tất cả những những thành
ngữ tục ngữ, những câu nói nôm na trong dân gian xen lẫn với
các lời dạy của Thánh Hiền, tất cả được sắp xếp
theo vần điệu dễ nhớ để cảnh giác và răn dạy người
đời, để tu tập cho bản thân mà cũng để làm những
lời răn dạy cho con cháu.
Áng văn
nầy thường thấy trong các cuốn lịch Thông Thắng dùng để
xem ngày tốt xấu của người Hoa và của các ông thầy Tướng
Số. Trước đây, ở Chợ Lớn cũng có in riêng thành từng
quyển nhỏ cho tiện việc học hành, nghiên cứu và mang theo bên
mình để có thể giở ra xem bất cứ lúc nào.
Xin được dịch và giới thiệu với mọi người
Áng Văn bất hủ nầy.
TĂNG QUẢNG là làm
cho Gia tăng và Mở rộng.
HIỀN VĂN là Áng văn hay, áng văn
dạy những điều tốt lành.
TĂNG QUẢNG
HIỀN VĂN 增 廣 賢 文 là Áng
văn hay, dạy cho ta những điều tốt điều lành và làm cho
ta gia tăng vă mở rộng thêm kiến thức về mọi mặt của cuộc
sống.
Xin hãy cùng nhau đọc và tìm hiểu
àng văn nầy.
昔 時 賢 文 , 誨 汝 諄 諄 , 集 韻 增 廣, 多 見 多 聞 。
Tích thời hiền văn,
hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn
.
TÍCH 昔: Ghép bởi Trấp( Niệm ) 廿 Nhất 一
Nhật 日, tức 21 ngày. Chuyện gì đó qua ba bảy 21 ngày
là CŨ rồi. Nên TÍCH có nghĩa là XƯA, CŨ. Đi với chữ
Thời chỉ thời gian thành TÍCH THỜI : Có nghĩa là Thửa Xưa,
Hồi xưa. Sở Khanh đã dùng chữ Tích nầy ghép với chữ
Việt, thành TÍCH VIỆT 昔越, để hẹn cô Kiều bỏ
trốn vào giờ Tuất của ngày 21, cô Kiều đã rất thông
minh nên bị mắc bẩy :
Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi
mốt , tuất thì , phải chăng ?
HỐI 誨
: là Dạy dỗ. Giáo Hối là Dạy bảo.
NHỮ 汝: là Ngôi Thứ Hai trong đàm thoại , là Ông Bà Anh
Chị mày...
TRUÂN 諄 : là Chăm chỉ, Tích cực.
TẬP VẬN 集 韻 : là Tập hợp lại theo vần
theo điệu.
KIẾN VĂN : 見 Chữ KIẾN gồm có 2 chữ MỤC 目là Mắt
và NHÂN 人 là Người, nên KIẾN là Mắt của con người,
có nghĩa là NHÌN, THẤY. 聞 VĂN gồm 2 chữ Môn 門 và Nhĩ
耳, Hội ý là đưa lổ tai ra cửa để nghe ngóng, nên có
nghĩa là NGHE . Nên KIẾN VĂN là Nghe Thấy, chỉ sự Hiểu biết,
Kiến thức.
NGHĨA CẢ CÂU :
Những câu văn
hay ngày xưa, lúc nào cũng như đang dạy ta một cách rất
tích cực, gom góp lại những câu nói cho thành vần điệu
với sự hiểu biết về mọi mặt ( Đa kiến đa văn ). Bình
thường ta có thể dùng thành ngữ ĐA KIẾN ĐA VĂN để
chỉ những người có sự hiểu biết và kiến thức rộng
rãi, quảng bác. Ví dụ : "Ông ấy là người chuyện
gì cũng biết, việc gì cũng thông cũng thạo, quả là người
Đa KIến Đa Văn ! ".
觀 今 宜 鑒 古 , 無 古 不 成 今 。
Quan kim nghi giám cổ, vô
cổ bất thành kim.
QUAN : là xem xét, quan sát.
GIÁM : là Cái
gương, Động từ có nghĩa là Soi, Rọi. Ta có quyển " MINH
TÂM BỬU GIÁM " là Tấm gương quí để soi rọi cho lòng
được sáng ra ! ".
NGHĨA CÂU TRÊN :
Xem xét chuyện ngày
nay để tiện việc soi rọi lại những sự việc ngày xưa, ( vì
) Không có xưa thì không thành ngày nay. Ý nói : Không có
xưa làm sao có được ngày nay . Ví dụ : Trong một buổi họp
mặt, có người bảo với bạn là : " Chị mặc chiếc áo
nầy đẹp nhưng kiểu dáng xưa quá đi ! ". Bạn sẽ bảo
với họ rằng : " Vô Cổ Bất Thành Kim mà, không có xưa
làm sao có nay đươc ! "
知 己 知 彼 , 將 心 比 心 。
Tri kỷ tri bỉ , tương
tâm tỉ tâm.
KỶ là TỰ KỶ 自己 : là Bản thân mình. là TA. là Mình.
BỈ là KIA , là Cái Kia, Người Kia, là Khác. là Người
ta.
TƯƠNG : là Đem, lấy ( động từ ).Cũng chữ nầy, nếu
đọc là TƯỚNG ( danh từ ), thì có nghĩa là Tướng Sĩ
Tượng.
TỈ là TỈ GIẢO 比較
: Có nghĩa là So sánh.
NGHĨA CẢ CÂU :
( Nên ) Biết mình
biết người, ( biết ) lấy lòng mà so sánh với lòng. Trong Binh
Pháp Tôn Tử có câu : Biết người biết ta thì trăm trận
trăm thắng. ( Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng ). Ví dụ
: So sánh hành động của 2 người cùng một sự việc khó
phân biệt thì ta có thể dùng câu : Tương tâm tỉ tâm,
lấy lòng mà so sánh lòng thì chưa chắc gì ai đã tốt
hơn ai !.
酒 逢 知 己 飲 , 詩 向 會 人 吟 。
Tửu phùng tri kỷ ẩm,
thi hướng hội nhân ngâm.
PHÙNG là Gặp gỡ.
TRI KỶ :
là Hiểu mình. Chỉ bạn thân, thông hiểu ý nhau.
HỘI : Ở
đây có nghĩa là HIỂU, BIẾT, chớ không phải là Hội
họp. HỘI NHÂN : là Người Hiểu biết, thông thạo về việc
gì đó.
NGHĨA CẢ CÂU :
Rượu gặp người tri kỷ
mới uống, ( chỉ nhậu với bạn thân mà thôi ).( cũng như )
Thơ chỉ ngâm cho những người hiểu biết về thơ nghe ( mà thôi
). Ngâm không đúng đối tượng thì như nước đổ
lá khoai, không khéo họ còn cười mình vớ vẩn nữa là
khác.
相
識 滿 天 下 , 知 己 能 幾 人 。
Tương thức mãn thiên
hạ, tri kỷ năng kỷ nhân.
TƯƠNG THỨC : là Quen biết nhau.
MÃN : là Đầy, ở đây có nghĩa là Khắp.
THIÊN
HẠ : là Dưới vòm trời, có nghĩa là Trên đời nầy.
NĂNG : là Được, ở đây có nghĩa là Có Thể (
có được ).
Kỷ 幾 : là Mấy, là Bao nhiêu.
NGHĨA CẢ CÂU :
( Dù
cho ) có quen biết hết người ở trên đời nầy, thì...Bạn
tri kỷ, thân thiết có được mấy người đâu. Có người
suốt đời không có lấy một người tri kỷ. Chỉ bạn thân
thiết thực sự ở trên đời rất hiếm.
相 逢 好 似 初 相 識 , 到 老 終 無 怨 恨 心 。
Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo
lão chung vô oán hận tâm.
TƯƠNG PHÙNG : là Gặp gỡ
nhau.
HẢO : là Tốt , chữ nầy được ghép bởi 2 chữ NỮ
女 là Con Gái và TỬ 子
là Con Trai. Nhà có con Trai con Gái là điều tốt, hay nói cho đúng
là : Sự kết hợp giữa NAM và NỮ là điều tốt lành,
nên chữ HẢO có nghĩa là TỐT là vì vậy.
SƠ : là
Ban đầu, là Bắt đầu. Sơ Học : là lớp mới bắt đầu
học. Nhân Chi Sơ tay rờ cơm nguội là chữ SƠ nầy. Đầu
tháng Sơ tam Sơ Tứ : Mùng 3 mùng 4, cũng là SƠ nầy.
CHUNG
: là Hết, là Kết cuộc, là Chết.
NGHĨA CẢ CÂU :
Gặp
lại nhau mà còn tốt được với nhau như lúc ban đầu mới
quen biết, thì tới già tới chết cũng không có oán hận
gì nữa cả !. Thường thì con người ta hay tốt với nhau trong buổi
ban đầu gặp gỡ, rồi... quen lâu đâm ra nhàm chán, hời hợt...
thậm chí còn " thấy mà ghét " nhau nữa là đằng khác.
Hẹn gặp lại tuần sau....
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 2
近 水 知 魚 性 , 近 山 識 鳥 音 。
Cận thủy tri ngư tánh, cận sơn thức điểu âm.
TÁNH : còn đọc là TÍNH. Tính tình hay tánh tình là
Cái THÓI.
NGHĨA CẢ CÂU :
Ở gần nước thì sẽ biết
thói quen của Cá,( cũng như ) Ở gần núi thì sẽ biết (
phân biệt ) được tiếng hót của các loài Chim. Câu nầy
chỉ, tùy theo môi trường mà ta đang sống có thể tạo nên
cho ta những kỹ năng, khả năng đặc biệt.
易 漲 易 退 山 溪 水 , 易 反 易 覆 小 人 心 。
Dị trướng dị thối sơn khê thủy, Dị phản
dị phúc tiểu nhân tâm.
DỊ : Hình dung từ, có nghĩa là
Dễ, dễ dàng.
Động từ, đọc là DỊCH, có nghĩa là
Thay đổi. Vd: Dịch lý.
TRƯỚNG : là Tràn trề. Gồm 3 chấm
Thủy chỉ Ý và chữ Trương chỉ Âm.
THỐI : Còn đọc
là THOÁI, có nghĩa Trở lui, Thụt lùi, Rút.
KHÊ : Ta đọc
trại thành KHE, là Dòng nước từ trong núi chảy ra, nên thường
được gọi là Sơn Khê. Tương đương với SUỐI.
PHẢN : là Ngược lại, Chỏi lại, Trở mặt.
PHÚC : là
Che phủ, Bao phủ. Vd: Thiên Phúc Địa Tải 天覆地載, là Trời che Đất chở. là Lật nhào,Lật úp.
Vd: Phúc chu 覆舟 là Thuyền bị lật úp,
là Chìm ghe. là LẬT NGƯỢC LẠI. Vd: Phản Phúc.
NGHĨA CẢ
CÂU :
Dễ tràn dễ rút là nước trong khe núi chảy ra, (
hễ mưa xuống là nước tràn lan, còn trời nắng thì nước
cạn queo.). Dễ trở mặt và lật ngược lật ngang là lòng
dạ của kẻ tiểu nhân. ( Phải nên cẩn thận đề phòng
).
運
去 金 成 鐵 , 時 來 鐵 似 金 .
Vận khứ kim thành thiết,
thời lai thiết tự kim.
Khi thời vận xoay chuyển đi rồi, tức là
khi Hết Thời rồi, thì vàng trở thành sắt ,Ví dụ như trong
nạn đói vì khan hiếm lương thực, có vàng cũng không
mua được thức ăn. Và... Khi thời vận đến rồi, thì sắt
cũng quí tợ như vàng. Ví dụ như sau Thế Chiến Thứ 2, sau
chiến tranh đổ nát, cần xây dựng lại, nên những nhà đầu
cơ buôn bán sắt lại trở nên giàu sụ, vì sắt quí...như
vàng !
讀
書 須 用 意 , 一 字 值 千 金 。
Độc thư tu dụng ý,
Nhất tự trị thiên kim.
ĐỘC THƯ : là Đọc sách, nhưng
ở đây có nghĩa là Học Hành, chớ không phải đọc
sách khơi khơi. Vì ngày xưa Đọc Sách tức là HỌC đó.
TU 須 : là Cần Phải, khác với
TU 修 là Sửa Đổi, Tu Tập.
TRỊ
: là Đáng Giá. Khi đọc là TRỰC thì có nghĩa là
Canh Giữ, Ví dụ : Trực Nhật, Trực Ban.
NGHĨA CẢ CÂU :
Học
hành cần phải để ý ( học cho đàng hoàng ), Vì... Một
chữ ( nhiều khi ) đáng giá cả ngàn vàng lận !. Ngày xưa
học chữ NHO nên Một Chữ đáng giá Ngàn Vàng, ngày nay
học Luật, Một Chữ nhiều khi còn đáng giá hơn cả Ngàn
Vàng nữa là khác !
逢 人 且 說 三 分 話 , 未 可 全 拋 一 片 心 。
Phùng nhân thả thuyết
tam phân thoại, Vị khả toàn phao nhất phiến tâm.
THẢ : Chữ
Thả ở đây có nghĩa như chữ CHỈ, Chỉ nên.
VỊ KHẢ
: là Không Thể, ở đây có nghĩa là Không Nên.
PHAO
: là Ném, là Quăng, là Liệng. Ở đây có nghĩa là
TRÚT.
NHẤT PHIẾN : là Mạo từ ( article ), có nghĩa Một Tấm,
Một Miếng, Một Mảnh.
NGHĨA CẢ CÂU :
Gặp người nào
đó chỉ nên nói ba phần chuyện của mình thôi, chớ không
nên trút hết cả bầu tâm sự của mình với người khác.
Có nhiều người mới gặp mặt chưa thân thiết là bao mà
đã mang cả chuyện gia đình ra mà... tâm sự, gởi gắm tâm
sự không đúng đối tượng, không hợp thời điểm, chẳng
những làm cho người... được tâm sự đâm ra nhàm chán,
mà lắm khi còn đâm ra bực mình nữa !. Vạch lưng cho người
xem thẹo, hại nhiều lợi ít !
有 意 栽 花 花 不 發 , 無 心 插 柳 柳 成 陰 。
Hữu ý tài hoa hoa bất
phát, Vô tâm tháp liễu liễu thành âm.
TÀI : là Trồng.
Tài Hoa là Trồng bông.
PHÁT : là Mọc lên, Vượt lên.
Phát Triển.
THÁP : là Cắm, là Ghép, là Chen Vào. như
Tháp Tùng chẳng hạn.
ÂM 陰 : là trái với DƯƠNG, Ở
đây có nghĩa thông dụng với chữ ÂM có Thảo đầu
蔭, là Bóng Râm, Bóng Mát. Trong câu
có nghĩa là Xanh om, Rậm rạp.
NGHĨA CẢ CÂU :
Có ý
trồng hoa thì hoa không mọc, Vô tình cắm nhánh liễu ( xuống
đất ) thì liễu lại xanh om. Ở đời, có nhiều việc ta cố
tâm để làm, mà không có thành tựu gì cả. Còn
có những việc ta chỉ làm chơi chơi thôi, không chờ đợi
thành tựu, mà lại có kết quả tốt bất ngờ.
Cố ý
đeo đuổi, tốn nhiều công sức thời gian để tỏ tình với
người nào đó, nhưng họ lại làm ngơ như không hay biết.
Có khi, chỉ buông lời trêu ghẹo khơi khơi thôi mà có người
lại thương yêu thật tình.
畫 虎 畫 皮 難 畫 骨 , 知 人 知 面 不 知 心 。
Họa hổ họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri diện
bất tri tâm.
HỌA : là Vẽ. Chữ nầy được ghép bởi
bộ DUẬT 聿 là
Cây Viết,
bên dưới là chữ Điền 田 là Miếng
Ruộng và Chữ Nhất 一. Nghĩa Hội Ý là thuở
ban sơ người ta dùng cây viết ghi lại miếng đất trồng trọt
của mình trong phạm vi giới hạn ( chữ Nhất ). Nên có nghĩa là
VẼ là vậy.
NAN : là Khó, Khó khăn. Khi đọc là NẠN
thì có nghĩa là Tai Nạn.
CỐT : là Xương. Nghĩa bóng
là Cái Dáng Vẻ, Vd : CỐT CÁCH.
NGHĨA CẢ CÂU :
Vẽ
cọp vẽ da của nó, khó vẽ, nhưng còn vẽ được, chứ
xương ở bên trong của nó thì vô phương vẽ được,
Cũng như con người, ta chỉ biết bề ngoài , mặt mũi, chớ không
thể nào biết được trong lòng của người ta như thế nào
! ( tốt hay xấu, thiện hay ác??!! ).
Đây là kiểu nói theo ngày
xưa, chớ hiện nay, vẽ xương cọp đâu có khó khăn gì
! Khoa học kỹ thuật tiến bộ, người ta vẽ cả hình dáng những
con vi khuẩn nhỏ hơn mắt thường nhìn thấy cả triệu lần !
Đây là câu nói theo kiểu Lung Khởi để đưa vào ý
chính ở câu sau là : Lòng người khó lường, ai tốt ai xấu
rất khó phân biệt, không thể xem mặt mà bắt hình dong được
! Luôn luôn phải đề phòng cảnh giác với tất cả mọi
người chung quanh. Nói thế tuy có hơi bi quan, nhưng Cẩn tắt vô
ưu vẫn hơn !.
錢 財 如 糞 土 , 仁 義 值 千 金 。
Tiền tài như phân
thổ, Nhân nghĩa trị thiên kim.
NGHĨA CÂU NÓI :
Tiền bạc
tài sản như phân ( cứt ) như đất, ( ta nói là như cỏ
như rác, không có giá trị ). Nhân từ nghĩa hiệp mới đáng
giá ngàn vàng. Ý câu nói nầy là đề cao NHÂN NGHĨA,
coi nhẹ TIỀN TÀI. Vì người đời luôn luôn coi trọng TIỀN
TÀI hơn NHÂN NGHĨA, câu nói trên thường được nói
lại với giọng điệu mỉa mai như sau :
Tiền tài như ông
Tiên Tổ, Nhân nghĩa tợ cục cứt khô.
Người đời, ngoài
miệng luôn luôn nói nhân nói nghĩa, nhưng trong bụng lại vẫn
cứ xem trọng tiền tài hơn.
流 水 下 灘 非 有 意 , 白 云 出 岫 本 無 心 。
當 時 若 不 登 高 望 , 誰 信 東 流 海 樣 深 。
Lưu thủy hạ than phi hữu ý, Bạch vân xuất tụ
bổn vô tâm.
Đương thời nhược bất đăng cao vọng,
Thùy tín đông lưu hải dạng thâm.
THAN : là Cái Bãi.
Ví dụ : Bãi sông , Bãi biển.
TỤ : là Hang Núi.
NHƯỢC
: là Nếu, Nếu như.
NGHĨA CẢ CÂU :
Nước chảy tuôn
xuống dưới bãi là không phải có ý muốn chảy xuống
bãi, cũng như mây trắng bay ra khỏi hang núi là do gió đưa
tự nhiên, chớ không phải bản tâm mây muốn bay đi. Lúc đó,
nếu không có lên trên cao mà nhìn xuống, thì có ai tin được
rằng, nước chảy về biển đông là thăm thẳm như thế
kia đâu !.
Câu nầy để dùng các trường hợp chỉ
sự đưa đẩy tự nhiên, chẳng đặng đừng, những diễn
biến tự nhiên mà bản thân mình không thể khống chế được,
chớ bản tâm không hề muốn thế.
.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 3
.
.
路 遙 知 馬 力 , 事 久 見 人 心 。
Lộ diêu tri mã lực , Sự cữu kiến nhân tâm.
LỘ DIÊU : Lộ là Đường, Diêu là Xa. LỘ DIÊU là Đường
Xa. Vế nầy còn một dị bản nữa mà người Việt ta hay nói
là : TRƯỜNG ĐỒ tri mã lực. Trường là Dài, Đồ
là Đường . TRƯỜNG ĐỒ là Đường Dài. ĐƯỜNG
DÀI và ĐƯỜNG XA nghĩa cũng tương cận như nhau mà thôi.
MÃ LỰC : là Sức Ngựa. Ngựa là con vật được thuần
hóa và sống gần gũi gắn bó với con người sớm nhất,
trong tất cả các mặt vận chuyển, sản xuất, nhất là trong việc
đi lại, giao thông, Từ xưa đã không thể thiếu bóng con ngựa,
nên chi, ông cha ta mới lấy cái SỨC NGỰA làm tiêu chuẩn cho
tốc độ giao thông, vì thế mà ta có xe SONG MÃ, TỨ MÃ...
Ngựa càng nhiều thì MÃ LỰC càng mạnh càng nhanh càng dai
.
NGHĨA CẢ CÂU :
Đường có xa có dài thì mới biết
được sức ngựa có nhanh có bền hay không, Cũng như việc
gì cũng phải cần có thời gian lâu dài mới thấy được
lòng người như thế nào.( Tốt hay xấu, thiện hay ác ). Câu
nầy rất thường được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày,
để khuyên người khác chớ quá vội tin hoặc đánh giá
ai tốt ai xấu trong buổi đầu gặp gỡ. Thời gian sẽ là Ông
Thầy soi sáng tất cả !
兩 人 一 般 心 , 有 錢 堪 買 金 ,
Lưỡng nhân nhất ban
tâm, hữu tiền kham mãi câm ( kim ),
一
人 一 般 心 , 無 錢 堪 買 針 。
Nhất nhân nhất ban tâm,
vô tiền kham mãi châm.
NHẤT BAN : Khi là Mạo từ thì có
nghĩa : Một số, Một nhóm. Vd : Nhất Ban Nhân 一 般人 là Một Số người, Một nhóm người.
Khi là Hình Dung Từ thì có nghĩa là Bình Thường.Vd : Ngận
Nhất Ban 很 一 般 : có nghĩa là Rất Bình
Thường. Trong Câu nói trên, NHẤT BAN có nghĩa là : Giống Nhau,
Như Nhau, Cùng Một Thứ.
KHAM : là Chịu đựng được, Chấp
nhận được, Có thể được.
CÂM
: là Âm đọc trại của chữ KIM 金 là Vàng, hoặc KIM
今 là hiện nay, Vd: như CỔ KIM 古今 đọc
thành Cổ Câm, cho Nó Ăn Vận.
NGHĨA CẢ CÂU :
Hai người
cùng một lòng, thì có tiền có thể mua vàng được.
Còn mỗi người một lòng dạ riêng biệt, thì sẽ không
có được tiền để mà mua cây kim nữa ! Ý Câu nầy
nói : Khi Hai Vợ chồng, hai Anh em, hai Người bạn... cùng chung lòng chung
sức nhau để làm ăn , thì sẽ kiếm được nhiều tiền
có thể mua vàng được. Còn như mỗi người một lòng
dạ khác nhau, nghịch mười hai, không chịu hợp tác làm ăn,
thì sẽ không có được tiền để mà mua cây kim nữa
! Trong tiếng Việt ta cũng có câu nói tương đương là
: Đồng vợ đồng chồng tác bể Đông cũng cạn !
相 見 易 得 好 , 久 住 難 為 人 。
Tương kiến dị đắc hảo, Cữu trú nan vi nhân.
ĐẮC : là Được, DỊ ĐẮC là Dễ Được, Dễ
dàng mà có được.
TRÚ : là Ở. CỮU TRÚ là
Ở Lâu, Nán lại lâu ngày.
VI : là Làm. VI NHÂN là Làm
Người. NAN VI NHÂN có 2 nghĩa tùy cách ngắt câu :
1. NAN - VI
NHÂN : là Khó mà làm người, khó cư xử.
2. NAN VI - NHÂN
: là Làm khó người ta, làm khó dễ người khác.
NGHĨA
CẢ CÂU :
Gặp lại nhau ( tay bắt mặt mừng ) dễ tốt với nhau
lắm, nhiệt tình lắm !. Nhưng , nếu cùng ở chung với nhau lâu
ngày thì sẽ rất khó làm người, mà cũng làm khó
cho người nữa.
Hai người bạn thân lâu ngày gặp lại,
nhất là ở trên đất Mỹ nầy, tha hương ngộ cố tri, vui
biết bao nhiêu, rồi... người nầy mời người kia về ở chung
nhà, rồi... ở chung lâu ngày đâm ra nhàm chán nhau, người
nầy chỉ trích khuyết điểm của người kia, người kia phê
bình thói xấu của người nầy, rồi... người nầy mát
mẻ người kia, người kia xóc hông người nọ, thậm chí
cải vả gấu ó nhau, rồi... chia tay nhau và không thèm nhìn mặt
nhau nữa !. Rồi.... và rồi... chưa nói đến chuyện là còn
có một người đàn bà thứ 3 trong nhà nữa nhé !!!.
Cho
nên, bạn bè thân thiết gặp nhau, tay bắt mặt mừng, cà phê
cà pháo, hay chén chú chén anh xong là... ai về nhà nấy cho chắc
ăn. Ngày xưa, khi còn là thanh niên, Ba tôi cũng thường nhắc
nhở tôi câu nầy : " Bạn bè, đồng học ngày xưa tuy thân
thiết đó, nhưng " Tương kiến ( thì ) dị đắc hảo,(
còn ) Cữu trú ( sẽ ) nan vi nhân " đó, nhớ nhen con !!!
馬 行 無 力 皆 因 瘦 , 人 不 風 流 只 為 貧 。
Mã hành vô lực giai nhân xú, Nhân bất phong
lưu chỉ vị bần.
GIAI : là Đều. NHÂN : là Vì, Do. GIAI NHÂN
: là Đều do, Đều vì. Khác với GIAI NHÂN 佳人 là Người đẹp.
XÚ : là
Ốm. là Gầy.
PHONG LƯU : là Sự lưu động của gió làm
cho mát mẻ dễ chịu. nên PHONG LƯU là Cái phong thái dễ mến,
cái thái độ phóng khoáng, dễ chịu. Con người phong lưu
: là con người có tác phong cởi mở, không gò bó, " chịu
chơi ", nên người ta cứ lầm tưởng là Con người ăn
chơi. Cuộc sống phong lưu : là Cuộc sống dễ chịu, thoải mái,
nên người ta cứ cho là cuộc sống giàu sang.
BẦN : là nghèo.
Bần Cùng là Nghèo khó.
NGHĨA CẢ CÂU :
Ngựa chạy không
có sức, chạy không nổi đều do ngựa ốm yếu, còn con người
không tỏ ra phong lưu được cũng chỉ vì nghèo mà thôi.
Con ngựa thiếu ăn, ốm nhom ốm nhách làm sao chạy mau cho được
?! Con người cũng thế, nghèo túng chạy lo ba bửa ăn còn khó,
thì làm sao tỏ ra phong lưu thoải mái cho đựợc. Van tội bất
ư " nghèo " mà !. Nghèo là cái " Tội " nặng nhất
mà con người phải gánh chịu !
饒 人 不 是 痴 漢 , 痴 漢 不 會 饒 人 。
Nhiêu nhân bất thị si hán, Si hán bất hội nhiêu
nhân.
NHIÊU : là Tha Thứ, không chấp nê. Vd : Nhiêu dung.
SI :
là U mê, là Ngớ ngẩn, là Không ra gì, là Ngốc nghếch.
Trong câu SI HÁN là Người đàn ông Khùng điên, ngốc
nghếch. SI còn có nghĩa là MÊ MẨN. Vd : SI TÌNH là Mê mẩn
vì tình.
BẤT HỘI : là Không biết, Không có khả năng.
NGHĨA CẢ CÂU :
Không chấp nê, biết tha thứ cho người khác,
thì đâu phải là người khùng điên gì, Vì nếu
là người khùng điên chả ra gi thì sẽ không biết nhiêu
dung tha thứ. Ở đời, nhiều khi tốt quá, nhân từ quá, rộng
rãi quá... cũng bị người khác cho là " đồ điên
" !
是
親 不 是 親 , 非 親 卻 是 親 。
Thị thân bất thị thân,
Phi thân khước thị thân.
THÂN : Tính từ là Thân thiết,
Thân mật.
Danh từ là Người Thân thích ruột rà.
KHƯỚC
: là Liên từ có nghĩa là LẠI, MÀ LẠI.
NGHĨA CỦA CÂU
:
Là người thân mà không phải là người thân. Không
phải là người thân mà lại là người thân. Trong cuộc
đời thường có nhiều cảnh tréo ngoe như thế. Bà con thân
thích đó, nhưng vì một lý do nào đó, nên không
có qua lại, rồi trở nên lạnh nhạt nhau như người dưng. Còn
có nhiều người dưng nước lả, nhưng lại gần gũi qua lại,
chăm lo săn sóc nhau như là người thân với nhau vậy. Đây
là chuyện rất thường thấy trong cuộc sống hằng ngày !
美 不 美 , 鄉 中
水 , 親 不 親 , 故 鄉 人 。
Mỹ bất mỹ, hương
trung thủy, thân bất thân, cố hương nhân.
HƯƠNG TRUNG THỦY
:
là Dòng nước trong quê hương, tức là Dòng Sông của
Quê Hương đó.
NGHĨA CỦA CÂU :
Đẹp hay không đẹp,
thì cũng là dòng sông của quê hương, Thân hay không thân
thì cũng là người của cố hương mà ! Câu nói nầy
rất thực tế và phù hợp với những người đang kiều cư
ở nước ngoài. Dòng sông quê hương có thể không đẹp
bằng sông Danube, sông Seine... nhưng nó luôn luôn rất đẹp trong
lòng người xa quê, vì ... nó là Dòng Sông Quê Hương
!. Con người cũng vậy, đang đi trên đường phố ở Mỹ,
ở Úc, ở Pháp, ở Ý, ở Đức...mà gặp được
một người VN, tự dưng ta cũng thấy thân thiện hơn, mặc dù
trước đó chưa hề quen biết, vì đó là " Cố Hương
Nhân " mà !
鶯 花 猶 怕 春 光 老 , 豈 可 教 人 枉 度 春 。
Oanh hoa do phạ xuân quang lão,
Khởi khả giáo nhân uổng độ xuân.
相 逢 不 飲 空 歸 去 , 洞 口 桃 花 也 笑 人 。
Tương phùng bất ẩm
không qui khứ, Động khẩu đào hoa dã tiếu nhân.
OANH HOA : là Chim Hoàng oanh và Hoa cỏ.
DO PHẠ : là Còn
sợ , còn e.
XUÂN QUANG : là Quang cảnh của mùa xuân.
KHỞI
KHẢ : là Làm sao mà có thể...
GIÁO NHÂN : là Bảo người
ta, Làm cho người ta.
UỔNG ĐỘ : là Sống một cách oan uổng,
lãng phí.
KHÔNG QUY KHỨ : là Đi về không không có làm
gì cả.
NGHĨA BÀI THƠ TRÊN :
Chim Hoàng oanh và Hoa cỏ còn
lo sợ rằng mùa xuân sẽ già đi ( nên tranh thủ hót và
nở rộ trước khi xuân tàn ). Thì con người làm sao có thể
dửng dưng mà để cho mùa xuân đi qua một cách oan uổng đáng
tiếc thế kia. Cho nên, gặp nhau đây mà lại đi về không ,
không uống với nhau một ly nào, thì Hoa đào trước cửa động
cũng cười nhạo rằng sao con người lại vô tâm với mùa
xuân đến như thế !?
Trong quang cảnh của mùa xuân, bạn bè
gặp gỡ nhau mà mời rượu nhau như thế nầy, thì dù không
biết uống cũng phải ráng mà nhắm mắt ực đại một ly,
để cho " Động khẩu đào hoa " khỏi phải " tiếu nhân
" chứ nhỉ !!!
紅 粉 佳 人 休 便 老 , 風 流 浪 子 莫 教 貧.
Hồng phần giai nhân hưu
tiện lão, Phong lưu lãng tử mạc giáo bần.
HỒNG PHẤN GIAI
NHÂN : là Người đẹp mặt hoa da phấn.
HƯU : là Nghỉ ngơi.
Ở đây là Phó từ có nghĩa là : Đừng.
MẠC GIÁO
: là Đừng để cho, đừng làm cho.
NGHĨA 2 CÂU TRÊN :
Người đẹp mặt hoa da phấn thì đừng để cho phải già
cỗi bình thường ( già sẽ hết đẹp đi ). Cũng như kẻ
lãng tử phong lưu thì đừng để cho phải nghèo ( nghèo thì
làm sao còn phong lưu cho được ! ). Đây là một ước vọng
rất chân thành và thực tế, muốn cho người đẹp sẽ đẹp
mãi và kẻ phong lưu lãng tử luôn luôn được " phong
lưu " chớ không phải vướng cảnh túng nghèo ! Ta cũng thường
nghe câu : " Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, Bất hứa nhân
gian kiến bạch đầu " là thế ! ( Bất Hứa là : KHÔNG CHO.
nên câu trên có nghĩa là : Từ xưa đến nay, người đẹp
cũng như là nhữngTướng giỏi, thường không để cho người
đời thấy mình đầu bạc. Vì... Đầu Bạc thì người
đẹp sẽ hết đẹp, và Tướng giỏi sẽ hết... gân, hết
giỏi nữa ! ) .
Xin hẹn tuần sau...
.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 4
.
在 家 不 會 迎 賓 客 , 出 外 方 知 少 主 人 。
Tại gia bất hội nghinh tân khách,
Xuất ngoại phương tri thiểu chủ nhân.
TẠI GIA : là Ở nhà.
BẤT HỘI : là Không biết, Không hiểu.
NGHINH TÂN KHÁCH : là
Đón khách khứa.
XUẤT NGOẠI : là Đi ra ngoài, Đi xa nhà.
PHƯƠNG TRI : là Mới biết rằng, Mới thấy là.
THIỂU : là
Thiếu , là ít. Khi đọc là THIẾU thì có nghĩa là Trẻ.
NGHĨA CỦA CÂU :
Khi ở nhà không biết cách tiếp đãi
khách khứa, đến khi đi ra ngoài làm khách của người ta
mới thấy là xưa nay mình đã thiếu bổn phận làm chủ
của mình !
Câu
nói nầy rất thực tế trong đời sống bình thường, đi
làm khách, ai cũng bở ngở ngại ngùng, nhưng nếu người chủ
biết cách tiếp đãi cho đàng hoàng chu đáo, thì khách
sẽ cảm thấy dễ chịu và tự nhiên hơn. Thường có đi
ra ngoài làm khách của người ta rồi, thì về nhà mới
biết cách tiếp khách cho chu đáo.
黃 金 無 假 , 阿 魏 無 真 。
Hoàng kim vô giả, A ngụy vô
chơn.
A NGỤY : là Một vị thuốc Bắc, dạng khối, giống như
A Dao, Đường phèn, mùi vị hắc như tỏi và màu sắc
vô định, có thể là màu vàng dợt, vàng đậm, cánh
kiến, màu đỏ, huyết vụ, chocolat,màu nâu...
NGHĨA CỦA CÂU
:
Màu của vàng ròng ( 24 ) thì không thể giả được,
chớ A ngụy thì không có màu thật của nó. Vàng 4 số
9 thứ thiệt thì làm sao mà giả cho được, ông bà mình
đã nói là : " Vàng thật không sợ lửa " mà ! Lửa
đốt như thế nào cũng không làm cho màu vàng phai đi được
!. Còn chất A NGỤY thì lại không có màu thật của mình,
màu nào cũng nói là A Ngụy được. Ở đời có nhiều
thứ không bao giờ giả được, như màu vàng ( golden ) của vàng.(
Vì ngày xưa chưa có kỹ thuật MẠ vàng, chớ bây giờ
thì Mạ một cái là ra màu của vàng như chơi ! ). Lại có
những thứ không làm sao phân biệt được thật giả như
A Ngụy, thật như giả, giả mà thật !.
客 來 主 不 顧 , 應 恐 是 痴 人 。
Khách lai chủ bất cố, Ưng khủng thị si nhân.
CỐ
: là Dòm ngó đến, là Chiếu cố, là Săn sóc đến.
ƯNG KHỦNG : là Chỉnh e rằng, Sợ là.
SI NHÂN : là Người
Ngu, Ngốc, Chẳng ra gì. Người không biết điều, Người Cà
chớn. Giống như từ SI HÁN ở những bài trước.
NGHĨA CẢ
CÂU :
Khách tới nhà mà chủ không ngó ngàng đến,
thì e rằng ( người ta ) sẽ cho mình là người ngốc nghếch
không biết điều. Tiếp khách đến nhà là điều cơ
bản nhất trong giao tế thường nhật, điều nầy còn không biết,
còn làm không xong, thì quả là người chẳng ra chi, dễ bị
người đời khinh miệt.
貧 居 鬧 市 無 人 問 , 富 在 深 山 有 遠 親 。
Bần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại
thâm sơn hữu viễn thân.
NÁO THỊ : là Chợ búa ồn ào,
nơi có đông người qua lại.
THÂM SƠN : là Núi sâu,
chỉ ở vùng sâu vùng xa.
VIỄN THÂN : là Bà con ở xa.
NGHĨA CỦA CÂU :
Nghèo mà ở nơi chợ búa ồn ào đông
đảo, cũng không có ai thèm hỏi tới. Còn giàu mà ở
trong núi sâu ( hiểm trở khó đi ) cũng có bà con ở xa đến
thăm. Đây là một mặt của nhân tình thế thái rất bình
thường trong cuộc sống. Nghe như bi quan, nhưng thực tế vô cùng.
Câu nói nầy rất thông dụng trong dân gian VN ta, và còn một
dị bản như sau :
Bần cư tại thị vô nhân thức, 貧居在市無人識,
Phú
tại thâm sơn hữu khách tầm. 富在深山有客尋.
Nghèo mà ở chợ
cũng không có người biết đến mình, còn giàu mà ở
trong núi sâu cũng có khách tìm đến để thăm.
誰 人 背 後 無 人 說 , 哪 個 人 前 不 說 人 。
Thùy
nhân bối hậu vô nhân thuyết, Nả cá nhân tiền bất thuyết
nhân.
THÙY : là Ai, là Người Nào.
BỐI HẬU : là Sau
lưng.
NẢ CÁ : là Người nào ? Nả là Nghi vấn tự :
Nào ?
NGHĨA CỦA CÂU :
Ai là người mà sau lưng không
bị người khác nói nầy nói nọ, Người nào mà trước
mặt người nầy lại không nói chuyện người nọ. Câu nói
nầy đúng với đàn ông 60%, nhưng lại đúng với đàn
bà 99% lận ( xin lỗi các bà ! ). Thường thì người ta trước
mặt người nầy hay nói chuyện người khác lắm !.
有 錢 道 真 語 , 無 錢 語 不 真 。
Hữu tiền đạo chơn ngữ,
Vô tiền ngữ bất chơn.
不 信 但 看 筵 中 酒 , 杯 杯 先 勸 有 錢 人 。
Bất tín đản khan diên trung
tửu, Bôi bôi tiên khuyến hữu tiền nhân.
ĐẠO : Danh từ
: có nghĩa là Con Đường. là Đạo mà người ta tu theo.
Như Đạo Phật, Đạo Hồi, Đạo Thiên Chúa....
Động
từ : có nghĩa là NÓI, Nói Rằng.
NGỮ : là Lời nói.
Chơn Ngữ : là Lời nói thật.
TÍN : là Tin. Bất Tín là
Không tin.
DIÊN : là Tiệc. Diên Yến là Tiệc Tùng.
KHUYẾN
: là Khuyên, là Mời. Khuyến Tửu : là Mời rượu.
NGHĨA
4 CÂU TRÊN :
Có tiền thì nói gì người ta cũng cho là
thật, tin là thiệt. Còn không có tiền thì lời nói sẽ
không thật, chẳng ai tin, không ai thèm nghe. Không tin, thì bạn hãy
cứ nhìn vào trong tiệc rượu mà xem, ly nào ly nấy người
ta cũng mời những người có tiền uống trước mà thôi
!. Bi quan và mĩa mai quá !. Nhưng cuộc đời quả đúng như thế,
người ta chỉ tôn trọng và lắng nghe những người có tiền
nói chuyện mà thôi, không có tiền thì đứng qua một bên
!. Xã hội nào cũng thế, ca dao tục ngữ của VN ta cũng có câu
:
Tay ôm túi bạc kè kè,
Nói quấy nói quá chúng
nghe rần ràn !
鬧 裏 有 錢 , 靜 處 安 身 。
Náo
lý hữu tiền, Tịnh xứ an thân.
NÁO LÝ : là Ở trong chốn
náo nhiệt ồn ào, chỉ nơi Chợ búa. Thị thành.
TỊNH
XỨ : Tịnh là Thanh Tịnh, vắng vẻ yên lặng.
Xứ là Chỗ,
Nơi, Nơi Chốn.
NGHĨA CẢ CÂU :
Ở trong chốn náo nhiệt ồn
ào như chợ búa thị thành thì dễ kiếm được tiền,
còn ở nơi vắng vẻ thanh tịnh thì được yên thân, không
có ngựa xe phiền toái. Được cái nầy thì mất cái
kia, muốn kiếm tiền thì phải chịu ồn ào phiền toái, còn
muốn thanh tịnh nhàn nhã yên thân thì sẽ không kiếm được
tiền !
來 如 風 雨 , 去 似 微 塵 。
Lai
như phong vũ, Khứ tự vi trần.
PHONG VŨ : là Mưa Gió. Mưa gió
thì ầm ầm ào ào.
TỰ : là Tợ, Tợ như. NHƯ là
thanh BẰNG. TỰ là thanh TRẮC, hai chữ nầy nghĩa như nhau, nên thường
được dùng để Đối Nhau trong câu đối.
VI TRẦN : Vi
là Nhỏ, Nhẹ. Trần là Bụi bặm. VI TRẦN là làn bụi nhẹ,
làn bụi mỏng.
NGHĨA CẢ CÂU :
Đến thì rần rần rồ
rộ như mưa như gió, còn đi thì yên lặng nhẹ nhàng
như làn bụi mỏng. Quả là đầu voi đuôi chuột, hổ đầu
xà vĩ. Có nhiều người khi đắc thế thì phô trương
rầm rộ ồn ào, đến khi hết thời rồi thì cụp đuôi
cuốn gói chuồn êm !
長 江 後 浪 推 前 浪 , 世 上 新 人 趲 舊 人 。
Trường giang hậu lãng thôi tiền lãng, Thế thượng
tân nhân toán cựu nhân.
TRƯỜNG GIANG : là Con sông dài.
Từ nầy lại trùng với tên một con sông dài quan trọng của
miền Nam Trung Hoa là Sông Trường Giang, nên ta hiểu theo ý nào cũng
được.
LÃNG : là Sóng. Hậu lãng là Sóng sau, Tiền
Lãng là Sóng trước.
THÔI : là Xô, đẩy.
TOÁN
: là Chạy mau cho kịp. Ý trong câu là Chạy qua mặt luôn.
NGHĨA
CẢ CÂU :
Trên con sông dài thì các đợt sóng sau xô
các đợt sóng trước, còn ở trên đời thì thì
người mới sẽ lấn lướt và qua mặt người cũ. Điều
nầy cũng hợp với lẽ tự nhiên thôi, ở đời hễ tre tàn
thì măng mọc, tóp sau thay thế cho tóp trước, người mới
thay cho người cũ là chuyện thường tình trên đời !
.
TĂNG
QUẢNG HIỀN VĂN 5
.
近 水 樓 台 先 得 月 , 向 陽 花 木 早 逢 春 。
Cận thủy lâu đài tiên
đắc nguyệt, Hướng dương hoa mộc tảo phùng xuân.
.
NGHĨA CÂU :
Những lâu đài được xây gần bờ nước ( sông hồ
biển cả ), sẽ ngắm được cảnh trăng mọc sớm hơn những
nơi khác. Còn những hoa cỏ mà hướng về ánh thái dương,
sẽ đón nhận được ánh nắng mùa xuân trước hơn
là những hoa cỏ khác. Đây là cái thế về địa hình,
hoàn cảnh, xu hướng... Ai đắc thế thì sẽ hơn. Hai chàng
cùng quyết tâm theo đuổi một nàng, thì chàng nào ở gần
hoặc có dịp gần gũi nhiều hơn, chàng đó sẽ dễ dàng
chiếm được trái tim của người đẹp hơn. Câu nói
nầy phổ biến rộng rãi đến nỗi hình thành một thành
ngữ 4 chữ " CẬN THỦY LÂU ĐÀI " 近水樓臺 .Vd : Nó là thơ ký riêng của
xếp, ở cái thế CẬN THỦY LÂU ĐÀI nên lên lương
sớm hơn người khác là phải rồi ! , và còn có một
dị bản sau :
Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt,
Hướng
dương hoa mộc DỊ VI XUÂN. 易爲春.
古人不見今時月,今月曾經照古人.
Cổ
nhân bất kiến kim thời nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
KIM THỜI : là Thời buổi nầy,
có nghĩa là Hiện nay.
TẰNG KINH : là Từng trãi, ở đây
có nghĩa là Đã Từng.
.
NGHĨA CỦA CÂU :
.
Người xưa không thấy được vầng trăng của
ngày nay, chớ Vầng trăng của ngày nay đã từng chiếu rọi
người xưa rồi ! Đọc câu nầy, lại nhớ đến bài Hát
nói Hưởng Nhàn của Nguyễn Công Trứ :
" Ngã kim nhật
tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi " ( Cái
chỗ mà ta đang ngồi ngày hôm nay, thì người xưa đã
từng ngồi đây trước ta rồi ! )
莫 道 君 行 早 , 更 有 早 行 人 。
Mạc đạo quân hành tảo, Cánh hữu tảo hành
nhân.
.
MẠC
ĐẠO : là Đừng nói rằng, Ở đây có nghĩa : Đừng
tưởng rằng.
QUÂN : Quân ở đây không phải là VUA, mà
là Ngôi thứ 2 trong danh xưng Đại từ, nên có thể là Nam,
có thể là Nữ.
CÁNH HỮU : là Càng có..., Ở đây
có nghìa : Còn có.
.
NGHĨA
CẢ CÂU :
.
Đừng
tưởng rằng bạn là người đi sớm, đến sớm đâu,
còn có người đi sớm, đến sớm hơn nữa. Câu trước
nói về lợi thế của Địa lý, hoàn cảnh... " Cận thủy
lâu đài ". Câu nầy nêu lên lợi thế về cố gắng,
tích cực, người nào tích cực hơn ( đi sớm ), thì người
đó sẽ dễ dàng đạt mục đích hơn.
Đây là
bản TQHV bằng điện tử trên mạng, theo bản xưa mà hồi nhỏ
Ba tôi thường lấy ra đọc để răng dạy chúng tôi, thì
trước 2 câu trên còn có 2 câu như thế nầy :
先 到 爲 君 , 後 到 爲 臣 。
Tiên
đáo vi quân , Hậu đáo vi thần.
莫 道 君 行 早 , 更 有 早 行 人 。
Mạc đạo quân hành tảo,
Cánh hữu tảo hành nhân.
Nghĩa là :
Ai đến trước
thì làm vua, Ai đến sau thì làm tôi. Đừng tưởng bạn
là người đến trước, còn có người đến sớm
hơn bạn nữa !
莫 信 直 中 直 , 須 防 仁 不 仁 。
Mạc tín trực trung trực, Tu phòng
nhơn bất nhơn.
MẠC TÍN : là Chớ tin.
TU PHÒNG : là Nên
đề phòng.
NGHĨA CÂU :
Chớ vội tin ( người nào đó
) là rất thẳng thắng ( thẳng thắng trong thẳng thắng ), mà phải
nên đề phòng những người bất nhơn làm bộ nhơn nghĩa
( không nhơn nghĩa mà làm như nhơn nghĩa )
. Câu nầy dùng
để khuyên những người trẻ mới ra đời, chưa có kinh nghiệm
sống, dễ tin người nên dễ bị người lừa bịp.
山 中 有 直 樹 , 世 上 無 直 人 。
Sơn trung hữu trực thọ, Thế
thượng vô trực nhân.
TRỰC : là Thẳng, là Ngay. Vừa nghĩa
đen vừa nghĩa bóng.
NGHĨA CÂU :
Trong núi rừng còn có
cây ngay thẳng, chớ ở trên đời nầy không có người ngay
thẳng đâu !. Câu nói bi quan quá ! Nặng tính cảnh giác để
giáo dục những người trẻ mới ra đời chưa có kinh nghiệm
nhận xét đánh giá người khác. Nó hô ứng với câu
trước nó là : " Mạc tín trực trung trực, Tu phòng nhân
bất nhân ". Nhưng dù sao thì cẩn thận vẫn hơn, " Cẩn
tắc vô ưu " mà !.
自 恨 枝 無 葉 , 莫 怨 太 陽 偏 。
Tự
hận chi vô diệp, Mạc oán thái dương thiên.
TỰ HẬN
: là Tự mình oán trách mình.
CHI VÔ DIỆP : Chi là Cành,
là Nhánh. Vô là không, không có. Diệp là LÁ. CHI VÔ
DIỆP là Cành không lá. Ta có thành ngữ : " Kim CHI ngọc DIỆP
" là " CÀNH vàng LÁ ngọc " để chỉ những người
quý phái.
MẠC OÁN : là Đừng oán hận.
THIÊN 偏 : là Chệch một bên, Nghiêng về
một phía. Chớ không phải THIÊN 天 là Trời.
NGHĨA CẢ CÂU :
Nên tự mình
oán trách là tại cành nhánh của mình không có lá,
chớ đừng oán trách là tại ánh nắng thiên lệch chiếu
về chỗ của mình ít hơn chỗ khác. Phải biết chấp nhận
thực tế và phải tự biết là tại khả năng của mình
không có, hoặc chưa tới, chớ đừng oán trách là tại
sao " xếp " không trọng dụng mình mà trọng dụng người
khác. Thường thì con người ta chỉ biết " phân bì "
mà không biết " tự lượng ".
大 家 都 是 命 , 半 點 不 由 人 。
Đại gia đô thị mệnh, Bán điểm bất
do nhân.
ĐẠI GIA : là Tất cả , là Mọi người. Khác
với Đại Gia 大爺 là
Ông Lớn.
ĐÔ : là Đều. Đô Thị : Đều Là. Khác
với Đô Thị 都市 là
Chợ Búa.
MỆNH : là Mạng số, Số mạng.
BÁN ĐIỂM
: là Nửa chấm. Có nghĩa như : Một chút, " Nửa chút "
của ta vậy.
NGHĨA CÂU :
Tất cả mọi người đều là
do số mệnh an bài cả rồi, không có " nửa chút " nào
là do người quyết định được cả !. Câu nầy quá
Duy Tâm, nhưng chủ ý là khuyên ta nên an phận thủ thường,
chấp nhận hiện tại, đừng quá bon chen, chớ không phải bảo
ta buông xuôi tất cả cho số mạng một cách dị đoan. Câu nầy
còn dùng để an ủi người khác khi thất bại để đừng
chán nản quá mà hãy chấp nhận thực tại hầu cố gắng
" bày lại keo khác " !
一 年 之 計 在 於 春 , 一 日 之 計 在 於 寅 ,
Nhất niên chi kế tại ư xuân,
Nhất nhật chi kế tại ư dần,
一 家 之 計 在 於 和 , 一 生 之 計 在 於 勤 。
Nhất
gia chi kế tại ư hòa, Nhất sinh chi kế tại ư cần.
KẾ : là Tính toán
: KẾ TOÁN.
là Mưu Lược : TAM THẬP LỤC KẾ .
là Hoạch
Định, Chương Trình : KẾ HOẠCH : Đây chính là nghĩa
trong câu nói trên.
CHI : ở đây là Hình Dung từ chỉ Sỡ Hữu : CỦA.
NGHĨA
CỦA NHỮNG CÂU TRÊN :
Những chương trình hoạch định cho
một năm phải bắt đầu từ mùa XUÂN, Những tính toán
dự định trong một ngày phải bắt đầu từ giờ DẦN ( từ
3 đến 5 giờ sáng ). Những kế hoạch để xây dựng gia đình
cho êm ấm là chỉ ở một chữ HÒA ( trên thuận dưới
hòa ). Còn những hoạch định tính toán dự trù cho cả
một đời người là chỉ một chữ CẦN mà thôi ! ( Nếu
chịu khó siêng năng cần cù, thì trong cuộc đời dù không
thành công lớn, cũng thành công nhỏ và có tệ nhất thì
cũng... đù ăn đủ mặc, không đến nỗi đói rách
lang thang.).
" Thiên
hữu tứ thời XUÂN tại thủ " 天有四時春在首. Trời có 4 mùa thì
mùa XUÂN là mùa đầu tiên, tiết trời đã ấm áp
trở lại sau mùa đông giá rét , cây cỏ đâm chồi nẩy
lộc, vạn vật đều tái sinh, khí thế đang lên, nên các
kế sách dự định trong năm cũng nên bắt đầu ở thời
điểm nầy... hơn nữa, nếu có gì trục trặc, thì cũng
có đủ thời gian để... điều chỉnh lại ! Kế hoạch trong
năm bắt đầu ngay được từ mùa Xuân, thì xem như đã
thành công một nửa rồi !
" Thiên quang DẦN, nhật xuất MÃO
" 天光寅,日出卯 . Trời
sáng ở giờ Dần, mặt trời mọc ở giờ Mão, nên công
việc dự định trong ngày nên bắt đầu ngay từ giờ DẦN,
Nông dân làm ruộng cũng thế, muốn gieo mạ, cấy lúa, gặt
lúa...đều phải thức giấc lúc giờ Dần để bắt đầu
cho công việc đồng áng. Ngày xưa, phương tiện giao thông khó
khăn, nên định đi đâu để làm gì thì cũng phải
thức giấc lúc giờ DẦN.
" HÒA khí sanh tài " 和氣生財 . Có Hòa Thuận để làm ăn
thì mới phát sinh tài lộc được, gia đình xào xáo,
mỗi người một ý , thì làm ăn làm sao lên cho được
! Ông bà cũng đã dạy " Gia HÒA thì Vạn sự Hanh 亨 ". Có nghĩa : Gia đình Hòa Thuận thì muôn
việc đều suông sẻ.( Hanh thông 亨通
là Suông sẻ ). Cầu nầy thường bị đọc lệch đi là
" Gia Hòa vạn sự HƯNG 興 ( Hưng là
Hưng Vượng 興旺 ) , ý
nghĩa cũng tương tự mà thôi.
Cuối quyển Tam Tự Kinh có
câu : " CẦN hữu công, Hí vô ích " 勤有功,戲無益. Nghĩa đã rõ : Chơi bời lêu
lỏng không đem lại lợi ích gì cả, còn Siêng Năng cần
cù thì sẽ gặt hái được thành công trong mọi mặt,
nên trong cuộc đời của một người, yếu tố " CẦN "
không thể thiếu trong việc tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc
cho gia đình được !.
Hẹn lại kỳ sau...
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 6
責 人 之 心 責 己 , 恕 己 之 心 恕 人 。
Trách
nhân chi tâm trách kỷ, Thứ kỷ chi tâm thứ nhân.
TRÁCH
: là Trách móc, Rầy rà.
THỨ : là Tha thứ, Xí xóa.
CHI : Thể theo lời yêu cầu của Thầy Vương Công Hi, xin được
nói sơ về chữ CHI như sau :
CHI 之 : là Liên Quan Đại
Từ ( Relative Pronoun ), có nghĩa là CÁI...MÀ, như câu nói trên
" Trách nhân CHI tâm " là " Cái lòng MÀ ta trách người
( khác ).
CHI 之 : là Phiếm Chỉ Đại
Từ ( Indefinite Pronoun ), có nghĩa NÀO, ĐÓ. Vd :..." Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa CHI "
là Người của thuở xưa đã ngồi ĐÓ ( nơi ĐÓ
ĐÓ ) trước ta rồi. ( chữ CHI màu đỏ là Sở hữu Tính
Từ )
CHI 之 : là
Sở Hữu Tính Từ ( Adjective Posessive ),có nghĩa là CỦA, Vd : Câu ...
" Cổ CHI nhân " ở trên là " Người CỦA thời xưa ".
Tương tự : " Ngã CHI huynh đệ " là " Anh em CỦA tôi ".
CHI 之 : là Động
Từ ( Verb ), có nghĩa là ĐI, ĐẾN, VỀ , Vd :..." đào hoa lưu
thủy tử hà CHI ? " là...Hoa trôi nước cuốn bác VỀ đâu
?.
NGHĨA CÂU TRÊN :
Lấy cái lòng mà mình trách người
ta để trách mình, và hãy lấy cái lòng mà mình tha
thứ mình để tha thứ cho người khác.
Thường thì người
ta làm điều sai quấy, hoặc có lỗi với mình, thì mình
hay trách móc, giận hờn, thậm chí còn muốn trả thù, trả
đủa lại..., nhưng đến khi mình lầm lỗi hay sai quấy, thì
mình chỉ tự nhủ lần sau nhớ để ý để khỏi làm
sai, rồi mình tha thứ... mình ! Chớ không có giận hờn trừng
phạt gì cả !
Sao ta không lấy cái lòng tha thứ mình để
tha thứ cho người khác, cho...thế giới đại đồng, cho... cỏi
lòng mở rộng, cho... xóa bỏ hận thù, và cho... tình người
được nồng thắm hơn lên !?.
守 口 如 瓶 , 防 意 如 城 。
Thủ khẩu như bình, phòng ý
như thành.
THỦ : là Giữ, là Canh chừng.
BÌNH : là Cái
Bình ( bằng gốm sứ, pha lê ... ).
PHÒNG : là Hờ, là Phòng
thủ, là Đề phòng.
THÀNH 城 : Thành nầy có bộ Thổ một bên, là Thành
được xây đắp bằng đất, là Thành Trì. Ta phân
biệt với 2 chữ Thành sau đây :
THÀNH 誠 : có bộ Ngôn, là lời nói
Thật, là Thành Thật.
THÀNH 成 : là Đạt được, là Thành Công.
NGHĨA
CỦA CÂU :
Giữ cái miệng của mình như giữ cái bình
quý, coi chừng bể ( cần thiết lắm mới nói ), và phải luôn
luôn có ý đề phòng bất trắc, thì sẽ vững chải như
là thành trì. Vế sau nầy còn có nghĩa là phải luôn
luôn có ý đề phòng như đang thủ thành vậy ( lúc
nào cũng phải đề phòng kẻ địch tấn công ).
Câu
nói trên hình thành một thành ngữ rất thông dụng " THỦ
KHẨU NHƯ BÌNH " với nghĩa rộng rãi ngoài nghĩa giữ mồm
miệng cho cẩn thận, còn để chỉ những ai ít nói. Vd : Họp
mặt suốt buổi không thấy chị nói gì hết, sao hôm nay lại
" Thủ khẩu như bình " vậy ?. Tới đây làm cho ta lại
nhớ đến một câu trong Truyện Kiều, tả lúc Thúc Sinh về
gặp Hoạn Thư theo lời khuyên của cô Kiều là :
... Nghĩ đà
BƯNG KÍN MIỆNG BÌNH,
Nào ai có khảo mà mình lại cung
!?.
Theo quyển Minh Tâm Bửu Giám mà tôi học hồi nhỏ, thì
sau 2 câu trên còn có 2 câu nữa, như thế nầy :
Thủ khẩu
như bình, Phòng ý như thành,
守 口 如 瓶 , 防 意 如 城 。
Thị phi chỉ vị đa khai khẩu,
是 非 只 爲 多 開 口,
Phiền
não giai nhân cưởng xuất đầu.
煩 惱 皆 因 強 出 頭。
Có nghĩa :
Giữ miệng
như giữ bình quý, Giữ ý đề phòng như đang thủ thành.
Chuyện thị phi mà có được là do nói quá nhiều ( đa
khai khẩu ), và phiền não mà có được đều do ( giai nhân
皆因 ) đòi hỏi quá đáng,
bướng bỉnh quá lố ( cưởng xuất đầu ).
寧 可 人 負 我 , 切 莫 我 負 人 。
Ninh khả nhân phụ ngã, Thiết mạc ngã phụ
nhân.
NINH KHẢ : là Thà rằng, Thà là.
PHỤ : là Cỏng
trên lưng, là Quay lưng lại với ai đó.( để cỏng ), nhưng
lâu dần đựợc sử dụng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
nên nghĩa phát sinh là : Phụ rãy ai đó, vì vậy ta có
thành ngữ :
" Phụ Tâm Nhân 負 心人 " là Kẻ phụ
tình, Kẻ bạc tình.
THIẾT MẠC : là Đừng bao giờ, là
Chớ nên.
NGHĨA CẢ CÂU :
Thà là để người ta phụ
mình, chớ mình đừng bao giờ phụ người. Nói thì nghe dễ,
nhưng thực tế lại rất khó. Đức tính nhẫn nhục, cam chịu
thật cao quý vô cùng, nhưng cũng thiệt thòi vô cùng và
cũng dễ làm xúc động ,cảm hóa đối phương... vô
cùng ! . Câu nói nầy ngược hẵn lại với câu nói của
Tào Tháo khi giết Lã Bá Xa là người ơn nghĩa của mình,
bị Trần Cung trách vấn tại sao, thì Tào Tháo bảo rằng :"
Thà là mình phụ người ta, chớ không để cho người ta
phụ mình, Thà rằng mình phụ thiên hạ, chớ không để
thiên hạ phụ mình. ". Quả là tay gian hùng và là tay thủ
đoạn chính trị tấm cỡ, và cũng chính vì vậy mà
Tào Tháo mới soán ngôi nhà Hán để lập nên nhà
Ngụy của riêng mình !
Câu nói nầy còn được nói
gọn lại như sau :
NINH KHẢ PHỤ NGÃ, THIẾT MẠC PHỤ NHÂN.
再 三 須 重 事, 第 一 莫 欺 心 。
Tái tam tu trọng sự, Đệ nhất
mạc khi tâm.
TÁI TAM : Tái là Lần nữa, Lần thứ 2.Tam là
Lần thứ 3. Tái Tam : là cân nhắc 2, 3 lần, lấy ý của một
câu trong Luận Ngữ : " Tam tư nhi hành, Tái tư khả hỉ ! 三思而行,再思可矣 " (
Suy nghĩ ba lần trước khi muốn làm một việc gì đó, đến
khi muốn bắt đầu làm còn có thể suy nghĩ lại một lần
nữa cho chắc ăn ! ). Chỉ sự cẩn thận, Cân nhắc.
TU : là Phải,
Nên. Khác với Tu 修 : là
Sửa.
TRỌNG SỰ : là Xem trọng sự việc.
MẠC : là Đừng,
là Chớ.
KHI TÂM : là Lòng khinh rẻ, Xem nhẹ hoặc hời hợt
với chuyện gì, điều gì đó.
NGHĨA CẢ CÂU :
Muốn
làm hoặc quyết định một việc gì đó, phải xem trọng
việc đó và phải suy nghĩ cân nhắc tới lui 2, 3 lần rồi mới
làm hoặc quyết định, Hạng nhất là không được có
lòng khinh rẻ hoặc xem thường việc đó. Câu nầy khuyên ta
không nên quyết định vội vàng hấp tấp bất cứ một sự
việc nào đó, để khỏi phải hối tiếc hoặc ân hận
về sau.
虎 生 猶 可 近 , 人 熟 不 堪 親 。
Hổ sanh do khả cận, nhân thục
bất kham thân.
DO KHẢ : là Còn có thể. Vẫn có thể.
THỤC : là Quen biết. Thục còn có nghĩa Chín ( trái với Sống
).
BẤT KHAM : là không nên, Không ổn, Không Kham.
NGHĨA CÂU
:
Con cọp đẻ ( hay bất cứ con thú nào đẻ đều rất
dữ dằn, do bản năng làm mẹ để bảo vệ các con của chúng
), vẫn còn có thể gần gũi được, chớ những người
mà ta quen biết thì không nên gần gũi thân thiết bao giờ !. Tại
sao ? Sao lại phải bi quan thế kia ? Đây chỉ là lời khuyên nên
cẩn thận đề phòng lòng người nham hiểm vô chừng mà
thôi ! Những người mà ta quen biết thân thiết với họ, kể
hết cho họ nghe những ưu khuyết điểm, những thói hư tật xấu,
những bí ẩn đời tư với họ, đến khi có chuyện không
hay xảy ra, thì chính họ sẽ là những người tố cáo ta
mạnh mẽ nhất, chính xác nhất mà ta vô phương chạy chối,
chừng đó ta sẽ thấy họ còn dữ hơn là con cọp đang
đẻ nữa !. Câu nói tuy bi quan nhưng rất thực tế : " Nhân thục
bất kham thân " là thế !
來 說 是 非 者 , 便 是 是 非 人 。
Lai thuyết thị phi giả, Tiện thị thị phi nhân.
THỊ
PHI : Thị là Đúng, Phi là Sai.Thị là Phải, Phi là Trái. Nên
THỊ PHI là những Đúng sai, phải trái, tốt xấu... ở đời.
GIẢ : là Người, dùng để đối với chữ NHÂN ở
phía sau.
TIÊN THỊ : là Chính là, Tức là.
NGHĨA CÂU
:
Cái người đến nói chuyện Thị Phi, chính là con người
Thị Phi đó. Câu nầy muốn thức tĩnh ta về nhân cách của
những người hay nói về người nầy, người khác, chuyện
nầy chuyện nọ...Đó không phải là những người tốt,
đó chính là những con Người Thị Phi đó. Rất nhiều
chuyện mích lòng nhau, nghi ngờ nhau, ghét bỏ nhau... đều là do NHỮNG
CON NGƯỜI THỊ PHI nầy mà ra cả ! Trong cuộc sống ta gặp rất nhiều
người như thế nầy, nên chuyện THỊ PHI chỉ nghe chơi rồi bỏ,
là chắc ăn nhất !
遠 水 難 救 近 火 , 遠 親 不 如 近 鄰 。
Viễn thuỷ nan cứu cận hỏa,
Viễn thân bất như cận lân.
NGHĨA CỦA CÂU :
Nước xa
khó cứu được lửa gần, Bà con xa không bằng xóm giềng
gần. Câu nói nêu lên tầm quan trọng của bà con chòm xóm
khi tắt lửa tối đèn, người láng giềng gần sẽ là người
thân cùng chia sẻ với ta tất cả những không may khi xảy đến.
Nhưng câu nói nầy chỉ đúng với chòm xóm ở VN ta mà
thôi, còn ở Mỹ thì... nhà hàng xóm người Việt ngang
mặt nhà tôi đã 10 năm nay, ông ta đâu có biết tôi
là ai, và tôi cũng không biết ông ta ... tên là gì nữa
! Một chiếc xe trước cửa nhà ông ta " ve " như thế nào
đó mà đụng xập thùng thơ xây bằng gạch trước
cửa nhà tôi. Ông Mỹ ở kế nhà tôi kêu và mách cho
tôi biết, tôi sang tìm hỏi ông ta, thầm tính sẵn dịp để
làm quen, chớ cũng chả cần phải thường bồi gì. Nhưng khi
gặp mặt hỏi thăm, thì ông ta chối bây bẩy, bảo là thằng
Mỹ nói bậy... thế là... hòa cả làng, và tôi với ông
ta lại tiếp tục... không biết nhau luôn ! Thật chán thay " láng
giềng gần "... ở Mỹ !!! .
有 茶 有 酒 多 兄 弟 , 急 難 何 曾 見 一 人 。
Hữu trà hữu tửu đa huynh đệ,
Cấp nạn hà tằng kiến nhất nhân.
CẤP : là Gấp rút.
Mau lẹ, Vội vàng.
NẠN : là Danh Từ chỉ Tai nạn, Hoạn nạn.
Khi đọc là NAN ( không có dấu nặng ) thì là Hình Dung Từ
chỉ Khó, khó khăn.
HÀ TẰNG : là Chẳng từng, Chẳng hề.
NGHĨA CÂU :
Khi có trà có rượu thì nhiều anh nhiều em
lắm ( anh em ở đây chỉ Bạn bè của " Trà Tam Tửu Tứ
" ), nhưng đến khi gặp nạn gấp rút cần người giúp đở,
thì chẳng hề thấy người nào vác mặt đến để giúp
đở cả ! Lúc hoạn nạn, người nào " mò " đến,
người đó mới chính là " Bạn bè " thực sự !
人 情 似 紙 張 張 薄 , 世 事 如 棋 局 局 新 。
Nhân
tình tự chỉ trương trương bạc, Thế sự như kỳ cuộc
cuộc tân.
TRƯƠNG : Ta đọc trại thành Trang, là Mạo từ
: TRANG giấy. Họ Trương cũng chữ Trương nầy. Gốc của chữ
nầy do bộ Cung 弓 lấy Ý, và chữ Trường
長 lấy Âm, ghép
lại mà thành, nên nghĩa chính là GIƯƠNG. Trương Cung là
Giương Cung đó. KHAI TRƯƠNG : là Mở rộng cửa ra để đón
khách vào.
CUỘC : Còn đọc là CỤC , cũng là Mạo từ,
Một Cuộc Cờ là Một ván cờ. Danh từ chỉ : Một đơn vị
hành chánh, như Cảnh Sát Cuộc, Cục An Ninh...
NGHĨA CÂU :
Tình
người như giấy, tờ nào tờ nấy mỏng te. Còn chuyện đời
thì như cờ vậy, mỗi ván một mới thay đổi luôn luôn.
Ta cũng có câu : " Nghĩa nhân mỏng vánh tợ cánh con chuồn
chuồn, khi vui nó đậu khi buồn nó bay ! ". Thế thôi !.
山 中 也 有 千 年 樹 , 世 上 難 逢 百 歲 人 。
Sơn trung dã hữu thiên niên thọ, Thế
thượng nan phùng bá tuế nhân.
DÃ HỮU : là Cũng có,
Còn có.
NAN PHÙNG : là Khó gặp.
NGHĨA CÂU :
Trong núi
còn có cây sống cả ngàn năm, chớ trên đời rất khó
mà gặp được người sống đến một trăm tuổi. Câu
nói nầy bị " phá sản " hoàn toàn trong xã hội ngày
nay ! Nạn phá rừng tràn lan, muốn kiếm cây sống trăm năm còn
khó, nói gì đến ngàn năm. Còn con người , thì ôi
thôi, Y học, khoa học tiến bộ, nhan nhản khắp mọi nơi trên trái
đất đều có người sống hơn một trăm tuổi cả !
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 7
力 微 休 負 重 , 言 輕 莫 勸 人 。
Lực vi hưu phụ trọng, Ngôn khinh mạc khuyến nhân.
VI : là Nhỏ, là Mỏng, là Yếu.
HƯU : là Nghỉ, ( Hưu trí
). là Đừng.
PHỤ : là Vác, là Cỏng, nghĩa bóng là
Gánh vác : Phụ trách.
KHINH : là Nhẹ, là Mau, là Không có
trọng lượng.
KHUYẾN :là Khuyên, là Khích lệ.
NGHĨA
CÂU :
Sức yếu thì đừng vác nặng, Lời nói nhẹ thì
đừng khuyên người. Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Không
đủ năng lực thì đừng gánh lấy trách nhiệm lớn lao,
dễ làm hư việc lớn. Lời nói không có " Kí Lô ",
không có trọng lượng, thì đừng nên khuyên người, chẳng
những người ta không nghe, mà lắm khi còn bị lăng nhục, ngỡ
ngàng. Nói chung là phải biết tự lượng sức mình, biết
người biết ta thì sự việc mới có hiệu quả tốt.
無 錢 休 入 眾 , 遭 難 莫 尋 親 。
Vô tiền hưu nhập chúng, Tao
nạn mạc tầm thân.
HƯU : là Nghỉ ngơi. Ở đây là
Phó từ có nghĩa là Đừng.
NHẬP CHÚNG : là Vào chỗ
đông người, Tham gia vào các Cộng đồng.
TAO : là Gặp
gỡ, Gặp phải. TAO NẠN. : là Gặp nạn.
TẦM THÂN : là Tìm
người thân, Tìm Thân nhân.
NGHĨA CÂU :
Không có tiền,
Nghèo thì đừng tham gia vào các cộng đồng ( chỗ đông
người ). Còn khi gặp tai nạn, cần đi lánh nạn, thì đừng
tìm Bà con. Tại sao ?. Tại vì Bà con thân nhân cũng sợ trách
nhiệm, sợ bị vạ lây, mà không dám chứa ta đâu, hay có
chứa thì cũng tỏ ra lạnh nhạt bực bội, khó chịu ra mặt...
ta cũng khó sống lắm ! Chưa nói đến chuyện còn đi đầu
thú, báo cáo để hại ta nữa !.
Còn nghèo hả ? Cứ
nằm nhà đi cho yên thân, tham gia cộng đồng chỉ tổ cho người
khinh rẻ mà thôi !. Ở đây cần nói rõ, các Tổ chức
Cộng đồng người Hoa, hễ ai nhiệt tâm chịu ra tiền nhiều cho
Cộng đồng, thì người đó được trọng vọng và
có Chức sắc trong tổ chức cộng đồng, nếu không thì chỉ
đến đó làm lon ton mà thôi. Xưa cũng vậy mà nay cũng
vậy, ở VN cũng vậy mà ở Mỹ cũng vậy, nên những Tổ Chức
Cộng Đồng người Hoa rất giàu. Còn Tổ chức Cộng đồng
người Việt của mình thì trái ngược lại, vì có tài
trợ của Chính quyền Mỹ ở địa phương, nên ai tham gia và
tích cực với Cộng đồng thì có thể có quyền lợi
gì đó, có thể... kiếm chút cháo được !. Xin lỗi
đã nói thẳng nói thật những gì thấy được. Xin góp
ý để sửa sai. Cám ơn trước.
平 生 莫 作 皺 眉 事 , 世 上 應 無 切 齒 人 。
Bình sinh mạc tác trứu mi sự,
Thế thượng ưng vô thiết xỉ nhân.
BÌNH SINH : là Cuộc
sống Bình thường, tức là Cuộc
đời đó.
MẠC TÁC : là Đừng
làm, là Chớ nên làm.
TRỨU MI : Trứu là Nhăn, Mi là Mày.
Trứu Mi : là
Nhăn mày, là Cau mày.
ƯNG VÔ : Đáng lý
là Không, là Sẽ Không có.
THIẾT XỈ : Thiết là Xắt,
là Thẻo,là Cọ xác.Xỉ là Răng.
Thiết Xỉ là Nghiến
Răng trong thành ngữ " Giảo
Nha Thiết Xỉ 咬牙切齒 " là Nghiến Răng
Nghiến
Lợi, chỉ sự căm hờn đến cực điểm.
NGHĨA
CÂU :
Trong cuộc đời, đừng làm những việc gì khiến
người ta phải nhăn mày, thì trên đời nầy sẽ không có
ai nghiến răng nghiến lợi cả ! Trong đời ta không làm những việc
ác nhân sát đức để hại người, khiến người ta phải
nhăn mặt nhíu mày đau thương hờn oán, thì làm gì
còn có người phải căm hờn oán giận đến nỗi phải
nghiến lợi nghiến răng !?.
士 者 國 之 寶 , 儒 為 席 上 珍 。
Sĩ
giả quốc chi bảo, Nho vi tịch thượng trân.
SĨ : là Kẻ sĩ,
là Học trò, là người ra làm quan ( xuất sĩ ).
Sĩ là
giai cấp đứng đầu trong xã hội nông nghiệp
ngày xưa
: Sĩ Nông Công Thương Binh.
GIẢ : là Người. Nhưng ở đây
Nó là Đại từ Liên Quan
dùng để nhấn mạnh từ
đứng trước nó, có nghĩa là
Đó, Cái Đó
Đó. SĨ GIẢ : là Kẻ Sĩ Đó ( đó ).
BẢO : là
Của Báu, là Báu Vật, là Đồ Quý Giá.
NHO : là
Nho Giáo, Ở đây chỉ Người theo đạo Nho.
TỊCH : là Chiếu,
Vd : Chủ Tịch là người ngồi đầu chiếu.
Ta lại đọc
trại thành Tiệc : Yến Tịch là Yến Tiệc.
TRÂN : là Của
Quý như Trân Châu.
là Món Ngon như Sơn Trân Hải Vị.
Ở đây dùng để đối với chữ BẢO ở trên.
NGHĨA CÂU :
Người có học, người ra làm quan là bảo
vật của quốc gia. Người học theo đạo Nho, Nho sinh, Nho sĩ là những
người được trân quý trên bàn tiệc ( trên chiếu ). Câu
nầy đề cao người có học, người theo Nho học để an bang
tế thế ( của xã hội Phong Kiến ngày xưa ) luôn luôn được
coi trọng ở mọi nơi mọi chốn, từ bàn tiệc nhỏ nhoi cho đến
quốc gia đại sự. Mặc dù ngày nay đạo Nho không còn được
trọng vọng như ngày xưa nữa, nhưng câu nầy vẫn còn tác
dụng dùng để khuyên răn con cháu cố gắng học hành cho thành
đạt, vẫn hơn là dốt nát phải lao động chân tay. Ở bất
cứ xã hội nào, chế độ nào, thời buổi nào, người
có trí thức vẫn được trọng vọng hơn.
若 要 斷 酒 法 , 醒 眼 看 醉 人 。
Nhược yếu đoạn tửu pháp, Tỉnh nhởn khán
túy nhơn.
NHƯỢC : là Nếu, ta có từ Nhược bằng là
Nếu Như.
Trong kinh Phật đọc là NHÃ khi đi với chữ BAN ở
phía trước BAN NHƯỢC 般若 : đọc là BÁT NHÃ.
YẾU
: Tính Từ có nghĩa là Quan Trọng, như YẾU NHÂN.
Động
Từ có nghĩa là Muốn,là Cần.
ĐOẠN : Tính từ, có
nghĩa là Đứt, là Dứt. Vd : Đoạn Tình.
Động Từ,
có nghĩa là Cắt Đứt, Đoan Tuyệt là Cắt
đứt hẵn.
PHÁP : là Phép, là Cái Cách.
TỈNH : là Tỉnh Táo,
Tỉnh rượu, là Ngủ dậy : Tỉnh Giấc.
NGHĨA CÂU :
Nếu
như muốn cai rượu, cách tốt nhất là hãy nhìn cái thằng
say lúc mình đang tỉnh rượu. Dùng con mắt tỉnh táo để
nhìn cái thằng say, coi nó " quậy " như thế nào, thì sẽ
biết rằng lúc mình say mình cũng quậy như thế đó, thấy
được những chuyện xấu làm lúc say để xấu hổ mà
" Cai Rượu " !. Nhưng có Cai được không lại là một
chuyện khác, thấy thì thấy vậy, chớ tới chừng uống thì
vẫn cứ " Vô " như thường !. Ông bà mình nói : "
Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tại thị 酒入心如狗逛在市 " Rượu
đã vào bụng rồi thì như con chó chạy vòng vòng ngoài
chợ không còn úy kỵ gì nữa hết !
GHI CHÚ THÊM :
*(
Cẩu ) cuồng tại thị : là ( Chó ) chạy lòng vòng ngoài chợ.
* Cuồng Cẩu 狂狗 : là Chó điên.
求 人 須 求 英 雄 漢 , 濟 人 須 濟 急 時 無 。
Cầu
nhân tu cầu anh hùng hán, Tế nhân tu tế cấp thời vô.
渴 時 一 滴 如 甘 露 , 醉 後 添 杯 不 如 無 。
Khát
thời nhất trích như Cam lộ, Túy hậu thiêm bôi bất như vô.
TU : là Phải, là
Cần phải.
ANH HÙNG HÁN, ĐẠI TRƯỢNG PHU là mẫu người
lý tưởng, hay cứu khổn phò nguy của xã hội ngày xưa.
TẾ : là Cứu Giúp, như Cứu Tế, Tế bần.
CẤP THỜI :
là Lúc gấp rút, lúc Cần thiết nhất.
NHẤT TRÍCH : là
Một giọt, Một Nhễu.
CAM LỘ : Nước ngọt lịm có thể xoa
dịu đau khổ và cải tử hồi sinh trong Tịnh bình có cắm
nhánh liễu của Quan Thế Âm Bồ Tác.
THIÊM : Ta đọc trại
thành THÊM.
NGHĨA 4 CÂU THƠ TRÊN :
Cầu người thì phải
cầu người Anh hùng Hảo hán ( những người đó mới giúp
đở mình được, mới xứng đáng để mình cầu
xin giúp đở.). Còn tiếp giúp người ta thì phải giúp lúc
người ta không có mà cần được giúp đỡ nhất, tức
là cứu giúp người ta trong lúc túng ngặt nhất, cần thiết
nhất thì mới đáng quý, việc cứu giúp mới có giá
trị. Cũng như khi người ta khát mình chỉ cho một giọt nước
thôi, thì cũng quý giá như là giọt nước Cam lộ trong Tịnh
bình của Quan Thế Âm Bồ Tác vậy, còn khi người ta đã
say sưa rồi ( tức là đã uống tràn họng rồi ! ) mà còn
mời uống thêm một ly nữa, thì ly đó uống cũng như không,
không có giá trị gì cả !
久
住 令 人 賤 , 貧 來 親 也 疏 。
Cửu trú lệnh nhân tiện, Bần lai thân dã sơ.
LỆNH : Danh từ là Mệnh lệnh.
Động từ là Ra lệnh.
Phó từ là Làm cho, Khiến cho.
TIỆN : là Hèn hạ. Bần
Tiện là Nghèo hèn.
SƠ : là Thưa thớt, là hời hợt,
là lợt lạt.
NGHĨA CÂU :
Ở lâu khiến cho người trở
nên hèn mọn, Nghèo mà đến thăm thì thân thích cũng
trở nên lợt lạt. Câu nói nầy rất thực tế trong tình đời
mà ta phải biết để tránh cho đừng xảy ra. Đi nhờ cậy
để ăn nhờ ở đậu nhà của ai đó , dù là bạn
bè thân thiết cách mấy đi nữa, mà nhờ cậy trường
kỳ, lâu dài , đừng nói là người ta sẽ nhìn mình
bằng con mắt bần tiện, mà chính bản thân mình cũng thấy
mình trở nên hèn mọn. Bà con thân thích ruột rà cũng
vậy, nếu mình nghèo mà có thật lòng đến thăm, thì
cũng ít khi được sự tiếp đãi nhiệt tình, không khéo
bà con còn sợ mình đến để nhờ cậy gì đây mà
mĩa mai hắt hủi nữa là đằng khác !.
酒 中 不 語 真 君 子 , 財 上 分 明 大 丈 夫 。
Tửu trung bất ngữ chơn quân
tử, Tài thượng phân minh đại trượng phu.
TỬU TRUNG : là
Trong lúc uống rưọu.
BẤT NGỮ : là Chẳng nói chẳng rằng.
CHƠN QUÂN TỬ : là Người Quân tử thật sự, để đối
lại với người làm bộ ra vẻ quân tử là NGỤY QUÂN TỬ.
TÀI THƯỢNG : là Trên mặt tiền bạc, là Về mặt tiền
tài.
PHÂN MINH : là Phân biệt một cách minh bạch, là Rõ
ràng.
ĐẠI TRƯỢNG PHU : Nghĩa đen là Người đàn ông
cao lớn, hiên ngang. Nghĩa phát sinh là Người đàn ông đứng
đắn, đàng hoàng, đáng mặt đàn ông.
NGHĨA CÂU
:
Trong lúc nhậu nhẹt mà không mượn hơi rượu để
làm nư, để nói hưu nói vượn, là người chánh
nhân quân tử thật sự. Về mặt tiền tài luôn luôn minh bạch
rõ ràng từng xu từng cắc một, là người đàng ông
đứng đắn đàng hoàng, đáng mặt đại trượng
phu.
MINH THI : Xuân Cung Từ
.
Trải
vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
!
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm
trong mà đào !....
Tháng này là tháng Sinh
Nhật của tác giả CUNG OÁN NGÂM KHÚC, Ôn Như Hầu Nguyễn
Gia Thiều ...
Nguyễn Gia Thiều (阮嘉韶, 1741-1798), tức Ôn Như Hầu là một nhà thơ thời Lê Hiển Tông. Ông là tác giả Cung oán ngâm khúc, tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam.
Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu[1], tức ngày 22 tháng 3 năm 1741, cuối thời vua Lê chúa Trịnh, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện
Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là làng Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho
triều đình.
Nguyễn Gia Thiều tuy thuộc tầng lớp
quý tộc, nhưng sống trong một thời kỳ nhiều biến động, loạn
lạc. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của ông nói lên tâm trạng ai oán của một cung phi sống trong hoàng cung. Nhiều nhà phê bình đánh
giá Cung oán ngâm khúc chịu ảnh hưởng bởi Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm[2], từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề cũng như
bút pháp nghệ thuật.....
Nhân tháng Sinh nhật ông Vua thơ
Cung Oán của VN ta, xin được điểm lại một số bài thơ
Cung Oán nổi tiếng đời Minh...
Trước tiên
là...
XUÂN OÁN 春怨
Trường Tín đa xuân thảo, 長信多春草,
Sầu trung thứ đệ sinh.
愁中次第生.
Quân vương hành bất
đáo, 君王行不到,
Tiệm dữ ngọc giai bình.
漸與玉階平.
Tạ Triện Chế. 謝肇制.
CHÚ THÍCH :
1. Trường Tín
: Tên của một Cung trong Cung Vua, và... hình như đây là cái
Lãnh Cung nổi tiếng trong thơ Cung Oán từ đời Đường đến
đời Minh.
2. Thứ đệ : Là Xếp Hạng, Ở đây có nghĩa
là lần lượt, là dần dà.
3. Ngọc Giai : là Thềm ngọc.
Các bậc tam cấp, ngũ cấp.. được dát bằng đá quý,
cẩm thạch.
DICH NGHĨA :
Quanh cung Trường Tín
có rất nhiều cỏ xuân, những cỏ xuân hết lớp nầy đến
lớp khác mọc lên trong nỗi sầu của nàng Cung nữ. Vì Vua chưa
bao giờ đi đến nơi nầy, nên cỏ cũng đã dần dà mọc
lên ngang bằng với thềm ngọc !.
DIỄN NÔM
:
Cỏ non quanh Trường Tín,
Theo sầu lớp lớp xanh.
Quân vương
chưa từng đến,
Thềm ngọc cỏ xây thành !
Lục bát
:
Xanh om Trường Tín cỏ non,
Theo sầu lớp lớp cỏ còn xanh
lơ.
Quân vương chưa đến bao giờ,
Ngang bằng thềm ngọc
cỏ mờ mờ xanh !
Đỗ Chiêu Đức.
Vì thơ Cung Oán đời Đường quá nhiều, nên
... lại điểm thêm một bài thơ Cung Oán của đời Minh nữa...
《春宮詞》 XUÂN CUNG TỪ
長信宮中芳草生, Trường Tín cung trung phương
thảo sanh,
晚風獨立正含情。 Vãn phong độc lập chánh
hàm tình.
時顰柳葉聽龍駕, Thời tần liễu diệp thính
long giá,
誰隔桃花吸鳳笙。 Thùy cách đào hoa hấp
phụng sinh.
金屋半開春寂寞, Kim ốc bán khai xuân tịch
mịch,
珠簾不動月分明。 Châu liêm bất động
nguyệt phân minh.
燒殘蠟炬虛長夜, Thiêu tàn lạp cự hư
trường dạ,
遮莫同心結未成。 Già mạc đồng tâm kết
vị thành.
謝榛 Tạ Trăn.
DỊCH NGHĨA
:
BÀI TỪ TRONG CUNG
Cỏ non đã mọc trong cung Trường Tín,
đang xúc động vì đứng một mình một bóng trong gió
đêm. Thỉnh thoảng lại phải nhăn mày liễu vì nghe tiếng xe
giá của nhà vua đến đâu đó, Ai là kẻ bên kia vườn
hoa đào đã thu hút được tiếng sanh ca kia ?! Cánh cửa mở
nửa vời của cung vàng điện ngọc càng làm cho sắc xuân
thêm vắng vẻ, và bức rèm châu nằm im ắng bất động
nên ánh trăng càng rành rạnh phân minh. Đêm dài lặng lẻ
trôi dần theo ánh nến sắp tàn, mà giải đồng tâm kết
mãi vẫn chưa xong !
DIỄN NÔM :
Cỏ non xanh biếc
cung Trường Tín,
Thơ thẩn chiều xuân gió gợi tình.
Mày
liễu chợt nhăn long giá đến ,
Má đào ai ửng phụng ca
đình.
Nhà vàng lặng lẻ xuân im ắng,
Rèm ngọc im lìm
nguyệt vắng tanh.
Lệ nến đã tàn đêm cô tịch,
Giải
đồng tâm kết mãi không thành !
Lục bát :
Xanh om Trường
Tín cỏ non,
Gió chiều một bóng mõi mòn tình ai.
Xe vua
đến, khẻ nhăn mày !
Má đào chon chót ai hoài cách
ngăn.
Nhà vàng lặng lẻ đêm xuân,
Rèm châu im ắng
trăng trong lạnh lùng.
Nến tàn đêm hết não nùng,
Giải
đồng tâm kết đến cùng... chưa xong !
Đỗ Chiêu Đức.
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời tất cả cùng
đọc lại một bài thơ Cung Oán rất đặc biệt, độc
đáo, có một không hai trong văn học VN cận đại, có thể
xem đây là bài thơ Cung Oán duy nhất,... độc nhất của phong
trào Thơ Mới với một thi sĩ... hồng nhan bạc mệnh chỉ ở tuổi
28 mà thôi ! Vâng, đó chính là HÀN MẶC TỬ ( 1912-1940 ) với
bài thơ Cung Oán cuối cùng của Ông và của thơ Tiền Chiến....
NHỚ THƯƠNG
Trầm ngán nghê bay trong lãnh
cung
Xuân thơm bối rối ngọt vô cùng
Chao ôi, Thánh chúa
vô tâm quá
Lòng thiếp buồn như một tấm nhung.
Ngoài kia xuân đã chớm duyên chưa?
Trời ở trong
đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có người cung nữ nhớ thương vua !
Hàn
Mặc Tử .
___________________________________________________________________________________________________________
Câu đối chiết
tự
Tôi xin trở lại bằng Câu Đối Chiết Tự nhé !. Tương truyền, khi sứ giả của Vua đến tìm Trạng
Bùng ( Phùng Khắc Khoan ), thì khi đến làng, thấy một đám
thiếu niên đang chơi ở bên đường, trong đó có một
đứa mặt mày sáng sủa, sứ nghi là Trạng, bèn đọc
câu đối để thử rằng : Tự (字) là chữ, cất giằng đầu,
chữ tử (子) là con, con ai con ấy ? Ý muốn hỏi :
Mày là con của ai vậy ?. Trạng nghe câu
hỏi vô lễ, bèn đáp rằng : Vu (于) là chưng, bỏ
ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa
này? Ý rằng : Mày là đứa nào mà dám hỏi ta là
con ai ?. Như các bạn thấy ở trên, Câu đối
chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những
câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc
từng phần mà đặt thành câu. Một câu đối chiết tự
nổi tiếng nữa trong văn học Việt Nam, đó là đôi câu
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương như sau : Duyên thiên chưa thấy
nhô đầu dọc, Phận liễu sao đà nẩy nét ngang ? Phân
tích : Duyên THIÊN 天 là Duyên do Trời định, chữ THIÊN 天 nếu nhô đầu lên theo
chiều dọc, thì sẽ thành chữ PHU 夫 là Chồng. Đằng nầy là " chưa
thấy nhô đầu dọc ", có nghĩa duyên trời chưa rung rủi,
chưa có CHỒNG. Phận LIỄU 柳, là Phận gái ( Liễu là chỉ
Liễu Bồ 柳 蒲, 2 loại
Cây và Cỏ có dáng mềm mại thướt tha, thường được
dùng để ví với phụ nữ bằng từ Liễu Yếu đào
tơ ). Ở đây chỉ mượn âm của chữ Liễu 柳 để dùng cho chữ Liễu
了 có nghĩa
là HẾT, để khi " nẩy nét ngang " thì Nó mới thành
chữ TỬ 子 là CON. Trong câu đối trên Nữ sĩ
đã dùng lối phản vấn để nhấn mạnh bằng từ " sao
đà ? ". Phận gái sao đà đã có con ?.
Đó
là Câu Đối chiết tự của VN. Bây giờ, ta nói về câu
đối chiết tự của văn học TQ nhé ! Ta hãy xem đôi câu
đối sau đây : Thử mộc vi sài, sơn sơn xuất
, 此木為柴,山山出 Bạch thủy thành tuyền, tịch
tịch đa . 白水成泉,夕夕多 Nghĩa là : Câu 1 : Thử là
nầy, Mộc là cây, Vi là làm, Sài là Củi. " Thử mộc
vi sài " là cây nầy dùng làm củi. Sơn sơn là núi
núi, có nghĩa bất cứ núi nào. Xuất là ra, là sản xuất
ra. Nghĩa cả câu là : " Cây nầy dùng để làm củi, núi
nào cũng có cả ! ". Cái hay của câu nầy là : Chữ THỬ
此 chồng lên trên chữ MỘC 木 thì thành chữ SÀI 柴 . 2 chữ SƠN 山 chồng lên nhau thành chữ
XUẤT 出 . Câu 2 : " Bạch thủy thành tuyền " là nước
trắng xóa chảy thành dòng suối. " Tịch tịch đa "là
mỗi đêm đều nhiều thêm ra. Cũng như câu 1, chữ BẠCH 白 chồng lên trên
chữ THỦY 水 thành chữ TUYỀN 泉. 2 chữ TỊCH 夕 chồng lên nhau thành chữ ĐA 多. Cái
hay của Chiết tự là ở chỗ đó ! Trong Truyện Kiều, khi thất
thân với Mã Giám Sinh, cô Kiều đã hối tiếc mà than rằng
: Biết thân đến bước lạc loài Nhụy đào thà
bẻ cho người TÌNH CHUNG. Tại sao Nguyễn Du không viết là "
người tình XƯA ", hoặc " người tình LANG "... mà phải
là " người tình CHUNG ". Thì ra, cụ Tiên Điền nhà
ta đang chơi trò Chiết tự. Ta hãy xem đây, chữ CHUNG 鍾 gồm có 2 chữ KIM 金 và TRỌNG 重 ghép lại với
nhau mà thành. Người tình CHUNG là người Tình tên KIM TRỌNG.
Không phải tôi đoán mò, cũng không phải tại hên mà
Nguyễn Du ngáp phải ruồi. Nói có sách, mách có chứng đàng
hoàng. Trong câu đối Chiết tự xưa có câu như sau : Bát đao phân mễ phấn 八刀分米粉 Thiên
lý trọng kim chung 千里重金鍾 Có nghĩa : Câu 1 : Phân hạt gạo bằng 8 dao, hạt gạo
sẽ nhuyễn ra như phấn. Chữ BÁT 八 chồng lên chữ
ĐAO 刀 thành
chữ PHÂN 分, chữ PHÂN 分 ghép với chữ MỄ 米 thành chữ PHẤN 粉. Câu 2 : Cái chuông vàng mang đi
ngàn dặm sẽ rất nặng nề. Cũng vậy, chữ THIÊN 千 chồng lên chữ LÝ 里 thành chữ TRỌNG
重, và chữ
TRỌNG 重 ghép
với chữ KIM 金 thành chữ CHUNG 鍾. Nên... " Nhụy đào thà
bẻ cho người tình CHUNG " là Nhụy đào thà bẻ cho người
tình tên KIM TRỌNG đó vậy ! Khi khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn
Thư rồi, cô Kiều cũng còn rất lo lắng cho số phận " Sắn
bìm chút phận con con " của mình, mà không biết " Khuôn
duyên biết có vuông tròn cho chăng ? ", và để tả nỗi
lòng tưởng nhớ đến Thúc sinh của Kiều, Nguyễn Du đã
viết : Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết
ba sao giữa trời ! Trăng khuyết là trăng đầu tháng, mọc lúc
hoàng hôn cũng ăn khớp với ba sao giữa trời là Sao Cài đã
di chuyển vào giữa bầu trời lúc nửa đêm về sáng. Hình
tượng " Nửa vành trăng khuyết " và " ba sao giữa trời
" là biểu tượng của chữ TÂM 心, là tên của
Thúc Sinh như lúc đầu Nguyễn Du đã giới thiệu : Khách
du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư
hương. Thì ra Cụ Nguyễn Du nhà ta đã chơi chữ một cách
tuyệt vời, khi dùng hình tượng Nửa vành trăng khuyết và
ba sao giữa trời như chữ TÂM 心 để diễn tả lòng mong nhớ của Kiều đối
với Thúc Sinh ! Đỗ Chiêu Đức . |
Câu đối của
Kim Dung
Hôm nay, tôi sẽ kể một giai thoại về câu đối trong tiểu
thuyết võ hiệp của KIM DUNG để mọi người cùng
đọc chơi tiêu khiển cuối
tuần nhé ! Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều biết qua truyện " Anh Hùng Xạ Điêu " , tức " Xạ điêu anh hùng
truyện " 射鵰英雄傳 của nhà văn Kim Dung, xem phim thì không có,nhưng nếu xem truyện, chúng ta sẽ đọc thấy..... .... Khi bị Thiết Chưởng
Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận đánh cho một
thiết chưởng thừa sống thiếu chết, Hoàng Dung phải nhờ Quách
Tĩnh cỏng đi tìm người trị thương. Được sự chỉ điểm của Thần Toán Tử Anh Cô, đi tìm
Đoàn Nam Đế nhờ ngài dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho Hoàng Dung. Vì
mỗi lần dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho ai, thì Đoàn Nam Đế phải
mất hết công lực, sau 3 năm mới phục hồi lại được, cho nên các học trò của ngài là Ngư, Tiều, Canh và Độc có ý ngăn cản không cho Quách Tĩnh
và Hoàng Dung lên núi. Từ chân núi đến đỉnh núi, Ngư Tiều
Canh Độc 魚,樵,耕,讀 chia làm 4 trạm để cản trở, khó khăn lắm mới vượt qua được 3 trạm Ngư, Tiểu và Canh.... Bây giờ tới trạm cuối cùng của
ông ĐỘC nhé !... Thấy Hoàng Dung giỏi văn thơ và
đã lên tiếng
chê trách là ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết
ý nghĩa của Thánh hiền, qua câu chuyện
nghe ông Độc đọc
một câu trong sách Luận ngữ là : " Mạc
xuân dã, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng
tử lục thất nhân, dục hồ Nghi,
phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui...末春也,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎宜,風乎宇于,咏而歸... Có nghĩa ; Vào cuối
xuân, quần áo mùa
xuân đã may xong, năm sáu người lớn,
sáu bảy trẻ nhỏ, tắm ở dòng sông Nghi, hứng
gió ở đền Vũ Vu, rồi hát mà về....( tả cảnh sống thanh bình vui vẻ,
tự do tự tại của dân chúng trong buổi đầu xuân )....mà hỏi ông rằng
: " Ông đọc sách Thánh hiền, mà có biết Bảy Mươi Hai người thành đạt 七十二賢 ( thất thập nhị hiền ) trong số 3 ngàn học trò của Không Tử,
là : Có bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ không ? Ông Độc suy nghĩ mãi không ra , sách chỉ nói Thất thập nhị Hiền, chứ đâu có nói gì đến
già trẻ đâu.
Hoàng Dung mới cười ông , và đem câu Luận
ngữ mà ông vừa đọc ở trên để giải
thích như thế nầy : Quan giả là
người đội mũ, là người lớn, ngũ lục
nhân, năm sáu người, 5 lần 6 là 30 người. Đồng tử là con nít là người trẻ, luc thất nhân, sáu bảy người, 6 lần 7 là 42
người. 30 cộng với 42, chẳng phải 72 là gì ? Cho nên
tôi nói ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết
ý nghĩa sâu xa ở bên trong là vậy đó
! " .Thấy Hoàng Dung mặc dù ngụy biện, lấy câu
sách mình vừa đọc để mắng mình, nhưng cũng phải phục
tài thông minh, cơ trí
của cô ta, nên định thử xem con bé nầy
giỏi tới đâu...
Đầu tiên, ông ta đọc một
bài thơ, cho Hoàng
Dung đoán lý lịch của mình, bài thơ như sau :
Lục kinh uẩn
tịch hung trung cửu,
六經蕴籍胸中久 Nhất
kiếm thập niên ma tại thủ, 一剣十年磨在手 Hạnh hoa đầu thượng nhất
chi hoành 杏花頭上一枝横 Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu 恐泄天機莫露口 Nhất điểm luy luy đại như đẩu 一点畾畾大如斗 Giảm khước bán sàng chung sở hữu 减却半牀终所有 Hoàn danh trực đãi
quải quan quy 完名直待挂冠歸 Bản lai diện mục quân tri phủ ?
本来面目君知否 Bài
thơ có nghĩa : Lục kinh là : Sáu
bộ kinh sách đã nung nấu trong lòng từ lâu và trong tay mười năm
nay đã luôn mài một lưỡi gươm.
Trên đầu hạnh
hoa có một cành ngang, sợ để lộ thiên cơ nên đừng mở miệng. Một chấm to lớn như là cái đấu, sẽ có được khi đã giảm nửa sàng. Công thành
danh toại nên muốn
cáo lão về quê, gốc gác mặt mũi của
ta, bạn đã biết rồi chưa ? Hoàng Dung nghe xong,
bèn lập lại hai câu
đầu : Lục kinh đã thuộc nằm lòng, lại
mười năm mài một lưỡi gươm, Quả là văn võ song toàn. Chữ lục 六 thêm chữ nhất 一 trong chữ nhât kiếm và chử thập
十 trong chữ thập niên, gộp lại thành chữ Tân
辛.Trên đầu chữ Hạnh 杏
thêm một gạch ngang , và ở phía dưới
bỏ đi chữ khẩu ( mạc lộ khẩu 口) còn lại là chữ Mùi
未. Nhất điểm là một chấm ở trên chữ đại là chữ Khuyển 犬, giảm
phân nữa chữ sàng
牀, tức là bỏ chữ mộc 木 đi, thêm chữ khuyển vào, sẽ thành chữ Trạng
狀. Cuối cùng, chữ hoàn danh, hoàn 完 mà quải quan là treo nón,
bỏ cái nón ra, chữ Hoàn chỉ còn chữ Nguyên
元. Nhập kết
quả của tám câu lại thành ra 4 chữ :
Tân Mùi Trạng Nguyên, thì ra ông xuất thân là Trạng Nguyên đậu
năm Tân Mùi, Xin kính chào
Ngài Trạng Nguyên ạ !
Ông Độc rất
phục cái thông minh, tài trí của Hoàng Dung, nhưng ông vẫn
phải làm khó, vì nếu để Đoàn
Nam Đế trị thương cho Hoàng Dung thì ông ta phải chịu mất hết
công lực trong 3 năm,
mà trước mắt ông ta đang gặp phải cường địch.
Vì vậy, Ông bắt
Hoàng Dung phải đối thêm 2 câu đối nữa, nếu đối
được mới cho vào. Câu thứ nhất, vế ra của Ông như sau :
Phong
bãi tông lư, thiên thủ Phật dao triệp điệp
phiến , 風 摆 棕 梠 ,千 手 佛 摇 槢 叠 扇
Có nghĩa
: Gió đưa các nhánh cọ (
như cây thốt nốt xòe các nhánh như lá dừa ), giống như là
ông Phật ngàn
tay đang phe phẩy quạt. Vế ra hay quá, lại rất tượng hình, muốn đối lại không khó, nhưng muốn đối cho hay thì....Chợt Hòang
Dung nhìn thấy một cọng sen vương cao lên trong hồ, bèn
xúc cảnh sinh tình mà đối ngay rằng :
Sương điêu hà diệp, độc cước quỷ đái
tiêu dao
cân. 霜 凋 荷 叶, 独 脚 鬼 戴 逍 遥 巾 Có
nghĩa :Sương thu làm héo úa lá sen, trông giống như con quỷ một giò đội khăn tiêu dao. Bấy giờ đã vào buổi tàn thu, sen trong đầm đà
tàn tạ, một cọng sen vương
cao lên, lá sen bên trên bị sương thu
nên héo úa đen đúa
rũ xuống , trông tựa như người đang đội khăn, ông Độc dang đội khăn Tiêu Dao, khăn
của thư sinh ngày xưa, bây giờ bị Hòang Dung diễu là Con quỷ một
giò đội khăn tiêu dao, để đối
lại với Ông Phật ngàn tay đang phe phẩy
quạt. Đối
khéo và hay quá, lại còn mắng mình là con
quỷ một giò nữa chớ !. Nhưng vẫn không chịu
thua, ông tiếp tục moi ra câu đối hóc
búa mà ngày xưa thầy ông đã ra cho ông khi còn đi học,
và mãi cho đến nay mặc dù đã đậu Trạng Nguyên mấy chục năm rồi ông vẫn
chưa đối lại được.
Câu đối như sau : Cầm
Sắt Tì Bà bát đại vương,
nhất ban đầu
diện , 琴 瑟 琵 琶 八 大 王, 一 般 頭 面 Có
nghĩa : Cầm sắt
tì bà ( là 4 loại nhạc cụ ) , mỗi chữ trên đầu đều
có 2 chữ VƯƠNG 王, nên gọi là bát đại vương, Nhất
ban đầu diện là mặt mũi đều giống nhau, vì 2 chữ vương của mỗi chữ đều nằm
ở trên đầu. Vế ra quả là hóc búa, trong một
lúc muốn đối
cho chỉnh không phải là dễ.
Nhưng Hoàng Dung lại rất thông minh dĩnh ngộ, lại đúng ngay tình cảnh
mình đang gặp trước mắt , nên nàng bèn cất tiếng đối ngay :
Si Mị Võng Lượng
tứ tiểu quỷ, các tự đỗ tràng . 魑 魅 魍 魉 四 小 鬼, 各 自 肚 肠
Có
nghĩa : Si mị võng lượng là 4 loài tiểu quỷ ở trong núi, chuyên phá phách người
đi đường, các tự đỗ tràng( trường ) là mỗi
con bụng dạ đều khác nhau. Câu
đối thật khéo, thật chỉnh, Cầm sắt tì
bà đối với Si mị võng lượng, bát đại vương
đối với Tứ tiểu quỷ, Nhất ban đầu diện đối
với Các tự đỗ tràng vì phần trong của 4 chữ QUỶ là
4 bộ khác nhau. Câu đối còn hay ở chỗ, vừa đối chỉnh
lại vừa mượn ý câu đối mà
mắng 4 ông Ngư Tiều Canh Độc
là " tứ tiểu
quỷ " , mỗi người một
bụng dạ khác nhau, như 4 con quỷ núi
đều tìm cách ngăn chặn không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi...... Đến nước nầy, Ông Độc
cũng phải chịu Hoàng Dung là giỏi và để cho 2 người lên núi........ Riêng tôi, thì tôi không biết là Hoàng Dung giỏi cở nào, nhưng KIM DUNG thì quả nhiên
giỏi thiệt, chả trách mọi người
đều mê đọc truyện của ông ta, già mê
theo già, trẻ mê theo trẻ, trí thức
mê theo trí thức,
bình dân mê theo bình dân.....Quả thật là Ông Thần của tiểu thuyết Võ Hiệp TRung Hoa. Chả trách ở Trung
Quốc có thành lập một tổ chức gọi là : Kim Dung Học, để chuyên nghiên cứu về 15
bộ tiểu thuyết võ hiệp của
Kim Dung về tất cả các mặt
tâm lý, tình cảm,
triết học, lịch sử, đia lý.... Xin hẹn
bài viết sau...
Đỗ Chiêu Đức.
|
SỐ CHỮ TRONG CÂU ĐỐI
Để mở đầu cho đề
tài hấp dẫn nầy, tôi xin kể ngay một giai thoại về một Họa
sư nổi tiếng vẽ tranh Tre Trúc, đồng thời cũng là một nhà
Thư Pháp lớn của Trung Quốc thời cận đại : Đời THANH, đó
chính là TRỊNH BẢN KIỀU 鄭板橋 ( 1693- 1765 ) . Truyện kể rằng......
Một hôm, Trịnh Bản Kiều mặc thường phục
đến thăm một ngôi chùa nổi tiếng ở địa phương đó.
Tri khách tăng ( nhà sư chuyên lo tiếp khách thập phương ) thấy
chỉ là một thư sinh bình thường, nên chỉ ghế và nói
: TỌA ! 坐 !, đoạn xoay vào bên trong nói với chú Tiểu phục
vụ : TRÀ ! 茶 !. chỉ tiếp khách chiếu lệ. Một thời gian
sau, Trịnh Bản Kiều lại đến viếng ngôi chùa đó, nhưng
lần nầy ăn mặc như một Công tử nhà giàu có. Tri khách
tăng niềm nở mời : THỈNH TỌA ! 請坐. và xoay vào trong bảo
chú Tiểu : BÀO TRÀ !( có nghĩa là Pha trà ) 泡茶!và
tiếp khách ân cần hơn. Ít lâu sau, ông lại lên thăm chùa
với trang phục của quan Tri Huyện. Tri khách tăng trông thấy vội vàng
tiến ngay đến trước mời : THỈNH THƯỢNG TỌA !( Mời ngồi
lên ghế của thượng khách ) 請上坐 !. Đoạn xoay vào
trong giục chú Tiểu : BÀO HẢO TRÀ ! 泡好茶 ! ( pha trà ngon
) . Tiếp đãi vô cùng ân cần, niềm nở, và khi biết được
ông là nhà thư pháp đại tài, bèn lấy bút mực ra
xin ông viết cho chùa đôi câu đối. Ông rất sẵn lòng,
mĩm cười cất bút viết đôi câu đối như sau :
TỌA, THỈNH TỌA, THỈNH THƯỢNG TỌA 坐,請坐,請上坐,
TRÀ, BÀO TRÀ, BÀO
HẢO TRÀ ! 茶,泡茶,泡好茶 !
Vì là truyện kể dân gian,
nên có người viết 2 thứ hai thành :
Trà, kính trà, kính
hương trà ! 茶,敬茶, 敬香茶 。
Tôi kể chuyện nầy để trả lời cho câu
hỏi của một Đồng môn là : Có phải câu đối luôn
là số lẻ 5, 7, 9, 11....hay không ? Xin trả lời : Thường thì như
thế, nhưng không nhất thiết phải là số lẻ. Như câu đối
trên đây bằng 1, 2, rồi 3 ráp lại là 6 chữ thành câu Trên,
và câu Dưới cũng thế. Như thế, câu đối có thể
từ 1 chữ cho đến 100 chữ cũng được, nếu mình đủ
sức làm, và người đọc có đủ kiên nhẫn để
đọc, và ... số chữ chẳng lẻ gì cũng được. Ví
dụ :
Ta có câu đối Tết truyền
thống 4 chữ như sau :
MAI KHAI NGŨ PHÚC
梅 開 五 福
TRÚC BÁO TAM ĐA 竹 報 三 多
Câu 1 : Hoa mai nở 5 cánh như mang đến 5 cái
phước cho gia đình ( 5 cái phước đó là : Thọ, Phú,
Khang ninh, Du hảo đức và Khảo chung mệnh. 五福 是 : 寿,富,康寜,攸好德,考终命。Sống lâu, giàu có, mạnh
khỏe, được tiếng tốt và chết an lành. Đó là 5 cái
phước mà mọi người đều mong mõi. )
Câu 2 : Một chi nhỏ
của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm báo mang đến
3 cái nhiều( Tam Đa ) mà người ta thường mong mõi. Đó là
: Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三多 是 : 多福,多寿,多男子。Nhiều phước, nhiều thọ, nhiều con trai.
Bây giờ ta khai triển nó thành câu đối
5 chữ :
Mai khai trình ngũ phúc 梅 開 呈 五 福
Trúc báo hiến tam đa
竹 報 献 三 多
Cho nó thành 6 chữ :
Mai
khai khai trình ngũ phú 梅 開 開 呈 五 福
Trúc báo báo hiến
tam đa 竹 報 報 献 三 多
Cho nó thành 7 chữ :
Mai
khai ngũ phúc niên niên phúc 梅 開 五 福 年 年 福
Trúc báo tam đa tuế
tuế đa 竹 報 三 多 嵗 嵗 多
Hoặc đão ngược lại
cho nó hay hơn như :
Trúc báo tam
đa đa hién thoại 竹 報 三 多 多 献 瑞
Mai khai ngũ phúc phúc lâm
môn 梅 開 五 福 福 臨 門
Hoặc ta nhập 2 câu đối 4 chữ lại thành
câu đối 8 chữ như :
Ngũ phúc
lâm môn, tam dương khai thái 五福臨門,三陽開泰
Nhất nguyên phục thủy, vạn tượng canh
tân 一元復始,萬象更新
Nhớ
hồi Đám cưới của tôi và của thằng con trai của tôi
28 năm sau nữa, tôi cũng viết đôi câu đối 8 chữ như sau
:
Nhật lệ phong hòa, môn đình
hữu hỷ 日麗風和,門庭有喜
Nguyệt viên hoa hảo, gia
thất hàm nghi 月圆花好,家室咸宜
Có nghĩa
:
Trời
đẹp gió lành, cửa nhà vui vẻ ,
Trăng tròn hoa đẹp,
gia thất nên duyên.
Câu đối 9 chữ với những nét chấm
phá như vẽ lại bức tranh Tết như sau :
Bộc trúc tam lưỡng
thanh, nhân gian thị tuế,
爆 竹 三 兩 聲, 人 間 是 歲 ,
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai xuân.
梅 花 四 五 點, 天 下 皆 春 。
Có nghĩa :
Hai ba tiếng pháo
đì đùng, nhơn gian đón mừng năm mới,
Bốn năm đóa
mai lấm tấm, thiên hạ đều biết xuân sang.
Câu đối 10
chữ của Ông Tú Vị Xuyên " Nhập thế cục bất khả vô
văn tự " như sau :
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình
hoài,
極
人 間 之 品 價, 風 月 情 懷 ,
Tối thế
thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
最 世 上 之 風 流,江 湖 氣 骨 。
Có nghĩa
:
Cái phẩm giá cao nhất trên đời là tình hoài phong nguyệt,(
ở đây chỉ tình hoài vọng về gió mát trăng thanh một
cách thanh cao, chứ không phải chuyện " gió trăng " tầm thường
của nhân thế ! ).
Cái phong lưu nhất ở trên đời nầy
là cái khí cốt giang hồ !( chỉ làm trai chí tại 4 phương,
phải vùng vẫy giang hồ chứ không phải tối ngày ngồi bó
gối ở nhà với... vợ ! )
Đây là loại câu đối theo
thể văn Biền Ngẫu, Tứ Lục hoặc Lục Tứ như trong bài tự
Đằng Vương Các của Vương Bột đời Đường :
... Quan sơn
nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân,
Bình thủy tương phùng, tận
thị tha hương chi khách...
Câu đối 11 chữ : Nhớ năm 2000,
là năm đầu của Thiên Niên Kỷ mới, người Hoa gọi là
năm THIÊN HỈ ( Thiên Hỉ Niên ). Ba Má tôi đều sanh vào tháng
Giêng năm 1930, nên năm 2000 vừa đúng tuổi Thất Tuần. Tết
năm đó tôi làm đôi câu đối sau, vừa để chúc
Tết vừa để mừng thọ :
Thiên hỉ tụng cổ hi, hợp quyến
nhi tôn cộng lạc,
千 禧 頌 古 稀, 合 眷 兒 孫 共 樂 。
Thất tuần ca song thọ, toàn gia lão thiếu đồng hoan.
七 旬 歌 雙 壽, 全 家 老 少 同 歡 。
Có nghĩa :
Năm Thiên
hỉ, chúc tụng người sống đến tuổi cổ lai hi, nên con cháu
cả nhà đều vui vẻ.
Thất tuần mừng còn được
song thọ, nên già trẻ cả nhà đều cùng hoan hỉ.
Ta còn
có thể mượn một câu đối 7 chữ, ghép thêm một lời
chúc 4 chữ để làm thành câu đối 11 chữ như sau :
Thiên
tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ, xuân huyên tăng thọ.
天 增 歲 月 人 增 壽,椿 萱 增 壽 ,
Xuân
mãn càn khôn phước mãn đường, kim ngọc mãn đường.
春 滿 乾 坤 福 滿 堂, 金 玉 滿 堂.
Có nghĩa
Trời
thêm ngày tháng người thêm thọ, cha mẹ cũng thêm thọ.
Xuân
về đầy cả đất trời phước đến đầy cả nhà,
vàng ngọc cũng đầy cả nhà.
Câu đối 12 chữ : Thường thì
vế đầu 5 chữ ( ngũ ngôn ), vế sau 7 chữ ( thất ngôn ). như
:
Mai
khai trình ngũ phúc, xuân đáo mai khai trình ngũ phúc,
Trúc
báo hiến tam đa, tuế trừ trúc báo hiến tam đa.
Có nghĩa
:
Mai nở 5 cánh như dâng lên 5 cái phước, khi xuân đến
thì mai sẽ nở và dâng lên 5 cái phước .
Trúc xanh 3 lá
như hiến tặng tam đa ( 3 cái nhiều ), khi năm hết thì trúc vẫn
với 3 lá xanh tươi để hiến tặng tam đa.
Hoặc có thể
đão ngược lại 7 trước 5 sau để nhấn mạnh phần chủ
yếu của câu đối như : Câu đối mừng Toãn Hôn ( Kỷ
niệm Kim Cương với 60 năm chung sống ) như sau :
Lục thập niên
cộng khổ đồng cam, kim niên hân khánh toãn,
六 十 年 共 苦 同 甘, 今 年 欣 慶 鑽 。
Tam
vạn nhật phù trầm dữ thế, thử nhật hỷ song toàn.
三 萬 日 浮 沈 與 世,此 日 喜 雙 全 。
Có nghĩa
:
Sáu mươi năm chia ngọt xẻ bùi, năm nay mừng mà kỷ
niệm đám cưới kim cương,
Ba chục ngàn ngày chìm nổi
với cuộc đời, ngày hôm nay vui vì còn đủ cả hai người.
Câu đối
14 chữ, thường thì được chia làm 2 vế, mỗi vế 7 chữ,
như câu đối Tết rất nổi tiếng của cụ Nguyễn Công Trứ
như sau :
Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng
bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng
ông phúc vào nhà.
Câu đối 16 chữ, như câu đối Tết
nổi tiếng độc đáo của nữ sĩ Hồ Xuân Hương :
Tối ba
mươi khép cánh càn khôn, nít chặc lại
kẽo ma vương
đưa quỷ tới,
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang
ra
cho thiếu nữ đón xuân vào !
Câu đối 20 chữ, như câu đối
của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến làm cho bà hàng
xóm khóc chồng là thợ nhuộm như sau :
Thiếp từ khi lá
thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều
khôn nhờ bố đỏ,
Chàng ở dưới suối vàng có biết,
vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh !
Và...
Câu đối 44 chữ cũng của cụ Tam Nguyên làm khi về
làng dạy học như sau :
Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình
ngất ngưởng ngồi trên, nào lính nào tráng, nào bàn
ba, tiền làm sao, gạo làm sao, đóng góp làm sao, một năm mười
hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thấy đà nhẵn mặt
;
Già chẳng già thì trẻ, đàn tiểu tử lô nhô đứng
trước, nào phú nào thơ, nào đoạn một, bằng là thế,
trắc là thế, điểm khuyên là thế, ba vạn sáu nghìn ngày
thắm thoát, con mắt gà đeo mãi đã mòn tai.
Ta thấy...
Câu đối 20 chữ còn có thể nhớ và thưởng thức được,
chớ đến câu đối 44 chữ thì... chịu thua ! Vừa khó đọc,
vừa khó nhớ, nói chi đến thưởng thức và nghiền ngẫm
cái hay ho của nó !...
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời
cùng đọc một câu đối 14 chữ ngồ ngộ như sau : ( Đặc
biệt là câu đối nầy toàn bằng từ Hán Việt mà...
khỏi cần phải diễn nôm, vì nghĩa nôm cũng... y chang như thế
! ).
Đại đại biểu, tiểu đại biểu, đại đại
biểu đại biểu tiểu đại biểu.
Nam chiêu đãi, nữ
chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ chiêu đãi
!
Đỗ
Chiêu Đức
Năm Tỵ nói chuyện Rắn.
Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ... Hết Thìn
tới Tỵ, Nhâm Thìn đi qua thì Quý Tỵ lại về. Hết Rồng
tới Rắn, Rồng rồng Rắn rắn, mặc sức mà vẽ Rắn vẽ
Rồng, nhưng Rồng thì muốn vẽ sao cũng được, vì chưa ai
hân hạnh thấy qua dung nhan thật sự của nó bao giờ, chứ Rắn thì
phải cẩn thận, không khéo lại " Vẽ rắn thêm chân ",
chẳng những vô bổ mà còn làm trò cười cho người
khác nữa !
Đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp, nên có thể tự
hào là " Thiên địa ngã trung ương " được. Vì
cũng như con người, con rắn có mặt từ thuở tạo thiên lập
địa cả Đông lẫn Tây.
Theo Sáng thế ký của người Do Thái thì khi Thiên Chúa mới
tạo dựng nên trời đất muôn vật , tất cả mọi vật đều
tốt lành,thánh thiện. Thiên Chúa lại còn ban cho ông A-dong và
bà E-và, thủy tổ của loài người, một cuộc sống thật
là thong dong và hạnh phúc nơi vườn Địa đàng, và
cho phép họ được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, ngoại
trừ trái của một cây có tên “Hiểu biết”. Bấy giờ
qủy Satan ,vốn cũng là thiên thần được Chúa tạo dựng
nên từ trước để thờ phượng Thiên Chúa nhưng lại
phản bội Thiên Chúa nên bị Chúa đày vào Hỏa ngục,
thấy thế bèn sinh lòng ganh ghét nên mượn hình Con Rắn hiện
lên dùng lời lẽ ngon ngọt dụ dỗ bà E-và. Nghe rắn bảo
nếu ăn trái cấm này thì sẽ trở thành ngang hàng với
Thiên Chúa làm E-và nghe bùi tai, bèn bẻ xuống ăn ngay, hại
cái là lại còn năn nỉ ỉ ối để cho A-dong cùng ăn
luôn thể. Thiên Chúa biết được hai người lén ăn trái
cấm, vô cùng tức giận, bèn đày cả hai xuống trần gian
làm người thường, và cũng phạt luôn con Rắn Satan xuống trần
và phải bò sát đất không được cất đầu lên,
tạo nên mối thù truyền kiếp giữa người và rắn !
Hình ảnh con Rắn cũng còn xuất hiện trong
các công trình kiến trúc hay nghệ thuật điêu khắc phương
Đông, như trong các chùa chiền miếu mạo ở nước bạn
Campuchia, cũng như ở miền tây Nam bộ, nơi có nhiều người dân
gốc Khmer theo Phật giáo nguyên thủy sinh sống. Điều này bắt
nguồn từ sự tích kể về Bảy ngày tu đầu tiên của Đức
Phật. Cứ theo sự tích này thì khi ngài đang tọa thiền dưới
cội Bồ đề thì một cơn mưa bất thường đổ xuống
như trút nước lên thân thể ngài. Ngay lúc đó có
một con rắn
Naga Muchalinda bò ra,
cuộn mình thành bảy vòng tròn, nâng Đức Phật lên khỏi
dòng nước đang chảy xiết và dùng bảy chiếc đầu của
mình làm thành chiếc tán che cho Đức Phật. Từ đó, người
ta mới hay tạc hình rắn Naga ngự trên các mái chùa, để
xua đuổi tà ma và bảo vệ đạo Phật, hoặc dùng xà
cừ chạm trổ hình rắn Naga uốn quanh những cánh cửa chùa, trên
tủ đựng kinh sách, hay trên những chiếc xe tang như một vị thần
linh đưa người chết về cõi vĩnh hằng.
Dân Cam Bốt tin rằng vương quốc Khmer do vua rắn
sáng lập. Con đường dẫn đến ngôi đền chính tại
Ankhor Wat của Cam Bốt được khảm bằng nhiều "naga" bảy đầu
và cũng có nhiều hình rắn được tạc trên tường.
Ngay cả xứ Tây Tạng không có rắn cũng thờ thần Naga có
tên là Lu. Tên Nagajurna tiếng Tây Tạng gọi là Lu-truh
Môn học nghiên
cứu về rắn, được giới khoa học goi là "Herpetology" bắt
nguồn từ chữ Hy Lạp "Herpeton" co nghĩa là "loài bò sát".
Sau nhiều cuộc khảo sát kỹ lưỡng, người ta vẫn chỉ dự
đoán được rằng rắn xuất hiện trên trái đất cùng
lúc với loài khủng long, vào thời đại Triassic khoàng 200 triệu
năm trước đây.
Ở Trung Hoa, hình ảnh con rắn được
nâng cấp lên thành con Rồng, và được tôn vinh là con trời
( Thiên Tử ) với các từ Long nhan, Long thể, Long sàng.... ngoại trừ
Long Nhãn của xứ Long An !
Ở Việt Nam ta thì ai tuổi con Rắn kể
như là được thong dong tự tại khỏi phải lo lắng bận tâm
nhiều với cuộc sống, với câu thiệu sau đây :
Tuổi Tỵ
rắn ở trên cây,
Nằm khoanh trong bọng chẳng hay sự gì !
Tuy
nhiên, có nhiều con rắn cũng phải vất vả bương chải mặc
dù không có chân :
Con Rắn không chân nó đi năm rừng
bảy rú,
Con gà không vú nuôi đặng chín mười con...
Không chân mà đi được là nhờ trườn. Theo khoa học,
rắn thuộc loài bò sát tương tự như giống thằn lằn
không chân. Ðiều khác biệt là rắn có một hàng vẩy
cứng dưới bụng có thể di động được như những chân
nhỏ khi trườn lết. Ðặc điểm nữa là xương hàm trên
của rắn có thể di chuyển, đổi chỗ để miệng có thể
mở rộng khi nuốt những mồi lớn. Nên rắn lại có thể chỉ
ăn một lần mà no cả tháng. Nếu con người có khả năng
nầy thì đỡ phải lo khi kinh tế xuống dốc hoặc khi thất nghiệp.
Theo số Tử Vi thì Rắn hợp với Gà và Trâu. Tị Dậu Sửu
Tam hạp mà lị ! Nhưng lại kỵ với Cọp Khỉ và Heo, vì nằm
trong Tứ Hành Xung : Dần Thân Tị Hợi, nhất là kỵ với Heo, vì
Tị Hợi thuộc dạng Chính Xung. Cho nên , ngày xưa ( và cả ngày
nay cũng vậy ) , con trai đi cưới vợ, hoặc gia đình nào muốn
cưới dâu, đều phải xem tuổi của cô Dâu và chú Rể,
tuổi của hai người nầy không được chênh lệch nhau 3, 6, hoặc
9 tuổi, vì như thế, chắc chắn sẽ ăn vào một trong Tứ Hành
Xung của Tý Ngọ Mẹo Dậu, Dần Thân Tị Hợi, hoặc Thìn Tuất
Sửu Mùi. Nhưng đậc biệt ở Việt Nam ta tuổi Tị con Rắn còn
bị kỵ thêm một con ngoài Tứ Hành Xung nữa, đó chính là
con Gà. Có con trai tuổi Dậu mà lại cưới nhằm cô dâu tuổi
Tị, thì lại đúng với câu :
Cõng rắn cắn gà nhà
!
Bạch
xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi 白蛇當道,貴拔劍而斬之, có nghĩa : Rắn trắng chặn đường, ông
Quý rút kiếm mà chém nó. chỉ việc Lưu Bang Hán Cao Tổ
khi còn hàn vi, đã chém rắn trắng chặn đường để
khởi nghĩa và lập nên nhà Hán hùng mạnh hơn 400 năm sau
nầy ( 202 trước Công nguyên đến 220 sau Công Nguyên ). Đó
là Con Rắn trong Lịch Sử, còn con Rắn trong Văn học thì ta có
thành ngữ : Họa Xà Thiêm Túc 畫蛇添足,
tức Vẽ Rắn Thêm Chân như đã đề cập ở đầu
bài viết. Truyện kể :
Xưa nước Sở có một vị quan lớn, sau khi cúng tế tổ
tiên xong bèn ban cho đám gia nhân một hồ rượu. Rượu ít
mà người thì đông, nên có người đề nghị là cùng nhau thi vẽ rắn,
xem ai vẽ xong trước thì được uống nguyên bầu rượu đó.
Tất cả đồng ý và bắt đầu vẽ, một anh vẽ rất
giỏi chỉ trong một loáng đã vẽ xong, thấy mọi người còn
đang hí hoái vẽ. Anh ta rất đắc ý, bèn vơ lấy bầu
rượu, tay kia tiếp tục vẽ thêm 4 cái chân cho rắn nữa . Trong
khi đó , có một anh khác cũng đã vẽ xong , bèn giựt lấy
bầu rượu tu một hơi cạn sạch, cười bảo : " Rắn vốn
không chân, ai bảo anh vẽ thêm chân chi cho thêm chậm ! ". Anh ta tức
quá, nhưng lại không nói được gì .. Mọi người đều
bật cười chế nhạo và bảo: đã gọi là rắn thì
làm gì có chân. Từ đó người ta mới dùng thành
ngữ này để chế diễu những kẻ hay bày vẽ lôi thôi,
làm những việc thừa thãi không hợp tình hợp lý.
Ảnh bên:杯弓蛇影
Bôi cung xà ảnh : Bóng rắn trong ly.
Sau Họa Xà Thiêm Túc là thành
ngữ : Bôi Cung Xà Ảnh 杯弓蛇影. Truyện kể : Ngày xưa có một anh chàng tên là
Nhạc Quảng, mời bạn đến nhà uống rượu chơi. Khi ông
bạn bưng ly rượu lên uống, thấy có hình bóng của một
con rắn đang dao động trong ly, nhưng vì nể bạn và vì phép
lịch sự, anh ta cũng uống cạn ly rượu. Nhưng khi về đến nhà,
anh ta cứ lo ngay ngáy, thấy trong bụng khó chịu, và vì lo sợ quá
nên sinh bệnh. Nhạc Quảng nghe tin đến thăm, nghe bạn kể lại hôm
uống rượu đã uống nhầm con rắn vào bụng. Nhạc Quảng
lấy làm lạ, về nhà quan sát, hiểu ra nguyên nhân . Hôm sau
bèn lại mời người bạn trở lại nhà để uống rượu
lần nữa, khi rót rượu cho bạn xong, thấy bạn tái mặt, vì
hình bóng con rắn lại hiện ra dưới đáy ly. Nhạc Quảng bèn
chỉ vào cây cung treo trên tường ở phía sau lưng người bạn
mà nói rằng : Cái bóng con rắn mà bạn trông thấy, chính
là cái bóng của cây cung treo trên tường kia. Nười bạn
quay mình lại nhìn lên thấy cây cung treo phía sau lưng mình mới
yên tâm, và cảm thấy trong bụng dễ chịu lại ngay, không còn
bịnh hoạn gì nữa cả !. Câu thành ngữ nầy dùng để
chỉ những người hay sợ bóng sợ gió, sợ những chuyện vu
vơ đến sinh bệnh hoạn.
Trong Trung Quốc Tứ Đại Dân Gian Truyền
Thuyết ( Bốn truyền thuyết lớn trong dân gian Trung Hoa ), còn lưu truyền
một câu chuyện diễm tình về rắn, ta gọi là Truyện Thanh Xà
Bạch Xà, nhưng người Hoa thì chỉ gọi tắt là BẠCH XÀ
TRUYỆN 白蛇傳. Một chuyện tình dân gian ướt át, nhưng lại lồng
trong thuyết nhân quả của nhà Phât. Truyện kể :
Bạch Tố
Trinh là Rắn trắng ( Bạch Xà ) tu luyện ngàn năm, sau khi uống tiên
đan của Pháp Hải Hòa thượng, trở nên thần thông quảng
đại. Vì muốn báo ân cho Hứa Tiên, chàng thư sinh đã
cứu mạng mình hồi những kiếp trước, bèn cùng một cô
bạn rắn đàn em nữa là Thanh Xà biến thành hình người,
rồi thi triển pháp lực để làm quen và kết hôn với Hứa
Tiên. Sau tuần trăng mật mặn nồng giữa người và rắn, thì
Pháp Hải hòa thượng tìm đến để báo phục chuyện
Bạch Tố Trinh đã lấy trộm tiên đan của mình, đồng thời
thuyết phục Hứa Tiên ép cho Tố Trinh phải uống ly rượu có
chất Hùng Hoàng ( một vị thuốc Bắc chuyên trị về rắn !
), làm Bạch Tố Trinh phải hiện nguyên hình là con rắn trắng,
làm chàng thư sinh Hứa Tiên kinh hãi quá... đứt hơi luôn
!.Sau khi tỉnh dậy, Bạch Tố Trinh lại phải lén lên Thiên Đình
để trộm thuốc Linh Chi của bà Tây Vương Mẫu về cứu sống
Hứa Tiên. Pháp Hải hòa thượng lại dùng mưu gạt Hứa
Tiên lên chùa Kim Sơn, rồi nhốt chàng ta lại. Bạch Tố Trinh nổi
giận, bèn cùng Tiểu Thanh dâng nước biển tràn ngập để
tấn công Kim Sơn Tự, làm chết rất nhiều sinh linh vô tội, điều
nầy phạm đến luật Trời, nên sau khi sinh con giao cho Hứa Tiên nuôi
nậng Bạch Tố Trinh bị Pháp Hải hòa thượng nhôt vào trong
Lôi Phong bảo tháp. Sau đứa con khôn lớn, thi đậu Trạng Nguyên,
tìm đến để tế lễ và cứu mẹ ra khỏi tháp Lôi
Phong, và... cả nhà được đoàn tụ. Một kết thúc có
hậu và viên mãn theo kiểu phương đông và theo thuyết nhân
quả của nhà Phật.
Cũng là Rắn
Trắng, nhưng không phải là rắn trắng chặn đường của
Lưu Bang , mà là Rắn Trắng đầy tình nghĩa, nên Bạch Tố
Trinh được nhân gian lập miếu thờ phụng và xưng tụng là
Bạch Nương Nương. Đây là con rắn mang ơn trả ơn, chớ
không phải là con rắn hờn oan trả oán như con rắn của Tây
Hồ mà khai quốc công thần của nhà Hậu Lê Nguyễn Trải đã
gặp phải.
Sử chép rằng, vào năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê
Thái Tông (con vua Lê Lợi) đi tuần du phương đông, duyệt võ
ở Chí Linh, nên Nguyễn Trãi (lúc ấy đã về trí sĩ)
bèn ra nghênh tiếp xa giá. Khi Lê Thái Tông đến viếng chùa
Côn Sơn là nơi có ẩn am của Nguyễn Trãi, nhìn thấy tì
thiếp của Nguyễn Trãi là Thị Lộ nhan sắc lộng lẫy, lại
có biệt tài về văn chương, bèn phong cho chức Lễ nghi Học
sĩ, bắt phải theo hầu bên cạnh nhà vua. Lúc xa giá tới Lệ
Chi Viên, thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, thì thình lình
nhà vua nhuốm bệnh. Thị Lộ phải hầu hạ, thang thuốc ngày đêm,
nhưng vua vẫn không qua khỏi. Các quan phải vội vã phụng giá
về Kinh rồi mới làm lễ phát tang. Tất cả triều thần đều
buộc tội Thị Lộ đã đầu độc vua, liền đem nàng
ra giết. Việc này xảy ra nhằm lúc trong triều đang có sự tranh
chấp. Nhóm võ quan theo phe Lê Sát thấy ngày trước Nguyễn Trãi
được vua Lê Thái Tổ trọng dụng nên vẫn mang lòng ganh ghét,
chỉ muốn trừ khử, bèn nhân dịp này vu cho tội chủ mưu sát
đế để giết luôn cả ba họ.
Cái án oan này, mãi
đến hơn hai mươi năm sau mới được vua Lê Thánh Tông,
một vị minh quân của triều Lê, thấy có nhiều điều hàm
hồ, oan ức cho một đại công thần khai quốc, bèn đem ra xét
lại và truyền lệnh hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức
cho Nguyễn Trãi, cho tìm kiếm con cháu để đưa ra làm quan, lại
còn cấp tư điền để con cháu lo việc tế tự hàng năm.
Từ sự kiện lịch sử này mà sau đó trong dân gian mới lưu
truyền câu truyện rắn báo oán sau:
Truyện kể rằng: Nguyễn Trãi
thời chưa ra làm quan, một hôm có ý định cho sửa sang lại
khu vườn nhà thì nằm mơ thấy có một người đàn
bà bụng mang dạ chửa đến van xin ông hãy hoãn việc này
lại để cho bà ta có thể yên tâm tá túc cho qua kỳ sinh
nở. Khi tỉnh dậy nhìn ra vườn, ông thấy không có dấu hiệu
gì tỏ ra có người cư ngụ ở đó nên cũng không
lấy gì làm quan tâm cho nên hôm sau cứ sai đám học trò
ra dọn vườn như đã dự định. Trong khi dọn dẹp, đám
học trò bắt gặp một ổ rắn bèn giết chết luôn cả
ổ gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn mẹ tái sinh, bò lên trần
nhà, nhìn thấy Nguyễn Trãi đang đọc sách bèn nhỏ một
giọt máu đào rơi xuống thấm xuyên qua ba tờ giấy, như một
dấu hiệu ám chỉ ba họ. Thời gian sau, khi Nguyễn Trãi đang làm
quan thì cũng con rắn đó hóa thân thành Thị Lộ, giả lảm
ả bán chiếu gon ở Tây Hồ để gặp Nguyễn Trãi, cùng
xướng họa thi ca rồi trở thành tì thiếp để lọt vào
gia đình ông ta chờ cơ hội báo thù. Do đó, việc Nguyễn
Trãi bị giết cùng ba họ bị tru di chính là hậu quả của
món nợ máu ngày xưa mà ra. Truyện của Thị Lộ và Nguyễn
Trãi lại cho ta một giai thoại văn chương lý thú với bài
thơ hỏi để ghẹo cô bán chiếu Thị Lộ như sau :
Ả ở đâu
mà bán chiếu gon,?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân
xanh nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa được
mấy con ?
và để đáp lại bài thơ toàn là câu hỏi
nầy, Thị Lộ đã trả lời rất khéo là :
Thiếp ở
Tây Hồ bán chiếu gon,
Can chi ông hỏi hết hay còn.?
Xuân
xanh tuổi độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi
chi con !(? ).
Bài
thơ khéo ở chỗ, nếu câu chót đổi dấu chấm than thành
dấu hỏi, thì có cái khẩu khí lớn lối như muốn gọi
Nguyễn Trãi bằng con vậy !
Mặc dù là truyền thuyết, nhưng
con rắn Thị Lộ báo oán quá thâm độc, hại nguyễn Trãi
đến nhà tan cửa nát, tam tộc phải tru di, cháu con phải đổi
họ tên, lưu vong thất sở, vở tuồng cải lương " Nắm Cơm
Chan Máu " kể lại chuyện của Đỗ Lệ và Trần Ai ( cháu
2 đời của Nguyễn Trãi phải đổi họ đổi tên ) là
một thảm kịch đáng thương.
" Lòng dạ rắn rết " là thành ngữ thường dùng
để chỉ những người đàn bà độc ác, còn "
Lòng lang dạ sói " thì thường được dùng để chỉ
cánh đàn ông, nên chi, mới có chuyện Thị Lộ là con rắn
đến để báo oán. Xưa nay các cụ đồ nho vẫn thường
truyền miệng bài thơ sau đây :
THANH TRÚC XÀ NHI khẩu, 青竹蛇兒口
Huỳnh phong vĩ thượng
trâm. 黃蜂尾上針
Lưỡng ban do vị độc, 兩般猶未毒
Tối độc phụ nhân
tâm. 最毒婦人心.
Có nghĩa : Cái miệng của con rắn thanh trúc ( ta gọi là
rắn Lục ). Cây kim ở phía sau đuôi của con ong Nghệ màu vàng(
hay ong Vò Vẻ gì đó ). Nhưng, Hai thứ đó còn chưa độc.
Độc nhất là lòng dạ của đàn bà. Bình thường
thì các bà các cô rất dễ thương, nhưng khi cần " Độc
" thì lại " Độc " hơn cánh đàn ông nhiều ! ( Xin
lỗi các bà các cô, đây là nhận xét của các cụ
ngày xưa truyền lại, kẻ hậu sinh như chúng tôi chỉ lặp lại
mà thôi ! ).
Độc nhất
là đàn bà, mà dễ thương nhất cũng là đàn bà,
nhất là các bà các cô có cái " Thủy xà yêu "
水蛇腰, tức là cái eo của con rắn nước, để
chỉ cái thân hình yểu điệu, ẻo lả , một cách hấp
dẫn của phái nữ. Trong truyện " Hồng Lâu Mộng " có cô
thị nữ tên Uyên Ương có cái " Thủy xà yêu " nầy,
làm cho Giả Mẫu rất lo lắng sợ thằng cháu quý hóa là
Giả Bảo Ngọc mê đắm cái eo rắn uốn lượn dễ hấp
dẫn kia.Vì hình thù và điệu bộ trông rất dễ sợ,
phùng mang trợn má giơ bàn nạo để hù dọa con người,
nên rắn thường bị xem là những gì xấu xa, ác độc,
như câu nói " Khẩu Phật tâm Xà " để chỉ những
người bề ngoài trông hiền lành như ông Phật, nhưng lòng
dạ thì lại ác độc như rắn rết.
Rắn
có con to lớn như Mãng Xà, có con chỉ nhỏ như con giun, gọi
là rắn giun, rắn liu điu. Nhưng dù lớn dù bé, hình thù
và bộ dạng của rắn cũng dễ làm cho con người khiếp sợ,
ngay cả cái tên Mãng Xà 蟒蛇, nghe thôi, cũng thấy phát ớn, sự thật thì Mãng Xà là
tên chữ của con Trăn trông rất hiền lành và dễ thương
mà thôi !
Trong văn chương Việt Nam còn có con rắn rất thông
minh, dễ thương, thi đậu Bảng Nhãn và rất nổi tiếng về
văn chương là Lê Quí Đôn . Bảng Nhãn Lê Qúi Ðôn
còn có tục danh là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu
là Quế Ðường, sinh năm Bảo Thái thứ 7 (1726) đời vua Lê
Dụ Tôn thời chúa Trịnh Cương. Ông người xã Diên Hà,
tỉng Sơn Nam (Thái Bình ngày nay), con quan Hình Bộ Thượng Thư
Lê Phú Thứ.
Ông Ðôn khi còn trẻ là một đứa bé
tuy thông minh nhưng rất tinh nghịch, khó dậy, rắn mắt và cứng
đầu cứng cổ. Một hôm, ông chú tới nhà chơi, thấy cậu
Ðôn đang trần truồng tắm mưa. Ông chú la rầy cháu vì
lười biếng không chịu học mà chỉ phá làng phá xóm
nên dốt nát. cậu Ðôn cãi lại, cho rằng ông chú cũng
chẳng giỏi giang gì hơn. Ðể chứng tỏ, cậu nằm ngửa ra giữa
sân, giang hai tay hay chân rồi đố ông chú xem đó là chữ
gì. Ông trả lời đó là chữ Ðại 大. Cậu
Ðôn cười lớn, chỉ vào "cái giống" của mình rồi
nói "chữ Ðại còn có "cái chấm" này nữa phải
là chữ Thái 太 mới đúng"! Ông chú vừa bị thua còn
mắc cở bèn mách cha mẹ cậu Ðôn nên cậu bị cha mẹ la
rầy và dọa đem ra đánh đòn. Ông chú bèn nói nếu
cậu Ðôn làm được một bài thơ để tạ tội "rắn"
(cứng) đầu, với điều kiện mỗi câu đều có tên một
loại rắn trong đó, ông sẽ xin cha mẹ cậu tha cho. Cậu Ðôn
liền ứng khẩu, đọc :
Chẳng phải “liu điu” vẫn giống nhà
“Rắn” đầu
biếng học lẽ không tha
Thẹn
đèn “hổ lửa” đau lòng mẹ
Nay thét
“mai gầm” rát cổ cha
“Ráo” mép chỉ
quen lời dối
trá
“Lằn” lưng chẳng quản vệt dăm ba
Từ nay Châu Lỗ xin chăm “học”
Kẻo “hổ mang”danh tiếng thế gia.
Bài thơ này không những ngụ ý xin lỗi
cha mẹ về tội "Rắn Ðầu" của mình mà mỗi câu thơ
đều mang tên một loại rắn như liu điu (rắn nhỏ), hổ lửa,
mai gầm, rắn ráo, thằm lằn, hổ mang v.v... Trâu là nước Trâu,
quê hương của thày Mạnh Tử. Lỗ là nước Lỗ, quê
của "Vạn Thế Sư Biểu" Khổng Tử. Sau khi làm bài thơ
này, quả nhiên ông Lê Qúi Ðôn giữ đúng lời hứa,
chăm chỉ học hành, thi đỗ Bảng Nhãn, làm quan nhất phẩm
triều đình. Ông còn để lại nhiều áng văn chương
và bộ sử rất giá trị.
" Miệng hùm nọc rắn
", Nọc rắn mặc dù độc, rất độc, như nọc rắn trên
đầu gậy của Âu Dương Phong có thể làm chết hết một
đàn cá mập trong truyện Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung, nhưng
với liệu pháp " Dĩ độc trừ độc ", nọc rắn cũng
là một vị thuốc trị độc rất tốt, và truyền thuyết
về con rắn trong ngành y của cổ Hi Lạp đã giúp cứu người
như thế nào, ta hãy thử tìm hiểu sau đây...
Theo truyền thuyết
thì Esculape là con của Thần Apolon, nhờ học được nghề thuốc
từ một kỳ nhân nên không những
đã cứu được nhiều người
khỏi bệnh tật, lại còn có khả năng làm cho người chết
sống lại. Điều này khiến cho Thần Zeus nổi giận, sai Thiên Lôi
búa chết Esculape. Người đời sau nhớ công ơn của Esculape bèn
dựng tượng để tôn vinh và con rắn
nhờ cũng có công trong việc cứu nhân độ thế của Esculape nên được để cho quấn quanh cây gậy
của ông ta. Sau đó vào đầu thế kỷ thứ 3 trước Công
nguyên, ở La Mã bỗng xảy ra một trận đại dịch giết hại
rất nhiều người làm cho mọi người đổ xô nhau dâng rượu
cúng Thần Esculape để cầu cho tai qua nạn khỏi. Thế là người
ta bèn đặt thêm cái ly bên cạnh chiếc gậy nên ngày nay
chúng ta mới thấy có hình con rắn quấn quanh chiếc gậy hoặc
quấn quanh cái ly trong các biểu tượng của ngành y tế. Để phân biệt, dân y khoa xứ ta có câu: “Rắn quấn gậy ngành y, rắn
quấn ly ngành dược”!
Hình ảnh con rắn cuốn quanh cây gậy - gọi là caduceus,
tiếng Hy Lạp là Kerykeion - trở thành biểu tượng của ngành y
khoa hiện đại.
Theo các ông bà thuở xưa,
rắn có thể tu luyện thành tinh và lột da sống đời. Những
"mãng xà tinh" này đều có viên ngọc trong đầu gọi
là ngọc rắn, nếu người nào có viên ngọc này sẽ
có thể nghe được tiếng nói của loài vật. Ngày xưa,
có một anh học trò nghèo tên Công Dã Tràng vì cứu
được một gia đình rắn nên được rắn chúa trả
ơn bằng cách nhả cho môt viên ngọc. Một hôm, Dã Tràng
ngậi viên ngọc rắn trong miệng đi vào rừng, chợt nghe bầy kiến
xôn xao bảo nhau phải dời tổ lên cành cây cao vì trong vòng
ba ngày sẽ có mưa lụt lớn. Nghe được tin này, Dã Tràng
bèn tức tốc báo cho quan huyện sở tại để ra thông tri cho dân
chúng chuẩn bị tránh nạn hồng thủy. Quả nhiên ba ngày sau trời
đổ mưa tầm tã là vỡ đê gây lụt lớn. Nhưng dân
cư trong vùng không bị thiệt hại vì đã đề phòng trước.
Quan huyện tâu với triều đình vì Dã Tràng có ngọc rắn
nghe được tiếng loài vật nên đã biết truớc có nạn
lụt. Nhà vua rất thích, cho với Dã Tràng vào cung, ban cho một
chức quan nhỏ để có thể cùng Dã Tràng du ngoạn đó
đây, cùng nghe tiếng loài vật. Môt hôm, vua ngự thuyền rồng
cùng Dã Tràng ra biển nghe tiếng cá. Chợt nhà vua nghe thấy một
cặp cá vừa thong dong bơi lội, vừa thân mật trò chuyện với
nhau. Thích quá, vua há miệng ra cười khiến viên ngọc rắn rơi
xuống biển. Dã Tràng tiếc ngọc, nhảy xuống biển mò nên
bị chết đuối. Tuy đã chết nhưng Dã Tràng vẫn muốn
tìm viên ngọc nên biến thành con dã tràng là một loài
cua nhỏ, hàng ngày bò lên bãi biển lấy cát mong lấp biển
nhưng vẫn không bao giờ tìm lại được viên ngọc. Vì
vậy, người đời thường ví những ai làm những việc không
thể thực hiện được la "uổng công đã tràng". Trong
dân gian cũng có câu:
"Dã Tràng xe cát biển Ðông,
Nhọc
mình mà chẳng nên công cán gì"
Rắn có thể
cắn chết người tại chỗ, như câu " Rắn mai tại lổ, rắn
hổ về nhà ", nhưng rắn cũng là món ăn khoái khẩu cho
con người, nhất là đối với những tay bợm nhậu, nào là
nướng trui, xào lăng, xào bún nấm củ hành... cắt lấy máu
rắn hòa vào rượu mà uống, mổ lấy mật rắn bỏ vào
miệng nuốt trọng với một ngụm rượu Tây hay ba xị đế
đều rất ... bổ khỏe... gì không biết. Rượu rắn thì
thôi khỏi phải nói, rất đa dạng, nào là Tam Xà Tửu, Ngũ
Xà Tửu, Thất Xà Tửu.... tới Mấy chục Xà Tưu.. nguyên một
hủ rượu toàn rắn và rắn ! Ngoài ra , da rắn da trăn còn
được làm thành những đồ trang sức để phục vụ cho
Quý Bà, như bóp xách tay, dây nịch...
Nếu còn nói mãi
sẽ dễ làm cho người đọc nhàm chán với những tài
liệu " hằng hà sa số " về rắn. Xin được kết thúc
bài viết bằng bài sấm bất hủ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm như sau :
Long vĩ Xà đầu khởi chiến chinh, 龍尾蛇頭起戰
Can qua xứ xứ khổ đao binh. 干戈處處苦刀兵.
Mã đề Dương
cước anh hùng tận, 馬蹄羊腳英雄盡,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình ! 申酉年來見太平 !
Dịch nghĩa :
Cuối
năm rồng ( long vĩ ), đầu năm rắn ( xà đầu ) thì có
chiến tranh nổi lên, Chiến tranh làm cho mọi nơi ( xứ xứ ) đều
phải khổ sở về nạn binh lửa. Đến cuối năm Ngọ ( mã
đề ) hoặc cuối năm Mùi ( dương cước ), thì " anh hùng
" chết hết ( tận ) ANH HÙNG ở đây là chỉ những người
gây nên chiến tranh đánh nhau. Đến năm con Khỉ con Gà ( thân
dậu niên lai ) mới có được cảnh Thái Bình yên ổn.
Cứ mỗi một chu kỳ của Địa Chi 12 con giáp, hễ vòng đến
năm Thìn năm Tỵ thì mọi người lại nhớ đến bài
Sấm nầy. Ta hãy chống mắt chờ xem : Ai sẽ khởi chiến tranh và
chiến tranh được khởi ở đâu, Việt Nam, Trung Quốc, Trung Đông
hay Nam Mỹ... và " Anh Hùng " nào sẽ " Tận "... để cho
Thế Giới được An Hưởng Thái Bình !
Mong rằng mọi người
đều có được một mùa XUÂN Như Ý và một cái
TẾT An Khang Thịnh Vượng !
Đỗ Chiêu Đức.
CÂU ĐỐI TẾT
Kỳ nầy lại xin trình bày về Câu Đối TẾT cho vui nhà vui cửa
nhé !
Xin được mở màn với câu đối 5 chữ của người xưa
thật hay như sau :
Hữu thiên giai lệ nhật 有天皆麗日
Vô địa bất xuân phong 無地不春風
Có nghĩa :
Câu
1 : Hễ nơi nào
có trời là nơi đó có nắng đẹp ( của mùa xuân ). Không phân biệt hèn sang, chiến tranh hay hòa bình ... gì
cả !
Câu 2 : Không nơi nào trên mặt đất là không có gió xuân thổi.
Mùa Xuân cũng không thiên vị riêng
ai mà đến với tất cả mọi nơi mọi người !
Câu đối thật hay, nhưng bị chê vì mê tín, tại sao ?. Các
ông bà xưa cho rằng câu đầu bắt đầu bằng chữ Hữu là Có ( tốt ). Nhưng câu nhì lại bắt đầu bằng chữ Vô là Không thì lại xấu.. Có trước rồi Không sau, là không có gì hết !
Năm
đầu tiên vào sinh hoạt với Hội Cao niên ở TT Việt Mỹ, tôi đã làm câu
đối Tết sau đây :
Ức cựu xuân, Tổ quốc giang san hoán nhiên hoan cựu tục
憶 舊 春, 祖 國 江 山 焕 然 歡 舊 俗
Nghinh tân tuế, tha hương khách địa miễn cưỡng quá tân niên.
迎 新 嵗, 他 鄉 客 地 勉 强 過 新 年.
Diễn nôm :
Nhớ xuân xưa, Tổ quốc giang san tưng bừng vui Tết đến,
Đón năm mới, quê
người đất
khách miễn cưỡng đón xuân sang.
Câu đối nầy bị cộng đồng Việt Mỹ chê vì viết bằng tiếng Hoa, trong khi mọi người đang phản đối TQ chiếm Hoàng Sa, Trường Sa . Họ không nhớ rằng xưa kia ông cha VN đều học chữ Nho, tức Tiếng Hán Cổ, và bản thân chữ nghĩa không có tội tình gì cả !
Vì lý do trên, nên năm Canh Dần,
tôi lấy chữ Nho làm chữ Việt ( chữ Nôm ) để làm câu đối sau đây
:
CANH cánh khôn nguôi, mỗi độ Xuân về thêm nhớ nước,
DẦN dà hội nhập, bao lần Tết đến vẫn mong quê.
Câu đối
được hoan nghinh ngay và được in
lên Nguyệt san của Trung Tâm trong tháng giêng năm 2010. Theo đà đó Tết năm Tân Mão 2011, tôi lại làm câu đối sau đây :
Tân Mão Tân niên, Việt Mỹ lại mừng Xuân mới.
Cựu phong cựu tục, Trung Tâm vẫn nhớ Tết xưa.
Còn đây là câu đối của năm Nhâm Thìn 2012 :
Nhâm Thủy Xuân về, Bốn bể đồng môn vui đón Tết,
Thìn Long Tết
đến, Năm châu thân hữu chúc mừng Xuân.
Câu đối này
làm cho Hội Ái hữu PTG&ĐTĐ. Chúng tôi gọi
những người học chung là Đồng môn
và các bạn bè là Thân hữu.
Khi
viết cho Trung Tâm Hội cao niên Việt Mỹ thì sửa lại như sau :
Nhâm thủy lại về, Việt Mỹ xôn xao vui Tết ,
Thìn rồng tái hiện, Trung Tâm háo hức đón
Xuân.
Bây giờ là câu đối
cho năm Quý Tỵ 2013 đây :
Quý Tỵ xuân về, Việt Mỹ trẻ già vui đón Tết,
Nhâm Thìn năm hết, Trung Tâm lớn nhỏ chúc mừng xuân.
Nhớ...
Năm 1996 là năm đầu tiên Nhà Nước Việt Nam cấm đốt pháo Ăn Tết. Tôi bèn làm và dán
đôi câu đối thế nầy trước cửa :
Bộc trúc vô thanh xuân nhưng chí ,
爆 竹
無 聲 春 仍 至
,
Huỳnh mai hữu sắc phước hoàn lai.
黄 梅 有
色 福 還 来.
Có nghĩa : ( mặc dù )
Pháo đã không còn nổ vang, nhưng mùa xuân thì vẫn
cứ đến.(
cấm pháo, chớ
đâu cấm được mùa xuân ! ) và ( nếu ) Mai vàng
vẫn còn khoe sắc,
thì phước vẫn hãy còn đến nhà mà thôi !
Câu đối nầy hay ở chỗ đáp ứng được thời cuộc, phù hợp với hoàn cảnh thực tế đang sống...Không cho đốt pháo, nhưng Xuân vẫn cứ đến, Mai vẫn cứ nở, Tết vẫn cứ ...ăn như thường.... !
Đỗ Chiêu Đức.
Liễn Tết
Thể theo lời yêu cầu của
một số thân hữu, tôi xin gởi những câu đối mà hôm
Tất Niên của Hội Đồng Hương Cần Thơ tôi đã viết
để ở trên bàn và dán phía sau chỗ ngồi...
Đó chính là những câu đối Tết, bình dân thì gọi
là Liễn Tết, truyền thống của người Việt và người
Hoa. Đầu tiên là câu đối mà cả Hoa Việt đều rất
ưa chuộng, đó chính là câu :
Thiên tăng
tuế nguyệt nhân tăng thọ 天增歲月人增壽 ,
Xuân mãn càn khôn phước
mãn đường 春满乾坤福满堂 .
. Có nghĩa :
1:.
Trời thì thêm năm thêm tháng, người thì thêm tuổi thọ.
2:. Xuân về đầy cả đất trời, phước
lộc đầy cả nhà.
Hai câu nầy bao gồm cả trời
đất, cả bầu trời đều chìm ngập trong không khí của
mùa xuân, người thì thêm phước thêm thọ...Nên được
cả người Việt lẫn người Hoa ưa chuộng. Có một điều
hơi khác là chữ cuối cùng của Câu đối, chữ ĐƯỜNG,
là cái phòng rộng ở trong nhà, tiếng Anh là HALL, tiếng Việt
không có từ tương đương để gọi. Cái phòng rộng
nầy là nơi thờ phượng Ông Bà Tổ Tiên, cũng là nơi
Cha Mẹ hay ngồi để cho con cháu hằng ngày đến vấn an, ra mắt,
nhất là vào các dịp lễ hội, Tết nhứt. Dĩ nhiên, nhà
giàu mới có được cái " ĐƯỜNG " nầy, cho nên
nhà nghèo thì đổi chữ ĐƯỜNG thành chữ MÔN 門,
là cái Cửa, cũng có nghĩa là cái NHÀ,( Từ láy của
ta gọi là NHÀ CỬA mà )...
Xuân mãn càn
khôn phước mãn MÔN....là ...Xuân về đầy cả đất
trời và phước cũng tràn ngập cả nhà. Sự thật thì
ĐƯỜNG hay MÔN gì thì cũng là một bộ phân tiêu biểu
cho CÁI NHÀ mà thôi. Tôi nói để Quý vị khỏi thắc
mắc là tại sao có người viết là ĐƯỜNG, mà có
người lại viết là MÔN, thế thôi.!...
Còn
câu đối sau đây là câu đối thuần túy của người
Việt. Lúc nhỏ, gần Tết, tôi hay ra Chợ Cái Răng xem các Ông
Đồ VN viết liễn, thường thì các bàn viết liễn hay đặt
ở bên hông Nhà Lồng Chợ, phía trước tiệm thuốc bắc
Mã Chi Trung, Quảng Tài Lợi... hay bên kia đường là Dân Hòa
Hưng, Vạn Trường An... Các ông Đồ cũng mặc áo dài đen,
khăn đóng đàng hoàng, năm nào tôi cũng đọc được
câu đối sau đây :
Phước lộc thọ tam tinh củng
chiếu 福禄壽三星拱照
Thiên địa nhân tứ hải
đồng xuân 天地人四海同春
Có nghĩa :
1:.
Ba sao Phước Lộc Thọ cùng chiếu về( Củng chiếu là ở 3 góc
cạnh khác nhau cùng chiếu về một nơi ).
2
:. Trời, đất và người, bốn bể cùng đón xuân về.
Sẵn đây tôi nhắc luôn , ai có học qua Tam Tự Kinh thì
sẽ biết : Tam Tài giả : Thiên Địa Nhân. Tam Quang giả : Nhật Nguyệt
Tinh ( Trời, đất và người, gọi là Tam Tài. Mặt trời, mặt
trăng và ngôi sao thì gọi là Tam Quang : ba cái nguồn sáng ở
trên đời theo quan niệm của người xưa ) Còn Phước, Lộc,
Thọ thì gọi là Tam vị Các Tinh 三位吉星, gọi tắt
là Tam Tinh.
Câu đối nầy cũng rất hay,
bao gồm cả trời đất con người và Phúc lộc thọ cùng
hội tụ đầy đủ bốn biển để mừng xuân..... Nhưng câu
đối được ưa chuộng nhất, phổ biến nhất vẫn là câu
đối sau đây :
Nhất thất thái hòa chơn
phú quý 一室泰和真富貴
Mãn môn xuân sắc thị
vinh hoa 满門春色是榮華
Có nghĩa :
1 :. Một nhà thật là hòa
thuận, đó mới là cái phú quý thật sự ,
2 :. Đầy cửa đầy nhà đều cùng một vẻ xuân(
vui tươi, rộn rã ), đó mới chính là cái vinh hoa.
Vinh Hoa Phú Quý có nghĩa là gia đình trên thuận
dưới hòa và luôn luôn vui vẻ như mùa xuân, chớ không
phải có nhiều tiền, làm quan lớn, mới là Vinh Hoa Phú Quý.
Câu đối ý nghĩa và mang tính xây dựng thực tế biết
bao !
Đó là những câu đối xung quanh bàn
tôi ngồi viết liển đó. Ngoài ra, còn có các câu chúc
như : " Nghinh Xuân tiếp phúc ", " Ngũ phước lâm môn ",
" An Khang thịnh vượng ", " Vạn sự như ý ",....v.v....
Sẵn đây tôi muốn nói luôn cho biết về những câu
đối kỳ cựu, cố hữu của người Hoa cũng như người Việt
ta từ xưa đến nay.
Câu đối mà hầu như người Hoa nào
cũng biết khi nhắc đến Tết , đó chính là câu :
Bộc trúc nhứt thanh trừ cựu tuế 爆竹一聲除舊歲
Đào phù vạn hộ cánh tân xuân 桃符萬户更新春
Có nghĩa :
1:-
Pháo nổ đùng một tiếng, năm cũ đã đi qua ,
2 :- Lá bùa nêu dán lên, mùa xuân mới lại đến.
Ghi Chú :
Bộc trúc : Bộc
là nổ, trúc là tre. Bộc trúc là tiếng tre nổ, nói đúng
hơn là " tiếng mắt tre nổ ". Ngày xưa, chưa có pháo,
người ta đốt các mắt tre già ở dưới gốc cho nó nổ
thành tiếng để xua tan những xui xẻo, buồn lo... của năm củ cho
nó qua đi. Sau nầy, khi chế tạo được pháo rồi, nhưng vì
tập quán ngôn ngữ đã quen, người ta vẫn dùng từ Bộc
Trúc để chỉ pháo luôn. Cho nên khi dịch từ Bộc trúc, phải
biết đó là PHÁO, chứ không phải tiếng tre nổ nữa !
Đào Phù : Phù là lá bùa. Đào phù là
Lá bùa dán lên cành cây đào. Tương truyền, cây đào
là loại cây có thể trừ được tà ma, nên vẽ lá
bùa dán lên cành đào trước cửa có thể làm cho
tà ma sợ mà tránh xa... Lâu dần thành tục lệ ngày Tết,
Dùng cành đào để vẽ bùa, hoặc dán lá bùa lên
một cành đào , rồi treo trước cửa để trừ tà ma trong
những ngày Tết. Ỡ VN gọi là bùa Nêu, và được treo
lên trên một ngọn tre còn chừa đọt trồng ở trước cửa
nhà, gọi là Dựng Nêu. Chắc Quý vị cũng đã nghe qua câu
hát Ca dao sau đây :
Cu kêu, ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng
nêu ăn chè ....rồi chứ ?
cũng vì vậy
mà chữ Đào Phù phải được dịch là " Lá bùa
Nêu ", chớ không phải là Bùa đào.
Đó
là câu đối phổ cập rộng rãi trong dân gian, cao hơn một
chút, có tính chất văn học và các nét chấm phá của
hội họa, câu đối mang tính nghệ thuật mà phổ biến rất
rộng rãi không kém gì câu vừa nêu ở trên. Đó chính
là câu đối sau đây :
Bộc trúc tam
lưỡng thanh, nhân gian thị tuế,
爆 竹 三 两 聲, 人 間 是 歲
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai xuân
梅 花 四 五 点, 天 下 皆 春
Tạm diễn nôm như sau :
Hai ba tiếng pháo đì đùng, nhơn gian đón mừng
năm mới,
Bốn năm đóa mai lấm tấm, thiên
hạ đều biết xuân sang
Còn nói về câu đối
truyền thống của VN trong ngày Tết , thì chắc Quý vị cũng đã
biết rồi. Đó chính là :
Thịt mỡ
dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu
tràng pháo, bánh chưng xanh
Ý nghĩa đã
rõ ràng, đầy đủ thú tiêu khiển vui chơi và " Ăn
" Tết. Để cho Hoa Việt được đề huề, tôi đã
dịch câu đối nầy sang tiếng Hán cổ như sau :
Phì nhục, toan thông, hồng đối liễn 肥肉酸葱,红對联
Đào phù, bộc trúc, lục phương tung. 桃符爆竹,绿方粽
Những
cái mà tôi vừa nói ở bên trên được áp dụng
liền đây. tôi đã dùng từ " Đào phù " để
dịch từ " Cây nêu ", và từ " Bộc trúc " để
dịch từ " Tràng pháo " và từ mà tôi đắc ý
nhất là từ " Lục phương tung ", là " Bánh ú vuông
màu xanh lá cây " để dịch từ Bánh Chưng xanh.
Xin hẹn bài viết sau.
Đỗ Chiêu Đức
______________________________________________________________
HÀN DẠ
An bần lạc
đạo, vui với cái nghèo của mình, nên Cụ Tam Nguyên rất
trào lộng khi Bạn Đến Chơi Nhà : " Chả bấy lâu nay bác
tới nhà, trẻ thời đi vắng chợ thời xa..." . và cuối cùng
là : " Bác đến chơi đây ta với ta ! ". Bây giờ thì
ta hãy xem cái thanh bần và cái trân trọng tình bằng hữu
của Đỗ Lỗi đời Tống qua bài thơ " HÀN DẠ " ( Còn
có tên là HÀN DẠ KHÁCH LAI ) đầy tính nghệ thuật và
chấm phá như một bức tranh thủy mặc của Vương Duy đời
Đường.....
寒夜客來 HÀN DẠ KHÁCH LAI
寒夜客來茶當酒, Hàn dạ khách lai trà
đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất hỏa
sơ hồng.
尋常一般窗前月, Tầm thường nhất ban song
tiền nguyệt,
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất
đồng !.
宋‧杜耒‧ Tống. Đỗ Lỗi.
Chú
Thích :
1. Hàn dạ khách lai : Khách đến trong đêm lạnh.
2. Đương : Còn đọc là Đang. Phó Từ Có nghĩa : Trong
lúc, trong khi. Khi là Động từ thì có nghĩa là : Cầm Cố
( đồ đạc, của cải...), Lấy... làm. Nghĩa trong bài thơ là
: LẤY trà LÀM rượu.
3. Lô : còn đọc là Lư. Có
bộ HỎA một bên, nghĩa là Cái Lò.
4. Phất : còn đọc
là PHÍ. Có nghĩa là Sôi. Thang Phất là Nước Sôi.
5.
Nhất Ban : là Một Thứ. TẦM THƯỜNG NHẤT BAN có nghĩa là
Rất rất bình thường giống như hằng ngày.
6. Tài 才 : Danh từ có nghĩa là Talent , tài cán, tài
giỏi, khả năng.
Phó từ : là Mới, Vừa Mới. Đây là
nghĩa trong bài thơ . TÀI HỮU : là Mới vừa có.
寒夜客來
Dịch Nghĩa :
Khách đến trong đêm lạnh.
Trong đêm
lạnh, bạn đến chơi nhà lại không có rượu, nên đành
mượn chén trà thay rượu mà đãi bạn. Trong cái lò
bằng tre nước mới sôi và lửa cũng vừa đỏ rực lên
ấm áp. Cái cảnh trăng mọc bên cữa sổ rất tầm thường
của mọi ngày, hôm nay lại điểm thêm mấy đóa hoa mai vừa
mới nở làm cho thi vị và rực rở khác hơn thường nhật.
Quý hóa thay mà cũng ấm áp thay cái tình bạn nghèo khó
trong đêm thamh lạnh lẽo ! Ví bạn như những đóa hoa mai mới
nở làm tăng thêm cái đẹp đẽ, chấm phá thêm cho bức
tranh trăng treo bên cửa sổ tẻ nhạt của thường ngày ! Với
tình bạn thắm thiết nầy, uống trà cũng thấy ấm lắm rồi,
chớ không cần chi phải uống rượu nữa !!!...
Diễn nôm :
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Lò
trúc lửa hồng nước sủi hoa,
Trăng mọc tầm thường bên
song cửa,
Thêm mai mấy đóa đẹp ru mà !
Song thất
Lục bát :
Trà thay rượu đêm đông bạn đến,
Lửa mới hồng nước cũng vừa sôi.
Tầm thường song cửa
trăng soi,
Thêm mai mấy đóa tuyệt vời vô song !
Đỗ
Chiêu Đức.
____________________________________________________
Đỗ Chiêu Đức:
XUẤT XỨ CỦA CÂU:
“NHÂN SANH
THẤT THẬP CỔ LAI HY”
và bản dịch
Quên Đi, Mailoc, Song Quang
________________________________________
Nhân mừng thọ
70 tuổi của 9 đồng môn tại Houston, Đỗ Chiêu Đức xin trích
dịch bài thơ Khúc Giang của Thi Thánh Đỗ Phủ, để nói
rõ xuất xứ của câu " Nhân sanh thất thập cổ lai hy ".
Mời quý vị cùng thưởng thức...
Đôi hàng giới thiệu về 2 bài thơ
KHÚC GIANG của Đỗ Phủ như sau :
Khúc Giang còn gọi là Khúc
Giang Trì, nằm ở phía đông cầu Chu Tước phía nam của thành
Trường An, là khu danh thắng nổi tiếng của thành Trường An đời
Đường, được xây dựng từ thời Hán Vũ Đế và
được trùng tu lại vào năm Khai nguyên của vua Đường Huyền
Tông, Nước hồ trong vắt, hoan cỏ uốn quanh, phía nam có Tử Vân
Lây, Phù Dung uyển, phía tây có Hạnh Viên và Từ Ân Tự,
là nơi dungoan. nổi tiếng đương thời.Thắng cảnh Khúc giang
cùng thạnh suy với giang san nhà Đường. Hai bài thơ Khúc Giang
của Đỗ Phủ được làm vào cuối xuân năm Càn Nguyên
nguyên niên ( 758 ) . Ông đã đem toàn bộ tâm tư của mình
ký thác vào cảnh vật nầy để viết lên những ưu tư
về đổi thay của thời cuộc.
Theo tài
liệu thống kê, thì vào đời Đường, tuổi thọ trung bình
của con người ta lúc bấy giờ chỉ vào khoảng 40- 45, cho nên Đỗ
Phủ mới hạ câu " Nhân sanh thất thập cổ lai hy " bất hủ,
để đời cho đến hiện nay, hễ nhắc đến tuổi " Cổ
lai hy ", " Cổ lai ", hay " Cổ hy " là người ta biết ngay là
thọ được 70 tuổi rồi !
曲 江 KHÚC GIANG
【其一】 Bài 1.
一片花飛減卻春, Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân,
風飄萬點正愁人。 Phong phiêu vạn điểm chánh
sầu nhân.
且看欲盡花經眼, Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,
莫厭傷多酒入唇。 Mạc yếm thương đa tửu
nhập thần .
江上小堂巢翡翠, Giang thượng tiểu đường
xào phỉ thúy,
苑邊高塚臥麒麟。 Uyển biên cao trủng ngọa
kỳ lân.
細推物理須行樂, Tế suy vật lý tu hành
lạc,
何用浮名絆此身。? Hà dụng phù danh bạn
thử thân ?.
【其二】 Bài 2.
朝回日日典春衣, Triều hồi nhật nhật điển
xuân y,
每日江頭盡醉歸。 Mỗi nhật giang đầu tận
túy quy.
酒債尋常行處有, Tửu trái tầm thường
hành xứ hữu,
人生七十古來稀。 NHÂN SANH THẤT THẬP CỔ
LAI HY.
穿花蛺蝶深深見, Xuyên hoa giáp điệp thâm
thâm kiến,
點水蜻蜓款款飛。 Điểm thủy thanh đình
khoản khoản phi.
傳語風光共流轉, Truyền ngữ phong quang cộng lưu
chuyển,
暫時相賞莫相違。? Tạm thời tương thưởng
mạc tương vi ?
杜甫 Đỗ Phủ.
GHI CHÚ :
(1) 减却春:Giảm khước xuân :Xuân sắc bị giảm đi.
(2) 万点:Vạn điểm : Chỉ muôn
ngàn hoa rụng, rụng rất nhiều.
(3) 且: Thả : là
Liên từ, có nghĩa là Hãy.经眼:Kinh nhãn : ngang qua trước mắt.
(4) 伤:Thương : là thương
cảm, xúc động. 巢翡翠:Xào Phỉ Thúy : Là Chim Phỉ Thúy làm ổ.
Chữ XÀO là Cái Ổ, ở đây là Động từ :
nghĩa là Làm ổ.
(5) 苑:Uyển
: Là Vườn hoa( Vườn trồng toàn hoa Phù Dung cạnh bên Khúc
giang ) 冢 : Chủng : Gò đất cao, ở đây
chỉ các phần mộ xưa.
(6) 细推 Tế suy : Là Suy luận cho cặn kẽ, tới nơi tới chốn.
(7) 物理:Vật lý : Cái Lý lẻ
của sự vật, sự việc.
(8) 浮名: Phù danh : Là Hư danh.
(9) 朝回: Triều
hồi : Là Đi chầu Vua về.典:Điển
: Cầm cố.
(10) 债 : Trái : là Nợ. Tửu trái : là Nợ Rượu
chè ( Chớ không phải Nợ Cơm áo ).行处:Hành xứ : là Khắp nơi.
(11) 蛱蝶: Giáp Điệp : Các loài
bướm nhỏ thường bay lượn, tìm hút nhụy trong các khóm
hoa .
(12) 蜻蜓: Thanh Đình : Con Chuồn Chuồn.
(13) 风光: Phong Quang : Quang cảnh của mùa xuân.共流转 Cộng Lưu Chuyển : Cùng
qua lại, chuyển động, Có nghĩa là cùng
thưởng ngoạn cảnh trí đẹp đẽ.
(14)
相赏: Tương Thưởng
: Cùng Thưởng ngoạn. 莫 Mạc : là Đừng. 相违: Tương Vi : Cùng để lở mất.( Cái gì
đó... ).
DỊCH NGHĨA :
Bài 1.
Chỉ
vỏn vẹn một cánh hoa bay mà thôi, mùa xuân cũng đã bị
giảm mất đi rồi, huống hồ, gió thổi làm cho muôn ngàn
cánh hoa cùng bay phất phơ một lúc, làm cho lòng người tiếc
xuân buồn muốn thúi ruột, khi mắt trông xuân sắp tàn, ngàn
hoa rơi rụng trước mắt. Thôi cũng đừng sầu thương quá
mà hãy cùng mềm môi với chén rượu nầy. Hãy nhìn
cảnh trí trước mắt, họa đường lộng lẫy ngày xưa,
thì nay chim phỉ thúy đã làm tổ trên rường, và những
gò nổng phần mộ ngày nào uy nghi, nghiêm cẩn thì nay tượng
kỳ lân đã ngã đỗ nằm cạnh bên. Nên suy cho cùng về
lý lẽ thịnh suy tiêu trưởng của sự vật, sự việc trên
đời, thì ta nên hành lạc, vui chơi thoải mái, chớ... sao lại
vì những cái hư danh không đâu mà trói buộc tấm thân
nầy ?!
Bài 2.
Từ giả buổi
chầu vua đi ra là đi cầm ngay chiếc áo mùa xuân ( để mua
rượu uống ). Mỗi ngày đều say khước từ đầu sông
Khúc giang đi về. Nợ rượu chè thì nơi nào cũng có
được. Nhưng , người đời sống đến 70 mươi tuổi
thì xưa nay rất hiếm. Hãy nhìn xem kìa, đàn bướm nhỏ
đang bay lượn trong khóm hoa, và lủ chuồn chuồn đang lượn
bay đùa giởn trên mặt nước. Cảnh trí đẹp là thế,
sao không bảo nhau mà cùng thưởng ngoạn, đừng bỏ lở mất
những giờ khắc quý giá, mà phí cả cuộc đời !
DIỄN NÔM :
Bài 1.
Một cánh hoa rơi xuân
hết sang,
Muôn ngàn hoa tạ báo xuân tàn.
Mắt trông hoa
rụng lòng tê tái,
Môi nhắp rượu nồng dạ xốn xang.
Phỉ Thúy chọn rường xây tổ ấm ,
Kỳ lân gò nổng
ngã nghiêng tàn.
Suy cho cặn kẽ nên hành lạc,
Sao để
hư danh trói buộc ràng ?.
Lục bát :
Hoa rơi
một cánh xuân tàn,
Đau lòng hoa rụng muôn ngàn xót xa.
Hoa bay trước mắt la đà,
Rượu mềm môi đắng lòng
già tiếc thương.
Tổ êm phỉ thúy chọn rường,
Gò
cao nghiêng ngã bên vườn kỳ lân.
Ăn chơi, suy kỹ, cân
phân,
Hư danh trói buộc tấm thân ích gì ?.
Bài 2.
Tan chầu cầm quách áo xuân
hồng,
Say khướt trở về với bến sông.
Nợ rượu khắp
nơi đều có được,
Người đời bảy chục hiếm
xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,
Nọ lũ
chuồn chuồn bởn nước trong.
Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận
hưởng,
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công !
Lục bát :
Tan chầu cầm quách áo xuân,
Mỗi ngày túy lúy đầu sông đi về.
Khắp nơi nợ
rượu bề bề ,
Người đời bảy chục hiếm hề xưa
nay.
Hãy xem đàn bướm lượn bay,
Chuồn chuồn giởn nước
khoan thai bay về.
Thiên nhiên cảnh trí bốn bề,
Sao không thưởng
ngoạn còn chê chỗ nào !
.Đỗ
Chiêu Đức. Bản dịch Quên Đi:
Quên Đi
xin hưởng ứng
Có phải vì sung sướng, nhàn hạ của
bản thân mà gác ngoài tai vòng danh lợi. Chắc chắn là không,
thuở trẻ Thi Thánh Đỗ Phủ cũng từng bôn chen đường danh
lợi. Nhưng thời thế thường thay đổi, đến khi về già ông
vẫn còn lận đận, từ đó sinh ra yếm thế, mượn rượu
thơ để an ủi tuổi già.
Dịch
Thơ : Khúc Giang 1
Một đoá hoa bay giảm sắc xuân
Buồn vương theo gió
cánh rơi dần
Lặng nhìn hoa cuối tàn trong mắt
Chán nản
men say ngấm cả thần
Nhà nhỏ bên sông chim Thuý ở
Vườn
bên gò đất chỗ Kỳ Lân
Suy theo thế sự nên vui thú
Danh lợi xá gì phải thử thân
Dịch Thơ :
Khúc Giang 2
Tan chầu áo đẹp vội cầm ngay
Thường
nhật bên sông uống đến say
Nợ rượu lạ gì đâu
chẳng có
Bảy mươi tuổi hiếm tự xưa nay
Bướm vờn
hoa đẹp trông nhàn nhã
Mặt nước chuồn đùa nhấp
nhứ bay
Hãy nhớ cảnh đời hay biến đổi
Thôi cùng
nhau hưởng kẻo qua ngày
Quên Đi
Bản dịch Mailoc:
KHÚC GIANG (I)
Hoa bay một
cánh khiến xuân phai ,
Gió cuốn muôn hoa thảm thiết thay .
Cứ ngắm hoa tàn
rơi trước mắt ,
Rượu vào vơi hết nỗi sầu ai .
Ven sông
nhà nhỏ én xây tổ ,
Vườn ngự mả cao lân phục
đài .
Ngẫm nghĩ sự đời nên hưởng lạc ,
Hư danh
chớ để trói thân hoài .
Mailoc
Cánh hoa rơi làm
Xuân kém vẽ ,
Gió cuốn hoa , cho kẻ sầu thương .
Hoa tàn
trước mắt vấn vương ,
Mềm môi rượu rót , chán-chường
xua tan .
Thúy bên sông nhà đang xây tổ ,
Mồ cao vườn
ngự ,chổ kỳ lân .
Suy cùng vui hưởng cũng cần ,
Hư danh chớ để
cột thân một đời .
Mailoc phỏng dịch
KHÚC GIANG (I I )
Chầu xong,
cầm áo cứ ngày-ngày ,
Chếnh-choáng đầu sông , tối
chẳng hay .
Nợ rượu ,chuyện thường đâu chả có ,
Tuổi già
bảy chục hiếm xưa nay .
Vờn hoa, bươm-bướm chập chờn đến ,
Phớt nước
, chuồn-chuồn chớp-chớp bay .
Đã biết sự đời luôn
biến đổi ,
Cùng vui thưởng ngoạn kẽo xuân phai .
Mailoc
.
Bản
dịch Song Quang:
Kính
các thi huynh. Căn
cứ vào bản dịch nghĩa bài thơ của huynh ĐCĐ và các
ý giải của các thi huynh.Song Quang tôi cũng xin góp vài vần để
mua vui trong ngày cuối tuần,có điều chi sơ sót xin miển thứ.Kính
chúc quý liệt vị an lành.Thân kính.SQ
KHÚC GIANG
Bài 1 . Một cánh hoa rơi giảm nét
xuân
Ngàn
hoa rụng dãi sắc xuân tàn
Huống hồ,trông thấy lòng thương tiếc
Mượn rượu
giải sầu dạ ngổn ngang
Làm tổ trên rường chim Phỉ Thuý
Nổng gò nghiêng ngã tượng
Kỳ Lân
Thịnh
suy lý lẻ do Thiên định
Danh lợi xá chi phải buộc ràng ?
X X X
Bài
2 . Tan chầu cầm vội áo mùa Xuân
Lúy túy trở về bến Khúc Giang
Món nợ rượu chè
đâu chả có
Đời người bảy chục hiếm lần sang
Giàn hoa bướm lượn xem thanh thản
Mặt nước chuồng
bay sóng gợn tăn
Cảnh đẹp sao không mau thưởng ngọan ??
Xin đừng bỏ phí mất thời
gian !
SONG QUANG
___________________________________________________________
NHÂN
MÙA TRUNG THU,
đọc
THƯỜNG NGA
của LÝ THƯƠNG ẨN
.
Đọc
2 câu cuối trong bài thơ họa vận " Bỏ mặc cô Hằng "
của Thầy CDM là :
Cung mây mặc kẻ mình ên lạnh,
Ta cứ
ngâm tràn , chớ hỏi chăng.
làm ĐCĐ chợt nhớ đến
bài Thất ngôn Tứ tuyệt " Thường Nga " ( Hằng Nga ) của Lý
Thương Ẩn. Mời Quý Vị cùng đọc trong Tết Trung Thu năm nay,
cho thắm thía thêm cái " Cung mây mặc kẻ mình ên lạnh
" mà Thầy CDM đã dùng để diễn tả " Cô Hằng ".
.
嫦娥 ·李商隱 THƯỜNG
NGA Lý Thương Ẩn
雲母屏風燭影深, Vân mẫu bình phong chúc
ảnh thâm,
長河漸落曉星沉。 Trường hà tiệm lạc
hiểu tinh trầm.
嫦娥應悔偷靈藥, Thường Nga ưng hối thâu
linh dược,
碧海青天夜夜心。 Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
LÝ THƯƠNG ẨN
(831-858)
.
Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê sinh. Người
huyện Hà Nội (tỉnh Hà Nam). Năm 837 (đời Ðường Văn Tông),
nhờ thế lực của Lệnh Hồ Ðào, con của Lệnh Hồ Sở mà
được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu
Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào việc thư ký và
gả con gái cho.Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị của
Lệnh Hồ Sở, nên ông bị coi là người vong ân. Khi Mậu Nguyên
chết, ông có đến kinh thành nhưng không được quan chức
gì. Sau nhờ Trịnh Á, ông được bổ làm chức Quan-sát
phán-quan. Ba năm sau, về triều, được làm một chức quan nhỏ
tại Kinh Triệu. Khi Lệnh Hồ Ðào làm tể tướng, ông có
nhiều lần dâng thư trần tình, nhưng không được xét đến.
Sau nhờ Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Ðông-Thục, ông được
dùng làm Tiết-độ phán-quan, kiểm hiệu Công bộ viên-ngoại-lang.
Khi họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Về đất Oanh Dương,
rồi mắc bệnh, tạ thế.
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với
Ôn Ðình Quân và Ðỗ Mục, nên người người đương
thời gọi là Ôn Lý và Lý Ðỗ. Tương truyền ông
có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và
các cung nữ Lư Phi Loan và Khinh Phượng. Những bài thơ Vô đề
của ông đều được làm ra cốt để tả những mối
tình bí ẩn này.
Lý Thương Ẩn có ảnh hưởng rất
lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ
ông có cái vẻ tài tình giống thơ Ðỗ Phủ. Các nhà
thơ thuộc phái Tây Côn chủ trương mô phỏng thơ ông khi
sáng tác.
CHÚ THÍCH :
1. Thường Nga : Tức
là Hằng Nga đó. Ta quen gọi là Hằng Nga, nhưng người Hoa lại
quen gọi là Thường Nga.
2. Vân Mẫu : Một loại đá quý,
một loại cẩm thạch, có thể dát mỏng để làm thành
bình phong cho nhà quyền quý.
3. Trường Hà : Tức là Thiên
Hà, hay Ngân Hà cũng một thứ.
4. Thâu Linh Dược : Thâu là
Trộm, ăn cắp. Linh Dược : là Thuốc Linh, thuốc Tiên, ở đây
là thuốc Trường Sinh. Theo Truyền thuyết, chồng của Hằng Nga là
Hậu Nghệ, cầu được thuốc trường sinh của bà Tây Vương
Mẫu, định là vợ chồng cùng uống để cùng lên tiên.
Không ngờ Hằng Nga lén chồng uống trước, một mình thành
tiên, bay lên trời ở trong cung Quảng Hàn, có một mình một
bóng.
DỊCH NGHĨA :
Ánh nến chập
chùng, le lói hắt vào tấm bình phong làm bằng đá Vân
Mẫu. Ngoài kia, dãy Ngân Hà đã dần dần khuất dạng trong
ánh sao mai mờ nhạt.( Trời đã sắp sáng rồi ! ). Thương cho
thân phận của Hằng Nga, chắc nàng cũng hối hận cho việc trộm
thuốc tiên của mình, để bây giờ đêm đêm giữa cảnh
trời biển mênh mông bao la xanh biếc cũa những đêm thu, lại vò
võ có một mình trong cung Quảng Hàn cô đơn lạnh lẽo !
DIỄN
NÔM :
HẰNG NGA
Bình phong nến hắt vẻ sầu miên,
Dần khuất Ngân Hà le lói nghiêng ,
Trộm thuốc Hằng Nga chừng
cũng hối,
Biển trời xanh ngắt, chạnh niềm riêng.
.
Lục
bát :
Bình phong ánh nến sắp tàn,
Ngân Hà sắp
khuất, thưa dần sao mai,
Hằng Nga trong dạ tiếc hoài,
Phải đừng
trộm thuốc, đêm dài... mình ên !
Đỗ Chiêu Đức.
.
Trang
Sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục đế xuân tâm thác
Đỗ Quyên
Xuân tàm đáo tử ty phương
tận
Lạp chúc thành hôi lệ thuỷ can
.N
Nhắc đến Lý Thương Ẩn thì
... chỉ thấy buồn thôi !
Chân
Diện Mục: Xin tiếp với bạn cho vui :
HẰNG NGA
Sau bức bình phong mờ
ánh nến
Rụng dần sao sớm cuối sông ngân
Hằng Nga lạnh
lẽo bên trời biếc
Trộm thuốc làm chi chết dở dang
C.D.M.
_______________________________________________________
TẠP THI của Thi Phật Vương Duy
Bản
dịch: Đỗ Chiêu Đức, Danh Hữu, Mailoc, Quên Đi
____________________________________________________
Bây giờ thì ta đọc bài " TẠP THI "
雜詩 của Thi Phật Vương Duy nhé !
《雜詩》 TẠP THI
君自故鄉來, Quân tự cố hương lai,
應知故鄉事。 Ưng tri cố hương sự.
來日綺窗前, Lai nhựt ỷ song tiền,
寒梅著花未? Hàn mai chước hoa vị ?
王維 Vương
Duy.
Diễn Nghĩa :
Bạn từ cố hương, từ quê
nhà đến đây, chắc chắn là rất rành về chuyện ở
quê nhà. Vậy, xin được hỏi bạn rằng, cái ngày mà
bạn rời quê hương đến đây, thì chậu hàn mai bên
song cửa sổ đẹp ( ỷ song ) đã nở hoa chưa ?
Rõ lẩn
thẩn mà thi vị làm sao ấy !. Hỏi gì không hỏi, mà chỉ
hỏi cái chậu hàn mai đã kết hoa chưa?. Mới nghe như lẩn
thẩn, nhưng ngẫm kỹ lại thì thâm thúy biết bao ! Chậu mai nhỏ
nhoi còn hỏi tới, huống chi là các chuyện lớn khác ở quê
nhà !.....
Diễn nôm :
Bạn
từ quê nhà đến,
Chắc rõ chuyện nắng mưa.
Ngày
đi bên song đẹp,
Mai vàng nở hay chưa ?
Đỗ Chiêu
Đức.
Bản dịch Danh Hữu:
Bạn Đức,
Xưa nay người ta vẫn nghĩ là Vương
Duy lẩn thẩn, bạn từ quê nhà đến,
cái đáng hỏi
thăm là bà con, bạn bè bây giờ cuộc sống thế nào, mà
lại
không hỏi, đi hỏi chậu hoa. Nó ra hoa hay chưa ra hoa thì mắc
mớ gì
đến mình, có biết cũng bằng thừa.
Tuy vậy,
theo tôi nghĩ : cụm từ Ỷ song tiền 綺窗前(cái màn hoa treo trước
cửa sổ) ở đây là
ám chỉ cô gái quen nào đó của 2 người, và 2 câu
cuối
chỉ hàm nghĩa :
Gần đây, cái cô bé thích
bận áo hoa, hay đứng tựa cửa sổ nhìn ra
ngoài, cô ta đã
« cài hoa » lên đầu chưa (nghĩa là đã đến tuần
cập kê,
lấy chồng chưa) ?
Đây là thơ, mà thơ thì
có bao giờ nói thẳng tuột đâu.
Thân
Thơ lẩm cẩm
Bạn từ quê mới tới,
Chuyện quê, hẳn biết thừa,
Cái con bé tựa cửa
Hoa mai
cài đầu chưa ?
Danh Hữu
Bản
dịch Mailoc:
Hello bạn già Paris.
Lâu
qúa không thấy hương sắc Paris , định hỏi thăm , bỗng vừa
thức dậy lại thấy cô bé Paris cài hoa trên đầu chúm chím
cười ở song lụa thật thú vị . Cám ơn anh Danh . Chúc các
bạn khỏe mạnh an vui .Xin góp vần cùng các bạn .
Thân mến
Mailoc
Thơ Vặt
Anh từ
quê mới đến chơi ,
Chắc anh hiểu rõ mọi nơi quê nhà .
Ngày nao trước cửa rèm là ,
Hàn mai chúm chím mượt mà chưa anh ?
Mailoc phỏng dịch
Anh đến từ quê mình
,
Chắc anh hiểu sự tình
.
Ngày ấy bên song lụa
,
Hàn mai đã đẹp
xinh ?
ML
Bản dịch
Quên Đi:
Kính chào Quý vị,
Mai bên
Tàu thường trổ hoa vào mùa xuân khi tiết trời còn lạnh
lẽo có màu trắng. Bài thơ này không xác định thời
gian. Thật hay qua nhận xét của Anh Chiêu Đức " Rõ lẩn thẩn
mà thi vị làm sao ấy !. Hỏi gì không hỏi, mà chỉ hỏi
cái chậu hàn mai đã kết hoa chưa?" và không ngoài
cái nhìn thật tinh tế đầy lãng mạn của Danh Hữu, Hàn
Mai một cánh hoa trong trắng có còn chăn đơn gối chiếc? khiến
Quên Đi được mở rộng tầm nhìn.
Dịch
Thơ :
Quê nhà Bạn đến đây
Ắt
hẳn lắm điều hay
Thường tựa bên song cửa
Sao
rồi đoá bạch mai.
Quên Đi
_________________________________________
XUÂN TỨ
Lý
Bạch
Bản dịch:
Đỗ Chiêu Đức, Mailoc, Quang Tuấn, Quên Đi
______________________________________________________________
.
Xin
mời đọc một bài thơ Ngũ Ngôn Cổ Phong của Lý Bạch nhé
!
春思 李白 XUÂN TỨ Lý Bạch.
燕草如碧絲, Yên thảo như bích ty,
秦桑低綠枝 Tần tang đê lục chi.
當君懷歸日, Đương quân hoài quy
nhật,
是妾斷腸時 Thị thiếp đoạn trường
thì
春風不相識, Xuân phong bất tương thức,
何事入羅幃? Hà sự nhập la vi !?
DỊCH NGHĨA
:
Cỏ đất Yên đã xanh mơn mởn như tơ, dâu tầm ăn
đất Tần cũng xanh om cả cành lá.( Mùa xuân đã đến
rồi đó ! ). Cái ngày mà chàng nhớ đến để quay trở
về quê cũ, cũng chính là lúc thiếp đã nhớ nhung chàng
mà đứt từng đoạn ruột ra rồi !. Gió xuân kia chẳng hề
quen biết, sao lại phe phẩy thổi vào màn thiếp mà chi vậy !?( Bộ
muốn trêu ngươi người cô phụ phòng không hay sao ? Thiếp chặc
lòng chặc dạ lắm chớ bộ ! ).
DIỄN NÔM :
Cỏ Yên
như tơ xanh biếc
Dâu tằm mơn mởn cành xanh
Khi chàng nhớ
ngày trở lại
Thiếp đà ruột đứt từng canh
Gió
xuân chẳng hề quen biết
Cớ sao hây hẩy trong mành !?
Lục
bát :
Cỏ Yên xanh biếc như tơ,
Dâu tằm mơn mởn lửng
lờ cành xa
Ngày chàng mong trở lại nhà
Là khi lòng thiếp
xót xa nhớ chàng
Gió xuân chẳng biết ngỡ ngàng
Sao còn
mơn trớn vào màn thiếp chi ?!
Đỗ Chiêu Đức.
Bản dịch MAILOC:
Anh Đức ơi,
Tôi
thích những bài thơ như thế nầy , ít điển tích ít
địa danh ,một chút sầu , một chút romantic dễ cho anh em tham gia góp
vần , mấy bài đặc biệt xin chào thua .
Cám ơn anh
. Cầu chúc tất cả được Vạn sự Lành
Thân kính
Mailoc
Ý Xuân
Cỏ
Yên óng ánh tơ xanh ,
Dâu Tần đã trổ trên cành lê-thê .
Ngày nao chàng muốn về quê ,
Là ngày lòng thiếp tái tê đoạn
trường .
Gió Xuân
thiếp chẳng vấn vương ,
Cớ sao lại nhập chăn giường thâm khuê .
Mailoc phỏng dịch
Cali 8-9-12
Xanh biếc cỏ
Yên óng ánh tơ ,
Dâu
Tần mơn mởn rủ lơ-thơ .
Ngày nao chàng muốn về thăm thiếp ,
Là lúc chàng ơi , thiếp xác xơ .
Gió Xuân thiếp có quen đâu ,
Cớ sao len-lén vén màn phòng
khuê ?
Mailoc
8-9-12
Cỏ
Yên xanh như như tơ
Dâu
Tần rủ lơ-thơ
Ngày
chàng về thăm thiếp ,
Thiếp đoạn trường chàng ơi !
Gió Xuân nào vương vấn ,
Lén vào phòng thiếp chơi .
ML
Cali 8-9-12
Bản dịch QUANG TUẤN:
春思 李白 XUÂN
TỨ Lý Bạch.
燕草如碧絲, Yên thảo như bích ty,
秦桑低綠枝 Tần tang đê lục chi.
當君懷歸日, Đương quân hoài quy
nhật,
是妾斷腸時 Thị thiếp đoạn trường
thì
春風不相識, Xuân phong bất tương thức,
何事入羅帷. Hà sự nhập la vi !?
Ý XUÂN
Cỏ Yên như tơ xanh
Dâu tằm tươi thắm cành
Ngày
chàng nhớ trở lại
Ruột thiếp đứt từng manh
Gió Xuân
không quen biết
Cớ sao lọt qua mành?
Quang Tuấn
Bản dịch QUÊN ĐI:
Yên cỏ xanh tơ mành
Cành
dâu Tần mởn xanh
Khi chàng nhớ ngày về
Thiếp
nặng sầu lê thê
Gió xuân nỡ vô tình
Trêu
cợt kẻ trung trinh.
Quên Đi
__________________________________________________
BÙI ĐỊCH với bài thơ Tống Thôi Cữu
.
" Chước
tửu dữ Bùi Địch " của Thi Phật Vương Duy, ta vừa tìm
hiểu và dịch xong... Vậy, " BÙI ĐỊCH " là ai ?. Kính mời
Quý Thầy Cô, Đồng môn và Các em Học Sinh thân mến cùng
tìm hiểu về thi nhân BÙI ĐỊCH nầy qua phần tiểu sử của
Ông sau đây :
裴迪 BÙI ĐỊCH
裴迪(716-?),唐代詩人,關中(今屬陜西)人。官蜀州刺史及尚書省郎。其一生以詩文見稱,是盛唐著名的山水田園詩人之一。與大詩人王維、杜甫關係密切。早年與“詩佛”王維過從甚密,晚年居輞川、終南山,兩人來往更為頻繁,故其詩多是與王維的唱和應酬之作。受王維的影響,裴迪的詩大多為五絕,描寫的也常是幽寂的景色,大抵和王維山水詩相近。
Bùi Địch ( 716-? ), Thi nhân đời Đường, người
đất Quan Trung ( thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay ). Làm quan đến
chức Thục Châu Ngự Sử và Thượng Thư Tỉnh Lang. Nổi tiếng
văn thơ một thời, là một trong những thi nhân nổi tiếng về
thơ sơn thủy điền viên thời Thịnh Đường. Kết giao mật
thiết với các đại thi nhân Vương Duy, Đỗ Phủ.
Lúc
trẻ, qua lại thân thiết với Thi Phật Vương Duy, về già, khi ở
Võng Xuyên, Chung Nam Sơn, qua lại càng mật thiết hơn. Vì thế,
mà thơ của ông phần lớn là những bài ứng thù xướng
họa với thơ của Vương Duy.
Thơ của ông chịu ảnh hưởng
của Vương Duy, phần lớn là Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, miêu tả
cảnh sắc u tịch ,nhàn nhã, rất gần với thơ của họ Vương
.
Nào ! Bây giờ chúng ta hãy cùng tìm
hiểu và thưởng thức một bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt của
Bùi Địch nhé !........
送崔九 裴迪 TỐNG THÔI CỮU Bùi Địch
歸山深淺去, Quy sơn thâm
thiển khứ,
須盡丘壑美。 Tu tận khưu hác mỹ.
莫學武陵人, Mạc học
Võ Lăng nhân,
暫游桃源裡。 Tạm du Đào Nguyên lý.
Đây
là một bài thơ Ngũ Ngôn tứ tuyệt rất đặc biệt. Đặc
biệt ở 2 điểm : Sử dụng Điển tích và gieo vần TRẮC...
DIỄN NGHĨA :
Đưa Tiễn THÔI CỮU.
Về
ở ẩn ở núi sâu hay cạn ( thâm thiển ) ý muốn nói, ẩn
cư ở vùng sâu, vùng xa hay vùng gần xóm thôn, thị tứ
gì, thì cũng phải đi cho hết, thưởng thức cho hết các vẻ
đẹp, các nét đặc biệt của các ngọn núi non ( khưu
) hay hang động, vực sâu ( hác ) ở nơi đó. Đừng học
theo thói của người đất Võ Lăng, đã may mắn lạc vào
đất Đào Nguyên mà chỉ ở tạm chơi có vài ngày
rồi từ biệt . Sau này muốn trở lại thăm lần nữa thì đã
không tìm được lối vào Đào Nguyên nữa rồi ! ( Theo
tích trong " Đào Hoa Nguyên Ký " của Đào Tiềm đời
nhà Tấn ).
DIỄN NÔM :
Tiễn đưa THÔI
CỮU.
Về núi gần xa đó ,
Đi cho khắp các xó.
Đừng
học người Võ Lăng,
Đào Nguyên nửa chừng bỏ !
Lục
bát :
Ẩn cư về núi xa gần,
Đi cho khắp cả tận cùng
thiên nhai.
Võ Lăng chớ học theo ai,
Nửa chừng bỏ lỡ tiếc
hoài Đào Nguyên !
Đỗ Chiêu Đức.
Trân trọng
kính mời Quý Thầy Cô, Đồng Môn cùng Các em Học Sinh thân
mến, ai có nhã hứng thì cùng diễn nôm cho vui !
Cảm tác Chân Diện Mục:
RƯỢU CÙNG BÙI ĐỊCH
Ly rượu cay nồng hãy nhắp đi
Tình đời ấm lạnh
đáng lo chi
Quen nhau từ trẻ còn trông ngóng
Lơ láo , nhà
cao chửa gặp thì
Cỏ đẫm nước đêm mưa phất phất
Hoa buồn xuân muộn lạnh tê tê
Bạn hỏi làm mây trôi
đâu thế
Ta nằm thưởng thức thú no say
C.D.M.
____________________________________________________________
TẶNG MẠNH HẠO NHIÊN
Để tiếp theo bài " Quy Chung Nam Sơn " của Mạnh
Hạo Nhiên, xin kính mời Quý Thầy Cô, Đồng Môn, cùng các
em Học Sinh thân mến, tiếp tục thưởng thức bài " Tặng Mạnh
Hạo Nhiên " của Thi Tiên Lý Bạch, để biết thêm về nhà
văn, nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên của buổi Thịnh Đường....
贈孟浩然 TẶNG MẠNH HẠO NHIÊN
吾愛孟夫子 風流天下聞 Ngô ái Mạnh phu tử, Phong lưu thiên hạ văn.
紅顏棄軒冕 白首臥松雲 Hồng nhan khí hiên miện, Bạch thủ ngọa tòng
vân .
醉月頻中聖 迷花不事君 Túy nguyệt tần trung thánh, Mê hoa bất sự
quân.
高山安可仰 徒此挹清芬 Cao sơn an khả ngưỡng, Đồ thử ấp thanh
phân.
李白 Lý Bạch
1. Chú thích :
*
Phu Tử : Từ để gọi người đàn ông một cách trịnh
trọng. Từ dùng để gọi ông thầy dạy học. và cũng là
từ của các bà vợ dùng để gọi đức ông chồng
khả kính của mình.
* Phong lưu : Ở đây chỉ Phong thái siêu
thoát, tài hoa xuất chúng. Phong lưu không phải là giỏi ăn chơi,
giàu có như ta vẫn nghĩ.
* Hồng nhan : là dung nhan còn đỏ,
còn tươi, chỉ tuổi còn trẻ, chớ không phải chỉ phái
nữ đẹp đẽ mà thôi.
* Hiên miện : Hiên là Xe, Miện
là Mão. Hiên Miện là Xe ngựa Áo mão. Chỉ Làm quan, có
Quan chức.
* Ngọa Tòng Vân : Nằm ngắm mây bay thông reo, chỉ ở
ẩn trong rừng núi.
* Trung thánh : là Trung tửu, là uống say. Tần
trung thánh : là thường uống say.
* Sự quần : là Thờ vua, là
làm việc cho nhà vua.
* An Khả : Chữ An ỏ đây là Nghi Vấn
từ. An Khả có nghĩa : Sao mà có thể.
* Đồ thử : là
Chỉ ở nơi đây. Ở đây có nghỉa là : Chỉ còn có
nước.
* Ấp : là chấp tay xá. Ở đây chỉ sự ngưỡng
mộ.
* Thanh Phân : Thanh là trong, Phân là Thơm. Thanh Phân là chỉ
cái đức trong sáng thanh cao.
2. Dịch xuôi :
Tôi rất
yêu mến cái ông Mạnh phu tử nầy, cái phong thái và tài
hoa của ông cả thiên hạ nầy ai cũng đều biết đến cả
! Khi tuổi đời còn trẻ mà ông đã chối bỏ ngựa xe
áo mão, đến nay đầu đã bạc vẫn còn ở ẩn trong
rừng núi. Thường uống rượu và say khướt dưới trăng,
mê đắm cảnh trí hoa cỏ đẹp đẻ mà không màng
đến việc phục sự cho nhà vua ( làm quan ). Khí tiết của ông
cao cao như núi xanh làm sao mà ai có thể với tới, cho nên, ở
nơi nầy, ta chỉ có thể chấp tay xá dài mà ngưỡng phục
cái đức trong sáng thanh cao của ông mà thôi !
3.
Diễn nôm :
Ta yêu ông họ
Mạnh,
Tài hoa ở trên đời.
Đầu xanh từ áo mão,
Tóc trắng ngắm mây trôi.
Dưới trăng say lướt khướt,
Bên hoa quên chúa tôi.
Núi cao ai dám sánh,
Đức sáng
một ông thôi !
Lục bát :
Hạo Nhiên ông Mạnh ta yêu,
Tài hoa xuất chúng người đều biết tên.
Tuổi xanh xe ngựa
bỏ quên,
Bạc đầu vẫn cứ lênh đênh núi rừng.
Dưới trăng say khướt chẳng ngừng,
Bên hoa quên hết quân
thần chúa tôi.
Núi cao ai dám sánh đôi,
Thanh cao, chỉ
một ông thôi, trên đời !
Đỗ Chiêu
Đức.
________________________________________
Bản dịch C.D.M
TẶNG MẠNH HẠO NHIÊN
Ta yêu quý
thầy Mạnh
Người người đều nghe danh
Thanh tú ngời cốt
cách
Nằm chơi rừng phong xanh
Uống rượu thành ông Thánh
(1)
Ngắm hoa quên triều đình
Ôi núi cao sao với
Chỉ
biết thẹn cúi mình
C.D.M.
______________________________________________________________________________
CHIẾN TRANH
CHÁNH TRỊ
Sẵn
đang trên đà hồi tưởng, xin cho Đỗ Chiêu Đức tôi
kể luôn một câu chuyện văn chương thời trai trẻ cùa mình
nữa cho nó đủ bộ....
Như trong bài " Giang hồ Khí cốt " vừa rồi có
nói, tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư Đoàn 3 Không
quân Biên Hòa, Phòng Điện Ảnh của Tham Mưu Phó Chiến Tranh
Chính Trị, thuộc loại lính Thành phố. Trong Không Quân có
lệ, gọi thượng cấp là Ông Thầy, nhất là các loại
lính nghề, lính kỹ thuật.... Các Trung sĩ, Thượng sĩ, nhất
là Chuẩn úy già... đều là " Ông Thầy " cả ! Đặc
biệt, chỉ có anh Binh Nhất Đỗ Chiêu Đức , mặc dù là
lính, nhưng vẫn được mọi người gọi bằng Ông Thầy
!. Tại sao ?!. Xin thưa : Có 3 lý do như sau : Thứ nhất, là vì mọi
người đều biết anh ta là thầy giáo xuất thân, là thanh
niên nhưng trông đạo mạo như một ông cụ non, tác phong nghiêm
chỉnh, chửng chạc. Thứ hai, là mọi người đều biết anh ta
rất giỏi chữ Nho và văn chương, có gì thắc mắc về
mặt văn học, cứ tìm anh ta là xong ngay. Thứ ba, là lý do quan trọng
nhất, vì anh ta là... Chuyên viên Phòng Tối... Chuyên rửa, rọi
và tráng phim ảnh. Hễ anh em nào, kể cả cấp chỉ huy, sĩ quan....
nhà có đám ma, đám cưới.... thì sau đó đều
phải kiếm anh ta để... rửa dùm vài cuồn phim, nên câu mà
anh ta thường nghe nói nhất là : " Ông Thầy.... giúp rửa dùm
vài cuồn phim nhen ! ". Lúc bấy giờ, lính Mỹ đã rút hết,
giao toàn bộ cơ sở vật chất đã xây dựng lại cho quân
đội VN tiếp nhận, trong đó có Phòng Điện ảnh với đầy
đủ thiết bị máy móc tráng, rọi và rửa phim ảnh, kể
cả máy xấy hình và một lô giấy KODAK khổng lồ gần hết
DATE, nên ông Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT cho sử dụng thoải mái, và
vì anh ta là lính trẻ, độc thân, nên ở luôn tại phần
sở TMP của mình, vì thế mà ban đêm, thức tráng phim, rửa
hình thoải mái , Cứ phim đưa ngày hôm nay thì sáng hôm
sau đã có hình rồi ! Mau hơn ngoài tiệm nhiều mà lại
... khỏi tốn tiền nữa, nên kêu một tiếng " Ông Thầy "
không ai tiếc cả !
Sau
Hiệp Định Ba Lê năm 1973, mọi người đều đinh ninh là...
Hòa Bình sắp đến, ai cũng mong chờ và hy vọng, nhưng sau những
đợt trao trả tù binh... súng vẫn còn nổ lai rai hoài, thấy
mà phát rầu, riêng Tham Mưu Phó CTCT của Sư Đoàn thì lại
rộn rịp hẵn lên, cấp trên chỉ thị xuống là thời gian sắp
tới đấu tranh Chính Trị là chính trong Hòa Hợp Hòa Giải
dân tộc, rồi Tổng Tuyển Cử .v.v... và v. v.... Nhưng, đợi mãi
, vẫn không thấy gì, 1973 đi qua, rồi 1974 cũng đi... tuốt, nên
Tết đầu năm 1975, anh lính trẻ có làm 2 bài thơ Thất ngôn
Tứ tuyệt để gởi đăng báo như sau :
長望和平 TRƯỜNG VỌNG HÒA BÌNH
機場野草炎黃色 Cơ trường dã thảo viêm
hoàng sắc
難使春風吹又生 Nan sử xuân phong xuy hựu
sanh
不見梅花和燕子 Bất kiến mai hoa hòa yến
tử
年來未覺有何更 ! Niên lai vị giác hữu hà canh !
年來未覺又何新 ? Niên lai vị giác hựu
hà tân,?
烽火猶愁軍與民 Phong hỏa do sầu quân dữ
dân
長望和平長不到 Trường vọng hòa bình
trường bất đáo
不求春至又逢春
! Bất cầu xuân chí hựu phùng xuân !
Chú thích :
" Xuân phong xuy hựu sanh " là lấy
ý ở 2 câu thơ của nhà thơ Bạch Cư Dị là " Dã
hỏa xuy bất tận, xuân phong xuy hựu thanh ". Có nghĩa : Sức sống
của cỏ ngay cả " Lửa dại đốt cũng không thể chết được,
vì khi gió xuân thổi là tất cả cỏ dại sẽ xanh tốt trở
lại ngay " ! .
" Cơ
trường " : là Phi trường. Ta gọi Phi trường nghĩa là Sân
bay, Sân để cho máy bay cất cánh bay đi. Còn người Hoa gọi
là Cơ Trường, là Sân để cho máy bay đậu. Đây gọi
là tập quán ngôn ngữ và là cái khác nhau giữa tiếng
Việt và tiếng Hoa. Một ví dụ nữa như : Ta gọi Người Xem
là Khán Giả, còn người Hoa gọi là Quan Chúng.....
Dịch nghĩa :
Cỏ trong phi trường
vàng úa như bị cháy xém, khó có thể nào gió xuân
thổi mà có thể xanh tốt trở lại được.Cũng chẳng thấy
có hoa mai nở và chim én bay lượn , mùa xuân đã đến
rồi mà lại chẳng thấy có gì thay đổi cho có vẻ xuân
cả !
Chẳng có gì đổi mới cho có vẻ xuân thì xuân
đến mà chi ?. Chiến tranh vẫn còn làm cho quân và dân lo rầu
buồn bã. Dài cả cổ trông ngóng Hòa Bình, mà hòa bình
nào có tới cho đâu, chẳng cầu mùa xuân đến thì lại
vẫn phải đón xuân như thường !
Diễn nôm :
Phi trường cỏ dại vàng như cháy,
Gió xuân khó khiến lại xanh um.
Cũng chẳng hoa mai, chim én lượn,
Xuân sang chẳng thấy có gì xuân !
Chẳng có gì xuân sao gọi xuân ?
Chiến tranh sầu
muộn cả quân dân
Trông ngóng hòa bình trông chẳng thấy
Chẳng cầu xuân đến lại mừng xuân !
Hai câu cuối của bài Tứ Tuyệt sau là nhại ý
của hai câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu :
Tôi có chờ
đâu có đợi đâu
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu
!
Được phép của Ngài
Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT Phạm Kim Lân, anh ta viết luôn một đôi
liễn Tết dán ở phía trước Văn Phòng chánh của TMP CTCT
như sau :
戰征 難阻春風至 CHIẾN TRANH nan trở xuân phong
chí,
政治 猶期勝利來 CHÍNH TRỊ do kỳ thắng lợi lai.
Dịch nghĩa :
Chiến tranh cũng khó mà cản
trở được gió xuân thổi đến ,
Chính trị thì còn
đang kỳ vọng vào thắng lợi sắp đến !
Câu đối trên còn hay ở chỗ dùng được
4 chữ CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ để mở đầu 2 câu đối và
nêu được cái nhiệm vụ chính yếu của CTCT trong thời gian
sắp tới !
Rất tình
cờ, thằng bạn Nguyễn Hoàng Hưng cũng là Chuyên Viên Điện
Ảnh ở Sư Đoàn 4 Không Quân, phi trường Trà Nóc, Thành
phố Cần Thơ, gọi điện xin đôi câu đối để dự
thi cho Đặc San hay Giai Phẩm xuân gì đó của TMP CTCT Sư Đoàn
4 KQ, tôi bèn gởi ngay 2 câu đối trên cho anh ta với đầy đủ
giải thích, rồi quên luôn.... Hai ba tuần sau, Hưng vui mừng gọi điện
cho tôi báo tin là đã trúng Giải Nhất và được đăng
trên Giai Phẩm Xuân của đơn vị. Rất tiếc là tình hình
thời sự... lu bu của lúc ấy, nên tôi cũng không có nhận
được báo do Hưng gởi tặng.....
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
_.___
GIANG HỒ KHÍ CỐT
Nhân
đọc bài Tạp Ghi " Tiếu Ngạo Giang Hồ " của Thầy Đoàn
Xuân Thu, làm cho tôi xúc động tâm tình nhớ đến một
tình huống ... Tiếu Ngạo của mình ( nhưng chưa có Giang Hồ !
). Bây giờ thì xin Quý vị hãy đọc lại bài thơ " Giang
Hồ " của Phạm Hữu Quang, để thấy được thế nào là
Giang Hồ và Cái " Khí Cốt Giang Hồ " là ra làm sao ?!... thì
mới thấm thía được câu chuyện tôi sẽ kể dưới bài
thơ nầy ...
"..... người viết lại
nhớ đến Phạm
Hữu Quang (1952-2000), quê Thốt Nốt, Cần Thơ, có
bài thơ “Giang Hồ” đọc nghe rất đã và rất tiếu
ngạo giang hồ...
Tàu đi qua
phố, tàu qua phố
Phố lạ mà quen, ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt
ngày bên bếp vợ
Chẻ củi, trèo thang với… giặt đồ?
Giang hồ đâu
bận lo tiền túi
Ngày đi ta chỉ có tay không,
Vợ con chẳng
kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa, trắng cả lòng…
Giang hồ ta ghé
nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối
trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với
Lưu Bình.
Giang hồ có bữa ta ngồi quán
Quán vắng mà
ta chẳng chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
Đếm thấy thừa ra một gốc si.
Giang hồ mấy bận say như chết
Rượu sáng
chưa lưa đã rượu chiều
Chí cốt cầm ra chai rượu
cốt
Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu…
Giang hồ ta chẳng
thay áo rách
Sá gì chải lược với soi gương
Sáng
nay mới hiểu mình tóc bạc
Chợt tiếng trẻ thưa ở bên
đường.
Giang hồ ba bữa buồn một bữa,
Thấy núi thành
sông biển hoá rừng
Chân sẵn dép giầy, trời sẵn gió
Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung…
Giang hồ tay nải cầm chưa chắc
Hình như ta mới khóc hôm qua
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà
Phạm Hữu Quang.""
Trước khi kể chuyện của tôi, xin mời tất cả
chúng ta cùng ôn lại hai tác giả lớn trong văn học cổ Việt
Nam ta nhé, đó là....
Nguyễn Khuyến , Tam nguyên Yên Đỗ,
vì ông ở làng Yên Đỗ và đậu đầu 3 cuộc thi nên
gọi là TAM NGUYÊN : Đậu đầu thi hương gọi là HƯƠNG
NGUYÊN, đậu đầu thi hội gọi là HỘI NGUYÊN và đậu
đầu thi đình gọi là ĐÌNH NGUYÊN.Ông rất giỏi vể
làm câu đối. Ngày xưa, khi nhà có điều hiếu hỉ như
đám cưới, đám ma... thường được mừng chúc hoặc
chia buồn bằng đôi câu đối.Muốn có câu đối hay thì
phải nhờ đến những bậc Đại khoa có tài như Nguyễn Khuyến
làm thì mới có giá trị. Muốn nhờ những người nầy
làm câu đối thì phải có lễ vật, tốn kém vô cùng.
Một hôm, có một anh kia mang lễ vật rất hậu đến nói
với cụ Tam Nguyên rằng : Nhờ cụ làm cho một đôi câu đối
mà hiếu hay hỉ gì cũng dùng được cả , để đám
cưới, đám ma, chúc thọ... nhiều quá, mỗi lần đều rất
tốn kém, thà tốn một lần cho xứng đáng để khỏi phải
mỗi lần mỗi tốn, Cụ cười cho cái hảo ý của anh ta, và
viết cho đôi câu đối như sau :
Nhất đức tại
thiên tùy phó phận 一 德 在 天 随 付 份
Thất tình
ư ngã khởi vô tâm 七 情 於 我 豈 無 心
Giải
thích như sau :
Nếu là đám cưới sẽ có nghĩa như
thế nầy : Cái đức là do Trời ban, duyên Trời rung ruổi phải
gặp số phận nhân duyên như thế. Về mặt tình cảm của
con người ( Thất tình là Hỉ, Nộ, Ái , Ố, Ai, Cụ, ( lạc
), Dục ) Tôi đâu thể vô tâm trước cái vui của quý
vị.....( Khởi vô tâm : có nghĩa : Sao mà có thể vô tâm
cho được ! )
Nếu là đám ma thì sẽ giải thích
như sau : Cái đức do Trời ban cho số phận có bao nhiêu đó
mà thôi ( đừng buồn nữa ). Về mặt tình người thì
tôi đâu thể vô tâm làm ngơ ( trước sự tang tóc của
các vị cho được ! .....).
Nếu là chúc thọ
thì lại có nghĩa : Cái đức của Trời cho được hưởng
phước phần trường thọ là vậy, còn về nhân tình thì
tôi cũng đâu thể làm ngơ, tức là tôi cũng chúc mừng
cho quý vị đó.!.....
Bây giờ, thì ta nói về Trần
Tế Xương nhé ! TTX cũng có một bài thơ theo thể HÁT NÓI
về Tết, trong đó có 2 câu đối rất hay. Mời Quý vị
cùng đọc bài Hát nói sau :
"Nhập thế
cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng húng
hắng một vài bài
Huống chi mình cũng đã đỗ
tú tài
Ngày tết đến cũng phải một vài
câu đối
Đối rằng:
"Cực
nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài
極 人 間 之 品 價,
風 月 情 懷
Tối
thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt”
最 世 上 之 風 流,
江 湖 氣 骨
Viết
vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng
dốt hay hay
Rằng hay thì thật là hay
Chẳng
hay sao lại đỗ ngay tú tài
Xưa nay em vẫn chịu ngài".
Hai câu đối trên thuộc loại Câu đối 10 chữ,( thuộc
loại văn Biền Ngẫu kiểu Tứ Lục & Lục Tứ ) có nghĩa như
sau :
Câu 1 : Cái phẩm giá cao nhất trong đời nầy là : Tình
hoài vọng về gió trăng phong nguyệt.( chỉ sự cao thượng, không
nhuốm mùi tiền bạc tầm thường của thế tục ).
Câu 2
: Cái phong lưu nhất trên đời nầy là : Khí cốt của kẻ
giang hồ.( rày đây mai đó, không màng đến lợi danh tầm
thường của nhân thế ! ).
Bây giờ thì tôi sẽ kể
một câu chuyên về bản thân tôi nhé !
Năm tôi 20 tuổi,
nghĩa là đã đi dạy học được 2 năm rồi, và cũng
có nghĩa là đến tuổi động viên phải đi lính rồi.
Tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư đoàn 3 Không Quân
Biên Hòa. Cuối tuần, thường hay đi phép về Chợ Lớn, Ở
trọ nhà một người bạn học cũ. Một hôm, khi vừa về đến
Chợ Lớn thì ông bạn của tôi cho biết tin là mẹ của người
chủ nhà trọ qua đời tối hôm trước. Trong lúc bất ngờ,
không kịp chuẩn bị, sẵn miếng vải lị ông bạn tôi làm
để điếu tang, tôi viết luôn đôi Câu đối của Cụ
Nguyễn Khuyến lên đó :
Nhất đức tại thiên tùy phó
phận,
Thất tình ư ngã khởi vô tâm.
Lúc
đó, tôi còn trẻ, nét chữ còn mạnh mẽ như rồng bay
phượng múa, làm cho một người bà con đến điếu tang
trầm trồ và tìm đến gặp tôi để hỏi thăm....đủ
thứ. Sau đó, hỏi lại người bà con, mới biết Ông ta là
vua mức bí của Chợ Lớn, thấy tôi tuổi trẻ mà viết được
Câu đối cao siêu làm vậy, lại thêm nét chữ thanh nhã bay
bướm, nên mới hỏi thăm gia thế và định bắt tôi....làm
rễ. Mời tôi đến nhà chơi, ăn cơm, để cho con gái ông
ta xem mắt, và rất thường xuyên lui tới với gia đình ông
bạn của tôi.
Chuyên tưởng như xong xuôi đâu cả rồi,
chuyến nầy chuột sa hủ nếp nhé !
Tết năm đó, tôi ăn
mức đến ngọt tới tim luôn, sẵn hứng chí,thừa thắng xông
lên , tôi viết luôn một đôi liễn Tết dán lên nhà
của người bà con để khoe tài. Đó là đôi liễn
" quỹ quái " của Ngài Trần Tế Xương đó :
Cực
nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
Tối thế thượng
chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
Ông Vua mức bí đến
xem thấy, hỏi của ai viết, rồi bảo gở xuống, và từ đó
ông ta không thèm hỏi thăm đến tôi nữa. Đợi hoài không
thấy động tịnh gì cả, tôi đâm nghi ngờ, rồi hỏi thăm
người bà con, thì được họ nói cho biết như sau :
Trước
đây, ông ta thấy tôi tuổi trẻ mà có học thức, văn
hay chữ tốt, nên định chiêu tôi làm rễ để tiếp giúp
ông ta quản lý sổ sách, phát triển làm ăn, chừng thấy
câu đối Tết của tôi , Ông ta nản chí quá. Suốt ngày
nó cứ " Phong nguyệt tình hoài " hú hí với con gái mình
hoài, không biết lo làm ăn, lại còn " giang hồ khí cốt
" nữa chứ, không khéo nó rủ rê con gái mình bỏ nhà
theo nó đi giang hồ thì bỏ bu luôn. Không được, phải kiếm
thằng nào chí thú làm ăn, giúp ông ta làm giàu thêm
nữa thì mới được......Thế là vãn tuồng.
Quý Vị
thấy đó, đồng thời cũng là một Câu đối, nhưng Câu
đối của Nguyễn Khuyến thì người ta khen hay muốn gả con gái
cho, còn Câu đối của Trần Tế Xương thì làm hư việc
hết.......Suy cho kỹ thì cũng tại mấy chữ " Giang hồ Khí cốt
" mà ra cả !
Đây là chuyện thật một trăm phần trăm
của đời tôi hồi còn trẻ, tuổi trẻ thường sống với
lý tưởng cao nhã, tình cảm cao thượng mà phóng túng,
không chịu gò bó vào vòng danh lợi, không nuốn hơn thua với
đời, mà chỉ chuộng cái khí cốt giang hồ thanh cao, đẹp
đẽ... Hơn nữa, Trần Tế Xương là một tác giả lớn
trong chương trình học, mà học sinh nào thích văn chương
đều rất ngưỡng mộ, đâu có ngờ câu đối của
ông ta lại cho " áp phê ngược " như thế !. Thì ra cuộc
đời thực tế khác hẵn với cuộc đời trong văn chương
là vậy ! .Lúc đó, tôi cũng rất ngạc nhiên là, tại
sao câu đối của Trần Tế Xương hay là thế, mà lại bị
chê dữ vậy....
Bây giờ thì đầu đã bạc
rồi, con người đâm ra thực tế hơn. Nói thật, nếu bây
giờ có "thằng nào đó " mà có cái " Khí cốt
giang hồ " đến để hỏi cưới con gái tôi, thì chắc
tôi cũng lắc đầu từ chối, trừ phi con gái tôi nó chịu
!.....( Nói chơi, chứ con gái tôi đã có chồng con hết rồi
! )
Đỗ Chiêu Đức
NHA BAN ĐỒ TRUNG TÁC
... Sau vụ sửa bài thơ " Trường Tín Oán " của
Vương Xương Linh, mặc dù bị Văn Phòng TGT giũa cho một trận,
nhưng tiếng tăm của anh lao công Đỗ Chiêu Đức giỏi văn
thơ cổ lại nổi như cồn. Các bậc chức sắc và một số
thầy cô tìm đến phòng trọ của lao công ở trong trường
để đọc những bài thơ, văn bằng tiếng Hán Cổ mà
anh đã viết và dán nhan nhản khắp phòng...
Giữ
đúng lời hứa, Ngài Tổng Vụ Chủ Nhiệm Hà Đức Phương
tốt bụng đã giới thiệu anh ta đi Ban Mê Thuộc để dạy
ở trường Tiểu học DỤC ANH, mặc dù năm đó anh ta tthi rớt
Tú Tài 1. Từ lao công trường học, phủi chân cái rụp, nhảy
lên làm thầy giáo, anh ta cảm thấy lâng lâng như bước trên
mây, niềm vui phơi phới, cảm thấy cuộc đời sao lại đẹp
đẽ thế nầy ?!.... Thì ra giữa những kẻ xấu còn có người
tốt, giữa những đứa ác còn có những ông thiện...
Từ một đứa bé quê mùa ở xã Thường Thạnh
Đông, mười tuổi ra Thị Trấn Cái Răng học mới thấy được
chiếc xe hơi, mười lăm tuổi tha phương cầu thực lên Sài
Gòn mới thấy được cảnh phồn hoa đô hội, với ngựa
xe như nước, áo quần như nen. Bây giờ lại được ngồi
máy bay đi Nha Trang, rồi từ Nha Trang mới đáp xe đò lên Ban Mê
Thuộc. ( Trong thời buổi chiến tranh, tuyến đường Sài Gòn- Ban
Mê Thuộc thường xuyên bị cắt, nên vé máy bay SG- BMT đã
được các thương gia chiếu cố hết rồi. Nha Trang nhiều chuyến
bay hơn, nên phải đi vòng như thế ! ) .
Chàng thanh niên nhà quê Lục Tỉnh
lần đầu tiên thấy được cảnh núi rừng hùng vĩ hiễm
ác, với vách đá cheo leo, với cỏ cây rừng bí hiểm, với
những khe suối róc rách bên đường.... không khỏi xúc động
tâm tình, nhất là khi xe lên đèo Rù Rì, ở trên cao,
xa xa lại nhìn thấy biển cả mênh mông ngút ngàn, trời nước
như liền nhau với một màu xanh bát ngát.... Trước kia, có nằm
mơ anh ta cũng không bao giờ thấy được những cảnh trí như
thế nầy, nên quá xúc động tâm tình, bèn rút cây
viết bấm mà thằng bạn lao công mới mua tặng anh ta trước khi lên
đường, mò mẫm viết bài thơ Ngũ Ngôn sau đây :
芽邦途中作 NHA BAN ĐỒ TRUNG TÁC
綠綠青青峯 Lục lục thanh thanh phong,
銀銀海色重 Ngân ngân hải sắc trùng.
奔流溪裡水 Bôn
lưu khê lý thủy,
颯吹野外風 Táp xúy dã ngoại phong.
山道嶂嵐襲 Sơn
đạo chướng lam tập
前途煙雨中 Tiền đồ yên vũ trung.
他鄉尋食者 Tha hương tầm thực giả,
忽覺感懐濃 Hốt
giác cảm hoài nùng.
Chú
Thích :
1. Phong
峯: Chữ Phong nầy có bộ Sơn phía trên , chỉ
phần trên của núi, ta thường gọi là Ngọn núi.
2. Trùng 重: là Chồng lên, là lặp lại, Chữ nầy còn đọc
là TRỌNG : Có nghĩa là nặng.
3. Bôn lưu : là chảy xiết, chảy cuồn
cuộn.
4. Táp xúy : là Thổi phần phật, thổi ào ào.
5. Chướng Lam : là Sơn Lam Chướng Khí, những hơi độc và
mây mù trong núi .
6. Tiền đồ : Tiền là phía trước,
Đồ là con đường. Tiền Đồ : có nghĩa là Con đường
trước mắt, nghĩa bóng là chỉ con đường trong tương lai.
* TẬP : là đánh ụp là tấn công : nhưTập công. Ở
đây chỉ lấn chiếm.
7. Tha Hương Tầm Thực : Xa quê để
kiếm cái ăn, chỉ những người đi làm ăn xa quê hương
xứ sở.
8. Nùng : là nồng, là đậm.
Dịch nghĩa :
Cảm tác trên đường từ Nha
Trang đi Ban Mê Thuộc.
Những ngọn núi xanh xanh chập chùng nối
tiếp nhau, và biển trời mênh mông trắng xóa như nối tiếp
chồng lên nhau ở phía chân trời. Bên đường, dòng suối
trong khe chảy ra cuồn cuộn và gió ngoài rừng trống phần phật
rit từng cơn. Sơn lam chướng khí mịt mù lấn chiếm cả con
đường đèo trên núi và con đường trước mắt
chìm trong mưa khói mông lung. ( Không biết tương lai sẽ ra sao ? ).
Khiến cho người cầu thực tha phương, bỗng nhiên càng thấy
niềm cảm xúc dào dạt dâng trào !
Diễn nôm :
Xanh
xanh rừng núi thẳm,
Trắng xóa biển mênh mông.
Nước
khe tuôn róc rách,
Gió núi rít não nùng.
Sơn lam đường
mờ mịt,
Mây khói nẽo mông lung.
Kẻ tha phương cầu thực,
Nghe cảm khái ngập lòng !
Luc. bát :
Chập chùng rừng núi
xanh rì,
Mênh mông biển cả thấy gì chân mây.
Suối
tuôn róc rách bên tai,
Gió rừng rít mạnh khiến ai chạnh
lòng.
Đường đèo mờ mịt vời trông,
Tương lai
sương khói mịt mùng biết đâu !
Tha phương cầu thực
nghe sầu,
Lòng càng cảm khái, lần đầu xa quê !
Đỗ
Chiêu Đức.
Thấy
anh ta hí hoáy viết, ông Hiệu Trưởng ngồi bên liếc nhìn
rồi ngạc nhiên hỏi : Anh biết làm thơ ?!. Sau khi đọc xong bài
thơ trên, ông tỏ vẻ rất hài lòng và khi vừa về đến
Ban Mê Thuộc, ông bèn gởi bài thơ ngược trở về Sài
Gòn để đăng trên báo Á Châu tiếng Hoa bấy giờ. Chính
lòng tốt nầy của ông đã cứu ông khỏi một phen rắc
rối, vì một tuần sau, Ban Quản Trị của Hội Phụ Huynh Học Sinh
chất vấn ông là : Bộ hết người rồi sao mà phải mướn
một thằng nhỏ miệng còn hôi sửa về làm thầy giáo thế
nầy ?!.
Ông ta bèn
chìa bài thơ được đăng báo ra và giải thích : "
Anh ấy còn trẻ nhưng có khả năng, lại viết chữ rất đẹp
! ". Sẵn ông ta cũng cho xem luôn bản viết tay của bài thơ mà
anh thầy giáo trẻ đã nắn nót viết tặng cho ông khi vừa
về tới trường.
Sẵn đây, cũng xin trình bày luôn để mọi người
được biết là : Trước đây, tất cả các trường
Hoa ở khắp Miền Nam, trừ một vài trường của tư nhân lập
ra ở Chợ Lớn, còn tất cả đều là TRƯỜNG CÔNG LẬP
, do Ngũ Ban( Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hải Nam và
Ban Hẹ ). với Hội Phụ Huynh học sinh đứng ra tổ chức, xây dựng
và điều hành mọi sinh hoạt và hỗ trợ toàn bộ kinh phí
hoạt động của nhà trường.
Đối với Nhà Nước,
thì là trường Tư Thục, còn đối với đồng bào
người Hoa, là trường Công Lập. Ban Quản Trị của Hội phụ
huynh học sinh chịu trách nhiệm tìm người giỏi, có học thức,
có kinh nghiệm tổ chức điều hành giáo dục làm Hiệu Trưởng.
Hiệu Trưởng chịu trách nhiệm đi tìm giáo viên về hợp
tác với mình..Nên cứ Hè đến là tất cả Hiệu Trưởng
của các trường Hoa ở Tỉnh đều đổ xô về Sài Gòn
Chợ Lớn để tìm thêm giáo viên về dạy cho trường mình.
Thường thì, Hợp đồng của BQT Hội PHHS ký với Hiệu Trưởng
là 2 năm. Nếu điều hành không có thành tích, thì sau
2 năm, Hiệu Trưởng sẽ tự động rút lui, còn nếu là
HT giỏi thì Hội PHHS sẽ giữ lại tiếp tục 2 năm nữa !. Vì
thế, nên HT tìm được giáo viên, thì chỉ ký hợp đồng
1 năm mà thôi, sau 1 năm, nếu là GV giỏi, thì Hiệu Trưởng
sẽ ký tiếp 1 năm nữa, còn nếu HT nín thinh, thì GV tự động
cuốn gói đi tìm trường khác !
Đối với Bộ và
Ty giáo dục, thì mỗi địa phương đều phải tìm một
người địa phương có bằng cấp thích hợp ( Tú Tài
1, 2, hoặc Đại học ) để đứng tên làm Hiệu Trưởng
và phụ trách tất cả giấy tờ và thủ tục hành chánh
của nhà trường. Trước đây vì chiến tranh, nam phải đi
lính, nên thường là nữ đứng tên làm Hiệu Trưởng
( Như trường hợp Cô Nguyễn Kim Quang của trường Tân Hưng Cái
Răng vậy ). Vì thế mà mỗi trường HOA đều có 2 vị Hiệu
Trưởng, một điều hành bên chuyên môn tiếng Hoa, và một
điều hành về thủ tục hành chánh bên tiếng Việt.
Đôi
hàng giải thích, để mọi người hiểu được là tại
sao anh lao công Đỗ Chiêu Đức phủi chân cái rụp là nhảy
lên thành thầy giáo trong nháy mắt liền một khi !....
TRƯỜNG TÍN THU TỪ…(HIỆU CÔNG OÁN)
Trường Tín
Thu Từ của Vương Xương Linh gồm ba bài, nhưng bài giữa là
bài hay nhất và có nhiều người biết nhất, bài nầy có
tên là Trường Tín Oán, được trích trong số 300 bài
của tập Đường Thi Tam Bá Thủ. Bây giờ thì ta cùng đọc
bài thơ nầy nhé !
長信怨 (王昌齡) TRƯỜNG TÍN OÁN
( Vương Xương Linh ).
奉帚平明金殿開, Phụng trữu bình minh kim điện
khai,
暫將團扇共徘徊。 Tạm tương đoàn phiến
cộng bồi hồi.
玉顏不及寒鴉色, Ngọc nhan bất cập hàn nha
sắc,
猶帶昭陽日影來。 Do đái chiêu dương nhật ảnh lai
Chú thích :
1. Trường Tín, Chiêu Dương : Tên của
2 cung trong hoàng cung của nhà vua.
Trường Tín Oán : là nỗi
oán hờn trong cung Trường Tín.
2. Phụng Trữu : Phụng : là bưng,
là cầm. Trữu : là cây chổi.
3. Tạm Tương : Tạm : là
đở, là tạm thời. Tương : là đem, là lấy. Tạm Tương
ở đây có nghĩa là Cầm
đở, không có cái gì
để cầm thì cầm tạm cái gì đó.
4. Đoàn Phiến
: Đoàn : là tròn trịa, Phiến là cây quạt. Đoàn Phiến
là Cây quạt hình tròn.
5. Ngọc Nhan : là chỉ Dung nhan đẹp
như ngọc, thường dùng để ví với nhan sắc của người
đẹp.
6. Hàn Nha : Hàn là Lạnh, Nha là Con Quạ. Hàn Nha là
Con quạ lạnh lẽo trong đêm thu.
7. Do là Liên từ, có nghĩa
là Còn. Đái : là mang, là xách, là dẫn dắt.
8. Nhựt
Ảnh : là Bóng mặt trời, ở đây có nghĩa là Ánh Nắng,
ánh sáng mặt trời.
Dịch nghĩa :
Cầm cây
chổi để quét lá thu vàng rung trong buổi bình minh khi điện
vàng vừa mở cửa,( sau đó ) nàng mân mê cánh quạt lụa
tròn theo thói quen cầm tay, nhưng đã hết công dụng trong mùa
thu mát mẻ nầy. Oán hận vì thương cho nhan sắc đẹp như
ngọc của mình lại không bằng được con quạ lạnh lẽo
trong đêm vừa bay đến, vì con quạ tuy lạnh lẽo, nhưng còn
mang được ánh nắng ấm áp của điện Chiêu Dương,
nơi mà nhà vua đang ngự, còn mình thì....
Diễn
nôm :
Điện vàng, tay chổi, sáng mờ sương,
Quạt lụa bâng khuâng nỗi đoạn trường,
Vẻ ngọc không
bằng con quạ lạnh,
Còn mang ánh nắng điện Chiêu Dương
!
Lục bát :
Điện vàng mở, chổi cầm tay,
Bâng khuâng
quạt lụa ai hoài xót thương.
Không bằng quạ lạnh kêu
sương,
Còn mang ánh nắng Chiêu Dương đến gần
Đỗ
Chiêu Đức.
Bây giờ xin kể một chuyện của
cá nhân tôi, nhưng có liên quan đến bài thơ trên. Truyện
như thế nầy...
Năm 1964, sau khi thi đậu BằngTrung học Đệ Nhất
cấp, vì nhà nghèo, nên tôi phải khăn gói lên Sài Gòn
kiếm sở để vừa làm vừa học. Được sự giới thiệu
của người thầy cũ, xưa làm Hiệu Trưởng ở trường
Tiểu học Tân Hưng Cái Răng giới thiệu vào làm lao công
cho trường Trung Tiểu Học PHƯỚC ĐỨC ở đường Khổng
Tử trong Chợ Lớn. Đó là thầy Trần. nay là Tổng Giám Thị
của Trường Phước Đức, còn Bà Trần, vợ thầy, cũng
là cô giáo cũ của tôi, làm Giám Thị của khu Nữ Trung
học. Hai ông bà còn kinh doanh riêng một trường Tiểu Học tư
thục Phước Dân, tọa lạc ở đường Học Lạc.
Tôi
và một anh bạn học cũ nữa, cũng là dân Cái Răng. Ban ngày
thì làm lao công quét dọn trường học, ban đêm thì đi
học luyện thi Tú Tài 1 ở Trường Trung Học Chu Văn An. Chúa nhật,
thì hai đứa cùng chui vào rạp chiếu bóng bình dân thường
trực xem 2 phim Hồng Kông nhập một để học nghe và nói tiếng
Quan Thoại.
Có một Chúa Nhật, Ông bà Trần nhờ 2 đứa
đến giúp dọn dẹp và làm vệ sinh trường riêng của
ông bà . Thỉnh thoảng ông bà vẫn thường nhờ như thế.
Hôm ấy, vì mới đọc được bài " Trường Tín
Oán " của Vương Xương Linh nêu trên, nên sau khi quét dọn
xong, tôi bèn nổi hứng, cầm phấn viết ngay lên bảng bài thơ
trên, nhưng đã được cải biên như sau :
校工怨 (王猖伶) HIỆU CÔNG OÁN ( Vương
Xương Linh ).
奉帚平明課室開, Phụng trữu bình minh khóa
thất khai,
暫將垃圾共徘徊。 Tạm tương lạp cấp
cộng bồi hồi.
校工不及痰盂福, Hiệu công bất cập đàm
vu phúc,
猶帶先生吐出來。 Do đái tiên sinh thổ xuất lai !
Ghi Chú :
1. Hiệu Công : Hiệu
là trường học. Công là lao công. Hiệu Công : là Lao công
trường học.
2. Khóa Thất : là Lớp học, là phòng học.
3. Lạp Cấp : là rác rến. trong bài thơ bị ẩn hết 1 chữ
chỉ : Thùng xúc rác.
4. Đàm Vu : là cái ống nhổ để
khạc đàm.
5. Tiên Sinh : là Thầy giáo, là ông ,là Ngài.
6. Thổ Xuất : là nhổ ra.
Dịch nghĩa :
Cái oán của Lao công trường
học.
Buổi sáng đã phải xách cây chổi khi lớp học
vừa mới mở ra , xách cái thùng rác để quét rác vào
mà lòng cảm thấy bồi hồi.( Tự cảm thấy rằng ) Lao công
trường học không có phước bằng cái ống nhổ, ( Vì
cái ống nhổ ) còn mang được những cái gì mà thầy
giáo nhổ ra.
Diễn
nôm :
Xách chổi ban mai lớp mở ra,
Bùi ngùi quét rác
tủi ru mà !
Lao công thua cả cái ống nhổ,
Còn chứa những
gì thầy nhổ ra !
Viết
xong những câu trên, tôi vô cùng đắc ý. Thứ nhất là
các từ dùng để thay thế vào bài thơ đều đúng
luật bằng trắc và rất tự nhiên như chính mình làm ra.
Thứ hai là các từ đó cũng diễn đạt được ý
mình muốn nói lại còn gởi gấm được tâm sự tủi
hổ của cái nghề nghiệp thấp hèn của mình. Thứ ba là
cái tự hào, cái ngông của tuổi mới lớn, muốn chứng tỏ
cho Thầy Bà biết rằng Lao Công cũng có thể đọc hiểu và
thưởng thức văn chương như ai, chứ đâu phải... đồ bỏ
! Thế nhưng...
Thế nhưng, sáng Thứ hai, khi học sinh vừa vào giờ
học xong, thì có lịnh của văn phòng Tổng Giám Thị mời...
anh lao công Đỗ Chiêu Đức lên văn phòng làm việc. Tuổi
trẻ chóng quên, lúc đó tôi rất ngạc nhiên không biết
là chuyện gì, chừng bước vào Văn Phòng, thấy đầy
đủ cả chức sắc của Ban Giám Thị đều có mặt, tôi
cúi đầu chào tất cả rồi đứng nép một bên. Ông
thầy tôi, Ngài Tổng Giám Thị, vẻ mặt giận dữ, chìa một
tấm giấy trước mặt tôi và hỏi :
- Bài thơ nầy phải
của em viết không ?. Tôi khép nép :
- Thưa thầy, phải à.
- Ai dạy và xúi giục em viết bài thơ nầy ?
- Thưa thầy,
tự em viết chớ không ai xúi cả à.
- Em đọc được
Đường Thi ?. Em thử đọc lại nguyên bản khi chưa sửa xem !
Tôi đọc lại bài thơ xong, ông càng giận dữ hơn
:
- Em sửa bài thơ lại với ý gì ? Em oán trách chúng
tôi bốc lột và đối xử tệ bạc với em chứ gì ?.
- Dạ thưa thầy, em không dám, em chỉ sửa cho hợp với hoàn cảnh
của mình, và...
-...Và muốn khoe tài giỏi chứ gì ?. Tôi
ức lắm, nhưng cũng trình bày :
-... Và em muốn gởi gắm tâm
sự của mình trong đó !. Tôi nói theo những gì đã học
trong trường. Thường thì các tác giả mình học hay gởi
gắm tâm sự, hoài bão qua thơ văn. Không ngờ quý thầy trong
phòng đều bật cười, một thầy hỏi :
- Gởi gắm tâm
sự gì qua cái ống nhổ vậy ?. Một thầy khác nói :
- Tâm
sự dơ dáy, mất vệ sinh ! Bộ hết cách gởi gắm tâm sự
rồi hay sao ?.
Tôi ức đến muốn trào nước mắt, định
tìm lời nói lại, thì ông thầy tôi đã quát :
- Thôi
! Đi ra ngoài làm việc đi ! Kỳ sau đừng sửa thơ bậy bạ
nữa, cả tên tác giả cũng viết sai, may mà không có ý
đồ xấu, nếu không thầy Hiệu Trưởng sẽ cho Cảnh Sát
điều tra làm việc với em đó !
Bước
ra khỏi phòng Tổng Giám Thị, nước mắt tôi mới trào ra.
Tôi tức tối và khinh bỉ họ quá. Một lũ thầy giáo dốt
! Họ đã vô tình chà đạp lên nhân cách của một
người nghèo, cười cợt trên sự tủi hổ của tôi. Họ
đâu có biết, hoặc không thèm biết rằng, ở lứa tuổi
16 của tôi, nếu gia đình khá giả , thì giờ nầy tôi cũng
cấp sách đến trường, chớ đâu phải cầm cây chổi
quét rác dọc theo hành lang trong giờ vào học, để nhìn các
người cùng trang lứa với mình đang vui vẻ cười đùa
trong lớp.....
Tâm sự dơ dáy ư ? Họ là thầy giáo dạy
tiếng Hoa mà quên hết chữ nghĩa của Thánh Hiền. Cái ống
nhổ chỉ là giả tá, mượn để so sánh với thân phận
thấp hèn của mình, còn cái mà Thầy Cô nhổ ra , phun ra ở
đây, đâu phải là đờm rải dơ dáy, chữ THỔ còn
có nghĩa là nói ra mà, ví dụ như Thổ Lộ là bày
tỏ vậy . Tôi chỉ buồn tủi cho thân phận của mình không
bằng được cái ống nhổ, vì cái ống nhổ còn chứa
đựng được những gì mà Thầy Cô nói ra, là những
khuôn vàng thước ngọc, là kim ngôn ngọc ngữ, là kim ngọc
lương ngôn, là những đạo lý làm người ,là lẽ
phải ở đời.... Sao họ không hiểu gì hết vậy ?. Họ chỉ
biết có đờm rải dơ dáy mất vệ sinh mà thôi ! Hỡi
ôi !!!!....
Còn bảo là tôi viết sai tên
tác giả ư ?. Thì đúng rồi ! Vì tôi đã sửa lại
bài thơ theo ý mình, nên cũng sửa luôn tên tác giả cho...
trọn bộ. Chỉ giữ họ Vương , còn chữ Xương 昌 là Thịnh
Vượng. thì đổi thành chữ Xương 猖 là Hung hãn , và
Linh 齡 là Tuổi Tác, thì đổi thành chữ Linh 伶 là Cô độc, linh đinh. Đọc lên thì cũng là
âm Vương Xương Linh, nhưng nghĩa thì lại hoàn toàn khác
hẵn ! Chớ làm sao tôi lại có thể viết sai tên nhà thơ
nổi tiếng là Thi Thiên Tử cho được ?!
Còn Cảnh Sát điều tra ư ?. Tôi có xúc phạm
gì đến Ngài Hiệu Trưởng Tăng Kim Đông sắp lên làm
Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Thủ Tướng Lộc của
họ đâu mà lại hù dọa !. Tôi muốn dọn đồ xin nghỉ
làm ngay ngày hôm sau. Thời may tối hôm đó, Thầy Tổng Sự
Vụ Trưởng của trường đến gặp tôi, thầy an ủi và
khuyên tôi hãy ráng ẩn nhẩn vừa làm vừa học, rồi thầy
sẽ giới thiệu cho tôi đi dạy học trong tương lai.... Và nhờ
vậy mà tôi trở thành thầy giáo khi mới tròn 18 tuổi.
Đỗ
Chiêu Đức.
__________________________________________________________________
ĐÊM THU
...... Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng nầy
nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ, những cây liễu xanh đứng
buồn như những nàng cung nữ thời xưa, và thấp thoáng trong vườn
nhà ai hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một tâm hồn con trẻ.
Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi
vẫn là tâm hồn tôi năm trước...
Đó
là đoản văn của Thanh Tịnh nhớ về một buổi sáng mùa
Thu, viết theo văn phong của văn học Âu Tây đầu thế kỷ 20.
Bây giờ thì ta hãy đọc bài Đêm Thu của Đỗ Mục
làm ở thế kỷ thứ 10 , mang đầy đủ tính chất dân gian
và truyèn thống của văn hóa Á Đông....
杜牧《秋夕》
THU
TỊCH Đỗ Mục
銀燭秋光冷畫屏, Ngân chúc thu quang lãnh
họa bình
輕羅小扇撲流螢。 Khinh la tiểu phiến
phốc lưu huỳnh
天街夜色涼如水,
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
臥看牽牛織女星。
Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .
Chú thích :
1. Ngân Chúc : Ngân là Bạc, ở đây
là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc là đuốc. Hoa Chúc là
Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây Đèn Cầy, Cây Nến.
Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu trắng bạc.
2. Họa
Bình : là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà quyền quý
thời xưa.
3. Khinh La : Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là
Vải The. Khinh La : là loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài
" Khinh La Tiểu Phiến " : Là chiếc quạt con làm bằng lụa là
của các tiểu thơ xưa thường cầm trên tay.
4. Phốc : Là
chụp bắt.
5. Lưu Huỳnh : Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu
Tinh : là Sao xẹt. Huỳnh : là con Đom đóm.
6. Thiên Giai : Giai là
con đường. Thiên Giai : không phải là đương ở trên trời,
mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.
7. Lương Như Thủy
: là Mát như nước.
Dịch nghĩa :
Ánh sáng lung linh từ
ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho tấm bình phong
đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng phe phẩy chiếc
quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang lặp lòe
bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con đường
của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm thanh vắng
lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao Chức Nữ
và Ngưu Lang.
Diễn nôm :
Lung linh nến
trắng bình phong lạnh,
Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.
Lấp lánh sao trời trong như nước,
Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu
.
Lục bát :
Bình phong thu lạnh se se,
Quạt là nến trắng
lặp lòe đóm bay
Trời thu như nước mát thay,
Ngưu Lang
Chức Nữ đêm nay tương phùng !
Đỗ Chiêu Đức.
Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay
lượn lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ....
Rất bình dị và rất nên thơ ! . Có ai ngờ được đây
lại là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé
... Ngọn bạch
lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực
rỡ, rõ ràng là cuộc sống của nhà quyền quý vương
hầu, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường
trong Kinh thành , trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời
?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh
cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm
lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với
tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam
mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và
ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm
chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không
!. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được
vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả thanh xuân,
cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu
Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới
ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng
Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có
ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ? !
Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái " Oán
" trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị.
Phải chăng cái oán đeo đẳng miên man lâu dần nên đã
hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một sự
tự nhiên tội nghiệp ! Không như nàng cung nữ của Ôn Như Hầu
:
..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !...
Cái
oán đã lên đến cực điểm và trở thành bạo động
!
___________________________________________________
MINH THI:
ĐƯỜNG DẦN ĐƯỜNG BÁ HỔ: 1 trong Giang Nam Tứ
Tài Tử
Nói đến Minh Thi, người ta cũng không thể
không nhắc đến " Giang Nam Tứ Tài Tử " ( Bốn tài tử
ở xứ Giang Nam ) là : Đường Bá Hổ, Chúc Chi Sơn, Văn Trưng
Minh và Châu Văn Tân. Nhưng nổi tiếng phong lưu tài hoa nhất, giỏi
cả Cầm , Kỳ , Thi , Họa lại là Đường Bá Hổ. Đường
nổi tiếng với câu truyện " Tam Tiếu " ( Ba lần cười ), hay
còn gọi là " Đường Bá Hổ điểm Thu Hương "
( Đường Bá Hổ chấm cô Thu Hương ). Hôm nay chúng ta cùng
tìm hiểu về nhân vật đứng đầu " Giang Nam tứ Tài Tử
" này nhé !
唐寅 (唐伯虎).
(西元1470~1523)明代畫家、文學家,吳縣人,字伯虎,一字子畏,號六如居士、桃花庵主等。詩詞書畫無一不精,文以六朝為宗。詩初多穠麗,中年學劉禹錫、白居易,晚年縱放,不拘成格。擅畫山水,多取法南宋李唐、劉松年,兼採元人法,並工畫人物、花鳥,筆墨秀潤峭利,景物清雋生動,工筆、寫意俱佳。
與文徵明、沈周、仇英合稱明朝四大家,又與祝允明、張靈、徐禎卿四人稱為吳中四才子。有畫譜、詩文集行世,並著有六如居士全集。亦稱為唐伯虎。
ĐƯỜNG DẦN ( Đường Bá Hổ ) .
( 1470--
1523 ) là Văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ của đời Minh, người đất
Ngô Huyện, tự Bá Hổ, hiệu Lục Như Cư Sĩ, Đào Hoa Am
Chủ... Thi, Từ, Thư, Họa, môn nào cũng giỏi. Văn thì theo tôn
chỉ của thời Lục Triều. Thơ lúc đầu diễm lệ, trung niên
học theo Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, Về già phóng túng, không
câu nệ khuôn phép. Giỏi về tranh thủy mặc, sơn thủy, phần
nhiều theo bút pháp Nam Tống Lý Đường, Lưu Tòng Niên, và
theo họa pháp của người Nguyên, nhưng ông lại giỏi về vẽ
người, hoa điểu, bút pháp thanh tú sắc sảo, cảnh vật sinh
động, đẹp đẻ, lột tả được hết vẻ đẹp của
cảnh sắc....
Đường Bá Hổ cùng với Văn Trưng Minh, Thẩm
Châu, Cừu Anh hợp xưng " Minh Triều Tứ Đại Họa Gia "( 4 họa
sĩ lớn đời nhà Minh ), lại cùng với Chúc Doãn Minh ( Chi Sơn
), Trương Linh, Từ Trinh Khanh 4 người, hợp xưng là " Ngô Trung Tứ
Tài Tử ". Lưu truyền đời sau có " Họa Phổ " , "
Thi Văn Tập " , " Lục Như Cư Sĩ ( Đường Bá Hổ ) toàn
tập.
Ngoài câu truyện phong lưu với cô hầu của
Tướng Phủ là Thu Hương ra, Đường Bá Hổ còn nổi
tiếng với 11 bài thơ Đường Luật " HOA NGUYỆT NGÂM " 花月吟 mà mỗi câu đều có 2 chữ HOA và NGUYỆT vô cùng
độc đáo. Bây giờ thì chúng ta hãy làm quen với bài
thơ đầu tiên của liên khúc Hoa Nguyệt Ngâm này nhé !
花月吟內容欣賞:Thưởng ngoạn nội dung HOA NGUYỆT NGÂM.
之一 (平起七律)
Bài 1 : Luật Bằng vần Bằng.
有花無月恨茫茫,有月無花恨轉長;花美似人臨月鏡,月明如水照花香。
扶笻月下尋花步,攜酒花前帶月嘗;如此好花如此月,莫將花月作尋常。
Hữu hoa vô nguyệt hận mang
mang, Hữu nguyệt vô hoa hận chuyển trường.
Hoa mỹ tự nhân
lâm nguyệt kính, Nguyệt minh như thủy chiếu hoa hương.
Phù
cùng nguyệt hạ tầm hoa bộ, Huề tửu hoa tiền đái nguyệt
thường.
Như thử hảo hoa, như thử nguyệt, Mạc tương hoa nguyệt
tác tầm thường.!
Chú thích :
1. Nguyệt kính
: Kính là kiếng, là gương soi. Nguyệt Kính là gương soi
hình tròn như mặt trăng. Ta có
Thành ngữ : Phá Kính Trùng
Viên 破镜重圆: là Gương Vỡ Lại Lành.
2. Phù cùng
: Cùng là một loại tre trúc ngày xưa dùng để làm GẬY.
Phù Cùng là Chống gậy.
3. Huề Tửu : Huề là xách, là
dắt. Đề huề 提擕 là mang xách, dắt díu.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du
Viết về Kim Trọng như sau : Đề Huề
lưng túi gió trăng, Sau lưng theo một vài thằng con
con. Trong bài
thơ nầy Huề Tửu : là mang theo rượu, xách theo bầu rượu.
4. Thường 嘗 : Thường nầy là Nếm thử, là nhấm nhap. Phẩm
Thường 品嘗 : là nhấm nháp, nếm thử
xem hay dở cở nào, ngon hay không ngon.
5. Tầm Thường 尋常 : Thường nầy có nghĩa là Không có gì
khác lạ. Tầm thường là Bình thường,
không có gì
đặc biệt.
Dịch nghĩa :
Chỉ có hoa mà
không có trăng, thì mối hận thật mênh mông. Chỉ có trăng
mà lại không có hoa, thì mối hận lại càng dằng dặc hơn.
Hoa đẹp tựa như người đẹp đang săm soi trước đài
gương, trăng sáng trong như nước chiếu vào hoa làm cho hoa càng
ngát hương hơn. Lần từng bước khập khểnh với chiếc gậy
tre đi tìm hoa dưới ánh trăng, Mang theo bầu rượu để ngồi
trước hoa mà nhấm nháp để thưởng trăng. Ôi ! Hoa đẹp
như thế nầy, và trăng đẹp như thế kia, xin chớ xem chuyện trăng
hoa là chuyện tầm thường đấy nhé ! ( Không xem tầm thường
thì phải nhìn bằng cái nhìn đặc biệt, trân trọng, và
thi vị cho thấm đậm tình người nhé !
Diễn nôm :
Không trăng chỉ có hoa nên hận,
Trăng có
hoa không hận bội gia.
Hoa đẹp tựa người soi gương nguyệt,
Trăng trong như nước chiếu hương hoa.
Thẩn thơ dưới nguyệt
tìm hoa bước,
Túy lúy bên hoa bóng nguyệt tà.
Hoa đẹp
thế nầy, trăng thế ấy,
Xem thường hoa nguyệt tội ru mà !
Lục bát :
Có hoa lại hận không trăng,
Có trăng
thì lại bảo rằng thiếu hoa.
Hoa như trăng đẹp thướt tha,
Trăng trong như nước chiếu hoa não nùng.
Dưới trăng hoa nguyệt
trùng trùng,
Trước hoa cất chén say cùng ánh trăng.
Hoa
như rứa, nguyệt như răng,
Ai rằng hoa nguyệt lăng nhăng tầm thường
!?.
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.
.
Ảnh: Tranh của Đường Bá Hổ vẽ vào khoảng năm
1500
.
Kính mời tất cả Quý Thầy Cô, Các Bạn học,
Thân hữu cùng các em Học Sinh thân mến , ai có nhã hứng xin
cứ tự nhiên tham gia diễn nôm cho vui ! Đây chỉ mới là bài
đầu, còn 10 bài nữa lận , xin đính kèm theo bên dưới
đây với phần nguyên bản và phiên âm Hán Việt đầy
đủ để Quý vị tùy nghi sử dụng, Ai thích Hoa Nguyệt nào
thì cứ tự nhiên mà Trăng Hoa với bài đó nhé ! Một
điều cần nhớ là ráng làm sao khi diễn nôm vẫn giữ được
mỗi câu đều có chữ TRĂNG và HOA, hay HOA và NGUYỆT hoặc
BÔNG và TRĂNG gì cũng được cho nó có cái khẩu khí
của nguyên tác !
Bản
dịch MAILOC:
HOA
NGUYỆT NGÂM
Không trăng hoa tủi nỗi sầu
mong ,
Hoa vắng , mình trăng hận chất chồng .
Hoa đẹp như người soi kính nguyệt ,
Trăng
trong tựa nước tắm hương bông .
Gậy tre dưới
nguyệt tìm hoa mộng ,
Bầu rượu bên hoa ngắm nguyệt
lòng .
Hoa đẹp thế nào , trăng cũng thế ,
Chớ coi Hoa-Nguyệt rẻ như không !
.
Mailoc phỏng dịch
Cali 6-14-12
之二 (平起七律)
花香月色兩相宜,惜月憐花臥轉遲;月落慢憑花送酒,花殘還有月催詩。
隔花窺月無多影,帶月看花別樣姿;多少花前月下客,年年和月醉花枝。
Hoa hương nguyệt sắc lưỡng
tương nghi, Tích nguyệt lân hoa ngọa chuyển trì.
Nguyệt lạc
mạn bằng hoa tống tửu, Hoa tàn hoàn hữu nguyệt thôi thi.
Cách
hoa khuy nguyệt vô đa ảnh, Đái nguyệt khán hoa biệt dạng ti (
tư ).
Đa thiểu hoa tiền nguyệt hạ khách, Niên niên hòa nguyệt
tiếu hoa chi.
之三(平起七律)
月臨花徑影交加,花自芳菲月自華;愛月眠遲花尚吐,看花起早月方斜。
長空影動花迎月,深院人歸月伴花;羨卻人間花月意,撚花玩月醉流霞。
Nguyệt lâm hoa kính ảnh giao gia, Hoa
tự phương phi nguyệt tự hoa.
Ái nguyệt miên trì hoa thượng
thổ, Khán hoa khởi tảo nguyệt phương tà.
Trường không
ảnh động hoa nghinh nguyệt, Thâm viện nhân quy nguyệt bạn hoa.
Hâm
khước nhân gian hoa nguyệt ý , Niệp hoa ngoạn nguyệt túy lưu hà.
之四 (平起七律)
春宵花月值千金,愛此花香與月陰;月下花開春寂寂,花捎月轉夜沈沈。
杯邀月影臨花醉,手弄花枝對月吟;明月易虧花亦老,月中莫負賞花心。
Xuân tiêu hoa nguyệt trị
thiên kim, Ái thử hoa hương dữ nguyệt âm.
Nguyệt hạ hoa khai
xuân tịch tịch, Hoa sao nguyệt chuyển dạ trầm trầm.
Bôi yêu
nguyệt ảnh lâm hoa túy, Thủ lộng hoa chi đối nguyệt ngâm.
Minh
nguyệt dị khuy hoa diệc lão, Nguyệt trung mạc phụ thưởng hoa tâm.
之五 (平起七律)
花開爛漫月光華,月思花情共一家;月為照花來院落,花因隨月上窗紗。
十分皓色花輸月,一徑幽香月讓花;花月世間成二美,傍花賞月酒須賒。
Hoa
khai lạn mạn nguyệt quang hoa, Nguyệt tứ hoa tình cộng nhất gia.
Nguyệt
vị chiếu hoa lai viện lạc, Hoa nhân tùy nguyệt thượng song sa.
Thập
phân hạo sắc hoa du nguyệt, Nhất kính u hương nguyệt nhượng
hoa.
Hoa nguyệt thế gian thành nhị mỹ, Bàng hoa thưởng nguyệt
tửu tu xa.
之六 (平起七律)
一庭花月正春宵,花氣芬芳月正饒;風動花枝探月影,天開月鏡照花妖。
月中漫擊催花鼓,花下輕傳弄月簫;只恐月沈花落後,月台花榭兩蕭條。
Nhất đình hoa nguyệt chánh
xuân tiêu, Hoa khí phân phương nguyệt chánh nhiêu.
Phong động
hoa chi thám nguyệt ảnh, Thiên khai nguyệt kính chiếu hoa yêu.
Nguyệt
trung mạn kích thôi hoa cổ, Hoa hạ khinh truyền lộng nguyệt tiêu.
Chỉ khủng nguyệt trầm hoa lạc hậu, Nguyệt đài hoa tạ lưỡng
tiêu điều.!
之七
(平起七律)
高台明月照花枝,對月看花有所思;今夜月圓花好處,去年花病月虧時。
飲杯酬月澆花酒,做首評花問月詩;沈醉欲眠花月下,只愁花月笑人痴。
Cao đài minh nguyệt chiếu hoa chi, Đối
nguyệt khán hoa hữu sở ti ( tư ).
Kim dạ nguyệt viên hoa hảo xứ,
Khứ niên hoa bệnh nguyệt khuy thì.
Ẩm bôi thù nguyệt kiêu
hoa tửu, Tố thủ bình hoa vấn nguyệt thi.
Trầm túy dục miên
hoa nguyệt hạ, Chỉ sầu hoa nguyệt tiếu nhân si.!
之八 (仄起七律)
花發千枝月一輪,天將花月付閒身;或為月主為花主,才做花賓又月賓。
月下花曾留我酌,花前月不厭人貧;好花好月知多少,弄月吟花有幾人。
Hoa phát thiên chi nguyệt nhất luân,
Thiên tương hoa nguyệt phó nhàn thân.
Hoặc vi nguyệt chủ
vi hoa chủ, Tài tố hoa tân hựu nguyệt tân.
Nguyệt hạ hoa tằng
lưu ngã chước, Hoa tiền nguyệt bất yếm nhân bần.
Hảo
hoa hảo nguyệt tri đa thiểu, Lộng nguyệt ngâm hoa hữu kỷ nhân !?
之九 (仄起七律)
月轉東牆花影重,花迎月魄若為容;多情月照花間露,解語花搖月下風。
雲破月窺花好處,夜深花睡月明中;人生幾度花和月,月色花香處處同。
Nguyệt chuyển đông tường hoa
ảnh trùng, Hoa nghinh nguyệt phách nhược vi dung.
Đa tình nguyệt
chiếu hoa gian lộ, Giải ngữ hoa diêu nguyệt hạ phong.
Vân phá
nguyệt khuy hoa hảo xứ, Dạ thâm hoa thụy nguyệt minh trung.
Nhân sanh
kỷ độ hoa hòa nguyệt, Nguyệt sắc hoa hương xứ xứ đồng.
之十 (仄起七律)
花正開時月正明,花如羅綺月如銀;溶溶月裡花千朵,燦燦花前月一輪。
月下幾般花意思,花間多少月精神;待看月落花殘夜,愁殺尋花問月人
。
Hoa chánh khai thời nguyệt chánh minh, Hoa như la ỷ nguyệt như
ngân.
Dung dung nguyệt lý hoa thiên đóa, Xán xán hoa tiền nguyệt
nhất luân.
Nguyệt hạ kỷ ban hoa ý tứ , Hoa gian đa thiểu nguyệt
tinh thần.
Đãi khan nguyệt lạc hoa tàn dạ, Sầu sát tầm
hoa vấn nguyệt nhân. !
之十一 (平起七律)
春花秋月兩相宜,月競光華花競姿;花發月中香滿樹,月籠花外影交枝。
梅花月落江南夢,桂月花傳郢北詞;花卻何情月何意,我隨花月汛金巵
。
Xuân hoa thu nguyệt lưỡng tương nghi, Nguyệt
cạnh quang hoa, hoa cạnh ti ( Tư ).
Hoa phát nguyệt trung hương mãn thọ,
Nguyệt lung hoa ngoại ảnh giao chi.
Mai hoa nguyệt lạc giang nam mộng, Quế
nguyệt hoa truyền sính bắc từ.
Hoa khước hà tình nguyệt
hà ý ? Ngã tùy hoa nguyệt phiếm kim chi.
_________________________________________________________________________
MINH THI : Thơ đời
Minh.
Đỗ
Chiêu Đức
(với Góp ý của Danh Hữu và bản dịch của
Chân Diện Mục, Mailoc, Phạm Khắc Trí, Trầm Vân, Nguyên Nhung, Song
Quang, Kim Quang)
Hễ nhắc đến THƠ TỪ trong Văn học Cổ, là người
ta nghĩ ngay đến ĐƯỜNG THI, TỐNG TỪ. Hổm rày chúng ta cũng
cứ xoay quanh thơ đời Đường, Đời Tống ( đặc biệt chỉ
nhắc đến Thi và Từ của Tô Đông Pha đời Tống mà
thôi ). Đâu biết rằng sau Đường Tống, Nguyên Minh và Thanh
thơ cũng rất hay, không thua gì thơ đời Đường.
Hôm nay xin giới thiệu
cùng Quý Thầy Cô, Các Bạn hữu, Các Em học sinh một Tác
giả tiêu biểu cho làn thơ hay của đời Nhà Minh, đó là
thi nhân :
高啟
高啟(1336—1374),字季迪,號青丘子,長洲縣(今蘇州市)人,元末明初詩人。高啟出身富家,童年時父母雙亡,生性警敏,讀書過目成誦,久而不忘,尤精曆史,嗜好詩歌,與張羽、徐賁、宋克、王行等十人經常在一起切磋詩文,人稱“北郭十才子”。同時,他還與楊基、張羽、徐賁被譽為“吳中四傑”,也稱作“明初四傑”。雖然同為“十才子”,雖然並列“四傑”,但高啟的文學成就要遠遠超過其他人。
CAO KHẢI (1336-1374 ), tự là Quý Địch, hiệu là Thanh Khâu Tử,
người huyện Trường Châu ( Nay là TP Tô Châu ), là thi nhân
cuối đời nhà Nguyên đầu nhà Minh . Cao Khải xuất thân trong
gia đình phú quý, từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ,
nên tánh tình nhạy bén cảnh giác. Thông minh nên hễ đọc
qua là nhớ rất dai, giỏi về Lịch sử, thích Thi ca, cùng với
Trương Vũ, Từ Bôn, Tống Khắc, Vương Hành... 10 người cùng
nghiên cứu thơ văn, người đời xưng tụng là " Bắc
Quách Thập Tài Tử ". Đồng thời, ông cùng với Dương
Cơ, Trương Vũ, Từ Bôn được xưng tụng là " Ngô
Trung Tứ Kiệt ", và cũng là " Minh Sơ Tứ Kiệt ". Mặc
dù cùng được xưng tụng là Thập Tài Tử, Tứ Kiệt,
nhưng tài hoa và thành tựu văn học của Cao Khải vượt xa
hơn những người kia.
Sau vì ông không hợp tác, không nể mặt, và nhiều
lần dùng văn chương để chỉ trích , châm biếm Minh Thái
Tổ là Chu Nguyên Chương, ông vua nổi tiếng là " Đồ Tể
" chuyên giết hại công thần, nên bị xử yêu trảm ( chém
ngang hông ) làm 8 khúc, chết thê thảm ở tuổi 39.
* Bổ sung lý do bị YÊU TRẢM :
Cao Khải (1336-1374), người Tô Châu, được xem là một nhà
thơ lớn nhất đời Minh. Cuối đời Nguyên, ông ở ẩn bên
dòng sông Ngô Tùng. Đầu đời Minh, năm Hồng Vũ thứ hai,
được tiến cử biên soạn bộ Minh sử, ông đành miễn
cưỡng vào kinh. Năm sau Chu Nguyên Chương ban cho ông chức quan cao là
Hữu thị lang bộ Hộ, song ông nhất quyết từ chối, chỉ một
mực xin được về quê, nên nhà vua giận lắm.
Sau, Tri phủ Tô Châu
là Ngụy Quan xây dựng phủ đường trên nền cung điện của
Trương Sĩ Thành, bị Nguyên Chương xử chém ngang lưng vì
cho thế là phạm tội đại nghịch. Khi tra xét án, biết được
lúc dựng phủ đường này, Cao Khải có làm một bài
văn trong đó có bốn chữ “hổ cứ long bàn” (hổ ngồi
rồng nằm), Chu Nguyên Chương tức giận vì cho thế là Cao Khải
đã xui Ngụy Quan chống lại mình. Cái giận cũ chưa nguôi
nay lại thêm cái giận mới, cho nên Nguyên Chương ra lệnh chém
Cao Khải ngang lưng giữa thành phố Nam Kinh, rồi còn sai xẻ thây làm
8 mảnh. Ngoài Cao Khải, các văn nhân rất nổi tiếng khác như
Đới Lương, Trương Mạnh Kiêm cũng vì thơ văn phạm húy
mà bị giết.........
Cao Khải
được người đời biết đến nhiều qua 9 bài vịnh Mai
Hoa của ông ( Mai hoa cửu thủ 梅花九首 ), nổi tiếng nhất là những câu như :
雪满山中高士卧, Tuyết mãn sơn trung cao sĩ ngọa,
月明林下美人来。 Nguyệt minh lâm hạ mỹ
nhân lai.
Tạm
dịch : Tuyết phủ núi xanh cao sĩ ngắm, Trăng soi rừng vắng mỹ nhân
về.
...................
翠袖佳人依竹下, Thúy tụ giai nhân y trúc
hạ,
白衣宰相在山中。 Bạch y Tể tướng tại
sơn trung.
Tạm
dịch : Giai nhân áo biếc nương cành trúc,
Tể Tướng
bạch y ẩn núi xanh.
....................
春愁寂寞天应老, Xuân sầu
tịch mịch thiên ưng lão,
夜色朦胧月亦香。 Dạ sắc mông lung nguyệt
diệc hương.
Tạm
dịch : Tịch mịch xuân sầu trời cũng lão,
Mơ màng đêm
vắng nguyệt càng hương.
..........................
Hôm nay, chỉ xin trình làng một bài Thất ngôn
tứ tuyệt rất cao nhã, siêu thoát, mang chút " hơi hám "
Thiền của ông để chúng ta cùng nghiên cứu, thưởng lãm.
Đó là bài....
山中别友 SƠN TRUNG BIỆT HỮ
( 山中别寜公歸西塢 ) ( Sơn trung biệt Ninh Công
qui Tây Ô )
一 上 香 台 看 落 暉, Nhất thướng hương
đài khán lạc huy,
沙 村 孤 树 晚 依 依. Sa thôn cô thọ vãn y y .
老 僧 不 出 青 山 寺, Lão tăng bất xuất
thanh sơn tự,
祗 有 锺 聲 送 客 歸. Chỉ hữu chung thinh tống
khách quy.
Lên
đến tận hương đài ( cái đài xây dùng để
thắp hương ) để nhìn ánh nắng chiều đang rơi rụng, xa
xa trên xóm cát in hình bóng ngã dài của một tàn cây
cô độc trong cảnh hoàng hôn như còn lưu luyến với ánh
nắng chiều. Nhà sư già ( chắc đang nhập định trầm tư
) không ra khỏi cửa chùa trên núi xanh nửa bước, chỉ có
tiếng chuông chùa văng vẳng ngân nga trong khoảng không vắng lặng
để đưa tiễn khách đi về mà thôi !
Chú thích :
1. Chữ NHẤT 一 là Một, chỉ số đếm và số thứ tự. Ở trong bài
nó là Phó từ ở đầu câu, dùng để nhấn mạnh
Động từ đi theo sau nó, có nghĩa là HỄ, CỨ, là MỘT
CÁI .... Vd :
Nhất
khứ bất phục phản 一去不复返 : HỄ đi rồi là không
trở lại nữa. Đi MỘT CÁI là không về nữa.
Nhất kiến chung tình 一见钟情 : HỄ gặp là thương liền. Gặp MỘT CÁI là
thương liền. Câu nầy có nghĩa như là " Tiếng sét á
tình " của ta vậy.
2. Chữ HUY 暉 là Ánh nắng, có
bộ NHẬT là Mặt trời một bên. Vd : Tà Huy là nắng xế chiều.
輝 là Sáng sủa, có bộ Quang là
sáng ở một bên. Vd; Huy hoàng là Sáng rực rỡ. 揮 là Quơ tay, khoát tay, có bộ Thủ là Tay một bên,
Vd : Chỉ huy là giơ tay ra lệnh.
3 Chữ Y 依 là Dựa dẵm vào
ai đó, có bộ Nhơn là Người ở một bên, Vd : Y kháo
依靠 là Nương tựa. Ở trong bài
thơ Y Y 依依 là Hình dung từ chỉ Quyến luyến
không nở rời xa, trong bài thơ là : Vãn Y Y : Có nghĩa bóng
chiều còn lưu luyến chưa tắt hẵn.
Chữ Y 衣 không
có bộ Nhơn, Y là Y phục ; là Quần áo. Vd; Y cẩm hồi hương
là Áo gấm về làng.
4. Chữ THINH 聲 là Tiếng, ta thường
đọc trại thành THANH. Vd; Thay vì ÂM THINH ta lại đọc thành ÂM
THANH. Trong bài Chung thinh là Tiếng chuông.
Diễn nôm :
Lên tận hương đài ngắm tịch dương,
Cây trơ xóm vắng
nắng vương vương.
Sư ông nhập định không rời núi,
Vẳng tiếng chuông đưa khách
dặm trường !
Lục
bát :
Nắng
chiều lên tận hương đài,
Xóm xa bóng ngã cho dài hoàng hôn.
Sư ông nhập định
thả hồn,
Ngân
nga chuông tiễn khách dồn bước chân.
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.
Kính mời Quý vị
Thầy Cô, Thân hữu và các em học sinh, ai có nhã hứng thì
cùng diễn nôm cho vui nhà, vui cửa, vui ... trường, như những ngày
tháng năm xưa khi còn đi học....
DANH HỮU góp ý:
Bạn Chiêu Đức và các bạn quí mến,
Đọc câu hỏi của
bạn Chiêu Đức là tại sao người ta chỉ nói đến thơ
đời nhà Đường mà ít nói đến thơ của các
thời khác ở bên Tầu như Tống Nguyên Minh Thanh dù ở những
thời này cũng có những bài thơ hay (như thơ Tô Đông
Pha). Tôi nghĩ cái gì nó cũng có cái lý của nó, các
thời kỳ nhà Đường (Sơ Đường, Thịnh Đường, Vãn
Đường) thì ngoài vụ An Lộc Sơn ra, tương đối là
những thời kì ổn định, các vua Tầu ở những thời kì
dó lại thích và chuộng các nhà thơ, do đó thơ dễ
nảy mầm và nở rộ, chỉ cần có một tập thơ sáng giá
là có thể được mời ra làm quan rồi. Tuy vậy, số thơ
người ta thu thập lại được đến bây giờ của đời
nhà Đường cũng chỉ còn có trên nghìn bài, bằng số
lượng thơ của chỉ riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm bên ta. Trước
đây, các nhà nghiên cứu cổ thi của Tầu tìm mãi không
ra một ngôn ngữ nào ở bên ấy ngày nay tương đương
với ngôn ngữ đời Đường để mà có thể đọc
đúng được những âm vận của những bài thơ còn
lưu lại đó, bây giờ thì lại càng không thể vì tiếng
Quan thoại quá ít ỏi về âm vận (chưa bằng ¼ số âm
vận tiếng ta), có thấy như vậy mới hiểu được tại sao
cho tới tận ngày nay, chúng ta vẫn còn thích thơ Đường,
vì thơ Đường đọc theo tiếng ta (Hán Việt) thì họa hoằn
lắm mới có một tiếng đọc không trơn, kì dư đều
đọc trót lọt, êm như đọc tiếng mẹ đẻ. Bên Tầu
các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh (ngoài thời Nguyên Thanh vì vua Nguyên
là người Mông Cổ, vua Thanh là người Mãn châu ngoại nhập)
người Tầu làm thơ rất khó khăn, vì họ muốn giữ lại
khối thơ đời Đường như là của riêng họ, nên họ
bắt buộc các thi gia khi làm thơ phải dùng đúng những âm
vận như các bài thơ đời Đường còn lưu lại, họ
đã soạn ra những cuốn Thi vận học như là cuốn “Thi Vận
Tập Thành” sắp xếp lại toàn bộ những vần phải đi
với nhau, tổng cộng là mười lăm vận bộ, ai làm thơ cũng
phải thuộc lòng các bộ ấy để gieo vận (mà những vận
bộ ấy đọc lên theo tiếng nói địa phương của họ
nhiều khi lại không vần hoặc có khi còn đối lập với nhau),
nếu không thì thơ hay mấy cũng bị đánh hỏng mà những
vận đó không phải lúc nào cũng đọc thuận với nhau
như tiếng địa phương của họ (vì Tầu có tới hàng
trăm ngôn ngữ địa phương). Có xét tới những điểm
này ta mới thấy sở dĩ sau đời Đường, thơ của Tầu
không còn hay nữa, vì khi làm thơ họ phải cố gò câu thơ
mà không thể xuất khẩu thành thơ thoải mái như người
bên ta. Bây giờ người Tầu đọc thơ Đường bằng tiếng
Quan thoại, tuy đọc ra tiếng nhưng cũng khó thưởng thức được
về mặt thi nhạc, còn về nghĩa chữ, tức nội dung của bài
thơ, thì ta cứ đọc những bài họ đã dịch ra tiếng ngoại
quốc sẽ thấy là không phải bài nào họ cũng hiểu đúng
(so với cách hiểu ở tiếng ta). Nguyễn Du khi đi sứ sang Tầu, dọc
đường ông đi đến đâu làm thơ vịnh nhân vật
đến đấy, định bụng sẽ đem đến trình diễn tại
thủ đô Bắc Kinh, nào ngờ khi đến nơi đưa ra, ai đọc
cũng lắc đầu chẳng hiểu ông định nói gì trong đó
làm ông phải than là người Tầu thời nay không còn ai biết
đến cái học Khổng Mạnh nữa, ông đâu có biết người
Tầu thời ông là người đến từ đất Mãn châu, họ
dùng tiếng Quan thoại chứ không phải tiếng Trung Nguyên.
Vài hàng bàn phiếm
vào ngày cuối tuần.
Danh Hữu
Paris,
sáng 03/5/2012
.
Bản
dịch CHÂN DIỆN MỤC:
Thơ
đời Minh.
Leo mỏi
đài cao dưới nắng tà
Cuối thôn cây lẻ bóng chiều sa
Sư già chẳng khứng rời non biếc
Chỉ tiếng chuông buồn
tiễn bạn ta
C.D.M.
.
Bản dịch MAILỌC:
.
SƠN
TRUNG BIỆT HỮ
Hương đài
nhẹ bước ngắm tà dương ,
Thôn vắng, tàn cây nắng luyến thương .
Nhập thất sư ông, chùa núi biếc ,
Chuông ngân tiễn khách lặng lên đường .
Mailoc phỏng dịch
Cali 6-01-12
Hương đài nhẹ bước
hoàng hôn ngắm ,
Thôn xa cây
lặng, nắng vươn dài .
Sư
ông nhập định nào hay ,
Chuông
ngân tiễn khách trần ai mơ-màng .
Mailoc
.
Bản dịch PHẠM
KHẮC TRÍ
Sơn Trung Biệt Hữu
PKT 06/05/2012 Một
đến đài hương ngắm nắng tà ,
Xóm cây hiu quạnh,
bóng chiều sa.
Sư già, chùa vắng, tiễn không được ,
Đành mượn chuông đưa khách lại nhà.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
.
Bản
dịch TRẦM VÂN
Lên hương đài ngắm tịch dương
Xóm cây hiu quanh hoàng hôn lặng buồn
Sư già chẳng
muốn rời non
Mượn câu kinh, mượn tiếng chuông tiễn
người
Trầm Vân
.
Bản phỏng dịch NGUYÊN
NHUNG
Đài nghiêng bóng xế chân đã mỏi
Nắng chiều thoi thóp ngọn cây xa
Thiền môn sư tuổi đời đã cỗi
Mượn tiếng chuông chùa tiễn bạn thôi!
Nguyên Nhung
.
Bản
phỏng dịch SONG QUANG
Hương
đài lặng ngắm ánh chiều rơi !
Bóng ngã thôn xa nắng khuất đồi
Sư cụ ngồi
thiền không xuống núi
Chuông chùa vẳng vọng tiển chân người .
SONG QUANG
.
Bản dịch KIM
QUANG
Hương đài
nhẹ rớt nắng chiều
Bóng cây nghiêng ngã dặt dìu hoàng
hôn
Thiền sư tĩnh lặng phiêu hồn
Hồi chuông tiễn khách
dập dồn vang xa
Kim Quang
_________________________________________________________________
蘇 小 妹 三 難 新 郎
TÔ TIỂU MUỘI TAM NAN TÂN LANG
( Tô Tiểu Muội ba lần làm khó chàng rể
)
Tô Tiểu
Muội tuy mang tiếng là xấu gái, nhưng văn tài thì vang vội khắp
nơi. Rất nhiều vương tôn công tử ngắm nghé cầu hôn.
Tô Tiểu Muội có định lệ là hễ ai muốn cầu hôn thì
phải nạp văn bài của mình cho nàng xem trước.
Lúc bấy
giờ, có một thư sinh họ Tần tên Thiếu Du, cũng thuộc gia đình
thế phiệt trâm anh, cũng nổi tiếng văn hay chữ tốt. Thiếu Du cũng
định nộp bài của mình cho Tiểu Muội, nhưng nghe đồn nàng
ta trán vồ, mặt dài, nên còn do dự.
Một hôm, dọ biết
tin là Tô Tiểu Muội sẽ đi lễ chùa vào ngày rằm sắp
tới. Thiếu Du bèn quyết định cải trang thành một đạo sĩ,
để tận mắt xem nàng ta xấu đẹp ra sao.
Hôm
đó, đứng xa xa nhìn thấy Tiểu Muội từ trên kiệu bước
xuống, dáng người yểu điệu thướt tha, tuy trán có hơi
vồ, mặt có hơi dài, nhưng rất thanh tú, tuy không gọi được
là giai nhân, nhưng cũng diễm lệ, tươi trẻ,thanh thoát khác
thường. Nhan sắc thì cho qua rồi, còn văn tài thì sao ?. Phải
đích thân thử một chuyến mới được.
Quyết
định xong, chàng bèn đợi khi Tiểu Muội vừa lễ Phật xong
bước ra, thì chàng cũng bất thần bước tới, những người
tùy tùng chưa kịp cản ngăn, thì chàng đã chấp tay xá
dài, miệng thì đọc :
" Tiểu thư hữu phúc
hữu thọ, nguyện phát từ bi "
小 姐 有 福 有 壽 , 愿 发 慈 悲 。
Tô Tiểu Muội nhìn thấy một ông đạo sĩ non choẹt,
da mặt hồng hào, không có vẻ khắc khổ của một nhà tu
hành gì cả, thì biết ngay là có ý trêu mình, bèn
đáp :
" Đạo nhân hà đức hà
năng, cảm cầu bố thí "
道 人 何 德 何 能,敢 求 布 施。
Câu của Thiếu Du là
: Tiểu thơ ơi, cô có phước có thọ, mong cô mở lòng
từ bi.
Câu của Tiểu Muội là : Ông đạo có tài gì,
đức gì, mà dám xin tôi bố thí.
Đáp xong, Tiểu Muội bước xuống bậc tam cấp. Thiếu
Du bước theo đọc tiếp :
" Nguyện tiểu thư thân
như dược thọ, bách bệnh bất sinh, "
愿 小 姐 身 如 药 树, 百 病 不 生 。
Nghĩa là : Mong rằng tiẻu
thơ mình như cây thuốc, không bệnh hoạn gì cả.( một trăm
bệnh cũng không ). nói nịnh tiẻu thơ một câu...
Tô
Tiểu Muội bèn đáp :
" Tùy đạo nhân khẩu
xuất liên hoa, bán văn bất xả."
随 道 人 口 出 莲 花, 半 文 不 捨 。
Nghĩa là : Cho dù đạo
nhân có nói ra được bông sen, thì nửa đồng điếu
cũng không cho nữa. Khỏi măc công phải nói nhiều.
Đáp xong bèn đi ra kiệu, Thiêu Du vội vàng bước
theo vớt cú chót :
"
Tiểu nương tử nhất thiên hoan hỉ, như hà triệt thủ bảo
sơn ?"
小 娘 子 一 天 欢 喜, 如 何 撤 手 宝 山 。
Nghĩa là : Này cái
nàng nho nhỏ kia ơi, hôm nay được một ngày vui vẻ, sao lại
nở giữ chặc hầu bao thế kia ?. Triệt thủ là giữ chặc tay. Bảo
sơn là núi châu báo, ở đây chỉ túi tiền.
Tô Tiểu Muội vừa bước lên kiệu vừa mắng vọng
xuống :
" Phong đạo nhân nhậm
địa tham si, na đắc tùy thân kim huyệt."
疯 道 人 恁 地 贪 痴, 哪 得 随 身 金 穴。
Nghĩa là ; Ông đạo
nhân khùng kia, ông còn tham sân si như thế, thi làm sao mà thành
chánh quả cho được.( kim huyệt là huyệt vàng nơi để
chôn những người đắc đạo ).
Tần Thiếu Du đứng nhìn theo sau kiệu, cởi áo mão
đạo sĩ đưa cho tiểu đồng đứng bên cạnh, cười
rằng : " Phong đạo nhân " mà đối được với "
Tiểu nương tử " thì cũng vinh hạnh lắm thay.!
Sau khi đã biết được tài sắc của Tô Tiểu
Muội, Tần Thiếu Du quyết định nộp quyển văn bài của mình
cho nhà họ Tô để cầu hôn. Khoa thi năm đó, chàng lại
đậu Tiến sĩ, và Tô Tiểu Muội cũng chọn đúng quyển
văn bài của chàng, mặc dù khi đưa các quyển văn bài
cho con gái, Tô Lão đều gỡ đi trang bìa có tên họ của
người cầu hôn. Đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa, chàng
Thiếu Du nhà ta phen nầy sướng nhé.
Không nói
chuyện đám cưới rình rang của hai danh gia thế tộc, chỉ kể
sau khi khách khứa đã ra về cả rồi. Tân lang Thiếu Du hơi men
chếnh choáng, hí hửng đi về phía tân phòng.
Trước
phòng đã có 2 cô thị nữ xinh xắn chặn lại, một cô
rót 1 ly nước, còn cô kia xòe ra 3 bao thơ đỏ thưa rằng :
" Tiểu thư có 3 đề mục cho tân quan nhân, nếu đều đáp
được, tiểu thư sẽ đích thân rót rượu mời vào
phòng hoa chúc, còn như không đáp được thì hãy uống
ly nước nầy và ở bên ngoài đọc sách thêm 3 tháng.
".
Sau giây phút sửng sờ, Thiếu Du bỗng cả
cười mà rằng : " Đề thi của Thiên Tử ta còn làm được,
huống chi là 3 đề mục nhỏ nầy ! ". Nói xong, bèn mở đề
mục thứ nhất, thấy có 4 câu thơ sau :
Cường gia thắng tổ hữu thi vi, 强 爷 胜 祖 有 施 为
Tạc bích thâu quang dạ độc
thư 凿 壁 偸 光 夜 读 书
Phùng tuyến lộ trung thường
ức mẫu 缝 线 路 中 常 忆 母
Lão ông chung nhật ỷ
môn lư. 老 翁 终 日 倚 门 芦
Bên dưới có ghi là : đoán tên của 4 nhân vật
nổi tiếng trong lịch sử. Thiêu Du mĩm cười , ghi lên giấy hoa tiên
4 nhân vật sau đây :
1. Cường gia thắng tổ, giỏi hơn ông
nội, ông cố mà làm nên sự nghiệp, đó là : Tôn Quyền.(
Tôn là họ Tôn, nhưng cũng có nghĩa là cháu, đố mẹo
).
2. Tạc bích thâu quang là đục vách để lấy ánh
sáng để học ban đêm, ta tưởng đâu là Khuông Hoành
( 匡 衡), nhưng không phải, Thiếu
Du đã đoán đúng, đó là Khổng Minh ( Khổng là cái
lổ, Minh là sáng.Đục vách nên có cái lổ sáng, lại
mẹo ).
3. Phùng tuyến... trông đường chỉ may vá thường
nhớ đến mẹ, đó là ông Tử Tư, chớ không phải Tử
Lộ( Tử Lộ mới có hiếu với mẹ, nhưng vì là đố
mẹo, nên lấy nghĩa chữ của cái tên,. Tử là con, Tư là
nhớ, là con nhớ mẹ )
4. Lão ông... Ông già tối ngày đứng
dựa cửa là Khương tử Nha, vì Khương Từ Nha có hiệu
là Lã Ông Vọng, thường gọi tắt là Lã Vọng.
Đáp án được đưa vào buồng
cho tiểu thơ xem, bỗng cửa phòng xịt mở, một nữ tỳ bưng ra
một chung cúc tửu thưởng công, Thiếu Du đắc ý, bưng ly rượu
uống ngay và mở đề thi thứ hai, cũng lại là 4 câu thơ, nhưng
lần nầy là thơ ngũ ngôn :
Đồng thiết
đầu công dã 铜 铁 投 汞 冶
Lâu nghị thượng phấn
tường 蝼 蚁 上 粉 墙
Âm dương vô nhị
lý 阴 阳 无 二 理
Thiên địa ngã trung
ương 天 地 我 中 央
Câu 1 : Đồng sắt bỏ
vô lò nung chảy là chữ HÓA ( 化 ).
Câu 2 : Kiến mối bò lên tường vôi, nghĩa là chữ DUYÊN
( 缘).
Câu 3 : Âm dương không có
2lẽ, chỉ tập trung về một mối là ĐẠO ( 道).
Câu 4 : Ở giữa trời đất là người, là
chữ NHÂN.( 人).
Như vậy, 4 câu
là 4 chữ HÓA DUYÊN ĐẠO NHÂN, là ông đạo sỉ đi
hóa duyên. Thì ra, khi làm lễ thành thân bái đường, Tô
Tiểu Muội lén liếc trộm lang quân của mình xem tướng mạo
ra sao. Nàng mới giật mình nhận ra rằng, đây chính là cái
anh chàng giả làm đạo sĩ để ghẹo mình hôm nọ, vì
thế mới có cái đề thi nầy. Thiếu Du cười thầm trong bụng,
ai thì chẳng biết chớ ta há lại không biết đây là 4 chữ
" Hóa duyên đạo nhân " hay sao ?.Bèn cất bút viết 4 câu
thơ sau :
HÓA công hà ý bả
xuân thôi, 化 工 何 意 把 春 催
DUYÊN đáo danh môn
hoa tự khai 缘 到 名 门 花 自 开
ĐẠO thị xuân phong chơn
hữu chủ 道 是 春 风 真 有 主
NHÂN nhân bất cảm thượng hoa đài.
人 人 不 敢 上 花 台
Diễn nôm tạm :
HÓA
công giục giả xuân sang,
DUYÊN lành đưa đến, hoa càng
xinh tưoi,
ĐẠO rằng hoa đã có nơi,
NHÂN còn ai dám
lôi thôi lên đài.
Bài thơ được thị nữ trịnh trọng
đưa vào phòng, và một lần nữa một chung cúc tửu lại
được trịnh trọng đưa ra cho chàng tân lang tài hoa. Thiếu
Du vô cùng đắc ý, vội mở ngay phong bì thứ 3, Ồ, dễ quá,
chỉ vỏn vẹn có một vế đối như sau :
Bế môn thôi xuất song tiền nguyệt
闭 门 推 出 窗 前 月
Có nghĩa : Đóng cửa lại để đẩy ánh trăng
ra ngoài cửa sổ.
Mới đọc, thì thấy rất
dễ, nhưng muốn tìm ý, tìm chữ đối cho chỉnh cho hay, thì
thật không dễ tí nào. Nếu đối câu tầm thường quá,
thì không chứng tỏ được tài năng của mình, nhưng trong
một lúc làm sao tìm đươc vế đối cho hay đây. Chàng
bèn đi tới đi lui trong hoa viên để tìm ý....
Lai
nói đến Tô Đông Pha, sau tiệc cưới về phòng cũng không
ngũ được, bèn ra vườn hoa đi dạo, đồng thời cũng muốn
xem xem cặp tân nhân đêm nay ra sao, ông cũng biết tánh của em
mình, chắc không để yên cho chàng rễ mới đâu. Quả
như dự kiến, khi đến hoa viên, ông thấy Thiếu Du đi tới đi
lui, giơ tay lên làm điệu bộ như đang đẩy cửa, miệng thì
đọc câu : " Bế môn thôi xuất song tiền nguyệt " Ông đoán
là câu đối của em mình đang làm khó Thiếu Du, bèn nghĩ
cách để giúp chàng. Bỗng thấy Thiếu Du dừng lại bên miệng
giếng trầm tư, ông chợt nảy ra một ý hay, nhưng không tiện
nói cho Thiêu Du biết, bèn nhặt một hòn đá ném xuống
mặt giếng ngay trước mặt Thiêu Du. Mặt nước vỡ toang làm
Thiếu Du giật nẩy mình và cũng chợt tĩnh ngộ.
Chàng
bước ngay về phòng và viết ngay câu đối lại :
Đầu thạch xung khai tĩnh để thiên.
投 石 冲 开 井 底 天
Có nghĩa :
Ném cục
đá xuống làm vỡ ra mảnh trời dưới đáy giếng.
Câu đối hay quá, vừa đưa vào phòng,
cửa phòng bèn mở toang, Tô Tiểu Muội e lệ bưng ra ba chung cúc
tửu để mời chàng tân lang tài hoa vao phòng hợp cẩn giao bôi.
Truyện 2 ANH EM đến đây là hết .....
Đỗ Chiêu
Đức
_____________________________________________________
THƠ ĐƯỜNG 6 CHỮ.
* Đỗ Chiêu Đức:
Giới thiệu Quy Sơn Tác của Cố Huống
*NỐI ĐIÊU: PKT, C.D.M,
Danh Hữu, Mailộc
___________________________________________
Thường thì nhắc
tới Đường Thi, người ta chỉ nghĩ đến thơ 5 chữ và
7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát
cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn Tứ tuyệt, Thất ngôn bát
cú, mà ít ai biết đến Lục ngôn thi, tức là Thơ 6 chữ.
Kỳ nầy, xin trình làng một bài thơ Đường 6 chữ của
thi sĩ Cố Huống, người đã có bài thơ nổi tiếng khi
vịnh Giai thoại Điển tích LÁ THẮM của chàng thư sinh Vu Hựu
và Cung nhân Hàn Thị như sau :
Hoa lạc thâm
cung oanh diệc bi, 花落深宫鶯亦悲
Thượng Dương cung nữ
đoạn trường thì. 上陽宫女斷腸時
Quân ân bất bế đông
lưu thủy, 君恩不閉東流水
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy
? 枼上題詩寄與誰?
Tạm diễn nôm như sau :
Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,
Thượng Dương cung nữ
quặn lòng đau.
Ơn Vua chẳng bế dòng lưu thủy,
Trên lá
đề thơ gởi đến đâu ?
Bây giờ
thì xin cùng thưởng thức và cùng kính mời tất cả Quý
thầy cô, các bạn đồng môn, các em học sinh, chúng ta cùng
tìm hiểu và dịch bài thơ đặc biệt này nhé !
歸山作
QUY SƠN TÁC
心事數莖白髮, Tâm sự
sổ kinh bạch phát
生涯一片青山。
Sanh nhai nhất phiến thanh sơn
空林有雪相待, Không lâm hữu tuyết tương đãi
古道無人獨還。 Cổ
đạo vô nhân độc hoàn
桃紅復含宿雨, Đào
hồng phục hàm túc vũ
柳綠更帶朝煙. Liễu
lục cánh đái triêu yên
花落家童未掃, Hoa
lạc gia đồng vị tảo
鳥啼山客猶眠 .
Điểu đề sơn khách do miên.
顧 况 Cố
Huống.
SÁNG TÁC KHI VỀ NÚI Ở ẨN,
Tâm sự tịch
liêu của tuổi già, chỉ còn biết tỉ tê cùng vài sợi
tóc bạc lưa thưa mà thôi. Sinh nhai ư ?. Ừ, thì cứ sống
nhờ vào cỏ hoa cây trái của một dãy núi xanh xanh kia. Trong cảnh
núi rừng vắng lặng nầy, ta chỉ còn bầu bạn với tuyết trắng
mà thôi. Mỗi ngày trên con đường xưa lối cũ nầy, ta
chỉ đi về với một thân một bóng. Mỗi chiều chiều ngắm
hoa hồng còn long lanh với những hạt mưa xuân, và mỗi buổi sáng
hàng liễu xanh chập chờn ẩn hiện trong làn hơi sương sớm.
Hoa rụng đầy thềm đầy đất, gia đồng còn chưa kịp
quét đi. Tiếng chim líu lo của buổi ban mai cũng không đánh thức
được người khách núi nhàn nhã còn đang mơ màng
giấc điệp.
Diễn nôm :
Tâm sự : Lơ
thơ tóc bạc,
Núi xanh một dãi : Sinh nhai !
Rừng vắng bạn
bầu cùng tuyết
Đường xưa vắng vẻ không ai ,
Hoa đào
hồng vì mưa tối
Sương sớm đưa cành liễu bay
Hoa rụng
gia đồng chưa quét,
Chim ca khách núi còn say !
Lục bát :
Lơ thơ tóc trắng não nùng,
Sinh nhai một
dãy chập chùng núi xanh.
Bạn cùng tuyết trắng phủ quanh,
Đường xưa vắng vẻ độc hành một thân,
Đào
hồng lóng lánh mưa xuân,
Liễu xanh thấp thoáng bâng khuâng
sáng trời.
Gia đồng chưa quét hoa rơi,
Giấc nồng khách
núi mặc lời chim ca !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.
Cố Huống 顧況 (725-814) tự Bô Ông 逋翁, người Hải Diêm 蘇州 Tô Châu 海鹽 (nay thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江, Trung Quốc).
về già, tự
lấy hiệu là Bi Ông. Ông là Thi sĩ, họa sĩ của đời Đường.
Quan không cao, từng giữ chức Trứ Tác Lang. Vì làm thơ châm
chích giới quyền quí đương thời, nên bị biếm đến
Nhiêu Châu làm Tư Hộ Tham Quân. Về già ẩn cư ở núi
Mao Sơn.
NỐI ĐIÊU:
Qui Sơn Hành
PKT 05/25/2012
Tuổi già vui cùng tóc bạc ,
Núi xanh ngày tháng tung hê .
Rừng vắng tuyết trắng mời
gọi ,
Lối xưa sáng tối đi về.
Đào hồng mưa đêm
đọng giọt ,
Liễu biếc sương sớm vương hương .
Hoa
rụng trẻ nhà chưa quét ,
Oanh ru ta giấc xuân nồng.
Tri Khac Pham
Phamid1934@gmail.com
.
NGỦ
TRONG NÚI VẮNG , CHIM KÊU
.
Tóc trắng cợt người cô đơn
Núi
xanh một giải sống buồn năm dư
Rừng thưa
tuyết lạnh đợi chờ
Chẳng ma nào bạn , bơ vơ
đi về
Đào hồng còn ngậm mưa khuya
Liễu xanh khoác áo ủ ê khói mờ
Gia
đồng lười quét sân hoa
Chim kêu ru giấc
lão già ngủ thêm
C.D.M.
歸山作 QUY SƠN TÁC
心事數莖白髮,
Tâm sự sổ kinh bạch phát
生涯一片青山。 Sanh nhai nhất phiến thanh sơn
空林有雪相待, Không lâm hữu tuyết tương đãi
古道無人獨還。 Cổ đạo vô nhân độc hoàn
桃紅復含宿雨, Đào hồng phục hàm túc
vũ
柳綠更帶朝煙.
Liễu lục cánh đái triêu yên
花落家童未掃
Hoa lạc gia đồng vị tảo
鳥啼山客猶眠
Điểu đề sơn khách do miên.
顧 况
Cố Huống.
.
Làm khi về sống dưới chân núi
Tâm sự, vài sợi tóc bạc,
Sinh nhai, một dải non xanh.
Rừng vắng, có
tuyết làm bạn,
Đường về, không ai cùng anh.
Đào hồng, tránh mưa cụp cánh,
Liễu xanh, vờn khói
vươn dây.
Hoa rơi, trẻ nhà chưa quét,
Chim hót, non khách còn say.
Danh Hữu dich
Ghi chú,
Đây là bài thơ gồm 2 đoạn và vì câu đầu
tác giả xử dụng vần trắc cho nên những câu kế tiếp phải
là là những cặp đối.
.
Sáng tác khi về sống dưới chân
núi
Tâm sự cùng ta mái tóc phai ,
Sinh nhai núi thẫm sống qua ngày .
Rừng hoang tuyết phủ , bạn thân thích ,
Đường cũ đi về một bóng ai .
Mưa tối đào hồng giọt lóng-lánh ,
Liễu xanh sương sớm gió lay-lay .
Hoa rơi ,con trẻ còn chưa quét ,
Khách núi , chim ca , giấc mộng say .
Mailoc
phỏng dịch
.
Tâm
sự cùng làn tóc bạc ,
Núi
xanh nuôi sống tháng ngày .
Rừng
hoang tuyết trắng, bạn hữu ,
Lối
cũ hiu quạnh mình ai !
Đào
hồng ngấn lệ mưa tối ,
Liễu
xanh sương sớm gió lay .
Hoa rụng
trẻ nhà chưa quét ,
Chim hót
khách giấc nồng say
ML
__________________________________________________
HAI ANH EM
Văn học sử TQ có hai anh em là Tô Đông Pha và Tô
Tiêu Muội.
Văn học sử VN cũng có hai anh em Đoàn Viết Luân
(*) và Đoàn Thị Điểm.
Xin kính nời
Quý Vị nghe hai câu chuyện thú vị của Hai Anh Em như sau....
Văn học sử Trung Quốc có Đường Tống Bát Đại
Gia,( tức là 8 người giỏi văn nhất đời Đường và
Tống ), thì cha con nhà họ TÔ đã chiếm hết 3 ghế rồi,
đó là : Tô Lão Tuyền,(cha), Tô Triệt(em), và Tô Thức
(anh), tự là Đông Pha, nên người ta thường gọi là Tô
Đông Pha. Tô Đông Pha còn một người em gái nữa tên
là Tô Tiểu Muội. Tương truyền Tô Tiểu Muội trán vồ,
mặt dài, xấu gái lắm. Nhưng văn tài lại rất giỏi, vì
thế anh em thường xướng họa nhau. Tô Đông Pha làm thơ diễu
em gái như sau :
Vị xuất đình trung tam ngũ bộ,
未 出 亭 中 三 五 步
Ngạch đầu tiên đáo
họa đường tiền. 额 头 先 到 画 堂 前
Có nghĩa : Chưa ra khỏi phòng năm ba bước, thì cái
trán vồ đã nhô đến phòng khách rồi. và để
diễu ông anh mặt dài, Tiẻu Muội lại làm 2 câu như sau :
Khứ niên nhất trích tương tư lệ, 去 年 一 滴 相 思 泪
Chí kim lưu bất đáo
tai biên. 至 今 流 不 到 腮 边
Có nghĩa : Một giọt nước mắt khóc tương tư
hồi năm ngoái, đến nay còn chưa chảy tới dưới càm.
Ông anh cũng đâu có chịu thua, Tiểu Muội hai hố mắt hơi sâu,
nên Tô Đông Pha lại diễu em gái bằng hai câu sau :
Kỷ hồi thức lệ thâm nan đáo 幾 回 拭 泪 深 难 到
Lưu đắc uông uông
lưỡng đạo tuyền 留 得 汪 汪 两 道 泉
Có nghĩa :
Mấy lần lau nước mắt mà sâu
quá lau không tới, để còn xót lại hai đường nước
đầm đìa như hai dòng suối. Ông anh nầy quả độc thiệt.
Nhưng, Tô Tiểu Muội cũng đâu có vừa ....
Vì
Tô Đông Pha râu rậm bó hàm, nên Tô Tiểu Muội nhạo
lại rằng :
Khẩu giốc kỷ hồi vô mịch
xứ, 口 角 几 回 无 觅 处
Hốt văn mao lý hữu thanh truyền
忽 闻 毛 里 有 声 传
Có nghĩa : Tìm mãi mà
vẫn chẳng thấy miệng mồm ở đâu cả, bỗng dưng nghe trong đám
lông có tiếng nói vọng ra.
Anh em giởn chơi
với nhau như thế đấy !
Còn Văn học sử Việt
Nam thì....
Bà Đoàn Thị Điểm diễn
nôm tập thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc, hay như thế nào, ai cũng biết
cả rồi. Bà có một ông anh tên là Đoàn Viết Luân
cũng rất giỏi thơ văn.
Khi lên 6 tuổi, một hôm,
bà Đoàn Thị Điểm đang học Sử Ký Trung Hoa, thì ông
anh đến lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối như thế nầy
:
•Bạch xà đương đạo, Quý bạt
kiếm nhi trảm chi.
白 蛇 当 道, 贵 拔 剑 而 斩 之
Bà Điểm liền lấy
một câu cũng trong Sử Ký đối lại rằng :
•Hoàng
long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
黄 龍 负 舟,禹 仰 天 而 叹 曰
Có nghĩa là:
•Rắn trắng giữa đường, Ông Quý (Lưu Bang Hán
Cao Tổ) tuốt gươm mà chém Đó .
•Rồng vàng đội
thuyền, Ông Vũ (Hạ Vũ Vua Nhà HẠ) ngửa mặt lên Trời mà
than Rằng .
Cái hay của đôi câu đối
nầy là đều lấy trong Sử Ký và đều kết thúc bằng
một Hư Tự : Chữ CHI ở đây là Phiếm chỉ Đại từ
, còn chữ VIẾT là một Trợ Từ.
Có
lần, ông Đoàn Viết Luân từ ngoài đi vào nhà, thấy
em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
•Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt. 兄来堂上尋双月
Có nghĩa là :
Anh lên nhà trên tìm 2 mặt trăng .
Song nguyệt là 2 mặt
trăng, mà theo chữ Hán, 2 chữ Nguyệt 月ghép lại là chữ
Bằng 朋 là Bè bạn, bằng hữu, nên
câu trên còn có nghĩa là: Anh lên nhà trên tìm BẠN,
chứ không phải 2 mặt trăng.
Bà Điểm liền đối lại
rằng :
•Muội đáo song tiền tróc bán phong. 妹到窗前捉半風
Có nghĩa là :
Em đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió .
Bán
phong là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân nửa ở
bên phải của chữ Phong 風 tức là chữ Sắt 虱 nghĩa là con rận.
Nên câu đối trên có nghĩa là : Em đến trước cửa
sổ để bắt rận.
Khi hay tin chị dâu sanh được
con gái đầu lòng trong đêm rộn rịp vui mừng, Bà Điểm
đã đùa với anh rằng:
•Bán dạ
sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
半 夜 生 孩,亥 子
二 時 未 定 .
Có nghĩa là :
Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định, ý muốn
nói không biết là giờ Tý hay giờ Hợi.
Đoàn Viết
Luân liền đối lại:
•Lưỡng tình tương
phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành.
两 情 相 配,己 酉
双 合 乃 成 .
Có nghĩa là :
Hai tình phối hợp nhau, Kỷ Dậu 2 bên hợp lại mà thành
.
Với lối chơi chữ, 2 chữ Hợi và Tý
ghép lại thành chữ Hài; chữ Kỷ và chữ Dậu ghép lại
thành chữ Phối. Ta còn gọi đây là lối đối chiết tự.
Một hôm, cơm chiều và tắm rửa xong xuôi, bà đang
xăm xoi trước gương thì ông anh đến, thấy cô em gái ngồi
trước gương, ông anh bèn tức cảnh buộc miệng đọc ra 1
vế đối như sau :
Đối kính họa mi, nhất
điểm khuyên thành lưỡng điểm
對 镜 画 眉,一 点 圈 成 两 点 。
Có nghĩa : Ngồi trước
gương mà kẽ chơn mày, thì chấm 1 chấm sẽ thành 2 chấm.
Xin nói thêm về câu đối nầy, có người
viết chữ KHUYÊN thành chữ PHIÊN 翻 là Lật, lật( thuyền
), lật( trang nầy qua trang khác ). Phiên dịch : là chuyển từ ngôn
ngữ nầy qua ngôn ngữ khác.... Ý nghĩa không được chính
xác bằng từ KHUYÊN 圈 là Vẽ vòng. Thành ngữ về trang điểm
của các bà các cô có câu : KHUYÊN KHUYÊN ĐIỂM ĐIỂM
圈圈點點. Nghĩa đen là : khoanh khoanh chấm chấm, nghĩa bóng
là động tác chấm phá trên khuôn mặt khi trang điểm. Nên
thiết nghĩ : Chữ KHUYÊN đúng hơn chữ PHIÊN là vậy !
Vì bà tên là Điểm( chấm ), nên cũng có nghĩa
là ngồi trước gương thì 1 cô Điểm thành ra 2 cô Điểm.
Câu đối khá hóc búa, nên bà không đối được
ngay lúc đó, buồn lòng bà thả bộ ra bờ ao sen, thì thấy
ông anh cũng đang đứng đó ngắm trăng. Xúc cảnh sinh tình,
bà ứng khẩu đối ngay câu đối của ông anh như sau :
Lâm trì ngoạn nguyệt, độc luân chuyển tác song luân.
臨 池 玩 月,独 轮 转 作 双 轮 。
Có nghĩa : Đứng bên bờ ao ngắm trăng, thì 1 vầng
trăng đơn độc sẽ thành ra 2 vầng trăng.
Chữ LUÂN là Mạo từ( Article ), nhất luân 一 轮, là một vầng, Độc
luân : là một vầng trăng đơn độc. mà cũng là tên
của ông anh quý hóa của bà. Đứng ở bờ ao ngắm trăng
thì một anh Luân sẽ thành 2 anh Luân, một anh trên bờ, 1 anh là
cái bóng dưới ao. Thật xuất sắc !
Về
vế đối nầy, cũng có bản ghi là :
Lâm trì ngoạn nguyệt,
CHÍCH luân chuyển tác song luân.
Nhưng xét chữ CHÍCH 隻
: nghĩa là Chiếc : Nhất chích thuyền 一隻船 : là Một
Chiếc thuyền. CHÍCH nghĩa là CON , vd : Nhất chích điểu 一隻鳥 : là Một Con chim, Nên CHÍCH cũng là Mạo từ ( Article
). Nếu là Hình Dung Từ thì CHÍCH có nghĩa là đơn lẻ,
nhưng lại thường được dùng trong câu hơn là dùng để
bổ nghĩa cho một từ đơn . Vd : Cô thân CHÍCH ảnh 孤身隻影 : là Cô thân CHIẾC bóng. .
Lại xét
chữ LUÂN 輪 cũng mang hai Từ loại khác nhau : Danh từ, Luân có nghĩa
là cái Bánh xe. Nếu là Mạo từ thì Nhất Luân Nguyệt
là Một Vầng Trăng. Vì vậy, mà lấy chữ CHÍCH để bổ
nghĩa cho chữ LUÂN , cùng là Mạo từ với nhau cả, nên xét
thấy không được ổn, vì LUÂN ở đây là Mạo từ
chớ không phải là Danh Từ ( Bánh xe ). Danh từ ở trong câu đối
nầy là NGUYỆT ( Mặt trăng ). Hơn nữa ĐỘC mà chuyển thành
SONG nghe vẫn xuôi tai hơn là CHÍCH với SONG. Đây chỉ là ý
kiến cá nhân của tôi, tôi chọn bản nào thấy hợp lý
thì theo mà thôi !.
Hai anh em Tô Đông Pha thì
người anh giỏi và nổi tiếng hơn người em gái.
Hai anh em bà
Đoàn Thị Điểm thì bà là người có thành tích
văn học và nổi tiếng hơn ông anh.
* Có
bản ghi là Đoàn Doãn Luân, có thể do tự dạng của 2 chữ
DOÃN 尹 và VIẾT 曰 hơi giống nhau, nếu là chữ viết tay, các
nét của chữ DOÃN ngắn lại sẽ thành chữ VIẾT, và ngược
lại , các nét của chữ VIẾT viết dôi ra sẽ dễ đọc
nhằm thành chữ DOÃN. Nên có bản chỉ để tên ông là
ĐOÀN LUÂN, chớ không có VIẾT, DOÃN gì cả !
Đỗ Chiêu
Đức
______________________________________________________
LỄ MẸ
Chúa Nhật thứ hai của tháng
5 hằng năm là ngày LỄ MẸ ( Mothers'day ) ở Mỹ. LỄ MẸ năm
nay nhằm ngày Chúa Nhật 13 tháng 5 tới đây. VN ta không có
ngày Lễ Mẹ chính thức, mọi người lấy ngày Lễ Vu Lan Bồn
là ngày rằm tháng 7 Âm lịch làm ngày tưởng nhớ đến
Mẹ Hiền. Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, nhà sư
Nhất Hạnh lấy ngày Rằm tháng 7 này làm ngày Bông Hồng
Cài Áo. Ai còn Mẹ thì được cài một bông hồng màu
ĐỎ, người nào chẳng may đã mất Mẹ rồi thì cài
một bông hồng màu TRẮNG lên áo để tưởng nhớ đến
Mẹ Hiền....
Nay, nhân ngày Lễ Mẹ ở xứ người, lại nhớ
đến ngày Lễ Vu Lan ở xứ ta, xin chân thành gởi đến tất
cả mọi người một Bông Hồng...Thơ, để tưởng nhớ đến
Mẹ Hiền qua tâm tình của một Du Tử phiêu bạt phương trời
: Bài thơ " DU TỬ NGÂM " của Mạnh Giao đời Đường...
DU TỬ NGÂM 遊 子 吟
Từ mẫu thủ trung tuyến 慈 母 手 中 线
Du tử thân thượng y 遊 子 身 上 衣
Lâm hành mật mật phùng
临 行 密 密 缝
Ý khủng trì trì
quy 意 恐 遲 遲 歸
Thùy ngôn thốn thảo
tâm 誰 言 寸 草 心
Báo đắc tam xuân huy
報 得 三 春 暉
MẠNH GIAO 孟 郊
Bài thơ có tựa là
KHÚC NGÂM của NGƯỜI DU TỬ, người lãng du phiêu bạt giang
hồ nhớ về Mẹ như sau :
Sợi chỉ trong tay bà mẹ
hiền, khâu nên chiếc áo ở trên mình người du tử. Lúc
ra đi, mẹ đã từng mũi từng mũi một khâu thật chắc, ý
sợ rằng con mình mê mãi thú giang hồ mà nấn ná dần
dà trễ tràng trở về quê cũ. Ai bảo rằng tất lòng của
cọng cỏ non kia, có thể báo đáp được ánh nắng ấm
áp của ba tháng mùa xuân.( Trong mùa đông, cỏ chết rụi
cả, chỉ sống lại nhờ ánh sáng của mùa xuân mà thôi
! ).
Ôi, nỗi lòng thương con của bà mẹ
thật tỉ mỉ, chi li, nhưng lại bao la sâu rộng vô cùng. Bà không
trách con đi lâu, cũng không buộc con phải về sớm, vì bà
biết tánh lãng tử của con mình. Bà chỉ âm thâm chắc
chiu từng mũi kim cho thật chặc, chỉnh e khi ở xứ lạ quê người,
áo của con bị sứt chỉ đường tà sẽ không có ai khâu
hộ. Việc tuy nhỏ nhặt, nhưng lại hàm chứa biết bao nỗi thương
yêu lo lắng của Mẹ Hiền. Tác giả đã kết bằng cách
mượn nỗi lòng của một tấc cỏ nhỏ nhoi, thì làm thế
nào có thể báo đáp cho được ánh nắng ấm áp
của 3 tháng mùa xuân đã mang sức sống và xanh tươi đến
cho vạn vật muôn loài cho được !
Khi diễn
tả cô Kiều cân nhắc giữa tình và hiếu, rồi quyết định
bán mình chuộc tội cho cha. Hành động bán mình là việc
làm cao cả, vĩ đại, nhưng đối với công lao trời biển,
sanh thành dưỡng dục của cha mẹ thì Nguyễn Du vẫn cho là chưa
đủ, cho nên ông đã dùng chữ " Liều " một cách
rất tài tình :
Hạt mưa xá nghĩ phận hèn
LIỀU đem
TẤC CỎ quyết đền BA XUÂN !
Sự thật, bán mình chuộc
cha thì cô Kiều có thể nói đã hoàn toàn trả được
chữ hiếu rồi !( hết đời rồi , còn gì nữa ! ) : " Bán
mình là hiếu, cứu người là nhân " mà, và như Sư
Tam Hợp đã nói : " Bán mình đã động hiếu tâm
đến trời ". Nỗi lòng " tấc cỏ " của cô Kiều khả
dĩ nói là đã đáp đền được " ánh nắng
của ba xuân " rồi hay chưa ?!
DIỄN NÔM :
Kim chỉ trên tay từ mẫu,
Khâu nên áo lãng du nhân.
Khi
đi chắc chiu từng mũi,
Sợ ngày về lắm lần khần.
Ai bảo
nỗi lòng tấc cỏ,
Báo đền được nắng ba xuân ?!
LỤC BÁT :
Đường kim mũi chỉ mẹ hiền,
Khâu nên
chiếc áo trên mình lãng du,
Chắc chiu từng mũi từng khâu,
Sợ e con trẻ đi lâu chửa về
Ai rằng tấc cỏ bên lề,
Báo đền được ánh nắng về ba xuân ?!
Đỗ Chiêu
Đức diễn nôm.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :
MẠNH GIAO 孟郊
( 751- 814 )
Mạnh Giao tự là Đông Dã, người đất Võ
Khang. Lúc nhỏ ở ẩn trong núi Tung Sơn, tánh tình thầm lặng,
làm thơ hay thiên về lý trí, lại chắt lọc từng chữ một.
Hàn Dũ rất mến tài ông mà kết thành bạn vong niên. Mãi
đến năm 50 tuổi ông mới đậu Tiến Sĩ ở niên hiệu
Trinh Nguyên đời nhà Đường.
Ngoài bài Du Tử Ngâm được
nhiều người biết đến, Mạnh Giao còn nổi tiếng với bài
Liệt Nữ Tháo. Cả hai bài đều làm theo thể Ngũ ngôn Cổ
phong.( Mỗi câu năm chữ, có thể gieo cả vần Bằng lẫn vần
Trắc và không hạn định số câu của một bài.).
Xin cầu chúc tất cả mọi người đều có một
ngày Lễ Mẹ tuyệt vời !
Đỗ Chiêu Đức.
__________________________________________________________________________________________________
Cuối
tuần kể chuyện vui
VƯƠNG AN THẠCH
và chữ SONG HỈ
Sau đây, xin kính mời
Quý Thầy Cô, Quý Bạn Cựu Học Sinh Trung học PTG & ĐTĐ và
Các Em học sinh trường TÂN HƯNG cũ, cùng nghe lai lịch của chữ
SONG HỈ rực rỡ đỏ tươi trong các Hôn Lễ TH xưa và mãi
cho đến ngày nay, bất cứ nơi nào trên thế giới có Lễ
cưới của người Hoa, người Việt thì ta sẽ thấy chữ SONG
HỈ Vui tươi rực rỡ nầy xuất hiện. Nó được viết
bằng 2 chữ HỈ liền nhau, nên gọi là SONG HỈ, ý chỉ đây
là ngày vui của 2 HỌ. Nhưng, lúc đầu nó là 2 niềm vui
đến cùng một lúc với Văn, Thi Hào và là Tể Tướng
VƯƠNG AN THẠCH đời Tống. Xin kính mời Quý vị cùng tiêu
khiển với câu chuyện Văn chương lý thú sau đây....( Xem bài
dịch bên dưới )....
王安石 VƯƠNG AN THẠCH
王安石(1021年12月18日-1086年5月21日),字介甫,号半山,谥文,封荆国公。世人又称王荆公。北宋抚州临川人(今江西省东乡县上池村人),中国历史上杰出的政治家、思想家、文学家、改革家,唐宋八大家之一。北宋丞相、新党领袖。欧阳修称赞王安石:“翰林风月三千首,吏部文章二百年。老去自怜心尚在,后来谁与子争先。”有《王临川集》、《临川集拾遗》等存世。其亦擅长诗词,流传最著名的莫过于〈泊船瓜洲〉里:“春风又绿江南岸,明月何时照我还。”
Vương An Thạch ( 18-02-1021-- 21-05-1086 ), Tự là GiỚi Phủ, hiệu là
Bán Sơn, được phong là Kinh Quốc Công, nên người đời
còn gọi là Kinh Công. Người đất Lâm Xuyên thuộc Vũ
Châu đời Bắc Tống. Ông là Thừa Tướng của triều Bắc
Tống, lãnh tụ của Tân Đảng ( Đảng Cải Cách ). Âu Dương
Tu đã ca ngợi ông như sau :" Hàn lâm phong nguyệt tam thiên thủ,
Lại bộ văn chương nhị bách niên. Lão khứ tự lân tâm
thượng tại, Hậu lai thùy dữ tử tranh tiên ". Có nghĩa :
Ba ngàn bài gió trăng phong nguyệt,
Hai trăm năm Lại bộ văn
chương.
Già đi tự cảm thương thân phận
Hậu thế
ai người dám sánh ông ?!
Tác phẩm gồm có " Vương
Lâm Xuyên tập, Lâm Xuyên tập Thập di,... ". Ông còn giỏi
vè thi, từ. Lưu truyền nỗi tiếng nhất trong dân gian là 2 câu
thơ trong bài " Bạc thuyền Qua Châu ( Thuyền ghé bến Qua Châu
) là :
Xuân phong hựu lục Giang nam ngạn
Minh nguyệt hà thời chiếu
ngã hoàn ?
Có nghĩa :
Gió xuân lại thổi làm cho bờ
Giang nam XANH biếc,
Trăng bao giờ mới soi sáng trên đường ta về
quê ?!
LAI LỊCH
CỦA CHỮ SONG HỈ
囍”的来历
大红喜字,挂在洞房的门窗上,不但渲染气氛,还象征着双喜临门。据史料记载,“囍”的由来与宋代王安石有关。
相传王安石二十岁时,从抚州临川到京都洛阳赶考,途经马家镇住店候试,一天饭后上街,偶见镇上马员外家门上高挂着一对走马灯笼。旁边贴一上联:“走马灯,灯走马,灯息马停步。”王安石看罢沉吟半天,拍手叫绝:“好对!好对只可惜没有下联。”此话被马家老家院听到,便立即进家禀告马员外,待马员外闻讯出来时,王安石已赴了考场。
无独有偶,事又凑巧,王安石在考试中因交头卷而受到主考官的赏识,主考官便传他面试,考官指着厅关的飞虎旗说:“飞虎旗,旗飞虎,旗卷虎藏身。”王安石随口以“走马灯,灯走马,灯息马停步”相对。考官见他对的既快又工整,实在赞叹不已。
离了考场,王安石春风得意,信步又走到马员外家门外,谁知他竟被老家院认出,被邀请进院谒见马员外,还未等王安石开口说明来由,马员外就将“走马灯”上联吟了一遍,并叫仆人取来笔墨纸砚,请王安石对对子。王安石信手写道:“飞虎旗,旗飞虎,旗卷虎藏身”。马员外见他对的又快又工整,即以女儿相许,并择佳日在马府完婚。原来走马灯的上联,是马员外为马小姐选婿而出的。
新婚之上,正当新郎新娘拜天地时,报子来报:“王大人金榜题名,得中进士,明日赴琼林宴!”马员外听后更加高兴,便又重开酒宴,王安石喜上加喜,不免多喝了几杯。高兴之余,取来笔砚,在红纸上挥笔写下了一个“囍”字贴在门外,并吟道:“巧对样成双喜歌,马灯旗虎结丝罗”。从此,“囍”字便做为新婚之禧的象征,相沿至今。
Chữ SONG HỈ lớn màu đỏ, treo ở trước của phòng Hoa
chúc, chẳng những tạo thêm không khí vui tươi mà còn tượng
trưng cho SONH HỈ LÂM MÔN ( Hai niềm vui đến nhà cùng một lúc
). Căn cứ theo ghi nhận của Sử liệu, thì lai lịch của chữ SONH
HỈ nầy xuất phát từ Tể Tướng Vương An Thạch đời
Bắc Tống, Câu chuyên như sau.....
Tương truyền năm 20 tuổi, khi
từ Lam Xuyên Vũ Châu đến kinh đô Lạc Dương để ứng
thí, khi nghỉ ở khách sạn Mã gia trấn để chờ dự thi. Một
hôm, sau buổi cơm tối, ông thả bộ ra phố, khi đi ngang qua nhà
Mã viên ngoại, thấy phía trước cửa nhà treo 2 cái lồng
đền kéo quân, bên cạnh có đôi câu đối như sau
:
Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình
bộ.
Có nghĩa :
Tẩu Mã Đăng là Đèn Chạy Ngựa, ta gọi
là Đèn Kéo Quân.
Nên câu trên có nghĩa :
Đèn
chạy ngựa, ngựa chạy đèn, đèn tắt ngựa ngừng chạy.
Theo nghĩa của ta thì là :
Đèn kéo quân, quân kéo đèn,
đèn tắt quân ngừng kéo.
Vương An Thạch xem xong trầm ngâm
giây lát, bỗng vỗ tay đánh đét một tiếng khen : " Câu
đối hay tuyệt, nhưng rất tiếc là không có vế đối lại
! ". Người quản gia nghe thấy vội vàng chạy vào bẩm báo
với Mã viên ngoại, nhưng khi Mã viên ngoại ra tới cửa thì
Vương An Thạch đã đi xa rồi.
Sự đời cũng lắm việc trùng hợp ngẫu nhiên, hôm sau
khi đi thi, vì văn tài mẫn tiệp,làm bài nhanh nộp quyển sớm,
nên được quan chủ khảo chú ý ngợi khen và gọi lên
hạch miệng. Ông chỉ ra cột cờ trước sân, nơi có treo lá
cờ thêu hình một com hổ bay với đôi cánh vươn ra và
đọc :
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân
Có nghĩa :
Cờ cọp bay, cọp bay trên cờ, cờ cuốn cọp ẩn mình.
Vương
An Thạch buộc miệng đọc ngay câu đối của Mã viên ngoại
:" Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình
bộ ", để đối lại. Quan chủ khảo vô cùng tán thưởng
và kinh ngạc trước tài ứng đối mau lẹ và chính xác
của Vương An Thạch, không ngớt lời ngợi khen.
Rời khỏi trường
thi, Vương vô cùng đắc ý, trong lúc hớn hở đi về nhà
trọ, thì người Quản gia nhà họ Mã nhận ra Vương và
mời về phủ ra mắt viên ngoại. Khi vào đến phòng khách
thì đã thấy trên bàn bày sẵn văn phòng tứ bảo,
giấy mực hẳn hoi. Mã Viên ngoại đọc ngay câu đối " Tẩu
mã đăng..." cho chàng đối . Vương An Thạch chẳng ngần
ngừ chút nào cả, hưu bút viết ngay câu đối mà Quan chủ
khảo đã ra cho chàng là " Phi hổ kỳ..." để đối
lại. Viên Ngoại vô cùng đẹp dạ, kinh ngạc trước tài
ứng đối mau lẹ của Vương và rất vui vẻ mà cho Vương
biết rằng, ông ra câu đối nầy là để kén rể, nay mến
tài mẫn tiệp của Vương nên quyết định gả con cho chàng.
Chọn ngày lành tháng tốt và làm lễ thành hôn ngay tại
Mã phủ.
Trong lúc cô dâu chú rễ sắp làm lễ bái
đường, thì có sứ đến tuyên đọc kết quả kỳ
thi vừa qua, và cho biết Vương An Thạch vừa đậu Tiến sĩ cập
đệ, ngày mai được mời vào cung Quỳnh Lâm dự yến. Mã
Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, truyền bày thêm tiệc rượu
để khoản đãi quan khách. Riêng Vương An Thạch cũng vui mừng
vô hạn, đang cơn hứng chí bèn sẵn giấy bút viết ngay HAI
chữ Hỉ sát vào nhau dán lên cửa để mừng cho Hai niềm Vui
lớn đến cùng một lúc, Hỉ thượng gia Hỉ, Đại tiểu
Đăng Khoa cùng một lúc.
Từ đó dân gian mới có lệ,
chú rể được mặc áo Trạng Nguyên Tiến Sĩ trong ngày
cưới và dán chữ SONG HỈ ở khắp nơi trong nhà khi làm lễ
Thành hôn cho đến hiện nay.
Đỗ Chiêu Đức
CHUYỆN TÌNH CỦA TÔ ĐÔNG
PHA
Đỗ Chiêu
Đức sưu tầm và bổ sung.
Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức ( 蘇轼 ), tự là Tử Chiêm ( 子瞻 ), sinh năm 1036 , người huyện My Sơn, tỉnh
Tứ Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 1057 dưới đời vua Tống Nhân
Tông, là một trong bát đại gia Đường Tống . Thơ văn ông
nổi tiếng một thời, không ai sánh kịp. Ông lại có tài
hội họa và viết chữ rất đẹp. Hoạn lộ long đong, nhiều
lần bị biếm.
Ông Tô có
một cô em họ xinh đẹp, hiền hậu và thông minh, ông yêu quí
lắm và nàng cũng rất yêu ông nhưng không cưới được
vì bà con cùng họ nên mẹ ông ngăn cản. Ông ân hận
suốt đời vì điều đó bởi đây là mối tình
đầu của ông.
Khi Tô Đông Pha đã lớn, học giỏi,
đủ sức đi thi thì cha mẹ lo cưới vợ cho ông (và cho cả
em ông là Tô Triệt nữa) để có một nàng dâu ở trong
miền vì e rằng nếu ông lên kinh thi đỗ thì sẽ bị các
danh gia vọng tộc đem cái mồi vinh hoa phú quí ra nhử để gả
con gái cho. Vợ ông họ Vương tên Phất, năm ấy ông mười
tám tuổi và Vương Phất mười lăm.
Người Bạn
Tình Chung
Nàng Vương là người
vợ hiền, rất quí yêu chồng, thường đứng nép sau màn
nghe chồng nói chuyện với khách và khuyên chồng nên xa lánh
người này người khác :
- Người ấy luôn đón trước
ý nhà để nói cho nhà vui lòng, giao du với họ chỉ mất
thì giờ.
Hoặc nhắc nhở chồng :
- Nhà nên coi chừng hạng
người vồn vã quá, người tốt giao du với nhau tình thường
lạt như nước lã ; nước lã không có mùi vị đậm
đà nhưng không bao giờ làm cho ta chán.
Đông Pha thường
khen vợ về sự khôn ngoan này .
Năm 1065 Vương Phất từ
trần lúc nàng mới 26 tuổi, an táng tại Tứ Xuyên. Tô Thức
thương tiếc lắm. Nàng để lại cho chồng một người con
trai mới biết đi, tên là Tô Mại.
Trước khi từ giã cõi
đời, nàng Vương Phất trối trăng với chồng là nên tục
huyền với Vương Nhuận Chi, em họ của nàng và rất giống nàng
để chăm sóc ông và nuôi dạy Tô Mại. Ông khóc mà
nhận lời.
Mười năm sau (tức năm Ất Mão 1075), ông Tô
đang làm tri châu ở Mật Châu (Sơn Đông), cách Tứ Xuyên
hàng ngàn dặm, đêm nằm mơ thấy người vợ đã khuất,
lúc thức dậy làm bài từ điệu “Giang thành tử” trong
đó có những câu :
十年生死兩茫茫,不思量,自難忘。
千里孤墳,無處話淒涼。
縱使相逢應不識,塵滿面,鬢如霜。
…Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lường
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương…
Nguyễn thị Bích Hải dịch :
Mười
năm sống thác đôi nơi,
Nghĩ mà chi, vẫn khôn nguôi nhớ
nàng.
Cô đơn phần mộ dặm ngàn,
Nói làm sao xiết
muôn vàn thê lương.
Gặp nhau còn nhận ra chăng?
Mặt bụi
nhuốm, tóc pha sương ngỡ ngàng…
Tô Thức là người
đầu tiên làm từ điệu vong.
Bảy năm sau (1082), khi ông
Tô xuôi dòng Trường giang, cùng bạn thưởng trăng trên sông
dưới chân núi Xích Bích, từ của ông còn phảng phất
nỗi thương xót ngậm ngùi :
Cố quốc thần du 故 國 神 遊
Đa tình
ưng tiếu ngã 多 情 应 笑 我
Tảo
sinh hoa phát… 早 生 花 髪
(Niệm Nô Kiều)
(Hồn thả về chơi cố
quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta
Chưa chi đầu đã
bạc…)
Bạn tình chung nơi cố quận hẳn là vong hồn
nàng Vương Phất. Năm ấy ông mới 46 tuổi.
Đấu
Rượu Cho Chàng
Vợ mất ba
năm, đoạn tang, năm 1068 Tô Thức theo lời vợ, tục huyền với
cô em họ của Vương Phất là Vương Nhuận Chi, hai mươi tuổi.
Không giỏi dắn đảm đang bằng chị nhưng nàng cũng rất
quí yêu chồng, chăm sóc con của mình và con riêng của chồng
(Tô Mại) rất chu đáo và suốt đời chia sẻ những khó
khăn gian khổ với chồng.
Nàng là người hiền thục lại
rất chiều chồng. Biết chồng thích rượu, lúc nào nàng
cũng sắm sẵn một đấu rượu để khi chồng cần thì
có ngay. Chuyện này Tô Thức kể lại trong bài
“Hậu Xích Bích phú” như
sau :
“Khách nói : Sẩm tối, tôi cất lưới được
một con cá, miệng to vảy nhỏ, hình dáng tựa con lư ở Tùng
Giang . Tìm đâu ra được rượu đây?
Tôi về bàn
với nhà tôi. Nhà tôi đáp :“Thiếp có một đấu
rượu, cất đã lâu, phòng lúc nhà bất thần dùng đến”.
(Nguyên văn : Ngã hữu đấu
tửu, tàng chi cữu hĩ. Dĩ đãi tử, bất thời chi nhu). Thế
là xách rượu và cá, lại đi chơi dưới chân Xích
Bích một lần nữa”.
Nhà phê bình văn học lỗi
lạc của Trung Quốc là Kim Thánh Thán đời Thanh cũng có nhắc
lại chuyện này trong lời phê bình cuốn “Mái Tây” (Tây
sương ký) của Vương Thực Phủ. Ông viết :
“Mười
năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm
chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa.
Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua
loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng :
-“Mình
liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?
Vợ
tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu
trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”
Bảy Cái
Lò Lửa
Theo “Dục hải từ
hàng” thì Tô Thức có đến bảy người thiếp. Phật
Ấn, bạn thân của Tô Thức, là một vị cao tăng có tài
hùng biện đời Tống, một hôm đùa bảo Tô Thức rằng
:
- Bác có nhiều thiếp thế, tặng cho tôi cô thứ bảy
được không?
Ông Tô cười đáp :
- Sao lại
không?
Tưởng chỉ là lời nói đùa, không ngờ chiều
tối ông Tô cho xe đưa người thiếp đến.
Phật Ấn đón
người thiếp vào nằm trong buồng rồi buông màn. Trước buồng
đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò, cái nào cũng đầy
than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, cứ bước qua
bước lại như thế suốt đêm. Đến sáng, ông cho xe đưa
người thiếp về trả. Nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện,
Tô Thức chợt “ngộ” ra :
- Bảy cái hỏa lò rực
lửa kia là chỉ bảy người thiếp của ta cũng như bảy cái
hang lửa. Ông làm thế là tỏ ra mình đã vượt ra khỏi
vòng sắc dục, còn ta thì sa ngã đắm đuối vào đấy.
Chắc là ông muốn thức tỉnh ta đây.
Người Vợ Tri Kỷ
Trong
số các tì thiếp của mình, Tô Đông Pha yêu nhất nàng
Triêu Vân. Nàng trẻ trung, xinh đẹp lại thông minh, giúp ông
được nhiều việc. Lúc về với ông, nàng chưa biết chữ
nhưng nhờ ông chuyên tâm dạy dỗ và nàng chăm chỉ học
hành nên chẳng bao lâu nàng đã đọc thông viết thạo.
Cuộc gặp gỡ Triêu Vân là một sự may mắn
lạ lùng. Khi bị biếm đến Hàng Châu, Tô Đông Pha thường
hay ra chơi Tây hồ, một thắng cảnh nổi tiếng tại tỉnh này.
Ven bờ Tây hồ, trong các vườn hoa ngào ngạt hương thơm có
những trà thất nên thơ bên cạnh các hàng liễu rũ, đêm
đêm vang lên tiếng đàn tiếng ca thánh thót, du dương của
các nàng ca nhi xinh như mộng. Triêu Vân là một trong số các
nàng ấy, bấy giờ mới hơn mười tuổi nhưng tài sắc của
nàng nổi bật hẳn lên giữa đám ca nhi làm say lòng biết
bao vương tôn công tử. Nàng có giọng ca rất lạ, khi trầm
lắng như nghẹn ngào nức nở, khi mượt mà, bay bổng như ngọn
gió mát lành trên mặt nước Tây hồ. Những bài từ
của Tô Đông Pha chỉ có nàng ca là hay hơn cả khiến cho
bao trái tim như ngừng đập và ông Tô rung động bồi hồi.
Tình yêu bắt nguồn từ đó.
Nàng Vương Nhuận Chi biết
chuyện nhưng không hề ghen tức. Một lần nàng đến tìm gặp
Triêu Vân rồi về nói với chồng :
- Cô gái xinh đẹp
này rồi sẽ rất cần cho nhà sau này đấy. Thiếp sẽ mua Triêu
Vân.
Và nàng Vương đã giữ lời. Ít lâu sau, Triêu
Vân về với ông và nhanh chóng trở thành một đôi uyên
ương tương đắc mặc dù tuổi tác khá chênh lệch
: nàng kém ông những 27 tuổi ! Vương Nhuận Chi coi nàng như cô
em gái bé bỏng, và khi đến Hoàng Châu, nàng đã chính
thức cưới Triêu Vân để làm thiếp cho chồng. Ông Tô
rất mến phục nàng về việc ấy.
Đông Pha yêu Triêu
Vân không chỉ vì nàng xinh đẹp, thông minh mà còn vì
nàng là tri kỷ của ông, rất hiểu lòng ông, tâm đầu
ý hợp. Vương Thế Trinh, người đời Minh, kể trong
“Điệu hước biên” rằng
: “Một hôm Đông Pha đi chầu vua về, ăn no, lấy tay xoa bụng
đi lại trong dinh, hỏi những người theo hầu :
- Các ngươi
hãy đoán xem cái gì trong này?
Kẻ thì bảo toàn
là văn chương cả, người thì thưa : nơi chứa ruột gan,
kẻ thì cho là toàn cao lương mỹ vị. Đông Pha vẫn không
hài lòng. Đến lượt mình, Triêu Vân cười đáp
:
- Kẻ sĩ của triều đình nhưng ôm trong bụng toàn những
thứ không hợp thời cả (nguyên văn :
Triều sĩ nhất đỗ bì bất hợp thời nghi). Đông
Pha thích chí cười ha hả”.
Ấy là nàng rất hiểu lòng
ông. Bấy giờ phe tân đảng của Vương An Thạch, Chương Đôn,
Lữ Huệ Khanh, Lý Định đang muốn dùng “biến pháp”
để cải cách nền chính trị lạc hậu của nhà Tống,
còn Đông Pha thì theo cựu đảng của Tư mã Quang chống lại
biến pháp của Vương An Thạch nên nhiều phen bị phe tân đảng
tâu vua giáng chức và đày ông tới những nơi cùng tịch,
khổ sở thiếu thốn trăm bề.
Khi ông bị Chương Đôn
lưu đày xuống Huệ Châu (Quảng Đông) chỉ có mình Triêu
Vân theo hầu, các tì thiếp khác chịu cực không nổi nên
bỏ đi cả rồi, nàng Vương Nhuận Chi đã mất. Có lần
trò chuyện, Đông Pha nói với Triêu Vân :
- Mọi người
ai cũng bảo ta có phúc hơn Bạch Cư Dị.
- Nhà nói thế
là có ý gì?
- Khi Bạch Cư Dị bị giáng chức và
bị biếm ra làm Tư mã Giang Châu, người thiếp yêu của ông
đã bỏ đi lấy chồng, còn nàng thì luôn luôn theo sát
bên ta đến tận chân trời góc bể vào những lúc hoạn
nạn khó khăn nhất. Thế chẳng phải là ta có phúc hơn Bạch
Cư Dị sao?
Triêu Vân khe khẽ cúi đầu, nước mắt
rưng rưng.
Triêu Vân yêu quí chồng hơn hẳn hai bà trước,
vui lòng chia sẻ với chồng những nỗi khổ cực gian nan nên ông
rất quí nàng, thường làm thơ ca tụng. Ông bảo Triêu Vân
là nàng tiên trên trời bị đọa xuống trần để trả
nợ thay ông. Năm 1083 Triêu Vân sinh một đứa con trai nhưng không
nuôi được. Đông Pha cho rằng vì mình thông minh và tài
hoa quá nên thường hay gặp nạn, con cái thì hữu sinh vô dưỡng,
bèn làm thơ tự mỉa mình :
Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn, 但愿子孫愚且钝
Vô tai vô
hại đáo công khanh. 無災無難到公卿
(Chỉ
mong con cháu ngu và xuẩn,
Bình an vô sự mà tới chức công
khanh)
Một buổi chiều có gió heo may và sương thu lạnh,
Đông Pha ngồi chơi với Triêu Vân. Ông bảo nàng cầm cốc
rượu làm phách đánh nhịp, hát bài từ của ông theo
điệu “Điệp luyến hoa”.
Triêu
Vân vừa ca vừa khóc. Ông hỏi tại sao. Nàng chỉ vào hai câu
:
枝上柳棉吹又少,
天涯何處無芳草。
Chi
thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
Thiên nhai hà xứ vô phương
thảo.
(Tơ liễu trên cành phơ phất gió,
Nơi chân
trời, chẳng nơi nào là không có cỏ thơm)
Ông cười
lớn :
- Ta ngậm ngùi với mùa thu mà nàng thì khóc với
mùa xuân ! .
Ở Huệ Châu chưa được bao lâu thì
tể tướng Chương Đôn lại có lệnh đày ông Tô
ra đảo Hải Nam, một hòn đảo bấy giờ chỉ có thổ dân
man rợ và muốn ông chết ở đấy. Ông Tô muốn để
gia đình ở lại Huệ Châu, chỉ một mình ra đảo nhưng
Triêu Vân không chịu :
- Không ai chăm sóc chồng bằng vợ.
Lúc chị Vương Nhuận Chi sắp mất, thiếp có hứa với chị
là suốt đời cùng sống chết với nhà. Hãy để cho thiếp
giữ trọn lời hứa, cho thiếp đi theo, thiếp sẵn sàng chịu mọi
nỗi gian truân của kẻ đi đày.
Ông Tô rất xúc động,
khôn ngăn đôi dòng lệ.
Nhưng chưa kịp ra đảo thì
nàng đã ốm nặng rồi từ trần (1096). Một cơn sốt rét
ác tính đã cướp đi mạng sống của nàng lúc mới
34 tuổi. Ông Tô gục xuống bên nàng để mặc cho dòng lệ
tuôn trào như suối. Ông không chỉ khóc cho một người vợ
mà còn khóc cho một người tri âm, tri kỷ không dễ gì
gặp được trên đời.
Ông an táng nàng trước một
rừng thông, cạnh một ngôi chùa và viết bài minh trên mộ
chí :
“Thị thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu
Vân, tự Tử Hà, họ Vương thị, người Tiền Đường.
Thông minh và thích việc nghĩa, thờ tiên sinh 23 năm, một mực
trung và kỉnh. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), tháng bảy, ngày Nhâm
Thìn, mất ở Huệ Châu, 34 tuổi. Tháng tám, ngày Canh Thân,
táng trên Phong Hồ, phía đông nam chùa Thê Hiền. Sinh con tên
Độn, chưa đầy năm đã yểu. Nàng thường theo tì khưu
ni Nghĩa Xung học Phật pháp, cũng biết sơ qua đại ý. Lúc
sắp chết, tụng bốn câu kệ trong kinh Kim Cương rồi tuyệt”
.
Ông làm thơ khóc nàng, lời lẽ rất xót xa cảm
động, ví nàng như đám mạ đã xanh nhưng chưa kịp
trổ đòng đòng, người có tư chất tốt mà chết
sớm, chưa làm được việc gì có ích. Đó là mệnh
trời ư? (Miêu nhi bất tú khởi
kỳ thiên !).
Từ đó cảnh già của ông ở đảo
Hải Nam thật cô đơn buồn tẻ. Tháng giêng năm 1100, vua Triết
Tông băng lúc mới 24 tuổi. Vị hoàng tử duy nhất, con trai ông,
chết lúc ba tháng tuổi. Vì thế ngôi vua lại về tay Huy Tông,
chú của Triết Tông. Lên ngôi xong, công việc đầu tiên của
Huy Tông là cách chức tể tướng Chương Đôn và đày
đi Lôi Châu rồi cho phục chức tất cả các đại thần bị
Chương Đôn đày ải, truy phong cho những người đã bị
Chương Đôn sát hại.
Thế là Tô Đông Pha được
ân xá, rời đảo Hải Nam để lên đường về bắc..
Nhưng bấy giờ ông đã già yếu lắm rồi, nhất là sau
nhiều năm bị đày ải. Chỉ một năm sau ông đã từ
trần tại Thường Châu (1101) thọ 65 tuổi, kết thúc một cuộc
đời tài hoa lận đận. *
Đỗ Chiêu
Đức sưu tầm và bổ sung.
_______________________________________________________________
THI THIÊN TỬ VƯƠNG XƯƠNG LINH
Kính
Thầy,
Trong phần tiểu sử của Vương Duy,
Thầy có nhắc đến Thi Tiên là Lý Bạch, Thi Thánh là Đỗ
Phủ và Vương Duy là Thi Phật, thế Thầy có biết Thi Thiên
Tử là ai không ?. Chính là Vương Xương Linh đó, có
giai thoại cho rằng Thi Thiên Tử là Vương Chi Hoán, vì trong một
lần cá cược, Vương Xương Linh bị thua, cho nên mới nhường
chức Thi Thiên Tử lại cho Vương Chi Hoán, nhưng đây chỉ là
chuyện các thi sĩ vui đùa với nhau mà thôi, xin mời xem giai thoại
sau đây.....
Trong thời Khai Nguyên, thi nhân Vương
Xương Linh, Cao Thích, Vương Chi Hoán đồng nổi danh. Lúc bấy
giờ tuy đời sống, hoàn cảnh của mỗi người không giống
nhau, nhưng họ vẫn thường đi chơi chung.
Một
ngày kia, trời lạnh, tuyết rơi nhẹ, ba vị thi nhân cùng đến
uống rượu tại Kỳ đình. Bỗng nhiên có các linh quan (con
hát) ở Lê viên, độ hơn mười người, cũng lên lầu
dự tiệc. Nhân đó, ba vị thi nhân đồng hẹn nhau tránh khỏi
bàn ngồi, đến bên lò sưởi để nghe ngóng.
Trong chốc lát, có bốn cô ca kỹ lần lượt kéo
đến. Các cô đều xa hoa diễm lệ, yêu mỵ quyến rũ. Tất
cả tấu nhạc và bắt đầu hát, các bài hát đều
là những tác phẩm nổi danh đương thời.
Vương
Xương Linh cùng các bạn ước hẹn với nhau rằng: "Bọn
chúng ta hiện nay đều là những người có tiếng trên thi
đàn, nhưng việc hơn kém chưa định được. Nay cứ lặng
nghe các linh quan ngâm thơ ai nhiều thì người ấy chiếm ưu hạng
vậy".
Trong chốc lát, các linh quan cử nhạc,
một cô đào nhịp hát lên rằng:
Hàn
vũ liên giang dạ nhập Ngô 寒雨連江夜入吴
Bình minh tống khách Sở sơn cô 平明送客楚山孤
Lạc Dương thân hữu như tương
vấn 洛楊親友如相問
Nhất phiến băng tâm tại
ngọc hồ. 一片冰心在玉壶
Ban đêm đi vào đất Ngô khi mưa lạnh
giăng ngang sông. Sáng mai tiễn khách chỉ có ngọn núi Sở cô
quạnh. Nếu bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm,
(thì xin anh đáp rằng lòng tôi đã như) một mảnh lòng
băng ở trong bầu ngọc.
Nghe xong, Vương Xương Linh mỉm
cười, đưa tay lên vẽ trên tường một dấu hiệu, nói:
"Nhất tuyệt cú!" Lại có một cô khác ngâm rằng:
Khai khiếp lệ triêm ức 開箧淚沾臆
Kiến quân tiền nhật thư 見君前日書
Dạ đài hà tịch mịch 夜台何寂寞
Do thị Tử Vân cư. 猶似子雲居
Mở
hộp ra mà nước mắt ướt đầm trên ngực, tìm thấy
bức thư của chàng ngày trước. Chốn dạ đài hiu quạnh
biết bao nhiêu, nơi đó vẫn là chỗ ở của chàng Tử
Vân (tức Dương Hùng). Nghe xong,
Cao Thích đưa
tay lên vách vẽ một vòng, nói: "Nhất tuyệt cú!"
Tiếp đến một cô khác ngâm rằng:
Phụng trửu bình minh kim điện khai 奉帚平明金殿開
Tạm tương đoàn phiến cộng bồi hồi
暫将團扇共徘徊
Ngọc nhan bất cập hàn nha
sắc 玉颜不及寒鸦色
Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai. 犹带昭陽日影來
Cầm chổi quét vào buổi
sáng khi cửa điện vàng mở ra, tạm cầm quạt phe phẩy mà
trong lòng bồi hồi. Mặt ngọc còn không bằng cả nhan sắc của
con quạ rét, (vì quạ) còn được hưởng ánh nắng mặt
trời ở điện Chiêu Dương.
Nghe xong, Vương
Xương Linh lại đưa tay lên vẽ lên tường, nói: "Nhị
tuyệt cú!" Ba cô đã ngâm ba bài, toàn là tác phẩm
của Vương Xương Linh và Cao Thích.
Vương
Chi Hoán tự nghĩ rằng thơ của mình nổi danh đã lâu, bèn
nói với hai người kia rằng: "Bọn này đều là những
nhạc quan không theo kịp thời trang, những bài họ hát đều là
ngôn từ quê mùa của Ba Thục. Còn như những khúc hát như
Dương xuân bạch tuyết thì bọn phàm tục này dám bàn
đến ư?" Nhân đó bèn chỉ vào một trong những ca kỹ
đẹp nhất bọn, nói: "Đến lượt cô này hát, nếu
như không phải là thơ của ta, ta nhất định không tranh đua
với các anh nữa. Còn nếu như đúng là thơ của ta, các
anh nên quỳ lại dưới gối ta, tôn ta làm Thi THIÊN TỬ". Nói
xong cả bọn vui vẻ cười đợi. Phút chốc, đến lượt
cô đào đẹp nhất bọn, búi tóc song hoàn, cất tiếng
hát:
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian 黄河逺上白雲間
Nhất
phiến cô thành vạn nhận san 一片孤城萬仞山
Khương địch hà tu oán dương liễu 姜笛何須怨楊柳
Xuân phong bất độ Ngọc Môn
Quan. 春風不度玉門関
Sông Hoàng Hà chảy vào
nơi xa tít trong khoảng mây trắng. Một mảnh thành trơ trọi giữa
núi cao muôn nhận (đơn vị đo lường thời xưa, ba thước
là một nhận). Sáo Khương đừng thổi bài "Oán dương
liễu" nữa, vì gió xuân kia cũng không đưa (tiếng sáo)
qua được Ngọc Môn Quan đâu.
Tức thì
Vương Chi Hoán biểu lộ sự vui mừng, nói với hai người: "Các
anh, ta nói có sai đâu, Thế ta quả là Thi THIÊN TỬ đó
nhé !" Nhân đó cả bọn bèn cả cười.
Các linh quan không rõ đầu đuôi, đều hỏi: "Chẳng
hay chư vị vui cười chuyện gì thế?" Vương Xương Linh và
các bạn liền thuật rõ mọi việc. Các linh quan đồng thưa
rằng: "Bọn tục nhân chúng tôi không nhận ra được những
bậc cao nhã, cúi xin được muôn vàn ngưỡng mộ!" Xong
tất cả đều ngồi vào bàn tiệc cùng vui vẻ uống say đến
sáng.
Nhân chuyện nầy, mới có giai thoại
cho rằng Vương Chi Hoán là Thi Thiên Tử là vậy !.....
Kính mời Quý Vị xem thêm tài liệu bổ sung sau đây
:
詩天子指诗坛的领袖。 唐 诗人 王昌龄 、 王维 和
李白 都有此誉称。 清 陆凤藻 《小知录·文学》:“ 王昌龄 集, 王维 诗天子, 杜甫 诗宰相。” 清 宋荦 《漫堂说诗》:“大抵各体有‘初’、‘盛’、‘中’、‘晚’之别,而三 唐 七絶,并堪不朽。 太白 、 龙标 ( 王昌龄 )更有‘诗天子’之号。” 郑振铎 《插图本中国文学史》第二五章八:“ 王昌龄 字 少伯 , 京兆 人,与 高适 、 王之涣 齐名,而 昌龄 独有‘诗天子’的称号。”
Thi Thiên Tử
( Vua trong thơ ) chỉ lãnh tụ trên Thi Đàn. Các thi nhân Vương
Xương Linh, Vương Duy và Lý Bạch đều có cái danh xưng
danh dự nầy. Theo Lục Phụng Tảo đời Thanh " Văn học- Tiểu tri
lục " thì : " Theo Vương Xương Linh tập, Vương Duy là Thi
Thiên Tử, Đỗ Phủ là Thi Tể Tướng. "Trong " Mãn đường
thuyết thi " đời Thanh thì : " Đại đễ các thể đều
phân biệt SƠ, THỊNH, TRUNG, VÃN, mà tam Đường thất Tuyệt,
đều có thể nói là bất hủ hết được. Thái Bạch,
Long Tiêu ( Vương Xương Linh ) lại có danh hiệu là "Thi Thiên
Tử ". Theo điều thứ 25 chương 8 trong " Tháp đồ bổn TRUNG
QUỐC VĂN HỌC SỬ " của Trịnh Chấn Đạc viết : " Vương
Xương Linh tự Thiếu Bá, người đất Kinh Triệu , nổi danh ngang
hàng với Cao Thích, Vương Chi Hoán, nhưng Vương lại có danh
xưng độc hữu là " THI THIÊN TỬ ".
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
TỨ
KHOÁI
Kính gởi Quý Thầy Cô
và Các Bạn ,
Nhân nói đến thêm bớt chữ trong một bài thơ, xin kính trình
với Quý Vị một bài thơ xưa nữa, bài thơ TỨ KHOÁI,
nói về bốn cái " Khoái " nhất của Các Cụ ngày xưa
nhu sau :
Cửu
hạn phùng cam vũ, 久 旱 逢 甘 雨
Tha hương ngộ cố tri ,
他 鄉 遇 故 知
Động
phòng hoa chúc dạ,
洞 房 花 燭 夜
Kim bảng quải danh thì . 金 板 掛 名 時
Chú
thích :
1. Vũ 雨:
Là Mưa. Vd : Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách. Còn được
đọc là VÕ. Vd : Đão Võ : là cầu mưa.
2. Cố 故 : Là Xưa. Vd : Cố nhân : Người
xưa, Cố sự : Chuyên đời xưa....
Là Cũ. Vd : Cố hữu : Bạn cũ. Cố hương : Quê cũ....
Khi đi với chữ QUÁ là Quá Cố : thì có nghĩa là chết
đi.
3. Quải 掛 : Là Treo. Vd : Quải danh
: là treo tên. " Quải danh thì " là Khi tên được treo. Quải
Quan 掛冠 : Là treo nón (từ quan).
Chữ nầy khi đọc là QUÁI thì có nghĩa là QUẺ. Vd : Bát
Quái.
Nghĩa từng câu :
Câu 1 : Trời
hạn hán lâu ngày, gặp được trận mưa rào( ngọt ) đổ
xuống.
Cầu 2 : Ở nơi xa quê hương mà gặp được người
quen cũ.
Câu 3 : Đêm động phòng hoa chúc khi ta kết hôn.
Câu 4 : Khi được treo tên trên bảng vàng, tức là khi thi đậu
làm quan.
Câu
chót có người đọc là : " Kim bảng tánh danh đề ".金板姓名题. Có nghĩa
Tên tuổi được ghi lên trên bảng vàng , nghĩa thì cũng
tương tự, nhưng "... quải danh THÌ " ăn vận với "...Ngộ
cố TRI " ở trên hơn là "... tánh danh ĐỀ ".
Đây là 4 cái KHOÁI nhất của
các ông bà ngày xưa, xin diễn nôm như sau :
Hạn
lâu, gặp được mưa rào,
Xa quê lại được chào người quen xưa,
Động phòng hoa chúc đêm mưa,
Bảng vàng bia đá cho vừa lòng em. !
Nhưng có Cụ còn cho
như thế vẫn chưa được " Thật Khoái ! "
Muốn
diễn tả cho thật khoái, các cụ còn thêm vào mỗi đầu
câu 2 chữ như sau :
THẬP NIÊN cữu hạn phùng cam vũ,
VẠN LÝ tha hương ngộ cố tri,
LÃO GIẢ động phòng hoa chúc dạ,
THIẾU NIÊN kim bảng quải danh thì
Xin tạm diễn nôm như sau
:
Mười
năm hạn hán bỗng tuôn mưa,
Ngàn dặm quê người gặp bạn xưa,
Lão ông còn động phòng hoa chúc,
Tuổi trẻ bảng vàng quả sướng chưa !
Bốn câu thơ trên gọi là
" Tứ cực khoái ". Còn như muốn diễn tả 4 điều làm
cho người ta bực mình nhất, ( Tứ bất khoái ) thì sẽ thêm
vào mỗi đầu câu 2 chữ như sau :
VIÊM
ĐIỀN cữu hạn phùng cam vũ,
ĐÀO
TRÁI tha hương ngộ cố tri,
THÁI GIÁM động phòng hoa chúc dạ,
CỪU NHÂN kim bảng quải danh thì.
Cũng xin diễn nôm như sau :
Ruộng
muối nắng lâu chợt đổ mưa,
Trốn nợ quê người gặp bạn xưa,
Thái giám bắt động phòng hoa chúc,
Kẻ thù đậu đạt, khổ hay chưa?!
Người xưa luận về Tứ Khoái thì như thế, còn hiện nay
chúng ta có được những thứ nào khả dĩ gọi là KHOÁI
không ?
Xin
kính chuyển đến Quý Thầy Cô và Các Bạn cùng đọc
chơi tiêu khiển cuối tuần.
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức.
HOA ẢNH
Kính
thưa Quý Thầy Cô và Các Bạn,
Để tiếp theo làn thơ của đời
Tống mà Thầy Trí Phạm đã giới thiệu qua bài Xuân Dạ
của Vương An Thạch kỳ rồi. Kỳ nầy xin gởi đến Quý Thầy
Cô và Các Bạn bài HOA ẢNH của Tô Đông Pha cũng thuộc
thi ca của đời Tống. Xin mời Quý Vị cùng thưởng thức và
cùng diễn nôm cho vui nhé !. Nào, xin mời !....
花影 HOA ẢNH
重重疊疊上瑤臺, Trùng trùng điệp điệp thượng dao đài
幾度呼童掃不開。 Kỷ độ hô đồng tảo bất khai
剛被太陽收拾去, Cương bị thái dương thu thập khứ
卻教明月送將來。 Khước giáo minh nguyệt tống tương lai
Dịch nghĩa :
HOA ẢNH là Bóng hoa.
Bóng hoa tầng tầng
lớp lớp phủ đầy cả trên sân gác đẹp ( dao đài
). Đã mấy lần bảo thơ đồng quét , nhưng quét vẫn không
đi ( bóng của hoa, làm sao quét đi cho được ! ). Mới vừa
được ( cương bị ) mặt trời dọn dẹp nó đi ( ý nói,
mặt trời lặn thì bóng hoa mất, cũng như là được mặt
trời dọn dẹp đi vậy ! ), thì quái ác làm sao, lại được
ánh trăng đưa những bóng hoa đó trở lại trên dao đài
như cũ !
Chú thích :
1. Dao Đài : Sân
đẹp, Đài là chỉ cái sân cao hơn mặt đất, ít
nhất là lên thang bậc tam cấp. Đài còn dùng để chỉ
Sân thượng, khi đó thì gọi là Thiên Đài. Cũng chữ
Thiên Đài nầy 天 台 nếu đọc là THIÊN THAI thì chỉ các mặt bằng
ở trên núi cao, nơi Tiên ở.
2. Kỷ độ : là Mấy lần,
mấy độ. Vd : Kỷ độ tịch dương hồng.
3. Khước giáo
: là Lại được, lại bị.
4. Tống tương
: là Đưa đến, Đưa lại, Đưa đi đâu đó. Tống
tương LAI ; Chữ " Lai " ở đây là Xu Hướng động từ
chỉ hướng di chuyển đến gần hoặc dang xa ra. Tống tương LAI
là Đưa đến đây. Tống tương KHỨ là Đưa đến
đó.
Diễn nôm :
Chập chùng hoa ảnh
rợp dao trì
Mấy lượt gia đồng quét chẳng đi
Vừa
lúc nắng chiều thu dọn mất
Lại theo trăng sáng rợp dao trì
!
Ẩn dụ của bài thơ ( ý tại ngôn
ngoại ) :
Bóng của hoa cũng đẹp chứ, tại sao Tô Đông
Pha lại ghét dữ vậy ?. Mấy lần bảo gia đồng quét bỏ đi
!. À, thì ra ông ví bóng hoa như những người bất đồng
chính kiến, như những người xu nịnh, vừa hết nhóm nầy lại
đến nhóm khác quấy nhiễu triều đình làm ông đâm
ra bực mình và ví von như thế ! ( theo Thiên Gia Thi ).
Nào
! Bây giờ thì mời Quý Thầy Cô và Các Bạn cùng diễn
nôm cho vui nhà vui cửa nhé !
Nay kính,
Đỗ
Chiêu Đức
Mời đọc thêm 4 bài dịch
HOA ẢNH:
Phạm Thảo Nguyên:
Lô nhô
bóng bóng phủ sân thơ
Sai quét bao phen chẳng sạch
cho
Vừa được ánh trời thu nhặt hết
Quái sao trăng sáng lại đưa vào.
Phạm Thảo Nguyên
.
Phạm Khắc
Trí:
Hoa ảnh ,chập chùng đầy
gác thượng ,
Mấy lần sai trẻ quét, không đi.
Đùa
ai, nắng tắt , biến đâu mất ,
Trăng sáng vừa lên, lại
hiện về !
Tri Khac Pham
Phamid@msn.com
.
Kim Quang:
Bóng hoa đầy ấp khắp
trong sân
Quét sạch làm sao cũng ấy ngần
Nắng úa chiều
thu gom hết sạch
Lại nương trăng sáng hiện nguyên thân Kim Quang
.
Trầm
Vân
Hoa Ảnh
Bóng hoa sân gác
phủ đầy
Thơ đồng quét
mãi vẫn dầy khổ ghê
Mặt
trời lặn quét hết đi
Thì trăng lại chiếu bóng về nhố nhăng
Trầm Vân
___________________________________________________________
Bài viết về quyển
" Điển Tích Chọn Lọc
" của Mộng Bình Sơn
Đọc quyển ĐIỂN TÍCH CHỌN LỌC ( ĐTCL ) của
nhà văn Mộng Bình Sơn ( MBS ) do nhà Xuất bản TP. HCM ấn hành
năm 1989, tôi thấy có rất nhiều, rất nhiều điểm để góp
ý cùng tác giả và Nhà xuất Bản. Xin được trình
bày sau đây :
A. VỀ CÁC TRUYỆN CỦA ĐIỂN TÍCH.
I. XA
LẠ :
Nhiều câu truyện của các điển tích được
nêu lên trong sách ĐTCL của nhà văn MBS , rất xa lạ và khác
thường đối với độc giả, sách mang nhiều tính hư cấu
tùy tiện và không phù hợp với tài liệu văn học. Xin được
dẫn chứng như sau :
1. TRÚC MAI : Từ trang 9-12 sách
ĐTCL đưa ra một truyện tình không biết ở thời nào của
huyên Long Môn tỉnh Quảng Đông TQ để minh họa cho điển tích
này. Một truyện tình rất ướt át và ủy mị giữa chàng
trai có tên Lâm Bá Trúc và thiếu nữ tên Hoàng Kỳ Mai
hoàn toàn xa lạ với văn học. Thay vì theo những điều có
trong sách vở và theo chúng tôi được học từ nhỏ thì
điển tích nầy như sau :
Trúc Mai là do thành ngữ " Thanh
mai Trúc mã " xuất xứ từ 2 câu thơ trong bài " Trường
Can Hành " của Lý Thái Bạch đời Đường như sau :
Lang
kỵ TRÚC MÃ lai 郎骑竹馬來
Nhiễu sàng lộng THANH MAI
繞床弄青梅
Bài thơ kể lại mối
tình cảm khắng khít của một đôi trai gái đã chơi
đùa và quen nhau từ tấm bé, rồi lớn lên thành chồng vợ
với nhau, cho nên thành ngữ Thanh Mai Trúc Mã dùng để chỉ những
cặp vợ chồng đã quen biết nhau từ thuở nhỏ. Sau này dùng
rộng ra để chỉ những người yêu nhau từ trước lâu rồi
, sau đó mới lấy nhau. Từ đó, từ TRÚC MAI còn để
chỉ tình vợ chồng mà Nguyễn Du đã dùng để tả lúc
Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh là :
Một nhà sum
họp TRÚC MAI
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
hoặc khi Thúc Sinh trở lại tìm Kiều :
Tưởng rằng MAI TRÚC
lại vầy
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau.....
Còn như
muốn giúp độc giả rộng đường tham khảo thì có thể
trích dịch toàn bài Trường Can Hành của Lý Bạch....
2. CHỈ HỒNG : Từ trang 179-188 , trong sách MBS đem chuyện của
một chàng tên Chung Hạo nào đó lạ hoắc ở đời Đường,
rồi được chấp vá, hư cấu... và cuối cùng kết thúc
bằng một bài thơ tứ tuyệt không liên quan gì đến Chỉ
Hồng và Nguyệt Lão cả !. Điển tích Chỉ Hồng ( hoặc Tơ
Hồng, Chỉ Thắm, Xích Thằng... ) có liên quan đến điển tích
Nguyệt Lão hay Nguyệt Hạ Lão Nhân ( Ông già dưới trăng
) để chỉ sự xe duyên , mai mối trong việc hôn nhân mà trong Tục
U Quái Lục có ghi rõ. là chuyện của chàng thư sinh tên Vi
Cố, chứ không phải Chung Hạo... Truyên của Vi Cố được kết
thúc bằng một di tích lịch sử nổi tiếng là Miếu Nguyệt
Lão tại Hàng Châu hiện nay với đối câu đối bất hủ
:
Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến
thuộc,
願 天 下 有 情 人,都 成 了 眷 屬
Thị tam sanh chú định
sự, mạc thác quá nhân duyên.
是 三 生 註 定 事,莫 错 過 姻 缘.
Nghĩa :
Mong cho người
hữu tình trong thiên hạ đều thành nên gia thất,
Chuyện ba
sinh đà định sẵn, đừng để lỡ mất nhân duyên.
Điển tích Chỉ Hồng từ lâu trong các sách văn học phổ
thông đều viết khá rõ ràng, chứ đâu có kiểu chấp
vá hờ hững như trong sách ĐTCL của MBS.
3.
LÁ THẮM : Từ trang 189-191 sách ĐTCL của MBS viết : " Điển tích
Lá thắm lấy ở trong truyện Tình Sử Trung Quốc, diễn tả mói
tình ngăn cách giữa nho sinh Kim Ngọc và tiểu thư Kiều Nga ".
Hai người một ở trong thành, một ở ngoài thành. Vì giặc
cướp ngăn cách cho nên thường xuyên gởi thơ cho nhau bằng cách
viết lên lá rồi thả theo dòng sông từ ngoài thành chảy
vô trong thành !. Thật hết sức lạ lùng !. Những điều MBS kể
hoàn toàn khác hẵn với các tài liệu văn học và thư
tịch xưa nay. Theo như chúng tôi được học từ nhỏ ở trường,
thì điển tích nầy có 3 tài liệu khác nhau như sau :
-
Theo Thị Nhi Tiểu Danh Lục.
- Theo sách Văn Khê Hữu Nghị.
- Theo
Thanh tỏa Cao Nghi và Thái Bình Quảng Ký.
thì không có điển
tích nào giống như câu truyện mà MBS đã kể trong sách
ĐTCL của ông cả !
Từ trước đến nay, trong
nhà trường giảng về điển tích Lá Thắm là theo truyện
của thư sinh Vu Hựu và cung nhân Hàn Thị ở trong cung vua, rất thi
vị với những bài thơ đề trên lá đỏ như :
Lưu thủy hà thái cấp 流 水 何 太 急
Cung trung tận nhật nhàn
宫 中 盡 日 閒
Ân cần tạ hồng diệp
殷 勤 謝 红 葉
Hảo khứ đáo nhân gian 好 去 到 人 間
Nghĩa :
Nước chảy
sao vội thế !
Trong cung suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá đỏ
Chảy đến với nhân gian.
và đôi
câu đối của Vu Hựu gởi theo dòng nước vào cung là :
Tằng văn diệp thượng đề hồng oán 曾聞葉上题红怨
Diệp thượng đề thi ký
a thùy 葉上题詩寄阿誰 ?
Nghĩa :
Từng nghe trên lá
đề thơ oán
Trên lá đề thơ gởi đến ai ?
Cuối cùng lại được minh họa bằng một bài thơ
Thất ngôn Tứ tuyệt thật độc đáo của thi sĩ Cố Huống
đời Đường như sau :
Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi 花落深宫鶯亦悲
Thượng Dương cung nữ
đoạn trường thì 上陽宫女斷腸時
Quân ân bất bế đông lưu thủy 君恩不閉東流水
Diệp thượng đề
thi ký dữ thùy ? 葉上题詩寄與誰?
Nghĩa :
Hoa rụng thâm cung oanh cũng sầu
Thương
Dương cung nữ quặn lòng đau
Ân Vua không bế dòng sông
chảy
Trên lá đề thơ gởi đến đâu ?
Nhưng dù kể theo tài liệu nào đi nữa, thì vẫn
là truyện của một thư sinh thi sĩ và một cung nhân trong cung vua, chớ
không phải là một truyện tình vu vơ của chàng Kim Ngọc và
tiểu thư Kiều Nga nào đó như ông MBS đã kể.
II. THÊM TÌNH TIẾT và VIẾT THEO Ý RIÊNG :
Một điều
đáng nói nữa là MBS đã tự ý thêm thắt quá nhiều
chi tiết cho các câu truyện của các điển tích. Việc thêm
mắm dặm muối cho câu truyện kể đậm đà hơn, hấp dẫn
hơn là truyện thường tình, nhưng thêm thắt làm cho câu truyện
xa rời nguyên tác là điều nên tránh, nhất là thêm thắt
để cho câu truyện ướt át hơn, ủy mị hơn là chuyện
không bao giờ cho phép nhà nghiên cứu, biên khảo làm. Quyển
ĐTCL của MBS đã phạm phải hết những điều hệ trọng này.
Cụ thể như sau :
1. Điển ĐỒNG TƯỚC
: từ trang 13-16, đó là đoạn đối đáp giữa Khổng Minh
và Chu Du, hoàn toàn do hư cấu của MBS, nên khi đọc xong, người
đọc thấy rằng Khổng Minh đã quá hời hợt và thiếu
cơ trí chứ không phải như La Quán Trung đã viết về Khổng
Minh.( không thể trích lại của ĐTCL vì quá dài ). Từ đó
thấy được tài hư cấu tầm thường của MBS trong một tác
phẩm gọi là " chọn lọc ". Khuyết điểm này còn được
thấy ở các điển tích Bá Nha Tử Kỳ ( trang 60-76 ), Đằng
Vương Các ( trang 160-164 ), Lam Kiều ( trang 28-35 )......
2.
Hầu hết các điển tích có chuyện trai gái yeu nhau như Trúc
Mai, Má Đào, Khối Tình, Lam Kiếu, Bể Dâu, Ba Đào, Gieo Cầu....
là MBS vận dụng hết các từ ướt át, ủy mị để
tả cảnh gợi tình, nói lên cái tâm lý yêu đương
đắm đuối vì tình. Rất tiếc là đầy rẫy cả trong
sách nên không thể trích ra hết được. Chúng tôi có
cảm tưởng khi đọc những điển tích gọi là " chọn
lọc ", thì thực tế là những chuyên chọn lọc về tình
yêu sướt mướt, hoặc những chuyện tình lãng mạn, chứ
không phải là Điển tích Văn học Chọn lọc trên tinh thần
văn học khoa học nghiêm chỉnh.
III. LỆ THUỘC,
GƯỢNG ÉP :
1. Lệ Thuộc : Đành rằng Văn
học Việt Nam gắn bó mật thiết với Văn Học Trung Quốc, nên
phần lớn các Điển tích, thành ngữ cố sự trong văn học
cổ của ta đếu bắt nguồn từ văn chương Trung Hoa, nhưng không
phải vì vậy mà chúng ta không có Cái Riêng của ta, như
:
a.). Khối Tình : Từ trang 36-45 sách ĐTCL, MBS viết
" Điển tích Khối Tình lấy ở truyện Trương Chi Mị Nương.
Tình sử Trung Hoa chép : Vào đời Đường có một vị
đại thần sanh được một người con gái rất đẹp tên
Mị Nương....". Trời đất ! Theo chúng tôi và có lẽ rất
nhiều người khác cũng biết, thì " chuyện tình Trương
Chi Mị Nương " cũng như " Chuyện tình Lan và Điệp "
là những chuyện tình thuần túy Việt Nam. Chỉ đồng ý với
MBS điển tích Khối Tình là do chuyện tình giữa Trương Chi
và Mị Nương mà ra, nhưng nói Trương Chi Mị Nương là
người Tàu đời Đường, thì điều nầy chúng tôi
mong ông MBS hãy " Sưu tra lại Sơ yếu Lý lịch " của hai người
nầy xem hư thực ra sao ? Điển tích Khối Tình mà mang cái "
mát " ( made ) nhà Đường, thì e rằng sẽ như Cụ Nguyễn
Du đã viết là :
" Khối tình ( sẽ ) mamg xuống tuyền đài
( mà còn ) chưa tan " đó nhé !
b.). Ba Đào : Từ trang 197-203
sách ĐTCL của MBS...
Theo chúng tôi biết thì hai câu đối
nổi tiếng : " Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách, Sắc bất
ba đào dị nịch nhân " là câu đối của người Việt
Nam làm ra. Đó là câu đối của Cụ Đàm Thuận Huy (
1463-1528 ) ra cho học trò lúc tan học gặp trời đổ mưa khiến họ
không ra về được. Nguyên vế ra là :
Vũ
vô kiềm tỏa năng lưu khách 雨無钳锁能留客
Cậu học trò Nguyễn
Giản Thanh ( 1481-... ) đối ngay rằng :
Sắc bất ba đào dị nịch
nhân 色不波涛易溺人
Cụ khen hay, nhưng lại thở dài, vì Cụ biết rằng với
tài học nầy tương lai sẽ đỗ cao, nhưng lại sẽ bị lụy
vì nữ sắc ! Sẵn nói thêm là trong đám học trò còn
có một người đối là :
Nguyệt
hữu loan cung bất xạ nhân 月有彎弓不射人
Cụ lại khen là người nhân hậu,
tất được hưởng phước về sau.....
Sỡ
dĩ phải nói dài dòng văn tự như thế là để chứng
minh chắc chắn rằng : Câu đối trên là của người Việt
Nam làm ra, chớ không phải của người Tàu. Trước đây
nhiều vị dạy học người Hoa và cả giáo sư Lý Văn Hùng,
một học giả người Hoa viết nhiều về văn học Việt Nam, cũng
xác định câu đối trên là của người Việt. Không
biết ông MBS đã dựa vào tài liệu nào mà dám khẳng
định câu đối trên xảy ra ở đời vua Huệ Đế nhà
Minh bên Tàu. Như thế có gượng ép lắm không ?
2. GƯỢNG ÉP :
Như trên đã nêu, MBS đã gượng
ép một cách tùy tiện, ông cứ gán đại cho một câu
truyện nào đó cho một tác giả người Tàu xa xôi nào
đó để bịp độc giả . Việc làm quá trắng trợn
và thô bạo trong nhiều truyện, chẳng hạn như trong điển tích
Tường Đông ( trang 165-178 ) , MBS đã trích truyện " Vương Kiều
Loan bách niên trường hận " trong sách Kim Cổ Kỳ Quan, ròi thay
đổi tên của nhân vật nam chính trong truyện là Chu Đình
Chương thành Tống Ngọc. Đây quả là việc làm táo tợn
không coi ai vào đâu hết. Truyện Vương Kiều Loan xảy ra vào
đời nhà Minh ( thế kỷ XV ) lại được ghép cho Tống Ngọc,
người nước Sở thời Chiến Quốc ( thế kỷ thứ IV trước
Công nguyên ). Hai nhân vật chính trong truyện cách nhau gần 2 nghìn
tuổi. Cô Vương Kiều Loan đã ôm mối trường hận rồi,
nếu bây giờ biết mình bị ông MBS ép gả cho Tống Ngọc lớn
hơn mình gần 2000 tuổi, thì không biết cô sẽ còn hận đến
cở nào nữa đây !
Thực ra Tường Đông
là do từ Đông Lân mà có. Đó là một Thành Ngữ
hơn là một Điển Tích, phát xuất từ một câu trong sách
Mạnh Tử là : " Du đông lân nhi lâu kỳ xứ nữ ", có
nghĩa là " Trèo qua tường phía đông để chọc ghẹo
con gái bên đó ", và một câu trong thơ cổ là " Đông
lân Tống Ngọc tường " , nghĩa là Tường Tống Ngọc phía
xóm đông, cũng hàm một nghĩa như câu trên.
Ngoài ra, còn một số " điển tích " khác trong sách
ĐTCL, nhưng sự thật chúng chỉ là những từ ngữ hoặc thành
ngữ mà thôi. Các từ ngữ thành ngữ này được MBS coi
là điển tích, rồi mượn đại một câu truyện nào
đó trong Thần Tiên Truyện, Kim Cổ Kỳ Quan, Tam Ngôn Truyện....ghép
một cách gượng ép vào mà thôi.
B.
SAI SÓT VỀ KIẾN THỨC, KỸ THUẬT :
I. KIÊN THỨC :
Theo thiển ý, ĐTCL cần phải khoa học, cẩn thận và nghiêm chỉnh
trong việc biên soạn, để quyển sách có tác dụng tốt. Ông
MBS đã tùy tiện, cẩu thả trong việc làm nầy, thí dụ như
:
1.) Trúc Mai : Đã được đề cập ở trên trong trang 11,
MBS đã giải thích về Lâm Bà TRúc như sau : " Tác phong
mềm mại như cây trúc... ". Người xưa ví Nho sinh với cây
trúc vì trúc được khen tặng là Tiết Trực Tâm Hư 節直心虚 ( Mắt tre mỗi lóng đều thẳng,
và trong ruột thì bọng thang ) để biểu tượng khí tiết của
bậc Nho sĩ chân chính, của người Quân Tử. Chứ không phải
như MBS đã nghĩ.
2.) Đồng Tước : trang 16, MBS viết : " Về
sau Đỗ Phủ tức Mục Chi... ". Đỗ Phủ tự là Tử Mỹ,
chứ không phải Mục Chi. Còn bài Xích Bích Hoài Cổ được
MBS trích trong sách nầy để nói về điển tích Đồng
Tước là của Đỗ Mục ( tự là Mục Chi ) chứ không phải
của Đỗ Phủ. Sự lẫn lộn nầy đưa tới việc " Râu
ông nọ cắm càm bà kia ". Thơ của Đỗ Mục thành thơ
của Đỗ Phủ, tên tự của Đỗ Mục cũng thành tên tự
của Đỗ Phủ luôn !
3.) Chỉ Hồng : Trang 181, MBS đã
lẫn lộn giữa giống đực và giống cái. Thay vì Vi Cố gặp
Nguyệt Lão xe tơ dưới trăng, thì MBS lại cho cái anh chàng bá
vơ Chung Hạo nào đó gặp một bà lão xe tơ dưới trăng,
và bà nầy lại xưng rằng :...ta là Nguyệt Lão...( ? ). Thay vì
Bà thì phải xưng là Nguyệt Bà chớ !
4.) Lầu Xanh, Lầu
Hồng : Trang 312-314, MBS viết " Lầu xanh, Lầu Hồng, cả hai đều chỉ
chỗ chứa gái giang hồ, đĩ điếm ". Đúng Lầu Xanh là
nơi gái giang hồ ở, ai mà không biết ?. Còn ai bảo MBS Lầu Hồng
là nơi chứa đĩ điếm ?! Lầu Hồng là chỉ nơi con gái
con nhà quyền quý ở, như trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết :
...
Sinh đà về đến Lầu Hồng xuống yên...
Lầu Hồng là
chỗ Hoạn Thư, con quan Lại Bộ , vợ của Thúc Sinh ở, chớ đĩ
điếm nào mà ở đây. Ngay trong Bích Câu Kỳ Ngộ câu
:
... Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây ?...
Không
lẽ một trang thanh niên thư sinh tuấn tú mới gặp mặt một tuyệt
thế giai nhân là Giáng Kiều mà Tú Uyên lại hỏi : " Không
biết nàng là gái giang hồ, đĩ điếm ở đâu tới
đây vậy ? ". Chỉ có ông MBS mới hiểu và hỏi theo kiểu
đó thôi !
Trang 313, MBS còn viết :" Một cuốn tiểu thuyết
Trung Quốc có tựa đề Hồng Lâu Mộng, bên trong diễn tả sinh
hoạt của con gái nhà vua ". Sai hoàn toàn ! Hồng Lâu Mộng của
Tào Tuyết Cần đâu có diễn tả sinh hoạt của con gái nhà
vua ? Ông MBS nên đọc kĩ sách lại đi rồi hãy viết .
5.)
Đồng Tước : trang 16 , Hai câu thơ trong bài Xích Bích Hoài Cổ,
cặp chữ Xuân Thâm viết thành Thâm Xuân, làm khác nghĩa
của câu thơ đi. Xuân Thâm là những mùa xuân thăm thẳm
không biết đến bao giờ, còn Thâm Xuân là chỉ khoảng thời
gian cuối mùa xuân. Cũng trong điển tích nầy, quân của Lưu
Bị và Đông Ngô đốt của Tào Tháo 80 vạn quân, thì
MBS chỉ ghi có 10 vạn. Trong điển tích Gương Vỡ Lại Lành,
Tiết Nguyên Tiêu thì ghi là Tết Nguyên Đán. Trong điển
tích Đông Sàng, trang 143-145, Tạ Đạo Uẩn thì ghi là Tạ
Đào Uẩn, Vương Hi Chi thì viết là Vương Ngưng Chi.....
Những
sai sót về kiến thức như đã nêu trên, nhiều vô kể
không thể nêu hết ra đây được....
II.
KỸ THUẬT :
Những sai sót về kỹ thuật cũng nhiều vô kể.
Không thể đổ lỗi cho " thầy cò " sắp chữ, hoặc người
sửa bản in được. Đó chính là sự cầu thả, tùy
tiện cũng như xem thường độc giả của MBS.
1.) Trang 30 câu :
" Nhất ẩm quỳnh tương bách CẢM sanh ", thì in là ...bách
CẢNH sanh. Câu " Lam kiều bổn thị thần tiên QUẬT " thì in
là.... thần tiên CHỐT.
2.) Trang 75, Câu " Thốt TOÁI dao cầm..."
thì in là " Thốt ĐOÁI ..."
3.) Trang 86 , 2 câu " KÍNH dữ
nhân câu khứ , KÍNH quy nhân bất quy " Cả 2 chữ KÍNH đều
in thành ẢNH.
4.) Trang 158, Câu " Tòng Tư Liễu
Khước oan gia trái " thì in là...LÒNG TỰ HIỂU KHUỐC... Câu
thứ 3, in thiếu chữ " dữ ". Câu số 4 là " Phạ Nhĩ...
thì in là PHỤ NHI "
5.) Trang 195 cũng thế, bài thơ tứ tuyệt
mà in sai hết ba câu. Câu 1 chữ " Trục " in thành TRỰC. Câu
2 : " Lục Châu thùy lệ thấp la cân " thì in là " Lục
Châu THÚY lệ THẤY la CÂU. Câu 3 : " Hầu môn nhất nhập thâm
như hải " thì in là " Hầu môn Nhất THẬP NHÂM như hải
".
Những lỗi về in ấn như trên thật nhiều,
cần phải có một bản Đính Chính dài mới nêu hết
được. Đây không phải là lỗi của " Thầy cò "
mà chính là lỗi của người biên soạn. Xin dẫn chứng câu
thơ Nôm trong Truyện Kiều mà tác giả đã trích :
Sinh rằng
gió mát trăng THANH
Bấy lâu nay một chút LÒNG chưa cam
Lẽ
ra phải là :...gió mát trăng TRONG ( đúng nguyên tác ) và
cũng mới ăn với vần LÒNG ở câu 8 bên dưới. Điều
này cho thấy tác giả đã quá cẩu thả và tùy tiện,
nên khi dẫn chứng các câu thơ Hán Việt, ông MBS mới tùy
tiện như trên ta đã thấy, có lẽ ông nghĩ là không
có ai biết được những từ Hán Việt đó. Cái cẩu
thả, thiếu khoa học nầy cũng chứng tỏ thêm một điều nữa
là thái độ xem thường, xem khinh độc giả của MBS chăng ?
C. SUY NGHĨ CỦA NGƯỜI VIẾT :
Như những nhận xét
và phát hiện ở trên, chúng tôi không có ý bới lông
tìm vết, nhưng đã đọc và thấy những sai sót nên đã
nêu ra, nhiên hậu mới đề xuất ý kiến. Sỡ dĩ chúng
tôi phải nói dài, nói dai về quyển ĐTCL nầy, vì thiển
nghĩ : Một quyển sách mang tính giáo dục để người đọc
TÌM HIỂU, HỌC TẬP và GIẢI TRÍ ( Ba tiểu tựa ghi ngoài bìa
sách ) thì nó phải có một nội dung và kỹ thuật hoàn
chỉnh để truyền thụ kiến thức một cách chính xác. Vì
thế, sách đòi hỏi người biên soạn phải nhận rõ tầm
quan trọng của việc mình làm, đồng thời cũng nhận rõ tác
dụng của nó đối với xã hội. Nếu là một quyển tiểu
thuyết thông thường thì tự nó sẽ có giá trị riêng
của nó, nhưng đây là một sách công cụ giúp cho người
đọc, người học. Tất nhiên dưới mắt công chúng nó
phải có một tác dụng nhất định. Trái lại, tác hại
của nó cũng sẽ to lớn và nguy hiễm vô cùng .
Thật vậy,
nếu người biên soạn chịu khó cân nhắc và nghiêm chỉnh
trong việc biên soạn, thì sách sẽ là một món quà quí
giá. Chính vì vậy, khi viết bài nầy chúng tôi mong rằng ông
Mộng Bình Sơn thông cảm cho nỗi khổ tâm của một người
đọc sách khi phải làm cái việc " chẳng đặng đừng
" nầy ! Trong quá trình nhận xét, đánh giá và phê bình,
không tránh khỏi có những lời lẽ quá khích vì những
sai lầm trắng trợn trong sách, xin thông cảm !
Lời thật dễ mất
lòng, ngữa mong lượng thứ !
Bài viết trên
đây đã được đăng trên tạp chí Bách Khoa Văn
Học, số tháng 9 năm 1991. Sau khi bài được đăng, tôi luôn
luôn ở tư thế sẵn sàng để đối thoại với ông Mộng
Bình Sơn, và hồi họp chờ đợi những phản hồi của dư
luận quần chúng. Nhưng, chờ, rồi chờ, chờ mãi mà chẳng
có gì xảy ra hết. Nói theo kiểu của Công tử Hà Đông
là ... Rồi những ngày như lá tháng như mây....vẫn trôi
qua mà chẳng có mải mai động tịnh gì cả, kể cả Mộng
Bình Sơn cũng êm hơi lặng tiếng luôn, tôi vô cùng thất
vọng.....
Một năm sau, khoảng giữa năm 1992, một hôm ghé vào
cửa hàng FAHASA ( cửa hàng Phát Hành Sách ). Tôi phát hiện
quyển Điển Tích Chọn Lọc của Mộng Bình Sơn được
tái bản. Tôi cầm quyển sách lên xem với tâm trạng bồi
hồi xúc động, lòng thầm nghĩ : Để xem thử xem quyển sách
đã được chỉnh sửa như thế nào, và những " công
sức " đóng góp của mình đã có tác dụng tích
cực ra sao !?. Nhưng, tôi hoàn toàn thất vọng !!!.... Mèo vẫn hoàn
mèo, sách tái bản vẫn y khuôn như sách in lần đầu. Vậy
là, chó sủa mặc chó.... Tái bản để hốt tiền thì
vẫn cứ tiến bước....
Tôi vô cùng chán nản
và thất vọng, vì những phát biểu của mình không ai thèm
để ý tới thì ít, mà thất vọng chán nản rất nhiều
vì thấy phong hóa xã hội ngày càng xuống cấp, những lời
nói đúng đắn nghiêm chỉnh đã không có người
chịu nghe.... Tôi ngao ngán rồi buông xuôi luôn....
Lại ,,, những
ngày như lá tháng như mây..., Năm 1998, tôi theo diện ODP định
cư ở Mỹ. Khoảng đầu thập niên của Thiên niên kỷ thứ
Hai ngàn ( khoảng 2003-2004 gì đó ! ). Một hôm đang lái xe đến
sở làm, mở đài phát thanh Little Saigon để nghe tin tức, lại
nhằm tiết mục : " Cảo thơm lần giở trước đèn " đang
đọc và giải thích về Truyện Kiều của Nguyễn Du cho tuổi
trẻ hải ngoại biết đến những tác phẩm nổi tiếng của
nước nhà. Tôi bàng hoàng xuýt trật tay lái khi nghe Xướng
ngôn viên Vũ Kiệm và Mai Hân giải thích về điển tích
" Trúc Mai " như sau : "...Ngày xưa ở huyện Long Môn, tỉnh
Quảng Đông Trung Quốc, có Nho sinh Lâm Bá Trúc và thiếu nữ
Hoàng Kỳ Mai yêu nhau.... " do Học giả, Kinh Tế Gia Nguyễn Xuân Nghĩa
biên soạn giống hệt giọng điệu của Mộng Bình Sơn... Ôi
! Thế thì Lý Bạch và Bài thơ Trường Can Hành của Thi
Tiên đã đi đâu mất rồi ?!!!... Tôi càng bàng hoàng
hơn, bàng hoàng đến tức giận, khi xem Paris by Night Thúy Nga 69 với
chủ đề Nợ Tình. Nhà giáo, Nhà văn và là MC nổi
tiếng thế giới là ông Nguyễn Ngọc Ngạn lại giải thích
điển tích " Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan "
, chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương, bằng giọng điệu nghi ngờ
là : " Có tài liệu cho rằng theo Tình Sử đời Đường
có một vị đại thần sanh được một người con gái
rất đẹp tên Mỵ Nương.... ". Thiệt là hết ý ! Sau giây
phút ngỡ ngàng và tức giận, tôi cũng đành bùi ngùi
chấp nhận sự thật phủ phàng ! Ông Mộng Bình Sơn ơi ! Bây
giờ sự tác hại của ĐTCL mà ông biên soạn đã lan truyền
khắp thế giới rồi, chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương đẹp
đẽ, thơ mộng của Văn học Việt Nam không khéo sẽ thành
của Trung Quốc mất rồi ! Nghe nói ông là người xứ Bình
Định, thế thì cái tinh thần Quang Trung Nguyễn Huệ của ông đã
bỏ đi đâu mất rồi ? Ông Mộng Bình Sơn ơi !
Kính thưa Quý Thầy Cô và Các Bạn ,
Tôi rất
chân thành gởi đến Quý Thầy Cô và Các Bạn bài
viết nầy, có kèm theo Attachments của quyển ĐTCL của nhà văn
MBS và bìa của số báo Bách Khoa Văn Học tháng 9 năm 1991, số
có đăng bài viết nầy của tôi, để chứng minh là tôi
nói thật. Rất Kính mong nghe được những ý kiến của Quý
Thầy Cô và Các Bạn về sự việc nầy và đồng thời
cũng xin Quý Vị cho biết ý kiến là : Bây giờ ta nên sử
sự như thế nào, hay cứ mặc kệ buông xuôi ?!!!....
Đỗ
Chiêu Đức xin ý kiến với tất cả thành tâm của mình,
chớ không có lẫy hờn gì cả ! Lòng chỉ hằng mong : " Cái
gì của CESA.... " , Thế thôi
Nay Kính,
Đỗ Chiêu Đức
Bìa
báo Bách Khoa có đăng bài trên đây của ĐCĐ (trang 25)
______________________________________________________________________________
HOÀNG HẠC
LÂU và NHỮNG BÀI VỊNH
Nhân dịch
bài thơ " Đăng Hoàng Hạc Lâu " của Cụ Phan Thanh Giản,
Tôi muốn giới thiệu sơ lược về ngôi lầu nổi tiếng cổ
kim nầy, và những bài thơ, giai thoại liên quan....
Hoàng Hạc Lâu
( HHL ) nằm ở trên Hoàng Hạc Cơ của Xà Sơn thuộc đất
Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Được xây dựng từ năm Hoàng
Võ thứ 2 của nước Đông Ngô thời Tam Quốc ( 223 sau CN ). Theo sách
" Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí " ghi lại : " Tôn Quyền
khi xây Cố thành ở Hạ Khẩu, vì thành tây giáp Trường
Giang, góc Giang Nam lại có bờ đá lớn, nên xây lên một
lầu cao để quan sát, gọi tên là HHL . Lầu được xây
dựng cho mục đích quân sự. ". Nhưng theo sách " Cực Ân
Lục " ghi lại, thì HHL là do dòng họ Tân Thị xây lên để
làm tửu lâu.
Qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trước sau
được tu sửa đến 10 lần, nhưng cuối cùng vẫn bị hũy
ở đời vua Quang Tự thứ 10 ( 1884 ). Từ đời Bắc Tống cho đến
khi bị hũy, HHL từng là Đạo Tràng lớn của Đạo giáo
( Lão giáo ). Là nơi truyền đạo của tiên ông Lữ ( Lã
) Động Tân ( một trong Bát Tiên ), tương truyền, Tổ Sư Lã
Động Tân đã cởi hạc thăng thiên trong ngày 20 tháng 5 ở
HHL, nên nơi đây trở thành thánh tích của Đạo Giáo
từ đó.
HOÀNG HẠC LÂU hiện nay :
Năm 1957, khi xây cầu bắt ngang sông Trường Giang ở Vũ Xương,
chân cầu dẫn đã chiếm dụng mất địa chỉ cũ của
HHL. Mãi đến năm 1981, chính quyền TP Vũ Hán mới căn cứ các
tư liệu lịch sử cho xây dựng lại HHL, cũng trên Xà Sơn nhưng
cách địa chỉ cũ khoảng 1 ngàn mét. Đến tháng 6 năm
1985 mới khánh thành và cũng trở thành biểu tượng của
TP Vũ Hán.
HHL mới
gồm 5 tầng, cộng thêm 5 mét đỉnh tháp là hình một Hồ
Lô khổng lồ. Tổng chiều cao là 51,4 mét, cao hơn lầu cũ khoảng
20 mét, chiều rộng là 30 mét , gấp đôi chiều rộng của
lầu cũ. Toàn bộ được xây dựng bằng bê tông cốt
sắt kiên cố. Trong ngoài, cỏ cây hoa kiểng, tranh họa, điêu khắc...
đều theo một chủ thể là " Bạch vân Hoàng Hạc ". Cột
lớn 2 bên là một đôi câu đối dài 7 mét như sau :
Sảng
khí tây lai, vân vụ tảo khai thiên địa hám
爽 氣 西 來, 雲 霧掃 開 天 地 撼 ,
Đại giang đông khứ, ba đào tẩy tịnh cổ kim sầu.
大 江 東 去,波 涛 洗 净 古 今 愁。
Dịch nghĩa :
Hơi mát từ hướng tây đến, mây mù quét sạch mở
ra làm lay động đất trời.
Sông lớn chảy về đông, sóng gió theo dòng rủa sạch cả
nỗi sầu kim cổ.
Hoàng Hạc Lâu Hiện
nay . Với chủ đề " Bạch Vân Hoàng Hạc "
Hoàng Hạc Lâu là một
" Đệ nhất lâu danh thắng " bao đời nay của Trung Hoa, thu hút
biết bao văn nhân, thi sĩ đến đây để ngâm vịnh. Trong số
đó , phải kể đến bài thơ Thất ngôn Bát cú của
Thôi Hiệu là tuyệt tác nhất, thơ và lầu cùng bổ túc
cho nhau để cùng lưu danh thiên cổ. Chúng ta hãy cùng đọc
lại bài thơ tuyệt tác này nhé :
黄鹤樓 HOÀNG
HẠC LÂU
昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa
hoàng hạc khứ
此地空餘黃鶴樓。 Thử địa
không dư Hoàng Hạc Lâu
黃鶴一去不復返, Hoàng
hạc nhất khứ bất phục phản
白雲千載空悠悠。 Bạch
vân thiên tải không du du
晴川歷歷漢陽樹, Tình
xuyên lịch lịch Hán Dương thọ
芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương
thảo thê thê Anh Vũ châu
日暮鄉關何處是, Nhật mộ hương quan
hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang
thượng sử nhân sầu
崔 颢 Thôi
Hiệu
Dịch nghĩa :
Người ngày xưa đã cởi hạc bay đi mất rồi, nên nơi
nầy chỉ còn lại một Hoàng Hạc Lâu trống không mà thôi.
Hoàng hạc đã một đi không trở lại, chỉ có mây trắng
là vẫn dằng dặc bay mãi ngàn năm. Trời quang mây tạnh trên
sông nên nhìn rõ cả những hàng cây bên bờ Hán Dương
đối diện, và màu cỏ non xanh biếc trên bãi Anh Vũ ở giữa
ngả ba sông. Khi chiều xuống, lúc mặt trời chen lặn, ta không phân
biệt phương nào là hướng của quê hương, nên dạ
chợt âu sầu vì khói sóng trên sông mờ mịt... Cảnh dẫn
đến tình và tình hòa vào cảnh thành một bức tranh sống
động gợi cảm tuyệt vời !
Chú thích
:
*. Tích 昔
: Cũ, xưa. Chiết tự chữ nầy gồm có 3 chữ : Niệm 廿,
Nhất 一 và Nhật 日. Niệm ( còn đọc là TRẤP ) nghĩa là
20. Nhất là một. Nhật là ngày. Chuyện nào đó mà qua
21 ngày là CŨ rồi. Sở Khanh đã dùng chữ Tích nầy rồi
thêm vào chữ Việt 越 là Tẩu 走 và Tuất 戌 vào nữa
để dụ dỗ cô Kiều bỏ trốn. Cô Kiều cũng thông minh đáo
để, cô đã....
Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai nươi mốt, tuất thì phải chăng ?
*. Thừa 乘 : Cởi, Đi. Ví dụ : Thừa mã
là cởi ngựa. Thừa xa là đi xe. Trong bài thơ là Thừa Hoàng
hạc là Cởi hạc vàng.
Thừa còn có nghĩa là Nhân cơ hội. Nhân dịp Vd : Thừa Hứng
là nhân lúc còn đang hứng thú. Thừa còn một nghĩa nữa
là Toán Nhân. Vd : Thừa số.
*. Phản
返 : Đi ngược trở lại. Vd : Phản
hồi : đi trở về. Có bộ Xước là bước đi.
反 : Ngược lại. Vd : Phản bội, phản
nghịch. Phản Trụ đầu Châu....
* Du
悠 : Xa, Dài. Lâu. Du du : có nghĩa là
diệu vợi, dằng dặc..
攸 : Tên của cụ Nguyễn Du. DU nầy có
nghĩa là nơi đây, chốn nầy.
*. Lịch
歷 : Từng trải, kinh qua. Có bộ Chỉ
là dấu chân ở bên dưới. Vd: Lịch lãm, Lịch duyệt. Trong
bài Lịch Lịch có nghĩa là rành rành, rõ ràng từng
chút một.
曆 : Lịch nầy có bộ Nhật bên
dưới là Cuốn Lịch mà ta xé hằng ngày.
*. Thê 萋 : Vẻ xanh của cỏ. Thê Thê là xanh non, mơn mởn.
Có bộ Thảo trên đầu. Còn 妻 không có bộ Thảo. THÊ là Bà xã, là Hiền Thê
Lương Mẫu.
* Mộ 暮 : Chiều, hoàng hôn. Bộ Nhật nằm bên dưới, chỉ mặt
trời lặn.
墓 : Mộ Mả. Bộ Thổ ở bên dưới, chỉ
đã dùi sâu dưới 3 tất đất đất.
慕 : Ái mộ. Ngưởng mộ. Có bộ
Tâm ở bên dưới ( chữ Tiểu thêm 1chấm ).
募 : Quyên góp, Bắt. Vidu.: Mộ quyên
là ddi lạc quyên. Mộ Binh là bắt lính. Chữ Mộ nầy có
bộ Lực ở dưới. có nghĩa là phải bỏ công sức ra mà
làm.
* Sử 使
: Phó từ : Có nghĩa Làm cho, Khiến cho.Sử Nhân Sầu : Khiến cho
người ta buồn.
Động từ : Dùng, Xài. Vd : Sử dụng.
Danh từ : Đọc là SỨ. Sứ giả, Sứ thần, Đại Sứ.
Diễn
nôm :
Người xưa đã cởi hạc bay cao
Bỏ lại ven sông Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc một đi không trở lại
Bạch vân muôn thuở vẫn bay mau
Hán Dương sông tạnh rừng cây tỏ
Anh Vũ bãi xa cỏ biếc màu
Chiều xuống quê nhà xa chẳng thấy
Đầy sông khói sóng ngẩn ngơ sầu !
Bài
diễn nôm Lục Bát của Thi sĩ Tản Đà :
Hạc vàng ai cởi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng Lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !...
Quả là cảnh tình hợp nhất, tình cảnh tương liên, hòa
hợp thành một bức tranh tuyệt tác... Thảo nào mà khi đến
đây, nhìn lên vách thấy bài thơ nầy, Thi Tiên Lý Bạch
đã phải quẳng bút mà than rằng :
Nhởn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
眼前有景道不得
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
崔颢题詩在上頭
Nghĩa :
Trước
mắt có cảnh mà nói chẳng nên lời, vì Thôi Hiệu đã
đề thơ ở phía trên đầu ta rồi ! Vì Lý biết chắc
rằng, nếu mình có miễn cưỡng làm thơ, thì chắc chắn
chẳng bao giớ bằng được bài thơ mà Thôi Hiệu đã
làm, nên thôi. Nhưng nỗi lòng ấm ức vẫn cứ mãi âm
ĩ trong tâm, cho nên khi đến đất Kim Lăng, lên ngắm cảnh trên
Phụng Hoàng Đài, ông mới xúc cảnh sinh tình, mà làm
nên bài thơ " Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài " rất
xuất sắc, gieo vần và âm hưởng đều tương tự như
bài Hoàng Hạc Lâu
của Thôi Hiệu. Phải chăng để giải tỏa đi cái ấm ức
bấy lâu nay ở trong lòng ?. Ta hãy cùng đọc bài thơ này
nhé :
登金陵鳳凰台
Đăng KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI
鳳凰台上鳳凰游, Phụng Hoàng
Đài thượng Phụng hoàng du
鳳去台空江自流。 Phụng khứ
đài không, giang tự lưu
吳宮花草埋幽徑, Ngô cung hoa
thảo mai u kính
晉代衣冠成古邱。 Tấn đại y quan
thành cổ khâu
三山半落青天外, Tam sơn bán lạc
thanh thiên ngoại
二水中分白鷺洲。 Nhị thủy trung phân
Bạch lộ châu
總為浮雲能蔽日, Tổng vị phù
vân năng tế nhật
長安不見使人愁。 Trường An bất kiến sử nhân sầu
!
Phụng Hoàng Đài ở Kim Lăng.
Ngày xưa, phụng hoàng đã từng dạo chơi trên đài Phụng
Hoàng nầy, nay phụng đã đi rồi, chỉ còn dòng sông lặng
lẽ trôi. Hoa cỏ trong cung Ngô ngày xưa, nay đã tiêu điều
trong hẽm vắng, những bậc vương hầu khanh tướng nhà Tấn, nay
cũng chỉ còn lại những nấm mộ xưa. Nhìn ra xa, trong cảnh mây
mù, ba ngọn núi liền nhau như bị rớt một nửa trên vòm
trời xanh, bên dưới dòng sông Tần Hoài tách làm đôi
chảy thành 2 nhánh bởi cù lao Bạch lộ ( cù lao có rất nhiều
cò trắng trên đó mà thành tên ). Trong cảnh trí nầy,
mây mù lại che khuất cả vầng thái dương, nên không thấy
được đất Trường An, khiến cho người ta càng thấm thía
thêm nỗi sầu nhân thế...( Ông ví mây mù như là bè
lũ nịnh thần, che lấp mặt trời là lấn áp Thiên tử, khiến
cho người ưu thời mẫn thế cảm thấy lo buồn...) Theo Đường
Thi Tam Bá Thủ.
Chú thích :
.*. Phụng Hoàng Đài :Nằm ở Phụng Đài Sơn thuộc TP Nam Kinh
( là Kinh đô Kim Lăng ngày xưa ) , phía nam Quận Giang Ninh thuộc tỉnh
Giang Tô ngày nay.Tương truyền vào năm Tống Nguyên Gia của thời
Nam Triều có rất nhiều chim Phụng hoàng tụ tập ở nơi nầy,
vì thế mà xây đài tưởng niệm, Đài và Núi
đều lấy tên Phụng Hoàng từ đó.
* Mai 埋 : chôn, vùi. Ví dụ :
Mai một ; vùi lấp, chôn vùi.
*
Y Quan 衣冠 : Áo mão : chỉ những
người quyền quý, quan chức.
* Cổ
Khâu 古邱 : Gò đất xưa, ở đây ý chỉ các gò
đất hoang.
Diễn nôm
:
Phụng Hoàng Đài trước phụng hoàng chơi
Phụng đã biệt tăm, sông vẫn trôi
Hoa cỏ cung Ngô đà vắng vẻ
Y trang nhà Tấn cũng xa rồi
Ba núi lưng trời như ẩn hiện
Hai dòng sông nước rẻ đôi nơi
Cũng bởi mây mù che mặt nhật
Trường An chẳng thấy dạ bồi hồi !
So với
" Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu " thi bài nầy ngụ ý
xâu xa hơn, thâm trầm và có chiều sâu hơn, kỹ thuật cũng
nghiêm cẩn hơn, nhưng thơ của Thôi Hiệu lại khoáng đạt
hơn, trực tả cảnh trí trước mắt, hơi thơ liền lạc đi
một mạch từ đầu đến cuối, và " đi " thẳng vào
lòng người đọc !.... Hai bài đều có cái hay riêng, nhưng
sao ta vẫn thấy Hoàng Hạc Lâu như vẫn thanh thoát và gợi cảm
hơn... Có phải chăng... tại Hoàng Hoạc Lâu gần gũi, thân
thiết với người đọc hơn là với Phụng Hoàng Đài
?!!!....
Không riêng gì Lý Bạch, còn có rất nhiều thi sĩ đương
thời ngấm ngầm ganh tỵ với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi
Hiệu. Họ không ganh ghét, mà chỉ muốn chứng tỏ tài năng
của bản thân mình, vì địa vị và tài hoa của họ
cũng không thua Thôi Hiệu chút nào cả.!. Trong số những thi sĩ
" ngấm ngầm " nầy, ta thấy có Vương Xương Linh, tác giả
của bài " Khuê Oán " nổi tiếng với " Khuê trung thiếu
phụ bất tri sầu !....". Ông đã làm bài " Vạn Tuế Lâu
" với đủ cả âm hưởng và vần điệu của " Hoàng
Hạc Lâu ". Nào, ta hãy cùng đọc và tìm hiểu bài
thơ nầy nhé !....
萬歳楼
VẠN TUẾ LÂU
江上巍巍萬歳楼。 Giang thượng nguy nguy Vạn Tuế Lâu
不知経歴幾千秋。
Bất tri kinh lịch kỷ thiên thu
年年喜見山長在。 Niên niên hỉ kiến sơn trường tại
日日悲看水独流。 Nhật nhật bi khan thủy độc lưu
猿狖何曾離暮嶺。 Viên dứu hà tằng ly mộ lĩnh
鹭鷀空自泛寒洲。 Lô
tư không tự phiếm hàn châu
誰堪登望雲煙裏。 Thùy kham đăng vọng vân yên lý
向晩茫茫發旅愁。 Hướng vãn man man phát
lữ sầu
王昌齡
Vương Xương Linh.
Thích nghĩa :
Vạn Tuế Lâu cao cao ngất nghểu trên bờ sông Trường Giang, không
biết là trải qua mấy ngàn thu rồi. Nhưng, vẫn còn mừng vì
mỗi năm đều trông thấy núi xanh vẫn còn đó, chỉ buồn
là mỗi ngày đều thấy dòng nước âm thầm lặng lẽ
trôi. Bầy khỉ vượn vẫn luyến lưu chưa từng rời khỏi đĩnh
núi mỗi khi chiều xuống, cũng như đàn cò kia vẫn luôn luôn
bay lượn vô tư lự trên bãi sông lạnh lẽo. Ai là người
có thể leo lên đứng trên lầu cao nầy, nhìn vào trong khói
mây mờ mịt mỗi buổi chiều, mà không thấy lòng trổi dậy
một nỗi buồn lữ thứ tha hương ?!
Chú
thích :
*. Nguy nguy : Cao ngất nghểu, cao vòi
vọi.
*. Kinh lịch : Từng trải, trải qua.
*. Viên dứu : Từ kép chỉ Khỉ Vượn
nói chung.
*. Lô tư : Cò trắng, một
loại chim đồng.
*. Phiếm 泛 : Động từ, có nghĩa
là trôi nổi, chợt hiện. bơi chèo. Vd : Phiếm chu
là chèo thuyền đi vòng vòng chơi.
Tính từ , có nghĩa Rộng rãi, Nói chung. Vd : Phiếm luận. Một
nghĩa
nữa là Hời hợt. Vd : Phiếm phiếm chi giao 泛泛之交 : là bạn bè
bình thường, không thân thiết.
Diễn nôm :
Ngất
nghểu trên sông Vạn Tuế Lầu
Mấy ngàn năm cũ vẫn cao cao
Mừng trông núi biếc còn trơ mãi
Buồn ngắm sông côi vẫn chảy mau
Lũ vượn luyến lưu chiều núi thẳm
Đàn cò bay lượn bãi sông sâu
Nào ai lên gác trông mây khói
Chiều xuống mênh mông lữ khách sầu !
Mặc dù không so được với Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu,
và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài cũa Lý Bạch, nhưng
đây cũng là một bài thơ hay tả lại cảnh trí của
một Danh Lâu thuở xưa ở trên Tây Nam thành của Phủ Trấn
Giang thuộc Tỉnh Giang Tô.
Còn rất nhiều thơ tả lại " Tứ Đại Danh Lâu " 四大名楼 ( Đằng Vương Các , Hoàng Hạc Lâu,
Nhạc Dương Lâu và Phù Dung lâu ) . Nhưng vì bài viết đã
quá dài và ý của bài nầy là chỉ muốn đề cập
đến những bài thơ có liên quan đến Hoàng Hạc Lâu mà
thôi....
Xin hẹn lại bài kế tiếp. Trân trọng.
Đỗ Chiêu Đức.
_________________________________________________________________
ĂN CHƠI BỐN
MÙA
.
Kính
thưa Quý Thầy Cô và Các Bạn,
Nhân hãy còn là mùa Xuân, xin kính gởi đến quý Thầy
Cô và Các Bạn bài thơ " Ăn chơi bốn mùa, Bốn mùa
ăn chơi " của các Cụ ta ngày xưa, mà hồi còn bé,
tôi đã chép được " nó " ở nhà của Ông Ba
Hương Sư ở Ấp Yên Thượng ( Ba Láng ) như sau :
Xuân du phương thảo địa
春 逰 芳 草 地
Hạ thưởng lục hà trì
夏 賞 绿 荷 池
Thu ẩm hoàng hoa tửu
秋 飲 黄 花 酒
Đông ngâm bạch tuyết thi
冬 吟 白 雪 詩
Thích
nghĩa :
Mùa xuân thì đi dạo
chơi trên các thảm cỏ non. Mùa hè nóng nực thì ngồi
ngắm hoa sen nở trong ao. Mùa thu mát mẻ thì nhâm nhi rượu cúc
đào. Mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi thì ngâm thơ vịnh
tuyết trắng.( Đây chắc phải là các Cụ ở miến Bắc,
chớ Miền Nam làm sao có tuyết trắng để.... ngâm. ).
Chú
thích :
1.- PHƯƠNG 芳 : Thơm,
thuộc bộ Thảo 艸, nên chỉ mùi thơm nhè
nhẹ, dịu dàng của cỏ cây hoa lá. Thường được dùng
đặt tên cho phái nữ. Xin lạm bàn một chút về chữ
Phương nầy để thấy được rằng đàn ông Châu Á
khi xưa cũng " Ga Lăng " đáo để ". Này nhé , tất
cả những thứ gì thuộc về phái nữ đều có chữ PHƯƠNG
liền theo bên cạnh :
* Phương danh : Tên thơm, để chỉ tên của phái nữ. Ta thường
hỏi : Xin
cho biết " quý tánh phương danh ".
* Phương tâm : Trái tim thơm, chỉ trái tim và lòng dạ của
phái nữ.
* Phương
ý : Chỉ ý kiến hoặc tình ý của phái nữ
* Phương lân : Cô hàng xóm thơm phức, chỉ người hàng
xóm là phái nữ.
.... và một từ nữa mà cả đàn ông Tây phương "
ga lăng " nhất cũng phải chào thua là : Hương hạn 香汗 : Mồ HÔI thơm. Ở đây không xài chữ Phương
nữa mà sử dụng thẳng từ HƯƠNG để chỉ mồ HÔI của
các bà các cô cũng... thơm phức làm... " mê mệt người
qua lại " ( thơ Nguyễn Bính ).
2.- Hoàng
Hoa 黄花 : Hoa vàng, một cách riêng để gọi hoa CÚC.
Diễn nôm :
Xuân chơi trên thảm cỏ non
Hè thì thưởng ngoạn sen còn trên ao
Thu nhâm nhi rượu cúc đào
Đông ngâm thơ tuyết, thú nào hơn ta ?
Kính thưa Quý thầy Cô và Các Bạn,
Chúng ta có thể mỗi người cùng làm một bài thơ theo bất
cứ hình thức ( Năm chữ, bảy chữ, Nôm hay Hán.... ) thể nào
cũng được để diễn tả lại cái " ăn chơi " hoặc
" tiêu khiển " của bốn mùa nơi mà ta đang cư ngụ, có
được chăng ?. Dĩ nhiên, tôi là người bày đặt cho
nên phải đi đầu, xin trình làng bài thơ của tôi như
sau :
Xuân cuồng du viên hội
春 逛 游 園 會
Hạ nhập thủy công viên
夏 入 水 公 園
Thu
khánh hàm ân tiết
秋 慶 含 恩 節
Thánh Đản tại nhởn tiền.
聖 誕 在 眼 前
Nghĩa :
Mùa xuân thì đi vòng quanh các Hội Chợ ( Houston có rất nhiều
Hội Chợ các Chùa ). Mùa hè thì vào Công viên Nước.
Mùa thu thì đón lễ Tạ ơn ( học trò nghỉ suốt tuần
chót của tháng 11 ). Mùa đông thì mừng Chúa Giáng sinh đến
liền trước mắt sau Lễ Tạ Ơn.
Chú :
Chữ CUỒNG 逛 : Động từ có nghĩa
là nhàn du, là đi vòng vòng. Ta hay lầm chữ Cuồng nầy với
chữ Cuồng không có bộ Xước 狂 : Cuồng nầy là Tính
từ có nghĩa là mạnh bạo, là điên .Ví dụ : Cuồng
Phong là Gió Xoáy mạnh, và thường thì ta hay hiểu lầm nghĩa
của Câu " Tửu nhập tâm như cẩu CUỒNG tại thị ". Rượu
vào bụng rồi thì như con chó chạy vòng vòng ngoài chợ.(
Chớ không phải CHÓ ĐIÊN, vì nếu là chó điên thì
sẽ nói là CUỒNG CẨU ).
Bài
thơ nôm :
Ngày xuân ăn Tết ở Chùa
Hè Công viên Nước vui đùa cháu con
Thu sang đón Lễ Tạ Ơn
Giáng Sinh năm hết, chỉ còn khao đao ( count-down )
Xin kính gởi đến
Quý Thầy Cô và Các Bạn
để cùng chia xẻ,
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức
Hai ảnh dưới đây là
chữ viết bằng bút lông của ông Đồ Đỗ Chiêu Đức:
Ảnh đầu là kiểu chữ nửa HÀNH nửa KHẢI được
viết ngang như chữ Quốc ngữ . Còn ảnh kế là 2 kiểu chữ
viết Đứng, đọc từ phải qua. Kiểu đầu là lối chữ
LỆ, gọi là LỆ THƯ, có từ đời Tần, chữ dẹp và
có đuôi như chim én, gọi là Tàm Đầu Yến Vĩ ( đầu
tầm đuôi én ). Còn kế bên là lối chữ THẢO, cũng viết
từ trên xuống.
____________________________________________________________________________________
NGÀY XUÂN ĐỌC
THƠ ĐƯỜNG
Ngày Xuân mời đọc 2 bài thơ Đường:
1. VỊ HỮU của
Lý Thương Ẩn
Có
đọc giả gởi lời yêu cầu : " Tết đừng chọn thơ nhớ
quê nữa, buồn quá ! Chọn thơ nào vui vui, nổi tiếng mà ít
người biết á ! ". Cái nầy là làm khó ông đồ
rồi đây, chọn thơ vui vui thì dễ rồi, còn thơ nổi tiếng
mà ít người biết là làm khó nhau rồi. Đã nói
là nổi tiếng thì phải nhiều người biết, chớ làm sao ít
người biết được !?. Nhưng thôi, đồ tui cũng rán
đây, và xin nói trước là sẽ chọn một bài thơ HAY(
nổi tiếng không thì chưa biết ) mà ít người biết nhé
!
Xin
mời cùng đọc bài " VỊ HỮU " 爲有 của Lý Thương Ẩn 李商隱 sau đây :
VỊ HỮU
爲 有
Vị hữu vân bình vô hạn kiều
爲有雲屏無限嬌
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu
鳳城寒盡怕春宵
Vô đoan giá đắc kim qui tế
無端嫁得金亀婿
Cô phụ hương khâm sự tảo triều
辜負香衾事早朝
Dịch nghĩa :
Vì Có ...
Vì có bức bình phong vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn,
nên ở đất Kinh thành nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại
thấy lo sợ cho những đêm xuân, vì khi khổng khi không lại
lấy phải ông chồng làm quan lớn thế nầy, nên chi sáng xuân
( là thời khắc mặn nồng của đôi lứa ) ông ta lại phụ
rãi bỏ mặc nệm ấm chăn êm thơm phức để đi chầu
Vua buổi sáng sớm.!.
Chú thích :
*
Lý Thương Ẩn, tự là Nghĩa Sơn, hợp cùng Đỗ Mục,
thành một cặp Lý Đỗ ở buổi Tàn Đường. Tài hoa
và tiếng tăm cũng không thua gì cặp Lý Đỗ già, là
Lý Bạch và Đỗ Phủ của buổi Sơ Đường.....
*
Phụng thành : là một tên khác để gọi Kinh thành, nơi nhà
Vua đóng đô.
*
Xuân tiêu : là đêm xuân, trời chỉ se se lạnh, là thời khắc
tuyệt vời nhất cho đôi lứa yêu nhau, nhất là những cặp vợ
chồng son, nên chi người xưa cũng đã nói : Xuân tiêu nhất
khắc trực thiên kim ( đêm xuân một khắc giá đáng ngàn
vàng !).
* Vô
đoan : là khi khổng khi không, là những khiến xui không có tính
toán trước, là tự dưng đưa đẩy. Ở đây là
lời nói nũng nịu của nàng mệnh phụ...
*
Kim Quy Tế : Kim quy là rùa vàng. Tế là chàng rể, là chồng,
xưa gọi chồng là Phu Tế. Đời Đường, hễ làm quan mà
có phẩm trật, thì mặc áo có thêu hình con rùa viền
chỉ vàng, con rùa càng vàng thì quan càng cao, lâu dần thành
Thành ngữ, bây giờ người Hoa vẫn còn sử dụng từ KIM QUY
TẾ để chỉ những chàng rể giàu sang quyền quý. Các cô
gái người Hoa kén chồng giàu, gọi là đang Điếu Kim Quy,
nghĩa là đang Câu Rùa Vàng.
*
Hương khâm : hương là thơm, khâm là cái mền, cái chăn.
Hương khâm là gối chăn thơm phức.
*
Sự : là phụng sự là thờ phượng nhà Vua.
*
Tảo Triều : Buổi chầu sớm, thường thì vào khoảng canh năm,
cho nên canh tư phải thức dậy rồi, giờ đó mà phải rời
bỏ gối chăn thơm phức thì oan uổng thiệt !....
Diễn nôm :
VÌ CÓ
Vì có bình phong đẹp nhiệm mầu
Kinh thành se lạnh, sợ canh thâu
Khéo xui lấy phải ngài quan lớn
Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu
Lục Bát
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai,... đi chầu !
Quý
vị thấy thế nào ?. Theo đồ tui, thì đây là một bài
thơ HAY mà ít người biết, xin giới thiệu để quý vị đọc
cho vui, và.....
Quý
vị có nhớ gì không ? Bài thơ nầy làm ta nhớ lại
tâm lý của người thiếu phụ luôn luôn bị chồng lỗi
hẹn vì mắc chạy theo lợi nhuận trong bài GIANG NAM KHÚC của LÝ
ÍCH dưới đây:
2.GIANG NAM KHÚC của LÝ ÍCH
.. Hôm nay tôi xin nhắc
lại bài thơ " Giang Nam Khúc " 江南曲 của Lý Ích
李益
嫁得瞿塘賈,
Giá đắc Cù Đường cổ
朝朝誤妾期。
Triêu triêu ngộ thiếp kỳ
早知潮有信,
Tảo tri triều hữu tín
嫁與弄潮兒。 Giá dữ lộng
triều nhi !
Giải nghĩa :
Khúc hát xứ Giang Nam
Lấy được chú lái buôn ở xứ Cù Đường,( là
một điều may mắn đó, thường thì các lái buôn nầy
rất giàu ). Nhưng... ngày nào cũng lỗi hẹn với thiếp cả
!( chỉ lo đi tìm lợi nhuận ). Nếu sớm biết trước, nước
thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà
trước kia lấy gã chèo đò cho xong !
Chú
thích :
* Giang Nam khúc : là Khúc
hát của xứ Giang Nam, bài thơ nầy được trích trong phần
Nhạc Phủ ( những bài thơ dùng để phổ nhạc ).
* Giá : là gã chồng, là lấy chồng. Ta thấy trong bài có
2 từ kép, Giá Đắc :
là gã được cho ai đó, lấy
được ai đó, thường chỉ chuyện đã rồi. Giá Dữ
: Gã với, gã cho, tức là lấy ai đó, có thể đã
hoặc chưa xảy ra.
* CỔ 賈 : Chữ nầy được đọc bằng
2 âm và cũng có 2 nghĩa khác nhau :
1. Đọc là Cổ : Có nghĩa là lái buôn, con buôn, người
làm ăn buôn bán.
2. Đọc là Giả : Là họ Giả ( Ví dụ : Giả Bảo Ngọc
trong Hồng Lâu Mộng ).
* Triêu 朝 : Chữ nầy cũng có 2 cách đọc và 2
nghĩa như sau :
1. Đọc là Triêu : có nghĩa là Buổi sáng, hoặc chỉ có
nghĩa Buổi thôi, như trong câu : Dưỡng quân thiên nhật, dụng
tại nhất TRIÊU. Có nghĩa : Nuôi quân ngàn ngày,( chỉ ) dùng
trong một BUỔI.
2. Đọc là Triều : Nếu là danh từ thì có nghĩa là Trào,
ví dụ : Triều đại...
Nếu là động từ thì có nghĩa là Chầu, ví dụ : Câu
thơ ta mới học ở kỳ rồi : " Cô phụ hương khâm sự
tảo TRIỀU " đó.
* Ngộ : Là
làm lở vở, ở đây " Ngộ...Kỳ " là lở kỳ
hẹn, là trễ hẹn.
* Triều 潮 : Triều nầy có 3 chấm thủy đằng trước
nên có nghĩa là nước thủy triều. Một nghĩa nữa Triều
là Sóng. Ví dụ Tân Triều : là đợt sóng mới.
* Lộng Triều Nhi : Người chuyên biểu diễn về các màn bơi,
chèo, nhào lộn trên sông nước. Ỡ xứ Giang Nam, sông ngòi
chằng chịch cũng giống như là vùng đồng bằng Lục Tỉnh
của ta vậy, nhưng của ta địa phận nhỏ nhoi, còn xứ Giang Nam bao
gồm các tỉnh lớn như Giang Tô, Chiết Giang... chẳng hạn , nên
họ có rất nhiều trò kỷ xảo trên mặt nước, còn của
xứ ta thì chỉ giỏi bơi chèo,lội nước. Cho nên từ "
Lộng triều Nhi " chỉ tạm dịch là Chú lái đò hoặc
Anh chèo đò chuyên nghiệp mà thôi.
Diễn
nôm :
Thơ 6 chữ
Lấy phải Cù Đường thương lái
Thường ngày bỏ thiếp nằm co
Lớn ròng nước kia đúng hẹn
Biết trước, lấy gả chèo đò !
Lục Bát
Ai xui lấy lái Cù Đường
Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương muộn phiền
Đầy vơi dòng nước thường xuyên
Phải dè lấy gả chèo thuyền cho xong !
Cũng như bài " Vị Hữu " , đây cũng là một bài thơ
thuộc loại " Khuê oán "( nỗi buồn thương oán trách
ở chốn khuê phòng ) ngày xưa. Trong bài thơ nầy, Cái "
oán " lên cao ở chữ " ngộ " và chữ " triêu triêu
" , rồi bộc phá ở 2 câu chót. Ta thấy, tình yêu nam nữ
ở bất cứ thời nào cũng mãnh liệt vô cùng, bị rào
cản đạo đức của Nho giáo, nàng mệnh phụ chỉ oán trách
thôi, rồi cam chịu lạnh lẽo trong... nệm ấm chăn êm, còn nàng
" thương lái " nầy thì thực tế hơn, nhân bản hơn,
mãnh liệt hơn...nói lên tiếng nói của con tim yêu đương
cuồng nhiệt, xé rào Nho gia ở chữ " Tảo tri "(sớm biết )
mà thầy đã rán dịch cho xác ý là " Phải dè "....
Nhưng tựu trung, vẫn là để diễn tả cái " oán " đã
lên đến cực điễm, chớ vẫn chưa dám "xé rào"
thật, Vì, nước thủy triều thì lên xuống đúng hẹn,
nhưng " gả chèo đò " chưa chắc đã về nhà đúng
hẹn đâu !!! " oán " thì nói lẫy thế thôi, chứ
lấy chồng thương buôn giàu có vẫn hơn là lấy anh chèo
đò để uống nước sông....cầm hơi à ?!
Qua 2 bài thơ xưa, chúng cũng thấy, đề tài " tình yêu
" là đề tài muôn thuở. Trời sanh ra nam nữ bình đẳng,
xã hội phát sinh ra đạo Nho, thành ra trọng nam khinh nữ, ức chế
tình yêu của nữ giới, nhưng có được đâu, nhu cầu
đòi hỏi, khao khát tình yêu vẫn thể hiện qua từng thời
đại. Giàu sang như anh lái buôn Cù Đường, quyền quý
như ông " Kim quy tế " mà lơ là trong tình yêu, thì vẫn
tạo nên tiếng " oán" như thường.....Mới biết tình yêu
mãnh liệt và vĩ đại cở nào !!!......
Thơ Khuê oán, Cung oán... trong Đường thi nhiều vô số kể,
đây chỉ là 2 bài tiêu biểu, một quý tộc, một bình
dân. Hai bài thơ này HAY mà ít người biết....
Hẹn lần sau ở đề
tài khác....
TB :
Xin giảng
bổ túc về chữ VỊ :
Có
3 hình thức viết như sau : Giản thể : 为
Phồn thể : 為 và 爲.
Có 2 âm đọc như
sau : VI ( không có dấu nặng ) là Làm, Ví dụ : Vi nhân nan
; Làm người khó. " Ấu bất học, lão hà VI " : Nhỏ
mà không học, lớn làm " Đại Úy "( Hà vi là làm
gì, ý nói là làm được gì ! " Thanh tịnh vô VI "
là chữ VI nầy đây.
Đọc
là VỊ ( có dấu nặng ) : Có 2 nghĩa, khi là Giới từ ( preposition
) thì có nghĩa là Vì, như tựa của bài thơ đã học
Vị Hữu : Vì Có.
Khi là
Nghi vấn tự thì có nghĩa Vì sao?. Ví dụ : Vi hà 爲何? là
Tại làm sao, là Vì lẽ gì ? Bạch thoại 白話 thì
hỏi là 為甚麼 ?.
_____________________________________________________________________
Kính gởi Quý vị,
Đây là
bài viết cho các em học sinh cũ trên mạng tanhunggroup, sẵn gởi đến
quý vị đọc chơi, tiêu khiển.
Xin cáo lỗi, vì đã
làm biếng viết lại !.
Đỗ
Chiêu Đức
LINH LĂNG TẢO XUÂN
零 陵 早 春
_______________________________________
Các
em thân mến,
Sáng
nay, Mồng một Tết, nhưng lại là ngày Thứ Hai, mọi người
đều đi làm cả. Đường phố trong khu nhà ở vốn dĩ
đã vắng lặng,
hôm nay càng cảm thấy vắng lặng hơn ! Tự
dưng nghe lòng dâng lên một niềm cảm xúc, nỗi cảm xúc
của một tâm trạng xa quê, cảm thấy như mất đi cái gì đó mà biết chắc là sẽ
không bao giờ tìm lại được..... Giở quyển " Đường
thi tam bá thủ " 唐詩三百首, tình cờ làm sao lại đọc được
bài thơ
" Linh lăng tảo xuân " của Liễu Tông Nguyên, ( 柳宗元 ) càng xúc động thêm với nỗi niềm quê
hương cố thổ.... Xin chép và dịch lại để cùng chia xẻ
với các em.....
LINH LĂNG TẢO XUÂN
零 陵 早 春
Vấn xuân tòng thử khứ
問 春 從 此 去
Kỷ nhật đáo Tần Nguyên
幾 日 到 秦 原
Bằng ký hoàn hương mộng
凭 寄 還 鄕 夢
Ân cần nhập cố viên
殷 勤 入 故 園
Dịch nghĩa :
Hỏi Xuân rằng, từ đây đi, thì mấy ngày Xuân mới đến
được xứ Tần Nguyên. Cho ta gởi theo cái " mộng hoàn
hương ", ân cần về
tận quê nhà.( Chứ đang
ở nơi xa xôi nầy, ta sẽ không sao về nhà trong mùa xuân nầy
được ! ).
Chú thích :
Linh Lăng là một địa danh ở miền Nam, còn Tần Nguyên thì
ở Bắc. Ở miền Nam ấm áp thì mùa xuân đến sớm hơn,
còn miền Bắc
lạnh lẽo thì nàng xuân sẽ
đến muộn hơn.
Bây giờ thì hãy xem thầy diễn nôm đây, vì tâm trạng
quá xúc động , nên thầy diễn nôm 2 bài, 1 bằng thơ 6 chữ,
và 1 bằng thơ Luc Bát, như sau...
Thơ sáu chữ
Hỏi Xuân từ đây giả biệt
Bao giờ mới đến Tần Nguyên
Ta gởi mộng hồn tha thiết
Ân cần về tận cố viên
Thơ Lục Bát
Từ đây giả biệt, hỏi Xuân
Bao giờ mới đến xứ Tần Nguyên ta
Gởi lòng theo mộng thiết tha
Ân cần về tận quê nhà xa xăm !
Thấy xuân đến, chạnh lòng nhớ quê mà gởi cái " mộng
hoàn hương ", ân cần nhờ mùa xuân mang về tận quê nhà,
đây quả là một lối gởi đặc
biệt và tuyệt vời biết bao !
Mặc dù,
chúng ta đang ở đất Bắc, và mặc dù Mỹ đi sau hơn Việt
Nam đến mười hai tiếng đồng hồ, nhưng sao ta vẫn thấy nao nao
mỗi độ xuân về, cứ
lo cho quê hương chưa có mùa xuân, nhưng có biết đâu
rằng chính chúng ta đây mới là những kẻ khao khát mùa
xuân, và chỉ hoài niệm, rồi nuối tiếc
đi tìm những mùa xuân trong quá khứ.....
Đầu
Xuân, gởi chút mộng lòng tha thiết về với quê hương......
Thầy Đức.
Tái bút :
Nếu em nào có nhã hứng, mời các em cùng dịch với thầy
cho... càng nhớ quê hơn !...
.PHỤ
BẢN:
Kính gởi Ngài Trần
Bang Thạch Đây là bản
viết tay bằng bút lông của bài " Linh Lăng Tảo Xuân "
mà tôi đã viết hồi 25 tuổi ( cách nay
40 năm ), kính gởi
ngài để tham khảo !
Đỗ Chiêu Đức
________________________________________________________________________________________
VÀI CÂU ĐỐI TẾT
Bây giờ thì ta hãy quay về
với Câu Đối TẾT cho vui nhà vui cửa nhé !
Thầy xin mở màn với
câu đối 5 chữ thật hay như sau :
Hữu thiên giai lệ nhật 有天皆麗日
Vô địa bất xuân phong 無地不春風
Có nghĩa :
Câu 1 : Hễ nơi nào có trời là nơi đó có nắng
đẹp ( của mùa xuân ).
Câu
2 : Không nơi nào trên mặt đất là không có gió xuân
thổi.
Câu
đối thật hay, nhưng bị chê vì mê tín, tại sao ?. Các ông
bà xưa cho rằng câu đầu bắt đầu bằng chữ Hữu là
Có ( tốt ). Nhưng câu nhì lại bắt đầu
bằng chữ Vô là Không
thì lại xấu.. Có trước rồi Không sau, là không có gì
hết !
Năm
đầu tiên vào sinh hoạt với Hội Cao niên ở TT Việt Mỹ, thầy
đã làm câu đối Tết sau đây :
Ức
cựu xuân, Tổ quốc giang san hoán nhiên hoan cựu tục
憶 舊 春, 祖 國 江 山 焕 然 歡 舊 俗
Nghinh tân tuế, tha hương khách địa miễn cưỡng quá
tân niên.
迎 新 嵗, 他 鄉 客 地 勉 强 過 新 年.
Diễn nôm :
Nhớ xuân xưa, Tổ quốc giang san tưng bừng vui Tết đến,
Đón năm mới, quê người đất khách miễn cưỡng đón
xuân sang.
Câu đối nầy bị cộng đồng
Việt Mỹ chê vì viết bằng tiếng Hoa, trong khi mọi người đang
phản đối TQ chiếm Hoàng Sa, Trường Sa . Họ không nhớ rằng
xưa kia ông cha VN đều học chữ Nho, tức Tiếng
Hán Cổ, và bản thân chữ nghĩa không có tội tình gì
cả !
Vì lý do trên, nên năm Canh Dần, thầy lấy chữ Nho làm chữ
Việt ( chữ Nôm ) để làm câu đối sau đây :
Canh
cánh khôn nguôi, mỗi độ Xuân về thêm nhớ nước,
Dần dà hội nhập, bao lần Tết đến vẫn mong quê.
Câu đối được hoan
nghinh ngay và được in lên Nguyệt san của Trung Tâm trong tháng giêng
năm 2010. Theo đà đó Tết năm Tân Mão 2011, thầy lại
làm câu đối
sau đây :
Tân Mão Tân niên, Việt Mỹ lại mừng Xuân mới.
Cựu phong cựu tục, Trung Tâm vẫn nhớ Tết xưa.
Còn đây là câu
đối của năm nay :
Nhâm Thủy Xuân về, Bốn bể đồng môn vui đón Tết,
Thìn Long Tết
đến, Năm châu thân hữu chúc mừng Xuân.
Câu đối này làm cho Hội Ái hữu PTG&ĐTĐ, họ gọi
những người học chung là Đồng môn và các bạn bè
là Thân hữu. Khi viết cho Trung Tâm Hội
cao niên Việt Mỹ thì sửa lại
như sau :
Nhâm thủy lại về, Việt Mỹ chung lòng vui Tết,
Thìn rồng tái hiện, Trung Tâm hồ hỡi đón Xuân.
Bây giờ thì thầy làm
câo đối Tết cho Tân Hưng nhé !
Nhâm là thủy, có thủy có tiền, Tân Hưng đồng học...
vui như Tết,
Thìn là rồng, vẽ rồng vẽ rắn, Thầy cô thân hữu...đẹp
tựa Xuân !
Còn 2 tiếng đồng hồ nữa thì TP HOUSTON TX đón giao thừa 2012.
Xin kính chúc quý Thầy Cô, quý đồng học, quý...học trò,
quý em...
được
hưởng một năm mới An Khang và Thịnh Vượng ! Trân trọng.
Đỗ Chiêu Đức.
__________________________________________________________________________________________________________________
Kính gởi Quý vị,
Đây
là bài viết cho các em học sinh cũ trên mạng tanhunggroup, sẵn gởi
đến quý vị đọc chơi, tiêu khiển. Xin cáo lỗi, vì đã
làm biếng viết lại !.
Đỗ
Chiêu Đức.
.
NÓI VỀ
CÂU ĐỐI TẾT
.
Các em thân mến !
Lại nói về Câu đối Tết nhé ! Trước tiên, thầy xin
giảng rõ các từ sau đây :
* Chữ AN 安 là Yên, Bình an là
bình yên, đó là Hình dung từ. Còn khi là Nghi vấn từ,
thì chữ AN có nghĩa là : Làm sao, như thế nào ? Ví dụ
:
An năng 安能 : nghĩa là Làm sao được,
làm sao có thể.
* Chữ HẢO
好 là Tốt ( tính từ ). Nhưng khi là Nghi vấn
từ, thì có nghĩa giống như chữ AN. Ví dụ :
Hảo bất 好不 có nghĩa là : Sao mà khỏi, làm sao cho khỏi.
Bây giờ thì ta vào
truyện nhé ! Như thầy đã từng nói về Giang Nam Tứ Tài
Tử ở trên mạng nầy một lần rồi, không biết có em nào
còn nhớ không ? . Nổi tiếng nhất là Đường Bá Hổ,
kế đến là Chúc Chi Sơn, Văn Trưng Minh và Châu Văn Tân
( có sách nói là Từ Trinh Khanh ). Kỳ nầy, thầy chỉ
nói về Chúc Chi Sơn 祝枝山 mà
thôi !
Chúc Chi Sơn, người xứ Tô Châu, rất giỏi về thư pháp,
ông viết được nhiều kiểu chữ và viết rất đẹp.
Người đương thời thường xưng tụng : Họa thì có Đường
Bá Hổ, Thư pháp thì có Chúc Chi Sơn....
Có một lần, ông đến thăm Đường Bá Hổ ở Hàng
Châu, nhưng lại ở trọ nhà của Châu Văn Tân, nấn ná
lần lừa mà đã đến giao thừa. Dân chúng ở Hàng Châu
có tục lệ là chỉ dán liễn không có chữ, lấy ý
là : suốt năm bình an vô sự. Trong cơn tửu hứng cuối năm,
Chúc Chi Sơn cười bảo rằng : Họ muốn bình an vô sự, năm
nay ta phải cho họ " hữu sự " mới được !. Bèn bảo gia
đồng của mình chuẩn bị mực viết và mượn thêm
một thư đồng của Châu Văn Tân để xách lồng đèn
dẫn đường....
Sau khi
cúng Giao thừa, mọi nhà đều đóng cửa đi ngủ, nhà
nào cũng dán sẵn một đôi liễn đỏ không có chữ
gì cả. Khi đến một nhà lớn xây mặt về hướng đông,
thư đồng bảo rằng đây là nhà của một đại thiện
nhân ( nhà hảo tâm hay làm việc thiện ) ở địa phương,
Chúc bèn dừng lại, viết đôi câu đối sau :
Hướng dương
môn đệ xuân thường tại 向陽門第春常在
Tích thiện nhân gia lạc hữu dư
積善人家樂有餘
Có nghĩa : Nhà xây
về hướng mặt trời, nên mùa Xuân thường ngự nơi đó.
Người trong
nhà hay làm việc thiện, nên niềm vui luôn có thừa.
Khi đến một căn
nhà nhỏ, nhưng cũng khá khang trang, thư đồng bảo rằng :
Lúc
ban chiều, khi người chồng đi làm xa về, vợ lục lọi trong tay nải,
thấy không có đem tiền gì về ăn Tết cả, nên không
cho ăn cơm đoàn viên chiều 30 Tết, đến khi phát hiện trong
túi quần của chồng có đến mấy chiếc nhẫn vàng, mới
cho ăn cơm và thân cận, bây giờ thì họ đã ngủ yên
rồi !. Chúc Chi Sơn bèn cả cười và cất bút đề
rằng :
Nang nội vô tiền, hưu tưởng ẩm thực nam nữ ,
囊 内 無 錢,休 想 飲 食 男 女
Đại trung hữu vật, tiện thành sài mễ phu thê.
袋 中 有 物,便 成 柴 米 夫 妻
Tạm diễn nôm :
Túi xách không tiền, đừng hòng gái trai ăn uống,
Trong lưng có bạc, mới mong chồng vợ cháo cơm .
Cứ thế,
họ đi hết dãy nầy đến dãy khác.....
Khi đi đến
một tòa nhà cao cửa rộng, sơn son thếp vàng, thư đồng bảo
Chúc Chi Sơn đừng viết liễn ở cửa nầy, vì đây là
nhà của một ác bá nổi tiếng của xứ nầy, Chúc bảo
là thế thì càng cần phải viết, thấy có 2 lớp cửa, cửa
lớn ở ngoài dán đôi liễn trống thếp vàng, Chúc bèn
viết đôi câu đối như vầy :
Minh nhật phùng xuân, hảo bất hối khí, 明日逢春,好不晦氣
Chung niên đão vận, thiểu hữu dư tài.
终年倒運,少有馀财
Có nghĩa :
Ngày mai đón xuân, chẳng xui xẻo
lắm sao,
Suốt năm lận
đận, không tiền tài dư dã.
Cửa trong , nhỏ hơn, dán đôi liễn trống màu đỏ, Chúc
bèn viết :
Thử địa an năng cư trú
此 地 安 能 居 住
Kỳ nhân hảo bất bi thương.
其 人 好 不 悲 傷.
Có nghĩa :
Nơi nầy làm sao mà ở được !
Người ở đây sao mà khỏi được buồn lo !
Viết xong, ông lại ký
tên đàng hoàng là : Tô Châu Giải Nguyên Chúc Chi Sơn thư.
làm cho 2 đứa thư đồng đều hoảng sợ, lo lắng......
Sáng sớm hôm sau, Mùng
Một Tết, Cả thành Hàng Châu xôn xao lên, vì tất cả liễn
trống đều đã được ai đó viết chữ lên....Dĩ
nhiên, có người rất hoan hỉ, vui vẻ vì những lời chúc
Tết tốt đẹp ở trên đó, như Nhà Hảo tâm làm việc
thiện kia vậy, có người cũng lỡ khóc lỡ cười như 2 vợ
chồng nhà nghèo kia, nhưng...cũng có người giận dữ và thưa
lên Quan Phủ, như nhà Ác bá nọ... Chúc Chi Sơn đã chuẩn
bị tư thế sẵn sàng đi hầu quan từ sáng sớm, nên khi được
mời là ông lập tức đến ngay. Quan Phủ kính trọng ông vì
ông là một Giải Nguyên, lại là Tài Tử nổi tiếng của
xứ Giang Nam, nên chỉ hỏi ông, vì sao viết những lời xui xẻo,
xấu xa cho nhà ác bá kia?. Ông cười và trả lời rằng :
Đó toàn là những lời chúc tốt đẹp cả mà !. Tên
Ác bá cải lại rằng : Ông có chắc là những lời tốt
đẹp không ?. Chúc bảo : Thư pháp của ta, một chữ giá đáng
ngàn vàng ( Nhất tự trực thiên kim 一字值千金 ), ông không
trả công cho ta còn thưa gởi lôi thôi !. Tên Ác bá cải
: Nếu quả thực là những lời tốt đẹp, ta sẽ sẵn sàng
trả cho ông một ngàn lượng bạc, bằng ngược lại thì
ông tính sao đây?. Chúc đáp là mình sẽ chịu mọi
hình phạt do quan xử. Được lời của hai bên, Quan Phủ bèn
cho sai nha đến nhà của tên Ác bá gở hai đôi liễn xuống,
mang đến công đường. Tên Ác bá dương dương tự
đắc, phen nầy cho nhà ngươi hết chạy tội, còn Quan Phủ thì
lo ra mặt, vì thấy đôi câu đối xấu quá,không biết
phải xử sao cho được. Chỉ có Chúc Chi Sơn là tươi cười
giải thích rằng : Vì suốt đêm bận viết liễn, nên khi viết
đến nhà của tên Ác bá ông đã quên chưa kịp
chấm câu, và ông bèn mượn cây bút trên bàn của
Quan Phủ, chấm lại đôi câu đối như sau :
Câu 1:
Minh nhựt phùng xuân hảo, bất hối khí,
Chung niên đão vận thiểu, hữu dư tài.
Có nghĩa :
Ngày mai đón
xuân tốt đẹp, không có gì xui xẻo,
Suốt năm vận xui xẻo rất ít, có tiền bạc dư dã.
Câu 2 :
Thử địa an, năng cư trú,
Kỳ nhân hảo, bất bi thương.
Có nghĩa :
Nơi đây yên lành, có thể ở được,
Người ở đây tốt, không có chuyện buồn lo.
Kết quả như thế nào
thì các em chắc cũng đoán được rồi... Chỉ biết là
sau đó, Chúc Chi Sơn về lại nhà của Châu Văn Tân, mời
cả Đường Bá Hổ cùng đến, anh em cùng nhậu...mút mùa
cũng không hết một ngàn lượng bạc.....
Hẹn gặp lại các em ở tuần sau.
Thầy Đức.