TRANG
VĂN - ẢNH Nguyễn Như Hùng __________________________________________________________________
SĂN ẢNH: NGƯỜI SAN JOSE ĐI TÌM DÁNG
THU __________________________________________________ Ca dao thời đại: "
Trăm năm trong cõi người ta, Những điều
muốn biết, cứ vào gu-gô ( google)" Thu năm nay, qua Canada chụp lá vàng. Google là người chỉ đường
dẫn lối rất tài tình. Trên
google có hình cây lá đỏ rất đẹp (hình
1).
Dáng Thu trên Google (Before)
Qua bao dặm đường, bay từ tây
sang đông nước Mỹ, rồi tiếp sang Ottawa, lái xe, suốt bao nhiêu
giờ, tìm cây lá đỏ. Lại phải hỏi google! Google chỉ, đến
nơi rồi, Hunsville! Sao không thấy?
À nó đây rồi! Đứng
ngay trước mặt mà không nhận
ra, vì cứ tìm màu đỏ! (BBT: Sao nghe như "Before/
After" của giải phẫu thẩm mỹ) Cuối
cùng, trước khi chia tay ra về, đứng chụp với nàng Thu Canada một
tấm cho bõ công tìm kiếm!
Nàng Thu
Canada! (After) Hình dưới đây mới
chụp sáng nay (Nov 26), gần nhà, chẳng khác gì...
Nàng Thu gần nhà ...hình google chỉ tận bên Canada:
Lại Nàng Thu Canada! "Bụt
chùa nhà không thiêng"!
NNH _________________________________________________________________________________________
Từ Sơn -1945- Khởi đầu cuộc đời tản cư. Nguyễn-Như-Hùng
Lọc
cọc! lọc cọc! Chiếc xe ngựa chuyên
chở gia đình chúng tôi rời khỏi thị xã Đáp-Cầu hướng
về phủ Từ-Sơn. Nơi đây có làng Tiêu-Sơn, nhiều bà
con họ hàng của bà Ngoại sinh sống tại đây. Bà Ngoại thường
nói: đi về Tiêu. Vị trí phủ Từ-Sơn, nay là thị
xã Từ-Sơn, nằm ở khoảng giữa, cách Đáp-Cầu chừng
20 km về phía bắc, cách thành phố Hà-Nội chừng 20 km về phía
nam.(Tên gọi và danh giới địa lý dùng trong bài này được
áp dụng ở thời điểm năm 1945, trước khi VM cướp chính
quyền). Theo trí nhớ của đứa
trẻ 8 tuổi, trên xe ngựa có Mẹ và 7 anh chị em. Chị lớn
12 tuổi, em bé nhất, khoảng hai tháng tuổi . Bà Nội và Bố
ở lại trông nhà vì có công việc hàng ngày. Nội
trông coi cửa tiệm bán giầy dép. Bố đi làm công sở, xế
bên kia đường. Theo lời kể của chị Nga, chị cả, trên xe còn
có U Bê (vú nuôi cô em bé, nhà thường gọi là Bê
) và thằng Bút ( Bút phải lớn tuổi hơn tôi, nhà quen gọi
là thằng Bút) phụ Mẹ để trông coi đàn trẻ nhỏ . Tộng
cộng 10 người với những túi quần áo cùng đồ dùng
lỉnh kỉnh hàng ngày chất đầy trên xe, 2 ngựa kéo. Chị
Nga nhớ, phải 2 ngựa mới kéo nổi. Xe chở nặng, đường lại
xa. Chiếc xe ngựa với 2 bánh xe bằng gỗ, viền sắt, không bọc
cao su , lọc cọc lăn trên đường đất gồ ghề. Mỗi lần
sụt ổ gà, bọn trẻ chúng tôi lại có dịp vui cười,
đùa rỡn. Lúc đầu mới trèo lên xe, đứa nào cũng
rụt rè, sợ sệt. Bây giờ xe đi được một quãng xa, bọn
nhỏ thích lách ra ngồi ngoài để dễ nhìn ngắm phố xá,
nhà cửa hai bên đường. Ra khỏi thị xã, ruộng đồng bát
ngát, không khí khoáng đãng, chúng tôi lại càng phấn
khởi hơn, vì từ bé chỉ quanh quẩn trong thị xã nhỏ xíu
này, chưa đi đâu xa. Nhưng đâu có biết rằng người
lớn rầu rĩ, lo lắng biết chừng nào!. Mẹ tôi, lúc đó
mới 33 tuổi, đem 7 đứa con, 2 trai, 5 gái đi chạy loạn. Mới tuần
trước đây, máy bay Đồng Minh ( Mỹ) thả bom xập cầu sắt
Đáp-Cầu, bắc qua sông Cầu, nối liền 2 tỉnh, Bắc-Ninh với
Bắc Giang. Nhà tôi ở phố Chính, gần cầu, cửa kính lớn
trưng bày ngoài tiệm của Nội vỡ tan tành. Máy bay Mỹ vần
vũ thường ngày. Trại lính Nhật là mục tiêu oanh tạc của
không quân Mỹ, lại nằm kế cận nhà tôi. Tôi học trường
nam tiểu học Đáp Cẩu. Từ nhà đến trường đi bộ
chưa tới 10 phút. Sáng nào đi học, tôi cũng phài qua trước
cổng trại lính Nhật. Trong sân trại, nhiều toán lính xếp thành
hàng tập thể dục, tập võ, chạy nhẩy, đấm đá, hô
vang những tiếng lạ hoắc. Tất cả đều cắt tóc ngắn, người
lùn, phục phịch, trông có vẻ dữ tợn. đằng đằng sát
khí. Trước ngày quân Nhật đảo chánh Pháp, 9-3-1945, trại
này là trại lính Pháp. Sau 2 trái nguyên tử Mỹ thả trên
đất Nhật, Nhật thua trận và tuyên bố đầu hàng Đồng
Minh, ngày 14-8-1945. Nghĩa là, Nhật làm chủ trên toàn lãnh thổ
VN được 5 tháng, 5 ngày. Như
vậy, lúc Bố Mẹ quyết định đưa bọn trẻ chúng tôi
ra khỏi thị xã Đáp-Cầu, tản cư về vùng quê, để
tránh máy bay oanh tạc, là lúc chiến tranh thế giới thứ 2 ( ở
VN là giữa Mỹ và Nhật), đang thời kỳ quyết liệt. Thời
gian đó là vào dịp hè năm 1945. Ngồi trong xe ngựa,thỉnh thoảng
làn gió mát đồng nội thổi tới, người và ngựa cũng
cảm thấy bớt mệt mỏi. Bọn nhỏ lim dim ngủ. Trên xe chỉ có
Mẹ tôi biết đường và chỉ lối cho anh xà ích lái
xe ngựa vào Tiêu Sơn. Đến Tiêu,
chúng tôi gặp Ngoại và gia đình cậu Cả Đắc đã
đến rồi. 5 con của cậu Cả, khoảng cùng lứa tuổi với
chúng tôi, gặp nhau tíu tít, quên cả đói, mệt. Gia đình
tôi ở nhà Ông Ninh, Ngoại và gia đình Cậu ở nhà ông
Ban. 2 nhà trông sang nhau, giữa là con đường nhỏ. Nhà quê nên
vườn sau rất rộng. Trẻ nhỏ tha hồ chạy nhẩy. Vì còn bé,
chúng tôi chỉ chơi quanh quẩn gần nhà. Tiêu Sơn có hồ nước
lớn, ao Tiêu, đứng ở cửa, nhìn thấy, không xa mấy, nhưng
chúng tôi, con nít, nên cũng chưa được đến nơi đó
để thăm thú, để bơi lội. Bà con Đáp Cầu tản cư
đến Từ Sơn nhiều lắm. Đi chợ huyện, gặp đủ mặt.
Gia đình chúng tôi, cũng giống như bà con Đáp Cầu khác,
ở Từ Sơn khoảng 1 tuần, thấy tình hình êm êm lại rủ
nhau về. Về nhà được ít
lâu, tình hình chiến sự thay đổi dồn dập: 14-8-1945 Nhật đầu hàng, chấm dứt thế chiến thứ
2. 19-8-1945 Việt Minh nổi lên cướp
chính quyền. 2-9-1945 Hồ Chí Minh đọc
bản tuyên ngôn độc lập (Sau
ngày này ít lâu, HCM có đến thăm Đáp Cầu. Lúc đó,
trong đội "Nhi đồng cứu quốc", đứng dàn chào chủ
tịch trước sở cẩm (trụ sở Cảnh sát, tên thường gọi
thời Pháp thuộc), tôi nhìn thấy rõ HCM ngồi trong chiếc xe hơi
nhỏ mầu cam đậm. Điều mà tôi nhớ nhất đến bây
giờ là phía trên góc trần trong xe có gắn một cái quạt
máy nhỏ chạy vù vù, tôi phục quá, văn minh quá, từ bé
chưa bao giờ thấy ly kỳ như vậy!) 5-10-1945
quân Pháp do tướng Leclerc vào Saigon. 6-3-1946
hiệp địng sơ bộ Việt Pháp 18-3-1946
quân Pháp vào Hanội 15-6-1946 người
lính Tưởng Giới Thạch cuối cùng dời VN 19-12-1946 cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ khắp nước.
16-1-1947 HCM phát lệnh Tiêu thổ kháng chiến
toàn quốc. VC học đòi theo chính sách "Tiêu thổ kháng
chiến" man rợ của đàn anh, đuổi người dân vô tội
ra khỏi thành phố. Gia đình chúng tôi lại phải khăn gói
lếch thếc lên đường, bỏ lại tất cả nhà cửa, đồ
đạc, tìm nơi lánh nạn. Lần này, có thêm bà Nội,
gia đình xuống thuyền đậu ở bờ sông Cầu, cùng một
số đồ dùng cần thiết. Thuyền chèo và thêm 2 người
kéo chạy trên bờ dọc theo giòng sông, đến làng Xuân-Thủy
thì dừng lại. Tất cả lên bờ, lội bộ về ấp Xuân-Thủy,
ấp của Ngoại. Chúng tôi ở trong căn nhà ngói đỏ rộng
lớn cùng với gia đình các cậu, các dì. Thời gian sống
ở đây là vui nhất vì có nhiều anh chị em cùng lứa tuổi,
tạm thời bình yên, Tây chưa càn quét tới. Vài tuần sau ngày ra đi, tôi theo Mẹ và U Bê
đem theo túi vải đựng hoa, quả, nhang, nến về thăm nhà cũ.
Than ôi! Cả thị xã Đáp Cầu trở thành đống gạch
vụn. Những con đường quen thuộc tôi đi học hàng ngày, giờ
đây không nhận ra nổi ! Bủn rủn chân tay, đầu óc hoang mang,
như đang lạc lõng trong một nghĩa trang xa lạ! Dừng chân, định
thần lại, đảo mắt tìm Mẹ. Mẹ và U vẫn lầm lũi phía
trước, bước thấp bước cao trên đống gạch đổ vỡ
hoang tàn. Mẹ ơi! Mẹ có buồn không? Mẹ có khóc không?
Bao nhiêu của cải tan tành theo mây khói! Cậu bé 10 tuổi, chỉ
biết bước theo Mẹ, đạp lên những tảng gạch đổ vỡ,
tìm về căn nhà cũ. -"Ô..! Mẹ ơi! Cây dâu nhà ta
kìa!" Mừng rỡ, tôi chạy vội về hướng đó.
Mẹ và bà U theo sau. Cây dâu còn nguyên vẹn giữa những hoang
tàn đổ nát. Cây dâu với bao kỷ niệm thời ấu thơ như
vừa sống lại trong tôi, sau bao tai họa khủng khiếp do chính những
con người mù quáng không xa lạ với dân trong làng. Cành lá
rung rinh như đang chờ đón chúng tôi. Sân sau nhà tôi có
độc nhất 1 cây là cây dâu, loại dâu ta, như loại dâu
lấy lá nuôi tằm, không biết trồng từ bao giờ, cao hơn mái
nhà, cho nhiều trái (nhỏ hơn dâu tây), khi chín đen thì rất
ngon và ngọt. Có lần té, sướt tay chân khi trèo lên hái
trái. Về sau, tôi thường dùng cây sào hái xuống ăn. Bây
giờ đang đứng trên nền nhà mình , Mẹ và bà U lo tìm
chỗ để đặt bàn thờ, thắp nhang...Tôi thẩn thơ, lững
thững trên đống gạch vụn rải rác trong sân nhà, cố tìm
xem còn vật gì quen thuộc. Không còn gì ngoài cây dâu! Hôm
ra đi vội vàng, đâu có đem theo được hết. Giầy dép
trưng bầy trên kệ trong tủ kính ngày ra đi, nay không còn một
chiếc. Tôi đi tìm cây sào hái dâu, cũng mất tiêu. Căn
nhà này, ông bà Nội tôi đã sống bao năm với các
con. Khi Bố tôi lập gia đình, cơ quan đổi đi xa ít lâu. Sau
lại về sống ở căn nhà này. Rồi 7 anh chị em chúng tôi
lớn lên ở căn nhà này từ nhỏ. Nhà 1 tầng, mái ngói
thấp, mặt tiền là cửa hàng bán giầy dép của bà Nội,
hiệu Thái Long, số 15 phố Chính, Đáp Cầu. Một bên là tiệm bán đồ sứ của OB Đội
Chiểu. Một bên là hiệu thuốc bắc Bảo Tâm Chai của người
Hoa. Ngoài tiệm bán thuốc bắc, bên trong là một xưởng rất
lớn với nhiều nhân viên, chuyên sản xuất rượu thuốc
ngâm rắn, cung cấp khắp vùng Bắc Kỳ. Tôi nhớ nhất ông chủ
Bảo Tâm Chai, vui vẻ, nói tiếng Việt lơ lớ, khi gặp Hùng Tí
chơi ở cửa là gọi vào cho gói ô mai. Khi quân Nhật chiếm
Đáp Cầu, ông bị Nhật bắt, nghe nói bị thủ tiêu vì
làm tình báo cho Tàu Tưởng! Trước đó, bên kia đường
là nhà bà Năm Trấn có bác Trí, cô Tuyết ( cô
Tuyết là bà ngoại của NCKỳ Duyên). Như vậy kỳ đầu tản cư tránh máy bay Mỹ là
hè 1945. Kỳ này với chiến dịch tiêu thổ kháng chiến của
VM, chúng tôi tản cư về vùng quê tránh máy bay Pháp và
các cuộc càn quét của quân Pháp là đầu năm 1947.
Từ đó trở đi, chúng tôi trở
thành kẻ vô gia cư, chạy hết làng này sang làng khác, phần
lớn vẫn trong địa phận tỉnh Bắc Ninh. Tôi còn nhớ những
nơi gia đình đã tản cư, sau Từ-Sơn là: Xuân-Thuỷ, Xuân-Hoà,
Lạc-Xá, Khả-Lý, Tam-Sơn, làng Um, một làng tề bên huyện
Gia-Bình Lang-Tài, ấp Ông Nghị Phồn...Nhiều lắm, không biết
còn thiếu nơi nào không? Nhưng có một lần, lại tản cư
về Từ Sơn, nhưng lần này không phải làng Tiêu Sơn mà
là ấp Tam Sơn. Gia chủ là Ong Bà Cựu Bơ, sống trên tỉnh,
nhưng thời gian chạy loạn này cũng tản cư về đây. Về
Tam Sơn, Mẹ tôi có dịp buôn bán vải cùng bà Cựu Bơ
ở chợ Từ Sơn. OB có mấy anh lớn là anh Phương, anh Nghĩa,
anh Chung. 2 anh lớn theo kháng chiến, nên ít được gặp. Anh Chung hơn
tôi vài tuổi còn ở nhà. Chiều đến, tôi thường theo
anh Chung ra khoảng đất trống để cùng với các thiếu nhi trong
ấp học hát, học vác súng gỗ, đi đứng đều bước.
Tất cả do anh Chung chỉ dẫn. Thật là vui, được sinh hoạt
với mấy đứa trẻ đồng trang lứa. Nhưng vui và nhớ nhất
là rỡn đùa với cô Tuyết, gái cưng của ÔB chủ, bằng
tuổi tôi, khoảng 10 tuổi. Sau Tuyết, còn 2 cô em nữa thì phải?
Nhà rộng, sân rộng, ông bà chủ lại vui tính, tốt bụng,
tha hồ mà chạy nhẩy, vui đùa. Gia đình chúng tôi tản cư
ở Tam-Sơn khoảng 2 tháng, rồi vì tình hình chiến sự, nơi
này không yên ổn, Mẹ tôi lại đưa các con chạy tản
cư sang nơi khác. Những lần sau này, tất cả đều cuốc bộ,
không có xe ngựa hay thuyền bè như những lần trước. Bọn
trẻ chúng tôi mỗi đứa một bị cói đeo trên vai đi thoăn
thoắt. Riêng 2 bé gái - hình ảnh tôi còn nhớ rõ
- ngồi trong 2 thúng do bà U gánh, đong đưa, chúng phải bám
chặt vào giây quang gánh. Tản cư đến đâu đều được
tiếp đón niềm nở. Dân quê mình thật tốt ! tính tình
đôn hậu, thật thà, không giàu có những vẫn sẵn sàng
chia cơm sẻ áo cho người tỵ nạn. Thế mà tới nay (2016), 70 năm có lẻ, không biết tin tức gì
của các ân nhân. Người còn, người mất! người trong
nước, người ngoài nước! người bên thắng, người bên
thua! Không biết bây giờ, sau hơn 40 năm VN thống nhất, có cùng
một ý nghĩ như nhau không? Hy vọng với phương tiện truyền thông
nhanh chóng và tân tiến hiện nay, lừa bịp không còn đất
sống, sự thật được phơi bày, chúng ta sẽ không còn
phải e dè, khách sáo như nhiều người gặp lại nhau sau 30-4-1975
mà tất cả chúng ta cùng nắm tay nhau một lòng tranh đấu cho
mục tiêu chính: độc lập, tự do, dân chủ thực sự cho quê
hương. Tới năm 1949, Mẹ tôi tìm
được người đưa bà Nội và tôi hồi cư về Đáp
Cầu, rồi ra Hà Nội. Ở Hà Nội mới cắp sách đi học
lại, sau 2 năm rong chơi từ làng này sang làng khác. Chạy loạn,
người lớn lo, chứ con nít 9, 10 tuổi biết gì mà lo. Chỉ vài
lần lính Tây càn quét đến vùng, hay máy bay Pháp bắn
phá gần nhà, chúng tôi mới nhốn nháo lo chạy giặc, lo ẩn
núp. Còn thì suốt ngày anh em rủ nhau đi chơi, bắn chim, câu
cá, tắm ao, đua trâu, trèo cây hái ổi, ra đồng mót lúa...,
nhất là thời gian tản cư ở Xuân-Thủy, ấp của nhà.
Ngày nay tự hỏi, có bao giờ ở tuổi thiếu nhi mà được
về quê nghỉ hè lâu như vậy không? Thật tuyệt vời phải
không quý vị? Thôi cứ tạm coi như thế cho đời lên hương!
Về sau, học hành qua sách vở, báo
chí, tôi mới biết Từ Sơn, nơi 2 lần tản cư chạy loạn
trong thập niên 40 của thế kỷ trước, là một vùng đất
rất đặc biệt, được nhắc nhở nhiều trong văn học, lịch
sử VN. Lúc tản cư ở Từ
Sơn , -Đâu có biết rằng: Từ
Sơn có tiếng tăm là nơi nhiều danh lam thắng cảnh, đền đài
cổ kính, như chùa Tiêu (Tiêu Sơn Tự hay Thiên Tâm Tự) nằm
trên sườn núi Tiêu, đền Đô ( Cổ Pháp Điện hay
đền Lý Bát Đế) thờ các vị vua nhà Lý, rất gần
nơi chúng tôi tản cư. Và còn rất nhiều đình chùa
cổ kính khác, vì đây là nơi xuất phát Phật giáo
VN từ thế kỷ thứ 10 với nhà sư Lý Công Uẩn, sau trở thành
vua Thái Tổ nhà Lý. Có thể nói, Từ Sơn, Kinh Bắc này
là vùng có nhiều lễ hội nhất VN. Chùa Tiêu (Từ Sơn) Đền Đô (Từ Sơn)
-Đâu
có biết rằng: Từ Sơn là sinh quán của thân mẫu đại
thi hào Nguyễn Du(1765-1820), bà Trần-Thị-Tần (1740-1778). Sau khi thân phụ
Nguyễn Du, Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775) mất, Nguyễn Du mới được
10 tuổi, thường theo Mẹ về sống ở quê ngoại Từ-Sơn.
Người địa phương thường nhắc
câu: "Trai Tiên-Điền Hồng-Lĩnh, Gái Kinh-Bắc Từ-Sơn".
Hai vùng đất quê hương ươm nguồn cho ra đời kiệt tác
"Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du sau này -Đâu có biết rằng: Từ Sơn cũng là quê hương
của thân mẫu Công chúa Lê-Ngọc-Hân (1770-1799), bà Chiêu Nghi
Nguyễn-Thị-Huyền. Xin nhớ rằng, Ngọc Hân công chúa, con vua Lê-Hiển-Tông,
sau trở thành Bắc Cung Hoàng Hậu, vợ vua Quang -Trung Nguyễn-Huệ, là
tác giả bài văn tế Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn.
Bài văn tế, có một không hai trong lịch sử văn học VN, thật
ai oán, thật bi thương, của một Hoàng Hậu tài sắc vẹn
toàn, gửi gấm tâm sự, kể lể nỗi niềm buồn đau, thương
tiếc người chồng vừa ra đi là Hoàng Đế Quang-Trung. vị anh
hùng áo vải có công đánh đuổi quân nhà Thanh, giữ
gìn sự vẹn toàn tổ quốc. -Đâu
có biết rằng: Từ Sơn là bối cảnh trong tiểu thuyết của
Khái Hưng: Hồn bướm mơ Tiên, Tiêu Sơn tráng sĩ.. Đền
chùa, sông nước vùng Từ Sơn là khung cảnh thơ mộng, lãng
mạn được Khái Hưng khéo léo đưa vào một cuộc
tình, nửa đạo nửa đời, nửa tiên nửa thực . Tiếc là
lúc đó còn nhỏ, chứ không, tôi đã đi tìm tráng
sĩ Tiêu Sơn nhờ đưa đến mộ Trương Quỳnh Như để
đốt nén nhang tưởng nhớ người thiếu nữ tài hoa bạc
mệnh! Và lúc tản cư lần đầu ở Tiêu Sơn (1945), biết
đâu Khái Hưng cũng đang ở vùng này, lang thang tìm nguồn
cảm hừng cho cốt truyện tiếp theo? Và lần sau tản cư tới vùng
này, ấp Tam Sơn (1947), không biết Khái-Hưng Trần-Khánh-Giư (1896-1947),
còn sống hay đã chết? Vì sau này sử sách ghi chép,
Khái-Hưng bị Việt Minh thủ tiêu tại bến đò Cựa Gà
(phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định), rồi vứt xác suống
sông năm 1947. "Đâu có biết rằng" "Đâu có biết
rằng" như thế này thì tới sang năm cũng không hết. Xin chấm
dứt tại đây để còn kịp gởi bài cho báo xuân
Bắc Ninh, nam Cali. Kính chào và Chúc
Mừng Năm Mới Bính Thân (2016).
Nguyễn Như Hùng Cali,1/2016
KHÓC BẠN Thân
gửi anh Trí, Mấy bữa qua không
được khoẻ. Bây giờ mới coi email của anh. Bạn bè cứ rơi
rụng dần! Rầu quá anh Trí ơi ! Anh DHĐức hình như là chưa dự đh PTGDTD lần nào, nên
đồng môn PTGDTD ít được gặp. May cho tôi được gặp
1 lần, khoảng 15 phút tại Paris, năm 2008. Hôm đó, tôi đt cho anh
Đức và hẹn gặp nhau tại một nhà hàng VN, quận 13 Paris. Tôi
ở gần, nên đi xe điện đến trước, ngồi trong quán chờ.
Lúc sau, thấy 1 người từ dưới đường hầm xe điện bước lên (coi hình). Nhận
ra ngay ông bạn đồng nghiệp của gần nửa thế kỷ về trước. Kg khác xưa mấy, vẫn nụ cười hồn
nhiên với cặp kính luôn gắn trên khuôn mặt. Mừng vui gặp
lại nhau, sau bao biến đổi đau thương của đất nước. Không
thể ngờ được lại có ngày 2 bàn tay xiết chặt vào
nhau, lắc thật mạnh mà không nói nên lời, tại một nơi
mơ tưởng thời còn cắp sách tới trường ở quê nhà,
kinh thành Ánh Sáng. (Không biết, bên kia thế giới, anh Đức
có đọc được lá thư này không?) Xin
kèm vài hình kỷ niệm. Thân
mến, Nguyễn Như Hùng Ghi chú hình đen trắng: các gs dạy PTG đầu
thập niên 60 của thế kỷ trước. Từ trái,
2 người bận áo mầu đứng sau là : NgDuyTại, QuảnHùng và
tiếp theo từ trái: NgTrungQuân,
VũĐìnhLạc, NgNhưHùng, MaiĐứcTrí, PhạmVănĐàm, DươngHồngĐức
(giữa Đàm và Bằng), NgVănBằng, ĐoànHân, PhanThanhThư
HÌNH ẢNH ĐẠI
HỘI XXI-Houston 2017:
Click:
Nguyễn Như Hùng_ ĐHXXI Open Double left click ngay trên
hình #1, hình sẽ lớn hơn. Rồi click mũi tên bên mặt để xem tiếp
các ảnh.
CHIẾC NẠNG ÂN TÌNH Nguyễn Như Hùng Lời nói đầu: Dưới đây là email tôi gửi tới 2 ông bạn: VNT và
PĐV (tên người: xin phép được viết tắt ) vào ngày
28 tháng 8 năm 2012, để đề nghị 2 nhân vật chính có liên
quan đến "Chiếc Nạng ân tình" (CNAT) kể lại
chi tiết về cuộc đời của chiếc nạng đặc biệt này. Không
biết câu truyện tác giả viết đến đâu rồi, nhưng đến
nay, sau gần một năm, tôi chưa nhận được tin tức gì. Vì
thế, CNAT này được đưa lên đặc san của đại hội
CVA toàn thế giới tổ chức tại Houston, TX vào tháng 10, 2013, để
trình diện với các đồng môn CVA và cũng để nhắc nhở
2 ông bạn CVA đừng quên nhiệm vụ với CNAT. Hơn nữa, Houston là
nơi cư ngụ của CNAT và cũng là nơi tôi được gặp
Nạng lần đầu. (12Jun2013,NNH).-
Thư gửi hai bạn VNT và PĐV, Xin gửi tới 2 bạn vài hình "CHIẾC NẠNG
ÂN TÌNH": Vào một buổi
sáng đẹp trời, VNT lái xe chở tôi ra khu Bellaire, Houston. Xe dừng trước
cửa tiệm cà phê và đậu ngay ô dành cho người
tàn tật. Hỏi ra, tôi mới biết và chính đó là nguyên
do có mấy bức hình này. Nghe
chuyện kể xong thì chiếc nạng này không còn là vật vô
tri nữa, và ngay cả những tấm hình chụp chiếc nạng (hình, chứ
không phải chiếc nạng thực) mà mỗi khi nhìn vào tôi cảm
thấy nạng như là một sinh vật, có linh hồn, có tình cảm.
Dựa vào góc tường hay nằm xó
xỉnh trong nhà kho, Nạng (từ đây Nạng viết chữ hoa) vẫn
an nhiên tự tại, không vui, không buồn. Nạng và Chủ luôn luôn
bên nhau từ ngày Nạng mới ra đời, tháng 3 năm 1980, trong nhà
tù hắc ám ngoài miền bắc VN của Việt gian CS. Chủ đứng,
Nạng đứng. Chủ đi, Nạng đi. Chủ nằm, Nạng nằm. Nạng và
Chủ không rời nhau nửa bước. Rồi có một hôm Nạng phải
bước những bước thật dài mới theo kịp được Chủ.
Thường ngày, Chủ đi cà thọt, chậm chạp, mà hôm nay Chủ
vui mừng, vội vã, đi như chạy. Có vẻ như Chủ quên là
có Nạng đi bên. À thì ra, Chủ được lệnh di chuyển
từ Bắc vào Nam. Rồi... lại một ngày đẹp trời khác, sau
hàng chục năm tủi nhục sống dưới chế độ XHCNVN, Nạng
lại được lên máy bay cùng Chủ sang xứ HoaKỳ tự do.
Ngày lên máy bay mới rắc rối làm sao! Không biết có phải
vì Nạng không có tên trong danh sách xuất ngoại hay người ta
coi Nạng là một thứ vũ khí đáng sợ trên phi cơ hay vì
lý do gì khác mà Chủ cứ kéo lê Nạng chạy từ chỗ
này đến chỗ khác, với vẻ mặt căng thẳng, lo lắng. Sau cùng,
cũng nhờ Trời Phật phù hộ nên Chủ và Nạng không phải
chia cách. Ngày nay, sau hơn 30 năm ra đời,
dù không ăn uống, tẩm bổ, nhưng Nạng vẫn mạnh khỏe, cứng
cáp, vẫn đủ sức đỡ Chủ dậy, dìu Chủ đi đứng
vững vàng. Nhưng, than ôi! Từ ngày sang xứ Cờ Hoa này, với nền
y khoa tiên tiến, Chủ càng ngày càng lơ là, không ngó ngàng
gì đến Nạng. Chủ vứt Nạng cô quạnh ở xó nhà,
tối tăm, ẩm ướt. Nhưng... Nạng... không buồn, mà lại còn
vui nữa vì cảm thấy mình đã làm xong bổn phận của một
chiếc nạng. Chiều nay, đang
lim dim trong giấc ngủ muộn, cánh cửa hé mở, ánh sáng ùa
vào, mùi hương quen thuộc của bao năm xa cách, một bàn tay êm
ái dựng Nạng dậy, phủi bụi, gỡ mạng nhện quanh Nạng, rồi
bế Nạng ra tắm rửa, lau chùi sạch sẽ. Ôi! Sao mà thích thú
thế! Vòi nước mát mẻ giữa mùa hè nóng bức của
xứ cao bồi này, lần đầu tiên được thưởng thức,
thật là tuyệt vời! Qua một đêm ngủ say sưa, yên lành, mình
mẩy khô ráo, sạch sẽ, Nạng được Chủ rước lên xe
hơi màu đỏ, dạo chơi phố phường thành phố Houston. Nhưng
Nạng đâu có ngắm được gì vì bị Chủ nhốt kín
trong cốp phía sau xe, nằm trên mấy tờ báo chợ. Vòng vo một
quãng, xe dừng lại, Chủ mở cốp xe, dựng Nạng dạy và dẫn
Nạng vào một ngôi nhà để ra mắt bà con cô bác. Nạng
được người ta nâng niu ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi. Lúc
được giơ lên cao, lúc bị đè xuống thấp. Lúc được đứng
trên bục, lúc bị đặt dưới đất. Nạng phải xoay đủ
các thế, đứng đủ các kiểu. Có lúc đầu lộn
xuống đất, vó chổng lên trời. Mắc cở thấy mồ đi chứ!
Thế mà Nạng không kêu ca, không nói nửa lời. Nếu Nạng
ho nhẹ lên một tiếng, chắc họ quăng ngay Nạng xuống đất rồi
hùa nhau tháo chạy có cờ. Thấy mà vui chi lạ! Mò mẫm
mãi, người ta mới tìm thấy tháng năm sinh của Nạng: 3- 1980 (được
khắc sâu dưới cán tay cầm) và lão phó nhòm đặt
tên cho Nạng là "Chiếc Nạng Ân Tình".
Sao lại gọi là CNAT? Đấy là tình Người, tình tù.
PĐV, VNT là sĩ quan QLVNCH, sau 30/4/75, phải đi tù cải tạo và
có thời gian tù chung trong một trại giam của CS ngoài miền bắc VN.
VNT đi lao động, bị tai nạn làm sao, cứu
chữa như thế nào, đến nỗi chân không bước được
phải cần đến nạng? PĐV,
trong hoàn cảnh tù đầy giữa rừng thiêng nước độc,
thiếu thốn đủ thứ, dụng cụ không có, vật liệu khan
hiếm, làm cách nào mà thực hiện được một chiếc
nạng bằng gỗ lim, nẹp sắt, đẹp đẽ và chắc chắn như
vậy? Tay nghề không có, cơ thể yếu đuối, thiếu dinh dưỡng
mà PĐV cho ra đời một "kiệt tác" đầy tình
người giữa một xã hội tù đầy, lừa lọc, gian ác,
luôn luôn bị quản giáo theo dõi.Thật là một việc phi thường! Chỉ
có TÌNH NGƯỜI, TÌNH TÙ, TÌNH CHIẾN HỮU, TÌNH ĐỒNG
MÔN mới làm được điều đó.
Đến đây là lúc Chiếc Nạng Ân Tình
chờ đợi bài viết kể lại chi tiết về Nạng từ:
Người- sinh- thành- ra- Nạng hàng tháng
trời là CVA PĐV và Người- đã-
sống- với- Nạng hàng chục năm trời là CVA VNT. Thân
chào 2 bạn, Nguyễn Như Hùng
ÐI THĂM GIÁO SƯ NGUYỄN-KHẮC-KHAM Nguyễn Như Hùng_______________________________________
Gs Nguyễn Khắc Kham (chụp ngày thăm Thầy 9/2003)
Trong giới
cắp sách đi học ở thế hệ thập niên 50-60 chắc không mấy
ai là không biết đến danh tiếng GS Nguyễn-Khắc-Kham, một nhà
giáo dục gương mẫu, một học giả uyên bác, một bậc
Thầy của bao thế hệ. Thầy là giáo sư trường Chu Văn An từ
ngoài bắc đến trong nam. Môn dạy chính của Thầy là Pháp
văn vì Thầy tốt nghiệp cử nhân văn chương (licence en letters) và
cử nhân luật khoa (licence en droit) tại Paris năm 1934. Tuy nhiên ít ai được
biết GS Nguyễn-Khắc-Kham là ngừơi đầu tiên dạy triết học
bằng tiếng Việt tại trường CVA Hà Nội trong chương trình
Việt ngữ Hoàng Xuân Hãn ( niên khóa 1944-45 hiệu trưởng là
GS Nguyễn-Gia-Tường và niên khóa 45-46 hiệu trưởng là GS Dương-Quảng-Hàm
) Trong buổi tiệc tân niên mừng
xuân Quý Mùi tổ chức ngày 8 tháng 2 năm 2003 của hội cựu
học sinh CVA Bắc Cali (CVABC) các GS hiện diện gồm có: GS Lê Văn Lâm,
GS Nguyễn Xuân Vinh, GS Cung Nhật Tân, GS Nguyễn Hữu Hưng, GS Nguyễn Ðức
Hưng, GS Trần Quang Lãng. Vắng mặt GS Nguyễn Ðức Hiếu, GS Lê Thành
Việt và GS Nguyễn Khắc Kham. Theo bài tường trình buổi họp mặt
này trong "Tin thư CVA/BC" ngày 17/05/03, GS Nguyễn Khắc Kham năm nay đã
94, mặc dầu tinh thần còn minh mẫn nhưng sức khỏe đã yếu
kém nên không tham dự được. Không
phải chỉ buổi họp này mà mấy kỳ họp mặt CVA trong vùng
gần đây cũng không thấy Thầy tham dự. Vì thế tôi đề
nghị hội CVA/BC tổ chức một buổi đến thăm Thầy. Thầy ở
ngay San Jose, thật thuận tiện và vinh hạnh cho đám học sinh CVA/BC. Bao
nhiêu môn đệ của Thầy ở rất xa muốn đến thăm Thầy
đâu phải dễ, nhờ cuốn đặc san này mà biết được
tin tức về Thầy. Hơn tháng trước
đây, tôi có gọi điện thoại thăm sức khỏe Thầy và
báo cho Thầy biết tin nhà sách Hồng Bàng sắp dẹp tiệm. Thầy
hay đi xe bus đến đây tìm mua sách. Vùng Thung lũng Hoa Vàng,
với số dân Việt tị nạn hàng trăm ngàn người, từ trước
tới nay có 3 nhà sách: Toàn Thư, Tự Do, Thư Lâm. Khi Toàn Thư
đóng cửa thì Hồng Bàng thay thế. Nay Hồng Bàng cũng đi
theo Toàn Thư. Thị trường chữ nghĩa tiếng Việt ở hải ngoại
ngày một ảm đạm. Các tiệm sách ngày nay còn cầm cự
được có thể là nhờ bán băng đĩa ca nhạc. Tin nhà
sách Hồng Bàng sắp đóng cửa và hạ giá các loại
sách, giới cao niên trong vùng phần lớn đều biết. Và Thầy
cũng đã biết vì thường ngày Thầy vẫn theo dõi tin tức
qua báo chí, qua đài phát thanh địa phương. Thầy có mua
được vài cuốn sách trong dịp nhà sách Hồng Bàng sắp
đóng cửa. NGÀY VIẾNG THĂM.- Anh hội trưởng CVABC Phạm Nguyên Khôi đã liên
lạc với GS Nguyễn Khắc Kham và được Thầy cho một cái hẹn.
Sáng ngày Chủ Nhật 7 tháng 9, 2003, chúng tôi 3 ngườI, anh hội
trưởng PNK, anh cựu hội trưởng Vũ Mạnh Phát và tôi hẹn
nhau 10 giờ sáng trước cửa nhà Thầy. Chưa kịp bấm chuông,
đã thấy GS, quần aó chỉnh tề mở cửa mời chúng tôi
vào nhà. GS bắt tay từng người và từ tốn chỉ ghế cho chúng
tôi ngồi. Cả 3 chúng tôi đã được hầu chuyện với
GS một vài lần. Lần nào cũng vậy, khi đã có hẹn, GS luôn
luôn quần áo chỉnh tề ngồi sẵn trong nhà đợi khách. Dù
người khách đó chỉ là học trò thế hệ sau của học
trò Thầy. - "Cô mặc
chúng con". Vừa nói, tôi đỡ khay trà từ tay Cô, phu nhân
GS. Hôm nay trông Cô không được khỏe. Thầy bảo, mấy hôm
nay Cô hơi bị mệt. Thế mà Cô vẫn loay hoay trong bếp và mang
ra khay bánh Trung Thu. Lần nào tới thăm Thầy, chúng tôi cũng được
uống trà tàu, ăn bánh ngọt và thường chỉ gặp Thầy
Cô. Căn nhà hai tầng, sân sau trồng nhiều cây ăn trái. Nghe nói,
Thầy Cô sống với gia đình người con gái ở đây. Trông
thấy bánh nướng, bánh dẻo bầy trên bàn, tôi mới
chợt nhớ ra là sắp Tết Trung Thu. Thật đáng trách, hôm nay là
ngày 11 tháng 8 âm lịch, còn 4 ngày nữa là Tết trung Thu. Các
chợ VN trưng bầy đầy bánh trái, lồng đèn cho thiếu nhi.
Thế mà cả 3 đứa chúng tôi không ai nhớ hay để ý đến
ngày Tết Nhi Ðồng sắp tới. Nay được ăn bánh Trung Thu uống
nước trà tàu của Thầy Cô mà cảm thấy lỗi đạo
đối với bậc Thầy đáng kính. Ðến thăm Thầy vào
dịp sắp Tết mà không có gì đem theo chúc Tết Thầy Cô.
Thật sự thì hôm nay tôi có đem theo một tấm hình khổ
lớn chụp Thầy tại nhà một người quen mà chưa có dịp
kính tặng Thầy. Tôi được biết đã nhiều lần Thầy
từ chối nhận quà. Nếu khách nói khéo quá hay cứ để
quà lại, Thầy phải nhận, nhưng Thầy Cô lại phải tìm quà
khác biếu lại hay mua món khác đáp lễ dù rằng người
khách đó chỉ là hạng con cháu hay môn đệ của Thầy.
Xưng hô với môn đệ, Thầy thường gọi Ông với Tôi.
Từ tốn, điềm đạm, thân mật. Ít lộ vẻ vui buồn trên
nét mặt. Luôn luôn giữ phong cách nhà nho xưa. Tinh thần minh mẫn,
suy nghĩ bén nhạy, đối đáp nhanh chóng, ở tuổi 95 ít
người được sức khoẻ tốt như Thầy. Tuy nhiên thính
lực bị hạn chế, phải ghé gần tai và nói lớn Thầy mới
nghe được. GS NGUYỄN KHẮC
KHAM, THẦY CỦA THẦY. - "Thưa Thầy, nhóm cựu HS CVA vùng bắc
Cali này dự định ra một số đặc san vào mùa xuân tới
(Giáp Thân, 2004). Chúng con đến trước hết thăm Thầy Cô,
sau là xin vài lời chỉ giáo của Thầy" Ðây là một cuộc nói chuyện thân
mật, ăn bánh trung thu uống nước trà tầu, giữa Thầy trò
nên chúng tôi cố tránh tạo ra một không khí phỏng vấn
có vẻ báo chí chuyên nghiệp. Cả 3 chúng tôi không ai cầm
giấy bút ghi chép gì cả. Nhưng chúng tôi có đem theo một
máy ảnh và một máy ghi âm nhỏ cầm tay. Cốt là để
lưu giữ vài hình ảnh và lời nói của Thầy, khi Thầy ở
tuổi 95. Hình ảnh và lời
giảng trên bục của GS Nguyễn Khắc Kham, khởi đầu từ năm 1937
đến năm 1974 (năm GS nghỉ hưu từ trường đại học ngoại
ngữ Tokyo), chuyển từ Hà Nội vào Saigon rồi ra ngoại quốc, trải
qua các trường trung học Gia Long, Hoài Ðức, Thăng Long, Văn Lang, Bưởi
, Chu Văn An, Minh Tân, Văn Hóa, Petrus Ký, đến các trường đại
học Văn Khoa, Sư Phạm, Vạn Hạnh, ngoại ngữ Nhật Bản (Tokyo). Rất
nhiều môn sinh của GS hiện nay ở rải rác khắp nơi trên thế
giới vẫn còn nhớ và rất mong muốn biết tin tức về vị Thầy
đáng kính. Khi tin chúng tôi tới nhà vấn an GS Nguyễn Khắc
Kham được anh hội trưởng CVABC thông báo trên diễn đàn
điện thư CVA, nhiều các bạn từ xa gọi đến mong muốn được
liên lạc với Thầy, nhưng tiếc rằng vì tuổi già nên những
ngày gần đây Thầy rất khó nghe được qua điện thoại.
Trong số đó có nhóm CVA Úc Châu vùng Sydney, anh hội trưởng
CVA Nguyễn Bát Tuấn ngỏ lời muốn có hình ảnh mới nhất
của GS Kham để đăng trong đặc san của hội phát hành vào
tháng 10/2003. Ðặc san CVA của chúng tôi mãi tới đầu năm
2004 mới phát hành, chẳng lẽ tấm hình Thầy của chúng tôi
chụp lại phải in sau đặc san của các bạn? Nói vui thế thôi,
chứ CVA Nguyễn Bát Tuấn đã nhận được hình ảnh GS Nguyễn
Khắc Kham cho kịp ngày lên khuôn báo rồi. Suốt 40 năm trong ngành
giảng dạy, GS Nguyễn Khắc Kham đã đào tạo biết bao nhân
tài cho đất nước. Học trò nhỏ nhất của GS hiện giờ
cũng phải trên 50 tuổi, còn tuổi của những học trò kỳ cựu
phải tới trên tám chục hay chín chục. Ngay cố GS Nguyễn Ðình
Hòa cũng từng nhận là môn đệ của GS Nguyễn Khắc Kham. Trong
"Lời nói đầu" của Tuyển tập Ngôn Ngữ và Văn Học
VN số đặc biệt Khánh Hạ GS Nguyễn Khắc Kham nhân dịp thượng
thọ 85 tuổi, GS Nguyễn Ðình Hòa viết : " Riêng chúng tôi
đã sớm có liên hệ của một học trò đối với thầy
Nguyễn..." Thật đúng GS Nguyễn Khắc Kham là bậc Thầy của
Thầy chúng tô GS NGUYỄN KHẮC KHAM, MỘT HỌC GIẢ UYÊN BÁC,
MỘT CUỐN TỰ ÐIỂN SỐNG.- Thời tiết chuyển
mùa sắp sang thu làm người già thấy mệt mỏi. GS cho biết mấy hôm nay hai cụ không
được khỏe. Hàng ngày GS phải uống nhiều thứ thuốc. Tuy thế
GS vẫn ưu ái vui vẻ tiếp chuyện chúng tôi suốt hơn 3 giờ
đồng hồ. Bao nhiêu thắc mắc được dịp đưa ra hỏi Thầy.
Từ truyện văn học lịch sử, đến truyện người, truyện vật,
truyện xưa truyện nay, GS đều giải đáp một cách thỏa đáng.
Sau bao biến đổi của cuộc sống, với tuổi 95, nhiều cụ đã
lú lẫn, nhưng GS vẫn giữ được trí nhớ thật tốt. Chúng
tôi thường nói với nhau, GS là cuốn Bách Khoa tự điển
sống. Rất vinh hạnh cho anh em CVABC chúng tôi được cư ngụ ở
gần GS. Khi tra cứu điều gì không được, lại tìm đến
thỉnh ý Thầy.
Có lần tôi muốn tìm kiếm nguyên bản "thất trảm sớ"
của cụ Chu Văn An dâng lên vua Trần Dụ Tôn (1341-1369) để xin chém
7 kẻ lộng thần. Chúng ta ai cũng biết CVA là một vị quan thanh liêm,
cương trực. Vua Trần không nghe, CVA xin từ quan về quê nhà mở
trường dạy học. Sử sách mà tôi được đọc chỉ
ghi sơ sài như thế. Làm sao tìm ra nguyên bản Thất trảm sớ.
Làm sao tìm ra tên tuổi, chức tước của 7 kẻ gian thần đó.
Tra cứu khắp nơi không thấy giải đáp, tôi đành phải
cầu cứu GS Nguyễn Khắc Kham. Thầy nói: Thất trảm sớ của ông
Chu An ( theo gs, không có ai tên Chu Văn An cả, tên đúng là Chu An
hay có thể là Chu Văn Trình) dâng lên vua nhà Trần nay không
thấy lưu truyền, có thể bị thất lạc hoặc đã bị tiêu
huỷ. Tên tuổi của 7 người đó cũng trong tình trạng như
vậy. Thế là tôi yên trí, không phải mất công tìm
tòi ở đâu nữa. Tuy nhiên qua câu chuyện Thất trảm sớ của
người xưa làm ngày nay tôi tự nghĩ, với chế độ dân
chủ, tự do như ở Hoa Kỳ ngày nay thì những người như cụ
CVA có phải dâng sớ tâu trình lên Tổng thống không. Không.
Cứ việc tố cáo qua báo chí, qua quốc hội. Ngay cả Tổng
thống có tội cũng bị pháp luật trừng trị, huống hồ
gì chỉ là vài tên quan chức lộng quyền đàn áp dân
lành. Rồi đến đây tôi lại thắc mắc, nếu như câu
chuyện dâng sớ của cụ CVA mà xẩy ra ở VN hiện nay thì sao? cụ
CVA có được yên ổn mà về quê mở trường dậy học
không? Hay xã hội đen đến hỏi thăm sức khoẻ? THƯ
VIỆN CỦA GS NGUYỄN KHẮC KHAM.-
Tôi gọi là thư viện để
nói lên số lượng sách hiếm quý trong tủ sách của GS.
Phần lớn là sách báo về văn học VN, đủ mọi thứ tiếng
Việt, Pháp, Anh, Hoa, Nhật...Một số báo chí rất xa xưa xuất
bản tại VN bằng tiếng Việt, như Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng báo,
Lục Tỉnh Tân Văn, Ðông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí...hay
tiếng Pháp như Notre Journal, Notre Revue, L'Annam Nouveau...còn lưu giữ trong thư
viện của GS. Tiếc rằng, theo GS, phần lớn các tài liệu đó
còn nằm trong thùng, chưa được xắp xếp lại thứ tự,
giấy biến mầu vàng và chữ rất khó đọc. Nói đến
thư viện sách báo tiếng Việt ở vùng bắc Cali này, tôi
còn được biết đến tủ sách gia đình rất phong phú
và giá trị của cụ Nguyễn Huy Trực, một nhiếp ảnh gia danh tiếng
với những cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật phong cảnh quê hương,
một giáo sư nhiếp ảnh cho các lớp ảnh nghệ thuật tại hội
Việt Mỹ / Saigon và các lớp ảnh tại hải ngoại. Cụ còn
là một nhà nghiên cứu văn hóa VN với các bài khảo cứu
viết về di tích lịch sử rất công phu. Tôi chưa mượn được
quyển sách nào từ tủ sách của GS Nguyễn Khắc Kham vì muốn
tìm kiếm điều gì, hỏi GS là được giải đáp ngay.
Còn từ thư viện của nhiếp ảnh gia Nguyễn Huy Trực, đã nhiều
lần tôi mượn mang sách về nhà. Quyển nào cũng được
dán nhãn " From the library of Nguyễn Huy Trực". Cụ xắp xếp thứ
tự, tổ chức khoa học. Trong thư viện, chung quanh 4 vách tường, sách
trên kệ chất cao đến trần nhà. Có ghế để với cao như
trong các thư viện lớn. Cách đây hơn một năm, vài sinh viên
VN trong nhóm Việt học tình nguyện mỗi cuối tuần đến thư
viện Nguyễn Huy Trực để giúp phân loại sách báo theo từng
bộ môn, đánh số thứ tự, hệ thống hóa các dữ
kiện cho vào máy điện toán. Mượn, trả đều có sổ
sách ký nhận. Nhiều sách chưa thấy bầy bán trong các tiệm
sách địa phương, thế mà thư viện Nguyễn Huy Trực đã
có. Suốt ngày Cụ bận rộn, vất vả mà vui với công việc
phụng sự văn học nghệ thuật. Nhưng dạo gần đây, sức khỏe
Cụ đã không cho phép.
TIỂU
SỬ VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA GS. GS Nguyễn Khắc Kham
sinh ngày 23 tháng 12 năm 1910 tại Hà Nội. Như vậy GS cùng tuổi
Canh Tuất (1910) với ông Ngô Ðình Nhu và ông Hồ Hữu Tường?
Không, thật sự tuổi ta tôi sinh năm Mậu Thân (1908). Năm Mậu
Thân 1968, Cụ vừa tròn một vòng con Giáp. Trong thời gian VC tổng
công kích vào các đô thị lớn miền Nam Tết Mậu Thân,
GS đang công tác tại Nhật Bản. Cụ tổ tam đại vốn gốc
họ Nguyễn Doãn, sinh quán xã An Ðiềm, huyện Thiện Lộc, phủ
Ðức Quang, Xứ Nghệ An. Thân phụ GS là nhà báo Nguyễn Văn
Luận, cùng thời với nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh. GS có một
trai ( sống ở Pháp ) và 4 gái ( 2 người ở Hoa Kỳ ). GS cho biết
:Hai người con gái còn ở VN và ngôi nhà của ông thân
tôi tại Hà Nội, hiện nay Nông Ðức Mạnh đang chiếm ngụ.
Ðậu cử nhân văn khoa và cử nhân luật khoa tại Paris năm 1934.
Về VN làm giáo sư hoặc kiêm nhiệm hiệu trưởng một số
trường trung học tại Hà Nội. Hội viên ban văn học hội Khai
Trí Tiến Ðức. Viết báo với bút hiệu Lãng Hồ hay một
vài bút hiệu khác cho các báo L'Annam Nouveau, La Patrie Annamite, Tiểu Thuyết
Thứ Bảy, Trung Bắc Tân Văn, Trung Bắc Chủ Nhật. Chủ nhiệm Báo
Mới, Hà Nội. Từ 1946 tản cư về vùng quê Việt Bắc. Trở
lại Hà Nội năm 1952, giảng viên đại học Văn Khoa và hiệu
trưởng trung học tư thục Minh Tân và Văn Hóa ở Hà Nội.
Di cư vào Nam năm 1954, giáo sư các trường trung học Petrus Ký,
CVA, đại học Văn Khoa Saigon, Huế, Vạn Hạnh, Cao Ðẳng Sư Phạm,
Ðại Học Sư Phạm. Sau lần lượt giữ các chức vụ Xử
lý Giám Ðốc Viện Khảo Cổ, Giám Ðốc Nha Văn Hóa kiêm
tổng thư ký Uỷ Hội Quốc Gia UNESCO. Ngoài ra GS còn giữ nhiều
chức vụ trong các cơ quan văn hóa, trong các phái đoàn tham
dự hội nghị quốc tế. Tháng 9/1967 Cụ sang Nhật làm Giáo sư
biệt thỉnh, sau được vinh thăng Giáo Sư thực thụ tại đại
học Ngoại ngữ Tokyo. Cụ về hưu năm 1974. Ðến tháng 4/1975 miền
Nam VN rơi nốt vào tay CS. Cụ nghĩ ở Nhật cũng không an toàn với
các quốc gia CS bao quanh, Cụ quyết định cùng phu nhân người Nhật
(người mà cùng với GS di cư từ Bắc vào Nam năm 1954) xin tị
nạn sang Pháp với con trai (1975) rồi năm 1976 sang Mỹ đoàn tụ
với con gái .
Công trình trước tác văn học của GS Nguyễn Khắc Kham rất
nhiều bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Nhật. (Chi tiết có
thể tham khảo trong Tuyển Tập Ngôn Ngữ và Văn Học VN số 2 Tập
I, Dòng Việt 1994 ). VÀI
HÌNH ẢNH ÐÁNG NHỚ.-
Hình ảnh hai cụ già Á Ðông, cụ Ông đội mũ, chống
gậy đi trước, cụ Bà xách túi theo sau. Hình ảnh quen thuộc
nơi quy tụ đông đảo người Việt tị nạn tại thung lũng
điện tử San Jose, bắc Cali. Dáng nghiêng nghiêng về phía trước,
chậm chạp đi từng bước một. Từ đằng xa, tôi đã
nhận ra GS Nguyễn Khắc Kham và Phu nhân. Lái xe vào lề đường,
bước xuống chắp tay kính cẩn chào Thầy Cô. - Kính Thầy Cô, Thưa
Thầy Cô đi đâu đây ạ? Thầy Cô dừng lại, ngẩng
lên và nhận ra tôi:
- Chúng tôi đi đến nhà GS Lưu Khôn.
- Kính mời
Thầy Cô lên xe con đưa đến nhà GS Lưu Khôn. Ðến nơi, ông bà Lưu Khôn đã chờ
sẵn trước cửa để chào đón (vì đã được
điện thoại trước của Thầy Kham) và dẫn chúng tôi vào
thang máy đưa lên nhà ở lầu hai. Chưa ngồi xuống ghế, Cô
đã lấy từ trong túi xách ra cân bánh trung thu đưa biếu
OB Lưu Khôn (Thầy cô biếu lại vì tết nào trò Lưu Khôn
cũng đến tết Thầy Kham). Ông bà chủ nhà cảm động và
không thể chối từ được, nghiêng người trang trọng đỡ
lấy hộp bánh đầy tình sư đệ. - Thầy Cô còn mất công mang đến cho chúng
con. Chúng con xin cám ơn Thầy Cô. GS Lưu Khôn từng là môn đệ của GS Nguyễn Khắc Kham.
Thế là bữa đó tôi được hầu truyện hai vị GS khả
kính đã một thời cùng giảng dạy tại đại học Văn
Khoa Saigon và lại có dịp thưởng thức bánh trung thu của Thầy
Cô Nguyễn Khắc Kham và trà tàu của Ông Bà Lưu Khôn. Gs Nguyễn Khắc Kham và phu nhân (ngồi) chụp
với vợ chồng trò Lưu Khôn và trò NNH -12/2002
Hình
ảnh thứ hai mà tôi nhớ mãi là lối chào theo kiểu Nhật
Bản của giáo sư phu nhân. Mỗi khi tiễn đưa khách ra về, GS
và phu nhân ra tận ngoài cửa, thân mật, chân tình từ giã
khách. Hai tay chắp lại, lưng hơi vòng về phía trước, Cô
gật đầu chào khách, đúng cung cách của người phụ
nữ Nhật Bản thời xưa. Một hình ảnh rất đẹp, rất quý
phái. Chúng tôi vào hàng con cháu, đáp lễ bằng cách
cũng chắp tay, cúi đầu, lưng cong xuống thấp hơn một chút.
Có lần Cô còn chạy ra sân sau hái mấy trái lê chín
trao cho chúng tôi khi ra về. Lần nào cũng vậy, xe ra tới đầu
khúc rẽ, chúng tôi ngó lại vẫn thấy Thầy Cô còn đứng
trước cửa nhìn theo. Hình ảnh đáng yêu, đáng kính
đó của hai thân hình bé nhỏ mang nặng trên lưng còng lớp
lớp thời gian và khối dầy kiến thức đã in đậm trong tâm
trí tôi, làm sao có thể quên được. Cầu mong Thầy Cô
luôn luôn khỏe mạnh, vui sống bên con cháu và các môn đệ
của Thầy. VÀI LỜI
NHẮN NHỦ CỦA THẦY.-
Thu thập tiểu sử và các công trình trước tác của các
GS CVA._ Thầy đề nghị, ưu tiên
những vị quá cố. Chúng tôi xin ghi nhận. Hiện nay tôi thấy một
vài website CVA đã in hình và tiểu sử một số giáo sư.
Tuy chưa đầy đủ nhưng bước đầu cũng là điều đáng
khích lệ.
Thư viện CVA._
Ðây là mong muốn của chúng tôi. Mấy lần trước Thầy
cũng nhắc nhở như vậy. Thu thập các tác phẩm của các GS,
các học sinh CVA . Từ ngày thành lập tới nay, gần 100 năm, biết
bao công trình nghiên cứu, trước tác của các thành viên
CVA. Bây giờ làm sao thu thập, lưu giữ, điều hành? Thật
là nan giải, vớI thành phần nhân sự quá ít ỏi và phương
tiện hầu như không có gì. Mong muốn như vậy nhưng thực hiện
không phải dễ. Cần sự tiếp tay của nhiều người. Hy vọng trong
tương lai gần đây, các cựu môn sinh của GS cùng với các
cựu học sinh CVA cố gắng để có thể thực hiện phần nào
những gì mà các bậc Thầy của chúng ta như GS Nguyễn Khắc
Kham đã nhắc nhở. Và gần đây, nghe nói một thư viện
của trung tâm Việt Học tại thủ đô người Việt tị nạn,
vùng quận Cam, Nam California, đã đi vào hoạt động. Thật đáng
ca ngợi. NGUYỄN NHƯ HÙNG Santa Clara. CA Vài hình ảnh
của GS Lưu Khôn & GS Nguyễn Hiếu Đức do NNH chụp tại ĐH
2014-Arizona _________________________________________________________________ ___________________________
Ỷ
LAN XƯA và Ỷ LAN NAY NguyễnNhưHùng
Ỷ Lan (Ỷ dấu hỏi ? ) là tên người.
Xin giới thiệu 2 nhân vật tên Ỷ Lan trong bài này. Ỷ LAN Xưa - Ỷ Lan là tên một cung phi đời
nhà Lý trong lịch sử VN. Gốc gác là một thôn nữ, thường ngày làm việc hái dâu, chăn tằm, người
làng Thổ Lỗi, huyện Thuần Thành, tỉnh Bắc Ninh (sau đổi là
Siêu Loại, làng Sủi, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm,
Hà Nội). Khi còn ở quê, tên là Yến ( có sách ghi tên
khác như Khiết, Khiết Nương, Yến Loan...), Lê Thị Yến, sinh vào
khoảng năm 1044, đời Lý Thái Tông. Năm 1063, đời Lý Thánh
Tông, cô gái quê này được tuyển vào cung, và cái
tên Ỷ Lan xuất hiện từ ngày đó. Năm 1117, đời Lý Nhân
Tông (con trai của Bà), Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu băng hà, thọ 73
tuổi. Vì mẹ mất lúc 12 tuổi, phải sống cực khổ với mẹ
kế, giống cô Tấm trong truyện cổ tích, nên sau này dân gian
thường gọi Ỷ Lan Thái Hậu là bà Tấm, đền bà Tấm...
Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục có ghi rằng, khi " Nhà vua 40 tuổi, chưa có con trai,
thường đi các đền chùa để cầu tự; ngự giá đến
đâu, người xem chật đường. Khi đến làng Thổ Lỗi,
có người con gái hái dâu đứng tựa vào khóm cỏ lan,
nhà vua lấy làm lạ, cho vời vào cung, lập làm Ỷ Lan phu nhân.
Đến khi có mang, sinh hoàng tử Càn Đức, nhà vua mừng lắm.
Ngày hôm sau lập làm thái tử, đổi niên hiệu, đại
xá, phong Ỷ Lan phu nhân làm Thần Phi, lại gọi là Nguyên Phi. Đổi
làng Thổ Lỗi làm làng Siêu Loại, vì là sinh quán của
Nguyên Phi." Lời bàn: "Nhà
vua lấy làm lạ" là đúng rồi. Mọi người đổ
ra đường cái nghênh đón đoàn xe của vua, chỉ có một
cô gái hái dâu đứng tựa khóm lan - chắc là nghỉ mệt
- mơ mơ màng màng tận đâu đâu, không để ý đến
ngự giá đi qua, vì... lơ đãng hay cố ý làm khác người
để gây sự chú ý của nhà vua. Cuối cùng, nàng đã
toại nguyện, được vời vào cung. Niềm mơ ước của bao thiếu
nữ đương thời . Em là gái Bắc Ninh mà!! Buổi gặp gỡ do duyên tiền định này xẩy ra
vào năm Quý Mão (1063), lúc đó cô gái họ Lê làng
Thổ Lỗi, 19 tuổi, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi, lên ngôi được
gần 10 năm. Hai năm trước, Tân Sửu (1061), "mùa xuân, tháng
2, (vua) chọn con gái dân gian 12 người vào hậu cung" (Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư). Như vậy từ khi lên ngôi, lúc ngoài
30 tuổi, Lý Thánh Tông đã tuyển nhiều thiếu nữ vào cung.
Vua thường về vùng Bắc Ninh, vừa đi
lễ chùa (vì Bắc Ninh có nhiều chùa cổ kính), vừa tìm
kiếm người đẹp xứ Kinh Bắc. Hơn nữa, ngay từ khi còn nhỏ,
Nhật Tôn (tên Lý Thánh Tông khi chưa lên ngôi) đã từng
theo cha, ông về quê Bắc Ninh nhiều lần. Nên nhớ là ông nội
của vua Lý Thánh Tông là Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ
(1009-1028), quê làng Cổ Pháp thuộc tỉnh Bắc Ninh (sau đổi là
Đình Bảng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh). Xin trở lại câu truyện về buổi hạnh ngộ đặc biệt
này: Vua sai quan gọi lại, hỏi
đáp vài câu. Vua thấy cô gái quê có vẻ đẹp mặn
mà, xinh xắn, nói năng lễ phép, dịu dàng, cử chỉ đoan
trang, đối đáp rành rẽ, tỏ ra thông minh, hiểu biết. Thế
là nhà vua đem lòng cảm mến và thán phục. Cô thôn nữ
hái dâu làng quê Bắc Ninh được mời ngay theo long giá về
kinh đô, được vua đặt tên là Ỷ Lan (dựa gốc cây
lan), phong làm Phu Nhân (1063). Khi sinh Hoàng tử đầu tiên, Càn Đức,
được phong là Thần Phi (1066). Hai năm sau (1068) sinh hoàng tử thứ hai,
Minh Nhân, được phong là Nguyên Phi, Ỷ Lan Nguyên Phi (đứng đầu
hàng cung phi). Hoàng hậu Thượng
Dương không có con. Các cung phi khác sinh toàn công chúa. Đến
khi Ỷ Lan phu nhân sinh cho vua được một hoàng tử, vua và triều
thần rất nỗi vui mừng. Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi rằng: "Bính Ngọ (1066), mùa xuân, tháng giêng, ngày 25, giờ
hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng
Thái Tử, đổi niên hiệu, đại xá, phong mẹ Thái tử
là Ỷ Lan Phu Nhân làm Thần Phi. Sử gia Ngô Sĩ Liên nói: thái
tử là căn bản của nước, không lập sớm không được...Vua
tuổi đã cao, may mà sinh hoàng tử, mừng vui bội phần, vội lập
làm hoàng thái tử, đại xá thiên hạ, để yên lòng
mong mỏi của muôn dân là phải lắm." Năm Kỷ Dậu (1069), mùa xuân, tháng 2, vua Lý Thánh
Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Trong khi vua và Lý Thường
Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan Nguyên Phi được giao nhiệm
vụ điều hành triều chính, chăm lo quốc sự. Từ đó,
xã hội thêm an bình, nhân dân sống trong ấm no hạnh phúc. Người
người một lòng kính nể, thán phục. Bà lại rất tôn
sùng đạo Phật, hay đi lễ chùa, thường đóng góp để
tu sửa chùa cũ, xây dựng chùa mới. Vì thế có nơi, người
dân gọi Bà là Phật Quan Âm (ĐVSKTT). Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông băng hà. Hoàng
thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên
hiệu là Thái Ninh năm thứ nhứt. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn
mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên Phi làm Hoàng Thái Phi, tôn mẹ
đích ( mẹ già, vợ chính của cha) là Thượng Dương
làm Hoàng Thái Hậu. Hoàng
tử Càn Đức sinh năm 1066, lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân
Tông (1072-1127), thật sự mới có 6 tuổi. Mọi việc triều chính
phải do Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính. Thượng Dương
là Hoàng Hậu, được phong là Hoàng Thái Hậu. Ỷ Lan là
Nguyên Phi được phong là Hoàng Thái Phi là đúng luật lệ
của triều đình. Nhưng Ỷ Lan là mẹ đẻ của vua mà không
được nhiếp chính, nên Thái Phi mới tìm cách hãm hại
Thái Hậu. Đó là năm 1073, một năm sau khi vua Lý Nhân Tông
lên ngôi. ĐVSKTT có chép rằng: Linh Nhân có tính ghen, cho mình
là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu
với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây
giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ
để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương Thái
Hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức
phải chết chôn theo lăng Thánh Tông. Vụ bức tử này là một vết nhơ trong sự nghiệp
của Thái Hậu Ỷ Lan. Nhiều sử gia chỉ trích, nhưng cũng có
vị tỏ ra thông cảm, như sử gia Ngô Sĩ Liên nói: "Vì
ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ
mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người
hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với
vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là
thích, mà không biết là lỗi to..." 76 thị nữ chết theo mới thực là tội nghiệp. Tục lệ
gì mà tàn ác quá vậy! Cũng như Thái Hậu Ỷ Lan mất
năm 1117, 3 người hầu gái phải chết theo!( ĐVSKTT). Trong thời gian đầu làm nhiếp chính triều Lý
Nhân Tông, nhà vua còn nhỏ, tất cả việc triều chính, quốc
sự đều do tài điều hành khéo léo của Bà. Thái
sư Lý Đạo Thành, người bênh vực Thái Hậu Thượng
Dương, bị giáng chức xuống làm quan ở Nghệ An. Nhưng năm sau,
để tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền
tài,Thái Hậu Ỷ Lan bỏ qua hiềm khích cũ, triệu Lý Đạo
Thành về kinh, trao cho chức Thái Phó Bình Chương Quân Quốc
Trọng Sự trông coi nội chính, còn Lý Thường Kiệt thống
lãnh binh lực, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Những
chiến công hiển hách, phá Tống, bình Chiêm của danh tướng
Lý Thường Kiệt, cùng những đóng góp về văn học, tôn
giáo, kinh tế như lập Quốc Tử Giám, mở khoa thi chọn hiền tài,
xây nhiều chùa tháp... phần lớn dưới thời nhiếp chính
của Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu. Ngày
nay, ở xã Dương Xá, huyện Gia Lâm (xưa thuộc Bắc Ninh), nơi
sinh quán của Bà, có đền thờ Thái Hậu Ỷ Lan (coi hình
bên). Dân gian thường gọi là đền Bà Tấm
(dựa theo truyện cổ tích Tấm Cám). Hậu cung trong đền có tượng
Thái Hậu Ỷ Lan. Và cũng trong địa phận xã Dương Xá
này, còn có chùa Linh Nhân Từ Phúc Tự (Linh Nhân, tên khác
của Ỷ Lan), xây dựng từ thời Thái Hậu Ỷ Lan. Hiện nay có tất cả 72 nơi trong nước lập đền
thờ bà Ỷ Lan. Nhưng đền thờ ở quê Bà, xã Dương
Xá, vẫn bề thế, quy mô, nhiều di tích lịch sử hơn cả.
Đấy là Ỷ Lan Xưa, Ỷ Lan thời
nhà Lý, trong lịch sử VN. Sau đây là Ỷ Lan Nay. Ỷ LAN Nay- Là một phụ nữ gốc Anh quốc,
quê quán cố đô York (cách thủ đô Luân Đôn khoảng
200 dặm về phía bắc), tên là Penelope Faulkner, hiện sinh sống tại
Paris, Pháp quốc. Rất thông thạo tiếng Việt, cả nói và viết.
Rất thông thuộc lịch sử Việt Nam. Rất yêu thích thơ văn Việt
Nam. Có thể vì thế Penelope Faulkner đã chọn cho mình tên Ỷ
Lan. Bao nhiêu tên không chọn, lại chọn tên Ỷ Lan, một nữ lưu
danh tiếng trong lịch sử VN. Có thể vì thấy tên Ỷ Lan hay, vừa
dễ phát âm, vừa gợi hình ảnh đẹp, thiếu nữ tựa gốc
lan, vừa thích giai thoại nhà vua với cô gái hái dâu, hao hao truyện
cổ tích Cô Bé Lọ Lem (Cinderella) bên Âu châu, vừa cảm phục
tài điều hành đất nước tài giỏi của người phụ
nữ quê mùa VN. Thế là tên Ỷ Lan gắn liền với tên Penelope
Faulkner. Ngày nay, qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, thường nhắc
nhiều đến tên Ỷ Lan, đó là Ỷ Lan này, Ỷ Lan Nay, Ỷ
Lan Penelope Faulkner. Muốn coi hình ảnh, nghe giọng nói của Ỷ Lan Nay thì
rất dễ, cứ mở Google gõ mấy chữ "Phóng viên Penelope Faulkner
Ỷ Lan" là có ngay. Bao nhiêu bài viết tiếng Việt của Ỷ
Lan (Nay) hiện lên trên mạng, càng đọc càng thấy thích thú.
Tập truyện ngắn "Quê Nhà" của Ỷ Lan (Nay) xuất bản năm
1998, nay đã 4 lần tái bản. Văn Việt của một người nước
ngoài viết, họ có cái nhìn đặc biệt mà người trong
cuộc không nhận thấy. Giọng văn dí dỏm, hấp dẫn, xen kẽ
những câu ca dao, tục ngữ. Bài viết không dài dòng, thường
là những câu truyện hàng ngày, nhưng luôn toát ra một ý
tưởng nhân bản, bênh vực người cô thế, giúp đỡ
người kém may mắn. Xin coi một
vài đoạn văn của Ỷ Lan (Nay) sau đây: "Mỗi lúc các bạn Việt Nam xem Ỷ Lan như người
Việt, Ỷ Lan cảm động lắm, và rất hãnh diện để làm
người Việt Nam" (trích trong bài Quê Nhà). "...những chuyện vượt biển do anh em mới qua kể
cho nghe. Họ kể một cách bình thường, mà ngồi nghe, tâm thần
mình rung động, lòng mình dấy lên niềm thương tiếc cho đất
nước và dân tộc này, bị chà đạp quá mức, sau bao
nhiêu thế kỷ sống với chiến tranh...". "Ỷ Lan bỗng nhớ tiếng hát Thái Thanh vang từ đâu
đó rất ngọt ngào: Tôi
yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời.. Tiếng nước tôi, Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm
nôi Thoắt ngàn năm thành
tiếng lòng tôi, nước ơi!" Khi Ỷ Lan "nằm nôi" bên xứ Hồng Mao, không biết con chim
nào đã đem tiếng ru Việt xa vời vào lòng mình..."
." Ỷ Lan rất thích nhạc Việt.
Mỗi lần nghe giọng Hà Thanh hát "Ai ra xứ Huế"...hay Hỷ Khương
ngâm "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là Ỷ Lan tưởng mình
như đang đi đò trên sông Hương, hoặc ngồi ăn cơm hến
bên Cồn... Mỗi vùng có
một bài riêng. "Hà Nội ơi, nhớ về thành phố
xa xôi," "Nha Trang ngày về"; "Saigon niềm nhớ không tên";
"Ai lên xứ hoa đào"...Thoáng nghe, Ỷ Lan đã hình dung ra
thành phố, hình dung ra vùng trời...Hình dung ra một tiếng thầm
gọi trở về. Bởi chốn quê hương là nơi đẹp hơn cả."
"Và Ỷ Lan chợt hiểu rằng, muốn
giúp người Việt thì phải tìm hiểu họ, trước hết bằng
cách học tiếng Việt. Vì tất cả sinh hoạt phong phú, triết lý
nhân đạo của người Việt nằm trong ngôn ngữ, vừa thi vị,
vừa thực tế. Nếu không, Ỷ Lan chỉ có thể đứng ngoài
giúp vô, và nhiều khi cách giúp đó còn làm hại người,
làm hỏng việc, như một số lớn những người ngoại quốc
qua ý thức hệ tây phương, đã làm hại dân tộc Việt,
đã nô lệ hoá con người Việt trong lịch sử cận đại...
Ỷ Lan cũng muốn trở-thành-người-Việt, để có thể sử
dụng chữ "đồng bào". Trở thành người Việt bằng
cách tranh đấu cho "Quyền làm người Việt Nam" cho chính mình,
và cho mọi người khác!"... Ỷ
Lan thuộc rất nhiều bài ca Việt, biết nhiều về xứ sở, con người
VN, coi đất nước Việt như quê hương của mình, thầm mong
một ngày được trở về quê. Nhưng bạn có biết không?
Ỷ Lan chưa bao giờ được đặt chân trên mảnh đất hình
chữ S này! Ỷ Lan muốn lắm, nhưng không được. Vì sao? Vì
Ỷ Lan, đã từ bao năm nay, tham gia vào nhiều công tác cứu giúp
nạn nhân CSVN như "Một con tàu cho VN" vớt người vượt
biển, chống nạn hải tặc Thái Lan và nhất là tranh đấu
cho dân chủ, nhân quyền VN, như tố cáo tội ác của đảng
CSVN trên các diễn đàn quốc tế, kiện Hà Nội vi phạm nhân
quyền trước LHQ (1985)... và gần đây nhất là bài Tham luận
góp ý, do chính Ỷ Lan Penelope Faulkner đọc tại diễn đàn LHQ
Genève ngày 27 tháng 11 năm 2013 về Cuộc Kiểm Điểm Thường
Kỳ Phổ Quát của VN lần thứ 2, sẽ diễn ra tại LHQ ngày 28 tháng
giêng năm 2014. Dưới đây
là một vài câu trích từ bài phát biểu đó:
"Nhưng tiếc thay, tại VN ngày nay không
có xã hội dân sự thực sự độc lập, chỉ có những
xã hội dân sự trực thuộc chính quyền...Chẳng những nhà
cầm quyền gia tăng đàn áp chính trị sau cuộc kiểm điểm,
mà còn thông qua nhiều sắc luật mới để ngày càng
hạn chế mọi hành xử nhân quyền qua mọi lãnh vực."
Cách
nay cũng khá lâu, tôi có dịp đi đón Ỷ Lan PF (Penelope Faulkner),
đến nhà một người bạn, dự bữa cơm gia đình thân
mật. Hôm đó, Ỷ Lan PF mặc áo dài hoa màu nâu, tóc buông
xõa, ánh vàng hung hung. Gốc người Hồng Mao, vóc dáng cao lớn
hơn phụ nữ Việt trung bình, lại tha thiết trong chiếc áo dài
truyền thống VN, trông thật đặc biệt và dễ thương (coi hình
đính kèm). Khi nói chuyện thì khỏi chê. Từ ngữ dùng
rất chính xác, nhất là những câu vui đùa, nhiều ẩn ý,
cứ như là người được sinh ra và lớn lên tại VN . Ỷ
Lan nói giọng Huế. Nhưng rất dễ nghe, lại có vẻ nhẹ nhàng,
thanh thoát, làm tôi nhớ đến làn hò văng vẳng trên giòng
Hương Giang, khi lần đầu tiên đặt chân tới đất Thần
Kinh năm 1960 của thế kỷ trước. Tôi
đã từng nghe nhiều người ngoại quốc nói tiếng Việt, rất
giỏi, rất lưu loát. Nhưng phần lớn họ đã có một thời
gian dài sinh sống trên đất nước VN. Đằng này, Ỷ Lan PF chưa
một lần đặt chân tới VN, mà nói tiếng Việt rất thông
thoại, phải nói là rất điêu luyện, giọng không khác gì
người địa phương, có khi còn nhái giọng từng vùng
quê. Đó thật là một điều đặc
biệt. Hai Ỷ Lan, Xưa và Nay, sinh
ra ở 2 nơi xa nhau hàng vạn dậm, sống cách nhau hàng ngàn năm,
nhưng cùng mang tên Ỷ Lan, cái tên mà hầu như người Việt
Nam nào cũng biết . Tại sao một cô gái bên trời Âu, cách
xa vời vợi, chưa một lần đến VN, mà nói chuyện tiếng Việt,
diễn thuyết tiếng Việt, viết văn, làm báo tiếng Việt, rất
là xuất sắc, lại có tâm hồn VN, thương yêu đất nước,
dân tộc VN, tranh đấu bền bỉ cho quyền làm người VN? Tại
sao? Và tại sao? Thật là kỳ bí! Có thể..., kiếp trước,
Ỷ Lan PF là người VN (?), có khi chính Ỷ Lan Nay là Ỷ Lan Xưa
, là cô gái hái dâu, quê làng Thổ Lỗi, tỉnh Bắc Ninh
không chừng? NguyễnNhưHùng
Thầy tôi. Thầy tôi, Tuổi hạc chưa cao, Mới ngoài chín chục, Trí nhớ tinh tường. Nguyễn Như Hùng Xin thưa, Thầy đây
là Thầy giáo, Thầy dậy chữ. Nói rõ hơn là Thầy dạy
toán. Chúng tôi học Thày từ năm 1950. Và đây là tấm
hình quý hiếm mà tôi còn giữ được, tính ra đã
hơn 64 năm : Hình lớp đệ
thất, lớp đầu tiên của bậc trung học (HàNội, 1950).
Trong hình có 4 vị giáo
sư là: thày Phú , đứng dựa tay phải vào tường, dạy
anh văn; còn 3 vị tiếp theo đều đeo cà vạt, từ trái qua
là thày Quang, dạy Việt văn, thày Đạt dạy toán và thày
Hiếu dạy vạn vật. Còn lại là lũ lau nhau chúng tôi, đứa
đầu trần, đứa đội mũ, phần lớn khoác áo ấm bên
ngoài. Như vậy hình này phải chụp vào mùa lạnh, dịp
Giáng Sinh hay Tết. Cũng không quên ghi công bác phó nhòm chụp
tấm hình này. Bác phó nhòm là ai, không biết. Nhưng máy
hình có lẽ là của bạn PhạmVănTuấn . (Bạn Tuấn là
con trai của nhiếp ảnh gia PhạmVănMùi ).Thời đó, máy hình
hiếm lắm, chạy tiền cho con theo học trường tư đã vất vả
lắm rồi. Ngày nay, nhìn vào
tấm hình, tôi còn nhận ra một vài người: PhạmVănTuấn
(Virginia), PhạmVănQuảng (Canada), TạVănTài (Boston), TạVănDục, NgôThếĐiềm
(Cali), PhạmChíCông (Pháp), LươngDuyênCan (Cali), NguyễnNhưHùng
(Cali), và một vài bạn nhớ tên , nhưng không nhớ họ:Tường,
Cường, Từ . Đây không phải là cả lớp, vì còn nhiều
bạn không có mặt trong hình, như một số bạn thân mà tôi
nhớ :PhạmVănHải (Cali) TrịnhVănDương (Sg), TrầnĐứcLợi (Sg),
NguyễnHoàng (hy sinh), ChuTrungNghĩa (yên nghỉ bên kia thế giới)..Và...
không hiểu tại sao lại thiếu bóng dáng quý vị nữ sinh. Lớp
chúng tôi thời đó có nhiều áo dài lắm chứ: DiệuLinh
(Cali), DiệuYên ( qua đời), VânYến (Virginia),ThuýNga (Chicago), MộngTuyết
(TX)), TuyếtAnh (Cali), KimChi (Cali), ThanhThảo (Cali), XuânHoa (Hanoi), HướngQuỳ (Hanoi),
Diệp, Trinh, Hương...Chắc là các chị còn e lệ (!) ,hay ...theo quan
niệm cổ hủ thời xưa, con gái phải đứng ra...ngoài lề? (Đọc
tới đây, tôi đoán, nhiều lão bà kể trên sẽ cau mày
xỉ vả cái thằng... tôi. Nhất là cụ DL, khi nghe điện thoại
của tôi, tai hơi có vấn đề, cụ cứ hỏi đi hỏi lại,
ai đó, ai đó. Tôi nói tên, cụ vẫn cứ hỏi hoài. Tôi
phải nói lớn, thằng H đây. Cụ à một tiếng, nhận
ra ngay. Cụ phán: phải có chữ thằng đi trước , chứ tên H
thì biết là H nào.Thế là 2 chúng tôi đều cười ha
hả. Cảnh già lão nó vậy đó, các cụ ơi. Vui ơi là
vui!) Chúng tôi học với nhau từ
năm 1950. Phần lớn đều mới hồi cư về HàNội. Ngơ
ngơ, ngáo ngáo, đúng là nhà quê ra tỉnh. Tuổi tác học
sinh trong lớp rất sai biệt, trẻ nhất 11 tuổi mà lớn nhất có
thể 17, 18 tuổi. Nhiều nhà có tới 3, 4 anh chị em ruột học cùng
một lớp. Tản cư 4-5 năm, chạy từ làng này sang làng khác
trong vùng thôn quê, không được đi học. Nay về thành, chữ
nghĩa rơi rụng hết, thi vào đệ thất trường công, rớt,
đành phải ghi tên học tư thục vậy. Nhớ là, thời đó,
muốn học đệ thất (lớp 6 bây giờ) là phải có bằng
tiểu học. Nay ở Mỹ, thỉnh thoảng
ngồi nói chuyện xưa với nhau, đều công nhận rằng, thế hệ
tụi mình chịu đựng nhiều tang thương, mất mát nhất vì
chiến tranh. Nào tản cư (1946-47), hồi cư (1948-53), di cư (1954-55), rồi đến
tháng tư đen 1975, tai họa giáng xuống cho toàn dân miền nam, người
người phải di tản, vượt biên, vượt biển tìm tự do. Đến
nay tạm gọi là được định cư. Ba, bốn chữ CƯ nó
theo ta suốt cả cuộc đời !! Bây
giờ trở lại bức hình trên với Thày Tôi nhé. Trong hình
có 4 thày. Nhưng bài viết này tôi dành để nói "Thày
Tôi" là thày Đạt, thày LêVănĐạt. Vì Thày gần
gũi với tụi tôi nhất, cho đến ngày nay (12/2014). Còn 3 thày
kia đã yên nghỉ từ lâu . Thày Quang, thày Hiếu, không di cư
vào Nam năm 1954, mất tại Hanội. Thày Phú mất ở Saigon.
Thày Lê Văn Đạt là gs dạy toán,
vừa là hiệu trưởng của trường. Trường tư thục LamSơn.
Trường dạy học sinh từ mẫu giáo lên tới trung học. Lớp lớn
nhất trường là lớp đệ thất, lớp của chúng tôi, năm
1950. Đấy cũng là năm trường thành lập. Thày Đạt xin
giấy phép, đứng làm hiệu trường và quy tụ một số
bàn bè thân quen cùng nhau thành lập ngôi trường mới. Trường
ốc là một biệt thự, gần hồ Thuyền Quang. Năm 1950, khi trường
Lam Sơn khai trương, ngoài 2 trường trung học công lập nam ( CVA, Nguyễn
Trãi) và 1 trường trung học công lâp nữ (Trưng Vương), HàNội
còn có một số trường trung học tư thục khác như VănLang,
DũngLạc, HànThuyên...Thế mà Lam Sơn cũng có đủ học
sinh và cầm cự suốt 4 năm trời, từ 1950 đến 1954. Năm chia cắt
đất nước, toàn miền bắc VN rơi vào tay CS. Trưóc khi VC tiếp thu Hanội 1954, theo hiệp định Geneve,
hè năm đó, chúng tôi còn kịp dự kỳ thi Trung Học Phổ
Thông khoá Một. (Khoá Hai tổ chức tại SaiGòn). Đấy là
kỳ thi cuối cùng tại Hà Nội của một nền giáo dục quốc
gia với đường hướng dân tộc, nhân bản, khai phóng. Khi vào
Saigon, một số học sinh chúng tôi gặp lại nhau trong lớp đệ tam
tại các trường trung học di cư như CVA, HồNgọcCẩn, TrưngVương
(nữ sinh)... vào kỳ khai giảng niên học 1954-55. Mấy đứa tôi theo
gia đình vào Saigon nên liên lạc được với nhau. Ai về các
tỉnh khác đều bặt vô âm tín. Các vị gs cũng vậy.
Nhưng riêng Thày Tôi, GS LêVănĐạt, chúng tôi có được
gặp ở Saigon và chụp mấy tấm hình ở sở thú. Vào khoảng
cuối năm 1955 thì phải(?). Nhưng không nhớ là làm sao liên lạc
được với Thày, vì lúc đó, chân ướt chân ráo
đặt chân tới thành phố rộng lớn như Saigon, đời sống
còn khó khăn,phương tiện rất eo hẹp. (Sẽ hỏi lại Thày
và các bạn sau). Sang năm 1955, Việt
cộng đã tiếp thu toàn thành HàNội. Thày Tôi còn ở
lại. Trong thời gian Hải Phòng vẫn thuộc quyền kiểm soát của
phe Quốc gia, Thày Tôi mới tìm cách trốn xuống HảiPhòng. Trên
chuyến tàu hỏa HaNội- HảiPhòng, tới ga Phạm Xá, ranh giới phân
chia quốc cộng, Thày vụt chạy về phía quốc gia. Chỉ ít ngày
sau đó, cả miền Bắc chìm đắm trong chế độ CS (theo hiệp
định Geneve 20-7-1954). Bẵng đi một
thời gian dài, không được tin tức về Thày. Chúng tôi bận rộn học hành, rồi ra trường,
mỗi đứa đi làm mỗi nơi. Không biết Thày tôi làm gì.
Nghe nói, có thời gian, Thày ra Nha-Trang mở lại trường trung
học Lam Sơn. Nhưng được vài tháng, trường đóng cửa.
Sau đó, Thày Tôi, cũng như bao thanh niên khác ở miền Nam, phải
nhập ngũ quân đội. Thày được trưng dụng với cấp
bậc đại úy quân y đồng hoá, vì Thày là bác sĩ
thú y bên dân sự. Đến ngày mất nước 30-4-1975, cấp bậc
cuối cùng của Thày là đại tá quân lực VNCH. Thày di
tản kịp thời năm 1975. Tôi bị kẹt lại. Không ngờ thày trò
chúng tôi lại được gặp nhau tại Cali, đầu thập niên
80 của thế kỷ trước, khi tôi mới từ trại tỵ nạn Mã
Lai, đến Hoa Kỳ định cư được ít lâu. Lúc đó
Thày đang làm việc ở New Jersey, miền đông Hoa Kỳ, qua Cali thăm
bà con. Nơi Thày làm việc, ít người Việt, khí hậu lạnh
lẽo, mùa đông tuyết băng, nên khi về hưu, Thày chuyển về
Cali. Không phải 65 tuổi về hưu đâu, Thày còn làm thêm
vài năm nữa mới nghỉ hẳn. Thày nói, về nghỉ hưu không
biết làm gì. Đúng vậy, Thày không vướng bận vợ con,
suốt đời sống tự do một mình.Thày Tôi chưa bao giờ lập
gia đình. Khi chúng tôi học ở Lam Sơn, Hà Nội, Thày Tôi
, hiệu trưởng, chưa tới 30 tuổi. Hầu như lúc nào cũng có
mặt tại trường. Trường như nhà của Thày. Sau giờ học,
Thày chơi bóng chuyền với chúng tôi tại sân trường. Tôi
còn nhớ, bên thắng cũng như bên thua, mỗi đứa đều được
thưởng 1 que kem. Cậu bé bán dạo ôm phích kem HùngVương
chờ sẵn ở sân trường. Chiều xuống, cầu thủ bóng chuyền
ra về, cậu bé bán kem cùng theo ra cổng trường, mặt mày hớn
hở với 2 tay xách 2 phích kem, không còn một que vì Thày
đã mua hết để khao chúng tôi rồi. Ngày nay, Thày ở cùng vùng bắc Cali, nên chúng tôi
có nhiều dịp thăm Thày hoặc mời Thày ra tiệm để hàn
huyên, nhất là khi có trò nào ở xa tới. Sau đây là mấy hình Thày Tôi: 1/ Tấm hình kỷ niệm, Thày ký tặng, với
ghi chú sau tấm hình: "Thân mến tặng Hùng để kỷ niệm
những ngày Lam-Sơn. Trường L.S, ngày 12-8-54. Thày cũ, (ký tên) LVĐạt". Ngày ký tặng 12-8-54. Tuần sau, ngày
20-8-54, tôi lên máy bay di chuyển theo gia đình vào Saigon. (Đúng
1 tháng sau ngày ký hiệp định Geneve phân chia đất nước,
20-7-54). Tính đến nay (2014), tấm hình với nét chữ của Thày
đã tồn tại đúng 60 năm trời, trải qua bao dâu bể của
thời thế. Thật không ngờ! Từ HàNội vào SaiGon. Rồi từ
VN sang Mỹ. Đúng là, sống chết chạy giặc, nhưng vẫn không
quên mang theo kỷ niệm thời học sinh. Giáng Sinh năm nay 2014, tôi sẽ
mang đến "Thầy Tôi" món quà GiángSinh thật đặc biệt
này. 2/ Hình chụp
tại sở thú Saigon (1955) với các trò: Nghiã, Hùng, Dương, Cẩm,
nữ: Hoàn, Mộng Tuyết, Xuân Hương. Thày đứng ngoài bên
phải. 3/ Đại tá Quân
Y LêVănĐạt của Quân lực VNCH (Saigon): 4/ Hình với các
trò gặp lần đầu tại Mỹ (198X): Hùng, Điềm, Hải, Dương, Luận. nữ: Tuyết Anh, Hoàn 5/ Với các trò
(2014): Hùng, Hải, Tuấn, VânYến, DiệuLinh. 6/ Thày trò 60 năm
sau ngày chia tay tại HaNội(1954-2014) : Cali, Mùa
Giáng Sinh, 2014 Kỷ niệm 60 năm lìa xa HàNội. NguyễnNhưHùng_____________________________________
TƯỞNG NIỆM NGÀY 11 THÁNG 9 9-11 VÀ TẤM HÌNH KỶ NIỆM. Như Không
9-11-2001 đến 9-11-2011. Từ ngày 9-11-2001, bọn khủng bố Al Qaeda phá xập tháp đôi cao
chót vót của thành phố New York (NY), gieo rắc bao tang thương chết
chóc đến hàng ngàn gia đình người dân vô
tội, đến nay, 9-11-2011, 10 năm trôi qua, khu tháp đôi vẫn còn
là khoảng đất trống (ground zero). Phá hoại thì dễ, xây dựng
mới khó. Hình ảnh kinh hoàng trên TV ngày 9-11-2001,
máy bay đâm thẳng vào tòa tháp, tháp đôi ngùn ngụt
bốc cháy, khói đen tỏa khắp bầu trời, rồi ..xụp đổ.
Từ đó đến nay chúng ta không trông thấy tháp đôi vượt
lên cao giữa bao cao ốc khác của NY nữa. Tôi
tìm lại phim chụp cũ và phóng lớn treo trên tường. Tấm
hình kỷ niệm đó nay trở thành tấm hình lịch sử đối
với tôi và cũng có tiểu sử như bất kỳ một hiện vật
nào khác. Ảnh
nnh: New York, 2000.
Nhân chuyến
qua miền đông nước Mỹ, hè 2000, ông bạn thân đưa chúng
tôi đi thăm tượng Nữ Thần Tự Do (NTTD) và thành phố NY. Khi
phà rời bến New Jersey, đưa du khách ra thăm tượng NTTD, ông bạn
tôi đứng chờ trên bờ. Chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt,
cứ như Ông Tây Bà Đầm tiễn đưa nhau ở bến cảng
Hải Phòng hay Saigon của những năm đầu thế kỷ trước. Tôi
chợt nhớ lại là khoảng hơn 20 năm trước, 1979, chúng tôi
cũng có dịp xuống tàu dời xa quê hương mà không có
người thân nào vẫy tay chào tiễn đưa. Trời tối như mực,
dắt díu đàn con nhỏ, chạy trốn loài quỷ đỏ, tâm trạng
hoang mang lo sợ, còn lòng dạ nào mà ngó lên bờ chào vĩnh
biệt quê hương yêu dấu; rồi tất cả già trẻ lớn bé
bị đẩy xuống hầm tàu chật ních những người, thiếu
không khí, mùi hôi nồng nặc… Đâu có thảnh thơi đứng
giữa trời cao mây nước, thở không khí tự do, trên chiếc
phà đi thăm tượng NTTD như thế này. Phà đang hướng về
đảo Tự Do (Liberty Island) có tượng NTTD, xa kia là thành phố New York
với tháp đôi cao vượt trội. Tôi đứng dựa vào cột
sắt trên tàu để giảm bớt độ rung, lấy máy
bấm vài kiểu hình kỷ niệm. Phà tới đảo, tôi rảo
bước thẳng đến tượng NTTD. Đứng dưới chân tượng,
sao cảm giác vui sướng lạ lùng. Giấc mơ từ nửa thế kỷ
nay, khi còn là cậu học sinh bé nhỏ, chỉ ngắm tượng NTTD qua
hình mấy trang sách anh ngữ vỡ lòng, bây giờ mới thực hiện
đươc. Cái chữ TỰ DO (Liberty), tên bức tượng, nó ám
ảnh suốt cuộc đời và là niềm khao khát vô biên của
con dân xứ nhược tiểu. Bức tượng Nữ thần vĩ đại
đứng giữa cửa biển, giơ cao ngọn đuốc Tự Do, chào đón
di dân từ mọi nơi đến. Tôi bấm máy lia lịa quanh tượng,
đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải, từ dưới
lên trên, chỉ tiếc không có trực thăng để có thể chụp
từ trên xuống. Hướng nào cũng đẹp. Nhưng khi chui vào trong
bụng thì chẳng thấy gì đẹp nữa . Đấy cũng là một
kinh nghiệm nho nhỏ cho những vị thích đi săn “cái đẹp”! Nghe
đâu, tổng thống Obama sẽ đọc diễn văn nhân ngày 9-11-2011
để tưởng niệm khoảng 3000 nạn nhân xấu số, cùng tôn
vinh các nhân viên cứu hỏa đã hy sinh trong thảm nạn này, cũng
như vinh danh những chiến sĩ đã và đang chiến đấu tận
diệt bọn khủng bố tại hai chiến trường Iraq và Afghanistan.
Như Không Tháng 9-2011
|
|