THƯ GỞI VỢ HIỀN
* Gởi về EM và hai con.
Em ạ, chúng mình cách
biệt nhau
Tính ra năm tháng đã
dài lâu
Bởi anh “cải tạo”
chưa thành đạt
Nên
nhịp cầu chưa nối nhịp cầu.
Vẫn biết quê nhà em ngóng trông
Đêm đêm mòn mỏi đợi tin chồng
Chong đèn nhìn giấc con thơ dại
Mà lệ hờn đau cứ chạnh lòng!
Em đã vì anh gánh
thiệt thòi
Tuổi xuân thiếu mất
cả niềm vui
Bởi anh lính chiến luôn
xa cách
Mong dịp gần nhau quá
hiếm hoi.
Lịch sử sang trang – ngày đen tối
Anh vào tù tội vạn trùng khơi
Em làm chinh phụ bền tâm đợi
Hôm sớm dầm thân giữa chợ đời.
Vắng anh, em hãy giữ
cho mình
Sức khoẻ – niềm tin
– tránh bất bình
Kham
khổ nhưng đừng nên khắc khổ
Đời người ai chẳng lúc nhục vinh?
Và em hãy cố dạy
hai con
Đạo đức người
xưa, dạ sắt son
Học tập
sau nầy nên danh phận
Hiếu trung
gìn giữ thật vuông tròn.
Anh ở phương nầy xa dịu vợi
Non ngàn, núi dựng ngút trời cao
Rừng sâu, nước độc ngàn đe dọa
Nhưng chí mình đâu thể ngã nhào!
Ở đây cải tạo hơn tù ngục
Đêm tối dồn vô bốn vách nhà
Khoá sắt lạnh lùng, khung cửa ván
Ngăn đôi thế giới họ và ta!
Bên trong chen chúc nằm
như gỗ
Tăm tối, thời gian, tiếng
thở dài
Tất cả hoà chung cùng
cảnh ngộ
Triền miên thao thức mộng
tương lai!
Có lẽ không xa đồi sẽ sáng
Vùng lên xoá sạch ách xiềng gông
Cánh chim bay khắp trời non nước
Dệt thắm tình yêu đẹp núi sông.
Anh sẽ về dưới mái gia đình
Bên em chung gánh nợ ba sinh
Quên đi ngày tháng tràn đau khổ
Và nhớ khôn nguôi chuyện chúng mình.
Anh quyết trọn đời không đổi dạ
Bởi em hiền phụ, bởi con thơ
Mặc cho cuộc sống ngàn dâu bể
Nhưng chuyện tình chung một bến bờ.
HUYỀN VÂN THANH
Chi Lăng
tháng 12/1976
Xuyên Mộc, 15-10-1980
* Bài
đã in trong Đặc san Võ khoa THỦ ĐỨC số 1
do Hội Cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức tại Houston