|
|
|
SỔ TAYtrang nhà trần bang thạch __________________________________
BÔNG HỒNG ĐỎ, BÔNG HỒNG TRẮNG Ngày
Vu Lan Báo Hiếu người ta gắn trên áo mình 1 hoa hồng đỏ
hay 1 hoa hồng trắng. Màu đỏ tượng trưng cho niềm vui còn mẹ.
Màu trắng nói lên nỗi buồn mất mẹ. Trong đời tôi chưa hề
nhận được 1 bông hồng đỏ hay 1 bông hồng trắng nào.
Điều đó có quan trọng lắm không khi cha mẹ còn sinh tiền
mình chưa lần nào cầm tay cha mẹ, âu yếm nhìn vào mắt
Người mà nói rằng: Con yêu thương cha mẹ. Người ta
cho mình một vật dù bình thường mình biết nói : “cám
ơn”. Cha mẹ đã cho mình hình hài, trí óc và khó
nhọc trăm chiều nuôi mình khôn lớn, có mấy ai, trong cử chỉ
thân tình hay trang trọng, quỳ trước 2 bậc sinh thành mà nói
rằng: “Con cảm ơn cha mẹ đã cho con thành người”.
Tình yêu thương và lòng biết ơn cha mẹ đã có sẵn
trong lòng mỗi người. Có lẽ người mình ít khi bộc lộ
tình cảm của mình đối với song thân chớ không phải mình
không nghĩ hay không muốn nói ra những lời ấy. Tự nghĩ nếu
có thêm 1 lần làm con, chưa chắc tôi nói đuợc lời này,
dù biết đó là điều nên nói, sẽ làm cha mẹ vui cả
ngày đêm, vui hơn ai cho vàng cho bạc. Tháng Bảy Âm lịch sắp
đến rồi. Ngày 15 tháng Bảy là rằm Trung Ngươn , còn gọi
là Trung Ngươn Thắng Hội, nguyên thủy là ngày Thánh Quân
Đại Hiếu là vua Thuấn, một vị vua huyền
thoại thời Trung quốc cổ đại nằm trong Ngũ Đế, nổi tiếng
là minh quân, nhân từ, hiếu tử, đã thay
trời xá tội cho các vong hồn nơi Địa Phủ. Vua Thuấn còn
được tôn vinh là Địa Quan xá tội. Qua câu chuyện hành
giả Mục Kiền Liên, chúng ta còn biết rằm tháng Bảy còn
là Lễ Vu Lan Bồn. Ngày các con báo hiếu cha mẹ đời này
và bảy đời trước bằng cách cúng dường chư Phật
và chư Tăng để hồi hướng công đức cha mẹ hiện tiền
và Cữu Huyền Thất Tổ. Công ơn cha mẹ lớn lắm. Chúng ta đã nghe những lời ca quen thuộc
từ nhạc phẩm Lòng Mẹ của Y Vân: “Lòng mẹ bao la như
biển Thái Bình” hay câu ca dao “Công cha như núi Thái
Sơn” . Thử đưa ra vài con số cho vui chuyện.Thái Bình Dương
rộng hơn 165 triệu cây số vuông, hay là 64 triệu miles vuông, lượng
nước bằng 50% lượng nước trên toàn địa cầu, chiếm
28% bề mặt trái đất, rộng lớn hơn tất cả đất
đai của trái đất gọp lại. So với nước Mỹ thì biển
Thái lớn gấp 15 lần.To lớn như vậy nhưng ngày nay người ta
vượt Thái Bình Dương là chuyện nhỏ. Cho nên biển Thái
tuy lớn nhưng không thể vượt được lòng mẹ bao la vô bến
vô bờ. Núi Thái Sơn ở trung bộ tỉnh Sơn Đông bên Trung
Hoa cao chỉ có 1500 thước tây, thua xa độ cao 8850 thước
của núi Everest trong dãy Hi Mã Lạp Sơn. Tưởng Thái Sơn cao lắm,
nhưng chỉ cần bước lên 7000 bậc đá, trung bình mỗi bậc
mất 1 giây, vừa đi vừa nghỉ thì trên dưới 2 tiếng là
ta lên tới đỉnh núi Thái Sơn rồi, nào có cao lớn hùng
vĩ gì đâu! Chắc chắn núi Thái cũng không thể so sánh
được với công cha. Thực tế là không ai lấy thước mà
đo được lòng cha mẹ. Kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng:
Nếu ta suốt đời cõng mẹ 1 bên vai, cõng cha 1 bên vai, từng
giây săn sóc miếng ăn, giấc ngủ, nâng niu, đấm bóp...dù
cha mẹ có vãi tiểu tiện trên vai, thì nếu ta có sống tới
trăm năm cũng không trả hết công ơn cha mẹ. Có
1 người thợ điện bên Ấn Độ không biết có đọc
những lời trong Kinh Tăng Chi I trên đây hay không nhưng anh đã có
hành động tương tợ như vậy ở thời điểm bây giờ.
Tin tức này tôi vừa đọc trên net sáng nay. Anh thợ điện
ở New Delhi tên là Sanjay Kumar, 42 tuổi, đã thực hiện lời tự
hứa là sẽ phụng dưỡng cha mẹ suốt quãng đời còn lại
của mình. Cha 95 tuổi, mẹ 80 tuổi. Cha mẹ anh ước muốn đi tắm
nước sông Hằng ở Haridwar, anh để cha mẹ nặng tổng cộng 115
kg lên 2 đầu quang gánh thực hiện chuyến hành hương đường
bộ gập ghềnh, trơn trợt dài 216 cây số. Công ơn cha mẹ vô cùng trọng đại nên thực hành chữ
hiếu chính là làm điều thiện, và sự bất hiếu chính
là điều ác. Kinh Nhẫn Nhục có mô tả: "Cùng tột điều thiện, không
gì hơn hiếu, Cùng tột điều ác, không gì hơn bất
hiếu". Cũng có
người dưỡng nuôi cha mẹ, nhưng tính tháng tính ngày:“ Mẹ nuôi con quản chi ngày tháng,
con nuôi mẹ tính tháng tính ngày”. Vế thứ hai tưởng như là chuyện
không hề có! Thật trớ trêu! Người không biết lấy chữ hiếu làm đầu thì dù
người có làm hàng trăm việc tốt thì cũng như không:
“Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”. Nhớ ngày trước học Nhị Thập Tứ Hiếu, nghe
chuyện ông Ngô Mạnh Tông thấy ông nầy thật là đại
hiếu nên hâm mộ ông mà học thuộc bài này cho đến
nay còn nhớ: Ngày đông tháng giá, ngài Mạnh Tông nằm
trên đất khóc cho đến khi đất ấm nứt ra mụn măng non
để dâng lên mẹ đang yếu đau mà thèm canh măng. Nay hiểu
ra thì lòng hiếu thảo ấy cũng chưa đi đến đâu so với
tình mẫu tử của Ngô lão bà:
Giữa bình địa, phút giây bổng
nứt mấy rò măng, mặt đất nõn xanh Đem
về nấu được bữa canh Ăn rồi bệnh mẹ, lại lành
như xưa Cho hay hiếu động cao dày Tình sâu
nên khóc, cỏ cây cũng tình ... . May mà ngài Mạnh Tông còn mẹ
để báo hiếu. Trên đời nầy có biết bao người đã
lỡ dịp; khi nhớ lại thì đã quá muộn. Mẹ già như
chuối chín cây, gió lay mẹ rụng, con thì mồ cô. Mồ côi
tội lắm ai ơi, đói cơm, khát nước con thời cậy ai” hay:
“ Còn cha gót đỏ như son, mất cha đi sớm về hôm một
mình”. Ca dao đã ràng ràng như vậy. Tục ngữ cũng nói
rằng: “Con có cha như nhà có nóc”. Có 1 chuyện đạo
nói về công cha nghe thật thấm thía. Chuyện kể 1anh chàng thua lỗ
nợ như chúa chõm, khi chết Diêm vương cho làm con trâu để
trả nợ, hắn không chịu làm trâu mà muốn làm cha người
chủ nợ. Diêm vương thắc mắc, hắn trả lời: Làm trâu
đời sống chỉ có chín mười năm, không đủ
để trả nợ. Xin để con phải làm cha ông ấy để chăm
sóc ông ấy đến già, rồi tiếp tục lo từ cái ăn, cái
mặc, dạy dỗ điều hay lẽ tốt cho con cháu ông ấy; cho đến
hết đời cũng chưa chắc trả hết nợ. Câu chuyện cho ta thấy
người cha hết lòng lo cho con rồi lo cho cháu, chắt...Công ơn ấy
lấy gì mà so sánh được. Dù có biết mà tận tụy
báo hiếu cũng không khi nào đủ. Phật đã dạy: “Có
2 người trên đời mà ta không bao giờ trả ơn được,
đó là cha mẹ”. Người con hiếu chỉ có thể thi ơn
nhưng không thể trả hết được. Càng nghĩ đến công
ơn đấng sinh thành mà càng thương, càng nhớ: Tám mươi năm Má sống với đời Nhận tân khổ, dành sướng vui cho con cháu Gang chân nứt, da nhăn nheo, rướm máu
Bàn tay chai, khô sạm, sần
sùi Lưng gập cong, da mặt
trổ đồi mồi Bao
thay đổi dồn lên màu tóc Má. (“MÁ
CỦA TÔI”, Huyền Vân Thanh) Dù Mẹ đã ra
đi nhưng cái dịu dàng, đằm thắm của Mẹ vẫn ẩn tàng
trong sắc hoa màu tím để mỗi lần nhìn hoa tím là thấy
Mẹ đang ở bên mình: Bao giờ trong quảng đời hiu quạnh Bãi cỏ đời
tôi lúc úa vàng Mẹ tôi như sắc hoa màu tím Lẩn vào vạt cỏ buồn
mênh mang ("Mẹ tôi hoa tím giữa mùa Xuân",thơ Nguyên
Nhung) Không có đóa hoa hồng nào trên áo, nhưng trong lòng
tôi, mỗi mùa Vu Lan, mỗi ngày Mother’s Day, hay ngày Father’s Day...tôi
có cảm nghĩ hiện giờ màu đỏ, màu trắng của hoa hồng
pha trộn nhau thành cầu vòng rực rỡ ẩn hiện những nụ cười,
lòng thương yêu, sự hy sinh, tính cần cù, nhẫn nại, chịu
khó...của cha mẹ tôi trộn lẩn với niềm hạnh phúc của tôi
đã được một lần làm con của các Người. Cho nên
qua thời gian, tôi đã dần dần nhạt đi nỗi buồn mất cha mẹ,
nhưng lòng tiếc nuối thì không trôi đi mất vì không còn
cha mẹ để phụng dưỡng. Càng đi cuối đường đời,
càng thấm thía với mấy câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung
Quân: Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn Con sẽ không đợi một ngày kia có người cài lên áo
cho con Một nụ hồng bạch Mới thảng thốt nhận ra mình mất
mẹ. Mùa Vu Lan nầy, cũng xin đốt nén trầm hương nhớ ơn
Cha Mẹ của mình và của người./. Trần Bang Thạch
CÓ
MỘT CÔ GIÁO TRONG ĐỜI Hôm nay
là ngày các học sinh trở lại trường, bắt đầu một
niên học mới. Ngày mai là rằm tháng Bảy có Lễ Vu Lan Thắng
Hội, cũng là ngày con cháu nhớ ơn cha mẹ hiện tiền và
ông bà từ bảy đời trước. Không nhớ từ hồi nào, tôi luôn nghĩ
tới mẹ tôi mỗi mùa tựu trường dù cho ngày tựu trường
và Lễ Vu Lan cách nhau cả tháng, không cận ngày như năm nay.
Tôi cũng không nhớ rõ lắm thuở đó trong đầu óc trẻ
thơ của tôi có cái lý do gì để mỗi khi nghĩ tới ngày
tựu trường là nghĩ tới mẹ dù cho mẹ đang ở bên mình
hay sau này khi mẹ đã đi thật xa. Lớn hơn một chút, và
mãi cho đến bây giờ, tôi cũng chưa tìm thấy cái ràng
buộc nào rõ nét giữa ngày tựu trường và mẹ. Chắc
chắn là tôi không bị ảnh hưởng bởi bà mẹ ở làng
Mỹ Lý của ông Thanh Tịnh khi học “Hằng năm cứ vào cuối
thu lá ngoài đường rụng nhiều...” vì khi tôi biết
cột chặt mẹ tôi với ngày tựu trường là lúc tôi chưa
biết đọc. Mẹ tôi không là một cô giáo, nhưng cả cuộc
đời tôi, tôi đã có cô-giáo-mẹ. Cô-giáo-mẹ
của tôi không có một chút chuyên môn sư phạm, không đứng
lớp và không bao giờ nghỉ hưu. Thù lao suốt đời của cô-giáo-mẹ
là niềm vui và nỗi buồn. Hằng ngàn, hằng triệu cô giáo
này đã và đang có mặt trên đời, tiếp nối làm
cô-giáo-mẹ. Có bao nhiêu người mẹ là có bấy nhiêu
cô-giáo-mẹ, có phải không? Như bao nhiêu người mẹ khác,
mẹ tôi nuôi tôi lớn và dạy tôi, mong tôi nên người.
Tôi lớn hay tôi bịnh hoạn, èo uột; tôi ngu dốt hay khôn ngoan;
tôi nên người hay không...là do ở chính tôi. Bịnh hoạn
cứ kết dính vào cơ thể tôi, bẩm chất tôi không thông
minh như người, tánh tình tôi chỉ hướng theo cái xấu...thì
cô-giáo-mẹ chỉ còn biết cố hết sức mình chăm lo, dạy
dỗ, nhiều khi phải đau lòng mà “thương con cho roi cho vọt”.
Có bao nhiêu người mẹ trên đời này mà không biết
hy sinh cả niềm vui và hạnh phúc của mình, có khi hy sinh cả đời
mình cho con? Con lớn khôn, mẹ vẫn lo. Con đau yếu, ngu dốt, mẹ lo nhiều
hơn. Con ở gần, mẹ lo. Con ở xa, mẹ càng lo hơn. Con có danh có
phận với đời mẹ vẫn khuyên dạy như ngày con còn bé.
Khi lực bất tòng tâm thì người mẹ chỉ còn biết buồn,
lo, rồi cầu trời khấn phật...và khóc. Cô giáo ở trường
lớp cũng vậy, ai cũng muốn học trò mình giỏi, ngoan và thành
công; nhưng đâu phải tất cả học trò mình đều làm
được như vậy. Nỗi buồn của cô giáo chắc không quá
dài và quá to bằng nỗi buồn của cô-giáo-mẹ. Cô-giáo-mẹ
lo cả đời, buồn cả đời và khóc cả đời trước
đứa con không nên người của mình. Chắc không
cần phải nói: Một người mà “không nên người”
thì vô cùng đắc tội và vô cùng bất hiếu vì không
biết tới nỗi khổ quá to lớn của mẹ mình. Con hư một, mẹ
khổ mười. Mẹ tôi không có nhiều chữ nghĩa nhưng mẹ là cái gương
sống bên mình tôi. Những năm tháng vất vả mẹ góa nuôi
con cho tôi biết thế nào là tình thương yêu và lòng hy
sinh của mẹ. Đồng tiền mẹ kiếm được qua những đêm
dài mẹ thức trắng bên đèn khuya hiu hắt, còng lưng trên
cái bàn máy cũ, hay những đồng tiền mẹ chắt mót từ
hoa lợi của một miếng vườn nhỏ ở quê nghèo làm hiện
ra trong mắt tôi những nấc thang mà tôi phải bước để đi
lên, tôi phải đi ra khỏi cái cảnh sống thiếu thốn này bằng
đôi tay và bằng trí óc của mình. Những tháng ngày mẹ
tôi cận kề bên giường bà ngoại bị liệt chân tay nhiều
năm trời đã dạy tôi thế nào là hiếu để; dạy
tôi gấp ngàn lần chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu học ở trường...Nhiều
lúc tấm gương đó nhạt nhòa trước mắt tôi khi tôi
nghĩ tới mẹ, nhưng trong lòng tôi không có cái gì rõ
hơn hình dáng mẹ mình. Thầy cô giáo của tôi dạy tôi chữ nghĩa
và kiến thức. Dù còn sinh tiền hay khi đã quá vãng, Cô-giáo-mẹ
của tôi dạy tôi ở đời từ lúc tôi chưa biết gì
cho đến khi tôi đã thành ông của các cháu. Cô-giáo-mẹ
của tôi đã ra đi từ lâu nhưng mẹ chính là bài học
sống mà học hoài chưa chắc gì tôi đã thuộc. Cho nên,
hạnh phúc thay, tôi có một cô-giáo-suốt-đời. Chắc ai cũng
vậy. Phải chăng đó là cái lý sâu xa khiến cho tôi hễ
đến ngày tựu trường là nghĩ đến Lễ Vu Lan Báo Hiếu
và nghĩ đến Cô-Giáo-Mẹ. Có lạ lắm không: Hôm nay dẩn
cháu đến trường nhập học mà cứ nghĩ đến mẹ mình! Trần
Bang Thạch ________________________________________________________________________
TƯỢNG,
THƠ VÀ TINH THẦN NỮU
ƯỚC
Bạn thân,
Trước hết mời bạn đọc nguyên văn bài thơ nầy:
Not
like the brazen giant of Greek fame, With conquering limbs
astride from land to land; Here at our sea-washed,
sunset gates shall stand A mighty woman with a torch, whose flame Is
the imprisoned lightning, and her name Mother of Exiles. From her
beacon-hand Glows world-wide welcome; her mild eyes
command The air-bridged harbor that twin cities frame. “Keep
ancient lands, your storied pomp!” cries she With
silent lips. “ Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe free,
The wretched refuse of your teeming shore. Send these, the homeless, tempest-tost to me,
I lift my lamp beside the golden door!”
Tôi sẽ rất vô lễ với bạn và với chính tác giả
nếu tôi không ghi lại nguyên văn bài thơ trên đây, một
bài thơ được coi là tuyệt tác, vì nó đã nói
đầy đủ ý nghĩa của pho tượng và thể hiện thật
rõ tinh thần Hiệp Chủng Quốc, nên từ năm 1903 bài thơ đã
được tạc trên một tấm đá đặt dưới chân tượng
Nữ Thần Tự Do trên đảo Bedloe's Island, sau được đổi thành
Liberty Island, ở New York . Tôi đã chép bài thơ này khi đứng
dưới chân tượng đài. Bài thơ có tựa là “The
New Colossus” do nữ thi sĩ Emma Lazarus (1849-1887), một New Yorker chính cống, viết
năm 1883 để biểu tỏ niềm tin của mình vào một nước
Hoa Kỳ tượng trưng cho thiên đường của những người bị
áp chế. Bản thân của nhà thơ Lazarus cũng là một biểu tượng
của tình người. Bà là người giàu tâm và giàu của,
đã cống hiến những năm cuối đời mình và hầu hết
tài sản của mình cho việc cứu trợ những người di dân Do
Thái giáo nhập cư nước Mỹ. Họ đã từng bị đối
xử tàn tệ tại nước Nga.
Đọc những câu thơ của người xưa, rồi ngước mắt
nhìn pho tượng đồng, tôi thấy mình có được một
gặp gỡ vô cùng hiếm quí với hai biểu tượng của tính
nhân bản cao vòi vọi.
Trước hết là bài thơ. Kẻ hậu thế nầy hiểu thế
nào thì xin được ghi ra như vậy, chớ không dám làm công
việc dịch thơ: Chẳng phải là tượng đồng
của danh tướng Hy Lạp xưa, kẻ chỉ biết vươn tay
mà gồm thu đất đai thiên hạ. Người đứng
đó giữa trời mây sóng cả, giương thật
cao ngọn đuốc soi đường. Mẹ là Mẹ hiền của
người lử thứ, của kẻ tha hương, Mẹ chong
mắt, Mẹ vẫy tay mời gọi. Hãy tụ về đây làm
nên phố đông, bến mới. Nhớ đừng quên quốc
tổ ngọn nguồn. Hãy bỏ những nhọc nhằn, nghèo
đói, những dâu bể, tang thương Để
được thở như chưa từng được thở. Người
đã bị đuổi xua nơi những bãi bờ đâu đó, hay
đang trong bão táp mịt mùng, Cứ theo ánh
đuốc nầy mà ghé Bến Chung. Cửa đã
mở và ánh vàng đã lóe.
Mình đã có lần mang khát vọng Tự Do lên thuyền nan vượt
sóng. Biển cả thì trùng trùng mà bến đậu thì mù
tăm. Hôm nay nghe ý tứ của thơ, chữ nghĩa của thơ sao thấy
gần gũi quá, như có mình trong đó, và có trong đó
hàng triệu triệu những di dân từ muôn phương đổ về vùng
đất ghé tạm của đoàn hải hành Kha Luân Bố hồi năm
1492. Ghé tạm nhưng đã hình thành một đất nước của
Tự Do, tiếp tục xây dựng một bến bờ của kẻ đi tìm
Tự Do từ khắp xứ.
Còn
khối tượng đồng nặng gần nửa triệu cân, cao hơn 300 thước,
người ta có thể theo 168 nấc thang bên trong tượng mà leo đến
tận cái vương miện hay theo cánh tay mà leo tới ngọn đuốc;
để từ đó nhìn khắp thành phố Nữu Ước. Nhìn
từ xa, pho tượng như đứng trên triều sóng, trên đầu là
những dãy mây xanh, khiến ta thấy pho tượng vừa uy nghi gần gũi,
vừa lung linh thoát trần. Tượng thật đẹp và thật vĩ đại.
Nhưng tính chất vĩ đại có lẽ ẩn tàng nơi ánh mắt
của người mẹ hiền hướng về đại dương cùng với
cánh tay mặt cầm ngọn đuốc chỉ đường cho những người
đang lênh đênh trên biển cả, ngọn đuốc sáng rực ban
đêm với 19 ngọn đèn tổng cộng 1300 watts. Cánh tay trái thì
cầm phiến đá khắc ngày ra đời của Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập Hoa Kỳ, July 4, 1776, ngày sinh của một quốc gia, cũng là bước
nhảy xa của một nhà vô địch hoàn cầu. Dưới chân tượng
là sợi xích sắt bị bẻ gãy, tượng trưng cho sự cáo
chung củạ bạo tàn. Ân cần mời gọi, soi lối chỉ đường,
cưu mang, chia sẻ, dân chủ, tự do... đã thể hiện hết trên
The Statue of Liberty, một quà tặng của nước Pháp cho nhân dân Hoa
Kỳ nhân ngày lễ Độc Lập July 4, 1884; sau đó được dựng
thành tượng đài ngày 28 tháng 10, năm 1886. Hơn trăm năm nay
Tượng Đài đứng đó giữa bốn bề sóng nước
phải chăng cũng đã góp phần gìn giữ tinh thần Mỹ quốc
xứng đáng với tên gọi, một quốc gia lúc nào cũng thể
hiện dân chủ, tự do và biết tôn trọng công bằng, bác ái.
Cảm ơn Thơ với Tượng đồng, những sáng tạo của
nghệ thuật đã nâng ý nghĩa của hai chữ Tự Do cao tới mây
và sáng như sao trời. Quý
biết bao phút gặp gỡ của tôi với cái Ý của Thơ và
cái Hồn của Tượng.
Bạn thân, Không nhắc
chắc bạn cũng nhớ còn vài hôm nữa là tới ngày 11 tháng
9. Chắc bạn cũng không quên hai năm trước vào ngày này lương
tâm nhân loại đã bị rúng động với sự sụp đổ
của 2 tòa nhà chọc trời ở Nữu Ước. Gần 3000 người
chết thảm, chết trong hoảng hốt cực độ. Có người chết
mà điện thoại còn trên tay, có người còn cầm tách
cà phê chưa uống cạn. Bao nhiêu cái chết không toàn thây.
Quĩ vương đã hiện hình ngay trước mắt loài người,
ngay trước mắt Tượng Thần Tự Do, trước mắt những câu
thơ chứa chan tình nhân loại. Ghé lại Ground Zero để thấy đá
sỏi và bốn phía rào, thấy một bãi hoang mà 2 năm trước
đây là nơi tọa lạc của hai tòa cao ốc song sinh tượng trưng
cho nền kinh tế đứng đầu thế giới. Người ta treo trên hàng
rào tấm bảng ghi danh những nạn nhân. Có quá nhiều cái tên,
tôi không đọc hết được, nhưng có một câu chữ viết
tay nguệch ngoạc trên khung ván của bảng danh sách nạn nhân mà
tôi đã phải đọc đi đọc lại nhiều lần, đọc
mỗi lần là mỗi thấy tim mình nhói đau. Chị bạn đi chung
chỉ đọc một lần mà đã thấy nghẹn thở. Ai đó
đã viết như thế nầy: “You have gone, but my heart has been dying”.
Người đi, người đã đi rồi, lòng tôi chết điếng
theo người, người ơi. Không biết hôm đó có bao nhiêu
những người đang yêu nhau phải giữa đường gãy gánh,
khiến người tình còn ở lại phải thốt lên lời
thống thiết, để chúng tôi nghe hôm nay giữa vuông đất đã
chôn vùi xương thịt của mấy ngàn xác thân và mấy
ngàn vong linh uỗng tử.
Bạn thân, Có một
bài thơ tựa là IF I KNEW tôi đọc được trên net sau ngày
11 tháng 9 thảm khốc đó. Bài thơ không ghi tên tác giả,
dài 13 khổ, mỗi khổ 4 câu thơ. Chữ nghĩa của mỗi câu thơ
thật là đơn giản. Nhưng ý tứ của mỗi khổ thơ là
một nuối tiếc, một niềm hối hận đã bỏ lỡ dịp cuối
cùng để biểu lộ tình thương yêu đối với người
thân vừa mới đột ngột vĩnh viễn ra đi. Ra đi mà không
kịp nói một lời vĩnh biệt:
Nếu em biết đó là lần cuối anh bước ra khỏi ngưỡng
cửa này, em sẽ ôm anh, sẽ hôn anh, sẽ kêu anh bước trở lại
để em ôm anh, hôn anh thêm một lần nữa.
“If I knew it would be the last time that I see you walk out the door, I would give you a hug and kiss and
call you back for one more”. Cho nên nếu
mình đợi đến ngày mai mới nói lên tình thương yêu
này, tại sao không làm ngay hôm nay để không phải hối tiếc
nếu ngày mai không bao giờ đến.
“So if you're waiting for tomorrow, why not do it today? For if tomorrow never comes, you'll surely regret
the day”.
Tôi nghĩ rất nhiều người đã có dịp đọc bài
thơ này và đã suy nghĩ cũng rất nhiều.
Bạn thân, Tôi đã
mời bạn cùng tôi đi phà sang Liberty Island để thấy biểu tượng
của Nữu Ước. Đã mời bạn ghé mạn Nam của Manhattan đến
đứng ngoài vòng rào của Ground Zero suy nghĩ một chút về tội
ác để tôi có cớ mời bạn nhìn Tinh Thần Nữu Ước.
Phải, hai tòa cao ốc sụp đổ nhưng Tinh Thần Nữu Ước không
phải vì vậy mà không còn. Từ hàng trăm năm nay, với đôi
tay rộng mở, Nữu Ước đã là đất lành cho hàng triệu
triệu lưu dân tứ xứ. Họ đến một nơi biết trọng tự
do và nhân cách của con người. Họ đến để lập thân
và lập nghiệp và lập chí. Từ những khổ nhục, những đàn
áp, những mất mát, những đớn đau “... tại quê nhà,
họ đã tạo nên Thành phố Nữu Ước giàu mạnh. Từ
những ước mơ nhỏ bé của những người chỉ muốn làm
Người, họ đã tạo nên Tinh Thần Nữu Ước: hòa đồng
để thương yêu nhau, nắm chặt tay nhau để cùng tiến tới,
tôn trọng và bình đẳng”.
Tinh thần nầy, thưa bạn, tôi đã thấy được, mọi
người đã thấy được suốt 29 tiếng đồng hồ Nữu
Ước bị mất điện từ xế chiều ngày 14 tháng 8. Gần ba
mươi năm, Nữu Ước mới bị mất điện lần này, và
là lần dài nhất trong lịch sử Nữu Ước. Chen chân giữa lòng
phố lạ với hàng trăm ngàn người, thoạt đầu tôi thấy
mình kém may. Tự dưng từ một thành phố cực nam làm một
chuyến du hành cực bắc để xui xẻo đi vào đêm đen của
một thành phố ánh sáng được mệnh danh là Thành phố
Không Ngủ (Sleepless City), là Hạt Ngọc về đêm! Nhưng thưa bạn,
người xưa nói trong cái rủi có cái may. Đúng lắm. Không
có cái rủi đó làm sao tôi được sống cái ngàn
năm một thuở hôm ấy hỡ bạn! Nhất là làm sao tôi thấy
được cái Tinh Thần Nữu Ước.
Thành phố Nữu Ước với trên 20 triệu dân, cộng với
hàng trăm ngàn du khách mỗi ngày, có một hệ thống xe điện
ngầm lớn nhất thế giới. Mất điện vào giờ tan sở nên
người ta phải cần hơn 3 tiếng đồng hồ để đưa 350 ngàn
người ra khỏi các toa xe dài ngoằn và các trạm xe điện,
chui lên mặt đất, nhập vào với hàng triệu người ra đường
từ các công, tư sở. Xe cộ bị tắc nghẽn . Chỉ có các
xe của nhân viên công lực luồn lách trên đường phố.
Những người đang ở trong các chung cư tránh cái nóng nên
cũng túa ra đường. Rừng người. Cả thế giới đã thấy
rừng người đó trên TV. Thưa bạn, trong rừng người đó
có tôi. Có tôi người khách lạ trên khu phố Brooklyn, lần
đầu tiên đến thăm Nữu Ước. Sau hơn một tiếng đồng
hồ ngồi trong lòng xe buýt không thể lăn bánh và không có
máy lạnh, tôi phải bước xuống xe và phải đi
bộ hơn 4 tiếng đồng hồ, vượt hơn 8 dặm đường,
tới chỗ rồi còn phải leo 25 từng lầu, dò từng bước
một như đi trong hầm tối để lên căn phòng tạm trú qua
đêm. Chúng tôi đã đi như vậy trên các khu phố lạ
hoắc không một ánh điện. Khu chung cư cũng tối đen. Những vệt
đèn xe cảnh sát hay xe cứu thương chỉ đủ cho người ta
nhìn thấy mặt nhau trong thoáng chốc. Sợ là sẽ có những kẻ
lợi dụng bóng đêm để cướp bóc, giựt dọc, vv.. . Không,
không có gì hết. Không một tiếng nổ. Chỉ có tiếng trực
thăng nghe rõ trên bầu trời đêm.Thành phố Nữu Ước bình
yên. Người Nữu Ước, có lẽ đã học thêm được
bài học 11 tháng 9 từ 2 năm trước, rất bình tĩnh và rất
trật tự, không sợ hãi. Họ tình nguyện giúp nhân
viên công lực hướng dẫn xe cộ lưu thông, hướng dẫn người
đi bộ, họ hỏi han, chăm sóc đủ điều. Tôi thấy có
những em thiếu niên để người già lên yên xe đạp rồi
dẫn đi. Có những cửa hàng cho không những chai nước uống..
..Chúng tôi đi bộ tuy có xa nhưng không thấy mệt, có lẽ
nhờ tinh thần lạc quan, thái độ thân thiện, giúp đỡ của
người Nữu Ước.
Sau đêm
đen Nữu Ước đó trở về nhà, trong đầu tôi lúc
nào cũng chập chờn câu hỏi của một em bé không quen: Are you
OK? I can help. Đêm đó tôi đã lắc đầu nhưng bây giờ
thì tôi thấy quả tình em bé đã nối dài thêm cánh
tay của Tượng, đã ghép thêm lời cho Thơ và đã kết
thêm một bông hoa vào cành hoa hồng Nữu Ước. Cũng từ hôm
đó, tôi thường nghe lại tiếng hát của Frank Sinatra: “New
York, New York. I want to be part of it. I wanna wake up in a city that doesn't sleep…”.
Khi
cái ác vẫn còn rình rập quanh đây thì làm sao mà Nữu
Ước ngủ được. Và Tượng, và Thơ cũng sẽ thức
hoài với Tinh Thần Nữu Ước.
Thượng tuần
tháng 9/2003 TBT ___________________________________________________________________
HỒN VIỆT Hằng năm
vào những ngày cuối tháng 5 và đầu tháng 6, tôi vẫn
hay đi tham dự những lễ tốt nghiệp hay những sinh hoạt cuối năm
tại các trường đại học hay trung, tiểu học. Xa trường đã
lâu, có dịp nhìn lại những gương mặt non đầy niềm vui,
trong sáng và hy vọng mình cũng thấy vui lây. Hôm nay thật tình cờ tôi đến dự lễ kỷ niệm 10 năm của
chương trình NO PLACE FOR HATE tại trường tiểu học McDougle. Vẫn cái
nắng gần trăm độ của Houston. Vẫn không khí khô khốc của vùng đất
chỉ đón nhận vài giọt mưa từ năm bảy tháng nay. Vậy
mà buổi sáng hôm nay nghe như có luồng gió mát, thật mát,
thổi từ bãi đậu xe rộng, tuông vào mấy cánh cửa lớn
rồi lan ra khắp hội trường to gần bằng sân đá banh. Tôi vô
cùng ngạc nhiên khi thấy ở đó có một lá cờ nền
vàng ba sọc đỏ, giữa mấy trăm lá cờ khác. Không. Gió
không đến từ bên ngoài mà đến từ những cái phe phẩy
của lá cờ nhỏ màu vàng bay phất phới trên 1 cánh tay nhỏ
. Bạn có thể tưởng
tượng được không, lâu lắm rồi tôi mới thấy lại
nỗi xúc động nầy của mình. Nó vừa mơ mơ hồ hồ,
mênh mông, lảng đảng; vừa sâu lắng, tuyệt vời và thật,
rất thật. Lần trước, cách đây đúng 32 năm, cũng vào
tháng 5 nầy, trong tâm trạng hư hư thật thật, tôi tưởng mình
nằm mơ khi thấy lại lá cờ vàng tại sân trại tị nạn
Songkhla trên đất Thái. 32 năm qua tôi vẫn thấy lá cờ thân
yêu của mình khắp nơi, kể cả những nơi có ít người
mình. Nỗi xúc động theo tháng ngày cũng lắng xuống, như
mỗi ngày thấy mặt người thân, bớt đi nỗi háo hức của
lần gặp lại sau thời gian dài xa cách. Thường xuyên thấy cờ
mình ở nhiều nơi như thấy một quê hương ở xa và thấy
nhân dáng tị nạn chánh trị của mỗi một người Việt
Nam, dù là người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt,
ngưởi Nigeria gốc Việt; dù là người vượt biên, người
HO, người ODP, v.v… hay người ra đời sau 1975 bên ngoài VN. Mọi
người đành phải sống xa quê hương mình vì một lý
do chung duy nhất: lý do chánh trị. Hôm nay lá cờ của
mình tuy nhỏ bằng 2 bàn tay giữa mấy trăm lá cờ khác nhưng
trước mắt tôi nó bao trùm cả hội trường. Có lẽ khung
cảnh khác lạ và chủ đề của buổi sinh hoạt khiến sự
xuất hiện bất ngờ của lá cờ vàng mang một ý nghĩa tuyệt
vời làm mình xúc động. Giả dụ giữa khung cảnh nầy mà
thiếu vắng lá cờ Việt Nam thì buồn tủi lắm. Địa điểm là ngôi trường tiểu học McDougle thuộc khu học
chánh Klein vùng Tây Bắc Houston. Chủ đề bằng Anh ngữ là NO
PLACE FOR HATE. Khung cảnh khác lạ vì lần đầu tiên tôi thấy lá
cờ của mình giữa một rừng cờ khác trên những cánh tay
của các em bé từ 5 đến 10 tuổi. Còn ý nghĩa của ngày
hội thì thật độc đáo và đáng suy gẫm. Chuyển dịch
một cách nôm na thì ý nghĩa của chủ đề ngày hội
là trên thế gian nầy không có chỗ cho hận thù mà
chỉ có tình thương. Mọi người trên trái đất nầy
chỉ có tình thương đối với nhau mà thôi. Đây là
chương trình giáo dục nơi học đường bắt đầu từ
năm 2001. Riêng tại Houston và vùng phụ cận đã có 193 trường
tham gia từ ngày đầu. Mục đích của chương trình nầy,
như tên gọi, là giúp các thầy cô giáo và học sinh thiết
lập và duy trì khung cảnh học đường thành một nơi tất
cả học sinh cảm nhận mình được thương yêu và được
tôn trọng; mỗi một học sinh đều có cơ hội thành đạt
một khi mình có tinh thần tôn trọng những dị biệt của người
khác bằng cách vượt qua thành kiến và khiếm khuyết của
chính mình. Trong hội trường rộng lớn có hơn 50 giáo
viên cùng với hàng trăm phụ huynh học sinh đứng chung quanh khối
học sinh hơn 800 em các lớp từ mẫu giáo đến lớp 5. Trên
tay mỗi em cầm 1 lá cờ. Nhiều em cầm cờ của nước mình.
Cờ Nhật, Nam Hàn, Trung Quốc, Đài Loan, Mể Tây Cơ, Ba Tây, Canada,
Pháp, Úc, v.v…Cờ Hoa Kỳ chiếm quá nửa. Có những em tự
vẽ lấy lá cờ theo tưởng tượng, không thuộc về một nước
nào hết. Việt Nam mình, như đã nói ở trên, có 1. Vâng,
đó là lá Cờ vàng 3 sọc đỏ do 1 bé trai học lớp
5. Chỉ tiếc lá cờ hơi nhỏ so với những lá cờ khác. Lúc
ngồi trong hàng, tay mặt bé luôn phất cờ cùng với các bạn
trong hội trường. Khi cùng đứng giữa hội trường với hơn
hai mươi em khác trình diễn các màn ca vũ, em bé Việt Nam nầy
càng phất cao lá cờ rất nhiệt tình và háo hức. Tôi
thấy nét mặt bé sáng lên, tươi lên trong ánh vàng của
màu cờ Tổ Quốc. Có lẽ bé không có cùng nỗi sung sướng,
vui mừng và cảm xúc như tôi, nhưng tôi có cảm tưởng
khá chủ quan rằng bé vui thật vui vì biết trên tay mình có
lá cờ của đất nước mình. Bé không cao hơn các bạn
đồng diễn, nhưng lúc nào lá cờ vàng cũng bay cao hơn hết.
Điều nầy làm tôi càng thích thú, có lẽ vì tinh thần
dân tộc của tôi cũng đang dâng cao. Thật là tuyệt vời. Trước
mắt tôi lúc nầy cái gì cũng bay cao, bay theo lá cờ vàng.
Lời ca của bản nhạc Wave Your Flag cũng bay cao vượt qua nóc tòa
nhà. When I get older I will be stronger. They’ll call me freedom, just like a wavin’ flag. So wave
your flag, now wave your flag, now wave your flag… Các học sinh xoay vòng, nắm tay nhau và phất cao lá cờ.
Các lá cờ lớn nhỏ khác nhau, màu sắc và hình thể cũng
khác. Các em ăn mặc hóa trang theo nghề nghiệp ngoài xã hội:
đồng phục của người thợ, áo blouse trắng của người nữ
y sĩ, áo trận rằn ri của người về từ mặt trận hay quần
áo bảnh bao của anh công chức…tất cả cùng nhau nắm tay vui
hát, không phân biệt giàu nghèo, thợ thầy, đen, trắng. Ai cũng
như ai.Tất cả nhân loại đều như nhau, vui vẻ, thương yêu
nhau. Mỗi em có một tổ quốc riêng, nhưng các em có chung một
quả địa cầu và quả địa cầu nầy không chứa sự
thù ghét. No Place For Hate. Các bé đã học được điều
nầy từ những ngày đầu vào lớp mẫu giáo. Rõ ràng
trong tâm tư mấy trăm em bé có mặt hẳn đã không có
bóng dáng của kỳ thị, khinh miệt hay ghét bỏ người đang
hát hò quanh mình, sống quanh mình, chia xẻ buồn vui với mình.
Tinh thần nầy sẽ đi theo các em mà vào đời. Lời
hát của bản nhạc Waka Waka càng đưa những cánh tay và những
lá cờ lên cao thêm: When you fall, get up. Oh oh. And if you fall, get up. Eh eh. Tsamina mina
eh eh. Waka waka eh eh…. Trước mắt, mong rằng hơn 800 em bé
nầy càng lớn khôn càng biết trân quý lá cờ của tổ
quốc mình, biết quý trọng và thương yêu nhau, biết đứng
thẳng lưng để làm con người xứng đáng. Tôi
có nghe người ta phàn nàn rằng học đường Mỹ thiếu
môn Đức dục. Phải chăng những sinh hoạt như chương trình
No place for hate hôm nay là một? Tôi cũng biết có người mang
tâm trạng lo sợ văn hóa mình dần dần sẽ mai một và lo
con em mình mất gốc. Nghĩ cho cùng, bao giờ còn những em bé như
em bé Việt Nam 10 tuổi tôi gặp hôm nay vẫn biết mình là ai
và Tổ Quốc mình là gì thì nỗi lo của mình chắc sẽ
nhẹ đi phần nào. Lá cờ vàng có mặt ở đây nào
có khác gì lá cờ vàng cắm trên đỉnh Everest (cao 8848 thước)
ngày 17 tháng 5 năm 2004 hay tại sân doanh trại Hoa Kỳ ở Iraq do anh lính
Hoa Kỳ gốc Việt treo ngày 6 tháng 9 năm 2004. Có lẽ em bé 10 tuổi
ở trường McDougle hôm nay đã vô tình góp tiếng trong những
Nghị quyết Cờ vàng trên nước Mỹ, mỗi ngày càng thêm
nhiều. Đến hôm nay đã có 125 địa phương tại các
tiểu bang Hoa Kỳ. Nếu cộng thêm lá cờ tại trường tiểu học
McDougle nầy thì con số sẽ là 126 ngày hôm nay. Hồn
Việt nơi nào cũng có. Và cũng có ở bất cứ thời nào.
Khí thiêng nước non Hồng Lĩnh vẫn đang theo chân người tị
nạn để nuôi lớn Hồn Việt. May 2011
NGHĨ ĐẾN NGÀY 30/4 TỪ MỘT CHIẾC XÍCH-LÔ ĐẠP TRONG
THÀNH PHỐ Mỗi sáng tôi
đi bộ vài mươi phút trong công viên gần nhà. Công viên
nầy chỉ cách ngôi trường tiểu học bởi cái hàng rào
song sắt vuông sơn đen. Mỗi ngày cứ khoảng 9 giờ sáng, các
học sinh túa ra sân chơi. Sân xi măng liền với sân cỏ xanh mượt.
Các cháu chơi đủ thứ tùy lớp tuổi. Đá banh, chọi
banh, xích đu, nhảy dây, chạy thi…Các thầy
cô giáo cùng chơi với các học trò mình. Tất cả đều
hồn nhiên. Dĩ nhiên là tôi không biết tên hay nhớ mặt đứa
nào hết; đi hết 1 vòng trở lại cũng không nhớ đứa nào
mình đã gặp mấy phút trước; cũng không quen các giáo
viên, nhưng nhìn sân chơi đầy sinh động, trẻ trung, ngây thơ,
liếng thoắng… tôi có những phút vui mỗi ngày. Cơ thể
khỏe khoắn mà trong óc cũng rộn tiếng cười! Vậy mà
có đôi khi tôi nhận ra niềm vui trên đây hình như không
trọn. Các học sinh tôi gặp hôm nay đương nhiên sẽ có
mặt hôm sau và hôm sau, hôm sau nữa; ngoại trừ trường hợp
duy nhất là bịnh. Học sinh toàn nước Mỹ có cả cái Children’s
Bill Of Rights chống lưng, có No Child Left Behind Policy từ thời Tổng Thống
George W.Bush và có cả chục ngàn dollars dành cho chi phí giáo dục
hàng năm cho mỗi học sinh, không phân biệt giàu, nghèo, trắng,
đen, vàng, đỏ, .... Hàng năm vẫn có những nhà giáo, kể
cả giám đốc sở, hiệu trưởng, tình nguyện gõ cửa
từng nhà những học sinh bất ngờ nghỉ học để kéo chúng
trở lại trường. Còn số đông các cháu trên quê hương
tôi không có những quyền lợi và phúc lợi đương nhiên
đó. Các cháu đi học hôm nay nhưng có thể nghỉ học
ngày mai. Cha mẹ nghèo quá mà học phí thì cứ tăng. Nghĩ
cũng ngộ: Gọi là trường nhà nước mà phải bắt buộc
đóng học phí!!! Thời Pháp thuộc, chánh quyền gọi là
thực dân mà chúng ta còn có những trường công khắp nơi,
tuy không nhiều nhưng miễn phí. Ngôi trường tôi đã theo học
bên bờ Hậu Giang có mặt từ hơn 90 năm nay với tên đầu
tiên là Collège de Cantho.Thời Đệ Nhất Cộng Hòa tuy chánh quyền
còn phôi thai và Đệ Nhị Cộng Hòa một số tướng tá
tranh giành quyền lực, cả lô chánh khách xôi thịt và phong
trào phản chiến nhiều nơi, chiến tranh cũng vào thành phố…
nhưng giáo dục vẫn nở rộ tới tận xã, ấp. Cả đời
một học sinh trung, tiểu học trường công lập không biết cái
gì gọi là học phí hay góp tiền xây dựng trường ốc.
Nếu có thì chỉ là tình nguyện. Nhà nước lo hết. Học
trò chỉ biết có “Tiên học lễ, hậu học văn”. Có
học phải có hạnh. Đạo đức, kiến thức đề huề. Kính
thầy, mến bạn. Sau ngày 30/4/75 nước tôi đã 36 năm hết
chiến tranh rồi. Dân số đã 82 triệu. Nhà lầu mọc lên như
nấm. Xe cộ chật đường. Du sinh đông đảo, khắp thế giới.Tỉ
phú, triệu phú có nhiều mỗi năm nhưng Forbes Magazine không tài
nào biết chính xác để báo cáo với bàng dân thiên
hạ hàng năm. Của chìm, của nổi biết đâu mà rờ. Còn
đại gia, đại cán, tiểu thư, công tử…thì nhiều quá,
kể sao cho hết! Đã lạm phát Hắc Công Tử và Bạch Công
Tử rồi. Kính thưa chư liệt vị, ý nghĩ dẫn tôi tới
mấy dòng văn tự dài dòng như trên vì nhiều nguyên nhân.
Thứ nhứt là tôi thấy 2 bức ảnh trên net, rồi đọc mấy
tin tức về dân Nhật sau trận thiên tai ngày 11 tháng 3 vừa qua và
1 bản tin sáng nay (25/3) nói về ông Bill Gate. Nguyên nhân
sau cùng là hình như trong đầu óc tôi bỗng có sự liên
quan của 2 tấm ảnh và các bản tin vừa nói với Ngày Tháng
Tư Đen của cả dân tộc mình. Tiền đề thì như vậy nhưng
đưa ngòi bút đến đâu để chư vị thông cảm cho
mấy ý tưởng mộc mạc của hạ nhân nầy thì sao thấy
khó quá. Bút mình vốn cùn mà đầu óc thì bắt
đầu lão hóa. Thật tức cho mình! Đầu tiên là về 2 tấm ảnh. Ảnh thứ nhất chụp
chiếc xe xích-lô đạp chở 11 em bé chắc chỉ ở lớp mẫu
giáo hay cao lắm là lớp 2 ngồi chen chút từ dưới lên trên
trong thùng xe phía trước; còn bác tài già cong lưng ngồi
đạp phía sau. Loại xe nầy bình thường chỉ chở 1 người
khách, ráng lắm thì 2 người ốm yếu. Xe chạy ngang tiệm cầm
đồ có tấm bảng "Dịch vụ cầm đồ" viết bằng
chữ Việt nên có thể biết xe đang chạy trên 1 con phố VN nào
đó. Đến bức ảnh thứ hai: Hình chụp chiếc xe buýt đưa
rước học sinh ở Nhật. Xe láng coóng, bên trong trang bị những
chiếc bàn cho học sinh ngồi, mỗi chỗ ngồi có 1 máy computer (ảnh
phụ). Tạm kết luận: Đất nước mình nghèo đâu có
thể so sánh với nước Nhật tiên tiến được! Mười
một em bé nầy ráng chịu cực từ bây giờ cho quen; sẽ còn
nhiều thứ để “quen” nữa theo tuổi lớn của các em. Hơn
nữa cha mẹ nghèo làm gì có chuyện ngồi xe thoải mái đến
trường. Ngày nào còn ngồi cá hộp như vầy là còn
may đó con ạ! Ngày nào tiền trường quá cao, cộng với những
chỉ tiêu kinh phí trường ốc, v.v và v.v…thường xuyên rớt
trên vai các bậc cha mẹ để tay họ không vươn quá trán
thì con ơi, cứ ra xã hội mà vật lộn, tranh nhau từng miếng sống
và ...tha hồ buồn! Cha mẹ đã "quen" từ 36 năm nay rồi! Bây
giờ truyền lần lần cái "gia tài quen" nầy cho các con.
Trịnh nhạc sĩ đã nói rồi: "Để lại cho em một nước
Việt buồn". Nước mình bây giờ vừa buồn vừa khô.
Khô óc. Khô tim.
Cái xã hội có hàng ngàn cảnh đời
tương tự như chiếc xích-lô chuyên chở kiểu nầy nhan nhản
trên đường phố là 1 xã hội như thế nào? Chỉ mới
đây thôi, ai cũng nghe tin vị hiệu trưởng miền núi nọ là
loại tú bà thời đại; còn những nàng kiều thời đại
là học trò của trường mình! Rồi tại Quảng Ngãi, 1 băng
cướp khét tiếng cầm đầu là 1 thầy giáo! Tai hại là
không ai biết xã hội nầy có bao nhiêu tú bà, mã giám
sinh và tướng cướp như vậy vì tất cả đều đep
mày đẹp mũi, chức vị hẳn hòi, nhà cao cửa rộng, tì
thiếp mệt nghỉ. Bây
giờ xin nói chuyện về bản tin liên quan đến người giàu thứ
nhì của hành tinh nầy, ông vua điện toán Bill Gate. Bản tin có
in hình Bill Gate và vợ là Melinda ngồi vui vẻ thoải mái giữa những
đàn bà, đàn ông và trẻ con tại quận Patna, bang Bihar nước
Ấn Độ. Nước Ấn có ¾ dân nghèo trong dân số 800 triệu.
Ông bà Gates trên đường vận động cho chiến dịch “Hứa
Cho” (The Giving Pledge) tại nhiều nước trên thế
giới, theo đó tổ chức của ông bà , hợp tác với tỉ
phú Warren Buffet, thúc đẩy những cá nhân
hay những tổ chức giàu có hứa đóng góp tiền bạc để
cải thiện tình trạng đói nghèo, bịnh tật, thất học…trên toàn thế giới. Chỉ tính
tại Mỹ, thời gian qua tổ chức nầy đã kêu gọi được
59 gia tộc giàu có nhất nước, "siêu giàu", hứa góp
ít nhất là 50% gia sản cho xã hội. Ảnh phụ:
Bên trong xe: Trang bị computers cho mỗi chỗ ngồi Việt Nam tôi bây
giờ tỉ phú đô la không phải là ít nên bần bút xin
kính mời Ông Bà Gates ghé thăm 1 lần. Kết quả thế nào
thì xin hồi sau phân giải. Nhìn chiếc xích-lô
rồi nhắc tới các tỉ phú và các đại gia tại nước
mình không hiểu sao tôi lại nhớ đến ngày Tháng Tư Đen.
Thiệt là kỳ! Làm như cái ngày oan nghiệt nầy đã sanh
ra những gương mặt ngây thơ, ốm o, buồn hiu trên chiếc xích-lô
và sản sinh ra nhiều tỉ phú VN vậy! Thiệt là không hiểu nổi
mình!!! Còn hơn tháng nữa mới tới ngày 30/4 vậy mà tôi
đã nghĩ đến nó! Thật quá sớm! Nhưng mà có đúng
là quá sớm không? Có lẽ không phải. Vì ai là những
người ti nạn chánh trị thuộc thế hệ thứ nhất đang tạm
dung tại các nước ngoài VN mà không thường xuyên nghĩ tới
cái ngày khiến mình phải bỏ lại tất cả để ra đi,
đâu phải đợi đến ngày nhìn con số 30/4 hiện trên cuốn
lịch? Hơn 30 năm trước nhà văn Thanh Nam, sau những ngày: “Quê
người nghĩ xót thân lưu lạc, đất lạ đâu ngờ buổi
viễn du” đã viết: “Một năm người có mười
hai tháng, ta trọn năm dài một Tháng Tư”. Chung qui cũng tại
mấy tấm ảnh và mấy câu chuyện như đã nói trên mà
tôi lan man tâm sự. Nhìn 11 gương mặt
trẻ thơ âm thầm chịu đựng nép mình trong lòng xe xích-lô
chật chội, ai không khỏi làm một so sánh khi đối chiếu với
chiếc xe buýt thời đại hi-tech chở học sinh bên Nhật. Nước
Nhật giàu có và có những ông thủ tướng biết từ
chức vì một câu nói hớ hay vì một ông bộ trưởng
đi trật đường rầy, hay vì mấy món quà biếu trị giá
vài trăm đô la, nên học trò có computer trên xe buýt là
điều dễ hiểu. Nhưng thật khó hiểu cho cả ông bà Gates nầy:
Tại sao không du hành nước tôi 1 chuyến để đem “The Giving
Pledge” program nói chuyện với hàng trăm triệu phú, tỉ phú
ở Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hốc Môn, Bà
Điễm…. Thắc mắc thì như vậy, nhưng làm gì được
với những đại gia chỉ biết vung tiền qua cửa sổ? Hay làm sao tìm
được ai là người dám nhận cái “pledge” nầy? Nhà
giàu nứt đố đổ vách thì nhiều nhưng không ai dại gì
mà “lạy ông con ở bụi nầy” để mất cả chài lẩn
chì sao. Dấu lúc nào hay lúc ấy; khi sắp lòi ra thì…a lê
hấp! Chuồn! Cứ để mặc những chiếc xích-lô chở mười
mấy học sinh tha hồ lăn bánh trên đường phố. Bỗng nhớ
bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc" thời
tiền chiến. Không đi học được thì làm công nhân bãi
rác. Càng ngày càng có thêm loại công nhân không cần
chữ nghĩa này. Nhà nghèo không gần với chữ nghĩa được
thì gần với hè phố, bụi đường, bia rượu, nắm đấm,
lọc lừa…. Chữ nghĩa mất dần trong đầu. Nhân tính cũng
do đó mà có thể lụn tàn theo đà đi xuống của đạo
đức xã hội. Con người như vậy thì có lúc sẽ là
người có đầu mà thiếu óc, có lồng ngực mà thiếu
trái tim. Một xã hội có một số không ít người chỉ
nghĩ tới mình, nghĩ tới tư lợi thì xã hội ấy sẽ đi
về đâu? Hay sẽ tự mình bước vào con tàu đang tuột
dốc lui về những năm B.C tiền-văn-minh nhân loại? Chủ trương
"Khánh nho, phần thư" của Tần Thủy Hoàng cùng lắm là
đốt sách, chôn sống học trò, làm tiêu ma văn hóa của
1 thế hệ con dân của 6 nước vừa bị thôn tính. Có quá
trễ không khi kể cho họ nghe câu chuyện nước Nhật sau cơn thiên
tai 11/3 vừa rồi? Chuyện thứ nhất nói về 1 em bé đang co ro đứng
ở cuối hàng dài chờ lảnh thực phẩm cứu trợ. Em được
1 cảnh sát viên người Nhật gốc Việt nhường phần lương
khô của mình vì ngại em đói trong cái lạnh rát da khi phải
chờ lâu. Em bé liền mang phần thức ăn ấy đến bỏ vào
thùng quà đang phân phát. Hỏi:“Tại sao em làm vậy?”
Trả lời: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói
hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công
bằng chú ạ”. Chuyện thứ hai là chuyện người phát
thư vẫn đồng phục tươm tất đi làm dù đang có nỗi
lo rất lớn vì chưa liên lạc được với gia đình ở
vùng thiên tai Miyagi với hơn 10 ngàn người chết. Hỏi:“Sao
hôm nay ông vẫn đi làm?” Trả lời: “Công việc là
công việc. Xin lỗi ông, tôi rất tiếc là đã làm phiền
ông với tin buồn này. Sumimasen, sumimasen”. Còn nữa. Để bảo
vệ mấy nhà máy nguyên tử tại Fukushima, nước Nhật đã
có những samurai thời đại, tim nóng hỗi, đầu ngẫng
cao, 1 tay xăn áo, 1 tay viết sẵn tuyệt mệnh thư; mới đầu 50
bây giờ đã hơn 500 những người biết quên mình lo cho
người khác. Những bài học làm người-đàng-hoàng này
không phải dễ học, nhất là đối với người thiếu óc
và không tim. Nhiều năm trước, khi đến ngày 30/4 mình hay nhớ
cha nhớ mẹ, nhớ người tình, nhớ những chuyến vượt biên,
vượt biển, rồi nhớ những ngày chân ướt chân ráo nơi
xứ người. Nhưng gần đây sao những chuyện, những cảnh oái
oăm ngoài xã hội, trong gia đình, nơi học đường, trên
đường phố… hiện nay tại quê nhà dễ khiến mình nghĩ
tới ngày oan khuất tháng Tư năm ấy? Có gì liên quan? Mình
quả là hạ nhân nhiều chuyện! Houston, Mar.25, 2011 Trần Bang Thạch
SỔ TAY ĐẦU NĂM 2011 NĂM MỚI NÓI CHUYỆN CŨ Mấy tháng trước, lần
đầu tiên tôi có dịp đi làm thiện nguyện tại một nhà
kho của tổ chức FOOD BANK nằm ở mạn Đông Bắc của thành phố
Houston. Ngoài những hình ảnh khá dễ thương như có những toán
thiện nguyện cả đôi ba chục người trong các bộ đồng
phục, mặt mày non choẹt, hay những người già cả hưu trí…tất
cả tận lực làm việc suốt hơn 2 giờ liền, nghỉ giải lao mấy
phút rồi làm tiếp. Người thì bê từng thùng thực phẩm,
kẻ thì xếp loại hay lọc lựa hàng hóa không bị hư hao.
Làm theo hệ thống dây chuyền, liền tay, chăm chú. Nhiều người
trong số nầy đã có mặt thường xuyên ở đây từ
nhiều năm nay. Điều dễ thương nhất có lẽ là tinh thần
san sẻ được thể hiện bằng cả một nhà kho thật lớn,
chiếm cả một bloc đường chứa đầy hàng hóa đủ loại
dành để phân phát cho người dân có lợi tức thấp.
Những xe vận tải to, nhỏ tới lui thường trực. Có phải tình
thương cũng tấp nập vào ra từ đây? Điều dễ thương
nhất này phải chăng cũng là điều khiến mình có chút
suy nghĩ? Nước Mỹ giàu mạnh đứng đầu thế giới này
vẫn có nhiều người chờ để đuợc cứu trợ thực phẩm
hàng ngày đến nỗi có biết bao nhiêu là FOOD BANKS mọc lên
trên khắp nước Mỹ sao? Hôm ấy tôi có thêm một suy
nghĩ khác nữa khi gặp 1 việc mình chưa hề nghĩ đến.
Số là tại phòng giải lao của cơ sở FOOD BANK này tôi thấy
1 tấm bích chương khổ lớn dán trên tường. Tấm bích
chương in hình 1 chú chó thật xinh, phía dưới chú chó
có chua hàng chữ: “Last year he ate better than 30,000 Houstonians”.
Rõ ràng ai mà không khỏi suy nghĩ khi gặp tấm bích chương
này. Diển giải một cách nôm na: Đứng hàng thứ tư về
dân số trong các thành phố nước Mỹ và được
mệnh danh là Thủ Đô của Dầu Hỏa thế giới ( Oil Capital of the
World),vậy mà năm qua Houston là một thành phố có 30,000
người ăn uống kém chất lượng hơn chú chó trên đây.
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà văn Nguyễn Vỹ nói là “Nhà
văn Việt Nam khổ hơn chó”. Cái khổ này là khổ về
tinh thần vì ngòi bút bị chế độ thực dân kềm kẹp
hay bị kiểm duyệt, cũng có thể vì nghề cầm bút quá nghèo;
hơn nữa nhà văn thời ấy không nhiều. Bây giờ, đầu thế
kỷ 21, tại 1 đất nước giàu mạnh dân số hơn 300 triệu
thì có hơn 49 triệu người được xếp vào loại nghèo,
cần giúp đỡ thực phẩm. Houston có mức nghèo đói cao nhất
nước Mỹ: Báo Houston Chronicle ngày 25 tháng 12 loan bản tin từ Trung Tâm
Thực Phẩm và Hành Động ( Food Research & Action Center) thì cứ 5 gia
đình có 1 gia đình không lo nỗi 1 bữa ăn bình thường
mỗi ngày. Theo báo cáo của Houston Food Bank ngày 3 tháng 2 năm 2010 thì
năm ngoái vùng Houston có 1.2 triệu trẻ em có được cái
ăn là từ những cơ sở thực phẩm bất vụ lợi, tăng tới
85 % so với 4 năm trước. Quả là con số không ngờ! Nếu tính
cho cả thế giới thì hiện có 925 triệu người nghèo đói
với tỉ lệ là 1 trên 7. Nghèo đói vì thiên tai, chiến
tranh, hệ thống canh nông hay khủng hoảng kinh tế, v.v… Tệ nạn đói
ăn và thiếu dinh dưỡng là cơ nguy đứng đầu cho sức khỏe
người dân toàn cầu, nguy hơn cả 3 thứ bệnh AIDS, bệnh sốt
rét và bệnh lao cộng lại. Thêm 1 con số để thấy điều
không ngờ: Theo Website của Utah Education Network thì cứ mỗi 2 giây đồng
hồ có 1 em bé chết vì các bệnh do suy dinh dưỡng! Tạm cho là
quý vị mất 120 giây để đọc bài nầy từ đầu đến
đây thì trên thế giới, ngay bây giờ, đã có 60 em bé
ra đi! Chuyện nghèo đói là chuyện quá cũ. Cũng như chuyện
cũ tại nước mình hồi năm 1944 và 1945: Đó là nạn đói
Năm Ất Dậu làm cả 2 triệu người miền Bắc chết từ tháng
10-1944 đến tháng 5-1945. Cái khổ là chuyện cũ ấy đã không
giảm mà đang có chiều hướng gia tăng. Tăng đến đâu
nữa khi hiện nay theo cơ quan Lương Nông LHQ thì thế giới đang có
200 triệu trẻ em dưới 5 tuổi thiếu ký vỉ suy dinh dưỡng. Còn
ở Việt Nam thì có tới 45% trẻ em suy dinh dưỡng! Chỉ nêu 1 con
số nầy thôi cũng đủ thương cho trẻ con nước mình. Nãy
giờ tôi chưa nói tới tỉ lệ nghèo đói của toàn dân
cả nước Việt Nam. Có lẽ không cần khi đọc vài mẫu
tin sau đây. Chắc hẳn mẫu tin gần đây nói về cụ Đặng
Huyền ở xã Phú Dương ( Phú Vang, Thừa Thiên, Huế) 98 tuổi
mà ngày ngày vẫn phải đạp xích lô nuôi mình và
nuôi bà vợ bịnh hoạn là hình ảnh rõ nhất cho sự nghèo
đói tai nước mình. Và cũng tại nước mình theo tin báo
chí trong nước cho hay thì trong khoảng 5 năm trở lại đây đã
có 1600 vụ buôn người, tổng cộng 4000 người, gồm
3500 phụ nữ và 500 trẻ em vị thành niên bị bán ra nước
ngoài. Thập niên 90 con số này là 22 ngàn người. Báo cáo
của UNICEF đưa ra càng khủng khiếp hơn: Trong số 45 ngàn gái mãi
dâm tại Campuchia hiện nay thì gái VN đủ hạng tuổi chiếm tới
60%! Còn biết bao những nàng Kiều thời đại báo hiếu cho cha
mẹ bằng mấy trăm đô la để theo người gọi là chồng
về xứ lạ Trung Hoa, Đại Hàn, Mã Lai… Tin tức xấu kiểu
này lượm hoài không hết. Nạn đói Ất Dậu hơn sáu
mươi năm trước ở xứ Bắc bây giờ như bóng ma đang
lãng vãng khắp 3 miền Trung, Nam, Bắc. Không phải 2 triệu người
mà gấp cả chục lần cái 2 triệu người nghèo đói năm
ấy. Ở nước ta còn có thêm nhiều cái đói khác
ngoài cơm ăn áo mặc. Đó là đói Tự Do,
đói Dân Chủ, đói Nhân Quyền và nhiều, nhiều thứ khác... Lan man chuyện
cũ nhưng lúc nào cũng mới, gọi là một chút tâm tình
ngày đầu năm. Trân trọng cảm ơn và chúc mừng Năm Mới
2011. Houston, sau giờ Giao Thừa Dương Lịch 2011 tbt
Không muộn cho bất cứ lời
cảm ơn nào
Tại
Bắc Mỹ, Lễ Hội Thanksgiving đã qua rồi. Tại Hoa Kỳ thì
vừa mới hôm qua. Tại quốc gia lân cận là Canada thì Thanksgiving đã
qua hàng tháng trước. Người Canada chánh thức đón mừng
ngày lễ Thanksgiving từ năm 1957. Thanksgiving tại Canada còn được goi
là Jour de l’Action de grâce, xảy ra hàng năm vào ngày Thứ Hai đầu
tiên của Tháng Mười để tỏ lòng cảm tạ trời đất
lúc kết thúc vụ mùa. Có phải mỗi năm chỉ 1 lần để
nói lời cảm ơn, lời cảm tạ, hay lời tri ân, lời nhớ ơn,
v.v… hầu biểu lộ lòng biết ơn của mình đối với Đấng
Tối Cao vào dịp Thanksgiving? hay các đấng Cửu Huyền Thất Tổ
trong giòng tộc cũng như các đấng cha mẹ sinh thành mỗi khi giỗ
quảy hàng năm? hay quyết lòng ghi tâm khắc cốt những ân nhân
trong đời mình hay những ân tình bằng hữu? Câu trả lời
rõ ràng mà ai cũng thấy. Đó là tính cách liên tục
và sâu thẩm của lòng biết ơn. Không phải 1 lần mà là
nhiều lần. Không phải nhiều lần mà là liên tục, vĩnh viễn
trang trọng giữ trong đáy tim mình lòng biết ơn dù không phải
lúc nào cũng nói ra. Có những người không nói ra nhưng
ơn nghĩa vẫn tràn đầy. Ơn trời đất, ơn cha mẹ ông
bà, ơn sư phụ, ơn bằng hữu…làm sao mất trong lòng ta được.
Có dịp nói ra là điều nên làm. Những người vong
ân, bội nghĩa thì miễn bàn! Đối với người Âu Mỹ
thì không cần bàn vì tiếng cảm ơn hầu như lúc
nào cũng đậu sẵn trên môi họ rồi; một chút cũng cảm
ơn, hai chút cũng cảm tạ. Đó là nét văn minh lâu đời
của họ rồi; ai không biết nói Thank you hay Merci, Gracias… mới là
điều lạ. Cái mình có thể lạm bàn lan man nơi đây
là sự cần thiết và cách biểu lộ lòng biết ơn. Có lẽ
tôi sai khi quá chủ quan mà nhận thấy rằng trước đây tại
quê nhà cá nhân mình, hay thậm chí nhiều người mình,
sao ít nói lời cảm ơn quá. Nếu có thì nói trong những
dịp rất đặc biệt, tự mình thấy cần phải nói hay nói
để vừa lòng người khác. Cảm ơn món tiền khá lớn
của ông cậu cho khi mình đậu Tú tài, nhưng không có lời
cảm ơn nào cho người thầy đã dốc tâm dạy kèm mình
môn toán lượng giác! Bước ra khỏi nhà thương thì đã
quên ngay tên ông bác sĩ hay chị y tá tận tụy chữa trị
và chăm sóc mình; coi như đó là nhiệm vụ của họ,
cám ơn là thừa chăng? Mẹ mất khi vửa mới sanh ra thằng bé,
bà chị cả bỗng thành người mẹ trẻ thức khuya dậy sớm
săn sóc, đêm khuya ngủ gà ngủ gật giữ chai nước gạo
rang giữa đôi môi ngậm chặt của thằng bé, giặt từng tấm
tã lót, rồi nhai cơm đút từng miếng vào miệng thằng bé
chỉ biết khóc,v.v và v.v… mà lớn lên thằng bé dù có
nghe biết nhưng có bao giờ nói lời cám ơn đâu! Khi chợt
nghĩ lại thì bà chị đã vĩnh viễn ra đi rồi. Chị đâu
còn cơ hội để nghe dù 1 lần trong đời! Sao mà ghét ba quá
và ghét luôn người đàn bà ở đâu được ba
và chị rước về nhà làm bà má ngang hông trước khi
chị theo chồng. Bà bắt mình phải ăn uống, giữ gìn sạch
sẽ chân tay, tắm gội mình mẩy, cắt từng cái móng
tay móng chân dơ bẫn của mình, bắt kính trên nhường dưới,
đi thưa về trình, lại bắt phải đi học nữa! Thuở ấy chín
mười tuổi, thằng bé làm sao thấy được để cảm ơn
trời đất đã cho mưa thuận gió hòa năm ấy để miếng
vườn cam của ba, sau nhiều năm thất mùa, bỗng đầy trái, đủ
cho ba chi trả thầy nầy thầy nọ ở tỉnh, và trả chi phí cao như
núi tại bịnh viện Grall ở Sài Gòn cho thằng con bị bịnh sốt
xuất huyết cấp tính kéo dài cả tháng, mạng sống là
chỉ mành treo chuông. Chợt nhớ hồi đầu năm 1980, người thuyền
trưởng cao niên, râu tóc bạc phơ của chiếc ghe vượt biên
HG 1071 chứa 125 người đã khéo léo đưa thuyền vượt các
vùng đá ngầm ngoài khơi Rạch Giá, rồi tài tình chạy
tránh hàng chục tàu cướp biển trong vịnh Thái Lan, tránh cho
tất cả bảy tám chục phụ nữ và các bé gái trên
thuyền không bị cưỡng hiếp. Cứ chạy tránh nhiều ngày nhiều
đêm nên thuyền bị lạc vào vùng biển lạ; vậy mà cuối
cùng thuyền cũng cập bến Songkhla an toàn, không thiếu người nào.
Của cải còn nguyên. Người thuyền trưởng ấy hôm nay đang
ở đâu? Hơn ba mươi năm rồi, nếu còn sống thì ông
đã ngoài chín mươi. Bao lâu rồi mình đã không nghĩ
tới vị ân nhân ấy? Mình có còn cơ hội để nói
lời cảm ơn với bác thuyền trưởng TVH ấy không? Còn,
còn nhiều lắm những lời cảm ơn chưa kịp nói của cá
nhân nầy. Mà khi muốn nói thì không bao giờ trễ. Càng không
trễ đối với người thọ ơn. Người thi ơn thì vì không
hề chờ tiếng cám ơn nên đâu có vấn đề đúng
hay trễ. Nghe tiếng cám ơn thì vui mà không nghe thì cũng vui vậy.
Trần
Bang Thạch Greeting Season, 2010
THU ĐỜI
Tại buổi mạn đàm văn hóa chủ đề Thu Ca tại Trung Tâm
sinh hoạt Việt Mỹ, GS Nguyễn Văn Trường có nói tới 2 loại
mùa thu: Thu của thiên nhiên thì khi thu sang là lúc thời gian của
1 năm đã qua một nửa; còn thu của 1 đời người mà ông
gọi là “Thu Đời” là quá nửa đời người, là
cuộc đời quá ngọ, đi vào xế chiều. Diễn giả đã có 1 cuộc đời tạm gọi là phiêu lưu:
Khi mới vào trung học thời thập niên bốn mươi, đứa con út
mới trên 10 tuổi trong 1 gia đình đông con bình thường ở
một làng quê miền Nam, phải rời Chợ Vãng đi “du học”
hết Cần Thơ tới Mỹ Tho, đến cả Pháp quốc. Sau khi tốt nghiệp
trở về nước, ông lần lượt phục vụ tại Viện Đại
Học Huế và VĐH Sài Gòn; có 2 lần ngồi ghế cao nhất của
bộ Giáo Dục thời Đệ nhị cộng hòa. Sau cơn đổi đời
tháng Tư 75 ông cũng đã ngậm đắng nuốt cay suốt 17 năm
tại quê nhà trước khi đoàn tụ với các con ở Houston. Bây
giờ với tuổi đời vào hàng bát thập và với bề bộn
những chất liệu của cuộc sống chồng chất trên đôi vai sau
bao nhiêu thăng trầm, biến động, qua những giây phút tâm tình,
diễn giả chắc đã tạo ra ít nhiều nghĩ ngợi cho người
tham dự, nhất là đối với những người không còn trẻ,
những người của độ tuổi hoàng hôn với bao nhiêu buồn
vui của 1 đời người. Ngẫm lại, mùa thu cũng có những khoảnh khắc buồn
vui trong đời. Chẳng hạn như “Thu Sớm” của chàng trai
ở độ tuổi mới lớn thì giấc mơ Hằng Nga, chú Cuội,
thỏ bạch, ông trăng, lồng đèn, bánh mứt... đã qua từ
vài năm trước, đây là giai đoạn người thiếu niên
nhận thấy nhưng chưa cảm được chút heo may làm chao cánh
lá úa. Đi trong rừng thu chàng còn ngơ ngác trước cái
đẹp của buổi chiều thu. : “Con nai vàng ngơ ngác đạp
trên lá vàng khô” (Lưu Trọng Lư) hay khi nhìn lén một
mớ tóc bên bờ rào, chàng chỉ nghĩ tới đôi má bầu
bĩnh của con nhỏ hàng xóm: nhỏ ngồi xỏa tóc bên rào, thấy đôi má nhỏ
đậm màu nắng trưa Chỉ vậy thôi. Vô tư và vô tình như vậy
đó. Có khi còn bị "con nhỏ" già trước tuổi cho là
vô tâm! Thu sớm chắc không đẹp và vui như Xuân, như Hạ.
Cái trầm lắng, u buồn của Thu làm người trẻ tuổi càng
nhớ cái rực rỡ, tươi đẹp của mùa Xuân, cái nồng
nàn, háo hức của mùa Hè. Ở tuổi nầy người ta có
thể khổ vì hoàn cảnh nguy nan của cuộc sống nhưng ít đau
buồn, chua xót cho thân phận, nhất là mặt tình cảm của mình.
Một núi thử thách, hoài bảo và ước mơ trước mặt
sẽ làm cho nỗi buồn rất chóng qua. Khi Thu già hơn, “Thu Trưa”, thì chàng thiếu
niên năm ấy đã thành chàng trai ít nhiều mơ mộng. Đi
trong vườn Thu bây giờ chàng nghe có chút hơi lạnh, thấy lá
vàng như thảm nhung vàng óng dưới chân. Đã thấy nhớ,
thấy thương và biết mùi đau khổ. Chàng có thể khóc
khi nghe “ ngoài hiên giọt mưa thu thảnh thót rơi” (Đặng
Thế Phong). Và nếu còn
mớ tóc bên kia rào thì tóc bỗng trở thành dãy
mây thu để chàng sẽ tức cảnh sinh tình: Em buồn xỏa tóc như
mây, tôi con nai nhỏ uống say giọt tình Chàng nghe mùa thu sao mà đẹp
lạ lùng! Mùa xuân và mùa hạ đâu có cái êm dịu,
đầm ấm, ngọt ngào, trầm ngâm, ưu tư, lãng mạn, tình
tứ và cái đẹp não nùng của một dáng thu thẹn thùng
sau vành nón lá giữa rừng thu. Thu sớm và Thu trưa không nằm trong nội dung của
mẫu tâm tình của GS Nguyễn Văn Trường. Mùa Thu mà ông muốn
nói là “Thu Đời”, tức là mùa Thu xế bóng của 1
đời người. Một thời gọi là “say tóc”, “say mây”,
“say trăng”, “say tình”.... đã “mùa thu lá bay”
hết rồi, từ hồi nào không nhớ. Có còn chăng là còn
trong ký ức hay trong văn thơ của người trong cõi “Thu Đời”.
Đây là thời gian đếm tuổi và đếm chuyện đời; đúng
ra là làm 1 cuộc tính sổ đời, điểm lại những còn
mất, xem lại những cái phải giữ hay phải vứt bỏ cho nhẹ nhàng: Vàng thu mấy
độ thu vàng Gió nghiêng cánh lá để càn khôn rơi. Ở độ tuổi
vàng này, những đôi tay một thời xô lệch thành quách,
đôi vai oằn túi càn khôn và trái tim nặng khối u tình
bắt đầu nghiêng để rũ nhẹ gánh đời. Bỏ, bỏ, bỏ
hết những gì bỏ được cho tuổi vàng thêm óng ánh
như chiếc lá nhẹ nhàng bay trong rừng thu yên vắng. Dù có tiếc
thu thì thu cũng sắp tàn rồi. Cuống lá đã hụt hơi trên
cành. Hãy
uống mấy giọt mưa thu còn sót lại và hãy đẫm hồn
trong hương thu của rừng thu muộn. Mưa thu và hương thu sẽ làm
cho cánh lá thu dù úa vàng, tơi tả cũng thơm mát khi về
với đất. Oct.31, 2010
MỘT CHÚT THU
Hôm qua gặp một thoáng hơi
thu qua bài Đường Thi ngũ ngôn tứ tuyệt của Thứ Sử Tô
Châu đời Đường Đức Tông, Tiến sĩ Lưu Vũ Tích
(772-842), một thi sĩ nổi danh, bạn thơ của Bạch Cư Dị : Thu Phong DẫnHà xứ
thu phong chí? Tiêu tiêu tống nhạn quần Triêu lai
nhập đình thụ Cô khách tối tiên văn Khi sáng tác bài thơ,
có lẽ đó là lúc thi sĩ một mình lang thang ngoài sân
vắng vào buổi sáng sớm bỗng nghe lành lạnh bờ vai, thi sĩ chợt
hỏi: Từ một nơi nào mà gió thu tới đây, đem cái hiu
hiu lạnh đủ làm cho những cánh nhạn vụt bay. Rồi gió cũng
đã len vào hàng cây trước sân khiến người cô lữ
nghe thấy tiếng thu trước mọi người. Một bài thơ nói về thu với những những
vần, những chữ mềm như tơ, thanh thoát như hơi thu và nhẹ
nhàng như ý thơ chợt đến trong hồn thơ của người cô
đơn trong một ngày thu mới chớm. Thơ thu thì thật nhiều, nhưng
khi bắt gặp tiếng thu này nghe như đang nhìn một chút thu đọng
trên từng cánh nhạn giữa khung trời mênh mông, như thấy cành
lá lóng lánh sương mai lao xao ngoài ngõ và ngắm người
thơ uống từng vốc thu sớm đầu ngày. Ý, Tình của Thu Phong Dẫn khiến
kẻ hậu bối này đêm qua thao thức hoài với những câu thơ
đồng cảm chợt nãy trong đầu. Thơ hiện rồi thơ đi. Cuối
cùng trong đầu chỉ còn chữ nghĩa của Lưu Vũ Tích. Còn
chữ nghĩa của kẻ thi ưu hạ tiện thì đã bay theo bóng đêm
mất rồi. Sáng
nay ngồi trên băng đá sau vườn nhà, nhâm nhi tách cà phê
nóng. Không cảm thấy cái nóng của mùa hè như vài tháng
nay. Có lẽ Thu Ý vẫn lãng đãng trong hồn nên thấy trước
mắt một đàn kiến nối nhau thành một lằn chỉ nâu thật
dài, cong queo nối từ gốc quít sang gốc hồng, vòng qua gốc anh đào
rồi biến mất ở bờ rào. Không biết sợi dây nâu còn
chuyển động thêm bao xa nữa; hay như đàn nhạn bay về cuối
trời theo cánh gió thu. Bước đi kiên nhẫn và nhỏ nhoi của
hàng ngàn con kiến nhẹ nhàng quá và âm thầm quá. Đông
như vậy mà sao thấy đàn kiến như tập hợp của cả ngàn
sự cô đơn để thành một sợi tơ chùng. Những mùa
thu cũng đã nối nhau, âm thầm, lặng lẽ trên một kiếp người.
Rồi kiếp người sẽ đi về đâu? Bỗng bắt gặp Thu Phong Dẫn
trên cái khoan thai, nhẹ nhàng của đàn kiến, trên cành lá
nhẹ rung và trong cái lành lạnh dưới lớp áo mõng. Và
gặp Thu trong cái lặng lẽ của một tiếng thở dài. Đây có
phải là Thu ta không tìm mà đến, là Thu ta không mong mà tương
phùng? Đây có phải là lần đầu trong đời mình nhận
biết mình đang hội ngộ với cơn gió đầu thu? Hay hơi thu từ
hôm qua đẫm chữ nghĩa của Lưu Vũ Tích đã thần kỳ
biến cơn gió bình thường này, cơn gió của mọi ngày
trong một vuôn vườn nhỏ nhoi này, thành một chút gió thu khiến
mình thấy thu vừa đến và thu đã gõ nhẹ hồn thơ cho
chữ nghĩa bỗng có mặt từ một góc thu để gọi là đáp
lời tri kỷ Lưu tiền bối : CHẠM VÀO THU Thu từ đâu trở về đây? Nhạn theo cánh gió nhẹ
bay về ngàn Hiên ngoài mấy giọt sương tan Mình ta nghe tiếng thu sang đầu ngày. Đời mình đã
mấy lượt phong ba, bao mùa gió nỗi. Cuối cùng chỉ mong được
sống với mùa thu tuổi vàng êm ả. Cho nên những khắc giây
được sống với Thu qua thi ca, âm nhạc, những lúc được
thu ghé qua đời bằng một luồng gió mát, hay một cánh lá
lững lờ bay trong một sớm thu khiến tâm hồn lên cung bậc thì
đó phải chăng là quà tặng của đất trời? Sáng mai trở lại băng
đá cũ, trong góc vườn cũ, ta có thể sẽ thấy một đàn
kiến nối thành sợi dây nâu quanh vườn, sẽ nghe lành lạnh
đôi bờ vai, hay sẽ có những chiếc lá chao nghiêng trước
mắt, nhưng làm sao bắt được hồn thơ của Thu Phong Dẫn “Cô
khách tối tiên văn”! Càng không thể nào có cảm giác
“Mình ta nghe tiếng thu sang đầu ngày”. Có khi mình vẫn
có Thu Ý, nhưng Thu Tình thì đâu phải dễ kiếm. Càng khó
khi muốn nghe một Thu Âm của một đêm túy ngọa! Khó nhất
vẫn là một Dáng Thu hồng nhan tri kỷ. Đầu thu 2010 Trần Bang Thạch
CÙNG CỎNG TRÁI
NÚI TRÊN LƯNG NÊN THẤM THÍA 1 NỖI BUỒN
Đầu tháng 6. Những ngày hè đã tới
rồi. Các đại học, trung học, tiểu học đã làm lễ mãn
khóa. Người sinh viên ra trường thì chờ đón tương lai
đang ở trước mặt họ. Quẳng gánh lo đi và vui sống.
Người chưa ra trường thì cũng tạm trút gánh nặng trên
vai, vui chơi thỏa thích 3 tháng hè. Rồi sau đó tiếp tục đi
tìm tương lai của mình. Đường tương lai có sáng lạng
hay đen tối chủ yếu là do nơi mình. Hầu hết các quốc gia
tiên tiến trên thế giới có truyền thống văn hóa lấy nhân
bản, nhân vị làm gốc, dân vi quý, xã tắc thứ chi,
có cơ cấu tổ chức xã hội ổn định, trật tự, dân
chủ, tự do...là nền tảng cho mình làm chủ cuộc
đời mình. Mọi người có cơ hội đồng đều mưu
cầu hạnh phúc, an sinh và phúc lợi cho mình. Không như ở một
vài nước khác đang đi thụt lùi trên con đường văn
minh thế giới của thế kỷ 21; ở đó người ta đi tìm đỏ
con mắt vẫn không thấy một chút tự do, dân chủ nào. Vận
mệnh con người thì thật là bấp bênh, trôi nổi trên những
bãi bờ đen tối. Đường tương lai là ngỏ cụt. Cho nên Sổ Tay
mới có chuyện bé Hậu Em để thưa cùng chư liệt vị hôm
nay. Tuần
rồi tôi nhận một email từ Úc Châu của 1 vị thầy cũ. Thầy
chuyển cho tôi 1 bài phóng sự vừa đăng trên 1 tờ
báo tại Việt Nam.Trong thư thầy viết mấy lời về bài phóng
sự: “ Theo tôi, rất buồn
nhưng cần thiết! Giá mà thường có những bài như thế
nầy để nỗi buồn thêm thấm thía!!!”.
Lời thầy ngắn và bài phóng sự cũng ngắn,
độ 400 chữ. Nhưng bỗng nhiên tôi nhận thấy hai cái ngắn này
đã tạo thành 1 cái dài vô cùng. Trên đất nước
tôi từ hơn ba mươi năm nay và nhiều, nhiều năm nữa sẽ
còn biết bao những thảm cảnh kiểu này mỗi ngày một nối
dài; và nối dài nỗi thấm thía của thầy trò tôi thành
vô tận. Không phải chỉ 400 chữ và vài tấm ảnh của bài
phóng sự này. Hằng triệu triệu chữ, hằng trăm ngàn hình
ảnh của hằng ngàn bài phóng sự tương tợ đang in nhan nhản
trên những tấm lưng trần bốc khói của đồng bào tôi
ở khắp nơi trên 1 đất nước đã 35 năm gọi là hòa
bình, thống nhất. Và chắc chắn không phải chỉ có hai
thầy trò tôi thấm thía nỗi buồn nầy, phải không? Bài phóng sự kể chuyện 1 em bé con nhà nghèo 10 tuổi tên
Hậu Em đang học lớp 3 ở ấp Mỹ
Thạnh, xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới, Long Xuyên. Hàng ngày, ngoài
giờ đến lớp, Hậu Em làm mướn cho 1 lò gạch để phụ
tiền ăn cho cả nhà gồm 5 người. Mấy tấm ảnh chụp hình
bé Hậu Em ốm yếu, gầy gò nặng tròm trèm 30 kg mà phải
cỏng trên lưng mỗi chuyến từ 20 đến 40 viên gạch nung, mỗi
viên nặng 0.8 kg, vị chi trên tấm lưng rộng độ gang tay của em có
1 khối gạch nặng từ 16 kg đến 32 kg. Trung bình mỗi ngày
bé Hậu Em cỏng gạch 50 chuyến từ lò xuống ghe; có đoạn
phải đi trên những tấm ván nhỏ, gập ghềnh, dễ té.
Bé Hậu Em đã có lần bị trượt chân té xuống
cầu, đầu đập vào gạch, máu chảy nhiều, còn để
lại cái sẹo bên thái dương. Để có được
20 ngàn đồng, khoảng 1 US đô la, bé Hậu Em phải cỏng 2000
viên gạch mỗi ngày ! Nghe chuyện bé Hậu Em chắc chắn thế giới phải
tròn xoe đôi mắt rồi liên tục nhíu mày! Họ tưởng
cái ấp Mỹ Thạnh lạ hoắc kia là mảnh vụn còn sót lại
của 1 làng nô lệ mấy thế kỷ trước! Ai cũng biết ở nơi
đâu thì người ta cũng phải làm việc để sinh tồn. Rất
nhiều sinh viên, học sinh tại các nước tiên tiến cũng vậy.
Họ cũng làm việc ngoài giờ học và đồng lương được
trả theo luật lao động. Tuổi tác, điều kiện an toàn cũng
theo luật lao động. Các sinh viên, học sinh mỗi ngày đi học cũng
cỏng trên lưng cái backpack nặng sách vở. Người tốt nghiệp
đại học cũng vậy, vừa buông cái backpack sinh viên nặng này
thì mang tiếp cái backpack công, tư chức nặng khác. Nhưng những
cái “khối nặng” nầy không giống như mấy mươi viên
gạch vô tư, vô tâm và hút máu của bé Hậu Em. Trên
lưng họ là những túi hành trang chứa đầy khả năng và
trí tuệ mà đất nước đã chuẩn bị cho họ dù có
nặng trình trịch nhưng là những vốn liếng vào đời, là
những nấc thang để bước lên vùng trời tương lai đầy
ánh sáng. Còn bé Hậu của tôi thất thểu trên ngỏ cụt tương lai
có bao giờ được buông xuống những tấn gạch trên lưng?
Những nghèo đói, thất học, những bóc lột, bất công, chèn
ép, vân vân và vân vân... mãi mãi sẽ là những tấn
gạch nặng dán dính vào những tấm thân còm cõi của hàng
triệu bé Hậu trên quê hương tôi. Những số phận bé
mọn, hẩm hiu của từng người và cơn vật vã, đau thương
của đất nước cũng sẽ là những hòn đá tảng trên
lưng người dân quê tôi. Sống ở xứ người, chúng ta có thể
buông bỏ những túi nặng “backpacks” trên lưng bất cứ lúc
nào. Trên lưng bé Hậu có một ngày cũng sẽ xa rời những
viên gạch. Nhưng trên lưng của mỗi người Việt Nam mình, dù
muốn hay không, dù bé dù lớn, dù sống bất cứ ở đâu
cũng đều cỏng nặng một trái núi. Đó là trái núi
lửa được hình thành bằng sinh mệnh bi thương của dân
tộc, là oan trái của lịch sử sau trận phong ba của đất nước
từ hạ bán thế kỷ trước. Bé Hậu ơi, dù sao chúng ta cũng là
người đồng hành và đồng cảnh nên dễ đồng cảm.
Thương em cũng là thương chính mình. Cho nên chuyện của em
làm mọi người “thấm thía” là vậy
đó. Houston, mùa nghỉ hè 2010
.
HAI MÀU ÁO TẠI 1 HỘI TRƯỜNG TRONG NGÀY 30/4/2010
Chị ngồi trên chiếc ghế của chiếc bàn tròn cuối
cùng kê nơi góc phải hội trường. Chỉ một mình chị.
Các bàn ghế vẫn còn trống phía hội trường này. Bên
góc trái đã có vài chục người ngồi chuyện trò
vui vẻ. Chương trình Tưởng Nhớ Ngày 30 Tháng 4 còn hơn
nửa tiếng nữa mới bắt đầu. Hình như tôi chưa hề gặp
chị ở đây. Chắc hẳn chị không phải là người thường
xuyên đến trung tâm sinh hoạt này. Không phải chị là một
trong vài chục người đến hội trường sớm mà tôi để
ý đến chị. Chính bộ bà ba đen chị đang mặc và dáng
ngồi thẳng, mắt hướng về phía trước và gương mặt
trông rất buồn, không một chút phấn son của người đàn
bà trên năm mươi làm tôi không thể nào không để
ý đến chị. Không biết từ hồi nào tôi có thói quen
hay quan tâm tới những người nữ mặc toàn đen với gương
mặt buồn. Dấu hiệu của tang chế. Bình thường đàn bà
thích ăn mặc đẹp với những màu sáng và khi ra ngoài thì
thường có chút phấn son. Gặp chị tại một buổi tưởng
niệm, linh tính cho tôi nghĩ rằng người đàn bà nầy chắc
có điều gì trắc ẩn. Suy từ chính mình, hôm nay tôi đang
mặc chiếc áo trắng. Màu trắng để tang cho một ngày buồn
thảm. Màu trắng cũng để tự nhắc mình rằng hãy từ
màu trắng sáng nầy mà nuôi hy vọng, mà dắt dìu nhau đi
về vùng trời trong sáng hơn.Từ ngày đến Hoa Kỳ hơn 30 năm
nay, hàng năm cứ mỗi lần ngày 30/4 đến tôi mặc chiếc áo
trắng này. Lúc đầu thì vợ con tôi cũng làm theo để
tôi vui lòng, lâu dần họ bỏ cuộc; chỉ còn tôi. Chiếc áo
trắng nầy cũng kiên trì theo tôi từ đó, không sờn rách
cũng không đổi màu.Từ chiếc bàn kế bên tôi thấy trên
bàn, trước mặt chị 1 bao ny-lon đựng mấy tấm ảnh 4x6 đen trắng
và cành hoa trắng làm bằng vải, giống như hoa lài.
Tôi thầm mong có người nào đó đến ngồi gần chị
để chị không cảm thấy lẻ loi và xa lạ. Gần
tới giờ bắt đầu chương trình. Trong hội trường người
ra kẻ vào, tiếng nói cười xen với tiếng nhạc nhẹ. Chị vẫn
âm thầm ngồi đó. Chiếc bàn chị có thêm hai bà cụ
và 1 ông cụ cùng với hai bé gái bốn, năm tuổi, chắc là
cháu của ông bà. Các cụ già thường ít nói và
các cháu bé thường không làm quen với người lạ nên
chị vẫn ngồi đó, không chuyện trò với ai. Chị có vẻ
chăm chú nghe các diển giả nói chuyện, rồi ăn trưa như mọi
người và cùng thưởng thức văn nghệ như mọi người.
Chiếc bao ny-lon vẫn trước mặt chị. Tôi không đọc được
một nỗi xúc động nào trên gương mặt chị. Hay chị có
xúc động mà tôi không bắt gặp hoặc chị ém sâu nó
vào lòng mình. Hình như chị không thích chuyện trò nên
tôi cũng ngại làm quen. Bộ bà ba đen và cành hoa lài trắng
vẫn là điều bí ẩn đối với tôi. Khi chương trình chấm
dứt, ngó quanh, tôi không thấy chị. Không biết người đàn
bà ăn mặc toàn đen ấy đã biến đi từ hồi nào. Chị
đi rồi mà đầu óc tôi vẫn còn vẽ ra nhiều điều
về chị. Chị có thể là góa phụ của một người tù
đã bỏ thân nơi nào đó trong núi rừng Việt Bắc sau
ngày 30/4/75. Chị có thể là người mẹ đã phải thủy
táng con mình trên biển Đông. Chị có thể là người
vợ trẻ vài mươi năm trước sống trong giây phút hải hùng
khi chứng kiến chồng mình đã liều thân cứu vợ thoát khỏi
nanh vuốt của bọn hải tặc khát máu trong vịnh Thái Lan... Anh
yêu quí, em bây giờ còn sống mà như đã chết. Những
tấm ảnh ngày cưới chúng mình và những tấm ảnh giày
saut nón sắt của anh đang sống với em từng giờ từng phút. Từng
giờ, từng phút em sống với anh. Còn cánh hoa lài trắng nầy
em sẽ mang theo cho đến cuối đời như 1 giải khăn sô cho duyên
phận chúng mình. Và bộ đồ đen nầy em mặc hàng năm
để tưởng nhớ ngày tang khó 30 tháng 4. Thưa
chị, dù không được nói một lời nào với chị nhưng
tôi biết chị. Và biết cả tên chị nữa. Chị chính là
một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam sanh ra, lớn lên, lê đôi
bàn chân rướm máu trên núi Sọ và gánh chịu muôn
ngàn đau thương, oan khiên, khổ nhục của một thời Việt Nam
thập tự giá. Thưa chị, cảm ơn chị đã
đến với chúng tôi. Màu áo đen của chị và màu áo
trắng của tôi đã hòa nhập tuyệt vời trong ngày tưởng
niệm 30/4 hôm nay, nơi đây. Trắng hay đen đều là màu tang
chế. Chúng ta cùng để tang cho một cái tang chung. Phải không, thưa
chị, chị Việt Nam? Houston, 30/4/2010 TBT .
CHUYỆN 30 THÁNG TƯ ĐEN
Sổ Tay tháng này xin mời bạn đọc đọc 2 truyện
ngắn thật ngắn nhân ngày tưởng niệm 30 tháng 4
1.CẦU BÀ NỘI
Trong mắt bà Tư căn nhà bây giờ bỗng nhiên trống hoác.
Nằm trên giường bịnh bà Tư cũng hình dung được
căn buồng bên trái cửa đã đóng kín, cái bàn
học kê bên cửa sổ còn xấp bài chưa chấm của con dâu.
Chiếc áo lính cũ của con trai còn máng trên vách buồng. Chai
sữa nấu bằng gạo rang thằng cháu nội chưa uống hết đang nằm
bên cạnh bà đây. Mới hôm qua cả nhà còn đông đủ.
Hôm nay chỉ còn một mình bà. Trống vắng. Đêm
qua trời tối đen như mực, cỗng thằng cháu nội mới hơn 1 tuổi
trên lưng, bà Tư lần mò từng bước trên cây cầu khỉ
bắc ngang Rạch Bần. Mưa lớn và gió mạnh. Cầu lắc lư hay
chân tay bà lão sáu mươi đi đứng không vững? Cha mẹ
thằng bé đã đi trước với 2 đứa con và mấy túi
đồ ăn, thức uống. Hồi chiều có tin cơ quan xã đã nghe
phông thanh chuyến vượt biên này. Mọi người phải chạy đua
với xã đội, hối hả xuống “taxi” đang đậu chờ ở
ngoài vàm để đi ra “con cá lớn”. Khi chiếc ghe nhỏ rời
bến, bà Tư trở về. Dâu con đã năn nỉ bà cùng đi,
bà nói bà phải ở lại để rủi có bề gì thì
còn nhà cửa để con cháu trở về. Bà đi thất thểu
dưới mưa mà tưởng chừng như mình bay trong gió. Bà thấy
thân thể nhẹ tênh mà trái tim thì nặng như chì. Bà Tư
đã vừa bứt ruột, nát lòng đưa tiễn những người
thân nhứt của bà ra đi. Sống chết thế nào chưa biết. Từ
nay một thân già yếu bà Tư cũng không biết mình sẽ ra sao.
Bà bước trở lại cây cầu khỉ. Đi mới được nửa
cầu, bà muốn đứt hơi, mắt hoa, chân run, bà dựa vào tay
vịn để thở. Khi thân cầu gãy, bà Tư mới hoàn hồn,
cố gắng hết sức già, bà Tư mới lội được vào
bờ, lê lết về nhà. Cơn sốt bắt đầu ngay sau
đó. Tin vượt biên thành công của con cháu nhắn gởi từ Songkla
bà Tư không nhận được. Bà Tư đã vĩnh viễn ra đi
chỉ hai ngày sau cái đêm mưa tầm tả ấy. Lối
xóm nói cơn sốt không thể vật ngã được người
đàn bà nhà quê dạn dày sương gió ấy. Chắc chỉ
tại nỗi buồn quá lớn khi bà bỗng chốc mất hết những người
thân yêu. Gần ba mươi năm trôi qua, Rạch
Bần đã thay bao nhiêu cây cầu khỉ. Xóm giềng vẫn nghèo
xác nghèo xơ. Hôm nay cây cầu đúc bắt qua con rạch vừa
xong. Không có lễ khánh thành nhưng một số người ở gần
đến chờ giờ khai thông cây cầu. Trong làng ai cũng biết cầu
này do một kỷ sư cầu đường trẻ nổi danh của Mỹ tự
tay thiết kế và xây dựng cả tháng nay. Đứng trước ba má
và anh chị, người thanh niên trạc ba mươi tự tay vén tấm
vải điều che mặt bia đặt bên này cầu. Người ta đọc
mấy chữ trên tấm bia: “BÀ NỘI, con thương Bà”. Từ đó người làng gọi cầu nầy là Cầu
Bà Nội. Một cây cầu gãy gần ba mươi năm trước bây
giờ đã được bắt lại, đẹp đẽ, vững chắc. Ở
một nơi nào đó trên mây, có người đàn bà quê
nhìn xuống đàn con cháu, niềm vui bừng sáng một góc trời
chiều. 2.CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN
ĐÔNG
Con thuyền chật cứng lúc bắt đầu ra Bãi Giá.
Bây giờ chắc không ai chợt thấy lòng thuyền bỗng rộng hơn.
Mọi người đã đói lã, không còn nghĩ gì ngoài
cái ăn. Sau 39 ngày lênh đênh trên biển, hơn một nửa đã
vắng mặt vì bịnh và vì đói khát. Xác họ đã
làm mồi cho cá mập. Cơn đói khát và mất người thân
khiến nhiều người phát điên. Chị Út V. ôm cứng con vào
lòng bằng tất cả sức lực còn lại của mình. Con bé mới
tuổi rưỡi cũng đang thoi thóp. Từ hai hôm nay những người trên
thuyền chỉ muốn ăn thịt con bé. Họ nói dầu gì thì con
bé không thể sống được. Chị Út V. biết chị không thể
nào chống trả hay kêu gọi nhân tính của họ, những người
tìm mọi cách để sống còn. Nửa đêm chị Út V. lần
mò ra trước mủi thuyền, nhẹ nhàng thả con trên lượn sóng
biển Đông. Chị thấy từng đoạn ruột của mình đang
rỉ máu trên những ngọn sóng vô tình. Houston, để nhớ ngày này 30 năm trướcTBT
SỔ TAY TRANG NHÀ Trần Bang Thạch. SỐNG NHỮNG KHẮC GIÂY
BẰNG VÀNG. Chị cất cao tiếng hát: “...tóc trắng
mẹ bay, như gió như mây bay qua đời con...” . Những lời ca
đó tôi đã nghe nhiều lần, lần nào cũng không tránh
cảm xúc khi liên tưởng tới hình ảnh mẹ mình. Hôm nay dù
trên một sân khấu nhỏ, dù bài hát chỉ là một tiết
mục góp vui trong một chương trình vui tất niên tại TT Việt Mỹ,
nhưng những lời ca quen thuộc đó phát ra từ người ca sĩ không
chuyên nghiệp đứng giữa hai mái tóc bạc trắng đã đưa
cảm xúc của tôi tới một mức cao hơn. Nhiều khi sự có mặt
của nghệ thuật chỉ là một cái chạm nhẹ vào cung bậc tâm
hồn. Lời ca, tiếng hát và hình ảnh hai mái đầu bạc như
mây đang biến thành nghệ thuật để đưa nghệ thuật vào
lòng người, khiến người nghe bỗng sống với tâm trạng, với
cảm xúc của mình, sống cái thổn thức của mình, sống
với riêng mình một cách rất tự nhiên và bất chợt. . Trước
mắt tôi tiếng hát đang quyện vào hai dãy mây trắng để
tôi nghe lòng mình phát ra những dây đàn chùng mang âm hưởng
của tiếng thở dài nhớ nhung, tiếc nuối. Hình ảnh thấy gần
gũi quá. Mẹ tôi như đang có trước mặt mà sao thật là
xa. Dãy mây trắng đang bay trên đầu, cảm nhận được sự
ấm áp, nhưng làm sao với tới. Tình mẹ cho tôi suốt hơn
tám mươi năm mẹ có mặt trên đời vẫn đầy dù
con đã đi xa. Lòng mẹ vẫn bao la dù mẹ đã khuất bóng.
Mẹ tôi vĩnh viễn ra đi vào ngày 28 Tết hơn 10 năm trước,
ở tuổi 84. Tóc Mẹ tôi cũng trắng như mây. Như mây trắng,
mẹ vẫn là bóng mát trên đầu con, chở che, dỗ dành, an
ủi. Cảm xúc càng dâng cao khi nghĩ tới đạo làm con không
tròn đối với mẹ; bây giờ có muốn cũng không được.
Bây giờ muốn vuốt tóc Mẹ sao chỉ thấy toàn là mây trắng
bay! . Người ca sĩ tuy không chuyên nghiệp nhưng lời hát thiết
tha đầy cảm xúc của chị là một tia lửa nhỏ góp vào
vùng ánh sáng chan hòa của nghệ thuật. Bắt được
những khắc giây nghệ thuật này là một hạnh phúc. . Trong thế
giới nhiều bất ổn, tranh giành, đầy âu lo, tính toán hôm
nay mà có được một chút thoải mái, hài lòng, vui vẻ
là những giây phút quý giá. Đó là những lúc được
sống những giây phút bằng vàng. Dĩ nhiên hôm ấy cũng có
những giây phút bằng vàng khác, như sự trình diễn của
gia đình anh chị PB-VTN, như gia đình gồm 3 thế hệ của chị
PTH, mang ý nghĩa “ cả nhà cùng vui xuân đón Tết” , hay
như 2 màn vũ Con Rồng Cháu Tiên và Nước Non Ngàn Dặm của
Thiền Quyền Dưỡng Sinh thể hiện nét văn hóa truyền thống
của dân tộc mình.
. Chiều nay tôi ghé lại một trường tiểu học. Bóng dáng nghệ
thuật thể hiện đầy cả một gian phòng rộng. Không có sân
khấu với lóng lánh đèn màu, không có phông màn óng
ánh tơ lụa và không có một nghệ sĩ chuyên nghiệp nào
ở đây. Cả mấy trăm cháu bé các lớp tiền-mẫu-giáo
và mẫu giáo cùng với hàng chục giáo viên và hàng
trăm phụ huynh học sinh đang làm nghệ thuật. Hơn bốn mươi phút,
cả trò từ 4, 5 tuổi đến thầy cô và cha mẹ, anh chị học
sinh từ 2, 3 chục đến 6, 7 chục tuổi đồng loạt múa theo tiếng
nhạc qua các động tác bằng cánh tay, bằng ngón tay, bằng chân,
bằng nghiêng mình, ngoẹo đầu, xoay cổ. Chắc chắn là các
học sinh và thầy cô giáo thì đã tập luyện thuần thục
tại lớp, tại trường rồi. Còn các cha mẹ, anh chị, ông bà
của học sinh thì sao? Một số đã tới trường sinh hoạt, tập
luyện với con cháu mình, một số thì được chính con cháu
mình tập cho ở nhà. Phải tập luyện lâu lắm mới đạt
được sự thống nhất và đồng bộ như hôm nay. Tôi vốn
là người dễ tính đối với nghệ thuật, không bao giờ
dám đi tìm cái toàn chân, toàn mỹ của nghệ thuật; mà
cho dù có muốn cũng không tìm được, hay không có để
mà tìm. Cái gì làm đẹp, làm mới, dù một chút
xíu, cho tâm hồn mình, làm mình cảm xúc qua những hình thái
nghệ thuật thì đó chính là nghệ thuật đối với
mình. Tôi thật sự xúc động khi tiếng hát cất lên
“ tóc trắng mẹ bay như gió như mây” giữa hai mái
tóc bạc như nói ở trên: Đó là nghệ thuật. Và tôi
cũng đã thật sự xúc động qua các động tác đồng
bộ, đồng nhịp của cả một khối người già trẻ, bé
lớn. Cái đẹp ở đây không chỉ có ở các điệu
múa đơn sơ của cả chục bài hát từ loa phóng thanh, mà
là ở tấc lòng vì con em, vì phương cách, vì hình thái
giáo dục, vì sợi dây liên đới ràng buộc tấc yếu
và vô cùng cần thiết giữa nhà trường và cha mẹ học
sinh, là tinh thần chịu khó học ca, học múa để hân hoan cùng
nắm tay con cháu mình cùng vui, cùng ca, cùng múa, cùng hồn nhiên
như con trẻ. Chắc chắn những cháu bé này và cha mẹ, hay ông
bà, anh chị không có một sự xa cách nào giữa họ trong thời
gian cùng chơi, cùng học tập. Trong gia đình, cha mẹ, con cái không
giữ được những sinh hoạt liên đới như thế nầy về
lâu về dài thì đừng oán than là con cái càng lớn càng
xa mình. Biết cách “chơi chung” với con cháu cũng là một
nghệ thuật sống. . Và biết thưởng thức nghệ thuật
theo tầm mức nhận thức của mình, biết sống với nghệ thuật
theo cách riêng của mình cũng là một nghệ thuật sống của
chính mình. . Sống hạnh phúc là sống những khắc giây
bằng vàng. . Cuối tháng 2/2010 TBT
SỔ TAY TRANG NHÀ _________________________________________________________________ Trần Bang Thạch NỖI MÌNH CUỐI NĂM
Cuốn lịch của năm Kỷ
Sữu đang mõng dần. Không còn bao lâu nữa tờ lịch cuối sẽ
bay đi. Chợt nghĩ đến thật nhiều điều. Có những điều
- thật nhiều điều - mơ mơ, hồ hồ, không rõ tên, không
định hình, định tướng. Nghĩ đến cuộc sống trước
mặt? Nghĩ tới con, tới cháu, bà con quyến thuộc, thân hữu bạn
bè? Nghĩ tới một quê hương ở xa? Nghĩ tới ngày về hưu?
...Tất cả những điều này mình đã nghĩ nhiều rồi, nhiều
ngày, nhiều năm rồi; đâu phải đợi đến những ngày
năm cùn tháng tận này, bây giờ. Vậy thì mình đang
suy nghĩ điều gì? Có phải bắt nguồn từ một bài cổ
thi vừa đọc được? . Nhân giai dục
đắc trường niên thiếu Vô ná bài môn bạch phát
thôi Nhất hướng phá sầu, sầu bất tận Bách phương
hồi tị lão tu lai . Trên đây là 4 câu
đầu của bài Đường thi thất ngôn bát cú Tuế Vãn
Tự Cảm của nhà thơ Vương Kiến (751-835). Bài thơ do 1 vị
thầy cũ của Nhóm Thơ Thẩn Cho Vui của thầy trò chúng tôi
gởi tới và thầy cũng đã cắt nghĩa từng câu và dịch
toàn bài, 8 câu. Cá nhân tôi trước đây có đọc
vài bài thơ của Vương Kiến nhưng chưa thấy bài này;
hay đã thấy nhưng đọc vào những hoàn cảnh không gian, thời
gian không thích hợp để tạo nên ấn tượng, kéo theo sự
suy nghĩ của mình. Thầy Phạm Khắc Trí ơi, những ngày gần
cuối năm và gần cuối đời của thầy lẫn trò mình, thầy
đã giương cung nhả ra mũi tên Tuế Vãn Tự Cảm và
bản dịch Nỗi Mình Cuối Năm làm trúng tim nhiều người.
Phải là nhiều người vì đã có thơ phụ họa từ
Hoa Kỳ, Việt Nam, Pháp, Úc... . Nỗi Mình
Cuối Năm PKT (Cuối năm Kỷ Sữu 2010) . Trẻ
mãi suốt đời ai chẳng muốn, Nhưng sao ngăn được tóc
sương pha. Sầu đong vô tận bao giờ cạn, Già tránh trăm
phương vẫn cứ già. . Những ngày cuối
năm thường khiến cho người ta đếm tuổi và có những nỗi
lo bâng quơ, cả những nỗi buồn mông lung. Nỗi mình cuối năm.
Phải rồi! Những ngày này mình đã nghĩ nhiều đến nỗi
mình, điều mà trước đây mình chưa hề nghĩ, hay
nghĩ một cách rất lờ mờ khi cái tuổi của mình còn xanh,
hay ngay cả lúc nó tròm trèm, trên dưới sáu mươi. Bây
giờ thì mình đang lần mò bước qua mấy chặn đường
đi đến cái đích "cổ lai hi" thì những câu thơ "
Sầu đong vô tận bao giờ cạn" bay đến, ghim ngay vào cái
bầu tâm sự của mình. Hỏi sao mà không suy nghĩ? . Cái trẻ thì không thể giữ mãi, cứ đi đi, được
thôi. Vạn vật trên trái đất nầy có cái gì là không
lão hóa. Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm
chiếu hãn thanh. Tóc sương pha thì cứ pha cho bạc trắng. Tóc
bạc, da mồi chỉ sự sống lâu. Cái già muốn đến
thì cứ đến, "cổ lai hi" mà! Chỉ có cái sầu
là coi mòi không ổn. Có mấy ai càng già càng vơi cái
sầu? Hình như cái sầu và cái lo ở tuổi già
là anh em họ. Ai cũng muốn lánh xa cặp bài trùng này mà xem
ra chẳng dễ. Càng già càng lo. Càng lo càng sầu. Tâm sầu
bạch phát. "Nỗi mình" là ở đây. Cái lo cho mình
có đó mà như đang ở đâu đâu, mênh mang trời đất,
nó chạm vào tỉ tỉ nơ-rôn của mình bất cứ lúc nào,
cho nên nó vô tận, nó cứ đầy. Nhiều cái sầu không
tên không tuổi, không hình không tướng là vậy. Hôm qua nhận một lá thư dài
của một thầy cũ gởi từ Aulnay, Pháp quốc. Thầy viết: "
Sống qua cái tuổi 60, được năm nào coi như được trời
cho năm đó, kể như được thêm "bonus". Thầy đã
được "bonus" hơn chục năm rồi, còn các em chắc cũng
được vài ba năm. Những năm "bonus" mình chỉ cần sống
lành, sống đẹp, sống an lạc, thảnh thơi...Thầy tin tưởng ở
"nhân quả", mình gieo nhân tốt thì sẽ gặt hái được
quả tốt". Nghĩ cho cùng
cái sầu của mình là do cái lo. Lo cho mình thì ít
mà lo cho người thì nhiều. Sống lành, sống đẹp là cách
sống hai chiều: Lấy cái Nhân để sống lành cho người là
đem về cái Quả nhãn tiền, chính là cái đẹp, cái
an lạc, thảnh thơi cho mình. Sống như vậy thật không phải là
dễ. . Biết là "Sầu đong vô tận bao
giờ cạn" nhưng vẫn cứ nghĩ tới cái nỗi mình.
Tuổi sắp thêm, sắp thêm "bonus" mà bao nhiêu cái lành,
cái đẹp mình sẽ làm được đây trong những năm tháng
tới để tạo cái nhân? . Cuối cùng,
có lẽ sự lo nghĩ cuối năm - nỗi mình- là ở đó. Nhưng trước mắt: Xin kính chúc mọi người hưởng được
nhiều Niềm Vui, nhiều Hạnh Phúc và nhiều ơn phước của đất
trời. . Cuối năm Kỷ Sữu 2010 TBT
NGÓ LOANH QUANH SAO CHỈ
THẤY NỖI BUỒN? .
Những ngày gọi là lễ lạc
cuối năm đã qua rồi, từ 3 hôm nay. Thêm một năm nữa đang
chực hờ ngoài cửa. Muốn để lại sau lưng hết những muộn
phiền, những âu lo…để dang tay đón mừng Năm Mới. Muốn
vậy nhưng nào có được! Lòng mình sao cứ xao xuyến, bùi
ngùi mỗi khi nhớ tới, mỗi khi nghĩ tới cái ngày Tạ Ơn và
Giáng Sinh vừa qua. Trước Ngày Tạ Ơn, tôi
mất người bạn và trước ngày Giáng Sinh tôi mất người
thầy, hỏi sao lòng mình không bùi ngùi, lưu luyến! . Trên cột mục của trang web này tôi đã có lần nói về
một người homeless, bạn tôi. Bạn tôi hàng ngày sinh sống bằng
những đồng tiền kiếm được do việc lau kính những chiếc
xe dừng lại chờ đèn xanh ở ngả tư xa lộ 45 và đường
249. Thật sự thì một năm tôi chỉ biếu bạn tôi vài đồng
bạc lẻ. Như vậy thì chữ “bạn” tôi dùng ở đây
chắc không ổn lắm, phải không? “Bạn” gì mà có vẽ
thờ ơ thế? Người đi đường cũng không mặn mà lắm
với bạn; có người còn dọa kêu cò bót. Có lần bạn
tâm sự với tôi như vậy. Tôi còn thấy trước mắt một
chiếc xe bất thần trờ tới xuýt đụng vào bạn khi bác tài
không muốn bố thí mấy chục xu hay vì không muốn cây lau bẩn
thỉu đụng vào kính chiếc xe mới toanh của họ. Gần như mỗi
bận đi làm về là tôi gặp bạn, có khi đưa bạn một,
hai cái quarters, có khi khoát tay “hi” với nhau rồi chia tay. Nhưng đặc
biệt mỗi năm một lần chúng tôi có nhiều thì giờ với
nhau hơn. Đó là bữa ăn vào đúng ngày Tạ Ơn. Ngày
ấy, dù có đi làm hay không tôi cũng đến cái ngả tư
quen thuộc, dừng xe rước bạn tới cái tiệm gà chiên Wings “N”
More cách đó một con đường. Tại đây bạn tôi chỉ
ăn 3 cái cánh gà chiên; không hơn không thiếu, năm nào
cũng vậy. Chúng tôi không nói nhiều nhưng trong mắt mỗi người
ánh lên niềm vui khi chúng tôi cùng nhau mừng Thanksgiving. Chúng tôi
thật sự không có nhiều chuyện để nói. Chuyện sở sùng
của tôi thì không nên nói, mà chuyện Iraq, Iran…hay chuyện kinh tế bây
giờ lại càng không nên bàn. Cho nên chúng tôi chỉ nói
chuyện mưa nắng; nhiều lắm là nói chuyện con chó Polo của bạn.
Bốn năm trước con Polo bị xe cán chết, ấy vậy mà mấy năm
sau gặp tôi bạn vẫn nhắc tới nó. Mỗi lần nhắc tới Polo
là bạn tôi sụt sùi làm mình cũng mủi lòng. Lần đầu
thấy bạn với con chó tò tò theo chân, tôi thầm mắng cái
anh chàng cù bơ mà còn đèo bồng mèo với chó, vậy
thì ta cho bọn mầy chết đói luôn cho bỏ cái tật làm sang!
Sau thấy cái tình của chó và người với nhau tôi mới thông
cảm được. Thảo nào bạn tôi thương con Polo đứt ruột.
Polo chết từ khuya mà bạn tôi cứ nhắc hoài. . Tôi thì chắc không được như bạn. Bạn tôi đã
ra đi rồi hồi tháng trước, chỉ một ngày trước Lễ Tạ
Ơn. Tôi đang nhắc tới bạn tôi hôm nay đây, nhưng biết
tôi còn nhắc tới bạn thêm một lần nữa không? Một năm
một lần, vào đúng ngày Tạ Ơn, tôi đâu còn thấy
bạn tôi, thấy bạn trong tiệm fast food vừa trệu trạo nhai cánh gà
vừa nhắc con Polo. Người homeless “bạn đường” của bạn
tôi kể cho tôi nghe cái buổi tối trời đổ mưa, bạn tôi
băng qua đường vừa lúc chiếc xe trờ tới đụng bạn ngã
sấp. Được tin tôi chỉ còn biết quày xe trở về, thầm
cầu nguyện bạn được sum họp với con Polo ở một nơi chỉ
có người thánh thiện và giàu lòng nhân ái. Buổi sáng của ngày Lễ Tạ Ơn hôm đó còn
đeo đuổi tôi cho tới bây giờ, hơn một tháng rồi.
. Một tháng sau, thêm một nỗi buồn nữa kéo tới. Một vị thầy
thời trung học của tôi đã ra đi đúng vào ngày Áp
Lễ Giáng Sinh. Người giáo sư Anh Ngữ của trường Trung Học
Phan Thanh Giản Cần Thơ và của trường Sinh Ngữ Quân Đội Trần
Đức Thắng đã từ giã những môn sinh của mình. Nhà
biên khảo lịch sử VN cận đại Trần Đông Phong đã ra đi
mang theo nhiều công trình nghiên cứu còn dang dở. Trước mắt
tôi còn in rõ những hình ảnh của buổi giới thiệu tác
phẩm “Việt Nam Cộng Hòa- 10 Ngày Cuối Cùng” ngày 28-5-2006
tại Trung Tâm Việt Mỹ. Tác giả Trần Đông Phong đứng trên
bục mà như cá dưới nước, ông nói thao thao, ông trả
lời thỏa đáng những câu hỏi. Tôi có cảm tưởng ông
rất tự tin và thoải mái bơi lội trong dòng lịch sử cận
đại của nước nhà. Một thính phòng cả mấy trăm người
im lặng nghe và hăng hái hỏi. Đọc các công trình nghiên
cứu của ông tôi mới biết Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson năm
1801 đã từng tiếp kiến Hoàng Tử Cảnh để thiết lập
mối giao hảo với VN và Đông Dương, biết thêm về Tổng
Thống Ngô Đình Diệm và đối lập, về Tinh thần yêu nước
và tài năng nghệ thuật của Vua Hàm Nghi, về ý đồ thâm
độc của chế độ Hà Nội khi kết án Cụ Phan Thanh Giản,
về kẻ sĩ cuối cùng Trần Văn Hương,v.v…Cho nên tôi
có cảm tưởng dù thầy trò chúng tôi đã rời xa trường
cũ hơn bốn mươi năm, tôi vẫn là người học trò tìm
thấy ở Thầy Trần Đức Thắng, trong vai trò nhà nghiên cứu
Trần Đông Phong, nhiều điều tôi cần phải học ở Thầy.
. Bây giờ thì
Thầy đã ra đi. Thầy đi thật rồi. Thầy về Nước Trời
1 ngày trước Lễ Giáng Sinh. Biết trước rằngThầy phải đi,
nhưng khi nghe Thầy đi, lòng bổng bàng hoàng. Biết trước rằng
10 phút nói chuyện với Thầy trên giường bịnh qua điện thoại
hôm đó là những giờ phút hạnh phúc của tôi, là
giờ phút quý báu cuối cùng của Thầy trên đời, nhưng
mỗi lần nghĩ tới sự vắng mặt vĩnh viển của Thầy là
mỗi lần nghe đau xót. . Có
một đoạn văn cuối trong bài Thầy trả lời phỏng vấn của
Ban Biên Tập Đặc San 12 phát hành nhân ĐH PTGĐTĐ lần XI –
Houston 2007. Đây là những lời tâm sự của Thầy, bây giờ
đọc lại thấy đây phải chăng là lời Thầy gởi lại
trước lúc ra đi? “Tôi hy vọng rằng nếu
tình trạng sức khỏe còn cho phép, chúng ta nên tìm cơ hội
để gặp lại nhau một lần, biết đâu chừng đó sẽ
là lần cuối?” . Lễ
Tạ Ơn và Lễ Giáng Sinh đã qua rồi mà. Sao tôi cứ nghĩ
hoài đến nó như nghĩ đến những nỗi buồn? .
3 ngày sau Lễ Giáng Sinh
2009 Trần Bang Thạch
CHUYỆN MẤY
CON CÁ TỘI NGHIỆP
Tuần trước, người bạn văn Nguyên Nhung, sau chuyến đi chơi
2 tuần lễ vùng Seattle và Alaska, vừa về nhà đã kể cho chúng
tôi nghe nhiều điều lý thú. Từ chuyện người thiếu phụ
ngồi hàng giờ trên băng đá cạnh ngôi mộ chàng Lý
Tiểu Long ở Seattle đến chuyện ngắm cảnh đẹp như thần tiên
vùng biển Alaska. Có một chuyện làm cho tôi vô cùng xúc động.
Đó là chuyện con cá hồi. . Chuyện con cá hồi thì
chắc không lạ gì đối với nhiều người. Thì ai cũng biết
đó là cá salmon, loại cá sanh đẻ ở nước ngọt rồi
sống ở biển khơi, rồi bị nướng, bị luộc, bị kho hay bị
đóng hộp thành cá mòi; có con may mắn được trở về
vùng nước ngọt để sanh đẻ. Tôi cũng hiểu như vậy.
Nhưng qua câu chuyện kể của Nguyên Nhung, bằng những quan sát, nhận
xét và cách diển đạt của một nhà văn rất tinh tế
trong các đề tài mẩn cảm nội tâm, tôi bổng thấy một
nỗi xúc động đã len lén đi vào lòng mình hồi nào
không biết. Tôi giục Nguyên Nhung viết, viết trong lúc thân phận
con cá hồi đang nằm thở phì phò trong đầu óc nhà văn
và trong trái tim đang xúc động của người được nghe
câu chuyện còn nóng hổi. . Nước chảy,
từ trên nguồn đổ xuống
Cá quẫy ven bờ ngược nước lên
Vài thân cá chết vương ghềnh đá
Gửi nắm xương tàn trong lãng quên
(Chuyện Con Cá Hồi Vượt Sóng, thơ Nguyên Nhung tháng
9-2009) .
Phải, tôi đã
xúc động không ngờ. Hình ảnh từng đàn, từng đàn
cá mái bụng mang dạ chữa rời biển mặn, mắt trợn trừng,
ngoi đầu vượt ngàn dặm trùng dương với bao thác ghềnh,
bão to, sóng dữ. Những con cá hồi tội nghiệp chỉ muốn về
vùng nước ngọt sanh con đẻ cái tại đúng nơi chôn nhau
cắt rún mấy năm trước mình đã bỏ đi. Có con chưa
về đến nơi đã gởi thân tàn nơi xứ lạ. Có con
trầy vi, tróc vãy về đến nơi sanh xong rồi chết. Tôi không
chứng kiến cái chết của cá hồi, nhưng tôi thấy những nụ
cười mãn nguyện trên từng con, từng con. Chắc vậy. Không thể
nào khác được. . Cái gì đã buộc chúng phải quay về?
Có phải đó là quê hương ? Là hơi hám của một
bãi bờ, một ghềnh đá thân yêu ngày cũ? Quê hương
của cá hồi hiền từ lắm, không có một độc tố ngoại
lai hay những kẻ đồng chủng nội thù. Thiên nhiên chớ đâu
phải là con người mà có hằn thù, phải không?. Vùng hồ
ao đó vẫn là chiếc nôi còn thơm mùi sữa mẹ cho nên
cá hồi, từng đàn, từng đàn vượt sóng trở về,
chết cũng trở về. Trở về để cất tiếng cười rồi
chết trên quê hương. .
Tôi nhìn cá chết trong lòng suối
Dẫu về, nhưng có sống được đâu
Thoáng thấy bóng mình in đáy nước
Mới đó mà nay đã bạc đầu ...
.....................................................................
(Chuyện Con Cá Hồi Vượt Sóng, thơ Nguyên
Nhung tháng 9-2009) .
Thoáng thấy bóng mình in đáy
nước. Phải mà, đây chính là điều đã
làm tôi xúc động, thương cá thì ít mà thương
thân phận lưu vong của mình thì nhiều. Cá còn có đường
về để ngửa mặt cười vang trước khi chết. Còn mình,
dù có về nhưng tiếng cười chưa thấy thì đã thấy
một cõi âm u nào khác. . Cả
chục năm trước, một bạn thơ khác của tôi, anh Đạm Thạch
viết bài thơ Con Cá Lưu Vong. Bài thơ nổi tiếng ngay sau khi
xuất hiện trên báo vì nó là tâm trạng của non 2 triệu
người Việt Nam lưu vong. Bài thơ kể chuyện tác giả bổng gặp
con cá cháy tại 1 cửa hàng thực phẩm ở Little Saigon: Thì ra đến
con cá cháy cũng lưu vong huống chi là con người Việt Nam của
thời đại xã nghĩa! .
Giữa chợ ABC tôi muốn la lên cho người
Cần Thơ xúm lại Để tận mặt nhìn
con cá thuở nào Con cá sống quẩn quanh giữa khúc sông Trà
Ôn, Đại Ngãi Sao bây giờ giữa chợ phơi thây?
Tôi
kịp la to nhưng kịp gìm tiếng tôi khựng lại Tự hỏi
lòng cá cũng lưu vong ........................................................................ (Con
Cá Lưu Vong, thơ Đạm Thạch, 2000) .
Cá cháy chỉ
sống ở vùng nước lợ, chỗ giáp ranh nước mặn và nước
ngọt. Khi nước đã thay lòng, không giữ được mùi vị
quen thuộc thì đàn cá phải ra đi hay chịu chết trên dòng
sông cũ. Đã có bao nhiêu con cá cháy đã trầy vi, tróc
vãy mới đến được khu chợ nào đó, như chợ ABC,
chợ Hồng Kông 4? Và bao nhiêu con phơi mình trên những khúc
sông không còn nước lợ hay trên vùng biển dữ Thái Lan,
Indo, Mã Lai? Phải chăng đó cũng là hình ảnh của người
Việt mình, những người đành cam sống lưu vong ở khắp nơi
trên thế giới, hay những người không tới được bến bờ?
Chết hay sống thì cũng đều là người ly xứ! Cá
với người cùng có những tâm trạng chua xót như nhau. .
Theo
tin báo chí: Cuối năm 1999, một con cá đuối, loại cá chỉ
sống ở nước mặn, bị mắc lưới ỏ huyện Lấp Vò,
Đồng Tháp, vốn là vùng nước ngọt. Thì ra cá đuối
đã theo nước mặn mà xuôi Nam. Tai họa đã tới: sông
rạch Miền Nam đang trở thành nước mặn và nước mặn sẽ
tràn vào đồng ruộng miền Nam vào một ngày không xa. Đồng
ruộng miền Nam sẽ là đồng khô cỏ cháy. Cám cảnh này,
hồi năm 1999 tôi đã làm bài thơ Chuyện Con Cá Đuối
Ở Huyện Lấp Vò. Con cá đuối từ bể Bắc lặn lội về
Nam để báo tin tai họa đang giáng xuống đầu cổ người
Phương Nam. Biết là về đó cá sẽ bị lưới, nhưng
thà là làm thằng mõ báo bão còn hơn là làm người
giá áo túi cơm. .
Nhưng ta về phương Nam Làm thằng
mõ phương Nam Theo biển mặn về nơi bãi thấp Theo sóng
dữ mang về tin dữ Về phương Nam Ta báo bão phương Nam ………………………………………. (Chuyện
Con Cá Đuối Ở Huyện Lấp Vò, thơ Trần Bang Thạch, 1999) . Thương
thay mấy con cá tội nghiệp. Mỗi con mỗi cảnh, mười phân khổ
cả mười! . Người ngư phủ đồng bằng quần vải áo thô Người có thấy
người đang vào trận chiến Sông rạch miền Nam phải đâu
là biển Hà cớ chi nước mặn tràn bờ?
(Chuyện Con Cá Đuối Ở Huyện Lấp
Vò, thơ Trần Bang Thạch, 1999) . Trên đây là lời báo tử cho môi sinh, đồng
lúa, cây trái Miền Nam, không vài năm thì cũng vài mươi
năm nữa. Qué sera, sera! Rất mong đây không phải là lời báo
tử cho cả một dân tộc, về một hay nhiều phương diện nào
đó. Người ta đã nói nhiều tới 7 con đập bậc thềm Vân
Nam đã và đang được Trung Quốc xây dựng từ thập niên
80. Đáng kể nhất là đập Xiaowan trên sông Dương Tử được
coi là đập cao nhất thế giới, cao 292 thước, bằng nhà chọc
trời 100 tầng, xây từ năm 2001 và sẽ bắt đầu hoạt động
vào năm 2010. Đập Xiaowan có sức chứa tới 15 tỉ mét khối
nước lấy từ sông Mêkông (theo Ngô Thế Vinh). Yết hầu sông
Mêkông từ phía Trung Quốc thắt hay mở đều do những ông trời
con ở đó. Biển Đông sẽ dậy sóng và Cửu Long sẽ cạn
dòng. Bao nhiêu triệu tấn chất thải từ những nhà máy Phương
Bắc đang trôi về Phương Nam? Chừng đó sẽ không
còn một con cá đuối nào sống sót để về Phương
Nam báo bão. Chắc vậy. . Cuối cùng, có lẽ người
Việt lưu vong chỉ còn một chỗ để về, cũng là một nơi
để tâm tư nương tựa: Dòng lịch sử oai hùng dựng nước
và giữ nước của tiền nhân và nền văn hóa Hòa Bình,
Nhân Bản bắt nguồn từ năm 2879 trước Công Nguyên với truyền
thuyết Mẹ Tiên, Cha Rồng, Nhất Bào, Bách Noãn. . Trần
Bang Thạch Tháng 9-2009
phiếm.
. LAN
MAN ĐẦU NĂM HỌC .
1.THÌ RA MÌNH ĐÃ
GIÀ . Bây giờ là đầu tháng 8. Nhiều trường
học ở Mỹ sẽ bắt đầu khai giảng niên học mới trong vòng
hai, ba tuần nữa. Giờ này các phụ huynh đã chuẩn bị áo
quần, tập vở, giấy bút…cho con em mình. Bỗng nhận ra một điều:
Không nhớ từ hồi nào mình đã không mó tay vào mấy
cái việc mua sắm nầy. Chuyện này mình đã làm nhiều lắm
mà. Ba chục năm trước, lúc mới đến đây thằng lớn
11, con gái 8, thằng út vừa tuổi rưỡi. Đầu năm học nào
mà mình không vợ chồng con cái khuân học cụ từ Kmart? quần
áo từ Goodwill? Mới đây mà đã là dĩ vãng rồi sao
cà? . Thì ra từ cái “hồi nào” ấy mình
đã là một ông già! Ông già có con cái đã lớn,
dù có con út đi nữa thì chúng nó đã ra trường,
cùng lắm cũng là sinh viên rồi, ông già đâu còn cái
dịp mua cho con cái backpack hay hộp bút chì màu. Ông già là ông
nội, ông ngoại thì lại càng rảnh tay, càng mất việc, các
cháu đã có cha mẹ nó lo, còn lâu mới tới ông bà
già. Ông bà có ngứa tay mua cái học cụ hay áo quần, giày
dép gì đó mà thằng cháu không thích, nó
sẽ cảm ơn rối rít, nhưng món đồ ấy sẽ nằm hoài
ở một góc nhà nào đó. Tốt nhứt là đưa tiền
cho thằng cháu, nó mua theo ý nó. Như vậy cũng tạm gọi là
gián tiếp tham gia vào hành trình đi về tương lai của con cháu! . Đến đây
có người sẽ phản biện: Thì mình dẩn thằng cháu đi
Walmart, hay Target, hay Sam’s…để cho nó tự chọn, mình cứ có
mặt ở quầy tính tiền là đủ. Điều nầy thì hay quá
rồi, khỏi cần bàn. Nhưng thực tế không biết có bao nhiêu
ông bà già nào làm được. Nhiều khi già cả chậm
lục, ý nghĩ đi trước hành động cả chục cây số,
chưa làm thì thằng con đã làm cho thằng cháu của
mình rồi! Còn đâu tới phiên mình! . Vòng vo như
vậy để thấy rằng mình không phải là nhân vật chánh
trong tấn tuồng ở vào cái thời điểm nầy. Vai phụ cũng được,
có sao đâu. Ngồi ở một góc nào đó trong nhà, nhìn
thấy con cháu rộn rịp chuẩn bị cho ngày nhập học, chắc mình
cũng vui lây cho dù thiếu cái háo hức của cậu học trò
mấy mươi năm trước. Nhớ lại mấy mươi năm trước,
đố ai không khỏi ngậm ngùi. Thời gian sao mà nhanh như ánh chớp.
Nhớ như in đoạn văn của Thanh Tịnh: “Hằng năm cứ vào
cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có
những đám mây bàng bạc trôi đi, thì lòng tôi lại
nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường…”.
Nhớ như in ngôi trường làng bên bờ sông tuổi nhỏ có
đàn dê ngang nhiên vào lớp bỏ lại mấy cái hột đen
đen, tròn tròn rồi be be dẩn bầy dê cái đi mất. Nhớ những
trận đá banh bưởi, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vừa đứng
trả bài vừa thở. Nhiều khi bây giờ còn làm ông già lẫm
cẫm tìm hoài trong ký ức cái tên của chủ nhân một đôi
mắt ướt kẹp giữa hai cái bím tóc thuở nào… . 2.ĐẦU
NĂM HỌC, NHÌN VỀ HAI NGÔI TRƯỜNG .. Đôi mắt ướt
mộng mị ấy đã mất dấu từ hồi nẫm rồi. Cái ký
ức bây giờ không còn được bao nhiêu, nếu còn thì
chắc cũng không lành lặn, tìm làm chi cho mất ngủ. Thôi thì
xin méo mó nghề nghiệp nói chuyện bây giờ, nhân ngày nhập
học sắp đến. . Mấy hôm trước, tình cờ đọc
được 2 cái tin trên cùng 1 trang báo: Tin thứ nhứt là tin vui,
tin thứ hai là tin buồn. . Tin vui nói về số học sinh có năng
khiếu – gifted and talented students - tại khu học chánh Houston (HISD). Theo tin nầy
thì tính tới mùa Xuân năm 2009 Khu học chánh đã có 28,300
học sinh năng khiếu, tăng 2000 em so với năm 2007. Tính theo tỉ lệ thì
số học sinh năng khiếu này bằng 14% tổng số học sinh toàn Khu,
một con số mà giới chức giáo dục cho là rất khả quan. Khắp
các nơi khác trong nước, số học sinh giỏi cũng tăng tương
tự như ở Khu Học Chánh Houston. Xin mở ngoặc nói một chút về
học sinh VN mà không thấy báo nhắc tới: Dân số VN chỉ bằng
4% dân số Houston, nhưng các Á Khoa và Thủ Khoa VN vừa tốt nghiệp
lớp 12 năm nay chiếm 21% tại các trường Trung học. Đóng ngoặc. . Và đây
là tin buồn. Tin buồn này báo đăng ngay phía dưới tin vui trên
đây. Đó là tin đóng cửa trường tiểu học Power Point
vào tháng 7 năm tới, và dĩ nhiên Khu Học Chánh Kendleton cũng
đóng cửa vì khu học chánh này chỉ có duy nhứt ngôi trường
tiểu học Power Point này. Lý do: 5 năm liền, học sinh tại đây
không đạt được tiêu chuẩn học tập của tiểu bang Texas. Các học sinh rồi đây sẽ
phải mỗi ngày đi, về 40 dặm để tiếp tục học tại trường
khác. Trường Power Point nằm ở phía tây nam, cách Houston 50 dặm, là trường có từ thời
những người nô lệ bị đưa về đây trồng trọt. Dân
cư là những người cố cựu đã từng là học sinh của
trường, từ đời ông cố, ông sơ tới đời cháu chắt.
Bao nhiêu là kỷ niệm giữa bốn bức tường này. Mai đây
nó sẽ là một cơ sở khác, một siêu thị, hay một bãi
đất trống, hay một công viên. Ngôi trường sẽ mất tên
và mất dấu, nhưng chắc nó không mất trong máu thịt của
người Kendleton. Phá bỏ một kỷ niệm bằng xương bằng thịt
nghe sao mà dễ quá. Người Kendleton làm sao quên được dãy
hành lang nạm từng viên đá xanh hình chữ L, họ sẽ nhớ
hoài mái ngói màu rêu cua và cái cổng trường nằm giữa
hai cây xồi mấy trăm tuổi. .. Bỗng nhớ tới ngôi trường trung học
lớn nhứt vùng Hậu Giang đã mất tên không vì học trò
dở mà vì giới chức cầm quyền không thuộc bài học lịch
sử. Họ đã đánh giá sai lầm tư cách và vai trò lịch
sử của một kẻ sĩ miền Nam: Tiến sĩ Phan Thanh Giản. Ngôi trường có hơn 90 năm
lịch sử đã theo cơn quốc nạn mà mất tên. Bao nhiêu kỷ
niệm về ngôi trường mẹ đang trụ ở quê nhà và đang
theo bước chân người viễn xứ hiện có mặt khắp quả địa
cầu. Trường bị mất tên, nhưng trường vẫn đi theo họ, trường
nằm âu yếm trong lòng mỗi người Phan Thanh Giản. . Người
Mỹ theo chủ nghĩa thực tế - pragmatism : Phí phạm thì giờ, tiền
bạc và vốn quí của con người là học vấn và kiến
thức thì tốt nhứt là đừng tiếp tục công việc của
một cơ sở giáo dục liên tục thất bại. Điều nầy thì
dễ hiểu. Nhưng vì nhận thức sai lầm và vì định kiến
mà thay tên một danh nhân tại một ngôi trường thuộc di sản
văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, đến nay đã hơn
ba mươi năm mà chưa chịu sửa đổi, thì quả
là điều không thể hiểu!!! .
Aug.1 , 2009
tbt
PHIẾM 2 . LẠI
NAO NỨC NHỮNG KỶ NIỆM….
“…thì
lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường…”. Nhiều năm rồi, đoạn văn ấy của Thanh Tịnh hình
như chẳng buông tha đầu óc tôi mỗi khi một năm học mới
bắt đầu. Dĩ nhiên là cái khoảng thời gian mười mấy
năm ngồi trên ghế nhà trường chắc tôi cũng có được
những kỷ niệm vui buồn, tình tứ lãng mạn, đớn đau chua xót,
thất điên bát đảo…Không như vậy thì sao gọi là
kỷ niệm! Nhưng những kỷ niệm ấy hãy còn quá nóng hổi
trong một tuổi trẻ Việt Nam thời chiến, thời của “rớt tú
tài anh đi trung sĩ, em ở nhà rầu rĩ suốt năm canh…”, nên
chưa thấy bồi hồi, xúc cảm hay luyến tiếc nhiều bằng thời
gian rời trường. . Ở thời điểm nào đó trong
một mảng đời tàn úa của mình, bỗng nhận ra “…thì lòng tôi lại nao
nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường….” Thời gian rời trường càng lâu thì “nỗi nhớ”
những ngày xa xưa ấy hình như mỗi ngày một mới. Kỷ niệm
càng lâu thì càng sâu, chắc vậy. . Hai năm liên tục,
tôi đã mất cái dịp nắm tay cháu ngoại tới trường
ngày đầu năm học. Năm ngoái bận đi xa. Năm nay không nghỉ
việc được. Nhớ hồi mới đến Houston, chẳng biết mô tê
gì hết ở cái xứ lạ hoắc lạ huơ nầy, vậy mà cũng
làm được cái việc gọi là đưa con đi nhập học;
tuy đoạn đường chỉ mấy chục thước tây, từ cửa
nhà tới ngả tư chỗ dừng của chiếc xe buýt vàng. Chưa kịp
nhìn “lá ngoài đường rụng nhiều và trên không
có những đám mây bàng bạc” của Thanh Tịnh thì đã
tới cái ngả tư đường. Nhìn chiếc schoolbus nuốt chửng hai
đứa nhỏ lòng cảm thấy chút hụt hẫng, thằng bé
Thanh Tịnh trong tôi bỗng nhiên đi lạc ở đâu mất tiêu. Nhưng
thôi kệ, trôi dạt đến một nơi chẳng thấy một con đường
làng bằng đất thì dầu sao mình và hai con cũng có dịp
nắm tay nhìn cảnh, nhìn người đang náo nức đến trường.
Cảnh nầy cứ như vậy mà diễn ra hàng năm, vào những ngày
cuối tháng 8, cho đến khi cả 3 đứa con rời trường trung học.
. Đưa con nhập học mà như đưa mình
về với những kỷ niệm một thời. Mỗi năm được một
lần thì không nhiều nhưng đầy. Đầy niềm vui và những
háo hức năm xưa của mình lưng dần theo năm tháng cũng được
“refilled & refreshed”. .
Hôm nay là 25 tháng 8, trước giờ
làm việc, tôi ngồi trong breakroom. Cái TV trước mặt vẫn chiếu
những hình ảnh tựu trường hôm qua. Hôm qua, ngày tựu trường,
tôi đã miễn cưỡng ngồi đây nhìn màn ảnh TV chiếu
cả đoàn trẻ con ùa ra từ những chiếc buýt vàng trong sân
trường. Hình ảnh nầy sao không thấy hay ho, có lẽ nó quá
khác với hình ảnh ngày nhập học của trường làng Mỹ
Lý đã khắc sâu trong trí óc tôi, một thằng bé Thanh
Tịnh mấy mươi năm trước. Cũng có lẽ vì tôi đang
ngồi đây, mất dịp nắm tay dẩn cháu tới trường trong một
ngày rất mới này. Đổi đài. Màn hình hiện ra trên
một đoạn đường nào đó có một bé gái đi một mình, mặt buồn so, vai mang backpack trông khá nặng. Cảnh
nầy cũng không giống đoạn phim trong ký ức của mình rồi.
Không thấy hình ảnh một phụ huynh nào nắm tay con nhìn lá
rụng và nhìn mây bàng bạc trên không. Và cũng
không có “ em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần
đầu tiên đến trường …” Vậy thì làm sao mà
những học trò nầy về sau có được “nao nức những
kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường?” Hay là các phụ
huynh hôm nay cũng như mình, tất cả chỉ là ký ức trước
cuộc sống chạy đua với thời gian và công việc? Tắt TV, vớ
tờ nhật báo. Đây rồi! Mình đang có những người cùng
tâm cảm về ngày nhập học. Đó là những thầy cô giáo
dùng kỹ thuật hiện đại - twitter - để nói lên nỗi háo
hức của mình trong ngày khai giảng đầu năm học. Thử đọc
vài cái “tweets”: Từ một giáo viên thuộc trường
Pin Oak Middle School, thầy
J.B: “Bây giờ là 4:44 a.m
ngày 24/8/09 – ngày đầu
năm học 2009-10, mình không thể chờ lâu hơn nữa để bắt
đầu ngày hôm nay.” Lúc 7:21 a.m. ban giám đốc trường tiểu học Janowski : “
Mặt trời đẹp rực rỡ khi cánh cửa trường mở rộng chào
đón một năm học mới! Buổi điểm tâm đầu năm đang
bắt đầu.” Từ 1 thầy giáo ở trường trung học
Furr, lúc 7:46 a.m.: “
Mình đến đây rất sớm để chờ đón học sinh mới.
Không hiểu sao mình có chút hồi hộp trong ngày đầu năm
học này…Mình thấy lâng lâng như bay bổng dù đã
có 19 năm trong nghề! Lạ thật!” Từ cô giáo mới ra trường, cô
P.K. của trường tiểu học Klein: “Con bé sao mà dễ thương
quá! Bé cứ đứng hoài ngoài cửa lớp, cái miệng méo
xẹo. Mắt ướt mà không khóc. Sao giống mình quá vậy! Lần
đó mình ước có mẹ bên cạnh. Betty, cô sẽ là mẹ
của con đây.” . Hôm qua, tôi không được đưa
cháu tới trường, nhưng tôi được mấy phút làm người
học trò trường làng Mỹ Lý, sống hàm thụ cái nao
nức những kỷ niệm của buổi tựu trường. Thực tế bây
giờ có chút chua cay, nhưng những kỷ niệm tuổi nhỏ thì lúc
nào cũng ngọt như đường phèn. . Houston, Aug.25 ’ 09 Trần Bang Thạch
BƯỚC CHÂN KHÔNG RỜI .
Để chỉ
sự quyến luyến lúc chia tay, người Mỹ có câu nói “Going
but not leaving”. Đi mà không rời. Ngẫm thật chí lý. Dạ thì
không muốn, nhưng chân vẫn phải bước. Bước đi mà con
tim để lại. “Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế, trời
mùa đông Paris, suốt đời làm chia ly”. Trước khi nhà
thơ Cung Trầm Tưởng nghẹn ngào nói với người yêu câu
trên đây tại một sân ga ở Paris, Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn
Thị Điểm qua bản dịch tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng
Trần Côn đã viết: “Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng
thấy/ Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu/ Ngàn dâu xanh ngắt một
màu/ Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”. Rõ ràng là
người chinh phu với chiếc áo đỏ như ráng pha trên thân ngựa
sắc trắng như là tuyết in đã mang theo ánh mắt trông theo và
con tim của người chinh phụ. Còn người ở lại thì ôm mang
hình ảnh chàng trong cuộc đời làm chinh phụ của mình.
Đi mà không rời. Ở cũng không nguôi. . Thử hỏi
sau cơn sấm sét của một ngày 30 tháng Tư 75 có mấy ai bước
đi mà không ngoảnh lại. Rồi suốt nhiều năm tiếp theo. 34 năm
rồi vẫn có những cái đầu ngoảnh lại. Và vẫn có
những ánh mắt trông theo. Trở lui về thời lập quốc xa xăm của
4889 năm cũ, 50 con theo cha Rồng xuống biển, 50 con theo mẹ Tiên lên ngàn,
tránh sao khỏi những ánh mắt ngó mong đẫm lệ. Rồi thời
Trịnh Nguyễn phân tranh với Sông Gianh làm lằn ranh chia cách, ngàn
giọt lệ chắc đã đẫm ướt đôi bờ. Genève 54 chia
hai đất nước, người đi kẻ ở, ruột thắt gan bầm. . Tôi thức trắng đêm sầu trắng mắt Ngó
dòng sông nhỏ hệt chỉ tay Ai xắn lằn dao đau xé đất Để
rần rần máu chảy đêm ngày. (Lệ Sử - Cao Vị Khanh) . Những chia cắt ấy nghĩ cho cùng là những cơn
đau lịch sử. Con bịnh đã trải qua những cơn thập tử nhất
sinh để vươn vai đứng dậy. Trăm con phải dằn cơn đau , chua
sót chia tay để ra đi trấn giữ cõi bờ, từ núi non, đồng
bằng ra đến hải đão. Vết chém Thục Vương ngang lưng Mỵ
Châu từ ngàn năm vẫn là vết đau lịch sử. Bao nhiêu những
vết thương ấy đã làm nên Thánh Gióng ở làng tre
Phù Đỗng, làm nên tua tũa cọc nhọn trên sông Bạch Đằng,
làm nên 10 năm nằm gai nếm mật trên núi Chí Linh. Nam Quốc
Sơn Hà, Nam Đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư. Rồi thì cơn đau Trịnh Nguyễn phải chăng là một định
mệnh lịch sử để khiến bờ nam Sông Gianh là điểm khởi
hành cho cuộc Nam Tiến để hình thành một giải giang san hình
chữ S bây giờ? Tiếp theo là cơn đau Quốc, Cộng cũng là một
định mệnh lịch sử để thêm một lần nữa con sông Gianh thay
tên đổi họ để tiếp tục làm vết chém ngang lưng một
Việt Nam sau hơn tám mươi năm bị đô hộ. Từ đó một
nửa dân tộc từ bờ bắc giòng Bến Hải là con bịnh trầm
kha sống mà như chết của một oái oăm lịch sử; và
hơn một triệu người từ Bắc vào Nam đã thổi một luồng
sinh khí mới vào một xã hội Miền Nam vừa trải qua chế độ
cai trị Thuộc Địa từ chánh quyền Pháp. Tâm cảm người
nửa nước bên này cũng đau nỗi đau chia cắt, nhưng lịch
sử miền Nam vẫn có những bước đi dài. Văn hóa, Xã
hội, Ngôn ngữ, phong tục tập quán…tại Miền Nam sau 1954 là
một vườn hoa đầy hương sắc. . Thêm một bất hạnh đến với
cả dân mình. Cơn đau lịch sử Tháng Tư Bảy Lăm đã
viết những dòng chữ mới trên trang đời của mọi người,
không phân biệt bên này hay bên kia, từ bờ đông sang bờ
tây. Những dòng chữ máu bầm. 34 năm rồi vẫn không quên
được một buổi chiều trong phòng làm việc tại một thị
trấn miền núi, ngó quanh ngó quất chỉ thấy ông
Tổng Giám Thị già với mấy người thư ký, hầu hết bạn
bè đã bay về Sài Gòn từ những ngày Ban Mê Thuột vừa
mất. Trước đó tụm năm, tụm ba giữa các giờ dạy, đứng
trước bản đồ nhìn bước tiến của Bắc quân, nhìn
những địa phương lần lượt bị mất. Làm sao quên được
những cái mốc thời gian ấy. Ngày 17/3 rút bỏ Cao Nguyên. Ngày
29/3 rút bỏ Đà Nẵng. Rồi ngày 3/4 bỏ Cam Ranh, ngày 21/4 bỏ
Xuân Lộc. Làm sao không nhớ được từ ông Tổng Thống
đến ông Thủ Tướng, ông đại tướng cao nhất Bộ Tổng
Tham Mưu lần lượt bỏ chạy. Tưởng rằng mọi sự chấm dứt
từ đó. Chấm dứt từ lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4 khi Tổng
Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Hơn 30 năm rồi
vẫn không quên được buổi tối dắt vợ con lén lút xuống
chiếc ghe nhỏ đậu dưới bến vắng, không kịp ôm từ giã
mẹ già. Ngoảnh nhìn lại chỉ thấy màn đêm mịt mùng.
Tưởng mọi sự chấm hết từ cái đêm tối trời ấy.
. Rồi những ngày đầu chân ướt chân
ráo trên đất nước xa lạ, học từ cách ăn, cách nói,
cách sống. Đặc biệt là phải biết quên cái vui chơi, cái
hưởng thụ của cá nhân mình để chú tâm làm việc,
chú tâm lo cho con cái. Hai điều nầy thì không sơ hở được.
Còn việc làm thì còn cơ hội bước tới để làm
lại cuộc đời. Làm sao để có những đứa con ngoan, chăm
học để xứng đáng với ý nghĩa của một lần bỏ lại
quê hương qua cuộc vượt thoát một sống mười chết. . Cơn bịnh lịch sử thêm một lần nữa đã
không vật ngã được con bịnh mang tên Việt Nam. Ngược lại,
sau cơn bịnh Tháng Tư Bảy Lăm, 34 năm qua, hàng triệu con bịnh mang
dòng máu Rồng Tiên đã hiên ngang đứng dậy trên khắp
hoàn cầu. Thế hệ đầu đã xứng đáng và hãnh
diện làm kẻ đưa đường cho thế hệ tiếp nối. . Các thế hệ kế tiếp rồi cũng sẽ hiên ngang
ngẩng mặt lên đường, chen vai cùng năm châu bốn biển. Đã
lên đường những Nguyễn Hữu Xương, Dương Nguyệt Ánh,
những Eugene Trịnh, Nghiêm Đạo Đại, Nguyễn Thị Cẩm
Vân, Nguyễn Tuệ, Cai Văn Khiêm... Đã và đang tiếp tục
lên đường là hàng triệu thế hệ con em kế tiếp. . Đi tới,
nhưng mong sao đừng một ai quên những lần nhìn lại nguồn cội
của mình, không một ai quên ngó về một đất nước mà
cha ông đã hơn bốn ngàn năm tạo dựng bằng chính xương
máu và tâm huyết của mình. Ngó lại để làm nên
một lịch sử mới. . Tháng Tư 2009 Trần Bang Thạch
ĐÓN MỪNG NĂM MỚI Ngày đầu năm Kỷ Sửu đã qua được 3 hôm
rồi. Hôm nay là mùng 4 Tết. Đối với
nhiều người ra đi từ tháng Tư năm Bảy Lăm, thì cái Tết
Bính Thìn là cái Tết đầu tiên tại hải ngoại. Năm
đó, cái Tết Ly Hương đầu tiên chắc là buồn lắm.
Người mình thì chắc đâu có nhiều, nhất là ở những
nơi không phải là Cali hay Houston, hay DC...Hội chợ Tết cũng chưa chắc
gì có. Lân, pháo và những gói đỏ đựng tiền lì
xì chắc chỉ có ở những phố Tàu. Những ngày cận Tết,
bao nhiêu lá thư đã bay về quê hương kể chuyện xuân
buồn. Những giọt nước mắt cũng được gởi theo và nhận
về. Có cụ nhắc lại rằng năm 1976 tại thành phố Port Arthur cụ
đã cùng mấy người bạn thân bày tiệc rượu mừng
Xuân Bính Thìn ; những chai rượu còn nguyên đã vươn
cổ nhìn những dòng nước mắt của các cụ rớt xuống
mặt bàn. Bây giờ thì sau 33 lần Tết thì đã có quá
nhiều cái khác vào những ngày Tết của dân mình tại
hầu hết các nơi. . Có một cái
không khác, dù trải qua 33 năm, hay 40 năm, 100 năm...đó là Tết
Ly Hương. Biết rằng mỗi cái Tết Ly Hương một khác ; mức
độ buồn, vui có khác, nhưng mỗi lần năm hết Tết đến
làm mình không khỏi nghĩ tới cái Tết xa nhà, rồi bấm
tay đếm năm, đếm tháng đã trôi qua trên cuộc đời
ly hương. Người thơ Thế Lữ có những cái Tết xa nhà,
tuy chân vẫn còn dẫm trên đất nước mình nhưng buồn
thì vẫn buồn khi Tết đến, nên người đã « Rũ
áo phong sương trên gác trọ, lặng nhìn thiên hạ đón
xuân sang ». . Những tổ chức
Lễ Hội cuối năm hay đầu năm Âm Lịch, dù nhỏ, dù lớn,
của nhiều năm gần đây có lẽ đã khiến cho mình tìm
được chút vui 3 ngày Tết. Bây giờ chắc thật là khó
kiếm những lá thơ xuân kể lể tâm trạng u buồn của mình
như trong những lá thư xuân vài chục năm trước. .
Nhiều khi chút vui tìm được chỉ qua những
sự kiện nghe ra rất bình thường. . Những
ngày cuối năm, vào khu chợ Hồng Kông, Việt Hoa...thấy người
đông, bánh mứt tràn đầy lòe loẹt màu sắc, hoa kiểng
tốt tươi...bổng thấy lòng vui vui, như đi...chợ Tết hồi xưa
với mẹ. Vào một hội chợ Tết rộng mênh mông, nào
lân, nào pháo, ca hát, dịch vụ, thương mãi, hàng ăn, hàng
uống, thả thơ, bầu cua cá cọp, thảy vòng cổ chai...bổng thấy
lòng vui vui, như đi hội chợ Tết hồi xưa trong khu Chợ Lớn. Nhìn
đứa cháu say mê với con lân, với tiếng pháo...bổng thấy
lòng vui vui như niềm vui của thằng bé hồi xưa tay trong tay cha. .
Qua thời gian, có lẽ sóng đời đã
làm lắng đọng những tâm tư u uất nên dù có ly hương
thì Tết vẫn mang ý nghĩa của Năm Mới, của Niềm Vui. Nỗi
buồn nếu có thì đó là nỗi buồn xa xứ luôn tiềm
ẩn trong tâm thức của người ly hương. .
Đầu năm Kỷ Sửu Trần Bang Thạch
Sổ Tay Cuối Năm Trần
Bang Thạch NĂM MỚI, NGHĨ TỚI
MỘT THẾ HỆ MỚI *
Còn vài mươi
tiếng đồng hồ nữa là năm 2009 bắt đầu. . Ngày Lễ Giáng Sinh vừa
mới qua. Những ngày cuối
năm trời se lạnh, thường có những cơn mưa bất chợt rớt
xuống thành phố. Cuối tuần ngồi nhà, nhìn hình ảnh vị
Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau những ngày cực lực sắp xếp
nhân sự cho nội các mới, đang ung dung chơi golf ở bãi cỏ Hawaii,
mặc dù tình trạng kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn.
Phải chăng đó là hình ảnh của tuổi trẻ: chơi ra chơi,
làm ra làm? Bỗng nghĩ đến một năm mới và một thế hệ
mới. Thật sự thì lúc nào mà không có những thế hệ
mới đang bước vào đời.Tổng Thống tân cử Barack Obama có
lẽ là người tiêu biểu nhất cho thế hệ nầy trong nhiều năm
sắp tới. Người được cả thế giới biết đến như
một biểu tượng của thắng lợi và của đổi mới mà
tạp chí Time đã chọn là Man of the Year. Một hí họa của họa
sĩ Nick Anderson đã được bầu chọn là Year’s Best Cartoon. Bức
hí họa nầy vẽ 2 người đang đứng trên quả địa cầu
tại phần đất Mỹ Quốc có ghi “LAND OF OPPORTUNITY”, người thứ nhất là hình ảnh ông Obama, người
thứ hai là Chú Sam đang nói tiếng “SEE?” ngầm bảo rằng
mọi người hãy nhìn đi, có thấy đất nước nầy là
đất của cơ hội? . Nhìn người rồi nhìn tranh bỗng nghĩ tới tuổi trẻ từ
nhiều nước khác tới đây, đặc biệt là trẻ em Việt
Nam. Sao lại không? Nhìn đấy:
Cả một thế hệ trước, có ai nghĩ tới chuyện một người
Mỹ gốc Phi Châu đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ hôm nay. Người
Việt mình cũng đã leo lên từng bậc thang trong chính trường
Hoa Kỳ. Những thập niên đầu là các chức vụ ủy viên
hay nghị viên tại quận hạt, hay tại vài thành phố lớn. Rồi
là dân biểu cấp tiểu bang. Cao nhất bây giờ là dân biểu
liên bang. Thứ trưởng hay phụ tá thứ trưởng thì đã
từng có rồi. Về học vấn thì khỏi phải bàn tới nữa,
đã có quá nhiều con em Việt Nam mình có bằng cấp đủ bậc, đủ ngành. Chức vụ
cũng đủ nghành, đủ bậc cao thấp. Tin mới nhất: Cô
Elizabeth Trần Hồng Linh, nữ sinh viên Đan Mạch gốc Việt 26 tuổi vừa
đậu bằng Thạc Sĩ Luật tại Đại Học Copenhagen với số điểm
cao nhất trong thang điểm của Đan Mạch. Lúc nhỏ bé Hồng Linh đã
từng đoạt giải danh dự biểu diễn đàn accordeon toàn Âu Châu
ở tuổi 10 và 11. Cô Hồng Linh có hoài bảo giúp trẻ em nghèo,
thất học tại quê nhà sau khi có dịp cùng cha mẹ về thăm
VN mới đây. . Quả nhiên cơ hội đã mở ra rồi cho
người thiểu số trên nước Mỹ. Có một sự tình cờ
rất thích thú: Từ trung tuần tháng 12 năm 2008, tôi có dịp
cùng sống với các em nhỏ thiểu số: người Mỹ gốc Phi châu
gốc Trung Hoa, Đại Hàn …và Việt Nam tại Viện Bảo Tàng
Thiếu Nhi trên đường Binz. Nhìn các em nhỏ xíu học làm
y tá, bác sĩ, dược sĩ… xử dụng một cách thích thú
các ống nghe, ống chích, các ống thuốc, các máy đo…Em
nầy đặt ống nghe khám bịnh em kia. Tất cả cười vui, thích
thú. Có lẽ các em đã vẽ ra trong trí óc non nớt của
mình một chân trời. Rồi tối Thứ Sáu 19 tháng 12, tôi đã
vô cùng thích thú và hãnh diện khi thấy hàng trăm các
em Pre-K của trường Mary Immaculate School (Trường Đức Maria Vô Nhiễm)
cùng nhau biểu diễn ca, múa trong đêm Mừng Giáng Sinh của trường.
Cả một hội trường chật ních người xem, đa số là phụ
huynh học sinh. Phải tận mắt thấy và nghe các em 3, 4, 5 tuổi đầy
tự tin và rất tự nhiên ca múa những bài hát Giáng Sinh bằng
tiếng Việt hay tiếng Mỹ, biểu diễn fashion show… mới hiểu được
niềm vui của các sơ, các cô giáo và của các bậc cha
mẹ có mặt đêm ấy. Thật là một sự chuẩn bị vào
đời mang đầy đủ tính cách văn hóa, nghệ thuật và
cả niềm tin. Những tiết mục nầy chắc chắn sẽ được hoan
nghinh nếu có dịp trình diễn tại những cơ sở dòng chính
trong những lễ hội. Nghe một em 4 tuổi đớt đát ca: “Noel
về, Noel về, nhạc yêu thương vang réo rắt trời mơ…nguồn
bình an dạt dào trên dương thế. Chúa xuống trần đem phước
lành…” ai mà không thấy thương. Ước
sao nhiều sinh hoạt như vậy được tổ chức nhiều nơi trong cộng
đồng mình. Các em không những có mặt trong cộng đồng mà
còn có mặt ngay trong không khí vui tuơi, đầm ấm của gia đình
khi ông bà, cha mẹ cùng tập dợt với con cháu tại nhà trước
đêm trình diễn. Chất khằn nầy sẽ gắn mọi người với
nhau dù cho gia đình đôi khi có những bất hòa nhỏ. Các bé
pre-K ca vũ NOEL VỀ
và fashion show . Trong
ngày Mừng Noel tại Trung Tâm Việt Mỹ tối 23-12-2008, có cả trăm
em nhỏ vui niềm vui Giáng Sinh cùng với ông bà, cha mẹ và với
Ông Già Noel. Tất cả cùng sống với tập tục cổ truyền của
cả thế giới. Bất cứ khi nào mà các con em có dịp cùng
vui với cha mẹ ông bà đều là dịp tốt, trước khi dòng
đời thò tay bốc mỗi người đi mỗi ngả. Thử tưởng
tượng trong ngày cưới, cô dâu chú rể sẽ thích thú
biết bao khi trên màn ảnh cái slideshow chiếu mình ngồi trong lòng
Santa Claus mấy chục năm trước. . Trong
niềm mơ ước ngày đầu năm Dương Lịch, mong những con em
mình vững vàng đặt chân lên Land of Opportunity và lớn mạnh, mỗi ngày một lớn mạnh, trong dòng
chảy của đất nước Hoa Kỳ. . Mong lắm thay. . Houston,
30-12-2008 Trần Bang Thạch
THANKS & GIVING
Sáng sớm Thứ Sáu hôm nay, một
ngày sau Lễ Thanksgiving, một mình ngồi trước máy truyền hình.
Người nữ duy nhất trong nhà đã rời nhà từ sáng sớm;
chắc nàng đang ở đâu đó tại Macy’s hay JCPenney với những
cái nồi, cái chảo. Mong là nàng không nhìn thấy mấy cái
hột lóng lánh bằng đầu ngón tay cái trong tủ kính nhấp
nháy đèn màu!
Đa số
các màn ảnh chiếu cảnh người ta sắp hàng dài cả mấy
trăm thước trước các cơ sở thương mại lớn; có cả
cảnh người ta lăng xăng bên trong tiệm, buông cái nầy, bắt
cái kia rồi chất đầy lên xe đẩy. Duy nhất có 1 đài
chiếu sinh hoạt của một tổ chức từ thiện. Trông thì thật
lạc lõng, nhưng nghĩ thì thật thâm thúy vô cùng. Đài
số 2 chiếu cảnh những người, có cả các em bé nguyên là
những bịnh nhân ốm yếu, đang phân phát những túi nylon màu
xanh lục in hình em bé chìa tay xin, trong có món quà nhỏ và
những chi tiết về hội thiện nguyện này. Đó là sinh hoạt
của những người trong Chương Trình Thanks & Giving của Bịnh Viện
St.Jude Children’s Research Hospital. Chương Trình kêu gọi sự tham gia thiện
nguyện và giúp đỡ tài chánh của mọi người nhằm tạo
điều kiện chữa trị bịnh tật cho trẻ em kém may mắn. Hàng
ngàn em còn sống được đến ngày nay cũng nhờ Chương
Trình này. Điển hình là bé Alex ở Texas. Em bị bướu trong óc ngay sau một thời gian ngắn ra đời.
Thanks & Giving Program đến với em đúng lúc và ở với em, nâng
em đứng dậy trong cõi đời. Nay Alex là em bé 5 tuổi khỏe mạnh,
thích chạy nhảy và đá banh dù đã trải qua nhiều lần
giải phẫu óc và 45 tuần lễ hóa trị.
Mùa Thanskgiving làm người ta không khỏi nghĩ tới Thanks và
Giving. Phải chăng là Cảm Ơn và Cho Đi cũng cùng nghĩa
với Cho và Nhận, với Tương Thân Tương Ái, với
Lá Lành Đùm Lá Rách…Từ khi chào đời, trong
giòng sống của mình, có ai mà không NHẬN; còn CHO thì chưa
chắc ai cũng có. Một bài đồng dao mà trẻ con
vài tuổi đã biết hát: .
Thank you, thank you, very much For everything that I can touch… Thanks a lot for Nature’s food And for when I’m feeling good Thank you, thank you very much For moms and dads and friends and such. .
Thật ý nghĩa vô
cùng: “Thanks for everything that I can touch”.
Tin tức hôm nay cho hay: Hôm Thứ Tư Nov.26, người già nhất
thế giới: Đại Lão Bà Edna Parker ở Shelbyville, Indiana đã từ
giã Cõi Đời, hưởng đại thọ 115 tuổi và 220 ngày.
Sinh thời với 42185 ngày dưới thế, chắc hẳn bà đã NHẬN
không biết là bao nhiêu và chắc đã CHO cũng không
ít. Mình chỉ mới sống có phân nửa cái niên kỷ của
Bà mà đã thấy đôi vai đã oằn vì NHẬN
hơi nhiều mà CHO thì chẳng được bao nhiêu. Kính chúc
bà Parker NHẬN một ân sũng cuối cùng: linh hồn bay thênh thang về
Cõi Trời.
Nhiều
năm rồi, năm nào cũng vậy, một ngày trước ngày Thanskgiving,
tôi hay làm một việc rất nhỏ mọn, tạm gọi là CHO. Chẳng hạn như trao vài
đồng cho người bán báo góc đường để lấy tờ
nhựt báo 75 xu dù mình đã có tờ báo ấy trong xe, như
mọi ngày. Năm nay, hai ngày trước, ngày Thứ Tư, trên đường
đi làm về, tôi tắp xe vào tiệm fastfood ở ngả tư, băng qua
lộ, nói chuyện với người Mỹ già, tay luôn cầm tấm bảng
viết ngoằn ngoèo 3 chữ: VN WAR VET. Sau đó tôi nắm tay ông băng
qua đường vào tiệm thưởng thức mấy cánh gà chiên.
Rồi chúng tôi chia tay với lời chúc Happy Thanskgiving cho nhau. Bắt
tay từ giả ông, tôi cảm thấy mình đã NHẬN chớ không
phải CHO. Hôm qua, ngày Thanskgiving, tôi đã
gọi điện thoại cảm ơn và chúc lành rất nhiều người,
như hàng năm. Riêng đối với người cao niên cựu chiến
binh của chiến trường Việt Nam, tôi đã lái xe trở lại cái ngả tư ấy để gặp
lại ông, chỉ để nói “ Thank You”. Cảm ơn người
đã CHO tôi một phút vui. .
Thanksgiving 2008 Trần Bang Thạch
. LAN MAN TRONG MẮT BÃO .
1. Ngay khi con chữ
đầu tiên của bài viết nầy rơi trên mặt monitor thì bão
Ike còn cách bờ biển Galveston 52 dặm. Tính ra còn khoảng 4 tiếng đồng hồ nữa
Ike mới đánh vào bờ. Đường kính của Ike rộng quá,
500 dặm, choáng gần hết Gulf of Mexico, từ Palacios ở mạn Đông lên
mạn Tây giáp với tiểu bang Louisiana. Đường kính rộng như
vậy cho nên dù là bão đang ở cấp 2 nhưng mạnh tương
đương cấp 4. Gió thì đã bắt đầu thổi mạnh từ
lúc hơn 6 giờ chiều. Ngoài khơi, có lúc sức gió lên đến
105 dặm/giờ. Trên màn ảnh truyền hình, đã thấy những con
sóng cao gần 20 feet. Có chiếc tàu chết máy đậu ngoài khơi,
23 thủy thủ đã được cứu. Có chiếc truck với 2 người
thanh niên bị mắc lầy trên bãi biển Galveston giữa cơn cuồng nộ của sóng
và gió. Họ cũng được cứu nhưng phải nghe vài lời cằn
nhằn của toán cấp cứu. Nghe nói có tới hơn 40% dân chúng
thuộc vùng ven biển không theo lịnh di tản bắt buộc của chánh
quyền. Chắc rồi khoảng 20,000 người nầy cũng phải kêu cứu
khi nước đến chân mà chưa nhảy kịp, hay chỉ nhảy kịp
lên… nóc nhà! Trên đất liền từ vùng Đông Nam Texas
cho tới Trung Nam Louisiana gió lên đến trên 70 dặm/giờ. Cho
tới giờ nầy, gần 11 giờ đêm Thứ Sáu 12-9-2008, nghe báo cáo nói là
đã có trên 30 căn nhà ở Matagorda County town of Sargent bị sóng biển làm hư hại nặng. Vùng phía trên
của Texas Gulf Coast thì chưa thấy thiệt
hại gì. Nhưng theo dự đoán thì sẽ có tới vài chục
quận hạt và thành phố ven biển sẽ là nạn nhân của cơn
bão chết người nầy. Các dự báo thời tiết
cũng giữ vững lập trường là bão sẽ vào thẳng Galveston, rồi tiến
theo trục xa lộ I- 45 lần lên phía bắc Houston với bán kính 70 dặm, sức
gió sẽ giãm thành cấp 1. Cũng hơi yên tâm nhưng không khỏi
lo sợ khi trên màn ảnh sóng cao như cái nhà lầu, và bên
ngoài gió mỗi lúc một mạnh thêm. Con sóng, ngọn
gió nầy làm nhớ tới những ngày lênh đênh
trên biển rộng gần ba mươi năm trước. Suốt 3 ngày đêm
chiếc ghe dài 20 thước với 120 con người như chiếc lá có
lúc lặn sâu xuống chân sóng rồi trồi lên ngọn sóng cao
như tòa building 20 tầng. Hình như lúc đó không ai tỏ ra sợ
sệt, hay nỗi sợ hãi tan loãng trong tiếng kinh cầu. Hay nỗi sợ ấy
không đáng gì so với nanh vuốt của con hổ luôn rình mò,
chực chờ để bóp nghẹt mỗi phận người. Con hổ ấy mình
vừa bỏ lại. Bão to, sóng cả gì cũng phải đi tới. .
2. Ike.
Bão nầy tên là Ike. Sẽ là cơn bão dữ dội nhất kể
từ bão Alicia đánh thẳng vào Houston ngày 18-8-1983 với sức gió
127 dặm/giờ và với 23 trận cuồng phong lớn (tornadoes) trên đất
liền làm cây cối ngã; sau cơn bão, nếu gom số cây nầy
chất thành đống sẽ đầy diện tích 1 sân football với độ
dầy là 1,200 feet. Như một quả núi lớn. Nghĩ tới Alicia mà đâm
ra sợ Ike. Sợ nhưng không trách mình đã tử thủ. Không muốn
gặp cái cảnh kẹt xe 3 năm trước trong trận bão Rita nên dù
không muốn cũng phải “lì”. Ike. Sao lại Ike? Thật là trớ trêu. Ike là cái tên gọi thân
thương trên miệng của người Mỹ một thời. Tận trời Đông
bên kia biển Thái, kẻ viết bài nầy, lúc còn tấm bé,
cũng đã một thời ngưỡng mộ người mang tên Ike. Đó
là cái tên thân mật để gọi vị Tổng Thống thứ 34 của
Hoa Kỳ (1953-1961) : Tổng Thống Dwight D. Eisenhower. Nếu Hiến Pháp
Mỹ Quốc cho phép vị Tổng Thống đương nhiệm tái
ứng cử thêm lần thứ 2 thì chắc vị tướng 5 sao anh hùng
của Thế chiến thứ 2 sẽ đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Người ta yêu thương đứa con cưng của Texas nầy vì tài
thao lược trong thời chiến và vì đức độ và tài năng
của một chánh khách đã lèo lái một nước Mỹ trở
thành một siêu cường trước áp lực của Liên Bang Xô
Viết trong thời gian chiến tranh lạnh. Ike cũng là người đẫy mạnh
cuộc chạy đua chinh phục không gian với Liên Bang Xô Viết. Vậy
mà cái tên Ike lần nầy sao mà đáng sợ và đáng
ghét ! .
3. Ghét
luôn cái anh chàng Neil Armstrong ! Tự nhiên từ mặt đất, đeo
phi thuyền Apollo 11, vượt 240 ngàn dặm, đặt chân xuống mặt trăng
lúc gần nửa đêm ngày 20-7-1969, gởi ngay mấy chữ ngắn gọn
xuống địa cầu : “ Magnificient desolation” (vùng hoang địa tuyệt
vời). Sau đó, cùng với bạn đồng hành Buzz Aldrin còn ghi chép,
chụp ảnh mặt trăng suốt 2 tiếng rưỡi đồng hồ. Còn nhớ
sau đó vài tháng, tại thư viện Abraham Lincoln trên đường
Lê Quí Đôn Sài Gòn người ta xếp hàng dài cả cây
số để xem những mẫu đá lấy từ mặt trăng. Ghét
Armstrong, ghét các mẫu đá trong hộp thủy tinh vì huyền thoại
Hằng Nga, Cung Quảng từ trăm ngàn năm bỗng một sớm một chiều
bị phá vỡ. Đường Minh Hoàng nếu còn sống đến ngày
nay cũng phải vỡ mộng du Nguyệt Điện. Trước mắt là các
em thiếu nhi, kể từ Apollo 11, có còn mỗi độ Trung Thu, xách lồng
đèn tung tăng đi dưới trăng, ngước nhìn trăng thấy nơi
xa thăm thẳm ấy là Chàng Cuội bên gốc cây đa với chị
Hằng và chú thỏ bạch? Chuyện kể ngày xưa…xưa lắm
có vợ chồng nhà kia sống trong cánh rừng bên cạnh
cây thuốc cứu, rồi người vợ một hôm…có còn
được các em bé nghe say sưa đến quên con trăng đã xế? Lúc
đó, sau khi bước ra khỏi cổng thư viện Abraham Lincoln, muốn quên
hết những mẫu đất đá, quên hình ảnh Apollo 11, quên anh
chàng Armstrong in trên các trang ảnh màu lộng lẫy treo trên tường
thư viện. Quên hết để cái thơ mộng của cung trăng còn
sống mãi trong tâm trí ngây thơ tuổi nhỏ.
Đó
là mùa Trung Thu đầu tiên tuổi trẻ trên mặt đất thấy
Trăng không còn là thơ với mộng. Từ đó trẻ em đón
trăng chỉ như một dịp vui chơi, hội hè. Chú Cuội, Chị Hằng
chỉ còn là hình ảnh thân thương trong trí nhớ. .
4. Nói
nhiều về Ike và về Armstrong vì những dự định tổ chức Tết
Trung Thu cho các cháu tại nhiều nơi trong thành phố vào cuối tuần
nầy phải bỏ dở. Ike làm thời gian bị trở ngại. Armstrong làm
Trung Thu với Trăng Rằm mất phần nào thơ mộng. .
5.
Viết thêm, sau cơn bão. Phần sau nầy viết tiếp sau hơn một tuần lễ mất điện. Không
ngờ chỉ mới đi lan man tới phần 4 trên đây thì điện
bị mất. Sau này mới biết thêm về bão. Lúc đó, khoảng
2 giờ sáng, bão đã vào đất liền với sức gió lên
tới 75 dặm/giờ. Galveston và các vùng lân cận bị chôn vùi dưới
nước. Bước chân tàn phá dữ dội của Ike đã đặt
trên các vùng ven biển. Gió tiếp tục lướt về hướng
Bắc tỉnh hạt Harris làm cả một đồi thông ngã rạp trong
vùng Conroe.
Ngồi trong nhà nghe gió rít mà nhớ đêm gió nổi rùng
rợn ở quê nhà mấy mươi năm trước ngồi đọc Wuthering Heights của Emily Bronte.
Nghe gió đi mà như thấy gió cuộn mình kêu vun vút. Hết
cơn nầy tới cơn khác, như tiếng đại bác đi trên đầu.
Quéo, quéo…Cây oak hằng trăm tuổi trước nhà gãy
đổ, may là không trúng mái nhà. Bây giờ thì
Ike đã đi lâu rồi. Điện cũng không có . Đèn dầu
làm nhớ những ngày thôn quê cũ. Không điện thoại. Không Internet. Bỗng khám
phá một khoảng trống quá lớn. Trước đây hình như mình
ít khi thấy những thứ nầy là món ăn không thể thiếu. Lệ
thuộc nhiều quá vào những tiện nghi nầy! Một trưa Thứ Bảy,
sau 8 ngày mất điện, các bóng đèn điện cùng sáng
lên một lúc. Tâm trạng mình cũng bừng sáng lên như ngày
xưa thấy mẹ đi chợ về từ gốc phố. Vội vàng
mở Email. Hơn 500 cái! Delete cũng mõi tay. Giữ lại hơn trăm email thăm
hỏi của thầy, cô, đồng môn, của người quen, kẻ thân.
Có những người gởi tới hơn 3 lần. Trên TV, trên computer có
nhiều hình ảnh các nơi cơn bão đi qua. Một cái nhà đứng
chơ vơ giữa hàng trăm nhà khác đã thành những đống
gỗ đá vụn. Những cái quan tài trôi lềnh bềnh trên nước,
lật nghiêng, lật ngửa. Con cá sấu lội trong thành phố đỗ
nát. Chiếc ghe nằm chồng lên chiếc xe trên đường… Một tổng kết sơ khởi: 88 thị trấn và thành phố bị ảnh
hưởng trực tiếp của Ike. Người chết là 29. Thiệt hại trên
23 tỉ Mỹ Kim. Những con số quá lớn sẽ làm những nỗi đau
kéo dài nhiều ngày sau cơn bão. Thiệt hại tài sản thì
có thể bù đắp được, nhưng người thân, những vật
kỷ niệm, những hình ảnh và những sách quí thì làm
sao tìm thấy được. Và tàng cây, ghềnh đá của một
thời hẹn hò đâu còn như xưa. .
6. Vừa
trở về nhà sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng các cháu thanh
thiếu niên vui Tết Trung Thu tại một trung tâm sinh hoạt. Tưởng Đêm
Trung Thu năm nay cũng đã bay theo Ike. Gặp lại đêm nay âu
cũng là đúng lúc. Người lớn thì thăm nom, hỏi han sau cơn
bão nổi. Trẻ em thì hình như đã quên hết cái ông
Ike đáng ghét. Và cũng không màng nghĩ tới mấy cục đá
của cái ông gì đem xuống từ cung trăng. Cho nên đêm nay,
Đêm Trung Thu, ai nấy đều vui. Người lớn vui theo người lớn.
Trẻ em vui theo trẻ em. Chuyện Ông Trăng Chú Cuội ngày xưa…xưa
lắm…cứ thế mà còn hoài. Còn hoài như sự hồn
nhiên, tươi tắn của tuổi thơ.
Được gặp
nhau ở đây sau cơn giông tố mà mọi người đều vui thì
quả là nhiều phước hạnh trên cái cõi đời đầy
giông bão nầy. Trong những ngày hoạn nạn, tình thầy
trò, tình đồng môn luôn có mặt. Trân trọng cảm ơn
sự có mặt vàng ngọc này. .
Đêm 20-9-2008 trần bang thạch
THÁNG 12, MONG ƯỚC
NHỮNG NIỀM VUI .
Trước
ngưỡng cửa của một năm mới sắp đến, những ước mong
và những niềm vui mùa lễ cũng đã trở về với mọi người. Người ta gọi đây là Greeting Season.
Những cánh thiệp Thanksgiving, thiệp Giáng Sinh đã được gởi
đi mang những lời chúc lành. Rồi những cánh thiệp Tết Tây,
Tết Ta mang thêm những lời chúc. Thật sự những cánh thiệp trong
mùa nầy còn mang ý nghĩa của sự tưởng nghĩ đến nhau.
.
Tháng 11 qua đi với
những mất mát; không nhiều nhưng trong ý nghĩa của một đại
gia đình, như Đại Gia Đình PTGĐTĐ, thì nó quá lớn.
Thầy Trần Thanh Giản, Cô Lê Thị Kim Anh, Thầy Hà Ngọc Quang lần
lượt ra đi chỉ trong vòng 1 tuần lễ. Trước đó 2 tuần,
đồng môn Trần Ngọc Xướng và Trần Ngọc Lâm ra đi chỉ
cách nhau có 4 ngày. Rồi mới 3 ngày trước, niên trưởng
Lê Nguyễn Thiện Nghệ cũng đã ra đi. Biết rằng “Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử” và người ra đi thì đã
nhẹ gánh đời để thênh thang đi về cõi khác, hy vọng
là tốt hơn chốn trần tục này. Nhưng sự mất mát nào
cũng làm đau lòng và để lại bao tiếc thương cho người
ở lại. Gia đình vợ con, đồng nghiệp, môn sinh…từ đây
đã mất rồi một phần của đời mình. . Thay mặt BBT Trang Nhà, xin mượn nơi đây để gởi lời phân
ưu cùng các tang quyến cũng là lời chia xẻ những mất mát
của Gia Đình PTGĐTĐ
chúng ta. Đồng nguyện cầu hương linh Quý Thầy, Quý Đồng
Môn quá vãng đời đời an nghỉ trên nước Thiên Đàng,
một nơi vĩnh cữu chỉ
có Thiện và Hạnh Phúc
Khi
viết những dòng chữ trên, tự nhiên mình chợt nghĩ tới mình,
tới những thầy, cô, những bạn bè…đa số đã qua cái
vòng sáu mươi năm của cuộc đời. Rồi đây sẽ ai còn,
ai mất, ai sẽ còn có dịp gặp lại ai; hay chỉ mới
nghe tiếng nói đó, mới nhận được cái email đó, mới
cùng nhau nói cười đó…thì bỗng nghe tin Người đã
ra đi! .
Càng
nghĩ càng thương hơn cuộc đời này, thương hơn những
tình nghĩa đã có với nhau, thương hơn những cơ duyên
gặp gỡ. Càng thương càng quí và càng trân trọng. .
Tháng 12 cũng bắt đầu trên Trang Nhà này một lời kêu gọi
rất cá nhân: Một chút quà Tết cho 1 đồng môn, cũng là
một thương phế binh QLVNCH, đang ngày ngày với cái chân gỗ
đi khắp TP.Cần Thơ bán từng tấm vé số độ nhật. Sự
việc bắt đầu từ một bài viết của 1 đồng môn niên
trưởng ở quê nhà, có đoạn nói về trường hợp
của 1 đồng môn khác, anh Nghĩa. Bài viết đã làm nhiều
người động lòng. Sáng hôm ấy, đồng môn LHViện bước
qua nhà tôi chuyện trò như thường lệ, bỗng nhiên cả hai
cùng có ý nghĩ nên gởi chút quà về cho anh Nghĩa. Ngay sau
đó, mở email thấy một sự đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu: Đồng môn Nguyên Nhung gởi email nói là chị
cùng 1 bạn học ĐTĐ, chị Lừng, muốn gởi chút quà Tết
cho anh Nghĩa. Biết tình hình kinh tế khó khăn và đang là mùa
mua sắm quà cáp cần thiết cho tháng này nên chúng tôi chỉ
lặng lẽ nêu trên Trang Nhà, không dám làm gì để cổ
động hơn nữa, tuy biết rằng nhiều tay sẽ vỗ nên bộp. Tới
nay đã có nhiều tiếng bộp. Qua thông tin từ quê nhà, tôi
được biết anh Nghĩa đã được cho xem mẫu tin ấy trên
Trang Nhà, anh đã rơi lệ vì những tình nghĩa đến từ
phương xa, từ những người anh chưa hề nghe tên và biết mặt.
Tôi viết mấy lời nhắn với anh Nghĩa: “Việc chúng tôi
làm quá nhỏ so với những hy sinh mất mát quá lớn của những
người như các anh; làm chuyện nầy chính là làm cho chúng
tôi có thêm niềm vui trong mùa lễ lạc này”. .
Biết là trong nước
còn rất nhiều anh Nghĩa, nhưng làm đến đâu thì hay đến
đó. Không làm thì chắc là…không đến đâu. .
Nhân Mùa Lễ và Năm Mới, xin
kính chúc Quý Thầy Cô, Quý Niên Trưởng, Quý Đồng
Môn và tất cả Bạn Đọc thêm nhiều Niềm Vui, nhiều Sức
Khỏe và nhiều Hạnh Phúc suốt Năm Mới 2009. . Houston Dec. 13, 2008
Người Giữ
Nhà
Sổ tay văn hóa Trần Bang Thạch ___________________________
ĐEM
THEO BÀI VỌNG CỔ Gần cuối năm 1980
trong cái lạnh cắt da, gia đình chúng tôi vừa chân ướt
chân ráo rời trại tị nạn Bataan, tỉnh Morong, xứ Philippines đặt
chân đến thành phố Houston, xứ cao bồi Texas. Chỗ ăn ở chưa
yên thì nói chi đến cái tâm lý an bần lạc đạo. Âu
lo và nhớ nhà vô kể. Cái Tết Âm Lịch lại sắp đến,
càng thấy nhớ đủ mọi điều. Bây giờ không nhớ năm
ấy là năm con Tí hay con Sữu, hay con gì; chỉ nhớ mình là
con chim ly xứ, một loại thiên di đi trốn lạnh. Quê nhà vùng
nhiệt đới thì dĩ nhiên không lạnh, nhưng 5 năm ở lại
làm mình lạnh cẳng, lạnh chưn giữa cái oi bức của những
ngày ngột ngạt dưới một chế độ đỏ như than hồng.
Tết đầu tiên năm ấy trên xứ người, trong cái tâm trạng
u ẩn buồn lo cho số phần và cho những ngày sắp tới, tôi đã
nghe “Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy,
sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra…chào. Cửa vườn cô
đã khóa kín tự hôm nào. Tôi vác đôi chiếu bông
từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc áo nhuộm bùn đã lấm
tấm giọt mồ hôi…” tại một buổi họp mặt tất niên
của một hội đồng hương tại thành phố mới Houston. Bài
hát là bài ca vọng cổ Tình anh bán chiếu của soạn
giả Viễn Châu. Người hát là một anh bạn độ ấy chắc
chỉ tròm trèm ba mươi. Giọng ca thật truyền cảm, ngọt ngào.
Thật “mùi”! Có thể nói niềm thích thú đầu tiên
của tôi trên xứ Mỹ nầy là được nghe lại bài ca vọng
cổ hôm ấy. Tôi đã vừa sững sốt, ngỡ ngàng, vừa ngạc
nhiên thích thú như người đi trên mây. Tiếng hát không
có đờn, nhưng cần gì, âm thanh bổng trầm đã xoắn vào
từng lời, từng tiếng và trong từng hơi thở của ca sĩ. Và
cả trong từng mạch máu, từng nhịp tim thổn thức của người
nghe. Cái Hồn Tổ Quốc có phải là đây? Có phải là
đây những gì tôi vừa bỏ lại? Có phải là đây
khóm tre mái lá, là cây cầu khỉ đong đưa của một
xóm thôn nhỏ xíu nằm trên hai bờ rạch Bà Vèn của nhánh
sông Cái Răng tuổi nhỏ? Ngả Bảy, Phụng Hiệp tôi đã
từng nhiều lần đi ngang qua. Thuở ấy sao tôi đâu có chú
ý, và đâu có thấy yêu mến như bây giờ. Kể cả
cái anh bán chiếu cục mịch tình si, lúc ở quê nhà tôi
cũng mặc kệ để anh tự do si tình. Sao bây giờ tôi thấy thương
cảm cho anh quá vậy? Tưởng đã bỏ cây cầu Phụng Hiệp
cho con kinh Ngả Bảy, tưởng đã bỏ anh chàng si tình cho chiếc
chiếu miệt Cà Mau. Kỳ diệu thay, hôm ấy tất cả đã theo
tôi, anh bán chiếu và cây cầu Phụng Hiệp đã vượt
đại dương bằng mấy câu vọng cổ của quê mình nghèo
khó. Người ca sĩ tài tử ấy nào tôi có quen khi ở quê
nhà, cớ sao tôi dễ dàng đặt cảm tình của mình lên
giọng hát ngọt như mía lùi của anh vậy?
Sau nầy tôi có nhiều
dịp nghe anh hát tại những nơi họp đồng hương hay những sinh
hoạt văn hóa. Bao giờ cũng là 6 câu vọng cổ. Nhiều khi không
đờn, không máy vi âm, không ánh đèn màu. Nhưng bao giờ
cũng “mùi”. Bao giờ tiếng vỗ tay cũng đầy hội trường.
Nếu bây giờ có Giải Thanh Tâm Hải Ngoại, nhiều người sẽ
đề nghị tên anh.
Tuổi nhỏ của tôi là những trưa, những chiều
treo lơ lững trên nhánh sầu riêng, măng cụt của vườn nhà
với những điệu Xàng Xê, Thủ Phong Nguyệt, Đão Ngủ Cung,
Hướng Mã Hồi Thành, Bình Bán Vắn…bắt chước từ
những tập bài ca 50 xu mỏng dánh, nhỏ như bàn tay, hình bìa
lòe loẹt. Đặc biệt là 6 câu vọng cổ nhịp 16 thằng bé
miệt vườn 10 tuổi là tôi cũng ca mùi rệu như ai để rót
vào tai nhỏ bạn kẹp tóc kế nhà. Biết nhỏ mít ướt,
thằng bé cứ Mã Chiếm Sơn, Sầu Vương Biên Ải, Tôn Tẩn
Giả Điên, Đời Cô Lựu… mà gân cổ ca cho kẹp tóc
chảy nước mắt chơi. “Úy trời đất ơi! Nỗi đoạn…trường…Cũng
vì quá tin thằng Bàng Quyên là bạn thiết của tôi…”.
Thằng bé cứ ử ư, còn con bé thì cứ sụt sùi làm
ướt tay áo bà ba. Rồi lớn lên làm sinh viên Sài Thành,
học đòi văn minh, bỏ rớt văn minh miệt vườn bên kia bờ
sông Bassac, và tự nhiên bỏ quên cổ nhạc, chỉ thích nghe The
Beattles hay Elvis Presley, Sylvie Vartan… Chỉ ghé Arc-En-Ciel nghe Joe Marcel, Mary Linh, Bích
Chiêu... chớ nào có để mắt tới rạp Hưng Đạo xéo
bên kia đường Trần Hưng Đạo với Thanh Nga, Ngọc Giàu, Thành
Được.
Anh bạn làm rung động mãnh tim ly xứ của tôi vào cái
tết con Thiên Di trốn “lạnh” năm ấy văn minh hơn chàng sinh
viên Sài Thành năm xưa của tôi nhiều. Văn minh như vậy mà
anh nào có quên bài ca vọng cổ! Tôi chỉ cách quê nhà
một con sông nhỏ mà đã quên hết những cống, xự, xang, líu,
hò. Có lúc trước mặt người đẹp trường Marie Curie còn
làm bộ quên ai đã chặt chưn Tôn Tẩn! Còn anh thì cách
quê hương cả một đại dương, xung quanh anh đầy những tóc
vàng, tóc bạch kim, tóc đỏ. Anh đi du học Hoa Kỳ
trước 1975 và trở lại Hoa Kỳ ngay sau khi miền Nam đổi chủ. Ngoài
cuộc sống nhiều năm trong cái văn minh tột đỉnh của nước
ngoài, anh còn có học vị tiến sĩ trong ngành Hóa Học, đã
từng giảng dạy tại Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ thuộc Viện
Đại Học Sài Gòn; từ sau 1975 là chuyên viên cao cấp của
City of Houston điều hành kỹ thuật hệ thống lọc nước dày
như mạng nhện cho toàn vùng Houston với 2,144,491 dân theo thống kê
vào cuối năm 2006.
Trước đây tại quê nhà người ta coi cổ
nhạc được rộng rãi phổ biến và được ưa thích
nhiều trong giới bình dân. Giới học thức lắm khi còn có cái
nhìn thiếu trân trọng ngành cổ nhạc. Xưa nữa người ta còn
có câu “Xướng ca vô loại”. Cái khó bước đầu
là người có ăn học như anh đã chịu làm quen với những
bài ca vọng cổ, rồi lần lần “thấm” mùi vọng cổ,
thương yêu vọng cổ, say mê vọng cổ. Đến cái khó kế
tiếp là đem vọng cổ đi theo mình suốt đời, đem khắp
nơi, khắp chốn, nhứt là tại Hoa Kỳ. Chỗ nào có anh là
có Tình Anh Bán Chiếu, có Thầy Tử Lộ Đội Gạo Nuôi
Mẹ, có Bên Cầu Dệt Lụa, Lòng Mẹ…. Ba mươi mấy năm
nay tiếng ca vọng cổ của anh đã bay khắp Houston và chắc cũng
đã bay xa hơn nữa. Người trung niên năm ấy và người đang
chớm lão niên bây giờ nào có khác gì đâu: Tình
quê hương anh vẫn đeo mang trên người và vẫn ấp ủ trong
lòng anh bài ca vọng cổ. Cái khó tột đỉnh là ý hướng
đem tình quê hương vào lòng mọi người xa quê, nhứt
là giới trẻ qua bộ môn cổ nhạc. Cho nên ngoài những nơi
họp mặt công cộng, người ta còn nghe anh cùng các bạn trên
làn sóng phát thanh hàng tuần. Các anh, các chị hát và
mời thính giả nghe đài cùng hát. Hát hay, dở như thế
nào cũng được. Hát hay không bằng hay hát. Có vọng cổ
là có hơi hướm của quê hương, có hồn dân tộc,
có tình quê, tình nước. Nghe những em bé năm bảy tuổi,
nói tiếng Việt chưa thông mà xuống vọng cổ thì cũng như
nghe giòng suối ngọt quê hương đang chảy êm đềm trong những
con tim tuổi nhỏ. Có em còn độc tấu năm nam, sáu bắc bằng
đàn độc huyền. Có em ngọng nghệu: “Từ là từ phu
tướng. Bửu kiếm sắc phong lên đàng. Vào ra luống trông
tình chàng. Đêm năm canh mơ màng. …”
Đẹp quá những con
chim non soải cánh bay trong hồn dân tộc!
Năm nay tóc anh đã bạc nhiều, gánh càn khôn trên vai
anh chứa đầy những cung thương, cung oán nghe chừng đã nặng.
Nhưng bước đường anh đi hình như vẫn xanh màu lá cỏ. Trân trọng cảm
ơn anh, Giải Thanh Tâm Trọn Đời. Thân ái chúc anh thượng
lộ bình an trên hành trình trở về vùng đồng cỏ quê
nhà trên chiếc xuồng ba lá và trong tiếng nhạc ngũ cung trầm
bổng. Trần Bang Thạch
Tháng 3-2008
MỘT CHUYẾN ĐI DÀI
Trên SỔ TAY tháng trước trên
Trang Nhà, có lẽ chúng ta đã thấy được Tình Thương
đã có mặt qua câu chuyện về một căn nhà mệnh danh là
Mái Ấm Tình Thương. Tình Thương từ ngàn dặm gởi về
quê hương không chỉ giới hạn trong một làng nhỏ Phong Điền.
Và dĩ nhiên Lòng Nhân Ái hiện diện hầu hết nơi mọi
người hải ngoại. Người mình ở trong nước từ nhiều năm
nay hẳn đã thấy muôn ngàn Sợi Chỉ Hồng Nhân Ái đã
nối liền đôi bờ Biển Thái. Chúng ta xa đất nước, nhưng
đất nước mình, dân tộc mình luôn hiện diện trong mỗi
trái tim người xa xứ. Dưới
đây là thêm một Sợi Chỉ Hồng Nhân Ái.
Đến đầu tháng 8 nầy thì mục sư Nguyễn cùng vài
người cộng sự sẽ thực hiện chuyến đi thứ 47, từ Quận
Cam về quê nhà. Thật sự thì mỗi chuyến đi của mục sư
Nguyễn không hẳn được gọi là dài dù cho được
nối bằng 20 giờ đường hàng không. Hơn 15 năm trước, chuyến
đi lần đầu tiên từ Sài Gòn đến trại phong cùi Bến
Sắn dài chỉ hơn 40 cây số. Rồi chuyến đi thứ 37 vài năm
trước đến Ninh Bình, Yên Bái có lẽ là dài nhất
cho tới nay, thì cũng chỉ có trên ngàn cây số đường
bộ từ Sài Gòn. Như vậy, có lẽ sự dài ngắn nhằm
vào ý nghĩa liên tục của những chuyến đi. Cũng
nên kể tới tấm lòng thật dày, thật sâu và thật bao la
của những người tự nguyện khăn gói lên đường. Họ
cứ đi, mỗi năm ít nhất là 2, 3 lần. Họ không muốn dừng
lại. Dù cho mái tóc xanh ngày nào bây giờ đã bạc gần
hết, dù cho thể xác đôi khi có mệt mõi, nhưng trong lòng
của họ lúc nào cũng vang lên lời cố gắng. Cứ như vậy mà những chuyến đi tiếp tục thành hình. Vậy thì,
có coi là quá đáng không khi gọi đó là một chuyến
đi dài? Chuyến đi bắt đầu từ một khởi điểm là
nơi gặp gỡ của tình thương với những nỗi khốn cùng.
Chuyến đi, qua nhiều năm nhiều tháng, đã ghé lại, đã
ưu ái gởi trao ân tình, đã mang đi đôi điều bất
hạnh. Chuyến đi dù chưa kết thúc nhưng điểm tới chắc
cũng vẫn là tụ điểm của tình thương.
Cuộc hành trình
tình thương của mục sư Nguyễn bắt đầu từ những ngày
thật xa, hơn năm mươi năm trước, khi cậu bé con nhà nghèo
15 tuổi bước ra khỏi căn nhà lá, vách đất nằm dưới
chân ngọn đồi nhỏ ở Tam Kỳ, Quảng Nam. Trong căn nhà đó,
Nguyễn đã sống trọn thời niên thiếu của mình trong thiếu
thốn, thiếu cả sự chăm sóc thương yêu của mẹ. Bạn của
Nguyễn là những vệt nắng nghiêng trên hiên nhà buổi sáng,
là những chú dế con buổi trưa kêu buồn bã, là những dãi
mây bay lang thang trên lưng chừng núi buổi chiều, và buổi tối
Nguyễn lắng hồn mình vào những trang thánh kinh nhoẹt nhòe chữ
nghĩa do ông nội để lại cho đứa cháu duy nhất của mình.
Chung quanh cậu bé Nguyễn thời ấy là nghèo. Người nghèo. Đất
cũng nghèo. Sỏi đá mọc trên từng tấc đất. Nghèo nàn
mọc trên từng thân phận con người ở đây. Hận thù có
lúc đã bứng văng tình yêu thương để đâm chồi
nẫy lộc ngay trên vùng đất khô cằn sỏi đá này. Và
hình như cũng đã có một tia sáng nào đó đã
nhiệm mầu chiếu rọi vào trí óc còn non nớt của cậu học
trò vừa học hết lớp đệ ngũ trường quận. Nguyễn học
được rằng con người sinh ra bình đẵng và tình thương
phải được san sẽ cho mọi người. Khi được chánh thức
nhập vào dòng sống của một hội thánh tại Sài Gòn thì
cuộc hành trình đi về vùng tình người ấm áp của
Nguyễn như được chắp thêm đôi cánh. Rồi những năm
tháng du học và tu học tại Seoul đã là những hành trang quý
giá cho mục sư Nguyễn đi tiếp bước đường đã chọn
của mình. Mục sư Nguyễn nhớ nhất là những ngày dài của
thập niên sáu mươi tại bịnh viện Cộng Hoà. Thương bệnh
binh nhập viện có cả trăm mỗi ngày. Sự đau đớn hiện
diện trên mỗi bệnh nhân và trên mỗi thân nhân đến
thăm. Vết thương quá đau đớn làm bật dậy những tiếng
rên la trên giường bệnh. Nỗi thương xót quá lớn của
người vợ trẻ làm bật dậy những tiếng khóc bi ai. Niềm đau
vật vã của bà mẹ già làm thoát ra những tiếng kêu thương
nức nở. Mục sư Nguyễn đã cùng sống với nỗi đau của
bệnh nhân, cùng sống với tiếng khóc của người mẹ già
neo đơn, của người vợ sớm làm thân góa bụa. Người
sứ giả của tình thương ấy đã sống hàng giờ, hàng
đêm bên giường bệnh. Sống cả với niềm đau, với nỗi
tuyệt vọng của đàn con nhỏ dại khi cỗ quan tài của cha mình
được đưa về khu chung sự trong tiếng kèn đồng hòa trộn
với tiếng khóc dưới lớp khăn sô. Nhiều năm như vậy đã
khiến vị mục sư trẻ chừng như đã cạn dòng nước
mắt.
Tưởng đã cạn dòng nước mắt. Tưởng đã
hụt bước chân đi về vùng sương đêm tấm đẫm
tình người. Vậy mà không. Những lời thánh kinh dưới chân
đồi ngày nào vẫn nghe như mới. Lời trối trăn của nội
vẫn còn văng vẳng bên tai: “Phải biết sống làm người,
nghe con!”. Nhịp đập của trái tim đầy tình người vẫn
rộn ràng trong lòng ngực. Bước chân vẫn chưa chùn. Tình
thương của đồng bào hải ngoại không thiếu. Những món
quà tình nghĩa phải tới tay người thương khó ở quê
nhà. Tất cả phải có người chuyển về. Hết trại cùi
Bến Sắn đến các trại cùi Núi Sạn, Qui Hòa, trại cùi
Đắc Kia, Đắc Kring. Hết theo chân cơn bão số 5 ra Quảng Nam, Đà
Nẵng đến cơn bão số 7, số 8 ra Thanh Hóa, Yên Bái. Rồi
xuôi Nam đào giếng nước, bắc những nhịp cầu xi măng cốt
sắt ở miền quê Bạc Liêu, Cao Lãnh. Những chiếc xe lăn. Những
xe gạo đầy ắp từ Vĩnh Long ra Trung, ra Bắc. Những mùng, mền, quần
áo, thuốc thang, kẹo bánh, giấy mực, sách vở…Những chuyến
xe đầy đồ cứu trợ đi trên những đoạn đường đất
chuồi vòng quanh chân núi, gập ghềnh, trắc trở. Chỉ một chút
xãy tay, sự rũi ro, mất mạng có thể xảy ra bất cứ lúc
nào. Những đêm ngủ tạm bợ bên đường, dãi dầu
mưa nắng. Đi. Khó khăn thế nào cũng đi. Đi làm nhiệm
vụ của một nhịp cầu. Đi đến những người đang chờ
đợi. Người phế binh ở Điện Thắng đã rớt nước
mắt nhìn chiếc xe lắt tay mới tinh của mình trước mặt mà
tưởng như mơ. Cụ già phong cùi ở Đắc Kia không tưởng
được bàn tay cụt hết ngón của mình đang được vuốt ve trong đôi bàn tay của
người mục sư trước mặt. Qua hai cơn bão dữ Demrey và Chamchu,
bà mẹ Quảng Trung, Thanh Hóa vừa mất một lượt con trai, con dâu
và hai cháu nội, đang đứng trước những người khách
lạ. Họ đến với tình thương và với những sự giúp
đỡ cần thiết trong cảnh khốn cùng. Bà mẹ có khóc cũng
không còn đủ nước mắt, có cảm ơn cũng không đủ
lời.
Một điều rất tự nhiên: Người ta, tại nhiều nơi
trên đất nước, ở miền quê, ở miền núi, miền duyên
hải, từ nhiều năm nay, đã coi sự có mặt của phái đoàn
mục sư Nguyễn là thường kỳ. Người ta chờ ông như chờ
người thân quen đi xa sắp về. Người già, người trẻ nhớ
ông. Quá một thời gian hạn định nào đó, không thấy
phái đoàn về làng, người ta lo ngại có điều chẳng
lành bất ngờ xảy ra cho mục sư Nguyễn.
Cứ như vậy mà cuộc hành trình
tiếp tục để thành một chuyến đi dài.
tbt
THÁNG 5, MÙA
TỐT NGHIỆP, MÙA VUI Tháng 5 nước Mỹ chưa vào Hè. Nhưng Houston đã
bắt đầu nóng. Cái nóng gây
khó chịu vì độ ẩm cao từ biển Galveston và vùng vịnh
Mễ Tây Cơ thổi vào. Thỉnh thoảng có những cơn gió nóng
từ miền Nam Mỹ đem đến những ngày nóng dữ bất ngờ.
Vậy mà từ nhiều năm nay, như là một thói quen, hàng năm
N. và tôi hay chờ tháng Năm đến. Tháng Năm với những buổi
lễ ra trường.
Có lẽ thói quen bắt đầu từ những lễ
ra trường của các con chúng tôi. Hết con ra trung học, đại học
rồi tới cháu ngoại ra mẫu giáo. Hết con cháu người thân
nhân nầy đến con cháu người bạn bè nọ. Riết rồi đâm
ra ghiền. Nhớ tháng Năm bên nầy như nhớ Tháng Sáu bên nhà.
Tháng Năm Mùa Tốt Nghiệp. Tháng Sáu Mùa Thi, mùa bãi trường,
mùa của ve sầu râm ran trên cây phượng vĩ, và mùa của
chia tay. Mỗi năm đến Hè lòng man mác buồn. Tháng Năm
được tham dự những lễ ra trường là niềm vui rất lớn
đối với chúng tôi. Bất kể là nhìn người tân khoa
lạ hay quen nào thì lòng cũng vui. Quen thân với mình thì thích
thú và thấy gần gũi hơn. Không quen thì vui với niềm vui của
thiên hạ. Chiều Chủ Nhật 10 tháng 5 vừa qua, thấy cậu con trai út
của hai em Hoài Bảo và Kiêm Anh là Trần Đình Phi
mặt non như học sinh vừa xong lớp 12 trở thành một luật
khoa tiến sĩ lòng mình cũng vui như niềm vui của chính mình.
Được tin con gái người thầy cũ đã bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ ngành micro-technique tại Pháp và đang
làm việc cho một trung tâm nghiên cứu khoa học tại Thụy Sĩ. Nghe
như nghe tin vui của gia đình mình. Đọc bản tin người học
sinh già Bill Cook nhận bằng tốt nghiệp trung học ở tuổi 82 tại trường
Stephen F. Austin High School ngày 31-5-2008, mình cũng thấy vừa vui vừa
thán phục ý chí có công mài sắt có ngày nên kim của
người cựu chiến binh thế chiến II này. Lòng mình vô cùng
hãnh diện khi các thủ khoa Việt Nam Vũ Thị Thanh Vân, Phan Hiền, Nguyễn
Mai, Hồ Hồng, Lê Dạ Minh, Andy Hồ, Thái Hồng, Diệp Mỹ, Adam Nguyễn…của
các trung học vùng Houston vững chãi, tự tin, đường hoàng trên
khán đài đại diện cho cả ngàn học sinh của trường
mình nói lời cảm tưởng. Tại vùng Houston, sĩ số học sinh
gốc Việt lớp 12 chưa bằng 1% của tổng số học sinh lớp 12 toàn
vùng; vậy mà đã có 22% là thủ khoa gốc Việt! Á khoa
thì xấp xỉ 30%. Có phải niềm hãnh diện dân tộc đã
làm thêm niềm vui của mình chăng?
Mùa tốt nghiệp năm nay chúng tôi có
một sự ngạc nhiên khi biết được một lễ tốt nghiệp thật
lạ, khá là bất thường. Đáng suy gẫm. Đó là lễ
tốt nghiệp trung học của tân khoa tên Jeff Greenwood.
Tại một ngôi trường
trung học nhỏ ở ngoại ô thành phố Great Falls, tiểu bang Montana, khoảng
10 dặm phía nam biên giới Mỹ - Canada, ông Thống đốc tiểu bang
là diễn giả chánh của buổi Lễ Tốt Nghiệp Trung học. Ngồi
cùng với ông trên khán đài là vị Trưởng Khu Học
Chánh cũng là Hiệu Trưởng và đông đủ các giáo
sư, tất cả đều mũ áo chỉnh tề. Việc tổ chức buổi
lễ không khác gì những lễ tốt nghiệp khác vào
mỗi tháng 5 hàng năm trên toàn nước Mỹ. Năm nay cũng vậy,
hàng ngàn lễ tốt nghiệp đang xảy ra ngay giờ phút nầy. Hàng
triệu tân khoa từ các lớp mẫu giáo đến các lớp trung học,
cao đẳng và đại học đang hớn hở làm Lễ Tốt Nghiệp.
Diễn văn. Mũ cao, áo choàng rộng. Niềm vui. Niềm hy vọng. Niềm
hãnh diện. Họ xếp thành những hàng dài lần lượt tiến
lên khán đài nhận văn bằng trong tiếng vỗ tay và tiếng
reo vui của cả ngàn người trong hội trường.
Tại ngôi trường
biên giới nầy thì khác một chút. Cũng với khung cảnh và
diễn tiến của lễ tốt nghiệp như vậy: Ông Hiệu Trưởng
mở đầu chương trình trước khi ông Thống Đốc Brian Schweitzer
trịnh trọng tiến đến bục giảng, đọc bài diễn văn soạn
sẵn. Xong là tới phần phát biểu của Chủ Tịch Ban Đại Diện
Học Sinh toàn trường: Đó là học sinh Jeff Greenwood. Rồi đến
vài lời phát biểu của đại diện tân khoa: Đó là Thủ
khoa Jeff Greenwood. Tiếp là phần trao văn bằng: người đầu tiên
tiến đến trước mặt ông Hiệu Trưởng LeRoy Nelson để nhận
văn bằng là Jeff Greenwood. Hết. Không có tân khoa kế tiếp. Nhận
văn bằng rồi chụp ảnh. Bức ảnh duy nhất chụp tân khoa duy nhất
Jeff Greenwood của Lễ Tốt Nghiệp ngày 18-5-2008 tại trường Opheim High School.
Jeff Greenwood bước xuống hội trường, tung mũ lên không rồi ôm
và cảm ơn cha mẹ. Các máy ảnh và các máy quay phim đều
hướng về Jeff. Buổi lễ chấm dứt. Mọi người ra về vui vẻ.
Lễ Tốt Nghiệp
khá lạ trên đây không hẳn là duy nhất: Năm ngoái cũng
vị Thống Đốc nầy đã đọc diễn văn nhân buổi lễ
tốt nghiệp của tân khoa duy nhất tại một vùng quê khác của
tiểu bang Montana. Người Mỹ đã trân quý chữ nghĩa như vậy.
Thà tốn hàng mấy chục ngàn Mỹ kim một năm cho một học
sinh hơn là để học sinh thất học, dù chỉ có
một. Chính sách Giáo dục cưởng bách cho tới hết bậc trung
học có từ mấy mươi năm nay. “No Child Left Behind” cũng là
một chính sách giáo dục khác của chánh phủ Hoa Kỳ dưới
2 nhiệm kỳ của Tổng Thống George W. Bush.
Ba mươi ba năm qua, con em của người Việt
mình đã hưởng thật đủ đầy nền giáo dục nầy.
Mới chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ, chưa rành đường
đi nước bước, cái kính cận nặng độ chưa kịp đổi
tròng, chưa quen với tiếng Ăng Lê, chưa mờ trong trí nhớ cả
chục năm lặn lội gian nan hành quân diệt địch, còn hằn trên
thịt da những tàn tích của năm tháng dài tù tội… vậy
mà người trung đội trưởng thám kích của sư đoàn
23 hăm hở trở lại giảng đường để hoàn thành văn
bằng cử nhân Điện toán, rồi Cao học Toán. Tưởng chữ
nghĩa đã cao chạy xa bay theo tầm đạn pháo và khói lửa
chiến trường. Nguyên ký giả thao trường Huyền Vũ đậu
bằng cử nhân báo chí khi đã 72 tuổi. Người cựu sinh viên
tranh đấu Nguyễn Trọng Nho của thời 63-64 đã là vị chánh
án tại quận Cam từ cả chục năm nay. Người-tù-cả-đời
là cựu biệt kích Nguyễn Hữu Luyện sau mấy mươi năm gông
cùm trong lao tù miền Bắc từ trước 1975, đã kiên nhẫn bút
nghiên tại đại học Boston và đang kiên trì bảo vệ tư
cách tị nạn chánh trị của người Việt hải ngoại. Nhiều,
rất nhiều sinh viên già Việt Nam như vậy. Còn tân khoa trẻ Việt
Nam, thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba thì có ai mà đếm cho hết.
Cả con cái của các bạn thân quen mình cũng không nhớ nỗi.
Chắc không phải là quá đáng nếu nói trung bình mỗi gia
đình VN hải ngoại có một cử nhân hay cao học, tiến sĩ. Ngành
nghề nào cũng có bóng dáng người Việt. Y, luật, khoa học,
nghệ thuật, thể thao, văn chương, xã hội, cơ khí, thương
mại…. Phi hành gia, chuyên viên vũ khí tối tân hiện đại,
phi công phản lực chiến đấu cơ, sĩ quan hải, lục, không quân…Nói
hoài cũng không hết.
Nền giáo dục nầy đã cho mình nhiều
và rồi mình cũng đã trả ơn cho xã hội nầy cũng không
ít.
Tháng Năm là
tháng của Mùa Tốt Nghiệp, là tháng của Mùa Vui. Houston, mùa bãi trường 2008
Trần Bang
Thạch
MỖI NĂM XUÂN
LẠI VỀ Chỉ còn non mười ngày nữa
là năm cũ đi, năm mới đến. Nghĩ tới 28 mùa xuân trên
xứ người. Ngày nào chân ướt chân
ráo tới đây, tuổi xuân còn lưng lững trong túi hành trang
đời người, lòng tuy không đầy vì những tang thương dồn
dập sau Tháng Tư Đen nhưng nụ xuân chưa héo để kịp hứng
một giọt Xuân mới đang chờ trước mặt. Mới đó mà
đã 28 năm. Ngày tháng thì trôi nhanh nhưng nghĩ tới ngần
ấy năm xa quê thì nghe sao mà dài quá. Gần 30 năm! Nếu tính
đời người là 60 thì đã nửa đời trên đất
khách! Nếu kéo thêm mười, mười lăm năm sống nữa thì
cứ thế mà cộng thêm chuỗi ngày ly xứ! Thêm một mùa Xuân
là thêm một Tết ly hương. Có trách nàng Xuân như nhà
thơ Chế Lan Viên:
Tôi có chờ đâu, có đợi
đâu, đem chi xuân đến gợi thêm sầu thì nàng Xuân
vẫn đến. Cũng như tuổi già: dù không chờ thì nó vẫn
đến. Nhà thơ Vương Duy của thời thịnh Đường bên Tàu
của hơn 1200 năm trước đã nói rồi:
Nhật nhật nhân
không lão Niên
niên xuân cánh qui. Tương hoan hữu tôn tửu Bất dụng tích
hoa phi (Tống Xuân Từ của Vương Duy 699-759)
Bản dịch
của Phạm Khắc Trí
Thêm tuổi thêm già tự nhiên thôi, Mỗi năm
Xuân lại đâu đợi mời. Cười chúc mừng nhau một chén rượu Bận
tâm chi nhỉ chuyện hoa rơi. Chắc chắn như
vậy rồi: Ngày qua ngày thì tuổi thêm già cũng như mùa
xuân năm nào cũng vẫn đến. Luật thiên nhiên là như vậy.
Nhưng mà tâm trạng con người cũng có buồn, có vui.
Xuân vẫn
đến. Tâm trạng mình vui thì Xuân đẹp biết bao, dù cho Xuân
chưa có mặt:
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm Mấy cành
xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là Xuân. Tôi không hỏi chi
nhiều Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng (Xuân Diệu) Hay như người
bạn thơ Mường Mán vốn người Trung nhưng khi lang bạt vào Nam
cũng thấy xuân qua chút duyên sau chéo khăn rằn: Nhà ai quết
bánh phòng khuya quá
Nhịp chày khoan nhặt thức cùng trăng Môi em
đỏ như là mận chín Giấu chút duyên sau chéo khăn rằn Và ra Bắc
cũng thấy Xuân với hoa đào qua phố và hoa Quỳnh thức giấc
giữa đêm:
Hoa đào qua phố rao xuân chín
Áo đào
qua ngõ gọi thầm nhau Hà Nội chừng như thôi trở rét Đóa
quỳnh chợt thức giữa chiêm bao Còn Thế Lữ thì có khác:
Hôm
nay tạm nghỉ bước gian nan
Trong lúc gần xa pháo nổ vang Rũ áo
phong sương trên gác trọ Lặng nhìn thiên hạ đón Xuân
sang (Thế
Lữ) Người khách trọ Thế Lữ nhìn Xuân đến cảm
thấy buồn dù cho khách và Xuân cùng ở trên một quê hương
thân yêu, quen thuộc, có pháo có người có xuân ngoài
ngõ. Nhưng so với Thế Lữ thì những người-xa-quê-nửa-vòng-trái-đất
như chúng ta thì chắc buồn hơn nhiều vì Xuân chỉ có lặng
lẽ ở trong lòng. Vài ba buổi tiệc tất niên, tân niên bây
giờ e rằng không đủ đem lại cho mình không khí của những
cái tết quê nhà. Đầu chải briantine bóng mượt, mặc một
bộ đồ pijama mới tinh, mang đôi guốc vông lốc cốc ra đường
đã thấy lòng vui như pháo tết. Khuya lơ ngồi ngủ gục bên
vai mẹ trước nồi bánh tét nước sôi ùn ục vẫn mơ
thấy bao giấy đỏ lì xì. Không pháo nổ vang, không có
thiên hạ đón xuân chung quanh mình như ở quê xưa. Không có
không khí Tết thì Xuân chỉ là tên gọi của một trong 4
mùa. Chẳng thế mà Nguyễn Bính đã từng than thở:
Tha
hương chẳng gặp người tri kỷ
Một cánh hoa tươi đủ ấm lòng Tết nầy
chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng
Chén
rượu tha hương, trời: đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận
một mùa đông (Nguyễn Bính) Em xa chị vào dịp Tết mà
đã buồn như vậy thì người ly hương xa nhà, xa xứ, xa
người thân thì xuân buồn biết bao nhiêu!
Ngay thời buổi bây
giờ có non hai triệu người Việt ly xứ thì tâm cảm của ngần
ấy người chắc cũng gần giống nhau: Nhớ nước, thương cha,
nhớ mẹ, nhớ người thân, người tình… và cả người
dưng. Nhớ lắm mà biết có dìa được không! “Em còn có mẹ già bên ấy!”
tiếng thơ
buồn như một tiếng than! anh đọc thấy hàng hàng nước
mắt; Sydney buồn mà anh lại quá xa.
Anh
cũng có mẹ già bên ấy:
mẹ anh đã nằm dưới
mộ sâu, cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ, mẹ
chắc nhớ anh, nhớ để rầu.
Hai lăm
tháng chạp về tảo mộ
hẹn lần, hẹn lữa, hẹn năm sau, năm
nào cũng vậy, tiền không có; không tiền, không có
vé máy bay!
Ngày khánh tận mà anh khánh
kiệt,
chỉ biết tàng xe đến phi trường, “ai
về xứ Việt, quê hương đó cho ké,
dùm tôi, nỗi đoạn trường!” (Lau lệ mình
ên, thơ Đoàn Xuân Thu, Úc Châu)
Cho
nên càng nghĩ càng thương cho Cụ Tiên Điền Nguyễn Du. Năm
1805 Cụ phải ra Lạng Sơn đón sứ thần nhà Thanh giữa một
ngày Xuân. Xuân đẹp nhưng chắc Cụ Tiên Điền không thấy
vui chút nào nên đã tự thán:
Nhân tự
tiêu điều, Xuân tự hảo
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm
cân Cụ
đã không ngắm xuân mà ngắm hạt châu của mình đang
rơi xuống dưới thành Đoàn! Thương thay cho Cụ.
Rồi cũng phải
thương cho mình. Đêm Ba Mươi bấm thẻ ra khỏi sở thì đã
gần nửa đêm. Về đến nhà thì không còn ai thức. Giao
Thừa đâu chẳng thấy! Sáng Mùng Một đã vội vã ra
đi như 365 ngày khác. Tết đâu chẳng thấy! Tết bây
giờ dù có vui chắc cũng không giống nỗi vui xưa. Nếu có
vui thì là vui gượng. Đúng là người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ! Trần Bang Thạch
Ngày đưa Ông Táo Đinh Hợi
MÙA THU ĐÔNG BẮC
và MÙA THU TUỔI VÀNG Tuần trước chúng tôi có dịp đi lên vùng Đông
Bắc nước Mỹ. Những ngày này cây cối
các nơi ấy đang đi vào Thu. Lá bắt
đầu đổi từ xanh sang vàng nhạt, vàng đậm, tim tím hay hung
đỏ. Những con đường dưới các gốc cây cũng đầy
lá vàng. Trên đầu là tấm lụa vàng rung lung linh trong cơn gió
mát rượi. Hình như tôi thấy cả ngọn gió cũng nhuộm
sắc vàng. Lá phong như những bàn tay dát vàng vẩy vẩy trên
cao. Dưới chân là tấm thảm màu hoàng yến, trộn lẫn với
những đốm màu rượu chát. Một ngọn gió nhẹ thổi qua,
lá như những cánh bướm vàng bay lẩn quẩn dưới chân.
Buổi trưa, nắng vừa đủ để làm sáng thêm màu vàng
óng ả, lấp lánh của rừng phong. Buổi chiều, rừng phong nhuốm
lạnh để màu vàng có thêm một chút tối và một chút
u buồn. Không thể có lời nào để tả hết cái đẹp
của nàng Thu Đông Bắc. Nàng cao sang như vương tôn mệnh phụ
và trữ tình như người nữ yêu kiều, đằm thắm, hiền
dịu của thế gian. Người nhan sắc này có mặt để làm
chủ một góc thiên nhiên và một góc trong trái tim người.
Nàng có mặt để được ngắm nhìn và được chiêm
ngưỡng. Đứng trong tấm áo lụa vàng, người ta thấy mình
cũng là một thứ vương tôn công tử bên dáng ngọc lượt
là. Hoàng hoa mỹ tửu chưa uống mà đã chếnh choáng say,
hay ta say vì thiên nhiên ướp mật? Để rồi lúc chiều sắp
tắt, khi Người Nhan Sắc phất tay áo ra đi, để lại mùi trầm
hương mộng mị, người thơ bỗng thấy từ một chốn nào
thơ mình chập chờn ẩn hiện trên xác lá khô. Thơ bay, hương
bay hay lá bay, người thơ không biết. Cũng không biết là Nàng
đã bay vút lên trăng hay trăng đang hóa ra Nàng, để đêm
thu nhả xuống trần gian muôn ngàn sóng vàng, sóng bạc.
Có áo lụa vàng rắc lá
trên cây
Có mắt ướt theo mưa
rớt vội Em có phải chiều qua ngõ
tối Để trăng non bỗng hóa trăng đầy
Tôi bỗng thành kẻ giữa cơn
say
Nghe lướt thướt mây vờn trên tóc,
Xin hãy chậm chân, người len lối trúc
Để thiên thu còn một thu này. (Thu, thơ TBT)
Chỗ chúng tôi đến là Richmond, thủ phủ của tiểu bang Virginia. Người ta biết được
Richmond như một nơi mà bốn trăm năm trước (1607) đã đón
toán di dân thứ nhì từ Anh Quốc đặt chân đến vùng
Đất Mới. Được đặt tên là Richmond vì con sông James nơi nầy giống
như dòng Thames tại thành phố Richmond của quê hương Anh Cát Lợi. Richmond có nhiều cái “nhứt”
của nước Mỹ. Sông James cũng là một thắng cảnh của Richmond, là hệ thống
kinh đào thứ nhứt của Mỹ quốc. Cũng như bịnh viện của
Richmond, hay đài truyền hình của Richmond, và người thống đốc
da màu của Richmond là những cái đầu tiên của nước Mỹ.
Nhưng đối với tôi thì có thêm một cái nhứt mà sử
sách tại đây chưa ghi. Đó là vị giáo sư của phân
khoa Xã Hội thuộc Đại Học Commonwealth của Virginia (VCU). Đại học này có hơn 33 ngàn
sinh viên, tọa lạc trên một khu đất mênh mông của Richmond. Tiến sĩ Ellen
N. gần 20 năm nay là giáo sư của các Đại Học Xã Hội
(School of Social Work), từ Arkansas đến Virginia, là giáo sư đỡ đầu
cho hàng trăm luận án tiến sĩ xã hội từ trước đến
nay. Bà cũng là giáo sư đỡ đầu ( mentor) cho những giáo
sư mới về trường giảng dạy. Giáo Sư là tác giả của
trên hai mươi bộ sách nghiên cứu, trong đó có nhiều quyển
được dùng làm tài liệu giáo khoa và tham khảo tại các
đại học toàn nước Mỹ và các quốc gia khác. Sách
của Giáo Sư viết về những nghiên cứu tường tận những
vấn đề xã hội, văn hóa…liên quan tới các lứa tuổi,
đặc biệt là tuổi già, như việc chăm sóc sức khỏe căn
bản cho người già, như chương trình cần có tại các
địa phương nhằn giải quyết những khó khăn của người
cao tuổi, v.v…
Tôi đã có dịp được gặp
và đàm đạo với Tiến sĩ Ellen N. về các vấn đề
của người cao tuổi. Hơn 2 tiếng đồng hồ bàn bạc về người
cao tuổi Mỹ trắng, Mỹ da màu và Người Mỹ gốc Việt…
đã cho tôi những bài học thật quý giá; cũng qua trao đổi,
người giáo sư từng trãi và có kiến thức chuyên môn
sâu rộng này đã thêm một lần nữa bổ túc nhận định
của mình về người già Á Đông, nhất là người
Việt Nam mà Giáo Sư chỉ vừa mới để tâm nghiên cứu
từ vài năm nay. Tôi thấy mình vui khi những góp ý nhỏ nhoi,
khiêm tốn của mình được giáo sư ghi nhận.
Tiếc là khuôn khổ của trang bài không cho phép tôi viết thêm
về buổi mạn đàm kỳ thú và bổ ích này.
XXX
Vợ chồng chúng tôi tiễn Tiến Sĩ Ellen N. ra đến xe đậu ngoài
đường. Lá vàng trên không, lá vàng dưới đất. Không hẹn mà chúng
tôi cùng ngước lên cái vòng cung vàng như hoàng bào.
Rồi chúng tôi cùng nhìn nhau, và mĩm cười.Tôi không biết
Giáo Sư nghĩ gì, nhưng tôi nghĩ tới cái màu vàng trên
cao, cái màu vàng êm ả, đằm thắm, nhẹ nhàng, không vướng
bận của Mùa Thu Tuổi Vàng mà chúng tôi đang bước vào.
Richmond, VA., Oct.22-2007
Trần
Bang Thạch
|
|
|