TRẦN BANG THẠCH
Truyện
._______________________________
.
NGƯỜI
SUỐT ĐỜI
LẮC CHUÔNG
GIỮA CHỢ
.
Gần
cuối tháng 12 dương lịch năm nay có một thiệp chúc Xuân
đến với tôi thật sớm, trước Tết Nguyên Đán cả
tháng . Đó là một điều lạ. Tôi chưa hề nhận một
thiệp xuân nào sớm như vậy, từ trước đến nay. Điều
lạ thứ hai là cùng một bao thư với thiệp chúc xuân này,
tôi có cả một thiệp chúc mừng Giáng Sinh đến trễ cả
tuần. Hai điều lạ này được giải thích trong một mảnh
giấy nhỏ viết tay kèm theo. Qua mảnh giấy nhỏ này, thắc mắc
của tôi được giải tỏa: anh con thấy trong các giấy tờ để
lại của người cha mới chết một thiệp Giáng Sinh và một
thiệp chúc mừng Năm Mới Ất Dậu. Mỗi tấm thiệp được
để trong một bao thơ có đề sẵn địa chỉ của tôi.
Anh con bỏ cả hai tấm thiệp vào một bao thơ rồi gởi cho tôi. Coi
như thay người chết gởi lời chúc tới ông bạn còn sống.
Lá thư bất ngờ cũng báo cho tôi biết một cái chết bất
ngờ. Cùng một lúc với những lời chúc tốt đẹp là
một nỗi buồn thật lớn đến với tôi. Tôi biết từ nay
tôi vĩnh viễn mất một ông bạn hàng xóm tốt bụng của
tôi từ hơn hai mươi lăm năm qua. Tội nghiệp ông già, biết
mình tuổi đã cao, sống nay chết mai, nên ông đã chuẩn bị
sẵn những gì cần phải làm. 24 lần Giáng Sinh và 24 lần Tết
Nguyên Đán đã qua chưa lần nào gia đình tôi thiếu
các tấm thiệp chúc mừng của ông. Năm nay, năm thứ 25, ở
giờ phút thứ 25, giờ phút cuối của cuộc đời, ông vẫn
không quên chúng tôi.
.
Thật sự thì chúng
tôi là bạn hàng xóm chỉ trong hai năm đầu khi chúng tôi
đến Mỹ. Mới chân ướt chân ráo nhập vào một dòng
sống hoàn toàn mới lạ, không có một người thân quen, chúng
tôi thấy tạm yên lòng cư ngụ trong một căn nhà nhỏ tại
một khu khá tạp nhạp, toàn là dân da đen và dân Nam Mỹ
có lợi tức thấp; hiếm thấy một người da trắng lạc lõng
đi ngang qua xóm. Sau hai năm gia đình chúng tôi làm ăn có khấm
khá hơn và các con cũng cần có những trường tốt hơn
nên chúng tôi dời đến một nơi khác, cách chỗ cũ hơn
một giờ lái xe. Hai năm ở cạnh nhau đã đủ cho một tình
hàng xóm nẩy nở. Những năm còn lại chúng tôi vẫn hay
gặp gỡ, nhứt là vào những dịp lễ lạc hay ăn mừng năm
mới, mừng sinh nhật....hoặc thăm hỏi tin tức nhau qua thư từ và
điện thoại.
.
Thuở đó là vào khoảng cuối năm 80, chúng
tôi đến Mỹ trong cái lạnh cóng da của một nhiệt độ
đông đá. Căn nhà chúng tôi mướn thuộc căn nhà
đã quá cũ, cả trăm năm tuổi, vách ván, sàn gỗ kê
trên những cục gạch xi măng khiến gió lạnh chui vào nhà một
cách dễ dàng từ bốn bên và từ dưới sàn nhà. Ba
đứa con tôi tuổi từ một rưỡi đến 12 tuổi, chúng mặc
vào nhiều lớp áo quần mà răng vẫn đánh lặp cặp.
Đó là những giờ đầu tiên khi chúng tôi mới dọn vào
nhà. Tôi thấy một cái máy sưởi đặt âm trong vách
nơi phòng khách, tôi vặn hết nút nầy đến nút nọ
mà vẫn không thấy hơi nóng phát ra. Túng cùng, vợ tôi
đưa ý kiến là nên nhờ người ở nhà kế bên sang
chỉ dẫn. Tôi rất ngại ngùng khi phải gõ cửa nhà người
hàng xóm không quen vì lúc đó đã hơn mười giờ
đêm. Chỉ cần không đầy một phút, ông hàng xóm đã
làm chiếc máy sưởi tỏa hơi nóng. Rồi vợ con ông mang cả
đống quần áo ấm cho chúng tôi, có cả mấy bao potato chips họ
nói là ăn cho ấm bụng. Cả nhà chúng tôi cảm ơn. Ông
hàng xóm nắm chặt tay tôi, ông nói rõ và chậm từng
lời, sợ rằng tôi chưa quen tiếng Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như
in hình dáng cao gầy, gương mặt đen mun làm rõ hàm răng
trắng và đôi tròng mắt trắng nhìn thẳng vào mắt tôi.
Ông nói là ông luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng
tôi, đừng ngại ngùng gì hết. Ông cho tôi số điện thoại,
bảo cứ gọi ông hay vợ con ông bất cứ khi nào chúng tôi
cần. Ông nói ông tên là Otis Clark, nhưng ông thích được
gọi là The Bell Ringer, hãy gọi ông là Ringer cho gọn. Thuở đó
cả nhà chúng tôi gọi ông là Ringer, coi như là một cái
tên riêng; sau nầy mới biết ý nghĩa của nó và biết
vì sao ông Otis thích được gọi như vậy. Sau cái đêm
đầu tiên đó thì chúng tôi cần họ nhiều trăm lần
nữa trong suốt hai năm ở gần nhau và cả khi ở xa nhau. Ông bà
là cố vấn của gia đình chúng tôi về đủ mọi chuyện.
Từ chuyện ông Ringer dạy tôi cách sử dụng máy cắt cỏ,
máy xén cỏ đến việc thay nhớt cái xe. Bà Ringer thì từ
việc đưa vợ tôi và các con đi ghi danh ở trường, đến
việc dạy vợ tôi tiết kiệm bằng cách mua hàng sale và cách
dùng coupons khi đi chợ. Khi chuyện trò với chúng tôi, họ nói
chậm rãi, rõ ràng từng tiếng. Đặc biệt là họ hay gợi
chuyện để chúng tôi nói. Tiếng Mỹ chúng tôi khá hơn
nhờ gia đình này. Cách sinh hoạt chúng tôi được xuôi
chèo mát mái hơn trong cái xã hội lạ lẫm nầy phần lớn
là nhờ họ. Cũng qua gia đình nầy chúng tôi có cái cảm
tưởng đầu tiên là người Mỹ tử tế.Về sau chúng
tôi biết ông bà Otis không những chỉ tử tế với riêng gia
đình chúng tôi hay vài gia đình trong khu xóm, mà ông bà
nầy tử tế với tất cả mọi người. Điều nầy thì
tôi xin được nói sau. Cái ấm áp của đêm đầu tiên
đó đã bắt đầu cho một nghĩa tình lân lý kéo
dài suốt hai mươi lăm năm nay. Suốt thời gian đó chúng tôi
thương mến và hiểu nhau hơn. Bà Otis mất 12 năm trước, sau
đó cậu con trai duy nhứt đi làm xa, ông già Otis đã nghỉ
hưu từ hơn hai mươi năm trước. Ông sống một mình trong
căn nhà cũ, nhưng ông không cô đơn vì chừng như công
việc chiếm hết thì giờ của ông. Muốn đến thăm ông,
chúng tôi phải thông báo vài ngày trước. Hoặc đôi
khi tự dưng ông ghé nhà tôi ngủ một đêm để kể
cho chúng tôi nghe chuyện đời. Các con tôi rất thích nghe Uncle Ringer
kể chuyện. Càng hiểu tâm tình của ông và càng biết nhiều
những sinh hoạt của ông, chúng tôi càng quí trọng ông. Bây
giờ thì ông đã đi rồi. Tấm thiệp Xuân Ất Dậu tôi
chưa kịp gởi cho ông. Những dòng tưởng nhớ này như lời
cuối cùng chúng tôi tiễn đưa ông, người hàng xóm
tốt bụng.
.
Nhớ tới ông Otis là tôi nhớ tới điều mà ông đã
nói với tôi khi hai người ngồi uống bia ở sau nhà ông hơn
hai mươi năm trước. Ông chỉ nói có một lần mà tôi
mãi nhớ hoài. Ông Otis nói ông nợ cuộc đời quá nhiều,
sợ rằng cả đời của ông, ông cũng không trả nổi. Ông
mất ở tuổi tám mươi lăm. Một đời người như thế
cũng gọi là dài. Nhưng cái nợ với cuộc đời mà ông
tự nguyện gánh trên vai đã hết chưa hay ông vẫn còn khệnh
khạng vác xuống tuyền đài? Nghĩ tới điều nầy khiến
tôi càng thương ông, vì tôi biết một khi thế giới nầy
còn hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh, bịnh tật và xã hội này
còn những kẻ nghèo đói, tật nguyền, không nhà, không
miếng ăn, không cái mặc... thì The Bellringer thỏi đồng đen của
tôi vẫn ngày ngày muốn làm người lắc chuông nơi cửa
chợ. Tôi biết ông muốn mãi mãi là người lắc chuông,
dù cho trăm năm, dù cho ngàn năm nữa. Người đàn ông
da đen cao, gầy, xương xẩu, ít học mà có trái tim to như
trái núi, một tấm lòng dào dạt mênh mông như nước
đại dương. Gần cả đời lắc chuông giữa chợ kêu gọi
tình thương, chắc chỉ có một ông Otis Clark nầy. Ông nói
từ khi nhận diện được những đau khổ của cuộc đời
đến với riêng ông, ông muốn được góp phần nhỏ
mọn của mình làm vơi đi ít nhiều những đau khổ cho càng
nhiều người càng tốt. Ông Otis kể với mọi người về
cuộc đời của ông. Cậu bé Otis lúc mới 5 tuổi đã là
một bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Người ta nói cha mẹ cậu
một hôm từ thị trấn Cheyenne của tiểu bang Wyoming mang đứa con trai
Otis 5 tuổi xuôi nam lập nghiệp, mong thoát khỏi kiếp tôi đòi.
Lúc tới gần dãy Rocky Mountains thì ông bà Clark mất tích trong một trận bão
tuyết. May mắn được cứu, cậu bé Otis sống lang thang không nhà
với người cha nuôi nghiện rượu và với một con chó đói.
Cha con ngày ngày kiếm miếng ăn nơi khu Lincoln Park của tiểu bang Colorado. Khi cha nuôi chết,
cậu Otis 10 tuổi đã biết phải tìm cái sống bằng chính
sức lực và ý chí của mình. Tiếp tục ước muốn của
cha mẹ, Otis xuôi nam, sống vất vưởng trên các đường phố
với đủ ngành nghề, từ bán báo đến quét dọn nhà
hàng, lau chùi cầu tiêu công cộng.... Lớn hơn một chút, Otis
về vùng đồng cỏ Texas làm các công việc nơi trang trại, chăn
bò, vắt sữa, lái máy cày. Cuộc đời Otis thật sự thay
đổi ở tuổi 18 khi một ân nhân đem Otis về thành phố lớn,
dạy cho ít chữ nghĩa và dạy nghề thợ tiện. Từ đó
Otis đứng vững vàng trên hai chân mình. Cũng từ đó chàng
thanh niên Otis bắt đầu nghĩ tới một sự trả ơn cho người
đã cứu mình ra khỏi vùng u tối. Otis cũng không thể quên
những cảnh khổ chung quanh, cảnh khổ mà suốt quãng đời niên
thiếu mình đã chịu. Những ngày cuối tuần người ta thấy
chàng thanh niên Otis la cà nơi các công viên, hay các góc đường
dưới cầu xa lộ mang những bịch đồ ăn thức uống cho những
người không nhà. Nhiều người trong số nầy đã được
Otis giới thiệu việc làm, tạo dựng lại cuộc đời và tiếp
tục trả ơn đời như anh Otis. Một thanh niên da trắng thất tình
thất chí, bỏ học, bỏ nhà cửa đi làm homeless, Otis tới lui,
chuyện trò, khuyên nhủ, rồi đem về nhà nuôi ăn học. Ngày
anh thanh niên nhận bằng kỹ sư điện, anh đã ôm Otis giữa hội
trường mà khóc như một đứa con nít. Nhiều lần Otis đến
các nhà tạm trú cùng với các người thiện nguyện phục
vụ những bữa ăn cho người vô gia cư. Sau khi tham dự thế
chiến thứ Hai, người lính giải ngũ Otis biết được các
hoạt động cứu trợ rất hữu hiệu của hơn 3000 đơn vị
phục vụ thuộc tổ chức thiện nguyện The Salvation Army. Otis bắt đầu
tham gia hoạt động cho The Salvation Army kể từ đó. Cũng kể từ đó
Otis chỉ thích được gọi là Người Lắc Chuông- The Bell Ringer.
Từ mùa đông năm 1945 The Bellringer tên Otis bắt đầu mặc bộ
đồng phục của The Salvation Army, cầm cái chuông đồng đứng
tại các cửa chợ vào những ngày lễ để kêu gọi lòng
hảo tâm của con người đối với con người.
.
Những
ngày đầu ở Mỹ, không ai trong gia đình tôi biết The Salvation
Army là gì. Chúng tôi chỉ biết tổ chức thiện nguyện Đạo
Binh Cứu Khổ này qua người hàng xóm mà chúng tôi gọi
là Ringer. Vào những ngày cuối tuần hay những ngày lễ như Thanksgiving
hay Christmas chúng tôi thấy Ringer cùng các bạn của ông mặc vào
tấm áo choàng màu đỏ, choàng phủ phía trước ngực
và phía lưng, trên có in dấu hiệu của The Salvation Army và có
dòng chữ: I Am A Bellringer. Người bell ringer tay cầm cái chuông
đồng nhỏ đứng lắc chuông bên cạnh cửa ra vào tại các
khu chợ. Người hảo tâm bỏ tiền vào cái thùng đỏ có
nắp khóa kín, treo trên cái giá 3 chân. Hai năm ở
bên cạnh ông tôi biết thêm rất nhiều điều về The Salvation
Army, một tổ chức quốc tế được hình thành từ
năm 1865 tại Luân Đôn để giúp đỡ về mặt tinh thần
và vật chất cho cho những người kém may mắn trên toàn thế
giới, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Bằng vào cố
gắng tích cực của cô bé 16 tuổi tên Eliza Shirley, một di dân
gốc Anh, Tổ chức được du nhập vào Mỹ từ năm 1880 với
chi nhánh đầu tiên ở New York City. Các con tôi thì có bên cạnh một
nhân vật sống để nghe, để biết và để học những
bài học quí giá về tình người. Thằng con lớn của tôi
đã gia nhập The Salvation Army ngay sau khi tốt nghiệp đại học hồi năm
1992. Ông Ringer trông thật hào hứng mỗi lần nói chuyện với
chúng tôi về công việc lắc chuông của ông. Công việc nào
thì cũng có niềm vui, nỗi buồn. Nhưng với ông Ringer thì suốt
mấy mươi năm lắc chuông, ông chỉ có niềm vui, ông quả
quyết nói với chúng tôi như vậy. Ông không có nỗi buồn.
Ông lắc chuông xin tiền, có người cau có với ông, ông cười
tươi đáp lễ. Có người ngước mặt làm ngơ, ông
thương cho họ và cầu nguyện cho họï.Thỉnh thoảng có người
mua cho ông bữa ăn trưa hay một chai nước uống, ông vui vẻ cảm
ơn. Trên chục năm trước, có em nhỏ tự nhiên rời tay mẹ,
chạy tới kéo ông ngồi xuống, hun một cái chụt vào má
ông, rồi bé kề tai nói với ông rằng bé thương ông
quá, khi lớn bé sẽ làm như ông. Chuyện đã xảy ra thật.
Cô bé 5 tuổi lúc ấy đã không đợi khi lớn mới thực
hiện được lời hứa với người Bell Ringer nơi cửa chợ. Lúc
7 tuổi, cô bé biết bày ra một cái bàn đặt bên lối
ra vào công viên gần nhà để bán nươc giải khát vào
mỗi cuối tuần. Cô bé đã kiếm được vài chục đồng
mỗi tháng. Người ta mua nước lemonade của em như là một cách
giúp em thực hiện ước muốn của mình. Mỗi năm, đúng
vào buổi chiều trước ngày Lễ Giáng Sinh, Christmas Eve,
như một hẹn ước bất thành lời, cô bé đến gặp
người Bellringer của cô, thân mật nói những lời chúc lành
với ông rồi nhét vội món tiền góp nhặt cả năm vào
cái thùng 3 chân màu đỏ. Năm nào cô cũng làm như
vậy, hơn chục năm rồi. Cô bé gọi ông là Ringer. Ông gọi
cô là Little Santa. Như vậy là đã đủ cho một sự quen biết
nhau. Có lẽ cả hai không thấy cần phải biết tên thật của
nhau. Họ biết họ đang làm gì. Có một lần vào đầu
năm 82, ông Ringer hăm hở nói với tôi về một đồng tiền
vàng, một loại gold coin, trị giá hơn 200 đô la, lần
đầu tiên được một người bí mật nào đó bỏ
vào thùng tiền tại Chicago. Rồi sau đó cứ mỗi lần một
nơi nào đó nhận những đồng gold coins thì ông Ringer đều
cho tôi hay để cùng vui với ông. Nhiều khi ông chỉ ghé nhà
tôi một vài phút đồng hồ chỉ để thông báo những
tin vui như vậy. Chẳng hạn như hồi năm 85, một người nào đã
bỏ vào thùng ở thành phố Kirsville, bang Missouri, một đồng
gold coin sản xuất 20 năm trước cuộc Nội Chiến, có giá trị
cả ngàn đô la; đủ cho một nhóm hơn trăm người nghèo
có một bữa ăn Giáng Sinh thịnh soạn. Hàng năm, như là một
trò chơi nhân hậu tốt đẹp từ một hay nhiều nhà hảo
tâm bí mật, những đồng gold coins cứ rơi vào nơi nầy, nơi
nọ; đến nay tổ chức The Salvation Army nhận được hơn 300 đồng
gold coins. Năm năm trước, ông Ringer của tôi muốn có một đồng
gold coin rớt vào cái thùng của ông coi như quà sinh nhật thứ
80 của ông. Mùa Giáng Sinh năm đó rồi cũng qua, lễ mừng
sinh nhật của ông cũng đã qua mà đồng gold coin cũng chưa chịu
đến với ông. Ông than với tôi là các đồng gold coins vẫn
chưa chịu xuôi Nam. Tôi an ủi ông rằng ông đã nhận và đã
cho biết bao nhiêu là những đồng gold coins từ cả sáu mươi
năm nay rồi. Một tuần trước lễ Giáng Sinh năm nay, từ một
nơi cách xa tỉnh nhà hàng ngàn dặm, xem báo tôi thấy loan
tin nhân viên Salvation Army tìm thấy một đồng vàng tên là South
African Krugerrand bọc trong một đồng bạc giấy, có lẽ người bí
mật muốn tránh tiếng kêu khi bỏ vào thùng ở trước cửa
một tiệm Walgreens trên đường West University của Houston. Đây là
lần đầu tiên một đồng gold coin trị giá 400 đô la đã
xuôi Nam, đã đến Houston. Tự nhiên tôi thấy vui và nghĩ ngay tới ông bạn
già Ringer của tôi. Tôi bỏ lững cột báo tại đây, không
muốn đọc tiếp tên người bell ringer để được hồi hộp
mà nghĩ rằng chính cái thùng tiền của người Ringer thân
mến của tôi đã nhận được đồng tiền quí hiếm
ấy. Có thể lắm chứ. Ở cái tuổi 85, người Bellringer của
tôi không còn bao nhiêu ngày tháng nữa. Chẳng lẽ niềm mơ
ước của ông không thành sự thật sao?
.
Bây
giờ nhận được tin ông mất, tôi thấy dù cho đồng tiền
ấy có rơi vào thùng của ông hay không thì ông cũng là
người đón nhận và phân phát nó, cũng như ông đã đón nhận hàng vạn
tấm lòng vàng và phân phát hàng ngàn đồng tiền vàng
trong suốt hơn sáu mươi năm làm người lắc chuông giữa
chợ.
Cả cuộc đời ông, ông cũng đã cho thiên
hạ rồi!
.
Ông Otis Clark, người Bellringer của tình
thương, chúc ông ngàn đời yên ngủ trong niềm mến yêu
của những người khốn khó. Ông ngủ nhưng tiếng chuông đồng
của ông vẫn còn rung trên tay của cả ngàn người khác tiếp
nối ông. Khi những trái tim còn biết thổn thức thì tiếng chuông
đồng còn ngân vang. Bằng cách nầy hay bằng cách khác, tình
thương luôn có mặt trên thế gian nầy. Cô bé 7 tuổi đã
biết đem những đồng tiền nhân nghĩa đến gởi gấm ông.
Cô bé ấy bây giờ là một thiếu nữ và vẫn là người
Santa Nhỏ Bé của ông, vẫn hàng năm làm nhiệm vụ của một
Ông-Già-Nô-En-Có-Thật.
.
Ngủ đi ông, The Bellringer , người hàng xóm tuyệt vời của
tôi.
.
Trần Bang Thạch