trần bang thạch
Truyện
_____________________________
CHUYỆN NEW YORK,
MỘT NGÀY
Ảnh Nguyễn Như Hùng
.
G ần nửa
đêm rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn
mặt vuông là cái computer. Xung quanh chị ngổn ngang giấy tờ,
hồ sơ trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần
chị Suzanne muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống
nơi góc phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một
giấc, rồi mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa
xong chị cố nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi
ghi chép, rồi lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một
ngày thật quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của
công ty nơi chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng
thương mại với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới
và khó nuốt, đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc.
Thất bại lần này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản.
Từ vài tháng nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng.
Nhân viên lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa
mới tới ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng
trong các phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này.
Còn cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không
khá gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt.
Nhiều khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn
hẹn nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn
dọn dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước
còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa
nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với
nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện
gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới.
.
Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày
mai chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người
còn lại, trong đó có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị
Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh. Chứng dị ứng thời tiết cứ làm
chị khốn đốn mỗi năm mấy tuần. Nhưng người chủ trực
tiếp của chị là bà phó giám đốc Helen sau mười ngày
đi Bắc Kinh, khi trở về tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm
từ sáng hôm nay. Bà nói kết quả chuyến
đi của bà đến sớm không ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ
Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh sẽ đại diện chánh phủ
đến Công ty duyệt xét toàn bộ vấn đề để chánh
thức ký hợp đồng hay không. Hơn một tháng nay công sức của
bà phó giám đốc Helen đã đổ quá nhiều trong cái
dịch vụ này, nó không thể thất bại được. Công ty không
thể chết được. Bà nói bà cần tới cái tài cung ứng
tài liệu của chị Suzanne để trình với phái đoàn ngày
mai. Đến gần sáng thì chị Suzanne đã có những printouts cần
thiết với chi chít những con số và những biểu đồ đủ
màu sắc để cung cấp cho bà Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời
bàn giấy. Chị đi đến cửa sổ, vén màn rồi
mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai hít thở không khí
trong mát buổi sáng tinh mơ của New
York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm,
sang cả và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho
mình một ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại
tấm chăn, hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén
nằm cạnh chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không
thể nào mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của
mình sau một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà
hàng đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không
thể tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn
nên chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà
nhìn. Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những
cơn hắt hơi sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương
và tội nghiệp vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép
kẹp đó không biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp
nhiều thứ quá: những tràng hắt hơi như cơn địa chấn
nhỏ trong nội tạng và bao nỗi lo toan của một người đang gánh
nặng cái gánh gia đình với hai đứa con nhỏ và người
chồng thất nghiệp. Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank
mặt mũi méo xệch nhận tờ giấy màu hồng của sở thông
báo anh tạm nghỉ việc tại hãng hàn xì này thì
người vợ ốm yếu của anh phải mang thêm trên vai vài hòn
đá tảng. Một cái xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền
lương khiêm nhường của một nữ thư ký và chút ít
tiền trợ cấp thất nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm
đủ chi tiêu cho việc ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng
tháng trả tiền thuê căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc
mỏ này. Tuy vợ không nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng
cho những ngày sắp tới, những ngày mà cả hai vợ chồng đều
thất nghiệp.
.
Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ.
Anh Frank đang mớm sữa cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén cereal trộn với sữa tuơi.
Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong nhà, kiêm luôn người
giữ trẻ. Người father mom này mỗi khi đi chợ búa hay đi
xin việc đều có con bé chưa đầy tuổi trên tay và thằng
bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới chân. Thấy mà tội
nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm biệt chồng và hai con
rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị Suzanne như phòng
lên cao hơn so với bình thường, một phần vì giấy tờ quá
nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm hy vọng của cả
nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây chị Suzanne chợt mỉm
cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle 8 tháng tuổi cũng
cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của nó vào cái samsonite
của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào lề, vẫn đúng giờ
như thường lệ. Vẫn những tiếng hi, hi quen thuộc, thân mật,
rộn rã. Một ngày như mọi ngày. Gió vẫn mát lạnh từ
dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe
cộ vừa thở vừa bò. Người bạn đồng hành người
Á đông với mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn
trên người mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường
14 rồi xuống xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu
China Town trên đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành
quen thuộc từ người Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời
nào ông gặp trên xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà
phát thèm sáng nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở
băng cuối. Và cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết
tin tức trang đầu của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi
chị phải bước xuống, đó là toà cao ốc phía nam của
Trung tâm thương mại thế giới. Từ dòng Hudson ở
hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng
khi New York đang bước vào thu. Tượng Nữ
thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở
vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao ngạo, vĩ đại, vừa
thân thương, gần gũi.
.
Một buổi sáng như mọi buổi sáng New York. Như mọi buổi sáng
của người New York.
Tuy giờ làm việc bắt
đầu từ chín giờ nhưng khoảng tám giờ rưỡi
thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt.
Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ
sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày
quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi
người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày
râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị
Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu,
kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như
vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không
chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng
cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn
làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm
nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này.
Chị còn cho Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép
cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng
đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác
nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là
ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở
Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông
đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm
bằng câu: I love you. See you soon, Honey.
.
Vậy mà
sau câu nói thương yêu đó họ không còn gặp nhau nữa.
Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã mất nhau. Thật
sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa vĩ đại
phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng nổ kinh hồn,
trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi chồng, gọi
nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao
ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà
phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì
đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để
không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết.
.
Rồi ầm ầm như sấm nổ, như
sét rền, như đất chuyển trời rung. Như trời sập. Mọi người
mạnh ai nấy chạy. Tiếng kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc.
Có người chạy loanh quanh, không còn biết đâu là lối ra
cầu thang hay thang máy. Trời đất tối sầm. Người ta dồn cục
khắp hành lang.
Ở
một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng lên
không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên
bầu trời New York.
Trong căn phòng khách ở tầng thứ
41 của tòa chung cư trên đường số 23, anh Frank thấy mặt thằng
Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay
trong không khí, mồm nói với anh mấy lời mà anh không nghe rõ;
anh nhìn màn ảnh truyền hình trước mặt thì những chú
thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay vào đó là một
trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc. Anh Frank mở cửa chạy ra
hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng hốt của người
xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái lửa. Anh chạy vào
nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền hình. Anh
Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện thoại
khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng trả
lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn
khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt
không khi thấy một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi
vợ anh đang làm việc? Không, không thể nào có chuyện như
thế được. Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là
sấm động, phong ba. Cả dòng Hudson cũng là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng
Nữ thần Tự do thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen.
.
Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang
bốc cháy. Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình,
anh Frank bỏ hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống
chỗ để xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi
. Xe anh chỉ chạy được một đoạn đường thật
ngắn thì phải dừng lại, không thể nhích thêm một thước
nào nữa. Mọi người đang đổ ra đường. Tiếng la hét,
tiếng còi hụ inh ỏi một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường
rồi hai tay bồng hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để
đến gần hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì anh hoàn toàn bị
cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái lửa như con ác quỉ
vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm
như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ trên vai anh, còn thằng
Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng trên đường và
cụm khói trước mặt. Không thể đi thêm được nữa,
anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng
thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía
duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và
trong hỗn loạn. Hàng ngàn người chen lấn trên cầu Brooklyn và cầu Manhattan. Vô số người đổ dồn về phía bến cảng số 11
để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người nhấp nhô.
Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người
phóng ra từ cửa sổ của một từng lầu gần chót
vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất
phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai
toà nhà lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng,
như hai người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên
hào thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ
khắp nơi và hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện
Cựu chiến binh cách mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng
về phía hai trái núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường
West Broadway anh thấy khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn.
Tro than bao trùm các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm
cái áo len màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả
là những áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không
biết bây giờ là lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ.
Cái điện thoại ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã
bị cắt đứt từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó
bâng quơ, anh Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm
chặt hai con mà khóc.
xXx
Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn
hai con đứng nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt
anh và xung quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh
vật ở đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của
hai tòa cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng
giữa lòng New York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp nơi là
gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi, cong queo, ám
khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như trời trồng,
như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn u minh nào chợt
tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính trên
từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử với
cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy
tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng
với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy
hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình
như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại
hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối
với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu
hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần
nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như
cũng biết trông ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này
nó nằm yên trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước
mặt. Còn thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm
nay thì tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn
ruột. Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank gọi
vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình
đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị
tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được
nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn.
Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước
ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực
chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ.
.
Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm
ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng
nấc của các oan hồn.
Nữ Thần
Tự Do từ đằng xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt.
.
Tháng
9 – 2001
Trần Bang Thạch